Bình giảng về Lửa Vũ Trụ S6S5 (612-619)

Đọc các trang Cosmic Fire liên quan ở đây

TCF 612 – 619 : S6S5

25 November – 10 December 2007

25 Tháng Mười Một – 10 Tháng Mười Hai 2007

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Phần lớn văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16 để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong lớp. Các chú thích và tham chiếu từ những sách AAB khác và từ các trang khác của TCF được đặt ở cỡ chữ 14. Lời bình xuất hiện ở cỡ chữ 12. Gạch dưới, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph.

Có gợi ý rằng Bản Bình Giải này nên được đọc kèm với cuốn TCF bên cạnh, vì lợi ích của tính liên tục. Khi việc phân tích văn bản được tiến hành, nhiều đoạn văn được chia nhỏ, và cách trình bày cô đọng trong chính cuốn sách sẽ chuyển tải ý nghĩa tổng quát của đoạn.

1. In the last Commentary we discussed the complex nature of Lord Agni, the Being or Fire of the Logoic Personality, Who is also Fohat and cosmic Brahma.

1. Trong Bản Bình Giải trước, chúng ta đã bàn về bản chất phức hợp của Đức Agni, Đấng Hữu Thể hay Lửa của Phàm ngã thuộc Thượng đế, Đấng cũng chính là Fohat và Brahma vũ trụ.

2. Within the realm of Agni, there are many subdivisions and it is some of these that we are about to study.

2. Trong cảnh giới của Agni, có nhiều phân nhóm và chúng ta sắp khảo cứu một số trong đó.

2. THE FIRE DEVAS THE GREATER BUILDERS.

2. CÁC THIÊN THẦN LỬA NHỮNG VỊ KIẾN TẠO CAO CẢ.

I have divided the groups of devas and elementals into evolutionary and involutionary Builders—those who are in themselves positive force, and those which are negative force, the conscious and the blind workers. 

Tôi đã chia các nhóm thiên thần và hành khí thành các Nhà Kiến Tạo thăng thượng tiến hoá và các Nhà Kiến Tạo giáng hạ tiến hoá—những vị vốn tự thân là lực tích cực, và những nhóm là lực tiêu cực, các công nhân có ý thức và các công nhân mù quáng.

3. Let us categorize some descriptors of these two basic forms of lives.

3. Chúng ta hãy phân loại một vài mô tả về hai dạng cơ bản của các sự sống này.

Devas

Elementals

Evolutionary Builders

Involutionary Builders

Positive Force

Negative Force

Conscious Workers

Blind Workers

4. While everything seems very clear cut in the description above, we actually find that there are some lives called devas who are also unconscious in their expression.

4. Dẫu mọi sự có vẻ rất rạch ròi trong mô tả bên trên, kỳ thực chúng ta thấy có những sự sống cũng được gọi là thiên thần nhưng lại vô thức trong biểu lộ của họ.

It is absolutely essential that students bear in mind here that we are studying the mystery of electricity and therefore must remember the following facts:—

Điều tuyệt đối thiết yếu là các môn sinh phải ghi nhớ rằng chúng ta đang nghiên cứu huyền nhiệm của điện lực và vì vậy phải nhớ các sự kiện sau:—

5. When studying devic lives, we do so within the context of the “mystery of electricity”.

5. Khi nghiên cứu các sự sống thiên thần, chúng ta làm điều đó trong bối cảnh “huyền nhiệm của điện lực”.

6. Devic and elemental lives are particularly related to the great Life of the Pleiades. The Pleiades are particularly associated with the manifestation of electrical phenomena.

6. Các sự sống thiên thần và hành khí đặc biệt liên hệ với Đại Sự Sống của chòm Pleiades. Pleiades đặc thù liên quan đến sự biểu lộ của các hiện tượng điện.

The Pleiades are to the solar system, the source of electrical energy, and just as our sun is the embodiment of the heart, or love aspect, of the Logos (Who is Himself the heart of ONE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID) so the Pleiades are the feminine opposite of Brahma.  Think this out, for much is contained in this statement. (TCF 156)

Pleiades đối với thái dương hệ là nguồn của năng lượng điện , và cũng như mặt trời của chúng ta là hiện thân của phương diện trái tim, hay bác ái, của Thượng đế (Đấng Tự Thân là trái tim của ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ ) thì Pleiades là đối cực nữ tính của Brahma. Hãy ngẫm nghĩ điều này, vì nhiều điều nằm trong phát biểu ấy. (TCF 156)

7. If Agni is Fohat and Brahma, there is a definite relation between Agni and the Pleiades.

7. Nếu Agni là Fohat và Brahma, thì có một liên hệ xác định giữa Agni và Pleiades.

8. The Pleiades are said to the be the feminine opposite of the Seven Rishis of the Great Bear. Are we in some way linking the Being here called “Brahma” with the Seven Rishis?

8. Pleiades được nói là đối cực nữ tính của Bảy Vị Rishi của Đại Hùng Tinh. Phải chăng chúng ta đang liên kết theo một cách nào đó Vị được gọi ở đây là “Brahma” với Bảy Vị Rishi?

a. Introductory Remarks.

a. Dẫn nhập.

The Mystery of ElectricityThe greater Builders are the positive aspect of substance or of electrical phenomena whilst the lesser Builders are the negative aspect.

Huyền Nhiệm của Điện lực . Các Nhà Kiến Tạo cao cả là phương diện dương của chất liệu hay của các hiện tượng điện, trong khi các Nhà Kiến Tạo thấp kém là phương diện âm.

9. We shall have to be careful how we differentiate these Builders.

9. Chúng ta sẽ phải cẩn trọng trong cách phân biệt các Nhà Kiến Tạo này.

10. From one perspective—

10. Từ một góc nhìn—

a. The “Burning Sons of Desire”(the second manifested Creative Hierarchy) are called the “Greater Builders”

a. “Những Đứa Con Rực Cháy của Dục vọng” (Huyền Giai Sáng Tạo biểu lộ thứ hai) được gọi là “Các Nhà Kiến Tạo Cao Cả”

b. The “Triple Flowers” (the third manifested Creative Hierarchy) are called the “Lesser Builder”

b. “Những Bông Hoa Tam Phân” (Huyền Giai Sáng Tạo biểu lộ thứ ba) được gọi là “Các Nhà Kiến Tạo Thấp Kém”

11. But the terms “greater” and “lesser” are quite general and can also indicate builders which are conscious (i.e., greater) and those which are still unconscious (i.e., lesser).

11. Nhưng các thuật ngữ “cao cả” và “thấp kém” rất khái quát và cũng có thể chỉ các nhà kiến tạo có ý thức (tức cao cả) và những nhà kiến tạo vẫn còn vô thức (tức thấp kém).

12. Electricity has two dichotomous charges—positive and negative, plus a third type of electricity which we might call ‘equilibrizing electricity’.

12. Điện lực có hai cực tính đối nghịch—dương và âm, cùng với một kiểu điện lực thứ ba mà chúng ta có thể gọi là ‘điện cân bằng’.

13. We note that DK seems to be equating “substance” with “electrical phenomena”. Substance is energy and energy, for the most part, displays a bi-polar nature.

13. Chúng ta ghi nhận rằng DK dường như đang đồng nhất “chất liệu” với “các hiện tượng điện”. Chất liệu là năng lượng và năng lượng, phần lớn, bộc lộ một bản tính lưỡng cực.

14. By “positive” we mean ‘impressive’ and by “negative”, receptive of impression.

14. Bởi “dương” chúng ta hiểu là ‘tác động ấn nhập’, còn “âm” là cảm thụ ấn nhập.

Two types of force are represented in the activities of these two groups and it is their interaction and interplay which produces Light, or the manifested solar system.

Hai loại lực được biểu thị trong các hoạt động của hai nhóm này và chính sự tương tác và qua lại của chúng tạo ra Ánh sáng, hay thái dương hệ được biểu lộ.

15. Light, then, is the result of devic and elemental interplay—the interplay between positive and negative. The terms “deva” and “elemental” are, however, relative. When using these two terms we are not necessarily speaking of tiny lives.

15. Như vậy, ánh sáng là kết quả của sự tương tác giữa thiên thần và hành khí—sự tương tác giữa dương và âm. Tuy nhiên, các thuật ngữ “thiên thần” và “hành khí” là tương đối. Khi dùng hai từ này, chúng ta không nhất thiết nói về những sự sống nhỏ bé.

16. Since light is produced by the coming together of Spirit and matter, the Greater Builders must be identified with Spirit and the lesser builders with matter—since the coming together of Spirit and matter produces light.

16. Vì ánh sáng được tạo ra bởi sự phối hợp của Thần Linh và chất liệu, Các Nhà Kiến Tạo Cao Cả hẳn phải được đồng nhất với Thần Linh và các nhà kiến tạo thấp kém với chất liệu—bởi vì sự phối hợp giữa Thần Linh và chất liệu tạo ra ánh sáng.

17. We must attend to the fact that the “manifested solar system” is “Light”.

17. Chúng ta phải để ý rằng “thái dương hệ được biểu lộ” chính là “Ánh sáng”.

Their sumtotal is substance in its totality,

Tổng số của chúng là chất liệu trong toàn thể tính của nó,

18. The sumtotal of the two types of force—positive and negative—is “substance in its totality”.

18. Tổng số của hai loại lực—dương và âm—là “chất liệu trong toàn thể tính của nó”.

19. We might also say that “their sumtotal is ‘electrical phenomena’ in its totality” since, as we learn above, “substance” and “electrical phenomena” are equivalent.

19. Chúng ta cũng có thể nói “tổng số của chúng là ‘các hiện tượng điện’ trong toàn thể tính của nó” vì như ta học phía trên, “chất liệu” và “các hiện tượng điện” là tương đương.

the intelligent active form, built for the purpose of providing a habitation for a central subjective life.

hình tướng linh hoạt thông minh, được kiến tạo nhằm cung cấp một nơi cư trú cho một sự sống chủ quan trung tâm.

20. Though the form is composed of some matter which is relatively “negative”, the form itself is both intelligent and active.

20. Dẫu hình tướng được cấu thành bởi một số chất tương đối “âm”, bản thân hình tướng vẫn vừa thông minh vừa linh hoạt.

21. Devic and elemental life is, in its own way, both intelligence and active, but the degree of consciousness of the various devic lives differs greatly.

21. Sự sống thiên thần và hành khí, theo cách riêng của nó, cũng là thông minh và linh hoạt, nhưng mức độ tâm thức của các sự sống thiên thần rất khác nhau.

They are also the sumtotal of the Pitris,91 or Fathers of mankind, viewing mankind as the race itself, the fourth kingdom in nature, the Heavenly Men in physical manifestation.

Chúng cũng là tổng số của các Pitris ,91 hay Các Tổ phụ của nhân loại , xét nhân loại như chính chủng tộc, giới thứ tư trong thiên nhiên, các Đấng Thiên Nhân trong sự biểu hiện thể xác.

22. The origin of mankind arises from Solar Pitris and Lunar Pitris.

22. Nguồn gốc của nhân loại phát sinh từ các Thái dương tổ phụ và Thái âm tổ phụ.

23. We can say that humanity is an aspect of the Heavenly Men in physical manifestation, but not the whole of that physical manifestation—unless we consider humanity as the macrocosm for the lower kingdoms of nature (i.e., inclusive of those lower kingdoms) which, taken together, with humanity are the physical manifestation of the Heavenly Men.

23. Chúng ta có thể nói nhân loại là một phương diện của các Đấng Thiên Nhân trong sự biểu hiện thể xác, nhưng không phải toàn thể biểu hiện thể xác ấy—trừ khi chúng ta xem nhân loại như đại thiên địa đối với các giới thấp hơn (tức bao gồm cả các giới thấp), vốn, khi gộp chung với nhân loại, là sự biểu lộ thể xác của các Đấng Thiên Nhân.

This is a most important point to emphasise.  These deva activities in relation to Self-Consciousness (which is the distinctive characteristic of humanity) can best be studied in the large, or through [613] the consideration of groups, of races, and of the life of the scheme, the manifestation of one of the Heavenly Men.

Đây là một điểm cực kỳ quan trọng cần nhấn mạnh. Những hoạt động của thiên thần liên quan đến Tự-Tâm-Thức (vốn là đặc tính nổi bật của nhân loại) tốt nhất có thể được nghiên cứu ở cấp độ lớn, hay qua việc xét đến [613] các nhóm, các chủng tộc, và đời sống của một hệ hành tinh, tức sự biểu hiện của một trong các Đấng Thiên Nhân.

24. The study of the devas is difficult, as this parallel kingdom is not directly visible to most human beings. DK is recommending the best method of study:

24. Nghiên cứu về chư thiên là khó, vì vương quốc song song này không trực tiếp hiển hiện với đa số con người. DK đang đề nghị phương pháp học tốt nhất:

a. Study the devas in the large

a. Nghiên cứu chư thiên ở cấp độ lớn

b. Study the devas through the consideration of groups

b. Nghiên cứu chư thiên qua việc xét đến các nhóm

c. Study the devas through the consideration of races

c. Nghiên cứu chư thiên qua việc xét đến các chủng tộc

d. Study the devas through consideration of the life of the scheme

d. Nghiên cứu chư thiên qua việc xét đến đời sống của một hệ hành tinh

e. Study the devas through the manifestation of one of the Heavenly Men.

e. Nghiên cứu chư thiên qua sự biểu hiện của một trong các Đấng Thiên Nhân.

22. In the following footnote, the creation of the lunar bodies of early, unconscious man is described.

22. Trong chú thích sau đây, việc tạo dựng các thể âm nguyệt của con người sơ khai, vô thức, được mô tả.

FOOTNOTE:  The Lunar Pitris.  “The great Chohans called the Lords of the Moon, of the airy bodies:  “Bring forth Men,” they were told, “men of your nature.  Give them their forms within.  She (Mother Earth) will build coverings without (for external bodies).  Males—females will they be.  Lords of the Flame also….They went each on his allotted lands:  Seven of them each on his lot.  The Lords of the Flame remained behind.  They would not go.  They would not create.”—Stanza III, 12, 13, S. D., II, 79, 81.

CHÚ THÍCH: Thái âm tổ phụ. “Các đại Chohan gọi các Chúa của Mặt Trăng, của những thể khí: ‘Hãy đưa ra con người,’ họ được bảo, ‘những con người theo bản tính của các ngươi. Hãy ban cho họ các hình thể bên trong. Nàng (Mẹ Đất) sẽ xây các vỏ bọc bên ngoài (cho các thể ngoại tại). Đực—cái họ sẽ là. Các Chúa của Ngọn Lửa cũng vậy….Họ đi, mỗi vị đến lãnh địa được cấp phát: Bảy vị, mỗi vị trên phần đất của mình. Các Chúa của Ngọn Lửa ở lại phía sau. Họ không muốn đi. Họ không muốn tạo dựng.”—Khổ kệ III, 12, 13, S. D., II, 79, 81.

23. The “great Chohans” have to be Those Who are directing the evolutionary process within the planetary scheme and planetary chain and globes.

23. “Các đại Chohan” hẳn là Những Đấng đang điều khiển tiến trình tiến hoá trong phạm vi hệ hành tinh, dãy hành tinh và các bầu hành tinh.

24. The Lords of the Moon had “airy bodies”—bodies which are more etheric and not physical in the outer sense.

24. Các Chúa của Mặt Trăng có “các thân thể khí”—những thân thể mang tính dĩ thái hơn và không phải là thể xác theo nghĩa ngoại diện.

25. The denser “external bodies” are built by the physical elemental life which is attracted to the airy bodies provided by the Lords of the Moon out of the substance of their own nature.

25. Các “thân thể” đậm đặc hơn bên ngoài được kiến tạo bởi sự sống hành khí thể xác vốn bị hấp dẫn đến các thân khí do Các Chúa Mặt Trăng cung cấp từ chất liệu của chính bản tính họ.

26. We note that the Lords of the Moon did not confer intelligence upon men. Only the Lords of the Flame could do that and they “remained behind”, “would not go” and “would not create”.

26. Chúng ta ghi nhận rằng Các Chúa của Mặt Trăng đã không ban trí tuệ cho con người. Chỉ Các Chúa của Ngọn Lửa mới có thể làm điều đó, và Các Ngài “đã ở lại phía sau”, “không muốn đi” và “không muốn tạo dựng”.

27. At the time of this ‘creation’ by the Lords of the Moon, early pre-individualized animal men were not divided into male and females. Their ‘shape’ was altogether other than that which we now recognize as the human form. They were, in fact, hermaphroditic (“males-females”). This hermaphroditism was faint at the beginning and grew as the racial form developed through the first two and a half root races.

27. Vào thời điểm ‘sáng tạo’ này của Các Chúa của Mặt Trăng, người-thú tiền biệt ngã hóa còn chưa phân chia nam và nữ. ‘Hình dạng’ của họ hoàn toàn khác với hình nhân mà nay chúng ta nhận biết. Thực ra, họ là “lưỡng tính” (“đực–cái”). Tính lưỡng tính này lúc đầu còn mờ nhạt và lớn dần khi hình thức chủng tộc phát triển qua hai rưỡi giống dân gốc đầu tiên.

28. We can see that there were seven types of early human beings of the first root race. Humanity is now of one species but did not start out this way.

28. Chúng ta có thể thấy rằng có bảy loại con người sơ kỳ của giống dân gốc thứ nhất. Nhân loại nay là một loài, nhưng đã không khởi đầu như thế.

When the student brings his study of deva work down to the terms of his own individual life he is apt to become confused through too close a juxtaposition.

Khi đạo sinh đưa việc học về công tác của chư thiên xuống tới các thuật ngữ đời sống cá nhân riêng y, y dễ bị lẫn lộn vì đặt hai thứ ở quá gần nhau.

29. We have encountered this confusion constantly. It is better to try to encompass our subject en large, and then begin the process of reasoned reduction to microcosmic proportions.

29. Chúng ta liên tục gặp sự lẫn lộn này. Tốt hơn là tìm cách bao quát đề tài ở cấp độ lớn, rồi mới bắt đầu tiến trình quy giảm có lý về tỉ lệ tiểu vũ trụ.

The greater Builders are the solar Pitris, whilst the lesser Builders are the lunar ancestors.

Các Nhà Kiến Tạo cao cả là các Thái dương tổ phụ, trong khi các Nhà Kiến Tạo thấp kém là các tổ phụ âm nguyệt.

30. As stated earlier, the terms “greater Builders” and “lesser builders” have many possible interpretations. In the tabulation in EA 35, the two Creative Hierarchies of lesser and greater Builders are both of them Beings of higher rank than the “solar pitris”, as usually considered.

30. Như đã nói trước, các thuật ngữ “Nhà Kiến Tạo cao cả” và “Nhà Kiến Tạo thấp kém” có nhiều khả năng diễn giải. Trong bảng ở EA 35, hai Huyền Giai Sáng Tạo của các Nhà Kiến Tạo thấp kém và cao cả đều là Những Đấng có thứ bậc cao hơn “các thái dương tổ phụ”, như thường được hiểu.

31. From the microcosmic perspective, the “solar Pitris” are the Solar Angels or Agnishvattas Who build the human personality of Lunar Pitris. The microcosmic Lunar Pitris which are built into form and which are composed of tiny elemental lives are naturally, compared with the solar devas, to be considered as lesser builders.

31. Từ góc nhìn tiểu vũ trụ, “các Thái dương tổ phụ” là các Thái dương Thiên Thần hay Agnishvatta, Những Đấng kiến tạo phàm ngã con người từ các Thái âm tổ phụ. Các Thái âm tổ phụ vi mô vốn được kết cấu thành hình tướng và cấu tạo bởi các sinh linh hành khí li ti, tự nhiên so với các chư thiên thái dương, phải được xem là các nhà kiến tạo thấp kém .

I would here explain the occult meaning of the word “ancestor,” as used in esotericism.  It means literally initiatory life impulse.

Tôi muốn giải thích ở đây ý nghĩa huyền bí của từ “tổ phụ,” như được dùng trong huyền bí học.  Nó có nghĩa đen là xung lực sinh mệnh khai nguyên.

32. The solar and lunar “ancestors” provided the “initiatory life impulse” which created two orders of vehicles—the lunar vehicles of the personality and the solar vehicle or egoic lotus.

32. “Tổ phụ” thái dương và âm nguyệt đã cung cấp “xung lực sinh mệnh khai nguyên” tạo dựng hai hạng vận cụ—các vận cụ âm nguyệt của phàm ngã và vận cụ thái dương hay Hoa Sen Chân Ngã.

It is that subjective activity which produces objectivity, and concerns those emanatory impulses which come from any positive centre of force, and which sweep the negative aspect into the line of that force, and thus produce a form of some kind.  The word “ancestor” is used in connection with both aspects.

Đó là hoạt động chủ quan tạo ra khách quan, và liên quan đến các xung lực xuất lộ phát từ bất kỳ trung tâm lực dương nào, vốn quét phương diện âm vào trong đường lối của lực ấy, và như vậy sản sinh một hình tướng nào đó. Từ “ tổ phụ ” được dùng liên hệ với cả hai phương diện.

33. An “ancestor” is a positive center of force from which emanates an impulse which sweeps a negative aspect into line with the positive force.

33. Một “tổ phụ” là một trung tâm lực dương, từ đó phát ra một xung lực quét phương diện âm vào trong đường lối của lực dương ấy.

34. The Lunar Ancestors (as force centers) sweep the elemental life into line with its relatively more positive force.

34. Các Tổ phụ Âm nguyệt (với tư cách các trung tâm lực) quét sự sống hành khí vào trong đường lối của lực tương đối dương của họ.

35. The Solar Ancestors or Pitris (considered as force centers) sweep the lunar vehicles into line with their relatively more positive force.

35. Các Tổ phụ Thái dương (xét như các trung tâm lực) quét các vận cụ âm nguyệt vào trong đường lối của lực tương đối dương của họ.

36. Since there are both solar and lunar positive centers of force, the term “ancestor” is used in connection with both categories of beings.

36. Vì có cả các trung tâm lực dương âm nguyệt lẫn thái dương, nên từ “tổ phụ” được dùng liên hệ với cả hai hạng chúng sinh.

The solar Logos is the initiatory impulse or Father of the Son in His physical incarnation, a solar system.

Thái dương Thượng đế là xung lực khai nguyên hay là Cha của Ngôi Con trong lần Nhập Thể thể xác của Ngài, tức một thái dương hệ.

37. If we wish to have a functional definition of the occult term, “Father”, it is “initiatory impulse”.

37. Nếu chúng ta muốn có một định nghĩa chức năng của thuật ngữ huyền môn “Cha”, thì đó là “xung lực khai nguyên”.

He is the sumtotal of the Pitris, in the process of providing form.  The union of Father (positive force) and Mother (negative force) produces that central blaze which we call the form, the body of manifestation of the Son.

Ngài là tổng số của các Tổ phụ, trong tiến trình kiến tạo hình tướng. Sự phối hiệp của Cha (lực dương) và Mẹ (lực âm) sản sinh ra ngọn chói lòa trung tâm mà chúng ta gọi là hình tướng, tức thân biểu hiện của Ngôi Con.

38. Here we are discussing greater and lesser Builders on a scale which can, indeed, produce a solar system—the “manifestation of the Son”.

38. Ở đây chúng ta đang bàn về các Nhà Kiến Tạo cao cả và thấp kém trên một quy mô có thể, thực sự, sản sinh một thái dương hệ—“sự biểu hiện của Ngôi Con”.

39. We may consider the Solar Logos as working primarily through the sumtotal of positive Pitris who, in the context we have been discussing, are relatively the “greater Builders”.

39. Chúng ta có thể xem Thái dương Thượng đế chủ yếu làm việc qua tổng số các Tổ phụ dương mà trong bối cảnh chúng ta bàn, tương đối là “Các Nhà Kiến Tạo cao cả”.

40. Let us remember that the second aspect of divinity is the “form builder”. Form is not the substance of which the form is made.

40. Hãy nhớ rằng phương diện thứ hai của thần tính là “nhà kiến tạo hình tướng”. Hình tướng không phải là chất liệu tạo thành hình tướng đó.

41. The Father is the “positive force” and the Mother the “negative force”. By coming together they produce a central blaze which is the “Son in physical incarnation”—a solar system.

41. Cha là “lực dương” và Mẹ là “lực âm”. Khi phối hiệp, hai Ngài tạo ra một ngọn chói lòa trung tâm, đó là Ngôi Con trong lần lâm phàm thể xác—một thái dương hệ.

42. This solar/lunar process operates both macrocosmically and microcosmically.

42. Tiến trình thái dương/thái âm này vận hành cả ở tầm đại thiên địa lẫn tiểu thiên địa.

43. From a philosophical point of view, we may ask whether the Father includes the Mother. The Solar Logos is said to be the sumtotal of the Pitris. Are we to include the Lunar Pitris in this sumtotal?

43. Từ quan điểm triết học, chúng ta có thể hỏi liệu “Cha” có bao hàm “Mẹ” chăng. Thái dương Thượng đế được nói là tổng thể của các Tổ phụ. Chúng ta có đưa các thái âm tổ phụ vào tổng thể ấy không?

44. The Solar Logos manifesting as Agni does include the Lunar Pitris.

44. Thái dương Thượng đế biểu lộ như Agni có bao gồm các thái âm tổ phụ.

A Heavenly Man holds an analogous position in relation to a planetary scheme.  He is the central germ of positive life or force, which, in due course of time, demonstrates as a planetary scheme, or an incarnation of the planetary Logos.

Một Đấng Thiên Nhân giữ vị trí tương tự đối với một hệ hành tinh. Ngài là mầm trung tâm của sự sống hay mãnh lực dương, vốn, đến thời điểm thích đáng, biểu lộ như một hệ hành tinh, hay một lần lâm phàm của Hành Tinh Thượng đế.

45. The major incarnation of a Heavenly Man is a planetary scheme. There are a number of subsidiary incarnations of the Heavenly Man through the lesser structures within the scheme.

45. Lần lâm phàm chính yếu của một Đấng Thiên Nhân là một hệ hành tinh. Có nhiều lần lâm phàm thứ cấp của Đấng Thiên Nhân qua các cấu trúc nhỏ hơn trong hệ ấy.

46. The Solar Logos and the Planetary Logos are both “the central germ of positive life or force” for Their respective systems—one a solar system and the other a planetary scheme.

46. Thái dương Thượng đế và Hành Tinh Thượng đế đều là “mầm trung tâm của sự sống hay mãnh lực dương” cho các hệ tương ứng của Các Ngài—một là hệ mặt trời và một là hệ hành tinh.

47. In a somewhat cosmic sense, the Solar Logos and the Planetary Logos are also “Ancestors” providing vehicles of expression for many lesser lives.

47. Ở một nghĩa có phần mang tầm vũ trụ, Thái dương Thượng đế và Hành Tinh Thượng đế cũng là “các Tổ” cung ứng những vận cụ biểu lộ cho nhiều sự sống thấp hơn.

A man similarly is the positive life or energy which, through action on negative force, creates bodies of manifestation through which he can shine or radiate.92,93,94

Một con người, tương tự như vậy, là sự sống hay năng lượng dương, vốn, qua tác động lên mãnh lực âm, kiến tạo các thể biểu hiện để qua đó y có thể toả sáng hay quang huy .92,93,94

48. A human being is meant to “shine forth”. This occurs gradually over time as the positive life or energy which he is acts upon the negative force which has been gathered into his vehicles of manifestation.

48. Con người được định là “toả sáng”. Điều này xảy ra dần dần theo thời gian khi sự sống hay năng lượng dương mà y là, hành động lên mãnh lực âm đã được tụ hội vào các vận cụ biểu hiện của y.

49. The parallel is exact in all three cases.

49. Sự đối chiếu là chính xác trong cả ba trường hợp.

50. Thus far, we have listed as “positive center(s) of force”

50. Cho đến đây, chúng ta đã liệt kê như là “(các) trung tâm dương của lực”

a. Solar Logoi

a. Các Thái dương Thượng đế

b. Planetary Logoi or Heavenly Men

b. Các Hành Tinh Thượng đế hay Đấng Thiên Nhân

c. Men

c. Con người

d. Solar Pitris in relation to the Lunar Pitris

d. Các thái dương tổ phụ trong tương quan với các thái âm tổ phụ

e. Lunar Pitris in relation to the elemental substance of the lower sheaths

e. Các thái âm tổ phụ trong tương quan với chất liệu hành khí của các vỏ thấp

FOOTNOTE 92: The Lunar Pitris created the physical man.—S. D., I, 114, 197.

CHÚ THÍCH 92: Các thái âm tổ phụ đã tạo ra con người thể chất.—Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 114, 197.

They exist in three great classes.

Các Ngài tồn tại trong ba đẳng bậc lớn.

51. Here we have important information from the Secret Doctrine concerning the “Lunar Ancestors” of man.

51. Ở đây chúng ta có thông tin quan trọng từ Giáo Lý Bí Nhiệm liên quan đến “các Tổ Phụ Thái Âm” của con người.

1. The most developed.  They form, in Round one, the sumtotal of the three kingdoms, and achieve a human form.—S. D., I, 203.

1. Những vị phát triển nhất. Các Ngài hợp thành, trong Cuộc tuần hoàn thứ nhất, tổng thể của ba giới, và đạt đến một hình tướng nhân loại. —Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 203.

52. We seem to be speaking of Round one in our chain. One question remains: “Do these Lunar Pitris actually achieve a human form in Round one, or does this happen only in Round four?”

52. Có vẻ như chúng ta đang nói về Cuộc tuần hoàn thứ nhất trên Dãy của chúng ta. Còn một câu hỏi: “Các thái âm tổ phụ này có thật sự đạt đến một hình tướng nhân loại ngay trong Cuộc tuần hoàn thứ nhất, hay việc này chỉ xảy ra ở Cuộc tuần hoàn thứ tư?”

53. One interpretation would be as follows: the Lunar Pitris of the first round gradually achieve a human form. But we could also interpret the statement as indicating that these Pitris achieve even in Round one a human form which as a form represents the sumtotal of the three kingdoms.

53. Một cách hiểu là như sau: các thái âm tổ phụ của cuộc tuần hoàn thứ nhất dần dần đạt đến một hình tướng nhân loại. Nhưng chúng ta cũng có thể hiểu rằng phát biểu này hàm ý các Tổ phụ ấy đạt được ngay trong Cuộc tuần hoàn thứ nhất một hình tướng nhân loại, mà như một hình tướng thì đại diện cho tổng thể của ba giới.

54. Our usual studies focus on those lunar life forms which provide a human form in the fourth round, and especially on the fourth globe of the fourth round. We have had no discussion of lunar beings who could have achieved human form in the first round.

54. Thông lệ, các nghiên cứu của chúng ta tập trung vào những dạng sống thái âm vốn cung cấp một hình tướng nhân loại trong cuộc tuần hoàn thứ tư, và đặc biệt trên bầu thứ tư của cuộc tuần hoàn thứ tư. Chúng ta chưa hề thảo luận về những hữu thể thái âm có thể đã đạt hình tướng nhân loại trong cuộc tuần hoàn thứ nhất.

55. We must bear in mind that there is a distinction between becoming human and simply providing that which can be used as a human form by an individualized being.

55. Chúng ta phải ghi nhớ rằng có sự phân biệt giữa việc trở thành nhân loại và việc chỉ cung cấp cái có thể được dùng làm hình tướng nhân loại bởi một hữu thể đã được biệt ngã hóa.

In Rounds two and three they are the sumtotal of that which will eventually be human.

Trong các Cuộc tuần hoàn hai và ba, họ là tổng thể của cái mà rốt cuộc sẽ trở thành nhân loại.

56. Here again, we must be cautious. DK is speaking of Lunar Pitris who will “eventually be human”. This achievement would be far greater than simply providing a lunar form for the use of those who have become human.

56. Ở đây, một lần nữa, chúng ta phải thận trọng. Chân sư DK đang nói về các thái âm tổ phụ, những vị sẽ “rốt cuộc trở thành nhân loại”. Thành tựu này sẽ cao hơn nhiều so với việc chỉ cung cấp một hình tướng thái âm cho những ai đã trở thành nhân loại sử dụng.

57. To what time period does the term “eventually” apply? We see from point 7., Tabulation VI, TCF 844, that the Lunar Pitris who have provided for man a vehicle of contact through which he can express as a human being, must first enter the animal kingdom before they can individualize.

57. “Rốt cuộc” áp dụng cho khoảng thời gian nào? Chúng ta thấy từ điểm 7., Bảng VI, TCF 844, rằng các thái âm tổ phụ, những vị đã cung ứng cho con người một vận cụ tiếp xúc qua đó y có thể biểu lộ như một con người, trước hết phải đi vào giới động vật rồi họ mới có thể biệt ngã hóa.

In Round four at the beginning they form the etheric bodies of our Earth humanity.

Trong Cuộc tuần hoàn thứ tư, lúc khởi đầu, họ tạo thành các thể dĩ thái của nhân loại Địa Cầu của chúng ta.

58. Are we speaking of our “Earth humanity” only as it appears on the fourth globe, or, apparently, as it appears from the beginning of the Round?

58. Chúng ta đang nói chỉ về “nhân loại Địa Cầu” của chúng ta như nó xuất hiện trên bầu thứ tư, hay, rõ ràng hơn, như nó xuất hiện từ khởi đầu của Cuộc tuần hoàn?

59. Is there a progression possible, by means of which Lunar Pitris form one type of lunar vehicle on one globe, another on the next and another on the next—and so forth.

59. Có khả hữu một tiến trình, nhờ đó các thái âm tổ phụ hình thành một kiểu vận cụ thái âm trên một bầu, kiểu khác trên bầu kế tiếp, rồi kiểu khác nữa—v.v.?

2. Those whose bodies are taken by the Solar Angels.—S. D., I, 203.

2. Những vị có các thể được các Thiên Thần Thái dương tiếp nhận.—Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 203.

60. We seem to be referring to a certain group of human forms which, in early days, actually provided a basis for the incarnation of the Solar Angels.

60. Có vẻ chúng ta đang nói đến một nhóm hình tướng nhân loại nào đó vốn, thuở sơ kỳ, thực sự cung cấp nền tảng cho sự lâm phàm của các Thiên Thần Thái dương.

61. Does it seem logical that this group of Lunar Pitris would be lower than the first group? If so, why?

61. Có hợp lý không khi cho rằng nhóm thái âm tổ phụ này thấp hơn nhóm thứ nhất? Nếu có, vì sao?

3. The sum total of the three kingdoms at present known.

3. Tổng số của ba giới hiện đang được biết.

62. When we think of the Lunar Pitris, we must realize that they form the vehicular basis not only for human beings but for the lower three kingdoms as well.

62. Khi nghĩ về các thái âm tổ phụ, chúng ta phải nhận ra rằng các Ngài tạo nên nền tảng vận cụ không chỉ cho con người mà còn cho cả ba giới thấp.

63. All the lower kingdoms are composed of elemental lives and these are naturally of a lower calibre than the elemental lives constituting the lower vehicles of a human being.

63. Mọi giới thấp đều được cấu thành bởi các sự sống hành khí, và tự nhiên chúng thấp cấp hơn các sự sống hành khí cấu thành những vận cụ thấp của con người.

FOOTNOTE 93:

CHÚ THÍCH 93:

The Earth gives man his body; the Gods give him his five inner principles…Spirit is one.—S. D., I, 248.

Trái Đất ban cho con người thể xác; các Thần ban cho y năm nguyên khí bên trong… Tinh thần là một.—Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 248.

64. By the term “body” as here used, it is probable that we mean the dense physical nature composed of the matter/substance of the previous solar system.

64. Với từ “thể” như được dùng ở đây, rất có thể chúng ta muốn nói đến bản chất hồng trần đậm đặc được cấu thành từ vật chất/chất liệu của hệ mặt trời trước.

65. Both types of Pitris, Lunar and Solar can, in this context, be considered as “the God”.

65. Cả hai loại Tổ phụ, Thái âm và Thái dương, trong bối cảnh này, đều có thể được xem là “các Thần”.

1. The Earth gives the dense physical.

1. Trái Đất ban cho thể hồng trần đậm đặc.

2. The Lunar Gods give him three lower principles—

2. Các Thần Thái âm ban cho y ba nguyên khí thấp—

a. Etheric body

a. Thể dĩ thái

b. Prana

b. Prana

c. Kama—manas

c. Trí-cảm (kama—manas)

66. Do “principles” come from the “Lunar Gods” or do they provide the vehicles to house and express those principles?

66. Các “nguyên khí” đến từ “các Thần Thái âm” hay các Ngài cung cấp vận cụ để chứa đựng và biểu lộ các nguyên khí ấy?

67. The etheric body is a vehicle. Prana is a principle and it is solar in nature (except for earthly prana which does not have a solar origin).

67. Thể dĩ thái là một vận cụ. Prana là một nguyên khí và nó có bản chất thái dương (trừ prana địa cầu không có nguồn gốc thái dương).

68. If manas, as we seem to learn below, has a solar origin, then how is it that the Lunar Gods can provide kama-manas since it is a simultaneous functioning of kama and manas?

68. Nếu manas, như có vẻ chúng ta học được dưới đây, có nguồn gốc thái dương, vậy làm sao các Thần Thái âm có thể cung cấp trí-cảm khi nó là sự vận hành đồng thời của kama và manas?

69. As for the systemic etheric body of man, the devas of that plane are violet in color. Cancer, which is ruled by the Moon, has the color violet associated with it. Further, these devas are said to display a crescent Moon on their foreheads. So the association of the Moon with the etheric body makes sense even if the prana which animates it is solar in nature.

69. Còn về thể dĩ thái ở cấp hệ thống của con người, các deva của cõi ấy có màu tím. Cự Giải, vốn do Mặt Trăng cai quản, gắn với màu tím. Hơn nữa, nói rằng các deva này có biểu tượng vầng trăng lưỡi liềm trên trán. Vậy nên, sự liên hệ của Mặt Trăng với thể dĩ thái là hợp lý, dẫu prana hoạt hoá nó có bản chất thái dương.

3. The Solar Gods give him two principles—

3. Các Thần Thái dương ban cho y hai nguyên khí—

d. Lower mind

d. Hạ trí

e. Higher mind

e. Thượng trí

70. The “Solar Gods” are the Solar Angels or Agnishvattas.

70. “Các Thần Thái dương” là các Thiên Thần Thái dương hay Agnishvatta.

71. It is always theorized that they give man that which serves as a higher mental vehicle from the period of individualization until the fourth initiation, but the principles, themselves, are monadic in origin—i.e., they are potencies of the Monad working through the permanent atoms.

71. Người ta vẫn thường cho rằng các Ngài ban cho con người cái phục vụ như vận cụ trí tuệ cao kể từ thời kỳ biệt ngã hóa cho đến lần điểm đạo thứ tư, nhưng các nguyên khí tự thân thì có nguồn gốc chân thần—tức là chúng là các tiềm năng của Chân thần vận hành qua các Nguyên tử trường tồn.

72. It is no easy matter to distinguish between a vehicle and the principle which informs it.

72. Phân biệt giữa một vận cụ và nguyên khí thấm nhuần nó không phải chuyện dễ dàng.

73. There is also a question as to whether the lower mental vehicle is lunar or solar in nature. Since it is part of a threefold elemental (the personality elemental) it would definitely seem to be lunar.

73. Cũng có câu hỏi liệu vận cụ hạ trí là có bản chất thái âm hay thái dương. Do nó là một phần của hành khí tam phân (hành khí phàm ngã) nên rất có vẻ nó là thái âm.

74. Is HPB in error here or must we understand her differently? For instance, the Solar Angel (through the “spark of mind”) stimulated the emerging mental unit of animal man in such a way that it could become a functional lower mind. In this sense the lower mind begins to reflect the higher mind and its activation (i.e., the activation of the lower mind) is a kind of ‘gift’ from the “Solar Gods”. If this is meant, the statement that the “Solar Gods” give the principle of lower mind makes sense.

74. Liệu Bà HPB có nhầm ở đây hay chúng ta phải hiểu Bà theo cách khác? Chẳng hạn, Thiên Thần Thái dương (thông qua “tia lửa trí tuệ”) đã kích thích đơn vị hạ trí mới trỗi của người thú theo cách khiến nó có thể trở thành hạ trí vận năng. Theo nghĩa này, hạ trí bắt đầu phản chiếu thượng trí, và sự hoạt hoá của nó (tức là hoạt hoá hạ trí) là một kiểu ‘của ban’ từ “các Thần Thái dương”. Nếu điều này được hàm ý, thì phát biểu “các Thần Thái dương” ban nguyên khí hạ trí là hợp lý.

75. But, it would seem that the lower mental vehicle is part of the overall construction of the lunar personality vehicles and is, in that respect, lunar in origin. There is a mental elemental life which is not solar in its nature or responses.

75. Nhưng, dường như vận cụ hạ trí là một phần của toàn bộ kiến trúc các vận cụ phàm ngã thái âm và, theo nghĩa đó, có nguồn gốc thái âm. Có một sự sống hành khí trí tuệ vốn không mang bản chất hay đáp ứng thái dương.

4. The Monad is the unified two highest principles—

4. Chân thần là hai nguyên khí cao nhất hợp nhất—

f. Buddhi

f. Bồ đề

g. Atma

g. Atma

—S. D., I, 248.

—Giáo Lý Bí Nhiệm, I, 248.

76. We might also say that the Monad is more than these two principles and stands ‘above’ them.

76. Chúng ta cũng có thể nói Chân thần hơn cả hai nguyên khí này và ‘đứng trên’ chúng.

77. We learned when we studied principles and vehicles (beginning TCF 259) that it was crucial to differentiate between the two. Principles are potencies and vehicles are a means of expressing these potencies on any given plane or vibratory dimension.

77. Khi học về các nguyên khí và vận cụ (bắt đầu TCF 259) chúng ta được biết rằng việc phân biệt giữa hai thứ là tối quan trọng. Nguyên khí là các tiềm năng, còn vận cụ là phương tiện để biểu lộ các tiềm năng ấy trên bất kỳ cõi hay chiều rung động nào.

FOOTNOTE 94

CHÚ THÍCH 94:

The totality of form.  God is “One, notwith­standing the innum­erable forms which are in Him,” so is man, on earth the micro­cosm of the macrocosm.—S. D., II, 197; II, 303; III, 584.

Tổng thể của hình tướng. Thượng đế là “Một, bất chấp vô số các hình tướng vốn ở trong Ngài,” con người trên trần thế cũng vậy—tiểu thiên địa của đại thiên địa.—Giáo Lý Bí Nhiệm, II, 197; II, 303; III, 584.

78. To understand the nature of man or any other composite being, the puzzle of the One and the Many must be solved.

78. Để thấu hiểu bản chất con người hay bất kỳ hữu thể phức hợp nào khác, bài toán về Cái Một và Cái Nhiều phải được giải.

79. So much of the evolutionary process as it works in the mind is the necessity of overcoming the illusion of the many and of replacing this illusion with the sensed presence of the One—Presence.

79. Một phần lớn của tiến trình tiến hoá khi nó vận hành trong thể trí là nhu cầu vượt thắng ảo tưởng về cái nhiều và thay thế ảo tưởng ấy bằng cảm nghiệm về sự hiện diện của Cái Một—Hiện Diện.

Everything is comprised in man.

Mọi điều đều bao gồm trong con người.

He unites in himself all forms.

Y hợp nhất trong chính mình tất cả các hình tướng.

The mystery of the earthly man is the mystery of the Heavenly Man.

Huyền nhiệm của người trần thế là huyền nhiệm của Đấng Thiên Nhân.

80. This theme has been developed repeatedly throughout TCF.

80. Chủ đề này đã được khai triển lặp đi lặp lại suốt TCF.

81. Using the analogical faculty we can study the human microcosm and learn much about the greater Lives Who include the human.

81. Dùng khả năng suy chiếu theo tương đồng, chúng ta có thể khảo sát tiểu thiên địa nhân loại và học biết nhiều điều về các Sự sống lớn hơn, Những Đấng bao gồm con người.

The potentiality of every organ useful to animal life is locked up in man, the Microcosm of the Macrocosm.—S. D., II, 723.

Tiềm năng của mọi cơ quan hữu ích cho sự sống thú vật đều bị phong kín trong con người, Tiểu thiên địa của Đại thiên địa.—Giáo Lý Bí Nhiệm, II, 723.

82. The animal tends to become man. Man is the macrocosm to the animal life. What man has developed, the animal will develop. Man’s organs and faculties are latent in animal life as the animal is the reflection of man. Organs which are latent in the animal are unfolding or unfolded in man.

82. Giới thú có khuynh hướng trở thành người. Con người là đại thiên địa đối với sự sống thú vật. Con người đã phát triển điều gì, thú vật sẽ phát triển điều ấy. Các cơ quan và năng lực của con người tiềm ẩn trong sự sống thú vật bởi vì thú vật là phản ảnh của con người. Những cơ quan còn tiềm ẩn nơi thú vật thì đang khai mở hoặc đã khai mở nơi con người.

The lesser Builders95 are the negative aspect and are swept into action in group formation through the play [614] of positive force upon them, or through the action of the conscious Minds of the system.

Các Nhà kiến tạo nhỏ hơn95 là phương diện âm và bị quét vào hoạt động theo hình thức đoàn nhóm nhờ [614] sự tác động của mãnh lực dương lên họ, hoặc nhờ tác động của các Tâm thức có ý thức trong hệ thống.

The Army of the Voice, the devas in their serried ranks, work ceaselessly.  Let the disciple apply himself to the consideration of their methods; let him learn the rules whereby that Army works within the veils of Maya. (IHS 203)

Đạo quân của Tiếng Nói, các deva trong hàng ngũ dày đặc của họ, làm việc không ngơi nghỉ. Hãy để vị đệ tử chuyên tâm khảo sát các phương pháp của họ; hãy để y học các quy luật nhờ đó Đạo quân ấy vận hành trong những bức màn của Maya. (IHS 203)

83. The term “lesser Builders” is relative. There are always greater “conscious Minds of the system” which can sweep lesser lives into action and group formation.

83. Thuật ngữ “các nhà kiến tạo nhỏ hơn” là tương đối. Luôn luôn có những “các Tâm thức có ý thức” lớn hơn của hệ thống có thể quét những sự sống nhỏ hơn vào hoạt động và tổ chức thành đoàn nhóm.

84. For instance, the free will of man is very limited in relation to greater Beings. Man is swept into activity and group formation by such greater “conscious Minds” as the Planetary Logos and the Solar Logos. Man, then, becomes like a “lesser builder”.

84. Chẳng hạn, ý chí tự do của con người rất hạn hẹp so với các Đấng Vĩ Đại hơn. Con người bị quét vào hoạt động và tổ chức thành đoàn nhóm bởi những “các Tâm thức có ý thức” lớn hơn như Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế. Khi đó, con người trở nên giống như một “nhà kiến tạo nhỏ hơn”.

85. For practical purposes, however, we are speaking largely of the unconscious lives which are moved and grouped by conscious lives which act upon them.

85. Về mục đích thực tế, tuy nhiên, chúng ta nói chủ yếu về các sự sống vô thức vốn được các sự sống có ý thức tác động và nhóm lại.

FOOTNOTE 95:

CHÚ THÍCH 95:

Pitris—The ancestors or creators of mankind.

Pitris—Các tổ phụ hay những đấng tạo dựng nhân loại.

86. We should say, “creators of the lower vehicles of man”.

86. Chúng ta nên nói: “những đấng tạo dựng các vận cụ thấp của con người”.

They are of seven classes, three of which are incorporeal and four corp­oreal. 

Các Ngài có bảy loại, trong đó ba là vô thể xác và bốn là hữu thể xác.

87. It is difficult to discern what is meant. The term “corporeal” means possessing a body. Incorporeal entities do not possess a body of the same kind that corporeal beings do.

87. Khó mà nắm rõ điều muốn nói. Thuật ngữ “hữu thể xác” nghĩa là sở hữu một thể. Những thực thể vô thể xác thì không sở hữu một thể cùng loại với các hữu thể hữu thể xác.

88. We must judge that “corporeal” and “incorporeal” are, again, relative terms.

88. Chúng ta phải xét rằng “hữu thể xác” và “vô thể xác”, một lần nữa, là những thuật ngữ tương đối.

89. If the etheric nature is considered physical, it is “corporeal”. By comparison, the Lunar Pitris who provide the emotional and lower mental vehicles would be “incorporeal”

89. Nếu bản chất dĩ thái được xem là hồng trần, thì nó là “hữu thể xác”. So sánh mà nói, các thái âm tổ phụ cung cấp các vận cụ cảm dục và hạ trí sẽ là “vô thể xác”.

These are usually called the Lunar Pitris or Ancestors and must not be confounded with the Solar Pitris or Angels, who give mind to man, and create the relatively permanent body of the ego, or Higher Self.

Những vị này thường được gọi là các thái âm tổ phụ hay các Tổ, và không được lẫn lộn với các thái dương tổ phụ hay các Thiên Thần, những Đấng ban trí cho con người và tạo ra thể tương đối thường tồn của chân ngã, hay Tự Ngã cao.

90. The distinction between Lunar and Solar Pitris is foundational. The present problems experienced by humanity arise because this distinction is not understood or acted upon.

90. Phân biệt giữa các thái âm và thái dương tổ phụ là nền tảng. Những vấn đề hiện thời mà nhân loại gặp phải nảy sinh vì sự phân biệt này không được hiểu và không được thực hành.

91. The idea that the Solar Angels gave mind to man is only partially true. Actually, they stimulated the development of the latent mind of animal man. Mind is inherent in the Monad (and, in fact, in all Monads) and, in time, would develop even without the intervention of the Solar Angels. Their intervention, however, advanced by millions of years the process of those who would eventually become human.

91. Quan niệm rằng các Thiên Thần Thái dương ban trí cho con người chỉ đúng một phần. Thực ra, các Ngài kích thích sự phát triển của trí tuệ tiềm ẩn nơi người thú. Trí vốn tiềm tàng trong Chân thần (và, trên thực tế, trong mọi Chân thần) và, theo thời gian, sẽ phát triển ngay cả nếu không có sự can thiệp của các Thiên Thần Thái dương. Tuy nhiên, sự can thiệp của các Ngài đã thúc đẩy tiến trình của những ai rốt cuộc sẽ trở thành con người tiến xa lên hàng triệu năm.

At the present stage of evolution—during the period of Light — it is difficult for the human being (until he has attained the consciousness of the Ego) to differentiate between the types of force, and to work consciously with these dual aspects.

Ở giai đoạn tiến hoá hiện tại—trong thời kỳ của Ánh sáng—con người (cho đến khi y đạt được tâm thức của Chân ngã) khó mà phân biệt giữa các loại mãnh lực, và khó mà làm việc một cách có ý thức với hai phương diện của chúng.

92. Average human beings are so enmeshed in lunar forces that they do not realize that solar forces also exist. Even if they understand that solar forces exist, it is difficult for them to discriminate such forces from the more obviously present lunar forces. Presently, human consciousness is deeply veiled.

92. Người trung bình bị đắm sâu trong các lực thái âm đến nỗi họ không nhận ra rằng cũng có các lực thái dương. Dẫu họ hiểu rằng các lực thái dương hiện hữu, họ cũng khó phân biệt các lực ấy với những lực thái âm hiện diện hiển nhiên hơn. Hiện nay, tâm thức con người bị che màn rất sâu.

93. At the third degree one consciously attains the consciousness of the Ego. In that far more solarized state of consciousness, it is easier to perceive the contrast between the solar and lunar forces.

93. Ở lần điểm đạo thứ ba, người ta ý thức đạt được tâm thức của Chân ngã. Trong trạng thái tâm thức được thái dương hoá cao xa ấy, việc cảm nhận sự tương phản giữa các lực thái dương và thái âm trở nên dễ dàng hơn.

94. The phrase “during the period of Light” is not easy to interpret. From one perspective, Spirit is “darkness” and we do not yet live in that form-obliterating, difference-obscuring darkness provided by Spirit-perception. Our consciousness is still very much captivated by that which “Light” reveals. (cf. Rule IX, R&I 22, 171). We are working within substance and are enveloped by both the “Mother” and the “Son”.

94. Cụm từ “trong thời kỳ của Ánh sáng” không dễ giải thích. Nhìn từ một quan điểm, Tinh thần là “bóng tối” và chúng ta chưa sống trong bóng tối xoá nhoà hình tướng, làm mờ khác biệt do tri giác bằng Tinh thần đem lại. Tâm thức của chúng ta vẫn còn bị thu hút rất mạnh bởi cái mà “Ánh sáng” phơi lộ. (x. Quy luật IX, R&I 22, 171). Chúng ta đang làm việc trong chất liệu và bị bao bọc bởi cả “Mẹ” lẫn “Con”.

95. The meaning of the phrase may be entirely other than that proposed, but at least one interpretation is put forth.

95. Ý nghĩa của cụm từ ấy có thể hoàn toàn khác với điều vừa đề xuất, nhưng ít nhất một cách hiểu đã được nêu ra.

An Adept of the Light works with force in substance, viewing substance as that which is negative, and therefore occultly to be moved,

Một Chân sư của Ánh sáng làm việc với lực trong chất thể, xem chất thể như cái vốn âm, và do đó cần phải được chuyển động theo nghĩa huyền bí ,

96. The highest expression of “Light” per se (and in relation to the human kingdom), comes at the fifth initiation. Masters are still human beings; Chohans, technically, are not. They have entered the “Darkness”.

96. Biểu hiện cao nhất của “Ánh sáng” tự thân (và trong tương quan với giới nhân loại) đến ở lần điểm đạo thứ năm. Các Chân sư vẫn là con người; các Chohan, về mặt kỹ thuật, thì không. Các Ngài đã đi vào “Bóng Tối”.

97. Substance is occultly negative and exhibits the quality of inertia. It is not ‘self-moving’ and, therefore, has to be “moved”, or acted upon.

97. Chất thể về mặt huyền bí là âm và biểu lộ phẩm tính trơ ì. Nó không ‘tự chuyển động’, vì vậy phải được “làm cho chuyển động”, hay bị tác động.

98. The term “Adept of the Light” is used here in contrast to “Brother of Darkness”.

98. Thuật ngữ “Chân sư của Ánh sáng” được dùng ở đây đối sánh với “Huynh đệ của Bóng Tối”.

and He can do this because He has (in the three worlds of His endeavour) achieved unity, or the point of balance and equilibrium, and can therefore balance forces and deal with positive and negative energies as appears best in the interests of the plan of evolution.

và Ngài có thể làm điều này bởi vì Ngài đã (trong ba cõi của công phu của Ngài) đạt được hợp nhất, hay điểm quân bình và thăng bằng , do đó có thể quân bình các lực và xử lý các năng lượng dương và âm theo cách tốt nhất xét theo lợi ích của Thiên Cơ tiến hoá.

99. The relationship of the sign Libra to the stage of Mastership has not been much emphasized, but it is unquestionably present.

99. Mối liên hệ của dấu hiệu Thiên Bình với giai đoạn làm Chân sư chưa được nhấn mạnh nhiều, nhưng điều ấy hẳn nhiên hiện diện.

100. The “unity” achieved by the Master is related to the sign Leo, which occultly rules the fifth degree. The realization of unity is achieved by means of solar energies. One symbol for the Master is the Sun (the circle with the central dot).

100. “Hợp nhất” mà Chân sư đạt được có liên hệ với dấu Sư Tử, vốn cai quản một cách huyền bí lần điểm đạo thứ năm. Sự nhận thực về hợp nhất được đạt nhờ các năng lượng thái dương. Một biểu tượng cho Chân sư là Mặt Trời (vòng tròn với chấm ở tâm).

101. The Master stands at the acme of what we might call ‘first solar system development’ (even though the Arhat initiation was the highest initiation offered in that system). The Master has mastered or dominated the substance which is residual from that earlier system. Symbolically, He stands with his foot upon the “Serpent of Matter”.

101. Chân sư đứng trên đỉnh cao của cái mà chúng ta có thể gọi là ‘phát triển hệ mặt trời thứ nhất’ (dẫu cho điểm đạo A-la-hán là lần điểm đạo cao nhất được cung ứng trong hệ ấy). Chân sư đã làm chủ hay chế ngự chất thể còn lại từ hệ trước. Về mặt biểu tượng, Ngài đặt chân lên “Con Rắn của Chất liệu”.

102. He stands at the acme of intelligence and has become an intelligent manipulator of those forces. Therefore, He is an example, generically, of the triumph of the third ray. He is an Adept and can, thus, adapt matter/force to His purposes which are, of course, the purposes of the Divine Plan and Purpose (as He understands that Plan and Purpose).

102. Ngài đứng ở đỉnh cao của trí tuệ và đã trở thành một nhà thao diễn trí tuệ đối với các lực ấy. Do đó, Ngài là một ví dụ, trên bình diện tổng quát, về thắng lợi của cung ba. Ngài là một Chân sư và, như vậy, có thể ứng biến chất liệu/lực theo các mục đích của Ngài—dĩ nhiên, đó là các mục đích của Thiên Cơ và Thiên Ý (trong mức độ Ngài thấu hiểu Thiên Cơ và Thiên Ý ấy).

The Brother of Darkness, knowing himself to be positive force in essence, works with negative substance, or with the lesser Builders to bring about ends [615] of his own, incited thereto by selfish motive.

Huynh đệ của Bóng Tối , biết mình là mãnh lực dương về bản chất, làm việc với chất liệu âm, hay với các Nhà kiến tạo nhỏ hơn để đạt các mục đích [615] riêng của y, bị xúi giục bởi động cơ vị kỷ.

103. We have just see that a “Brother of Light” also works in substance, regarding it as something “occultly to be moved”, but His motive and objective are entirely other than those of the “Brother of Darkness”.

103. Chúng ta vừa thấy rằng một “Huynh đệ của Ánh sáng” cũng làm việc trong chất thể, xem nó như cái “cần phải được chuyển động theo nghĩa huyền bí”, nhưng động cơ và mục đích của Ngài hoàn toàn khác với của “Huynh đệ của Bóng Tối”.

104. We can imagine that the work of the Brother of Darkness binds and enslaves the lives expressing as substance, and that the Brother of Light works in a manner which leads to the eventual liberation of these lesser lives.

104. Chúng ta có thể hình dung công việc của Huynh đệ của Bóng Tối trói buộc và nô dịch các sự sống biểu lộ như chất thể, còn Huynh đệ của Ánh sáng làm việc theo cách dẫn đến giải thoát rốt ráo các sự sống nhỏ hơn này.

The Brothers of Light co-operate with the positive aspect in, and of, all forms—the building devas of evolutionary intent—in order to bring about the purposes of the Heavenly Man Who is the sumtotal of planetary physical manifestation.

Các Huynh đệ của Ánh sáng hợp tác với phương diện dương ở trong, và của, mọi hình tướng—các deva kiến tạo mang ý hướng thăng thượng tiến hoá—để đưa đến các mục đích của Đấng Thiên Nhân, Đấng vốn là tổng thể của sự biểu hiện hồng trần hành tinh .

105. We have already seen that the Brother of Light seeks to stimulate the positive nucleus, or Spirit, within the human being. There is also a central spiritual core within every form and with this core the Brother of Light works.

105. Chúng ta đã thấy rằng Huynh đệ của Ánh sáng tìm cách kích thích hạt nhân dương, hay Tinh thần, trong con người. Cũng có một lõi tinh thần trung tâm trong mọi hình tướng và Huynh đệ của Ánh sáng làm việc với lõi này.

106. There is also the tendency of the Brother of Light to work with the positive aspect of forms rather than the negative aspect. He tends to work with “the building devas of evolutionary intent” rather than with the blind, elemental forces.

106. Cũng có khuynh hướng nơi Huynh đệ của Ánh sáng làm việc với phương diện dương của các hình tướng hơn là phương diện âm. Ngài có khuynh hướng làm việc với “các deva kiến tạo mang ý hướng thăng thượng tiến hoá” hơn là với các lực hành khí mù quáng.

107. Clearly there is a conscious and unconscious way. The “Brother of Light” promotes the ‘Conscious Way’ and the “Brother of Darkness” does all he can to promote unconsciousness (in those he wishes to enslave). When the tide of ignorance in humanity rises precipitously, the “Brothers of Darkness” are at work.

107. Rõ ràng có một con đường có ý thức và một con đường vô thức. “Huynh đệ của Ánh sáng” thúc đẩy ‘Con Đường Có Ý Thức’, còn “Huynh đệ của Bóng Tối” làm mọi điều có thể để thúc đẩy vô thức (nơi những kẻ y muốn nô dịch). Khi làn sóng vô minh trong nhân loại dâng cao đột ngột, “các Huynh đệ của Bóng Tối” đang hoạt động.

108. We may notice that a rather special definition of a Heavenly Man seems to have been given—He is the “sumtotal of planetary physical manifestation”.

108. Chúng ta có thể lưu ý rằng một định nghĩa khá đặc biệt về một Đấng Thiên Nhân dường như vừa được đưa ra—Ngài là “tổng thể của sự biểu hiện hồng trần hành tinh”.

109. Those who take exception to the equating of the terms “Planetary Logos” and “Heavenly Man” should look closely at this rather limiting definition of a Heavenly Man.

109. Những ai phản đối việc đồng nhất các thuật ngữ “Hành Tinh Thượng đế” và “Đấng Thiên Nhân” nên xem kỹ định nghĩa khá giới hạn này về một Đấng Thiên Nhân.

110. Alternatively, we could be speaking of one particular Heavenly Man Who, Himself, “is the sumtotal of planetary physical manifestation”—for instance, the Globe Lord of the Earth-globe.

110. Hoặc, chúng ta có thể đang nói về một Đấng Thiên Nhân đặc thù, Ngài tự thân “là tổng thể của sự biểu hiện hồng trần hành tinh”—ví dụ, Chúa Tể của bầu Địa Cầu.

111. From yet another perspective, we might ask, “Is there one particular Heavenly Man, Who is not a Globe Lord, Who is the embodiment “of planetary physical manifestation”? We probably should confine ourselves to the planetary scheme of Earth, in which case the answer becomes simpler. If we think of such a Heavenly Man as a systemic Being, we shall have to ponder the possibilities.

111. Từ một góc khác, chúng ta có thể hỏi, “Có một Đấng Thiên Nhân đặc thù nào, không phải là Chúa Tể Bầu, vốn là hiện thân ‘của sự biểu hiện hồng trần hành tinh’ chăng?” Có lẽ chúng ta nên giới hạn mình trong hệ hành tinh Địa Cầu; trong trường hợp ấy câu trả lời trở nên đơn giản hơn. Nếu chúng ta nghĩ về một Đấng Thiên Nhân như là một Hữu thể cấp hệ thống , chúng ta sẽ phải nghiền ngẫm các khả tính.

It can be seen, therefore, how necessary it is that the functions of the devas of all grades be comprehended.

Vì vậy, có thể thấy cần thiết đến mức nào việc lĩnh hội các chức năng của các deva ở mọi đẳng cấp.

112. We must realize that there are a huge number of grades. In studying these grades we are studying the many diverse forces of Nature.

112. Chúng ta phải nhận ra rằng có vô vàn đẳng cấp. Khi khảo cứu các đẳng cấp này, chúng ta đang học về nhiều lực đa dạng của Tự nhiên.

It is however equally important that man should refrain from the manipulation of these forces of nature until such time as he “knows” himself, and his own powers, and until he has fully unfolded the consciousness of the ego;

Tuy nhiên, đồng thời, điều cũng quan trọng không kém là con người nên kiềm chế việc thao diễn các lực của tự nhiên cho đến khi nào y “biết” chính mình, và quyền năng của riêng mình, và cho đến khi y đã triển khai trọn vẹn tâm thức của chân ngã;

113. What are the requirements to be fulfilled before the forces of nature can be safely and wisely manipulated:

113. Những điều kiện cần được đáp ứng trước khi các lực của tự nhiên có thể được thao diễn một cách an toàn và khôn ngoan:

a. Man must know himself

a. Con người phải biết chính mình

b. Man must know his own powers

b. Con người phải biết quyền năng của riêng mình

c. Man must have unfolded the powers and consciousness of the Ego

c. Con người phải đã triển khai các quyền năng và tâm thức của chân ngã

114. We have been told that intercourse with the lower devas (those of the eighteen lower sub-planes) is not initially allowed. Man may now attempt to approach the higher devas (such as Solar Angels or guardian angels), but not the lower. He does not yet know enough nor is he sufficiently ‘Self-possessed’.

114. Chúng ta đã được nói rằng giao tiếp với các deva thấp (những vị của mười tám cõi phụ thấp) ban đầu không được phép. Con người hiện có thể tìm cách tiếp cận các deva cao hơn (như các Thiên Thần Thái dương hay các thiên thần hộ vệ), nhưng không phải các vị thấp hơn. Y chưa biết đủ và cũng chưa đủ “trụ ở Tự Ngã”.

then, and only then, can he safely, wisely, and intelligently co-operate in the plan.

rồi, và chỉ khi đó, y mới có thể hợp tác an toàn, khôn ngoan và thông tuệ trong Thiên Cơ.

115. We gather here that one very important mode of cooperation with the Divine Plan is through the manipulation of devic forces.

115. Ở đây chúng ta hiểu rằng một phương thức hợp tác rất quan trọng với Thiên Cơ là qua sự thao diễn các lực devic.

116. Until the requirements for safe, wise and intelligent manipulation of such forces are fulfilled, man must find other methods of cooperating with the Plan.

116. Cho đến khi các điều kiện để thao diễn các lực ấy một cách an toàn, khôn ngoan và thông tuệ được đáp ứng, con người phải tìm các phương pháp khác để hợp tác với Thiên Cơ.

As yet, for the average man or even the advanced man this is dangerous to attempt and impossible to accomplish.

Hiện nay, đối với người trung bình hay thậm chí người tiến bộ, điều này vừa nguy hiểm để toan thử, vừa bất khả để hoàn tất.

117. DK is telling us who may safely, wisely and intelligently manipulate the devic forces of nature and who may not. When the term “nature” is used, it usually means the forces of the eighteen lower sub-planes. If “Nature” is capitalized, it can indicate the forces of the cosmic physical plane, which, cosmically are natural (i.e., pertaining to material life).

117. Chân sư DK đang cho biết ai có thể thao diễn an toàn, khôn ngoan và thông tuệ các lực devic của tự nhiên và ai không. Khi thuật từ “tự nhiên” được dùng, nó thường có nghĩa các lực của mười tám cõi phụ thấp. Nếu “Tự Nhiên” được viết hoa, nó có thể chỉ các lực của cõi hồng trần vũ trụ, vốn, về mặt vũ trụ , là tự nhiên (tức thuộc về sự sống vật chất).

118. It would seem that the manipulation of the unconscious devic lives is very securely guarded. Average and even advanced man (not yet initiate) may succeed in contacting them and may affect them, but cannot do so safely, wisely and intelligently and cannot thereby assist the working out of the Divine Plan. All he can do is endanger himself and possibly interfere with the correct working out of the Plan.

118. Có vẻ như việc thao diễn các sự sống devic vô thức được canh giữ rất nghiêm ngặt. Người trung bình và thậm chí người tiến bộ (chưa phải là điểm đạo đồ) có thể thành công trong việc tiếp xúc họ và có thể tác động họ, nhưng không thể làm điều đó một cách an toàn, khôn ngoan và thông tuệ, và do đó không thể trợ giúp sự vận hành của Thiên Cơ. Tất cả những gì y có thể làm là gây nguy cho chính mình và có thể can thiệp vào sự vận hành đúng đắn của Thiên Cơ.

Now, let us add a few more statements upon which the student can ponder before we pass on to study specifically the three main groups of building devas on the three planes in the three worlds which most intimately concern man.

Giờ đây, chúng ta hãy thêm vài phát biểu nữa để môn sinh có thể suy ngẫm trước khi chúng ta chuyển sang khảo cứu một cách chuyên biệt ba nhóm chính các deva kiến tạo trên ba cõi trong ba thế giới vốn liên hệ mật thiết nhất với con người.

119. So far we are dealing with general information and are preparing to take up a study of specific devas.

119. Cho đến lúc này chúng ta đang đề cập đến những thông tin tổng quát và đang chuẩn bị để bắt đầu nghiên cứu về các thiên thần cụ thể.

The building devas96 are the Ah-hi, or Universal MindThey contain within their consciousness the plan logoic, [616] and inherently possess the power to work it out in time and space, being the conscious forces of evolution.

Các thiên thần kiến tạo 96 là các Ah -hi, hay Vũ Trụ Trí . Các Ngài chứa đựng trong tâm thức của mình thiên cơ logoic, [616] và vốn dĩ sở hữu quyền năng để triển khai nó trong thời gian và không gian, vì là các lực có ý thức của tiến hoá.

120. The Ah-hi are solar systemic Beings. They are not simply planetary in scope.

120. Các Ah-hi là những Hữu thể mang tầm hệ mặt trời. Các Ngài không chỉ mang tầm hành tinh.

121. It is essential that we understand the meaning of “Universal Mind”. Our solar system is frequently referred to as a “universe” and so the “Universal Mind” would be the Mind of the Solar Logos.

121. Điều cốt yếu là chúng ta hiểu nghĩa của “Vũ Trụ Trí”. Hệ mặt trời của chúng ta thường được gọi là một “vũ trụ”, và như vậy “Vũ Trụ Trí” sẽ là Trí của Thái dương Thượng đế.

122. Thus, to ‘locate’ “Universal Mind” we might be taken to the cosmic mental plane in its two divisions.

122. Do đó, để ‘định vị’ “Vũ Trụ Trí” chúng ta có thể được dẫn lên cõi trí vũ trụ trong hai phân khu của nó.

123. From another perspective, all of Brahma is the “Universal Mind” and Brahma, Fohat, Agni are intelligently active on all the eighteen lower cosmic sub-planes.

123. Nhìn từ một góc khác, toàn thể Phạm Thiên (Brahma) là “Vũ Trụ Trí” và Brahma, Fohat, Agni đều hoạt động một cách thông tuệ trên tất cả mười tám cõi phụ vũ trụ thấp.

124. Closer to our own level of experience, Universal Mind is reflected on the cosmic physical plane and especially on the atmic level which is ruled by Saturn and the third ray.

124. Gần với cấp độ trải nghiệm của chúng ta hơn, Vũ Trụ Trí được phản ánh trên cõi hồng trần vũ trụ và đặc biệt trên tầng atmic vốn chịu chi phối của Sao Thổ và cung ba.

125. If we study what is said in the section of text above, there are many atmic ‘signatures’.

125. Nếu chúng ta khảo sát các điều được nói trong đoạn văn trên, có nhiều ‘dấu ấn’ atmic:

a. The atmic plane is especially associated with the Divine Plan, the “plan logoic”.

a. Cõi atmic đặc biệt gắn với Thiên Cơ, “thiên cơ logoic”.

b. The atmic plane is the specifically Brahmic plane (of the higher planes) and is, thus, specifically related to time and space. Its Word is the A.U.M. which is the Word of the third aspect.

b. Cõi atmic là cõi đặc thù của Brahma (trong các cõi cao) và, như vậy, đặc biệt liên hệ với thời gian và không gian. Linh từ của cõi này là A.U.M., Linh từ của phương diện thứ ba.

c. The forces of the Universal Mind are the “conscious forces of evolution”. The forces behind the Will-to-Evolve can be found expressing on the atmic plane. The Will-to-Evolve is the third ray expression of the Divine Will and is, thus, particularly related to the atmic plane—the third plane.

c. Các lực của Vũ Trụ Trí là “các lực có ý thức của tiến hoá”. Các lực nằm sau Ý Chí-tiến hoá có thể được thấy biểu lộ trên cõi atmic. Ý Chí-tiến hoá là biểu hiện cung ba của Thiêng Liêng Ý Chí, và do đó, đặc biệt liên hệ với cõi atmic—cõi thứ ba .

FOOTNOTE: 96

CHÚ THÍCH: 96

Devas.  “…he would have

Deva. “…ông ấy lẽ ra đã

(1) divided the Devas into two classes—and called them the “Rupa-devas” and the “Arupa-devas” (the “form” or objective, and the “formless” or subjective Dhyan Chohans;

(1) phân các Deva thành hai loại—và gọi họ là ‘Rupa-devas’ và ‘Arupa-devas’ (các Dhyan Chohan ‘có hình’ hay khách quan, và ‘vô hình’ hay chủ quan;

126. We see that some devic lives of a very high nature are called “Dhyan Chohans”

126. Chúng ta thấy rằng một số sự sống devic có bản chất rất cao được gọi là “Dhyan Chohan”.

127. From the perspective of the Planetary Logos, the rupa levels are found beneath the higher mental plane and the arupa levels on that plane (the higher mental) and above.

127. Nhìn từ phối cảnh của Hành Tinh Thượng đế, các tầng rupa nằm dưới cõi thượng trí và các tầng arupa ở trên cõi ấy (cõi thượng trí) và cao hơn.

128. From the solar logoic perspective, everything below the buddhic plane is rupa.

128. Từ phối cảnh của Thái dương Thượng đế, mọi thứ dưới cõi Bồ đề đều là rupa.

and

(2) would have done the same for his class of “men” since there are Shells and “Mara-rupas”—i.e. bodies doomed to annihilation.

(2) lẽ ra đã làm điều tương tự với loại ‘con người’ của ông ta, vì có những ‘Vỏ trống’ và ‘Mara-rupa’—tức là những thể bị kết án tiêu diệt.

129. These are obviously lower or degenerate forms. Wherever we see the word “Mara” we are reminded of the enemy of the Buddha—the personification of the forces of glamor and illusion.

129. Rõ ràng đây là những hình tướng thấp hay suy đồi. Hễ thấy chữ “Mara” là chúng ta nhớ đến kẻ thù của Đức Phật—nhân cách hoá của các lực ảo cảm và ảo tưởng.

All these are:

Tất cả những điều này là:

(1) “Rupa-devas”—Dhyan Chohans, having forms. | Ex-men.

(1) “Rupa-deva”—Dhyan Chohan, có hình tướng. | Cựu-nhân.

130. By “ex-men” we mean those who have evolved through the human kingdom.

130. “Cựu-nhân” có nghĩa là những vị đã tiến hoá qua giới nhân loại.

131. The “Rupa-devas”, if they are Dhyan Chohans, are advanced beings. We can assume that for purposes of service, they have retained (or have generated) forms which can be used in the lower three worlds, hence the appellation, “Rupa”.

131. “Rupa-deva”, nếu là Dhyan Chohan, đều là những hữu thể cao cả. Ta có thể giả định rằng vì mục đích phụng sự, các Ngài đã lưu giữ (hoặc đã tạo ra) các hình tướng có thể dùng trong ba cõi thấp, do đó có danh xưng “Rupa”.

(2) “Arupa-devas”—Dhyan Chohans, having no forms. | Ex-men.

(2) “Arupa-deva”—Dhyan Chohan, vô hình tướng. | Cựu-nhân.

132. We can conceive of these “Arupa-devas” as ‘graduate’ human beings who inhabit the cosmic etheric planes, and perhaps the higher mental plane.

132. Ta có thể hình dung các “Arupa-deva” này như những ‘tốt nghiệp’ nhân loại cư ngụ trên các cõi dĩ thái vũ trụ, và có lẽ cả cõi thượng trí.

133. It would be of importance to know how these rupa and arupa devas became “ex-men”. Was it before they had mastered the spiritual curriculum, or only afterwards—once they had.

133. Điều quan trọng là biết các deva rupa và arupa này trở thành “cựu-nhân” bằng cách nào. Có phải trước khi họ hoàn tất học trình tinh thần, hay chỉ sau đó—một khi đã hoàn tất.

(3) “Pisachas”—(two-principled) ghosts.

(3) “Pisacha”—(hai nguyên khí) ma quái.

134. It would seem that there is no intelligence in these beings. They seem to be possessed of an etheric nature and perhaps of prana.

134. Có vẻ như những hữu thể này không có trí. Họ dường như có một bản chất dĩ thái và có lẽ có prana.

(4) “Mara-rupa”—Doomed to death (three principled).

(4) “Mara-rupa”—Bị kết án tử (ba nguyên khí).

135. These beings (since the name “Mara” is attached to them) must have for one of their principles, “kama”. The major ‘haunt’ of “Mara” is the astral plane which is the plane of kama.

135. Các hữu thể này (vì gắn tên “Mara”) hẳn có một trong các nguyên khí của họ là “kama”. “Cõi ngự” chủ yếu của “Mara” là cõi cảm dục, vốn là cõi của kama.

136. Sometimes “kama” is not enumerated as a principle and is replaced by “kama-manas”.

136. Đôi khi “kama” không được liệt kê như một nguyên khí và được thay bằng “trí-cảm”.

137. The three principles of these beings would then be: the etheric body, prana and kama or, alternatively, the etheric body, prana and kama-manas.

137. Ba nguyên khí của các hữu thể này khi đó sẽ là: thể dĩ thái, prana và kama, hoặc, thay thế, thể dĩ thái, prana và trí-cảm.

138. They are doomed to death because they are not informed by the energy of higher mind which confers the immortality of the soul/Ego/Monad.

138. Họ bị kết án tử vì họ không được thấm nhuần bởi năng lượng của trí tuệ cao, năng lượng ban cho sự bất tử của linh hồn/Chân ngã/Chân thần.

(5) Asuras—Elementals—having human form. | Future men.

(5) Asura—Hành khí—có hình người. | Người tương lai.

139. Sometimes the term “asuras” means “demons”. This is not the case here. We are speaking of the lords of the human lunar vehicles who will, eventually, become self-conscious as they evolve into human beings.

139. Đôi khi thuật ngữ “asura” được hiểu là “quỷ”. Không phải trường hợp ở đây. Chúng ta đang nói về những vị chúa của các vận cụ thái âm của con người, những vị rốt cuộc sẽ trở nên tự ý thức khi họ tiến hoá thành con người.

140. In the Secret Doctrine HPB tells us that the Solar Angels or Agnishvattas are really “Asuras”. History has slandered these great Beings, demoting their clearly divine status to demons.

140. Trong Giáo Lý Bí Nhiệm Bà HPB nói rằng các Thiên Thần Thái dương hay Agnishvatta thực ra là “Asura”. Lịch sử đã vu cho các Đấng Vĩ Đại này, giáng hạ địa vị hiển nhiên thiêng liêng của Các Ngài xuống thành quỷ.

(6) Beasts—Elementals second class—animal elementals.   | Future men

(6) Thú vật—Hành khí cấp hai—hành khí thú vật. | Người tương lai.

141. Animals will be individualized, eventually. Here we are speaking of the etheric/astral forms of animals.

141. Thú vật rốt cuộc sẽ được biệt ngã hóa. Ở đây chúng ta đang nói về các hình tướng dĩ thái/cảm dục của thú vật.

(7) Rakshasas—(Demons) Souls or Astral Forms of sorcerers; men who have reached the apex of knowledge in the forbidden art.  Dead or alive they have, so to say, cheated nature; but it is only temporary—until our planet goes into obscuration, after which they have nolens volens to be annihilated.

(7) Rakshasa—(Quỷ) Linh hồn hay Hình tướng Cảm dục của các pháp sư; những người đã đạt đỉnh cao tri thức trong thuật cấm. Sống hay chết, họ, có thể nói, đã đánh lừa tự nhiên; nhưng đó chỉ là tạm thời— cho đến khi hành tinh của chúng ta đi vào ẩn khuất, sau đó họ, dù muốn hay không, đều phải bị tiêu diệt.

142. There are intelligent (often, very intelligent) human beings. They have been severed from the Solar Angel. They probably still have a causal body which is the repository of their accumulated human experience and a resource upon which they can draw—but this causal body is not animated by the Christ-Principle and a Solar Angel is no longer associated with it.

142. Có những con người thông tuệ (thậm chí rất thông tuệ). Họ đã bị tách lìa khỏi Thiên Thần Thái dương. Họ có lẽ vẫn còn thể nguyên nhân, cái vốn là kho tích lũy kinh nghiệm nhân loại của họ và là một nguồn lực mà họ có thể khai thác—nhưng thể nguyên nhân ấy không còn được nguyên khí Christ sinh động và một Thiên Thần Thái dương không còn liên hệ với nó nữa.

143. It may be that we have wondered how long a demon can survive before compulsory annihilation in the “eighth sphere”. HPB tells us that their annihilation will come when our planet goes into obscuration. In this regard (since our planet—considered as a globe—following those spans known as “World Periods” goes through a number of obscurations) we must wonder whether we are speaking of a temporary obscuration of a globe or the obscuration of the entire planetary scheme.

143. Có thể chúng ta đã tự hỏi một quỷ có thể tồn tại bao lâu trước khi bị buộc phải tiêu diệt trong “cầu thứ tám”. Bà HPB cho biết sự tiêu diệt của họ sẽ đến khi hành tinh của chúng ta đi vào ẩn khuất. Về điểm này (vì hành tinh của chúng ta—nếu xét như một bầu—sau các khoảng gọi là “Chu kỳ Thế Gian” trải qua một số lần ẩn khuất) chúng ta phải tự hỏi liệu đang nói về một lần ẩn khuất tạm thời của một bầu hay là ẩn khuất của toàn hệ hành tinh.

144. It would seem that it is the obscuration of the planetary scheme which is discussed but further research is necessary.

144. Dường như ở đây bàn đến sự ẩn khuất của toàn hệ hành tinh, nhưng cần khảo cứu thêm.

It is these seven groups that form the principal divisions of the Dwellers of the subjective world around us.”—Mahatma Letters to A. P. Sinnett, 107.

Chính bảy nhóm này tạo thành các phân bộ chủ yếu của Các Cư Dân của thế giới chủ quan quanh ta.”—Những Bức Thư của Chân sư gửi A. P. Sinnett, 107.

145. This is a very valuable tabulation. It is probable that the average reader of TCF is not yet in a position to ‘navigate’ the subtle worlds in subtle vehicles, but the time will come and, then, the inhabitants of these worlds must be understood because they will be encountered..

145. Đây là một bảng phân loại rất quý giá. Có lẽ độc giả trung bình của TCF chưa ở vị trí có thể ‘điều hướng’ các thế giới vi tế trong các vận cụ vi tế, nhưng thời điểm sẽ đến và, khi ấy, các cư dân của những thế giới này phải được hiểu vì họ sẽ được gặp.

They not only embody the Divine Thought but are that through which it manifests, and its actuating activity.  They are essentially motion.

Các Ngài không chỉ bao hàm Thiêng Tưỏng mà còn là cái nhờ đó Thiêng Tưỏng biểu lộ, và là hoạt năng tác động của nó. Các Ngài về bản chất là chuyển động.

146. We are now returning to a discussion of the Universal Mind.

146. Giờ đây chúng ta quay lại thảo luận về Vũ Trụ Trí.

147. The Ah-hi are said to be two things:

147. Các Ah-hi được nói là hai điều:

a. They embody Divine Thought

a. Các Ngài bao hàm Thiêng Tưỏng

b. They are that through which Divine Thought manifests—the “actuating activity” of Divine Thought.

b. Các Ngài là cái nhờ đó Thiêng Tưỏng biểu lộ—“hoạt năng tác động” của Thiêng Tưỏng.

148. We can link the Ah-hi to Agni by remembering that Agni has just been called “actuating fire” (TCF 606)

148. Ta có thể liên kết các Ah-hi với Agni bằng cách nhớ rằng Agni vừa được gọi là “ lửa tác động ” (TCF 606)

149. It would seem that the Ah-hi have a ‘formless form’. We must remember that our arupa or formless levels are, nonetheless, rupa from a cosmic perspective. Shape and form still exists upon the cosmic etheric planes, just as it does upon the systemic etheric planes.

149. Dường như các Ah-hi có một ‘hình vô hình’. Chúng ta phải nhớ rằng các tầng arupa hay vô hình của chúng ta, xét từ phối cảnh vũ trụ, vẫn là rupa . Hình dáng và hình tướng vẫn tồn tại trên các cõi dĩ thái vũ trụ, cũng như trên các cõi dĩ thái hệ thống.

150. Thus the Ah-hi are subtle cosmic etheric forms through which Divine Thought can find expression.

150. Vì thế, các Ah-hi là những hình thức dĩ thái vũ trụ vi tế, qua đó Thiêng Tưỏng có thể tìm thấy biểu đạt.

151. They also actuate Divine Thought, setting it in motion as an actuating, positive force in relation to lesser and negative forces.

151. Các Ngài cũng làm cho Thiêng Tưỏng vận hành, đặt nó vào chuyển động như một mãnh lực dương tác động lên các lực thấp hơn và âm hơn.

152. We can see the close relation between:

152. Chúng ta có thể thấy mối liên hệ gần gũi giữa:

a. Agni

a. Agni

b. Fohat

b. Fohat

c. Brahma

c. Brahma

d. Holy Spirit

d. Chúa Thánh Thần

e. Universal Mind

e. Vũ Trụ Trí

f. The Ah-hi

f. Các Ah-hi

The lesser builders are more partic­ularly the material form which is actuated, and in their cohorts are the substance of matter (considering substance as that which lies back of matter).

Các nhà kiến tạo nhỏ hơn đúng hơn là hình tướng vật chất được tác động, và trong các đoàn ngũ của họ là chất liệu của vật chất (xét chất liệu như cái nằm phía sau vật chất).

153. The concept we are discussing is relatively simple: we are speaking of the movers and that which is moved; of that which impels and that which receives the impulsion; of positive and negative.

153. Khái niệm chúng ta đang bàn khá đơn giản: chúng ta nói về cái tác động và cái bị tác động; về cái thúc đẩy và cái tiếp nhận sự thúc đẩy; về dương và âm.

154. The lesser builders are substance/matter which is acted upon by the Greater Builders. There is motion—the Greater Builders; and there is that which is moved—the lesser builders.

154. Các nhà kiến tạo nhỏ hơn là chất liệu/vật chất bị các Nhà Kiến Tạo Lớn hơn tác động. Có chuyển động—là các Nhà Kiến Tạo Lớn hơn; và có cái bị chuyển động—là các nhà kiến tạo nhỏ hơn.

155. The Masters sometimes speak of the “material” with which They have to work. Their students are this “material”; Their students are then, analogously, “lesser builders” when compared to the Masters.

155. Đôi khi các Chân sư nói về “vật liệu” mà Các Ngài phải làm việc. Môn sinh của Các Ngài chính là “vật liệu” này; khi đó, theo tương đồng, môn sinh là “các nhà kiến tạo nhỏ hơn” so với các Chân sư.

156. Note the word “cohorts” as it suggests those who affiliate, even if unconsciously. Cohorts are lives which are magnetically drawn to each other because of their virtually identical nature. To be a “cohort” however is not a very high or conscious type of association.

156. Lưu ý từ “đoàn ngũ” vì nó gợi những kẻ liên kết, dẫu vô thức. “Đoàn ngũ” là các sự sống bị hút với nhau một cách từ tính vì bản chất gần như đồng nhất. Tuy vậy, làm “đoàn ngũ” không phải là một kiểu liên kết ở trình độ cao hay có ý thức.

157. All ‘material’ can be considered matter or substance depending on its relation to that which is above or below. What is substance from a lower perspective is matter when seen from a higher.

157. Mọi “vật liệu” có thể được xem là vật chất hay chất liệu tuỳ theo tương quan với cái ở trên hay ở dưới. Cái là chất liệu khi nhìn từ góc độ thấp lại là vật chất khi nhìn từ góc độ cao hơn.

158. From another perspective, substance, when acted upon, can be denominated as matter. Matter, from this perspective, is passive and receptive and substance is active and positive.

158. Từ một quan điểm khác, chất liệu, khi bị tác động, có thể được gọi là vật chất. Vật chất, theo quan điểm này, là thụ động và tiếp nhận còn chất liệu là chủ động và dương.

159. Certain devas are considered substantial to matter when they act upon and manipulate it.

159. Một số deva được xem là “chất liệu” đối với vật chất khi họ tác động và thao diễn nó.

160. There are other familiar contexts, however, in which substance is also considered passive and receptive to more positive forces. So, we cannot dogmatize about these two terms—matter and substance.

160. Tuy nhiên, cũng có những ngữ cảnh quen thuộc khác, trong đó chất liệu cũng được xem là thụ động và tiếp nhận các lực dương tính hơn. Vậy nên, chúng ta không thể giáo điều về hai thuật ngữ này—vật chất và chất liệu.

They are that which produces concretion and which gives form to the abstract.

Chúng là cái tạo ra sự kết tụ và ban cho cái trừu tượng một hình tướng.

161. The lesser builders give form to that which is more abstract.

161. Các nhà kiến tạo thứ yếu trao hình tướng cho cái trừu tượng hơn.

162. As givers of concretion they must be particularly ruled by the rays which confer concretion—the fifth, sixth and seventh.

162. Là những tác nhân đem lại sự kết tụ, họ tất yếu phải chịu sự cai quản đặc biệt của các cung ban phát tính kết tụ—cung năm, sáu và bảy.

163. If the “Law of Fixation” is the “Law of Concretion” it must be closely related to the manipulation of the lesser builders.

163. Nếu “Định luật Cố Định” là “Định luật Kết tụ” thì hẳn phải liên hệ mật thiết với việc thao luyện các nhà kiến tạo thứ yếu.

The terms “rupa” and “arupa” devas are relative,97 for the formless levels and the formless lives are only so from the standpoint of man in the three worlds;

Các thuật ngữ “thiên thần hữu tướng (rupa)” và “thiên thần vô tướng (arupa)” là tương đối,97 vì các cõi vô tướng và các sự sống vô tướng chỉ là như thế nếu xét từ lập trường của con người trong ba cõi giới;

164. DK is stating the truth I have been trying to emphasize above. It is our own human perspective which suggests to us that certain lives are either rupa or arupa.

164. Chân sư DK đang khẳng định chân lý mà tôi cố gắng nhấn mạnh ở trên. Chính viễn kiến nhân loại của chúng ta khiến chúng ta cho rằng một số sự sống là hữu tướng hay vô tướng.

165. Our highest, apparently, arupa expressions are very much rupa from the perspective of those whose lives are focussed on the cosmic astral or cosmic mental planes.

165. Những biểu lộ cao nhất, xem ra, vô tướng của chúng ta lại rất hữu tướng từ góc nhìn của những Đấng có sự sống tập trung trên các cõi cảm dục vũ trụ hay cõi trí vũ trụ.

the formless lives are those which are functioning in and through the etheric body of the Logos, formed of the matter of the four higher planes of the system.

các sự sống vô tướng là những sự sống đang hoạt động trong và xuyên qua thể dĩ thái của Thượng đế, được cấu thành từ chất liệu của bốn cõi cao của hệ.

166. This is a succinct statement yet, still, a relative one.

166. Đây là một mệnh đề ngắn gọn nhưng vẫn chỉ là tương đối.

167. As stated, the higher mental plane occupies a midway position between those vibratory levels which from the human perspective are considered either rupa or arupa.

167. Như đã nói, cõi thượng trí ở vào vị trí ở giữa giữa các tầng rung động, vốn từ góc nhìn con người được xem là hoặc hữu tướng hoặc vô tướng.

FOOTNOTE 97:

CHÚ THÍCH 97:

Rupa  with form or body.

Rupa có hình tướng hay thân thể.

Arupa formless or bodiless.

Arupa vô tướng hay vô thân.

Generally speaking, the term rupa is applied to all forms in the three worlds whilst the term arupa is applied to all forms through which existences manifest on the four higher levels of the solar system and the abstract levels of the mental plane.

Nói chung, thuật ngữ rupa được áp dụng cho mọi hình tướng trong ba cõi giới trong khi thuật ngữ arupa được áp dụng cho mọi hình tướng mà qua đó các sự sống biểu lộ trên bốn cấp độ cao của hệ mặt trời và các cấp độ trừu tượng của cõi trí.

168. We must be cautious when speaking of “the three worlds”. So often this phrase indicates life upon the lower eighteen sub-planes. The higher mental plane is usually not considered part of life in the three worlds. This is the case from the perspective of the Planetary Logos and is the perspective indicated in the foregoing section of text.

168. Chúng ta phải cẩn trọng khi nói về “ba cõi giới”. Rất thường, cụm từ này chỉ đời sống trên mười tám cõi phụ thấp. Cõi thượng trí thường không được xem là một phần của đời sống trong ba cõi giới. Điều này đúng từ góc nhìn của Hành Tinh Thượng đế và cũng là góc nhìn được nêu trong phần văn bản trước đó.

169. However, from the solar logoic perspective, the three worlds include the egoic lotus and the higher mental plane.

169. Tuy nhiên, từ viễn kiến của Thái dương Thượng đế, ba cõi giới bao gồm cả hoa sen chân ngã và cõi thượng trí.

From this point of view the mental plane provides an inter­est­ing consideration: —its three higher subplanes are positive, and centralise the positive force of the plane.

Từ điểm nhìn này, cõi trí cung cấp một suy xét thú vị: —ba cõi phụ cao của nó là dương tính, và tập trung mãnh lực dương của cõi.

170. The egoic lotus, resident upon the higher mental plane, is a center of positivity when compared to the lunar forces of the personality.

170. Hoa sen chân ngã, ngụ trên cõi thượng trí, là một trung tâm dương tính khi so với các lực nguyệt tính của phàm ngã.

171. The fourth sub-plane of the mental plane is also a subplane of relative positivity and capacity for centralization. The mental unit, let us remember, is found there.

171. Cõi phụ thứ tư của cõi trí cũng là một cõi phụ mang tính dương tương đối và có năng lực trung tâm hóa. Hãy nhớ rằng đơn vị hạ trí được tìm thấy ở đó.

172. Upon the higher three sub-planes of the mental plane the positive force of the mental plane is centralized. A different kind of positive force is centralized on each of the three higher sub-planes.

172. Trên ba cõi phụ cao của cõi trí, mãnh lực dương của cõi trí được tập trung. Mỗi trong ba cõi phụ cao có một dạng mãnh lực dương được tập trung khác nhau.

This focussing of the positive affects the negative substance of the four lower planes and brings about likewise:

Sự tập trung dương tính này tác động lên chất liệu âm của bốn cõi thấp và đồng thời mang lại:

173. Here we are discussing the positive effects of that which emanates from the positive force centers on the higher mental plane. These influence of the positive focussing operates horizontally as well as with respect to the lower three worlds.

173. Ở đây chúng ta đang bàn về các hiệu ứng dương tính của những gì phát xuất từ các trung tâm dương lực trên cõi thượng trí. Sự ảnh hưởng của sự tập trung dương tính này vận hành theo chiều ngang cũng như đối với ba cõi thấp.

a. The formation of force centres on the causal levels, those force centres being egoic groups in their various divisions.

a. Sự hình thành các trung tâm lực trên các cấp độ nhân thể, những trung tâm lực ấy là các nhóm chân ngã theo các phân bộ khác nhau.

174. There are many egoic groups and these aggregations are qualitatively determined. Aggregations are formed on the basis of ray concentrations and probably on the basis of the number of petals unfolded. Probably monadic type (albeit behind the scenes) has something to do with the manner of aggregation of the egoic groups.

174. Có nhiều nhóm chân ngã và các kết tụ này được định đoạt theo phẩm tính. Các kết tụ được hình thành trên cơ sở các tập trung cung và có lẽ dựa trên số cánh hoa đã khai mở. Có lẽ loại hình chân thần (dẫu ở hậu cảnh) cũng liên hệ đến cách thức kết tụ của các nhóm chân ngã.

175. This formation of force centers is an effect that is confined to the higher mental plane and is not primarily an application of force to the lower mental sub-planes and planes still more inferior.

175. Sự hình thành các trung tâm lực này là một hiệu ứng bị giới hạn trong cõi thượng trí và chủ yếu không phải là một sự áp dụng lực lên các cõi phụ hạ trí và các cõi còn thấp hơn nữa.

b. The concretion of substance, or the building of the dense physical body of the Logos.

b. Sự kết tụ của chất liệu, hay việc kiến tạo thể xác đậm đặc của Thượng đế.

176. We must remember that the dense physical body of the Solar Logos includes the three sub-planes of the higher mental plane.

176. Chúng ta phải nhớ rằng thể xác đậm đặc của Thái dương Thượng đế bao gồm ba cõi phụ của cõi thượng trí.

177. Certain terms go together: centralization, focussing, formation and concretion.

177. Một số thuật ngữ đi đôi với nhau: trung tâm hóa, tập trung, hình thành và kết tụ.

178. We have been studying the “Law of Fixation” and must conclude that this fifth systemic law is intimately involved in the concretion process.

178. Chúng ta đã và đang khảo cứu “Định luật Cố Định” và phải kết luận rằng định luật hệ thống thứ năm này liên hệ mật thiết đến tiến trình kết tụ.

On the physical plane of the solar system an analogous process can be seen taking place as regards the physical [617] body of man, or his concrete manifestation.  In his case, the fourth subplane is the focal point of positive force.

Trên cõi hồng trần của hệ mặt trời có thể thấy một tiến trình tương tự đang diễn ra liên quan đến [617] thể xác của con người, hay sự hiện lộ cụ thể của y. Trong trường hợp của y, cõi phụ thứ tư là tiêu điểm của mãnh lực dương.

179. We have a sevenfold plane (etheric-physical) in which there are four superior divisions and a sevenfold plane (mental) in which there are three superior divisions.

179. Chúng ta có một cõi thất phân (dĩ thái–hồng trần) trong đó có bốn phân đoạn thượng, và một cõi thất phân (trí) trong đó có ba phân đoạn thượng.

180. The focusing of positive force on the three superior sub-planes of the systemic mental plane affects the four lower mental sub-planes. The focusing of positive force, especially on the fourth of the four etheric planes of the systemic etheric-physical plane, affects the three dense physical sub-planes.

180. Sự tập trung mãnh lực dương trên ba cõi phụ thượng của cõi trí hệ thống ảnh hưởng đến bốn cõi phụ hạ của cõi trí. Sự tập trung mãnh lực dương, đặc biệt trên cõi thứ tư trong bốn cõi dĩ thái của cõi dĩ thái–hồng trần hệ thống, ảnh hưởng đến ba cõi phụ hồng trần đặc.

181. If, of the four systemic ethers, there is one of them on which the focussing of positive force occurs, particularly, we could say the same of the three higher mental sub-planes. For advanced human beings and disciples who are still obliged to incarnate within the three lower worlds, the second sub-plane of the higher three mental sub-planes can reasonably be considered the “focal point of positive force”.

181. Nếu, trong bốn dĩ thái hệ thống, có một cõi mà trên đó sự tập trung dương lực xảy ra một cách đặc thù, thì chúng ta cũng có thể nói điều tương tự về ba cõi phụ thượng của cõi thượng trí. Với những con người tiến hóa và các đệ tử vẫn còn buộc phải nhập thể trong ba cõi thấp, cõi phụ thứ hai trong ba cõi phụ thượng của cõi thượng trí có thể được xem một cách hợp lý như “tiêu điểm của mãnh lực dương”.

On that plane are located the etheric centres of man, which have, in the evolutionary process and in the work of force direction, a relationship to his physical body similar to the relationship which groups of Egos on the mental plane have to the dense physical body of the Logos.  This is a profound occult hint.

Trên cõi đó đặt các trung tâm dĩ thái của con người, vốn trong tiến trình tiến hóa và trong công việc điều hướng lực, có một mối liên hệ với thể xác của y tương tự như mối liên hệ mà các nhóm Chân ngã trên cõi trí có đối với thể xác đậm đặc của Thượng đế. Đây là một ám chỉ huyền môn sâu xa.

182. Was this statement made before or after the shift of many of the Ashrams to the buddhic plane?

182. Mệnh đề này được đưa ra trước hay sau sự chuyển dịch của nhiều Đạo viện lên cõi Bồ đề?

183. Four of the etheric centers are located on the fourth systemic ether, and three more located (one each) on the three higher systemic ethers.

183. Bốn trung tâm dĩ thái nằm trên cõi dĩ thái hệ thống thứ tư, và thêm ba trung tâm nữa (mỗi trung tâm một cõi) nằm trên ba dĩ thái hệ thống cao hơn.

184. The main point to be gathered is that there is a close analogy between the four lower chakras of the human being and the groupings of Egos on the systemic higher mental plane.

184. Điểm chủ yếu cần rút ra là có một sự tương đồng mật thiết giữa bốn luân xa thấp của con người và các nhóm Chân ngã trên cõi thượng trí hệ thống.

185. Just as the chakras direct and animate the dense physical body of the man, so the “groups of Egos on the mental plane” direct and animate the dense physical body of the Logos.

185. Cũng như các luân xa điều hướng và sinh động hóa thể xác đậm đặc của con người, thì “các nhóm Chân ngã trên cõi trí” điều hướng và sinh động hóa thể xác đậm đặc của Thượng đế.

186. Again, we remember that the “dense physical body of the Logos” comprises the twenty-one lower systemic sub-planes of the cosmic physical plane. So, in a sense, the “groups of Egos” are within the field being controlled. This is not the case for the etheric chakras with respect to the lower three systemic sub-planes.

186. Một lần nữa, chúng ta nhớ rằng “thể xác đậm đặc của Thượng đế” bao hàm hai mươi mốt cõi phụ thấp của cõi hồng trần vũ trụ. Vậy, theo một nghĩa nào đó, “các nhóm Chân ngã” nằm trong trường lực đang được kiểm soát. Điều này không đúng đối với các luân xa dĩ thái khi xét đến ba cõi phụ hệ thống thấp.

187. It is probably truer to say that there are ashramic groupings on the buddhic plane which are as chakras to the lower twenty-one sub-planes of the cosmic physical plane, and that these buddhic-ashramic groupings are a closer analogy to the human chakras found on the fourth level of the systemic etheric plane.

187. Có lẽ nói đúng hơn là có các kết tụ Đạo viện trên cõi Bồ đề như các luân xa đối với hai mươi mốt cõi phụ thấp của cõi hồng trần vũ trụ, và rằng các kết tụ Đạo viện–Bồ đề này là một phép loại suy gần hơn với các luân xa của con người nằm trên cõi thứ tư của cõi dĩ thái hệ thống.

188. If we speak, however, of the Planetary Logos, then the groupings of Egos on the higher mental plane are more like chakric aggregations and direct and control the eighteen lower sub-planes which are, to the Planetary Logos, as the physical body is to man.

188. Tuy nhiên, nếu chúng ta nói về Hành Tinh Thượng đế, thì các kết tụ Chân ngã trên cõi thượng trí giống các kết tụ luân xa hơn và điều khiển cũng như quản trị mười tám cõi phụ thấp, vốn đối với Hành Tinh Thượng đế, như thể xác đối với con người.

189. The “groups of Egos” (like the chakras) are as animating centers when compared to lower, more receptive, more inert vibratory fields.

189. “Các nhóm Chân ngã” (như các luân xa) là những trung tâm sinh động hóa khi so với các trường rung động thấp hơn, tiếp nhận hơn, trơ ì hơn.

In the words “prana and the etheric body” (or life force and form) we have the key to the mystery of the solar and lunar pitris, and a hint as to the place of the physical body in the scheme of things.

Trong các từ “prana và thể dĩ thái” (hay sinh lực và hình tướng) chúng ta có chìa khóa cho huyền nhiệm về các thái dương tổ phụ và thái âm tổ phụ, và một ám chỉ về vị trí của thể xác trong cơ đồ vũ trụ.

190. DK is somewhat elaborating the hint He just gave.

190. Chân sư DK phần nào đang triển khai ám chỉ Ngài vừa đưa ra.

191. The etheric body is almost always listed as a principle, even though it is a vehicle. Perhaps we can gain some hint as to why this should be so.

191. Thể dĩ thái hầu như luôn được liệt vào một nguyên khí, dẫu nó là một vận cụ. Có lẽ chúng ta có thể nhận được một ám chỉ tại sao lại như thế.

192. “Prana” is the solar factor and the “etheric body” is the lunar.

192. “Prana” là yếu tố thái dương và “thể dĩ thái” là yếu tố nguyệt tính.

193. The Solar Pitris are particularly related to the pranic aspect and the Lunar Pitris (which are form builders in the lower three worlds) to the etheric body which is lunar in nature.

193. Các Thái dương Tổ phụ đặc biệt liên hệ với phương diện prana và các Thái âm Tổ phụ (vốn là những nhà kiến tạo hình tướng trong ba cõi thấp) với thể dĩ thái vốn có bản chất nguyệt tính.

194. It has been a question as to whether the etheric body should be considered solar or lunar. Perhaps the issue will be clarified if we consider the prana which animates the etheric body as “solar” and the actual etheric structure as lunar.

194. Từng có câu hỏi rằng thể dĩ thái nên được xem là thái dương hay nguyệt tính. Có lẽ vấn đề sẽ được sáng tỏ nếu chúng ta xem prana sinh động hóa thể dĩ thái là “thái dương” còn cấu trúc dĩ thái thực thụ là nguyệt tính.

195. As the physical body is automatically and magnetically gathered upon and into the structure of the etheric body, the dense physical body is clearly lunar in its nature. It is built upon a lunar form.

195. Vì thể xác được tập hợp một cách tự động và từ tính trên và vào cấu trúc của thể dĩ thái, nên thể xác đậm đặc rõ ràng mang bản chất nguyệt tính. Nó được kiến tạo trên một hình thể nguyệt tính.

196. Let us compare solar and lunar forces:

196. Chúng ta hãy so sánh các lực thái dương và nguyệt tính:

a. As the Ashrams on the buddhic plane are to the lower three sub-planes of the cosmic physical plane, so the chakras on the fourth sub-plane of the systemic etheric plane are to the lower three dense physical planes, so the Sun is to the Moon.

a. Như các Đạo viện trên cõi Bồ đề đối với ba cõi phụ thấp của cõi hồng trần vũ trụ, thì các luân xa trên cõi phụ thứ tư của cõi dĩ thái hệ thống đối với ba cõi hồng trần đặc, cũng như Mặt Trời đối với Mặt Trăng.

b. As the “groups of Egos” on the higher mental plane are to the eighteen lower systemic sub-planes of the cosmic physical plane, so the chakras on the fourth sub-plane of the systemic etheric plane are to the three dense physical planes, so the Sun is to the Moon.

b. Như “các nhóm Chân ngã” trên cõi thượng trí đối với mười tám cõi phụ hệ thống thấp của cõi hồng trần vũ trụ, thì các luân xa trên cõi phụ thứ tư của cõi dĩ thái hệ thống đối với ba cõi hồng trần đặc, cũng như Mặt Trời đối với Mặt Trăng.

c. A prana is to the structure of the etheric body, per se, so the Sun is to the Moon.

c. Như prana đối với cấu trúc của thể dĩ thái tự thân, thì Mặt Trời đối với Mặt Trăng.

d. As the vitality of Agni (manifesting on the cosmic etheric planes) is to the energy-forms to be found upon these higher etheric planes, so the Sun is to the Moon.

d. Như sinh lực của Agni (biểu lộ trên các cõi dĩ thái vũ trụ) đối với các dạng năng lượng được tìm thấy trên các cõi dĩ thái cao ấy, thì Mặt Trời đối với Mặt Trăng.

The solar Pitris and devas find their force expression most adequately through man, with all that is included in that term.

Các thái dương Tổ phụ và chư thiên thần tìm thấy sự biểu lộ lực của mình một cách đầy đủ nhất qua con người, bao hàm tất cả những gì thuộc về thuật ngữ ấy.

197. This suggests that man is more than human man; the Heavenly Men and the Grand Heavenly Man are also included. There are correspondingly larger and more inclusive Solar Pitris (logoic Solar Angels) to provide solar principles to these greater types of “Men”.

197. Điều này gợi ý rằng con người còn hơn cả con người nhân loại ; các Đấng Thiên Nhân và Đại Thiên Nhân cũng được bao gồm. Tương ứng tồn tại các Thái dương Tổ phụ lớn hơn (các Thái dương Thiên Thần thuộc cấp logoic) để cung ứng các nguyên khí thái dương cho những kiểu “Con Người” lớn lao hơn này.

198. Compared to the animal kingdom, man has become ‘solar’. This occurred at the moment of individualization. The number four (the number of the Human Kingdom) has a very close relation to the solar number, two.

198. So với giới động vật, con người đã trở nên ‘thái dương’. Điều này xảy ra vào thời điểm biệt ngã hóa. Con số bốn (số của Giới Nhân loại) có mối liên hệ rất gần với con số thái dương, hai.

They are the source of his self-consciousness,

Họ là nguồn gốc của tính tự thức của y,

199. Self-consciousness being a solar and Venusian factor in consciousness…

199. Tính tự thức là một yếu tố thái dương và Kim tinh trong tâm thức…

and it is their action upon the negative aspect which produces the human Ego (on a large scale, viewing them in their totality as cosmic force);

và chính tác động của họ lên phương diện âm tính đã tạo ra Chân ngã con người (xét trên quy mô lớn, khi xem toàn thể các Ngài như một mãnh lực vũ trụ);

200. The Solar Angels in Their totality are to be viewed as a “cosmic force”. We can understand this if we view Them as a stream of lives emanating from the star Sirius, where They were trained.

200. Các Thiên Thần Thái dương trong toàn thể của Các Ngài phải được xem như một “mãnh lực vũ trụ”. Chúng ta có thể hiểu điều này nếu xem Các Ngài như một dòng các sự sống phát xuất từ sao Sirius, nơi Các Ngài đã được huấn luyện.

201. From this perspective, “Prometheus” is a “cosmic force”.

201. Từ viễn kiến này, “Prometheus” là một “mãnh lực vũ trụ”.

202. The human Ego (within the causal body) was produced from the moment of individualization. We do not know the exact timing of the process. Perhaps the causal body/egoic lotus was built on the higher mental plane before the stream of ‘light-love-power’ was shot forth towards the brain of animal man. If that ‘arrow of light’ anchored in the brain of animal man, it certainly first anchored in his etheric brain.

202. Chân ngã con người (trong thể nguyên nhân) được tạo ra kể từ khoảnh khắc biệt ngã hóa. Chúng ta không biết chính xác thời điểm của tiến trình. Có lẽ thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã đã được kiến tạo trên cõi thượng trí trước khi dòng ‘quang-ái-lực’ được phóng ra hướng về bộ não của người thú. Nếu ‘mũi tên ánh sáng’ ấy được ghim vào bộ não của người thú, thì chắc chắn trước hết nó được ghim vào bộ não dĩ thái của y.

it is their action upon the negative or mother aspect which, on cosmic levels, produces that Self-con­scious Unity, a solar Logos, functioning through His physical vehicle.

chính tác động của họ lên phương diện âm hay phương diện Mẹ mà, trên các cấp độ vũ trụ, sản sinh ra Hợp Nhất Tự thức ấy, một Thái dương Thượng đế, vận hành qua vận cụ hồng trần của Ngài.

203. We are now speaking of higher orders of Solar Angels and of greater streams of these lives than engaged with man, the individual.

203. Giờ đây chúng ta đang nói về những cấp bậc cao hơn của các Thiên Thần Thái dương và về những dòng sự sống lớn lao hơn tham dự so với những vị gắn bó với con người cá nhân.

204. Such action on cosmic levels calls for the existence of ‘Cosmic Solar Angels’.

204. Tác động như vậy trên các cấp độ vũ trụ đòi hỏi sự hiện hữu của ‘Các Thiên Thần Thái dương Vũ trụ’.

205. The Solar Angels engaged with man have a very strong expression of buddhic energy; the same must be true of the ‘Cosmic Solar Angels’ and these great Angels must draw sustenance from the cosmic buddhic plane.

205. Các Thiên Thần Thái dương gắn với con người có một biểu lộ mạnh mẽ của năng lượng Bồ đề; điều tương tự hẳn đúng với ‘Các Thiên Thần Thái dương Vũ trụ’ và các Đại Thiên Thần này hẳn phải được nuôi dưỡng từ cõi Bồ đề vũ trụ .

206. When speaking of the production of a solar system (especially the first minor solar system, some five solar systems ago) we must be speaking of a kind of logoic individualization.

206. Khi nói về sự tạo sinh một hệ mặt trời (đặc biệt là hệ mặt trời phụ thứ nhất, khoảng năm hệ mặt trời về trước) chúng ta hẳn đang nói về một dạng biệt ngã hóa ở cấp logoic.

207. The Greater Solar Angel’s produce a “Self-conscious Unity” (a Solar Logos incarnating in a solar system); the lesser Solar Angels produce a “self-conscious unity” known as a “Son of Man”—a lesser solar being incarnating in a human etheric-physical body.

207. Các Thiên Thần Thái dương Lớn tạo ra một “Hợp Nhất Tự thức” (một Thái dương Thượng đế nhập thế trong một hệ mặt trời); các Thiên Thần Thái dương nhỏ hơn tạo ra một “hợp nhất tự thức” được gọi là “Con của Nhân loại”—một sinh linh thái dương thấp hơn nhập thể trong một thể dĩ thái–hồng trần của con người.

208. The analogy between the processes of the Solar Logos and those of man are quite close and, therefore, very instructive.

208. Phép loại suy giữa các tiến trình của Thái dương Thượng đế và của con người khá gần, và vì thế, rất nhiều điều đáng suy ngẫm.

From the Christian standpoint, the greater Builders are the Holy Spirit, or force overshadowing and fecundating matter, whilst the negative or lesser Builders correspond to the Virgin Mary.

Từ lập trường Ki-tô giáo, các Nhà Kiến Tạo lớn hơn là Chúa Thánh Thần, hay mãnh lực phủ bóng và khai sinh vật chất, trong khi các Nhà Kiến Tạo âm hay nhỏ hơn tương ứng với Đức Trinh Nữ Maria.

209. This is quite a remarkable statement. The Holy Spirit, then, is a collection of energies (‘Agnic’ energies) from the cosmic etheric planes. The “Virgin Mary” constitutes the material, negative energies of the lower twenty-one systemic sub-planes of the cosmic physical plane. Or from the planetary logoic perspective, the lower eighteen systemic sub-planes.

209. Đây quả là một mệnh đề đáng chú ý. Chúa Thánh Thần, vậy thì, là một tập hợp các năng lượng (‘năng lượng của Agni’) đến từ các cõi dĩ thái vũ trụ. “Đức Trinh Nữ Maria” cấu thành các năng lượng âm tính, vật chất của hai mươi mốt cõi phụ hệ thống thấp của cõi hồng trần vũ trụ. Hoặc, xét từ lập trường hành tinh, là mười tám cõi phụ hệ thống thấp.

210. For man in his physical body, Holy Spirit energies are conducted particularly through the four systemic etheric sub-planes.

210. Đối với con người trong thể xác, các năng lượng Chúa Thánh Thần được dẫn truyền đặc biệt qua bốn cõi phụ dĩ thái hệ thống.

The lunar Pitris, and lesser builders from the systemic point of view find their fullest expression in the animal kingdom.

Các thái âm Tổ phụ, và các nhà kiến tạo thứ yếu xét từ quan điểm hệ thống, tìm thấy sự biểu lộ trọn vẹn nhất của họ trong giới động vật.

211. The Moon is closely connected with the number three. The Moon-chain was the third. The animal kingdom is the third kingdom—hence the analogy.

211. Mặt Trăng liên hệ mật thiết với con số ba. Dãy Mặt Trăng là dãy thứ ba. Giới động vật là giới thứ ba—do đó phép loại suy.

When they, as the initiatory impulse, had produced animal man they had performed their prime function,

Khi họ, như xung lực khởi nguyên, đã tạo ra người thú, họ đã hoàn tất chức năng tối sơ của mình,

212. Each group of lives has its highest creative work. The production of the form of animal man was the highest creative work of the “lunar Pitris”.

212. Mỗi nhóm sự sống đều có công trình sáng tạo cao nhất của mình. Tạo ra hình tướng của người thú là công trình sáng tạo cao nhất của “các Thái âm Tổ phụ”.

213. We must remember that the Moon falls in Scorpio (the sign most associated with the human kingdom and the Fourth Creative Hierarchy).

213. Chúng ta phải nhớ rằng Mặt Trăng rơi vào Hổ Cáp (dấu hiệu liên hệ nhiều nhất với Giới Nhân loại và Huyền Giai Sáng Tạo Thứ tư).

214. The destiny of the Fourth Creative Hierarchy is, occultly, to bring about the downfall of the Moon.

214. Định mệnh của Huyền Giai Sáng Tạo Thứ tư là, theo huyền nghĩa, mang lại sự suy tàn của Mặt Trăng.

and just as (on a smaller scale and in connection with only one of the Heavenly Men) the moon is a dying and decadent world,

và cũng như (trên thang nhỏ hơn và chỉ liên hệ với một trong các Đấng Thiên Nhân) Mặt Trăng là một thế giới tàn tạ và suy đồi,

215. DK seems to be hinting that the presence of a decadent Moon (of the nature of our Moon) is only the case with our own Heavenly Man.

215. Chân sư DK dường như ám chỉ rằng sự hiện hữu của một Mặt Trăng suy tàn (như Mặt Trăng của chúng ta) chỉ đúng với chính Đấng Thiên Nhân của chúng ta.

so on a systemic scale and therefore covering a vast period of time, the work of the lunar Pitris is slowly coming to a conclusion as the power of the third kingdom, the animal, over the human is being [618] superseded by spiritual power; the systemic correspondence to lunar pitric activity will occultly die out.

thì trên thang hệ thống và do đó bao trùm một chu kỳ khổng lồ, công việc của các Thái âm Tổ phụ đang chậm rãi đi đến kết cuộc khi quyền lực của giới thứ ba, giới thú, đối với con người đang [ 618] bị quyền lực tinh thần thay thế ; đối ứng hệ thống của hoạt động thái âm tổ phụ sẽ một cách huyền môn tàn lụi.

216. We have three instances of dying out.

216. Chúng ta có ba trường hợp tàn lụi.

a. The Moon of the Earth-scheme is slowly disintegrating and dissipating

a. Mặt Trăng của hệ hành tinh Địa Cầu đang từ từ phân rã và tiêu tán

b. The “lunar pitric activity” in our solar system is slowly occultly dying out

b. “Hoạt động thái âm tổ phụ” trong hệ mặt trời của chúng ta đang chậm rãi tàn lụi trên bình diện huyền môn

c. The “cosmic Moon” which is the remnant of the previous solar system, is also in process if disintegration and dissipation. (cf. TCF 1112).

c. “Mặt Trăng vũ trụ” là tàn dư của hệ mặt trời trước kia cũng đang trong tiến trình phân rã và tiêu tán. (x. Luận về Lửa Vũ Trụ 1112).

217. DK speaks of a “vast period of time” when thinking in terms of the duration of our solar system. Does He seem to be hinting at the accuracy of the huge figures appearing the Hindu Chronology?

217. Chân sư DK nói về một “chu kỳ khổng lồ” khi nghĩ theo thời lượng của hệ mặt trời chúng ta. Có vẻ Ngài ám chỉ độ xác đáng của những con số khổng lồ trong niên biểu Ấn giáo?

218. We may be speaking of the etherealization of the matter of our solar system. The animal kingdom depends upon gross bodies made of the stuff of a previous solar system. This is not the case for man, who can exist as man while focussed on higher planes.

218. Chúng ta có thể đang nói về sự dĩ thái hóa của chất liệu hệ mặt trời chúng ta. Giới động vật phụ thuộc vào các thể thô trọc được kết bằng vật chất của một hệ mặt trời trước kia. Điều này không đúng với con người, vì y có thể tồn tại như con người trong khi định trí trên các cõi cao.

219. Already on our plane, man is gaining ascendancy over the animal kingdom. This is symbolic of the gradual dying out of “lunar pitric activity” upon our plane and, thus, within our planetary scheme.

219. Ngay trên cõi của chúng ta, con người đã và đang thắng thế đối với giới động vật. Điều này tượng trưng cho sự tàn lụi dần của “hoạt động thái âm tổ phụ” trên cõi chúng ta và, như vậy, trong hệ hành tinh của chúng ta.

220. This dying out is also in evidence when the lower animal nature of man can no longer express.

220. Sự tàn lụi này cũng hiển lộ khi bản chất thú thấp của con người không còn có thể biểu lộ.

221. Lunar power is not “spiritual power”. Life within our Earth-chain represents the tipping point in the battle between the Sun and the Moon as it occurs within our planetary scheme.

221. Quyền lực nguyệt tính không phải là “quyền lực tinh thần”. Đời sống trong Dãy Địa Cầu đại diện điểm bẻ gãy trong trận chiến giữa Mặt Trời và Mặt Trăng khi nó diễn ra trong hệ hành tinh của chúng ta.

222. Mars and the Moon (both symbolic of the animal kingdom) are left outside the door of the Temple of Initiation.

222. Sao Hỏa và Mặt Trăng (đều tượng trưng cho giới động vật) bị bỏ lại ngoài cửa Đền Điểm Đạo.

The lunar Pitris,98,99 the builders of man’s lunar body and their correspondence in the other kingdoms of nature, are the sumtotal of the dense physical body of the Logos,

Các Thái âm Tổ phụ,98,99 những nhà kiến tạo thể nguyệt tính của con người và các đối ứng của họ trong các giới khác của thiên nhiên, là tổng số của thể xác đậm đặc của Thượng đế,

223. Lunar life is densely material. The subtle vehicles of man (built by the Lunar Ancestors) are also densely physical from the logoic standpoint.

223. Sự sống nguyệt tính là đậm đặc một cách vật chất. Các thể vi tế của con người (được các Tổ tiên Nguyệt tính kiến tạo) cũng đậm đặc về phương diện thể xác nếu xét từ lập trường logoic.

224. In esoteric astrology, the Moon represents the most dense of all the vehicles—the dense physical body.

224. Trong chiêm tinh học nội môn, Mặt Trăng đại diện cho vận cụ đậm đặc nhất—thể xác đậm đặc.

225. From this perspective, the “dense physical body of the Logos” (lunarly dense) comprises only eighteen sub-planes, because there are no lunar pitris of the systemic type to be found upon the higher three systemic mental sub-planes.

225. Từ viễn kiến này, “thể xác đậm đặc của Thượng đế” (đậm đặc theo nguyệt tính ) chỉ bao gồm mười tám cõi phụ, vì không có các thái âm tổ phụ thuộc hệ thống nào được tìm thấy trên ba cõi phụ cao của cõi thượng trí hệ thống.

226. If we preserve the idea that even the three higher mental systemic sub-planes are a part of the dense physical body of the Logos (and it is a sound idea), then we shall simply have to say that there is one aspect of that dense physical body which is not lunar.

226. Nếu chúng ta giữ quan niệm rằng ngay cả ba cõi phụ cao của cõi thượng trí hệ thống cũng là một phần của thể xác đậm đặc của Thượng đế (và đó là một ý tưởng vững vàng), thì chúng ta sẽ phải nói rằng có một phương diện của thể xác đậm đặc ấy vốn không mang tính nguyệt.

227. As the Solar Logos grows out of his dense physical body (even as man will one day have no need for his own dense physical body) so the Lunar Pitris will no longer be a part of the His form expression.

227. Khi Thái dương Thượng đế vượt ra khỏi thể xác đậm đặc của Ngài (cũng như một ngày kia con người sẽ không còn cần đến thể xác đậm đặc của mình), thì các Thái âm Tổ phụ sẽ không còn là một phần của biểu lộ hình tướng của Ngài.

228. From a higher point of view, there are ‘Cosmic Lunar Pitris’, all forms to be found upon the cosmic etheric planes, the cosmic astral plane and the lower cosmic mental plane are ‘Lunar’ from the cosmic perspective. This means that the lives which form these planes are negative and receptive to still higher more impulsive Lives.

228. Từ một điểm nhìn cao hơn, có ‘các Thái âm Tổ phụ Vũ trụ’, mọi hình tướng được tìm thấy trên các cõi dĩ thái vũ trụ, cõi cảm dục vũ trụ và phần thấp của cõi trí vũ trụ đều ‘nguyệt tính’ nếu xét từ viễn kiến vũ trụ. Điều này có nghĩa là các sự sống cấu thành những cõi này là âm và tiếp nhận đối với các Sự Sống cao hơn, mang tính xung lực hơn nữa.

or the substance of the mental, astral and physical planes (the gaseous, liquid and dense bodies which form a unity, His physical vehicle, viewing it apart from the etheric).

hay chất liệu của các cõi trí, cảm dục và hồng trần (các thể khí, lỏng và đặc vốn hợp thành một nhất thể, vận cụ thể xác của Ngài, nếu tạm gác thể dĩ thái sang một bên).

229. Much is concealed in this little section and somewhat which seems to contradict HPB when she earlier linked the principle of lower mind to the Solar Pitris.

229. Có nhiều điều được che giấu trong đoạn nhỏ này, và phần nào dường như mâu thuẫn với Bà HPB khi trước đó Bà liên hệ nguyên khí của hạ trí với các Thái dương Tổ phụ.

230. We notice how the “etheric body” is excluded from the unity. The systemic etheric plane is in an ambiguous position.

230. Chúng ta nhận thấy thể “dĩ thái” bị loại khỏi nhất thể. Cõi dĩ thái hệ thống ở một vị thế mơ hồ.

a. It is composed of lunar substance and the devas there to be found are related to Cancer and the Moon

a. Nó được cấu thành bởi chất liệu nguyệt tính và các chư thiên thần ở đó liên hệ với Cự Giải và Mặt Trăng

b. It is a reflector of the very solar egoic lotus

b. Nó là một tấm gương phản chiếu hoa sen chân ngã rất thái dương

c. The prana which animates it is closely related to the Sun and to everything solar.

c. Prana sinh động hóa nó liên hệ mật thiết với Mặt Trời và mọi thứ thái dương.

231. Therefore, when dealing with the lower four systemic etheric sub-planes, we have to study the context in which they are being to discussed, to see whether they are being presented as lunar or solar factors.

231. Do đó, khi xử lý bốn cõi phụ dĩ thái hệ thống thấp, chúng ta phải khảo xét ngữ cảnh trong đó chúng đang được bàn đến, để xem chúng được trình bày như những yếu tố nguyệt tính hay thái dương.

232. The best assessment, so it seems, is to consider its structure as lunar and the pranic energy which pours through it as solar.

232. Đánh giá hợp lý nhất, có vẻ như, là xem cấu trúc của nó là nguyệt tínhnăng lượng prana tuôn chảy xuyên qua nó là thái dương .

233. Yet when compared to the usual lunar elementals (physical, astral and mental) it is in a category of its own.

233. Tuy vậy, khi so với các hành khí nguyệt tính thông thường (hồng trần, cảm dục và trí), nó thuộc một phạm trù riêng.

234. The etheric body, in general can be considered a kind of ‘outpost of the Sun within the realm of the Moon’.

234. Nói chung, thể dĩ thái có thể được xem như một dạng ‘tiền đồn của Mặt Trời trong cõi vực của Mặt Trăng’.

235. Also, from what is said, it is clear that the lower mind is to be considered lunar in nature—i.e., as one of the lunar elementals of the human personality.

235. Cũng từ những gì được nói, rõ ràng hạ trí phải được xem là nguyệt tính —tức là, như một trong các hành khí nguyệt tính của phàm ngã con người.

They are the product of an earlier solar system; their activities date from there.

Chúng là sản phẩm của một hệ mặt trời trước; các hoạt động của chúng phát nguyên từ đó.

236. We note that DK did not say, ‘the product of the previous solar system’, because there were a number of solar systems (preceding our own) through which the Solar Logos expressed in a lunar manner.

236. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư DK không nói, ‘sản phẩm của hệ mặt trời trước đó ’, vì đã có một số hệ mặt trời (đi trước hệ hiện tại) qua đó Thái dương Thượng đế biểu lộ theo một cách nguyệt tính .

237. In any case, lunar substance is ‘old’ and came from forms though which our Solar Logos manifested in cycles long past.

237. Dù sao, chất liệu nguyệt tính là ‘cũ’ và đến từ những hình tướng mà qua đó Thái dương Thượng đế của chúng ta đã biểu lộ trong các chu kỳ xa xưa.

FOOTNOTE 98:

CHÚ THÍCH 98:

The Lunar, or Barhishad Pitris have the following function:—S. D., II, 99.

Các Thái âm, hay Barhishad Tổ phụ có các chức năng sau:—G. L. B. N., II, 99.

1.   They are the Ancestors of Man.—S. D., II, 107.

1. Họ là Tổ tiên của Con Người.—G. L. B. N., II, 107.

238. “Ancestors” are positive, emanative centers of force.

238. “Tổ tiên” là các trung tâm lực mang tính dương, xuất lộ.

2. They are the Fashioners of his form.

2. Họ là những Người Nắn Tạo hình tướng của y.

239. This form being his lower form…

239. Hình tướng này là hình tướng thấp của y…

3. They possessed the physical creative fire.

3. Họ sở hữu lửa sáng tạo thể xác.

240. This is not the fire of self-consciousness.

240. Đây không phải là ngọn lửa của tính tự thức.

4. They could only clothe the human monads.

4. Họ chỉ có thể khoác hình cho các chân thần nhân loại.

241. Their action occurs at a time when the Solar Angels had not yet intervened to help the Monads become Self-consciously expressive in the lower worlds.

241. Hành động của họ diễn ra vào thời điểm khi các Thiên Thần Thái dương chưa can thiệp để giúp các Chân Thần trở nên biểu lộ một cách Tự thức trong các cõi thấp.

5. They could not make man in their likeness.

5. Họ không thể làm ra con người theo hình dạng của chính họ.

242. We have to determine whether they had mind to give. Some of the greater beings associated with them, apparently, did have mind but no love.

242. Chúng ta phải xác định xem họ có trí để cho hay không. Một số vị lớn lao hơn liên kết với họ, rõ ràng, có trí nhưng không có tình thương.

243. Also, it was not intended that man should be made in their likeness.

243. Hơn nữa, không hề có ý định rằng con người sẽ được tạo ra theo hình dạng của họ.

6. They could not give him mind.—S. D., II, 82.

6. Họ không thể ban cho y trí.—G. L. B. N., II, 82.

244. This was the task of the Solar Pitris.

244. Đó là nhiệm vụ của các Thái dương Tổ phụ.

245. The Lunar Pitris made copies of their form natures, but did not and could not convey self-consciousness.

245. Các Thái âm Tổ phụ tạo ra các bản sao của bản chất hình tướng của họ, nhưng không và không thể truyền đạt tính tự thức.

7. They build his external form.

7. Họ kiến tạo hình tướng bên ngoài của y.

246. This was a shadowing, filmy, quasi-etheric form.

246. Đó là một hình tướng lờ mờ, như sương, bán dĩ thái.

8. They give the lower principle.

8. Họ ban cho nguyên khí thấp.

247. We note that the term is not “principles”; it would seem that the Lunar Pitris gave the etheric form upon which the outer more physical form could be built.

247. Chúng ta lưu ý rằng thuật ngữ không phải là “các nguyên khí”; dường như các Thái âm Tổ phụ đã ban cho hình thức dĩ thái mà trên đó hình tướng bên ngoài đậm đặc hơn có thể được kiến tạo.

248. Again, it must be asked whether these ‘Creators’ give any principle whatsoever or only the vehicles through which the principles can manifest.

248. Một lần nữa, phải đặt câu hỏi liệu các ‘Đấng Tạo Hóa’ này có ban bất kỳ nguyên khí nào hay chỉ ban các vận cụ mà qua đó các nguyên khí có thể biểu lộ.

FOOTNOTE 99:

CHÚ THÍCH 99:

Temporarily they are the Conquerors of Spirit.—S. D., II, 66.

Tạm thời họ là những Kẻ Chinh phục Chân thần.—G. L. B. N., II, 66.

249. The conquest is temporary and only abides so long as the World of Illusion can power over the incarnating Jiva.

249. Sự chinh phục là tạm thời và chỉ còn hiệu lực chừng nào Thế giới Ảo tưởng còn có thể áp lực lên Jiva đang nhập thể.

a. Spirit becomes immersed in material forms.

a. Chân thần trở nên đắm chìm trong các hình tướng vật chất.

250. This is necessary if the Divine Purpose is to be enacted through the Divine Plan. “Except a kernel of wheat falleth in the ground and perisheth…”

250. Điều này là cần thiết nếu Thiên Ý được thể hiện qua Thiên Cơ. “Nếu hạt lúa mì không rơi xuống đất mà chết đi…”

b. Forms are the battle ground.

b. Hình tướng là bãi chiến địa.

251. Form-consciousness is separative. It does not perceive the underlying unity and hence the struggle.

251. Tâm thức-hình tướng là phân ly. Nó không tri nhận được hợp nhất căn bản và do vậy mới có tranh đấu.

c. Eventually Spirit will slay the forms.—S. D., II, 67.

c. Cuối cùng Chân thần sẽ sát trừ các hình tướng.—G. L. B. N., II, 67.

252. This occurs by means of the process of initiation.

252. Điều này xảy ra qua tiến trình điểm đạo.

d. Note the esoteric order.

d. Lưu ý trật tự huyền môn.

253. Matter/illusion slays Spirit; only later, upon the returning arc, does Spirit slay matter illusion.

253. Vật chất/ảo tưởng sát trừ Chân thần; chỉ về sau, trên cung Trở Về, Chân thần mới sát trừ ảo tưởng vật chất.

—S. D., II, 88, 92, 100; II, 116.

—G. L. B. N., II, 88, 92, 100; II, 116.

That system stands to the present one as the lunar chain to ours.  That is why the physical body is considered no principle (either for man or the solar Logos);

Hệ đó tương quan với hệ hiện tại như Dãy Mặt Trăng tương quan với dãy của chúng ta. Đó là lý do vì sao thể xác bị xem là không phải là một nguyên khí (dù đối với con người hay Thái dương Thượng đế);

254. The past is unprincipled. A principle is an energy bearing a definite ‘unit of purposeful intent’ of a higher Creative Power. The past bears a pattern which contains no ‘unit of purposeful intent’. The purpose of past structures has been served.

254. Quá khứ là không-nguyên-khí. Một nguyên khí là một năng lượng mang một ‘đơn vị chủ đích’ nhất định của một Quyền Năng Sáng Tạo cao hơn. Quá khứ chỉ mang một mẫu hình không chứa ‘đơn vị chủ đích’. Mục đích của các cấu trúc quá khứ đã hoàn tất.

that is why the lower nature is considered evil, and why man must “slay his lunar body.

đó là lý do vì sao bản chất thấp bị xem là ác, và vì sao con người phải “sát trừ thể nguyệt tính” của mình.

255. World mythology is full of stories representing this perennial combat. Every time St. George slays the Dragon we have the same conflict reenacted.

255. Thần thoại thế giới đầy rẫy những câu chuyện biểu trưng cho cuộc đấu tranh trường cửu này. Mỗi lần Thánh George sát trừ Rồng, chúng ta lại thấy cùng một xung đột được tái hiện.

256. To follow “evil” tendencies would drag us back into fields of energy/force in the midst of which we cannot receive the intended energy endowment of the present.

256. Nếu chiều hướng “ác” được theo đuổi thì nó sẽ kéo chúng ta trở lùi vào những trường năng lượng/lực mà ở giữa đó chúng ta không thể tiếp nhận sự phú ban năng lượng dự định của hiện tại.

257. St. Paul certainly realized this. He was, we are told, a Scorpio individual and certainly knew what it must mean for the Moon for “fall” in Scorpio.

257. Thánh Phao-lô hẳn đã thấy rõ điều này. Người ta nói Ngài là một cá nhân Hổ Cáp và hẳn hiểu nó có nghĩa gì đối với Mặt Trăng khi “sa hãm” trong Hổ Cáp.

1   Evil is that which can be controlled and subdued but which is permitted to govern. 

1 Ác là cái có thể bị kiểm soát và khuất phục nhưng lại được cho phép cai trị.

258. This is a brilliant definition of “evil”. There is no evil if negative and retrogressive forces are too strong to be controlled and subdued.

258. Đây là một định nghĩa tuyệt diệu về “ác”. Không có ác nếu các lực âm tính và thoái hóa quá mạnh để có thể bị kiểm soát và khuất phục.

259. But if they are allowed to govern—if the choice is made to give them scope rather than suppress them—then the will has chosen to ally itself with that which will not bring to pass the intended good. That choice would be an evil choice and the actions resulting from that evil choice would be evil.

259. Nhưng nếu chúng được cho phép cai trị—nếu lựa chọn được đưa ra là để chúng có đất dụng võ thay vì chế ngự chúng—thì ý chí đã chọn liên minh với cái sẽ không mang lại thiện ích dự định. Lựa chọn ấy sẽ là một lựa chọn ác và những hành động phát sinh từ lựa chọn ác ấy sẽ là ác.

The positive can always manipulate the negative.  When the negative line is followed and the line of least resistance to that which is no principle, is pursued, then we have evil.

Cái dương luôn có thể thao luyện cái âm. Khi đường lối âm được theo và con đường ít trở ngại nhất dẫn đến cái không phải nguyên khí bị đeo đuổi, thì chúng ta có ác.

260. So the appearance of evil is a matter related to will and to capacity. When the will is present but the capacity to thwart evil is missing, there is no evil.

260. Vậy sự xuất hiện của ác là vấn đề liên hệ đến ý chí và năng lực. Khi ý chí hiện diện nhưng năng lực để ngăn chặn cái ác vắng mặt, thì không có ác.

261. But where the capacity to thwart the appearance of evil is present, but the will to do so is not present, then there is evil.

261. Nhưng nơi nào năng lực để ngăn chặn cái ác hiện diện, còn ý chí để làm vậy lại không hiện diện, thì ở đó có ác.

262. It is all a question of choice. Thus, only those who have the power of conscious choice can be consciously evil.

262. Tất cả là vấn đề của lựa chọn. Do đó, chỉ những ai có quyền năng lựa chọn có ý thức mới có thể ác một cách có ý thức.

In the first solar system the negative substance aspect, the Mother aspect or matter, was perfected.  The lower Pitris dominated. 

Trong hệ mặt trời thứ nhất, phương diện chất liệu âm tính, phương diện Mẹ hay vật chất, đã được hoàn thiện. Các Tổ phụ thấp đã thống trị.

263. These residual lives are, therefore, every old.

263. Do đó, các sự sống tàn dư này, rất già dặn.

264. I think we can see why any reversion to domination by the Mother aspect or by the lower devas would be evil in light of God-the-Solar-Logos’ present intentions.

264. Tôi nghĩ chúng ta có thể thấy vì sao bất kỳ sự quay lại sự thống trị của phương diện Mẹ hay của các thiên thần thấp đều là ác xét theo ý định hiện tại của Thượng đế–Thái dương Thượng đế.

In this system force activity lies in the hands of the solar Pitris or greater devas. 

Trong hệ này, hoạt động mãnh lực nằm trong tay các Thái dương Tổ phụ hay các chư thiên thần lớn.

265. We are living in a very solar solar system and the lunar forces or forces of form are definitely on the wane and are considered (compared with what must be accomplished in this solar system) evil.

265. Chúng ta đang sống trong một hệ mặt trời rất thái dương và các lực nguyệt tính hay các lực hình tướng chắc chắn đang suy tàn và (so với những gì phải được hoàn tất trong hệ này) bị xem là ác.

At the close of the mahamanvantara they will have built according [619] to the plan a perfect sheath or vehicle of expression for the Divine Thought, and this through the manipulation of negative substance;

Vào cuối Đại giai kỳ sinh hóa, họ sẽ đã kiến tạo theo [619] Thiên Cơ một bao thể hay vận cụ hoàn hảo để biểu lộ Tư tưởng Thiêng liêng, và điều này thông qua việc thao luyện chất liệu âm;

266. We see that negative substance may still very much present and that the “solar Pitris” or “greater devas” must engage with it, using it as the substance of their building.

266. Chúng ta thấy rằng chất liệu âm vẫn có thể hiện diện rất nhiều và rằng “các Thái dương Tổ phụ” hay “các thiên thần lớn” phải tương tác với nó, dùng nó như chất liệu để kiến tạo.

267. Yet, from another perspective, there may be no lunar substance by the end of the Mahamanvantara, and the “perfect sheath or vehicle of expression for the Divine Thought” may be on a higher and more solar plane altogether, and there reach its perfection.

267. Tuy vậy, từ một viễn kiến khác, đến cuối Đại giai kỳ sinh hóa có thể không còn chất liệu nguyệt tính , và “bao thể hay vận cụ hoàn hảo để biểu lộ Tư tưởng Thiêng liêng” có thể hoàn toàn thuộc về một cõi cao hơn, mang tính thái dương hơn, và tại đó đạt sự hoàn hảo.

268. The building of a perfect sheath may be seen to accord with attaining that level of development where the fourth initiation can be taken. Let us remember that four is a number deeply associated with perfection.

268. Sự kiến tạo một bao thể hoàn hảo có thể được xem là tương ứng với việc đạt đến cấp độ tiến hóa nơi có thể thọ lần điểm đạo thứ tư. Hãy nhớ rằng bốn là con số gắn sâu với sự hoàn hảo.

269. Yet, we must remember that there are references pointing to the possibility that the Solar Logos will take the fifth cosmic initiation in this solar system.

269. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhớ rằng có những chỉ dẫn nói đến khả năng Thái dương Thượng đế sẽ thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ năm trong hệ này.

270. Whether He takes the fourth or the fifth initiation, there will come a time when the Moon “falls” systemically and when, therefore, lunar vehicles may no longer be needed. A lunar-like Mayavirupa could be built by the projective powers of the Solar Logos, but this would not be the same as original lunar vehicles. Through such a solar logoic Mayavirupa, the very highest and the very lowest could, conceivably, meet.

270. Dù Ngài thọ lần thứ tư hay thứ năm, sẽ có một thời điểm khi Mặt Trăng “sa hãm” trên bình diện hệ thống và do đó các vận cụ nguyệt tính có thể không còn cần thiết. Một Mayavirupa kiểu nguyệt tính có thể được kiến tạo bằng các quyền năng phóng chiếu của Thái dương Thượng đế, nhưng điều này sẽ không giống với các vận cụ nguyệt tính nguyên sơ. Qua một Mayavirupa mang tính thái dương như vậy của Thái dương Thượng đế, điều tối cao và điều tối hạ có thể, về mặt khả niệm, gặp gỡ nhau.

they utilise the heat of the Mother to nourish the germ of the Divine Thought, and to bring it to fruition.

họ vận dụng nhiệt của Mẹ để nuôi mầm của Tư tưởng Thiêng liêng, và đưa nó đến chỗ kết quả.

271. We are speaking of nourishing the “germ of Divine Thought” in matter.

271. Ở đây chúng ta đang nói về việc nuôi dưỡng “mầm của Tư tưởng Thiêng liêng” trong vật chất.

272. The “heat of the Mother” is the sumtotal of lower fires—latent heat and active heat, and possibly mental elemental fire.

272. “Nhiệt của Mẹ” là tổng số của các lửa thấp—nhiệt tiềm tàng và nhiệt hoạt động, và có thể cả hỏa hành khí trí tuệ.

273. The principle to be understood is that heat is needed to bring thought to fruition.

273. Nguyên tắc cần được thấu hiểu là: cần có nhiệt để đưa tư tưởng đến chỗ kết quả.

274. Heat is associated with the atmic plane, the plane of Brahma Who is so engaged with the Mother aspect.

274. Nhiệt liên hệ với cõi atma, cõi của Brahma, Đấng gắn bó mật thiết với phương diện Mẹ.

275. At some time before the destruction of the solar logoic causal body, the Divine Thought will find quite full expression through the substances of the solar logoic lunar vehicles. As long as the “lowest” exists, there must come a time when, relatively, “The Highest and the Lowest Meet”.

275. Vào một thời điểm nào đó trước khi thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế bị phá hủy, Tư tưởng Thiêng liêng sẽ tìm thấy biểu lộ khá viên mãn qua các chất liệu của các vận cụ nguyệt tính logoic. Chừng nào “cõi thấp nhất” còn tồn tại, thì tất yếu sẽ có thời điểm, xét tương đối, “Điều Tối Cao và Điều Tối Hạ Gặp Nhau”.

When the germ has developed to maturity the Mother aspect no longer has a place, and the Man occultly is freed or liberated.

Khi mầm đã phát triển đến độ thành thục, phương diện Mẹ không còn chỗ đứng nữa, và Con Người theo huyền môn được giải phóng hay giải thoát.

276. Even in the tiny cycle of human life this process is to be noted. There comes a time when every individual must escape the clutches of the mother. This does not mean that one cannot have a good and spiritually mature relationship with one’s earthly mother, but the mother must become a spiritual friend and not one who must continue to “take care of” the lunar nature of the child. An ideal later relationship between mother and child would be based upon solar principles and not upon lunar. Otherwise, retrogression occurs.

276. Ngay trong chu kỳ nhỏ nhoi của đời người, tiến trình này cũng có thể thấy. Sẽ đến lúc mỗi cá nhân phải thoát khỏi vòng tay của người mẹ. Điều này không có nghĩa là không thể có một mối quan hệ tốt đẹp và trưởng thành về mặt tinh thần với người mẹ trên trần thế, nhưng người mẹ phải trở thành một người bạn tinh thần chứ không phải người phải tiếp tục “chăm bẵm” bản chất nguyệt tính của đứa trẻ. Một mối liên hệ lý tưởng về sau giữa mẹ và con sẽ được đặt nền trên các nguyên tắc thái dương chứ không trên các nguyên tắc nguyệt tính. Bằng không, sự thoái hóa sẽ xảy ra.

This idea runs through all manifestations, and the kingdoms of nature or the form (no matter what form it may be) nourish the germ of that which is the next step on in the evolutionary process, and are considered the Mother aspect.  This aspect is eventually discarded and super­seded.

Ý tưởng này chạy xuyên qua mọi biểu lộ, và  các giới trong thiên nhiên hay hình tướng (bất kể đó là hình tướng nào) nuôi dưỡng mầm của cái vốn là bước tiếp theo trong tiến trình tiến hóa, và được xem là phương diện Mẹ . Phương diện này rốt cuộc bị loại bỏ và được thay thế.

277. That which nourishes is valued for what it has done, but must be discarded and superseded if there is to be spiritual progress.

277. Cái nuôi dưỡng được trân trọng vì những gì nó đã làm, nhưng phải được loại bỏ và thay thế nếu muốn có tiến bộ tinh thần.

278. The greater kingdoms ‘feed’ on the lesser kingdoms. The lesser kingdoms are the nourishing support for the advancement of the greater kingdoms.

278. Các giới cao ‘nuôi’ trên các giới thấp. Các giới thấp là sự nâng đỡ nuôi dưỡng cho sự thăng tiến của các giới cao.

For example, the third kingdom, the animal, in the early stages nourishes and preserves the germ of that which will some day be a man; the personality is the preserver of that which will some day unfold into spiritual man.

Chẳng hạn, giới thứ ba, giới thú, ở các giai đoạn đầu nuôi dưỡng và bảo tồn mầm của cái rồi sẽ một ngày kia thành con người; phàm ngã là kẻ bảo tồn cái rồi sẽ một ngày kia khai mở thành con người tinh thần.

279. This suggests that the personality has at least one function as a preserver.

279. Điều này gợi rằng phàm ngã có ít nhất một chức năng như một kẻ bảo tồn.

280. We also have the suggestion that as the personality must be considered the composite animal aspect of man. The animal/personality guards that which will become the ‘Solar Man’, the spiritual man.

280. Chúng ta cũng có gợi ý rằng phàm ngã phải được xem là tổng thể hợp thành thú tính của con người. Thú tính/phàm ngã canh giữ cái sẽ trở thành ‘Con Người Thái dương’, con người tinh thần.

281. Each new kingdom arises out of the one preceding.

281. Mỗi giới mới trỗi dậy từ giới đi trước.

It will thus become apparent to students how the Heavenly Man, viewing Him as a solar Deity, a self-conscious Entity, works with His negative aspect through positive force, from logoic etheric levels upon the three aspects of the logoic dense physical, thus bringing to maturity the atoms and cells of His Body, fostering the germ of self-consciousness, fanning the flame until each unit becomes fully group conscious and aware of his place within the body corporate.

Vì vậy, điều này sẽ trở nên hiển nhiên đối với các đạo sinh rằng Đấng Thiên Nhân, xem Ngài như một Vị Thần thái dương , một Thực thể tự thức, làm việc với phương diện âm của Ngài thông qua mãnh lực dương, từ các tầng dĩ thái logoic tác động lên ba phương diện của thể xác đậm đặc logoic, nhờ vậy đưa đến chỗ thành thục các nguyên tử và tế bào trong Thân Ngài, nuôi dưỡng mầm của tính tự thức, quạt bùng ngọn lửa cho đến khi mỗi đơn vị trở nên hoàn toàn có ý thức tập thể và nhận biết vị trí của mình trong thân thể tập thể.

282. We remember that we hypothesized that, from the perspective of a Heavenly Man, the higher mental plane could be considered “etheric”.

282. Chúng ta nhớ rằng chúng ta đã giả định rằng, xét từ góc nhìn của một Đấng Thiên Nhân, cõi thượng trí có thể được xem như “dĩ thái”.

283. Even if this is the case, He still works upon the lesser lives from within the cosmic etheric planes—i.e., from “logoic etheric levels”.

283. Dẫu như thế, Ngài vẫn làm việc trên các sự sống thấp hơn từ bên trong các cõi dĩ thái vũ trụ—tức là, từ “các tầng dĩ thái logoic”.

284. We will now have a comparison between the fostering power of a Heavenly Man and that of the human being.

284. Giờ đây sẽ có một sự so sánh giữa năng lực dưỡng dục của một Đấng Thiên Nhân và của con người.

285. The Heavenly Man is a “solar Deity” because He is a “self-conscious Entity” and is positive to the substance contained within His body of expression.

285. Đấng Thiên Nhân là một “Vị Thần thái dương” bởi vì Ngài là một “Thực thể tự thức” và là dương đối với chất liệu chứa đựng trong thân thể biểu lộ của Ngài.

286. The Heavenly Man Who has self-consciousness, fosters the germs of self-consciousness in those lives He contains who have not yet unfolded self-consciousness.

286. Đấng Thiên Nhân, Đấng đã có tự thức, nuôi dưỡng các mầm tự thức nơi những sự sống mà Ngài bao hàm vốn chưa khai mở tự thức.

287. The Dragon of Wisdom (the Heavenly Man) is bringing into full Self-consciousness lesser units of life so they may one day be as He is now.

287. Long Thần Minh Triết (Đấng Thiên Nhân) đang đưa các đơn vị sự sống thấp hơn vào trọn vẹn Tự thức để một ngày kia họ có thể như Ngài hiện nay.

Each human being likewise, functioning in the three worlds, works in a corresponding way upon the conscious cells of his bodies, until each atom eventually achieves its goal.

Cũng vậy, mỗi con người, vận hành trong ba cõi giới, làm việc theo cách tương ứng trên các tế bào có ý thức của các thể của mình, cho đến khi mỗi nguyên tử cuối cùng đạt đến mục tiêu của nó.

288. The work off the human being proceeds from the higher mental plane (or at least under very strong guidance from that plane) and, later, from the buddhic plane.

288. Công cuộc của con người diễn tiến từ cõi thượng trí (hoặc ít nhất dưới sự dẫn dắt rất mạnh mẽ từ cõi ấy) và, về sau, từ cõi Bồ đề.

289. The goal of human atoms is self-consciousness. But this self-consciousness is achieved, it seems, in aggregate, just as on a much higher level of development, groups of Solar Angels in aggregate achieve planetary logoic consciousness.

289. Mục tiêu của các nguyên tử nhân loại là tự-ngã-thức. Nhưng tự-ngã-thức này dường như được thành tựu trong tính tổng thể, cũng như ở một cấp độ phát triển cao hơn nhiều, các nhóm Thái dương Thiên Thần, trong tính tổng thể , đạt được tâm thức hành tinh của Logos.

The Heavenly Man works necessarily through egoic groups, pouring positive force upon them until they emerge from passivity and negativity into potency and activity.

Đấng Thiên Nhân tất yếu làm việc thông qua các nhóm chân ngã, tuôn đổ mãnh lực dương lên họ cho đến khi họ đi ra khỏi tình trạng thụ động và âm tính để bước vào năng lực tiềm sinh và hoạt động.

290. At first egoic groups can be passive and negative. This may seem a strange thought. Analogically, however, we have to remember that, at first, causal bodies are only of small development and man’s causal consciousness is practically non-existent. If egoic groups in relation to the dense physical body of the Planetary Logos are as the human causal body to the personality of man, then, at first, the causal body is not by any means fully empowered.

290. Ban đầu các nhóm chân ngã có thể thụ động và âm tính. Điều này có thể có vẻ là một ý tưởng lạ lùng. Tuy nhiên, theo lối tương đồng, chúng ta phải nhớ rằng, lúc đầu, các thể nguyên nhân chỉ ở mức phát triển nhỏ bé và tâm thức nguyên nhân của con người hầu như chưa hiện hữu. Nếu các nhóm chân ngã, trong tương quan với thể xác đậm đặc của Hành Tinh Thượng đế, cũng như thể nguyên nhân của con người trong tương quan với phàm ngã, thì ban đầu, thể nguyên nhân chưa được trao quyền đầy đủ theo bất kỳ nghĩa nào.

291. We remember that this work by the Heavenly Man upon egoic groups takes place from “logoic etheric levels”. The work of egoic groups upon the lower three worlds takes place from the higher mental plane (which, from one point of view, can be considered etheric in relation to a Planetary Logos).

291. Chúng ta ghi nhớ rằng công cuộc này của Đấng Thiên Nhân trên các nhóm chân ngã diễn ra từ “các cấp dĩ thái logoic”. Công việc của các nhóm chân ngã trên ba cõi thấp diễn ra từ cõi thượng trí (vốn, xét từ một quan điểm, có thể được xem là dĩ thái so với một Hành Tinh Thượng đế).

292. The same must be true of man (i.e., he would work from systemic etheric levels, as he seeks to uplift the quality of the atoms constituent to his physical vehicle).

292. Điều tương tự cũng phải đúng với con người (tức là, y sẽ làm việc từ các cấp dĩ thái hệ thống , khi y tìm nâng cao phẩm tính của các nguyên tử cấu thành vận cụ hồng trần của mình).

Man works correspondingly through his centres upon his sheaths, and has a responsibility to the lesser lives which under the karmic law must be worked out.

Con người làm việc tương ứng qua các trung tâm của mình trên các thể, và gánh trách nhiệm đối với các sự sống nhỏ hơn vốn theo định luật nghiệp quả phải được hóa giải.

293. We remember that the etheric centers of man occur on all the systemic ethers, and not just on the fourth.

293. Chúng ta nhớ rằng các trung tâm dĩ thái của con người hiện hữu trên mọi cõi dĩ thái của hệ mặt trời, chứ không chỉ trên cõi thứ tư.

This is the basis of the evolutionary process.

Đây là nền tảng của tiến trình tiến hoá.

294. This process is directed from the realm of the Holy Spirit, Agni, Fohat, Brahma and animates lesser, passive, inert, negative lives.

294. Tiến trình này được chỉ đạo từ cảnh giới của Chúa Thánh Thần, Agni, Fohat, Brahma và làm sinh động các sự sống nhỏ, thụ động, trơ lì, âm tính.

295. The occultist works from above upon that which is below. He is the ‘mover’ and words upon that which must be ‘moved’.

295. Nhà huyền bí học làm việc từ trên đối với cái ở dưới. Y là “kẻ vận động” và làm việc trên cái phải được “vận động”.

296. The ‘Great Ladder of Evolution’ requires that the ones who work upon shall, in their turn, be worked upon. A hand is extended upward anticipating aid even as the hand of service is extended downwards.

296. “Bậc Thang Vĩ Đại của Tiến hoá” đòi hỏi rằng những ai làm việc trên người khác thì đến lượt mình cũng sẽ được làm việc lên. Một bàn tay vươn lên mong đợi trợ giúp như cùng lúc bàn tay phụng sự vươn xuống.

Scroll to Top