Bình Giảng về Lửa Vũ Trụ S7S10 Part I (853-857)

TCF 853-857: S7S10 Part I

1 – 17 August 2008

1 – 17 tháng Tám 2008

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Phần lớn văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt cỡ chữ 16 để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong các lớp học. Chú thích và tham chiếu từ các sách của AAB và từ các trang khác của TCF dùng cỡ chữ 14. Phần Bình luận xuất hiện với cỡ chữ 12. Gạch dưới, In đậm và Tô sáng do MDR)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph. So please read an entire paragraph and then study the Commentary

Đề nghị bản Bình luận này được đọc cùng với TCF luôn sẵn bên mình, nhằm giữ sự liên tục. Khi tiến hành phân tích văn bản, nhiều đoạn được phân chia, và cách trình bày cô đọng trong chính cuốn sách sẽ chuyển tải ý nghĩa tổng thể của đoạn văn. Vì vậy, xin hãy đọc trọn một đoạn rồi sau đó nghiên cứu phần Bình luận

              To continue with our consideration of egoic groups: It might be briefly stated that the egoic groups in connection with our planet may be roughly grouped according to the stage of lotus organisation, as follows:

Tiếp tục xem xét các nhóm chân ngã: Có thể tóm lược rằng các nhóm chân ngã liên quan đến hành tinh của chúng ta có thể được phân loại đại khái theo giai đoạn tổ chức của hoa sen như sau:

1. Here we speak of “the stage of lotus organization”. This phrase is being used, in this context, to indicate the origin of these Egos.

1. Ở đây chúng ta nói về “giai đoạn tổ chức của hoa sen”. Cụm từ này được dùng, trong ngữ cảnh này, để chỉ nguồn gốc của các Chân ngã ấy.

a. Egos who were produced through the individualisation process in Lemurian days. They are the true Earth humanity, along with the second group.

a. Những chân ngã được tạo ra qua tiến trình biệt ngã hóa vào thời Lemuria. Họ là nhân loại Địa cầu đích thực, cùng với nhóm thứ hai.

2. It is easy to think of individualization as having occurred only in Lemuria spark of mind twenty one million years ago. This is not the whole story, and the succeeding category must be held in mind.

2. Người ta dễ nghĩ rằng biệt ngã hóa chỉ xảy ra vào thời Lemuria – tia lửa của trí diễn ra hai mươi mốt triệu năm trước. Đó chưa phải toàn bộ câu chuyện, và cần ghi nhớ hạng mục kế tiếp.

3. Many of those individualized in Lemuria have made spectacular progress and some are even members of the Spiritual Hierarchy, but, in general, there is still a cleavage between the more developed Moon-chain Egos and the true Earth humanity.

3. Nhiều vị đã được biệt ngã hóa trong thời Lemuria đã đạt tiến bộ rực rỡ và một số thậm chí là thành viên của Huyền Giai Tinh Thần, nhưng, nhìn chung, vẫn có một sự phân cách giữa các chân ngã Dãy Mặt Trăng phát triển hơn và nhân loại Địa cầu đích thực.

With the Ancient of Days came a group of other highly evolved Entities, who represent His own individual karmic group and those Beings who are the outcome of the triple nature of the Planetary Logos. If one might so express it They embody the forces emanating from the head, heart, and throat centres, and They came in with Sanat Kumara to form focal points of planetary force for the helping of the great plan for the self-conscious unfoldment of all life. Their places have gradually been filled by the sons of men as they qualify, though this includes very few, until lately, from our immediate earth humanity.

Cùng với Đấng Thái Cổ đến là một nhóm các Thực thể tiến hóa rất cao khác, vốn đại diện cho nhóm nghiệp riêng của Ngài và những Đấng là kết quả của bản tính tam phân của Hành Tinh Thượng đế. Nói vậy để diễn đạt, Các Ngài hiện thân những lực phát xuất từ các trung tâm đầu, tim và cổ họng, và Các Ngài đến cùng Sanat Kumara để hình thành các tiêu điểm lực hành tinh nhằm trợ giúp kế hoạch vĩ đại cho sự khai mở tự ý thức của mọi sự sống. Vị trí của Các Ngài đã dần dần được những người con của nhân loại đảm đương khi họ đạt phẩm chất thích đáng, mặc dù cho đến gần đây, số người thuộc chính nhân loại Địa cầu của chúng ta được kể vào còn rất ít.

4. We see here that some few members of “our immediate earth humanity” are definitely to be found within the Spiritual Hierarchy. This represents a spectacular feat on their part, but no feat can equal that of the Christ Who, we are told, “stands uniquely alone”.

4. Ở đây chúng ta thấy rằng một vài thành viên của “chính nhân loại Địa cầu của chúng ta” quả thật hiện diện trong Huyền Giai Tinh Thần. Điều này biểu trưng một kỳ công rực rỡ của họ, nhưng không kỳ công nào sánh được với Đức Christ, Đấng mà, như chúng ta được dạy, “đứng một mình độc nhất vô nhị”.

b. Egos who have individualised during the Atlantean root-race until the door was shut.

b. Những chân ngã đã biệt ngã hóa trong Giống dân gốc Atlantis cho đến khi cánh cửa bị khép lại.

5. VSK states: “This would be from the animal kingdom. Are those who individualised then the same as those who are now at the door ajar? i.e., the elephant, dog, cat, and horse?”

5. VSK nêu: “Điều này hẳn là từ giới động vật. Những kẻ đã biệt ngã hóa khi ấy có phải là những loài hiện nay đang ở nơi cánh cửa hé mở? Tức là voi, chó, mèo và ngựa?”

6. May it be suggested that the animal forms to be found in those days may have been very different from animal forms today. Which were the highest forms of animals available to individualization during Atlantean (or even Lemurian days). Some writings suggest that those who were to become animal man were inhabiting huge ape-like forms rather than the vehicles resembling the vehicles of present dogs, cats, horses or elephants.

6. Xin đề nghị rằng các hình tướng động vật thời ấy có thể rất khác các hình tướng động vật ngày nay. Những hình tướng động vật cao nhất nào sẵn có cho sự biệt ngã hóa vào thời Atlantis (hoặc thậm chí thời Lemuria)? Vài trước tác gợi ý rằng những ai sẽ trở thành ‘người thú’ cư ngụ trong những thể dạng khỉ vượn khổng lồ, hơn là những vận cụ giống với chó, mèo, ngựa hay voi hiện nay.

7. All individualization is a movement from the animal kingdom into the human kingdom.

7. Mọi sự biệt ngã hóa là một chuyển động từ giới động vật vào giới nhân loại.

8. It is natural to conclude that those who individualized in Atlantean days are less developed that those who individualized in Lemuria.

8. Tự nhiên mà kết luận rằng những ai biệt ngã hóa trong thời Atlantis kém phát triển hơn những ai biệt ngã hóa trong thời Lemuria.

9. However, given the principle of rootrace-overlap, it was not necessary for the Lemurian race to conclude before the Atlantean race began.

9. Tuy nhiên, xét theo nguyên lý chồng lấn giữa các Giống dân gốc, không nhất thiết phải chờ giống dân Lemuria kết thúc rồi giống dân Atlantis mới khởi đầu.

10. Early Atlantean days occurred some 12,000,000 years ago.

10. Thời kỳ Atlantis sớm diễn ra cách đây chừng 12.000.000 năm.

History, as studied today, goes back but a little way and although the enlightened historian and scientist may extend the story of humanity to millions of years, there is naught known about the races of men who lived those millions of years ago; naught is known of the civilisation which flourished in early Atlantean times twelve million years ago; naught is known at all of the still more ancient Lemurian civilisation which goes back more than fifteen million years; still less is known of that twilight period which existed twenty-one million years ago when men were scarcely human and when they were so closely related to the animal kingdom that we call them by the cumbersome name of “animal-man.” (EH 226)

Lịch sử, như vẫn được khảo cứu ngày nay, chỉ ngược dòng được một quãng ngắn và dù nhà sử học và nhà khoa học được soi sáng có thể kéo dài câu chuyện nhân loại tới hàng triệu năm, thì chẳng có gì được biết về các giống dân đã sống vào những triệu năm ấy; chẳng có gì được biết về nền văn minh hưng thịnh vào buổi đầu Atlantis mười hai triệu năm trước; lại càng chẳng biết gì về nền văn minh Lemuria cổ xưa hơn nữa vốn lùi xa hơn mười lăm triệu năm; và càng ít biết hơn về thời kỳ chạng vạng cách đây hai mươi mốt triệu năm khi con người hầu như chưa là người và họ gần gũi với giới động vật đến nỗi chúng ta phải gọi họ bằng cái tên rườm rà là “người thú.” (EH 226)

11. The very large influx of Egos (really Monads) occurred at that time, and not at that later period in the Atlantean race, i.e., when a wide opportunity for initiation arose. The door of individualization, however, may have been kept open for some time following the very large influx of individualizing Egos in early Atlantean days.

11. Đợt tuôn đổ rất lớn của các Chân ngã (thực ra là các chân thần) xảy ra vào thời điểm đó, chứ không phải vào giai đoạn muộn hơn trong giống dân Atlantis, tức khi có một cơ hội rộng mở cho điểm đạo. Tuy vậy, cánh cửa của sự biệt ngã hóa có lẽ đã được giữ mở trong một thời gian sau đợt tuôn đổ rất lớn của các chân ngã biệt ngã hóa vào buổi đầu Atlantis.

3. There was a very large influx of individualising egos in early Atlantean days and they were practically all of the power-will type. It might be stated that 80% of those who entered human evolution at that time were egos who were expressing the will aspect of deity, and that the remaining 20% were along the line of love-wisdom. (EP II 211)

3. Đã có một đợt tuôn đổ rất lớn các chân ngã biệt ngã hóa vào buổi đầu Atlantis, và họ hầu như đều thuộc loại quyền lực–ý chí. Có thể nói rằng 80% những ai bước vào tiến hóa nhân loại lúc ấy là các chân ngã đang biểu lộ phương diện ý chí của Thượng đế, và 20% còn lại đi theo đường Bác Ái – Minh Triết. (EP II 211)

c. Egos who have “come-in” from the moon chain and who are much more evolved than the earth humanity.

c. Những chân ngã đã “đi vào” từ Dãy Mặt Trăng và phát triển vượt xa nhân loại Địa cầu.

12. This is the principal group which stands in contrast to the Earth-chain Egos. Many problems which arise within humanity have their basis in the contrasts which exist between these two groups—Moon-chain and Earth-chain humanity.

12. Đây là nhóm chủ yếu đối sánh với các chân ngã Dãy Địa Cầu. Nhiều vấn đề nảy sinh trong nhân loại có căn nguyên ở sự tương phản giữa hai nhóm này—nhân loại Dãy Mặt Trăng và nhân loại Dãy Địa Cầu.

d. Egos who have been swept in since Atlantean days to take the place of those Egos who have achieved liber­ation, and whose causal bodies have disappeared, or whose lotuses have “died out” leaving a vacuum in force substance which must be supplied and filled.

d. Những chân ngã đã được cuốn vào kể từ thời Atlantis để thay thế những chân ngã đã đạt giải thoát và thể nguyên nhân của họ đã biến mất, hoặc những hoa sen đã “tàn lụi” để lại một khoảng chân không trong chất liệu lực cần được bù đắp và lấp đầy,

13. Here we have a balancing process.

13. Ở đây có một tiến trình quân bình.

14. It the liberation of the Ego the same as the dying out of a lotus? It would seem so.

14. Sự giải thoát của chân ngã có phải là điều trùng với sự tàn lụi của một hoa sen? Có vẻ như vậy.

15. We have been told that “nature abhors a vacuum”. Here that adage is confirmed. One can see the influence of the sign Libra as the balance is maintained.

15. Chúng ta từng được nói rằng “tự nhiên ghét chân không”. Ở đây châm ngôn ấy được xác nhận. Có thể thấy ảnh hưởng của cung Thiên Bình khi cán cân được duy trì.

16. It should not escape our notice that Egos are “force substance”.

16. Không nên bỏ qua nhận xét rằng các Chân ngã chính là “chất liệu lực”.

17. Should Primary Lotuses be numbered among those which have been swept in since Atlantean days to take the place of liberated Egos? Perhaps. They have certainly come in since Atlantean days and they are principally from another planetary sphere.

17. Các Hoa Sen Sơ Nguyên có được xếp vào số những hoa sen đã được cuốn vào kể từ thời Atlantis để thay thế các chân ngã đã giải thoát không? Có lẽ. Họ chắc chắn đã đến kể từ thời Atlantis và về chính yếu là từ một cầu giới hành tinh khác.

18. Probably, as well, there are other varieties of Egos which have been swept in.

18. Cũng có khả năng còn có các biến loại khác của chân ngã đã được cuốn vào.

19. The who subject is one of very real interest when considering the types of human beings who may be expressing upon the planet at this time.

19. Toàn bộ chủ đề này rất đáng quan tâm khi xét đến các loại hình con người có thể đang biểu lộ trên hành tinh vào lúc này.

They usually come in from one of two schemes:

Họ thường đến từ một trong hai hệ hành tinh:

1. From the scheme embodied by the polar opposite of our planetary Logos.

1. Từ hệ do cực đối nghịch của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta thể hiện.

2. From that scheme which is allied with these two in forming a systemic triangle. [854]

2. Từ hệ liên kết với hai hệ kia để hình thành một tam giác thái dương. [854]

20. VSK questions: “This is referred to on page 841 as Venus and Jupiter?”

20. VSK đặt câu hỏi: “Điều này được nhắc ở trang 841 là Sao Kim và Sao Mộc?”

21. May it be suggested that Venus is the “polar opposite of our Planetary Logos” and that Mars is “that scheme which is allied with these two in forming a systemic triangle”.

21. Xin đề nghị rằng Sao Kim là “cực đối nghịch của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta” và Sao Hỏa là “hệ liên kết với hai hệ này để hình thành một tam giác thái dương”.

22. It does not seem too farfetched that there should an ‘Ego-exchange’ operating between Mars and the Earth. That there is such an exchange operative between Venus and the Earth is already confirmed. At least Egos do come in from Venus. Human units are also transferred to Venus, but we may question whether this transference occurs before or after they have lost their causal bodies or both.

22. Không phải là quá khi cho rằng có một ‘trao đổi chân ngã’ vận hành giữa Sao Hỏa và Trái Đất. Việc có sự trao đổi như thế giữa Sao Kim và Trái Đất đã được xác nhận. Ít ra thì các chân ngã có đến từ Sao Kim. Các đơn vị nhân loại cũng được chuyển sang Sao Kim, nhưng chúng ta có thể tự hỏi sự chuyển dịch này xảy ra trước hay sau khi họ mất thể nguyên nhân, hoặc cả hai.

23. Could Jupiter be one of the planets instead of Mars? It is of course possible, as Jupiter has already been cited as a source of either Monads or egoic lotuses (when the Lotuses of Brahman were discussed). Earth, Venus and Jupiter all have a strong second ray component—Jupiter and the Earth sharing a second ray soul (hypothesized in the case of Jupiter).

23. Liệu Sao Mộc có thể là một trong các hành tinh thay vì Sao Hỏa? Dĩ nhiên là có thể, vì Sao Mộc đã được nêu như nguồn của hoặc các chân thần hoặc các hoa sen chân ngã (khi bàn về các Hoa Sen Brahman). Trái Đất, Sao Kim và Sao Mộc đều có thành tố cung hai mạnh mẽ—Sao Mộc và Trái Đất cùng chia sẻ một linh hồn cung hai (trong trường hợp Sao Mộc là giả định).

These cases are necessarily rare at present

Những trường hợp này hiện tại tất yếu là hiếm

24. Apparently, as regards the present Lotuses of Brahman generated from the early influx either of already formed Venusian “Bud Lotuses” or of Venusian Monads (who individualized within the Earth-scheme),such cases were not at all rare at that time, since, presently, there are many such lotuses.

24. Hiển nhiên, xét riêng các Hoa Sen Brahman được sinh ra từ đợt tuôn đổ sớm hoặc của các “Hoa Sen Nụ” thuộc Sao Kim đã hình thành, hoặc của các chân thần Sao Kim (đã biệt ngã hóa trong Hệ Địa Cầu), thì những trường hợp như thế khi ấy không hề hiếm, vì hiện thời có nhiều hoa sen như vậy.

but will become more frequent as more and more of the human race take the fourth Initiation.

nhưng sẽ trở nên thường xuyên hơn khi ngày càng nhiều người thuộc chủng nhân loại đạt lần điểm đạo thứ tư.

25. Let as look at an interesting analogy: just as at the time of the “Judgment Day” a large number of Earth-chain Egos will probably be ‘transported’ or emanated to Mars (clearing the Earth-chain of many Egos who could not benefit from the elevated conditions then to be extant upon our planet or within our chain) so Egos from Venus (a planet of much greater development than ours) will flow into the Earth-chain and perhaps to our dense globe as more and more human beings take the fourth initiation. How far ahead this may be, we do not know. We can imagine that in reflection of the fourth initiation now being taken by our Planetary Logos through the Earth-chain and Earth-globe, there may be relatively many fourth degree initiates ‘made’ in the relatively near future.

25. Chúng ta hãy xem một phép tương đồng thú vị: cũng như vào thời “Ngày Phán Xét” có lẽ một số lớn chân ngã Dãy Địa Cầu sẽ được ‘chuyển đi’ hay xuất lộ sang Sao Hỏa (giúp thanh lọc Dãy Địa Cầu khỏi nhiều chân ngã không thể thụ ích từ những điều kiện được nâng cao vốn sẽ hiện hữu trên hành tinh chúng ta hoặc trong Dãy của chúng ta), thì các chân ngã từ Sao Kim (một hành tinh phát triển hơn chúng ta nhiều) sẽ tuôn vào Dãy Địa Cầu và có thể xuống bầu hành tinh đậm đặc của chúng ta khi ngày càng nhiều người đạt lần điểm đạo thứ tư. Điều này sẽ còn bao lâu nữa, chúng ta không biết. Chúng ta có thể hình dung rằng, phản chiếu lần điểm đạo thứ tư mà Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang trải qua qua Dãy Địa Cầu và bầu Địa Cầu, sẽ có tương đối nhiều điểm đạo đồ bậc bốn được ‘thành tựu’ trong tương lai tương đối gần.

26. As for Egos from Mars (hypothesized) this, too, may be a possibility, but presumably they would be relatively highly developed. Much depends on when they arrive. Conditions on Earth are, apparently, spiritually ahead of those in the Mars-chain, so no useful purpose would be served by sending undeveloped Egos from Mars into our Earth-chain when in the next round, our undeveloped Egos are to be sent to Mars.

26. Còn về các chân ngã từ Sao Hỏa (giả thuyết) thì điều này cũng có thể, nhưng suy theo lẽ thường, họ sẽ phát triển tương đối cao. Nhiều điều tùy thuộc thời điểm họ đến. Các điều kiện ở Trái Đất, xem ra, về mặt tinh thần vượt trước điều kiện trong Dãy Sao Hỏa, vậy nên chẳng ích lợi gì khi đưa các chân ngã chưa phát triển từ Sao Hỏa vào Dãy Địa Cầu khi ở vòng tới, các chân ngã chưa phát triển của chúng ta sẽ được gửi tới Sao Hỏa.

27. All such ‘in-coming’ Egos, one would think, would not be of the primitive type, yet would have something very definite to ‘learn’ within the Earth-scheme, and presumably within the Earth-chain and upon the Earth-globe.

27. Tất cả những chân ngã ‘đi vào’ như vậy, hẳn sẽ không thuộc loại nguyên thủy, nhưng lại có điều gì đó rất rõ rệt để ‘học’ trong Hệ Địa Cầu, và có lẽ trong Dãy Địa Cầu và trên bầu Địa Cầu.

e. Certain rare Egos or lotuses from schemes not enumer­ated in the above triplicity.

e. Một số chân ngã hay hoa sen hiếm hoi từ các hệ không được nêu trong bộ ba nói trên.

28. We see the possibilities are many, but that the cases involving planets other than the two which form a triangle with Earth are rare.

28. Chúng ta thấy có nhiều khả năng, nhưng những trường hợp liên quan đến các hành tinh khác hai hành tinh tạo thành tam giác với Trái Đất là hiếm.

They are usually only brought in so that they may perfect certain developments in their own nature, to carry out experimental work in connection with the deva kingdom, or to produce certain group results desired by the planetary Logos.

Họ thường chỉ được đưa vào để hoàn thiện một số triển khai nhất định trong chính bản tánh của họ, để thực hiện công tác thực nghiệm liên quan đến giới thiên thần, hoặc để tạo ra một số kết quả nhóm nào đó được Hành Tinh Thượng đế mong muốn.

29. Again, could the “Primary Lotuses”, presumably from Vulcan, be numbered among these?

29. Lại nữa, liệu “Các Hoa Sen Sơ Nguyên”, giả định là từ Vulcan, có thể được tính trong số này?

30. Let us tabulate for easier reading the reasons why such Egos from certain planetary schemes are brought in:

30. Chúng ta hãy lập bảng cho dễ theo dõi các lý do khiến những chân ngã từ một số hệ hành tinh được đưa vào:

a. To perfect certain developments in their own nature. This would indeed apply to “Primary Lotuses” who must see to the opening of the second petal in the knowledge tier.

a. Để hoàn thiện một số triển khai nhất định trong chính bản tánh của họ. Điều này hẳn rất đúng với “Các Hoa Sen Sơ Nguyên” – những vị phải lo việc khai mở cánh hoa thứ hai trong tầng tri thức.

b. To carry out experimental work in connection with the deva kingdom. May we infer that such lotuses come in from planets which have a larger deva ‘population’ than human population?

b. Để tiến hành công tác thực nghiệm liên quan đến giới thiên thần. Có thể suy rằng những hoa sen như vậy đến từ các hành tinh có ‘dân số’ thiên thần lớn hơn dân số nhân loại?

c. To produce certain group results desired by the Planetary Logos. This is a somewhat general statement. We cannot necessarily infer that only lotuses with a highly developed group consciousness would be brought in for this task.

c. Để tạo ra một số kết quả nhóm nào đó mà Hành Tinh Thượng đế mong muốn. Đây là một mệnh đề khá tổng quát. Ta không nhất thiết suy ra rằng chỉ những hoa sen có ý thức nhóm phát triển cao mới được đưa vào cho nhiệm vụ này.

They frequently do not descend into dense physical incarnation but work primarily on mental and astral levels, returning to their own spheres eventually for the final stages of liberation

Họ thường không giáng xuống nhập thể hồng trần đậm đặc mà hoạt động chủ yếu trên các cấp trí và cảm dục, rồi rốt cuộc quay về cầu giới của họ để đi vào các chặng cuối của giải thoát

31. If this is the case, “Primary Lotuses” would have to be excluded because they most definitely do descend onto the physical plane.

31. Nếu vậy, “Các Hoa Sen Sơ Nguyên” phải bị loại trừ, vì họ quả thật giáng xuống cõi hồng trần.

32. So, such Egos often do not really take incarnation as human beings usually do. They may be involved with our fourth globe (on subtle levels) but perhaps, principally, with other globes within our chain, or perhaps with other globes within other chains of the Earth-scheme. Yet, we cannot help but think that we are, principally, speaking of our own globe within the Earth-chain.

32. Như thế, những chân ngã này thường không thực sự nhập thể theo cách con người thường làm. Họ có thể can dự với bầu hành tinh thứ tư của chúng ta (trên các cấp vi tế) nhưng có lẽ, chủ yếu, với các bầu khác trong Dãy của chúng ta, hoặc với những bầu khác trong các Dãy khác thuộc Hệ Địa Cầu. Tuy nhiên, chúng ta vẫn khó mà không nghĩ rằng ở đây, về chủ yếu, chúng ta đang nói tới chính bầu hành tinh của mình trong Dãy Địa Cầu.

33. It is interesting that they will seek final liberation (can we presume this to be the fourth initiation) on their sphere of origin?

33. Thật thú vị khi biết rằng họ sẽ tìm kiếm giải thoát cuối cùng (chúng ta có thể giả định đây là lần điểm đạo thứ tư?) trên cầu giới xuất xứ của chính họ?

34. What of those Egos or Monads which flowed in from Venus or Jupiter and are now Lotuses of Brahman? Are they, too, to seek final liberation upon their sphere of origin?

34. Còn những chân ngã hay chân thần đã tuôn sang từ Sao Kim hay Sao Mộc và nay là các Hoa Sen Brahman thì sao? Họ cũng sẽ tìm giải thoát cuối cùng trên cầu giới xuất xứ của họ ư?

35. Judging from what is said, it would be hard for the average human being or even the disciple to have a clear idea about the presence of such Egos on our planet.

35. Xét theo lời nói, hẳn khó để một người trung bình hay ngay cả một đệ tử có ý niệm rõ ràng về sự hiện diện của những chân ngã như vậy trên hành tinh chúng ta.

All these lotuses in their myriad differentiations

Tất cả những hoa sen này, trong vô số biến phân của chúng,

36. We are dealing with only preliminary facts of a vast study. Think of the clarity and intricacy of mind which are required to be certain of this subject!

36. Chúng ta mới chỉ xử lý các dữ kiện sơ khởi của một nghiên cứu mênh mông. Hãy nghĩ tới mức độ minh bạch và tinh vi của thể trí cần có để có sự chắc chắn về chủ đề này!

have specific effects upon each other on mental levels, and these effects are as yet utterly unrealised by man.

đều có những hiệu ứng đặc thù lên nhau trên các cấp trí , và những hiệu ứng ấy cho đến nay con người hoàn toàn chưa nhận biết.

37. DK supports the idea suggested above. It is difficult for man upon the physical plane to detect the influence of certain of the various kinds of Egos.

37. Chân sư DK củng cố ý tưởng vừa gợi trên. Con người nơi cõi hồng trần khó lòng dò nhận ảnh hưởng của một số loại chân ngã khác nhau.

38. Inter-egoic effect occurs largely upon the higher mental plane (so we are led to believe). Man-the-personality does not register this egoic exchange of impression.

38. Sự tác động giữa các chân ngã phần lớn xảy ra trên cõi thượng trí (đó là điều chúng ta được dẫn tới). Con người–phàm ngã không ghi nhận sự trao đổi ấn tượng ở cấp chân ngã.

Nevertheless, they are the basis of the true psychology, and the grounds of all true activity.

Tuy vậy, chúng là nền tảng của Tâm Lý Học chân chính , và là cơ sở của mọi hoạt động chân chính.

39. Egoic origin, then, and egoic nature are the basis of all “true” psychology. True psychology deals with the nature of the soul—a study of man-as-Ego and not man-as-personality.

39. Như vậy, nguồn gốc chân ngã và bản tánh chân ngã là nền tảng của mọi tâm lý học “chân chính”. Tâm lý học chân chính xử lý bản tánh của linh hồn—nghiên cứu con người–như–Chân ngã chứ không phải con người–như–phàm ngã.

40. As well, according to the nature of the Ego on the higher mental plane, so will be the type and quality of activity in the three worlds which that Ego is destined to pursued. “True” activity is egoically purposeful.

40. Đồng thời, tùy theo bản tánh của Chân ngã trên cõi thượng trí, kiểu thức và phẩm chất hoạt động trong ba cõi mà Chân ngã ấy được an bài theo đuổi cũng sẽ như thế. Hoạt động “chân chính” là hoạt động có mục đích chân ngã.

The student would do well to ponder upon the effect any advanced Ego would be likely to have upon:

Đạo sinh làm tốt nếu ngẫm xem hiệu ứng mà bất kỳ Chân ngã cao cấp nào có thể tạo ra đối với:

41. Perhaps Egos which are not advanced will have, it seems, much less impact.

41. Có lẽ các chân ngã chưa cao thì, như có vẻ, ít tạo tác động hơn nhiều.

a. Other Egos in his group.

a. Các chân ngã khác trong nhóm của y.

42. We are aware of the effect we have upon each other as personalities, but little aware of inter-egoic effect. But it seems, what we are egoically affects what other human units are egoically.

42. Chúng ta biết về ảnh hưởng mà chúng ta tạo ra cho nhau với tư cách phàm ngã, nhưng ít biết về sự tác động giữa các chân ngã. Dường như, chúng ta là gì ở cấp chân ngã sẽ ảnh hưởng đến các đơn vị nhân loại khác là gì ở cấp chân ngã.

43. While we may be aware of how another’s soul radiation affects us as a personality, are we aware of how that soul radiation affects us as soul upon the plane of soul? Probably, such a realization is relatively rare.

43. Trong khi chúng ta có thể ý thức được linh quang của linh hồn người khác tác động mình như một phàm ngã ra sao, liệu chúng ta có ý thức được linh quang ấy tác động chúng ta như những linh hồn trên cõi linh hồn thế nào không? Có lẽ, nhận thức như vậy tương đối hiếm.

b. The solar Pitris who are the substance of the group.

b. Các thái dương tổ phụ vốn là chất liệu của nhóm.

44. Usually a “solar Pitri” is considered to be an advanced Being—far in advance of man. Is DK telling us that the egoic radiation of an advanced Ego will affect the “solar Pitris” who are substanding the other Egos in the group?

44. Thông thường “thái dương tổ phụ” được xem là các Đấng cao cấp—vượt xa con người. Có phải Chân sư DK đang nói rằng bức xạ chân ngã của một Chân ngã cao sẽ ảnh hưởng đến “các thái dương tổ phụ” đang nền tảng hóa các Chân ngã khác trong nhóm?

45. Do we as human souls upon the higher mental plane (i.e., as Egos within the causal body) have an effect upon the Solar Angel or “solar Pitri” who substands our egoic demonstration?

45. Chúng ta, với tư cách linh hồn con người trên cõi thượng trí (nghĩa là như Chân ngã trong thể nguyên nhân), có tác động nào lên Thái dương Thiên Thần hay “thái dương tổ phụ” đang nền tảng hóa sự biểu lộ chân ngã của chúng ta không?

46. Is DK saying that the solar pitric substance of an advanced Ego has a stimulating effect upon the solar pitric substance of other perhaps less advanced Egos in the group?

46. Có phải Chân sư DK đang nói rằng chất liệu thái dương tổ phụ của một Chân ngã cao có tác dụng kích thích lên chất liệu thái dương tổ phụ của những Chân ngã khác có lẽ kém cao trong nhóm?

47. What has to be clarified is the spiritual status of the “solar Pitris”. Sometimes it is assured that they are highly advanced Beings—returning Nirvanis from a previous mahamanvantara. At other times they seem to be substantial in a lesser sense. This is all part of the mystery and is related to their sacrifice. They enter to substand the expression of the human Monad on the higher mental plane, and yet have ‘another life’ very much of their own, on their own true plane, whichever plane that is (and there are many theories).

47. Điều cần làm sáng tỏ là địa vị tinh thần của “các thái dương tổ phụ”. Đôi khi người ta khẳng định rằng Các Ngài là những Đấng rất cao—các nirvani hồi lai từ một đại giai kỳ sinh hóa trước. Lúc khác, Các Ngài có vẻ như mang tính chất ‘vật chất’ ở cấp thấp hơn. Tất cả là một phần của mầu nhiệm và liên quan đến sự hy sinh của Các Ngài. Các Ngài đi vào để nền tảng hóa sự biểu lộ của chân thần nhân loại trên cõi thượng trí, nhưng đồng thời lại có ‘một đời sống khác’ rất riêng của mình, trên chính cõi của mình, bất kể cõi nào (và có nhiều thuyết khác nhau).

48. According to what is said later in this section of text, is wise to differentiate between the “solar Pitris” and the deva substance of the higher mental plane which these Pitris substand.

48. Theo những gì sẽ nói sau trong phần văn này, khôn ngoan là phân biệt giữa “các thái dương tổ phụ” và chất liệu thiên thần của cõi thượng trí mà các Tổ phụ này nền tảng hóa.

c. The lunar Pitris, who are linked with the solar Pitris through the permanent atoms.

c. Các thái âm tổ phụ, những vị được nối kết với các thái dương tổ phụ qua các nguyên tử trường tồn.

49. We are familiar with the idea that the lunar pitris are much affected by the “solar Pitris”. DK has given close attention to the result of their interplay

49. Chúng ta quen ý niệm rằng các thái âm tổ phụ chịu ảnh hưởng mạnh từ “các thái dương tổ phụ”. Chân sư DK đã chú mục vào kết quả của sự tương giao ấy.

50. The permanent atoms (really the units in the atomic triangle) are found within the causal body and are thus directly related to the “solar Pitris” Who substand the egoic lotus. As well, the lower permanent atoms and mental unit are the ‘control center’ with which the lunar pitris are associated.

50. Các nguyên tử trường tồn (thực ra là các đơn vị trong tam giác nguyên tử) nằm trong thể nguyên nhân và do đó trực tiếp liên quan đến “các thái dương tổ phụ” nền tảng hóa hoa sen chân ngã. Đồng thời, các nguyên tử trường tồn thấp và đơn vị hạ trí là ‘trung tâm điều khiển’ mà các thái âm tổ phụ liên hệ tới.

51. We should remember the way that certain “mantra” sounded by the Solar Pitris is taken up and elaborated by the lunar pitris. This was discussed in an earlier Commentary.

51. Cần nhớ cách mà một số “mantram” do các Thái dương Tổ phụ xướng lên được các thái âm tổ phụ tiếp nhận và triển khai. Điều này đã được bàn trong một Bình luận trước.

At each incarnation, finer forms are required, and the formulas therefore grow more complicated, and the sounds on which they are based become more numerous. In time, the formulas are completed, and the lunar Pitris respond no more to the sounds or mantrams chanted on the mental plane. This is indicative of the stage of perfection, and shows that the three worlds have no more a downward pull for the jiva concerned. Desire for lower manifestation and experience has no more sway, and only conscious purpose is left. Then, and only then, can the true Mayavirupa be constructed; the Master then sounds the mantram for Himself, and builds without formulas in the three worlds. At the time too that man begins to tread the Probationary Path, the mantrams of the solar Angels begin to die down, and slowly (as the petals of the inner circle open up) the true Word emerges until the three enshrining petals burst open, and the central spark is revealed. Then the Word is fully known, and mantrams and formulas have no further use. Thus is the beauty of the scheme revealed. When the planetary Logos is concerned, the Word sounded on cosmic levels is being resolved into mantrams on the cosmic etheric planes, for He is in a position to create consciously on those levels; He works nevertheless through formulas on the dense physical planes of His scheme, our three worlds of endeavour. (TCF 772)

Ở mỗi lần nhập thể, các hình tướng tinh tế hơn được đòi hỏi, và vì thế các công thức trở nên phức tạp hơn, và các âm thanh làm nền tảng cho chúng trở nên phong phú hơn. Rồi đến lúc, các công thức hoàn tất, và các thái âm tổ phụ không còn đáp ứng những âm hay các mantram được xướng trên cõi trí.  Điều này biểu thị giai đoạn viên mãn, và cho thấy ba cõi giới không còn lực kéo đi xuống đối với vị jiva liên hệ. Dục vọng đối với biểu lộ và kinh nghiệm thấp không còn chi phối, và chỉ còn lại mục đích có ý thức. Khi ấy, và chỉ khi ấy, Mayavirupa chân chính mới có thể được kiến tạo; Chân sư bấy giờ tự xướng mantram cho Chính Ngài, và kiến tạo không cần công thức trong ba cõi, Cũng vào lúc con người bắt đầu bước trên Con Đường Dự Bị, các mantram của các Thái dương Thiên Thần bắt đầu lắng xuống, và dần dần (khi các cánh hoa của vòng trong khai mở) Linh từ chân chính trồi hiện cho đến khi ba cánh hoa bao bọc vỡ mở, và tia lửa trung tâm hiển lộ. Bấy giờ Linh từ được biết trọn vẹn, và mantram cùng công thức không còn ích dụng. Như thế vẻ đẹp của đề án được hiển bày. Khi Hành Tinh Thượng đế được xét đến, Linh từ được xướng ở các cấp vũ trụ đang được phân giải thành các mantram trên các cõi dĩ thái vũ trụ, vì Ngài ở trong vị thế có thể sáng tạo một cách tự ý thức trên các cấp đó; tuy nhiên Ngài vẫn làm việc qua các công thức trên các cõi hồng trần đậm đặc của Hệ của Ngài, tức ba cõi giới nỗ lực của chúng ta. (TCF 772)

We have enumerated above certain classifications of groups of Egos

Chúng ta đã liệt kê ở trên một số phân loại các nhóm Chân ngã

52. Not all, by any means—so runs the inference…

52. Dĩ nhiên chưa phải là tất cả—đó là hàm ý…

to be found on the causal levels of the mental plane, so as to give students some idea of the vastness of the subject, and the complexity of the problem.

được tìm thấy trên các cấp nguyên nhân của cõi trí, để cho các môn sinh ít nhiều ý niệm về sự mênh mông của chủ đề, và tính phức tạp của vấn đề.

53. Are we somewhat informed about the degree of complexity? Once again A Treatise on Cosmic Fire proves that it can induce a greatly broadened perspective.

53. Chúng ta đã phần nào được thông tri về độ phức tạp chăng? Một lần nữa, Luận về Lửa Vũ Trụ chứng tỏ rằng nó có thể khơi mở một tầm nhìn rộng lớn.

54. If we think our personality lives are complicated, we have only to think of the amazingly intricate group classifications of B/beings on higher planes, no limited to the higher mental plane, but beyond as well.

54. Nếu chúng ta cho rằng đời sống phàm ngã của mình đã phức tạp, thì chỉ cần nghĩ tới những phân loại nhóm kinh diệu và tinh vi của các Hữu thể trên các cõi cao hơn—không chỉ giới hạn ở cõi thượng trí, mà còn vượt hơn nữa.

55. DK calls our subject a “problem” and not merely a “subject”. Much that is problematic ‘below’, within the lower three worlds, probably has its roots in the great number of types of Egos ‘above’.

55. Chân sư DK gọi chủ đề của chúng ta là một “vấn đề” chứ không chỉ là một “đề tài”. Nhiều điều nan giải ‘bên dưới’, trong ba cõi thấp, có lẽ bắt nguồn từ vô vàn chủng loại các Chân ngã ‘bên trên’.

It must be remembered that on the third subplane of the mental plane there is no individual separa­tion such as we find when in physical manifestation, but neverthe­less group separation is to be seen.

Cần ghi nhớ rằng trên cõi phụ thứ ba của cõi trí không có sự phân cách cá nhân như chúng ta thấy khi ở trong biểu lộ hồng trần, nhưng Tuy nhiên sự phân biệt theo nhóm vẫn có thể thấy.

56. This is an interesting statement. Apparently the sense of individual separation is not to be sensed, yet the sense of “group separation” is to be noted.

56. Đây là một khẳng định thú vị. Rõ ràng cảm thức phân cách cá nhân không còn được cảm nhận, nhưng cảm thức “phân biệt giữa các nhóm” vẫn được ghi nhận.

57. When one enters the state of contemplation this type of unitive perception can be achieved.

57. Khi bước vào trạng thái chiêm ngưỡng, loại trực kiến hợp nhất này có thể đạt được.

58. However, does a human unit focussed on causal or egoic levels not have a sense of, shall we say, ‘distinctness within the field of unity’? The sense of being a unit of a certain quality amidst many units of distinctive qualities is not necessarily a sense of separation.

58. Tuy nhiên, liệu một đơn vị nhân loại chú tâm trên các cấp nguyên nhân hay chân ngã không có một cảm thức, chúng ta tạm gọi là, ‘tính biệt dị trong trường nhất thể’? Cảm thức là một đơn vị với phẩm tính nhất định giữa muôn đơn vị có phẩm tính dị biệt không nhất thiết là cảm thức về phân cách,

These groups are far too many to enumerate in detail.

Những nhóm này quá nhiều nên không thể liệt kê chi tiết.

59. How interesting it would be to become acquainted with these differentiations! Yet, knowledge for its own sake can be a trap. As such information is needed, one suspects, it will be made available.

59. Thật thú vị biết bao nếu được làm quen với các biến phân ấy! Tuy nhiên, tri thức chỉ vì tri thức có thể là một cạm bẫy. Khi cần đến, suy theo lẽ thường, thông tin như thế sẽ được ban phát.

We have outlined and named five of the larger groups as catalogued under [855] one scheme of tabulation in the Hall of Records.

Chúng ta đã phác lược và đặt tên năm nhóm lớn như đã biên mục theo [855] một sơ đồ lập bảng trong Phòng Biên Lục,

60. All depends upon one’s perspective. Examined from a different angle, the enumeration and groupings will be different.

60. Tất cả tùy vào góc nhìn. Nhìn từ một góc khác, cách liệt kê và nhóm lại sẽ khác.

61. Reviewing, the groupings are:

61. Nhắc lại, các nhóm là:

a. Egos individualized in Lemurian days

a. Các chân ngã biệt ngã hóa vào thời Lemuria

b. Egos individualized in Atlantean days

b. Các chân ngã biệt ngã hóa vào thời Atlantis

c. Moon chain Egos

c. Các chân ngã Dãy Mặt Trăng

d. Egos from two planetary schemes which with our Earth-scheme make a triangle

d. Các chân ngã từ hai hệ hành tinh mà cùng với Hệ Địa Cầu của chúng ta tạo thành một tam giác

e. Egos which, under rare circumstances, come in from still other planetary schemes and may work primarily upon the astral and mental planes, not taking physical incarnation at all.

e. Những chân ngã, theo các hoàn cảnh hiếm hoi, đi vào từ các hệ hành tinh khác nữa và có thể hoạt động chủ yếu trên các cõi cảm dục và trí, không hề nhập thể hồng trần.

Other methods of enumeration exist, and even under the one here used, these five groups are each subdivided into ten groups, and these again are broken up into lesser units, all of them being known and portrayed under certain symbols.

Các phương pháp liệt kê khác cũng hiện hữu, và ngay cả theo phương pháp ở đây, năm nhóm này mỗi nhóm lại được phân thành mười nhóm , rồi lại được phân nhỏ hơn nữa, tất cả đều được biết và được mô tả bằng một số biểu tượng nhất định.

62. Amazing thought! Do we really think we can study occultism without the benefit of an acute mind?

62. Quả là một tư tưởng đáng kinh ngạc! Chúng ta thực sự nghĩ rằng có thể học huyền bí học mà không có một thể trí tinh tế ư?

63. Perhaps some dim sense of these intricate differentiations can be gathered from the intimate and abiding contacts we make on the physical plane.

63. Có lẽ một chút cảm nhận mờ nhạt về những phân biệt tinh vi ấy có thể nảy sinh từ các mối liên lạc thân mật và bền bỉ mà chúng ta thiết lập nơi cõi hồng trần.

When we come to the second subplane of the mental plane (the plane whereon the egoic bodies of advanced humanity, of disci­ples, and of initiates are found) the method of grouping will be according to:

Khi đến cõi phụ thứ hai của cõi trí (cõi mà trong đó các thể nguyên nhân của nhân loại tiến bộ , của các đệ tử và của các điểm đạo đồ được thấy) thì phương pháp nhóm sẽ căn cứ vào:

64. Notice that “advanced humanity” is included along with disciples and initiates. It may be questioned whether advanced humanity has achieved the first initiation (at which time, many have supposed, the causal body is refocussed upon second subplane of the mental plane).

64. Lưu ý rằng “nhân loại tiến bộ” được kể cùng với đệ tử và điểm đạo đồ. Có thể đặt vấn đề liệu “nhân loại tiến bộ” đã đạt lần điểm đạo thứ nhất (mà nhiều người vẫn cho là thời điểm thể nguyên nhân được tái chỉnh tâm lên cõi phụ thứ hai của cõi trí).

65. Of course, the term “advanced humanity” may include aspirants and those who are becoming spiritually aware. In general, however, we may suppose that the causal body ‘moves’ to the second subplane sometime before the first initiation.

65. Dĩ nhiên, thuật ngữ “nhân loại tiến bộ” có thể gồm cả những người chí nguyện và những ai đang trở nên tự thức tinh thần. Tuy nhiên, nói chung, chúng ta có thể cho rằng thể nguyên nhân ‘chuyển’ lên cõi phụ thứ hai đôi chút trước lần điểm đạo thứ nhất.

66. Is this type of grouping (tabulated below) not followed in the differentiation to be found on the third subplane? DK seems to infer that it is not.

66. Kiểu nhóm (liệt kê dưới đây) này không theo ở cõi phụ thứ ba chăng? Chân sư DK dường như gợi rằng là không.

a. Ray.

a. Cung.

b. Subray.

b. Cung phụ.

67. We should not assume that the “subray” is necessarily the personality ray. it can be hypothesized with reason that the egoic subray is to be found on egoic levels—i.e., sourced from the higher mental plane.

67. Chúng ta không nên mặc định rằng “cung phụ” nhất thiết là cung phàm ngã. Có thể giả thuyết với lý do rằng cung phụ chân ngã hiện diện trên các cấp chân ngã—tức có nguồn từ cõi thượng trí.

68. Every distinction listed in this fourfold tabulation seems to be taking place on the higher mental plane.

68. Mọi phân biệt trong bốn điểm liệt kê này dường như diễn ra trên cõi thượng trí.

c. Department (whether under the Manu, the Mahachohan or the Bodhisattva on our earth scheme or their analogies on other schemes).

c. Bộ phận (dưới quyền Đấng Manu, Đức MahaChohan hay Đức Christ trên Hệ Địa Cầu của chúng ta, hoặc các đối phần của Các Ngài trên các hệ khác).

69. We note that the departmental classification precedes the ashramic classification.

69. Chúng ta ghi nhận rằng phân loại theo “bộ phận” đứng trước phân loại theo ashram.

70. In one way, the third, fourth, fifth, sixth and seventh ray Ashrams are all in the department of the Mahachohan. Egos from all five of these Ashrams have something in common even before their differentiation into five distinct types.

70. Theo một nghĩa, các Ashram cung ba, bốn, năm, sáu và bảy đều trực thuộc bộ phận của Đức MahaChohan. Các Chân ngã từ cả năm Ashram này có điểm chung trước khi phân biệt thành năm loại đặc thù.

71. We also note that the Three Departmental Heads have Their counterparts on other planetary schemes. For instance, representatives of the Cosmic Christ (such as our Christ, Lord Maitreya, is) can also be found on other planetary schemes.

71. Chúng ta cũng lưu ý rằng Ba Vị Đứng Đầu Bộ phận có Các Đối phần của Các Ngài trên các hệ hành tinh khác. Chẳng hạn, các đại diện của Đức Christ Vũ trụ (như Đức Christ của chúng ta, Đức Bồ Tát Maitreya) cũng có thể được thấy trên các hệ hành tinh khác.

d. The Master’s group.

d. Nhóm của Vị Chân sư.

72. By this, presumably, is meant the Master’s Ashram.

72. Ở đây, có lẽ, muốn nói tới Ashram của Chân sư.

These egoic lotuses are all organised, and have a number of petals unfolded whilst some are in the final stages of develop­ment.

Những hoa sen chân ngã này đều đã được tổ chức, và có một số cánh hoa đã khai mở trong khi một số khác đang ở giai đoạn cuối của quá trình phát triển.

73. We are certainly not speaking of “Bud Egos” nor of the most undeveloped Egos (Brahmic Lotuses, for instance).

73. Rõ ràng chúng ta không nói về “các Hoa Sen Nụ” cũng không nói về những Chân ngã kém khai mở (chẳng hạn các Hoa Sen Brahman sơ thời).

74. When we are told that these lotuses are “all organised” are we to infer that even the sacrifice tier is organised? This would seem excessive with respect to those lotuses that have only a few petals open. In other words, do ‘Atlantean Lotuses” with, let us say, only two petals completely unfolded, have the sacrifice tier organized? One would think not. On the Path of Probation only the second tier is organized, not the third.

74. Khi nói rằng các hoa sen này “đều đã được tổ chức”, liệu chúng ta có nên hiểu rằng ngay cả tầng hy sinh cũng đã được tổ chức? Điều này dường như quá mức đối với các hoa sen chỉ mới mở vài cánh. Nói cách khác, liệu các “Hoa Sen Atlantis” với, thí dụ, chỉ hai cánh hoàn toàn khai mở, đã có tầng hy sinh được tổ chức chưa? Có lẽ là chưa. Trên Con Đường Dự Bị, chỉ tầng thứ hai được tổ chức, không phải tầng thứ ba.

75. It would seem more likely that at least the second tier is organized or in process of organization for the five types of lotuses discussed above. One could wonder however, about the lotuses which were created through individualization in Atlantean times. Has there been enough time for such organization.

75. Có vẻ hợp lý hơn khi cho rằng tối thiểu tầng thứ hai đã được tổ chức hoặc đang trong tiến trình tổ chức đối với năm loại hoa sen nói ở trên. Tuy nhiên, vẫn có thể tự hỏi về các hoa sen vốn được tạo ra qua sự biệt ngã hóa vào thời Atlantis. Liệu thời gian qua có đủ cho việc tổ chức như thế chưa.

They have also been grouped under the following three heads:

Chúng còn được nhóm lại theo ba đầu đề sau:

Lotuses of revelation. Those in which the “jewel” is just about to be revealed.

Những hoa sen của mặc khải. Những hoa sen mà “bảo châu” sắp được hiển lộ.

76. As it is the task of the third degree initiate to make revelation of the Monad, and as the “jewel” is only revealed following the third initiation, we can look at this type of lotus as indicating the period from the onset of the third initiation to the fourth.

76. Vì nhiệm vụ của điểm đạo đồ bậc ba là làm mặc khải về Chân thần, và “bảo châu” chỉ được hiển lộ sau lần điểm đạo thứ ba, nên chúng ta có thể xem loại hoa sen này như chỉ giai đoạn từ khi khởi điểm lần điểm đạo thứ ba cho đến lần thứ tư.

When the third initiation is taken the initiate becomes aware, not only of the significance of the command to Know and of his innate ability to Express the will nature of the monad in carrying out the Purpose of Shamballa, but that (through his fused personality-soul) he is now in a position to “make revelation” to the Hierarchy that he is en rapport with the monadic source from which he originally came. He can now obey the command to Reveal, because the Transfiguration is consummated. He is not now revealing the soul only, but all the three aspects now meet in him and he can reveal the life aspect as will and not only the soul aspect as love or the matter aspect as intelligence. (R&I 316)

Khi lần điểm đạo thứ ba được trải qua, điểm đạo đồ trở nên tự thức, không chỉ về thâm nghĩa của mệnh lệnh Hãy Biết và năng lực bẩm sinh để Biểu lộ phương diện ý chí của chân thần trong việc thực hiện Thiên Cơ của Shamballa, mà còn (thông qua phàm ngã–linh hồn đã dung hợp) y nay ở trong vị thế để “làm mặc khải” cho Huyền Giai rằng y đã tương thông với cội nguồn chân thần từ đó thuở ban đầu y phát xuất. Bấy giờ y có thể vâng mệnh Hãy Mặc Khải, vì cuộc Biến hình đã được viên mãn. Lúc này y không chỉ mặc khải linh hồn, mà cả ba phương diện nay hội tụ trong y và y có thể mặc khải phương diện sự sống như là ý chí, chứ không chỉ phương diện linh hồn như là bác ái hay phương diện vật chất như là trí tuệ. (R&I 316)

Lotuses with perfume. Those whose occult “smell” or aroma is permeating their environment. They are those Egos who have not yet completely unfolded the final tier of petals, but whose lives are of magnetic force in the three worlds, and whose careers are distinguished by altruistic service.

Những hoa sen có hương. Những hoa sen mà “mùi hương” huyền bí hay hương thơm thấm nhập môi trường của chúng. Đây là các Chân ngã chưa hoàn tất khai mở tầng cánh hoa cuối cùng, nhưng đời sống của họ là những đời sống mang từ tính trong ba cõi, và sự nghiệp của họ nổi bật bởi phụng sự vị tha.

77. These lotuses are in process of unfolding the final tier of petals (which, in this case, is the sacrifice tier) but they have not yet reached the period of the third initiation.

77. Những hoa sen này đang trong tiến trình khai mở tầng cánh hoa cuối (trong trường hợp này là tầng hy sinh) nhưng họ chưa đạt tới giai đoạn điểm đạo thứ ba.

78. Given the emphasis upon magnetism, one could think that the period of the second initiation is indicated. The magnetic astral body is the special field of cultivation at the second initiation; it is to become a reflector of the buddhic plane and a vehicle of expression for the energy of buddhi—i.e., of love.

78. Xét sự nhấn mạnh vào từ tính, có thể nghĩ rằng giai đoạn điểm đạo thứ hai được chỉ thị. Thể cảm dục mang từ tính là lĩnh vực tu dưỡng đặc biệt ở lần điểm đạo thứ hai; nó phải trở thành tấm gương của cõi Bồ đề và là hiện thể biểu lộ năng lượng Bồ đề—tức là Tình thương.

79. When looking at the vegetable kingdom ruled by rays two, four and six, the second ray is especially associated with perfume, just as the fourth ray with color and the sixth ray to the ‘aspiration’ of the uprising stem.

79. Khi nhìn giới thực vật do các cung hai, bốn và sáu cai quản, cung hai đặc biệt liên hệ với hương thơm, cũng như cung bốn với màu sắc và cung sáu với ‘khát vọng’ của thân vươn lên.

80. When the necessary changes in the astral body have occurred (indicating the period of the second initiation) the disciple can express himself altruistically in the environment through the power of “magnetic force”.

80. Khi những chuyển hóa cần thiết trong thể cảm dục đã xảy ra (biểu trưng cho giai đoạn điểm đạo thứ hai) người đệ tử có thể biểu lộ mình một cách vị tha trong môi trường thông qua “mãnh lực từ tính”.

Radiant lotuses, or those whose light is beginning to shine forth as lights in a dark place.

Những hoa sen xạ quang, tức những hoa sen có ánh sáng đang bắt đầu tỏa chiếu như những ngọn đèn nơi chốn tăm tối.

81. As for the “radiant lotuses”, the period between the full opening of the fifth petal and the increasing opening of the seventh would seem indicated. The fifth petal is fully unfolded at the first initiation; the sixth petal is rapidly unfolding, and it can be presumed that the seventh petal has been touched by the Rod of Initiation and is unfolding.

81. Đối với “hoa sen xạ quang”, có vẻ chỉ giai đoạn giữa lúc cánh hoa thứ năm khai mở trọn vẹn và cánh hoa thứ bảy ngày càng mở rộng. Cánh hoa thứ năm khai mở trọn vẹn ở lần điểm đạo thứ nhất; cánh hoa thứ sáu khai mở nhanh chóng, và có thể giả định rằng cánh hoa thứ bảy đã được Thần Trượng Điểm đạo chạm đến và đang khai mở.

82. If with the unfoldment of the fifth petal a man can be a “genius”, his light is certainly beginning to shine forth “in a dark place”. This shining forth naturally continues to the third and into the fourth initiation (and beyond, but no through the medium of an egoic lotus).

82. Nếu với sự khai mở cánh hoa thứ năm, một người có thể là “thiên tài”, thì ánh sáng của y hẳn đang bắt đầu tỏa chiếu “nơi chốn tăm tối”. Sự chiếu sáng này tự nhiên tiếp tục đến lần điểm đạo thứ ba và vào lần thứ tư (rồi tiếp nữa, nhưng không còn qua môi giới của hoa sen chân ngã).

83. It is interesting that in the famous mantram of the third initiation—“Let the Holy Ones Whose pupils we aspire to become, show us the Light we seek…etc.”, the phrase “shine forth” is distinctly used.

83. Thật thú vị là trong mantram nổi tiếng của lần điểm đạo thứ ba—“Nguyện Các Đấng Thánh, mà chúng ta mong làm môn sinh, chỉ cho chúng ta Ánh sáng mà chúng ta kiếm tìm… v.v.”, cụm từ “shine forth/tỏa chiếu” được dùng một cách minh định.

84. The period from the Path of Probation to the second initiation is one which is given to the intensification of the light. That intensification continues, but an intensification of love is added to it with the second initiation, and then the intensification of will towards the third (though love and light continue to be intensified).

84. Giai đoạn từ Con Đường Dự Bị đến lần điểm đạo thứ hai là một giai đoạn dành cho việc tăng cường ánh sáng, Sự tăng cường ấy tiếp diễn, nhưng được gia thêm sự tăng cường của Tình thương ở lần điểm đạo thứ hai, rồi đến sự tăng cường của Ý chí hướng tới lần thứ ba (dẫu Tình thương và Ánh sáng vẫn còn tiếp tục được tăng cường).

They are grouped also according to primary colour, to subsidiary colouring, according to key or tone, and one tabulation is entirely numerical.

Chúng còn được nhóm theo màu sơ cấp, theo màu phụ, theo khóa hay âm, và có một bảng lập hoàn toàn theo con số.

85. Let us tabulate the indicated grouping, according to—

85. Chúng ta hãy liệt kê các nhóm như đã chỉ:

a. Primary colour. This will indicate the major ray of the Ego.

a. Màu sơ cấp. Điều này sẽ chỉ ra cung chính của Chân ngã.

b. Subsidiary colour. This may indicate the subray of the Ego.

b. Màu phụ. Điều này có thể chỉ ra cung phụ của Chân ngã.

c. Key. This is the musical note on which the primary color or major egoic ray is expressed. There will also be a musical note for the subsidiary color and subray of the Ego.

c. Khóa (key). Đây là nốt chủ trên đó màu sơ cấp hay cung chính của chân ngã được biểu lộ. Cũng sẽ có một nốt cho màu phụ và cung phụ của Chân ngã.

d. Tone. Tone may mean the same as “key”, but the question of the quality or timbre of the tone enters. This has much to do with the effectiveness of the causal body as a resonator.

d. Âm (tone). Âm có thể đồng nghĩa với “khóa”, nhưng câu chuyện về phẩm tính hay hòa âm sắc của âm điệu xuất hiện. Điều này liên quan nhiều đến hiệu lực của thể nguyên nhân như một buồng cộng hưởng.

86. The numerical tabulation may reflect ray structure, or may reflect groupings according to specific multiples of 7, such as 35, 28, 21, 14, etc.

86. Bảng lập theo số có thể phản ánh cấu trúc cung, hoặc phản ánh các nhóm theo những bội số đặc thù của 7, như 35, 28, 21, 14, v.v.

87. Suffice it to say, there is order in the heavens and our task is, increasingly, to apprehend that order and organize that which is below according to that order.

87. Chỉ cần nói rằng, trong cõi trời có trật tự, và nhiệm vụ của chúng ta, ngày càng, là lĩnh hội trật tự đó và tổ chức cái ở dưới theo trật tự ấy.

It might be of interest [856] to the student if we here pointed out that in the Hall of Records in connection with the human Egos certain of the records under symbological termino­logy keep a minute account of the following facts concerning each unit:

Có thể gây hứng thú [856] cho đạo sinh nếu chúng tôi chỉ ra ở đây rằng trong Phòng Biên Lục liên quan đến các Chân ngã nhân loại, một số hồ sơ dưới dạng thuật ngữ biểu tượng ghi chép tường tận các sự kiện sau liên quan đến từng đơn vị:

88. We must note that the account kept is not general but “minute”. There is the most acute supervision and administration. It would seem that every turn and phase of the entire evolutionary process has been noted and accounted for.

88. Chúng ta phải lưu ý rằng hồ sơ được lưu giữ không phải là tổng quát mà là “chi tiết tỉ mỉ”. Có một sự giám sát và quản trị hết sức chặt chẽ. Có vẻ như mọi bước ngoặt và mọi giai đoạn của toàn bộ tiến trình tiến hoá đều đã được ghi nhận và tính đến.

89. The symbolism would be fascinating. Phases of development are obviously symbolized and the essence of any particular phase revealed.

89. Biểu tượng học sẽ vô cùng hấp dẫn. Các giai đoạn phát triển rõ ràng được biểu tượng hoá và bản chất của bất kỳ giai đoạn nào cũng được bộc lộ.

The lunar record. This deals with all the lower vehicles and forms, employed by the human Monads and concerns itself with:

Hồ sơ nguyệt, Đây là hồ sơ xử lý mọi vận cụ và hình tướng thấp được các chân thần nhân loại dùng đến, và lưu tâm đến:

90. We see that even the lowest vehicles are expressions of the human Monad.

90. Chúng ta thấy rằng ngay cả các vận cụ thấp nhất cũng là biểu lộ của chân thần nhân loại.

a. Their rate of vibration,

a. Nhịp rung của chúng,

91. Vibration increases until all matter within these lower vehicles is atomic matter (except, of course, for the mental vehicle).

91. Rung động tăng dần cho đến khi mọi vật chất trong các vận cụ thấp này đều là vật chất nguyên tử (trừ, dĩ nhiên, vận cụ trí).

b. Their type,

b. Loại của chúng,

92. By this, can DK mean their ray?

92. Ở đây, Chân sư DK có muốn nói tới cung của chúng chăng?

93. Or are we simply speaking of the distinctions between physical-etheric, astral and mental lunar vehicles?

93. Hay chúng ta chỉ đang nói về các phân biệt giữa những vận cụ hồng trần–dĩ thái, cảm dục và trí thuộc nguyệt tính?

94. As well, there may be a typology of which we know nothing.

94. Đồng thời, có thể có một loại hình học mà chúng ta chưa biết.

c. Their key number,

c. Số khóa của chúng,

95. This may have something to do with the frequency to which these vehicles are vibrating.

95. Điều này có thể liên hệ đến tần số mà các vận cụ ấy rung động.

96. When the word “key” is used, there may also be musical implications. The key determines the rate or frequency of vibration. Music and mathematics, we know, are inseparable.

96. Khi dùng từ “khóa”, cũng có thể hàm ý âm nhạc. Khóa xác định nhịp hay tần số rung. Âm nhạc và toán học, như ta biết, bất khả phân.

d. The particular group of lunar Lords who are concerned with those bodies,

d. Nhóm cụ thể của các nguyệt tinh quân chịu trách nhiệm các thể ấy,

97. The “lunar lords” are not the “elemental lives”. The three lower lunar lords remain associated throughout the evolution of the human being. They are, in this respect, a group. The same group of lunar lords is recalled into service time and time again, at the onset of each incarnation.

97. “Các nguyệt tinh quân” không phải là “các sự sống hành khí”. Ba nguyệt tinh quân thấp vẫn gắn bó với con người suốt tiến trình tiến hóa. Theo nghĩa này, họ là một nhóm. Cùng một nhóm nguyệt tinh quân được gọi trở lại phục vụ hết lần này đến lần khác, vào lúc khởi đầu mỗi lần nhập thể.

98. From this it must be evident that the “lunar lords” are one thing and the “bodies” they inform and influence quite another. This type of distinction should be carefully held in mind.

98. Từ đó, phải rõ rằng “các nguyệt tinh quân” là một chuyện và “các thể” mà họ thấm nhuần và chi phối lại là chuyện khác. Cần giữ kỹ lưỡng phân biệt này trong tâm.

e. The detailed history of the elemental lives who construct the bodies.

e. Lịch sử chi tiết của các sự sống hành khí kiến tạo nên các thể.

99. The elemental lives, in this context, are the tiny, lesser lives or, from one perspective, “lesser builders”. They too, so it seems, remain associated with the manifesting human being life after life.

99. Trong ngữ cảnh này, các sự sống hành khí là những sinh linh li ti, hay nhìn từ một góc, là “những tiểu kiến trúc sư”. Có vẻ như họ cũng gắn bó với hữu ngã nhập thế hết đời này qua đời khác.

This information is employed by the karmic official responsible for the production of a new set of vehicles at each incarnation, in order to assist the working out of karma.

Thông tin này được vị viên chức nghiệp quả chịu trách nhiệm tạo ra một bộ vận cụ mới ở mỗi lần nhập thể sử dụng , hầu trợ giúp sự triển khai của nghiệp quả.

100. The type of information required must be staggeringly complex. However, there are, it seems, many ‘training stations’ along the way to becoming a higher Karmic Lord.

100. Kiểu thông tin cần có hẳn phức tạp đến choáng ngợp. Tuy nhiên, dường như có nhiều ‘trạm huấn luyện’ dọc đường để trở thành một vị Đại Quan Nghiệp Quả.

101. Form is not moulded by chance. The construction of our vehicles is prepared with minute attention to detail.

101. Hình tướng không được nặn đúc ngẫu nhiên. Việc kiến tạo các vận cụ của chúng ta được chuẩn bị với sự lưu tâm tường tận đến từng chi tiết.

The history of the lunar bodies is stored up in the permanent atoms.

Lịch sử của các thể nguyệt được lưu trữ trong các nguyên tử trường tồn.

102. This is something a platitude. The permanent atom is, so to speak, the ‘ultimate memory chip’.

102. Điều này xem ra là một điều hiển nhiên. Nguyên tử trường tồn, có thể nói, là ‘chip ký ức tối hậu’.

103. That history is minutely recorded. Nothing is left to chance.

103. Lịch sử ấy được ghi chép tường tận. Không gì bị phó mặc cho may rủi.

The solar record. This deals with the more permanent egoic vehicle, and concerns itself with:

Hồ sơ thái dương, Đây là hồ sơ xử lý vận cụ chân ngã bền lâu hơn, và lưu tâm đến:

a. The rate of vibration.

a. Nhịp rung.

104. The causal body must have its own rate of vibration and its note.

104. Thể nguyên nhân hẳn có nhịp rung và âm điệu riêng của nó.

105. Notice that the egoic vehicle is simply called “more permanent”, but hardly permanent.

105. Lưu ý rằng vận cụ chân ngã chỉ được gọi là “bền lâu hơn”, chứ khó thể là ‘trường cửu’.

b. The history of the petal unfoldment.

b. Lịch sử khai mở các cánh hoa.

106. This history is not entirely generic. Idiosyncrasies exist and each process of petal unfoldment is, ultimately, distinctive.

106. Lịch sử này không hoàn toàn mang tính khái quát. Có những đặc tính riêng và mỗi tiến trình khai mở cánh hoa, rốt cuộc, đều mang nét đặc thù.

c. The history of any particular group of solar Angels concerned with the formation of the lotus.

c. Lịch sử của bất kỳ nhóm Thái dương Thiên Thần nào liên quan đến sự hình thành của hoa sen.

107. Each human being is served by a group of lunar lords and also by a group of “solar Angels”. This deserves pondering.

107. Mỗi con người được một nhóm nguyệt tinh quân và đồng thời một nhóm “Thái dương Thiên Thần” phụng sự. Điều này đáng để suy ngẫm.

108. Solar Angels come in many varieties and their appearance in the higher and solar nature of man is a group experience.

108. Các Thái dương Thiên Thần có nhiều chủng loại, và sự xuất hiện của Các Ngài trong bản tính cao và bản tính Thái dương nơi con người là một trải nghiệm nhóm,

109. It would seem that the formation of the lotus is a group project, undertaken as such from the outset.

109. Có vẻ như việc hình thành hoa sen là một dự án nhóm, được đảm đương như thế ngay từ đầu.

d. The activity of the deva substance out of which the lotus is constructed.

d. Hoạt động của chất liệu thiên thần mà từ đó hoa sen được cấu tạo.

110. Here is an important point. We must not confuse the Solar Angels Who substand the egoic lotus with the “deva substance” from which it is constructed.

110. Ở đây có một điểm quan trọng. Chúng ta không được lẫn lộn giữa các Thái dương Thiên Thần, Những Vị làm nền tảng cho hoa sen chân ngã, với “chất liệu thiên thần” từ đó nó được kiến trúc.

111. Really, these are two kinds of energies, one of them far greater, and substanding and moulding the other.

111. Thực ra, đây là hai loại năng lượng: một loại thì lớn lao hơn rất nhiều, làm nền tảng và uốn nắn loại kia.

e. Group relationships.

e. Các mối liên hệ nhóm.

112. By this may be meant relations of Egos within an egoic group.

112. Với điều này, có thể muốn nói đến các mối liên hệ giữa các Chân ngã trong một nhóm chân ngã.

This information is used by the Master Who has made Himself responsible for the stimulation and the growth of any particular series of Egos,

Thông tin này được Chân sư, Đấng đã tự nhận trách nhiệm về sự kích thích và sự tăng trưởng của bất kỳ chuỗi Chân ngã đặc thù nào , sử dụng,

113. It is important to note that the Master makes himself responsible for a series of Egos rather than a series of personalities. He is to stimulate the Egos and see to their growth. We see this in the manner in which Master DK undertook the training of certain “willing aspirants”.

113. Cần lưu ý rằng Chân sư tự nhận trách nhiệm đối với một chuỗi các Chân ngã hơn là một chuỗi các phàm ngã. Ngài kích thích các Chân ngã và chăm nom sự tăng trưởng của chúng. Chúng ta thấy điều này trong cách Chân sư DK đảm đương việc huấn luyện một số “người chí nguyện sẵn lòng”.

and also by advanced Egos who are consciously working with their group.

và cũng được các Chân ngã tiến bộ, những vị đang tự ý thức làm việc với nhóm của mình, sử dụng.

114. This type of stimulation is not wielded only by Masters. “Advanced Egos” are also responsible in this manner, though to a lesser degree.

114. Loại kích thích này không chỉ do các Chân sư vận dụng. “Các Chân ngã tiến bộ” cũng lãnh trách nhiệm theo cách này, tuy ở mức độ thấp hơn.

115. We have spoken, thus far of the “lunar record” and “solar record” and now we enter upon the “consciousness record”.

115. Cho đến đây, chúng ta đã nói về “hồ sơ nguyệt” và “hồ sơ Thái dương”, và giờ chúng ta bước vào “hồ sơ tâm thức”.

The consciousness record. This concerns the response of the indwelling Entity to its surroundings. It deals [857] with the utilisation of knowledge by the knower, and is in many ways the most intricate and the most lengthy of the records.

Hồ sơ tâm thức. Điều này liên quan đến sự đáp ứng của Đơn vị cư trụ bên trong đối với môi trường quanh mình. Nó đề cập [857] đến việc vận dụng tri thức bởi thức giả, và theo nhiều phương diện là hồ sơ tinh vi nhất và dài lâu nhất.

116. We can imagine the subtlety of this kind of record, for consciousness is an ‘intangible’. In this case we are not dealing with substance as in the first two. If consciousness is to be deemed substantial, it is certainly substantial in a sense different from the substantiality of subtle energy-substance or force-substance.

116. Chúng ta có thể hình dung độ vi tế của loại hồ sơ này, vì tâm thức là một cái ‘phi vật thể’. Trong trường hợp này chúng ta không đang đề cập đến chất liệu như ở hai loại trước. Nếu tâm thức được xem là có tính chất vật chất, thì hẳn là theo một nghĩa khác với tính vật chất của chất-liệu-năng-lượng vi tế hay chất-liệu-lực.

117. The indwelling soul is the object of attention when attempting to keep and interpret the “consciousness record”.

117. Linh hồn cư trụ bên trong là đối tượng được chú tâm khi tìm cách lưu giữ và diễn giải “hồ sơ tâm thức”.

These records are mostly used by the Lord of the World and His pupils to ascertain information in connection with the planetary centres.

Những hồ sơ này phần lớn được Đức Chúa Tể Thế Giới và các môn sinh của Ngài sử dụng để xác minh thông tin liên hệ đến các trung tâm hành tinh.

118. When DK uses the term “these records”, does He mean all three of those just discussed, or only the “consciousness record”?

118. Khi Chân sư DK dùng cụm “những hồ sơ này”, liệu Ngài muốn nói đến cả ba loại vừa bàn, hay chỉ “hồ sơ tâm thức”?

119. We are learning that the records are related to Shamballic process, for the Lord of the World is involved.

119. Chúng ta đang biết rằng các hồ sơ này liên hệ tới tiến trình Shamballa, vì Đức Chúa Tể Thế Giới có phần trong đó.

120. Of course, the “pupils” of the Lord of the World are not only to be found in Shamballa, but within the ranks of Hierarchy, so we cannot be sure of who it is accessing the records.

120. Dĩ nhiên, “các môn sinh” của Đức Chúa Tể Thế Giới không chỉ có ở Shamballa mà còn trong hàng ngũ Thánh Đoàn, nên chúng ta không thể chắc ai là người tiếp cận các hồ sơ.

121. The planetary centres are formed by Monads (at least the higher ones on the monadic plane). The Lord of the World may wish to understand the quality of expression of certain Monads in incarnation, and may gather the information through a close study of the lunar record, the solar record and the consciousness record.

121. Các trung tâm hành tinh được cấu thành bởi các chân thần (ít nhất là các vị cao hơn trên cõi chân thần). Đức Chúa Tể Thế Giới có thể muốn thấu hiểu phẩm tính biểu lộ của một số Chân thần đang lâm phàm, và có thể thu thập thông tin bằng việc nghiên cứu kỹ “hồ sơ nguyệt”, “hồ sơ Thái dương” và “hồ sơ tâm thức”.

They are arranged in such a way that the entire record of any group, however vast and extensive, is embodied in seven sheets of symbols, each containing forty-nine symbols.

Chúng được sắp đặt theo cách mà toàn bộ hồ sơ của bất kỳ nhóm nào , dẫu rộng lớn và bao quát đến đâu, đều được hàm chứa trong bảy tờ các ký hiệu, mỗi tờ gồm bốn mươi chín ký hiệu.

122. This compression is a great example of the Law of Economy in action.

122. Sự cô đọng này là một ví dụ lớn lao cho Định luật Tiết Kiệm đang vận hành.

123. Here VSK reminds us that this is 7 x 49 = 343.

123. Ở đây VSK nhắc chúng ta rằng đó là 7 x 49 = 343.

124. There are many, many groups and yet it seems that each is fully explained through forty-nine symbols.

124. Có vô số nhóm, thế nhưng dường như mỗi nhóm đều được giải trình trọn vẹn qua bốn mươi chín ký hiệu.

125. Is not the Divine Plan ‘written’ on sheets of such symbols?

125. Há chẳng phải Thiên Cơ được ‘ghi chép’ trên những tờ ký hiệu như thế sao?

126. The Masters have effective ways of communicating vast quantities of information in the most essentialized form.

126. Các Chân sư có những phương thức hữu hiệu để truyền đạt những khối lượng thông tin bao la dưới dạng tinh yếu nhất.

These sheets are changed and corrected once every seven years, and are precipitated on astral matter by an effort of will by the Chohan responsible for the particular group involved.

Những tờ này được thay đổi và hiệu đính mỗi bảy năm một lần, và được ngưng tụ trên chất liệu cảm dục bằng một nỗ lực ý chí của vị Chohan chịu trách nhiệm cho nhóm cụ thể liên hệ,

127. We are being instructed concerning certain occult methods which are designed to register the progress of any group. It would be unusual if this method were not related to the “Law of Group Progress”.

127. Chúng ta đang được chỉ dạy về một số phương pháp huyền bí được thiết kế để ghi nhận tiến bộ của bất kỳ nhóm nào. Sẽ là lạ nếu phương pháp này không liên hệ đến “Định luật Tiến bộ Nhóm”.

128. We gather that those who can with accuracy read the “akashic record” will be able to interpret the records of such groups.

128. Chúng ta hiểu rằng những ai có thể đọc “ký lục akashic” một cách chính xác sẽ có thể diễn giải những hồ sơ của các nhóm như vậy.

Scroll to Top