Bình Giảng về Lửa Vũ Trụ S7S11 Part II (871-876)

TCF 871-876 Part II

17 – 31 August 2008

17 – 31 Tháng 8 2008

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Phần lớn văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt cỡ chữ 16, để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong giờ học. Chú thích và tham chiếu từ các Sách khác của AAB và từ các trang khác của TCF được đặt cỡ chữ 14. Lời bình xuất hiện ở cỡ chữ 12. Gạch chân, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph. So please read an entire paragraph and then study the Commentary

Đề nghị đọc Bản Bình Giải này kèm theo sách TCF để bên cạnh, vì sự liên tục. Khi phân tích văn bản, nhiều đoạn được chia nhỏ, và cách trình bày súc tích trong chính cuốn sách sẽ chuyển tải ý nghĩa tổng thể của đoạn văn. Vì vậy, xin hãy đọc trọn một đoạn rồi hãy học Bản Bình Giải

In each case of petal unfoldment, certain types of force are gener­ated, dealt with, assimilated, and used, at first unconscious­ly and finally with full intelligence.

Trong mỗi trường hợp khai triển cánh hoa, những loại mãnh lực nhất định được tạo ra, được đề cập đến, được đồng hóa, và được sử dụng, ban đầu một cách vô thức và sau rốt với đầy đủ trí tuệ.

1. DK is telling us about force dynamics during petal unfoldment: There occurs—

1. Chân sư DK đang nói với chúng ta về động lực học của mãnh lực trong lúc khai triển cánh hoa: Có xảy ra—

a. The generation of forces

a. Sự phát sinh các mãnh lực

b. Dealing with the forces generated

b. Việc ứng xử với các mãnh lực được tạo ra

c. Assimilation of the forces generated and dealt with

c. Sự đồng hóa các mãnh lực đã phát sinh và đã được ứng xử

d. The utilization of such forces (at first unconsciously and then consciously with full intelligence)

d. Sự sử dụng các mãnh lực ấy (ban đầu vô thức và rồi ý thức với đầy đủ trí tuệ)

2. There is much unconscious, instinctive work within the fields of energy-force knowns as petals. It is a while before the individual understands consciously the forces he has begun to deal with when entering the energy-force field of a new petal.

2. Có rất nhiều công việc vô thức, mang tính bản năng trong các trường năng lượng–mãnh lực được biết là các cánh hoa. Phải một lúc khá lâu trước khi cá nhân hiểu một cách ý thức những mãnh lực mà y đã bắt đầu ứng xử khi bước vào trường năng lượng–mãnh lực của một cánh hoa mới.

3. Initial human activity within the field of a petal can hardly be called petal organisation but it leads in that direction.

3. Hoạt động ban sơ của con người trong trường của một cánh hoa khó có thể gọi là tổ chức cánh hoa, nhưng nó dẫn theo chiều hướng ấy.

4. Gradually, the individual becomes conscious of what he is doing in this new field. He begins to respond to the new tasks with increasing intelligence, until, finally, he expresses himself within that field with “full It intelligence”.

4. Dần dần, cá nhân trở nên ý thức về điều y đang làm trong trường mới này. Y bắt đầu đáp ứng với các nhiệm vụ mới bằng trí tuệ ngày càng tăng, cho đến khi, sau rốt, y tự biểu lộ mình trong trường ấy với “trí tuệ trọn vẹn”.

5. It is conscious labor within a petal-field which parallels the organization of the petal. It is the unfolded petal which indicates that intelligence is expressing with fulness within the field of a petal. This is the consummation of a long period of conscious labor.

5. Lao động có ý thức trong một trường–cánh–hoa là điều song hành với sự tổ chức của cánh hoa. Chính cánh hoa đã khai mở là dấu hiệu cho thấy trí tuệ đang biểu lộ một cách viên mãn trong trường của một cánh hoa. Đây là sự thành tựu của một giai đoạn dài lao động có ý thức.

In the Hall of Ignorance the force of the energy of Brahma (the activity and intelligence of substance) is that mostly dealt with,

Trong Phòng Vô Minh thì lực của năng lượng Brahma (tính hoạt động và trí tuệ của chất liệu) là điều chủ yếu được ứng xử,

6. This substance is both physical and emotional, and to some extent mental at the later stages, for Brahma (like all the other members of the Trimurti) is threefold and encompasses all three activities. The rudimentary mind, however weak, is, active from the first.

6. Chất liệu này vừa là hồng trần vừa là cảm dục, và ở các giai đoạn về sau cũng là trí tuệ ở mức độ nào đó, vì Brahma (giống như mọi thành viên khác của Trimurti) là ba phương diện và bao trùm cả ba hoạt động. Thể trí sơ khai, dẫu yếu ớt, vẫn hoạt động ngay từ đầu.

7. When the man is dealing mostly with mental substance, as he does when working within the third petal, it can be questioned whether he should be regarded as working, strictly speaking, with the Hall of Ignorance. While he may still be ignorant of the soul, he not ignorant of the mental nature which will serve as the bridge to the soul.

7. Khi con người chủ yếu ứng xử với chất liệu trí tuệ, như y làm khi làm việc trong cánh hoa thứ ba, có thể nêu vấn đề liệu y có nên được xem là đang làm việc, nói nghiêm ngặt, trong Phòng Vô Minh hay không. Trong khi y có thể vẫn vô minh về linh hồn, y không vô minh về bản tính trí tuệ vốn sẽ phục vụ như nhịp cầu đến linh hồn.

and the man has to learn the meaning of activity based on:

con người phải học ý nghĩa của hoạt động dựa trên:

8. Notice that “meaning” is involved, though work in this outer tier is a long way from entering the World of Meaning via the soul.

8. Lưu ý rằng “ý nghĩa” có liên quan, dẫu công việc ở tầng ngoài này còn khá xa mới đi vào Thế giới của ý nghĩa qua linh hồn.

9. We should be reminded that the third ray is the Ray of Active Intelligence.

9. Chúng ta nên được nhắc nhớ rằng cung ba là Cung của Trí tuệ Năng động,

a. Inherent energy,

a. Năng lượng nội tại,

10. We can assume this to be the energy inherent in his lower principles.

10. Ta có thể giả định đây là năng lượng nội tại trong các nguyên khí thấp của y.

b. Absorbed energy,

b. Năng lượng được hấp thụ,

11. This is the energy absorbed from his environal contacts including contacts with other human beings.

11. Đây là năng lượng được hấp thụ từ các tiếp xúc môi trường của y, bao gồm các tiếp xúc với những con người khác.

12. Some energy is also absorbed from the Ego which sustains the personality, the soul quality, per se, is very little in evidence.

12. Một phần năng lượng cũng được hấp thụ từ Chân ngã, Đấng duy trì phàm ngã, nhưng phẩm tính linh hồn, tự thân, rất ít hiển lộ.

c. Group energy,

c. Năng lượng nhóm,

13. This is the energy of those groups with which the man associates on the physical plane—the family, the tribe, the community.

13. Đây là năng lượng của những nhóm mà con người kết giao trên cõi hồng trần—gia đình, bộ tộc, cộng đồng.

d. Material energy or that which is hidden in physical plane matter.

d. Năng lượng vật chất hay điều ẩn tàng trong vật chất của cõi hồng trần.

14. This is a very ancient energy inherited from the first solar system.

14. Đây là một năng lượng rất cổ xưa thừa hưởng từ hệ mặt trời thứ nhất.

In the Hall of Learning the disciple

Trong Phòng Học Hỏi người đệ tử

15. Let us note that the term “disciple” is used to indicate one who works within the Hall of Learning—at least at a certain later stage of work within that Hall.

15. Hãy lưu ý rằng thuật ngữ “đệ tử” được dùng để chỉ một người làm việc trong Phòng Học Hỏi—ít nhất là ở một giai đoạn về sau của công việc trong Phòng này.

becomes aware of, and uses the energy of, the second aspect in form-building, in social rela­tions, in family and other group affiliations.

trở nên hay biết, và sử dụng năng lượng của phương diện thứ hai trong kiến tạo hình tướng, trong các quan hệ xã hội, trong liên hệ gia đình và các liên hệ nhóm khác.

16. The following are all expressions of the second aspect of divinity:

16. Các điều sau đây đều là những biểu lộ của phương diện thứ hai của Thiêng liêng:

a. Form-building.(The second ray and not the third is the ‘Ray of Form’. The third ray is the ‘Ray of Matter’.)

a. Kiến tạo hình tướng. (Cung hai chứ không phải cung ba là ‘Cung của Hình tướng’. Cung ba là ‘Cung của Chất liệu’.)

b. Social relations

b. Các quan hệ xã hội

c. Family affiliations

c. Các liên hệ gia đình

d. Group affiliations

d. Các liên hệ nhóm

e. Sexual relations (from a higher perspective than possible within the experiences first tier of petals).

e. Các quan hệ tính giao (trên một quan điểm cao hơn điều khả hữu trong những trải nghiệm ở tầng cánh hoa thứ nhất).

17. We can see the lower energies of Venus expressing themselves.

17. Chúng ta có thể thấy các năng lượng thấp của Sao Kim đang biểu lộ.

18. It should be noted that petal activity is additive and cumulative. When organizational work begins in the second tier, continuing development occurs in the earlier tier. When organizational work begins in the sacrifice tier, the continuing development occurs in the second tier and does not cease in the outer tier, howevermuch it may begin to fall somewhat below the threshold of consciousness.

18. Cần lưu ý rằng hoạt động của các cánh hoa là có tính cộng thêm và tích lũy. Khi công việc tổ chức bắt đầu ở tầng thứ hai, sự phát triển tiếp diễn ở tầng trước đó. Khi công việc tổ chức bắt đầu ở tầng hi sinh, sự phát triển tiếp diễn diễn ra ở tầng thứ hai và không hề chấm dứt ở tầng ngoài, dẫu cho nó có thể bắt đầu rơi xuống đôi chút dưới ngưỡng của ý thức.

19. The principle is similar to the addition of planetary rulers in relation to a sign of the zodiac powerful in an astrological chart. When the esoteric ruler begins to function, it does not mean that the orthodox ruler or exoteric planetary ruler ceases functioning, and both of these continue to function even when the influence of the hierarchical ruler emerges.

19. Nguyên lý này tương tự như việc cộng thêm các chủ tinh đối với một dấu hiệu hoàng đạo mạnh trong một lá số chiêm tinh. Khi chủ tinh nội môn bắt đầu hoạt động, điều đó không có nghĩa là chủ tinh chính thống hay chủ tinh ngoại hiện ngừng hoạt động, và cả hai vẫn tiếp tục hoạt động ngay cả khi ảnh hưởng của chủ tinh thuộc Huyền Giai xuất hiện.

[872] He comes to the true recognition of sex and its relations but as yet views this force as something to be controlled and not something to be con­sciously and constructively utilised.

[872] Y đi đến sự nhìn nhận chân thực về tính giao và các liên hệ của nó nhưng hiện thời vẫn xem lực này như một điều cần phải được kiểm soát chứ chưa phải là một điều được sử dụng một cách ý thức và xây dựng.

20. Here the Saturnian approach is demonstrated—Saturn, the planet of control. This Saturnian influence is exercised in the Hall of Learning. Indeed, Saturn is both a restraining and educative planet—a planet of the first ray and the third.

20. Ở đây biểu lộ cách tiếp cận thuộc Sao Thổ—Sao Thổ, hành tinh của sự kiểm soát. Ảnh hưởng thuộc Sao Thổ này được thể hiện trong Phòng Học Hỏi. Thật vậy, Sao Thổ vừa là hành tinh kiềm chế vừa là hành tinh giáo dục—một hành tinh của Cung một và cung ba.

21. As the second ray grows in influence, the approach to sex will become more conscious and constructive.

21. Khi cung hai gia tăng ảnh hưởng, cách tiếp cận đối với tính giao sẽ trở nên có ý thức và xây dựng hơn.

22. Work within the Hall of Learning is essentially affiliative work and subject to the Law of Attraction.

22. Công việc trong Phòng Học Hỏi về bản chất là công việc liên kết và chịu sự chi phối của Định luật Hấp dẫn.

23. In this Hall, man is becoming a ‘personal psyche’, though not yet the soul on its own plane.

23. Trong Phòng này, con người đang trở thành một ‘linh hồn cá nhân’, dẫu chưa phải là linh hồn trên chính cõi của nó.

In the Hall of Wisdom the initiate comes to the knowledge of the first great aspect of energy, the dynamic use of will in sacrifice, and to him is then committed the key to the three fold mystery of energy.

Trong Phòng Minh triết vị điểm đạo đồ đạt đến tri thức về phương diện vĩ đại thứ nhất của năng lượng, việc sử dụng động năng của Ý Chí trong hi sinh, và lúc đó trao phó cho y chìa khóa của huyền bí tam phân của năng lượng.

24. The one who walks within the later corridors of the Hall of Learning can be called a “disciple”—at least a probationary disciple, but one newly walking within the Hall of Wisdom can also be called a disciple.

24. Người đi trong những hành lang về sau của Phòng Học Hỏi có thể được gọi là “đệ tử”—ít nhất là một đệ tử dự bị , nhưng người mới bước vào Phòng Minh triết cũng có thể được gọi là đệ tử.

25. We may remember that entry into the Hall of Wisdom does not occur precisely as one takes the first initiation (as some references seem to indicate), but somewhat before, as the fourth and, especially, the fifth petals are opening. The Solar Angels is taking an active interest in the affairs of the unfolding personality and hence the growth of wisdom. At the first initiation, the fifth petal is fully unfolded and the man is unquestionably within the Hall of Wisdom.

25. Chúng ta có thể nhớ rằng việc bước vào Phòng Minh triết không xảy ra chính xác ngay khi thọ lãnh lần điểm đạo thứ nhất (dẫu có vài tham chiếu có vẻ chỉ như thế), mà là sớm hơn đôi chút, khi cánh hoa thứ tư và đặc biệt cánh thứ năm đang mở. Các Thái dương Thiên Thần đang quan tâm tích cực đến các sự vụ của phàm ngã đang khai triển và do đó có sự tăng trưởng của minh triết. Ở lần điểm đạo thứ nhất, cánh hoa thứ năm hoàn toàn khai mở và con người chắc chắn ở trong Phòng Minh triết.

26. The one who treads the corridors Hall of Wisdom is, at least in general, called the “initiate”. This includes the category of “probationary initiate”—the initiate of the first and second degrees.

26. Người đi trong các hành lang của Phòng Minh triết, nói chung, được gọi là “điểm đạo đồ”. Điều này bao gồm hạng “điểm đạo đồ dự bị”—điểm đạo đồ bậc một và bậc hai.

27. We have presented to us a very powerful description of how the first aspect of divinity should be used: “the dynamic use of will in sacrifice”. Too often these two—“will” and “sacrifice”—are separated.

27. Chúng ta có trước mắt một mô tả rất mạnh mẽ về cách phương diện thứ nhất của Thiêng liêng nên được sử dụng: “việc sử dụng động năng của Ý Chí trong hi sinh”. Quá thường khi hai điều này—“Ý Chí” và “hi sinh”—bị tách rời.

28. The threefold mystery of energy naturally concerns the three types of electricity: positive, negative and equilibrizing. The three aspect of divinity are, thus, represented.

28. Huyền bí tam phân của năng lượng tự nhiên liên quan đến ba loại điện: dương, âm và quân bình hóa. Ba Phương diện của Thiêng liêng, như thế, được biểu thị.

Of this energy in its threefold aspect he became aware in the other two halls.

Về năng lượng này trong tam phân phương diện của nó y đã trở nên hay biết trong hai Phòng kia.

29. As he walked the Halls of Ignorance and Learning, he became aware (at first subconsciously and then consciously) of negative electricity and equilibrizing electricity—the electricity of the lower eighteen subplanes and the electricity of the higher mental plane whereon the soul is focussed. Some measure of the highest aspect of this energy opened to him during the later phases of organizing the second tier.

29. Khi y bước đi trong các Phòng Vô Minh và Học Hỏi, y trở nên hay biết (ban đầu là vô thức rồi sau đó là ý thức) về điện âm và điện quân bình hóa—điện của mười tám cõi phụ thấp và điện của cõi thượng trí nơi linh hồn tập trung. Một phần nào của phương diện cao nhất của năng lượng này mở ra cho y trong các giai đoạn sau của việc tổ chức tầng thứ hai.

30. As work within the sacrifice tier intensified and the sacrifice petals began to open the positive aspect of electricity was made known to him clearly and consciously, but he lacked the keys to any of the three types.

30. Khi công việc trong tầng hi sinh gia tăng cường độ và các cánh hi sinh bắt đầu mở, phương diện dương của điện được làm cho y nhận biết rõ ràng và ý thức , nhưng y thiếu các chìa khóa của bất cứ loại nào trong ba loại ấy.

At the third, fourth and fifth Initiations the three keys to the three mysteries are given to him.

Ở các lần điểm đạo thứ ba, thứ tư và thứ năm, ba chìa khóa cho ba huyền bí được trao cho y.

31. From the time of the third initiation, the threefold Monad or Spirit becomes an influential force. The three types of electricity express through the threefold Monad, though the greatest expression of two of them is through the personality and the Ego respectively.

31. Từ lần điểm đạo thứ ba, Chân Thần hay Linh quang tam phân trở thành một mãnh lực có ảnh hưởng. Ba loại điện biểu lộ qua Chân Thần tam phân, dẫu biểu lộ lớn nhất của hai trong số chúng là qua phàm ngã và Chân ngã theo thứ tự tương ứng.

The key to the mystery sensed in the first Hall, the mystery of Brahma, is handed to him and he can then unlock the hidden energies of atomic substance.

Chìa khóa cho huyền bí được cảm nhận trong Phòng thứ nhất, huyền bí của Brahma , được trao vào tay y và rồi y có thể mở khóa những năng lượng ẩn tàng của chất nguyên tử.

32. This, we may presume, occurs at the third initiation, the number of which correlates with the third aspect of divinity—the Brahma aspect.

32. Chúng ta có thể suy đoán rằng điều này xảy ra ở lần điểm đạo thứ ba , con số tương ứng với Phương diện thứ ba của Thiêng liêng—phương diện Brahma.

33. One may wonder whether certain great scientists who unlocked some of the secrets of atomic energy—for instance, Einstein and Bohr, were initiates of the third degree.

33. Người ta có thể tự hỏi liệu một vài nhà khoa học vĩ đại đã mở khóa một số bí mật của năng lượng nguyên tử—thí dụ như Einstein và Bohr—có phải là các điểm đạo đồ bậc ba hay không.

34. We must remember that, from the occult point of view, atomic substance exists on all planes, though, in this context, we are concerned only with the lower three systemic planes—not including the higher mental plane.

34. Chúng ta phải nhớ rằng, xét theo quan điểm huyền bí, chất nguyên tử hiện hữu trên mọi cõi, dẫu trong ngữ cảnh này, chúng ta chỉ quan tâm đến ba cõi hệ thống thấp—không bao gồm cõi thượng trí.

35. Minimally, DK is speaking of the substance of material atoms, but by extension, He must also mean etheric atomic substance and astral atomic substance in general. The atomic substance of the lower mental plane would also be included.

35. Tối thiểu, Chân sư DK đang nói đến chất của các nguyên tử vật chất, nhưng suy rộng, Hẳn Ngài cũng muốn nói đến chất nguyên tử dĩ thái và chất nguyên tử cảm dục nói chung. Chất nguyên tử của cõi hạ trí cũng sẽ được bao gồm.

36. Thee are also secrets concerning the powers of the atomic subplanes of the etheric and astral planes, but it is unlikely the DK is indicating these.

36. Cũng có những bí mật liên quan đến quyền năng của các cõi phụ nguyên tử của cõi dĩ thái và cảm dục, nhưng khó có khả năng Chân sư DK đang chỉ các điều này ở đây.

The key to the mystery of sex, or of the pairs of opposites, is thrust into his hand, and he can then unlock the hidden forces within all forms.

Chìa khóa cho huyền bí của tính giao, hay của các cặp đối ngẫu, được trao mạnh mẽ vào tay y, và y rồi có thể mở khóa các lực ẩn tàng trong mọi hình tướng.

37. May we assume that this occurs at the fourth initiation?

37. Chúng ta có thể giả định rằng điều này xảy ra ở lần điểm đạo thứ tư?

At the fourth initiation another of the great secrets is revealed to him. It is called “the mystery of polarity,” and the clue to the significance of sex in every department of nature on all the planes is given to him. (IHS 172)

Ở lần điểm đạo thứ tư một trong các bí mật vĩ đại khác được mặc khải cho y. Nó được gọi là “huyền bí của cực tính”, và manh mối về thâm nghĩa của tính giao trong mọi khu vực của thiên nhiên trên tất cả các cõi được trao cho y. (IHS 172)

38. The word “thrust” cannot be accidental. It almost seems as if recognition if forced upon him.

38. Từ “trao mạnh mẽ” hẳn không phải là ngẫu nhiên. Gần như dường như sự nhận biết được ép vào y.

39. The “mystery of sex” is based on the Law of Attraction and is clearly, when compared with the energies and forces animated the third aspect, a “hidden” energy or force.

39. “Huyền bí của tính giao” đặt trên Định luật Hấp dẫn và hiển nhiên, so với các năng lượng và mãnh lực làm linh động phương diện thứ ba, là một năng lượng hay lực “ẩn tàng”.

40. It is interesting that after the fourth initiation, the initiate need no longer incarnate in the usual way—taking physical bodies generated through the normal sex function.

40. Điều thú vị là sau lần điểm đạo thứ tư, vị điểm đạo đồ không còn cần phải lâm phàm theo cách thông thường nữa— tức không cần thọ nhận thể xác được tạo ra qua chức năng tính giao thông thường.

41. We may presume that at this initiation, ultimate control over the normal human sex function becomes possible, though, we are told, even Masters may marry—for a spiritual purpose.

41. Chúng ta có thể suy đoán rằng ở lần điểm đạo này, việc kiểm soát tối hậu đối với chức năng tính giao thông thường của con người trở nên khả hữu, dẫu chúng ta được cho biết rằng ngay cả các Chân sư cũng có thể kết hôn— vì một mục đích tinh thần.

The key to the mystery of sacrifice and to the secret of the Silent Watchers in the cosmos is revealed to him, and he learns to un­lock the hidden energies of the will aspect.

Chìa khóa cho huyền bí của hi sinh và cho bí mật của các Đấng Giám Sát Im Lặng trong vũ trụ được mặc khải cho y, và y học cách mở khóa những năng lượng ẩn tàng của phương diện Ý Chí.

42. This, we may presume, occurs at the fifth initiation. It is at this initiation that the initiate ‘meets’ Sanat Kumara “face to face”.

42. Chúng ta có thể suy đoán rằng điều này xảy ra ở lần điểm đạo thứ năm. Ở lần điểm đạo này vị điểm đạo đồ ‘gặp’ Sanat Kumara “mặt đối mặt”.

43. There is an inescapable implication here given: Silent Watchers are sacrificial.

43. Ở đây có một hàm ý không thể lẩn tránh: các Đấng Giám Sát Im Lặng là những Đấng hi sinh.

44. Sanat Kumara is one of the great Silent Watchers in our solar system and, it may be presumed that His sacrifice is noteworthy in solar systemic terms—i.e., from the perspective of the Solar Logos and other Planetary Logoi.

44. Sanat Kumara là một trong những Đấng Giám Sát Im Lặng vĩ đại trong hệ mặt trời của chúng ta và có thể suy đoán rằng sự hi sinh của Ngài là đáng kể xét theo tầm mức hệ mặt trời—tức là, từ viễn kiến của Thái dương Thượng đế và các Hành Tinh Thượng đế khác.

45. We have heard of the triple aspect of the Will at which the following excerpt from Rule XIII for Disciples and Initiates hints:

45. Chúng ta đã nghe về phương diện tam phân của Ý Chí mà trích đoạn sau đây từ Quy luật XIII dành cho các Đệ tử và Điểm đạo đồ ám chỉ:

…let the threefold mode of working with that which is dynamic carry the group together towards the Higher Three where the Will of God holds sway; (R&I 23)

…hãy để cho phương thức tam phân của công tác với cái vốn là động lực mang nhóm cùng nhau hướng tới Bộ Ba Cao hơn, nơi Ý Chí của Thượng Đế ngự trị; (R&I 23)

The dynamo of the solar system is shown to him, if it might so be expressed, and the intricacies of its mechanism revealed.

Động cơ phát lực của hệ mặt trời được trình hiện cho y thấy, nếu có thể diễn đạt như vậy, và những phức tạp của bộ máy ấy được mặc khải.

46. Can this occur at the fifth initiation? Perhaps? It almost sounds like a Chohanic revelation.

46. Điều này có thể xảy ra ở lần điểm đạo thứ năm chăng? Có thể. Nghe gần như một huyền khải ở cấp Chohan.

47. Perhaps, it is at this point that some of the secrets of solar systemic mathematics are revealed—for instance the mathematical formulae which concern the approximately 100,000 year rotation of the entirely of our solar system.

47. Có lẽ, chính tại điểm này, một vài bí mật của toán học hệ mặt trời được mặc khải—thí dụ như các công thức toán học liên quan đến chu kỳ xoay khoảng 100.000 năm của toàn thể hệ mặt trời chúng ta.

The entire solar sphere, the logoic ring-pass-not, rotates upon its axis, and thus all that is included within the sphere is carried in a circular manner through the Heavens. The exact figures of the cycle which covers the vast rotation must remain as yet esoteric, but it may be stated that it approximates one hundred thousand years, being, as might be supposed, controlled by the energy of the first aspect, and therefore of the first Ray. (TCF 1057)

Toàn thể hình cầu hệ mặt trời, vòng-giới-hạn của Thái dương Thượng đế, quay trên trục của nó, và do đó mọi thứ bao hàm trong hình cầu được cuốn theo theo lối tròn qua các Thiên không. Những con số chính xác của chu kỳ bao trùm vòng quay vĩ đại này trước mắt vẫn phải là điều nội môn, nhưng có thể nói rằng nó xấp xỉ một trăm nghìn năm,  vì, như có thể suy đoán, được cai quản bởi năng lượng của Phương diện thứ nhất, và do đó là của Cung thứ nhất. (TCF 1057)

One of the truths less recognised, yet withal of equal importance, is that the entire solar system equally revolves upon its axis but in a cycle so vast as to be beyond the powers of ordinary man to comprehend, and which necessitates mathematical formulae [1084] of great intricacy. (TCF 1083-1084)

Một trong những chân lý kém được nhận biết hơn, nhưng xét toàn bộ lại có tầm quan trọng ngang nhau, là toàn thể hệ mặt trời cũng quay trên trục của nó nhưng theo một chu kỳ vĩ đại đến mức vượt ngoài khả năng lĩnh hội của người thường, và điều đó đòi hỏi các công thức toán học [1084] hết sức phức tạp. (TCF 1083-1084)

48. We note that we are speaking of mysteries regarding the solar system.

48. Chúng ta lưu ý rằng chúng ta đang nói về các huyền bí liên quan đến hệ mặt trời.

The following are the three basic mysteries of the solar system:

Sau đây là ba huyền bí căn bản của hệ mặt trời:

1. The mystery of Electricity. The mystery of Brahma. The secret of the third aspect. It is latent in the physical sun.

1. Huyền bí của Điện lực. Huyền bí của Brahma. Bí mật của phương diện thứ ba. Nó tiềm ẩn trong mặt trời vật chất.

49. We may associate this mystery with that constellational source called the Pleiades.

49. Chúng ta có thể liên kết huyền bí này với nguồn chòm sao được gọi là Thất Nữ (Pleiades).

50. We see that although electricity has three aspects, as a whole it is closely related to the third aspect.

50. Chúng ta thấy rằng dẫu điện lực có ba phương diện, như một tổng thể nó liên hệ mật thiết với Phương diện thứ ba,

51. A mystery is a series of energy relationships which is impenetrable to a those focused at a specified level of unless they possess the “key”.

51. Một huyền bí là một chuỗi các tương quan năng lượng vốn bất khả thâm nhập đối với những ai tập trung ở một cấp độ nhất định trừ phi họ sở hữu “chìa khóa”.

52. When we speak of the “physical sun” when we speak of the systemic etheric planes as well. It is doubtful that our Sun is actually “physical” in the normal understanding of that term.

52. Khi nói về “mặt trời vật chất” là chúng ta cũng nói về các cõi dĩ thái hệ thống. Khó mà cho rằng Thái Dương của chúng ta thực sự là “vật chất” theo nghĩa thông thường của thuật ngữ ấy.

2. The mystery of Polarity, or of the universal sex impulse. The secret of the second aspect. It is latent in the Heart of the Sun, i.e., in the subjective Sun.

2. Huyền bí của Cực tính, hay của xung lực tính giao phổ quát. Bí mật của Phương diện thứ hai. Nó tiềm ẩn trong Trái Tim của Mặt Trời, tức là trong Mặt Trời chủ thể.

53. We may presume that the solution to this mystery has much to do with the energy of the star (or of the greater constellation) known as Sirius. Our solar system with a number of other systems belongs to a group one suspects solar systems which could with reason be called the “Sirian System”.

53. Chúng ta có thể suy đoán rằng lời giải cho huyền bí này có rất nhiều liên hệ với năng lượng của ngôi sao (hay của chòm sao vĩ đại hơn) được biết là Sirius. Hệ mặt trời của chúng ta cùng với một số hệ khác thuộc về một nhóm—người ta có thể gọi một cách hợp lý là “Hệ Sirius”.

54. We see that there is no solution to the “mystery of Polarity” unless one can come en rapport with the soul nature of the Solar Logos, the “subjective Sun”.

54. Chúng ta thấy rằng không thể giải được “huyền bí của Cực tính” trừ phi người ta có thể tương thông với bản tính linh hồn của Thái dương Thượng đế, tức “Mặt Trời chủ thể”.

55. We also note that the “Heart of the Sun” and the “Subjective Sun” are, in this context, considered equivalent, which may not always be the case.

55. Chúng ta cũng lưu ý rằng “Trái Tim của Mặt Trời” và “Mặt Trời chủ thể” trong ngữ cảnh này được xem là tương đương, điều này không phải lúc nào cũng đúng.

56. While sex, per se, is often considered related to the third aspect, we can see that, fundamentally, the Law of Attraction and the cosmic energy of Love lie behind it.

56. Trong khi tính giao, tự nó, thường được xem là liên hệ với Phương diện thứ ba, chúng ta có thể thấy rằng, nền tảng, Định luật Hấp dẫn và năng lượng vũ trụ của Tình thương nằm phía sau nó.

3. The mystery of Fire itself, or the dynamic central systemic force. The secret of the first aspect. It is latent in the central spiritual sun.

3. Huyền bí của chính Lửa, hay động lực trung tâm của toàn hệ. Bí mật của Phương diện thứ nhất. Nó tiềm ẩn trong Mặt trời Tinh thần Trung Ương.

57. We may associated the Pleiades (in a larger sense and as a stellar cluster with hundreds of stars) with the Central Spiritual Sun

57. Chúng ta có thể liên đới Thất Nữ (trong nghĩa rộng hơn như một cụm sao gồm hàng trăm ngôi) với Mặt trời Tinh thần Trung Ương.

58. Sometimes the star Alcyone is called the “Central Spiritual Sun” and so its nature must be considered in relation to the “dynamic central systemic force”.

58. Đôi khi ngôi sao Alcyone được gọi là “Mặt trời Tinh thần Trung Ương” và vì vậy bản tính của nó phải được xem xét trong liên hệ với “động lực trung tâm hệ thống”.

59. In this context we are speaking of the first or monadic aspect of the Solar Logos:

59. Trong ngữ cảnh này chúng ta đang nói về phương diện thứ nhất hay phương diện Chân thần của Thái dương Thượng đế:

60. In each of these cases (in the case of each of the mysteries under discussion) one of the Three Logoi (representing our Solar Logos) is necessarily an Agent of one of the great mysteries.

60. Trong mỗi trường hợp (với từng huyền bí đang được bàn) một trong Ba Ngôi (đại diện cho Thái dương Thượng đế của chúng ta) tất yếu là một Vị Đại Diện cho một trong những huyền bí vĩ đại.

61. In a larger sense, when we think of the “Central Spiritual Sun”, we think of a mighty Super-Constellational Logos expressing through a number of great constellations such as Draco, the Great Bear, the Sirian System, Orion, the Little Bear, etc. The Life of that great Being, is from our perspective, fire.

61. Ở nghĩa rộng hơn, khi chúng ta nghĩ về “Mặt trời Tinh thần Trung Ương”, chúng ta nghĩ về một Đấng Siêu–Chòm sao hùng mạnh biểu lộ qua một số chòm sao vĩ đại như Draco, Đại Hùng Tinh, Hệ Sirius, Orion, Tiểu Hùng Tinh, v.v. Sự Sống của Đấng Vĩ Đại ấy, từ viễn kiến của chúng ta, là lửa.

These three mysteries which we have touched upon above, come in a peculiar sense under the jurisdiction of [873] certain great Lords or Existences,

Ba huyền bí này, như chúng ta vừa điểm qua, theo một nghĩa đặc thù thuộc thẩm quyền của [873] một số các Đấng Chúa Tể hay các Hữu Thể vĩ đại,

62. Perhaps we could be speaking intra-systemically. If so, then the revelation of these mysteries would come under the jurisdiction of such intra-systemic Lords or Existences.

62. Có lẽ chúng ta đang nói ở nội–hệ thống. Nếu vậy, việc mặc khải các huyền bí này sẽ thuộc thẩm quyền của các Đấng Chúa Tể hay Hữu Thể nội –hệ thống.

63. However, we could also be speaking cosmically, and the Lords or Existences could be cosmic Beings.

63. Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể đang nói theo nghĩa vũ trụ, và các Chúa Tể hay Hữu Thể này có thể là các Đấng vũ trụ.

64. Yet, from all that can be gathered from text below, the best interpretation seems planetary. We will find that a number of the Lords or Existences mentioned in this respect, while planetary, have not been discussed in the usual occult accounts of Planetary Lives.

64. Dẫu vậy, xét từ tất cả những gì có thể rút ra từ văn bản bên dưới, diễn giải thích hợp nhất có vẻ là hành tinh. Chúng ta sẽ thấy rằng một số các Chúa Tể hay Hữu Thể được đề cập trong mối liên hệ này, tuy là hành tinh, nhưng chưa được bàn đến trong các tường thuật huyền bí thông thường về các Sự Sống Hành tinh.

and They have much to do with the revealing of the mystery to those prepared initiates Who come under Their influence during the final stages of the Path.

và Các Ngài có nhiều điều liên quan đến việc mặc khải huyền bí cho những vị điểm đạo đồ đã sẵn sàng, là những người đi vào quỹ ảnh hưởng của Các Ngài trong các giai đoạn cuối của Thánh Đạo.

65. We cannot speculate on the modes of revelation involved.

65. Chúng ta không thể suy đoán về các phương thức mặc khải liên quan.

66. Suffice it to say, the three great mysteries—of electricity, of polarity and of fire—are only revealed to initiates of high degree and cannot be understood by any human being unless identified to some degree as Spirit. Understand, in any degree, is not possible until the third initiation has been taken and, even, the understanding is minimal.

66. Chỉ cần nói rằng ba huyền bí vĩ đại—của điện lực, của cực tính và của lửa—chỉ được mặc khải cho các điểm đạo đồ thâm cao và không thể được hiểu bởi bất kỳ con người nào trừ phi đã đồng nhất ở một mức nào đó như là Chân Thần. Sự hiểu, ở bất kỳ mức nào, không thể có trước khi thọ lãnh lần điểm đạo thứ ba, và dẫu vậy, sự hiểu chỉ ở mức tối thiểu.

67. We may presume that we shall not easily ‘run out of mysteries’ as we, in our monadic nature, tread cosmic Paths to constellational destinations.

67. Chúng ta có thể suy đoán rằng chúng ta sẽ không dễ dàng ‘cạn kiệt các huyền bí’ khi chúng ta, trong bản tính chân thần của mình, bước đi trên các Thánh Đạo vũ trụ đến các đích đến thuộc chòm sao.

The mystery of electricity has three keys, each of which is held in the hands of one of the Buddhas of Activity.

Huyền bí của điện lực có ba chìa khóa, mỗi chìa trong số đó được nắm trong tay của một trong các Đức Phật của Hoạt động.

68. Is DK referring to the Buddhas of Activity as “great Lords or Existences”? So it seems. The Teacher of these Buddhas is knows as the “Lord of the World”.

68. Chân sư DK có đang gọi các Đức Phật của Hoạt động là “các Đấng Chúa Tể hay các Hữu Thể vĩ đại” chăng? Có vẻ là vậy. Bậc Thầy của các Đức Phật này được biết là “ Đức Chúa Tể Thế Giới ”.

69. We may presume that each of the keys is associated with one of the aspects of fire: fire by friction, solar fire, and electric fire.

69. Chúng ta có thể suy đoán rằng mỗi chìa khóa liên hệ với một phương diện của Lửa: Lửa do ma sát, Lửa Thái dương và Lửa Điện.

70. Three kingdoms—the mineral, the vegetable and the animal are also implicated by association and each of the Buddhas has an important connection to one of them.

70. Ba giới—kim thạch, thực vật và động vật—cũng bị hàm liên qua sự liên hệ, và mỗi Đức Phật có một liên kết quan trọng với một trong các giới này.

Theirs is the prerog­ative to control the electrical forces of the physical plane, and Theirs the right to direct the three major streams of this type of force in connection with our present globe.

Đặc quyền của Các Ngài là kiểm soát các lực điện của cõi hồng trần, và quyền của Các Ngài là chỉ đạo ba dòng chủ yếu của loại lực này trong liên hệ với bầu hiện tại của chúng ta.

71. Important occult facts are being revealed.

71. Những sự kiện huyền bí quan trọng đang được hé lộ.

72. There are three major streams of electrical forces. The Buddhas of Activity are concerned with these three streams as they affect the physical plane.

72. Có ba dòng chủ yếu của các lực điện. Các Đức Phật của Hoạt động can dự vào ba dòng này khi chúng tác động lên cõi hồng trần.

73. Yet our globe concerns far more than the systemic physical plane.

73. Tuy nhiên bầu của chúng ta liên quan nhiều hơn xa so với chỉ cõi hồng trần hệ thống.

74. Is the Tibetan speaking of the systemic physical plane or of the planes (in aggregate) which the Planetary Logos considers the physical plane?—the eighteen lower systemic planes?

74. Vậy Chân sư DK đang nói về cõi hồng trần hệ thống hay nói về các cõi (gộp lại) mà Hành Tinh Thượng đế xem như cõi hồng trần—tức mười tám cõi phụ thấp?

75. Perhaps we shall learn something about the nature of our present globe—in its physical and super-physical aspects.

75. Có lẽ chúng ta sẽ học được điều gì đó về bản chất của bầu hiện tại của chúng ta—trong các phương diện hồng trần và siêu–vật chất của nó.

76. We note that it is a “right” and privilege to “direct the three major streams” of electricity.

76. Chúng ta lưu ý rằng việc “chỉ đạo ba dòng chủ yếu” của điện lực là một “quyền” và là một đặc ân.

77. We must remember that the three Buddha of Activity were three Planetary Logoi in the previous solar system, and that They had reached in that system a very high degree of manasic expression.

77. Chúng ta phải nhớ rằng ba Đức Phật của Hoạt động từng là ba Hành Tinh Thượng đế trong hệ mặt trời trước, và Các Ngài đã đạt đến trong hệ ấy một mức biểu lộ manasic rất cao.

78. It would not seem reasonable to confine the influences of these Buddhas to the systemic physical plane alone.

78. Sẽ không có lý khi giới hạn ảnh hưởng của các Đức Phật này chỉ trong cõi hồng trần hệ thống.

These three streams are concerned with atomic substance, out of which all forms are constructed.

Ba dòng này liên hệ với chất nguyên tử, vốn là thứ mà từ đó mọi hình tướng được kiến tạo.

79. Again, we do not know with certainty whether we are speaking of the atomic substance of the systemic physical plane or the atomic substance of all the lower eighteen subplanes.

79. Một lần nữa, chúng ta không biết chắc chúng ta đang nói về chất nguyên tử của cõi hồng trần hệ thống hay chất nguyên tử của cả mười tám cõi phụ thấp.

80. The term “physical plane”, above, should prevent us from summarily dismissing the possibility that DK may be talking only of the systemic physical plane.

80. Thuật ngữ “cõi hồng trần” ở trên không cho phép chúng ta vội vã loại bỏ khả năng rằng Chân sư DK có thể chỉ đang nói về riêng cõi hồng trần hệ thống.

81. Atomic substance, however, is found in all vehicles of the human being and, naturally, on all the lower eighteen subplanes.

81. Tuy vậy, chất nguyên tử hiện hữu trong mọi vận cụ của con người và, tự nhiên, trên tất cả mười tám cõi phụ thấp.

82. Further, there are “forms” to be found on all the lower eighteen subplanes and all these forms are constructed by “atomic substance”.

82. Hơn nữa, có những “hình tướng” hiện hữu trên mọi cõi phụ thấp và tất cả các hình tướng này đều được kiến tạo bởi “chất nguyên tử”.

In connection with our chain there are three mysterious Entities (of whom our three Pratyeka Buddhas are but the Earth reflections) Who perform a similar function in connection with the electrical forces of the chain.

Trong liên hệ với Dãy của chúng ta có ba Hữu Thể huyền bí (mà ba vị Phật Duyên Giác của chúng ta chỉ là các phản ảnh địa cầu của Các Ngài) Những Đấng này thực hiện một chức năng tương tự liên hệ với các lực điện của Dãy.

83. We learn that the Buddhas of Activity are called Pratyeka Buddhas. In some traditions Pratyeka Buddhas are considered to be “selfish Buddhas”—those Who care only for Their own advancement and Who are not animated by compassion. I think we can dismiss this kind of thought as having its origin in a very limited perspective.

83. Chúng ta biết rằng các Đức Phật của Hoạt động được gọi là các vị Phật Duyên Giác. Trong một vài truyền thống, các vị Phật Duyên Giác được xem là những “vị Phật vị kỷ”—những vị chỉ quan tâm đến sự tiến bộ riêng của Các Ngài và không được tình thương thúc động. Tôi nghĩ chúng ta có thể gạt bỏ kiểu tư tưởng này vì nó xuất phát từ một viễn kiến rất hạn hẹp.

84. The “three mysterious Entitles” are, it seems, far greater than the Buddhas of Activity. They hold sway at a chain level, whereas the Buddhas of Activity hold sway at the globe level.

84. Các “ba Hữu Thể huyền bí” này, có vẻ, vĩ đại hơn các Đức Phật của Hoạt động. Các Ngài có quyền lực ở cấp độ Dãy, trong khi các Đức Phật của Hoạt động có quyền lực ở cấp độ Bầu.

85. We may assume that the influence of these Entities is not confined to the systemic physical plane, as there are so many subtle globes going to the constitution of even the more material chains.

85. Chúng ta có thể giả định rằng ảnh hưởng của các Hữu Thể này không bị giới hạn trong cõi hồng trần hệ thống, vì có quá nhiều các bầu vi tế cấu thành ngay cả những Dãy mang tính vật chất hơn.

86. But then, even the influence of the Buddhas of Activity is, very likely, not confined to the systemic physical plane. When DK speaks of “Earth reflections”, He does not, thereby, confirm that the influence of the three Buddhas of Activity is limited to the systemic physical plane. Our globe has many layers and the Buddhas of Activity are associated with the highest layers found on the cosmic physical plane dimensions of our globe—the logoic plane.

86. Nhưng rồi, ngay cả ảnh hưởng của các Đức Phật của Hoạt động cũng rất có thể không giới hạn trong cõi hồng trần hệ thống. Khi Chân sư DK nói về “các phản ảnh Địa cầu”, Ngài không qua đó xác nhận rằng ảnh hưởng của ba Đức Phật của Hoạt động bị giới hạn trong cõi hồng trần hệ thống. Bầu của chúng ta có nhiều tầng, và các Đức Phật của Hoạt động liên hệ với các tầng cao nhất được tìm thấy trên các cõi của cõi vũ trụ vật chất cấu trúc nên bầu của chúng ta—tức cõi logoic.

87. As Globe Lords are systemic Beings and may, from one perspective, be considered “cosmic” Beings, as are Planetary Logos, They obviously have astral bodies made of cosmic astral substance and mental bodies made of cosmic mental substance. We might be led, then, to inquire, “Just how many vehicular dimensions does a Globe Lord have”. We will surely have to think is terms that transcend the systemic physical plane!

87. Vì Chúa Tể Bầu là các Hữu Thể hệ thống và, theo một quan điểm, có thể được xem là các Hữu Thể “vũ trụ”, như các Hành Tinh Thượng đế, Các Ngài hiển nhiên có thể vía cấu tạo bởi chất cảm dục vũ trụ và thể trí cấu tạo bởi chất trí vũ trụ. Khi đó chúng ta có thể nêu câu hỏi: “Một Chúa Tể Bầu có bao nhiêu chiều kích vận cụ?” Chắc chắn chúng ta sẽ phải suy nghĩ theo những cách vượt qua cõi hồng trần hệ thống!

88. Globes are part of our solar system, and our solar system (from the occult perspective) is considered not to ‘extend’ onto the cosmic astral plane and cosmic mental plane, yet, taking the analogy from the human being, his physical-etheric body is, in a way, his system, and yet his astral body and mental body are also a part of his system. So, then, do Globe Lords, for instance, have vehicles composed of cosmic astral matter and cosmic mental matter? The same question can be asked of Chain Lords and Planetary Logoi. The question really is this: “In what ways can our solar system be reckoned to include expressions on the cosmic astral plane and cosmic mental plane, and in what ways not?”

88. Các Bầu là thành phần của hệ mặt trời của chúng ta, và hệ mặt trời của chúng ta (xét theo quan điểm huyền bí) được xem là không ‘mở rộng’ đến cõi cảm dục vũ trụ và cõi trí vũ trụ; tuy nhiên, lấy phép loại suy từ con người, thể xác–dĩ thái của y theo một cách nào đó là ‘hệ thống’ của y, và tuy vậy thể vía và thể trí của y cũng là một phần của hệ thống y. Vậy thì, các Chúa Tể Bầu, thí dụ, có vận cụ cấu thành từ chất cảm dục vũ trụ và chất trí vũ trụ không? Câu hỏi tương tự có thể được nêu cho các Chúa Tể Dãy và các Hành Tinh Thượng đế. Câu hỏi thực sự là: “Theo những cách nào hệ mặt trời của chúng ta có thể được coi là bao gồm cả các biểu lộ trên cõi cảm dục vũ trụ và cõi trí vũ trụ, và theo những cách nào thì không?”

89. We are told that the Buddhas of Activity are “reflections” of these three greater Entities. From another perspective, we could consider all the Buddhas of Activity (are there twenty-one per chain) as emanations of these Entities.

89. Chúng ta được cho biết rằng các Đức Phật của Hoạt động là “các phản ảnh” của ba Hữu Thể vĩ đại này. Từ một góc nhìn khác, chúng ta có thể xem tất cả các Đức Phật của Hoạt động (liệu có hai mươi mốt vị cho mỗi Dãy chăng) như các sự xuất lộ của các Hữu Thể ấy.

90. Thus, the question may also arise whether each globe in our chain has certain Buddhas of Activity associated with it.

90. Do đó, cũng có thể nảy sinh câu hỏi liệu mỗi bầu trong Dãy của chúng ta có một vài Đức Phật của Hoạt động liên hệ với nó hay không.

91. We are led into the mysteries of subtle planetary structure. All these globes may be, in a way, interpenetrating, and yet maintain their ‘globular integrity’. This goes to the heart of the mystery of planetary structure.

91. Chúng ta được dẫn nhập vào các huyền bí của cấu trúc hành tinh vi tế. Tất cả các bầu này có thể, theo một nghĩa nào đó, tương dung lẫn nhau, và dẫu vậy vẫn duy trì “tính cầu” riêng biệt. Điều này chạm đến cốt tủy của huyền bí cấu trúc hành tinh.

In the scheme, the planetary Logos has also three co-operating Existences Who are the summation of His third Aspect,

Trong Hệ hành tinh, Hành Tinh Thượng đế cũng có ba Hữu Thể cộng tác là tổng hợp Phương diện thứ ba của Ngài ,

92. Thus far we have three Buddhas, three Entities and three Existences—each three greater than the three preceding.

92. Đến lúc này chúng ta có ba Đức Phật, ba Hữu Thể và ba Hữu Thể hợp tác—mỗi nhóm ba đều vĩ đại hơn nhóm ba trước đó.

93. By inference, we may judge the following:

93. Theo hàm ý, chúng ta có thể phán đoán như sau:

a. That the Buddhas of Activity are the summation of the third aspect of the Globe Lord. We may infer that the Globe Lord is an entity greater than any of the Buddhas of Activity. (In this context we should consider that Sanat Kumara is the “Lord of the World”.)

a. Rằng các Đức Phật của Hoạt động là tổng hợp của phương diện thứ ba của Chúa Tể Bầu. Chúng ta có thể suy ra rằng Chúa Tể Bầu là một Hữu Thể vĩ đại hơn bất kỳ Đức Phật nào của Hoạt động. (Trong ngữ cảnh này, chúng ta nên nhớ rằng Sanat Kumara là “ Đức Chúa Tể Thế Giới ”.)

b. That the three “Entities” are the summation of the third aspect of the Chain Lord and that a Chain Lord is greater than any of the three Entities.

b. Rằng “ba Hữu Thể huyền bí” là tổng hợp của phương diện thứ ba của Chúa Tể Dãy và rằng một Chúa Tể Dãy thì vĩ đại hơn bất kỳ một trong ba Hữu Thể ấy.

c. Just as the “three cooperating Existences” are, as stated above, the “summation of His third Aspect”—speaking of the Planetary Logos. The Planetary Logos is greater than any of the “three cooperating Existences”

c. Giống như “ba Hữu Thể cộng tác” là, như đã nêu, “tổng hợp Phương diện thứ ba của Ngài”—khi nói về Hành Tinh Thượng đế. Hành Tinh Thượng đế vĩ đại hơn bất kỳ một trong “ba Hữu Thể cộng tác” ấy.

94. How are all these Beings related? When the mysteries of emanation are more fully revealed to us, we may know.

94. Các Hữu Thể này liên hệ với nhau như thế nào? Khi các huyền bí của xuất lộ được mặc khải đầy đủ hơn cho chúng ta, chúng ta có thể biết.

95. Every Globe Lord and every Chain Lord is really the Planetary Logos in essence and through emanation. Beings of the stature of those we are discussing are “mind born”.

95. Mỗi Chúa Tể Bầu và mỗi Chúa Tể Dãy đều thực sự là Hành Tinh Thượng đế ở về bản thể và thông qua xuất lộ. Các Hữu Thể ở tầm vóc như chúng ta đang bàn là “sinh bởi Tư tưởng”.

and who perform therefore work similar to that performed by the three aspects of Brahma in the solar system.

và vì vậy đảm đương một công việc tương tự như công việc do ba phương diện của Brahma thực hiện trong hệ mặt trời.

96. Brahma, Vishnu and Shiva (the three Logoi subsidiary to our Solar Logos) are all triune, leading to a ninefold solar systemic structure.

96. Brahma, Vishnu và Shiva (ba Thượng đế phụ thuộc vào Thái dương Thượng đế của chúng ta) đều là tam phân, dẫn đến một cấu trúc hệ mặt trời cửu phân.

97. We see that the great Beings Who represent solar systemic Brahma in triple aspect are the higher correspondences to the “three cooperating Existences” Who represent the third aspect of the Planetary Logos.

97. Chúng ta thấy rằng các Đấng vĩ đại đại diện cho Brahma hệ mặt trời ở ba phương diện là những tương ứng cao hơn của “ba Hữu Thể cộng tác” đại diện cho phương diện thứ ba của Hành Tinh Thượng đế.

98. We can begin to infer that each of the other two aspects is also triple—on the planetary logoic level, on the chain level and on the globe level.

98. Chúng ta có thể bắt đầu suy ra rằng mỗi phương diện trong hai phương diện còn lại cũng là tam phân—ở cấp độ Hành Tinh Thượng đế, ở cấp Dãy và ở cấp Bầu.

99. That is to say that the Buddhas of Activity will be complemented by three Buddhas of Love and by three Buddhas of Will (though this latter group may not yet be in full expression, especially upon a non-sacred planet such as ours).

99. Nghĩa là các Đức Phật của Hoạt động sẽ được bổ sung bởi ba Đức Phật của Bác ái và bởi ba Đức Phật của Ý Chí (dẫu nhóm sau có lẽ chưa biểu lộ trọn vẹn, đặc biệt trên một hành tinh không thiêng liêng như quả địa cầu của chúng ta).

The mystery of this threefold type of electricity is largely connect­ed with the lesser Builders, with the elemental essence in one particular aspect,—its lowest and most profound for men to ap­pre­hend as it concerns the secret of that which “substands” or “stands back” of all that is objective.

Huyền bí của kiểu điện lực tam phân này chủ yếu liên kết với các Nhà Kiến Tạo hạ cấp, với Tinh chất hành khí trong một phương diện đặc thù ,—phương diện thấp nhất và là điều sâu xa nhất để con người nắm bắt vì nó liên quan đến bí mật của cái “làm nền” hay “đứng sau lưng” mọi thứ hữu hình.

100. DK is speaking in terms highly occult.

100. Chân sư DK đang nói theo các thuật ngữ rất huyền bí.

101. By “profound”, DK seem to mean ‘profoundly difficult to understand’ or ‘deeply material’.

101. Bằng “sâu xa”, Chân sư dường như muốn nói ‘khó hiểu một cách sâu xa’ hay ‘hết sức vật chất’.

102. We have been told of “elemental essence” and of “monadic essence” (essence of the atomic subplanes).

102. Chúng ta đã được nói về “Tinh chất hành khí” và về “bản thể chân thần” (bản thể của các cõi phụ nguyên tử).

103. We know that the category of “lesser Builders” is also triune. There are three types of lunar pitris, the lowest of which is substance-matter of the sheaths.

103. Chúng ta biết rằng hạng mục “các Nhà Kiến Tạo hạ cấp” cũng là tam phân. Có ba loại thái âm tổ phụ, thấp nhất trong số đó là chất liệu–vật chất của các thể.

a. The highest group of all receives the energy from the higher levels, and ensouls the spirillae of the three per­ma­nent atoms.

a. Nhóm cao nhất trong tất cả tiếp nhận năng lượng từ các cấp độ cao hơn, và phú linh cho các xoắn tuyến vi tế của ba Nguyên tử trường tồn.

b. The second group, being the positive energy that attracts, builds and forms the body of man on the three planes.

b. Nhóm thứ hai, vốn là năng lượng dương thu hút, kiến tạo và tạo hình cho thân người trên ba cõi.

c. The lowest group are the negative aspect of ener­gised substance and the matter of the three sheaths. (TCF 780)

c. Nhóm thấp nhất là phương diện âm của được tiếp sinh lực chất liệu và vật chất của ba bao thể. (TCF 780)

104. In this case, DK, may be speaking of the very lowest form of pitri, i.e., of elemental essence, but if so, it would be difficult to understand why such essence would “substand” all objectivity.

104. Trong trường hợp này, Chân sư DK có thể đang nói về dạng thấp nhất của pitri, tức là về tinh chất hành khí, nhưng nếu vậy, sẽ khó hiểu vì sao tinh chất như thế lại “làm nền tảng bên dưới” cho mọi hiện tượng khách quan.

105. Usually, that which substands is considered more subtle than that which is ‘substood’. But let us see. He could be referring to that which ‘stands under’ all that is seen and is, therefore, the deeply material basis of all normal objectivity.

105. Thông thường, cái gì làm nền tảng bên dưới thì được xem là vi tế hơn cái “được đỡ ở bên trên”. Nhưng hãy xem. Ngài có thể đang ám chỉ cái “đứng ở bên dưới” mọi thứ được thấy và, do đó, là nền tảng vật chất sâu xa của mọi khách quan tính thông thường.

106. We can certainly see that threefold electricity can be seen as operative even within the level of densest objectivity (a level so commonly associated with the third aspect of divinity). Yet magnetism between the atoms of matter exists as does the electrical change of the atomic nucleus.

106. Chúng ta chắc chắn có thể thấy điện tam phân có thể được xem là vận hành ngay cả trong cấp độ của khách quan đậm đặc nhất (một cấp độ thường được liên hệ với Phương diện thứ ba của thiêng liêng). Dầu vậy, từ tính giữa các nguyên tử của vật chất vẫn tồn tại, cũng như sự biến đổi điện của hạt nhân nguyên tử.

In a secondary sense it concerns the forces in the ethers which are those which energise and produce the activities of all atoms.

Theo nghĩa thứ yếu, nó liên quan đến các mãnh lực trong các cõi dĩ thái, những lực tiếp sinh lực và tạo ra các hoạt động của mọi nguyên tử.

107. DK seems to be suggesting that the threefold electricity under discussion is focally expressive within the densest of all levels of the cosmic physical plane—i.e., on the densest three subplanes of the systemic physical plane.

107. Dường như Chân sư DK đang gợi ý rằng điện tam phân đang được bàn đến là biểu lộ trọng điểm ngay trong cấp đậm đặc nhất của tất cả các cấp của cõi hồng trần vũ trụ—tức là, trên ba cõi phụ đậm đặc nhất của cõi hồng trần hệ thống.

108. If the three streams of electricity are mostly focused on the densest of all levels, they are secondarily focussed on the etheric planes which energize and activate all dense material atoms.

108. Nếu ba dòng điện phần lớn được tập trung ở cấp đậm đặc nhất trong tất cả các cấp, thì chúng một cách thứ yếu lại tập trung trên các cõi dĩ thái, nơi tiếp sức và kích hoạt mọi nguyên tử vật chất đậm đặc.

109. If we rise to the cosmic analogy, the threefold electrical stream would be seen to animate the lower eighteen subplanes and to work in a secondary manner on the cosmic ethers.

109. Nếu chúng ta nâng lên phép tương ứng vũ trụ, thì dòng điện tam phân sẽ được thấy là làm sinh động mười tám cõi phụ thấp và hoạt động theo cách thứ yếu trên các dĩ thái vũ trụ.

Another type deals with the electrical phenomenon which finds its expression in the light which man has somewhat harnessed, in the phenomena such as thunder storms and the manifestation of lightning, with the aurora borealis, and in the production of earth­quakes and all volcanic action.

Một loại khác đề cập đến hiện tượng điện vốn biểu lộ trong ánh sáng mà con người đã phần nào harnessed, trong các hiện tượng như giông bão và sự xuất hiện của tia chớp, với cực quang, và trong việc sinh ra động đất cùng mọi hoạt động núi lửa.

110. Let us tabulate the expressions of another type of electricity—not the threefold type of electricity of which DK has been speaking:

110. Chúng ta hãy lập bảng những biểu hiện của một loại điện kháckhông phải loại điện tam phân mà Chân sư DK đã nói đến:

a. This type of electrical phenomenon finds is expression in light

a. Loại hiện tượng điện này biểu lộ trong ánh sáng

b. It finds its expression in thunderstorms and in the manifestation of lightning

b. Nó biểu lộ trong giông bão và trong sự xuất hiện của tia chớp

c. It finds its expression in phenomena like the aurora borealis

c. Nó biểu lộ trong các hiện tượng như cực quang

d. It finds its expression in the production of earthquakes

d. Nó biểu lộ trong việc sinh ra động đất

e. It finds its expression in all volcanic action

e. Nó biểu lộ trong mọi hoạt động núi lửa

111. Are we speaking of a type of electrical activity allied to the first and second aspects of divinity as well at to the third?

111. Chúng ta có đang nói về một loại hoạt động điện gắn với cả Phương diện thứ nhất và thứ hai của thiêng liêng cũng như với Phương diện thứ ba?

All these manifestations are based on electrical activity of some kind,

Tất cả những biểu lộ này đều đặt nền trên hoạt động điện của một loại nào đó ,

112. We have a very important thought expressed. We are so likely to be limited in our understanding of electrical phenomena. There are many phenomena which we do not consider electrically-based at all, and yet they are.

112. Ở đây có một ý niệm rất quan trọng được nêu ra. Chúng ta rất dễ bị giới hạn trong sự thấu hiểu về các hiện tượng điện. Có nhiều hiện tượng mà chúng ta không hề xem là có nền tảng điện, nhưng thực ra chúng là vậy.

113. Our knowledge of the varieties of electrical phenomena is relatively primitive, thus far.

113. Cho đến nay, hiểu biết của chúng ta về các biến tướng của hiện tượng điện vẫn còn tương đối sơ khai.

and have to do with the “soul of things,” or with the essence of matter.

và liên quan đến “linh hồn của vạn vật”, hay tinh chất của vật chất.

114. The term “soul of things” seems to have a very special meaning.

114. Thuật ngữ “linh hồn của vạn vật” dường như có một ý nghĩa rất đặc thù.

115. We are speaking of the “Anima Mundi” or the “Soul of Matter”. We are not speaking of the higher and more subtle aspects of the soul.

115. Chúng ta đang nói về “Anima Mundi” hay “Linh hồn của Vật chất”. Chúng ta không nói về các phương diện cao và vi tế hơn của linh hồn.

The old Commentary says: [874]

Cổ Luận nói: [874]

“The garment of God is driven aside by the energy of His movements,

“Y phục của Thượng đế được vén sang bên bởi năng lượng của các chuyển động của Ngài,

116. We may assume the term “His” to refer to a Logos—whether the ‘human Logos’, the Planetary Logos or the Solar Logos.

116. Chúng ta có thể giả định từ “Ngài” ở đây chỉ một Logos—dù là ‘nhân Logos’, Hành Tinh Thượng đế hay Thái dương Thượng đế.

117. The true inner “Man” (a Logos) must stand naked, unveiled by his material garment.

117. “Con Người” nội tại chân thật (một Logos) phải đứng trần trụi, không bị che khuất bởi y phục vật chất của Ngài.

118. “His movements” represent the applied energy of a different (and inner) aspect of divinity than the activities of the “garment of God”.

118. “Những chuyển động của Ngài” tượng trưng cho năng lượng được áp dụng của một phương diện (bên trong) khác của thiêng liêng so với các hoạt động của “y phục của Thượng đế”.

and the real Man stands revealed,

và Con Người chân thật được hiển lộ,

119. The soul within the outer form stands revealed.

119. Linh hồn trong hình tướng bên ngoài được hiển lộ.

120. From a higher perspective, the Monad within its still more subtle vestures stands revealed. There are “garments” of many levels of tenuity. Usually, the term “garment” relates to the substance-energy of the lower eighteen subplanes, but the great Logoi have other, higher and finer ‘garments’ which they also wear.

120. Từ một quan điểm cao hơn, Chân Thần trong những xiêm áo còn vi tế hơn nữa được hiển lộ. Có những “y phục” thuộc nhiều cấp độ tinh tế. Thông thường, thuật ngữ “y phục” liên hệ với chất-lực của mười tám cõi phụ thấp, nhưng các Đại Logos còn có những ‘y phục’ khác, cao và tinh tế hơn, mà Các Ngài cũng mặc.

yet remains hidden, for who knows the secret of a man as it exists in his own self-recognition.

nhưng vẫn ẩn tàng, vì ai biết được bí mật của một người như nó tồn tại trong tự-nhận biết của chính y.

121. The greatest Reality is subjective. The real Identity of Man-the-Spirit cannot be revealed through any form of objectivity. The secret is disclosed only in a profound state of inner Self-recognition.

121. Thực tại tối thượng là chủ quan. Chân Ngã thật sự của Con Người-tinh thần không thể được hiển lộ qua bất kỳ dạng khách quan nào. Bí mật chỉ được hé mở trong một trạng thái thâm sâu của sự Tự-nhận biết nội tâm.

122. We are inferring here the existence of a kind of ‘Ultimate Secret’. Perhaps that Secret is never to be revealed—at least not in Cosmos.

122. Ở đây chúng ta hàm ý sự tồn tại của một ‘Bí Mật Tối Hậu’. Có lẽ Bí Mật ấy không bao giờ được hiển lộ—ít nhất là không trong Càn Khôn.

The mystery of electricity deals with the “garment” of God, just as the mystery of polarity deals with His “form.”

Bí nhiệm của điện liên quan đến “y phục” của Thượng đế, cũng như bí nhiệm của cực tính liên quan đến “hình tướng” của Ngài.

123. This is a most important distinction. Electricity relates to the third aspect and to the “garment”. Polarity relates to the second aspect and to “form”.

123. Đây là một phân biệt hết sức quan trọng. Điện liên hệ với Phương diện thứ ba và với “y phục”. Cực tính liên hệ với Phương diện thứ hai và với “hình tướng”.

124. Matter is not form. Form patterns matter.

124. Chất liệu không phải là hình tướng. Hình tướng định dạng chất liệu.

125. The “garment of God” is shapeless until “formed” by means of the Law of Attraction.

125. “Y phục của Thượng đế” vô định hình cho đến khi được “tạo hình” bằng Định luật Hút.

126. We can, perhaps, begin to understand the relationship between polarity, love and beauty of form. The Law of Attraction tends ever towards beauty.

126. Có lẽ chúng ta bắt đầu hiểu mối liên hệ giữa cực tính, tình thương và vẻ đẹp của hình tướng. Định luật Hút luôn hướng về vẻ đẹp.

In the mystery of Polarity, we have three different types of force manifesting and thus it is apparent that the two mysteries deal with the six forces.

Trong bí nhiệm của Cực tính, chúng ta có ba loại lực khác nhau biểu lộ, và như vậy hiển nhiên là hai bí nhiệm nói đến sáu lực.

127. Each of the aspects of divinity is triune. Of this we are certain. Thus, are the links between the aspects assured.

127. Mỗi phương diện của thiêng liêng đều tam phân. Điều này chúng ta chắc chắn. Nhờ đó, các mối nối giữa các phương diện được bảo chứng.

128. The six forces representing the two mysteries combined remind of the six within the Kabala—harmonization represented by the Sun.

128. Sáu lực đại diện cho hai bí nhiệm hợp lại gợi nhớ về con số sáu trong Kabala—sự hòa điệu được biểu tượng bởi Mặt Trời.

129. In the union of the two triplicities of forces representing these two mysteries we encounter the Seal of Solomon—the six-pointed star.

129. Trong sự hợp nhất của hai bộ ba lực đại diện cho hai bí nhiệm này, chúng ta gặp Ấn của Solomon—ngôi sao sáu cánh.

These three types of force are manipulated by the Buddhas of Love.

Ba loại lực này được thao luyện bởi các Đức Phật của Tình thương.

130. Of these Buddhas practically nothing has been said. One an imagine that those who are progressing along the second ray line may be candidates for such work—eventually

130. Về các Đức Phật này hầu như chưa có điều gì được nói. Có thể hình dung rằng những ai đang tiến hóa theo tuyến cung hai có thể rốt cuộc là các ứng viên cho công việc như thế.

131. May we presume that such Buddhas of Love exist at the globe level, the chain level and the planetary logoic level? Sections of text below indicate this.

131. Chúng ta có thể giả định rằng các Đức Phật của Tình thương hiện hữu ở cấp bầu hành tinh, cấp dãy và cấp Hành Tinh Thượng đế? Các đoạn văn bên dưới cho thấy điều này.

They, through Their sacrifice, concern Themselves with the prob­lem of sex, or of “magnetic approach” on all the planes.

Các Ngài, qua sự hy sinh của Mình, tự quan tâm đến vấn đề giới tính, hay “tiếp cận từ tính” trên mọi cõi.

132. We see again that love and sacrifice are inseparable.

132. Chúng ta lại thấy rằng tình thương và hy sinh là bất khả phân.

133. These Buddhas of Love are engaged in most interesting activities.. We see that, in relation to the highest planes, sex and love cannot be separated as they often are ‘below’.

133. Các Đức Phật của Tình thương đang đảm đương những hoạt động rất thú vị. Chúng ta thấy rằng, liên quan đến các cõi cao nhất, tính giao và tình thương không thể tách rời như thường thấy ở “bên dưới”.

134. The definition of sex as “magnetic approach” deserves pondering. Sex, transmuted, becomes “magnetic approach” on higher planes and can be seen as related to the Law of Magnetic Impulse, called esoterically the “Law of Polar Union” and related to Libra—one of the foremost signs of sex (and love). Sex on the higher planes is the “magnetic approach” and fusion of souls and Spirit-units.

134. Định nghĩa về tính giao như là “tiếp cận từ tính” đáng để suy ngẫm. Tính giao, khi được chuyển hóa, trở thành “tiếp cận từ tính” trên các cõi cao và có thể được xem là liên hệ với Định luật Xung Động Từ Tính, được gọi một cách huyền bí là “Định luật Hợp nhất Cực tính” và liên hệ với Thiên Bình—một trong những dấu hiệu hàng đầu về tính giao (và tình thương). Tính giao trên các cõi cao là “tiếp cận từ tính” và sự dung hợp của các linh hồn và các Đơn vị Tinh thần.

135. The only way for the universe (having been subjected to fragmentative-emanation) to regather itself is through sex, desire and love—all ruled by the Law of Attraction and, essentially, under the second aspect of divinity.

135. Cách duy nhất để vũ trụ (sau khi đã bị phân mảnh – xuất lộ) tái nhóm là thông qua tính giao, dục vọng và tình thương—tất cả đều do Định luật Hút chi phối và, về bản chất, nằm dưới Phương diện thứ hai của thiêng liêng.

The Buddha of Whom we speak and Who contacts His people at the full moon of Wesak, is one of the three connected with our globe,

Đức Phật mà chúng ta đang nói đến và Ngài tiếp xúc với dân của Ngài vào kỳ trăng tròn lễ Wesak, là một trong ba vị liên hệ với quả địa cầu của chúng ta,

136. From this we understand that Gautama Buddha is one of the Buddhas of Love associated with our globe.

136. Từ đây, chúng ta hiểu rằng Đức Phật Gautama là một trong các Đức Phật của Tình thương gắn với địa cầu của chúng ta.

137. Yet, if we imagine that the Buddhas of Love are in advance of the Buddhas of Activity, we will have to ponder. There is no way that our Buddha, Gautama, can be considered the peer of the Buddhas of Activity Who have already achieved the status of Planetary Logos in a previous solar system.

137. Tuy vậy, nếu chúng ta tưởng rằng các Đức Phật của Tình thương vượt trội các Đức Phật của Hoạt động, chúng ta sẽ phải suy ngẫm. Không có cách nào để xem Đức Phật của chúng ta, Gautama, là ngang hàng với các Đức Phật của Hoạt động—Những Vị đã đạt trạng thái Hành Tinh Thượng đế trong một Thái dương hệ trước.

138. Yet, it may be presumed that, since the activity aspect of divinity is always first to unfold, the degree of development of the Buddhas of Love must necessarily follow that of the Buddhas of Activity. In general, in our solar system at least, third-aspect B/beings are more fully unfolded than second-aspect B/beings, and both of these are far more unfolded than first-aspect B/beings.

138. Tuy nhiên, có thể giả định rằng, vì phương diện hoạt động của thiêng liêng luôn khai mở trước, nên mức độ phát triển của các Đức Phật của Tình thương tất yếu theo sau các Đức Phật của Hoạt động. Nói chung, ít nhất trong Thái dương hệ của chúng ta, các Hữu thể thuộc Phương diện ba khai mở viên mãn hơn các Hữu thể thuộc Phương diện hai, và cả hai thì vượt xa các Hữu thể thuộc Phương diện một.

139. We note that our Buddha is one of three who work in relation to our globe. Elsewhere in TCF we are told that our Buddha (and nine others upon our planet who are possessed of a third ray Monad) are capable of generating three simultaneous appearances or manifestations. Are we to gather that the other two are (with our Buddha) two of the three possible manifestations of this Buddha Entity (discussed above), or that our Buddha can manifest simultaneously in two other manifestations directly related to Himself?

139. Chúng ta ghi nhận rằng Đức Phật của chúng ta là một trong ba vị hoạt động liên hệ với quả địa cầu của chúng ta. Ở chỗ khác trong TCF, chúng ta được cho biết rằng Đức Phật của chúng ta (và chín người khác trên hành tinh của chúng ta có Chân thần cung ba) có khả năng tạo ra ba sự xuất hiện hay biểu lộ đồng thời. Chúng ta có nên hiểu rằng hai vị kia là (cùng với Đức Phật của chúng ta) hai trong ba biểu lộ có thể có của Thực Thể Phật này (được bàn đến ở trên) , hay rằng Đức Phật của chúng ta có thể đồng thời hiện ra trong hai biểu lộ khác liên hệ trực tiếp với Chính Ngài?

having taken the place of One Who passed on to higher work in connection with the Chain, for the same hierarchical grad­ing is seen as in connection with the Buddhas of Action.

đã đảm nhiệm vị trí của Một Vị đã tiến lên công việc cao hơn liên hệ với Dãy, vì sự phân cấp thứ bậc tương tự cũng thấy trong mối liên hệ với các Đức Phật của Hoạt động.

140. We are speaking of “hierarchical grading”. In this type of hierarchical structuring, we understand that there are different gradings of Buddhas of Love just as there are of Buddhas of Activity (Their higher correspondences being called, first, “Entities” and then “Existences”).

140. Chúng ta đang nói về “phân cấp thứ bậc”. Trong loại cấu trúc phân cấp này, chúng ta hiểu rằng có những cấp bậc khác nhau của các Đức Phật của Tình thương cũng như có của các Đức Phật của Hoạt động (các tương ứng cao hơn của Các Ngài được gọi là, trước hết, các “Thực Thể” rồi đến các “Hữu Thể”).

141. We may pause to consider that our Buddha, almost certainly has a third ray Monad. If this is the case, and if He is expressing as a Monad (which He is), why is He one of the Buddhas of Love?

141. Chúng ta có thể tạm dừng để xét rằng Đức Phật của chúng ta, hầu như chắc chắn, có Chân thần cung ba. Nếu vậy, và nếu Ngài đang biểu hiện như một Chân thần (điều Ngài đang là), vì sao Ngài lại là một trong các Đức Phật của Tình thương?

142. We might also ask whether every Chain Buddha emanates as seven Globe Buddhas. In other words, there would be three Chain Buddhas Who emanate as twenty-one Globe Buddhas.

142. Chúng ta cũng có thể hỏi liệu mỗi Đức Phật của Dãy có phóng xuất thành bảy Đức Phật của Bầu hay không. Nói cách khác, sẽ có ba Đức Phật của Dãy phóng xuất thành hai mươi mốt Đức Phật của Bầu.

One group might be considered the divine Carpenters of the planet­ary system,

Một nhóm có thể được xem là những Thợ Mộc thiêng liêng của hệ hành tinh,

143. The “divine Carpenters” are related to the third aspect. They prepare the materials for assembly.

143. “Thợ Mộc thiêng liêng” liên hệ với Phương diện thứ ba. Họ chuẩn bị vật liệu để lắp ghép.

144. We remember that Jesus (Capricorn) was a carpenter by outer profession. Capricorn, we remember, is closely associated with the third aspect of divinity.

144. Chúng ta nhớ rằng Đức Jesus (Ma Kết) theo nghề bên ngoài là thợ mộc. Ma Kết, như chúng ta nhớ, gắn chặt với Phương diện thứ ba của thiêng liêng.

the other the divine Assemblers of its parts and the Ones Who, through the magnetic influence They wield, unite the diversities and build them into form.

nhóm kia là các Nhà Lắp Ghép thiêng liêng các phần của nó và là Những Vị thông qua ảnh hưởng từ tính mà Các Ngài vận dụng, hợp nhất các sai biệt và kết cấu chúng thành hình tướng.

145. The “divine Assemblers” are to be considered related to the second aspect of divinity.

145. “Các Nhà Lắp Ghép thiêng liêng” nên được xem là liên hệ với Phương diện thứ hai của thiêng liêng.

146. The description of their kind of activity is very beautiful and carries much illumination. Is it not fascinating to think of form as the ‘uniting of diversities’?

146. Mô tả về loại hoạt động của các Ngài thật đẹp và mang nhiều soi sáng. Thật thú vị khi nghĩ về hình tướng như là ‘sự hợp nhất các dị biệt’, phải không?

147. This would be the time to consider the “Law of Assembly” (as it is presented in DINA II). Though it operates in relation to Shamballa, we can see that it comes under the second aspect of divinity.

147. Đây là lúc xem xét “Định luật Tập hợp” (như được trình bày trong DINA II). Dầu nó vận hành liên hệ với Shamballa, chúng ta có thể thấy rằng nó thuộc Phương diện thứ hai của thiêng liêng.

The process in which the initiate is now permitted to share during and after the fourth Initiation of Renunciation (which is presented to him in a successive series of points of revelation) is made possible by his submission to the Law of Sacrifice. This, in its turn, brings his consciousness under the influence—in developing stages—of the Law of Assembly. This is a law to which I have not yet made reference in any of my previous instructions. The initiate can now—through appreciated and comprehended revelation—add to his work with the Plan and its building technique, a capacity to work with divine Purpose and with those substances (etheric in nature) and those energies which permeate the cosmic etheric body (the four higher planes of our cosmic physical plane) under a law which is set in motion by the Father, but which makes the building activity of the Son possible, so that it is utterly in line with divine Purpose. (DINA II 403)

Quá trình mà điểm đạo đồ hiện nay được phép chia sẻ trong và sau lần điểm đạo thứ tư—Cuộc Điểm Đạo Từ Bỏ (được trình bày cho y trong một chuỗi liên tiếp các điểm mặc khải)—được khả hữu nhờ sự quy phục của y đối với Định luật Hy sinh. Điều này, đến lượt nó, đưa tâm thức của y dưới ảnh hưởng—trong các giai đoạn phát triển—của Định luật Tập hợp, Đây là một định luật mà Tôi chưa từng đề cập trong bất kỳ chỉ dẫn trước nào của Tôi. Vị điểm đạo đồ nay có thể—thông qua những mặc khải được trân trọng và thấu hiểu—bổ sung vào công việc của y với Thiên Cơ và kỹ thuật kiến tạo của nó, một năng lực làm việc với Thiên Ý và với những chất liệu (bản chất là dĩ thái) cùng những năng lượng thấm nhập thể dĩ thái vũ trụ (bốn cõi cao của cõi hồng trần vũ trụ của chúng ta) theo một định luật được khởi động bởi Đức Cha, nhưng khiến hoạt động kiến tạo của Đức Con khả hữu, để cho nó hoàn toàn phù hợp với Thiên Ý. (DINA II 403)

There is, first of all, the recognition of a great procedure which must, under the Law of Assembly, be responsible for the bringing in of extra-planetary energies as the redemption of the worlds of being and of form is carried forward by the second divine aspect. Of this procedure I can tell you naught. The place or the location of the procedure of assembly is made clear. It is in the Council Chamber of Shamballa. (DINA II 404)

Trước hết là nhận biết về một đại quy trình vốn, dưới Định luật Tập hợp , phải chịu trách nhiệm cho việc đưa các năng lượng ngoại hành tinh vào khi sự cứu chuộc các thế giới của bản thể và của hình tướng được Phương diện thứ hai thiêng liêng thúc đẩy tiến hành. Về quy trình này Tôi không thể nói gì với các bạn. Nơi chốn hay địa điểm của quy trình tập hợp được nêu rõ. Đó là trong Phòng Hội Đồng của Shamballa. (DINA II 404)

The present ideas anent Sex must be transmuted and raised from the existing lower connotation to its true significance.

Những quan niệm hiện nay về Tính giao phải được chuyển hóa và nâng từ ý nghĩa thấp hiện hữu lên ý nghĩa chân thực của nó.

148. Such transmutation and raising will require a considerable access to buddhic energy, for upon the buddhic plane (and at the fourth initiation) the problem of sex is solved.

148. Sự chuyển hóa và nâng này sẽ đòi hỏi một mức gia tăng đáng kể năng lượng Bồ đề, vì trên cõi Bồ đề (và ở lần điểm đạo thứ tư) vấn đề tính giao được giải quyết.

Sex—in the three worlds—has to do with the work of the lunar Pitris and the solar Lords.

Tính giao—trong ba cõi—liên quan đến công việc của các thái âm tổ phụ và các nhật tinh quân.

149. The relationship between the “solar Lords” and “lunar Pitris” can be considered based upon sex broadly understood.

149. Mối liên hệ giữa “các nhật tinh quân” và “các thái âm tổ phụ” có thể được xem như đặt nền trên tính giao được hiểu theo nghĩa rộng.

150. If we are considering sex as it manifests through humanity, it appears that both the lunar lords and the Solar Pitris are involved.

150. Nếu chúng ta xem xét tính giao như nó biểu lộ qua nhân loại, dường như cả các nguyệt tinh quân và các Thái dương tổ phụ đều can dự.

It signifies essentially the form-building work in substance, and its energising by the spiritual aspect.

Về bản chất, nó biểu thị công việc tạo hình tướng trong chất liệu, và việc chất liệu này được tiếp sinh lực bởi phương diện tinh thần.

151. Human forms, for instance, could not be built unless the builders of form in the lower three worlds were internally energized by the spiritual aspect.

151. Thí dụ, các hình tướng của con người không thể được kiến tạo nếu những người xây hình tướng trong ba cõi thấp không được tiếp sinh lực bên trong bởi phương diện tinh thần.

It signifies the elevation of the material aspect through the influence of Spirit as the two together perform their legitimate function in co-operation and thus—by their mutual union and blending—produce the Son in all His glory.

Nó biểu thị sự nâng cao phương diện vật chất qua ảnh hưởng của Tinh thần khi đôi bên cùng thực hiện chức năng chính đáng của mình trong hợp tác, và như thế—bằng sự tương giao và dung hợp lẫn nhau—sản sinh Đức Con trong tất cả vinh quang của Ngài.

152. Here we have a higher spiritual correspondence of human and animal sexual union.

152. Ở đây, chúng ta có một tương ứng tinh thần cao hơn của sự phối ngẫu giữa người và thú.

153. We see that sex is intended to contain a dimension of both soul and Spirit as well as the dimension of physicality.

153. Chúng ta thấy rằng tính giao được định là bao hàm cả chiều kích của linh hồn và Tinh thần cũng như chiều kích của thể chất.

154. By the words “legitimate function”, it is asserted that sex is to operate ‘under the law’, again suggesting the influence of the sign law and legality, Libra.

154. Cụm từ “chức năng chính đáng” khẳng định rằng tính giao phải vận hành ‘dưới luật’, một lần nữa gợi ý ảnh hưởng của dấu hiệu luật pháp và tính hợp pháp, Thiên Bình.

155. It is also clear that the sex function is to lead to glorification—a blissfully effulgent display of liberated light, love and power.

155. Cũng rõ ràng rằng chức năng tính giao phải dẫn đến sự tôn vinh—một phô bày phúc lạc của quang minh, tình thương và quyền năng giải phóng.

This method of interpreting it is equally true of all the Existences manifesting on any plane, systemic and cosmic.

Cách diễn giải này đúng như nhau đối với tất cả các Hữu Thể biểu lộ trên bất kỳ cõi nào, hệ thống và vũ trụ.

156. DK points to the universality of sex. All sexual interaction is, essentially, through the intimate interplay of the first and third aspects, a process which consummates in the “glorification of the Son”.

156. Chân sư DK chỉ ra tính phổ quát của tính giao. Mọi tương giao mang tính giao, về bản chất, là qua sự tương tác thân mật của Phương diện thứ nhất và thứ ba, một tiến trình được viên mãn trong “vinh quang của Đức Con”.

Certain [875] factors enter into the thought of sex which might be enumer­ated as follows:

Một vài [875] yếu tố đi vào ý niệm về tính giao có thể liệt kê như sau:

157. These factors are general but can be related to sexual interplay as experienced by the human being.

157. Những yếu tố này là tổng quát nhưng có thể liên hệ với sự tương giao tính giao như con người kinh nghiệm.

a. Mutual attraction,

a. Hấp dẫn lẫn nhau,

158. Both poles find themselves attracted, not only one to the other.

158. Cả hai cực đều tự thấy bị thu hút, không phải chỉ cực này với cực kia.

b. Complementary suitability,

b. Tính bổ sung thích hợp,

159. If the parties attracted are to remain together profitably, there must be a degree of complementarity resulting in harmony.

159. Nếu các bên bị thu hút muốn ở cùng nhau một cách hữu ích, phải có một mức độ bổ sung dẫn đến hòa điệu.

160. Often attractions occur, not on the basis of the whole individual, but on the basis of part to part—a part or aspect of one individual being attracted to a part or aspect of the other, and vise-versa.

160. Thường thì hấp dẫn xảy ra không trên nền tảng của toàn thể cá nhân, mà trên nền tảng bộ phận đối bộ phận—một bộ phận hay phương diện của một người bị thu hút bởi một bộ phận hay phương diện của người kia, và ngược lại.

161. If there is to be “complementary suitability”, the two wholes must be complementary, thus raising the probability of harmony.

161. Nếu phải có “tính bổ sung thích hợp”, thì hai cái toàn thể phải bổ sung cho nhau, từ đó nâng cao khả năng hòa điệu.

c. Instinctual appeal,

c. Sức quyến rũ bản năng,

162. The lower vehicles (especially the dense physical nature) must find their own type of harmony and be gratified.

162. Các hiện thể thấp (đặc biệt bản chất thể xác đậm đặc) phải tìm thấy hòa điệu theo kiểu riêng của chúng và được thỏa mãn.

163. It is possible for souls and minds to be attracted to each other with no presence of instinctual, ‘lunar’ appeal. We might call this type of appeal “animal magnetism” or ‘animal appeal’.

163. Có thể các linh hồn và các trí tuệ bị thu hút lẫn nhau mà không có sự hiện diện của sức quyến rũ ‘thuộc nguyệt tính’, bản năng. Chúng ta có thể gọi loại hấp dẫn này là “từ tính thú tính” hay ‘hấp lực thú tính’.

d. Approach, and recognised co-operation,

d. Sự tiếp cận, và hợp tác được nhận biết,

164. When the parties attracted have somewhat transcended their animal nature, they can come together as persons serving the same purpose (or similar purposes) and thus, deliberately, cooperate.

164. Khi các bên bị thu hút đã phần nào vượt lên bản chất thú tính của mình, họ có thể đến với nhau như những người phục vụ cùng một mục đích (hay các mục đích tương tự) và như thế, một cách có chủ ý, hợp tác.

e. Union,

e. Sự hợp nhất,

165. Union can occur on all levels, from the physical to the spiritual

165. Sự hợp nhất có thể xảy ra trên mọi cấp, từ thể chất đến tinh thần

166. An ideal marriage contains all the possible forms of union.

166. Một cuộc hôn phối lý tưởng bao gồm tất cả các dạng hợp nhất khả hữu.

f. The next stage is the temporary importance of the material aspect, that of the Mother, the feminine aspect,

f. Giai đoạn tiếp theo là tầm quan trọng tạm thời của phương diện vật chất, tức phương diện Mẹ, phương diện nữ,

167. Presumably this occurs after the poles have come together and the transmission of life has been effected.

167. Ắt hẳn điều này xảy ra sau khi các cực đã đến với nhau và sự truyền sự sống đã được thực hiện.

168. The Mother is then preeminent, as the foetus is matured within her body.

168. Lúc ấy Mẹ giữ địa vị tối tôn, vì thai nhi được trưởng dưỡng trong thân thể Mẹ.

g. The withdrawal into a temporary retirement of the Father,

g. Sự rút lui vào tình trạng ẩn mình tạm thời của Cha,

169. The work at this stage, is that of the Mother. The Father has played his part in impregnating the Mother. His work will not be called for until a later period of development.

169. Công việc ở giai đoạn này là của Mẹ. Cha đã đóng vai của mình trong việc thụ tinh cho Mẹ. Công việc của Cha sẽ không được gọi đến cho đến một thời kỳ phát triển sau đó.

h. The work of creating the Son,

h. Công cuộc tạo ra Con,

170. This proceeds within the Mother and, following the birth of the Son, concerns his rearing.

170. Việc này diễn tiến trong Mẹ và, sau khi Con sinh ra, liên quan đến việc nuôi dưỡng Con.

i. The evolution and growth of the Son, both materially and in consciousness,

i. Sự tiến hóa và tăng trưởng của Con, cả về vật chất lẫn trong tâm thức,

171. The child is growing up, both materially and in consciousness. He is still, however, under the supervision of the Mother far more than the Father.

171. Đứa trẻ lớn lên, cả về vật chất lẫn trong tâm thức. Tuy nhiên, trẻ vẫn ở dưới sự giám hộ của Mẹ nhiều hơn là của Cha.

j. Emancipation of the Son from his Mother, or the liberation of the soul at maturity from matter,

j. Sự giải phóng của Con khỏi Mẹ, hay sự giải thoát của linh hồn khi trưởng thành khỏi vật chất,

172. The second aspect of divinity must be liberated from the field of influence of the Mother (the third aspect). The Son, however, must be mature in consciousness before this is possible.

172. Phương diện thứ hai của thiêng liêng phải được giải phóng khỏi trường ảnh hưởng của Mẹ (Phương diện thứ ba). Tuy nhiên, Con phải trưởng thành trong tâm thức trước khi điều này khả hữu.

173. If the Son remains tied to the Mother, the result is unhealthy, both physically and psychologically—especially psychologically.

173. Nếu Con còn bị ràng buộc vào Mẹ, hậu quả sẽ không lành mạnh cả về thể chất lẫn tâm lý—nhất là về tâm lý.

174. It is the fourth initiation which demonstrates with finality this emancipation of the Son from the Mother.

174. Chính lần điểm đạo thứ tư chứng minh dứt khoát sự giải phóng này của Con khỏi Mẹ.

k. Recognition by the Son of the Father and his return to that Father,

k. Sự nhận biết của Con về Cha và sự trở về của Con với Cha,

175. The “Prodigal Son” returns to the Father’s Home. This return takes a long time. We can say that it begins at the first “reversal of the wheel” during work within the later fifth petal of the egoic lotus.

175. “Người Con hoang đàng” trở về Nhà của Cha. Sự trở về này kéo dài lâu lắm. Chúng ta có thể nói rằng nó bắt đầu vào lần “đảo ngược bánh xe” đầu tiên trong công phu nơi cánh hoa thứ năm muộn của Hoa Sen Chân Ngã.

176. Once the third initiation has been taken and the individual comes under the direct impression of the Monad, the return to the Father gathers speed and intensity.

176. Khi lần điểm đạo thứ ba đã được thọ và cá nhân đến dưới ấn tượng trực tiếp của Chân Thần, sự trở về với Cha gia tăng tốc độ và cường độ.

The final result of all these successive stages being that all the three aspects have performed their functions (their dharma)

Kết quả cuối cùng của tất cả các giai đoạn liên tiếp này là cả ba phương diện đã thực hiện các chức năng của mình (dharma của chúng)

177. Dharma is function within the whole. Unless an individual has a clear idea of the larger whole in which he is immersed (at least the most proximate larger whole), he will not know his dharma.

177. Dharma là chức năng trong toàn thể. Trừ khi một cá nhân có ý niệm rõ về toàn thể lớn hơn mà y đang chìm đắm trong đó (ít nhất là toàn thể gần nhất), y sẽ không biết dharma của mình.

on the physical plane and all three have demonstrated certain types of energy.

trên cõi hồng trần và cả ba đã biểu lộ những loại năng lượng nhất định.

178. We are now speaking of the three aspects of divinity as they demonstrate on the physical plane.

178. Giờ đây, chúng ta đang nói về ba phương diện của thiêng liêng như chúng biểu lộ trên cõi hồng trần.

The Father aspect manifests in giving the initial impulse or the positive electrical demonstration which is the germ of the created Son, and Whose Life is embodied in the Son.

Phương diện Cha biểu lộ trong việc trao xung lực ban sơ hay biểu lộ điện tính dương vốn là mầm của Con được tạo nên, và Sự Sống của Ngài được hàm chứa trong Con.

179. The Father represents positive electricity. From this positive electrical demonstration or germ, the Son grows.

179. Cha đại diện cho điện tính dương, Từ biểu lộ điện tính dương hay mầm này, Con lớn lên.

180. It is important to realize that the Life of the Father is embodied in the Son. Thus could the Christ say, “He who hath seen me hath seen the Father”.

180. Điều quan trọng là nhận ra rằng Sự Sống của Cha được hàm chứa trong Con. Vì thế Đức Christ mới có thể nói: “Ai thấy Ta là thấy Cha”.

181. From a larger view point we might ask whether we are capable of seeing the Father in all things—i.e., whether when we register any objective presentation we recognize the Father within and behind that demonstration.

181. Từ một quan điểm rộng hơn, chúng ta có thể tự hỏi liệu chúng ta có đủ khả năng thấy Cha trong mọi sự hay không—tức là, liệu khi ghi nhận bất cứ biểu hiện khách quan nào, chúng ta có nhận ra Cha ở bên trong và phía sau biểu lộ ấy hay không.

The occult signif­icance of the words of the Christ in answer to the cry “Lord, show us the Father” is little appreciated. “He that has seen Me has seen the Father, for I and my Father are One,” He said.77 [Bible. John XIV, 8.]

Ý nghĩa huyền linh về lời của Đức Christ đáp lại tiếng kêu “Lạy Chúa, xin tỏ Cha cho chúng con” ít được lĩnh hội. “Ai thấy Ta là đã thấy Cha, vì Ta và Cha là Một,” Ngài nói.77 [Kinh Thánh. Gioan XIV, 8.]

182. As stated above.

182. Như đã nói trên.

183. The personality is the Monad. The Ego or soul is the Monad. Our concrete minds are so divided and divisive that we loose sight of the Spirit in the midst of perceived differentiation.

183. Phàm ngã Chân Thần. Chân ngã hay linh hồn Chân Thần. Thể trí cụ thể của chúng ta phân ly và chia cắt đến nỗi chúng ta đánh mất cái nhìn về Tinh thần giữa lòng những biến phân được tri nhận.

The Mother, or the negative aspect, builds and nourishes, guards and cherishes the Son through the ante-natal, and the infant stages,

Phương diện Mẹ, hay phương diện âm, kiến tạo và nuôi dưỡng, bảo hộ và chở che Con qua giai đoạn tiền sinh, và thời kỳ ấu thơ,

184. We can certainly see the Virgo energy and imagery in expression. The four verbs—“builds”, “nourishes”, “guards” and “cherishes”—are a perfect expression of the Virgo activity. We must also add the words “stands around” as they indicate the close presence of the Mother as the Son is raised.

184. Chúng ta chắc chắn có thể thấy năng lượng và hình tượng Xử Nữ được biểu lộ. Bốn động từ—“kiến tạo”, “nuôi dưỡng”, “bảo hộ” và “chở che”—là biểu đạt hoàn hảo cho hoạt động Xử Nữ. Chúng ta cũng phải thêm cụm “đứng vòng quanh” vì nó chỉ ra sự hiện diện cận kề của Mẹ khi Con được dưỡng nuôi.

and stands around Him during later stages, giving of the energy of her own body and activity in ministry to His need.

và đứng vòng quanh Ngài trong các giai đoạn sau, hiến dâng năng lượng của chính thân thể mình và sự hoạt động trong việc phục vụ theo nhu cầu của Con.

[876]

[876]

185. Two types of energy are given—of the body and that imparted through activity.

185. Hai loại năng lượng được hiến dâng—của thân thể và năng lượng được truyền qua hoạt động.

The Son, the combined energy of Father and of Mother, embod­ies both types and all the dual sets of qualities,

Phương diện Con, năng lượng phối hiệp của Cha và của Mẹ, bao hàm cả hai loại và mọi cặp phẩm tính lưỡng nguyên,

186. The Son contains both Father and Mother and resembles them body.

186. Con ôm chứa cả Cha lẫn Mẹ và đều giống Các Ngài.

187. The Son is “Janus”, seeing in two directions and, really, reaching in two directions.

187. Con là “Janus”, nhìn về hai hướng, và thực ra, vươn tới hai phương.

but has a char­acter all His Own,

nhưng có một tính cách hoàn toàn Riêng Mình,

188. For though the Son partakes of both the Father and Mother, He is a unique, independent Being in his own right.

188. Vì dẫu Con thừa hưởng cả Cha lẫn Mẹ, Con là một Hữu thể độc nhất, độc lập theo quyền của chính mình.

189. One day, the Son must become a Father.

189. Một ngày kia, Con phải trở thành Cha.

190. Of course, we could say that the child of the Father/Mother is the Son and Daughter. If this is the case, then the Daughter must, one day, become the Mother.

190. Dĩ nhiên, chúng ta có thể nói rằng đứa con của Cha/Mẹ là Con và Con Gái, Nếu vậy, thì Con Gái một ngày kia phải trở thành Mẹ.

191. We might say that the ‘Son-as-Sun’ includes the Daughter.

191. Chúng ta có thể nói rằng ‘Con-như-Mặt Trời’ bao gồm cả Con Gái.

192. In Tarot the Daughter is emphasized and a quadruplicity is substituted for the usual trinity of Father-Mother-Son.

192. Trong Tarot, Con Gái được nhấn mạnh, và một bộ tứ được thay thế cho bộ ba thường thấy Cha-Mẹ-Con.

an essence which is His peculiar nature, and an energy which leads Him to fulfil His Own ends and projects,

một tinh chất là bản tính riêng biệt của Ngài, và một năng lượng dẫn dắt Ngài hoàn tất những mục đích và kế hoạch của Riêng Ngài,

193. All this is to say that our children are independent of us. The psychologist (and our experience) can assure us of this fact.

193. Tất cả điều này để nói rằng con cái của chúng ta độc lập với chúng ta. Nhà tâm lý học (và kinh nghiệm của chúng ta) có thể bảo chứng cho thực tế này.

and which will eventually cause Him to repeat the process of producing,—

và cuối cùng sẽ khiến Ngài tái diễn tiến trình sáng tạo,—

1. Conception,

1. Thụ thai,

2. Creation,

2. Kiến tạo,

3. Conscious growth,

3. Tăng trưởng trong tâm thức,

as did His Father.

như Cha của Ngài đã làm.

194. This is another way of saying that the Son becomes the Father and follows in His Father’s footsteps.

194. Đây là một cách khác để nói rằng Con trở thành Cha và bước theo dấu chân của Cha.

When we reach the mystery of Fire,

Khi chúng ta chạm đến bí nhiệm của Lửa,

195. That which pertains specifically to the first aspect of divinity…

195. Điều thuộc đặc thù của Phương diện thứ nhất của thiêng liêng…

we are concerned with that mysterious extra-systemic energy which is the basis of both the activity of Mother and the Life of the Son. The Son in very deed “becomes His Mother’s husband,” as say the ancient Scriptures. This is but an enigmatical phrase unless interpreted in terms of the combination of energy.

chúng ta liên hệ với năng lượng bí ẩn ngoại-thái-dương-hệ vốn là nền tảng cho cả hoạt động của Mẹ lẫn Sự Sống của Con. Quả thật Con “trở thành phu quân của Mẹ Mình”, như các Thánh Thư cổ xưa đã nói. Đây chỉ là một ngữ cú bí ẩn trừ phi được giải nghĩa theo các thuật ngữ kết hợp của năng lượng.

196. VSK suggests: “This may prove the occult veracity to the mythological, psychological, ‘oedipal complex’.”

196. VSK gợi ý: “Điều này có thể chứng minh tính xác thực huyền linh của ‘phức cảm Oedipus’ trong huyền thoại và tâm lý học.”

197. Extra-systemic energy is cosmic energy.

197. Năng lượng ngoại-thái-dương-hệ là năng lượng vũ trụ.

198. If we consider closely the “One About Whom Naught May Be Said”, we shall find the Central Authority of our own local cosmo-system, and yet that Authority is additionally feminine in nature.

198. Nếu chúng ta suy tư sâu về “Đấng Bất Khả Tư Nghị”, chúng ta sẽ tìm thấy Quyền Lực Trung Tâm của chính cục hệ vũ trụ địa phương của chúng ta, và dầu vậy Quyền Lực ấy lại còn mang tính nữ nữa.

199. All the great Beings have their masculine and feminine sides.

199. Mọi Đấng Vĩ Đại đều có mặt nam và mặt nữ của Các Ngài.

200. How is it that the Son “becomes His Mother’s husband”? We might consider the Mother as ever-receptive Matter and the Son (and a whole series of Sons) as the progressively generated Creators who fecundate matter with their inherent life pattern.

200. Làm sao Con “trở thành phu quân của Mẹ Mình”? Chúng ta có thể xem Mẹ như Chất liệu muôn thuở tiếp nhận, và Con (và một chuỗi các Con) như những Đấng Sáng Tạo được phát sinh tiệm tiến, những Đấng gieo mầm cho chất liệu bằng mô thức sự sống nội tại của Các Ngài.

201. Is this another way of saying that Mulaprakriti in one form or another, is ever-receptive to every creative impulse arising within the Son Who Himself has become the Father?

201. Có phải đây là một cách khác để nói rằng Mulaprakriti, dưới hình thái này hay hình thái khác, luôn tiếp nhận mọi xung lực sáng tạo phát sinh trong Con—Đấng tự Ngài đã trở thành Cha?

202. Every C/creator must come into relationship with Mulaprakriti (whether archetypal Mulaprakriti and modified Mulaprakriti).

202. Mọi Đấng Sáng tạo/nhà sáng tạo đều phải đi vào mối liên hệ với Mulaprakriti (dù là Mulaprakriti nguyên mẫu hay Mulaprakriti đã được cải biến).

Only when the Son has reached maturity and knows Himself as essentially the same as the Father can He consciously perform His Father’s function,

Chỉ khi Con đã đạt đến sự trưởng thành và biết Mình về bản thể là đồng nhất với Cha thì Ngài mới có thể tự ý thức thực hiện chức năng của Cha,

203. The Son grows into being a Father.

203. Con lớn lên để trở thành một Người Cha.

204. The maturing Son discovers the Father within himself.

204. Con trưởng thành khám phá ra Cha ở trong chính mình.

205. But the Son must grow towards and into the Father’s function.

205. Nhưng Con phải tăng trưởng hướng tới và đi vào chức năng của Cha.

206. Every soul may be asked: “Who or what do you know yourself to be?

206. Mọi linh hồn có thể được hỏi: “Ngươi biết mình là ai hay là gì?”

and produce and perpetuate that which is needed for the sustaining of cosmic generation.

và sản sinh, duy trì cái cần cho việc tiếp diễn của sự sinh hóa vũ trụ.

207. If the Son is to become the Father, is the Daughter to become the Mother?

207. Nếu Con sẽ trở thành Cha, thì Con Gái có trở thành Mẹ chăng?

208. This must remain a mystery for us. Perhaps the hermaphroditic nature of the Son must always be held in mind, for the Son contains both the Father and the Mother. And yet, the Son grows towards the function of the Father and not that of the Mother, Who remains ever the receiver of future fecundation from all Her generated Sons.

208. Điều này với chúng ta vẫn còn là bí nhiệm. Có lẽ bản tính lưỡng tính của Con phải luôn được ghi nhớ, vì Con bao gồm cả Cha và Mẹ. Tuy nhiên, Con lớn lên hướng đến chức năng của Cha chứ không phải của Mẹ—Đấng mãi mãi là kẻ tiếp nhận sự gieo mầm tương lai từ tất cả các Con do Bà sinh ra.

209. One way of looking at the Daughter is as the offspring of the Mother alone through a process paralleling “Parthenogenesis”. When the Son becomes the Father, He becomes a modified Father and relates sexually to a modified Mother (a modified Mulaprakriti—the Mother’s Daughter—and not to utterly pure Mulaprakriti).

209. Một cách nhìn về Con Gái là như hậu duệ của riêng Mẹ qua một tiến trình song song với “Trinh thai sinh”. Khi Con trở thành Cha, Ngài trở thành một Người Cha đã được cải biến và tương giao tính giao với một Người Mẹ đã được cải biến (một Mulaprakriti đã được cải biến—Con Gái của Mẹ—chứ không phải Mulaprakriti hoàn toàn nguyên sơ).

210. In this way, every Son takes as His ‘Wife’ the Daughter in the form of a modified Mother (a less primal or foundational form of Mulaprakriti).

210. Như thế, mỗi Con nhận “Vợ” là Con Gái dưới hình thức một Người Mẹ đã được cải biến (một dạng Mulaprakriti kém nguyên thủy hơn).

211. These are all ‘cosmic family matters’. Of one thing we can be sure—Three are One. For that matter, Four are One.

211. Đây đều là những ‘chuyện đại gia đình vũ trụ’. Có một điều chúng ta có thể chắc— Ba là Một. Vả lại, Bốn là Một.

Scroll to Top