Bình Giảng về Lửa Vũ Trụ S7S1 (732-747)

TCF 732-747: S7S1

22 March – 6 April 2008

22 tháng 3 – 6 tháng 4, 2008

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Phần lớn văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16, để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong các lớp học. Chú thích và tham chiếu từ các sách khác của AAB và từ các trang khác của TCF được đặt ở cỡ chữ 14. Lời bình xuất hiện ở cỡ chữ 12. Gạch dưới, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph. So please read an entire paragraph and then study the analysis.

Đề nghị đọc Bài Bình Giải này đọc kèm theo cuốn TCF trong tay, nhằm bảo đảm tính liên tục. Khi triển khai phân tích văn bản, nhiều đoạn sẽ được chia ra, và cách trình bày cô đọng trong chính cuốn sách sẽ truyền đạt ý nghĩa tổng quát của đoạn văn. Vì vậy, xin hãy đọc trọn một đoạn rồi mới nghiên cứu phần phân tích,

1. We now undertake the great theme of incarnation, but on a cosmic and planetary scale as well as the human scale.

1. Giờ đây chúng ta đảm đương chủ đề lớn về sự lâm phàm, nhưng xét trên bình diện vũ trụ và hành tinh cũng như bình diện con người.

c. On Incarnation.

c. Về Sự Lâm phàm.

(a.) Cosmic, Planetary and Human. We leave now the consideration of self-consciousness, as it is produced through the medium of the particular type of deva substance which the Agnishvattas provided for the body of the Ego, and pass on to the study of incarnation, cosmic, planetary and human.

(a.) Vũ trụ, Hành tinh và Con người. Chúng ta giờ rời phần khảo cứu về tự ý thức, vì nó được tạo ra qua môi giới của một loại chất liệu thiên thần đặc thù mà các Agnishvatta đã cung ứng cho thể của Chân ngã, và chuyển sang nghiên cứu sự lâm phàm, ở cấp vũ trụ, hành tinh và con người.

2. If we study these words carefully, certain points emerge.

2. Nếu chúng ta khảo sát kỹ những lời này, một số điểm nổi lên.

a. Self-consciousness is produced through the medium of a particular type of deva substance. Self-consciousness is a modification of consciousness per se, and without this type of deva substance (inducing the quality of “I-ness”), the resultant consciousness would not be Self-consciousness.

a. Tự ý thức được tạo ra qua môi giới của một loại chất liệu thiên thần đặc thù. Tự ý thức là một biến thái của tâm thức tự thân , và nếu không có loại chất liệu thiên thần này (gây nên phẩm tính “Ta-tính”), thì tâm thức hệ quả sẽ không phải là tâm thức Tự -ngã.

b. The Agnishvattas provided this type of substance.

b. Các Agnishvatta đã cung ứng loại chất liệu này.

c. The substance provided is part of the body of the Ego.

c. Chất liệu được cung cấp là một phần của thể của Chân ngã.

d. The Ego is, therefore, not (as usually understood) an Agnishvatta or a collection of Agnishvattas, but is something which uses the substance provided by the Agnishvattas for its body.

d. Do đó, Chân ngã không (như thường hiểu) là một Agnishvatta hay một tập hợp các Agnishvatta, mà là một cái gì đó sử dụng chất liệu do các Agnishvatta cung ứng để làm thể của mình.

e. The Ego, in fact, is the consciousness indwelling the body provided for it by the Agnishvattas. The Ego, really, is the spiritual triad which is an extension of the Monad but is often considered to be that which (as an extension of the Monad/Triad) expresses itself on the higher mental plane through the vehicle which the Agnishvattas have provided.

e. Thực vậy, Chân ngã là tâm thức cư ngụ trong thể do các Agnishvatta cung cấp cho y. Thật ra, Chân ngã là Tam Nguyên Tinh Thần như là một sự mở rộng của Chân thần nhưng thường được xem là cái vốn (như một sự mở rộng của Chân thần/Tam nguyên) tự biểu lộ trên cõi thượng trí qua vận cụ do các Agnishvatta cung ứng.

A hint as to the constitution of these solar Pitris and Manasadevas may come to the student who ponders upon the place of the egoic unit in the body of the planetary Logos, and in the particular centre of which it forms a com­ponent part.

Một gợi ý về cấu trúc của các thái dương tổ phụ Manasadeva này có thể đến với đạo sinh nào suy tư về vị trí của đơn vị chân ngã trong thể của Hành Tinh Thượng đế, và trong trung tâm chuyên biệt mà nó cấu thành một bộ phận.

3. Are we to consider Agnishvattas as distinct from Manasadevas? The use of the word “and” strongly suggests this possibility.

3. Chúng ta có nên xem các Agnishvatta là tách biệt với các Manasadeva không? Việc dùng chữ “và” ám chỉ mạnh khả năng này.

4. Monads are as cells within the centers of a Planetary Logos. Egoic units are also constituents of the centers of a Planetary Logos, but the centers are of a different (and, probably, lower) order.

4. Các Chân thần như những tế bào trong các trung tâm của một Hành Tinh Thượng đế. Các đơn vị chân ngã cũng là thành tố của các trung tâm của một Hành Tinh Thượng đế, nhưng các trung tâm này thuộc một trật tự khác (và có lẽ thấp hơn).

5. Whereas Monads may form centers found upon the monadic plane, egoic units are constituents of lower centers (on the higher mental plane) which are but reflections of the higher or monadic centers.

5. Trong khi các Chân thần có thể hình thành các trung tâm ở trên cõi chân thần, thì các đơn vị chân ngã là thành phần của các trung tâm thấp hơn (trên cõi thượng trí), vốn chỉ là những phản chiếu của các trung tâm cao hơn hay trung tâm chân thần.

These Manasadevas and Dhyan Chohans who produce self-consciousness in man are indeed the energy and substance of the cosmic Heavenly Man.

Các Manasadeva và các Dhyan Chohan này, những Đấng tạo nên tự ý thức nơi con người, quả thật là năng lượng và chất liệu của Đấng Thiên Nhân vũ trụ.

6. A Heavenly Man is a cosmic Being.

6. Một Đấng Thiên Nhân là một Đấng thuộc vũ trụ.

7. Since Solar Angels, Manasadevas and Dhyan Chohans all produce self-consciousness in man, these three terms must (in this context) refer to the same type of being. We know little, however, about hierarchical rank within the Fifth Creative Hierarchy, so some of the terms we usually think of as identical may indicate beings of differing spiritual status within the same Creative Hierarchy.

7. Vì các Thái dương Thiên Thần, các Manasadeva và các Dhyan Chohan đều tạo nên tự ý thức nơi con người, nên trong ngữ cảnh này, ba thuật ngữ này hẳn phải chỉ cùng một loại Đấng. Tuy vậy, chúng ta biết rất ít về thứ bậc tôn ti bên trong Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm, cho nên một vài thuật ngữ chúng ta thường cho là đồng nhất có thể chỉ các Đấng khác nhau về địa vị tinh thần trong cùng một Huyền Giai Sáng Tạo.

8. As the Solar Angels, Manasadevas and Dhyan Chohans all came into our planet from Venus and from the Heart of the Sun, we must question, “for which of the Heavenly Men are they energy and substance?” If for the Planetary Logos of the Earth-scheme, then it would seem that they would be appropriated energy and substance originating, for instance, within Venus or the Heart of the Sun.

8. Vì các Thái dương Thiên Thần, các Manasadeva và các Dhyan Chohan đều đã đến hành tinh chúng ta từ Kim Tinh và từ Tim của Thái Dương, chúng ta phải nêu câu hỏi: “Các Ngài là năng lượng và chất liệu của Đấng Thiên Nhân nào?” Nếu là của Hành Tinh Thượng đế của hệ Trái Đất, thì dường như các Ngài sẽ là năng lượng và chất liệu được thâu dụng có nguồn gốc, chẳng hạn, trong Kim Tinh hay Tim của Thái Dương.

9. The origin (from within the Sun) of these great Beings is well established. The Solar Angels are Beings essentially more solar than planetary even though, after emanation from the Sun, they function as energy and substance within a Planetary Logos or “cosmic Heavenly Man”).

9. Nguồn gốc (từ trong Thái Dương) của các Đấng vĩ đại này đã được xác quyết. Các Thái dương Thiên Thần, tự bản thể, mang tính thái dương hơn là hành tinh dù, sau khi xuất lộ từ Thái Dương, các Ngài vận hành như năng lượng và chất liệu trong một Hành Tinh Thượng đế (hay “Đấng Thiên Nhân vũ trụ”).

The word “incarnation” in its root meaning conveys the fund­a­mental truth involved in the taking of a dense physical body, and should technically be applied only to that period of manifestation which concerns the three lower subplanes of the:

Từ nguyên của từ “lâm phàm” trong nghĩa gốc truyền đạt chân lý căn bản liên quan đến sự đảm thọ một thể xác đậm đặc hồng trần, và một cách chuẩn xác chỉ nên áp dụng cho giai đoạn hiện lộ liên hệ đến ba cõi phụ thấp của:

10. DK places certain limitations upon our understanding of the word “incarnation”. The terms always relates to the taking of a dense physical body within the lower three subplanes of a particular kind of etheric-physical plane.

10. Chân sư DK đặt một số giới hạn lên sự hiểu của chúng ta về từ “lâm phàm”. Thuật ngữ này luôn liên hệ đến việc đảm thọ một thể xác đậm đặc trong ba cõi phụ thấp của một loại cõi dĩ thái-hồng trần đặc thù.

a. Cosmic physical plane, in relation to a solar Logos and to a planetary Logos.

a. Cõi hồng trần vũ trụ, liên quan đến một Thái dương Thượng đế và một Hành Tinh Thượng đế.

11. For a Solar Logos, we would be dealing with the lower twenty-one subplanes.

11. Đối với một Thái dương Thượng đế, chúng ta sẽ xét đến hai mươi mốt cõi phụ thấp.

12. For a Planetary Logos, we would be dealing with the lower eighteen subplanes.

12. Đối với một Hành Tinh Thượng đế, chúng ta sẽ xét đến mười tám cõi phụ thấp.

b. Systemic physical plane, in relation to man.

b. Cõi hồng trần của hệ mặt trời, liên quan đến con người.

13. In this case, we are speaking of the lower three systemic subplanes—the densest systemic physical subplane, the liquid systemic physical subplane, and the gaseous systemic physical subplane.

13. Trong trường hợp này, chúng ta đang nói về ba cõi phụ hệ thống thấp nhất—cõi phụ hồng trần đậm đặc nhất của hệ mặt trời, cõi phụ hồng trần lỏng, và cõi phụ hồng trần khí.

This connotation has been preserved where the cosmic entities are concerned, but when man is under consideration the term [incarnation] has been applied to the unification of the etheric double with the dense physical body, or to the appropriation by man of the vehicle composed of the [733] sub­stance of the lowest subplane of the cosmic physical plane in its lowest aspects.

Hàm ý này đã được giữ nguyên khi nói đến các thực thể vũ trụ, nhưng khi xét con người, thì thuật ngữ [incarnation] đã được áp dụng cho sự hợp nhất của thể dĩ thái song trùng với thể xác đậm đặc, hoặc cho sự thâu dụng bởi con người của vận cụ cấu thành từ [733] chất liệu của cõi phụ thấp nhất của cõi hồng trần vũ trụ trong những khía cạnh thấp nhất của nó.

14. The meaning of the term “incarnation” as it applies to man is slightly different from the meaning of the term when applied to a Solar Logos or Planetary Logos.

14. Ý nghĩa của thuật ngữ “lâm phàm” khi áp dụng cho con người hơi khác với ý nghĩa của thuật ngữ này khi áp dụng cho một Thái dương Thượng đế hay một Hành Tinh Thượng đế.

15. According to this understanding, man is in incarnation when his consciousness is immersed in both the lower three (or densest) subplanes of the cosmic physical plane and the four etheric subplanes of the physical subplane of the cosmic physical plane.

15. Theo hiểu này, con người ở trong lâm phàm khi tâm thức của y chìm ngập trong cả ba cõi phụ thấp (hay đậm đặc nhất) của cõi hồng trần vũ trụ bốn cõi phụ dĩ thái của cõi hồng trần thuộc cõi hồng trần vũ trụ.

This distinction has a certain signifi­cance and should be remembered. This appropriation is governed by the same laws which governed the appropria­tion by the Logos of His physical vehicle.

Sự phân biệt này có ý nghĩa nhất định và cần được ghi nhớ. Sự thâu dụng này chịu sự chi phối bởi cùng các định luật vốn đã chi phối sự thâu dụng vận cụ hồng trần của Thái dương Thượng đế.

16. We are to remember that man’s incarnation includes the systemic ethers, but that the incarnation of the Solar Logos or Planetary Logos does not include the cosmic ethers.

16. Chúng ta phải nhớ rằng lâm phàm của con người bao gồm các cõi dĩ thái hệ thống, nhưng lâm phàm của Thái dương Thượng đế hay Hành Tinh Thượng đế thì không bao gồm các cõi dĩ thái vũ trụ.

In order to get an idea of what the procedure is, it might be of value if we considered the different kinds of pralaya, and pondered upon those periods which ensue between incar­nations.

Để có một ý niệm về tiến trình, sẽ hữu ích nếu chúng ta xét đến các loại giai kỳ qui nguyên khác nhau , và suy niệm về những giai đoạn tiếp nối giữa các kỳ lâm phàm.

17. There are many such pralayas, the vast majority beyond our range of comprehension. How shall we speak of the pralaya of a Cosmic Logos or of a Super-Cosmic Logos, or of a Galactic Logos, and beyond?

17. Có nhiều giai kỳ qui nguyên như thế, phần lớn vượt ngoài tầm lĩnh hội của chúng ta. Làm sao chúng ta có thể nói về giai kỳ qui nguyên của một Thượng đế Vũ trụ hay của một Thượng đế Siêu Vũ trụ, hoặc của một Thượng đế Ngân Hà, và hơn nữa?

18. Fortunately, we do not have to consider such vast periods.

18. May thay, chúng ta không phải xét đến những chu kỳ bao la như thế.

From the point of view of any unit involved, a pra­laya is a period of quiescence, of cessation from a particular type of activity, involving objectivity, yet from the point of view of the great whole with which the unit may be involved, a pralaya may be considered merely as a transference of force from one direction into another.

Xét từ quan điểm của bất kỳ đơn vị nào liên hệ, một giai kỳ qui nguyên là một giai đoạn tĩnh lặng, đình chỉ một loại hoạt động đặc thù liên quan đến tính khách quan , tuy vậy xét từ quan điểm của Đại Toàn Thể mà đơn vị đó có thể thuộc về, một giai kỳ qui nguyên có thể chỉ được xem như một sự chuyển dịch mãnh lực từ một hướng này sang một hướng khác,

19. A pralaya may be no quiescence at all. During pralaya there may be a cessation of objective activity, but what of subjective activity?

19. Một giai kỳ qui nguyên có thể chẳng phải là tĩnh lặng chút nào. Trong giai kỳ qui nguyên có thể có sự đình chỉ hoạt động khách quan , nhưng còn hoạt động chủ quan thì sao?

Though the unit may be temporarily devitalised as regards its form, yet the greater Entity persists, and is still active.

Dẫu đơn vị có thể tạm thời bị khử sinh lực xét về hình tướng của nó, song Đại Thực Thể vẫn tồn tại, và vẫn hoạt động.

20. And the lesser entity who has experienced a transference of force may be active in a new way within that “greater Entity”.

20. Và thực thể nhỏ hơn, thực thể đã trải nghiệm một sự chuyển dịch mãnh lực, có thể hoạt động theo một cách mới mẻ trong lòng “Đại Thực Thể” đó.

21. Pralaya and the dynamic of ‘objective devitalization’ go hand in hand.

21. Giai kỳ qui nguyên và động lực của ‘sự khử sinh lực khách quan’ đi đôi với nhau.

Let us take up the matter first from the human standpoint, and study pralaya as it affects the Monad in incarnation.

Chúng ta hãy đề cập vấn đề này trước hết từ lập trường con người , và nghiên cứu giai kỳ qui nguyên như nó tác động lên Chân thần đang lâm phàm.

22. We recall that “incarnation” (as regards the human unit) includes expression within the systemic ethers as well as through the three lowest of the systemic physical subplanes.

22. Chúng ta nhớ rằng “lâm phàm” (đối với đơn vị nhân loại) bao gồm cả sự biểu lộ trong các cõi dĩ thái hệ thống cũng như qua ba cõi phụ thấp nhất của cõi hồng trần hệ thống.

Footnote 44 (See S. D., I, 397-398.)

Chú thích 44 (Xem S. D., I, 397-398.)

There are fundamentally three kinds of Pralaya.

Về căn bản có ba loại Giai kỳ Qui nguyên.

1. Solar pralaya.        This comes at the end of one hundred years of Brahma. It marks reabsorption into unity. It marks end of manifestation of solar system. Concerns the solar Logos.

1. Giai kỳ qui nguyên Thái dương, Điều này đến vào cuối một trăm năm của Brahma. Nó đánh dấu sự hoàn nguyên vào Nhất thể. Nó đánh dấu kết thúc hiện lộ của hệ mặt trời. Liên quan đến Thái dương Thượng đế.

23. From the human perspective, this is a pralaya of vast duration, but from the truly cosmic perspective, it is a the blinking of an eye.

23. Xét từ lập trường con người, đây là một giai kỳ qui nguyên có thời lượng bao la, nhưng xét từ viễn cảnh thật sự vũ trụ, nó chỉ như một cái chớp mắt.

24. We can see that in this type of occultism, the period known as “one hundred years of Brahma” is taken very seriously. It is hard to conceive of it as a symbolic figure.

24. Chúng ta có thể thấy rằng, trong loại huyền học này, thời kỳ gọi là “một trăm năm của Brahma” được coi là rất nghiêm túc. Khó có thể xem đó là con số biểu tượng.

25. One the solar system has disappeared, it may be said that solar pralaya has begun, but perhaps the solar pralaya is not completed until the consciousness of the Solar Logos has returned to the solar logoic causal body.

25. Khi hệ mặt trời biến mất, có thể nói giai kỳ qui nguyên Thái dương đã khởi, nhưng có lẽ giai kỳ qui nguyên Thái dương chỉ hoàn tất khi tâm thức của Thái dương Thượng đế đã hồi quy về thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế.

2. Incidental pralaya.              This succeeds the days of Brahma. It marks periods between manvantaras. Temporary form ceases but duality remains. Concerns a planetary Logos.

2. Giai kỳ qui nguyên ngẫu phát. Điều này nối tiếp các ngày của Brahma. Nó đánh dấu những khoảng giữa các giai kỳ sinh hóa. Hình tướng tạm thời chấm dứt nhưng nhị nguyên vẫn còn. Liên quan đến một Hành Tinh Thượng đế.

26. We must wonder why the period known as the “year of Brahma” is not mentioned. From this perspective, “manvantaras” are “days of Brahma”.

26. Chúng ta phải tự hỏi vì sao thời kỳ gọi là “năm của Brahma” lại không được nhắc đến. Từ viễn cảnh này, “các giai kỳ sinh hóa” chính là “các ngày của Brahma”.

27. Although the “day of Brahma” concerns a Planetary Logos, it is virtually impossible to think of the duration of a Planetary Logos as being less than a “year of Brahma”. In fact, it would seem that most Planetary Logoi must endure for many years of Brahma.

27. Mặc dù “ngày của Brahma” liên quan đến một Hành Tinh Thượng đế, gần như không thể nghĩ rằng thời lượng tồn tại của một Hành Tinh Thượng đế lại ngắn hơn “một năm của Brahma”. Thực vậy, dường như hầu hết các Hành Tinh Thượng đế phải trường tồn qua nhiều năm của Brahma.

28. Later, there is a discussion of the interval between globes as a “manvantara”. From this perspective, we must link what is here said about “incidental pralaya” with what is later said concerning the interval between globe activity.

28. Sau này, sẽ có cuộc thảo luận về khoảng giữa các bầu là một “giai kỳ sinh hóa”. Từ viễn cảnh này, chúng ta phải liên kết những gì nói ở đây về “giai kỳ qui nguyên ngẫu phát” với những gì về sau được nói liên quan đến khoảng giữa hoạt động của các bầu.

3. Individual pralaya.              Achieved by a man at the fifth initiation. Marks attainment of perfection. Concerns the monad.

3. Giai kỳ qui nguyên cá nhân, Được một người đạt thành ở lần điểm đạo thứ năm. Đánh dấu sự đạt đến viên mãn. Liên quan đến Chân thần.

29. Mastership is here equated with “perfection”. What of Chohanship?

29. Địa vị Chân sư ở đây được xem như đồng nghĩa với “sự viên mãn”. Còn địa vị Chohan thì sao?

30. What may the individual pralaya here discussed really be? May we say that it is the pralaya following the great cycle of incarnation in the fourth or human kingdom? Following this type of pralaya there would certainly be no need for incarnation in the fourth kingdom (and, thus, the idea of “devitalization” with respect to the lower three worlds). We may wonder why this type of pralaya would not begin at the fourth initiation. Perhaps only when there has been a ‘clearing of the debris’ remaining from the ‘fourth-initiation supernova’ is a man truly liberated from the lower twenty-one systemic subplanes.

30. Giai kỳ qui nguyên cá nhân được nói đến ở đây thực sự là gì? Có thể nói đó là giai kỳ qui nguyên tiếp theo chu kỳ vĩ đại của lâm phàm trong giới thứ tư hay giới nhân loại chăng? Sau loại giai kỳ qui nguyên này, ắt hẳn không còn cần thiết phải lâm phàm trong giới thứ tư nữa (và, như thế, có ý niệm về “sự khử sinh lực” trong tương quan với ba cõi thấp). Chúng ta có thể tự hỏi vì sao loại giai kỳ qui nguyên này không khởi từ lần điểm đạo thứ tư. Có lẽ chỉ khi đã ‘quét sạch mảnh vụn’ còn lại từ ‘siêu tân tinh ở lần điểm đạo thứ tư’ thì một người mới thật sự giải thoát khỏi hai mươi mốt cõi phụ hệ thống thấp.

31. Is much time spent in this particular type of pralaya? If so, how can we incorporate the idea that the duration between the fifth and sixth initiation may not be lengthy, though perhaps it may last a thousand years or two thousand years?

31. Có nhiều thời gian được dùng trong loại giai kỳ qui nguyên đặc thù này không? Nếu có, làm sao chúng ta dung hòa ý niệm rằng khoảng giữa lần điểm đạo thứ năm và thứ sáu có thể không dài, dẫu có thể kéo dài một ngàn hay hai ngàn năm?

32. Or, does this type of pralaya simply indicate that, for the human Monad, life has now begun in earnest on the cosmic etheric planes and that life expression within the dense physical body of the Planetary Logos (and even Solar Logos) is no longer necessary. With respect to these lower subplanes, a kind of ‘death’ has ensued.

32. Hoặc, liệu loại giai kỳ qui nguyên này chỉ đơn giản chỉ ra rằng, đối với Chân thần con người, sự sống nay đã thật sự bắt đầu trên các cõi dĩ thái vũ trụ và rằng biểu lộ sinh hoạt trong thể xác đậm đặc của Hành Tinh Thượng đế (và ngay cả Thái dương Thượng đế) không còn là cần thiết nữa. Đối với các cõi phụ thấp này, một loại ‘cái chết’ đã xảy ra.

33. Some speculate that Master DK, Who took the fifth initiation in 1875 has already taken the sixth initiation. If this is the case, then the duration between the fifth and sixth initiations could be short, indeed. We may, however, speculate that the type of pralaya here discussed does not end with the onset of the sixth initiation or seventh, etc.

33. Có người suy đoán rằng Chân sư DK, Ngài đã thọ lần điểm đạo thứ năm vào năm 1875, nay đã thọ lần điểm đạo thứ sáu. Nếu đúng vậy, thì khoảng giữa lần điểm đạo thứ năm và thứ sáu quả có thể ngắn. Tuy nhiên, chúng ta có thể suy đoán rằng loại giai kỳ qui nguyên được bàn ở đây không chấm dứt với khởi điểm của lần điểm đạo thứ sáu hay thứ bảy, v.v.

34. In any case, what is the nature of a pralaya in which there is, apparently, no ‘rest’? If we are to consider the period following the fifth initiation as a pralayic period, we can see that within that pralaya there is a great deal of very useful activity, for a Master or Chohan is extremely busy on the cosmic etheric planes, though, perhaps, not so apparently active within the lower three worlds from which the fourth and fifth initiation have freed Him. Thus, He achieves a certain ‘rest’ with respect to the lower eighteen or twenty-one systemic subplanes.

34. Dù sao, bản chất của một giai kỳ qui nguyên trong đó dường như không có ‘nghỉ ngơi’ là gì? Nếu chúng ta xem giai đoạn sau lần điểm đạo thứ năm là một giai kỳ qui nguyên, chúng ta có thể thấy rằng trong giai kỳ qui nguyên đó có rất nhiều hoạt động hết sức hữu ích, vì một Chân sư hay một Chohan cực kỳ bận rộn trên các cõi dĩ thái vũ trụ, tuy có lẽ không biểu lộ hoạt động rõ rệt trong ba cõi thấp, khỏi đó lần điểm đạo thứ tư và thứ năm đã giải phóng Ngài. Như thế, Ngài đạt một sự ‘an nghỉ’ nhất định đối với mười tám hay hai mươi mốt cõi phụ hệ thống thấp.

35. Is this an example of the transference of energy from a sphere of objectivity to one of far deeper subjectivity? It would seem so.

35. Đây có phải là một ví dụ về sự chuyển dịch năng lượng từ một lĩnh vực khách quan sang một lĩnh vực chủ quan sâu thẳm hơn không? Dường như là vậy.

36. One cannot specify too many details on these matters which are, at this time, beyond our ken.

36. Không thể nói quá chi tiết về những điều này, vốn hiện tại còn vượt ngoài tầm của chúng ta.

There is also the pralaya in connection with human evolution which we call devachanic. It concerns the personality.

Cũng có giai kỳ qui nguyên liên hệ với tiến hóa của con người mà chúng ta gọi là Devachan. Nó liên quan đến phàm ngã.

37. It seemed curious that, when individual pralaya was mentioned, it was not the pralaya which occurs between human incarnations. We see that the name for such a pralaya is called “devachanic”.

37. Dường như lạ là khi nhắc đến giai kỳ qui nguyên cá nhân , thì lại không phải là giai kỳ qui nguyên xảy ra giữa các lần lâm phàm của con người. Chúng ta thấy tên gọi cho loại giai kỳ qui nguyên như vậy là “Devachan”.

38. May we, in a sense, assume that the true “Individual” is the Monad?

38. Chúng ta có thể, theo một nghĩa nào đó, giả định rằng “Cá Nhân” đích thực là Chân thần?

39. Presumably, if a disciple foregoes the type of experience called “devachan”, he does not experience this fourth type of pralaya. Once He is truly “on the Path”, ‘devachanic pralaya’ may become rare of non-existent.

39. Theo lẽ, nếu một đệ tử từ bỏ loại trải nghiệm gọi là “Devachan”, y sẽ không trải qua loại giai kỳ qui nguyên thứ tư này. Một khi y thật sự “trên Thánh Đạo”, ‘giai kỳ qui nguyên Devachan’ có thể trở nên hiếm hoặc không còn.

There are five types of pralaya with which we may legiti­mat­e­ly concern ourselves.

Có năm loại giai kỳ qui nguyên mà chúng ta có thể chính đáng quan tâm.

40. Thus far, four types have been mentioned.

40. Cho đến giờ, bốn loại đã được nêu.

41. We note the use of the word “legitimately”. Apparently there are types of pralaya which would be speculatively interesting, but our interest in them would not be spiritually profitable and, thus, legitimate.

41. Chúng ta lưu ý việc dùng từ “chính đáng”. Rõ ràng có những loại giai kỳ qui nguyên sẽ thu hút sự quan tâm một cách suy đoán, nhưng sự quan tâm như vậy sẽ không mang lại lợi ích tinh thần và vì thế không chính đáng,

We should notice first the fact that this condition is primarily one that concerns the relation­ship between Spirit and matter, in which a condition in sub­stance is brought about through the action of the energising factor, the Spirit.

Trước hết, chúng ta nên chú ý đến thực tế rằng tình trạng này chủ yếu liên hệ đến mối quan hệ giữa Tinh thần và vật chất, trong đó một tình trạng nơi chất liệu được tạo ra qua tác động của nhân tố năng hoạt, tức Tinh thần.

42. Here is a rather abstract definition of pralaya. Pralaya is a condition of abstraction from one condition of substance into another and higher, and this abstraction is brought about by the relation between Spirit and matter, and, more specifically, by the relationship of Spirit to matter.

42. Đây là một định nghĩa khá trừu tượng về giai kỳ qui nguyên. Giai kỳ qui nguyên là một tình trạng trừu ly khỏi một trạng thái chất liệu này sang một trạng thái khác và cao hơn, và sự trừu ly này được gây nên bởi mối tương quan giữa Tinh thần và vật chất, và cụ thể hơn, bởi mối quan hệ của Tinh thần đối với vật chất.

It has, therefore, to do with the relation of the greater devas as They carry out Their work of form-build­ing [734] under the Law of Will of God to the lesser devas who represent living substance.

Vì thế, nó có liên hệ đến mối quan hệ của các đại thiên thần khi Các Ngài thi hành công cuộc kiến tạo hình tướng  [734]  dưới Định luật Ý Chí của Thượng Đế đối với các tiểu thiên thần vốn đại diện cho chất liệu sống.

43. This is certainly an unusual angle on the subject. It is as if the “greater devas” are responsible for the abstraction of the Monad from the influence of the lesser devas.

43. Đây hẳn là một góc nhìn bất thường về chủ đề. Như thể “các đại thiên thần” chịu trách nhiệm trừu ly Chân thần ra khỏi ảnh hưởng của các tiểu thiên thần.

44. We have to understand what it means to “represent” living substance. This is not necessarily the same as being living substance.

44. Chúng ta phải hiểu thế nào là “đại diện” cho chất liệu sống. Điều này không nhất thiết đồng nghĩa với việc chất liệu sống.

45. Are the “greater devas” not, themselves, also working through living substance on the cosmic etheric planes?

45. Chẳng phải “các đại thiên thần” cũng tự thân làm việc qua chất liệu sống trên các cõi dĩ thái vũ trụ sao?

46. From one perspective, the Solar Angel is a “greater deva”, and this Angel is (through the death process) responsible for cyclically abstracting the human consciousness from engagement with the lesser devas.

46. Ở một góc nhìn, Thái dương Thiên Thần là một “đại thiên thần”, và Chính Thiên Thần này (thông qua tiến trình chết ) chịu trách nhiệm trừu ly tuần hoàn tâm thức con người khỏi sự dính mắc với các tiểu thiên thần.

47. What we call the human personality is, in a way, produced by the engagement of the Solar Angels with the Lunar Lords—i.e., the engagement of “greater devas” with lesser devas.

47. Cái mà chúng ta gọi là phàm ngã con người, theo một nghĩa nào đó, được tạo bởi sự tương tác của các Thái dương Thiên Thần với các Nguyệt tinh quân—tức là, sự tương tác của “các đại thiên thần” với các tiểu thiên thần.

It will be apparent to the student that it concerns the relation of the Holy Spirit to the Mother in the production of the Son, and then the relation of the Son to the Mother.

Điều này sẽ hiển nhiên với đạo sinh rằng nó liên hệ đến mối quan hệ của Chúa Thánh Thần với Mẹ trong việc sản sinh Ngôi Con, và rồi mối quan hệ của Ngôi Con với Mẹ.

48. The Holy Spirit, when compared to the energy or force of the Mother, is etheric.

48. So với năng lượng hay lực của Mẹ, Chúa Thánh Thần là dĩ thái.

49. By means of the Holy Spirit, it becomes possible for the Son to manifest through the Mother.

49. Nhờ Chúa Thánh Thần, Ngôi Con có thể biểu lộ qua Mẹ.

50. The Holy Spirit acts as a bridge of energy preparing the way for the coming of the Son.

50. Chúa Thánh Thần hành như một nhịp cầu năng lượng chuẩn bị con đường cho sự đến của Ngôi Con.

51. We should be alert to the fact that the subject of pralaya is being treated from a devic perspective, which is unusual.

51. Chúng ta nên cảnh giác rằng chủ đề giai kỳ qui nguyên đang được khảo sát từ viễn tượng thiên thần, điều vốn là bất thường.

52. From another perspective, the Holy Spirit energy is that of the cosmic ethers. When the energy of these ethers engages with the Mother energy (the energy of the lower eighteen systemic subplanes) the vehicle for the “Son” (the egoic lotus on the higher mental plane) is produced.

52. Từ một viễn ảnh khác, năng lượng của Chúa Thánh Thần là năng lượng của các cõi dĩ thái vũ trụ. Khi năng lượng của các cõi này tương tác với năng lượng của Mẹ (năng lượng của hai mươi mốt cõi phụ hệ thống thấp), thì vận cụ cho “Ngôi Con” (Hoa Sen Chân Ngã trên cõi thượng trí) được tạo ra.

53. From one perspective, the human physical body is a “son” caused by the interaction of systemic ether and the systemic dense subplanes.. From another perspective, the production of the egoic lotus is a “Son”.

53. Từ một góc nhìn, thể xác con người là một “đứa con” do tương tác giữa dĩ thái hệ thống và các cõi phụ hồng trần đậm đặc hệ thống. Từ một góc nhìn khác, sự sản sinh Hoa Sen Chân Ngã là một “Ngôi Con”.

54. There would be no physical body unless the etheric body engaged with Mother substance.

54. Sẽ không có thể xác nếu thể dĩ thái không tương tác với chất liệu của Mẹ.

55. Analogously, it would seem that there would be no causal body unless cosmic etheric substance engaged with the Mother substance of the higher mental plane. We should perhaps recollect that the “true plane” of the Solar Angels is not the higher mental plane but that the Solar Angels are much more at home in the cosmic ethers. They are said, for instance, to embody the buddhic energy.

55. Tương tự, dường như sẽ không có thể nguyên nhân nếu chất liệu dĩ thái vũ trụ không tương tác với chất liệu của Mẹ trên cõi thượng trí. Chúng ta có lẽ nên nhớ rằng “cõi chân chính” của các Thái dương Thiên Thần không phải là cõi thượng trí mà các Thái dương Thiên Thần thân thuộc với các cõi dĩ thái vũ trụ hơn nhiều. Chẳng hạn, nói rằng các Ngài thể hiện năng lượng Bồ đề.

56. Spirit (as it manifests on the cosmic physical plane) is represented by the higher ethers (the energy of the “Holy Spirit” cosmically considered) and Matter by the lower twenty-one subplanes (the dense physical body of the Solar Logos). The causal “Son”/Sun arises through this interaction expedited by the Solar Angels.

56. Tinh thần (khi biểu lộ trên cõi hồng trần vũ trụ) được biểu hiện bởi các dĩ thái cao (năng lượng “Chúa Thánh Thần” xét về mặt vũ trụ) và Vật chất bởi hai mươi mốt cõi phụ thấp (thể xác đậm đặc của Thái dương Thượng đế). “Ngôi Con”/Mặt Trời nhân quả khởi sinh qua tương tác này được các Thái dương Thiên Thần xúc tiến.

If the ideas formulated in this treatise have been carefully followed, it will be obvious that in studying the question of pralaya, we are studying the relation (in time and space) of the positive energy of the solar Logos, the planetary Logos, and of Man to the substance through which alone manifest­ation is possible.

Nếu những ý niệm được hình thành trong luận thư này đã được theo dõi cẩn thận, sẽ ắt rõ rằng khi nghiên cứu vấn đề giai kỳ qui nguyên , chúng ta đang nghiên cứu mối quan hệ (trong thời gian và không gian) giữa năng lượng dương cực của Thái dương Thượng đế, của Hành Tinh Thượng đế, và của con người với chất liệu mà chỉ qua đó mới có thể có hiện lộ.

57. In studying pralaya, we are studying a relationship.

57. Khi nghiên cứu giai kỳ qui nguyên, chúng ta đang nghiên cứu một mối quan hệ.

58. We appear to be discussing the relationship between the etheric energy/substance and dense matter. In the case of the section of text above, dense matter (cosmically considered) is named as “substance”.

58. Có vẻ như chúng ta đang nói về mối quan hệ giữa chất liệu dĩ thái và vật chất đậm đặc. Trong đoạn văn trên, vật chất đậm đặc (xét trên bình diện vũ trụ) được gọi là “chất liệu”.

59. The positive energy of a Solar Logos, Planetary Logos (if we confine our consideration to the cosmic physical plane) or of man (if we confine ourselves to the systemic physical plane) is etheric. In this context, however, the “substance through which alone manifestation is possible” is densely material. Technically, however, substance is that which substands the more material or objective force we know as dense matter.

59. Năng lượng dương cực của một Thái dương Thượng đế, một Hành Tinh Thượng đế (nếu chúng ta giới hạn khảo sát vào cõi hồng trần vũ trụ) hay của con người (nếu chúng ta giới hạn vào cõi hồng trần hệ thống) là dĩ thái, Trong ngữ cảnh này, tuy nhiên, “chất liệu mà chỉ qua đó mới có thể có hiện lộ” là vật chất đậm đặc. Về mặt thuật ngữ, chất liệu là cái nâng đỡ lực vật chất khách quan mà chúng ta biết là vật chất đậm đặc.

60. A pralaya is usually (and initially) a withdrawal from out that which is materially dense into that which is etheric in nature.

60. Một giai kỳ qui nguyên thường (và ban đầu) là sự rút lui khỏi cái vốn đậm đặc vật chất sang cái vốn có bản chất dĩ thái.

Through this relation, existence on the objective planes can be brought about.

Qua mối quan hệ này, sự tồn tại trên các cõi khách quan có thể được tạo ra.

61. We are saying that through the relationship between etheric substance and dense physical matter, existence upon the objective planes can be brought about.

61. Chúng ta đang nói rằng nhờ mối quan hệ giữa chất liệu dĩ thái và vật chất hồng trần đậm đặc, sự tồn tại trên các cõi khách quan có thể được kiến lập.

62. There will be no existence on the dense physical planes without the engagement of etheric substance with dense physical matter.

62. Sẽ không có tồn tại trên các cõi hồng trần đậm đặc nếu không có sự kết hợp của chất liệu dĩ thái với vật chất hồng trần đậm đặc.

63. The ethers are ultimately the vehicles for the first aspect, for life or Spirit.

63. Các dĩ thái rốt cuộc là vận cụ cho phương diện thứ nhất, tức Sự sống hay Tinh thần.

64. The systemic and cosmic dense subplanes are vehicles for the third aspect.

64. Các cõi phụ hồng trần hệ thống và vũ trụ là vận cụ cho phương diện thứ ba.

(b.) The Nature of Pralaya. We can view pralaya as the work of “abstraction,” and as the method which brings the form under the Destroyer aspect of Spirit, working ever under the Law of Attraction, of which the Law of Synthesis is but a branch.

(b.) Bản tính của Giai kỳ Qui nguyên.  Chúng ta có thể xem giai kỳ qui nguyên như công cuộc “trừu ly,” và như phương pháp đưa hình tướng vào dưới phương diện Hủy Diệt của Tinh thần, luôn luôn hoạt động dưới Định luật Hấp Dẫn, mà Định luật Tổng hợp chỉ là một ngành của nó.

65. We are given some significant relationships and a sense of priorities:

65. Chúng ta được ban cho vài tương quan trọng yếu và một cảm thức về thứ bậc ưu tiên:

a. The “work of abstraction” brings the form under the “Destroyer aspect of Spirit”.

a. “Công cuộc trừu ly” đưa hình tướng vào dưới “phương diện Hủy Diệt của Tinh thần”.

b. The destroyer aspect is under the control of the Law of Attraction

b. Phương diện Hủy Diệt ở dưới sự chi phối của Định luật Hấp Dẫn.

c. The Law of Synthesis is but a “branch” of the Law of Attraction

c. Định luật Tổng hợp chỉ là một “ngành” của Định luật Hấp Dẫn.

d. It would seem that the “Destroyer aspect of Spirit” is directly related to the Law of Synthesis and that both are related to the “work of abstraction”.

d. Có vẻ như “phương diện Hủy Diệt của Tinh thần” liên hệ trực tiếp với Định luật Tổng hợp và cả hai đều liên quan đến “công cuộc trừu ly”.

e. Could the hierarchy be as follows?:

e. Thứ bậc có thể như sau?:

i. The Law of Attraction is preeminent

i. Định luật Hấp Dẫn giữ vị trí tối thượng

ii. The Law of Synthesis is a branch of the Law of Attraction

ii. Định luật Tổng hợp là một ngành của Định luật Hấp Dẫn

iii. The work of abstraction, bringing the form under the influence of the destroyer aspect, is actually working under the Law of Synthesis (as a branch of the Law of Attraction).

iii. Công cuộc trừu ly, đưa hình tướng vào dưới ảnh hưởng của phương diện hủy diệt, thực ra vận hành dưới Định luật Tổng hợp (như một ngành của Định luật Hấp Dẫn).

iv. Death and destruction are essentially caused by the urge towards synthesis which arises under the great Law of Attraction

iv. Cái chết và sự hủy hoại về bản chất được gây ra bởi xung lực hướng tới tổng hợp, vốn khởi sinh dưới Định luật Hấp Dẫn vĩ đại

66. The planet Jupiter is here implicated. Jupiter is the planet, in our solar system, through which the Law of Attraction largely expresses. As the ruler of the monadic plane, Jupiter is also expressive of the Law of Synthesis. The Monad is the synthetic factor in the constitution of man.

66. Hành tinh Mộc Tinh ở đây được ngụ ý. Mộc Tinh là hành tinh, trong hệ mặt trời chúng ta, qua đó Định luật Hấp Dẫn phần lớn biểu lộ. Là chủ tinh của cõi chân thần, Mộc Tinh cũng biểu hiện Định luật Tổng hợp. Chân thần là yếu tố tổng hợp trong cấu trúc con người.

The basic law of the system is that which governs the relation of all atoms to the aggregate of atoms, and of the Self to the Not-self.

Định luật căn bản của hệ là định luật chi phối mối quan hệ của mọi nguyên tử với tổng thể các nguyên tử, và của Tự ngã với Phi-ngã.

67. DK is speaking, principally of the Law of Attraction, a great Law of Magnetism.

67. Chân sư DK chủ yếu đang nói về Định luật Hấp Dẫn, một Định luật Từ tính vĩ đại.

It is (from the occult standpoint) the most powerful force-demonstration in the system, and should the law inconceiv­ably cease to work, instantaneously the system and all forms therein, planetary, human and other would cease to be.

Đó là (xét theo lập trường huyền môn) sự biểu lộ mãnh lực quyền năng nhất trong hệ, và nếu giả như định luật ấy ngừng hoạt động—điều không thể tưởng—thì ngay lập tức hệ và mọi hình tướng trong đó, hành tinh, con người và các hình tướng khác sẽ ngừng hiện hữu.

68. Cosmic and systemic laws sustain and substand the solar systemic form through which a Solar Logos expresses. Such laws are great ‘sustainers of relationship and without them, all that is related in a particular way would cease to be related.

68. Các định luật vũ trụ và hệ thống duy trì và nâng đỡ hình tướng thái dương hệ qua đó một Thái dương Thượng đế biểu hiện. Những định luật như vậy là những ‘đấng nâng đỡ mối quan hệ’ vĩ đại, và nếu không có chúng, mọi cái vốn liên hệ theo một cách thức đặc thù sẽ thôi không còn được liên hệ.

By an act of will the planetary schemes persist, by an act of will the system IS;

Bằng một hành vi ý chí, các hệ hành tinh tồn tại, bằng một hành vi ý chí, hệ HIỆN HỮU;

69. Laws are acts of will. Divine Will sustains Divine Relationship. Should will cease, law would cease. Should law cease, then relationship would cease and chaos ensue.

69. Các định luật là những hành vi ý chí. Thiêng Ý duy trì Mối Quan Hệ Thiêng Liêng. Nếu ý chí ngưng, định luật sẽ ngưng. Nếu định luật ngưng, thì mối quan hệ sẽ ngưng và hỗn loạn sẽ xảy ra.

70. That which sustains planetary schemes in existence is the will of the Solar Logos.

70. Cái duy trì các hệ hành tinh hiện hữu là ý chí của Thái dương Thượng đế.

by an act of the egoic will man appears.

bằng một hành vi của ý chí chân ngã, con người xuất hiện.

71. This “egoic will” can be considered the will of the Monad through the spiritual triad, both expressive through the vehicle which the Solar Angel provides, so that monadic will (thus meditated) can create the personality of man.

71. “Ý chí chân ngã” này có thể được xem là ý chí của Chân thần xuyên qua Tam Nguyên Tinh Thần, cả hai biểu hiện qua vận cụ do Thái dương Thiên Thần cung cấp, để ý chí chân thần (được trung giới như thế) có thể tạo ra phàm ngã của con người.

72. Of course, the Solar Angel is involved in the generation of “egoic will”.

72. Tất nhiên, Thái dương Thiên Thần có dự phần vào sự hình thành “ý chí chân ngã”.

When the Will of the Logos, of the Heavenly Man, and of the human divine Ego is turned to other ends, the substance of Their vehicles is affected, and disintegration sets in.

Khi Ý Chí của Thái dương Thượng đế, của Đấng Thiên Nhân, và của Chân ngã thần linh con người chuyển sang những cứu cánh khác, thì chất liệu của các vận cụ của Các Ngài bị tác động, và sự phân rã khởi phát.

73. From this perspective, pralaya can be considered a redirection of attention. The will of any entity reaches the field upon which that will is to be imposed through the medium of directed attention.

73. Từ viễn cảnh này, giai kỳ qui nguyên có thể được xem là một sự tái hướng sự chú ý. Ý chí của bất kỳ thực thể nào chạm đến lĩnh vực mà ý chí ấy sẽ được áp đặt thông qua môi giới của sự chú tâm có định hướng.

74. Will sustains relationship. There is no manifestation without relationship. The withdrawal of will is the removal of that which sustains relationship and “disintegration sets in”.

74. Ý chí duy trì mối quan hệ. Không có hiện lộ nếu không có mối quan hệ. Sự rút lui của ý chí là sự loại bỏ cái nâng đỡ mối quan hệ và “phân rã khởi phát”.

The five types of pralaya which concern the human unit are as follows:

Năm loại giai kỳ qui nguyên liên quan đến đơn vị nhân loại như sau:

75. Now we enter a more detailed description of the kinds of pralaya which the human unit can experience.

75. Bây giờ chúng ta đi vào mô tả chi tiết hơn các loại giai kỳ qui nguyên mà đơn vị nhân loại có thể trải nghiệm.

76. We might as well list all five types of pralaya at the outset:

76. Chúng ta cũng có thể liệt kê cả năm loại giai kỳ qui nguyên ngay từ đầu:

a. The period of pralaya between two incarnations

a. Giai đoạn giai kỳ qui nguyên giữa hai lần lâm phàm

b. The period between egoic cycles

b. Giai đoạn giữa các chu kỳ chân ngã

c. The period wherein the man has attained freedom

c. Giai đoạn trong đó con người đạt tự do

d. Planetary pralaya

d. Giai kỳ qui nguyên hành tinh

e. The Great Pralaya

e. Đại Giai kỳ Qui nguyên

(1) The period of pralaya between two incarnations.

(1) Giai đoạn giai kỳ qui nguyên giữa hai lần lâm phàm.

77. This, we remember, is the least of the four types of pralaya originally mentioned:

77. Chúng ta nhớ rằng đây là loại ít quan trọng nhất trong bốn loại giai kỳ qui nguyên đã được nêu lúc đầu:

a. Solar pralaya (concerning occult centuries)

a. Giai kỳ qui nguyên Thái dương (liên quan đến các thế kỷ huyền môn)

b. Planetary pralaya (concerning manvantaras)

b. Giai kỳ qui nguyên hành tinh (liên quan đến các giai kỳ sinh hóa)

c. Individual pralaya (appearing at the time of the fifth initiation).

c. Giai kỳ qui nguyên cá nhân (xuất hiện vào thời điểm lần điểm đạo thứ năm).

d. Finally, “devachanic” pralaya

d. Sau cùng, giai kỳ qui nguyên “Devachan”

This is of a triple nature and affects the substance of the three vehicles, physical, astral and mental, reducing the form to its primitive substance, and dissipating its atomic struc­ture.

Điều này có bản tính tam phân và tác động lên chất liệu của ba vận cụ—hồng trần, cảm dục và trí tuệ— giảm hình tướng về chất liệu sơ nguyên của nó , và làm tan rã cấu trúc nguyên tử của nó.

78. The nature of this type of pralaya is “triple” because of the three types of personality vehicles which must undergo disintegration.

78. Bản tính của loại giai kỳ qui nguyên này là “tam phân” vì ba loại vận cụ phàm ngã phải trải qua sự phân rã.

79. Pralaya seems a very complete process if all substance composing the personality vehicles is to be reduce to “primitive substance”.

79. Giai kỳ qui nguyên xem ra là một tiến trình rất trọn vẹn nếu mọi chất liệu cấu thành các vận cụ phàm ngã phải được giảm về “chất liệu sơ nguyên”.

80. By primitive substance, do we mean “atomic substance”?

80. Bởi “chất liệu sơ nguyên”, chúng ta có ý “chất liệu nguyên tử” chăng?

81. There are many types of atoms to be found on the six subsidiary or molecular subplanes of any systemic plane. Are we to suppose that all matter composing the personality vehicles is reduced to atomic matter (characteristic of the plane in question) and then returned to the “great reservoir”. Or are we to suppose that the atoms of each vehicle are reduced to their original subplane nature and thence returned to the great reservoir as atoms of a particular subplane?

81. Có nhiều loại nguyên tử hiện hữu trên sáu cõi phụ hay cõi phân tử của bất kỳ cõi hệ thống nào. Chúng ta có nên giả định rằng mọi chất liệu cấu thành các vận cụ phàm ngã đều được giảm về chất liệu nguyên tử (đặc trưng của cõi liên hệ) rồi trả về “kho chứa” vĩ đại chăng? Hay chúng ta nên giả định rằng các nguyên tử của mỗi vận cụ được giảm về bản tánh cõi phụ nguyên thủy của chúng và từ đó được hoàn nguyên về kho chứa vĩ đại như những nguyên tử của một cõi phụ đặc thù?

82. If the substance of the three vehicles is to have its atomic structure dissipated, how thorough-going is this dissipation? Every subplane of the etheric, astral and lower mental plane (for instance) has its characteristic atomic structure. Is there any reason to suppose that the various types of subplane matter which went to the constitution of the personality vehicles of the human being should be reduced beyond its subplane identity?

82. Nếu chất liệu của ba vận cụ phải có cấu trúc nguyên tử của nó bị làm tiêu tán, thì mức độ triệt để của sự tiêu tán này đến đâu? Mỗi cõi của cõi dĩ thái, cõi cảm dục và cõi hạ trí (chẳng hạn) đều có cấu trúc nguyên tử đặc trưng của nó. Có lý do gì để giả định rằng những loại cấu trúc nguyên tử khác nhau vốn xác định các cõi phụ của cõi dĩ thái, cõi cảm dục và cõi hạ trí lại biến mất khi con người trải qua giai kỳ qui nguyên giữa các kiếp lâm phàm không? Các cõi phụ này và cấu trúc nguyên tử độc đáo của chúng tồn tại độc lập với các vận cụ được cấu thành từ chất liệu các cõi phụ ấy.

83. The clue may lie in the fact that matter on the physical plane, for instance, is composed of vast aggregates of atoms—there are molecules, complex molecules, cells, etc. Such aggregations may also be found on the astral and lower mental plane, and may (through the processes of pralaya) be subjected to a de-aggregation to subplane substance (i.e., to atoms characteristic of the various subplanes) or, in the most drastic case, to the atomic matter of that particular systemic plane.

83. Nên nghiên cứu kỹ các chương thích hợp trong Huyền Học về Hóa họcNhững Nguyên lý Đầu tiên của Thông Thiên Học,

84. The degree to which the atoms characteristic of any particular subplane may be de-aggregated will require further investigation. Clearly the types of atomic structures which define the various subplanes of the etheric, astral and lower mental plane do not disappear when the human being experiences inter-incarnational pralaya. These subplanes and their unique atomic structure exist independently of the vehicles which are composed of such subplane matter.

85. A close study of pertinent chapters in Occult Chemistry and First Principles of Theosophy is recommended.

The energy of the second aspect (that of the form-builder) is withdrawn by the will of the Ego, [735] and the atoms composing the form become dissociated from each other, and are resolved into the reservoir of essence to be re-collected again when the hour strikes.

Năng lượng của phương diện thứ hai (phương diện kiến tạo hình tướng) được rút lại bởi ý chí của Chân ngã , [735] và các nguyên tử cấu thành hình tướng bị tách rời khỏi nhau, và được hoàn nguyên vào kho chứa tinh chất để một lần nữa được tập hợp lại khi giờ điểm đến.

86. There is reason to believe that the same atoms associated with the human being during incarnation are regathered for building the vehicles of his next incarnation.

86. Có lý do để tin rằng chính những nguyên tử đã liên hệ với con người trong lâm phàm được tái tụ hợp để xây dựng các vận cụ cho lần lâm phàm kế tiếp của y.

87. The following quotation points to this regathering:

87. Trích dẫn sau đây chỉ đến sự tái tụ hợp ấy:

The lesser lives (which are governed by the Moon) have been dispersed. They no longer respond to the ancient call of the reincarnating soul, which again and again has gathered to itself the lives which it has touched and coloured by its quality in the past. (R&I 101)

Các sự sống bé nhỏ (vốn được Mặt Trăng cai quản) đã bị phân tán. Chúng không còn đáp ứng tiếng gọi xưa của linh hồn tái sinh , vốn hết lần này đến lần khác đã thu góp cho mình các sự sống mà nó đã chạm tới và nhuộm màu bằng phẩm tính của nó trong quá khứ. (R&I 101)

88. It seems logical to assume that the “reservoir of essence” includes atoms of all kinds—not just atoms of the kind which exist on the atomic subplane.

88. Có vẻ hợp lý khi giả định rằng “kho chứa tinh chất” bao gồm các nguyên tử của mọi loại—không chỉ các nguyên tử thuộc loại hiện hữu trên cõi phụ nguyên tử.

89. Ever since the Second Logos at the Second Outpouring did His work, atoms for each systemic plane have been built into six types subsidiary to the atoms of the first or atomic subplane (of any particular systemic plane) which Fohat differentiated.

89. Kể từ khi Thượng đế thứ Hai tại Lần Tuôn Đổ thứ Hai làm công việc của Ngài, các nguyên tử cho mỗi cõi hệ thống đã được cấu tạo thành sáu loại phụ thuộc loại nguyên tử của cõi phụ thứ nhất hay cõi phụ nguyên tử (của bất kỳ cõi hệ thống nào) vốn do Fohat biến phân.

90. We are speaking of the death process. The “will of the Ego” is involved in inducing that dissociation of atoms, which we call “death”, by withdrawing the magnetic or second aspect of divinity.

90. Chúng ta đang nói về tiến trình chết. “Ý chí của Chân ngã” dính dự vào việc gây nên sự tách rời các nguyên tử, điều chúng ta gọi là “chết”, bằng cách rút lại năng lượng từ tính hay phương diện thứ hai của Thiêng liêng.

91. It is as if the “will to cohesion” ceases, the subtle energy relationships which are the form in essence also cease and the form falls apart.

91. Như thể “ý chí kết tụ” chấm dứt, các quan hệ năng lượng tinh vi vốn hình tướng trong yếu tính cũng chấm dứt và hình tướng rã rời.

This condition is brought about gradually by stages of which we are aware:

Tình trạng này được mang lại dần dần qua các giai đoạn mà chúng ta đều biết:

92. DK is beginning a preliminary discussion of the “death” process. As we know, He elaborates on this extensively in Esoteric Healing.

92. Chân sư DK bắt đầu một bàn luận sơ bộ về tiến trình “chết”. Như chúng ta biết, Ngài triển khai điều này rất rộng trong Trị Liệu Huyền Môn.

              The first stage is the withdrawal of the life force in the etheric vehicle from the threefold (dense, liquid and gas­eous) dense physical body and the consequent “falling into corruption,” and becoming “scattered to the elements.”

Giai đoạn thứ nhất là rút lực sống trong thể dĩ thái khỏi thể xác ba phần (đậm đặc, lỏng và khí) và hệ quả là “rơi vào sự hư nát,” và trở nên “tản mác vào các nguyên tố.”

93. This is what we (given our present level of ignorance of the esoteric facts) usually call “death”. There has been a great search in the occult and spiritual literature for the “body incorruptible”. The dense physical body has no part in the manifestation of this incorruptible inner body.

93. Đây là điều mà chúng ta (với mức độ chưa biết nhiều về các sự kiện huyền môn hiện nay) thường gọi là “chết”. Đã có một cuộc tìm kiếm lớn trong văn học huyền học và tinh thần về “thân thể bất hoại”. Thể xác đậm đặc không có phần trong sự biểu lộ của thể nội tại bất hoại này.

94. The strictly physical matter is, by one means or another, “scattered to the elements”. Clearly the process of cremation is mores successful at accomplishing this than burial in the earth. Mummification works in the opposite direction.

94. Chất liệu hồng trần đúng nghĩa, bằng cách này hay cách khác, “tản mác vào các nguyên tố”. Rõ ràng tiến trình hỏa táng thành công hơn trong việc đạt điều này so với việc an táng dưới đất. Ướp xác thì theo hướng ngược lại.

Ob­ject­ive man fades out, and is no more seen by the physical eye, though still in his etheric body. When etheric vision is developed, the thought of death will assume very different proportions.

Con người khách quan phai mờ, và không còn được thấy bằng mắt phàm, dù vẫn còn trong thể dĩ thái, Khi thị kiến dĩ thái được khai mở, tư tưởng về cái chết sẽ mang những tỷ lệ rất khác.

95. The development of etheric vision, we are told, is imminent, and so a great change in the attitude to death is also imminent.

95. Sự phát triển của thị kiến dĩ thái, như chúng ta được cho biết, là điều cận kề, và do vậy một thay đổi lớn trong thái độ đối với cái chết cũng là cận kề.

96. If the thought of death “will assume very different proportions” then, speaking in terms of proportionality, it will not loom so large in the consciousness of man.

96. Nếu tư tưởng về cái chết “sẽ mang những tỷ lệ rất khác” thì, nói về tỷ lệ, nó sẽ không còn lừng lững đến thế trong tâm thức con người.

97. Much fear will be eliminated and with this elimination will come an effective change in human values.

97. Nhiều sợ hãi sẽ được loại bỏ và với sự loại bỏ này sẽ đến một thay đổi hữu hiệu trong các giá trị của nhân loại.

When a man can be seen functioning in his etheric physical body by the majority of the race, the drop­ping of the dense body will be considered just a “release.”

Khi một con người có thể được thấy đang hoạt động trong thể dĩ thái hồng trần của y bởi đa số nhân loại, thì việc bỏ thể đậm đặc sẽ được xem chỉ như một “sự phóng thích.”

98. We are suffering from a major ‘inversion of thought’ when it comes to our attitude towards death. We consider it annihilation, whereas etheric vision will reveal it as “release”. Already, there are many who understand it to be thus.

98. Chúng ta đang chịu một ‘đảo nghịch tư duy’ lớn khi xét đến thái độ đối với cái chết. Chúng ta xem nó như tiêu diệt, trong khi thị kiến dĩ thái sẽ hiển lộ nó như “phóng thích”. Đã có nhiều người hiểu như vậy rồi.

              The next stage is the withdrawal of the life force from the etheric body or coil, and its devitalisation. The etheric coil is but an extension of one aspect of the sutratma or thread, and this thread is spun by the Ego from within the causal body much as a spider spins a thread.

Giai đoạn kế là rút lực sống khỏi thể dĩ thái hay cuộn dĩ thái , và việc làm cho nó mất sinh lực. Cuộn dĩ thái chỉ là một sự kéo dài của một phương diện của sutratma hay sợi dây, và sợi dây này được Chân ngã từ trong thể nguyên nhân quay ra hệt như con nhện quay tơ.

99. Important ideas are here expressed. The etheric body is of one piece.

99. Ở đây nêu ra những ý niệm quan trọng. Thể dĩ thái là một khối đồng nhất.

100. We must not think of the sutratma as completely homogeneous; it has, so we see, more than one aspect.

100. Chúng ta không nên nghĩ sutratma là hoàn toàn thuần nhất; nó, như chúng ta thấy, có hơn một phương diện.

101. Who or what is the “Ego” which spins this thread (which must already be an extension of the life thread emanating from the Monad?) Is this the real man (in the spiritual triad) working within the causal body and under the direction of the Solar Angel?

101. “Chân ngã” nào quay sợi dây này (vốn hẳn đã là một sự kéo dài của sinh mệnh tuyến phát xuất từ Chân thần?) Có phải đây là chân nhân (trong Tam Nguyên Tinh Thần) hoạt động trong thể nguyên nhân và dưới sự điều động của Thái dương Thiên Thần?

102. The Ego within the causal body is certainly vitalized from above, for the Monad is, through the Jewel in the Lotus, present within the causal body, and the Solar Angel (whether considered singular or plural) is/are ever sustaining that vehicle.

102. Chân ngã trong thể nguyên nhân dĩ nhiên được tiếp sinh lực từ trên, vì Chân thần, qua Viên Ngọc trong Hoa Sen, có mặt trong thể nguyên nhân, và Thái dương Thiên Thần (dù xem là đơn hay đa) luôn duy trì vận cụ đó.

103. We see that the etheric body is really an extension of the life within the causal body and that this life is part of a greater sutratma, ultimately emanating from the Monad.

103. Chúng ta thấy rằng thể dĩ thái thật ra là một sự kéo dài của sinh lực trong thể nguyên nhân và sinh lực này là một phần của một sinh mệnh tuyến lớn hơn, tối hậu phát xuất từ Chân thần.

104. It would not be surprising to consider this portion of the sutratma as an extension of the energy and presence of the Jewel in the Lotus which, itself, is an extension of the energy and presence of the Monad.

104. Sẽ không ngạc nhiên khi xem phần này của sinh mệnh tuyến như một sự kéo dài năng lượng và hiện diện của Viên Ngọc trong Hoa Sen, vốn tự thân là một sự kéo dài năng lượng và hiện diện của Chân thần.

105. It is when dealing with the term “Ego” that we find it to deal with a number of structures and centers. The term is, thus, very much “blinded”, occultly.

105. Khi xử lý thuật ngữ “Chân ngã”, chúng ta thấy nó liên hệ đến một số cấu trúc và trung tâm. Thuật ngữ này, như vậy, rất “được làm mờ” theo nghĩa huyền môn.

It can be short­ened or extended at will,

Nó có thể được rút ngắn hay kéo dài theo ý chí ,

106. What is it that can be “shortened or extended at will”? Are we not speaking of the vitalization or devitalization of the etheric body? Of the vitalization or devitalization of the “coil”?

106. Cái gì có thể “được rút ngắn hay kéo dài theo ý chí”? Chúng ta chẳng đang nói về việc tiếp sinh lực hay khử sinh lực của thể dĩ thái sao? Về việc tiếp sinh lực hay khử sinh lực của “cuộn dĩ thái”?

107. We must consider well whose will is involved in this shortening or extension.

107. Chúng ta phải cân nhắc kỹ ý chí của ai liên quan đến việc rút ngắn hay kéo dài này.

108. A life can be shortened or extended. A “thread”, too can be shortened or extended.

108. Một đời người có thể bị rút ngắn hay kéo dài. Một “sợi dây” cũng có thể bị rút ngắn hay kéo dài.

109. Is the ‘shortening’ of the thread another way of speaking of the withdrawal of vitality from the dense physical body?

109. Việc ‘rút ngắn’ sợi dây có phải là một cách khác để nói về sự rút lui sinh lực khỏi thể xác đậm đặc?

110. We may judge that the will of the soul has a significant role to play in the shortening or extension of human life upon the physical plane.

110. Chúng ta có thể phán đoán rằng ý chí của linh hồn có một vai trò quan trọng trong việc rút ngắn hay kéo dài đời sống con người trên cõi hồng trần.

and when the period of pra­laya has been decided upon,

và khi thời kỳ Giai kỳ qui nguyên đã được quyết định,

111. Who is it that decides this? Is it the Monad through the true and the shrouded Ego (i.e., the spiritual triad and the Ego within the causal body)? Is it the Solar Angel who decides or is the decision performed in spiritual consultation with the supervising Solar Angel? Is man the personality (and his personality will) involved to some extent, especially as the personality consciousness begins to identify as the egoic consciousness?

111. Ai là người quyết định điều này? Có phải là Chân thần, thông qua chân ngã chân thật và chân ngã được che phủ (tức Tam Nguyên Tinh Thần và Chân ngã trong thể nguyên nhân)? Có phải Thái dương Thiên Thần quyết định hay quyết định đó được đưa ra trong sự tham vấn tinh thần với Thái dương Thiên Thần giám sát? Con người với tư cách phàm ngã (và ý chí phàm ngã của y) có can dự phần nào chăng, nhất là khi tâm thức phàm ngã bắt đầu đồng hoá với tâm thức chân ngã?

112. We can see that the matter has the potential of being subtle and complex. This is why the ‘appointed time’ of death seems to be rather elastic.

112. Chúng ta có thể thấy vấn đề này tiềm ẩn sự vi tế và phức tạp. Vì vậy, ‘thời điểm đã định’ của cái chết dường như khá co giãn.

this thread of light, or of solar fire (note the word “solar”) is withdrawn, and gathered back to the atomic subplane where it will still vitalise the perma­nent atom and hold it connected within the causal body.

sợi dây ánh sáng này, hay của Lửa Thái dương (lưu ý từ “Thái dương”) được thu hồi , và gom trở về cõi phụ nguyên tử nơi đó nó vẫn sẽ tiếp sinh lực cho nguyên tử trường tồn và giữ nó nối kết bên trong thể nguyên nhân.

113. Some really important occult detail is given here. The sutratma is to be considered as a “thread of light”—not only a thread of life. Vibratorily, “light” and “life” may be considered equivalent. With regard to manifestation, all is vibration.

113. Ở đây đưa ra một chi tiết huyền bí thật sự quan trọng. Sutratma nên được xem như một “sợi dây ánh sáng”—không chỉ là sợi dây sự sống. Xét về rung động, “ánh sáng” và “sự sống” có thể được coi là tương đương. Xét về sự biểu lộ, tất cả đều là rung động.

114. We note that, this aspect of the sutratma is composed of “solar fire” and not of electric fire.

114. Chúng ta lưu ý rằng, phương diện này của sutratma được cấu thành bởi “Lửa Thái dương” chứ không phải Lửa điện.

115. So it is solar fire that vitalizes the etheric body principally and makes of it an extension of that solar vehicle we call the egoic lotus or causal body.

115. Vì vậy, chính Lửa Thái dương tiếp sinh lực chủ yếu cho thể dĩ thái và biến nó thành phần mở rộng của vận cụ Thái dương mà chúng ta gọi là Hoa Sen Chân Ngã hay thể nguyên nhân.

116. The “thread of light”, once withdrawn, is to vitalize the physical permanent atom. The permanent atom is not only connected to the causal body but is, in many respects, within the causal body. This “thread of light” plays a role, it seems, in sustaining this connection between the physical permanent atom and the causal body.

116. “Sợi dây ánh sáng”, khi đã được thu hồi, sẽ tiếp sinh lực cho nguyên tử trường tồn hồng trần. Nguyên tử trường tồn không chỉ nối kết với thể nguyên nhân mà về nhiều phương diện còn ở trong thể nguyên nhân. “Sợi dây ánh sáng” này, có vẻ như, đóng vai trò duy trì mối liên kết giữa nguyên tử trường tồn hồng trần và thể nguyên nhân.

The life impulses are then—as far as the physical plane is con­cern­ed—centralised within the atomic sphere.

Các xung lực sự sống sau đó—xét riêng về cõi hồng trần—được tập trung trong hình cầu nguyên tử.

117. There are “life impulses”—not just a single life impulse. These impulses have reference to all the planes and not just the physical. We are, at present however, speaking of a portion of the withdrawal process which concerns the physical plane.

117. Có những “xung lực sự sống”—không chỉ một xung lực duy nhất. Những xung lực này liên quan đến mọi cõi chứ không chỉ cõi hồng trần. Tuy nhiên, hiện tại chúng ta đang nói về một phần của tiến trình rút lui liên quan đến cõi hồng trần.

118. The “thread of light”, that portion of the sutratma which is made of solar fire, is withdrawn from the strictly physical body and is centralized in the physical permanent atom or atomic sphere where it continues to vitalize that atom.

118. “Sợi dây ánh sáng”, phần của sutratma được cấu bằng Lửa Thái dương, được rút khỏi thể hồng trần đậm đặc và được tập trung trong nguyên tử trường tồn hồng trần hay hình cầu nguyên tử, nơi nó tiếp tục tiếp sinh lực cho nguyên tử ấy.

              The third stage is the withdrawal of the life force from the astral form so that it disintegrates in a similar manner and the life is centralised within the astral permanent atom.

Giai đoạn thứ ba là sự rút lui của lực sống khỏi hình thể cảm dục, để hình thể này tan rã theo cách tương tự, và sự sống được tập trung trong nguyên tử trường tồn cảm dục.

119. It is of significance that whenever the life force is withdrawn from a vehicle, the withdrawn life force is centralized in the permanent atom which is responsible for sustaining that particular vehicle.

119. Điều đáng lưu ý là bất cứ khi nào lực sống được rút khỏi một vận cụ, lực sống được rút lui ấy lại được tập trung vào nguyên tử trường tồn, vốn chịu trách nhiệm duy trì vận cụ đặc thù đó.

120. Presumably, the withdrawn life force plays its part in sustaining the connection between the astral permanent atom and the causal body.

120. Suy ra, lực sống được rút lui đóng phần của mình trong việc duy trì mối liên kết giữa nguyên tử trường tồn cảm dục và thể nguyên nhân.

It has gained an increase of vitality through physical plane existence, and added colour through astral experience.

Nó đã thu được sự gia tăng sinh lực nhờ sự sống trên cõi hồng trần, và thêm màu sắc nhờ kinh nghiệm cảm dục.

121. We are speaking of how the life force is modified by its expression through the various vehicles of the personality. It appears that the vitality of the life force is always increasing as a result of expression through the physical-etheric vehicle and that it gains colour through its astral expression.

121. Chúng ta đang nói về cách lực sống được biến đổi bởi sự biểu lộ của nó qua các vận cụ khác nhau của phàm ngã. Có vẻ như sinh lực của lực sống luôn tăng lên do sự biểu lộ qua hiện thể hồng trần–dĩ thái, và nó thu được màu sắc qua sự biểu lộ cảm dục.

122. What really is this gain of color? Perhaps it is the ability to respond and to express itself in a variety of contrasting ways.

122. Thực sự “thêm màu sắc” là gì? Có lẽ đó là khả năng đáp ứng và tự biểu lộ theo nhiều cách đối sánh tương phản.

              The final stage for the human atom is its withdrawal [736] from the mental vehicle.

Giai đoạn cuối cùng đối với nguyên tử nhân loại là sự rút lui [736] khỏi hiện thể trí.

123. Here we are speaking of the lower manasic vehicle.

123. Ở đây chúng ta đang nói về hiện thể manasic hạ trí.

The life forces after this fourfold abstraction are centralised entirely within the egoic sphere;

Sau sự trừu xuất tứ phân này, các lực sống được tập trung hoàn toàn trong khối cầu chân ngã;

124. If we follow the analogy thus far established, we would expect some centralization (at least temporary) in the mental unit. Would this not be necessary for the devachanic experience?

124. Nếu chúng ta theo phép tương đồng đã thiết lập đến đây, chúng ta sẽ mong đợi sự tập trung nào đó (ít nhất là tạm thời) trong đơn vị hạ trí. Điều này chẳng phải là cần thiết cho kinh nghiệm Devachan sao?

125. Of course, we must remember that the physical permanent atom, the astral permanent atom and the mental unit have an occult ‘location’ entirely within the egoic sphere.

125. Tất nhiên, chúng ta phải nhớ rằng nguyên tử trường tồn hồng trần, nguyên tử trường tồn cảm dục và đơn vị hạ trí có một ‘vị trí’ huyền bí hoàn toàn ở trong khối cầu chân ngã.

contact with the three lower planes is still inherently possible by means of the permanent atoms, the force centres of the three personality aspects.

sự tiếp xúc với ba cõi thấp vẫn vốn có thể có nhờ các nguyên tử trường tồn, những trung tâm lực của ba phương diện phàm ngã.

126. We see that the Tibetan calls all three points of force by the name “permanent atoms”. Technically, the mental unit is not a permanent atom.

126. Chúng ta thấy rằng Chân sư Tây Tạng gọi cả ba điểm lực này là “các nguyên tử trường tồn”. Về mặt kỹ thuật, đơn vị hạ trí không phải là một nguyên tử trường tồn.

127. Each permanent atom represents, as we have been taught, the seventh principle of that particular vehicle which it controls.

127. Mỗi nguyên tử trường tồn, như chúng ta đã được dạy, đại diện cho nguyên khí thứ bảy của hiện thể đặc thù mà nó cai quản.

In each incarnation the life forces have gained through the utilisation of the vehicles,

Trong mỗi lần lâm phàm, các lực sống đã thu hoạch được qua việc sử dụng các vận cụ,

128. We are speaking of the intensification of the life forces through the utilization of the personality vehicles.

128. Chúng ta đang nói về sự tăng cường các lực sống thông qua việc sử dụng các vận cụ của phàm ngã.

a. An increased activity, which is stored in the physical permanent atom.

a. Một hoạt tính gia tăng , được lưu trữ trong nguyên tử trường tồn hồng trần.

b. An added colouring, which is stored in the astral permanent atom.

b. thêm màu sắc , được lưu trữ trong nguyên tử trường tồn cảm dục.

c. A developed quality of strength, or purpose in action, which is stored in the mental unit.

c. Một phẩm tính sức mạnh đã phát triển, hoặc mục đích trong hành động , được lưu trữ trong đơn vị hạ trí.

129. Here, we see that DK does speak of the life force abstracted from the lower mental body as centralized in the mental unit (which is, of course, within the confines of the causal body).

129. Ở đây, chúng ta thấy rằng Chân sư DK nói về lực sống được trừu xuất khỏi hạ trí như là được tập trung trong đơn vị hạ trí (dĩ nhiên, vốn ở trong giới hạn của thể nguyên nhân).

130. It is very interesting to see how DK describes the nature of the energy or the quality of the energy which is centralized in the three constituents of the atomic triangle:

130. Thật thú vị khi thấy Chân sư DK mô tả bản chất của năng lượng hay phẩm chất năng lượng được tập trung trong ba thành phần của tam giác nguyên tử như sau:

a. Activity or vitality is stored in the physical permanent atom

a. Hoạt tính hay sinh lực được lưu trữ trong nguyên tử trường tồn hồng trần

b. Added coloring (presumably the ability to respond to contrasts and express sentient contrasts) is stored in the astral permanent atom

b. Màu sắc thêm vào (suy ra là khả năng đáp ứng với các đối sánh và biểu lộ các tương phản cảm tính) được lưu trữ trong nguyên tử trường tồn cảm dục

c. Strength or purpose in action (qualities related to the will) are stored in the mental unit. The mental unit is, in fact, a vehicle for the personal will and with added soul infusion, for the egoic will.

c. Sức mạnh hay mục đích trong hành động (các phẩm tính liên hệ với ý chí) được lưu trữ trong đơn vị hạ trí. Thật vậy, đơn vị hạ trí là một vận cụ cho ý chí cá nhân và, với sự thấm nhuần linh hồn gia tăng, cho ý chí chân ngã.

These are wrought into faculty in devachan.

Những điều này được rèn thành năng lực trong Devachan.

131. This is a sentence of real importance. It is not that devachan is a period of idle, pleasure-full enjoyment. It has a definite occult purpose—to develop the vitalized, colored, or will-enhanced life force, stored in the members of the atomic triangle, into an increase of faculty.

131. Đây là một câu hết sức quan trọng. Devachan không phải là một thời kỳ nhàn rỗi, hưởng lạc. Nó có mục đích huyền bí xác định—phát triển lực sống đã được tiếp sinh lực, thêm màu, hay được tăng cường ý chí, vốn được lưu trữ trong các thành viên của tam giác nguyên tử, thành sự tăng trưởng năng lực.

132. That increase of faculty can be expressed in the next incarnation. Without the devachanic processes, such expression would not be possible.

132. Sự gia tăng năng lực đó có thể được biểu lộ trong lần lâm phàm kế tiếp. Không có các tiến trình devachanic, sự biểu lộ như vậy sẽ không thể có.

133. This calls attention to the sacrifice which disciples undertake when they forego devachan in order to more rapidly re-enter their sphere of service on the dense physical subplane through the process of incarnation.

133. Điều này lưu ý đến sự hy sinh mà các đệ tử đảm nhận khi họ từ bỏ Devachan để sớm hơn tái nhập lĩnh vực phụng sự của mình trên cõi phụ đậm đặc hồng trần qua tiến trình lâm phàm.

Devachan 45,46 is a state of consciousness, reflecting, in [737] the life of the Personality, that higher state which we call nirvanic consciousness, and which is brought about by egoic action.

Devachan 45,46 là một trạng thái tâm thức, phản chiếu, trong  [737]  đời sống của Phàm ngã, trạng thái cao hơn mà chúng ta gọi là tâm thức Niết Bàn, và trạng thái này được tạo nên bởi hành động của chân ngã.

134. Here is an excellent definition of devachan. We see that devachan is not really an egoic state even though it is brought about by egoic action.

134. Đây là một định nghĩa tuyệt hảo về Devachan. Chúng ta thấy rằng Devachan không thực sự là một trạng thái thuộc về chân ngã, dù nó được tạo nên bởi hành động của chân ngã.

135. If the atmic plane is the “nirvanic plane”, then the devachanic state in some manner reflects it. There is a definite connection between the atmic and mental planes.

135. Nếu cõi atma là “cõi Niết Bàn”, thì trạng thái devachanic ở một mức độ nào đó phản chiếu nó. Có một mối liên hệ xác quyết giữa cõi atma và cõi trí.

136. Devachan occurs on the lower mental plane (still within the lower three worlds) just below the level of the Ego in the causal body; the atmic plane (still within the lower five worlds) is a sphere of consciousness found just ‘below’ the level of the Monad within the monadic vehicle.

136. Devachan diễn ra trên cõi hạ trí (vẫn thuộc ba cõi thấp), ngay dưới mức của Chân ngã trong thể nguyên nhân; cõi atma (vẫn trong năm cõi thấp) là một khung tâm thức được tìm thấy ngay ‘bên dưới’ mức của Chân thần trong vận cụ chân thần.

It is but a dim reflection in the separated units (and therefore tinged with selfishness and separative pleasure) of the group condition called nirvanic.

Đó chỉ là một phản chiếu lờ mờ nơi các đơn vị tách rời (và do đó nhuốm tính vị kỷ và lạc thú phân ly ) của tình trạng nhóm được gọi là Niết Bàn.

137. We learn that for all its value (in the preparation of personal faculty), the devachanic experience is still tinged with selfness and separative pleasure, which is one of the reasons why true disciples forego the experience.

137. Chúng ta biết rằng, dù có giá trị (trong việc chuẩn bị năng lực cá nhân), kinh nghiệm devachanic vẫn còn nhuốm tự kỷ và lạc thú phân ly, và đây là một trong những lý do khiến các đệ tử chân chính từ bỏ kinh nghiệm đó.

138. We learn, as well, that Nirvana is a group experience. It is not just a condition of individual release, though it is often discussed in that manner.

138. Chúng ta cũng biết rằng Niết Bàn là một kinh nghiệm mang tính nhóm, Nó không chỉ là một tình trạng cá nhân giải thoát, dù thường được bàn theo cách ấy.

In this high state of consciousness each separate identity, though self-realising, shares in the group realisation, and therein lies bliss for the unit. Separation is no longer felt, only unity and essential oneness is known.

Trong trạng thái tâm thức cao này, mỗi căn cước riêng rẽ, tuy tự chứng ngộ , vẫn chia sẻ sự chứng ngộ nhóm, và trong đó có phúc lạc cho đơn vị. Sự phân ly không còn được cảm nhận, chỉ còn sự hợp nhất và tính đồng nhất cốt yếu được biết.

139. Here is an excellent description of nirvanic consciousness. Nirvana is a state of both Self-realization and group realization. It takes tremendous individual effort to achieve Nirvana, but unless the individual is growing in group consciousness at the same time as he attains individually, Nirvana will not be achieved.

139. Đây là một mô tả tuyệt hảo về tâm thức Niết Bàn. Niết Bàn là trạng thái vừa Tự-chứng ngộ vừa chứng ngộ nhóm. Cần nỗ lực cá nhân to lớn để đạt Niết Bàn, nhưng nếu cá nhân không đồng thời tăng trưởng trong tâm thức nhóm khi y đạt được tư cách cá nhân, Niết Bàn sẽ không đạt được.

140. The state of consciousness in which we know there is “no my soul and thine” is a forerunner of the nirvanic consciousness.

140. Trạng thái tâm thức trong đó chúng ta biết “không có linh hồn của tôi và của anh” là báo trước của tâm thức Niết Bàn.

141. In Nirvana, one realizes oneself, one’s essential unity with others and the whole as well.

141. Trong Niết Bàn, người ta tự nhận biết, nhận biết sự hợp nhất bản chất của mình với những người khác và với toàn thể.

142. Group consciousness is the prelude to bliss-consciousness (the consciousness of oneness).

142. Tâm thức nhóm là khúc dạo đầu của tâm thức phúc lạc (tâm thức về tính nhất ).

Footnote 45:

Chú thích 45:

Deva-Chan. “(3) ‘Who goes to Deva Chan?’ The personal Ego, of course, but beatified, purified, holy.

Deva-Chan. “(3) ‘Ai đi vào Deva Chan?’ Dĩ nhiên là Chân ngã cá nhân, nhưng đã được tôn thánh, thanh tẩy, thánh thiện.

143. It is significant to realize that devachan is not a state of consciousness of the transpersonal Ego, still less of the transcendental Ego (i.e., the Monad).

143. Thật có ý nghĩa khi nhận ra rằng Devachan không phải là một trạng thái tâm thức của Chân ngã vượt phàm, càng không phải của Chân ngã siêu việt (tức Chân thần).

Every Ego—the combi­nation of the sixth and seventh principles—which, after the period of unconscious gestation is reborn into the Deva-Chan, is of necessity as innocent and pure as a new-born babe.

Mỗi Chân ngã—sự kết hợp của nguyên khí thứ sáu và thứ bảy —sau thời kỳ thai nghén vô thức mà được tái sinh vào Deva-Chan, tất yếu vô tội và tinh khiết như một đứa trẻ sơ sinh.

144. Egos are combinations of atma and buddhi (the seventh and sixth principles, respectively). In this respect the Ego is very much the soul of the human being as it expresses on the levels of the cosmic ethers.

144. Các Chân ngã là sự kết hợp của atma và bồ đề (lần lượt là nguyên khí thứ bảy và thứ sáu). Ở phương diện này, Chân ngã rất giống linh hồn con người khi biểu lộ trên các cấp độ của dĩ thái vũ trụ.

145. We note the word “Deva-Chan” suggesting a ‘location’ in which the higher devic forces are very strong.’

145. Chúng ta lưu ý từ “Deva-Chan” gợi ra một ‘địa vực’ trong đó các lực thiên thần cao hơn rất mạnh.

146. We note that entrance into devachan is a kind of “birth”. The lower ego has been purified through its passage through what the Catholics call “Purgatory”—probably a post-mortem astral state involving the purification of desire..

146. Chúng ta lưu ý rằng sự vào Devachan là một kiểu “sinh”. Phàm ngã thấp đã được thanh lọc qua sự đi qua điều mà người Công giáo gọi là “Luyện Ngục”—có lẽ là một trạng thái hậu tử trên cõi cảm dục liên quan đến sự thanh lọc dục vọng.

147. Every entrance into a new field of experience is a kind of “birth”. The human being who has died to the dense physical subplanes is faced with a number of births into higher vibratory realms.

147. Mọi sự đi vào một trường trải nghiệm mới đều là một kiểu “sinh”. Con người đã chết đối với các cõi phụ thể xác đậm đặc sẽ đối diện với một số lần sinh vào các cảnh giới rung động cao hơn.

The fact of his being reborn at all shows the preponderance of good over evil in his old personality.

Việc y được tái sinh chút nào cho thấy thiện thắng thế ác trong phàm ngã cũ của y.

148. The suggestion is that if evil preponderated over good, there would be no rebirth into devachan.

148. Gợi ý ở đây là nếu ác thắng thế thiện, sẽ không có việc tái sinh vào Devachan.

And while the Karma (of evil)

Và trong khi Nghiệp (của điều ác)

149. And, presumably not the karma of good…

149. Và, suy ra không phải nghiệp của điều thiện…

steps aside for the time being

tạm lánh qua một bên

150. i.e., is held in abeyance…

150. tức là, bị treo lại…

to follow him in his future earth-reincarnation, he brings along with him but the Karma of his good deeds, words, and thoughts into this Deva-Chan.

để theo đuổi y trong lần tái lâm phàm trên trần về sau, thì y chỉ mang theo vào Deva-Chan Nghiệp của những việc thiện, lời lành và tư tưởng lành của mình.

151. A beautiful system of compensation is here described. The effects of evil actions temporarily do not reach the ‘deceased’ in this devachanic condition conducive to the augmentation of faculty and quality.

151. Một hệ thống bù trừ tuyệt đẹp được mô tả ở đây. Hậu quả của các hành vi ác tạm thời không chạm tới ‘người quá cố’ trong tình trạng devachanic vốn thuận lợi cho việc tăng trưởng năng lực và phẩm tính.

152. Thus, it is the goodness in any man that expressed in this relatively blissful state upon the lower mental plane—probably the fourth level of the lower mental plane.

152. Như vậy, chính điều thiện nơi mỗi con người được biểu lộ trong trạng thái tương đối phúc lạc này trên cõi hạ trí—có lẽ là cảnh giới thứ tư của cõi hạ trí.

3. The fourth mental sub-plane is the plane of devachan. (TWM 374)

3. Cõi phụ thứ tư của cõi trí là cõi của Devachan. (TWM 374)

153. We note, however, that the effect of “evil” still remains and awaits the reincarnating personal ego in the lower worlds

153. Tuy nhiên, chúng ta lưu ý rằng tác dụng của “ác” vẫn còn và đang chờ phàm ngã tái lâm phàm ở các cõi thấp.

‘Bad’ is a relative term for us—as you were told more than once before, —and the Law of Retribution is the only law that never errs.

‘Ác’ là một thuật ngữ tương đối đối với chúng ta—như anh đã được nói không chỉ một lần trước đây,—và Định luật Báo Ứng là định luật duy nhất không bao giờ sai.

154. Is it being suggested that there are other laws which do err?

154. Có phải đang gợi ý rằng có những định luật khác thể sai?

155. Sinnett suggests the infallible accuracy of this law. Perhaps such accuracy is the result of the extraordinary mathematical acumen of the Lords of Karma, and of the Lipika Lords especially.

155. Ông Sinnett gợi ý sự chuẩn xác vô ngộ của định luật này. Có lẽ sự chuẩn xác như thế là kết quả của năng lực tính toán siêu phàm của các Đấng Chủ Nghiệp, và đặc biệt là của các Đấng Lipika.

Hence all those who have not slipped down into the mire of unredeemable sin and bestiality—go to the Deva-Chan.

Vì vậy, tất cả những ai chưa trượt xuống vũng bùn của tội lỗi không thể chuộc và thú tính—đều đi vào Deva-Chan.

156. Sinnett seems to be suggesting that those who are not firmly upon the left hand path go to Deva-Chan. It is not clear however that those who tread the left hand path slip into the mire of “bestiality”, nor that that their sins astral elemental “unredeemable”. Perhaps, of true black magicians, it could be sad that their sins are “unredeemable”—at least temporarily so.

156. Ông Sinnett dường như đang gợi ý rằng những ai chưa vững vàng trên đường tả đạo thì đi vào Deva-Chan. Tuy nhiên, không rõ liệu những người đi đường tả đạo có trượt vào vũng bùn của “thú tính” hay không, cũng như tội lỗi của họ có “không thể chuộc” đối với các tinh linh cảm dục hay không. Có lẽ, đối với những nhà hắc thuật chân chính, có thể nói rằng tội lỗi của họ “không thể chuộc”—ít nhất là tạm thời.

157. Is there any sin which is utterly unredeemable? Redemption depends upon time. It would seem that all sin is redeemable in a sufficient length of time. Certainly before the final Universal Pralaya, all sin must be redeemable. This conclusion is based upon philosophical thought which necessitates that no one and nothing can be excluded from a universe’s Final Pralaya.

157. Có tội lỗi nào tuyệt đối không thể chuộc chăng? Sự cứu chuộc tùy thuộc vào thời gian. Có vẻ như mọi tội lỗi đều có thể chuộc nếu thời gian đủ dài. Chắc chắn trước Đại Giai kỳ qui nguyên Vũ Trụ cuối cùng, mọi tội lỗi phải có thể được cứu chuộc. Kết luận này dựa trên tư duy triết học, theo đó không ai và không gì có thể bị loại trừ khỏi Đại Qui Nguyên sau cùng của một vũ trụ.

They will have to pay for their sins, voluntary and involuntary, later on. Meanwhile they are rewarded; receive the effects of the causes produced by them.

Họ sẽ phải trả giá cho tội lỗi của mình, cố ý hay vô ý, về sau. Trong khi ấy họ được thưởng; nhận lãnh các hiệu quả của những nguyên nhân do họ tạo ra.

158. Thus, Deva-Chan is a condition of spiritual reward or compensation. From this perspective, we can think of it as very much under the influence of Jupiter with some admixture of Venusian energy.

158. Như vậy, Deva-Chan là một tình trạng thưởng phạt tinh thần theo hướng bù trừ. Từ quan điểm này, chúng ta có thể xem nó chịu ảnh hưởng mạnh của Sao Mộc, với ít nhiều pha trộn năng lượng của Sao Kim.

“Of course it is a state, one, so to say, of intense selfishness during which an Ego reaps the reward of his unselfishness on earth.

“Dĩ nhiên đó là một trạng thái, nói như vậy, của tính vị kỷ mãnh liệt trong đó một Chân ngã gặt hái phần thưởng cho lòng vị tha của y trên trần.

159. This is a paradoxical thought. It becomes clear that in the state of Deva-Chan, one’s higher desires are fulfilled, but altruism does not play a big part.

159. Đây là một tư tưởng nghịch lý. Trở nên rõ rằng trong trạng thái Deva-Chan, các dục vọng cao của một người được thỏa mãn, nhưng lòng vị tha không đóng vai trò lớn.

He is completely engrossed in the bliss of all his per­sonal earthly affections, preferences, thoughts, and gathers in the fruit of his meritorious actions.

Y hoàn toàn bị cuốn hút trong phúc lạc của mọi mối quyến luyến, sở thích, tư tưởng trần thế cá nhân của mình, và gặt hái quả lành của các hành động công đức.

160. We may say that the essential selfishness of Deva-Chan lies in the idea of engrossment.

160. Chúng ta có thể nói rằng cái cốt yếu vị kỷ của Deva-Chan nằm ở ý niệm bị cuốn hút hoàn toàn.

No pain, no grief nor even the shadow of a sorrow comes to darken the bright horizon of his unalloyed happiness; for, it is a state of perpetual ‘Maya.’,.

Không nỗi đau, không phiền sầu, thậm chí không bóng của nỗi buồn nào đến che mờ chân trời rực rỡ của hạnh phúc thuần khiết của y; vì đó là một trạng thái ‘Maya’ thường hằng…

161. The term “Maya” is being used in a general rather than specific sense. In a general sense, the term “Maya” means “Illusion” rather than referring to the chaotic patterning of the etheric-physical plane.

161. Thuật ngữ “Maya” ở đây được dùng theo nghĩa chung hơn là nghĩa chuyên biệt. Theo nghĩa chung, “Maya” có nghĩa là “Ảo tưởng” chứ không chỉ ám chỉ mô thức hỗn độn của cõi dĩ thái–hồng trần.

162. Because there are, in Deva-Chan, no obstacles to fulfillment of one’s personal earthly affections, preferences, thoughts and enjoyments, we might think of it as a condition in which the influence of the planet Saturn (the major planetary Lord of Karma) has little of its usual effects.

162. Bởi vì trong Deva-Chan không có chướng ngại đối với việc thỏa mãn các quyến luyến, sở thích, tư tưởng và khoái lạc trần thế của mình, chúng ta có thể xem đó là một tình trạng trong đó ảnh hưởng của hành tinh Thổ Tinh (vị Chúa Tể hành tinh chủ yếu của Nghiệp) ít phát huy hiệu lực như thường lệ.

. Since the conscious perception of one’s personality on earth is but an evanescent dream that sense will be equally that of a dream in the Deva-Chan—only a hundredfold intensified.”

Vì nhận thức ý thức về phàm ngã của một người trên trần chỉ là một giấc mộng phù du nên cảm giác ấy cũng sẽ là một giấc mộng trong Deva-Chan—chỉ có điều được tăng cường gấp trăm lần.”

163. Life upon the physical plane is as a dream. We learn that Deva-Chan is as a much intensified dream state—far more enjoyable than the often painful ‘dreams’ of earthly life which are confused with realities.

163. Đời sống trên cõi hồng trần như một giấc mộng. Chúng ta biết rằng Deva-Chan như một trạng thái mộng rất được tăng cường—dễ chịu hơn rất nhiều so với những ‘giấc mộng’ thường đau đớn của đời sống trần thế vốn hay bị lẫn lộn với hiện thực.

“‘Bardo’ is the period between death and rebirth—and may last from a few years to a kalpa.

“‘Bardo’ là thời kỳ giữa cái chết và sự tái sinh—và có thể kéo dài từ vài năm đến một kalpa,

164. What an extraordinary statement! For what type of being may the period between death and rebirth last a kalpa? A human being? It would not usually seem so.

164. Thật là một tuyên bố khác thường! Với loại hữu thể nào thì khoảng giữa cái chết và tái sinh có thể kéo dài một kalpa? Một con người chăng? Thường thì không có vẻ như vậy.

165. However, if a kalpa is equal to a manvantara, and a manvantara is designated as a period between the activity of two globes, or even more expansively, as the period between two chains, then we must remember that some human beings who incarnated on the Moon-chain did not reincarnate until they reached the Earth-chain. Under such circumstances, the duration of a kalpa between incarnations would be reasonable

165. Tuy nhiên, nếu một kalpa tương đương một manvantara, và manvantara được chỉ định là khoảng thời gian giữa hoạt động của hai bầu hành tinh, hay rộng hơn nữa, là khoảng thời giữa hai dãy, thì chúng ta phải nhớ rằng có một số con người đã lâm phàm trên Dãy Mặt Trăng và không tái lâm phàm cho đến khi họ đến Dãy Địa Cầu. Trong hoàn cảnh như vậy, độ dài một kalpa giữa các lần lâm phàm sẽ là hợp lý.

166. As well, we must define the true duration of a kalpa. HPB gives precise figures for the duration of the kalpa but we learn that such units as a kalpa or manvantara can have several meanings. The figure given on TCF 39 is 4,320,000,000 years.

166. Đồng thời, chúng ta phải xác định độ dài thật sự của một kalpa. Bà HPB đưa ra con số chính xác cho độ dài của kalpa, nhưng chúng ta biết rằng các đơn vị như kalpa hay manvantara có thể có vài ý nghĩa. Con số được đưa ở TCF 39 là 4.320.000.000 năm.

167. We should also remember that the term “manvantara” may not only equal a period between globes but can be considered the duration of an entire chain round.

167. Chúng ta cũng nên nhớ rằng thuật ngữ “manvantara” không chỉ tương đương với khoảng giữa hai bầu mà còn có thể được xem là độ dài của toàn bộ một vòng dãy.

It is divided into three sub-periods

Nó được phân thành ba tiểu kỳ

168. We are here speaking of the divisions of a the Bardo period.

168. Ở đây chúng ta đang nói về các phân kỳ của thời kỳ Bardo.

(1) when the Ego delivered of its mortal coil enters into Kama-Loka (the abode of Elementaries);

(1) khi Chân ngã, được giải thoát khỏi cuộn phàm trần, đi vào Kama-Loka (chốn ngụ của các vong linh);

169. We are being told that the astral plane is the abode of the earth-bound souls of certain types of deceased human beings. Such souls are called Elementaries.

169. Chúng ta được cho biết rằng cõi cảm dục là chốn ngụ của những linh hồn bám đất thuộc một số loại người đã qua đời. Những linh hồn như vậy được gọi là các vong linh.

170. If we remember what DK said about the etheric body as a “coil”, the term “mortal coil” becomes very interesting. The coiled thread of energy we understand as the etheric body also becomes ‘chains’ of a kind or “coils”.

170. Nếu chúng ta nhớ điều Chân sư DK nói về thể dĩ thái như một “cuộn”, thuật ngữ “cuộn phàm trần” trở nên rất thú vị. Sợi dây năng lượng cuộn lại mà chúng ta hiểu là thể dĩ thái cũng trở thành những ‘dây xích’ theo một nghĩa nào đó hay những “cuộn”.

171. It would seem, however, that stage (1) may include astral experience, since the abode of “Elementaries” is mentioned.

171. Tuy nhiên, có vẻ như giai đoạn (1) có thể bao gồm kinh nghiệm cảm dục, vì có nhắc đến chốn ngụ của “các vong linh”.

(2) when it enters into ‘Gestation State’;

(2) khi nó đi vào “”;

172. It is hinted that this state may be an unconscious one.

172. Có ám chỉ rằng trạng thái này có thể là một trạng thái vô thức.

173. We may imagine that this gestation period occurs either upon the higher astral plane or upon the lower three subplanes of the mental plane.

173. Chúng ta có thể hình dung rằng thời kỳ thai nghén này diễn ra hoặc trên cõi cảm dục cao hoặc trên ba cõi phụ thấp của cõi trí.

174. We gather, from what is said below, that the ‘Gestation State’ can be a long one.

174. Từ điều được nói dưới đây, chúng ta hiểu rằng ‘Thời kỳ Thai Nghén’ có thể là dài.

(3) when it is reborn in the Rupa-Loka of Deva-Chan.

(3) khi nó được tái sinh trong Rupa-Loka của Deva-Chan.

175. A “Rupa-Loka” is still a state of form—the meaning of the word “Rupa”.

175. “Rupa-Loka” vẫn là một trạng thái hình tướng —ý nghĩa của từ “Rupa”.

176. Not much is made of the personal ego’s experience within the etheric body, which is still, relatively, a very physical state. Yet, delivery from the “mortal coil” will necessarily involve etheric experience, however brief.

176. Không có nhiều điều được nói về kinh nghiệm của phàm ngã trong thể dĩ thái, vốn vẫn là một trạng thái rất thể chất. Tuy nhiên, việc thoát khỏi “cuộn phàm trần” tất yếu liên quan đến kinh nghiệm dĩ thái, dù ngắn ngủi.

Sub-period (1) may last from a few minutes

Tiểu kỳ (1) có thể kéo dài từ vài phút

177. This would be an ideal delivery and may be expected when cremation is practiced.

177. Đây sẽ là một sự ‘sinh’ mang tính lý tưởng và có thể trông đợi khi hỏa táng được thực hành.

to a number of years —

đến một số năm —

178. One thinks of hauntings when the disembodied ego hovers near the dense physical plane and within the etheric worlds and the lower astral worlds.

178. Người ta nghĩ đến những trường hợp ám lưu, khi chân ngã lìa xác lảng vảng gần cõi hồng trần đậm đặc và trong các thế giới dĩ thái và cảm dục thấp.

179. It is not entirely clear, however, whether the experience upon the astral plane is meant to be included in period (1). Probably it is since the “abode of the Elementaries” is mentioned. There are some souls who can make short work of the astral experience because their consciousness is so little focussed astrally.

179. Tuy nhiên, không hoàn toàn rõ liệu kinh nghiệm trên cõi cảm dục có được tính vào tiểu kỳ (1) hay không. Có lẽ là có, vì có nhắc đến “chốn ngụ của các vong linh”. Có những linh hồn có thể xử lý rất nhanh kinh nghiệm cảm dục vì tâm thức của họ rất ít tập trung nơi cõi cảm dục.

the phrase ‘a few years’ becoming puzzling and utterly worthless without a more complete explanation;

cụm từ ‘vài năm’ trở nên gây bối rối và hoàn toàn vô ích nếu không có lời giải thích đầy đủ hơn;

180. This explanation is not here given.

180. Lời giải thích này không được đưa ra ở đây.

181. If sub-period (1) includes the astral plane, we can speak of “wandering in the wilderness”, for forty symbolic ‘days’.

181. Nếu tiểu kỳ (1) bao gồm cõi cảm dục, chúng ta có thể nói về “lang thang trong hoang mạc”, trong bốn mươi ‘ngày’ mang tính biểu tượng.

Sub-period 2nd is ‘very long’; as you say, longer sometimes than you may even imagine, yet proportionate to the Ego’s spiritual stamina;

Tiểu kỳ thứ hai là ‘rất dài’; như anh nói, đôi khi dài hơn anh có thể tưởng tượng, tuy nhiên tỷ lệ thuận với sức bền tinh thần của Chân ngã;

182. This second period occurs presumably upon the astral plane or upon the lower three subplanes of the mental plane.

182. Tiểu kỳ thứ hai này diễn ra suy ra trên cõi cảm dục hoặc trên ba cõi phụ thấp của cõi trí.

183. The comment about the Ego’s “spiritual stamina” is very interesting. We might understand this as meaning that the greater and stronger the personal ego’s aspiration and power of thought, the longer the period of preparation for the devachanic period. If this is the case, we are not told why it should be.

183. Nhận xét về “sức bền tinh thần” của Chân ngã rất thú vị. Chúng ta có thể hiểu rằng phàm ngã càng hướng thượng và càng có sức mạnh tư tưởng, thì thời kỳ chuẩn bị cho Devachan càng lâu. Nếu như vậy, chúng ta không được cho biết tại sao lại thế.

184. One must wonder whether it is really a question of the higher Ego’s spiritual stamina or whether the acquired strength of the higher Ego influences the stamina of the lower personal ego.

184. Người ta phải tự hỏi liệu đó thực sự là vấn đề về sức bền tinh thần của Chân ngã cao, hay sức mạnh thủ đắc của Chân ngã cao ảnh hưởng đến sức bền của phàm ngã thấp.

185. The Teaching of Master DK through AAB corrected a number of theosophical misconceptions. Theosophists had begun to think that the more spiritually developed they were, the longer they would spend in Deva-Chan. DK has informed us that the most spiritually developed human beings forego the Deva-Chan experience for the sake of applied service upon the physical plane. If Deva-Chan is essentially a ‘selfish’ state, it is inconceivable that those who are highly developed spiritually would desire to spend prolonged periods in a state of blissful self-absorption.

185. Giáo huấn của Chân sư DK qua AAB đã chỉnh lại một số ngộ nhận thông thiên học. Các nhà thông thiên học đã bắt đầu nghĩ rằng họ càng phát triển tinh thần thì họ sẽ ở trong Deva-Chan càng lâu. Chân sư DK đã cho biết rằng những con người phát triển nhất về tinh thần từ bỏ kinh nghiệm Deva-Chan vì mục đích áp dụng phụng sự trên cõi hồng trần. Nếu Deva-Chan về bản chất là một trạng thái ‘vị kỷ’, khó có thể hình dung những ai phát triển rất cao về tinh thần lại mong muốn trải qua thời gian dài trong một trạng thái tự-miên phúc lạc.

186. We are, however, discussing a period of ‘Gestation’ which is rarely mentioned in descriptions of the progress of the human soul after physical plane death.

186. Tuy nhiên, chúng ta đang bàn về một thời kỳ ‘Thai Nghén’ vốn hiếm khi được nói đến trong các mô tả về tiến trình của linh hồn con người sau cái chết trên cõi hồng trần.

Sub-period 3rd lasts in proportion to the good Karma, after which the monad is again reincarnated.”

Tiểu kỳ thứ ba kéo dài tỷ lệ thuận với Nghiệp thiện, sau đó chân thần lại tái lâm phàm.”

187. Here we are speaking of Deva-Chan proper. The role of the Ego’s “spiritual stamina” in relation to the period of ‘gestation’ remains, for the moment, uncertain, however, it is clear that the greater the “good Karma”, the higher the human soul’s aspirations, the greater the wealth of thought generated by human being, the greater the potential length of the devachanic period.

187. Ở đây chúng ta đang nói về Deva-Chan theo đúng nghĩa. Vai trò của “sức bền tinh thần” của Chân ngã đối với thời kỳ ‘Thai Nghén’ vẫn còn chưa rõ ràng vào lúc này. Tuy nhiên, rõ ràng là Nghiệp thiện càng lớn, khát vọng của linh hồn con người càng cao, giòng tư tưởng do con người tạo ra càng dồi dào, thì tiềm năng kéo dài thời kỳ devachanic càng lớn.

188. The remaining mystery concerns the ‘Period of Gestation’ and the exact meaning of the Ego’s “spiritual stamina” in relation to this ‘Period of Gestation’.

188. Bí ẩn còn lại liên quan đến ‘Thời kỳ Thai Nghén’ và ý nghĩa chính xác của “sức bền tinh thần” của Chân ngã đối với ‘Thời kỳ Thai Nghén’ này.

…”Every effect must be proportionate to the cause. And, as man’s terms of incarnate existence bear but a small proportion to his periods of inter-natal existence in the manvantaric cycle, so the good thoughts, words, and deeds of any one of these ‘lives’ on a globe are causative of effects, the working out of which requires far more time than the evolution of the causes occupied.”

…“Mọi hiệu quả phải tương xứng với nguyên nhân. Và, vì những khoảng đời lâm phàm của con người chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với các thời kỳ giữa những lần sinh trong giai kỳ sinh hóa , nên những tư tưởng, lời nói và hành vi thiện lành trong bất kỳ ‘kiếp’ nào trên một bầu hành tinh đều là những nguyên nhân đòi hỏi thời gian làm việc ra hiệu quả lâu dài hơn rất nhiều so với thời gian tiến hoá của các nguyên nhân đã diễn ra.”

189. The idea is clear. It takes a certain amount of time to generate causes and a far greater time (during the period of “inter-natal existence”) to work out the effects of those generated causes.

189. Ý tưởng rõ ràng. Cần một khoảng thời gian nào đó để tạo ra các nguyên nhân và cần khoảng thời gian lớn hơn nhiều (trong thời kỳ “giữa các lần sinh”) để làm việc ra các hiệu quả của những nguyên nhân đã tạo.

190. The following excerpt suggests that when a human being begins to achieve triadal consciousness (which could mean, when the human being cannot only build but use the antahkarana) then the devachanic period is transcended.

190. Trích đoạn sau gợi ý rằng khi con người bắt đầu đạt tâm thức tam nguyên (nghĩa là, khi con người không chỉ xây mà còn sử dụng được antahkarana) thì thời kỳ devachanic được siêu vượt.

The “devachan” of the occult books is connected with the consciousness of the logoic planetary body, and with the gaseous subplane of the cosmic physical plane. It is, consequently, transcended the moment a man begins to function in the cosmic ethers, such as the fourth cosmic ether, the buddhic plane. (TCF 1108)

“‘Devachan’ của các sách huyền bí gắn với tâm thức của thân thể hành tinh của Thượng đế, và với cõi phụ khí của cõi hồng trần vũ trụ. Do đó, nó được siêu vượt ngay khi con người bắt đầu hoạt động trong các dĩ thái vũ trụ, chẳng hạn dĩ thái vũ trụ thứ tư, tức cõi Bồ đề. ” (TCF 1108)

191. We must establish what it means to “function in the cosmic ethers”. One can be impressionable to the energy of the cosmic ethers before one can truly function in them. The building of the antahkarana seems a definite necessity if one is to “function in the cosmic ethers”.

191. Chúng ta phải xác định ý nghĩa của việc “hoạt động trong các dĩ thái vũ trụ”. Người ta có thể dễ tiếp nhận ấn tượng từ các dĩ thái vũ trụ trước khi thực sự hoạt động trong chúng. Việc xây dựng antahkarana dường như là điều tất yếu nếu muốn “hoạt động trong các dĩ thái vũ trụ”.

—From Mahatma Letters to A. P. Sinnett, pp. 100, 105-106.

—Từ Thư của các Mahatma gửi A. P. Sinnett, tr. 100, 105-106.

192. These “Letters”, we have been told, contain much of value and yet DK suggests that many of them were penned by HPB, herself. Therefore, it is important to examine their contents very carefully.

Chú thích 46:

Footnote 46:

Devachan. A state intermediate between two earth lives into which the Ego enters after its separation from its lower aspects or sheaths.

Devachan. Trạng thái trung gian giữa hai đời sống trần, vào đó Chân ngã bước vào sau khi tách khỏi các phương diện hay lớp vỏ thấp của mình.

193. What do we mean by “the lower aspects or sheaths”. Apparently, all subplanes with the exception of the fourth subplane of the mental plane are included in this description.

193. Chúng ta muốn nói gì khi nói “các phương diện hay lớp vỏ thấp”? Rõ ràng, tất cả các cõi phụ ngoại trừ cõi phụ thứ tư của cõi trí đều được bao gồm trong mô tả này.

194. We notice that the term “Ego”, as here used, does not distinguish between the Ego in incarnation (the human soul) and the Ego on the higher mental plane. From this perspective, the soul in incarnation may also be considered the “Ego”.

194. Chúng ta lưu ý rằng thuật ngữ “Chân ngã” như được dùng ở đây không phân biệt giữa Chân ngã trong lâm phàm (linh hồn con người) và Chân ngã trên cõi thượng trí. Từ quan điểm này, linh hồn đang nhập thể cũng có thể được xem là “Chân ngã”.

Therefore, as might be naturally deduced, there is no deva­chan for the savage or little evolved man, as they merit it not, and have not the mentality to realise it;

Do đó, như có thể suy ra một cách tự nhiên, không có Devachan cho người man rợ hay người ít tiến hoá, vì họ không xứng đáng, và không có đủ trí tuệ để nhận biết nó;

195. We are reminded that the ‘bliss’ of devachan is based upon mentality and the fulfillment of what we might call mental aspirations and objectives.

195. Chúng ta được nhắc rằng ‘phúc lạc’ của Devachan dựa trên trí tuệ và sự thành tựu của những gì có thể gọi là các hoài bão và mục tiêu mang tính trí tuệ.

hence, therefore, the rapidity of their incarnations, and the brevity of the pralayic period. There is little in their case for the Ego, on its own plane, to assimilate in the residue of incarnations,

vì vậy, họ đầu thai nhanh chóng, và thời kỳ qui nguyên ngắn ngủi, Trong trường hợp của họ, có ít điều để Chân ngã, trên cõi riêng của mình, đồng hóa từ phần tồn lưu của các lần lâm phàm ,

196. In this case “the Ego on its own plane” is the Ego within the causal body. We could even speak of the ‘Ego within the egoic lotus’. The egoic lotus, however, is not the Ego.

196. Trong trường hợp này “Chân ngã trên cõi riêng của mình” là Chân ngã trong thể nguyên nhân. Chúng ta thậm chí có thể nói ‘Chân ngã trong Hoa Sen Chân Ngã’. Tuy nhiên, Hoa Sen Chân Ngã không phải là Chân ngã.

197. The brevity of the intervals between incarnations for those who are little evolved serves the purpose of more rapidly conferring experiences from the three lower worlds upon such souls in incarnation.

197. Khoảng cách ngắn giữa các lần lâm phàm đối với những người kém tiến hoá phục vụ cho mục đích nhanh chóng ban trải nghiệm từ ba cõi thấp cho những linh hồn như vậy khi nhập thể.

198. Assimilation of the residue of experience occurs, as we can realized, upon the higher mental plane.

198. Sự đồng hóa phần tồn lưu kinh nghiệm diễn ra, như chúng ta có thể nhận ra, trên cõi thượng trí.

and hence the life principle withdraws rapidly from out of the mental form,

và vì thế nguyên lý sự sống rút lui nhanh khỏi hình thể trí,

199. Even for such relatively primitive human beings, there is a “mental form”.

199. Ngay cả đối với những con người tương đối nguyên sơ, vẫn có một “hình thể trí”.

with the resulting impulse of the Ego to reincarnate almost immediately.

với xung lực tiếp theo của Chân ngã là tái lâm phàm gần như ngay lập tức,

200. In the case of all human beings, the life principle withdraws into the Ego demonstrating on the higher mental plane. It is from the Ego on the higher mental plane that the impulse towards incarnation arises.

200. Trong trường hợp mọi con người, nguyên lý sự sống rút vào Chân ngã biểu lộ trên cõi thượng trí. Chính từ Chân ngã trên cõi thượng trí mà xung lực hướng tới lâm phàm phát sinh.

201. This impulse is associated with the sign Aries, the mantram of which is “I come forth and from the plane of mind, I rule*.

201. Xung lực này gắn với dấu hiệu Bạch Dương, mantram của nó là: “Ta bước ra và từ cõi trí, Ta cai quản”*.

When the life of the personality has been full and rich, yet has not reached the stage wherein the personal self can consciously co-operate with the ego, periods of personality nirvana are undergone, their length depending upon the int­erest of the life, and the ability of the man to meditate upon experience.

Khi đời sống của phàm ngã đã phong phú và dồi dào, nhưng chưa đạt đến giai đoạn trong đó phàm ngã cá nhân có thể ý thức cộng tác với chân ngã , người ta trải qua các thời kỳ nirvana của phàm ngã, độ dài của chúng tùy thuộc vào mức độ quan tâm của đời sống, và khả năng của con người tham thiền về kinh nghiệm.

202. We are told something of great importance: devachan is foregone when the personal self can consciously cooperate with the ego (Ego). This means that when the Spiritual Kingdom is entered, the man foregoes devachan.

202. Chúng ta được cho biết điều gì đó rất quan trọng: Devachan được từ bỏ khi phàm ngã cá nhân có thể ý thức hợp tác với chân ngã (Chân ngã). Điều này có nghĩa rằng khi bước vào Giới Tinh thần, con người từ bỏ Devachan.

203. May we then say that when a personality can consciously cooperate with the Ego he can also function in the cosmic ethers? This link needs close examination.

203. Vậy chúng ta có thể nói rằng khi một phàm ngã có thể ý thức hợp tác với Chân ngã, y cũng có thể hoạt động trong các dĩ thái vũ trụ chăng? Mối nối này cần được khảo sát kỹ.

204. The “personal self” and the “ego” (Ego) are distinct, yet both are projections of the one Monad.

204. “Phàm ngã cá nhân” và “chân ngã” (Chân ngã) là khác biệt, tuy cả hai đều là các phóng chiếu của cùng một Chân thần.

205. An aspect of the Solar Angel is present within the Ego with which the personal self must learn to cooperate.

205. Một phương diện của Thái dương Thiên Thần hiện diện trong Chân ngã mà với phương diện đó phàm ngã cá nhân phải học hợp tác.

206. We notice the important statement about the length of the devachanic experience. It depends upon—

206. Chúng ta lưu ý phát biểu quan trọng về độ dài của kinh nghiệm devachanic. Nó tùy thuộc vào—

a. The “interest of the life”—presumably, that which has interested the human being whilst in incarnation

a. “mức độ quan tâm của đời sống”—suy ra, những điều đã cuốn hút con người khi nhập thể

b. The ability of the human being when focussed on the fourth subplane of the mental plane to meditate upon the experience he has undergone in the previous incarnation.

b. khả năng của con người khi tập trung trên cõi phụ thứ tư của cõi trí để tham thiền về kinh nghiệm mà y đã trải qua trong kiếp vừa qua.

Later, when the Ego dominates the personality life, the interest of the man is raised to higher levels, and the nirvana of the soul becomes [738] his goal.

Về sau, khi Chân ngã thống trị đời sống phàm ngã, mối quan tâm của con người được nâng lên những mức cao hơn, và nirvana của linh hồn trở thành [738] mục tiêu của y.

207. “Nirvana”, we see, is a generic term. The ‘nirvana’ of the personality is devachan. The “nirvana of the soul” is presumably that state of consciousness which exists on the higher mental plane.

207. “Niết Bàn”, như chúng ta thấy, là một thuật ngữ bao trùm. ‘Niết Bàn’ của phàm ngã là Devachan. “Niết Bàn của linh hồn” suy ra là trạng thái tâm thức tồn tại trên cõi thượng trí.

208. The Ego dominates the personality life as the antahkarana becomes functional—and we remember that there are two stages to the antahkarana—the first uniting the personality with the Ego in the causal body and the second uniting the soul-infused personality with the spiritual triad.

208. Chân ngã thống trị đời sống phàm ngã khi antahkarana trở nên hữu dụng—và chúng ta nhớ rằng antahkarana có hai giai đoạn—giai đoạn thứ nhất nối phàm ngã với Chân ngã trong thể nguyên nhân và giai đoạn thứ hai nối phàm ngã được linh hồn thấm nhuần với Tam Nguyên Tinh Thần.

209. This domination increases during the period from the first to the fourth initiation. We would expect a third degree initiate to have no interest in devachan. We must remember, however, that the buddhic energy is increasing significantly in the human consciousness from the time of the first initiation.

209. Sự thống trị này gia tăng trong giai đoạn từ lần điểm đạo thứ nhất đến lần thứ tư. Chúng ta mong đợi một điểm đạo đồ đệ tam vô cùng ít quan tâm đến Devachan. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng năng lượng Bồ đề tăng lên đáng kể trong tâm thức con người kể từ lần điểm đạo thứ nhất.

210. The third degree initiate can consciously focus on the higher mental plane and, presumably, can, therefore, consciously cooperate with the Ego.

210. Điểm đạo đồ đệ tam có thể ý thức tập trung trên cõi thượng trí, và suy ra, có thể hợp tác một cách ý thức với Chân ngã.

211. Progress towards this achievement begins, however, at the first initiation.

211. Tiến bộ hướng tới thành tựu này, tuy vậy, bắt đầu từ lần điểm đạo thứ nhất.

He has no interest in devachan.

Y không còn hứng thú với Devachan.

212. This, of course, reverses the usual position taken in the standard literature of the Theosophical Society.

212. Điều này, dĩ nhiên, đảo ngược quan điểm thường thấy trong văn liệu tiêu chuẩn của Hội Thông Thiên Học.

Therefore, those upon the Path (either the probationary Path, or the Path of Initiation) do not, as a rule, go to deva­chan, but immediate incarnation becomes the rule in the turning of the wheel of life;

Vì vậy, những người trên Con Đường (dù là Con Đường Dự Bị hay Con Đường Điểm Đạo) theo lệ thường không đi vào Devachan, mà việc tái lâm phàm tức thời trở thành điều thường lệ trong vòng quay của sự sống;

213. DK suggests that the period of foregoing devachan begins even before the period of the first initiation—in fact, upon the Probationary Path.

213. Chân sư DK gợi ý rằng thời kỳ từ bỏ Devachan bắt đầu ngay cả trước giai đoạn lần điểm đạo thứ nhất—thực vậy, trên Con Đường Dự Bị.

214. Of course, the use of the term “Path” can signify the first initiation and, in a sense, a man is said to be on the Probationary Path until the time he becomes an accepted disciple. As one rarely becomes an accepted disciple until several incarnations after the taking of the first initiation, we could again say that conscious cooperation with the Ego cannot really begin before the first initiation, even it is definite and achieved at will at the third.

214. Dĩ nhiên, việc dùng thuật ngữ “Con Đường” có thể chỉ lần điểm đạo thứ nhất và, ở một nghĩa nào đó, người ta được nói là đang ở trên Con Đường Dự Bị cho đến khi trở thành một đệ tử được chấp nhận. Vì người ta hiếm khi trở thành đệ tử được chấp nhận cho đến vài kiếp sau lần điểm đạo thứ nhất, chúng ta lại có thể nói rằng sự hợp tác có ý thức với Chân ngã không thật sự bắt đầu trước lần điểm đạo thứ nhất, dù nó trở nên xác định và làm được theo ý ở lần thứ ba.

215. Given what is said, we may suppose that for persistent students of the books of the Tibetan, entry into devachan is not the rule.

215. Căn cứ điều được nói, chúng ta có thể giả định rằng đối với những môn sinh kiên trì học sách của Chân sư Tây Tạng, việc vào Devachan không phải là thông lệ.

216. When we focus on the words “as a rule”, it may still be possible that some quite advanced people may take a devachanic interlude.

216. Khi chúng ta lưu ý các chữ “theo lệ thường”, vẫn có thể rằng một số người khá cao tiến có thể có một quãng ngưng devachanic.

this time it is brought about by the conscious co-operation of the personal Self with the divine Self or Ego.

lần này nó được tạo nên bởi sự hợp tác có ý thức của Phàm ngã với Thánh Ngã hay Chân ngã.

217. We gather that most incarnations are not brought about by the conscious cooperation of the personal self with the divine Self or Ego.

217. Chúng ta hiểu rằng đa số các lần lâm phàm không được tạo nên bởi sự hợp tác có ý thức của phàm ngã với Thánh Ngã hay Chân ngã.

218. As a man becomes capable of registering the impulses of the Solar Angel and carrying out those impulses, we can say that the cooperation of the personal self with the “divine Self or Ego” begins.

218. Khi con người trở nên có khả năng ghi nhận các xung lực của Thái dương Thiên Thần và thực thi các xung lực đó, chúng ta có thể nói rằng sự hợp tác của phàm ngã với “Thánh Ngã hay Chân ngã” bắt đầu.

219. For persistent students of the AAB books this will probably mean that they foresaw the purpose and conditions of their present incarnation and worked (on the inner planes) with the Solar Angel, and in reflection of their own Monad, to plan and engineer the incarnation.

219. Đối với các môn sinh kiên trì các sách của AAB, điều này có lẽ có nghĩa là họ đã dự tri mục đích và hoàn cảnh của kiếp hiện tại và đã làm việc (trên các nội giới) với Thái dương Thiên Thần, và trong phản ảnh của Chân thần của chính họ, để hoạch định và triển khai sự lâm phàm.

220. We must realize the implication of the section of text above. The “personal Self” still exists during the period before incarnation. We can think of it as that portion of the higher consciousness which will descend and which is sometimes called “the soul in incarnation”.

220. Chúng ta phải nhận ra hàm ý của đoạn văn trên. “Phàm ngã” vẫn tồn tại trong thời kỳ tiền lâm phàm. Chúng ta có thể nghĩ về nó như phần của tâm thức cao hơn sẽ giáng hạ và đôi khi được gọi là “linh hồn đang nhập thể”.

221. With whom or with what does this “personal Self” work to plan the next incarnation? May we say that it works in cooperation with the reflection of the Monad/Triad within the etheric body and also in consultation with the supervising Solar Angel which has pervaded the causal body with a fragment of itself.

221. “Phàm ngã” này làm việc với ai hay cái gì để hoạch định lần lâm phàm kế? Chúng ta có thể nói rằng nó hợp tác với phản ảnh của Chân thần/Tam nguyên trong thể dĩ thái và cũng tham vấn với Thái dương Thiên Thần giám sát, Ngài đã thấm nhuần thể nguyên nhân bằng một mảnh của Chính Ngài.

222. In this process the advanced man intending to reincarnate has two Masters—his own higher monadic/triadal nature and the Solar Angel, itself.

222. Trong tiến trình này, người cao tiến có ý định tái lâm phàm có hai Vị Thầy—tự tánh chân thần/tam nguyên của chính y và chính Thái dương Thiên Thần.

              (2) The period between egoic Cycles.

(2) Thời kỳ giữa các Chu kỳ chân ngã.

223. May we say that the period between personality cycles can be likened to the period between globes in a chain and that the period between egoic cycles can be likened to the period between chains in a scheme. The Monads, it would seem, it related to the planetary scheme itself.

223. Chúng ta có thể nói rằng thời kỳ giữa các chu kỳ phàm ngã có thể sánh với thời kỳ giữa các bầu trong một dãy và thời kỳ giữa các chu kỳ chân ngã có thể sánh với thời kỳ giữa các dãy trong một hệ hành tinh. Có vẻ Chân thần liên hệ với toàn bộ hệ hành tinh.

Herein is hid the mystery of the 777 incarnations and concerns the rela­tion of the unit to his group on the egoic plane,

Ở đây ẩn giấu huyền nhiệm về 777 lần lâm phàm và liên quan đến mối quan hệ của đơn vị với nhóm của y trên cõi chân ngã ,

224. We should recognize that we are not speaking of those cycles called personality incarnations.

224. Chúng ta nên nhận ra rằng chúng ta không nói về các chu kỳ gọi là những lần lâm phàm của phàm ngã.

225. The number 777, while indicative of duration of the entire series of incarnations in the fourth kingdom, is to be considered symbolical. This is, perhaps, one of the reasons why the number 777 is considered a “mystery”.

225. Con số 777, trong khi chỉ khoảng thời gian của toàn bộ chuỗi lâm phàm trong giới thứ tư, cần được xem là mang tính biểu tượng. Có lẽ đây là một trong những lý do vì sao con số 777 được xem là một “huyền nhiệm”.

226. Every egoic unit is part of a group of egos on the higher mental plane. What, at any one time, is the relation of any egoic unit to that group. Will such a group contain Egos at many different stages of development?

226. Mỗi đơn vị chân ngã là một phần của một nhóm các chân ngã trên cõi thượng trí. Tại bất kỳ thời điểm nào, mối liên hệ của một đơn vị chân ngã với nhóm đó là gì? Một nhóm như vậy sẽ bao gồm các Chân ngã ở nhiều giai đoạn phát triển khác nhau chăng?

prior to the unfoldment of the fifth petal.

trước khi cánh hoa thứ năm khai mở,

227. When the fifth petal is unfolding, the Solar Angel takes an active interest in the developing human personality.

227. Khi cánh hoa thứ năm khai mở, Thái dương Thiên Thần dành sự quan tâm tích cực đến phàm ngã đang phát triển.

The Ego takes no active interest in the development until the second petal in the second series is beginning to open. (TCF 543)

Chân ngã không quan tâm tích cực đến sự phát triển cho đến khi cánh hoa thứ hai trong bộ thứ hai bắt đầu mở. (TCF 543)

228. In this case we must consider the Solar Angel’s role in creating the manifestation of the Ego on the higher mental plane.

228. Trong trường hợp này, chúng ta phải xét vai trò của Thái dương Thiên Thần trong việc tạo ra sự biểu hiện của chân ngã trên cõi thượng trí.

229. During the unfoldment of the fourth and fifth petal, DK tells us that the human unit is in process of entering the fifth or spiritual kingdom.

229. Trong khi khai mở cánh hoa thứ tư và thứ năm, Chân sư DK cho chúng ta biết rằng đơn vị nhân loại đang trong tiến trình bước vào giới thứ năm hay giới tinh thần.

The fifth or spiritual kingdom is entered when the units of the fourth kingdom have succeeded in vitalizing the fifth spirilla in all the atoms of the threefold lower man; when they [698] have unfolded three of the egoic petals and are in process of unfolding the fourth and fifth and when they are becoming conscious of the pranic force of the Heavenly Man.   (TCF 697-698)

Giới thứ năm hay giới tinh thần được bước vào khi các đơn vị của giới thứ tư đã thành công trong việc tiếp sinh lực cho xoắn tuyến thứ năm trong tất cả các nguyên tử của phàm ngã tam phân; khi họ [698] đã khai mở ba cánh hoa chân ngã và đang trong tiến trình khai mở cánh thứ tư và thứ năm, và khi họ đang trở nên ý thức về lực prana của Đấng Thiên Nhân. (TCF 697-698)

230. Note in regard to this excerpt, that while the fourth and fifth petals are unfolding, the human being may, in fact, we working at vitalizing and organizing the petals within the sacrifice tier, even if they have not yet been unfolded through the process of the initiation ceremony.

230. Cần lưu ý liên quan đến trích đoạn này rằng, trong khi cánh hoa thứ tư và thứ năm đang khai mở, con người thực ra có thể đang làm việc để tiếp sinh lực và tổ chức các cánh hoa trong tầng hi sinh, cho dù chúng chưa được khai mở qua tiến trình nghi lễ điểm đạo.

231. The complete unfoldment of the fifth petal may signal the taking of the first initiation at which point a man becomes a true disciple.

231. Sự khai mở trọn vẹn cánh hoa thứ năm có thể báo hiệu việc thọ nhận lần điểm đạo thứ nhất, tại đó một người trở thành một đệ tử chân chính.

On the buddhic plane, when flashing forth at initiation, this number signifies the full development of the fifth principle or quality, the completed cycle of the Ego upon the five Rays under the Mahachohan, and the assimilation of all that is to be learned upon them, and the attainment—not only of full self-consciousness, but also of the consciousness of the group wherein a man is found. It infers the full unfoldment of five of the egoic petals, leaving four to open before the final initiation. (TCF 696)

Trên cõi Bồ đề, khi bừng sáng vào lúc điểm đạo, con số này biểu trưng cho sự phát triển đầy đủ của nguyên khí hay phẩm tính thứ năm, chu kỳ hoàn tất của chân ngã trên năm cung dưới quyền Đức MahaChohan, và sự đồng hóa tất cả những gì cần được học nơi đó, cùng với thành tựu—không chỉ của tự tâm thức đầy đủ, mà còn của tâm thức về nhóm mà người ấy thuộc về. Điều này hàm ý sự khai mở trọn vẹn của năm cánh hoa chân ngã, còn lại bốn cánh để mở trước cuộc điểm đạo sau cùng. (TCF 696)

232. In this context, that “final initiation” must necessarily be the fourth. After that, there are no more petals to open; they have been destroyed.

232. Trong ngữ cảnh này, “cuộc điểm đạo sau cùng” ấy tất yếu là lần thứ tư. Sau đó, không còn cánh hoa nào để mở nữa; chúng đã bị hủy.

It concerns man in the period between the savage stage and that of the disciple, when he is an average man but still in the two Halls.

Điều này liên quan đến con người trong giai đoạn giữa trạng thái dã man và địa vị đệ tử, khi y là một người trung bình nhưng vẫn còn ở trong hai Phòng.

233. We are speaking of those periods of human unfoldment to which the 777 incarnations are relevant.

233. Chúng ta đang nói tới những thời kỳ khai mở của nhân loại mà 777 lần lâm phàm có liên hệ.

234. The stage of consciousness immediately above must be closely studied as some apparent contradictions may emerge.

234. Trạng thái tâm thức ngay bên trên phải được khảo sát kỹ, vì có thể xuất hiện vài mâu thuẫn bề ngoài.

235. Later we will see that the “7 incarnations” are implicated in the processes of the Probationary Path and yet here we are told that all of the 777 incarnations concern a period before man becomes a disciple.

235. Sau này chúng ta sẽ thấy rằng “7 lần lâm phàm” có dính líu đến các tiến trình của Con Đường Dự Bị, vậy mà ở đây chúng ta được cho biết rằng tất cả 777 lần lâm phàm liên quan đến một giai đoạn trước khi con người trở thành một đệ tử.

236. What we may gather from the above is that the man treading the Probationary Path is still, in a sense, considered an “average man” or, at least, not a disciple.

236. Điều chúng ta có thể rút ra từ trên là người đang bước trên Con Đường Dự Bị vẫn, theo một nghĩa nào đó, được xem là “người trung bình” hoặc chí ít chưa là một đệ tử.

237. Any developmental period preceding the stage of “disciple” is to be considered “average man”, yet the term “average man” usually implies some reasonable degree of mental/emotional development.

237. Bất kỳ thời kỳ phát triển nào trước giai đoạn “đệ tử” đều được xem là “người trung bình”, tuy rằng thuật ngữ “người trung bình” thường hàm ý một mức độ phát triển trí-cảm tương đối nhất định.

238. In this context, the disciple is definitely being distinguished from the probationer.

238. Trong ngữ cảnh này, đệ tử rõ ràng được phân biệt với người dự bị.

239. From the above we may also gather that a disciple is no longer in the “two Halls—either of Ignorance or of Learning.

239. Từ những điều trên, chúng ta cũng có thể rút ra rằng một đệ tử không còn ở trong “hai Phòng—hoặc Vô Minh hoặc Học Hỏi”.

240. Just how many petals have to be organized, awakened and in the process of unfolding before one can be considered as having stepped upon the Probationary Path is a matter for close scrutiny as different references indicate different possibilities. Here is one possibility:

240. Có bao nhiêu cánh hoa phải được tổ chức, đánh thức và đang trong tiến trình khai mở trước khi có thể xem là đã đặt chân lên Con Đường Dự Bị là vấn đề cần khảo sát kỹ, vì các tham chiếu khác nhau nêu những khả năng khác nhau. Đây là một khả năng:

“…pass on to the probationary path, having unfolded one tier of petals, and organised the second.” (TCF 842)

“…bước tới con đường dự bị, sau khi đã khai mở một tầng cánh hoa, và đã tổ chức tầng thứ hai.” (TCF 842)

The mystery of all root races lies here,

Bí ẩn của tất cả các Giống dân gốc nằm ở đây,

241. The number 777 concerns egoic cycles, but there are further divisions of such cycles than are expressed in this number.

241. Con số 777 liên quan đến các chu kỳ chân ngã, nhưng còn có những phân đoạn sâu hơn của các chu kỳ như vậy ngoài điều được biểu thị bởi con số này.

242. If we divide the number 777 into the suggested categories of 700, 70 and 7, we shall see that there are three such cycles, coinciding with divisions given in the excerpt below.

242. Nếu chúng ta chia 777 thành các hạng mục gợi ý là 700, 70 và 7, chúng ta sẽ thấy có ba loại chu kỳ như thế, trùng với các phân chia được nêu trong trích đoạn dưới đây.

The egoic cycles proceed in groups of sevens and of threes, and not in groups of fours and sevens as do the personality cycles, and the same ratio must be predicated of the central cycles of a Heavenly Man and of a solar Logos (TCF 304)

Các chu kỳ chân ngã diễn tiến theo nhóm bảy và nhóm ba , chứ không theo nhóm bốn và bảy như các chu kỳ phàm ngã, và cùng tỉ lệ này phải được tiền đề hóa đối với các chu kỳ trung tâm của một Đấng Thiên Nhân và của một Thái dương Thượng đế (TCF 304)

and the egoic cycles coincide with the building of racial forms, and civilisations.

và các chu kỳ chân ngã trùng hợp với việc kiến tạo các hình thức chủng tộc, và các nền văn minh.

243. We have been told that egoic cycles occur in sevens and threes.

243. Chúng ta đã được cho biết rằng các chu kỳ chân ngã diễn ra theo bảy và ba.

244. It is clear that egoic cycles are connected with the emergence with the rootraces of man (the “lesser seven” as distinct from the “greater seven” and the “planetary seven”).

244. Rõ ràng các chu kỳ chân ngã có liên kết với sự xuất hiện của các Giống dân gốc của nhân loại (“bộ bảy nhỏ” phân biệt với “bộ bảy lớn” và “bộ bảy hành tinh”).

The causal cycles or the egoic cycles, which include all the groups of lesser cycles in the three worlds correspond to a complete round in the cycles of a Heavenly Man. There are seven such cycles, but the number of lesser cycles (included within the seven) is one of the secrets of Initiation. (TCF 303-304)

Các chu kỳ nhân thể hay chu kỳ chân ngã, bao gồm tất cả những nhóm chu kỳ nhỏ hơn trong ba cõi, tương ứng với một cuộc tuần hoàn trọn vẹn trong các chu kỳ của một Đấng Thiên Nhân. Có bảy chu kỳ như vậy , nhưng số lượng các chu kỳ nhỏ hơn (nằm trong bảy) là một trong những bí mật của Điểm đạo. (TCF 303-304)

245. DK is drawing a correspondence between the seven rounds (whether chain rounds or scheme rounds) experienced by a Planetary Logos and the seven major cycles experienced by an Ego in the higher mental plane.

245. Chân sư DK đang thiết lập một tương ứng giữa bảy cuộc tuần hoàn (dù là tuần hoàn dãy hay tuần hoàn hệ) mà một Hành Tinh Thượng đế trải qua và bảy chu kỳ chính mà một chân ngã trải nghiệm trên cõi thượng trí.

A man will reincarnate again and again in the various subraces of a root race until a certain cycle has been covered

Một người sẽ tái lâm phàm hết lần này đến lần khác trong các giống dân phụ của một Giống dân gốc cho đến khi một chu kỳ nhất định đã được hoàn tất;´

246. We can look at such a cycle as a developmental cycle.

246. Chúng ta có thể xem một chu kỳ như thế là một chu kỳ phát triển,

247. May we consider the “cycle” here referenced as composed of the entirety of seven sub-cycles, with each sub-cycle consisting of a number of incarnations in each sub-race of a rootrace? This is probable.

247. Chúng ta có thể xem “chu kỳ” được nói đến ở đây là bao gồm toàn bộ bảy chu kỳ phụ, với mỗi chu kỳ phụ gồm một số lần lâm phàm trong mỗi giống dân phụ của một Giống dân gốc? Điều này có khả năng.

248. Or shall we consider the words “a certain cycle” as pertaining only to a particular sub-race?

248. Hay chúng ta nên xem các chữ “một chu kỳ nhất định” chỉ liên quan đến một giống dân phụ cụ thể?

249. No doubt there are many incarnations taken in each of the subraces, and the conclusion of each series in each sub-race can be considered a cycle of a kind.

249. Chắc chắn có nhiều lần lâm phàm trong mỗi giống dân phụ, và sự kết thúc mỗi chuỗi trong mỗi giống dân phụ có thể được xem là một dạng chu kỳ.

then he may undergo a pralayic condition until in a later (and sometimes much later) root race he will respond to its vibratory call, and the egoic impulse to incarnate will again be felt.

rồi y có thể trải qua một tình trạng Giai kỳ qui nguyên cho đến khi trong một Giống dân gốc sau này (và đôi khi muộn hơn nhiều) y sẽ đáp ứng tiếng gọi rung động của nó, và xung lực chân ngã thúc đẩy nhập thể sẽ lại được cảm nhận.

250. DK seems to be suggesting that after the completion of all sub-race cycles within a rootrace, a long interval (“a pralayic condition”) may elapse before incarnation is again taken, but this time in a succeeding rootrace.

250. Chân sư DK dường như gợi ý rằng sau khi hoàn tất tất cả các chu kỳ giống dân phụ trong một Giống dân gốc, có thể trôi qua một khoảng dài (“một tình trạng Giai kỳ qui nguyên”) trước khi lại thọ sinh, nhưng lần này trong một Giống dân gốc kế tiếp.

251. It may be necessary to pay attention to the unusual wording in this excerpt. If we do so, we may perhaps wonder whether there comes a time when a man, now incarnating in a later rootrace, feels the vibratory call to incarnate again in an earlier rootrace. This happens, no doubt, from time to time, but is probably not the major meaning DK means to convey in the above section of text.

251. Có lẽ cần lưu ý cách diễn đạt khác thường trong trích đoạn này. Nếu làm vậy, có thể chúng ta tự hỏi liệu có thời điểm nào đó khi một người, nay đang lâm phàm trong một Giống dân gốc về sau, lại cảm thấy tiếng gọi rung động để tái lâm phàm lần nữa trong một Giống dân gốc trước đó. Điều này, không nghi ngờ, đôi khi vẫn xảy ra, nhưng có lẽ không phải là ý nghĩa chính mà Chân sư DK muốn truyền đạt trong đoạn văn trên.

In illustration of this, we should bear in mind that the more advanced humanity of today did not incarnate until the fourth root race.

Để minh họa cho điều này, chúng ta nên ghi nhớ rằng nhân loại tiến bộ hơn của ngày nay đã không lâm phàm cho đến Giống dân gốc thứ tư.

252. In the example DK uses, He seems to emphasize the possibility of a very long interval between incarnations in a earlier type of rootrace and those taken in a much later one—one so ‘late’, in fact, that it occurs on the chain which succeeds the chain in which the earlier rootrace incarnations occurred.

252. Trong ví dụ Chân sư DK dùng, Ngài dường như nhấn mạnh khả năng có một khoảng rất dài giữa các lần lâm phàm trong một loại Giống dân gốc sớm hơn và những lần lâm phàm diễn ra ở một Giống dân gốc muộn hơn nhiều—muộn đến mức, thực ra, nó xảy ra trên dãy kế tiếp dãy mà trong đó các lần lâm phàm thuộc Giống dân gốc sớm hơn đã diễn ra.

These cycles are one of the mysteries of initiation,

Những chu kỳ này là một trong các bí ẩn của điểm đạo,

253. Hence, the obscurity surrounding the subject.

253. Vì thế, có sự tối tăm bao phủ chủ đề này.

though one of the earlier mysteries,

dù là một trong những bí ẩn ban sơ ,

254. As obscure as the truth of these cycles may be to us, they are still considered relatively early revelations.

254. Dẫu chân lý về các chu kỳ này còn mờ tối đối với chúng ta, chúng vẫn được xem là những mặc khải tương đối sớm.

and are revealed at the second initiation as they enable the initiate to comprehend his position, to see somewhat the nature of the karmic impulse, and to read his own record in the astral light.

và được tiết lộ ở lần điểm đạo thứ hai vì chúng giúp vị điểm đạo đồ hiểu được vị thế của mình, thấy phần nào bản chất của xung lực nghiệp quả, và đọc hồ sơ riêng của mình trong ánh sáng cảm dục.

255. It may reasonably be surmised that much conveyed in the chamber of initiation is not clearly remembered in the brain-consciousness.

255. Có thể suy đoán hợp lý rằng nhiều điều truyền đạt trong tịnh thất điểm đạo không được nhớ rõ trong tâm thức bộ não.

256. At the second initiation one must express the Plan. Therefore, we can see why the following achievements are important at that initiation and why reception of information concerning rootrace cycles allows the initiate to–

256. Ở lần điểm đạo thứ hai, người ta phải biểu đạt Thiên Cơ. Do đó, chúng ta có thể thấy vì sao những thành tựu sau đây là quan trọng tại lần điểm đạo ấy và vì sao việc nhận thông tin về các chu kỳ Giống dân gốc cho phép vị điểm đạo đồ—

a. Comprehend his position

a. Thông hiểu vị trí của mình

b. See somewhat the nature of the karmic impulse

b. Thấy phần nào bản chất của xung lực nghiệp quả

c. Read his own record in the astral light

c. Đọc hồ sơ riêng của mình trong ánh sáng cảm dục

257. As souls we know somewhat of our own record. It is obvious that in the case of even quite advanced human beings, this record is ‘forgotten’ in the brain consciousness though, subliminally at least, access to it may certainly exist.

257. Với tư cách linh hồn, chúng ta phần nào biết hồ sơ của chính mình. Rõ ràng là trong trường hợp ngay cả những con người khá tiến bộ, hồ sơ này bị ‘quên’ trong tâm thức bộ não, dù ít nhất là ở bình diện tiềm thức, hẳn vẫn có lối vào.

258. We can imagine why, at the second initiation and following, life becomes much more purposeful and directed—according to the Divine Plan.

258. Chúng ta có thể hình dung vì sao, từ lần điểm đạo thứ hai trở đi, đời sống trở nên có mục đích và có định hướng hơn nhiều— phù hợp với Thiên Cơ.

These might be considered the two lesser pralayic periods and concern primarily life in the three worlds.

Những điều này có thể được xem là hai giai đoạn qui nguyên nhỏ hơn và chủ yếu liên quan đến sự sống trong ba cõi.

259. We are speaking of: (1) the period between two incarnations and (2) the period between two egoic cycles.

259. Chúng ta đang nói về: (1) giai đoạn giữa hai lần lâm phàm và (2) giai đoạn giữa hai chu kỳ chân ngã.

260. In relation to this latter type of pralaya, it would seem that we must also consider not only pralayas between rootraces, but, perhaps, minor pralayas between subraces before incarnation occurs in the succeeding sub-race of the same rootrace.

260. Liên quan đến kiểu qui nguyên thứ hai này, có vẻ như chúng ta cũng phải xét không chỉ các giai đoạn qui nguyên giữa các Giống dân gốc, mà có lẽ cả các giai đoạn qui nguyên nhỏ giữa các giống dân phụ trước khi có lâm phàm ở giống dân phụ kế tiếp của cùng Giống dân gốc.

261. Of course, if certain groups of human beings transfer from an earlier chain to a later one (i.e., one activated later in time), there will naturally be a lengthy pralaya. We could call this an ‘inter-chain pralaya’.

261. Tất nhiên, nếu một số nhóm nhân loại chuyển từ một dãy sớm hơn sang một dãy muộn hơn (tức là, một dãy được hoạt hóa muộn hơn về thời gian), thì hiển nhiên sẽ có một giai đoạn qui nguyên dài. Chúng ta có thể gọi đó là một “giai kỳ qui nguyên giữa các dãy”.

262. As well, there are some human beings who transferred from an earlier solar system to the present one. Between these two periods of solar manifestation there will be a very long pralaya, relatively speaking. We could call this type of pralaya an ‘inter-systemic pralaya’.

262. Đồng thời, có một số con người chuyển từ một hệ mặt trời sớm hơn sang hệ hiện tại. Giữa hai thời kỳ biểu hiện thái dương này sẽ có một giai kỳ qui nguyên rất dài , nói tương đối. Chúng ta có thể gọi kiểu qui nguyên này là “giai kỳ qui nguyên giữa các hệ”.

263. When we consider human pralayas, it is clear that between the rootraces and, perhaps, subraces through which man passes, there will exist pralayas. Are there also pralayas of some kind between the 700, the 70 and the 7 incarnations?

263. Khi xét các giai kỳ qui nguyên của nhân loại, rõ ràng là giữa các Giống dân gốc và, có lẽ, giữa các giống dân phụ mà con người đi qua, sẽ tồn tại các giai đoạn qui nguyên. Liệu cũng có những giai đoạn qui nguyên nào đó giữa 700, 70 và 7 lần lâm phàm không?

264. It becomes difficult to chart a man’s developmental course over millions of years because we are not at all certain concerning the number of intervals of ‘rest’ or pralaya and their duration.

264. Trở nên khó khăn khi vẽ bản đồ tiến trình phát triển của một người qua hàng triệu năm, vì chúng ta hoàn toàn không chắc chắn về số lượng các quãng “nghỉ” hay giai kỳ qui nguyên và độ dài của chúng.

              (3) Next comes the period wherein the man has attained freedom.

(3) Kế đến là thời kỳ trong đó con người đã đạt được giải thoát.

265. During the 777 incarnations he has not yet attained freedom. So the number 777 does not indicate all of a human being’s incarnations.

265. Trong 777 lần lâm phàm, y chưa đạt giải thoát. Vậy con số 777 không chỉ thị tất cả các lần lâm phàm của một con người.

266. We remember that his incarnations as a true disciple or initiation are not included in the 777.

266. Chúng ta nhớ rằng những lần lâm phàm của y như một đệ tử chân chính hay một điểm đạo đồ không được tính trong 777.

A man has at this stage succeeded, under law, in “abstracting” himself, the freed soul, from out of the matter of the three worlds.

Ở giai đoạn này, một người đã thành công, theo định luật, trong việc “trừu xuất” chính mình, linh hồn được giải thoát, ra khỏi chất liệu của ba cõi.

267. We may consider the “freed soul” as the spiritual triad or as the unit of consciousness focussed successfully within the spiritual triad.

267. Chúng ta có thể xem “linh hồn được giải thoát” như Tam Nguyên Tinh Thần, hay như đơn vị tâm thức đã tập trung thành công trong Tam Nguyên Tinh Thần.

268. If we consider all the “matter of the three worlds”, we must include the higher mental plane.

268. Nếu chúng ta xét tất cả “chất liệu của ba cõi”, chúng ta phải bao gồm cả cõi thượng trí.

269. The consciousness of the MONAD (in a way, the truest soul) is not yet “freed” when confined to the higher mental plane.

269. Tâm thức của Chân Thần (theo một nghĩa, là “linh hồn” đúng nhất) vẫn chưa “được giải thoát” khi còn bị giới hạn nơi cõi thượng trí.

He has used and worked with deva substance and has gained all the vibratory [739] contact possible, and has secured all the intended “realisa­tions” and “revelations”;

Y đã sử dụng và làm việc với chất liệu thiên thần và đã đạt được mọi tiếp xúc rung động [739] có thể có, và đã nắm vững tất cả những “nhận thức” và “mặc khải” được định liệu;

270. These are the realizations and revelations intended to be gathered from experience within the lower three worlds.

270. Đây là các nhận thức và mặc khải dự định thu thập được từ kinh nghiệm trong ba cõi thấp.

he can no longer be held imprisoned by the devas.

y không còn có thể bị các thiên thần giam giữ.

271. Here we are speaking only of the devas of these lower three worlds.

271. Ở đây chúng ta chỉ nói về các thiên thần của ba cõi thấp này.

272. For the soul of man, all the four lunar elementals and the evolutionary devas which tend them, provide a temporary prison.

272. Đối với linh hồn con người, bốn hành tinh nguyệt tinh (lunar elementals) và các thiên thần tiến hóa chăm nom chúng, tạo thành một nhà giam tạm thời.

273. All these are symbolically ruled by the Moon and the Moon, in esoteric astrology, represents the “prison of the soul”

273. Tất cả những điều này tượng trưng do Mặt Trăng cai quản, và trong chiêm tinh học nội môn, Mặt Trăng tượng trưng “nhà ngục của linh hồn”.

He is free until, consciously and willingly, and in another round, he can return as a member of a Hierarchy to continue His work of service for the little evolved humanity of that distant time.

Y được tự do cho đến khi, một cách có ý thức và tự nguyện, và trong một cuộc tuần hoàn khác, y có thể trở lại với tư cách là thành viên của một Thánh Đoàn để tiếp tục công việc phụng sự của y cho nhân loại kém phát triển của thời xa xăm đó.

274. This is an interesting idea. Elsewhere we gather that a man who has achieved the fourth initiation may go on to Mastership and Chohanship, and leave the Earth far behind as he treads the Path of Higher Evolution.

274. Đây là một ý tưởng đáng chú ý. Ở nơi khác, chúng ta biết rằng một người đã đạt lần điểm đạo thứ tư có thể tiến lên địa vị Chân sư và Chohan, và rời xa Trái Đất khi y bước trên Con đường Tiến Hóa Cao Siêu.

275. Normally, there seems to be no need to wait for another round in order to serve humanity as a member of the Hierarchy.

275. Thông thường, dường như không cần chờ đến một cuộc tuần hoàn khác mới có thể phụng sự nhân loại như một thành viên của Thánh Đoàn.

276. Will the man of whom we are speaking come forth to serve as a Solar Angel? We cannot be sure this is possible as, when the “returning Nirvanis” are discussed, we are told that they achieved human status in an earlier mahamanvantara. The duration of one round, however, is not sufficient to make a Solar Angel out of a man.

276. Liệu người mà chúng ta đang nói đến sẽ xuất hiện để phụng sự như một Thái dương Thiên Thần? Chúng ta không thể chắc điều này là khả hữu, vì khi bàn về “các vị Nirvani trở lại”, chúng ta được cho biết rằng Các Ngài đã đạt địa vị nhân loại trong một đại giai kỳ sinh hóa sớm hơn, Thời lượng của một cuộc tuần hoàn, tuy nhiên, không đủ để biến một con người thành một Thái dương Thiên Thần.

277. Interestingly, we are not told whether the future service here mentioned is to be service in relation to our planet, Earth.

277. Điều đáng chú ý là chúng ta không được cho biết liệu sự phụng sự trong tương lai được nhắc đến ở đây là phụng sự liên quan đến hành tinh của chúng ta, Trái Đất, hay không.

278. We also note that the liberated human being can return. It does not necessarily say that he will.

278. Chúng ta cũng lưu ý rằng con người đã giải thoát có thể trở lại. Không nhất thiết nói rằng y sẽ trở lại.

279. The words “as a member of a Hierarchy” may also give us pause. “A Hierarchy” is, perhaps, a Creative Hierarchy higher than the present Human Creative Hierarchy. Yet the next higher Creative Hierarchy is the Hierarchy of Solar Angels and it may require an interval between solar systems to train a human being as a Solar Angel.

279. Những chữ “với tư cách là thành viên của một Thánh Đoàn” cũng có thể khiến chúng ta dừng lại. “Một Thánh Đoàn” có lẽ là một Huyền Giai Sáng Tạo cao hơn Huyền Giai Sáng Tạo Nhân Loại hiện tại. Thế nhưng Huyền Giai Sáng Tạo cao hơn kế đó là Huyền Giai của các Thái dương Thiên Thần, và có thể cần một quãng giữa các hệ mặt trời để đào luyện một con người thành một Thái dương Thiên Thần.

280. In any case, we gather the idea that a liberated human being may be free of involvement with humanity for a very long time—perhaps even until the next round—whether a chain round or a scheme round we are not told.

280. Dù thế nào, chúng ta tiếp nhận ý rằng một con người đã giải thoát có thể tự do không dính líu đến nhân loại trong một thời gian rất dài—có lẽ thậm chí cho đến cuộc tuần hoàn kế—dù là tuần hoàn dãy hay tuần hoàn hệ thì không được nói rõ.

As this concerns the seven paths of opportunity for a Master we will not deal with it here.47

Vì điều này liên quan đến bảy con đường cơ hội cho một Chân sư nên chúng ta sẽ không đề cập đến nó ở đây.47

281. In this context we are speaking of the Path of Higher Evolution.

281. Trong ngữ cảnh này, chúng ta đang nói về Con đường Tiến Hóa Cao Siêu.

282. There are probably a number of ways that a liberated human being can ‘return’ to the field of Earth-service in a future round. To return as a Solar Angel is only one possibility and may require ‘schooling’ in the stellar system of Sirius. Such re-entry may not occur until the advent of the next mahamanvantara.

282. Có lẽ có nhiều cách để một con người đã giải thoát có thể “trở lại” với trường phụng sự Trái Đất trong một cuộc tuần hoàn tương lai. Việc trở lại như một Thái dương Thiên Thần chỉ là một khả năng và có thể đòi hỏi ‘sự đào luyện’ ở hệ sao Sirius. Sự tái nhập này có thể không xảy ra cho đến kỳ đại giai kỳ sinh hóa kế tiếp.

283. It is possible that one may tread one of the Seven Paths and make sufficient progress on that Path to return to help a future humanity well before the present solar system has finished its cycle.

283. Cũng có khả năng một người sẽ bước đi trên một trong Bảy Con Đường và đạt đủ tiến bộ trên Con Đường ấy để trở lại giúp đỡ một nhân loại tương lai trước khi hệ mặt trời hiện tại hoàn tất chu kỳ của nó.

284. Concerning the Seven Paths, we may have been told something of ‘ultimate destinations’, but we have not been told of all the various substance-periods upon such Paths, nor of the possibility of intermittent ‘returns’ for the sake of service.

284. Liên quan đến Bảy Con Đường, có lẽ chúng ta đã được cho biết điều gì đó về ‘điểm đến tối hậu’, nhưng chúng ta chưa được cho biết về tất cả các giai kỳ chất liệu trên những Con Đường ấy, cũng như khả năng “trở lại” gián đoạn vì mục đích phụng sự.

This is the great human pralaya.

Đây là giai kỳ qui nguyên vĩ đại của nhân loại,

285. The pralaya here under discussion is still a human pralaya. It does not concern rootraces or their subraces. It concerns an interval between rounds. This interval can, however, be many millions of years.

285. Giai kỳ qui nguyên đang bàn vẫn là giai kỳ qui nguyên của nhân loại, Nó không liên quan đến các Giống dân gốc hay giống dân phụ của chúng. Nó liên quan đến một khoảng giữa các cuộc tuần hoàn. Khoảng này, tuy vậy, có thể kéo dài rất nhiều triệu năm.

286. The “great human pralaya” does not concern intervals between incarnations as a human being; it does not concern intervals between various egoic cycles; rather, it concerns release from the human kingdom at the fourth and fifth initiations.

286. “Giai kỳ qui nguyên vĩ đại của nhân loại” không liên quan đến khoảng giữa các lần lâm phàm như một con người; không liên quan đến khoảng giữa các chu kỳ chân ngã; đúng hơn, nó liên quan đến sự giải thoát khỏi giới nhân loại ở các lần điểm đạo thứ tư và thứ năm.

Footnote 47: The seven Paths upon one of which all must pass:—

Chú thích 47: Bảy Con Đường mà trên một trong đó tất cả đều phải đi qua:—

Path 1. The Path of Earth Service.

Con đường 1. Con Đường Phụng Sự Trái Đất.

Path 2. The Path of Magnetic Work.

Con đường 2. Con Đường Công Tác Từ Tính.

Path 3. The Path of the Planetary Logoi.

Con đường 3. Con Đường của các Hành Tinh Thượng đế.

Path 4. The Path to Sirius.

Con đường 4. Con Đường tới Sirius.

Path 5. The Ray Path.

Con đường 5. Con Đường của các Cung.

Path 6. The Path of the Solar Logos.

Con đường 6. Con Đường của Thái dương Thượng đế.

Path 7. The Path of Absolute Sonship.

Con đường 7. Con Đường của Con Thái Tử Tuyệt Đối.

287. These Seven Cosmic Paths are discussed in IHS as well as later in TCF and in R&I. It seems that the Tibetan was given permission to reveal more and more about these Seven Paths.

287. Bảy Con Đường Vũ Trụ này được bàn trong IHS cũng như sau đó trong TCF và trong R&I. Có vẻ như Chân sư Tây Tạng đã được phép tiết lộ ngày càng nhiều về Bảy Con Đường này.

288. While it is a Master Who is concerned with which of the Seven Paths to tread, the idea of the Seven Paths offers a great incentive to those of us who, as disciples, are struggling along the way.

288. Dù là một Chân sư mới quan tâm đến việc chọn một trong Bảy Con Đường để bước đi, ý niệm về Bảy Con Đường vẫn đem lại động lực lớn lao cho chúng ta—những người, với tư cách đệ tử, đang nỗ lực trên Đạo.

289. Later in The Rays and the Initiations, we learn that two more Paths have been added to the seven, though their names are not given.

289. Sau này trong Các Cung và các Cuộc Điểm Đạo,  chúng ta biết rằng có thêm hai Con Đường nữa được bổ sung vào bảy, tuy tên của chúng không được nêu ra.

“…the supreme Directors of the seven cosmic Paths are today in the same position as was the Hierarchy then; the word has gone forth to our three Great Lords—the Manu, the Christ and the Mahachohan—via the three Buddhas of Activity, to act in order to tighten up on requirements, to make the sixth initiation and not the fifth, the decisive one, and to present those on the seven rays with [412] a wider range of choices and a greater diversity of choice. Thus the Masters will have nine choices to face when They face Their decision; there will then be no need for Those on certain rays to pass to certain already determined Paths, but They can move forward under Their Own inspiration and with greater freedom. The cosmic mental plane is not barred to Them, as has hitherto been the case. (R&I 411-412)

“…các Đấng Chủ Quản tối thượng của bảy Con Đường vũ trụ ngày nay ở trong cùng vị thế như Thánh Đoàn khi ấy; linh từ đã phát xuống cho ba Đấng Lớn của chúng ta—Đức Manu, Đức Christ và Đức MahaChohan—thông qua ba Đức Phật Hành Động, để hành động theo hướng siết chặt các yêu cầu, làm cho lần điểm đạo thứ sáu chứ không phải thứ năm trở thành lần quyết định, và đưa ra cho những ai ở trên bảy cung một [412] phạm vi chọn lựa rộng hơn và đa dạng hơn. Như thế, các Chân sư sẽ có chín chọn lựa để đối mặt khi Các Ngài đối diện với quyết định của Mình; khi đó sẽ không cần để Những Vị ở trên các cung nhất định phải đi tới những Con Đường đã định sẵn, mà Các Ngài có thể tiến bước theo Cảm Hứng của Chính Mình và với tự do lớn hơn. Cõi trí vũ trụ không còn bị đóng đối với Các Ngài, như đã từng vậy cho đến nay. (R&I 411-412)

(4) Planetary Pralaya. Man, after these cyclic happen­ings, is now a conscious part of his group, and a vibrant point in a centre in the body of a Heavenly Man, consciously alive and consciously aware of his place in the great whole.

(4) Giai kỳ Qui nguyên Hành tinh. Con người, sau những biến cố chu kỳ này, nay là một bộ phận hữu thức của nhóm mình, và là một điểm rung động trong một trung tâm trong thân thể của một Đấng Thiên Nhân, hữu thức sống động và hữu thức nhận biết vị trí của mình trong toàn thể vĩ đại.

290. At this point we might conclude that man has become a conscious Monad.

290. Ở điểm này, chúng ta có thể kết luận rằng con người đã trở thành một Chân Thần hữu thức.

291. The normal centers of the Planetary Logos are not to be found on the systemic monadic plane, yet there are centers in the Planetary Logos there to be found (follow the inference from TCF, Chart V, 344). What is their nature? Are they to be considered, perhaps, as seven head centers?

291. Các trung tâm bình thường của Hành Tinh Thượng đế không được tìm thấy trên cõi chân thần hệ thống, tuy rằng các trung tâm của Hành Tinh Thượng đế ở đó (hãy theo suy diễn từ TCF, Biểu đồ V, 344). Bản chất của chúng là gì? Chúng có thể được xem, có lẽ, như là bảy trung tâm đầu?

292. In this context, we might also ask the relation between the seven stars of the Great Bear and the seven higher centers of the Planetary Logos to be found upon the systemic monadic plane.

292. Trong ngữ cảnh này, chúng ta cũng có thể hỏi về mối liên hệ giữa bảy ngôi sao của Đại Hùng Tinh và bảy trung tâm cao của Hành Tinh Thượng đế được tìm thấy trên cõi chân thần hệ thống.

293. With respect to man, his etheric centers are to be found upon all the four systemic ethers. This is probably true of the Solar Logos with respect to the cosmic ethers.

293. Đối với con người, các luân xa dĩ thái của y được tìm thấy trên tất cả bốn cõi dĩ thái hệ thống. Điều này có lẽ cũng đúng đối với Thái dương Thượng đế xét về các dĩ thái vũ trụ.

294. But what of the Planetary Logos? The structure of man is more directly analogous to the structure of the Solar Logos than to the Planetary Logos. May it be that the etheric centers of the Planetary Logos extend no higher than the second cosmic ether—i.e., the systemic monadic plane?

294. Nhưng còn Hành Tinh Thượng đế thì sao? Cấu trúc của con người trực tiếp tương đồng với cấu trúc của Thái dương Thượng đế hơn là với Hành Tinh Thượng đế. Có thể chăng các trung tâm dĩ thái của Hành Tinh Thượng đế không vượt quá dĩ thái vũ trụ thứ hai—tức là cõi chân thần hệ thống?

295. Since the seven head centers are, in a sense, incorporated within the major head center (itself found for man on the systemic atomic ether), it may be that these seven human head centers are located precisely on this systemic atomic ether.

295. Vì bảy trung tâm đầu, theo một nghĩa, được bao gồm trong trung tâm đầu chính (tự thân được tìm thấy đối với con người trên dĩ thái nguyên tử hệ thống), có thể rằng bảy trung tâm đầu này của con người nằm chính xác trên dĩ thái nguyên tử hệ thống.

296. From the point of view of the Planetary Logos, it may be that His head center is located on the systemic monadic plane and that the seven head centers ‘within’ (the aura of) that major head center are also there to be located.

296. Từ quan điểm của Hành Tinh Thượng đế, có thể rằng trung tâm đầu của Ngài nằm trên cõi chân thần hệ thống và bảy trung tâm đầu ‘nằm trong’ (trong hào quang của) trung tâm đầu chính ấy cũng được định vị tại đó.

297. A little thought about these matters will reveal to us how little we really know about the occult location of these planetary (and solar) energy centers.

297. Suy nghĩ đôi chút về những vấn đề này sẽ cho thấy chúng ta thật ít biết bao về vị trí huyền linh của các trung tâm năng lượng hành tinh (và thái dương).

This involves a realisation as to the centre of which he is a point of energy,

Điều này bao hàm một sự nhận thức về trung tâm mà y là một điểm năng lượng,

298. This will involve, initially, three major centres and eventually the possibility of involvement in any of seven subsidiary centers.

298. Điều này ban đầu sẽ liên quan đến ba trung tâm chính và rốt cuộc là khả năng dính líu đến bất kỳ trong bảy trung tâm phụ.

299. The Monad may reasonable be considered the “point of energy” here discussed.

299. Có thể hợp lý xem Chân Thần là “điểm năng lượng” đang được nói đến ở đây.

300. From another perspective, man-as-Triad (in any one of his triadal vehicles) can be considered to express himself within one of the centers located on at least three of the cosmic ethers of the cosmic physical plane.

300. Từ một quan điểm khác, con-người-như-Tam Nguyên (trong bất kỳ vận cụ triadal nào của y) có thể được xem là tự biểu hiện trong một trong các trung tâm đặt trên ít nhất ba cõi dĩ thái vũ trụ của cõi vật chất vũ trụ.

301. Just as in the body of a human being there are greater and lesser chakras (seven major chakras and seven superior head centers) so this should, analogously be the case of the Planetary Logos and the Solar Logos.

301. Cũng như trong thân thể con người có các luân xa lớn và nhỏ (bảy luân xa chính và bảy trung tâm đầu siêu việt), thì tương tự như thế hẳn đúng với Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế.

a knowledge of the type of force he is to transmit, and to manipulate from cosmic levels, and a con­scious relation with the six other centres in the planetary Life with which he is associated.

một hiểu biết về loại lực mà y phải truyền dẫn, và thao tác từ các cấp độ vũ trụ, và một mối liên hệ hữu thức với sáu trung tâm khác trong Sự sống hành tinh mà với nó y gắn bó.

302. We seem to be speaking of ‘man-the-Monad’.

302. Có vẻ như chúng ta đang nói về ‘con-người-như-Chân Thần’.

303. Man as a Monad awakens to the knowledge of that center within a Planetary Logos of which he forms a constituent part.

303. Con người như một Chân Thần thức tỉnh tri thức về trung tâm trong Hành Tinh Thượng đế của mình mà trong đó y là một bộ phận cấu thành.

304. Thus man, in a state of high spiritual realization realizes:

304. Như vậy con người, trong trạng thái đại ngộ, nhận biết:

a. The center within his Planetary Logos in which he has the greatest part to play

a. Trung tâm trong Hành Tinh Thượng đế của y, nơi y đóng vai trò lớn nhất

b. Knowledge of the force which he is to transmit and manipulate from cosmic levels. What are these “cosmic levels”? May we say that we are speaking of the manipulation of force from levels of the cosmic ethers?

b. Tri thức về loại lực mà y phải truyền dẫn và thao tác từ các cấp độ vũ trụ. “Các cấp độ vũ trụ” này là gì? Chúng ta có thể nói rằng đang nói về sự thao tác lực từ các tầng dĩ thái vũ trụ?

c. A conscious relation with the six other centers in the planetary Life with which he is associated.

c. Một mối liên hệ hữu thức với sáu trung tâm khác trong Sự sống hành tinh mà y gắn bó.

305. We see that even though a liberated human being functions primarily through one or other centers of his Planetary Logos, he still has a relation to the other six centers of that Logos.

305. Chúng ta thấy rằng dù một con người đã giải thoát chủ yếu hoạt dụng qua một hay trung tâm khác của Hành Tinh Thượng đế của mình, y vẫn có liên hệ với sáu trung tâm còn lại của vị Logos ấy.

306. A human being, having achieved monadic consciousness, is not encapsulated in only one center.

306. Một con người, sau khi đạt tâm thức chân thần, không bị đóng khung chỉ trong một trung tâm.

307. According to his monadic ray, man may have a specific focus within his spiritual triad, and through this focus, he may express through one or other of the chakras of his Planetary Logos. We are approaching speculatively and the matter is intricate.

307. Tùy theo cung chân thần của y, con người có thể có một tiêu điểm cụ thể trong Tam Nguyên Tinh Thần của mình, và qua tiêu điểm ấy, y có thể tự biểu hiện qua một hay luân xa khác của Hành Tinh Thượng đế của mình. Chúng ta đang tiếp cận một cách suy đoán và vấn đề này rất tinh vi.

This period of conscious activity in etheric substance (of which the planetary body is formed) persists according to the karma of the planetary Lord, for the unit is now consciously associated with planetary karma,

Giai đoạn hoạt động hữu thức này trong chất liệu dĩ thái (từ đó thân thể hành tinh được cấu thành) kéo dài tùy theo nghiệp của Hành Tinh Thượng đế, vì đơn vị giờ đây đã hữu thức liên kết với nghiệp hành tinh,

308. We are speaking of the human unit.

308. Chúng ta đang nói về đơn vị nhân loại.

309. The man is associated with planetary karma because he is in process of becoming a “Planetary Life”—a member of the sixth kingdom.

309. Con người liên hệ với nghiệp hành tinh vì y đang trong tiến trình trở thành một “Sự sống Hành tinh”—một thành viên của giới thứ sáu.

310. A man may spend a long time working in the cosmic ethers of his particular Planetary Logos.

310. Một người có thể dành thời gian dài làm việc trong các dĩ thái vũ trụ của Hành Tinh Thượng đế riêng của mình.

and is a participant in the working out of the will and purpose of the Lord of His Ray.

và là một tham dự viên trong việc triển khai Ý chí và Thiên Ý của Đấng Chúa Tể Cung của y.

311. The “Lord of His Ray” may, from one perspective, be considered the Planetary Logos. From another perspective, each type of human Monad is related to one or other of the seven major Ray Lords (Beings ‘resident’ in Shamballa and attuned to the still greater Ray Lords Who ensoul the seven sacred planets).

311. “Đấng Chúa Tể Cung của y” có thể, từ một góc nhìn, được xem là Hành Tinh Thượng đế. Từ góc nhìn khác, mỗi loại Chân Thần nhân loại liên hệ với một trong bảy Đấng Chúa Tể Cung (những Đấng ‘trú’ tại Shamballa và hòa điệu với những Đấng Chúa Tể Cung lớn hơn đang thấm nhuần bảy hành tinh linh thiêng).

312. A liberated human being works within the “etheric substance” of a Planetary Logos—i.e., within the cosmic ethers, perhaps with the exception of the first cosmic ether which can be considered more solar than planetary.

312. Một con người đã giải thoát làm việc trong “chất liệu dĩ thái” của một Hành Tinh Thượng đế—tức là trong các dĩ thái vũ trụ, có lẽ trừ dĩ thái vũ trụ thứ nhất vốn có thể được xem là mang tính thái dương hơn là hành tinh.

313. Such an advanced human being is no longer personal. His entire purpose is to carry out the will and purpose of the Lord of his Ray. We are speaking here of the impersonal life of the liberated Arhat, Master or Chohan.

313. Một con người tiến bộ như vậy không còn mang tính cá nhân. Toàn bộ mục đích của y là thực thi Ý chí và Thiên Ý của Đấng Chúa Tể Cung của y. Ở đây chúng ta đang nói về đời sống phi cá nhân của một vị A-la-hán, Chân sư hay Chohan đã giải thoát.

314. We are speaking of activity following the “great human pralaya”. The term of such activity is at least partially determined by the life-span of a Planetary Logos and the onset of His pralaya. Of course, we remember that incarnation for a Planetary Logos does not include expression on the cosmic ethers, but only expression through His dense physical body. Therefore, when a Planetary Logos withdraws from His dense physical body and focussed instead through His cosmic etheric body, He is technically considered in pralaya or at least in the beginning phases of pralaya.

314. Chúng ta đang nói về hoạt động sau “giai kỳ qui nguyên vĩ đại của nhân loại”. Thời hạn của hoạt động như vậy ít nhất một phần do tuổi thọ của một Hành Tinh Thượng đế và sự khởi đầu giai kỳ qui nguyên của Ngài định đoạt. Dĩ nhiên, chúng ta nhớ rằng lâm phàm đối với một Hành Tinh Thượng đế không bao gồm việc biểu hiện trên các dĩ thái vũ trụ, mà chỉ là biểu hiện qua thể xác đậm đặc của Ngài. Vì vậy, khi một Hành Tinh Thượng đế rút ra khỏi thể xác đậm đặc của Ngài và thay vào đó tập trung qua thể dĩ thái vũ trụ của Ngài, về mặt kỹ thuật Ngài được xem là đang trong giai kỳ qui nguyên, hay chí ít là giai đoạn khởi đầu của giai kỳ qui nguyên.

On the higher planes of the system, this stage persists for the length of the life of a scheme;

Trên các cõi cao của hệ thống, giai đoạn này kéo dài suốt độ dài đời sống của một hệ hành tinh;

315. We are being told of the field of expression of a liberated human being. The cosmic ethers may provide the focus for such a being for the duration of that scheme in which he achieved liberation.

315. Chúng ta đang được cho biết về trường biểu hiện của một con người đã giải thoát. Các dĩ thái vũ trụ có thể là nơi tập trung cho một hữu thể như vậy trong suốt thời gian của hệ hành tinh mà y đã đạt giải thoát.

316. It may be, however, that this is the case only when the human unit is treading the Path of Earth Service. How long this Path lasts we do not know. Some human units may, perhaps, take one or other of the other six Cosmic Paths and then return in a later round for service to that group of lives which has become the humanity of that future period.

316. Tuy nhiên, có thể điều này chỉ đúng khi đơn vị nhân loại đang bước trên Con Đường Phụng Sự Trái Đất. Con Đường này kéo dài bao lâu, chúng ta không biết. Một số đơn vị nhân loại có lẽ sẽ chọn một trong sáu Con Đường Vũ Trụ khác và rồi trở lại trong một cuộc tuần hoàn sau để phụng sự cho nhóm sự sống đã trở thành nhân loại của thời kỳ tương lai đó.

to which a period of pralaya succeeds that has its beginning towards the end of the seventh round in any scheme

tiếp theo là một giai đoạn qui nguyên bắt đầu về cuối cuộc tuần hoàn thứ bảy trong bất kỳ hệ hành tinh nào

317. It is evident, is it not, that we are speaking of scheme rounds and not of chain rounds.

317. Rõ ràng, phải không, rằng chúng ta đang nói về các cuộc tuần hoàn hệ chứ không phải các cuộc tuần hoàn dãy,

318. Venus seems exempt from this rule, having achieved in five scheme rounds what most other Planetary Logoi usually require seven to achieve.

318. Kim Tinh dường như là ngoại lệ đối với luật này, bởi đã đạt được trong năm cuộc tuần hoàn hệ điều mà hầu hết các Hành Tinh Thượng đế khác thường cần bảy để đạt.

319. We are speaking of a scheme pralaya. How many times can this happen during a single mahamanvantara or occult century? The answer is probably once.

319. Chúng ta đang nói về một giai kỳ qui nguyên của hệ. Điều này có thể xảy ra bao nhiêu lần trong một đại giai kỳ sinh hóa hay “thế kỷ huyền môn”? Câu trả lời có lẽ là một lần,

or of the fifth if the Law of Persistence of a scheme is working out through cycles of five.

hoặc vào cuộc tuần hoàn thứ năm nếu Định luật Duy trì của một hệ đang biểu hiện qua các chu kỳ năm.

320. We are given the name of a new law—the “Law of Persistence”. It is unclear whether this Law working through Venus, for instance, was intended to work out “through cycles of five”, or whether the completion of the term of manifestation in five scheme rounds instead of seven occurred as a result of the stupendous and successful effort of the Logos of that scheme.

320. Chúng ta được cho biết tên một định luật mới—“Định luật Duy trì”. Không rõ liệu Định luật này vận hành qua Kim Tinh, chẳng hạn, vốn dự định làm việc “qua các chu kỳ năm”, hay việc kết thúc thời kỳ biểu hiện trong năm cuộc tuần hoàn hệ thay vì bảy là do nỗ lực phi thường và thành công của Logos của hệ đó.

321. The pralaya which occurs usually following the seventh scheme round may endure until the following mahamanvantara. It is not indicated whether a scheme can manifest more than once in a mahamanvantara. Since a scheme is, essentially, a solar logoic chakra, manifestation more than once would be highly doubtful. The obscuration of lower chakras, however, occurring but once, is highly probable.

321. Giai kỳ qui nguyên vốn thường xảy ra sau cuộc tuần hoàn hệ thứ bảy có thể kéo dài cho đến đại giai kỳ sinh hóa kế tiếp. Không nói rõ liệu một hệ có thể biểu hiện hơn một lần trong một đại giai kỳ sinh hóa hay không. Vì một hệ, về bản chất, là một luân xa của Thái dương Thượng đế, nên việc biểu hiện nhiều hơn một lần sẽ rất khó có khả năng. Tuy nhiên, sự ám tắt của các luân xa thấp xảy ra chỉ một lần thì lại rất có khả năng.

I am [740] here generalising and speaking in broad terms; the karma of the units differ and a man—according to the path he chooses after the fifth initiation

Tôi [740] đang tổng quát hóa ở đây và nói theo nét lớn; nghiệp của các đơn vị khác nhau và một người—tùy theo con đường y chọn sau lần điểm đạo thứ năm

322. And, as it now stands, presumably at the time of the sixth initiation…

322. Và, như hiện nay, có lẽ vào lúc lần điểm đạo thứ sáu…

323. The “units” of which we are speaking are human beings.

323. “Các đơn vị” mà chúng ta đang nói đến là con người.

—stays and works within his own scheme,

—ở lại và làm việc trong hệ của mình ,

324. Is this the case even if the man is not on the Path of Earth Service?

324. Liệu điều này có đúng ngay cả khi người ấy không ở trên Con Đường Phụng Sự Trái Đất?

325. While it is probably the case that a man continues to work within his own scheme following the fifth initiation, it cannot be said that this is necessarily so following the sixth.

325. Dù có lẽ đúng rằng một người tiếp tục làm việc trong hệ của mình sau lần điểm đạo thứ năm , không thể nói rằng điều này nhất thiết đúng sau lần điểm đạo thứ sáu,

but changes may occur through the following factors:

nhưng có thể có những thay đổi do các yếu tố sau:

a. Planetary karma.

a. Nghiệp hành tinh.

326. This is variable and beyond our ken.

326. Điều này khả biến và vượt ngoài sự thấu đạt của chúng ta.

327. Sanat Kumara, for instance, reserves the right to chose for the Path of Earth Service only those human units which He truly needs.

327. Chẳng hạn, Đức Sanat Kumara dành quyền chọn cho Con Đường Phụng Sự Trái Đất chỉ những đơn vị nhân loại mà Ngài thật sự cần,

b. The will of the Lord of his Ray.

b. Ý chí của Đấng Chúa Tể Cung của y.

328. Each human being belongs principally to one or other of the Logoi of the seven sacred planets (which Logoi are reflected in the seven Ray Lords found within any planetary scheme).

328. Mỗi con người thuộc chủ yếu về một trong các Thượng đế của bảy hành tinh linh thiêng (mà Các Ngài được phản ánh trong bảy Đấng Chúa Tể Cung tìm thấy bên trong bất kỳ hệ hành tinh nào).

329. A human unit may function, for instance, within the planetary scheme of Earth and yet be even more directly under the supervision of the Logos of one or other of the seven sacred planets.

329. Một đơn vị nhân loại có thể hoạt động, chẳng hạn, trong hệ hành tinh Địa Cầu nhưng lại trực tiếp hơn dưới sự giám hộ của Logos của một trong bảy hành tinh linh thiêng.

c. Orders emanating from the solar Logos which are conveyed to him after liberation via the planetary Logos and through the medium of the chohan of his Ray.

c. Các mệnh lệnh phát xuất từ Thái dương Thượng đế được chuyển đạt đến y sau khi giải thoát qua trung gian Hành Tinh Thượng đế và thông qua Chohan của Cung của y.

330. The “chohan of his Ray” is the Head of an entire Ray Ashram.

330. “Chohan của Cung của y” là vị Thủ Lĩnh của toàn bộ một Đại Huyền môn viện Cung.

331. It appears that the Solar Logos reserves the right to intervene in the direction to be taken by a newly made Master.

331. Dường như Thái dương Thượng đế dành quyền can dự vào phương hướng mà một Tân Chân sư sẽ chọn.

332. We may assume that a Chohan is a solar Being and is receptive to the direction of the Solar Logos (via the Planetary Logos in question and especially that Planetary Logos Who expresses both the ray of the Chohan and of the human unit in question).

332. Chúng ta có thể giả định rằng một Chohan là một Đấng mang tính thái dương và sẵn lòng tiếp nhận sự chỉ đạo của Thái dương Thượng đế (qua Hành Tinh Thượng đế liên hệ, nhất là Hành Tinh Thượng đế biểu hiện cả cung của vị Chohan lẫn của đơn vị nhân loại đang bàn).

333. We have here another way of saying that ‘Shamballa is solar’.

333. Ở đây chúng ta có một cách nói khác rằng ‘Shamballa mang tính thái dương’,

He is then “abstracted” under a mysterious planetary law which only works on cosmic etheric levels, and is transferred to his destination.

Sau đó y được “trừu xuất” theo một định luật hành tinh huyền bí chỉ vận hành trên các tầng dĩ thái vũ trụ, và được chuyển dịch đến đích của mình.

334. Under the direction of the Solar Logos, the man is abstracted.

334. Theo sự chỉ đạo của Thái dương Thượng đế, con người được trừu xuất.

335. We are speaking of those conditions under which a Master of the fifth degree may not stay to work in relation to His particular planetary scheme, but may be transferred, perhaps, to another due the conditions and interventions dealt with above.

335. Chúng ta đang nói về những điều kiện mà theo đó một Chân sư bậc năm có thể không lưu lại để làm việc liên hệ với hệ hành tinh đặc thù của y, mà có thể được chuyển dịch, có lẽ, sang một hệ khác do các điều kiện và can thiệp như đã bàn ở trên.

336. We are gathering that the cosmic ethers are usually the scene of much prolonged work of the newly made Master.

336. Chúng ta nhận thấy rằng các dĩ thái vũ trụ thường là khung cảnh của công tác kéo dài của một Tân Chân sư.

If we interpret all the above in terms of energy and of radioactivity and thus avoid the dangers of materialistic interpretation, the meaning will become clearer.

Nếu chúng ta diễn giải tất cả những điều trên theo thuật ngữ năng lượng và tính phóng xạ, nhờ đó tránh các hiểm họa của diễn giải duy vật, ý nghĩa sẽ trở nên sáng rõ hơn.

337. DK ever seeks to have us think in terms of energy and not personally.

337. Chân sư DK luôn mong chúng ta tư duy theo thuật ngữ năng lượng chứ không theo cá nhân.

338. We can gather that the destiny and destination of a human unit who has become a Master is not necessarily with His own planetary scheme, though most often it will be—if, planetary karma, the will of the Lord of His Ray or the Solar Logos do not indicate otherwise.

338. Chúng ta có thể hiểu rằng định mệnh và đích đến của một đơn vị nhân loại đã trở thành Chân sư không nhất thiết gắn với hệ hành tinh riêng của y, tuy rằng thường thì sẽ như vậy— nếu như nghiệp hành tinh, ý chí của Đấng Chúa Tể Cung của y hay của Thái dương Thượng đế không chỉ định khác.

              (5) The Great Pralaya.

(5) Đại Giai kỳ Qui nguyên.

339. We have been reviewing different types of pralayas—human (of several varieties), planetary, though, not until this point, solar.

339. Chúng ta đã duyệt qua các loại giai kỳ qui nguyên khác nhau—của nhân loại (với vài biến tướng), của hành tinh, dù đến điểm này, chưa bàn tới giai kỳ qui nguyên thái dương,

This interval comes at the close of every one hundred years of Brahma, and sweeps into dissolution forms of every kind—subtle and dense—throughout the entire system.

Khoảng này đến vào lúc kết thúc mỗi trăm năm của Brahma, và cuốn sạch vào tan rã mọi loại hình tướng—tinh vi và đậm đặc —trong toàn bộ hệ thống.

340. Whereas it may be philosophically necessary to think that all units of consciousness complete their task before the onset of the absolutely Universal Pralaya, we need not think so in relation to that pralaya which occurs between two mahamanvantaras or occult centuries.

340. Dù về mặt triết lý có thể cần nghĩ rằng mọi đơn vị tâm thức đều hoàn tất nhiệm vụ của mình trước khi bắt đầu Đại Giai kỳ Qui nguyên tuyệt đối, chúng ta không cần nghĩ như thế đối với giai kỳ qui nguyên xảy ra giữa hai đại giai kỳ sinh hóa hay “thế kỷ huyền môn”.

341. The interval between solar systems is still very minor when compared to the interval between universes.

341. Khoảng giữa hai hệ mặt trời vẫn rất nhỏ nếu so với khoảng giữa các vũ trụ,

It is a period analogous to that dealt with when we considered the abstraction of man from his etheric vehicle, and his ability then to function on the astral plane, dissociated from his dual physical form.

Đó là một thời kỳ tương tự như thời kỳ chúng ta đã bàn khi xét sự trừu xuất con người ra khỏi thể dĩ thái của y, và khả năng của y khi ấy hoạt dụng trên cõi cảm dục, tách lìa khỏi thể xác kép của y.

342. A solar pralaya signifies the withdrawal of the Solar Logos from His dual physical-etheric vehicle. We remember, however, that for such a great Being, incarnation is a matter of informing a dense physical vehicle and that release from the dense vehicle indicates the onset of pralaya.

342. Một giai kỳ qui nguyên thái dương biểu thị sự rút lui của Thái dương Thượng đế khỏi thể xác-kèm-dĩ thái của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta nhớ rằng đối với một Đấng vĩ đại như thế, lâm phàm là việc thấm nhuần một thể xác đậm đặc, và sự rút khỏi thể xác đậm đặc báo hiệu sự khởi đầu của giai kỳ qui nguyên.

343. In the case of such a pralaya, an occult century will elapse before the Solar Logos again incarnates on the cosmic etheric-physical plane.

343. Trong trường hợp một giai kỳ qui nguyên như vậy, một “thế kỷ huyền môn” sẽ trôi qua trước khi Thái dương Thượng đế lại tái lâm trên cõi vật chất-dĩ thái vũ trụ.

Within the system a process similar to that undergone when man withdraws the etheric body out of the dense physical vehicle, will be seen towards the close of the mahamanvan­tara.

Bên trong hệ, một tiến trình tương tự như tiến trình mà con người trải qua khi rút thể dĩ thái ra khỏi thể xác đậm đặc, sẽ được thấy vào gần cuối đại giai kỳ sinh hóa.

344. This will signify the physical-etheric ‘death’ of the Solar Logos:

344. Điều này sẽ biểu thị ‘cái chết’ thể xác-dĩ thái của Thái dương Thượng đế:

It will cover the period wherein the lesser four Rays merge and blend, seeking duality, and their polar opposites. Eventually the four become two, the two become one, and all are then synthesised into the third major Ray.

Nó sẽ bao trùm thời kỳ trong đó bốn Cung phụ hòa nhập và phối kết, tìm kiếm nhị nguyên, và các đối cực của chúng. Rốt cuộc bốn trở thành hai, hai trở thành một, và tất cả khi đó được tổng hợp vào Cung chính thứ ba.

345. DK is describing the process of obscuration.

345. Chân sư DK đang mô tả tiến trình che khuất.

346. We might enquire—“What of the two higher Rays?” Since these Rays manifest through the major planets Uranus and Neptune (and these planets are in physical incarnation) why are these Rays and their planets not included in the description of the ‘death’ of the solar system?

346. Chúng ta có thể hỏi—“Còn hai Cung cao hơn thì sao?” Vì các Cung này biểu hiện qua những hành tinh chính Uranus và Neptune (và các hành tinh này đang ở trong lâm phàm vật chất), cớ sao các Cung ấy và các hành tinh của chúng không được bao gồm trong mô tả về ‘cái chết’ của hệ mặt trời?

347. When DK uses the word “all”, He does not appear to include the two highest Rays of Aspect.

347. Khi Chân sư DK dùng chữ “tất cả”, dường như Ngài không bao gồm hai Cung Phương diện cao nhất.

348. Perhaps this is so because we are speaking in cosmic physical terms. Saturn (the vehicle of the third ray) is the correspondence to the physical permanent atom of the Solar Logos and is thus related directly to the cosmic physical plane. Uranus and Neptune may have closer correspondences to the cosmic mental plane and the cosmic astral plane respectively. The solar system ends, in a way, once the cosmic astral plane is reached.

348. Có lẽ là vì chúng ta đang nói theo các thuật ngữ vật chất vũ trụ. Thổ Tinh (thể hiện Cung ba) là đối phần với nguyên tử trường tồn thể xác của Thái dương Thượng đế và do đó liên hệ trực tiếp với cõi vật chất vũ trụ. Uranus và Neptune có thể có các đối phần gần gũi hơn với cõi trí vũ trụ và cõi cảm dục vũ trụ tương ứng. Hệ mặt trời, theo một nghĩa nào đó, chấm dứt một khi cõi cảm dục vũ trụ được vươn tới.

The time is not yet, but lies countless aeons ahead.

Thời gian ấy chưa đến, mà nằm ở phía trước vô số kiếp.

349. And how long is an “aeon”? From this description we can understand that it is a unit far smaller in duration than a mahamanvantara (when this term means “occult century”—as it only mostly does)..

349. Và một “kiếp” dài bao lâu? Từ mô tả này, chúng ta hiểu rằng đó là một đơn vị lâu dài nhỏ hơn nhiều so với một đại giai kỳ sinh hóa (khi thuật ngữ này nghĩa là “thế kỷ huyền môn”—như nó chủ yếu là thế).

350. Perhaps an aeon is a round or manvantara.

350. Có lẽ một kiếp là một cuộc tuần hoàn hay một manvantara.

It is the first appearance of the destroyer aspect in connection with the planetary schemes, and marks the beginning of the [741] time when the “Heavens will melt with fervent heat,” and the Sun becomes seven suns.48 [See S. D., II, 746, 747.]

Đây là sự xuất hiện đầu tiên của phương diện hủy diệt liên hệ với các hệ hành tinh, và đánh dấu sự khởi đầu của  [741]  thời kỳ “Trời sẽ tan chảy vì lửa hừng”, và Mặt Trời trở thành bảy mặt trời,48 [Xem S.D., II, 746, 747.]

351. The wording used is important. We are told of the “first” appearance of the destroyer aspect in connection with the planetary schemes. This suggests that there may be subsequent appearances of this aspect.

351. Cách diễn đạt được dùng là quan trọng. Chúng ta được cho biết về sự xuất hiện “đầu tiên” của phương diện hủy diệt liên hệ với các hệ hành tinh. Điều này gợi rằng có thể có những lần xuất hiện tiếp theo của phương diện này.

352. When we speak of the “seven suns”, we do not know whether we are speaking of the major solar orb or of seven of the planets considered as chakras or of some scintillating demonstration related to the seven systemic planes. We can see (in relation to the second option) from the Chart VI (TCF 373) that, associated with ‘Greater Saturn’, there are seven planets.

352. Khi chúng ta nói về “bảy mặt trời”, chúng ta không biết liệu mình đang nói về quầng thái dương chủ yếu hay về bảy hành tinh được xem như các luân xa, hoặc về một sự phô diễn lấp lánh nào đó liên hệ với bảy cõi hệ thống. Chúng ta có thể thấy (liên quan đến lựa chọn thứ hai) từ Biểu đồ VI (TCF 373) rằng, đi kèm với ‘Sao Thổ Vĩ Đại’, có bảy hành tinh.

353. From this way of viewing “suns” we will have to state that there are nine suns and not only seven, i.e., if we count Uranus and Saturn.

353. Từ cách nhìn “mặt trời” như vậy, chúng ta sẽ phải nói rằng có chín mặt trời chứ không chỉ bảy, tức là, nếu chúng ta tính cả Sao Thiên Vương và Sao Thổ.

The microcosmic correspondence can be seen in the follow­ing process. The physical permanent atom absorbs the entire life force of the physical body,

Sự tương ứng tiểu thiên địa có thể thấy trong tiến trình sau. Nguyên tử trường tồn thể xác hấp thu toàn bộ sinh lực của thể xác,

354. We remember that Saturn, the monadic and perhaps egoic Lord of the Third Ray, is a correspondence to the physical permanent atom of the Solar Logos.

354. Chúng ta nhớ rằng Sao Thổ, vị Chúa Tể cung ba trên cấp chân thần và có lẽ cả cấp chân ngã, là một tương ứng với nguyên tử trường tồn thể xác của Thái dương Thượng đế.

and its inherent heat and light is thereby increased until at the fourth initiation the seven spirillae are fully vitalised, and vibrant.

và nhiệt và quang tự hữu của nó vì thế được gia tăng cho đến khi, ở lần điểm đạo thứ tư, bảy tiểu xoắn ốc được tiếp sinh lực trọn vẹn và rung động mạnh mẽ.

355. Herein lies an important hint, thought there is a suggestion that full vibrancy of the physical permanent atom occurs once the first tier of petals in the egoic lotus are fully opened (which is well before the fourth initiation).

355. Ở đây có một gợi ý quan trọng, dù có gợi ý rằng sự rung động hoàn toàn của nguyên tử trường tồn thể xác xảy ra ngay khi tầng cánh thứ nhất của hoa sen chân ngã được khai mở trọn vẹn (điều này xảy ra từ khá lâu trước lần điểm đạo thứ tư).

It must be remembered that the three lower petals when fully unfolded affect, through their vitality, the three major spirillae in the physical permanent atom. As the second ring of petals gradually opens, the astral permanent atom undergoes a similar process, leading up to the full arousing of the spirillae within the mental unit. (TCF 545-546)

Cần ghi nhớ rằng ba cánh thấp, khi được khai mở hoàn toàn, sẽ ảnh hưởng, thông qua sinh lực của chúng, đến ba tiểu xoắn ốc chính trong nguyên tử trường tồn thể xác. Khi vòng cánh thứ hai dần mở, nguyên tử trường tồn cảm dục trải qua một tiến trình tương tự, dẫn đến việc đánh thức trọn vẹn các tiểu xoắn ốc trong đơn vị hạ trí. (TCF 545-546)

356. The necessary clarification enters when we realize that at these earlier stages of unfoldment, only five of the spirillae of the physical permanent atom and astral permanent atom are open when petal tiers one and two are fully unfolded.

356. Sự làm rõ cần thiết xuất hiện khi chúng ta nhận ra rằng ở các giai đoạn khai mở sớm này, chỉ có năm tiểu xoắn ốc của nguyên tử trường tồn thể xác và nguyên tử trường tồn cảm dục là mở khi hai tầng cánh thứ nhất và thứ hai được khai mở trọn vẹn.

357. At the fourth degree, however, all seven spirillae of these permanent atoms are stimulated.

357. Tuy nhiên, ở lần điểm đạo thứ tư, cả bảy tiểu xoắn ốc của các nguyên tử trường tồn này đều được kích thích.

The astral permanent atom comes into full activity and radiance, as regards five of its spirillae, and the two atoms of the physical and the astral planes are equally vibrant. (TCF 541)

Nguyên tử trường tồn cảm dục đi vào hoạt động và quang huy trọn vẹn, xét về năm tiểu xoắn ốc của nó, và hai nguyên tử của cõi hồng trần và cõi cảm dục rung động ngang nhau. (TCF 541)

358. The following reference is of importance when we think of the meaning of that which has just been imparted:

358. Tham chiếu sau là quan trọng khi chúng ta nghĩ về ý nghĩa của điều vừa được truyền đạt:

The Personality Ray deals with the first four spirillae, and is the source of their stimulation. Note here the correspondence to the lower quaternary and its stimulation by the ego. The Egoic Ray concerns itself with the fifth spirilla and with the sixth, and is the cause of their emerging from latency and potentiality into power and activity. The Monadic Ray is the source of the stimulation of the seventh spirilla. (TCF 71-72)

Cung phàm ngã xử lý bốn tiểu xoắn ốc đầu tiên, và là nguồn kích hoạt chúng. Lưu ý ở đây sự tương ứng với bộ tứ thấp và sự kích hoạt nó bởi chân ngã. Cung Chân Ngã can dự vào tiểu xoắn ốc thứ năm và thứ sáu, và là nguyên nhân khiến chúng bước ra khỏi trạng thái tiềm ẩn và khả tính để đi vào quyền năng và hoạt động. Cung Chân Thần là nguồn kích thích tiểu xoắn ốc thứ bảy. (TCF 71-72)

359. The key lies in the idea of “fully vibrant and active”.

359. Chìa khóa nằm ở ý niệm “rung động và hoạt hóa trọn vẹn”.

360. This full vibrancy and activation may occur by the time the fourth initiation is achieved, but the source of the stimulation is, according to the above excerpt, the “Monadic Ray”. We can infer that by the time of the fourth initiation, the monadic ray is very potent and active.

360. Sự rung động và hoạt hóa trọn vẹn này có thể xảy ra vào lúc đạt đến lần điểm đạo thứ tư, nhưng nguồn kích thích, theo đoạn trích trên, là “Cung Chân Thần”. Chúng ta có thể suy ra rằng vào thời điểm lần điểm đạo thứ tư, cung chân thần đã rất hùng mạnh và hoạt động.

361. We have to wonder whether the seven spirillae of the astral permanent atom are also fully vibrant and vitalized by the time of the fourth initiation. It would seem so.

361. Chúng ta phải tự hỏi liệu bảy tiểu xoắn ốc của nguyên tử trường tồn cảm dục cũng rung động và được tiếp sinh lực trọn vẹn vào lúc lần điểm đạo thứ tư hay không. Có vẻ là như vậy.

The internal heat of the atom, plus the external heat of the egoic body wherein it has its place, produces then that which destroys the permanent atom.

Nhiệt nội tại của nguyên tử, cộng với nhiệt ngoại tại của thể egoic nơi nó an tại, khi đó sản sinh ra cái phá hủy nguyên tử trường tồn.

362. How is a permanent atom destroyed? Both internal heat and the heat of the egoic body have their role to play.

362. Làm thế nào một nguyên tử trường tồn bị hủy hoại? Cả nhiệt bên trong lẫn nhiệt của thể egoic đều có vai trò của chúng.

363. When we ask how the causal body is destroyed, we may find a similar method—destruction by both internal and external heat.

363. Khi chúng ta hỏi thể nguyên nhân bị hủy hoại như thế nào, chúng ta có thể thấy một phương pháp tương tự—sự hủy hoại bởi cả nhiệt nội tại và nhiệt ngoại tại.

Temporarily, and just prior to destruction, it becomes a tiny sevenfold sun owing to the radiation and activity of the spirillae.

Tạm thời, và ngay trước khi bị hủy hoại, nó trở thành một tiểu thái dương thất phân do bởi bức xạ và hoạt động của các tiểu xoắn ốc,

364. If every permanent atom becomes a sevenfold sun just before destruction, with the seven spirillae serving as source of those seven tiny suns, then the planes of the solar system (each of them as a spirilla to our Solar Logos) must be involved in the manifestation of the “seven suns” just as the Sun is about to be destroyed.

364. Nếu mỗi nguyên tử trường tồn trở thành một mặt trời nhỏ thất phân ngay trước khi bị hủy hoại, với bảy tiểu xoắn ốc đóng vai trò nguồn của bảy tiểu thái dương đó, thì các cõi của hệ mặt trời (mỗi cõi như một tiểu xoắn ốc đối với Thái dương Thượng đế của chúng ta) hẳn phải liên dự vào sự hiển lộ của “bảy mặt trời” đúng vào lúc Thái dương sắp bị hủy hoại.

So with the physical sun of the system; it will in a similar manner become seven suns, when it has absorbed the life essence of the fully evolved planes, and of the planetary schemes thereon.

Cũng như thế đối với mặt trời thể xác của hệ thống; nó sẽ theo cách tương tự mà trở thành bảy mặt trời, khi nó đã hấp thu tinh hoa sự sống của các cõi đã tiến hóa viên mãn , và của các hệ hành tinh trên đó.

365. We recall that to the Solar Logos, the planes are as spirillae to the tiny atom.

365. Chúng ta nhớ rằng đối với Thái dương Thượng đế, các cõi giống như các tiểu xoắn ốc đối với một nguyên tử nhỏ bé.

366. What is DK telling us about the ‘location’ of the planetary schemes?

366. Chân sư DK đang nói với chúng ta điều gì về ‘vị trí’ của các hệ hành tinh?

367. Just as the seven spirillae of an atom have to be fully vitalized and, so to say, ‘evolved’, the same is true of the seven systemic planes (before the fourth initiation of the Solar Logos can be taken). The central atom absorbs the life essence of the full evolved spirillae and the physical sun absorbs the life essence of the fully evolved planes.

367. Cũng như bảy tiểu xoắn ốc của một nguyên tử phải được tiếp sinh lực đầy đủ và, có thể nói, ‘được tiến hóa’, điều tương tự là đúng với bảy cõi hệ thống (trước khi Thái dương Thượng đế có thể trải qua lần điểm đạo thứ tư). Nguyên tử trung ương hấp thu tinh hoa sự sống của các tiểu xoắn ốc đã tiến hóa viên mãn và mặt trời thể xác hấp thu tinh hoa sự sống của các cõi đã tiến hóa viên mãn.

368. The life essence of the planetary schemes are also being absorbed.

368. Tinh hoa sự sống của các hệ hành tinh cũng đang được hấp thu.

369. We are led to consider the vibratory ‘height’ and ‘depth’ of the planetary schemes. Perhaps they differ more in ‘depth’ than in ‘height’ as each of them is the expression of a Being Who must necessarily express on the highest systemic planes. Their degree of densification may differ however.

369. Chúng ta được dẫn tới xem xét ‘độ cao’ và ‘độ sâu’ rung động của các hệ hành tinh. Có lẽ chúng khác nhau về ‘độ sâu’ nhiều hơn ‘độ cao’, vì mỗi hệ là biểu lộ của một Hữu thể tất yếu phải biểu hiện trên các cõi hệ thống cao nhất. Tuy nhiên, mức độ đậm đặc của các hệ có thể khác nhau.

370. We gather that before the “seven suns” blaze forth, the life essence of all planes and all Planetary Logoi must have been absorbed by the Logos.

370. Chúng ta hiểu rằng trước khi “bảy mặt trời” bừng cháy, tinh hoa sự sống của mọi cõi và của mọi Hành Tinh Thượng đế đều phải được Thượng đế hấp thu.

The ensuing conflagration is the final work of the Destroyer aspect.

Đám hỏa tai tiếp sau là công việc cuối cùng của phương diện Hủy diệt.

371. The first aspect of divinity expresses through ‘sevenness’.

371. Phương diện thứ nhất của thiên tính biểu lộ qua ‘tính thất phân’.

It marks the moment of the highest development of deva substance in the system, the consummation of the work of Agni and his fire angels, and the initiation of Brahma.

Nó đánh dấu khoảnh khắc của sự phát triển cao nhất của chất deva trong hệ thống, sự viên mãn của công trình của Agni cùng các thiên thần lửa của Ngài, và cuộc điểm đạo của Brahma.

372. We are speaking of the conflagration which occurs at the fourth initiation, for whatever B/being that fourth initiation applies.

372. Chúng ta đang nói về hỏa tai xảy ra ở lần điểm đạo thứ tư, cho bất kỳ Hữu thể nào mà lần điểm đạo thứ tư áp dụng.

373. We still speak in terms of Brahma, as the subject is the absorption of the four Rays of Attribute into the lowest of the Rays of Aspect (the Ray of Brahma).

373. Chúng ta vẫn nói theo ngôn ngữ của Brahma, vì chủ đề là sự hấp thu bốn Cung Thuộc Tính vào Cung Trạng Thái thấp nhất (Cung của Brahma).

374. When considering the subject in terms of the Solar Logos, we are speaking of the withdrawal from the entire cosmic physical plane. From this perspective, the cosmic physical plane is Brahmic; the cosmic astral plane is an expression of Vishnu and the cosmic mental plane of Shiva.

374. Khi xem xét chủ đề theo quan điểm của Thái dương Thượng đế, chúng ta đang nói về sự thoái xuất khỏi toàn bộ cõi hồng trần vũ trụ. Từ viễn cảnh này, cõi hồng trần vũ trụ là cõi của Brahma; cõi cảm dục vũ trụ là biểu hiện của Vishnu và cõi trí vũ trụ là của Shiva.

375. At the fourth initiation of man, there is achieved the highest development of deva substance in the tiny human energy system. This is, we are here told, also true of the Solar Logos with respect to His solar system.

375. Ở lần điểm đạo thứ tư của con người, đạt được sự phát triển cao nhất của chất deva trong hệ năng lượng nhỏ bé của con người. Điều này, như ở đây được nói, cũng đúng với Thái dương Thượng đế liên hệ với Thái dương hệ của Ngài.

376. Who are the “fire angels” of Agni? In this case, it may be necessary to consider Agni in a much larger context, with the Raja Deva Lord of the cosmic physical plane and all the Deva Lords of the cosmic physical subplanes as “fire devas”. We remember that the term Agni can be applied to the ruler of the systemic mental plane, and also the lower cosmic mental plane, but, as well, as the entire personality of the Solar Logos.

376. “Các thiên thần lửa” của Agni là ai? Trong trường hợp này, có lẽ cần xem Agni trong bối cảnh rộng lớn hơn, với Vị Chúa Tể Raja Deva của cõi hồng trần vũ trụ và toàn bộ các Vị Chúa Tể Deva của các cõi phụ hồng trần vũ trụ như là “các deva lửa”. Chúng ta nhớ rằng thuật ngữ Agni có thể áp dụng cho vị cai quản cõi trí hệ thống, và cũng cho phần hạ của cõi trí vũ trụ, nhưng đồng thời cũng cho toàn bộ phàm ngã của Thái dương Thượng đế.

377. Brahma, as here conceived, and Whose initiation we are discussing, must be considered as one of the Three Logoi (Who are the aspects of the Solar Logos). Brahma, then, will be particularly related to the cosmic physical plane which will be His major area of expression within the logoic personality, just as Vishnu expresses through the cosmic astral body of the Solar Logos and Agni especially through the cosmic mental body (presumably, the lower cosmic mental vehicle).

377. Brahma, như được quan niệm ở đây, và Cuộc điểm đạo của Ngài mà chúng ta đang bàn, phải được xem là Một trong Ba Thượng đế (Các Phương diện của Thái dương Thượng đế). Vậy Brahma sẽ đặc biệt liên hệ với cõi hồng trần vũ trụ, cõi này sẽ là lĩnh vực biểu hiện chính trong phàm ngã logoic của Ngài, cũng như Vishnu biểu hiện qua thể cảm dục vũ trụ của Thái dương Thượng đế và Agni đặc biệt qua thể trí vũ trụ (có lẽ là vận cụ trí vũ trụ hạ ).

Atomic substance will then individualise (which, as we know, is the goal for the atom)

Chất nguyên tử khi ấy sẽ biệt ngã hóa (điều mà, như chúng ta biết, là mục tiêu đối với nguyên tử)

378. The individualization of the “atom” presents a great philosophical problem if a pyramidal view of the universe is accepted. Does the atom (as a tiny unit) in itself achieve individualization or does a great congery of atoms achieve this self-defining moment? Does the single atom, per se, become the single man? Does a single Solar Angel become a Planetary Logos?

378. Sự biệt ngã hóa của “nguyên tử” nêu ra một vấn đề triết học lớn nếu người ta chấp nhận quan niệm kim tự tháp về vũ trụ. Liệu nguyên tử (như một đơn vị nhỏ bé) tự thân đạt đến biệt ngã hóa, hay một tập hợp vĩ đại các nguyên tử mới đạt đến khoảnh khắc tự định nghĩa đó? Liệu một nguyên tử đơn lẻ, tự thân, trở thành một con người đơn nhất chăng? Liệu một Thái dương Thiên Thần đơn lẻ trở thành một Hành Tinh Thượng đế chăng?

379. Rather, it seems that groupings of various beings are together raised into a higher level of consciousness. The problem is not easily solved.

379. Đúng hơn, có vẻ như các nhóm của nhiều Hữu thể được nâng lên cùng nhau vào một cấp độ tâm thức cao hơn. Vấn đề này không dễ giải.

and after the great pralaya the next solar system will start with the threefold Spirit manifesting through substance which is essentially distinguished by active intelligent love.

và sau Đại giai kỳ qui nguyên, Thái dương hệ kế tiếp sẽ khởi đầu với Tam Ngôi Tinh Thần biểu hiện qua chất liệu vốn mang đặc trưng là bác ái thông tuệ chủ động.

380. The quality of substance is (through progressive solar systems) continually adding divine attributes. Substance which was impressed by intelligence in the first major solar system will, by the close of this solar system, be impressed by love as well. By the end of the third major solar system, that substance will be impressed by will.

380. Phẩm tính của chất liệu (qua các Thái dương hệ tuần tự) liên tục bổ sung các thuộc tính thiêng liêng. Chất liệu đã được ấn ký bởi trí tuệ trong Thái dương hệ lớn thứ nhất, đến khi kết thúc Thái dương hệ này, cũng sẽ được ấn ký bởi bác ái, Đến cuối Thái dương hệ lớn thứ ba, chất liệu ấy sẽ được ấn ký bởi Ý chí.

This is necessarily incomprehensible to our fourth round minds.

Điều này tất yếu là không thể thấu hiểu đối với những cái trí của vòng tuần hoàn thứ tư của chúng ta.

381. We may use seemingly suitable words to describe what will happen, but we know nothing of what all this really means. Perhaps the real meaning has something to do with the receptivity of such substance to the three divine aspects. Probably the mode of relation of the units of that substance will be affected by the progressive impression.

381. Chúng ta có thể dùng những từ ngữ có vẻ phù hợp để mô tả điều sẽ xảy ra, nhưng chúng ta không biết gì về ý nghĩa thực sự của tất cả điều đó. Có lẽ ý nghĩa thực có liên quan đến tính cảm thọ của chất liệu ấy đối với ba phương diện thiêng liêng. Có lẽ kiểu quan hệ giữa các đơn vị của chất liệu đó sẽ bị tác động bởi ấn ký tiến triển này.

382. But we do have, as DK states, “fourth round minds” and so are limited in our appreciation of that which is to transpire later in our solar system and in the next.

382. Nhưng quả thực chúng ta có, như Chân sư DK nói, “những cái trí vòng thứ tư” và do đó bị giới hạn trong việc cảm nhận điều sẽ diễn tiến sau này trong Thái dương hệ của chúng ta và trong Thái dương hệ kế tiếp.

We have thus considered the various types of pralaya, in so far as they affect the human unit;

Chúng ta đã xét các kiểu pralaya khác nhau, trong chừng mực chúng tác động đến đơn vị con người;

383. Again, let us list the pralayas we have considered:

383. Một lần nữa, chúng ta hãy liệt kê các loại pralaya đã xét:

a. The period of pralaya between two incarnations

a. Giai đoạn pralaya giữa hai lần lâm phàm

b. The period between egoic cycles

b. Giai đoạn giữa các chu kỳ chân ngã

c. The period wherein the man has attained freedom

c. Giai đoạn trong đó con người đạt tự do

d. Planetary pralaya

d. Pralaya hành tinh

e. The Great Pralaya

e. Đại Pralaya

384. Of course there is, as well, an effect upon an entire ladder of greater and lesser lives, and there are many more types of pralaya than the five we have considered.

384. Dĩ nhiên cũng có ảnh hưởng trên toàn bộ chiếc thang các sự sống lớn nhỏ hơn, và còn có nhiều kiểu pralaya khác nữa ngoài năm kiểu chúng ta đã xét.

each unit finds its ways eventually into one of the cosmic astral centres of the partic­ular cosmic Entity Who is the Lord of his Ray, and therefore at the great pralaya those human units who have achieved, and who have not passed to other distant cosmic centres, will find their place there.

mỗi đơn vị rốt cuộc tìm đường vào một trong các trung tâm cảm dục vũ trụ của Vị Hữu thể vũ trụ vốn là Chúa Tể Cung của y , và do đó, vào Đại Pralaya, những đơn vị nhân loại nào đã đạt được và chưa chuyển sang các trung tâm vũ trụ xa xôi khác sẽ tìm được vị trí của mình ở đó.

385. DK is telling us of the destination of human units as solar pralaya supervenes.

385. Chân sư DK đang nói với chúng ta về đích đến của các đơn vị con người khi thái dương pralaya trùm lên.

386. It would seem that at the end of the last major solar system this did not happen for all human units. Some remained, it seems, to incarnate in this solar system.

386. Có vẻ như vào cuối Thái dương hệ lớn trước, điều này đã không xảy ra với tất cả các đơn vị con người. Một số dường như đã ở lại, để lâm phàm trong Thái dương hệ này.

387. It also seems that if human units are to re-emerge in a succeeding solar system, the cosmic Entities Who are the Lords of the Rays (and into which the human units are extracted), must also re-emerge.

387. Có vẻ như nếu các đơn vị con người sẽ tái xuất trong một Thái dương hệ kế tiếp, thì các Hữu thể vũ trụ là Chúa Tể của các Cung (và vào đó các đơn vị con người được trích xuất) cũng phải tái xuất.

388. The extraction of human units is only partial and deals with but one aspect of the ‘death’ of a Solar Logos between incarnations.

388. Sự trích xuất các đơn vị con người chỉ là một phần và chỉ đề cập đến một phương diện của ‘cái chết’ của một Thái dương Thượng đế giữa các lần lâm phàm.

389. We are speaking of “cosmic” Entities and, therefore, minimally, of Planetary Logoi.

389. Chúng ta đang nói về các Hữu thể “vũ trụ” và, tối thiểu, là về các Hành Tinh Thượng đế.

390. Each Planetary Logos (we are here speaking principally of the sacred Planetary Logoi) has astral chakras just as a man has. Following the analogy, it can be presumed that as the human being dies, the energy invested in his etheric chakras is abstracted into his astral chakras.

390. Mỗi Hành Tinh Thượng đế (ở đây chúng ta nói chủ yếu về các Hành Tinh Thượng đế thiêng ) có các luân xa cảm dục như con người có. Theo phép tương tự, có thể giả định rằng khi con người chết, năng lượng được đầu tư trong các luân xa dĩ thái của y được thu hồi vào các luân xa cảm dục của y.

391. It is interesting to note that some human units are to remain within the subtle nature of our Solar Logos, but that others may pass to “distant cosmic centers” (presumably as they pursue one or other of the seven or nine Cosmic Paths).

391. Thật thú vị khi lưu ý rằng một số đơn vị con người sẽ ở lại trong bản tính vi tế của Thái dương Thượng đế của chúng ta, nhưng những đơn vị khác có thể đi đến “các trung tâm vũ trụ xa xôi” (có lẽ khi họ tiếp bước một trong bảy hay chín Con Đường Vũ trụ).

392. It would seem that as obscuration in our solar system proceeds, the units of life (we are speaking here of human beings) find their way into the energy system of the planetary Ray Lord with which they are attuned, and, temporarily at least, into the astral chakras of that Ray Lord (i.e., Planetary Logos).

392. Có vẻ như khi sự u tối hóa trong Thái dương hệ của chúng ta tiến triển, các đơn vị sự sống (ở đây chúng ta đang nói về con người) tìm đường vào hệ năng lượng của vị Chúa Tể Cung hành tinh mà họ hòa điệu, và, ít nhất là tạm thời, vào các luân xa cảm dục của Vị Chúa Tể Cung ấy (tức là Hành Tinh Thượng đế).

393. When we think of those “returning Nirvanis) Who are now called Solar Angels, it is very likely that They were extracted in the solar logoic centers on the cosmic astral plane. The Solar Angels, it would seem, have a definite connection to the cosmic astral plane. They took, apparently, the Path to Sirius at that distant time when the previous solar system dissolved, and that Path (we are now told) leads to the cosmic astral plane.

393. Khi chúng ta nghĩ về những “nirvani quay trở lại” hiện được gọi là Thái dương Thiên Thần, rất có khả năng rằng Các Ngài đã được trích xuất vào các trung tâm của Thái dương Thượng đế trên cõi cảm dục vũ trụ. Có vẻ các Thái dương Thiên Thần có liên hệ xác định với cõi cảm dục vũ trụ. Xem ra Các Ngài đã chọn Con Đường đến Sirius vào thời xa xưa khi Thái dương hệ trước tan rã, và Con Đường ấy (như nay chúng ta được cho biết) dẫn đến cõi cảm dục vũ trụ.

Before we take up planetary and cosmic pralaya, we might here consider the relationship of the Agnishvattas [742] (who caused the individualisation of animal man on this planet), to other and previous cycles of evolution, and why we have only dealt with them from the point of view of a mahamanvantara, and of a kalpa.

Trước khi chúng ta bàn đến pralaya hành tinh và vũ trụ , ở đây chúng ta có thể xét mối liên hệ của các Agnishvattas [742] (những vị đã gây nên sự biệt ngã hóa của người thú trên hành tinh này), với các chu kỳ tiến hóa khác và trước đó, và tại sao chúng ta chỉ đề cập đến Các Ngài từ quan điểm của một Đại giai kỳ sinh hóa , và của một kalpa,

394. Is DK here distinguishing between a mahamanvantara and a kalpa. It is clear that HPB does so and that a kalpa (in the ordinary sense of the term) is a much shorter time span—namely a “Day of Brahma” compared to an “occult century”.

394. Ở đây Chân sư DK có đang phân biệt giữa một Đại giai kỳ sinh hóa và một kalpa chăng. Rõ ràng HPB có phân biệt như vậy và một kalpa (theo nghĩa thông thường) là một khoảng thời gian ngắn hơn rất nhiều—tức là một “Ngày của Brahma” so với một “thế kỷ huyền môn”.

395. Later in this text we will learn that a mahamanvantara is not necessarily the immense span we call an occult century, but may have a planetary chain significance—i.e., as the duration between the activation of two planetary chains.

395. Về sau trong văn bản này chúng ta sẽ biết rằng một Đại giai kỳ sinh hóa không nhất thiết là khoảng thời gian mênh mông mà chúng ta gọi là một thế kỷ huyền môn, mà có thể mang ý nghĩa ở tầm Dãy hành tinh—tức là, khoảng thời gian giữa sự hoạt hóa của hai Dãy hành tinh.

396. We remember that the Agnishvattas for different planets have their differences and similarities. The only ones about which we can learn very much are those who individualized animal man on our planet.

396. Chúng ta nhớ rằng các Agnishvattas của những hành tinh khác nhau có những dị biệt và tương đồng. Điều duy nhất mà về đó chúng ta có thể tìm hiểu được khá nhiều là những vị đã biệt ngã hóa người thú trên hành tinh của chúng ta.

The reason we have not considered specifically the group of Agnishvattas, Kumaras and Rudras connected with the Earth has been because we have handled the entire subject from the planetary standpoint, and not from that of the human family.

Lý do chúng ta chưa xét riêng nhóm Agnishvattas, Kumaras và Rudras liên hệ với Trái Đất là vì chúng ta đã xử lý toàn bộ chủ đề từ lập trường hành tinh , chứ không từ lập trường của gia đình nhân loại.

397. Master DK has enlarged the consideration giving us a view of the Agnishvattas related to the planetary schemes and to the solar system.

397. Chân sư DK đã mở rộng tầm xem xét, cho chúng ta một cái nhìn về các Agnishvattas liên hệ với các hệ hành tinh và với toàn Thái dương hệ.

398. Reading The Secret Doctrine for the details of the ‘agnishvattic’ process as it applies to our particular chain and globe is indispensable.

398. Việc đọc Giáo Lý Bí Nhiệm để nắm các chi tiết của tiến trình ‘agnishvattic’ khi áp dụng cho Dãy và Bầu đặc thù của chúng ta là không thể thiếu.

The student who seeks detailed information as to the Agnishvattas of the Earth chain has but to study the Secret Doctrine.

Những đạo sinh tìm kiếm thông tin chi tiết về các Agnishvattas của Dãy Trái Đất chỉ cần học Giáo Lý Bí Nhiệm,

399. To do so is strongly recommended to all students of the Tibetan through AAB. Profound students of AAB embrace all the best that HPB has offered.

399. Làm như vậy được đặc biệt khuyến nghị cho mọi môn sinh của Chân sư Tây Tạng qua AAB. Những môn sinh thâm áo của AAB ôm trọn những tinh hoa mà HPB đã hiến tặng.

We have attempted to carry the thought of the student beyond his own tiny sphere to the consideration of the work of the Manasadevas in the solar system.

Chúng ta đã cố gắng đưa tư tưởng của môn sinh vượt khỏi tiểu cầu của mình đến việc xem xét công trình của các Manasadevas trong toàn Thái dương hệ.

400. It is always philosophically salubrious to do this. To live within a tiny world view can breed many illusions, leading to actions based upon those illusions.

400. Về mặt triết học, điều đó luôn mang tính bồi dưỡng. Sống trong một thế giới quan quá chật hẹp có thể nuôi dưỡng nhiều ảo tưởng, dẫn đến các hành động dựa trên những ảo tưởng ấy.

In every scheme They have Their place, but in some—as in the Jupiter scheme—They are just beginning Their work,

Trong mọi hệ hành tinh, Các Ngài đều có vị trí của mình, nhưng trong một số hệ—như trong hệ Sao Mộc—Các Ngài mới chỉ bắt đầu công việc,

401. We might wonder what other planets keep Jupiter company. Does Saturn? What about Uranus and Neptune—two planets beyond the Saturnian sphere?

401. Chúng ta có thể tự hỏi những hành tinh nào khác đồng hành với Sao Mộc. Còn Sao Thổ thì sao? Thế còn Sao Thiên Vương và Sao Hải Vương—hai hành tinh nằm ngoài quỹ đạo Sao Thổ?

402. When studying the physical planets we note that Jupiter is focussed in its third chain as is Saturn, but, then, so is Vulcan on which the Agnishvattas are said to have almost completed Their work.

402. Khi nghiên cứu các hành tinh thể chất, chúng ta nhận thấy rằng Sao Mộc tập trung ở Dãy thứ ba như Sao Thổ, nhưng, rồi, Vulcan cũng vậy—trên đó các Agnishvattas được nói là đã gần hoàn tất công việc của Các Ngài.

403. We are not, however, told which scheme round is in process within these schemes. We have a pretty good idea that Venus is in its fifth scheme round and the Earth in its fourth. Beyond this, it is hard to say.

403. Tuy nhiên, chúng ta không được cho biết vòng hệ hành tinh nào đang diễn ra trong các hệ này. Chúng ta có cơ sở khá vững để cho rằng Sao Kim đang ở vòng hệ hành tinh thứ năm và Trái Đất ở vòng thứ tư. Ngoài điều đó, thật khó nói.

and in others —as in the Vulcan and Venus schemes—Their work is nearly completed.

và trong những hệ khác —như trong các hệ Vulcan và Kim Tinh—công việc của Các Ngài gần như đã hoàn tất,

404. We must wonder about this statement with respect to Vulcan as on that planet only two-fifths of human units have achieved transmutation.

404. Chúng ta phải băn khoăn về phát biểu này đối với Vulcan vì trên hành tinh đó chỉ có hai phần năm đơn vị con người đã đạt chuyển hóa.

405. It would seem that the Mercury scheme should have been listed instead of Vulcan.

405. Có vẻ như hệ Sao Thủy lẽ ra nên được liệt kê thay vì Vulcan.

When three fifths of the units (deva and human) that go to the composition of the vehicles of any planetary Logos are entering upon the Path, then the process of transmutation is entered upon. (TCF 403)

Khi ba phần năm các đơn vị (deva và nhân loại) góp phần tạo nên các vận cụ của bất kỳ Hành Tinh Thượng đế nào đang bước vào Thánh Đạo , thì tiến trình chuyển hóa được khởi sự. (TCF 403)

Again, it must be noted that Earth, Mars, Jupiter, Saturn, and Vulcan are as yet developing manas, and the stage achieved in each varies, and is not for exoteric publication. The Heavenly Men of these schemes have not yet succeeded in bringing Their bodies to the stage where transmutation on a large scale is possible. They are approaching it, and when the necessary three fifths is reached, then They will begin to transmute on a larger scale. The Earth scheme has about one fifth in process of transmutation in one or other of the globes at this time and Vulcan has very nearly two fifths. (TCF 403)

Cũng cần lưu ý rằng Trái Đất, Hỏa Tinh, Mộc Tinh, Thổ Tinh và Vulcan hiện còn đang phát triển manas, và trình độ đạt được ở mỗi hành tinh là khác nhau, và không dành cho công bố công khai. Các Đấng Thiên Nhân của các hệ này vẫn chưa đưa được các thân thể của Các Ngài đến giai đoạn mà chuyển hóa trên quy mô lớn là khả hữu. Các Ngài đang tiến gần đến đó, và khi đạt đến ba phần năm cần thiết, bấy giờ Các Ngài sẽ bắt đầu chuyển hóa trên quy mô lớn hơn. Hệ Trái Đất hiện có khoảng một phần năm đang trong quá trình chuyển hóa ở một hay một số bầu nào đó vào thời điểm này và Vulcan có gần hai phần năm. (TCF 403)

406. It is difficult to understand how the work of the Agnishvattas on Vulcan could be completed if only two-fifths of its human and deva units have entered upon the Path or are undergoing transmutation.

406. Thật khó hiểu công việc của các Agnishvattas trên Vulcan có thể hoàn tất như thế nào nếu chỉ có hai phần năm đơn vị nhân loại và deva của nó đã bước vào Thánh Đạo hoặc đang trải qua chuyển hóa.

Venus is in her last round,

Sao Kim đang ở vòng tuần hoàn cuối cùng của mình,

407. The fifth scheme round, we may reasonably presume. We see that if we are told that “Venus is in her last round” it must necessarily be a scheme round to which we are referring, otherwise we would speak of a certain chain in the Venus-scheme being in a particular round.

407. Có thể hợp lý suy đoán là vòng tuần hoàn của hệ, Chúng ta thấy rằng nếu chúng ta được nói “Sao Kim đang ở vòng tuần hoàn cuối cùng của mình” thì tất yếu phải là một vòng của hệ mà chúng ta đang đề cập; nếu không, hẳn chúng ta sẽ nói một Dãy nào đó trong hệ Sao Kim đang ở một vòng nhất định.

and has nearly developed her fourth kingdom to perfection, or as much as it is possible in the system.

và đã gần phát triển giới thứ tư đến mức hoàn thiện , hoặc tối đa có thể đạt được trong Thái dương hệ.

408. We are being told that the humanity to be found on Venus is nearly perfected—at least in terms of this solar system.

408. Chúng ta được cho biết rằng nhân loại tìm thấy trên Sao Kim gần như đã hoàn thiện—ít nhất trong phạm vi Thái dương hệ này,

409. Significantly we learn that a type of humanity does, indeed, exist on Venus.

409. Điều đáng kể là chúng ta biết một kiểu nhân loại thực sự hiện hữu trên Sao Kim.

410. Actually, this is true or will be true of all planets.

410. Thực ra, điều này đúng hoặc sẽ đúng với mọi hành tinh.

In the Earth scheme, They are in full tide of work, and only in the next round will They demonstrate the height of Their act­ivity.

Trong hệ Trái Đất, Các Ngài đang ở triều dâng của công việc, và chỉ trong cuộc tuần hoàn kế tiếp Các Ngài mới biểu lộ tột đỉnh hoạt động.

411. This is fitting, as the Agnishvattas are members of the Fifth Creative Hierarchy and the next round is the fifth.

411. Điều này thích hợp, vì các Agnishvattas là thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm và vòng tuần hoàn kế tiếp là vòng thứ năm.

412. Again, we do not know whether we are speaking of the fifth round in relation to the fourth chain or of the fifth scheme round for the Earth-scheme.

412. Một lần nữa, chúng ta không biết liệu chúng ta đang nói về vòng thứ năm liên quan đến Dãy thứ tư hay về vòng hệ hành tinh thứ năm của hệ Trái Đất.

413. One has to be cautious in this question of chain and scheme rounds. There are many who are unaware of the fact that there even are scheme rounds. But, if there were not, many processes within planetary development would remain unexplained.

413. Cần thận trọng trong vấn đề các vòng Dãy và vòng Hệ. Có nhiều người thậm chí không biết rằng có cả các vòng Hệ. Nhưng, nếu không có, nhiều tiến trình trong phát triển hành tinh sẽ vẫn không thể giải thích.

They pass cyclically through the schemes and under Law—the Law of Karma for the planetary Logos, for They are essentially concerned with His Life as it actuates His centres.

Các Ngài tuần hoàn xuyên qua các hệ hành tinh và theo Định Luật —Định luật Nghiệp Quả đối với Hành Tinh Thượng đế, vì Các Ngài thiết yếu bận tâm đến Sự Sống của Ngài khi Sự Sống ấy kích hoạt các trung tâm của Ngài.

414. The Solar Angels are not essentially concerned with the development of man as he emerges from the animal kingdom, but with the Life of the Planetary Logos as that life actuates His centers.

414. Các Thái dương Thiên Thần không chủ yếu bận tâm đến sự phát triển của con người khi y bước ra từ giới động vật, mà là đến Sự Sống của Hành Tinh Thượng đế khi Sự Sống ấy kích hoạt các trung tâm của Ngài.

415. The Solar Angels emanate originally from Sirius, which system imposes the Law of Karma on our solar system. It makes sense that they would cycle thought the systems of the various Planetary Logoi according to the Law of Karma.

415. Các Thái dương Thiên Thần nguyên phát xuất từ Sirius, hệ sao áp đặt Định luật Nghiệp Quả lên Thái dương hệ của chúng ta. Việc Các Ngài tuần hoàn qua những hệ của các Hành Tinh Thượng đế khác nhau theo Định luật Nghiệp quả là điều hợp lý.

416. Where are the “centres” of a Planetary Logos to be found? In one sense, the egoic groups on the higher mental plane are centres. It is with these egoic groups that the Solar Angels definitely have a relation.

416. “Các trung tâm” của một Hành Tinh Thượng đế ở đâu? Xét theo một nghĩa, các nhóm egoic trên cõi thượng trí là các trung tâm. Chính với những nhóm egoic này mà các Thái dương Thiên Thần có liên hệ rõ rệt.

417. If they have any relation to the higher etheric centers of a Planetary Logos, the mechanism by which this is accomplished has not be discussed.

417. Nếu Các Ngài có liên hệ nào với các luân xa dĩ thái cao của một Hành Tinh Thượng đế, cơ chế bằng đó điều này được thực hiện vẫn chưa được bàn đến.

They come into a scheme on a wave of manasic energy from the head centre of the Logos,

Các Ngài đi vào một hệ trên một làn năng lượng manasic từ trung tâm đầu của Thượng đế,

418. From that portion of the head center which is connected with the heart center.

418. Từ bộ phận của trung tâm đầu liên kết với trung tâm tim.

and in the pro­cess of passing through his Heart centre three things occur:

và trong tiến trình đi qua trung tâm Tim của Ngài, xảy ra ba điều:

419. Some very important information about Agnishvattas is being offered.

419. Một số thông tin rất quan trọng về các Agnishvattas đang được đưa ra.

420. The Logos to which this section of text refers is the Solar Logos.

420. Vị Thượng đế được nhắc đến trong phần văn bản này là Thái dương Thượng đế.

421. We have been told that some Agnishvattas emanate from the head center of the Logos and some from the heart center. Here it seems the point of emanation is the logoic head center.

421. Chúng ta đã được cho biết rằng một số Agnishvattas phát xuất từ trung tâm đầu của Thượng đế và một số từ trung tâm tim. Ở đây dường như điểm phát xuất là trung tâm đầu logoic.

422. But let us compare another reference:

422. Nhưng hãy so sánh tham chiếu khác:

They are connected in their highest groups with that portion of the logoic head centre which corresponds to the heart, and here is the clue to the mystery of kama-manas. The kamic angels are vitalised from the “heart” centre and the manasic angels from the logoic head centre, via the point within that centre connected with the heart. These two dominating groups are the sumtotal of kama-manas in all its manifestations. The solar angels exist in three groups, all of which are concerned with the self-consciousness aspect, all of which are energised and connected with the fifth spirilla of the logoic permanent atom, and all of which work as a unit. (TCF 698)

Các Ngài liên hệ, trong các nhóm cao nhất của mình, với bộ phận của trung tâm đầu logoic tương ứng với tim, và đây là chìa khóa cho bí nhiệm của kama-manas. Các thiên thần cảm dục được tiếp sinh lực từ trung tâm “tim” và các thiên thần manasic từ trung tâm đầu logoic, thông qua điểm bên trong trung tâm ấy liên kết với tim, Hai nhóm chủ đạo này là tổng thể của trí-cảm trong mọi biểu lộ của nó, Các Thái dương Thiên Thần tồn tại trong ba nhóm, tất cả đều liên quan đến phương diện tự thức, tất cả đều được tiếp năng lượng và kết nối với tiểu xoắn ốc thứ năm của nguyên tử trường tồn của Thái dương Thượng đế, và tất cả đều làm việc như một đơn vị. (TCF 698)

1. They become differentiated into seven groups.

1. Các Ngài trở nên phân hóa thành bảy nhóm.

423. We are speaking of seven groups of Solar Angels. These groupings may (at least potentially) be discriminated in various ways:

423. Chúng ta đang nói về bảy nhóm Thái dương Thiên Thần. Những nhóm này có thể (ít nhất là tiềm năng) được phân biệt theo nhiều cách:

a. According to ray

a. Theo cung

b. According to function. We have, for instance, seen that there are Solar Angels connected with the manasic permanent atom, some with the petals of the egoic lotus and others with the members of the atomic triangle. We have also seen that there are those who incarnate and mould the racial form; those who implant the spark of mind in animal man and those who fan the latent germ of mentality in animal man.

b. Theo chức năng. Chẳng hạn, chúng ta đã thấy rằng có những Thái dương Thiên Thần liên hệ với nguyên tử trường tồn manasic, một số với các cánh hoa của hoa sen chân ngã và những vị khác với các thành viên của tam giác nguyên tử. Chúng ta cũng đã thấy rằng có những vị giáng nhập và uốn nắn hình thức của chủng tộc; những vị cấy tia lửa trí tuệ vào người thú; và những vị khơi gợi mầm trí tuệ tiềm ẩn trong người thú.

c. According to a particular planetary scheme to which they are directed or direct Themselves.

c. Theo một hệ hành tinh đặc thù mà Các Ngài được hướng đến hoặc tự hướng đến.

2. They direct Themselves as streams of energy to some particular scheme.

2. Các Ngài tự hướng mình như những dòng năng lượng đến một hệ hành tinh đặc thù nào đó.

424. How interesting that the Solar Angels “direct Themselves” to some particular planetary scheme. Of course, such Self-direction has to be part of a larger Plan.

424. Thật thú vị khi các Thái dương Thiên Thần “tự hướng mình” đến một hệ hành tinh đặc thù nào đó. Dĩ nhiên, sự tự hướng này phải là một bộ phận của một Thiên Cơ lớn hơn.

425. Let us always remember that Solar Angels are energy. We may, perhaps, personalize them too much. But then every entity is also an energy.

425. Hãy luôn nhớ rằng các Thái dương Thiên Thần là năng lượng. Có lẽ chúng ta nhân cách hóa Các Ngài quá mức. Nhưng rồi mọi Hữu thể cũng đồng thời là năng lượng.

3. Their contact with a scheme is that which produces the manifestation of the fourth Creative Hierarchy, and leads to the Monads taking form in the three worlds.

3. Sự tiếp xúc của Các Ngài với một hệ hành tinh là điều sản sinh sự biểu hiện của Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư, và dẫn đến việc các Chân Thần nhập thể trong ba cõi.

426. And this, apparently, occurs in all planetary schemes at some point in the development of the Planetary Logos concerned. This is another way of saying that in the expression of all Planetary Logoi, the human kingdom must one day emerge.

426. Và điều này, hiển nhiên, xảy ra trong mọi hệ hành tinh vào một thời điểm nào đó trong sự phát triển của Hành Tinh Thượng đế liên hệ. Đây là một cách khác để nói rằng trong biểu lộ của mọi Hành Tinh Thượng đế, giới nhân loại một ngày kia tất yếu phải xuất hiện.

[743]

[743]

These entities who sacrifice Themselves for the human Hierarchy (and we must note here the accuracy of the fact that They emanate from the logoic head centre, or from the will aspect), are the true Saviours who give Their lives for the good of the race.

Những Hữu thể hy sinh chính Mình cho Huyền Giai nhân loại (và chúng ta phải lưu ý ở đây tính chính xác của sự kiện rằng Các Ngài phát xuất từ trung tâm đầu logoic, hay từ phương diện ý chí), chính là những Đấng Cứu Rỗi hiến dâng sự sống của Các Ngài vì điều thiện của chủng loại.

427. Here it is firmly established that these Beings (the Solar Angels) emanate from the logoic head center.

427. Ở đây được xác quyết rằng các Hữu thể này (các Thái dương Thiên Thần) phát xuất từ trung tâm đầu logoic.

428. It is clear that the Solar Angels are distinct from the Fourth Creative Hierarchy. In other references They seem to be identified with the human Ego in its higher aspects (either within the causal body or considering the spiritual triad as the true Ego).

428. Rõ ràng các Thái dương Thiên Thần là khác với Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư. Ở những tham chiếu khác, Các Ngài dường như lại được đồng nhất với Chân Ngã nhân loại trong các phương diện cao của nó (hoặc bên trong thể nguyên nhân, hoặc xét Tam Nguyên Tinh Thần như Chân Ngã chân thực).

429. In what sense do the Solar Angels give their “lives” for the good of the race? To what degree do They sacrifice? Are They unable to do other than supervise man or is the supervision of man but one small part of what They do?

429. Ở nghĩa nào các Thái dương Thiên Thần hiến dâng “sự sống” của Các Ngài vì điều thiện của nhân loại? Các Ngài hy sinh đến mức nào? Liệu Các Ngài không thể làm gì khác ngoài việc giám hộ con người, hay sự giám hộ con người chỉ là một phần nhỏ trong những gì Các Ngài thực hiện?

430. The fact that They are “Saviours” is only possible because of their superior development, achieved in large measure in the last major solar system.

430. Việc Các Ngài là “Đấng Cứu Rỗi” chỉ khả hữu bởi vì trình độ phát triển siêu việt của Các Ngài, đạt được phần lớn trong Thái dương hệ lớn trước.

They stand in relation to the totality of the schemes as the Occult Hierarchy of any particular planet stands to men upon that planet.

Các Ngài đứng trong tương quan với toàn thể các hệ hành tinh như Thánh đoàn Huyền bí của bất kỳ hành tinh đặc thù nào đứng đối với con người trên hành tinh đó.

431. Here we have another amazing statement. It is as if the Solar Angels or Agnishvattas are a Solar-Systemic Occult Hierarchy in relation to the totality of planetary schemes.

431. Ở đây chúng ta lại có một phát biểu kinh ngạc. Cứ như thể các Thái dương Thiên Thần hay Agnishvattas là một Thánh đoàn Huyền bí cấp Thái dương hệ  đối với tổng thể các hệ hành tinh.

432. These Beings are definitely in advance of the Members of any particular planetary Hierarchy. The analogy gives an astonishing sense of proportion. We must remember that Solar Angels are, indeed, solar, and have a place within the “council of the solar Logos”..

432. Các Hữu thể này chắc chắn vượt xa các Thành viên của bất kỳ Thánh đoàn hành tinh đặc thù nào. Phép loại suy đưa lại cho chúng ta một ý thức kinh ngạc về tỉ lệ. Chúng ta phải nhớ rằng các Thái dương Thiên Thần đúng là thái dương, và có một vị trí trong “hội đồng của Thái dương Thượng đế”.

Perfected men are in the councils of the planetary Logos of their particular ray; the solar Pitris are in the council of the solar Logos.69 (TCF 843)

Những con người đã hoàn thiện ở trong các hội đồng của Hành Tinh Thượng đế thuộc cung đặc thù của mình; các thái dương tổ phụ ở trong hội đồng của Thái dương Thượng đế.69 (TCF 843)

433. Considering Their exalted rank, it is difficult to imagine how They can involve themselves directly with a tiny human unit. There is, it seems, a mystery here concealed.

433. Xét phẩm trật cao vời của Các Ngài, thật khó hình dung làm sao Các Ngài có thể trực tiếp dính dự với một đơn vị con người bé nhỏ. Dường như ở đây ẩn giấu một bí nhiệm.

During pralaya They are withdrawn (as all else), from manifestation, and return to a cosmic centre of which the logoic head centre is but a dim reflection; they return the richer for experience.

Trong pralaya, Các Ngài được thu hồi (như mọi thứ khác) khỏi biểu lộ, và trở về một trung tâm vũ trụ mà trung tâm đầu logoic chỉ là một phản ảnh mờ nhạt; Các Ngài trở về giàu kinh nghiệm hơn.

434. Can this “cosmic centre” be Sirius? Sirius was, after all, Their emanating point, from whence They were “breathed out”.

434. Liệu “trung tâm vũ trụ” này có thể là Sirius chăng? Sau rốt, Sirius là điểm phát xuất của Các Ngài, nơi từ đó Các Ngài được “thở ra”.

Those who become solar Pitris, being the bulk of humanity, return to Sirius to be breathed out again into activity. (TCF 844)

Những ai trở thành thái dương tổ phụ, vốn là phần đông nhân loại, trở về Sirius để rồi lại được thở ra vào hoạt động. (TCF 844)

435. It is not unreasonable to identify Sirius as a head center within the “Seven Solar Systems of Which Ours is One”. Thus, the head center of our Solar Logos would be a reflection of that greater head center.

435. Không phải là vô lý khi nhận định Sirius như một trung tâm đầu trong “Bảy Thái dương Hệ mà Hệ của Chúng Ta chỉ là Một”. Vậy, trung tâm đầu của Thái dương Thượng đế chúng ta sẽ là một phản ảnh của trung tâm đầu lớn hơn đó.

436. Some, however, identify Sirius as an ajna center and there is justification for such an identification.

436. Tuy nhiên, một số lại xác định Sirius như là một trung tâm ajna và cũng có cơ sở cho sự xác định như vậy.

437. From another perspective, the Central Spiritual Sun of our Solar Logos (i.e., His monadic nature) can be considered prototypical of the logoic head center.

437. Từ một viễn cảnh khác, Mặt trời Tinh thần Trung Ương của Thái dương Thượng đế chúng ta (tức là bản thể chân thần của Ngài) có thể được xem như mẫu nguyên của trung tâm đầu logoic.

The old Commentary says:

Cổ Luận nói:

“The deva shineth with added light when the virtue of the will hath entered.

“Vị deva tỏa sáng với ánh sáng tăng thêm khi đức hạnh của ý chí đã thấm nhập.

438. The “deva” here mentioned is a Solar Angel.

438. “Vị deva” ở đây được nói đến là một Thái dương Thiên Thần.

439. One may imagine that as the human being becomes more responsive to the Spiritual Will, the causal body shines more brightly.

439. Người ta có thể hình dung rằng khi con người trở nên đáp ứng hơn với Ý Chí thiêng liêng, thể nguyên nhân tỏa sáng rực rỡ hơn.

He garnereth colour as the reaper garners wheat, and storeth it up for the feeding of the multitude.

Ngài thu gặt màu sắc như người gặt lúa thu lúa, và tích chứa nó để nuôi dưỡng quần chúng.

440. The storage occurs, from the human point of view, in the causal body.

440. Sự tích chứa này, xét từ quan điểm con người, diễn ra trong thể nguyên nhân.

Over all this deva host the mystic Goat presideth.

Trên toàn thể đạo binh deva này, Con Dê huyền bí chủ trì,

441. We may presume that the “mystic Goat” is the Constellational Lord of Capricorn.

441. Chúng ta có thể suy rằng “Con Dê huyền bí” là Vị Chủ Tinh chòm Hổ Cáp? Ở đây đúng hơn là Ma Kết.

Makara is, and is not, yet the link persisteth.”

Makara là, và lại không là, tuy mối liên kết vẫn tồn tại.”

442. The final sentence is enigmatical. The egoic lotus or causal body is, in a way, the “Middle One” which both is (temporarily) and is not (finally).

442. Câu kết thật bí ẩn. Hoa sen chân ngã hay thể nguyên nhân, theo một nghĩa, là “Đấng Ở Giữa” vừa (tạm thời) lại vừa không là (sau cùng).

443. Capricorn conceals and reveals the “Secret of the Soul” and is directly linked with these Beings (the Members of the Fifth Creative Hierarchy) through Whose agency the soul of man is expressed on the higher mental plane.

443. Ma Kết che giấu và hiển lộ “Bí mật của Linh hồn” và nối thẳng với những Hữu thể này (các Thành viên của Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm) nhờ Các Ngài mà linh hồn con người biểu hiện trên cõi thượng trí.

Rounds come and go but (except from the standpoint of a particular planet), the Manasadevas are forever present, but their influence is not forever felt.

Các cuộc tuần hoàn đến rồi đi nhưng (ngoại trừ xét từ lập trường của một hành tinh đặc thù), các Manasadevas luôn hiện hữu, song ảnh hưởng của Các Ngài không phải lúc nào cũng được cảm nhận.

444. It is being said that throughout the solar system, the Manasadevas are forever present. From the perspective of a particular planet, They may not be present at all times. Within the solar system considered as a unit, the Manasadevas are always present.

444. Đang được nói rằng suốt trong Thái dương hệ, các Manasadevas luôn hiện hữu. Từ viễn cảnh của một hành tinh đặc thù, Có thể lúc nào đó Các Ngài không hiện diện. Nhưng xét toàn Thái dương hệ như một đơn vị, các Manasadevas vẫn luôn hiện hữu.

445. There is a certain point in the development of each Planetary Logos when the influence of the Manasadevas is felt—not before and not after.

445. Có một thời điểm nào đó trong sự phát triển của mỗi Hành Tinh Thượng đế khi ảnh hưởng của các Manasadevas được cảm nghiệm—không sớm hơn và cũng không muộn hơn.

In considering planetary pralaya we might briefly enumerate the following periods of quiescence:

Khi xét pralaya hành tinh, chúng ta có thể lược liệt kê các giai đoạn tĩnh lặng sau:

446. Pralaya is “quiescence”, especially from the perspective of that sphere of activity from which the life essence has been abstracted.

446. Pralaya là “tĩnh lặng”, đặc biệt xét từ viễn cảnh của lĩnh vực hoạt động mà tinh hoa sự sống đã được thu hồi.

447. Although it may appear that much of a factual nature is offered below, we will have to be careful lest we jump to conclusions.

447. Dẫu có vẻ như dưới đây đưa ra nhiều điều có tính thực kiện, chúng ta phải thận trọng kẻo vội vã nhảy đến kết luận.

Between Two Globes in a Chain.

Giữa Hai Bầu trong Một Dãy.

448. We appear to be speaking of the sequential activation of two contiguous globes in a chain.

448. Có vẻ chúng ta đang nói về sự hoạt hóa tuần tự của hai bầu kề nhau trong một Dãy.

449. Must we suppose that each globe is only activated sequentially, or may it be supposed that all globes are simultaneously active, though in differing degrees? The latter supposition seems more correct (especially if we conceive of globes as chakras).

449. Chúng ta có phải giả định rằng mỗi bầu chỉ được hoạt hóa một cách tuần tự, hay có thể giả định rằng tất cả các bầu đồng thời hoạt động, tuy ở các mức độ khác nhau? Giả định sau có vẻ đúng hơn (đặc biệt nếu chúng ta quan niệm các bầu như các luân xa).

This covers the period of abstraction of the seeds of all life, and its transference from one sphere to another.

Điều này bao trùm giai đoạn thu hồi các mầm của mọi sự sống, và sự chuyển chuyển chúng từ một cầu giới này sang cầu giới khác.

450. Is all life transferred from one globe to another? Or does some life remain on a globe when the majority of life is transferred to another and succeeding globe?

450. Có phải mọi sự sống đều được chuyển từ một bầu sang bầu khác? Hay vẫn còn một số sự sống lưu lại trên một bầu khi đa số sự sống chuyển sang bầu kế tiếp?

The seed manu of a globe gathers all the life forces into Himself, as does the Logos at the close of a system, and as also transpires at the close of a chain, and holds them quiescent in His aura.

Vị Manu hạt giống của một bầu tập hợp tất cả sinh lực vào trong Ngài, như Thượng đế làm vào lúc kết thúc một Thái dương hệ, và như cũng xảy ra vào lúc kết thúc một Dãy, và Ngài giữ chúng tĩnh lặng trong hào quang của Ngài.

451. There is an analogy between three types of Beings:

451. Có một phép loại suy giữa ba kiểu Hữu thể:

a. A Solar Logos

a. Một Thái dương Thượng đế

b. A Chain Manu

b. Một vị Manu của Dãy

c. A seed manu of a globe

c. Một vị Manu hạt giống của một bầu

452. Every sphere of experience has its type of abstracting center

452. Mọi cảnh giới kinh nghiệm đều có loại trung tâm thu hồi riêng của nó.

This covers a period of a man­van­tara, or of one day of Brahma.

Điều này bao trùm một giai kỳ sinh hóa , hay một ngày của Brahma,

453. We recall that one “day of Brahma” is a “kalpa” and endures, according to the chronology given, some 4,320,000,000 years.

453. Chúng ta nhớ rằng một “ngày của Brahma” là một “kalpa” và theo niên biểu được đưa ra, kéo dài khoảng 4.320.000.000 năm.

454. We could say that the interval between the activation of every globe within a chain is some four billion, three hundred twenty million years.

454. Chúng ta có thể nói rằng khoảng gián cách giữa sự hoạt hóa của mỗi bầu trong một Dãy là chừng bốn tỉ ba trăm hai mươi triệu năm.

455. We will proceed in this manner and see what kinds of figures arise, all the time knowing that there are at least two different kinds of “manvantaras” and that the interval between globes is very unlikely to be of this length. An entire chain round is also a “manvantara” and the figure which HBP gives for such a period is some three hundred million years and does not number in the billions.

455. Chúng ta sẽ tiếp tục theo cách này và xem các con số nào phát sinh, đồng thời luôn biết rằng có ít nhất hai loại “manvantara” khác nhau và khoảng giữa các bầu rất khó có thể dài như vậy. Một chu kỳ Dãy trọn vẹn cũng là một “manvantara” và con số HPB đưa ra cho một giai đoạn như vậy vào khoảng ba trăm triệu năm và không tính theo hàng tỉ.

456. Given seven rounds (in the average planet) and seven globes (usually) we would have (if we remain strictly linear—which may or may not be justified) some 211,680,000,000 years for the duration of a planetary chain. It would be twice as long if we allow for a pralaya after every round, or about 423,360,000,000 years. (Of course, our figure cannot really be correct, as we are not calculating the globe periods during the round, but only the intervals between globes.) If we assume that the globe period (during which the life wave passes through any of the seven globes) is the same as the period between globes, then we start to get a figure for a round which is even more at odds with the figure presented by HPB.

456. Dựa vào bảy vòng (ở hành tinh trung bình) và bảy bầu (thường như vậy) nếu chúng ta giữ hoàn toàn tuyến tính—điều này có thể đúng hoặc không—chúng ta sẽ có khoảng 211.680.000.000 năm cho thời lượng của một Dãy hành tinh. Con số ấy sẽ gấp đôi nếu chúng ta tính một pralaya sau mỗi vòng, tức khoảng 423.360.000.000 năm. (Dĩ nhiên, con số của chúng ta khó có thể đúng, vì chúng ta không tính các thời kỳ bầu trong vòng, mà chỉ tính khoảng gián cách giữa các bầu.) Nếu chúng ta giả định rằng thời kỳ bầu (trong đó làn sóng sự sống đi qua bất kỳ trong bảy bầu) ngang bằng khoảng gián cách giữa các bầu, thì chúng ta sẽ có một con số cho một vòng còn mâu thuẫn hơn nữa với con số HPB đã nêu.

457. Continuing nonetheless, if we assume that each of seven chains endures for the same number of years, we will have 2,963,520,000,000—years numbering in the trillions. And if we assume that there will be a pralaya after every scheme round, it is possible that the figure may be 2,963,520,000,000 x 7 or 20,744,640,000,000—almost twenty-one trillion years.   

457. Tiếp tục, nếu chúng ta giả định rằng mỗi trong bảy Dãy kéo dài số năm như nhau, chúng ta sẽ có 2.963.520.000.000—những năm tính bằng nghìn tỉ. Và nếu chúng ta giả định rằng sẽ có một pralaya sau mỗi vòng Hệ, thì có thể con số ấy là 2.963.520.000.000 x 7 hay 20.744.640.000.000—gần hai mươi mốt nghìn tỉ năm.

458. We would multiply this entire figure by two if we were to assume that globe periods and chain periods were of equal length to the intervals between globes and the intervals between chains. Our figure would then be 41,489,280,000,000 or more that forty-one trillion hears.

458. Chúng ta sẽ nhân đôi toàn bộ con số này nếu giả định rằng các thời kỳ bầu và thời kỳ Dãy bằng với các khoảng giữa các bầu và các khoảng giữa các Dãy. Khi ấy, con số của chúng ta sẽ là 41.489.280.000.000 hay hơn bốn mươi mốt nghìn tỉ năm.

459. Of course, we cannot assume strict sequentiality in any of these calculations. They are meant to be indications of magnitude but, given what we presently know, there is no hope for their strict accuracy.

459. Dĩ nhiên, chúng ta không thể giả định tính tuần tự nghiêm ngặt trong bất kỳ tính toán nào ở trên. Chúng chỉ nhằm gợi ý về cỡ độ, nhưng với những gì hiện biết, không hy vọng gì có độ chính xác nghiêm ngặt.

460. In fact, our exercise here, is meant to demonstrate the probability of gross inaccuracy and to reveal to us how little we really know.

460. Thực tế, bài tập của chúng ta ở đây nhằm chứng minh xác suất sai số thô sơ và để cho thấy chúng ta thực sự biết ít ỏi đến mức nào.

461. Further, we are told that some planets last throughout the entire mahamanvantara of 311,040,000,000,000 Earth-years. Therefore, our figure, in excess of twenty trillion (or, doubled, forty-one trillion), is still much too small for the duration of such planets.

461. Hơn nữa, chúng ta được cho biết rằng một số hành tinh kéo dài suốt toàn bộ Đại giai kỳ sinh hóa là 311.040.000.000.000 năm Trái Đất. Do đó, con số của chúng ta, vượt quá hai mươi nghìn tỉ (hoặc, nếu nhân đôi, bốn mươi mốt nghìn tỉ), vẫn còn quá nhỏ đối với thời lượng của những hành tinh như vậy.

462. And we must keep firmly in mind that the term “manvantara” may mean an entire chain round and not just a period between two globes in a chain.

462. Và chúng ta phải ghi khắc vững chắc rằng thuật ngữ “manvantara” có thể có nghĩa là toàn bộ một vòng Dãy, chứ không chỉ là một khoảng giữa hai bầu trong một Dãy.

463. The duration of such cycles is tremendously blinded. We can realize this if we consider that in The Secret Doctrine, duration of a chain round is some three hundred million (plus) years. How can an entire round, moving from globe to globe be far less than the period between globes—over four billions years (i.e., a “manvantara” when that term is equivalent to a kalpa)?

463. Thời hạn của các chu kỳ như vậy bị che mờ ghê gớm. Chúng ta có thể nhận ra điều này nếu xét rằng trong Giáo Lý Bí Nhiệm , thời lượng của một cuộc tuần hoàn của một dãy là khoảng hơn ba trăm triệu năm. Làm sao một toàn cuộc tuần hoàn, di chuyển từ bầu hành tinh này sang bầu hành tinh khác, lại có thể ngắn hơn rất nhiều so với khoảng thời gian giữa các bầu—hơn bốn tỷ năm (tức là, một “giai kỳ sinh hóa” khi thuật ngữ đó tương đương một kalpa)?

464. It is unquestionably illegitimate to assign the same figure to both kinds of “manvantaras”. We are given figures for only one kind of manvantara—a full Day of Brahma—more than four billion years. The manvantara between globes is undoubtedly a period much shorter.

464. Chắc chắn là không chính đáng khi gán cùng một con số cho cả hai loại “giai kỳ sinh hóa”. Chúng ta chỉ được cho con số cho một loại giai kỳ sinh hóa—một Ngày trọn vẹn của Brahma—hơn bốn tỷ năm. Giai kỳ sinh hóa giữa các bầu hẳn là một giai đoạn ngắn hơn rất nhiều.

465. But if we use some shorter figure to define that manvantara which is the period between globes, the duration of a planetary scheme (even if we include scheme rounds) becomes much shorter than our figures of twenty trillion or forty-one trillion years—perhaps as much as twelve times shorter. As a result we would have planetary schemes lasting a very short time during the 311,040,000,000,000 years in a occult century. This would contradict what DK had said about such planets as Venus (enduring throughout the mahamanvantara). We must also remember that in The Secret Doctrine, a number of the planets came to birth physically at the same time as did our Sun. So, they were in manifestation (as comets) at the beginning. As we are some half way through our solar systemic process, and they have not disappeared, figures which indicate for them a short duration must not be accurate.

465. Nhưng nếu chúng ta dùng một con số ngắn hơn để xác định giai kỳ sinh hóa vốn là khoảng thời gian giữa các bầu, thì thời lượng của một hệ hành tinh (dẫu có tính cả các cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh) sẽ ngắn hơn rất nhiều so với những con số hai mươi nghìn tỷ hay bốn mươi mốt nghìn tỷ năm—có lẽ ngắn hơn đến mười hai lần. Hệ quả là chúng ta sẽ có các hệ hành tinh chỉ kéo dài rất ngắn trong 311.040.000.000.000 năm của một thế kỷ huyền bí. Điều này sẽ mâu thuẫn với điều Chân sư DK đã nói về các hành tinh như Sao Kim (tồn tại suốt cả Đại giai kỳ sinh hóa). Chúng ta cũng phải nhớ rằng trong Giáo Lý Bí Nhiệm, một số hành tinh đã sinh ra về mặt thể xác cùng lúc với Mặt Trời của chúng ta. Vì vậy, chúng đã hiện lộ (như các sao chổi) ngay từ ban đầu. Khi mà chúng ta đã đi được khoảng nửa đường trong tiến trình của hệ mặt trời của mình, và chúng vẫn chưa biến mất, thì những con số cho thấy chúng có thời lượng ngắn hẳn là không chính xác.

466. The only value of this line of thought is to reveal many things we do not know.

466. Giá trị duy nhất của mạch suy nghĩ này là để bộc lộ nhiều điều chúng ta chưa biết.

467. To our type of intellect, the calculations are impenetrable. We can only assume that we are not working with the correct figures, that figures many figures have been withheld and that the figures presented to us may be quite symbolic, and that even if we knew the correct figures, we do not know enough about planetary dynamics and solar-systemic dynamics to apply them correctly.

467. Đối với kiểu trí tuệ của chúng ta, các phép tính là bất khả thấu. Chúng ta chỉ có thể giả định rằng chúng ta không làm việc với các con số đúng, rằng nhiều con số đã bị giữ lại không công bố và những con số được đưa ra cho chúng ta có thể hoàn toàn mang tính biểu tượng, và rằng ngay cả nếu chúng ta biết các con số đúng, chúng ta cũng không biết đủ về động học hành tinh và động học hệ mặt trời để áp dụng chúng đúng cách.

468. For instance, there may be dynamics in planetary and solar-systemic development which demand accelerating and decelerating cycles. We would have no idea of the formulas for such cyclic dynamics.

468. Ví như, có thể có những động học trong phát triển hành tinh và hệ mặt trời đòi hỏi các chu kỳ gia tốc và giảm tốc. Chúng ta sẽ không biết các công thức cho những động học chu kỳ như vậy.

Between Two Chains. This covers the period of a maha­man­vantara, or of one year of Brahma.

Giữa Hai Dãy. Điều này bao trùm giai đoạn của một Đại giai kỳ sinh hóa, hay của một năm của Brahma.

469. If we consider what is said elsewhere about mahamanvantaras and occult centuries, we see that this use of the term “mahamanvantara” makes it a period of far less duration than an occult century (the duration of an entire solar system).

469. Nếu chúng ta xét những điều được nói ở chỗ khác về các Đại giai kỳ sinh hóa và những thế kỷ huyền bí, chúng ta thấy rằng cách dùng này của thuật ngữ “Đại giai kỳ sinh hóa” khiến nó trở thành một giai đoạn ngắn hơn rất nhiều so với một thế kỷ huyền bí (thời lượng của cả một hệ mặt trời).

470. We can, however, proceed somewhat as in the last example and see what kinds of figures arise.

470. Tuy vậy, chúng ta vẫn có thể tiến hành phần nào như trong ví dụ trước và xem những loại con số nào xuất hiện.

471. If we preserve the strictly sequential approach and assume seven years of Brahma for each complete scheme round (and an equal measure of rest), then we have some fourteen years of Brahma for each scheme round and its appropriate pralaya. If we multiply 14 x 7, we arrive at the figure 98 years of Brahma which is very close to an occult century. (HPB has given us no figure for a scheme round and did not, as far as I know, discuss the possibility of such a cycle).

471. Nếu chúng ta giữ cách tiếp cận hoàn toàn tuần tự và giả định bảy năm của Brahma cho mỗi hệ hành tinh cuộc tuần hoàn trọn vẹn (và một khoảng nghỉ tương đương),  khi đó chúng ta có khoảng mười bốn năm của Brahma cho mỗi cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh và giai kỳ qui nguyên tương ứng của nó. Nếu nhân 14 x 7, chúng ta đạt con số 98 năm của Brahma, rất gần với một thế kỷ huyền bí. (Bà HPB không đưa cho chúng ta con số nào cho một cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh, và theo tôi biết, Bà cũng không bàn về khả hữu của một chu kỳ như vậy).

472. If the duration of a planetary scheme is some 98 years of Brahma, we are in the vicinity of an occult century. Some attention should be paid to this alternate type of mahamanvantara or “year of Brahma”, as the collection of 98 of them will equate almost to a mahamanvantara considered as an occult century.

472. Nếu thời lượng của một hệ hành tinh là khoảng 98 năm của Brahma, chúng ta ở gần với một thế kỷ huyền bí. Nên dành một chút lưu tâm cho kiểu Đại giai kỳ sinh hóa hay “năm của Brahma” theo cách khác này, vì tập hợp 98 “năm” như thế sẽ xấp xỉ một Đại giai kỳ sinh hóa được coi như một thế kỷ huyền bí.

473. We should note that if we keep to the measure of a day to a year (1/360), we shall not find in the usual planetary process a way to spend 360 Brahmic-day periods (when dealing with globes in a chain) to build up to a “year of Brahma” (a figure here associated with chains as a whole, or more specifically, the period between chains.

473. Chúng ta nên lưu ý rằng nếu giữ tỉ lệ ngày với năm (1/360), chúng ta sẽ không thấy trong tiến trình hành tinh thông thường một cách nào để tiêu dùng 360 khoảng thời gian “ngày của Brahma” (khi xử lý các bầu trong một dãy) nhằm tích lũy thành một “năm của Brahma” (một con số ở đây gắn với các dãy như một tổng thể, hoặc cụ thể hơn, với khoảng thời gian giữa các dãy).

474. One could begin to wonder whether the term “Brahma” is not somewhat elastic—referring not only to the Solar Logos (as we have been shown in ftn. 6 on TCF 39) and also to the various Planetary Logoi, each of them to be considered as “Brahma”. Within the system of any particular Planetary Logos, the term “year” or “day” would, therefore, have variable meanings. The only solution would be to understand exactly how long each planetary scheme endured during an occult century.

474. Người ta có thể bắt đầu tự hỏi liệu thuật ngữ “Brahma” có phần nào co giãn chăng—không chỉ quy chiếu đến Thái dương Thượng đế (như chúng ta đã được chỉ ra ở ftn. 6 trên TCF 39) mà còn đến các Hành Tinh Thượng đế khác nhau, mỗi Vị trong số Các Ngài đều được coi là “Brahma”. Trong hệ thống của bất cứ Hành Tinh Thượng đế cụ thể nào, thuật ngữ “năm” hay “ngày” do đó sẽ có những ý nghĩa biến thiên. Giải pháp duy nhất là hiểu chính xác mỗi hệ hành tinh tồn tại bao lâu trong một thế kỷ huyền bí.

475. One other very significant problem is that the duration of an occult century may be grossly exaggerated—at least this is what Yogananda’s Teacher, SRI Yukteswar believes. Again, given our present knowledge, we have no way to resolve the issue. HPB says one thing and Yukteswar (presumably one who is a Master or almost so) says another.

475. Một vấn đề rất quan trọng khác là thời lượng của một thế kỷ huyền bí có thể đã bị phóng đại trầm trọng—ít nhất đó là điều Bậc Thầy của Yogananda, SRI Yukteswar, cho là vậy. Một lần nữa, với hiểu biết hiện nay, chúng ta không có cách nào giải quyết vấn đề. Bà HPB nói một đằng và Yukteswar (giả định là một Vị gần như là một Chân sư hoặc đã là Chân sư) nói một nẻo.

476. We have all probably noticed that the occult figures offered for the duration of our solar system and its planets are extremely long when compared to modern scientific estimates.. The scientific figures naturally do not take into account subjective processes. Even so, the problems of reconciliation are presently insuperable, as the proposed duration of the entire universe is far, far less that the occult proposals regarding the duration of our solar system or of the planetary schemes within it. For the time being we have no choice but to recognize these astonishing discrepancies without being able to solve the apparent contradictions.

476. Hẳn tất cả chúng ta đều đã nhận thấy rằng các con số huyền bí được đưa ra cho thời lượng của hệ mặt trời chúng ta và các hành tinh của nó dài một cách cực độ khi so với các ước tính khoa học hiện đại. Các con số khoa học, dĩ nhiên, không xét đến các tiến trình chủ quan. Dẫu thế, các vấn đề điều hòa hiện thời là bất khả vượt, vì thời lượng được đề xuất của toàn vũ trụ còn ít hơn rất, rất nhiều so với những đề xuất huyền bí về thời lượng của hệ mặt trời chúng ta hay của các hệ hành tinh trong đó. Trước mắt chúng ta không còn lựa chọn nào ngoài việc công nhận những dị biệt kinh ngạc này mà chưa thể giải quyết những mâu thuẫn bề ngoài.

There are many ways of arriving at the greater cycles,

Có nhiều cách để đi đến các đại chu kỳ ,

477. Of these ways we know very little if anything, but a hint is given warning us to retain mental flexibility and not to adhere rigidly to any figure with which we have been presented.

477. Về những cách này chúng ta biết rất ít, nếu không nói là không biết gì, nhưng có một ám chỉ được đưa ra cảnh báo chúng ta giữ sự linh hoạt trí tuệ và không bám chặt cứng nhắc vào bất kỳ con số nào đã được trình bày.

but there is no need to confuse with the intricacies of figures.

nhưng không cần tự làm rối mình bởi những rắc rối của các con số.

478. This, unfortunately, has already been accomplished!

478. Tiếc thay, điều ấy giờ đã xảy ra!

479. Yet, the hints are given and from them, something of value may emerge.

479. Dù vậy, những ám chỉ vẫn được trao và từ chúng, điều gì đó có giá trị có thể xuất lộ.

The ten Prajapatis or Rishis, or [744] the ten planetary Logoi, manifest through Their ten schemes in time and space, the hour of Their appearing differing.

Mười vị Prajapati hay Rishi, hay [744] mười Hành Tinh Thượng đế, biểu hiện qua mười hệ hành tinh của Các Ngài trong thời gian và không gian, giờ khắc Các Ngài xuất hiện thì khác nhau,

480. We are given the hint that the duration within the solar system of the different Planetary Logoi is distinctive because They emerge at different times, and none can endure beyond the occult century given to a Solar Logos in which these Planetary Logoi form chakras.

480. Một gợi ý được đưa ra rằng thời lượng hiện hữu trong hệ mặt trời của các Hành Tinh Thượng đế khác nhau là khác biệt vì Các Ngài xuất hiện vào những thời điểm khác nhau, và không Vị nào có thể tồn tại vượt ngoài thế kỷ huyền bí được dành cho một Thái dương Thượng đế, trong Đấng ấy các Hành Tinh Thượng đế này tạo thành các luân xa.

481. Another problem arises as, as we have stated, The Secret Doctrine shows Martanda (the Sun) and His seven Brothers arising at the same time.

481. Một vấn đề khác nảy sinh vì, như chúng ta đã nói, Giáo Lý Bí Nhiệm cho thấy Martanda (Mặt Trời) và bảy Anh Em của Ngài xuất hiện cùng một lúc,

Each likewise manifests as does the Logos through a septenate and a triad, making again a ten of perfection.

Mỗi Vị cũng biểu hiện như Thái dương Thượng đế qua một thất phân và một bộ ba, lại tạo thành một mười của sự toàn hảo.

482. The figure of the Kabbalistic Tree of Life has relevance to the manifestation of both the Planetary Logoi and the Solar Logos.

482. Hình tượng Cây Sự Sống của Kabbalah có liên quan đến sự biểu hiện của cả các Hành Tinh Thượng đế lẫn Thái dương Thượng đế.

483. When it comes to describing the Solar Logos and the Planetary Logoi, the number ten is frequently used. We must not forget, however, that there are twelve signs of the zodiac and that each of them will eventually be shown to have its own ruling planet. As well, we have been assured that within our solar system there are many more than ten or twelve Planetary Logoi.

483. Khi mô tả Thái dương Thượng đế và các Hành Tinh Thượng đế, con số mười thường được sử dụng. Tuy nhiên, chúng ta không được quên rằng có mười hai dấu hiệu hoàng đạo và mỗi dấu hiệu rốt cuộc sẽ được cho thấy có hành tinh chủ tinh riêng. Đồng thời, chúng ta đã được bảo đảm rằng trong hệ mặt trời của chúng ta có nhiều Hành Tinh Thượng đế hơn con số mười hay mười hai.

Between Two Solar Systems. This covers the period of one hundred years of Brahma, and through the study of the planetary cycles comprehension of these greater cycles may come.

Giữa Hai Hệ Mặt Trời. Điều này bao trùm giai đoạn một trăm năm của Brahma, và thông qua việc khảo cứu các chu kỳ hành tinh, sự thấu hiểu những đại chu kỳ này có thể đến.

484. DK has already told us something of the planetary cycles—of periods between globes and between chains.

484. Chân sư DK đã nói với chúng ta đôi điều về các chu kỳ hành tinh—về các giai đoạn giữa các bầu và giữa các dãy.

485. It is very difficult, however, to move from one level of magnitude to another. As we begin to sum the durations of chain rounds and the given durations between globes in a chain, we cannot easily arrive at a figure which equals the pralayic period assigned to the period between chains.

485. Tuy nhiên, thật rất khó để chuyển từ một cấp độ độ lớn này sang cấp độ khác. Khi chúng ta bắt đầu cộng thời lượng của các cuộc tuần hoàn của dãy và các thời lượng được đưa ra giữa các bầu trong một dãy, chúng ta khó lòng đạt đến một con số bằng với giai kỳ qui nguyên được ấn định cho khoảng thời gian giữa các dãy.

486. We have been given a general principle, however—a period of activity should be equaled by a comparable period of rest, but any period of “days of Brahma” which we can gather in relation to the activity on a planetary chain always falls far short of the 360 “days of Brahma” which DK says must exist between the activation of each chain within a string of seven chains

486. Tuy nhiên, chúng ta đã được trao một nguyên tắc tổng quát—một giai đoạn hoạt động nên được cân bằng bởi một giai đoạn nghỉ ngơi tương đương , nhưng bất kỳ tổng số “ngày của Brahma” nào mà chúng ta có thể gom lại liên quan đến hoạt động trên một dãy hành tinh luôn thấp hơn rất xa 360 “ngày của Brahma” mà Chân sư DK nói rằng phải hiện hữu giữa việc kích hoạt mỗi dãy trong một chuỗi bảy dãy

487. In other words, unless we can spend 360 kalpas on the development of any chain, the period between chains (stated to be 360 kalpas or a Brahmic Year) will be far greater than the time spent in developing the chain in question. This would also apply even if the term “manvantara” (when used in relation to globes) does not equal a full kalpa. If such were the case, then a “year of Brahma” (in relation to chains) would also not equal 360 kalpas. Given what we know about globe and chain dynamics, the numbers just do not add up.

487. Nói cách khác, trừ phi chúng ta có thể tiêu dùng 360 kalpa cho việc phát triển bất kỳ dãy nào, thì khoảng thời gian giữa các dãy (được tuyên bố là 360 kalpa hay một Năm của Brahma) sẽ lớn hơn rất nhiều so với thời gian dành để phát triển dãy đang xét. Điều này cũng đúng ngay cả nếu thuật ngữ “giai kỳ sinh hóa” (khi sử dụng liên quan đến các bầu) không bằng một kalpa trọn vẹn. Nếu như vậy, thì một “năm của Brahma” (liên hệ đến các dãy) cũng sẽ không bằng 360 kalpa. Căn cứ những gì chúng ta biết về động học bầu và dãy, các con số đơn giản là không cộng lại được.

488. BUT—are pralayas longer than the incarnate period preceding them. If so, a solution might be found, and yet, when discussing the occult century, DK seems to suggest that the period of solar systemic manifestation (an occult century) is just the same as the interval between two such manifestations (also an occult century). This must be solved.

488. NHƯNG—các giai kỳ qui nguyên có dài hơn giai đoạn lâm phàm trước đó của chúng không? Nếu có, một giải pháp có thể được tìm thấy, tuy vậy, khi bàn về thế kỷ huyền bí, Chân sư DK dường như gợi ý rằng thời kỳ hiện lộ của hệ mặt trời (một thế kỷ huyền bí) đúng bằng khoảng nghỉ giữa hai lần hiện lộ như vậy (cũng là một thế kỷ huyền bí). Điều này phải được hóa giải.

489. Obviously, there is a gross deficiency in our understanding of globe and chain dynamics, and scheme and system dynamics as well.

489. Rõ ràng là, có một thiếu hụt nghiêm trọng trong sự hiểu biết của chúng ta về động học bầu và dãy, và cả động học hệ hành tinh và hệ mặt trời nữa,

Complication comes to the student

Sự rối rắm đến với đạo sinh

490. As if there were not already sufficient complication!

490. Như thể chưa đủ rối rắm vậy!

nevertheless in the fact that two of the schemes cover their cyclic periods in five rounds,

tuy nhiên, ở chỗ hai trong số các hệ hành tinh bao trùm các chu kỳ của chúng trong năm cuộc tuần hoàn,

491. One of these is Venus. Is Mercury the other?

491. Một trong số đó là Sao Kim. Sao Thủy có phải là cái còn lại không?

while others have seven;

trong khi các hệ khác có bảy;

492. The Earth was meant, it seems, to have a number of scheme rounds equal to the scheme rounds of Venus. But it is still uncertain whether it was solar logoically ordained that Venus have only five scheme rounds or whether the prodigious progress of the Planetary Logos of Venus made it possible to complete the series of rounds in five rather than seven.

492. Dường như Trái Đất được định sẽ có số cuộc tuần hoàn của hệ hành tinh bằng với số cuộc tuần hoàn của Sao Kim. Nhưng vẫn chưa chắc là liệu điều đó vốn được sắc lệnh bởi Thái dương Thượng đế rằng Sao Kim chỉ có năm cuộc tuần hoàn của hệ, hay là tiến bộ lẫy lừng của Hành Tinh Thượng đế của Sao Kim đã khiến có thể hoàn tất chuỗi cuộc tuần hoàn trong năm thay vì bảy.

one scheme has but three rounds,

một hệ chỉ có ba cuộc tuần hoàn,

493. May we assume this to be one of the synthesizing planets?

493. Chúng ta có thể giả định đây là một trong các hành tinh tổng hợp không?

but a mystery is hidden here: on the inner round one planet has nine cycles to run before the purpose of its Lord is completed.

nhưng một huyền nhiệm ẩn tàng ở đây: trên vòng nội, một hành tinh có chín chu kỳ phải vận hành trước khi Mục đích của Đấng Chúa Tể của nó được hoàn tất.

494. How many planets are involved in the “inner round”? We know of Mercury’s involvement, but are there others?

494. Có bao nhiêu hành tinh tham dự “vòng nội”? Chúng ta biết sự tham dự của Sao Thủy, nhưng còn những hành tinh khác thì sao?

495. There are so many different kinds of cycles that we cannot be sure which cycles are meant.

495. Có quá nhiều loại chu kỳ khác nhau đến nỗi chúng ta không thể chắc đang nói đến những chu kỳ nào.

496. When we encounter such statements, we must remember that the number of chains in manifestation in any planetary scheme at any given time are variable.

496. Khi chạm đến những tuyên bố như thế, chúng ta phải nhớ rằng số các dãy đang hiện lộ trong bất kỳ hệ hành tinh nào tại bất kỳ thời điểm nào là biến thiên.

497. Do we gather the sense that we are in the presence of some of the most profound secrets of the initiatory process?

497. Chúng ta có cảm được rằng mình đang đứng trước một số những bí nhiệm thâm sâu nhất của tiến trình điểm đạo?

Certain lesser periods of pralaya do not concern man at all, but concern the atom of matter as it is released from form of any kind in the subhuman kingdoms. Pralaya is the result of radioactivity carried to a conclusion.

Một số giai đoạn qui nguyên nhỏ không liên quan đến con người chút nào, mà liên quan đến nguyên tử vật chất khi nó được giải phóng khỏi mọi loại hình tướng trong các giới tiền nhân loại. Giai kỳ qui nguyên là kết quả của tính phóng xạ được đẩy đến tận cùng.

498. Here we have a very technical definition of pralaya. Without radioactivity there will never be a destruction of the confining wall and the liberation of the life into a higher dimension (pralaya).

498. Ở đây chúng ta có một định nghĩa rất kỹ thuật về giai kỳ qui nguyên. Không có tính phóng xạ thì sẽ chẳng bao giờ có sự phá hủy bức tường giam cầm và sự giải phóng sự sống vào một chiều kích cao hơn (giai kỳ qui nguyên).

499. Another way of saying this is that there is no ‘rest’ without achievement.

499. Nói theo cách khác, chẳng có “nghỉ ngơi” nếu không có thành tựu.

(c.) Types of Human Rebirth. In our study of the building of thought-forms

(c.) Các loại Tái sinh của Con người. Trong khảo cứu của chúng ta về sự kiến tạo các hình tư tưởng

500. We have been working ourselves up to a consideration of the magical process.

500. Chúng ta đã tự mình dần tiến đến việc xét đến tiến trình huyền thuật.

and the agencies for their construction, we have considered:

và các cơ quan kiến tạo chúng, chúng ta đã xét đến:

1. The deva substance out of which they are construct­ed.

1. Chất liệu deva mà từ đó chúng được kiến trúc.

501. We are dealing mostly with the lower devas.

501. Chúng ta phần lớn đang xử lý các thiên thần thấp.

2. The energy which animates them and its source.

2. Năng lượng làm sinh động chúng và nguồn của năng lượng đó.

502. Devas are associated with various planes and various Raja Deva Lords.

502. Các deva liên hệ với các cõi khác nhau và các Chúa Tể Raja Deva khác nhau.

3. Their appearance in time and space, or their incarna­tion.

3. Sự xuất hiện của chúng trong thời gian và không gian, hay sự lâm phàm của chúng.

503. We are dealing with the appearance of various E/entities in time and space. These E/entities are human, planetary and solar. The manifestation of a man, planet or solar system is, from the occult perspective, a thoughtform.

503. Chúng ta đang xử lý sự xuất hiện của các Thực thể trong thời gian và không gian. Những Thực thể này là nhân loại, hành tinh và thái dương. Sự hiện lộ của một con người, một hành tinh hay một hệ mặt trời, xét theo quan điểm huyền bí, là một hình tư tưởng.

4. Their disappearance or pralaya.

4. Sự biến mất của chúng hay giai kỳ qui nguyên.

504. We have considered some of the different forms of pralaya.

504. Chúng ta đã xét đến một vài hình thái khác nhau của giai kỳ qui nguyên.

5. The constructing entities who in a threefold manner produce these forms, utilising the process of:

5. Các thực thể kiến tạo theo cách tam phân tạo ra những hình tướng này, vận dụng tiến trình:

a. Meditation, which is ever the preliminary to construction.

a. Tham thiền, vốn luôn là bước tiền đề cho việc kiến tạo.

505. All of the constructing E/entities (whether man, Planetary Logos or Solar Logos) utilize meditation to prepare for manifestation.

505. Tất cả các Thực thể kiến tạo (dù là con người, Hành Tinh Thượng đế hay Thái dương Thượng đế) đều dùng tham thiền để chuẩn bị cho hiện lộ.

b. Dynamic force, or the positive energy which seizes upon its polar opposite (negative sub­stance), and utilises it. [745]

b. Mãnh lực động, hay năng lượng dương vốn nắm lấy đối phần cực của nó (chất liệu âm), và vận dụng nó. [745]

506. This is the necessary descent of the Spirit aspect and its engagement with matter.

506. Đây là sự giáng hạ tất yếu của Phương diện Linh Thần và sự dấn thân của nó với vật chất.

c. The impartation of colour or quality, which moulds that which has been prepared.

c. Sự truyền phú màu sắc hay phẩm tính, vốn khuôn đúc cái đã được chuẩn bị.

507. Here we speak of the egoic aspect or the middle principle shaping the prepared form and gradually enduing it with quality.

507. Ở đây chúng ta nói về phương diện chân ngã hay nguyên lý trung gian nhào nặn hình tướng đã chuẩn bị và dần dần phú cho nó phẩm tính.

508. Let us think of the role of Vulcan as it represents the power of the soul to mould the form.

508. Hãy nghĩ về vai trò của Vulcan khi nó đại diện quyền năng của linh hồn để khuôn đúc hình tướng.

d. A secondary vitalisation, which sets in separate motion the thought-form thus created.

d. Một sự tiếp sinh lực thứ cấp, vốn đặt hình tư tưởng đã tạo vào chuyển động riêng rẽ.

509. We may consider this the personal impulse. It is related to the Brahmic aspect.

509. Chúng ta có thể xét đây là xung lực cá nhân, Nó liên hệ với phương diện Brahma.

510. From another perspective, the soul or Ego provides (at each rebirth) a fresh impulse to galvanize the thoughtform it is using to manifest.

510. Từ một góc nhìn khác, linh hồn hay Chân ngã cung cấp (ở mỗi lần tái sinh) một xung lực mới để hoạt hóa hình tư tưởng mà nó đang dùng để hiện lộ.

We will now consider the mystery of rebirth, or the incarna­tion of those lives which exist in subtler matter, and yet which seek form according to law, and touch upon their specific intent on dense physical levels.

Giờ đây chúng ta sẽ xét huyền nhiệm của tái sinh, hay sự lâm phàm của những sự sống tồn tại trong chất liệu vi tế , nhưng theo luật lại tìm kiếm hình tướng, và chạm đến ý định đặc thù của chúng trên các cõi hồng trần đậm đặc.

511. The lives which exist in subtler matter are human, planetary and solar (and beyond). Subtler matter may be etheric, but astral, mental and causal as well.

511. Những sự sống tồn tại trong chất liệu vi tế là nhân loại, hành tinh và thái dương (và vượt hơn nữa). Chất liệu vi tế có thể là dĩ thái, nhưng cũng là cảm dục, trí tuệ và nguyên nhân.

We can consider this in connection with the cosmic entities who seek exis­tence on the physical plane of the cosmos, our solar system­ic planes,

Chúng ta có thể xét điều này liên hệ với các Thực thể vũ trụ tìm kiếm sự hiện hữu trên cõi hồng trần của vũ trụ , tức các cõi hệ mặt trời của chúng ta,

512. Such are Planetary Logoi and Solar Logoi and, perhaps, Beings greater still

512. Đó là các Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế và, có lẽ, những Đấng còn vĩ đại hơn nữa

or the reincarnating jivas who are driven by the Law towards earthly manifestation in order to become fully conscious, and acquire (by means of sentient existence), added faculty and power.

hoặc các jiva tái sinh bị Luật thúc đẩy hướng đến hiện lộ trần thế để trở nên hoàn toàn có tâm thức, và đạt thêm (nhờ tồn tại cảm thụ) tài năng và quyền năng.

513. DK alerts us to the wide range of possibilities. We can consider the rebirth of Planetary Logoi and Solar Logoi or human beings.

513. Chân sư DK cảnh tỉnh chúng ta trước phạm vi rất rộng các khả hữu. Chúng ta có thể xét sự tái sinh của các Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế, hoặc của con người.

514. He is telling us why we (as jivas) are seeking incarnation:

514. Ngài đang nói cho chúng ta tại sao chúng ta (với tư cách các jiva) đang tìm kiếm lâm phàm:

a. We are doing so to become fully conscious (presumably on the lower planes)

a. Chúng ta làm thế để trở nên hoàn toàn có tâm thức (có lẽ trên các cõi thấp)

b. We are doing this to achieve added faculty and power

b. Chúng ta làm thế để đạt thêm tài năng và quyền năng

c. Our method is to experience sentient existence in the lower three worlds

c. Phương pháp của chúng ta là kinh nghiệm tồn tại cảm thụ trong ba cõi thấp

H. P. B. [49: See S.D., III, 364, 365, 367] has said that rebirths may be divided into three classes:

H. P. B. [49: See S.D., III, 364, 365, 367] đã nói rằng các lần tái sinh có thể chia thành ba hạng:

a. Those of Avatars.

a. Các lần của các Đấng Hoá Thân.

b. Those of Adepts.

b. Các lần của các Chân sư.

c. Those of jivas seeking development.

c. Các lần của các jiva tìm cầu phát triển.

515. The first two types of rebirth are voluntary. The third type is compelled.

515. Hai loại tái sinh đầu là tự nguyện. Loại thứ ba là bị thúc buộc.

516. Rebirth is a cyclic entry into either a lower or higher field of experience.

516. Tái sinh là một nhập cuộc theo chu kỳ vào một trường kinh nghiệm thấp hơn hay cao hơn.

To those who are endeavouring to grasp somewhat the mystery of rebirth and its laws and purpose, and who are confused when considering the mystery of the Buddha, and the secret purpose of that mysterious Entity, the Silent Watcher; to those who find the problem of understanding the position of the Kumaras and Their relation to the planetary Logos almost an insuperable one,

Với những ai đang nỗ lực nắm bắt phần nào huyền nhiệm của tái sinh và các định luật cùng mục đích của nó, và những ai bối rối khi xét huyền nhiệm của Đức Phật, và mục đích bí mật của Đấng Huyền Nhiệm ấy, Đấng Quan Sát Im Lặng; với những ai thấy vấn đề thấu hiểu vị thế của các Kumara và mối liên hệ của Các Ngài với Hành Tinh Thượng đế gần như là bất khả,

517. We will find ourselves in this category.

517. Chúng ta sẽ thấy mình thuộc nhóm này.

518. We are given a number of mysteries. Let us tabulate them for clarity:

518. Chúng ta được đưa cho một loạt huyền nhiệm. Hãy liệt kê chúng để rõ ràng:

– The mystery of rebirth

– Huyền nhiệm của tái sinh

b. The mystery of the Buddha

b. Huyền nhiệm của Đức Phật

c. The secret purpose of the Silent Watcher

c. Mục đích bí mật của Đấng Quan Sát Im Lặng

d. The mystery of the position of the Kumaras and Their relation to the Planetary Logos

d. Huyền nhiệm về vị trí của các Kumara và mối liên hệ của Các Ngài với Hành Tinh Thượng đế

it might be wise to say: Study and meditate upon the difference existing between the lower principles and the higher three; study and meditate upon the place and position of these lower principles in the body of the planetary Logos and ponder upon the corres­pond­ence between:

sẽ là khôn ngoan nếu nói: Hãy học và tham thiền về sự khác biệt hiện hữu giữa các nguyên khí thấp và ba nguyên khí cao hơn; hãy học và tham thiền về chỗ và vị thế của các nguyên khí thấp trong thể của Hành Tinh Thượng đế và suy ngẫm về sự tương ứng giữa:

a. The devachan of the reincarnating jiva.

a. Devachan của jiva tái sinh.

519. This concerns the mystery of rebirth

519. Điều này liên quan đến huyền nhiệm của tái sinh

b. The nirvana of the Adept. [746]

b. Niết-bàn của một Chân sư. [746]

520. This concerns the mystery of the Buddha. Is this mystery closely connected with the nirvanic interval?

520. Điều này liên quan đến huyền nhiệm của Đức Phật. Huyền nhiệm này có liên hệ mật thiết với khoảng gian Niết-bàn chăng?

c. pralaya of a cosmic Entity, such as the Lord of a chain, the Lord of a scheme, and the Lord of a Ray.

c. giai kỳ qui nguyên của một Thực thể vũ trụ, như Chúa Tể của một Dãy, Chúa Tể của một hệ hành tinh, và Chúa Tể của một Cung.

521. These concern the “Silent Watcher” and the Kumaras. Sanat Kumara is now in incarnation. Are we to expect some sort of pralaya for this great Entity following the “Judgment Day”?

521. Những điều này liên quan đến “Đấng Quan Sát Im Lặng” và các Kumara. Sanat Kumara hiện đang lâm phàm. Chúng ta có nên trông đợi một loại giai kỳ qui nguyên nào đó cho Đấng vĩ đại này sau “Ngày Phán Xét” không?

522. Apparently there are three intervals to be considered: devachan, nirvana and the pralaya of a cosmic Entity. Had we considered “nirvana” to be an interval?

522. Hiển nhiên có ba khoảng gian cần xét: devachan, Niết-bàn và giai kỳ qui nguyên của một Thực thể vũ trụ. Trước đây chúng ta có coi “Niết-bàn” là một khoảng gian không?

523. Usually, the “Lord of a scheme” is considered to be a Ray Life or “Lord of a Ray”. Perhaps, in this listing, DK is giving the “Lord of a Ray” an even greater status than that of a Planetary Logos. After all, our Solar Logos is a Lord of a Ray and so is our Cosmic Logos.

523. Thông thường, “Chúa Tể của một hệ hành tinh” được coi là một Sự Sống Cung hay “Chúa Tể của một Cung”. Có lẽ trong bảng liệt kê này, Chân sư DK đang trao cho “Chúa Tể của một Cung” một địa vị còn lớn hơn Hành Tinh Thượng đế. Rốt cuộc, Thái dương Thượng đế của chúng ta là một Chúa Tể của một Cung và Thượng đế Vũ Trụ của chúng ta cũng thế.

I say correspondence in its esoteric significance, and do not seek to infer analogy in detail, but only in purpose and in exper­ience. It may be said of all three states that they are periods of development, long cycles of meditation, and interludes between stages of activity.

Tôi nói về sự tương ứng theo thâm nghĩa huyền bí , và không tìm cách suy diễn sự tương đồng chi tiết, mà chỉ về mục đích và kinh nghiệm. Có thể nói về cả ba trạng thái rằng chúng là những thời kỳ phát triển, những chu kỳ tham thiền dài, và những quãng nghỉ giữa các giai đoạn hoạt động,

524. This is an important statement about devachan, nirvana and a cosmic pralaya. Are they all, in a sense, illusory?

524. Đây là một phát biểu quan trọng về devachan, Niết-bàn và giai kỳ qui nguyên vũ trụ. Chúng có phải đồng thời , theo một nghĩa nào đó, là hư ảo?

525. Let us list the three factors involved in each of these three states:

525. Hãy liệt kê ba yếu tố liên quan trong mỗi trong ba trạng thái này:

a. They are periods of development

a. Chúng là những thời kỳ phát triển

b. They are long cycles of meditation

b. Chúng là những chu kỳ tham thiền dài

c. They are interludes between stages of activity

c. Chúng là những quãng nghỉ giữa các giai đoạn hoạt động

526. DK is doing much to counter the idea that pralayic periods are periods of nullity.

526. Chân sư DK đang làm rất nhiều để phản biện quan niệm rằng các giai kỳ qui nguyên là các giai đoạn hư vô.

Hence the emphasis laid in the East and in all occult schools of development upon meditation, for it is the means of bring­ing to the unit under development the capacity which will produce:

Do đó mới có sự nhấn mạnh ở phương Đông và trong mọi trường phái huyền bí về tham thiền, vì đó là phương tiện đem đến cho đơn vị đang phát triển năng lực sẽ sản sinh:

a. Abstraction, or liberation from form.

a. Sự xuất ly, hay giải phóng khỏi hình tướng.

b. Creative power.

b. Quyền năng sáng tạo.

c. Direction of energy, through an act of the will.

c. Sự điều hướng năng lượng, qua một hành động của ý chí.

d. Future constructive activity.

d. Hoạt động kiến tạo tương lai.

527. We are given four virtues of meditation, whether for a man or a Logos. There are four factors listed. Two of them correlate with the first ray and one each with the second and third rays.

527. Chúng ta được trao bốn phẩm tính của tham thiền, dù cho một con người hay một Thượng đế. Có bốn yếu tố được liệt kê. Hai trong số đó tương liên với cung một và mỗi cung hai và ba tương ứng với một yếu tố.

528. Final abstraction through meditation is not to be pursued before creativity, construction and direction have been somewhat mastered.

528. Sự xuất ly tối hậu qua tham thiền không nên được theo đuổi trước khi sáng tạo, kiến tạo và điều hướng đã được phần nào tinh thông.

529. It seems that as we learn the art and science of meditation, we are preparing for the periods of pralaya of different kinds which we will inevitably encounter through our aeons of unfoldment. Pralaya is a meditative period!

529. Có vẻ như khi chúng ta học nghệ thuật và khoa học tham thiền, chúng ta đang chuẩn bị cho những giai kỳ qui nguyên thuộc các loại khác nhau mà chúng ta tất yếu sẽ gặp trên suốt các thời đại khai mở của mình. Giai kỳ qui nguyên là một giai đoạn tham thiền!

By means of meditation, a man finds freedom from the delu­sion of the senses, and their vibratory lure;

Nhờ tham thiền, con người tìm thấy tự do khỏi ảo lầm của các giác quan, và sức quyến dụ rung động của chúng;

530. Meditation frees from delusion.

530. Tham thiền giải phóng khỏi ảo lầm.

he finds his own positive centre of energy and becomes consciously able to use it;

y tìm thấy trung tâm năng lượng dương của chính mình và trở nên có ý thức khả năng sử dụng nó;

531. Through meditation man finds and employs his true Self.

531. Qua tham thiền, con người tìm thấy và sử dụng Chân Ngã đích thực.

he becomes, therefore, aware of his real Self, func­tion­ing freely and consciously beyond the planes of sense;

y do đó ý thức được Chân Ngã của mình, vận hành tự do và có ý thức vượt ngoài các cõi giác quan;

532. This Self can be construed as the higher Ego on causal levels, that Ego on triadal levels and finally the true Self on monadic levels.

532. Chân Ngã này có thể được hiểu như là Chân ngã cao trên các tầng nguyên nhân, Chân ngã ấy trên các cấp Tam nguyên tinh thần và rốt cuộc là Chân Ngã đích thực trên các cấp chân thần.

he enters into the plans of the greater Entity within Whose radiatory capacity he has a place; he can then consciously proceed to carry out those plans as he can grasp them at varying stages of realisation; and he becomes aware of essential unity.

y bước vào các Thiên Cơ của Đấng vĩ đại hơn, trong dung-quang của Đấng ấy y có một vị trí; khi đó y có thể có ý thức tiến hành thực hiện những Thiên Cơ ấy theo mức y nắm bắt được ở các giai đoạn nhận thức khác nhau; và y trở nên ý thức về hợp nhất cốt yếu.

533. Through meditation, increasing identification with a greater and inclusive Being is achieved.

533. Nhờ tham thiền, đồng nhất hóa ngày càng gia tăng với một Đấng bao hàm lớn hơn được đạt đến.

534. Meditation, rightly pursued, leads to identification and synthetic realization.

534. Tham thiền, được thực hành đúng, dẫn đến đồng nhất hóa và chứng ngộ tổng hợp.

But when a man has thus freed himself from the objects of sense in the three worlds he again becomes aware of the need of further meditation, and it is this (to man in the three worlds), inconceivable form of meditation that engrosses the attention of the Adept,

Nhưng khi một người đã giải phóng mình khỏi các đối tượng giác quan trong ba cõi rồi, y lại trở nên ý thức về nhu cầu tiếp tục tham thiền nữa, và chính hình thái tham thiền (đối với con người trong ba cõi) không thể nghĩ bàn này cuốn hút sự chú tâm của một Chân sư,

535. Such would have been the meditation of the Buddha.

535. Đó hẳn là loại tham thiền của Đức Phật.

536. Each union achieved reveals unions yet to be achieved. The method of achievement is meditation, even if we do not understand the nature of the meditation of an Adept, Chohan or Planetary Logos.

536. Mỗi hợp nhất đạt được lại hé mở những hợp nhất còn cần đạt nữa. Phương pháp đạt được là tham thiền, dẫu chúng ta không hiểu bản chất tham thiền của một Chân sư, một Chohan hay một Hành Tinh Thượng đế.

and which is undertaken by Him in two great stages, each preceding the two final Initiations, the sixth and the seventh.

và được Ngài tiến hành theo hai giai đoạn lớn, mỗi giai đoạn đi trước hai Lễ Điểm đạo cuối cùng, lần thứ sáu và lần thứ bảy.

537. DK is telling us that meditation as practiced by the Chohans of the sixth and seventh degree is inconceivable to us.

537. Chân sư DK cho chúng ta biết rằng tham thiền như được thực hiện bởi các Chohan ở bậc thứ sáu và thứ bảy là điều không thể nghĩ bàn với chúng ta.

I refer not here only to Adepts who “make the sacrifice,” and choose rebirth for service on the planet, but to all adepts.

Tôi không chỉ đề cập đến các Chân sư “làm sự hy sinh”, và chọn tái sinh để phụng sự trên hành tinh, mà đến mọi Chân sư.

538. DK is illustrating the universal value of meditation.

538. Chân sư DK minh họa giá trị phổ quát của tham thiền.

539. His use of the word “rebirth” is interesting, for we know that an Adept does not take “rebirth” in the conventional manner. Perhaps any re-entry for service purposes into a field of vibration formerly transcended can be considered rebirth.

539. Cách Ngài dùng từ “tái sinh” thật thú vị, vì chúng ta biết một Chân sư không “tái sinh” theo nghĩa thông thường. Có lẽ bất kỳ sự tái nhập nào vì mục đích phụng sự vào một trường rung động vốn đã được siêu vượt đều có thể được coi là tái sinh.

Freedom to work on any Path must be gained by occult [747] meditation;

Tự do để hoạt động trên bất kỳ Con Đường nào phải đạt được bằng tham thiền huyền bí [747];

540. From this perspective, the liberated Master meditates Himself onto one of the seven cosmic Paths and pursued His work on one of those Paths through the method of meditation.

540. Từ quan điểm này, Vị Thầy giải thoát tự tham thiền để bước lên một trong bảy Con Đường vũ trụ và theo đuổi công việc của Ngài trên một trong những Con Đường ấy qua phương pháp tham thiền.

freedom to escape beyond the ring-pass-not is also thus attained,

tự do để vượt ngoài vòng-giới-hạn cũng đạt được như thế,

541. If we wish to know how to break through the barriers with which we are presented, meditation is the method.

541. Nếu chúng ta muốn biết làm sao để phá vỡ những hàng rào đang cản trở mình, thì tham thiền là phương pháp.

542. Meditation is the method of dynamic growth and of achieving freedom.

542. Tham thiền là phương pháp tăng trưởng năng động và đạt đến tự do.

and likewise the curious state of quiescence which is achieved by Those Who have offered for service as the occult Hierarchy in the next round.

và tương tự là trạng thái yên tĩnh lạ kỳ vốn đạt được bởi Những Vị đã xung phong phụng sự như Thánh đoàn trong cuộc tuần hoàn tới.

543. This does not mean that They offer Themselves as Solar Angels, because they probably have not yet had time to achieve that status.

543. Điều này không có nghĩa là Các Ngài tự hiến mình như các Thiên Thần Thái dương, vì có lẽ Các Ngài vẫn chưa có đủ thời gian để đạt đến địa vị ấy.

544. We usually do not think of service in the next round. There are so many Earth-years remaining in the present round that most service of which we can conceive could easily be offered in the millions of years remaining to the present round.

544. Chúng ta thường không nghĩ đến phụng sự trong cuộc tuần hoàn tới. Còn quá nhiều năm Trái Đất còn lại trong cuộc tuần hoàn hiện tại đến nỗi hầu hết các phụng sự mà chúng ta có thể hình dung đều dễ dàng có thể được cống hiến trong hàng triệu năm còn lại của cuộc tuần hoàn này.

545. Is DK telling us that Masters Who achieve presently may offer Themselves for service (presumably in relation to this planet) in the next round?

545. Chân sư DK có đang nói với chúng ta rằng các Vị Thầy hiện đạt thành tựu có thể xung phong cho phụng sự (có lẽ liên quan đến hành tinh này) trong cuộc tuần hoàn tới?

546. There is suggestion of a pralayic period of preparation for such service.

546. Có gợi ý về một giai kỳ qui nguyên chuẩn bị cho phụng sự như vậy.

In Them have to be stored the psychic seeds of knowledge which will be available in the fifth round;

Trong Các Ngài phải được lưu trữ các chủng tử thông linh của tri thức vốn sẽ khả dụng vào cuộc tuần hoàn thứ năm;

547. Presumably, DK is speaking of the fifth chain round of our present fourth chain.

547. Rõ ràng, Chân sư DK đang nói về cuộc tuần hoàn thứ năm của dãy hiện tại của chúng ta, dãy thứ tư.

548. We are not told, however, whether the service for which They are offering Themselves is to occur only in relation to our present globe.

548. Tuy nhiên, chúng ta không được cho biết liệu phụng sự mà Các Ngài hiến mình có xảy ra chỉ liên hệ với bầu hiện tại của chúng ta hay không.

this necessitates for Them an attitude of receptivity to occurrences at the close of each root-race, when there is, on subtler levels, a gathering in of psychic force, and its storing with Those prepared for its reception.

điều này đòi hỏi ở Các Ngài một thái độ tiếp nhận đối với các biến cố vào lúc kết thúc mỗi giống dân gốc, khi đó, trên các tầng vi tế, có một sự thu góp năng lực thông linh và lưu trữ năng lực ấy nơi Những Vị đã chuẩn bị để tiếp nhận,

549. In our present round and through attentiveness to the various rootraces, and the absorption of rootrace quality, these Masters are preparing for the future round.

549. Trong cuộc tuần hoàn hiện tại của chúng ta và qua sự chú tâm đối với các giống dân gốc khác nhau, cùng việc hấp thụ phẩm tính của giống dân gốc, các Vị Thầy này đang chuẩn bị cho cuộc tuần hoàn tương lai.

550. Tremendous attentiveness in the present is needed for Them to prepare for Their hierarchical function in the future.

550. Cần có một sự chú tâm ghê gớm trong hiện tại để Các Ngài chuẩn bị cho chức năng huyền giai của mình trong tương lai.

551. We have been speaking very much of the synthetic process of ingathering.

551. Chúng ta đã nói rất nhiều về tiến trình tổng hợp của thu nạp.

552. Earlier we referred to the “Gestation Period” in the Bardo. Are these ingathering Masters involved in such a gestation as they prepare for future service?

552. Trước đó chúng ta có nhắc đến “Thời Kỳ Thai Dưỡng” trong Bardo. Liệu các Vị Thầy thu nạp này có tham dự vào một quá trình thai dưỡng như thế khi Các Ngài chuẩn bị cho phụng sự tương lai?

553. Perhaps we gather some sense of the vast periods of preparation required for future activity.

553. Có lẽ chúng ta cảm được phần nào các thời kỳ chuẩn bị mênh mông cần thiết cho hoạt động tương lai.

Their work is analogous to that of the Seed-Manu, Who Him­self works through a septenate as do these storers of the psychic life-forces.

Công việc của Các Ngài tương tự công việc của Manu Hạt Giống, Chính Ngài làm việc qua một thất phân như các vị lưu trữ các lực sống thông linh này cũng thế.

554. Both types of ingatherers participate in a sevenfold gathering. For the “storers” there are seven rootraces which require their absorptive attention.

554. Cả hai loại “người thu nạp” đều tham dự một cuộc thu góp bảy phần. Với các “vị lưu trữ”, có bảy giống dân gốc đòi hỏi sự chú tâm hấp thụ của Các Ngài.

555. The period to be spent before the onset of their future service is a meditative one.

555. Thời kỳ cần trải qua trước khi khởi sự phụng sự tương lai của Các Ngài là một thời kỳ tham thiền.

556. We see that there are many types of possible service in the future, types which are to us, inconceivable.

556. Chúng ta thấy rằng có nhiều loại phụng sự khả hữu trong tương lai, những loại đối với chúng ta là không thể nghĩ bàn.

Again for such cosmic Entities as the planetary Logoi periods of meditation transpire, but these concern Them on the cosmic planes, and only the effects are felt on this.

Đối với các Thực thể vũ trụ như các Hành Tinh Thượng đế, các thời kỳ tham thiền cũng diễn ra, nhưng những điều này liên hệ đến Các Ngài trên các cõi vũ trụ, và chỉ có các hiệu ứng là được cảm nhận trên cõi này.

557. These periods of mediation probably concern globe and chain cycles.

557. Những thời kỳ tham thiền này có lẽ liên hệ đến các chu kỳ bầu và dãy.

558. If a Planetary Logos meditates in His mind, that meditation will occur on the cosmic mental plane. But there are lower cosmic planes on which meditation can also occur, as we see below.

558. Nếu một Hành Tinh Thượng đế tham thiền trong thể trí của Ngài, thì sự tham thiền đó sẽ diễn ra trên cõi trí vũ trụ. Nhưng cũng có những cõi vũ trụ thấp hơn mà trên đó tham thiền có thể diễn ra, như chúng ta thấy dưới đây.

559. We are being informed that pralayic periods are most necessary meditative periods linked to future service and future progress.

559. Chúng ta đang được thông tin rằng các giai kỳ qui nguyên là những thời kỳ tham thiền hết sức cần thiết gắn với phụng sự tương lai và tiến bộ tương lai.

560. We have seen this to be the case even in regard to the devachan of the tiny unit, man.

560. Chúng ta đã thấy điều này là đúng ngay cả đối với devachan của đơn vị bé nhỏ là con người.

They meditate in Their physical brains, and therefore in substance as does man, but the process is carried on in the etheric brain. This should be pondered on, for it holds the mystery hid.

Các Ngài tham thiền trong các bộ não hồng trần của Các Ngài, và như vậy là trong chất liệu cũng như con người, nhưng tiến trình được tiến hành trong bộ não dĩ thái. Điều này nên được suy ngẫm, vì nó che giấu huyền nhiệm.

561. DK brings the process more “down to earth”—cosmically speaking.

561. Chân sư DK đưa tiến trình này xuống “gần mặt đất” hơn— nói theo nghĩa vũ trụ.

562. The physical brains of these great Entities will be found in the lower three worlds and, in the case of the Solar Logos, within the lower twenty-one subplanes.

562. Các bộ não hồng trần của những Đấng vĩ đại này sẽ được tìm thấy trong ba cõi thấp và, trong trường hợp của Thái dương Thượng đế, trong hai mươi mốt cõi phụ thấp hơn.

563. The real process (physically speaking) occurs within the cosmic ethers.

563. Tiến trình thực thụ (nói về phương diện hồng trần) diễn ra trong các dĩ thái vũ trụ.

564. It would seem by analogy that man, too, must learn to carry on a meditative process within his etheric brain.

564. Theo tương đồng, có vẻ như con người cũng phải học cách tiến hành một tiến trình tham thiền trong bộ não dĩ thái của mình.

Also, the fact that some of these Lords of the Rays are more proficient in meditation than others, and thus achieve differ­ing results which work out in Their schemes, should be carefully borne in mind.

Thêm nữa, sự kiện rằng một vài trong các Chúa Tể của các Cung thiện xảo về tham thiền hơn những Vị khác , và do đó đạt đến các kết quả khác nhau vốn biểu hiện trong các hệ hành tinh của Các Ngài, nên được ghi nhớ cẩn trọng.

565. In this reference, the Lords of the Rays are given an equivalence with Planetary Logoi. Earlier it seemed that the Lord of a Scheme and a Lord of a Ray were being differentiated. The term “Lord of a Ray” is, as we have indicated,

565. Trong tham chiếu này, các Chúa Tể của các Cung được đặt tương đương với các Hành Tinh Thượng đế. Trước đó có vẻ như Chúa Tể của một Hệ và Chúa Tể của một Cung được phân biệt. Thuật ngữ “Chúa Tể của một Cung” là, như chúng ta đã chỉ ra,

566. The various Planetary Logoi have differing abilities, and, overall, a differing spiritual status. This spiritual status depends largely on Their proficiency in meditation

566. Các Hành Tinh Thượng đế khác nhau có các khả năng khác nhau, và, xét toàn cục, có địa vị tinh thần khác nhau. Địa vị tinh thần này phần lớn tùy thuộc vào mức thiện xảo của Các Ngài trong tham thiền.

.

\n

Scroll to Top