Bình Giảng về Lửa Vũ Trụ S7S5 (791-807)

TCF 791- 807: S7S5

20 May – 4 June 2008

20 tháng 5 – 4 tháng 6 năm 2008

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Hầu hết văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16 để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong các lớp học. Chú thích và tham chiếu từ các sách AAB khác và từ các trang khác của TCF được đặt ở cỡ chữ 14. Lời bình ở cỡ chữ 12. Gạch dưới, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph. So please read an entire paragraph and then study the analysis.

Đề nghị đọc Bài Bình giảng này kèm theo cuốn TCF trong tay , vì lợi ích của tính liên tục. Khi phân tích văn bản được tiến hành, nhiều đoạn được chia nhỏ, và cách trình bày cô đọng trong chính cuốn sách sẽ truyền đạt ý nghĩa tổng quát của đoạn văn. Vì vậy xin hãy đọc trọn một đoạn rồi hãy nghiên cứu phần phân tích,

              (h.) Incarnation and Karma. In resuming our consid­eration of the process pursued by the reincarnating Ego,

(h.) Lâm phàm và Nghiệp quả. Khi nối lại sự khảo xét của chúng ta về tiến trình được theo đuổi bởi Chân ngã tái lâm,

1. The process under discussion is one of movement towards incarnation.

1. Tiến trình đang được thảo luận là một sự chuyển động hướng tới lâm phàm.

it is necessary to point out that the entire subject radically con­cerns energy,

cần chỉ ra rằng toàn bộ đề tài này căn bản liên hệ đến năng lượng ,

2. The term “radically” means essentially and fundamentally.

2. Thuật ngữ “căn bản” ở đây có nghĩa là thiết yếu và nền tảng.

and that according to the place in evolution of the unit of force involved, so will the length of time required for the process be brief, or the reverse.

và rằng tùy theo vị trí trên đường tiến hóa của đơn vị lực được liên hệ, thời lượng cần cho tiến trình sẽ ngắn, hoặc ngược lại.

3. The “unit of force” in this instance is the reincarnating human being—technically, the “Jiva”.

3. “Đơn vị lực” trong trường hợp này là con người tái lâm—về mặt kỹ thuật là “Jiva”.

In the early stages, the initiatory impulse is heavy and slow,

Ở các giai đoạn sơ khai, xung lực khởi phát là nặng nề và chậm chạp,

4. By “the initiatory impulse” is meant the impulse which initiates incarnation.

4. “Xung lực khởi phát” là chỉ xung lực khởi sự sự lâm phàm.

and the matter re­quir­ed for the sheaths is of a correspond­ing­ly “low” grade, that is, it is of low vibratory capacity,

và chất liệu cần cho các vỏ bọc tương ứng thuộc “phẩm” thấp, tức là có năng lực rung động thấp,

5. By “low vibratory capacity” is meant the incapacity of such matter to achieve a relatively high frequency of vibration.

5. “Năng lực rung động thấp” có nghĩa là sự bất năng của chất liệu đó trong việc đạt tới một tần số rung động tương đối cao.

6. We note that matter of “low vibratory capacity” is required. Matter of higher vibratory capacity would not be suitable for the kinds of developments to be achieved a that early stage.

6. Chúng ta ghi nhận rằng chất liệu có “năng lực rung động thấp” là điều cần, Chất liệu có năng lực rung động cao hơn sẽ không thích hợp cho những loại phát triển phải đạt được ở giai đoạn sớm ấy.

and the time elapsing between the first vibration outwards on the mental plane,

và thời gian trôi qua giữa rung động đầu tiên hướng ra bên ngoài trên cõi trí,

7. That vibration comes from the higher mental plane. The lower mental subplanes are, with respect to the higher subplanes, in a direction esoterically “outwards”.

7. Rung động đó đến từ cõi thượng trí. Các cõi phụ hạ trí, so với các cõi phụ thượng trí, theo hướng nội môn là “hướng ra ngoài”.

and the coordination of the dense physical body is a long one.

và sự điều hợp của thể xác đậm đặc là một khoảng dài.

8. We may often think of the interval lasting from the time of physical death to the time of reabsorption into the causal body as lengthy or the reverse, but perhaps we do not so often think of the great period of time which can be spent from the moment of the initial impulse towards incarnation and the time of the coordination of the dense physical body.

8. Chúng ta thường nghĩ khoảng thời gian từ lúc chết thể xác đến lúc tái hấp thu vào thể nguyên nhân là dài hay ngắn, nhưng có lẽ không thường nghĩ tới khoảng thời gian rất dài tính từ khoảnh khắc xung lực khởi đầu hướng tới lâm phàm cho đến lúc điều hợp được thể xác đậm đặc.

Later on, the vibration becomes more powerful and the effects therefore are more rapidly felt.

Về sau, rung động trở nên mạnh mẽ hơn và vì vậy các hiệu ứng được cảm nhận mau lẹ hơn.

9. A more powerful vibration initiated from the Ego on the higher mental plane results in a shorter time period between the initiation of that vibration and the coordination of the dense physical body.

9. Một rung động mạnh mẽ hơn, được khởi phát từ Chân ngã trên cõi thượng trí, dẫn đến một thời đoạn ngắn hơn giữa lúc khởi rung và lúc điều hợp thể xác đậm đặc.

At the close of evolu­tion, when the human unit is upon the Path and consciously controlling his destiny, and working off [792] karma,

Vào cuối tiến hóa, khi đơn vị nhân loại đã ở trên Thánh Đạo và tự ý thức kiểm soát định mệnh của mình, và đang làm tiêu tan [792] nghiệp quả,

10. The implication is that the human unit of low development does not consciously control his destiny and cannot consciously work off karma.

10. Hàm ý là đơn vị nhân loại kém phát triển không tự ý thức kiểm soát định mệnh của mình và không thể có ý thức làm tiêu tan nghiệp quả.

11. Disciples and initiates, it seems, are, before birth, consciously involved in arranging the destiny of their impending incarnation as a human being in the three lower worlds. They are also, it seems, consciously aware of the potential for the working off of karma in that impending incarnation.

11. Dường như các đệ tử và điểm đạo đồ, trước khi sinh, có ý thức tham dự vào việc sắp đặt định mệnh của kiếp lâm phàm sắp tới trong ba cõi thấp. Có vẻ như họ cũng có ý thức về tiềm năng làm tiêu tan nghiệp quả trong kiếp lâm phàm sắp tới đó.

the intervals intervening between two incarnations are brief or not as the man may choose in the interests of the work to be done, and according to his intention to achieve liberation from form.

các khoảng cách xen giữa hai lần lâm phàm là ngắn hay không tùy theo lựa chọn của người ấy vì lợi ích của công việc cần làm, và tùy theo ý định đạt đến giải thoát khỏi hình tướng.

12. It would seem that, in the interests of the work to be done, or to achieve the capacity to be liberated from form, the intervals between two incarnation can be brief or not. The man, himself, chooses and the choice is not made for him as in earlier incarnations. Perhaps, for such reasons, a lengthy interval might be chosen. There appears to be no hard and fast rule that disciples must necessarily return to incarnation very rapidly, though DK seems to indicate this as desirable and customary.

12. Có vẻ là, vì lợi ích của công việc cần làm, hay để đạt năng lực giải thoát khỏi hình tướng, các khoảng giữa hai lần lâm phàm có thể ngắn hay không. Chính con người lựa chọn và sự lựa chọn không còn được làm thay như trong các kiếp trước. Có lẽ, vì các lý do như thế, một khoảng dài có thể được chọn. Có vẻ như không có quy tắc cứng nhắc nào buộc các đệ tử nhất thiết phải trở lại lâm phàm rất nhanh, dù Chân sư DK dường như chỉ ra điều đó là đáng mong muốn và thường lệ.

It must also be remembered that as the evolutionary process proceeds, the egoic activity calls out response not only from substance in the three worlds, but also from the formless levels of the system.

Cũng cần nhớ rằng khi tiến trình tiến hóa tiếp diễn, hoạt động của Chân ngã gọi ra đáp ứng không chỉ từ chất liệu trong ba cõi, mà còn từ các cõi vô tướng của hệ.

13. DK is calling our attention to a type of dual evocation. The intensifying egoic vibration evokes response not only from the lower three worlds but from the levels of the cosmic ethers.

13. Chân sư DK đang lưu ý chúng ta về một kiểu khẩn thỉnh đôi. Rung động chân ngã ngày càng tăng gọi ra sự đáp ứng không chỉ từ ba cõi thấp mà còn từ các cõi dĩ thái vũ trụ.

14. These higher energies become increasingly influential in the life of the man in the three lower worlds as egoic activity intensifies.

14. Các năng lượng cao hơn này trở nên ngày càng có ảnh hưởng trong đời sống người ở ba cõi thấp khi hoạt động của Chân ngã gia tăng cường độ.

The response will be felt finally on monad­ic levels. Then, after a moment of equilibrium, the effect of the rhythm is felt entirely on the higher planes, and leaves the lower.

Sự đáp ứng rốt cuộc sẽ được cảm nhận trên các cảnh giới chân thần. Rồi, sau một khoảnh khắc quân bình , tác dụng của tiết tấu được cảm nhận hoàn toàn trên các cõi cao, và rời bỏ các cõi thấp.

15. This “moment of equilibrium” may well be another name for the state which develops during the destruction of the causal body.

15. “Khoảnh khắc quân bình” này rất có thể là một tên gọi khác cho trạng thái phát sinh trong lúc hủy diệt thể nguyên nhân.

16. Of which “rhythm” are we speaking—the beat of the egoic ‘heart’? A transference is in process and a refocussing on higher planes. We have here yet another way of describing the process of the fourth initiation.

16. Chúng ta đang nói về “tiết tấu” nào—nhịp đập của “quả tim” chân ngã? Một sự chuyển vị đang diễn tiến và một sự tái tập trung trên các cõi cao hơn. Ở đây chúng ta lại có một cách khác để mô tả tiến trình của lần điểm đạo thứ tư.

17. Interestingly enough, we learn on TCF 1081 that the thirteenth category of Monads (corresponding to the Monads who are expressing the Jewel in the Lotus fully) is called “the equilibrised atoms”.

17. Thật đáng lưu ý, ở TCF 1081 chúng ta học rằng hạng thứ mười ba của các Chân thần (tương ứng với các Chân thần biểu lộ Viên Ngọc trong Hoa Sen một cách trọn vẹn) được gọi là “những nguyên tử đã được quân bình”.

The word “moment” is used here in its occult significance to specify a period of time, and must be considered as a period relative to a day or year of Brahma.

Từ “khoảnh khắc” được dùng ở đây theo ý nghĩa nội môn để chỉ định một thời đoạn , và phải được xem là một thời đoạn tương đối với một ngày hay một năm của Brahma.

18. If the hypothesis offered above (regarding the period of the fourth initiation) is correct, the period concerning the destruction of the causal body and a refocussing on the cosmic ethers would still be very brief in relation to a day or year of Brahma.

18. Nếu giả thuyết nêu trên (liên quan đến thời kỳ của lần điểm đạo thứ tư) là đúng, thì thời đoạn liên quan đến sự hủy diệt thể nguyên nhân và sự tái tập trung trên các cõi dĩ thái vũ trụ vẫn rất ngắn nếu so với một ngày hay một năm của Brahma.

19. We will want to note that, below, DK uses the term “Brahmic moment” to indicate processes which concern the egoic groups specifically. A “moment” however is an imprecise term and there may be many “moments” of greater and lesser duration. The period of the destruction of the causal body may be considered one such “moment” in the life of the Ego.

19. Chúng ta sẽ muốn lưu ý rằng, bên dưới, Chân sư DK dùng thuật ngữ “khoảnh khắc Brahma” để chỉ những tiến trình liên quan đặc thù đến các nhóm chân ngã. Tuy nhiên, “khoảnh khắc” là một thuật ngữ không chuẩn xác và có thể có nhiều “khoảnh khắc” dài ngắn khác nhau. Thời kỳ hủy diệt thể nguyên nhân có thể được xem là một “khoảnh khắc” như thế trong đời sống của Chân ngã.

20. Of course, the duration of the period when consciousness is focussed on the cosmic ethers would not be brief—at least from our present human perspective.

20. Dĩ nhiên, thời đoạn mà tâm thức được tập trung trên các cõi dĩ thái vũ trụ sẽ không ngắn—ít nhất là từ phối cảnh con người hiện thời của chúng ta.

One of the secrets of initiation is concerned with the apprehension of cycles, and with their duration, and the following terms have to be appreciated, their duration recognised, and their antithesis (an intervening pralaya) duly considered before a man is considered a true occultist.

Một trong những bí nhiệm của điểm đạo liên quan đến sự lĩnh hội các chu kỳ, và thời lượng của chúng , và các thuật ngữ sau đây cần được am tường, thời lượng của chúng cần được nhận biết, và đối đãi của chúng (một giai kỳ qui nguyên xen giữa) cần được xét đến đúng mức trước khi một người được xem là một nhà huyền bí học chân chính.

21. We cannot realistically expect that we will fully fathom the meaning of the cycles discussed below. What is important, is to realize that if a disciple or probationary initiate does not appreciate the significance of the terms offered, understanding both their duration and the pralayic periods associated with each cycle, he cannot be considered a “true occultist”.

21. Chúng ta không thể kỳ vọng thực tế rằng mình sẽ thấu triệt đầy đủ ý nghĩa của các chu kỳ được thảo luận bên dưới. Điều quan trọng là nhận ra rằng nếu một đệ tử hay một điểm đạo đồ dự bị không am tường ý nghĩa của các thuật ngữ được đưa ra, hiểu cả thời lượng của chúng và các giai kỳ qui nguyên gắn với mỗi chu kỳ, y không thể được xem là một “nhà huyền bí học chân chính”.

22. We do register the fact that our knowledge of cycles is presently scant and patchy. This will gradually be remedied by the knowledge conveyed during the initiatory process.

22. Chúng ta ghi nhận rằng tri thức hiện tại của chúng ta về các chu kỳ còn thưa thớt và rời rạc. Điều này sẽ dần được chữa trị bởi tri thức được truyền đạt trong quá trình điểm đạo.

23. We may find that some of the terms offered below correspond well to the thoughts we have, thus far, built up concerning certain cycles and their duration. Some definitions below may, however, be at variance with those already established in our minds.

23. Chúng ta có thể thấy rằng một vài thuật ngữ được đưa ra bên dưới phù hợp tốt với những tư tưởng mà chúng ta đã hình thành cho đến nay liên quan đến một số chu kỳ và thời lượng của chúng. Tuy nhiên, một vài định nghĩa bên dưới có thể lại mâu thuẫn với những điều đã ăn sâu trong tâm trí chúng ta.

a. 100 years of Brahma         … An occult century. The period of a solar system.

a. 100 năm của Brahma … Một thế kỷ huyền môn. Thời kỳ của một hệ mặt trời.

24. This is the standard definition.

24. Đây là định nghĩa chuẩn.

25. We must pause to realize, however, that the estimate for the duration of a solar system hypothesized by modern scientific thought and the duration asserted by the Ageless Wisdom are, to put it mildly, vastly different.

25. Chúng ta phải dừng lại để nhận ra rằng ước lượng về thời lượng của một hệ mặt trời theo giả thuyết khoa học hiện đại và thời lượng được khẳng quyết bởi Minh Triết Ngàn Đời, nói nhẹ đi thì, khác biệt một cách khổng lồ.

26. Are all periods of “100 years of Brahma” exactly equal. There are hints which point in this direction, and yet we may also reasonably infer that the previous solar system, said to have lasted an “occult century” or “100 years of Brahma” was greater in duration than the present solar system will be. What we are asking is whether all “occult centuries” are equal.

26. Liệu mọi thời kỳ “100 năm của Brahma” có bằng nhau tuyệt đối? Có những gợi ý theo hướng này, và tuy vậy chúng ta cũng có thể suy luận hợp lý rằng hệ mặt trời trước, được nói là kéo dài một “thế kỷ huyền môn” hay “100 năm của Brahma”, dài hơn hệ mặt trời hiện tại sẽ có. Điều chúng ta đang hỏi là liệu tất cả “các thế kỷ huyền môn” có bằng nhau hay không.

b. One year of Brahma                         … The period of seven chains, where the seven planetary schemes are concerned.

b. Một năm của Brahma … Thời kỳ của bảy dãy, xét về các hệ hành tinh.

27. Is this “period of seven chains” the same as the duration of an entire planetary scheme? If this is the case, we have a great discrepancy, for it is said that some of the planetary schemes endure throughout the mahamanvantara, and a “Year of Brahma” is but one one-hundredth of a mahamanvantara!

27. Liệu “thời kỳ của bảy dãy” này có đồng nhất với thời lượng của trọn vẹn một hệ hành tinh? Nếu đúng vậy, ta có một bất khớp lớn, vì người ta nói rằng một vài hệ hành tinh tồn tại xuyên suốt Đại giai kỳ sinh hóa, trong khi “Một năm của Brahma” chỉ là một phần một trăm của Đại giai kỳ sinh hóa!

In connection with these two planets, it must be remembered that Venus is a sacred planet and the Earth is not. This means that certain of the planets are to the Logos what the permanent atoms are to man. They embody principles. Certain planets afford only temporary homes to these principles. Others persist throughout the mahamanvantara. Of these Venus is one. (TCF 298-299)

Liên hệ đến hai hành tinh này, cần nhớ rằng Kim Tinh là một hành tinh thiêng liêng còn Địa Cầu thì không. Điều này có nghĩa là một vài hành tinh đối với Thái dương Thượng đế như các nguyên tử trường tồn đối với con người. Chúng hàm chứa các nguyên khí. Một vài hành tinh chỉ cung cấp nơi cư trú tạm thời cho các nguyên khí này. Những hành tinh khác tồn tại suốt Đại giai kỳ sinh hóa. Trong số đó có Kim Tinh. (TCF 298-299)

28. Certainly, if planetary schemes are as chakras to the Solar Logos, then it would be impossible that they endure for only one Year of Brahma. In any living B/being the seven major chakras must be fully functioning (so it would reasonably seem), for all or, at least, the greater part of its manifestational life.

28. Chắc chắn, nếu các hệ hành tinh là các luân xa đối với Thái dương Thượng đế, thì không thể nào chúng chỉ tồn tại trong một Năm của Brahma. Trong bất kỳ Hữu thể sống nào, bảy luân xa chủ yếu hẳn phải hoạt động đầy đủ (dường như là vậy) suốt toàn bộ, hoặc ít nhất phần lớn của thời kỳ biểu lộ của Hữu thể ấy.

29. Or is a “period of seven chains” but one seventh of seven such periods to be experienced by a Planetary Logos?

29. Hay “thời kỳ của bảy dãy” chỉ là một phần bảy của bảy thời kỳ như vậy mà một Hành Tinh Thượng đế sẽ trải qua?

30. Is it significant that a period equating to a “Month of Brahma” is missing?

30. Có ý nghĩa gì chăng khi một số đo tương đương với “Tháng của Brahma” lại vắng mặt?

31. As the number twelve is so important in occultism, relating closely to the number seven, we would hardly expect it to be dissociated from the figure of a year—and a year is one of the fundamental ‘Brahmic’ measures.

31. Vì con số mười hai quan trọng đến vậy trong huyền học, liên hệ mật thiết với con số bảy, chúng ta khó có thể mong đợi nó bị tách rời khỏi hình ảnh của một năm—và một năm một trong những đơn vị đo ‘Brahma’ nền tảng.

32. One more point: sometimes planetary schemes are called “chains”. They were so in the old theosophical writings. If, in this context, by “chains”, DK actually means planetary schemes, then an entirely different interpretation would be suggested.

32. Thêm một điểm nữa: đôi khi các hệ hành tinh được gọi là “dãy”. Trong các trước tác Thông Thiên học cũ, chúng được gọi như thế. Nếu, trong ngữ cảnh này, khi nói “dãy”, Chân sư DK thực sự muốn nói “hệ hành tinh”, thì một cách giải thích hoàn toàn khác sẽ được gợi ra.

33. If we examine closely what DK has said above, we will note that it is perhaps purposely vague and can be interpreted in diverse ways. We also know that this whole matter of schemes, chains, globes and the rounds which emphasize them apparently in sequential order is very blinded. Much caution is needed, therefore, if we are to have any hope of penetrating the occult blinds.

33. Nếu chúng ta khảo sát kỹ điều Chân sư DK đã nói ở trên, chúng ta sẽ nhận ra có lẽ nó cố ý mơ hồ và có thể được diễn giải theo nhiều cách. Chúng ta cũng biết rằng toàn bộ vấn đề về hệ, dãy, bầu và các cuộc tuần hoàn nhấn mạnh chúng một cách dường như tuần tự, rõ ràng là được che mờ, Do đó, cần cực kỳ thận trọng nếu chúng ta muốn có hy vọng xuyên qua các bức màn che huyền bí.

34. How many periods of seven chains are there where the planetary schemes are concerned? One way of interpreting a scheme round is that it is precisely one of seven periods of seven chains (i.e., seven periods of sequential emphasis upon each of the seven chains).

34. Có bao nhiêu thời kỳ của bảy dãy liên quan đến các hệ hành tinh? Một cách diễn giải một cuộc tuần hoàn hệ là: đó chính là một trong bảy thời kỳ của bảy dãy (tức bảy thời kỳ nhấn mạnh tuần tự trên mỗi dãy trong bảy dãy).

35. Could it be, however, that this figure of a “Year of Brahma” refers not to the completion of a planetary scheme’s entire process, but merely to the period of focus upon a planetary scheme as a solar systemic round passes through it, activating in some manner all of its seven chains, thus stimulating a “period of seven chains where the seven planetary schemes are concerned”?

35. Tuy vậy, có thể con số “Một năm của Brahma” này không ám chỉ sự hoàn tất toàn thể tiến trình của một hệ hành tinh, mà chỉ ám chỉ thời kỳ tập trung vào một hệ hành tinh khi một cuộc tuần hoàn hệ mặt trời đi qua nó, kích hoạt theo một cách nào đó tất cả bảy dãy của nó, do đó kích thích “một thời kỳ của bảy dãy liên hệ đến các hệ hành tinh”.

36. We must remember that if a Logos (of any kind) focuses upon a particular chain (or chakra), it is not the same as saying that only that chakra is active within the energy body of that Logos. A Logos may have multiple simultaneous foci, with one of them being the major focus.

36. Cần nhớ rằng nếu một Thượng đế (bất kỳ cấp nào) tập trung vào một dãy (hay luân xa) nào đó, điều đó không đồng nghĩa rằng chỉ luân xa đó hoạt động trong thể năng lượng của Thượng đế ấy. Một Thượng đế có thể có nhiều tiêu điểm đồng thời, với một trong số đó là tiêu điểm chủ đạo,

37. The following could occur in relation to a solar systemic round:

37. Những điều sau có thể xảy ra liên hệ đến một cuộc tuần hoàn hệ mặt trời:

a. Each planetary scheme could be activated sequentially in a focal way

a. Mỗi hệ hành tinh có thể được kích hoạt lần lượt theo cách tập trung

b. A pralaya of the same duration as the activation could occur following the activation

b. Một giai kỳ qui nguyên có thời lượng bằng với thời gian kích hoạt có thể xảy ra sau mỗi lần kích hoạt

c. Thus, in all, there would be seven activations and seven pralayas for each solar systemic round, (That there are presently ten well-designated planetary schemes will have to be reckoned with. Seven of the ten are fundamental.)

c. Vì vậy, tổng cộng sẽ có bảy lần kích hoạt và bảy giai kỳ qui nguyên cho mỗi cuộc tuần hoàn hệ mặt trời, (Việc hiện có mười hệ hành tinh được xác định rõ ràng sẽ phải được cân nhắc. Bảy trong mười hệ là nền tảng.)

d. Given seven solar systemic rounds, there would be ninety-eight (7 x 14) activation periods during that lengthy and solar-systemically complete period, and each activation period would last one Year of Brahma.

d. Với bảy cuộc tuần hoàn hệ mặt trời , sẽ có chín mươi tám (7 x 14) thời kỳ kích hoạt trong giai đoạn dài và trọn vẹn theo tầm mức hệ mặt trời đó, và mỗi thời kỳ kích hoạt kéo dài một Năm của Brahma.

e. The figure ninety-eight is approaching the period of an Occult Century, or 100 Years of Brahma.

e. Con số chín mươi tám tiến gần thời lượng của một Thế kỷ Huyền môn, tức 100 Năm của Brahma.

f. To speak of a solar systemic round in this way does not, however, reveal the manner in which these activations would occur or whether they would be strictly sequential or some combination of sequential and simultaneous—a more likely option given the necessity of equating planetary schemes with solar systemic chakras.

f. Nói về một cuộc tuần hoàn hệ mặt trời theo cách này, tuy nhiên, không bộc lộ cách thức các kích hoạt này xảy ra hoặc liệu chúng có hoàn toàn tuần tự hay là một sự kết hợp giữa tuần tự và đồng thời—một khả năng có lẽ hợp lý hơn khi cần đồng nhất các hệ hành tinh với các luân xa hệ mặt trời.

38. In any case, it is unlikely that the entire duration of any planetary scheme would be only one Year of Brahma or one one-hundreth of an occult century.

38. Dù sao đi nữa, khó có khả năng toàn bộ thời lượng của bất kỳ hệ hành tinh nào chỉ là một Năm của Brahma hay một phần một trăm của một thế kỷ huyền môn.

39. If this caveat is correct, we have to find some method of explaining point “b.” other than the obvious method.

39. Nếu cảnh báo này là đúng, chúng ta phải tìm một phương pháp khác để giải thích điểm “b.” ngoài cách hiển nhiên.

40. Let us recapitulate the kinds of rounds there may be:

40. Hãy tóm lược các loại “cuộc tuần hoàn” có thể có:

a. The ordinary chain round, with which we are so familiar. The life emphasis of the Logos in question (whether Solar Logos, Planetary Logos or Man) passes through seven globes.

a. Cuộc tuần hoàn dãy thông thường, vốn rất quen thuộc với chúng ta. Trọng tâm sự sống của Thượng đế liên hệ (dù là Thái dương Thượng đế, Hành Tinh Thượng đế hay Con người) đi qua bảy bầu.

b. A scheme round in which the life emphasis of a Logos passes (in a manner not yet to be ascertained) through seven chains.

b. Cuộc tuần hoàn hệ trong đó trọng tâm sự sống của một Thượng đế đi qua (theo một cách chưa thể xác định) bảy dãy,

c. A solar systemic round in which the life emphasis of the Solar Logos passes through seven schemes.

c. Cuộc tuần hoàn hệ mặt trời trong đó trọng tâm sự sống của Thái dương Thượng đế đi qua bảy hệ,

41. When examining the figure “7” and the 343 globes in a solar system consisting of seven major schemes, each with seven chains, each chain having, according to the usual method of counting, seven globes, we would have 7x7x7=343=10=1. There is something about these figures requiring close analysis.

41. Khi khảo sát kỹ con số “7” và 343 bầu trong một hệ mặt trời gồm bảy hệ chủ yếu, mỗi hệ có bảy dãy, mỗi dãy có, theo phương pháp đếm thường dùng, bảy bầu, chúng ta có 7x7x7=343=10=1. Có điều gì đó trong các con số này đòi hỏi phân tích kỹ.

c. One week of Brahma          … The period of seven rounds in one scheme. It has a chain significance.

c. Một tuần của Brahma … Thời kỳ của bảy cuộc tuần hoàn trong một hệ, Nó có ý nghĩa thuộc về dãy.

42. It may be that the reason why DK tells us that a “week of Brahma” has a chain significance is that there may be a period of seven rounds which has a scheme significance. (This would mean that within the solar system as a whole, each scheme is to the Solar Logos as a chain is to a Planetary Logos.)

42. Có thể lý do Chân sư DK nói rằng một “tuần của Brahma” có ý nghĩa thuộc về dãy là vì có thể có một thời kỳ bảy cuộc tuần hoàn có ý nghĩa thuộc về hệ, (Điều này sẽ có nghĩa rằng trong toàn bộ hệ mặt trời, mỗi hệ đối với Thái dương Thượng đế như một dãy đối với một Hành Tinh Thượng đế.)

43. It is probable here that DK could here be speaking of seven scheme rounds, presumably involving each of the chains in a planetary scheme seven times, just as, when considering chain rounds, each globe is activated seven times—once during each one of the seven chain rounds.

43. Ở đây có thể Chân sư DK đang nói về bảy cuộc tuần hoàn hệ , có lẽ bao hàm mỗi dãy trong một hệ hành tinh bảy lần , giống như, khi xét các cuộc tuần hoàn dãy , mỗi bầu được kích hoạt bảy lần—một lần trong mỗi một trong bảy cuộc tuần hoàn dãy.

44. (Were this the case, then one “Day of Brahma”—a measure seven times smaller than a “week”—would pertain to a period of seven rounds in one chain and would have a ‘globe significance’.)

44. (Nếu đúng vậy, thì một “Ngày của Brahma”—một đơn vị đo nhỏ hơn bảy lần so với một “tuần”—sẽ liên quan đến một thời kỳ bảy cuộc tuần hoàn trong một dãy và sẽ có ý nghĩa “thuộc bầu”.)

45. However, a period of seven scheme rounds (with the life wave passing through and activating planetary chains instead of planetary globes) would probably signify the entire duration of a planetary scheme and so, according to what is said in point “b.”, should equate to a “Year of Brahma” and not to a “Week of Brahma”.

45. Tuy nhiên, một thời kỳ bảy cuộc tuần hoàn hệ (với làn sóng sự sống đi qua và kích hoạt các dãy hành tinh thay vì các bầu hành tinh) có lẽ sẽ biểu thị toàn bộ thời lượng của một hệ hành tinh và vì thế, theo điều được nói ở điểm “b.”, nên tương đương với “Một năm của Brahma” chứ không phải “Một tuần của Brahma”.

46. It remains necessary for us to establish (and it will not be any time soon, at least with certainty) whether scheme rounds entail sequential activity on one chain after another—the simple way of explaining a scheme round—or whether scheme rounds occur simultaneously, with chain rounds occurring simultaneously on all chains which, when taken together, constitute a scheme round.

46. Vẫn còn cần thiết để chúng ta xác lập (và sẽ không sớm có thể làm được, ít nhất là với sự chắc chắn) liệu các cuộc tuần hoàn hệ bao hàm hoạt động tuần tự trên dãy này đến dãy khác—cách giải thích đơn giản về một cuộc tuần hoàn hệ—hay liệu các cuộc tuần hoàn hệ xảy ra đồng thời, với các cuộc tuần hoàn dãy diễn ra đồng thời trên tất cả các dãy mà, khi xét chung, cấu thành một cuộc tuần hoàn hệ.

47. In one manner of considering the sequential option (and it is not likely to be true however much it suggests itself to the concrete mind—that great generator of sequences) we would have, for instance, seven chain rounds on chain one (involving perhaps a “Week of Brahma”, followed by an equal period of pralaya. Then seven chain rounds on chain two would occur. By the end of the process we would have fourteen weeks of Brahma—far too few to constitute the “Year of Brahma” necessary for the duration of an entire planetary scheme. Yet if we repeat the process seven times, we have ninety-eight “Weeks of Brahma”, which is a period far more than the fifty-two weeks which are, supposedly, in a Year of Brahma”.

47. Theo một cách xem xét phương án tuần tự (và có lẽ không đúng dù nó gợi ra nhiều cho hạ trí—cái nhà sinh chuỗi vĩ đại ấy) chúng ta sẽ có, chẳng hạn, bảy cuộc tuần hoàn dãy trên dãy một (có thể liên hệ đến “Một tuần của Brahma”), tiếp theo là một giai kỳ qui nguyên bằng khoảng thời gian đó. Rồi bảy cuộc tuần hoàn dãy trên dãy hai sẽ diễn ra. Đến cuối tiến trình, chúng ta sẽ có mười bốn tuần của Brahma—quá ít để tạo nên “Một năm của Brahma” cần thiết cho thời lượng của trọn một hệ hành tinh. Tuy nhiên nếu chúng ta lặp lại tiến trình ấy bảy lần, chúng ta có chín mươi tám “Tuần của Brahma”, một thời kỳ nhiều hơn khá xa con số năm mươi hai tuần vốn, được cho là, trong Một Năm của Brahma.

48. Some other way of understanding scheme rounds (other than strictly sequential) must be the correct one. The whole matter may be far more complex. Since planetary chains are chakras with the Planetary Logos, we would expect simultaneous activity on all of them (though to differing degrees). It may well be that before the round activity on one chain has elapsed, round activity on the succeeding chain (and, in fact, on all succeeding chains) may have, to some extent, begun.

48. Phải có một cách khác để hiểu các cuộc tuần hoàn hệ (ngoài cách thuần túy tuần tự). Toàn bộ vấn đề có lẽ phức tạp hơn nhiều. Vì các dãy hành tinh là các luân xa trong Hành Tinh Thượng đế, chúng ta kỳ vọng có hoạt động đồng thời trên tất cả chúng (dù ở các mức độ khác nhau). Rất có thể trước khi hoạt động của một cuộc tuần hoàn trên một dãy kết thúc, hoạt động tuần hoàn trên dãy kế tiếp (và, thực ra, trên tất cả các dãy kế tiếp) đã phần nào khởi sự.

49. Our deficiency, is that we do not really know the nature of a scheme round, while we do suppose that we know the nature of a chain round. Even the simpler design of a chain round may not take place precisely as we imagine, for globes, too, are as chakras, and must be simultaneously active in the life of a Globe Lord.

49. Thiếu sót của chúng ta là: chúng ta thực sự không biết bản chất của một cuộc tuần hoàn hệ , trong khi chúng ta cho rằng biết bản chất của một cuộc tuần hoàn dãy, Ngay cả sơ đồ đơn giản hơn của một cuộc tuần hoàn dãy cũng có thể không diễn ra chính xác như chúng ta tưởng, vì các bầu hành tinh cũng là các luân xa, và nhất thiết phải đồng thời hoạt động  trong đời sống của Vị Chúa Tể của Bầu Hành Tinh,

50. The great problem of how to reconcile simultaneity and sequentiality has not been solved—by us.

50. Vấn đề lớn về cách hòa giải tính đồng thời và tính tuần tự vẫn chưa được giải quyết—đối với chúng ta.

51. Is there chain round activity on, say, chain five, six or seven of our Earth-scheme even now? If chains are chakras and chakras function simultaneously, and their functioning involves chain-round activity, we would have to say, “Yes”.

51. Liệu hiện nay có hoạt động tuần hoàn dãy trên, chẳng hạn, dãy năm, sáu hay bảy của hệ Địa Cầu của chúng ta không? Nếu các dãy là các luân xa và các luân xa vận hành đồng thời, và việc vận hành của chúng bao hàm hoạt động tuần hoàn dãy, chúng ta sẽ phải nói, “Có”,

52. The standard theosophical presentation (when describing the progress of a life-wave) gives us a picture of strict sequentiality, but this seems to discount[1] the type of energy movements which would necessarily arise if globes were chakras and chains were chakras (and, further, if schemes were chakras)

52. Cách trình bày Thông Thiên học chuẩn (khi mô tả sự tiến bước của làn sóng sự sống) cho chúng ta một bức tranh mang tính tuần tự nghiêm ngặt, nhưng điều này dường như không tính đến kiểu chuyển động năng lượng nhất thiết sẽ phát sinh nếu các bầu là luân xa và các dãy là luân xa (và, xa hơn nữa, nếu các hệ cũng là luân xa).

53. Another associated question could be presented as follows: “Are there seven chain rounds per chain or are there forty-nine?” The answer will depend upon how we define a scheme round.

53. Một câu hỏi liên đới khác có thể nêu như sau: “ Mỗi dãy có bảy vòng tuần hoàn hay là bốn mươi chín?” Câu trả lời sẽ tùy thuộc vào cách chúng ta định nghĩa một vòng tuần hoàn của hệ hành tinh.

54. One fairly intricate conception which may be worth consideration (for its indications rather than its strict accuracy) is as follows, though some contradiction with the usual present conceptions will arise:

54. Một quan niệm khá tinh vi đáng để cân nhắc (vì những gợi chỉ của nó hơn là vì tính chính xác nghiêm ngặt) như sau, dù sẽ nảy sinh đôi chút mâu thuẫn với các quan niệm hiện hành:

a. Seven chains exist simultaneously.

a. Bảy dãy tồn tại đồng thời.

b. When round one on chain one begins there is no chain round activity on any of the other six chains.

b. Khi vòng thứ nhất trên dãy một khởi sự thì không có hoạt động vòng dãy nào trên sáu dãy còn lại,

c. When round two on chain one begins, round one on chain two begins.

c. Khi vòng thứ hai trên dãy một khởi sự, vòng thứ nhất trên dãy hai khởi sự.

d. When round three on chain one begins, round two on chain two begins and round one of chain three begins.

d. Khi vòng thứ ba trên dãy một khởi sự, vòng thứ hai trên dãy hai khởi sự và vòng thứ nhất trên dãy ba khởi sự.

e. Thus round one on chain seven will begin with round seven on chain one is beginning.

e. Vì thế vòng thứ nhất trên dãy bảy sẽ khởi khi vòng thứ bảy trên dãy một đang khởi đầu,

f. When round seven on chain one is completed, round one of chain seven will be completed.

f. Khi vòng thứ bảy trên dãy một hoàn tất, vòng thứ nhất trên dãy bảy sẽ hoàn tất.

g. Chain one may then go into pralaya, and will only emerge from pralaya after chain seven has completed all of its seven rounds, for each globe, chain, and scheme must have (we have been taught) a period of pralaya commensurate with the period of activity which has just elapsed.

g. Dãy một khi ấy có thể đi vào Giai kỳ qui nguyên, và chỉ sẽ xuất khỏi Giai kỳ qui nguyên sau khi dãy bảy đã hoàn tất toàn bộ bảy vòng của nó, vì mỗi bầu hành tinh, dãy và hệ hành tinh (như chúng ta đã được dạy) phải có một thời kỳ Giai kỳ qui nguyên tương xứng với thời kỳ hoạt động vừa trôi qua.

55. If we retain the chakra analogy, however, this solution is not entirely satisfactory, as there will need to be a time when both chain seven and chain one are fully active—for instance at the fifth initiation of the Entity concerned—in this case a Planetary Logos. (At the fifth initiation the crown center and base of the spine center are intimately engaged with each other.)

55. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ phép loại suy luân xa, giải pháp này không hoàn toàn thoả đáng , vì sẽ cần có một thời điểm mà cả dãy bảy lẫn dãy một đều hoạt động đầy đủ —chẳng hạn vào lần điểm đạo thứ năm của Đấng liên quan—trong trường hợp này là một Hành Tinh Thượng đế. (Ở lần điểm đạo thứ năm, luân xa đỉnh đầu và luân xa đáy cột sống gắn bó mật thiết với nhau.)

56. The further we go into the analysis, the more it appears that a very complex type of mathematics is involved, and one that we cannot possibly grasp at present.

56. Càng đi sâu vào phân tích, càng thấy rằng một loại toán học hết sức phức tạp có liên quan ở đây, và hiện tại chúng ta hoàn toàn chưa thể nắm bắt.

57. One additional solution which may well bear good fruit is as follows: the chain rounds in the earlier chains would proceed much more slowly than the chain rounds in subsequent chains, so that the chain rounds in the seventh chain would be the very fastest of all, and would be coming to fruition only as the chain rounds in the first chain would be reaching fulfillment. This would necessitate that chain rounds in the later chains would begin much later than chain rounds in the earlier chains. Could chakric functioning, however (and chakric functioning is, in some measure necessary from the first) be sustained if there were no round activity? This has to be determined.

57. Một giải pháp bổ sung có thể đem lại kết quả tốt như sau: các vòng tuần hoàn của dãy ở những dãy sớm sẽ tiến hành chậm hơn rất nhiều so với các vòng tuần hoàn ở những dãy kế sau, sao cho các vòng tuần hoàn ở dãy thứ bảy sẽ là nhanh nhất trong tất cả, và chỉ đi đến kết quả khi các vòng tuần hoàn ở dãy thứ nhất đang tới hồi viên mãn. Điều này đòi hỏi rằng các vòng tuần hoàn ở các dãy sau sẽ khởi đầu muộn hơn nhiều so với các vòng tuần hoàn ở các dãy trước. Tuy nhiên, liệu có thể duy trì hoạt động luân xa (và hoạt động luân xa ở mức nào đó là cần thiết ngay từ đầu) nếu không có hoạt động vòng tuần hoàn? Điều này cần được xác định.

58. OR, it could be that each type of chain round has its own rate and measure and that the duration of chain rounds not only varies within every planetary scheme but is not equal at all on any chain within a given planetary scheme. There are many indications to suggest that on or within each chain, the sequence of seven chain rounds accelerates, but there is no guarantee of this. If, for instance, the base of the spine center is both the first to develop and one of the last to complete its development, there may be an interesting variation in the relative speed of its seven chain rounds—assuming that there are only seven.

58. Hoặc, có thể rằng mỗi loại vòng tuần hoàn của dãy có nhịp độ và chuẩn mực riêng và rằng thời lượng của các vòng tuần hoàn không chỉ khác nhau trong mỗi hệ hành tinh mà còn không hề bằng nhau trên bất kỳ dãy nào trong một hệ hành tinh nhất định, Có nhiều dấu hiệu gợi ý rằng trên hoặc trong mỗi dãy, chuỗi bảy vòng tuần hoàn tăng tốc, nhưng không có gì bảo đảm điều đó. Nếu, chẳng hạn, luân xa đáy cột sống đồng thời là luân xa phát triển đầu tiên và cũng là một trong những luân xa hoàn tất phát triển sau cùng , có thể sẽ có một biến thiên thú vị về tốc độ tương đối của bảy vòng tuần hoàn của nó—giả định rằng chỉ có bảy vòng.

59. Let us propose the following as important factors for the eventual formation of a comprehensive hypothesis concerning rounds of all kinds:

59. Chúng ta hãy đề xuất những điều sau như các yếu tố quan trọng để rồi sẽ hình thành một giả thuyết bao quát về các loại vòng tuần hoàn:

a. There are planetary schemes which represent the lower chakras and those which represents middle and higher chakras.

a. Có các hệ hành tinh biểu trưng cho những luân xa thấp và các hệ hành tinh biểu trưng cho những luân xa trung và cao.

b. All chakras in the Solar Logos exist simultaneously and function (at least to some extent) simultaneously. If all did not function simultaneously, then the organs and/or glands associated with each chakra would not function and life could not be sustained.

b. Tất cả các luân xa trong Thái dương Thượng đế tồn tại đồng thời và hoạt động (ít nhất ở một mức độ nào đó) đồng thời, Nếu tất cả không hoạt động đồng thời, thì các cơ quan và/hoặc các tuyến tương ứng với mỗi luân xa sẽ không hoạt động và sự sống không thể được duy trì,

c. Does round activity within all planetary schemes, however, exist simultaneously? I.e., is it possible for the chakras to exist and to function without round activity occurring? This is a very important question. Can these chakras uphold their function within any system without the presence of round activity?

c. Tuy nhiên, liệu hoạt động vòng tuần hoàn trong tất cả các hệ hành tinh có tồn tại đồng thời không? Tức là, liệu có thể các luân xa tồn tại và hoạt động mà không có hoạt động vòng tuần hoàn diễn ra? Đây là một câu hỏi rất quan trọng. Liệu các luân xa này có thể duy trì chức năng của mình trong bất kỳ hệ nào mà không có sự hiện diện của hoạt động vòng tuần hoàn?

d. We can hypothesize that round activity can be correlated with the unfoldment of the petals of any lotus. All chakras (thus all globes, chains and schemes) have a petal formation which must gradually unfold. At least we will hypothesize that as round activity proceeds within any chakra it is accompanied by the petal unfoldment within that chakra. (This hypothesis could, however, be incorrect, but there is probably more indication that it is more correct than that it is not. The other alternative is that petal unfoldment within a chakra proceeds without the benefit of round activity, thus there could be chakric unfoldment without round activity. But really, it seems anti-intuitive to separate the two. Round activity is really a form of energy circulation within a chakra, this circulation being necessary to the chakra’s petal unfoldment—so it reasonably seems.)

d. Chúng ta có thể giả thuyết rằng hoạt động vòng tuần hoàn có thể được liên hệ với sự khai mở các cánh hoa của bất kỳ hoa sen nào. Tất cả các luân xa (do đó, tất cả các bầu, dãy và hệ) đều có cấu trúc cánh hoa phải dần dần khai mở. Ít nhất, chúng ta sẽ giả thuyết rằng khi hoạt động vòng tuần hoàn tiến hành trong bất kỳ luân xa nào thì đồng thời sự khai mở cánh hoa trong luân xa ấy diễn ra. (Tuy nhiên, giả thuyết này có thể không đúng, nhưng có lẽ có nhiều dấu hiệu cho thấy nó đúng hơn là không. Khả năng khác là sự khai mở cánh hoa trong một luân xa diễn ra mà không nhờ lợi ích của hoạt động vòng tuần hoàn, như vậy có thể có sự khai mở luân xa mà không có hoạt động vòng tuần hoàn. Nhưng thật ra, dường như phản trực giác khi tách đôi điều này. Hoạt động vòng tuần hoàn thực chất là một dạng luân lưu năng lượng trong một luân xa, và chính sự luân lưu này là cần thiết cho sự khai mở cánh hoa của luân xa—nên xét ra là hợp lý.)

e. Assuming that round activity and petal unfoldment proceed in a parallel manner, and assuming that the lower chakras would begin unfolding their petals and would more rapidly unfold those petals well before the middle and higher chakras do, then round activity with its parallel petal unfoldment within the lower chakras would (from one perspective) begin well before such activity in the higher chakras.

e. Giả định rằng hoạt động vòng tuần hoàn và sự khai mở cánh hoa tiến hành song song, và giả định rằng các luân xa thấp sẽ bắt đầu khai mở cánh hoa và khai mở nhanh hơn khá lâu trước khi các luân xa trung và cao làm điều đó, thì hoạt động vòng tuần hoàn với sự khai mở cánh hoa song hành trong các luân xa thấp sẽ (ở một viễn cảnh) bắt đầu sớm hơn rất nhiều so với hoạt động tương tự ở các luân xa cao.

f. From this perspective, the round activity within the planets representing say, the base of the spine center, the sacral center and the solar plexus center would begin much earlier than round activity on those planets representing the heart, ajna or crown centers. There would be, eventually, simultaneity of different phases of round activity on all planetary schemes, however the round activity on planetary schemes representing higher centers would be far behind the round activity within those planetary schemes representing the lower chakras. The mathematics of such a consideration are staggering to consider.

f. Từ viễn cảnh này, hoạt động vòng tuần hoàn trong các hành tinh đại diện, thí dụ, luân xa đáy cột sống, luân xa xương cùng và luân xa tùng thái dương sẽ bắt đầu sớm hơn rất nhiều so với hoạt động vòng tuần hoàn trên những hành tinh đại diện cho các luân xa tim, ajna hay đỉnh đầu. Rốt cuộc, sẽ có tính đồng thời của các giai đoạn khác nhau của hoạt động vòng tuần hoàn trên tất cả các hệ hành tinh, tuy nhiên hoạt động vòng tuần hoàn trên các hệ hành tinh đại diện cho các trung tâm cao sẽ tụt khá xa phía sau hoạt động vòng tuần hoàn trong các hệ hành tinh đại diện cho những luân xa thấp. Toán học của sự cân nhắc như thế này quả là choáng ngợp.

g. Yet, there may be a flaw in the consideration just offered, as, for instance, the heart center must be functioning even during early stages of activity, and such functioning probably means a degree of petal unfoldment.

g. Tuy nhiên , có thể có một lỗ hổng trong cân nhắc vừa nêu, vì chẳng hạn, luân xa tim phải hoạt động ngay cả trong những giai đoạn sơ khởi của hoạt động, và hoạt động như thế có lẽ ám chỉ một mức độ khai mở cánh hoa nào đó.

h. Although the earlier chakras would very reasonably unfold their petals more rapidly than the later chakras, there is no certainty that the higher/later chakras would begin stimulating their first petal only well after the earlier chakras began the process of petal stimulation. It might be so. It might not be so. Maybe the pulsation of life alone would be enough to keep a higher chakra functioning until the time arrived for petal unfoldment (and round activity), but maybe not. One thing we know is that all chakras must function to some minimal degree at all times (except during the very last phases of chakra absorption).

h. Mặc dù các luân xa sớm, một cách hợp lẽ, sẽ khai mở cánh hoa nhanh hơn các luân xa muộn, không có gì chắc chắn rằng các luân xa cao/muộn sẽ chỉ bắt đầu kích hoạt cánh hoa thứ nhất của chúng sau khá lâu kể từ khi các luân xa sớm khởi sự tiến trình kích hoạt cánh hoa. Có thể như vậy. Cũng có thể không. Có thể chỉ nhịp đập của sự sống thôi cũng đủ để duy trì hoạt động của một luân xa cao cho đến khi thời điểm cho sự khai mở cánh hoa (và hoạt động vòng tuần hoàn) tới, nhưng cũng có thể không. Một điều chúng ta biết là tất cả các luân xa phải hoạt động ở một mức tối thiểu nào đó trong mọi thời (trừ những giai đoạn sau chót của sự hấp thu luân xa).

i. What we must establish is whether chakric functioning equates with round activity for that chakra—i.e., is there chakric functioning before there is round activity or is the beginning of round activity equivalent to chakric functioning?

i. Điều chúng ta phải xác định là liệu hoạt động luân xa có đồng nhất với hoạt động vòng tuần hoàn của luân xa ấy không—tức là, có tồn tại hoạt động luân xa trước khi có hoạt động vòng tuần hoàn hay không, hay sự khởi đầu hoạt động vòng tuần hoàn là tương đương với hoạt động luân xa?

j. Three possibilities exist:

j. Có ba khả năng:

i. The pulsation of life could alone be sufficient to sustain a chakra at a necessary vehicle-maintenance level

i. Chỉ riêng nhịp đập của sự sống cũng có thể đủ để duy trì một luân xa ở mức cần thiết cho việc bảo trì vận cụ

ii. Petal unfoldment beings with the onset of round activity

ii. Sự khai mở cánh hoa bắt đầu cùng lúc với khởi phát hoạt động vòng tuần hoàn

iii. Petal unfoldment begins before the onset of round activity.

iii. Sự khai mở cánh hoa bắt đầu trước khi khởi phát hoạt động vòng tuần hoàn.

k. If we wish to assume that there must be round activity if there is to be chakric functioning (i.e., petal unfoldment—assuming that chakric functioning requires petal unfoldment), and if we assume that all chakras must function from the first (as seems organically necessary) and that the only way that chakras can really function is if there is round activity and, thus, petal unfoldment, then we could assume the following. All chakras would begin their activation (however slow or fast) simultaneously, because no chakra could really function without life-wave activity, THEN—

k. Nếu chúng ta muốn giả định rằng phải có hoạt động vòng tuần hoàn thì mới có hoạt động luân xa (tức là, sự khai mở cánh hoa—giả định rằng hoạt động luân xa đòi hỏi sự khai mở cánh hoa), và nếu chúng ta giả định rằng tất cả các luân xa phải hoạt động từ lúc đầu (như có vẻ cần thiết về mặt cơ cấu) và rằng cách duy nhất để các luân xa thật sự hoạt động là phải có hoạt động vòng tuần hoàn và, như vậy, có sự khai mở cánh hoa, thì chúng ta có thể giả định điều sau. Tất cả các luân xa sẽ bắt đầu sự kích hoạt của mình  (dù chậm hay nhanh) đồng thời , bởi vì không một luân xa nào có thể thật sự hoạt động nếu không có hoạt động của làn sóng sự sống, RỒI—

i. Round activity would begin in every planetary scheme at the same time, and, thus, within every chakra, petal unfoldment (however slow or fast) would begin at the same time.

i. Hoạt động vòng tuần hoàn sẽ bắt đầu trong mọi hệ hành tinh cùng một lúc, và, như thế, trong mỗi luân xa, sự khai mở cánh hoa (dù chậm hay nhanh) sẽ bắt đầu cùng một lúc,

ii. But, when comparing, for instance, the first round on a planet representing a lower chakra with the first round on a planet representing a higher, then the first round on the higher planet (and thus the rate of unfoldment of its first petal) will be very slow compared with the first round on a lower planet, and, in parallel, the unfoldment of the first petal of a higher chakra would be much slower than the unfoldment of the first petal in a lower chakra.

ii. Nhưng, khi so sánh, chẳng hạn, vòng thứ nhất trên một hành tinh đại diện cho luân xa thấp với vòng thứ nhất trên một hành tinh đại diện cho luân xa cao, thì vòng thứ nhất trên hành tinh cao (và như vậy tốc độ khai mở cánh hoa thứ nhất của nó) sẽ rất chậm so với vòng thứ nhất trên hành tinh thấp, và song song, sự khai mở cánh hoa thứ nhất của một luân xa cao sẽ chậm hơn nhiều so với sự khai mở cánh hoa thứ nhất trong một luân xa thấp.

iii. Some lower planets would finish their round activity long before the higher planets do.

iii. Một số hành tinh thấp sẽ hoàn tất hoạt động vòng tuần hoàn của chúng lâu trước khi các hành tinh cao làm xong.

iv. Yet for a planet such as the one representing the base of the spine center, there may be initially rapid round activity, and yet, since the full development of the base of the spine center must only be concluded at the fifth initiation, perhaps, later rounds on that planet will again be slower.

iv. Tuy nhiên, đối với một hành tinh như hành tinh đại diện cho luân xa đáy cột sống, có thể lúc đầu hoạt động vòng tuần hoàn diễn ra mau lẹ, nhưng bởi vì sự phát triển trọn vẹn của luân xa đáy cột sống chỉ được kết thúc vào lần điểm đạo thứ năm, nên có lẽ những vòng sau đó trên hành tinh ấy sẽ lại chậm hơn.

v. We must ask ourselves whether, for instance, our own base of the spine center is now fully developed in terms of petal unfoldment (and the equivalent in that chakra of round activity) or whether there is still some final petal unfoldment impending (since we are not yet initiates of the fifth degree).

v. Chúng ta phải tự hỏi liệu, thí dụ, chính luân xa đáy cột sống của chúng ta hiện nay đã phát triển đầy đủ xét theo phương diện khai mở cánh hoa (và điều tương ứng trong luân xa đó là hoạt động vòng tuần hoàn) hay vẫn còn một sự khai mở cánh hoa sau chót nào đó đang treo lơ lửng (vì chúng ta chưa phải là những điểm đạo đồ bậc năm).

vi. We hypothesized, then, that ‘round rates’ would be different upon every planetary scheme and even different from each other within a specific planetary scheme, and also different from chain to chain. There seems to be no analogical justification for complete regularity of round duration from scheme to scheme, from chain to chain, and even within the same chain.

vi. Vậy, chúng ta giả định rằng ‘tốc độ vòng’ sẽ khác nhau trên mỗi hệ hành tinh và thậm chí khác nhau với nhau trong một hệ hành tinh cụ thể, đồng thời cũng khác nhau từ dãy này sang dãy khác. Có vẻ không có cơ sở loại suy nào biện minh cho sự đều đặn hoàn toàn về thời lượng của các vòng từ hệ này sang hệ khác, từ dãy này sang dãy khác, và ngay cả trong cùng một dãy,

vii. Rounds may, we hypothesize:

vii. Các vòng, chúng ta giả định, có thể:

1. Start slowly, speed up and then slow down again.

1. Khởi đầu chậm, tăng tốc rồi lại chậm dần

2. Start slowly and then speed up

2. Khởi đầu chậm rồi tăng tốc

3. Start rapidly and then slow down

3. Khởi đầu nhanh rồi chậm dần

4. Start rapidly, then slow down and then speed up again

4. Khởi đầu nhanh, rồi chậm lại và lại tăng tốc

viii. The mathematics of relative round speed and duration (assuming that there are a number of good reasons to believe that they are not simply uniform and sequential) is certainly one of the deep secrets of initiation. Within each system (whether a chain, a scheme or a solar system) it would seem that a unique algorithm is being worked out.

viii. Toán học về tốc độ và thời lượng tương đối của các vòng (giả định rằng có nhiều lý do xác đáng để tin rằng chúng không đơn thuần đồng đều và lần lượt) chắc chắn là một trong những bí nhiệm thâm sâu của điểm đạo. Trong mỗi hệ (dù là dãy, hệ hành tinh hay hệ mặt trời) dường như có một thuật toán độc nhất đang được triển khai.

ix. All we can hope to do is understand, however vaguely, the principles involved.

ix. Tất cả những gì chúng ta có thể hy vọng là thấu hiểu, dù mơ hồ, các nguyên lý can dự.

l. It also seems likely that round activity continues within higher chakras after it has ceased on the lower.

l. Cũng có vẻ hợp lẽ rằng hoạt động vòng tuần hoàn tiếp diễn trong các luân xa cao sau khi nó đã chấm dứt ở các luân xa thấp.

m. As well, we must determine whether the full activation of a lower chakra depends upon its own internal development or upon stimulation from other parts of the larger system in which it is imbedded.

m. Đồng thời, chúng ta phải xác định liệu sự kích hoạt trọn vẹn của một luân xa thấp tùy thuộc vào chính sự phát triển nội tại của nó hay tùy thuộc vào sự kích thích từ các phần khác của hệ thống lớn hơn trong đó nó được nhúng vào.

n. For instance, could it be that the petals of the base of the spine center may be fully unfolded long before the full development of the petals of the head center, and yet that the base of the spine center would not be fully activated until receiving stimulation from the head center or other higher centers?

n. Thí dụ, có thể chăng các cánh hoa của luân xa đáy cột sống đã khai mở trọn vẹn rất lâu trước khi các cánh hoa của luân xa đầu phát triển trọn vẹn, nhưng luân xa đáy cột sống vẫn chưa được kích hoạt hoàn toàn cho đến khi nhận kích thích từ luân xa đầu hay các luân xa cao khác?

o. Perhaps, the full activation of any chakra depends not so much on petal unfoldment as on a particular type of activation of the central jewel. I.e., perhaps many chakras are already fully activated from the perspective of petal unfoldment but not activated in terms of the stimulation of the central jewel.

o. Có lẽ, sự kích hoạt trọn vẹn của bất kỳ luân xa nào không tùy vào sự khai mở cánh hoa cho bằng một loại hình kích hoạt đặc thù của bảo châu trung tâm. Tức là, có lẽ nhiều luân xa đã được kích hoạt trọn vẹn xét từ góc nhìn khai mở cánh hoa nhưng chưa được kích hoạt xét về phương diện kích thích bảo châu trung tâm.

p. Once full round development on any planetary scheme has been achieved, how long could it be sustained before stimulation came from elsewhere in the larger system of chakras (bringing, perhaps, final and full activation of the chakra concerned).

p. Khi sự phát triển trọn vẹn các vòng trên bất kỳ hệ hành tinh nào đã đạt được, nó có thể được duy trì bao lâu trước khi sự kích thích đến từ nơi khác trong hệ thống luân xa lớn hơn (đem lại, có lẽ, sự kích hoạt sau cùng và trọn vẹn của luân xa liên quan).

q. OR, does the fullest activation for all chakras occur simultaneously towards the end of the development of the larger system? This latter seems unlikely, as Venus, it seems is presently very near to full unfoldment whereas other, greater planets are very far from full unfoldment. (Permanent atoms, we notice, achieve full activation sequentially and not all at the same time). Yet, who among us is to speak authoritatively of final ‘jewel dynamics’?

q. Hoặc, liệu sự kích hoạt trọn vẹn nhất cho tất cả các luân xa diễn ra đồng thời vào cuối quá trình phát triển của hệ thống lớn hơn? Điều sau nghe có vẻ khó xảy ra, vì dường như Sao Kim hiện ở rất gần sự khai mở trọn vẹn trong khi các hành tinh lớn hơn khác còn rất xa sự khai mở trọn vẹn. (Chúng ta để ý rằng các nguyên tử trường tồn đạt đến kích hoạt trọn vẹn một cách tuần tự chứ không phải tất cả cùng lúc). Tuy nhiên, ai trong chúng ta có thể lên tiếng một cách có thẩm quyền về ‘động học của bảo châu’ sau cùng?

r. Probably, the various planetary schemes reach full petal unfoldment at different times, and thus, reach full completing of round cycles at different times. Yet, because planets are chakras, they must remain functional until the very latter days of solar systemic development. Perhaps, then, full activation of the central jewel is withheld until the later stages of solar systemic development, OR, perhaps the fullest activation of any chakra occurs as a result of relationship between the chakras and not because of the chakras own internal processes.

r. Có lẽ, các hệ hành tinh khác nhau đạt sự khai mở cánh hoa trọn vẹn vào những thời điểm khác nhau, và do đó, đạt sự hoàn thành trọn vẹn các chu kỳ vòng vào những thời điểm khác nhau. Tuy nhiên, bởi vì các hành tinh là các luân xa, chúng phải duy trì hoạt động cho đến tận những ngày sau rốt của sự phát triển hệ mặt trời. Có thể, như vậy, việc kích hoạt trọn vẹn bảo châu trung tâm được trì hoãn đến những giai đoạn muộn của sự phát triển hệ mặt trời, HOẶC, có lẽ sự kích hoạt trọn vẹn nhất của bất kỳ luân xa nào xảy ra như là kết quả của mối liên hệ giữa các luân xa với nhau chứ không phải do các tiến trình nội tại của riêng luân xa ấy.

60. The mysteries (to us) are many and the possible intricacies staggering. What is being suggested here are factors which may have to be taken into consideration. There are still (for us) too many uncertainties to offer just one reasonably coherent hypothesis regarding

60. Những điều bí nhiệm (đối với chúng ta) thì nhiều và mức độ tinh vi có thể có thật choáng ngợp. Điều đang được gợi ý ở đây là những yếu tố có thể phải được cân nhắc. Vẫn còn (đối với chúng ta) quá nhiều điều chưa chắc chắn để có thể đưa ra chỉ một giả thuyết tương đối mạch lạc về

a. round activity,

a. hoạt động vòng tuần hoàn,

b. petal unfoldment,

b. sự khai mở cánh hoa,

c. sequence of chakra development,

c. trình tự phát triển luân xa,

d. sequence or simultaneity of final chakra development,

d. trình tự hay tính đồng thời của sự phát triển sau cùng của luân xa,

e. inter-chakra dynamics which may contribute to final chakra unfoldment.

e. động lực giữa các luân xa có thể góp phần vào sự khai mở sau cùng của luân xa.

61. Probably, we shall achieve some greater degree of understanding if we think that a combination of simultaneity and sequentiality is always occurring. All chakras (i.e., all globes, chains and schemes) exist and function simultaneously, but the L/logos in question directs His principal focus to the various parts of His system in a sequential process.

61. Có lẽ, chúng ta sẽ đạt đến một mức độ thấu hiểu lớn hơn nếu nghĩ rằng một sự kết hợp giữa tính đồng thời và tính tuần tự luôn luôn đang diễn ra. Tất cả các luân xa (tức là tất cả các bầu, dãy và hệ) tồn tại và hoạt động đồng thời, nhưng Vị L/logos liên hệ hướng Sự chú trọng chính của Ngài đến các phần khác nhau của hệ thống của Ngài theo một tiến trình tuần tự.

62. A further refinement of this principle of simultaneity is to consider overlapping activity. In other words, though activity upon/within all seven chakras of a seven-chakra system may be simultaneous, it may not be of the same intensity and speed within each chakra. This seems very likely.

62. Một tinh chỉnh thêm của nguyên lý đồng thời là xét đến hoạt động chồng lấn. Nói cách khác, dẫu hoạt động trên/trong cả bảy luân xa của một hệ bảy luân xa có thể là đồng thời, nó có thể không có cùng cường độ và tốc độ trong mỗi luân xa. Điều này dường như rất có khả năng.

d. One day of Brahma                          … The occult period of a round.

d. Một Ngày của Brahma … Giai đoạn huyền bí của một vòng tuần hoàn.

63. Again, we are familiar with this idea.

63. Một lần nữa, chúng ta đã quen với ý niệm này.

64. Probably, we are speaking of a round which occurs within chains and involves progress from globe to globe (within a chain of, normally, seven globes).

64. Có lẽ, chúng ta đang nói về một vòng tuần hoàn xảy ra trong các dãy và bao hàm sự tiến bộ từ bầu này sang bầu khác (trong một dãy gồm, thông thường, bảy bầu hành tinh).

65. We might also wonder what is being hinted by the term “occult period”. Is there an exoteric “period” of a round and, also, something different called an “occult period”?

65. Chúng ta cũng có thể tự hỏi thuật ngữ “giai đoạn huyền bí” gợi ý điều gì. Có phải có một “giai đoạn” ngoại môn của một vòng và đồng thời cũng có một điều khác gọi là “giai đoạn huyền bí”?

66. In this context, a “round” is a “manvantara”—though the latter term is often used with some elasticity.

66. Trong ngữ cảnh này, một “vòng” là một “manvantara”—dù thuật ngữ sau thường được dùng với một mức độ linh hoạt nào đó.

67. If a Year of Brahma represents the completion of the development of a planetary scheme, then, the usual method of counting forty-nine rounds per scheme (a nominal seven per chain in the scheme), plus equal rest periods, does not give us enough “Brahmic Days” to complete the “Brahmic Year”. We would have 98 time periods (“Days”) and would be in need of approximately 360.

67. Nếu một Năm của Brahma biểu thị sự hoàn tất phát triển của một hệ hành tinh, thì, phương pháp đếm thông thường bốn mươi chín vòng mỗi hệ (một cách danh nghĩa là bảy vòng cho mỗi dãy trong hệ), cộng với các thời kỳ nghỉ ngơi bằng nhau, không cho chúng ta đủ “Ngày của Brahma” để hoàn tất “Năm của Brahma”. Chúng ta sẽ có 98 giai đoạn thời gian (“Ngày”) và sẽ cần khoảng 360.

68. If a “Year of Brahma” represented (as suggested in one of the hypotheses above which considered schemes as solar systemic “chains”) but one ‘touch’ of the solar systemic life-wave (i.e., the solar systemic life wave touching one scheme, with seven such touches eventually necessary) then the discrepancy between “Days” elapsed during one such ‘touch’ and the number of “Days” in a “Year” grows far greater. We are assuming that 360 “Days of Brahma” complete one “Year of Brahma”. If a “Year of Brahma” represents, perhaps, only one one-hundreth of the total completion of a planetary scheme, then only a very few planetary “Days” would elapse in such a “Year” (representing, as it does, but a fraction of the total development of a planetary scheme).

68. Nếu một “Năm của Brahma” biểu thị (như đã gợi ý trong một số giả thuyết ở trên khi xem các hệ là những “dãy” thuộc hệ mặt trời) chỉ là một ‘cú chạm’ của làn sóng sự sống hệ mặt trời (tức là làn sóng sự sống hệ mặt trời chạm một hệ, và rồi cần đến bảy cú chạm như thế), thì độ sai khác giữa số “Ngày” đã trôi qua trong một ‘cú chạm’ như vậy và số “Ngày” trong một “Năm” sẽ lớn hơn nhiều. Chúng ta đang giả định rằng 360 “Ngày của Brahma” hoàn tất một “Năm của Brahma”. Nếu một “Năm của Brahma” có lẽ chỉ biểu thị một phần trăm của sự hoàn tất tổng thể của một hệ hành tinh, thì chỉ có rất ít “Ngày” hành tinh sẽ trôi qua trong một “Năm” như vậy (vì nó chỉ tượng trưng một phần nhỏ của toàn bộ sự phát triển của một hệ hành tinh).

e. One hour of Brahma                        … Concerns interchain affairs.

e. Một Giờ của Brahma … Liên quan đến các mối sự vụ giữa các dãy.

69. There are twenty-four hours in a day. Perhaps interchain contacts are expressed in such “hours”.

69. Có hai mươi bốn giờ trong một ngày. Có lẽ các tiếp xúc giữa các dãy được biểu đạt trong những “Giờ” như vậy.

70. If a “Day of Brahma” entails the progress of a life-wave through seven globes, perhaps a certain number of such “Hours” are spent in relation to each globe (and the pralaya of that globe), with the number of “Hours” not necessarily equally apportioned.

70. Nếu một “Ngày của Brahma” bao hàm sự tiến bước của làn sóng sự sống qua bảy bầu, có lẽ một số “Giờ” nào đó được dành cho mỗi bầu (và Giai kỳ qui nguyên của bầu ấy), với số “Giờ” không nhất thiết được phân bổ đều nhau.

f. One Brahmic minute              …Concerns the planetary centres, and therefore egoic groups.

f. Một Phút của Brahma …Liên quan đến các luân xa hành tinh, và do đó đến các nhóm chân ngã.

71. Here the word “planetary” seems to refer to the “globe” level.

71. Tại đây từ “hành tinh” dường như ám chỉ cấp độ “bầu”.

72. The cycles of egoic groups would then be expressed in terms of “Brahmic Minutes”.

72. Các chu kỳ của những nhóm chân ngã khi ấy sẽ được biểu đạt bằng “Phút của Brahma”.

73. We must remember, to retain the operative analogy, that there are sixty minutes in every hour and 1440 minutes in every day. We might be able to determine how many egoic group periods there are on every globe (probably seven), and then, perhaps, some approximation of their duration. We must not necessarily assume, however, that they would be of equal duration.

73. Để giữ phép loại suy đang vận hành, chúng ta phải nhớ rằng có sáu mươi phút trong mỗi giờ và 1440 phút trong mỗi ngày. Chúng ta có thể xác định có bao nhiêu giai đoạn của nhóm chân ngã trên mỗi bầu (có lẽ là bảy), và rồi, có thể, gần đúng thời lượng của chúng. Tuy nhiên, chúng ta không nhất thiết giả định rằng chúng có thời lượng bằng nhau.

74. Perhaps some new respect for the intricacy of the planetary and systemic arrangement will be gathered from these considerations.

74. Có lẽ từ những cân nhắc này, chúng ta sẽ thu lượm một sự trân trọng mới đối với mức độ tinh vi của cấu trúc hành tinh và hệ thống.

g. One Brahmic moment              …Concerns an egoic group, and its relation to the whole.

g. Một Khoảnh khắc của Brahma …Liên quan đến một nhóm chân ngã, và mối liên hệ của nhóm ấy với toàn thể.

75. Large groups consisting of many egoic groups are expressed in terms of “Brahmic Minutes”. The affairs of a particular egoic group are expressed its ‘Brahmic Moments’.

75. Những nhóm lớn gồm nhiều nhóm chân ngã được biểu đạt bằng “Phút của Brahma”. Việc sự vụ của một nhóm chân ngã cụ thể thì được biểu đạt bằng ‘Khoảnh khắc của Brahma’ của nó.

76. The term “moment” is very vague and could be a second of time, shorter or longer. Probably there are many categories of “Brahmic moments”.

76. Thuật ngữ “khoảnh khắc” rất mơ hồ và có thể là một giây thời gian, ngắn hơn hay dài hơn. Có lẽ có nhiều hạng mục “khoảnh khắc của Brahma”.

77. All these periods are expressed in terms of Earth cycles and so, although referring to processes within the larger system, are somehow relative to our planet and its rates of motion (relative to itself and relative to the Sun).

77. Tất cả những thời kỳ này được diễn đạt theo các chu kỳ của Trái Đất, cho nên, mặc dù đề cập đến các tiến trình trong hệ thống lớn hơn, bằng cách nào đó chúng vẫn tương ứng với hành tinh của chúng ta và các nhịp độ chuyển động của nó (tương đối với chính nó và tương đối với Mặt Trời).

78. If such cycles were considered from the perspective of other planets, the number of “Years”, “Months”, “Weeks” and “Days”, etc., would be different, IF we consider that an “Occult Century” (as this period applies to a particular solar system) has the same duration for all units of life within the solar system (which is reasonable to assume).

78. Nếu các chu kỳ như thế được xét từ viễn cảnh của các hành tinh khác, số “Năm”, “Tháng”, “Tuần” và “Ngày”, v.v., sẽ khác, NẾU chúng ta xét rằng một “Thế kỷ Huyền bí” (khi khoảng thời gian này áp dụng cho một hệ mặt trời nhất định) có cùng thời lượng cho mọi đơn vị sự sống trong hệ mặt trời (một giả định có lý).

These are the greater periods of time, and when their signifi­cance is comprehended, much that is now obscure [793] will be revealed.

Đây là những thời kỳ lớn, và khi ý nghĩa của chúng được thấu triệt, nhiều điều hiện nay còn tối tăm [793] sẽ được hiển lộ.

79. These are the periods of time as seen from the perspective of ”Brahma” conceived as the Solar Logos.

79. Đây là những thời kỳ nhìn từ viễn tượng của “Brahma” được hiểu như Thái dương Thượng đế.

80. It seems we are a long way from truly comprehending these greater periods of time. Therefore, much will remain obscure, it seems, for some time.

80. Có vẻ chúng ta còn một quãng đường dài mới có thể thật sự thấu hiểu những thời kỳ lớn này. Do đó, nhiều điều xem ra sẽ còn mờ tối, có lẽ, trong một thời gian.

81. Yet, if we understand the apparent contradictions and take note of that which we do not understand, we are coming closer to understanding.

81. Tuy vậy, nếu chúng ta hiểu những mâu thuẫn bề ngoài và ghi nhận những gì mình chưa hiểu, chúng ta đang đến gần sự thấu hiểu hơn.

As yet, it is only to initiates that the true figures are given, the figures in the Secret Doctrine, such as the 100 years of Brahma, strike the general average

Cho đến nay, chỉ những điểm đạo đồ mới được ban cho các con số thật, các con số trong Giáo Lý Bí Nhiệm, như 100 năm của Brahma, chỉ là mức trung bình chung

82. There are no doubt: we are not given the true figures for the actual number of Earth-years in any of these greater cycles. We are only given an indication which helps us understand at least something of their relative duration.

82. Không nghi ngờ gì: chúng ta không được ban cho các con số thật về số năm Trái Đất trong bất kỳ chu kỳ lớn nào như vậy. Chúng ta chỉ được gợi ý giúp hiểu ít nhất phần nào thời lượng tương đối của chúng.

but it must be ever remembered that in considering the figures where a scheme, for instance, is concerned, much latitude has to be allowed for individual planetary karma, and idiosyncrasy.

nhưng phải luôn nhớ rằng khi xét đến các con số có liên quan, thí dụ như đến một hệ hành tinh, thì cần dành nhiều biên độ cho nghiệp quả hành tinh cá biệt và những dị tính riêng.

83. We suggested this in our foregoing discussion. In relation to the manifestation of the Planetary Logos of the Earth-scheme, for instance, we do not know whether that manifestation lasts throughout the mahamanvantara or not. We do not know (from the occult perspective) the period of its inception or its termination. We also do not know the speed or duration of chain round cycles or the various chains (whether they are uniform from chain to chain or, even, uniform within the Earth-scheme’s seven chains) of the Earth-scheme nor the duration of scheme round cycles.

83. Chúng ta đã gợi điều này trong cuộc bàn luận trước. Liên quan đến sự ngoại hiện của Hành Tinh Thượng đế của hệ Trái Đất, chẳng hạn, chúng ta không biết liệu sự ngoại hiện ấy kéo dài suốt Đại giai kỳ sinh hóa hay không. Chúng ta không biết (theo viễn tượng huyền bí) thời điểm khởi đầu hay chấm dứt của nó. Chúng ta cũng không biết tốc độ hay thời lượng của các chu kỳ vòng của dãy hoặc các dãy khác nhau (liệu chúng có đồng đều từ dãy này sang dãy khác hay thậm chí đồng đều ngay trong bảy dãy của hệ Trái Đất) cũng như thời lượng của các chu kỳ vòng của hệ.

84. Naturally, for students at our stage of unfoldment, these secrets of initiate will not be imparted—especially not in a printed book which can be read by the general public.

84. Tự nhiên, đối với các đạo sinh ở giai đoạn khai mở như chúng ta, những bí nhiệm của điểm đạo này sẽ không được truyền dạy—nhất là không phải trong một quyển sách in mà công chúng nói chung có thể đọc được.

The following points are worthy of consideration when upon this subject, and deal with some interesting factors.

Những điểm sau đáng để cân nhắc khi bàn về chủ đề này, và đề cập đến vài yếu tố thú vị.

All the planetary Rishis are not equally “long-lived,” in the occult sense of the term,

Không phải mọi Rishi hành tinh đều “sống lâu” như nhau, theo nghĩa huyền bí của thuật ngữ,

85. We must pause when DK uses the phrase, “in the occult sense of the term”. We must remember from The Secret Doctrine that Martanda (the Sun) and His seven Brothers all came into physical existence at the same time.

85. Chúng ta phải dừng lại khi Chân sư DK dùng cụm “theo nghĩa huyền bí của thuật ngữ”. Chúng ta phải nhớ từ Giáo Lý Bí Nhiệm rằng Martanda (Mặt Trời) và Bảy Huynh Đệ của Ngài đều đi vào tồn tại hồng trần cùng một lúc,

86. With regard, at least, to seven major planets, we may have an apparent contradiction on our hands.

86. Ít nhất liên quan đến bảy hành tinh chính, chúng ta có thể đang gặp một mâu thuẫn bề ngoài.

87. Note the use of the term “Rishis”: it applies to the Logoi of planets as well as to the Logoi of great stars such as the seven major stars of the Great Bear.

87. Lưu ý việc dùng thuật ngữ “Rishis”: nó áp dụng cho các Thượng đế của các hành tinh cũng như cho các Thượng đế của những đại tinh như bảy đại tinh của chòm Đại Hùng.

and the seven planetary Logoi of the seven sacred planets are at different stages of evolution;

và bảy Hành Tinh Thượng đế của bảy hành tinh thiêng liêng đang ở các giai đoạn tiến hoá khác nhau;

88. This we well understand by consulting the following chart:

88. Điều này chúng ta hiểu rõ khi tham chiếu bảng sau:

“The Dense Physical Planets:

“Các Hành tinh thể xác đậm đặc:

Earth                               4th Chain              4th Globe

Trái Đất Dãy thứ tư Bầu thứ tư

Jupiter                             3rd Chain              4th Globe

Mộc tinh Dãy thứ ba Bầu thứ tư

Saturn              3rd Chain              4th Globe

Thổ tinh Dãy thứ ba Bầu thứ tư

Mars                                 4th Chain              4th Globe

Hỏa tinh Dãy thứ tư Bầu thứ tư

Vulcan                            3rd Chain              4th Globe

Vulcan Dãy thứ ba Bầu thứ tư

Venus                5th Chain              5th Globe

Kim tinh Dãy thứ năm Bầu thứ năm

Mercury                         4th Chain              5th Globe” (EA 673)

Thủy tinh Dãy thứ tư Bầu thứ năm” (EA 673)

89. We notice how the Planetary Logoi representing the lower solar systemic chakras, such as the Earth and Mars, are farther ahead in Their development than the far greater Planetary Logoi of Jupiter and Saturn.

89. Chúng ta nhận ra rằng các Hành Tinh Thượng đế đại diện cho các luân xa thấp của hệ mặt trời, như Trái Đất và Hỏa tinh, lại ở phía trước hơn trong sự phát triển của Các Ngài so với các Hành Tinh Thượng đế lớn lao của Mộc tinh và Thổ tinh.

90. We also notice that the Planetary Logoi of Mercury and, above all, of Venus, are most fully developed. In the case of Venus, representing, we hypothesize, the solar plexus (and eventually the heart center) of our astral-buddhic Solar Logos, this could be expected.

90. Chúng ta cũng nhận ra rằng các Hành Tinh Thượng đế của Thủy tinh và, trên hết, của Kim tinh, là phát triển đầy đủ nhất. Trong trường hợp của Kim tinh, vốn biểu trưng, chúng ta giả thuyết, cho luân xa tùng thái dương (và rốt cuộc là luân xa tim) của Thái dương Thượng đế mang tính cảm dục–Bồ đề của chúng ta, điều này có thể được kỳ vọng.

Their vibratory response, therefore, differs, producing vary­ing effects in time.

Do đó, đáp ứng rung động của Các Ngài khác nhau, tạo ra các tác động khác biệt theo thời gian.

91. The vibratory response is, presumably, the response of the various Planetary Logoi to the energy of the Solar Logos.

91. Sự đáp ứng rung động, có lẽ, là sự đáp ứng của các Hành Tinh Thượng đế khác nhau với năng lượng của Thái dương Thượng đế.

92. From the tabulation given in TCF 373, may we infer that the planets Uranus and Neptune are the least unfolded though, spiritually, the most developed Planetary Logoi?

92. Từ bảng liệt kê trong LVLVT 373, liệu chúng ta có thể suy ra rằng các hành tinh Thiên Vương và Hải Vương là ít khai mở hơn cả mặc dù về mặt tinh thần Các Hành Tinh Thượng đế này là phát triển nhất?

The three major planetary schemes (Uranus, Neptune, and Saturn) have not, as yet, received their fullest stimulation,

Ba hệ hành tinh chính (Thiên Vương, Hải Vương và Thổ tinh) vẫn chưa nhận được sự kích thích đầy đủ của chúng,

93. These are the synthesizing planets.

93. Đây là các hành tinh tổng hợp.

94. Why is there no information given on Uranus and Neptune? May we assume, because They are mentioned in the same breath as Saturn, that They are unfolded to the same extent as Saturn is?

94. Vì sao không có thông tin về Thiên Vương và Hải Vương? Liệu chúng ta có thể giả định, bởi vì Chúng được nêu cùng với Thổ tinh, rằng mức khai mở của Chúng ngang với Thổ tinh?

95. Or is the planet Saturn, for which we are given the knowledge that it is in its third chain, fourth globe, not the same Saturn as is here being discussed? (c.f. Chart VI, TCF 373, for indications of two or even three Saturns).

95. Hay hành tinh Thổ tinh, về hành tinh mà chúng ta nhận được tri thức rằng nó đang ở dãy thứ ba, bầu thứ tư, lại không phải chính là Thổ tinh như đang được bàn ở đây? (x.đ. Bảng VI, LVLVT 373, về những dấu chỉ có thể có hai hay thậm chí ba Thổ tinh).

96. Presumably, the stimulation to be received comes from the Solar Logos.

96. Có lẽ, sự kích thích sẽ được nhận đến từ Thái dương Thượng đế.

97. As none of the planets (discounting, for the moment, Saturn, Neptune and Uranus) except Venus are really anywhere nearly fully unfolded, can it really be assumed that any of them have, indeed, received “their fullest stimulation”. Perhaps They have, but have not yet responded fully to the fulness of stimulation They have received.

97. Vì không một hành tinh nào (tạm gác Thổ tinh, Hải Vương và Thiên Vương) ngoại trừ Kim tinh thật sự gần đạt sự khai mở trọn vẹn, liệu có thể thật sự giả định rằng bất kỳ hành tinh nào trong số đó đã nhận “sự kích thích đầy đủ” của mình chăng. Có thể là Có, nhưng vẫn chưa đáp ứng trọn vẹn với sự kích thích viên mãn mà Các Ngài đã nhận.

and will not do so until the “energy of the sacred seven” has been transferred to Them.

và sẽ không làm như vậy cho đến khi “năng lượng của bảy thiêng liêng” được chuyển sang cho Các Ngài.

98. The planet Saturn, here mentioned alongside Uranus and Neptune, must be that which we have been calling ‘Greater Saturn’—a greater Being which, according to the chart on TCF 373, includes seven lesser planets, including the planet we normally call Saturn.

98. Hành tinh Thổ tinh, được nêu ở đây cùng với Thiên Vương và Hải Vương, hẳn là điều mà chúng ta vẫn gọi là ‘Đại Thổ tinh’—một Đấng lớn hơn, theo biểu đồ ở LVLVT 373, bao gồm bảy hành tinh nhỏ hơn, kể cả hành tinh mà bình thường chúng ta gọi là Thổ tinh.

Figures, therefore, as regards their duration and persistence are not in order.

Do đó, các con số về thời lượng và sự bền bỉ của Các Ngài là không thích đáng để đặt định.

99. Will may infer that the three synthesizing planets endure beyond the point when the lesser planets ‘disappear’ into Them. It seems reasonable to conclude that They ‘outlast’ the planets they absorb—at least in physical or physical-etheric form.

99. Chúng ta có thể suy rằng ba hành tinh tổng hợp kéo dài tồn tại vượt quá thời điểm khi các hành tinh nhỏ ‘tan biến’ vào Trong Các Ngài. Có vẻ hợp lẽ để kết luận rằng Các Ngài ‘lâu bền’ hơn những hành tinh mà Các Ngài hấp thụ—ít nhất về hình thức hồng trần hay hồng trần–dĩ thái.

100. May we also assume that Saturn (probably ‘Greater Saturn’), Neptune and Uranus were present since the beginning of the solar system? One cannot imagine a Being in which the highest chakras are not present and functioning from the first—functioning, at least, at a maintenance level.

100. Chúng ta cũng có thể giả định rằng Thổ tinh (có lẽ là ‘Đại Thổ tinh’), Hải Vương và Thiên Vương đã hiện diện từ buổi đầu của hệ mặt trời? Khó mà tưởng tượng một Đấng mà trong Ngài các luân xa tối cao lại không hiện diện và hoạt động ngay từ đầu—ít nhất là ở mức duy trì.

The figures for the planets concerned with the “inner round” differ as to length of time but not as to space location from those of other planets.

Các con số cho những hành tinh liên quan đến “vòng nội giới” khác biệt về thời lượng nhưng không khác về vị trí trong không gian so với các hành tinh khác.

101. The inner round concerns, in one respect, etheric development.

101. Vòng nội giới, xét theo một phương diện, liên quan đến phát triển dĩ thái.

102. DK seems to be telling us that the ‘spatial location’ of the inner round is not separate from that of the planets with which we are familiar.

102. Dường như Chân sư DK đang nói với chúng ta rằng ‘vị trí không gian’ của vòng nội giới không tách rời khỏi vị trí của những hành tinh mà chúng ta quen biết.

103. In any case, the cycles we call the ‘cycles of the inner round’ have their own duration, the figures of which will not be given out.

103. Dù sao, các chu kỳ mà chúng ta gọi là ‘các chu kỳ của vòng nội giới’ có thời lượng riêng, những con số ấy sẽ không được tiết lộ.

The true figures in connection with any planetary scheme and its occult activity are not ascertainable by the man who cannot be trusted with the significance of the other planetary bodies (of great number) within the solar ring-pass-not.

Những con số thật sự liên quan đến bất kỳ hệ hành tinh nào và hoạt động huyền bí của nó không thể được xác quyết bởi người mà không thể được tin cậy với ý nghĩa của các thiên thể khác (có số lượng lớn) trong vòng-giới-hạn của hệ mặt trời.

104. DK is telling us that there are a “great number” of planetary bodies within the “solar ring-pass-not”. He would not mention them if they were not significant. The term “great number” suggests, one would think, at least a hundred or more.

104. Chân sư DK đang nói với chúng ta rằng có một “số lượng lớn” các thiên thể trong “vòng-giới-hạn hệ mặt trời”. Ngài đã không nhắc đến chúng nếu chúng không quan trọng. Thuật ngữ “số lượng lớn” gợi ý, người ta nghĩ, tối thiểu hàng trăm.

105. It would seem that until we know what these bodies are, their location and significance, we will not be given the “true figures” regarding the planetary schemes which are more familiar to us.

105. Có vẻ như cho đến khi chúng ta biết những thiên thể ấy là gì, vị trí và ý nghĩa của chúng, chúng ta sẽ không được ban cho “các con số thật” liên quan đến những hệ hành tinh quen thuộc hơn với chúng ta.

106. Anyone who wishes to ascertain the true figures as regards any planetary scheme must study the solar system (visible and invisible) with occult care. This is not yet possible to us.

106. Bất kỳ ai muốn xác quyết các con số thật về bất kỳ hệ hành tinh nào phải nghiên cứu hệ mặt trời (hữu hình và vô hình) bằng sự cẩn trọng huyền bí. Điều này hiện chưa thể đối với chúng ta.

107. We understand something of the exoteric activity of various of the planetary schemes, but not the “occult activity” of those schemes.

107. Chúng ta hiểu được đôi điều về hoạt động ngoại môn của vài hệ hành tinh, nhưng không hiểu hoạt động “huyền bí” của các hệ ấy.

108. It is also clear that information regarding the other planetary bodies within our solar ring-pass-not is contained within the secrets of initiation, because the ‘initiatory word’ “trusted” is used.

108. Cũng rõ ràng rằng thông tin về các thiên thể khác trong vòng-giới-hạn của hệ mặt trời của chúng ta nằm trong các bí mật của điểm đạo, vì “được tin cậy” là một từ mang ý nghĩa điểm đạo.

The entire solar sphere is full of such bodies, characterised by the same features as are the seven and the ten, and each of them in some degree has an effect upon the whole.

Toàn bộ khối cầu hệ mặt trời đầy dẫy những thiên thể như vậy, mang các đặc trưng giống như bảy và mười, và mỗi thiên thể trong một mức độ nào đó đều có tác động lên toàn thể.

109. The “seven and the ten” are probably the ten planets with which we are now familiar if Vulcan is included. The “ten” would include the three synthesizing planets.

109. “Bảy và mười” có lẽ chỉ mười hành tinh mà hiện nay chúng ta quen biết nếu kể cả Vulcan. “Mười” sẽ gồm cả ba hành tinh tổng hợp.

110. We must remember, however, that this book was written before Pluto was discovered, and so Saturn may be counted twice—once in its exoteric aspect and once as ‘Greater Saturn’, as we have called it.

110. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng quyển sách này được viết trước khi Diêm Vương tinh được phát hiện, và vì thế Thổ tinh có thể được tính hai lần—một lần trong phương diện ngoại môn và một lần như ‘Đại Thổ tinh’, theo cách chúng ta gọi.

Figures, therefore, cannot be considered as final until the effect of the lesser planetary bodies upon their immediate neighbours is known,

Do đó, các con số không thể được xem là chung cuộc cho đến khi ảnh hưởng của các thiên thể nhỏ hơn lên những láng giềng gần kề của chúng được biết rõ,

111. Among these “immediate neighbors” may be the normally considered planets.

111. Trong những “láng giềng gần kề” này có thể có cả những hành tinh thường được xét đến.

112. These lesser planetary bodies probably affect each other as well.

112. Những thiên thể nhỏ hơn này nhiều khả năng cũng tác động lên nhau nữa.

and the extent of their planetary radiation has been gauged.

và mức độ phóng xạ hành tinh của chúng được đo lường.

113. These lesser planetary bodies are certainly not dead or ineffective. They have their effective radiation and their influence.

113. Những thiên thể nhỏ hơn này chắc chắn không “chết” hay vô hiệu. Chúng có bức xạ hiệu lực và ảnh hưởng của chúng.

114. Any complete understanding of esoteric psychology must take their influence into consideration.

114. Bất kỳ sự thấu hiểu hoàn chỉnh nào về tâm lý học nội môn đều phải tính đến ảnh hưởng của chúng.

There are more than 115 of such bodies to be reckoned with, and all are at varying stages of vibratory [794] impulse.

Có hơn 115 thiên thể như vậy cần được tính đến, và tất cả đều đang ở các giai đoạn khác nhau của xung lực rung động [794].

115. We note that DK tells us that there are more than 115. Somehow the number 115 must be significant if it is singled out.

115. Chúng ta lưu ý rằng Chân sư DK nói có hơn 115. Bằng cách nào đó con số 115 phải có ý nghĩa nếu nó được nêu riêng.

116. From one perspective, 115 suggests Uranus, Neptune and the other five sacred planets which include Brahma and come under Brahma.

116. Ở một viễn cảnh, 115 gợi Thiên Vương, Hải Vương và năm hành tinh thiêng liêng còn lại bao gồm Brahma và thuộc về Brahma.

117. This number also suggests a way of highlighting the highest two subplanes of any seven plane system, and distinguishing them from the lower five subplanes.

117. Con số này cũng gợi một cách làm nổi bật hai cõi phụ cao nhất của bất kỳ hệ bảy cõi nào, và phân biệt chúng với năm cõi phụ thấp.

118. We are learning that the more than 115 planetary bodies are all at different stages of unfoldment or of “vibratory impulse”.

118. Chúng ta đang học rằng hơn 115 thiên thể này đều ở các giai đoạn khai mở khác nhau hay ở các “xung lực rung động” khác nhau.

119. We would imagine that, among the 115, planetoids are to be included, but not necessarily moons.

119. Chúng ta có thể hình dung rằng, trong số 115, có cả các hành tinh lùn, nhưng không nhất thiết có các vệ tinh.

120. We also think that the asteroids are not included as they are mentioned separately below (as are moons).

120. Chúng ta cũng nghĩ rằng các thiên thạch không được kể vào vì chúng được nêu riêng bên dưới (cũng như các vệ tinh).

121. If we add the number of known planets (excluding those few recently discovered) to the number 115, we have 125, and clearly there are more planets and planetoids than this relatively larger figure indicates.

121. Nếu chúng ta cộng số các hành tinh đã biết (không kể những hành tinh mới phát hiện gần đây) vào con số 115, chúng ta có 125, và rõ ràng có nhiều hành tinh và hành tinh lùn hơn con số tương đối lớn này cho thấy.

They have definite orbits,

Chúng có quỹ đạo xác định,

122. The orbits of some may be around the conventionally known planets, or perhaps, around some larger planets (perhaps beyond the orbit of Pluto) not yet discovered.

122. Quỹ đạo của một số có thể xoay quanh các hành tinh được biết tới theo quy ước, hoặc có lẽ, quanh một số hành tinh lớn hơn (có thể vượt ngoài quỹ đạo của Diêm Vương tinh) chưa được phát hiện.

123. On the other hand, their orbits may be around the Sun, as are the orbits of conventionally known planets.

123. Ngược lại, quỹ đạo của chúng cũng có thể quanh Mặt Trời, như các quỹ đạo của những hành tinh được biết theo quy ước.

they turn upon their axis, they draw their “life” and substance from the sun,

chúng tự quay quanh trục, chúng rút “sự sống” và chất liệu của mình từ Mặt Trời,

124. Does the fact that the Lives informing these lesser planetary bodies “draw their ‘life’ and substance from the sun” indicate that their orbits are principally around the sun?

124. Liệu việc các Sự Sống thấm nhuần những thiên thể nhỏ hơn này “rút ‘sự sống’ và chất liệu của mình từ Mặt Trời” có ám chỉ rằng quỹ đạo của chúng chủ yếu là quanh Mặt Trời?

but owing to their relative insignificance, they have not yet been considered factors of moment.

nhưng vì sự kém quan trọng tương đối của chúng, chúng chưa được xem là những nhân tố có ý nghĩa vào lúc này.

125. DK is not telling us that the radiation of these lesser planetary bodies is insignificant, but only that these Lives and the planets or planetoids through which they function are relatively insignificant. They will still have to be factored-in to any true psychological assessment of self-conscious beings within our solar system.

125. Chân sư DK không nói rằng bức xạ của những thiên thể nhỏ hơn này là không đáng kể, mà chỉ rằng các Sự Sống này và các hành tinh hay tiểu hành tinh qua đó chúng hoạt động là tương đối kém quan trọng. Chúng vẫn sẽ phải được đưa vào tính toán trong bất kỳ đánh giá tâm lý đích thực nào về các hữu thể tự thức trong hệ mặt trời của chúng ta.

126. They have also not been considered “factors of moment” because the vast majority of them has not yet been discovered.

126. Chúng cũng chưa được xem là “nhân tố có ý nghĩa” vì phần lớn tuyệt đại đa số trong chúng vẫn chưa được phát hiện.

This attitude of mind will change when etheric vision is a fact, and the reality of the existence of an etheric double of all that is in manifestation will be recognised by scientists.

Thái độ tư duy này sẽ đổi thay khi thị kiến dĩ thái trở thành một thực tại, và sự thật về sự tồn tại của một bản sao dĩ thái của mọi sự đang biểu hiện sẽ được các nhà khoa học thừa nhận.

127. DK is telling us, it seems, that many of these planetary bodies do not have dense physical bodies but only etheric bodies as their lowest vehicle.

127. Có vẻ Chân sư DK đang nói rằng nhiều thiên thể trong số này không có thể xác đậm đặc mà chỉ có thể dĩ thái là vận cụ thấp nhất.

This fact will be demonstrated towards the close of the century, and, during the early part of the next century a revolution in astronomical circles will occur which will result in the study of the “etheric planets.”

Sự thật này sẽ được chứng minh vào cuối thế kỷ, và trong phần đầu của thế kỷ kế tiếp sẽ xảy ra một cuộc cách mạng trong giới thiên văn dẫn tới việc nghiên cứu các “hành tinh dĩ thái.”

128. We cannot fully know to what extent such a demonstration has been made in inner astronomical circles. Perhaps, there are some astronomers who are working on planetary energy sources which are not associated with apparent dense physical vehicles.

128. Chúng ta không thể hoàn toàn biết mức độ mà một minh chứng như vậy đã được thực hiện trong nội giới của giới thiên văn. Có lẽ, có những nhà thiên văn đang nghiên cứu các nguồn năng lượng hành tinh không gắn với các vận cụ hồng trần hiện tượng.

129. The phrase “revolution in astronomical circles” may have more than one meaning. Could DK be referring to a deeper understanding of the orbital dynamics of apparently ‘hidden’ planets?

129. Cụm từ “cuộc cách mạng trong giới thiên văn” có thể có hơn một ý nghĩa. Liệu Chân sư DK có ám chỉ một sự hiểu biết sâu hơn về động lực quỹ đạo của những hành tinh dường như ‘ẩn’?

130. We know that radio sources far outside our solar system are presently studied by certain astronomers. Often astronomers are far more interested in what is occurring in “deep space” than they are in what is occurring within the confines of our solar system. It would seem that even now, they would have the capacity to detect etheric planets within the solar system.

130. Chúng ta biết rằng các nguồn vô tuyến rất xa ngoài hệ mặt trời hiện đang được một số nhà thiên văn học nghiên cứu. Thường thì các nhà thiên văn quan tâm nhiều hơn đến những gì xảy ra trong “không gian sâu” hơn là những gì xảy ra trong phạm vi hệ mặt trời của chúng ta. Dường như ngay bây giờ, họ cũng đã có năng lực phát hiện những hành tinh dĩ thái trong hệ mặt trời.

As these bodies are organs of energy,

Vì các thiên thể này là những cơ quan năng lượng,

131. Chakras are “organs of energy”. These lesser bodies represent, then, lesser chakras within the chakric system of our Solar Logos.

131. Các luân xa là “cơ quan năng lượng”. Những thiên thể nhỏ hơn này, vậy thì, đại diện cho các luân xa nhỏ trong hệ luân xa của Thái dương Thượng đế chúng ta.

permeating the dense form,

thấm nhuần hình hài đậm đặc,

132. Chakras permeate the dense form. Some of them have noticeable externalizations in the form of organs and glands.

132. Các luân xa thấm nhuần hình hài đậm đặc. Một số trong chúng có các ngoại hiện nhận thấy được dưới dạng các cơ quan và tuyến.

the study of the interaction of solar energy, and the occult “give and take” of planetary bodies will assume a new significance.

việc nghiên cứu sự tương tác của năng lượng thái dương và sự “cho–nhận” huyền bí của các thiên thể sẽ mang một ý nghĩa mới.

133. DK is pointing to a new science for the future.

133. Chân sư DK đang chỉ đến một khoa học mới cho tương lai.

134. We know, for instance, that there has been a significant interplay or “give and take” between Venus and the Earth. This type of interchange probably occurs on a wide scale throughout the solar system between many of the known and presently unknown planetary bodies.

134. Thí dụ, chúng ta biết đã có một mối tương giao đáng kể hay sự “cho–nhận” giữa Kim tinh và Trái Đất. Loại tương giao này có lẽ diễn ra trên quy mô rộng trong toàn hệ mặt trời giữa nhiều thiên thể đã biết và hiện chưa biết.

135. It will become evident to analogical thinkers that to study the exoteric and esoteric solar system, we are studying a vast system of interrelated chakras and their externalizations.

135. Rồi sẽ trở nên hiển nhiên đối với những người tư duy theo phép loại suy rằng khi nghiên cứu hệ mặt trời ngoại môn và nội môn, chúng ta đang nghiên cứu một hệ thống vô cùng rộng lớn các luân xa liên hệ lẫn nhau và các ngoại hiện của chúng.

Certain planetary bodies (both greater and lesser) are “absorbers,”

Một số thiên thể (cả lớn lẫn nhỏ) là “kẻ hấp thụ,”

136. The “take”, occultly.

136. Tức là “nhận”, theo huyền bí.

others are “radiators,”

số khác là “kẻ phát xạ,”

137. The “give” occultly.

137. Tức là “cho”, theo huyền bí.

while some are in the stage of demonstrating a dual activity, and are being “transmuted.”

trong khi một số đang biểu lộ một hoạt động kép, và đang được “chuyển hoá.”

138. Is DK saying that some of these lesser bodies are both giving and taking? Venus and the Earth both give and take—at least They did so at the time of the individualization of animal man upon this planet.

138. Có phải Chân sư DK đang nói rằng một số thiên thể nhỏ hơn này vừa cho vừa nhận? Kim tinh và Trái Đất đều cho và nhận—ít nhất Các Ngài đã làm như vậy vào thời kỳ biệt ngã hóa của người thú trên hành tinh chúng ta.

139. In any case, transmutation occurs on a planet when its life forms (and especially its self-conscious life forms) are being ‘solarized’.

139. Dù sao, sự chuyển hoá diễn ra trên một hành tinh khi các hình thức sống của nó (và đặc biệt là các hình thức sống tự thức ) đang được ‘thái dương hóa’.

140. For instance, while only one fifth of the human units on Earth have been transmuted, two-fifths of the units on Vulcan have been so. Each planet (and probably each planetoid) has a fraction which describes the degree to which the process of transmutation has occurred upon or within it.

140. Thí dụ, trong khi chỉ một phần năm các đơn vị nhân loại trên Trái Đất đã được chuyển hoá, thì hai phần năm các đơn vị trên Vulcan đã như vậy. Mỗi hành tinh (và có lẽ mỗi tiểu hành tinh) có một phân suất mô tả mức độ mà tiến trình chuyển hoá đã diễn ra trên hoặc trong nó.

141. A planetary or planetoid which has been completed “transmuted” is, we would infer, ready for absorption.

141. Một hành tinh hay tiểu hành tinh đã được “chuyển hoá” trọn vẹn, theo suy diễn, là sẵn sàng cho sự hấp thu.

All these circumstances require to be considered by the initiate who is dealing with cycles.

Tất cả những hoàn cảnh này cần được vị điểm đạo đồ đang nghiên cứu các chu kỳ cân nhắc.

142. The initiate who is dealing with cycles must be both an astronomer and an astrologer.

142. Vị điểm đạo đồ đang đề cập đến các chu kỳ phải đồng thời là một nhà thiên văn và một nhà chiêm tinh.

143. To achieve “All Knowledge” on the third level of the atmic plane is to have a great and extensive knowledge of the Science of Cycles. May we say that the most advanced form of the study of astrology and astronomy possible to us as man is atmic in nature and requires atmic consciousness?

143. Đạt được “Toàn Tri” ở tầng thứ ba của cõi atma là có một tri thức rộng lớn và sâu xa về Khoa học về Chu kỳ. Chúng ta hãy nói rằng hình thái nghiên cứu cao nhất về chiêm tinh học và thiên văn học khả hữu cho chúng ta như là con người có bản chất atma và đòi hỏi tâm thức atma?

Figures also must be computed when the effect upon the planets of what are called “asteroids” is known.

Các con số cũng phải được tính toán khi biết tác động lên các hành tinh của những gì được gọi là “các tiểu hành tinh”.

144. It is clear that DK is distinguishing the “asteroids” from the more than 115 lesser planetary bodies within the solar ring-pass-not.

144. Rõ ràng Chân sư DK đang phân biệt “các tiểu hành tinh” với hơn 115 thiên thể hành tinh nhỏ hơn nằm trong vòng-giới-hạn của Thái dương hệ.

145. Just because these bodies are called “asteroids” does not mean that this is the best or most indicative name for them.

145. Chỉ vì những thiên thể này được gọi là “tiểu hành tinh” không có nghĩa đó là tên gọi tốt nhất hay gợi ý nhất cho chúng.

This is much greater than exoteric science has so far admitted,

Điều này lớn lao hơn nhiều so với những gì khoa học ngoại môn cho đến nay đã thừa nhận,

146. Exoteric science hardly acknowledges the “effect” of the asteroids, and certainly not any psychological effect.

146. Khoa học ngoại môn hầu như không công nhận “tác động” của các tiểu hành tinh, và chắc chắn không công nhận bất kỳ tác động tâm lý nào.

147. Could DK be speaking of exoteric astrological science? In some forms of exoteric astrology, the asteroids are considered effective, and perhaps we, too, have noticed their effects in our own astrological charts and the charts of those we know.

147. Liệu Chân sư DK có đang nói về khoa học chiêm tinh ngoại môn? Trong một số hình thái chiêm tinh ngoại môn, các tiểu hành tinh được xem là có hiệu lực, và có lẽ chính chúng ta cũng đã nhận thấy tác động của chúng trong lá số chiêm tinh của chính mình và của những người chúng ta quen biết.

but the significance of this must eventually be interpreted in terms of energy and on etheric levels.

nhưng ý nghĩa của việc này rốt cuộc phải được diễn giải theo các thuật ngữ của năng lượng và trên các cõi dĩ thái.

148. Really, the effect of all astrological factors is far more etheric than physical.

148. Quả thật, tác động của mọi yếu tố chiêm tinh mang tính dĩ thái nhiều hơn là hồng trần.

149. Our microcosmic energy system reflects the energy system of the macrocosm in which we live. Every factor within that macrocosm must, eventually, be considered, but we are not yet in a position to do so.

149. Hệ thống năng lượng tiểu thiên địa của chúng ta phản chiếu hệ thống năng lượng của đại thiên địa trong đó chúng ta sống. Mọi yếu tố trong đại thiên địa ấy rốt cuộc đều phải được xét đến, nhưng hiện nay chúng ta chưa ở vị thế để làm như vậy.

150. It is clear that we will not completely know ourselves until we know far more about the macrocosm in which we live and move and have our being.

150. Rõ ràng là chúng ta sẽ không hoàn toàn biết mình cho đến khi biết nhiều hơn nữa về đại thiên địa trong đó chúng ta đang sống, đang động và đang hiện hữu.

Another factor in computation which must also be consider­ed is the effect of the various moons upon any planetary scheme,

Một yếu tố khác trong việc tính toán vốn cũng phải được xét đến là tác động của các vệ trăng khác nhau lên bất kỳ hệ hành tinh nào,

151. Let us be clear that DK is bringing three different factors into consideration:

151. Chúng ta hãy rõ rằng Chân sư DK đang đưa ba yếu tố khác biệt vào xem xét:

a. The effect of the lesser planetary bodies of which there are more than 115

a. Tác động của các thiên thể hành tinh nhỏ hơn mà số lượng vượt quá 115

b. The effect of the asteroids

b. Tác động của các tiểu hành tinh

c. The effect of the “various moons”.

c. Tác động của “các vệ trăng khác nhau”.

152. It becomes clear that all three are distinct from each other.

152. Rõ dần rằng cả ba đều khác biệt với nhau.

and the true meaning of the eighth sphere in con­nection with dense substance.

và ý nghĩa chân thực của quả cầu thứ tám liên hệ với chất đậm đặc.

153. We cannot dissociate the nature of the “eighth sphere” from our Moon.

153. Chúng ta không thể tách rời bản chất của “quả cầu thứ tám” khỏi Mặt Trăng của chúng ta.

154. Our Moon is a “point of corruption” and so is the “eighth sphere” (a sphere of limitless decay and decomposition)

154. Mặt Trăng của chúng ta là một “điểm bại hoại” và “quả cầu thứ tám” cũng vậy (một quả cầu của sự mục rữa và phân hủy vô hạn).

155. There is probably an interesting link between the “eighth sphere”, the Moon and Saturn.

155. Nhiều khả năng có một mối liên hệ đáng chú ý giữa “quả cầu thứ tám”, Mặt Trăng và Sao Thổ.

Every moon is occultly a “point of corruption,” or that which is passing off in noxious gases.

Mỗi vệ trăng, theo huyền bí học, là một “điểm bại hoại”, hay là cái đang thải ra những khí độc hại.

156. Our Moon and every other moon is in process of decomposition.

156. Mặt Trăng của chúng ta và mọi vệ trăng khác đều đang trong tiến trình phân hủy.

157. With regard to moons in general, there are no longer internal principles (expressing the second and first aspects) to hold them in healthy coherence.

157. Về các vệ trăng nói chung, không còn các nguyên khí nội tại (biểu lộ phương diện thứ hai và thứ nhất) để giữ cho chúng kết hợp lành mạnh.

The transmutation of the form has been proceeded with in their case to a point where all that represents vital energy has left,

Việc chuyển hoá hình tướng ở trường hợp của chúng đã tiến tới một điểm mà mọi cái đại diện cho năng lượng sinh động đều đã rời đi,

158. All “solar” energy has left them. They are no longer animated. The soul factor is now absent. They are like decaying, dead bodies.

158. Mọi “năng lượng Thái dương” đã rời khỏi chúng. Chúng không còn được linh hoạt, Yếu tố linh hồn giờ vắng mặt. Chúng như những thân xác chết đang mục rữa.

159. The Logos informing our Moon had His life-course interrupted by the timely interference of the Solar Logos. This has probably not been the case for all moons. Some may be the result of successful transmutation and the natural departure of the vital and coherent solar principles.

159. Thượng Đế đang thấm nhuần Mặt Trăng của chúng ta đã có lộ trình sinh mệnh bị gián đoạn bởi sự can thiệp kịp thời của Thái dương Thượng đế. Có lẽ điều này không đúng với tất cả các vệ trăng. Một số có thể là kết quả của chuyển hoá thành công và sự rút lui tự nhiên của các nguyên khí Thái dương mang tính sinh động và kết hợp.

all solar life has passed off, no remnants of pranic energy remain,

mọi sự sống Thái dương đã thoát đi, không còn tàn dư của prana,

160. Prana, in this context, is to be considered as “solar”.

160. Prana, trong ngữ cảnh này, cần được xem như “Thái dương”.

161. We must remember how prana contributes to the just coherence of the form it animates.

161. Chúng ta phải nhớ prana góp phần như thế nào vào sự kết hợp đúng đắn của hình tướng mà nó linh hoạt.

and that which is to be seen is simply the decay of the physical body,—a decay which is proceeding on etheric levels as well as [795] on physical.

và những gì được nhìn thấy chỉ đơn thuần là sự phân rã của thể xác—một sự phân rã đang diễn ra trên các cấp dĩ thái cũng như [795] trên hồng trần.

162. With respect to any moon, we are witnessing not only physical decay but etheric decay as well.

162. Đối với bất kỳ vệ trăng nào, chúng ta đang chứng kiến không chỉ sự phân rã hồng trần mà còn sự phân rã dĩ thái,

163. We might remember here that when occult principles are listed, the etheric body and prana are usually both listed and differentiated from each other. Of these two principles, it seems that prana is the higher and, abstracting itself from the etheric body of a moon, causes that etheric body to decay and with that decay, the decay of the physical vehicle as well.

163. Ở đây chúng ta có thể nhớ rằng khi liệt kê các nguyên khí huyền môn, thể dĩ thái và prana thường được liệt kê cùng lúc và được phân biệt với nhau. Trong hai nguyên khí này, có vẻ prana là cao hơn và, khi tự rút khỏi thể dĩ thái của một vệ trăng, khiến thể dĩ thái đó phân rã, và cùng với sự phân rã đó là sự phân rã của hiện thể hồng trần.

The decay of a moon has as great an evil effect upon all that contacts it as a decaying body on earth has upon its sur­round­ings.

Sự phân rã của một vệ trăng gây tác động xấu lớn lao lên mọi thứ tiếp xúc với nó, như một thân xác mục rữa trên trần thế tác hại đến môi trường xung quanh.

164. This must be obvious. Does our Moon in our astrological chart represent that in us which is in process of decay and decomposition? Or, perhaps, that which should be in process of decay or decomposition?

164. Điều này hẳn là hiển nhiên. Liệu Mặt Trăng trong lá số chiêm tinh của chúng ta biểu thị nơi trong chúng ta đang ở trong tiến trình phân rã và mục nát? Hoặc, có lẽ, điều mà nên ở trong tiến trình phân rã hay mục nát?

It is occultly “offensive.”

Theo huyền bí học, nó “xú uế.”

165. This means that such an influence challenges the integrity of that which is spiritually legitimate. Moons are no longer ‘spiritually legitimate’. They are no longer principled and, instead, correlate with that which is no longer ‘lawful’ and, in the moral sense, ‘principled’.

165. Điều này có nghĩa là ảnh hưởng như vậy thách thức tính toàn vẹn của cái hợp pháp về mặt tinh thần. Các vệ trăng không còn ‘hợp pháp về mặt tinh thần’. Chúng không còn có nguyên tắc, và thay vào đó, tương liên với cái không còn ‘hợp pháp’ và, theo nghĩa đạo đức, ‘có nguyên tắc’.

This will be more truly apprehended when the etheric double of our moon is studied.

Điều này sẽ được lĩnh hội chân thực hơn khi thể dĩ thái đôi của Mặt Trăng chúng ta được nghiên cứu.

166. This type of study lies ahead.

166. Dạng nghiên cứu này còn ở phía trước.

167. Within us and contravening our best efforts is a kind of “death instinct” which will one day be proved to be associated with the Earth’s decaying Moon. There may be other, now invisible, moons in our local vicinity, each with its own deleterious effect. Some astrologers work with such invisible bodies. One such is called the “black moon”, and attracts the attention of those interested in morbidity.

167. Bên trong chúng ta và làm trái với nỗ lực tốt nhất của chúng ta là một dạng “bản năng tử vong” mà một ngày kia sẽ được chứng minh là có liên kết với Mặt Trăng đang phân rã của Trái Đất. Có thể còn những mặt trăng khác, hiện vô hình, ở vùng lân cận địa phương của chúng ta, mỗi cái có tác động tai hại riêng. Một số nhà chiêm tinh làm việc với những thiên thể vô hình như vậy. Một cái trong số đó được gọi là “mặt trăng đen”, và thu hút sự chú ý của những ai quan tâm đến tính bệnh hoạn.

As the moon becomes small through the process of disinte­gra­tion,

Khi Mặt Trăng trở nên nhỏ đi do tiến trình phân rã,

168. By the end of the seven round (probably scheme round) of our planetary scheme, it will have disappeared; so we learn below.

168. Đến cuối vòng bảy cuộc tuần hoàn (có lẽ là tuần hoàn hệ ) của hệ hành tinh chúng ta, nó sẽ biến mất; như chúng ta học phía dưới.

its effect upon the Earth will be correspond­ing­ly les­sened, and this stage will be paralleled by a consequent greater freedom from evil impulse of the sons of men.

tác động của nó lên Trái Đất sẽ giảm tương ứng, và giai đoạn này sẽ song song với một tự do lớn hơn khỏi những xung lực xấu của những người con của nhân loại.

169. As the sacral center of our planet becomes less energized (its energy transferred to the solar plexus center) much criminal activity upon our planet will lessen.

169. Khi luân xa xương cùng của Hành tinh chúng ta bớt được tiếp năng lượng (năng lượng của nó được chuyển sang luân xa tùng thái dương) nhiều hoạt động tội phạm trên hành tinh chúng ta sẽ giảm sút.

170. These two processes may be considered correlated:

170. Hai tiến trình này có thể được xem là tương quan:

a. The gradual minimizing and disappearance of the Moon

a. Sự giảm dần và biến mất của Mặt Trăng

b. The transfer of energy from the planetary sacral center to the planetary solar plexus center.

b. Việc chuyển năng lượng từ luân xa xương cùng hành tinh sang luân xa tùng thái dương hành tinh.

g. When the Heavenly Man, Who is at present demonstrating through the Earth scheme, has succeeded in vitalising His middle centre, or in directing the force of planetary kundalini away from the lower centres to the solar plexus centre, a new cycle will be reached, and much of the present distress will be ended. (TCF 297)

g. Khi Đấng Thiên Nhân, Đấng hiện đang biểu lộ qua hệ Địa Cầu, đã thành công trong việc tiếp sinh lực cho trung tâm giữa của Ngài, hoặc trong việc chuyển hướng lực kundalini hành tinh ra khỏi các trung tâm thấp lên trung tâm tùng thái dương, một chu kỳ mới sẽ đạt được, và phần lớn khổ não hiện tại sẽ chấm dứt. (TCF 297)

Better conditions among the animals will be another result above all else, and the dying out of that which is noxious in the animal kingdom.

Những điều kiện tốt hơn nơi giới động vật sẽ là một kết quả khác, vượt trên hết thảy, và sự tàn lụi của cái độc hại trong giới động vật.

171. Here we have the suggestion that the Moon is associated with the poisons found in some species in the animal kingdom.

171. Ở đây chúng ta có gợi ý rằng Mặt Trăng có liên quan với các độc tố được tìm thấy trong một số loài thuộc giới động vật.

172. The Moon and Mars are definitely associated with the animal kingdom and with all that is ‘animal’ and ‘animal-like’ in man.

172. Mặt Trăng và Sao Hỏa chắc chắn có liên hệ với giới động vật và mọi điều ‘thú tính’ và ‘giống thú’ nơi con người.

173. The effect of cosmic evil upon our planet (a process, from one perspective, through which the third ray inhibits the expression of the second) is reflected in the poor relations between the animal and human kingdoms. The animal kingdom is, we know, the third kingdom. The animal nature within man inhibits the expression of his soul nature (vibrating to the second aspect or ray).

173. Tác động của ác lực vũ trụ lên hành tinh chúng ta (một tiến trình, xét từ một góc độ, qua đó cung ba kìm hãm sự biểu lộ của cung hai) phản ánh trong mối quan hệ kém đẹp giữa giới động vật và giới nhân loại. Giới động vật, chúng ta biết, là giới thứ ba, Bản thú nơi con người kìm hãm sự biểu lộ bản chất linh hồn của y (rung với phương diện hay cung thứ hai).

By the time the seventh round is reached, the evil effect of the then moon (which will have to all intents and purposes practically disappeared) will be finished.

Khi vòng bảy được đạt tới, tác động xấu của Mặt Trăng lúc đó (vốn về mọi mục đích thực tế sẽ hầu như biến mất) sẽ kết thúc.

174. It is not that we can ever expect good effects from the Moon. It is simply that the physical and etheric decomposition of the Moon will be, for all practical purposes, completed.

174. Không phải chúng ta có thể trông mong các tác động tốt từ Mặt Trăng. Chỉ là sự phân rã hồng trần và dĩ thái của Mặt Trăng, về mọi mục đích thực tiễn, sẽ hoàn tất.

175. Every planet must outlive its moon or moons and so must every human being on our planet.

175. Mỗi hành tinh phải sống lâu hơn vệ trăng của nó và mỗi con người trên hành tinh chúng ta cũng vậy.

During the fifth round, men will discover how to neutralise any remaining effects through scientific achievement and knowledge of the necessary sounds and mantrams, and thus much evil will be offset.

Trong vòng năm, nhân loại sẽ khám phá cách hoá giải mọi tác động còn lại thông qua thành tựu khoa học và tri thức về các âm thanh và mantram cần thiết, và như thế nhiều ác sự sẽ được hóa giải.

176. Here we have the fifth round and, thus, the fifth ray engaged in the neutralizing of evil. The fifth round will reflect, very much, both Mercury and Venus (advanced planets and Planetary Logoi) conveying the power to offset evil.

176. Ở đây chúng ta có vòng năm, và như vậy là sự tham gia của cung năm trong việc hoá giải ác lực. Vòng năm sẽ phản chiếu rất nhiều cả Sao Thủy lẫn Sao Kim (những hành tinh tiến bộ và các Hành Tinh Thượng đế) truyền tải quyền năng để hóa giải ác.

177. It seems a long wait—millions of years, really.

177. Có vẻ là một chờ đợi dài—thực sự là hàng triệu năm.

178. A hint is given, however, which may be utilized even now. By the correct use of thought and speech much evil (unnecessary even now) may be offset.

178. Tuy nhiên, một ám chỉ được đưa ra, có thể tận dụng ngay bây giờ. Bằng việc sử dụng đúng đắn tư tưởng và ngôn từ, nhiều ác nghiệp (vốn hiện không cần thiết) có thể được hóa giải.

The etheric moon is included in these remarks.

Thể dĩ thái của Mặt Trăng cũng nằm trong những nhận định này.

179. DK seeks to have us remember that the effects of the Moon are not only densely physical but etheric as well.

179. Chân sư DK muốn chúng ta nhớ rằng các tác động của Mặt Trăng không chỉ hồng trần đậm đặc mà còn dĩ thái nữa.

180. We know that black magicians work with etheric energies and with certain devas of the ether who carry out their behests. Understanding that there are negative etheric conditions associated with our Moon helps us understand why the Moon figures in certain types of black magic.

180. Chúng ta biết những nhà hắc thuật làm việc với các năng lượng dĩ thái và với một số deva của cõi dĩ thái, những vị thi hành các mệnh lệnh của họ. Hiểu rằng có các điều kiện dĩ thái tiêu cực gắn với Mặt Trăng của chúng ta giúp chúng ta hiểu vì sao Mặt Trăng xuất hiện trong một số loại hắc thuật nào đó.

The greatest effect of moon conditions is to be seen working out predomi­na­ntly in the terror, and present distress in the animal king­dom.58 [Bible. Romans, 8:22]

Tác động lớn nhất của các điều kiện liên quan đến Mặt Trăng có thể thấy biểu lộ chủ yếu trong nỗi kinh hoàng và khổ não hiện tại của giới động vật.58 [Kinh Thánh. Rô-ma, 8:22]

181. This terrorizing effect of the Moon reminds one of the two satellites of Mars—Phobos and Demos—“fear” and “dread”.

181. Tác động khủng bố này của Mặt Trăng gợi nhớ đến hai vệ tinh của Sao Hỏa—Phobos và Demos—“sợ hãi” và “kinh hoảng”.

182. Mars and the Moon are intimately related to the animal nature in man.

182. Sao Hỏa và Mặt Trăng mật thiết liên hệ với bản thú nơi con người.

A further factor in cyclic computation lies in the effect of the following stars and constellations upon our system and upon any particular scheme within the system:

Một yếu tố nữa trong tính toán chu kỳ nằm ở tác động của các sao và chòm sao sau đây lên Thái dương hệ của chúng ta và lên bất kỳ hệ hành tinh nào trong Thái dương hệ:

183. Here are listed effects of far greater moment that the effect of the Moon (which, we are told, has no true radiation).

183. Dưới đây là những tác động có tầm quan trọng lớn hơn nhiều so với tác động của Mặt Trăng (vốn, như chúng ta được cho biết, không có sự bức xạ chân thực).

184. The great sources listed below affect not only the solar system but particular planetary schemes within the solar system.

184. Các nguồn lực vĩ đại liệt kê dưới đây không chỉ ảnh hưởng đến Thái dương hệ mà còn đến các hệ hành tinh riêng biệt trong Thái dương hệ.

a. The Great Bear.

a. Gấu Lớn.

185. The will aspect of the seven rays emanate from this source.

185. Phương diện Ý chí của bảy cung tuôn phát từ nguồn này.

b. The Little Bear.

b. Gấu Nhỏ.

186. The Little Bear is the correspondence to the “Son” just as the Great Bear is to the “Father”.

186. Gấu Nhỏ là sự tương ứng với “Con” cũng như Gấu Lớn là với “Cha”.

187. The connection between the Little Bear, Sirius and Leo (all of them related to the second aspect) is to be explored.

187. Mối liên hệ giữa Gấu Nhỏ, Sirius và Sư Tử (tất cả đều liên hệ với phương diện thứ hai) cần được khảo sát.

c. The Pole Star, especially where our planet is concerned.

c. Sao Bắc Cực, đặc biệt liên hệ với hành tinh chúng ta.

188. Our present Pole Star is found within the Little Bear. Naturally the Polar Star changes with the gyration of the axis of our Earth. Presently the Polar Star is “Polaris”. What may be its other names?

188. Sao Bắc Cực hiện tại của chúng ta nằm trong Gấu Nhỏ. Tự nhiên Ngôi Sao Cực thay đổi theo sự xoay xoắn của trục Trái Đất. Hiện nay Sao Cực là “Polaris”. Vậy tên gọi khác của nó là gì?

d. The Pleiades.

d. Pleiades (Thất Nữ).

189. The feminine aspect of the seven rays emanates from this source. It is also the Hub of the Wheel as far as our local cosmo system is concerned. With respect to our local cosmo-system, probably no influence is more powerful than that of the Pleiades.

189. Phương diện nữ tính của bảy cung tuôn phát từ nguồn này. Nó cũng là Trục của Bánh Xe xét riêng đối với hệ vũ trụ cục bộ của chúng ta. Với hệ vũ trụ cục bộ của chúng ta, có lẽ không ảnh hưởng nào mạnh hơn ảnh hưởng của Pleiades.

e. The constellation of Capricorn.

e. Chòm sao Ma Kết.

190. This is one of the twelve signs of the zodiac and, one may infer, a senior Constellational Logos among the twelve.

190. Đây là một trong mười hai dấu hiệu của hoàng đạo và, có thể suy, là một vị Thượng đế Chòm sao trưởng thượng giữa mười hai vị.

191. Just as not all the Planetary Logoi are equally evolved, so not all the Constellational Lords are equally evolved.

191. Cũng như không phải tất cả các Hành Tinh Thượng đế đều tiến hóa ngang nhau, các Chúa Tể Chòm sao cũng không ngang bằng nhau về mức độ tiến hóa.

f. Draco.

f. Draco.

192. Draco is to be associated with cosmic kundalini—risen into the area of the Head of the “One About Whom Naught May Be Said”.

192. Draco cần được liên hệ với kundalini vũ trụ—đã thăng lên khu vực của Đầu của “Đấng Bất Khả Tư Nghị”.

193. Draco is, for us, the ultimate source of “Serpent Power” within our solar system.

193. Draco, đối với chúng ta, là nguồn tối hậu của “Quyền năng Xà” trong Thái dương hệ chúng ta.

g. Sirius.

g. Sirius.

194. So much is said about the power of Sirius in relation to our solar system and our planet. Yet, when compared to the other sources here listed, it is, overall, a relatively minor one.

194. Có rất nhiều điều được nói về quyền năng của Sirius liên hệ với Thái dương hệ và hành tinh của chúng ta. Tuy vậy, so với các nguồn khác được liệt kê ở đây, nhìn chung nó lại tương đối là một nguồn nhỏ hơn.

h. The various constellations and stars of the Zodiac.

h. Các chòm sao và tinh tú khác nhau của Hoàng đạo.

195. So much attention is usually given to the twelve signs of the zodiac. Yet, for a more complete picture of sources which are effective in influencing our planet and humanity, a number of extra-zodiacal sources must be included.

195. Người ta thường chú ý quá nhiều đến mười hai dấu hiệu hoàng đạo. Tuy nhiên, để có một bức tranh đầy đủ hơn về các nguồn hiệu lực trong việc ảnh hưởng đến hành tinh và nhân loại của chúng ta, cần bao gồm một số nguồn ngoài hoàng đạo.

196. These twelve, constellations, we remember are the heart within the head center of the “One About Whom Naught May Be Said”.

196. Chúng ta nhớ rằng mười hai chòm sao này là quả tim bên trong trung tâm đầu của “Đấng Bất Khả Tư Nghị”.

[796]

[796]

The mystery is hidden in esoteric astrology, and until the subject of energy working through the etheric body, of radio­activity, and of the transmutation of all bodies from a lower state into a higher is better comprehended, the true mystery of the “influence” of these various bodies upon each other will remain at its present stage—an unrevealed secret.

Bí nhiệm ẩn tàng trong Chiêm Tinh Học Nội Môn, và cho đến khi chủ đề năng lượng hoạt động xuyên qua thể dĩ thái, của phóng xạ, và của sự chuyển hoá mọi hiện thể từ trạng thái thấp sang trạng thái cao hơn được thấu hiểu tốt hơn, thì bí nhiệm chân thực của “ảnh hưởng” của các thể khác nhau này lên nhau sẽ vẫn ở giai đoạn hiện nay—một bí mật chưa được mặc khải.

197. We may presume then, that there are revealed secrets.

197. Vậy chúng ta có thể suy rằng có những bí mật đã được mặc khải,

198. An “unrevealed secret” is doubly hidden.

198. Một “bí mật chưa được mặc khải” là thứ được che giấu gấp đôi.

199. Let us remember with the writing of A Treatise on Cosmic Fire the Tibetan had not yet written Esoteric Astrology.

199. Chúng ta hãy nhớ rằng khi soạn Luận về Lửa Vũ Trụ , Chân sư Tây Tạng vẫn chưa viết Chiêm Tinh Học Nội Môn.

200. What must be known before the true mystery of the “influence” of the various bodies upon each other may be more fully understood?:

200. Cần biết những gì trước khi bí nhiệm chân thực của “ảnh hưởng” của các thể khác nhau lên nhau có thể được hiểu đầy đủ hơn?:

a. Energy as it works through the etheric body

a. Năng lượng khi nó hoạt động xuyên qua thể dĩ thái

b. Radioactivity

b. Phóng xạ

c. Knowledge concerning transmutation of all bodies from a lower state into a higher

c. Tri thức liên quan đến việc chuyển hóa mọi hiện thể từ trạng thái thấp lên trạng thái cao

If the radiatory effect of a human being or of a group of human beings upon each other is as yet practically an un­known thing from the standpoint of practical science, so the occult effect of these greater forms upon each other remains unknown.

Nếu tác động bức xạ của một con người hay của một nhóm con người lên nhau hiện vẫn hầu như là một điều chưa biết từ lập trường của khoa học thực nghiệm, thì tác động huyền môn của các hình thể lớn lao hơn này lên nhau vẫn là điều chưa biết.

201. This is obvious. DK is giving us some extraordinary material for our contemplation. Much remedial work remains to be done within the realm of humanity before any wide registration of these greater influences comes into human consciousness.

201. Điều này là hiển nhiên. Chân sư DK đang trao cho chúng ta một chất liệu phi thường để chiêm ngưỡng. Còn rất nhiều công việc khắc phục cần được thực hiện trong cõi nhân loại trước khi bất kỳ sự ghi nhận rộng rãi nào về các ảnh hưởng lớn hơn này đi vào tâm thức con người.

202. As we are unaware of the effect of these great sources upon ourselves, how much less so are we aware of their effect upon each other!

202. Khi chúng ta chưa hay biết về tác động của các nguồn lực vĩ đại ấy lên chính mình, thì chúng ta lại càng không hay biết bao nhiêu về tác động của chúng lên nhau!

Science recognises certain effects, leading and tending to the general coherence of the universe, just as the general laws of the social order among men are theoretically appre­hended,

Khoa học nhận biết một số tác động, dẫn dắt và hướng tới sự cố kết chung của vũ trụ, cũng như các định luật chung của trật tự xã hội giữa con người được lĩnh hội về mặt lý thuyết,

203. Science knows that the universe is coherent, but does not know the inner, subjective causes of such coherence.

203. Khoa học biết rằng vũ trụ là cố kết, nhưng không biết các nguyên nhân nội tại, chủ quan của sự cố kết ấy.

204. Man is aware of certain generalities but not of deep causes.

204. Con người biết rõ một số tổng quát tính nhưng không biết các nguyên nhân sâu xa.

but the true scientific realisation of energy-radia­tions emanating from the etheric bodies of all these suns and groups of suns, and from all these planets and groups of planets is little understood.

nhưng sự lĩnh hội khoa học chân thật về các bức xạ năng lượng phát xuất từ các thể dĩ thái của tất cả các mặt trời và các nhóm mặt trời này, và từ tất cả các hành tinh và các nhóm hành tinh này, thì hiểu biết vẫn còn ít ỏi.

205. We might say that among the ranks of conventional scientists it is not understood at all.

205. Chúng ta có thể nói rằng trong hàng ngũ các nhà khoa học quy ước, điều đó hoàn toàn chưa được hiểu.

206. Even astrologers who should understand something more about the sources and effects of these energies, understand but little—from the occult perspective.,

206. Ngay cả các nhà chiêm tinh—những người lẽ ra phải hiểu thêm về các nguồn và tác động của các năng lượng này—cũng hiểu biết ít ỏi—từ quan điểm huyền môn,

Their atomic activity is recognised, but that department of their being, which finds its correspondence in “animal mag­netism” in man, is little realised,

Hoạt động nguyên tử của chúng được công nhận, nhưng bộ phận trong bản thể của chúng, vốn tìm thấy sự tương ứng nơi “từ điện động vật” nơi con người, được lĩnh hội rất ít,

207. The outer and material effect of such sources is comprehended to a degree. The subjective nature of the sources is not understood at all.

207. Tác động bên ngoài và vật chất của các nguồn như vậy phần nào được hiểu. Bản chất chủ quan của các nguồn thì hoàn toàn không được hiểu.

208. Animal magnetism, we can understand as a kind of ‘etheric magnetism’.

208. “Từ điện động vật”, chúng ta có thể hiểu như một dạng ‘từ tính dĩ thái’.

while the even more potent factor of the magnetic radiation of their astral bodies is totally uncalculated, nor is it admitted.

trong khi yếu tố còn mạnh hơn nữa là bức xạ từ của các thể cảm dục của chúng thì hoàn toàn không được tính đến, cũng không được thừa nhận.

209. These sources also all have astral bodies, the effect of which is magnetic. This is not registered, or the possibility of its existence acknowledged.

209. Các nguồn này cũng đều có các thể cảm dục, tác động của chúng là từ tính. Điều này không được ghi nhận, cũng không được thừa nhận khả hữu.

210. As modern scientists are mostly materialists, etheric energy (which is closer to material energy than is astral energy) may begin to be acknowledged.

210. Vì các nhà khoa học hiện đại phần lớn là duy vật, nên năng lượng dĩ thái (vốn gần với năng lượng vật chất hơn so với năng lượng cảm dục) có thể bắt đầu được thừa nhận.

All these factors have to be allowed for in any consideration of the factor of time and cycles, and the true esoteric know­ledge is not to be gained by the study of figures by the lower mind.

Tất cả các yếu tố này đều phải được tính đến trong mọi cân nhắc về yếu tố thời gian và các chu kỳ, và tri thức huyền môn chân thật không thể đạt được bằng việc nghiên cứu các con số bằng hạ trí.

211. DK is telling us that without the antahkarana, we will not attain “true esoteric knowledge”.

211. Chân sư DK nói với chúng ta rằng nếu không có antahkarana, chúng ta sẽ không đạt được “tri thức huyền môn chân thật”.

212. Really, He is telling us of the various factors which must be grasped if we are to make our way to that highest of all presented siddhis, “All Knowledge” (cf. TCF 188-189)

212. Thật vậy, Ngài đang nói với chúng ta về các yếu tố khác nhau phải được nắm bắt nếu chúng ta muốn đi đến siddhi tối thượng đã được nêu, “Toàn Tri” (x. TCF 188–189)

213. DK is warning us concerning the strictly mathematical, concrete-minded approach.

213. Chân sư DK đang cảnh tỉnh chúng ta về cách tiếp cận thuần toán học, theo trí cụ thể.

It comes as the result of the intuition and is stimulated at initiation.

Nó đến như là kết quả của trực giác và được kích hoạt tại điểm đạo.

214. We require the buddhic sense to fathom the secrets of cycles. Without passing through initiation, these secrets will evade our grasp.

214. Chúng ta cần cảm quan Bồ đề để thấu triệt các bí mật của các chu kỳ. Nếu không bước qua điểm đạo, các bí mật này sẽ lẩn tránh tầm nắm của chúng ta.

215. The opening of the heart is related both to initiation and to intuition. The heart is a ‘rhythmic organ’ and we are here speaking of the fundamental rhythms of the great energy sources related to our solar system and the Earth.

215. Sự khai mở của trái tim liên hệ cả với điểm đạo lẫn với trực giác. Trái tim là một ‘cơ quan nhịp điệu’ và ở đây chúng ta đang nói về các nhịp điệu nền tảng của các nguồn năng lượng vĩ đại liên hệ với Thái dương hệ và Trái Đất.

All that has here been pointed out, can be applied equally (though in a very finite sense) to the ego and its cycles, and also equally, considerations other than the purely “personal” will enter into its time periods.

Mọi điều đã được chỉ ra ở đây, có thể áp dụng tương đương (dù trong một nghĩa rất hữu hạn) cho chân ngã và các chu kỳ của nó, và cũng tương tự, những cân nhắc ngoài phạm vi “cá nhân” thuần túy sẽ chen vào các thời đoạn của nó.

216. For every star or source in the heavens there is a star or source in man. The analogies can be drawn. The various great stellar sources will have their analogies in the chakra system of man.

216. Với mỗi ngôi sao hay nguồn lực trên trời đều có một ngôi sao hay nguồn lực tương ứng trong con người. Có thể vạch ra các tương đồng. Những nguồn tinh tú vĩ đại khác nhau sẽ có các tương ứng của chúng trong hệ luân xa của con người.

217. We recall that cycles of planetary centers/egoic groups and specific, egoic groups (and their constituent Egos) were related to Brahmic “minutes” and “moments” respectively. The great sources have an effect even upon our egoic nature.

217. Chúng ta nhớ rằng các chu kỳ của các trung tâm hành tinh/nhóm chân ngã và các nhóm chân ngã đặc thù (và các Chân Ngã cấu thành) đã được liên hệ với các “phút” và “khoảnh khắc” theo Brahma. Các nguồn lực vĩ đại có tác động ngay cả lên bản chất chân ngã của chúng ta.

218. The time cycles of our Ego are not dictated by purely personal considerations. Impulsions from great sources are also involved. At this, DK hints.

218. Các chu kỳ thời gian của Chân Ngã chúng ta không do các cân nhắc thuần “cá nhân” chi phối. Cũng có các xung động từ các nguồn lớn lao. Ở đây, Chân sư DK phất kín.

219. “Personal” factors are lunar factors; DK, however, has been speaking of the impulsive, influential effects of stellar (thus solar) sources. We are connected to the stars.

219. Các yếu tố “cá nhân” là các yếu tố nguyệt tính; tuy nhiên, Chân sư DK đã nói về các tác động xung lực, ảnh hưởng của các nguồn tinh tú (do đó là Thái dương). Chúng ta có liên hệ với các vì sao.

The influence of other groups and of other units, the effects of radiation from other rays, and of certain types of force as yet unrevealed, and thus outside our consideration, are con­cer­ned with its appearing, with the duration of its [797] manifestation, its subsequent obscuration, and final pralayic interval.

Ảnh hưởng của các nhóm khác và của các đơn vị khác, các tác động của bức xạ từ các cung khác, và của một số loại mãnh lực còn chưa được mặc khải, và vì thế nằm ngoài sự cân nhắc của chúng ta, đều liên hệ đến sự xuất hiện của nó, đến thời lượng của [797] sự biểu lộ của nó, đến sự tối tăm về sau của nó, và khoảng Giai kỳ qui nguyên cuối cùng.

220. DK is speaking of that which influences the Ego—influences other than those which are “purely personal”. Let us list these for easier apprehension:

220. Chân sư DK đang nói về những gì ảnh hưởng đến Chân Ngã—những ảnh hưởng ngoài các yếu tố “thuần cá nhân”. Chúng ta hãy liệt kê những điều này để dễ lĩnh hội:

a. The influence of other groups

a. Ảnh hưởng của các nhóm khác

b. The influence of other units

b. Ảnh hưởng của các đơn vị khác

c. The effects of radiation from other rays

c. Các tác động của bức xạ từ các cung khác

d. The effects of certain types of force as yet unrevealed

d. Các tác động của một số loại mãnh lực còn chưa được mặc khải

221. The effects upon the human Ego of greater sources are many, most of them not to be ascertained by the human mind in its present inadequate state of development.

221. Các tác động lên Chân Ngã con người từ những nguồn lớn lao là nhiều, phần lớn không thể được tâm trí con người xác định trong tình trạng phát triển còn bất cập hiện nay.

As the Ego has time periods corresponding to those of Brahma, and its “100 years”, and its “777 incarnations” have a solar analogy, so equally groups of Egos differ as to time, just as the planetary schemes are analogous in evolution but differ where their periods are concerned.

Vì Chân Ngã có các thời đoạn tương ứng với của Brahma, và “100 năm” của nó, và “777 lần lâm phàm” của nó có một tương đồng Thái dương, nên cũng vậy, các nhóm Chân Ngã khác nhau về thời gian, giống như các hệ hành tinh là tương đồng trong tiến hoá nhưng khác nhau về các thời kỳ của chúng.

222. DK is telling us something of importance.

222. Chân sư DK đang nói cho chúng ta điều gì đó quan trọng.

223. One hundred “Years of Brahma” correspond to the incarnation of a Solar Logos upon the eighteen lower cosmic subplanes. It does not seem accurate to say that this period corresponds only to the duration of the physical-etheric solar system.

223. Một trăm “Năm của Brahma” tương ứng với sự lâm phàm của một Thái dương Thượng đế trên mười tám cõi phụ vũ trụ thấp. Có vẻ không chính xác khi nói rằng giai đoạn này chỉ tương ứng với thời lượng của Thái dương hệ vật chất–dĩ thái.

224. It may be that our Solar Logos, through His present solar system, passes through an analogy to the “777 incarnations” through which the incarnating human being passes.

224. Có thể rằng Thái dương Thượng đế của chúng ta, qua Thái dương hệ hiện tại của Ngài, đi qua một tương đồng với “777 lần lâm phàm” mà con người nhập thế phải trải qua.

225. Interestingly, the number 777 corresponds particularly to the Earth-scheme. Why then, should it have a “solar analogy”? Is there some particular connection between our Solar Logos and the Earth-scheme?

225. Thú vị thay, con số 777 đặc biệt tương ứng với hệ Địa Cầu. Vậy tại sao nó lại có một “tương đồng Thái dương”? Phải chăng có một liên kết đặc biệt nào đó giữa Thái dương Thượng đế của chúng ta và hệ Địa Cầu?

226. May we say that “100 years of Brahma” correspond to the entire incarnational cycle of a human being? Or should we shorten the period to which 100 Brahmic years applies to the period of one incarnation? After all, 100 Years of Brahma applies only to one solar systemic incarnation! Yet, such a shortening does not seem quite legitimate.

226. Chúng ta có thể nói rằng “100 năm của Brahma” tương ứng với toàn bộ chu kỳ lâm phàm của con người? Hay chúng ta nên rút ngắn giai đoạn mà 100 năm của Brahma áp dụng xuống còn một lần lâm phàm? Rốt cuộc, 100 Năm của Brahma chỉ áp dụng cho một lần lâm phàm Thái dương hệ! Tuy vậy, cách rút ngắn như thế có vẻ không hoàn toàn hợp lệ.

227. In any case, between similar E/entities, there may be a general similarity of process, but the details of the cyclic duration of their expression in manifestation may differ greatly. Each egoic group is conditioned by a different ray and substance-ray, and each ray has its own distinctive cycles.

227. Dù sao, giữa các Thực Thể tương tự, có thể có một tương tự chung về tiến trình, nhưng các chi tiết về thời lượng chu kỳ của sự biểu hiện trong hiện hình của họ có thể khác nhau rất nhiều. Mỗi nhóm chân ngã được điều kiện hóa bởi một cung và cung-chất liệu khác nhau, và mỗi cung có các chu kỳ riêng biệt của mình.

The Law of Periodicity is one,

Định luật Chu kỳ là một,

228. That is, the Law of Periodicity applies to all human beings, Egos, Planetary Logoi and Solar Logos—in general.

228. Nghĩa là, Định luật Chu kỳ áp dụng cho mọi con người, Chân Ngã, Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế— nói chung.

but as it is based upon initial impulse, and upon the rhythmic beat of the “central heart” or the “central sun” of any organism (solar system, planetary scheme, planetary chain, egoic group or individual egoic life)

nhưng vì nó đặt nền trên xung lực khởi đầu, và trên nhịp đập của “quả tim trung tâm” hay “mặt trời trung tâm” của bất kỳ sinh thể nào (Thái dương hệ, hệ hành tinh, dãy hành tinh, nhóm chân ngã hay đời sống chân ngã cá nhân)

229. The expression of the Law of Periodicity through any particular being depends upon the rhythm of the heart beat of the ‘central sun’ of that being.

229. Sự biểu hiện của Định luật Chu kỳ qua bất kỳ sinh thể nào tùy thuộc vào nhịp đập của trái tim ‘mặt trời trung tâm’ của sinh thể ấy.

230. When we speak of the “central sun” or “central heart” we may be speaking of a monadic pulsation which is reflected in the egoic nature—specifically in the Jewel in the Lotus.

230. Khi nói về “mặt trời trung tâm” hay “quả tim trung tâm” chúng ta có thể đang nói về một nhịp đập chân thần được phản chiếu trong bản chất chân ngã—cụ thể là nơi Viên Ngọc trong Hoa Sen.

the true nature or “family” of any such organism must be ascertained before cyclic pronouncements can be made with any hope of approximate accuracy.

bản chất chân thật hay “gia đình” của bất kỳ sinh thể nào như vậy phải được xác định trước khi có thể đưa ra các công bố chu kỳ với hy vọng đạt gần đúng.

231. To which particular “central heart” does any B/being respond? This must be ascertained, along with the rhythm of the “beat” of that “central heart”.

231. Một Thực Thể đáp ứng với “quả tim trung tâm” nào? Điều này phải được xác định, cùng với nhịp “đập” của “quả tim trung tâm” ấy.

232. All cyclic pronouncement must be based upon the ascertainment of a fundamental frequency or beat. This differs for each B/being.

232. Mọi tuyên bố về chu kỳ đều phải dựa trên việc xác định một tần số hay nhịp nền tảng. Điều này khác nhau với mỗi Thực Thể.

233. Another way of saying this is that our knowledge of ray cycles is, thus far, scant. We may know something about ray cycles as presented in EP I, 26, but how can we generalize about the starting or ending points of vaster and vaster ray cycles (even though they may be based upon expansions or reductions of the same numbers found in the lesser ones)? For instance, while we may know that the 500 year cycle of the second ray began in 1575 AD, how do we know the starting point of a 5000 year or 50,000 year, or 500,000 year ray cycle also related to the second ray?

233. Nói cách khác, tri thức của chúng ta về các chu kỳ của cung hiện còn ít ỏi. Chúng ta có thể biết đôi điều về các chu kỳ cung như được trình bày trong EP I, 26, nhưng làm sao có thể tổng quát hóa về các điểm khởi đầu hay kết thúc của những chu kỳ cung lớn dần (dù chúng có thể dựa trên các phép phóng lớn hay thu nhỏ của cùng các con số tìm thấy nơi những chu kỳ nhỏ hơn)? Chẳng hạn, trong khi chúng ta biết rằng chu kỳ 500 năm của cung hai bắt đầu vào năm 1575 SCN, làm sao chúng ta biết điểm khởi của một chu kỳ 5000 năm, 50.000 năm, hay 500.000 năm cũng liên hệ với cung hai?

This was why H.P.B. sought to emphasise the need of study­ing the “astral family” and occult heredity of any person, for in the astral is to be found the clue to the “egoic family or group.

Đây là lý do vì sao H.P.B. nỗ lực nhấn mạnh nhu cầu nghiên cứu “gia đình cảm dục” và di truyền huyền môn của bất kỳ người nào, vì nơi cõi cảm dục có thể tìm thấy manh mối về “gia đình hay nhóm chân ngã.”

234. The astral body reflects the egoic body, just as the lower mind reflects the monadic nature.

234. Thể cảm dục phản chiếu thể chân ngã, cũng như hạ trí phản chiếu bản chất chân thần.

235. Once the “egoic family or group” is ascertained, something about the ray cycle to which that family responds may be known. Incarnation, we realize, is not strictly an individual matter. Egoic groups incarnate together.

235. Khi đã xác định được “gia đình hay nhóm chân ngã”, có thể biết đôi điều về chu kỳ cung mà gia đình ấy đáp ứng. Sự lâm phàm, chúng ta nhận ra, không thuần là một vấn đề cá nhân. Các nhóm chân ngã lâm phàm cùng nhau.

With this clue the student can then ascertain the characteristics of his group on egoic levels, its place among other egoic groups, and eventually his ray or group centre.

Với manh mối này, đạo sinh có thể xác định các đặc trưng của nhóm mình trên các cấp độ chân ngã, vị trí của nhóm chân ngã mình giữa các nhóm chân ngã khác, và sau cùng là cung của mình hay trung tâm nhóm của mình.

236. With a knowledge of one’s astral family, what may be ascertained?:

236. Với tri thức về gia đình cảm dục của mình, có thể xác định điều gì?:

a. The characteristics of one’s group on egoic levels

a. Các đặc trưng của nhóm mình trên các cấp độ chân ngã

b. The place of one’s egoic group among other egoic groups

b. Vị trí của nhóm chân ngã mình giữa các nhóm chân ngã khác

c. One’s ray

c. Cung của bản thân

d. The ray of one’s group center. (Here we may be speaking of lesser and greater Ashrams.)

d. Cung của trung tâm nhóm mình. (Ở đây chúng ta có thể đang nói về các Đạo viện nhỏ và lớn).

As time elapses, the true study of heredity and esoteric transmission will open up, and the whole fabric of thought built up around such modern expressions as:

Khi thời gian trôi qua, nghiên cứu chân thực về di truyền và truyền thừa huyền môn sẽ mở ra, và toàn bộ cấu trúc tư tưởng xây quanh các diễn ngữ hiện đại như:

237. “Esoteric transmission” is something deeper than “heredity” as heredity is usually understood.

237. “Truyền thừa huyền môn” là thứ sâu hơn “di truyền” theo cách hiểu thông thường.

a. Consanguinity or blood ties

a. Huyết thống hay quan hệ máu mủ

238. Blood ties run deeper than physical relationships. They are to some extent based upon inner, subjective relations. Blood and water (i.e., the astral nature, as it reflects the egoic nature) are here related.

238. Quan hệ huyết thống sâu xa hơn các quan hệ thể chất. Chúng phần nào đặt nền trên các quan hệ nội tại, chủ quan. Máu và nước (tức bản chất cảm dục, vì nó phản chiếu bản chất chân ngã) có liên hệ ở đây.

b. Physical heredity

b. Di truyền thể chất

239. Some find themselves physically related to those to whom they have no strong inner or subjective relationship.

239. Có những người thấy mình thể chất thì liên hệ với những người mà họ không có mối quan hệ nội tại hay chủ quan mạnh mẽ nào.

240. Psychologically and spiritually, even human being inherits himself! Physically, there is inheritance from parents.

240. Về tâm lý học và tinh thần, mỗi con người thừa hưởng chính mình! Về thể chất, có sự thừa hưởng từ cha mẹ.

c. Atavism

c. Thoái tổ

241. This suggests the idea of a “throw back”—the demonstration of traits which are ancient and should long have been outlived.

241. Điều này gợi ý ý niệm “quay lùi”—sự biểu hiện của các đặc tính cổ xưa lẽ ra đã phải bị vượt qua từ lâu.

242. Egoic groups are not all equally evolved. Some groups still demonstrate characteristics which have a dwindling place in humanity’s modern expression.

242. Các nhóm chân ngã không đồng đều về mức độ tiến hóa. Một số nhóm vẫn biểu thị những đặc tính vốn chỉ còn giữ chỗ ít ỏi trong biểu hiện hiện đại của nhân loại.

d. Intermarriage

d. Hôn phối liên nhóm

243. This is not just a question of blending differing races in the physical marriage relationship. There are inner groups which differ greatly from each other. When one marries into a group which, subjectively, is very different from the group to which he or she belongs spiritually and psychologically, then one may speak occultly of “intermarriage”.

243. Đây không chỉ là vấn đề pha trộn các chủng tộc khác nhau trong quan hệ hôn nhân thể chất. Có những nhóm nội tại khác nhau rất xa nhau. Khi một người kết hôn với một nhóm mà, về chủ quan, rất khác với nhóm mà y hay cô ấy thuộc về xét theo mặt tinh thần và tâm lý, thì theo huyền môn có thể nói đến “hôn phối liên nhóm”.

e. Family relationships

e. Quan hệ gia đình

244. Such relationships are certainly physical but they may be, as well, emotional, mental or egoic. Usually, with the average family, it is rare to find relationship based upon all four criteria.

244. Những quan hệ như vậy chắc chắn là thể chất nhưng cũng có thể là cảm xúc, trí tuệ hoặc chân ngã. Thông thường, với một gia đình trung bình, hiếm khi có mối quan hệ dựa trên cả bốn tiêu chuẩn.

f. The family unit

f. Đơn vị gia đình

245. Such a unit may be draw together for reasons which are principally karmic. Such a unit, later in the process of evolution, may also reflect established inner relationships.

245. Một đơn vị như vậy có thể được kéo lại với nhau vì các lý do chủ yếu là nghiệp quả. Một đơn vị như vậy, về sau trong tiến trình tiến hóa, cũng có thể phản chiếu các mối quan hệ nội tại đã được thiết lập.

g. Soul mates

g. Cặp đôi linh hồn

246. There is much glamor surrounding this subject. When individuals representing the same soul group, partner, merge or marry on the outer planes, they have more than usual justification for considering themselves “soul mates”.

246. Có nhiều ảo cảm bao quanh chủ đề này. Khi các cá nhân đại diện cho cùng một nhóm linh hồn, kết đôi, hòa hợp hay kết hôn trên các cõi bên ngoài, họ có lý do nhiều hơn bình thường để xem mình là “cặp đôi linh hồn”.

247. It may also be that long and close incarnational association contributes to the sense of being “soul mates”.

247. Cũng có thể là sự gắn bó lâm phàm lâu dài và thân cận góp phần tạo cảm thức về việc là “cặp đôi linh hồn”.

h. Divorce and many other terms

h. Ly hôn và nhiều thuật ngữ khác

248. While there arise many reasons for divorce, it frequently occurs when the souls of the individuals involved remove these individuals from each others influence because the possibility for soul growth no longer exists.

248. Dù có nhiều nguyên nhân dẫn đến ly hôn, điều đó thường xảy ra khi linh hồn của các cá nhân liên hệ rút các cá nhân ấy ra khỏi ảnh hưởng lẫn nhau vì khả năng tăng trưởng của linh hồn không còn tồn tại.

will be shifted to higher planes, and will be recognised and used in connection with soul relationships.

sẽ được chuyển lên các cõi cao hơn, và sẽ được nhận biết và sử dụng liên quan đến các mối quan hệ linh hồn.

249. We need a higher perspective from which to interpret these subjects. When the human being understands himself principally as a soul, new light will be shed upon the formation, sustainment and severing of his relationship.

249. Chúng ta cần một phối cảnh cao hơn để diễn giải các chủ đề này. Khi con người hiểu mình chủ yếu như là một linh hồn, ánh sáng mới sẽ được rọi vào việc hình thành, duy trì và cắt đứt các mối quan hệ của y.

They are, as yet, but a faint realisation on the physical plane of [798] certain inner relations, which are seeking outer response.

Chúng hiện, trên cõi hồng trần, chỉ là một nhận biết mờ nhạt về [798] một số liên hệ nội tại đang tìm kiếm đáp ứng bên ngoài.

250. As human beings, our attitude to life developments and events is insufficiently subjective. This is in process of remedy. When looking for the reasons why our relationships change, we have to look largely to inner causes.

250. Là con người, thái độ của chúng ta đối với các diễn biến và biến cố của đời sống còn quá ít chủ quan. Điều này đang được khắc phục. Khi tìm nguyên nhân vì sao các mối quan hệ của mình thay đổi, chúng ta phần lớn phải tìm đến các nguyên nhân nội tại.

When all aggregates of ideas are interpreted in terms of force and energy, in terms of attraction and repul­sion, or the vibratory response of units to each other, and of aggregates of units to other groups, we shall have the clear­ing up of many problems and a simplification of life.

Khi mọi tổng hợp của các ý niệm được diễn giải theo các thuật ngữ của mãnh lực và năng lượng, theo các thuật ngữ của hấp dẫn và đẩy lùi, hay theo đáp ứng rung động của các đơn vị với nhau, và của các tổng hợp đơn vị với các nhóm khác, chúng ta sẽ giải tỏa được nhiều vấn đề và đơn giản hóa cuộc sống.

251. DK is asking us to interpret “aggregates of ideas” in certain terms. Which terms?

251. Chân sư DK đang yêu cầu chúng ta diễn giải “các tổng hợp của ý niệm” theo những thuật ngữ nào, Những thuật ngữ nào?

a. In terms of force and energy

a. Theo các thuật ngữ của mãnh lực và năng lượng

b. In terms of attraction and repulsion

b. Theo các thuật ngữ của hấp dẫn và đẩy lùi

c. In terms of the vibratory response of units to each other

c. Theo các thuật ngữ của đáp ứng rung động của các đơn vị đối với nhau

d. In terms of the vibrator response of aggregates of units to other groups

d. Theo các thuật ngữ của đáp ứng rung động của các tổng hợp đơn vị đối với các nhóm khác

252. In short, we are to interpret all life in terms of the “language of energy”. This will lead to a clarification of all our relationships.

252. Tóm lại, chúng ta phải diễn giải toàn bộ đời sống theo “ngôn ngữ của năng lượng”. Điều này sẽ dẫn đến sự làm sáng tỏ mọi mối quan hệ của chúng ta.

253. What are “things”, really, but “aggregates of ideas” and, more specifically, aggregations of thoughts which represent those ideas.

253. “Sự vật” rốt cuộc là gì ngoài “các tổng hợp của ý niệm” và, cụ thể hơn, các kết tụ của tư tưởng đại diện cho các ý niệm ấy.

Men will be true to their group affiliations, and the present misgroup­ing and mismating will gradually, through know­ledge, die out.

Con người sẽ trung thực với các mối liên hệ nhóm của mình, và sự xếp nhóm sai lệch và kết đôi sai lệch hiện nay sẽ dần dần, qua tri thức, lụi tàn.

254. Misgrouping and mismating turns out to be an impediment to spiritual progress and, essentially, a waste of time.

254. Sự xếp nhóm sai lệch và kết đôi sai lệch rốt cuộc trở thành một chướng ngại cho tiến bộ tinh thần và, về bản chất, là lãng phí thời gian.

255. “Let the disciple merge himself within the circle of his other selves. Let but one colour blend them and their unity appear. Only when the group is known and sensed can energy be wisely emanated.” (Rule 9 for Applicants to Initiation—IHS 202)

255. “Để đệ tử hòa nhập mình vào vòng tròn của các tự ngã khác của y. Nguyện chỉ một màu hòa trộn họ và hợp nhất của họ hiển lộ. Chỉ khi nhóm được biết và được cảm nhận thì năng lượng mới có thể được xướng phát một cách khôn ngoan.” (Quy luật 9 cho Ứng viên Điểm đạo—IHS 202)

256. DK is telling us that aggregation and de-aggregation must be based upon occult knowledge. Presently, this is far from the case.

256. Chân sư DK nói với chúng ta rằng sự kết tụ và giải tụ phải đặt nền trên tri thức huyền môn. Hiện nay, điều này còn cách xa thực tế.

We can now take up the consideration of karma in its rela­tion to the act of reincarnation.

Chúng ta giờ có thể bắt tay vào việc cân nhắc nghiệp quả trong mối liên hệ với hành vi tái sinh.

257. Notice that we speak of the “act of reincarnation” and not, generally, of the process.

257. Hãy để ý rằng chúng ta nói đến “hành vi tái sinh” chứ không nói chung về tiến trình.

As we are well aware, the law of karma is the most stupendous law of the system and one which it is impossible for the average man in any way to comprehend, for, if traced back along its central root and its many ramifications, one eventually reaches the position where causes antedating the solar system have to be dealt with,

Như chúng ta đều biết, định luật nghiệp quả là định luật vĩ đại nhất của hệ thống và là một định luật mà người trung bình không thể nào hiểu được, vì nếu lần theo cội rễ trung tâm và nhiều nhánh rẽ của nó, người ta rốt cuộc chạm đến lập trường mà ở đó phải đề cập đến các nguyên nhân có trước Thái dương hệ,

258. We are even now acting on effects which antedate our present solar system.

258. Ngay lúc này chúng ta đang hành động theo những hệ quả có trước Thái dương hệ hiện tại của chúng ta.

259. Some of our most pressing and immediate international problems are based upon such ancient causes.

259. Một số vấn nạn quốc tế cấp bách và trực tiếp nhất của chúng ta đặt nền trên những nguyên nhân cổ xưa như thế.

260. Therefore, we should not consider what is here said merely as an abstraction. It has very immediate and pressing effects.

260. Do đó, chúng ta không nên xem những gì được nói ở đây chỉ là trừu tượng. Nó có những tác động rất trực tiếp và cấp bách.

and this point of view can only be usefully grasped by a high initiate.

và cách nhìn này chỉ có thể được nắm bắt một cách hữu ích bởi một điểm đạo đồ cấp cao.

261. We presume that it is not enough to be simply an initiate of the third degree, but either an Arhat or a Master—one who has transcended karma as it is applied in the three lower worlds.

261. Chúng ta suy rằng chỉ là một điểm đạo đồ bậc ba thôi thì chưa đủ, mà phải là một vị A-la-hán hoặc một vị Chân sư—một vị đã vượt khỏi nghiệp quả như nó được áp dụng trong ba cõi thấp.

262. Some of lower rank may grasp something of the subject but not “usefully”—that is, they will not be in any position, really, to do anything about what they faintly understand.

262. Những vị ở cấp thấp hơn có thể nắm bắt một phần chủ đề nhưng không “hữu ích”—tức là, họ sẽ không ở vào vị thế thực sự có thể làm gì với điều họ lờ mờ hiểu.

This great law really concerns, or is based on causes which are inherent in the constitution of matter itself

Định luật vĩ đại này thực ra liên quan, hay đặt nền trên các nguyên nhân vốn vốn có trong cấu tạo của chính chất liệu

263. Karma and the law that wields it are closely related to the effect of the already conditioned matter aspect (condition in the first solar system) upon the life and consciousness attempting to express itself in the present solar system.

263. Nghiệp quả và định luật điều khiển nó có liên hệ mật thiết với ảnh hưởng của phương diện chất liệu vốn đã được điều kiện hóa (được điều kiện trong Thái dương hệ trước) lên sự sống và tâm thức đang cố gắng biểu lộ trong Thái dương hệ hiện tại.

and on the interaction between atomic units whether we use this ex­pres­sion in connection with an atom of substance, a human being, a planetary atom or a solar atom.

và trên sự tương tác giữa các đơn vị nguyên tử dù chúng ta dùng biểu thức này liên hệ với một nguyên tử của chất liệu, một con người, một nguyên tử hành tinh hay một nguyên tử Thái dương.

264. The Law of Karma concerns not only the conditioning of matter, but the quality of relationship. It is the purpose of the Law of Karma to improve the quality of all relationship so that such relationship corresponds to archetypes meant to condition and control the present solar system.

264. Định luật Nghiệp quả không chỉ liên hệ đến tình trạng của chất liệu, mà còn đến phẩm chất của mối quan hệ. Chức năng của Định luật Nghiệp quả là cải thiện phẩm chất của mọi mối quan hệ để mối quan hệ như thế tương ứng với các nguyên hình được định dự cho việc điều kiện hóa và chi phối Thái dương hệ hiện tại.

265. The condition of matter is related to the third aspect of divinity, and relationship (and its quality) to the second aspect.

265. Tình trạng của chất liệu liên hệ với phương diện thứ ba của Thượng đế, và mối quan hệ (và phẩm chất của nó) liên hệ với phương diện thứ hai.

266. As we presently experience karma on this planet and this solar system, we might say that its function is to bring the third aspect into right relationship with the second.

266. Như chúng ta hiện đang kinh nghiệm nghiệp quả trên hành tinh này và trong Thái dương hệ này, chúng ta có thể nói rằng chức năng của nó là đưa phương diện thứ ba vào mối liên hệ đúng đắn với phương diện thứ hai.

We might express it also in saying that the will aspect or ini­tiatory impulse is primarily that which produces cause, which is cause itself.

Chúng ta cũng có thể diễn đạt rằng phương diện ý chí hay xung lực khởi nguyên chính là cái sản sinh nguyên nhân, là nguyên nhân tự thân.

267. The first aspect of divinity is impulsive and causal.

267. Phương diện thứ nhất của Thượng đế là xung lực và mang tính gây nhân.

It should be remembered ever that cause involves the idea of duality, i.e., that which initiates, and that which is produced simultaneously by the initiation.

Cần luôn nhớ rằng nguyên nhân hàm ý ý niệm về nhị nguyên, tức là, cái khởi phát, và cái được sản sinh đồng thời bởi sự khởi phát đó.

268. From one perspective, we are being told that the first aspect of divinity (when exercised) leads inevitably to the appearance of the second aspect—i.e., to the appearance of duality.

268. Từ một góc nhìn, chúng ta đang được cho biết rằng phương diện thứ nhất của Thượng đế (khi được hành xử) tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của phương diện thứ hai—tức là, sự xuất hiện của nhị nguyên.

269. We note the virtual simultaneity of the two—of that which initiates and that which is produced by the act of initiation.

269. Chúng ta lưu ý tính hầu như đồng thời của hai điều—cái khởi phát và cái được sản sinh bởi hành vi khởi phát.

The two ideas are inseparable,

Hai ý niệm là bất khả phân,

270. We are dealing with the cause and that which is caused—with the act of initiation and that which results from the act of initiation.

270. Chúng ta đang xử lý nguyên nhân và cái bị gây nên—hành vi khởi phát và cái hệ quả từ hành vi khởi phát.

yet nevertheless the second idea in its most abstract connotation must not be considered literally as an effect; true effect involves a third idea.

tuy nhiên, trong nghĩa trừu tượng nhất, ý niệm thứ hai không nên được xem như một hậu quả theo nghĩa đen; hệ quả chân thực hàm ý một ý niệm thứ ba.

271. DK is here entering an abstruse consideration.

271. Ở đây Chân sư DK đi vào một khảo luận uyên áo.

272. We are not to consider the second idea in any concrete connotation, but only “in its most abstract connotation”. Abstractly, according to the Tibetan, that which is “produced simultaneously by the initiation” is not a true “effect”.

272. Chúng ta không được xem ý niệm thứ hai trong bất kỳ nghĩa cụ thể nào, mà chỉ “trong nghĩa trừu tượng nhất” mà thôi. Về mặt trừu tượng, theo Chân sư, cái “được sản sinh đồng thời bởi sự khởi phát” không phải là một “hệ quả” chân thực.

273. Let us search for this third idea.

273. Chúng ta hãy tìm kiếm ý tưởng thứ ba này.

Some ap­pre­cia­tion of the problem may be gleaned by a consideration of phenomena which ever involves this dual initiatory cause and its objective effect: [799]

Một phần thấu hiểu về vấn đề có thể gặt hái được bằng cách xét các hiện tượng vốn luôn bao hàm nguyên nhân khai mở hai mặt này cùng với hiệu quả khách quan của nó: [799]

a. Spirit-matter in dual activity produces the objective universe.

a. Tinh thần-vật chất trong hoạt động nhị phân tạo ra vũ trụ khách quan.

274. From this perspective, the objective universe is the “Son” and is related to the second aspect of divinity embodied by the third.

274. Từ phối cảnh này, vũ trụ khách quan là “Con” và liên hệ với phương diện thứ hai của thiên tính được phương diện thứ ba hiện thân.

275. We will learn that a dual activity is associated with both Spirit and matter—two activities for each, making four.

275. Chúng ta sẽ học rằng một hoạt động nhị phân gắn với cả hai Tinh thần và vật chất—mỗi bên có hai hoạt động, thành bốn.

b. Electric fire and fire by friction when brought into contact produce solar fire; it flashes forth from dark­ness, yet a darkness which is potent with energy.

b. Lửa điện và lửa ma sát khi được đưa vào tiếp xúc thì sản sinh Lửa Thái dương; nó loé sáng từ bóng tối, nhưng là một bóng tối đầy tiềm lực năng lượng,

276. To us, Shamballa is inconceivably potent yet also resides (for us) in darkness.

276. Đối với chúng ta, Shamballa có tiềm lực khôn dò mà cũng cư ngụ (đối với chúng ta) trong bóng tối.

277. It is evident that, in looking for the third factor, that which arises from the interaction of the principal duality (Spirit/Matter) must be considered.

277. Rõ ràng là, khi tìm yếu tố thứ ba, điều phát sinh từ sự tương tác của nhị nguyên chủ yếu (Tinh thần/Vật chất) phải được xét đến.

c. Will-desire is the cause of incarnation; the will-to-be reacting on substance (whose main quality is desire or responsiveness to sensation) produces the forms through which the central Life or Existence seeks expression.

c. Ý chí–dục vọng là nguyên nhân của sự lâm phàm; Ý Chí–Hiện Hữu tác động lên chất liệu (mà phẩm tính chính là dục vọng hay tính đáp ứng với cảm giác) sản sinh các hình tướng qua đó Sự sống hay Hiện Hữu trung tâm tìm cách biểu lộ.

278. DK is expressing the same idea in a number of different ways.

278. Chân sư DK đang diễn đạt cùng một ý niệm bằng nhiều cách khác nhau.

279. We note here, interestingly, that the “Will-to-Be” is contrasted with desire. The Will-to-Be is connected with Spirit and desire with substance.

279. Chúng ta ghi nhận ở đây, thật thú vị, rằng “Ý Chí–Hiện Hữu” được đối sánh với dục vọng. Ý Chí–Hiện Hữu gắn với Tinh thần còn dục vọng gắn với chất liệu.

280. Form is that which arises as the third in a sequence of three, and yet is most closely related to the second aspect of divinity.

280. Hình tướng là cái khởi sinh như yếu tố thứ ba trong một chuỗi ba điều, nhưng lại liên hệ mật thiết nhất với phương diện thứ hai của thiên tính.

d. Ideas and thought-matter together produce thoughtforms.

d. Ý niệm và chất liệu tư tưởng hợp lại tạo ra các hình tư tưởng.

281. Ideas pertain to the first aspect and thought-matter to the third. The thoughtform represents the second aspect.

281. Ý niệm thuộc về phương diện thứ nhất và chất liệu tư tưởng thuộc về phương diện thứ ba. Hình tư tưởng biểu hiện phương diện thứ hai.

If the student considers these points, it will become apparent that it is not possible for him to do more than study the effects produced by the juxtaposition of the pairs of oppo­sites;

Nếu môn sinh suy xét các điểm này, sẽ hiển nhiên rằng y không thể làm gì hơn ngoài việc nghiên cứu các hiệu quả được tạo ra bởi sự kề cận của các cặp đối nghịch;

282. Spirit in its purity and matter in its pure essence are beyond his comprehension.

282. Tinh thần trong sự tinh khiết của nó vật chất trong bản thể tinh ròng của nó ở ngoài sự thấu hiểu của y.

he cannot dissociate them in his mind and deal with Spirit per se, or with matter per se any more than the atom of substance in man’s physical body can dissociate itself from that body, and consider itself independently of form influences.

y không thể tách rời chúng trong tâm mình và đề cập đến Tinh thần tự thân, hay vật chất tự thân cũng như nguyên tử chất liệu trong thể xác của con người không thể tự tách khỏi thân ấy, và xét mình độc lập với các ảnh hưởng của hình tướng.

283. DK is telling us that (at our present stage of unfoldment) we cannot dissociate Spirit from matter and study the two independently.

283. Chân sư DK đang nói với chúng ta rằng (ở giai đoạn triển khai hiện thời của chúng ta) chúng ta không thể tách Tinh thần khỏi vật chất và nghiên cứu hai thứ ấy một cách độc lập.

284. If the student cannot dissociate Spirit and matter “in his mind”, is there any vehicle through which this dissociation can be achieved, or is it just that the mind of man, as presently developed, is inadequate to the task?

284. Nếu môn sinh không thể tách Tinh thần và vật chất “trong tâm mình”, liệu có vận cụ nào qua đó sự tách biệt này có thể đạt được, hay chỉ là cái trí của con người, như hiện nay, chưa đủ năng lực để đảm đương?

285. DK is telling us that we are too imbedded in matter to study the true nature of matter or of Spirit. If we were deeply and consciously imbedded in Spirit we could study the nature of both Spirit and matter.

285. Chân sư DK đang nói rằng chúng ta đang bị nhúng quá sâu trong vật chất nên không thể nghiên cứu bản chất chân thực của vật chất hay của Tinh thần. Nếu chúng ta được thâm nhập sâu xa và tự thức trong Tinh thần, chúng ta có thể nghiên cứu bản chất của cả Tinh thần vật chất.

All atoms are always controlled by the following factors, just as a man in the body of a planetary Logos, and a planetary Logos within His greater Whole will be equally controlled by the same basic principles:

Mọi nguyên tử luôn luôn bị chi phối bởi các yếu tố sau, y như con người trong thân thể của một Hành Tinh Thượng đế, và một Hành Tinh Thượng đế trong Đại Thể của Ngài sẽ đồng đều bị chi phối bởi cùng những nguyên lý căn bản:

286. We are examining the factors which control man, a Planetary Logos or a Solar Logos. These controlling factors arise within a number of dimensions.

286. Chúng ta đang khảo sát các yếu tố chi phối con người, một Hành Tinh Thượng đế hay một Thái dương Thượng đế. Những yếu tố chi phối này khởi lên trong nhiều chiều kích.

287. In the following list of influences, influences playing upon the atom of substance are compared with influences playing upon the atom, man.

287. Trong danh sách các ảnh hưởng sau đây, những ảnh hưởng tác động lên nguyên tử chất liệu được so sánh với những ảnh hưởng tác động lên nguyên tử là con người.

The influence and quality of the organ or unit in which it finds a place. In the human atom this means his group force or influence.

Ảnh hưởng và phẩm tính của cơ quan hay đơn vị mà nó ở trong đó. Trong nguyên tử nhân loại điều này có nghĩa là sức mạnh hay ảnh hưởng nhóm của y.

288. The larger and embracing whole controls that which it includes and embraces.

288. Toàn thể lớn hơn và bao trùm chi phối cái mà nó dung nhiếp và bao bọc.

289. The larger group controls the units which comprise it. This applies to the tiny atom of substance, to man, to a Planetary Logos, a Solar Logos, and Entities of still greater scope.

289. Nhóm lớn hơn chi phối các đơn vị kết thành nó. Điều này áp dụng cho nguyên tử bé nhỏ của chất liệu, cho con người, cho một Hành Tinh Thượng đế, một Thái dương Thượng đế, và các Đấng có tầm bao quát còn lớn hơn nữa.

290. Man, for instance, is affected by the group or groups to which he belongs egoically and monadically.

290. Thí dụ, con người chịu ảnh hưởng bởi nhóm hay các nhóm mà y thuộc về trên bình diện chân ngã và chân thần.

The life influence of the entire physical body of which any atom is a corporate part. In the human atom this means the influence of the particular centre in which his egoic group has a place, and the type of energy which it embodies.

Ảnh hưởng sự sống của toàn thể thân thể hồng trần mà bất kỳ nguyên tử nào là một bộ phận hiệp đoàn. Trong nguyên tử nhân loại điều này có nghĩa là ảnh hưởng của luân xa đặc thù mà nhóm chân ngã của y có vị trí trong đó, và loại năng lượng mà nó hiện thân.

291. The tiny atom of substance is influenced powerfully by the quality of the physical body of which that atom is a corporate part. It lives not unto itself alone.

291. Nguyên tử nhỏ bé của chất liệu chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phẩm chất của thân thể hồng trần mà nguyên tử ấy là một bộ phận hiệp đoàn. Nó không sống cho riêng mình.

292. Similarly, each group of human egos is a part of a certain centre in a Globe Lord, Chain Lord or a Planetary Logos.

292. Tương tự, mỗi nhóm chân ngã nhân loại là một phần của một luân xa nào đó nơi một Chúa Tể của Bầu, Chúa Tể của Dãy hay một Hành Tinh Thượng đế.

293. Can human egoic groups be found in all seven major centers of any of these entities, or only in the highest three? Probably, all seven, but one of those centers in the Planetary Logos which are comprised of Monads?

293. Liệu các nhóm chân ngã nhân loại có mặt trong cả bảy luân xa chính của bất kỳ Thực Thể nào trong các Thực Thể này, hay chỉ trong ba luân xa cao nhất? Có lẽ là cả bảy, nhưng một trong các luân xa ấy nơi Hành Tinh Thượng đế lại được cấu thành bởi các Chân thần?

294. The human unit is, of course, physically, part of the physical body of humanity as a whole. This greater physical aggregation naturally has an effect upon the individual human unit.

294. Dĩ nhiên đơn vị con người, xét về phương diện thể xác, là một phần của thân thể hồng trần của nhân loại như một toàn thể. Khối tập hợp hồng trần lớn hơn này tự nhiên có tác động lên đơn vị con người cá thể.

The life influence of the desire or astral body, the strong­est karmic agency which has to be considered.

Ảnh hưởng sự sống của thể dục vọng hay thể cảm dục, cơ quan nghiệp lực mạnh nhất cần phải xét.

295. The atom of substance in the human physical body is strongly affected by the influence of the human astral body. The frequency of vibration and the quality of relationship experienced by that tiny atom (whether karmically desirable or not) is largely affected by the quality of emotion or desire demonstrated in the human astral body.

295. Nguyên tử chất liệu trong thể xác con người chịu ảnh hưởng mạnh bởi tác động của thể cảm dục con người. Tần số rung động và phẩm chất liên hệ mà nguyên tử nhỏ bé ấy trải nghiệm (dù về nghiệp quả là đáng mong muốn hay không) phần lớn bị tác động bởi phẩm chất cảm xúc hay dục vọng biểu lộ trong thể cảm dục con người.

[800] In the human atom, this involves the influe­nce of the three centres in the body of the Heavenly Man which form any specific “force triangle,” and which have much to do with the liberation of groups of Egos from manifestation.

[800] Trong nguyên tử nhân loại, điều này bao hàm ảnh hưởng của ba luân xa trong thân thể của Đấng Thiên Nhân vốn tạo thành bất kỳ “tam giác lực” đặc thù nào, và có rất nhiều liên quan tới việc giải thoát các nhóm Chân ngã khỏi hiện lộ.

296. When speaking of the “entire physical body of the which any atom is a corporate part”, it could be inferred that each atom had a particularly close relationship with one or other of the seven centers in such a body, but we did not specifically isolate “three centres in the body of the Heavenly Man”.

296. Khi nói về “toàn thể thân thể hồng trần mà bất kỳ nguyên tử nào là một bộ phận hiệp đoàn”, có thể suy ra rằng mỗi nguyên tử có một mối liên hệ gần gũi đặc biệt với một trong các bảy luân xa của một thân thể như vậy, nhưng chúng ta đã không đặc biệt biệt lập “ba luân xa trong thân thể của Đấng Thiên Nhân”.

297. The desire or aspiration for liberation is an important ingredient in the liberation process.

297. Dục vọng hay nguyện vọng giải thoát là một thành tố quan trọng trong tiến trình giải thoát.

298. When looking for the three centers in the body of a Heavenly Man which have to do with the liberation of egoic groups from manifestation, should we choose those centers closely related to the astral body—such as the solar plexus center, the heart center and, perhaps, the ajna center?

298. Khi tìm ba luân xa trong thân thể của một Đấng Thiên Nhân có liên quan đến việc giải thoát các nhóm chân ngã khỏi hiện lộ, chúng ta có nên chọn những luân xa liên hệ mật thiết với thể cảm dục—như luân xa tùng thái dương, luân xa tim và, có lẽ, luân xa ajna?

299. In what is said by the Tibetan above, there are levels of obscurity which are not easy to penetrate.

299. Trong điều Chân sư Tây Tạng nói ở trên, có những tầng mức u huyền không dễ xuyên thấu.

300. Egos and egoic groups are liberated at the fourth initiation. We may presume that the triangles here discussed (perhaps one triangle, perhaps more than one) are influential in helping Egos and egoic groups achieve their fourth initiation and, thus, liberation from what is usually considered “manifestation”.

300. Các Chân ngã và các nhóm chân ngã được giải thoát ở lần điểm đạo thứ tư. Ta có thể phỏng đoán rằng các tam giác được bàn tới ở đây (có thể một tam giác, có thể hơn một) có ảnh hưởng trong việc trợ giúp các Chân ngã và các nhóm chân ngã đạt đến lần điểm đạo thứ tư, và vậy là, giải thoát khỏi cái thường được xem là “hiện lộ”.

301. If we were to try to arrive at one particular triangle involved in liberation, we might choose crown, ajna and alta, or head, heart and throat.

301. Nếu chúng ta cố gắng tìm ra một tam giác đặc thù can dự vào giải thoát, có thể chúng ta sẽ chọn đỉnh đầu, ajna và alta, hoặc đầu, tim và họng.

The life influences of the mental body, or of that princi­ple which imposes upon the atom the quality of activity in form, which governs the reaction of the atom to its group life, and which enables the quality of its life to be demonstrated.

Ảnh hưởng sự sống của thể trí, hay của nguyên khí áp đặt lên nguyên tử phẩm tính của hoạt động trong hình tướng, vốn cai quản sự đáp ứng của nguyên tử đối với đời sống nhóm của nó, và cho phép phẩm chất sự sống của nó được biểu lộ.

302. We note that each influence controlling the atom of substance or the human unit is called a “life” influence

302. Chúng ta ghi nhận rằng mỗi ảnh hưởng chi phối nguyên tử chất liệu hay đơn vị nhân loại đều được gọi là một ảnh hưởng “sự sống”.

303. We must note that the “life influences of the mental body” are closely associated with the quality of imposition. The mind conveys the will.

303. Chúng ta phải lưu ý rằng “các ảnh hưởng sự sống của thể trí” gắn chặt với phẩm chất của sự áp đặt. Cái trí truyền đạt ý chí.

304. The mind aspect is also closely related to the activity aspect.

304. Phương diện trí tuệ cũng liên hệ mật thiết với phương diện hoạt động.

305. The mind is closely related to the unit’s group functioning, whether that unit is a tiny atom or a human being.

305. Cái trí gắn chặt với chức năng nhóm của đơn vị, dù đơn vị ấy là một nguyên tử nhỏ bé hay một con người.

306. The mental nature of the human being is decisively impressive upon the tiny atom of substance in the human body. The tiny atom has its own type of “group life”. The mental nature of the human being imposes upon that tiny atom a certain “quality of activity in form”, affecting the aggregations and de-aggregations of that atom of substance. The mind is, after all, closely associated with the third aspect of divinity and so is the tiny atom.

306. Bản tính trí tuệ của con người có tác dụng áp đặt quyết định lên nguyên tử chất liệu bé nhỏ trong thân thể con người. Nguyên tử nhỏ bé ấy có kiểu “sinh hoạt nhóm” riêng của nó. Bản tính trí tuệ của con người áp đặt lên nguyên tử nhỏ bé ấy một “phẩm tính hoạt động trong hình tướng” nhất định, tác động đến các sự tụ hợp và giải tụ của nguyên tử chất liệu ấy. Xét cho cùng, cái trí liên hệ gần với phương diện thứ ba của thiên tính và nguyên tử nhỏ bé cũng vậy.

In the human atom this concerns those causes which are incident to a man’s Ray, or literally the influence of the life of the planetary Logos as He functions as a self-conscious Life on His Own plane, as He works out His Own plans, and consequently sweeps into activity the cells of His body as mere incidents where He (the basic central life) is concerned.

Trong nguyên tử nhân loại điều này liên quan đến các nguyên nhân gắn liền với Cung của một người, hay thực sự là ảnh hưởng của sự sống của Hành Tinh Thượng đế khi Ngài vận hành như một Sự sống tự ý thức trên Cõi Riêng của Ngài, khi Ngài thực hiện các kế hoạch Riêng của Ngài, và do đó cuốn các tế bào trong thân thể Ngài vào hoạt động như những tình tiết phụ xét về phía Ngài (sự sống trung tâm căn bản).

307. As we consider the analogue in human life of the “life influences of the mental body”, we may infer that the monadic ray is involved. Usually when we speak of “a man’s Ray”, the monadic ray is meant. The lower mind, we remember, is (in some fundamental sense) an expression of the monadic ray just as the astral body expresses the soul ray.

307. Khi xét phối tỉ trong đời sống nhân loại của “các ảnh hưởng sự sống của thể trí”, chúng ta có thể suy ra rằng Cung chân thần có liên quan. Thông thường khi chúng ta nói “Cung của một người”, là ngụ ý tới cung chân thần. Nhớ rằng hạ trí, theo nghĩa căn bản, là biểu lộ của cung chân thần cũng như thể cảm dục biểu lộ cung linh hồn.

308. It is the monadic ray which connects the human unit specifically to the Planetary Logos, for the human Monad is a “cell” in one of the centers of his Planetary Logos.

308. Chính cung chân thần nối kết đơn vị nhân loại một cách đặc thù với Hành Tinh Thượng đế, vì Chân thần con người là một “tế bào” trong một luân xa của Hành Tinh Thượng đế của y.

309. We can see that monadic impulsions, which affect matters egoic and personal, are impelled by the Planetary Logos as He seeks to work out His own plans. The Monads are driven into activity simply the Planetary Logos’ act of will. They have, it seems, no ‘say’ about being driven forward. They are mere “incidents” in the willed-impulsions emanating from the Planetary Logos.

309. Chúng ta có thể thấy rằng các xung động chân thần, vốn ảnh hưởng đến các vấn đề chân ngã và cá nhân, được Đấng Hành Tinh Thượng đế thúc đẩy khi Ngài tìm cách thực hiện các kế hoạch riêng của Ngài. Các Chân thần bị thúc vào hoạt động đơn thuần bởi hành vi ý chí của Hành Tinh Thượng đế. Xem ra họ không có “quyền nói” về việc bị thúc đẩy tiến lên. Họ chỉ là những “tình tiết phụ” trong các xung lực–được–ý–chí phát ra từ Hành Tinh Thượng đế.

310. The causes with which we are here concerned originate with the Planetary Logos, affect the Monad and are mediated through the lower mental nature which, in turn, affects the tiny atoms of substance.

310. Những nguyên nhân mà chúng ta đang xét ở đây khởi nguyên từ Hành Tinh Thượng đế, tác động lên Chân thần và được trung giới qua bản chất hạ trí, vốn lại tác động đến các nguyên tử chất liệu nhỏ bé.

311. We see, therefore, a line emanating from the Planetary Logos all the way ‘down’ to the tiny atom of substance.

311. Do đó, chúng ta thấy có một tuyến xạ phát xuất từ Hành Tinh Thượng đế xuống tận nguyên tử chất liệu nhỏ bé.

The life impulse of the Thinker functioning in the causal body who—though a great abstraction or the Absolute where the cellular life is concerned—is nevertheless a potent and active factor in the imposition of rhythm upon the atom in every body.

Xung lực sự sống của Đấng Tư Duy vận hành trong thể nguyên nhân— dù là một đại trừu tượng hay Đấng Tuyệt đối đối với sự sống tế bào —vẫn là một yếu tố hùng mạnh và tích cực trong việc áp đặt nhịp điệu lên nguyên tử trong mọi thể.

312. We have, we see, being considering a basic analogy: how the atom in the human being responds to impulses originating within the higher aspects of the human being, expressing through the physical body of which the cell is a part; and, also, how the human unit responds to the impulsions arising from the greater Life of which it is a corporate part.

312. Chúng ta thấy rằng chúng ta đang xét một phối tỉ căn bản: nguyên tử trong con người đáp ứng ra sao với các xung lực khởi phát từ những phương diện cao hơn của con người, biểu lộ qua thân thể hồng trần mà tế bào là một phần; và, đồng thời, đơn vị nhân loại đáp ứng ra sao với các xung lực khởi lên từ Sự sống lớn hơn mà y là một bộ phận hiệp đoàn.

313. We note that the Tibetan has introduced the term “cellular life” when speaking of the atom of substance. Surely, they are related, but the atom is tiny constituent of the physical cell.

313. Chúng ta ghi nhận rằng Chân sư Tây Tạng đã đưa vào thuật ngữ “sự sống tế bào” khi nói về nguyên tử chất liệu. Chắc chắn, chúng có liên hệ, nhưng nguyên tử là thành phần tí hon của tế bào hồng trần.

314. As the Thinker in the causal body is to the tiny atom in the human body, so the Solar Logos on the cosmic mental plane is to the human unit in its entirety.

314. Như Đấng Tư Duy trong thể nguyên nhân đối với nguyên tử nhỏ bé trong thân thể con người, thì Thái dương Thượng đế trên cõi trí vũ trụ đối với đơn vị nhân loại trong toàn thể của y cũng vậy.

315. DK is telling us that the atom in the human body experiences an imposition of rhythm emanating from the Thinker in the causal body. For that tiny atom, the Thinker in the causal body is as the “Absolute”.

315. Chân sư DK đang nói với chúng ta rằng nguyên tử trong thân thể con người trải nghiệm một sự áp đặt nhịp điệu phát xuất từ Đấng Tư Duy trong thể nguyên nhân. Đối với nguyên tử nhỏ bé ấy, Đấng Tư Duy trong thể nguyên nhân như là “Đấng Tuyệt đối”.

316. If we extend the analogy, we will find the Solar Logos serving in the role of “Absolute” for the human atom. We will also find that the Solar Logos is responsible for the imposition of certain rhythms upon the life of the human unit in the three worlds.

316. Nếu chúng ta mở rộng phối tỉ, chúng ta sẽ thấy Thái dương Thượng đế đóng vai “Đấng Tuyệt đối” đối với nguyên tử là con người. Chúng ta cũng sẽ thấy rằng Thái dương Thượng đế chịu trách nhiệm áp đặt những nhịp điệu nhất định lên đời sống của đơn vị nhân loại trong ba cõi giới.

In the human atom, this brings in the influence of the life of the solar Logos, for that Life imposes rhythm upon every human atom in the system, and does so through the agency of substance and its inherent quality, sensation.

Trong nguyên tử nhân loại, điều này mang đến ảnh hưởng của sự sống của Thái dương Thượng đế, vì Sự Sống ấy áp đặt nhịp điệu lên mọi nguyên tử nhân loại trong Thái hệ, và Ngài làm thế thông qua cơ quan của chất liệu cùng phẩm tính cố hữu của nó, cảm giác,

317. DK affirms that, a human units, we are greatly affected by the Solar Logos through the rhythms that the Logos imposes. We think immediately of the “heart beat” of the Solar Logos as a fundamental rhythm which is, in some mediated manner, imposed. In our solar system, we are dealing with the occult rhythm of the heartbeat of the Heart of the Sun.

317. Chân sư DK khẳng định rằng, là các đơn vị nhân loại, chúng ta chịu tác động lớn bởi Thái dương Thượng đế qua các nhịp điệu mà Ngài áp đặt. Chúng ta lập tức nghĩ đến “nhịp tim” của Thái dương Thượng đế như một nhịp điệu căn nền được áp đặt theo một cách trung giới nào đó. Trong Thái hệ của chúng ta, chúng ta đang xử lý nhịp điệu huyền linh của nhịp tim của Trái Tim Thái dương.

318. The solar logoic rhythm reaches the human being through the “agency of substance and its inherent quality, sensation”. We may infer that the human astral body is involved in mediating these rhythms to the human being on the physical plane.

318. Nhịp điệu của Thái dương Thượng đế đến với con người qua “cơ quan của chất liệu và phẩm tính cố hữu của nó, là cảm giác”. Ta có thể suy rằng thể cảm dục con người tham dự vào việc trung giới các nhịp điệu này đến con người trên cõi hồng trần.

In these thoughts, we have but approached the study of karma from a fresh angle, and endeavoured to show the sources of the “influences” which play upon all atomic lives.

Trong các tư tưởng này, chúng ta chỉ mới tiếp cận việc nghiên cứu nghiệp quả từ một góc độ mới, và nỗ lực chỉ ra các nguồn của những “ảnh hưởng” vốn tác động lên mọi sự sống nguyên tử.

319. Indeed, the angle is “fresh” and requiring much reconfiguration of customary thought.

319. Quả vậy, góc nhìn này “mới” và đòi hỏi phải tái cấu hình mạnh các thói quen tư tưởng.

320. Just at the tiny atom of matter is conditioned karmically, so is the tiny unit man karmically conditioned by influences emanating from much greater sources.

320. Cũng như nguyên tử nhỏ bé của vật chất bị điều kiện hoá bởi nghiệp quả, thì đơn vị tí hon là con người cũng bị điều kiện hoá nghiệp quả bởi các ảnh hưởng phát ra từ những nguồn lớn lao hơn nhiều.

321. “Karma” means action, and DK is informing us of various relatively subjective actions which impact the unit experiencing karma.

321. “Nghiệp” có nghĩa là hành động, và Chân sư DK đang thông tin cho chúng ta về các hành vi tương đối chủ quan khác nhau tác động lên đơn vị đang trải nghiệm nghiệp.

322. The principle is simple: all lives are atoms embedded within the body corporate of still greater atoms. Influences emanating from these still greater atoms affect the lesser atoms. In such cases the karma experienced cannot be called strictly individual. The human unit, as part of larger corporate units, experiences the karma due such larger units.

322. Nguyên lý thì đơn giản: mọi sự sống đều là các nguyên tử được nhúng trong thân thể hiệp đoàn của những nguyên tử còn lớn hơn. Các ảnh hưởng phát ra từ những nguyên tử lớn hơn ấy tác động lên các nguyên tử nhỏ hơn. Trong những trường hợp như vậy, nghiệp được trải nghiệm không thể gọi là thuần tuý cá nhân. Đơn vị nhân loại, như một phần của các đơn vị hiệp đoàn lớn hơn, trải nghiệm nghiệp xứng hợp với những đơn vị lớn hơn ấy.

The atom likewise is controlled by its own “esse,” or by its own inherent nature or vibration, which was the quality of matter itself before it was aggregated into a solar system,

Nguyên tử cũng đồng thời bị chi phối bởi “esse” riêng của nó, hay bởi bản tính hay rung động cố hữu của chính nó , vốn là phẩm tính của vật chất tự thân trước khi nó được tập hợp thành một Thái hệ,

323. This quality of vibration resonates to the note of the solar system which preceded our own.

323. Phẩm tính rung động này cộng hưởng với âm điệu của Thái hệ có trước Thái hệ của chúng ta.

and which was the vibratory activity produced through the rhythmic life of an earlier solar system.

và vốn là hoạt năng rung động được sản sinh qua nhịp sống của một Thái hệ trước kia.

324. Greater rhythms are imposed upon lesser beings with their own lesser rhythms.

324. Các nhịp điệu lớn hơn được áp đặt lên các hữu thể nhỏ hơn vốn có nhịp điệu riêng của họ.

325. All life in the previous solar system vibrated in some manner to the note FA or F.

325. Mọi sự sống trong Thái hệ trước rung theo một cách nào đó với nốt FA.

326. The human unit has its own inherent “esse”, inherited from a previous incarnation.

326. Đơn vị nhân loại có “esse” cố hữu riêng mình, thừa hưởng từ một hoá thân trước.

[801] This is equally true of all atoms of all grades, but only in connection with the atom of substance, and to some degree with the human atom, is it in any way possible to ascertain the pre­dis­posing causes.

[801] Điều này đúng ngang nhau với mọi nguyên tử ở mọi cấp, nhưng chỉ liên quan đến nguyên tử chất liệu, và ở một mức độ nào đó với nguyên tử nhân loại, thì mới có thể ít nhiều suy xét các nguyên nhân định hướng từ trước.

327. We can only imagine the nature of the larger systems of which our Solar Logos and His fellow Logoi are a part. As to the antecedents of these Entities and systems of Entities, we can have no reasonable notion.

327. Chúng ta chỉ có thể hình dung về bản chất các hệ thống lớn hơn mà Thái dương Thượng đế của chúng ta và các Thượng đế đồng đẳng của Ngài là một phần. Còn về tiền thân của các Thực Thể và các hệ thống Thực Thể này, chúng ta không thể có khái niệm hợp lý.

328. It is being impressed upon us that predisposing causes conditioning the human atom are many are often remote from our understanding. Still more remote are the predisposing causes which condition a Planetary Logos, a Solar Logos or a Cosmic Logos, etc.

328. Điều đang được khắc sâu nơi chúng ta là những nguyên nhân định hướng từ trước điều kiện hoá nguyên tử nhân loại vừa nhiều vừa thường là ở rất xa tầm hiểu của chúng ta. Còn xa hơn nữa là các nguyên nhân định hướng từ trước điều kiện hoá một Hành Tinh Thượng đế, một Thái dương Thượng đế hay một Thượng đế Vũ trụ, v.v.

329. We may judge that all in cosmos is in some condition or other and there are predisposing causes for such a condition.

329. Ta có thể xét đoán rằng tất cả trong vũ trụ đều ở trong một tình trạng nào đó và có những nguyên nhân định hướng từ trước cho tình trạng ấy.

330. While the principle may be clear to us, the ability to trace such causes in the case of greater Entities is necessarily lacking.

330. Dẫu nguyên lý có thể đã rõ với chúng ta, khả năng lần vết những nguyên nhân như vậy trong trường hợp các Thực Thể lớn lao hơn tất nhiên là thiếu vắng.

331. We may emerge from this discussion with the sense that our human lives, here and now, are greatly affected by causes which lie far beyond our own Ego and the egoic group to which it belongs. Even the Solar Logos is involved in the imposition upon our lives of certain basic rhythms, and upon that Logos, still greater rhythms, of far more remote origin, are imposed.

331. Chúng ta có thể bước ra khỏi cuộc bàn thảo này với cảm thức rằng đời sống nhân loại của chúng ta, tại đây và bây giờ, bị tác động rất lớn bởi những nguyên nhân nằm xa hơn nhiều ngoài Bản ngã của chính mình và ngoại cuộc với nhóm chân ngã mà nó thuộc về. Ngay cả Thái dương Thượng đế cũng can dự vào việc áp đặt lên đời sống chúng ta những nhịp điệu căn bản nào đó, và trên Ngài, những nhịp điệu còn lớn hơn nữa, có nguồn gốc xa xăm hơn nữa, cũng được áp đặt.

Until the mystery of the Great Bear is revealed and is known as it is, and until the influence of the Pleiades is compreh­end­ed, and the true significance of the cosmic triangle form­ed by

Cho đến khi huyền nhiệm của Đại Hùng Tinh được khai mở và được biết đúng như là nó, và cho đến khi ảnh hưởng của Pleiades được thấu hiểu, và ý nghĩa chân thực của tam giác vũ trụ được hình thành bởi

a. The seven Rishis of the Great Bear,

a. Bảy vị Rishi của Đại Hùng Tinh,

b. The seven planetary Logoi of our solar system,

b. Bảy Hành Tinh Thượng đế của Thái hệ chúng ta,

c. The seven Pleiades or Sisters,

c. Bảy Pleiades hay Chị Em,

is revealed, the karma of the seven sacred planets will remain unknown.

được khai mở, thì nghiệp quả của bảy hành tinh thiêng liêng sẽ còn bất tri.

332. This is an amazingly abstruse section of prophecy.

332. Đây là một đoạn tiên tri cực kỳ thâm áo.

333. Three things must occur before the karma of the seven sacred planets can be known:

333. Ba điều phải xảy ra trước khi nghiệp quả của bảy hành tinh thiêng liêng có thể được biết:

a. The mystery of the Great Bear must be revealed and known as it is

a. Huyền nhiệm của Đại Hùng Tinh phải được khai mở và được biết đúng như nó là

b. The influence of the Pleiades must be comprehended

b. Ảnh hưởng của Pleiades phải được thấu hiểu

c. The true significance of the cosmic triangle formed between the Great Bear, the seven Planetary Logoi of our solar system and the Pleiades must be understood. This is, in a sense, a constellational triangle.

c. Ý nghĩa chân thực của tam giác vũ trụ được hình thành giữa Đại Hùng Tinh, bảy Hành Tinh Thượng đế của Thái hệ chúng ta và Pleiades phải được hiểu. Theo một nghĩa, đó là một tam giác thuộc chòm sao,

334. Such knowledge is not to be ascertained in our present round. Who knows whether it will be ascertainable in the next when these deeper cosmic matters will be more assiduously studied?

334. Tri thức như vậy sẽ không thể nắm bắt trong cuộc tuần hoàn hiện tại. Ai biết được liệu nó có khả tri trong cuộc tuần hoàn kế tiếp, khi những vấn đề vũ trụ sâu xa hơn này sẽ được khảo cứu chuyên cần hơn?

All that we can see is its working out in the solar system.

Tất cả những gì chúng ta có thể thấy là sự triển khai của nó trong Thái hệ.

335. Obviously, the source of such causes lies far ‘above’ (or interior to) our solar system, on the cosmic astral plane, cosmic mental plane and beyond.

335. Rõ ràng, nguồn của những nguyên nhân như vậy nằm xa “bên trên” (hay nội tại so với) Thái hệ của chúng ta, trên cõi cảm dục vũ trụ, cõi trí vũ trụ và cao hơn nữa.

The intricacy of the whole subject will be apparent when it is borne in mind that not only do these three groups form a cos­mic triangle, but that within that triangle many lesser triangles have to be studied.

Sự rắc rối chằng chịt của toàn bộ chủ đề sẽ hiển hiện khi ghi nhớ rằng không chỉ ba nhóm này tạo thành một tam giác vũ trụ, mà còn là bên trong tam giác ấy phải khảo sát rất nhiều các tam giác nhỏ hơn.

336. The lesser triangles involve, for instance, one of the stars in the Great Bear, one of the stars the Pleiades and one (or other) of the Seven Heavenly Men. We can see that a great number of secondary triangles could emerge from such combinations.

336. Các tam giác nhỏ hơn chẳng hạn liên quan tới một trong các sao ở Đại Hùng Tinh, một trong các sao ở Pleiades và một (hay sao khác) trong bảy Đấng Thiên Nhân. Ta có thể thấy một số lượng lớn các tam giác thứ cấp có thể xuất hiện từ những phối hợp như vậy.

337. There is probably one star in the Great Bear most related to one star in the Pleiades and these two are probably most related to only one of the seven principal Heavenly Men, however, the two stars could have a relationship which each and every one of the Seven Heavenly Men. Not only that, but each star in the Great Bear (though most related to only one of the stars in the Pleiades) has a relationship with each and every star in the Pleiades, and vise versa.

337. Có lẽ có một ngôi sao ở Đại Hùng Tinh liên hệ mật thiết nhất với một ngôi sao ở Pleiades và hai ngôi sao này có lẽ liên hệ mật thiết nhất với chỉ một trong bảy Đấng Thiên Nhân chính, tuy nhiên, hai ngôi sao ấy vẫn có thể có liên hệ với từng mỗi trong bảy Đấng Thiên Nhân. Không những thế, mỗi sao trong Đại Hùng Tinh (dẫu liên hệ mật nhất với chỉ một trong các sao ở Pleiades) cũng có liên hệ với từng ngôi sao trong Pleiades, và ngược lại.

338. Effective studies of this nature lie far into the future.

338. Những khảo cứu hữu hiệu thuộc loại này còn ở rất xa trong tương lai.

Any one of the seven Rishis with one of our planetary Logoi and one of the seven Sisters may form a subsidiary triangle, and all must thus be studied.

Bất kỳ một trong bảy vị Rishi cùng với một Hành Tinh Thượng đế của chúng ta và một trong bảy Chị Em đều có thể hình thành một tam giác phụ, và tất cả đều phải được khảo cứu như vậy.

339. DK informs us of some of the possible combinations—the most powerful subsidiary triangles.

339. Chân sư DK chỉ cho chúng ta một vài phối hợp khả dĩ—những tam giác phụ mạnh mẽ nhất.

340. We do not know that all of these subsidiary triangles are of equal strength or even fully formed, but at some point in time, all such triangles will be fully functioning.

340. Chúng ta không biết rằng tất cả các tam giác phụ này có cùng sức mạnh hay đã được hình thành đầy đủ hay chưa, nhưng vào một thời điểm, mọi tam giác như vậy sẽ vận hành viên mãn.

341. Before we can study the triangles, we must understand the qualitative nature the stars and planets involved, which is, thus far, hardly the case.

341. Trước khi có thể khảo cứu các tam giác, chúng ta phải hiểu bản chất phẩm tính của các sao và các hành tinh liên quan, điều mà cho đến nay, mới chỉ hiểu được rất ít.

In connection with the karma of the solar Logos, the subject is even more abstract and incomprehensible.

Liên quan đến nghiệp quả của Thái dương Thượng đế, chủ đề này thậm chí còn trừu tượng và bất khả thấu hiểu hơn.

342. We have discussed the relationship between the stars in the Great Bear, the stars in the Pleiades and the various Planetary Logoi.

342. Chúng ta đã thảo luận mối liên hệ giữa các sao ở Đại Hùng Tinh, các sao ở Pleiades và các Hành Tinh Thượng đế khác nhau.

343. There are certainly triangles, as well, between certain stars in the Great Bear, stars in the Pleiades and our Solar Logos, but these are not the relationships which DK is about to discuss.

343. Chắc chắn cũng có các tam giác giữa những sao nhất định trong Đại Hùng Tinh, các sao trong Pleiades và Thái dương Thượng đế của chúng ta, nhưng đó không phải là những mối liên hệ mà Chân sư DK sắp bàn tới.

344. In the examples above involving the Heavenly Men, we discussed the relationship between certain stars and our Heavenly Men (Planetary Logoi). Below, we shall discuss the relationship between certain constellations (not simply stars taken singly) and our Solar Logos (a Solar God)

344. Trong những thí dụ bên trên liên quan đến các Đấng Thiên Nhân, chúng ta đã bàn đến mối liên hệ giữa một số ngôi sao và các Đấng Thiên Nhân (Hành Tinh Thượng đế) của chúng ta. Bên dưới đây, chúng ta sẽ nói về mối liên hệ giữa một số chòm sao (không đơn thuần là các ngôi sao được xét riêng rẽ) và Thái dương Thượng đế của chúng ta (một Thượng đế Thái dương)

It lies hidden —not in the seven constellations—but in the three constel­la­tions which concern the three bodies of His Personality and which in themselves are but manifestations of a central LIFE past our concept and our recognition.

Điều ấy ẩn tàng—không nằm trong bảy chòm sao— mà ở ba chòm sao liên quan tới ba thể của Phàm ngã Ngài và chính chúng chỉ là các hiện lộ của một SỰ SỐNG trung tâm vượt ngoài quan niệm và tri nhận của chúng ta.

345. Our Solar Logos has a physical body, an astral body and a lower mental body.

345. Thái dương Thượng đế của chúng ta có một thể hồng trần, một thể cảm dục và một thể hạ trí.

346. There are three entire constellations, which are probably chakras in the “One About Whom Naught May Be Said”, which are specifically related to the three personality vehicles of our Solar Logos.

346. Có ba toàn chòm sao, có lẽ là các luân xa trong “Đấng Bất Khả Tư Nghị”, liên hệ đặc thù với ba hiện thể phàm ngã của Thái dương Thượng đế chúng ta.

347. May these be the Great Bear, the Sirian System and the Pleiades or, perhaps, the Great Bear, the Little Bear and the Pleiades—considered as constellations and not from the perspective of the individual stars within these constellations?

347. Liệu đó có thể là Đại Hùng Tinh, Hệ sao Sirius và Pleiades hay, có lẽ, Đại Hùng Tinh, Tiểu Hùng Tinh và Pleiades—được xét như các chòm sao chứ không từ phối cảnh của các ngôi sao riêng lẻ trong các chòm sao này?

It concerns the mani­festation in time and space of the ONE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID, and Whose relationship to the solar Logos finds a faint analogy in that of the planetary Logos to man, the human unit.

Điều ấy liên quan đến hiện lộ trong thời–không của ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ, và mối liên hệ của Ngài với Thái dương Thượng đế tìm được một phối tỉ mờ nhạt trong mối liên hệ của Hành Tinh Thượng đế với con người, đơn vị nhân loại.

348. If man as a Monad is but a cell in a Heavenly Man, is DK suggesting that the Solar Logos is as a cell when compared to the “One About Whom Naught May Be Said”?

348. Nếu con người như một Chân thần chỉ là một tế bào trong một Đấng Thiên Nhân, liệu Chân sư DK đang gợi ý rằng Thái dương Thượng đế như một tế bào khi so với “Đấng Bất Khả Tư Nghị”?

349. This seems quite a reduction of the status of the Solar Logos, for usually the Solar Logos is considered as a chakra within a chakra (which chakra is one of the major centers in the “One About Whom Naught May Be Said”). Thus, the Solar Logos would be as a minor chakra which is certainly far greater than a cell.

349. Điều này dường như khá hạ giảm địa vị của Thái dương Thượng đế, vì thường Thái dương Thượng đế được xem như một luân xa trong một luân xa (mà luân xa này là một trong các trung tâm chính trong “Đấng Bất Khả Tư Nghị”). Như vậy, Thái dương Thượng đế sẽ là một luân xa phụ vẫn chắc chắn lớn hơn nhiều so với một tế bào.

350. HOWEVER, if the “One About Whom Naught May Be Said” here referenced is a Galactic Logos, then it would make sense (in terms of scale) for our Solar Logos to be considered as a cell in the expression of such a great BEING.

350. TUY NHIÊN, nếu “Đấng Bất Khả Tư Nghị” được nhắc đến ở đây là một Thượng đế Ngân Hà, thì xét về tỉ lệ quy mô, Thái dương Thượng đế của chúng ta được xem như một tế bào trong biểu hiện của một Đấng vĩ đại như vậy là điều hợp lý.

351. Certainly our GALACTIC LOGOS is a “One About Whom Naught May Be Said”.

351. Chắc chắn THƯỢNG ĐẾ NGÂN HÀ của chúng ta là một “Đấng Bất Khả Tư Nghị”.

352. We must note, however, that the analogy is “faint” and thus, must not be pressed too far.

352. Tuy nhiên, chúng ta phải lưu ý rằng phối tỉ này là “mờ nhạt” và do đó, không nên đẩy đi quá xa.

353. Nevertheless, it is important to note the problem of scale with which we seem to be presented.

353. Dẫu vậy, điều quan trọng là ghi nhận vấn đề về tỉ lệ mà chúng ta dường như đang đối diện.

It profits not to extend the thought any further.

Không ích chi kéo dài ý tưởng thêm nữa.

354. DK well knows the limits of our minds.

354. Chân sư DK hiểu rõ giới hạn của trí chúng ta.

We are but seeking to emphasise the fact of the interde­pen­d­ence of all atoms and forms,

Chúng ta chỉ đang tìm nhấn mạnh sự kiện về tính tương thuộc của mọi nguyên tử và mọi hình tướng,

355. If an atom is included in a form, it is conditioned by the energy which the form expresses.

355. Nếu một nguyên tử được dung nhiếp trong một hình tướng, nó bị điều kiện hoá bởi năng lượng mà hình tướng ấy biểu lộ.

to lay stress upon the reality of the variety of influences which play upon all [802] that is manifesting,

để nhấn mạnh thực tại của sự đa tạp ảnh hưởng vốn tác động lên tất cả [802] những gì đang hiện lộ,

356. So that we may be more alert to the reasons for the effects we experience in the three lower worlds…

356. Hầu chúng ta có thể cảnh giác hơn trước những nguyên do của các hiệu quả mà chúng ta trải nghiệm ở ba cõi thấp…

357. Usually, we think there are far fewer effective influences that there really are.

357. Thông thường, chúng ta nghĩ rằng có ít ảnh hưởng hiệu lực hơn so với thực tế.

and to call attention to the fact of the karma of the past aeons, kalpas and that unknowable period in which the initiatory impulses were set up which are still persisting, and which God, man and atoms are still working out and off.

và để lưu ý đến sự kiện về nghiệp quả từ những đại kiếp, các kalpa và cái thời kỳ bất khả tri trong đó các xung lực khai mở đã được thiết lập, nay vẫn còn tồn tại, và mà Thượng đế, con người và các nguyên tử vẫn đang tiếp tục triển khai và giải trừ.

358. We are presented with many impulsive effects which (now serving as causes) have been generated in circumstances which cannot possibly be understood—they occurred so long ago.

358. Chúng ta đang đối diện với nhiều hiệu ứng xung lực mà (giờ đây đóng vai nguyên nhân) đã được tạo ra trong những bối cảnh không thể nào hiểu nổi—vì đã xảy ra quá lâu về trước.

359. In the distant, remote past, patterns of energy and force interaction have arisen and still have not been neutralized or brought into conformity with the prevailing archetypes of our present solar system. Imbalance still exists.

359. Trong quá khứ xa xăm, những mô thức tương tác năng lượng và lực đã phát sinh và vẫn chưa được trung hoà hay đưa vào hoà hợp với các nguyên mẫu hiện hành của Thái hệ chúng ta. Sự mất quân bình vẫn còn tồn tại.

360. In summary, DK has just called our attention to three factors:

360. Tóm lại, Chân sư DK vừa lưu ý chúng ta về ba yếu tố:

a. The interdependence of all atoms and forms

a. Tính tương thuộc của mọi nguyên tử và mọi hình tướng

b. The great variety of influences which play upon all that is manifesting

b. Sự đa dạng to lớn của các ảnh hưởng tác động lên mọi cái đang hiện lộ

c. The remote arising of still persistent effective causes and causative effects

c. Sự phát sinh xa xưa của những nguyên nhân và hiệu quả có tính nguyên nhân vẫn còn hiệu lực đến nay

Influences or vibrations, calling forth response, play upon every form and atom in the solar system and all that can be predicated of them is that they tend to develop conscious­ness of some kind, impose certain rhythms according to that conscious response, and produce aggregations or group activity.

Các ảnh hưởng hay rung động, kêu gọi sự đáp ứng, tác động lên mọi hình tướng và nguyên tử trong Thái hệ và tất cả những gì có thể được khẳng định về chúng là chúng có xu hướng phát triển tâm thức nào đó, áp đặt những nhịp điệu nhất định tuỳ theo sự đáp ứng có ý thức ấy, và tạo nên các tụ hợp hay hoạt động nhóm.

361. What can be said of the influences or vibrations (often very subtle and undetectable) which play upon every form and atom in the solar system?

361. Có thể nói gì về các ảnh hưởng hay rung động (thường rất vi tế và khó phát hiện) vốn tác động lên mọi hình tướng và nguyên tử trong Thái hệ?

a. They tend to develop consciousness of some kind. Although we cannot trace the origins of these influences and vibrations, we must use their impact wisely for the development of consciousness. Every encounter with energy and force (whether considered constructive or destructive) can be used to augment the extent and quality of consciousness.

a. Chúng có khuynh hướng phát triển một loại tâm thức nào đó. Dầu chúng ta không thể lần nguyên nguồn của các ảnh hưởng và rung động này, chúng ta vẫn phải sử dụng tác động của chúng một cách khôn ngoan cho sự phát triển tâm thức. Mọi cuộc chạm trán với năng lượng và lực (dẫu được xem là xây dựng hay phá hoại) đều có thể được dùng để gia tăng bề rộng và phẩm chất của tâm thức.

b. These influences and forces impose certain rhythms upon our lives and upon the conditions which surround us—i.e., upon circumstance. Depending upon the nature of the conscious response with which we meet these influences and forces, so will be the nature of the rhythms imposed.

b. Những ảnh hưởng và lực này áp đặt những nhịp điệu nhất định lên đời sống của chúng ta và lên các điều kiện bao quanh chúng ta—tức là lên hoàn cảnh. Tuỳ theo bản chất của sự đáp ứng có ý thức mà chúng ta dành cho những ảnh hưởng và lực ấy, thì bản chất của những nhịp điệu được áp đặt cũng sẽ như vậy.

c. These influences and forces affect all relationships: they produce aggregations and group activity. Can we meet them with such intelligence that the aggregations and group activity produced serve the Plan?

c. Những ảnh hưởng và lực này tác động lên mọi mối liên hệ: chúng tạo nên các tụ hợp và hoạt động nhóm. Liệu chúng ta có thể đối diện chúng bằng trí tuệ đến mức các tụ hợp và hoạt động nhóm được tạo nên sẽ phục vụ Thiên Cơ?

362. In short, all that we encounter can be used to promote an enhanced quality of life or consciousness.

362. Tóm lại, mọi điều chúng ta gặp đều có thể được dùng để xúc tiến chất lượng đời sống hay tâm thức được nâng cao.

The liberation from karma about which would-be occult students so glibly talk

Sự giải thoát khỏi nghiệp mà những người tự cho là môn sinh huyền bí học thường nói một cách trơn tru

363. Notice, that not only is DK not taking about “occultists”, per se, but He is not even talking about “occult students”. He speaks only of “would-be occult students”…quite a reduction from the genuine article—the occultist.

363. Lưu ý rằng Chân sư DK không nói về “các nhà huyền bí học” tự thân, mà Ngài thậm chí còn không nói về “môn sinh huyền bí học” thực thụ. Ngài chỉ nói về “những kẻ tự cho là môn sinh huyền bí học”… khá là so với bản gốc đích thực—nhà huyền bí học.

is after all but the freeing of the atom from its own personal problem (the problem of response to unitary sensation), and its conscious acquiescence in group response and work.

rốt cuộc chỉ là giải phóng nguyên tử khỏi vấn nạn cá nhân riêng của nó (vấn nạn đáp ứng với cảm giác đơn nguyên), và là sự ưng thuận có ý thức của nó đối với đáp ứng và công tác nhóm.

364. DK offers us another slant on the meaning of liberation from karma.

364. Chân sư DK đưa ra một góc nhìn khác về ý nghĩa của giải thoát khỏi nghiệp.

365. The atom is enmeshed in a certain context from which its usual, individual responses do not serve to free it. Instead, it must generate those kinds of responses which extricate it from that particular context. Eventually, the unit achieves a necessary degree of harmony with and imperviousness to his previously imprisoning context. One of the methods to achieve this, is to acquiesce in the necessity for group response and group work.

365. Nguyên tử bị vướng mắc trong một bối cảnh nào đó mà các đáp ứng đơn thuần cá nhân thông thường của nó không giải phóng được. Thay vào đó, nó phải tạo ra những kiểu đáp ứng khiến nó thoát khỏi bối cảnh đặc thù ấy. Rốt cuộc, đơn vị đạt được một mức cần thiết của hoà điệu với và miễn nhiễm trước bối cảnh từng giam hãm mình. Một trong những phương pháp đạt tới điều này là ưng thuận với sự tất yếu của đáp ứng nhóm và công tác nhóm,

366. Another way of saying this is that strictly selfish, individualistic response will not achieve for the unit harmony with its environment. Without harmony with the environment and with the group life, which necessarily surrounds and enfolds the unit, there can be no true, karmically effective liberation from that environment.

366. Nói cách khác, đáp ứng thuần vị ngã, cá nhân chủ nghĩa sẽ không mang lại cho đơn vị sự hoà điệu với môi trường. Không có hoà điệu với môi trường và với đời sống nhóm vốn tất yếu bao quanh và bao dung lấy đơn vị, thì không thể có một giải thoát đích thực, hiệu quả về nghiệp khỏi môi trường ấy.

367. The unit which achieves true harmony with its environment and with its group owes nothing more to either its environment or group. That unit is free—free to serve both the environment and the group.

367. Đơn vị đạt tới hoà điệu chân thực với môi trường và với nhóm của mình không còn mắc nợ gì với cả môi trường lẫn nhóm nữa. Đơn vị ấy được tự do—tự do để phụng sự cả môi trường và nhóm.

It marks the dissociation

Đó đánh dấu sự tách rời

368. Hence, the ongoing necessity for detachment…

368. Do vậy, nhu cầu thường xuyên cần phải tách rời…

of the human atom from the rhythm imposed upon him by the lower “influences” which find their channel of approach through his vehicles, or lunar bodies, and his consequent willing recognition of the will-impulse of his greater whole, or the life of the egoic group—a centre in the planetary body.

của nguyên tử nhân loại khỏi nhịp điệu áp đặt lên y bởi các “ảnh hưởng” thấp, vốn tìm kênh tiếp cận qua các vận cụ của y, hay các thể nguyệt tính, và theo đó là sự nhìn nhận sẵn sàng của y đối với xung lực ý chí của Đại Toàn thể của y, hay sự sống của nhóm chân ngã—một trung tâm trong thể hành tinh,

369. The liberated human unit is freed from the confines of lunar life. That unit recognizes within himself the solar, will-impulse which emanates from the greater whole of which it is a part. That will-impulse is really the impulse emanating from the life of the egoic group which includes the unit.

369. Đơn vị nhân loại được giải thoát thì thoát khỏi gông cùm của sinh hoạt nguyệt tính. Đơn vị ấy nhận biết trong chính mình xung lực ý chí thái dương tuôn ra từ Đại Toàn thể mà nó là một phần. Xung lực ý chí ấy thực ra là xung lực phát xuất từ sự sống của nhóm chân ngã bao gồm đơn vị ấy.

370. Notice that DK speaks of a “willing recognition” of higher will-impulses. It is not enough simply to recognize these impulses. One must be ready and willing to carry them out as if they were one’s own.

370. Lưu ý rằng Chân sư DK nói về sự “nhìn nhận sẵn sàng” các xung lực ý chí cao. Không đủ chỉ để nhận ra những xung lực này. Người ta phải sẵn sàng và ưng thuận thực thi chúng như thể chúng là của chính mình.

371. To live as a selfish individual is to live a life prompted by lunar impulse. To live harmoniously and in group consciousness is to live the solar or egoically-impulsed life. The Ego serves the will of the greater whole. It is responsive to the will of the Planetary Logos and seeks to promote the proper functioning of that center within the Planetary Logos of which it forms a corporate part.

371. Sống như một cá nhân vị kỷ là sống theo xung lực nguyệt tính, Sống hoà hợp và trong tâm thức nhóm là sống đời thái dương hay đời được xung lực chân ngã thúc đẩy. Chân ngã phụng sự ý chí của Đại Toàn thể. Nó đáp ứng với ý chí của Hành Tinh Thượng đế và tìm cách xúc tiến sự vận hành đúng đắn của luân xa trong Hành Tinh Thượng đế mà nó là một bộ phận hiệp đoàn.

372. When lunar selfishness ceases, the human unit can become increasingly responsive to the higher will impulses which emanate from its egoic nature.

372. Khi tính ích kỷ nguyệt tính chấm dứt, đơn vị nhân loại có thể trở nên ngày càng đáp ứng với những xung lực ý chí cao hơn phát ra từ bản tính chân ngã của mình.

373. Let us impress upon ourselves that an egoic group is a center (probably very minor) in the planetary body. An egoic group is a relatively greater center in the body of a Globe-Lord, a smaller center in the body of the Chain-Lord and a still smaller center in the body of the Heavenly Man or Planetary Logos.

373. Hãy khắc sâu với chính mình rằng một nhóm chân ngã là một trung tâm (có lẽ rất thứ yếu) trong thể hành tinh. Một nhóm chân ngã là một trung tâm tương đối lớn hơn trong thân thể của một Chúa Tể của Bầu, một trung tâm nhỏ hơn trong thân thể của Chúa Tể của Dãy và một trung tâm còn nhỏ hơn nữa trong thân thể của Đấng Thiên Nhân hay Hành Tinh Thượng đế.

It involves atomic control, but involves also conscious subjection to the karma of the Heavenly Man.

Điều đó bao hàm sự kiểm soát nguyên tử, nhưng cũng bao hàm sự phục tùng có ý thức với nghiệp quả của Đấng Thiên Nhân.

374. The human unit in process of liberation is no longer enmeshed by karma of its own making. Since that unit has begun to identify with the life of the Heavenly Man Who includes it, the unit can begin to play a role in working out the karma of the Heavenly Man. Only human beings who can begin to live the impersonal life can become constructively involved in neutralizing the karma of the Heavenly Man.

374. Đơn vị nhân loại trong tiến trình giải thoát không còn bị chằng buộc bởi nghiệp do chính mình tạo nữa. Vì đơn vị ấy đã bắt đầu đồng hoá với sự sống của Đấng Thiên Nhân bao gồm mình, đơn vị ấy có thể bắt đầu đóng vai trong việc giải quyết nghiệp quả của Đấng Thiên Nhân. Chỉ những con người có thể bắt đầu sống đời vô ngã mới có thể tham gia một cách xây dựng vào việc trung hoà nghiệp quả của Đấng Thiên Nhân.

Man is no longer the slave of the rhythm of matter per se,

Con người không còn là nô lệ của nhịp điệu của vật chất tự thân,

375. A close understanding of what is here said will reveal that we are enslaved by rhythms. We are also liberated through the expression of more goalfitting rhythms.

375. Sự thấu hiểu kỹ càng điều được nói ở đây sẽ cho thấy rằng chúng ta bị nô lệ bởi các nhịp điệu. Và chúng ta cũng được giải thoát thông qua sự biểu lộ những nhịp điệu phù hợp với cứu đích hơn.

but controls it in the three worlds of his endeavour; he is still nevertheless controlled by the group karma of the planetary centre, by its influence, life and vibratory impulse.

mà kiểm soát nó trong ba cõi nỗ lực của mình; tuy nhiên y vẫn còn bị chi phối bởi nghiệp nhóm của trung tâm hành tinh, bởi ảnh hưởng, sự sống và xung lực rung động của trung tâm ấy.

376. It is clear that a Master or Chohan (both of Them still very much part of the planetary process) are controlled by the “group karma of the planetary centre) of which They form a part. A Chohan is, after all, a “Planetary Life”.

376. Rõ ràng rằng một Chân sư hay một Chohan (cả hai vẫn còn là một phần rất nhiều của tiến trình hành tinh) đều bị chi phối bởi “nghiệp nhóm của trung tâm hành tinh” mà Các Ngài là một bộ phận. Sau hết, một Chohan là một “Sự Sống Hành tinh”.

377. At the onset of what we usually call “liberation” there is no true escape from karma. There is only escape from personal karma generated within the three lower worlds. Working constructively with planetary karma is very much focus of the Master or the Chohan.

377. Ở điểm khởi đầu của cái mà chúng ta thường gọi là “giải thoát” không có sự thoát ly chân thực khỏi nghiệp. Chỉ có sự thoát khỏi nghiệp cá nhân được tạo trong ba cõi thấp. Làm việc xây dựng với nghiệp hành tinh là một trọng tâm rất lớn của một Chân sư hay một Chohan.

The same can be predicated of a Heavenly Man, and of a solar Logos.

Điều tương tự có thể được khẳng định về một Đấng Thiên Nhân, và về một Thái dương Thượng đế.

378. These great Beings also achieve liberation and free themselves from a relatively individual context. They do not free themselves from the influence and karma of still greater Beings Who include them as centers, cells and atoms.

378. Các Đấng vĩ đại này cũng đạt tới giải thoát và tự giải phóng khỏi một bối cảnh tương đối cá biệt. Các Ngài không tự giải phóng khỏi ảnh hưởng và nghiệp quả của những Đấng còn lớn lao hơn, Đấng bao gồm Các Ngài như là các trung tâm, các tế bào và các nguyên tử.

379. The purpose of all self-conscious B/beings is to free themselves from limiting karma, and through the freedom achieved, attain a greater expression of intended dharma.

379. Mục đích của mọi Hữu thể tự ý thức là tự giải phóng khỏi nghiệp giới hạn, và qua tự do đạt được, đạt tới một biểu lộ lớn lao hơn của thiên chức đã định.

380. Masters and Chohans serve the Planetary Logos as both karmic and dharmic agents.

380. Các Chân sư và các Chohan phụng sự Hành Tinh Thượng đế như những tác viên nghiệp và pháp.

We might, in closing, express the same thought in terms of fire, remembering that words only limit and confine the thought, and that the main reason for this mode of approach is to bring pictorially before man some aspects of the central idea.

Chúng ta có thể, để kết, diễn đạt cùng một tư tưởng bằng thuật ngữ của lửa, ghi nhớ rằng ngôn từ chỉ giới hạn và câu thúc tư tưởng, và lý do chính cho phương cách tiếp cận này là để đưa ra trước mắt con người một cách hình tượng một vài phương diện của ý niệm trung tâm.

381. DK, we see, tries many ways to impress the true nature of His thought upon us. There are so many different kinds of minds. Some will grasp the idea behind the thought through one presentation and some through another.

381. Chân sư DK, như chúng ta thấy, thử nhiều cách để ghi khắc bản chất chân thực của tư tưởng Ngài vào chúng ta. Có quá nhiều loại cái trí. Có người lĩnh hội ý niệm phía sau tư tưởng bằng một cách trình bày này, người khác bằng cách trình bày khác.

“Electric fire, or will-impulse” in conjunction with “fire by fric­tion” produces light or “solar fire.”

“Lửa điện, hay xung lực ý chí” kết hợp với “lửa ma sát” sản sinh ánh sáng hay “Lửa Thái dương.”

382. This is the ongoing and familiar presentation.

382. Đây là cách trình bày quen thuộc và thường xuyên.

Electric fire is force or energy of some kind,

Lửa điện là một loại lực hay năng lượng nào đó,

383. Here, DK does not differentiate between force and energy.

383. Ở đây, Chân sư DK không phân biệt giữa lực và năng lượng.

and hence in itself [803] is fun­damentally an emanation.

và do vậy tự thân [803] nó về căn để là một sự xuất lộ.

384. Electric fire is a radiation or emanation. It goes forth from a source.

384. Lửa điện là một bức xạ hay xuất lộ. Nó phát ra từ một nguồn,

“Fire by friction” is substance with the quality of heat as its predominant characteristic;

“Lửa ma sát” là chất liệu với phẩm tính nhiệt là đặc trưng trội yếu;

385. It is heat which produces activity (the nature of the third aspect of divinity), and heat which, from another perspective, is activity.

385. Chính nhiệt sản sinh hoạt động (bản chất của phương diện thứ ba của thiên tính), và xét từ phối cảnh khác, nhiệt hoạt động.

it is latent heat or sensation.

nó là nhiệt tiềm ẩn hay cảm giác.

386. Because of heat/activity, there exists the power to respond. Response involves movement and movement implies activity which does not exist unless there is heat (at least this is so within our three lower worlds).

386. Bởi có nhiệt/hoạt động, nên có năng lực đáp ứng. Đáp ứng bao hàm chuyển động và chuyển động hàm ý hoạt động, vốn không hiện hữu nếu không có nhiệt (ít nhất là như vậy trong ba cõi thấp của chúng ta).

Both these ideas, therefore, convey the idea of duality.

Cả hai ý niệm này, do đó, chuyển tải ý niệm nhị nguyên.

387. In the first instance and concerning electric fire, we have the source and that force or energy which emanates from the source.

387. Ở trường hợp thứ nhất và liên quan đến lửa điện, chúng ta có nguồn và lực hay năng lượng xuất lộ từ nguồn.

388. In relation to fire by friction, we have both latent heat and sensation.

388. Liên hệ đến lửa ma sát, chúng ta có cả nhiệt tiềm ẩn và cảm giác.

389. What we have to grasp is that without heat/activity, sensation cannot exist. When something is “cold and lifeless” there is no sensation or response.

389. Điều chúng ta phải nắm là: nếu không có nhiệt/hoạt động, thì không có cảm giác. Khi vật gì “lạnh và vô sinh khí” thì không có cảm giác hay đáp ứng.

390. The factor of sensation also implies the presence of a conscious, experiencing E/entity which is impressed by a form of activity.

390. Nhân tố cảm giác cũng hàm ý có mặt một Hữu thể có ý thức, trải nghiệm, vốn được ấn tượng bởi một dạng hoạt động nào đó.

An emanation must have its originating source,

Một xuất lộ ắt phải có nguồn xuất phát của nó,

391. Hence the duality.

391. Do đó có nhị nguyên.

and heat is but the result of friction,

và nhiệt chỉ là kết quả của ma sát,

392. From one perspective, heat is based upon activity and that disruptive interplay we call “friction”. Friction, of course, necessitates motion.

392. Từ một phối cảnh, nhiệt được đặt nền trên hoạt động và trên sự tương tác gây phân hoá mà chúng ta gọi là “ma sát”. Ma sát, dĩ nhiên, đòi hỏi chuyển động.

and is necessarily dual.

và tất yếu là nhị nguyên.

393. DK seems to be telling us that heat is necessarily dual.

393. Chân sư DK dường như đang nói với chúng ta rằng nhiệt tất yếu là nhị nguyên.

Both these concepts involve facts long antedating the solar system, and hidden in the Universal Mind.

Cả hai khái niệm này liên quan đến những Sự thật có trước Thái hệ rất lâu, và ẩn tàng trong Vũ Trụ Trí.

394. Electric fire and fire by friction are energy states which long antedate the arising of the solar system. They are understood from the perspective of the Universal Mind (presumably on the cosmic mental plane).

394. Lửa điện và lửa ma sát là những trạng thái năng lượng có trước sự phát sinh của Thái hệ từ rất lâu. Chúng được hiểu từ phối cảnh của Vũ Trụ Trí (có lẽ là trên cõi trí vũ trụ).

395. DK seems to be suggesting that unless we can penetrate the Universal Mind, we will not understand electric fire or fire by friction, per se.

395. Chân sư DK dường như gợi rằng trừ phi chúng ta xuyên nhập được Vũ Trụ Trí, chúng ta sẽ không hiểu lửa điện hay lửa ma sát, tự thân.

All that we can scientifically ascertain is the nature of that which is produced by their ap­proximation, and this is solar fire or light.

Tất cả những gì chúng ta có thể xác chứng một cách khoa học là bản chất của cái được sản sinh bởi sự tiệm cận của chúng, và đó là Lửa Thái dương hay ánh sáng.

396. DK is telling us that electric fire, per se, and fire by friction, per se and in its own essence, are not ascertainable by our science. That which science can register is the result of the approximation of electric fire and fire by friction—namely, the solar system, demonstrating solar fire or light.

396. Chân sư DK đang cho chúng ta biết rằng Lửa điện, tự thân, và Lửa ma sát, tự thân và trong chính bản thể của nó, đều không thể được khoa học của chúng ta xác định. Điều mà khoa học có thể ghi nhận là kết quả của sự xích lại gần giữa Lửa điện và Lửa ma sát—tức là hệ mặt trời, vốn biểu hiện Lửa Thái dương hay ánh sáng.

397. We note that, in this context, solar fire and light are equated.

397. Chúng ta lưu ý rằng, trong ngữ cảnh này, Lửa Thái dương và ánh sáng được xem như đồng nhất.

These thoughts may make clear somewhat the significance of the number five, esoterically considered. Electric fire, being an emanation is essentially dual in concept, and so is fire by friction; they together produce solar fire, and thus the esoteric fifth.

Những tư tưởng này có thể phần nào làm sáng tỏ thâm nghĩa của con số năm, xét theo quan điểm huyền bí học. Lửa điện, vốn là một xuất lộ, về ý niệm là kép, và Lửa ma sát cũng vậy; hai yếu tố ấy hợp nhất tạo ra Lửa Thái dương, và do đó là con số năm theo huyền môn.

398. Here we have dual Spirit and dual substance, producing a unitary vehicle. Earlier in TCF we had dual material fire (latent and active), dual mental fire (mental elemental fire and solar fire), and unitary Spirit!

398. Ở đây chúng ta có Tinh thần kép và chất liệu kép, sản sinh một vận cụ nhất thể. Trước đó trong TCF, chúng ta đã có lửa vật chất kép (tiềm ẩn và hoạt động), lửa trí tuệ kép (lửa tinh linh trí tuệ và Lửa Thái dương), và Tinh thần nhất thể !

399. There are many ways of deriving numbers. In the foregoing discussion both electric fire and fire by friction have been considered dual, and solar fire (deriving from the approximation and interplay of the two) is considered unitary. Sometimes, however, solar fire is also considered dual, for it represents the dualistic second ray.

399. Có nhiều cách suy dẫn các con số. Trong cuộc thảo luận trên, cả Lửa điện và Lửa ma sát đều được xem là kép, còn Lửa Thái dương (phát sinh từ sự xích lại gần và hỗ tương của hai yếu tố ấy) được xem là nhất thể. Tuy nhiên, đôi khi Lửa Thái dương cũng được xem là kép, vì nó biểu trưng Cung thứ hai mang tính nhị nguyên.

400. Solar fire is the second which arises third in order. The numbers two and five are closely related, and here we see one reason why this should be the case. That which represents the second aspect (i.e., solar fire) is the “esoteric fifth”.

400. Lửa Thái dương là yếu tố thứ hai nhưng lại xuất hiện thứ ba theo thứ tự. Các số hainăm có liên hệ mật thiết, và ở đây chúng ta thấy một lý do vì sao như vậy. Yếu tố biểu trưng cho Phương diện thứ hai (tức Lửa Thái dương) chính là “con số năm theo huyền môn”.

401. Interestingly, the second Cosmic Path (of Magnetic Work), which relates to the reconditioning of the second or astral plane, is pursued by man of those whose monadic ray is the fifth.

401. Thật thú vị là Con Đường Vũ Trụ thứ hai (của Công tác Từ tính), vốn liên hệ với việc tái điều chỉnh cõi thứ hai hay cõi cảm dục, được bước theo bởi những ai có cung chân thần là cung năm.

402. The numbers two and five are also closely related in the expression of the Fifth Creative Hierarchy of Solar Angels.

402. Các số hainăm cũng liên hệ mật thiết trong sự biểu hiện của Huyền Giai Sáng Tạo thứ năm của các Thái dương Thiên Thần.

It will be apparent that when a man speaks of karma, he is dealing with something much wider than the interplay of effect and cause within the sphere of his own individual routine. He is, in all things, governed by causes originating in the aggregate of lives which form his egoic group, by the aggregate of groups which form one petal in a centre of a Heavenly Man, by force or purpose circulating through a triangle of centres, and by the life energy or purposeful will of the planetary Logos Himself.

Rõ ràng là khi một người nói về nghiệp quả, y đang đề cập đến một điều bao la hơn rất nhiều so với sự tương tác của quả và nhân trong phạm vi sinh hoạt cá nhân thường nhật của riêng y, Trong mọi sự, y đều bị chi phối bởi những nguyên nhân khởi phát trong tổng thể các sự sống hợp thành nhóm chân ngã của y, bởi tổng thể các nhóm hợp thành một cánh hoa trong một trung tâm của một Đấng Thiên Nhân , bởi mãnh lực hay mục đích lưu chuyển xuyên qua một tam giác các trung tâm, và bởi sinh khí hay ý chí mục đích của chính Hành Tinh Thượng đế.

Finally he is governed by the will of the solar Logos as it demonstrates itself in initiatory activity.

Sau cùng, y bị chi phối bởi ý chí của Thái dương Thượng đế khi ý chí đó tự biểu hiện qua hoạt động điểm đạo.

403. DK has immensely extended the consideration of the origins of karma and the forces by which man is governed and conditioned. Let us tabulate:

403. Chân sư DK đã mở rộng rất lớn việc xem xét các nguồn gốc của nghiệp quả và những mãnh lực chi phối và điều kiện hóa con người. Chúng ta hãy liệt kê:

a. Man is conditioned by those karmic forces which are the result of the interplay of cause and effect within the sphere of his own individual routine

a. Con người bị điều kiện hóa bởi những lực nghiệp quả là kết quả của sự tương tác nhân–quả trong phạm vi sinh hoạt cá nhân thường nhật của riêng y

b. Man is karmically governed by causes originating in the aggregate of lives which form his egoic group

b. Con người bị nghiệp quả chi phối bởi những nguyên nhân khởi phát trong tổng thể các sự sống hợp thành nhóm chân ngã của y

c. Man is karmically governed by the aggregate of groups which form one petal in a centre of a Heavenly Man. Here we have fresh light upon the manner in which egoic groups participate in the life of a center of a Heavenly Man: they form one petal in such a center.

c. Con người bị nghiệp quả chi phối bởi tổng thể các nhóm hợp thành một cánh hoa trong một trung tâm của một Đấng Thiên Nhân. Ở đây chúng ta có thêm ánh sáng mới về cách các nhóm chân ngã tham dự vào sự sống của một trung tâm của một Đấng Thiên Nhân: chúng hợp thành một cánh hoa trong trung tâm như thế.

d. Man is karmically governed by force or purpose circulating through a triangle of centres

d. Con người bị nghiệp quả chi phối bởi mãnh lực hay mục đích lưu chuyển qua một tam giác các trung tâm

e. Man is karmically governed by the life energy or purposeful will of the planetary Logos Himself.

e. Con người bị nghiệp quả chi phối bởi sinh khí hay ý chí mục đích của chính Hành Tinh Thượng đế Tự Ngài.

f. Finally man is karmically governed by the will of the Solar Logos as it demonstrates itself in initiatory activity—setting fundamental rhythms to which all lives within a solar system must, perforce, respond.

f. Sau cùng, con người bị nghiệp quả chi phối bởi ý chí của Thái dương Thượng đế khi ý chí ấy tự biểu hiện qua hoạt động điểm đạo—thiết lập những nhịp điệu nền tảng mà mọi sự sống trong một hệ mặt trời ắt phải đáp ứng.

Beyond this we need hardly go, but enough has been said to show that every human atom is under the dominance of forces outside his own consciousness, which sweep him and others into situ­a­tions from which there is no escape, and which are to him incomprehensible.

Vượt ra ngoài điều này, chúng ta hầu như không cần đi tiếp, nhưng bấy nhiêu cũng đủ cho thấy rằng mọi nguyên tử nhân loại đều bị chi phối bởi những mãnh lực ở ngoài phạm vi tâm thức của y, vốn cuốn y và kẻ khác vào những ho àn cảnh mà không thể thoát ra, và vốn đối với y là bất khả thấu hiểu.

404. There is no freewill in relation to such governance. There is no escape from it. And, there is no understanding of the true nature and origin of such karmic causes. Man has, perforce, to accept them and make the best of them, using them to improve the quality of his consciousness and skillful response to circumstance.

404. Không có ý chí tự do nào liên quan đến sự chi phối như vậy. Không có lối thoát khỏi nó. Và, không có sự hiểu biết về bản chất thật và nguồn gốc của những nguyên nhân nghiệp quả ấy. Con người ắt phải chấp nhận chúng và lợi dụng chúng tốt nhất có thể, dùng chúng để cải thiện phẩm chất tâm thức và khả năng ứng xử thiện xảo trước hoàn cảnh.

This has been at no time better illustrated than in the event of the late war and in present world conditions; these are effects of causes having their origin in the renewed activity of a certain planetary triangle, and in the vibration set up by our planetary Logos on the moon-chain, [804] and which had a faint beginning in an earlier solar system.

Chưa bao giờ điều này được minh họa rõ hơn là trong biến cố của cuộc đại chiến vừa qua và trong các điều kiện thế giới hiện nay; đây là những hiệu quả của các nguyên nhân có nguồn gốc trong hoạt động được làm mới của một tam giác hành tinh nào đó, và trong rung động được thiết lập bởi Hành Tinh Thượng đế của chúng ta trên Dãy Mặt Trăng,  [804]  và vốn đã manh nha mờ nhạt trong một hệ mặt trời trước kia,

405. When DK speaks here of a “certain planetary triangle” we do not know whether the triangle is intra-planetary (and thus within the planetary scheme and perchance involving planetary chains or certain globes) or extra-planetary (thus involving the Earth and two to three other Planetary Logoi.

405. Khi Chân sư DK nói ở đây về “một tam giác hành tinh nào đó” chúng ta không biết liệu tam giác ấy là nội- hành tinh (vậy là nằm trong hệ hành tinh và có thể liên quan đến các dãy hay một số bầu hành tinh) hay là ngoại-hành tinh (tức liên quan đến Trái Đất và hai hay ba Hành Tinh Thượng đế khác).

406. We are alerted to the fact that this triangle was active prior to the period of the First WW, perhaps ages ago for the activity of this triangle has been “renewed”.

406. Chúng ta được cảnh báo rằng tam giác này đã hoạt động trước thời kỳ Thế chiến thứ nhất, có lẽ từ rất lâu, vì hoạt động của tam giác này đã được “làm mới”.

407. We might expect that such planets as Mars, Vulcan and Pluto were active, and Venus as well (offering the ideal of the soul).

407. Chúng ta có thể kỳ vọng rằng các hành tinh như Sao Hỏa, Vulcan và Sao Diêm Vương đã hoạt động, và cả Sao Kim nữa (đưa ra lý tưởng của linh hồn).

408. The vibration established upon on the Moon-chain was probably not a positive vibration and may have had its effective origin in the previous solar system.

408. Rung động được thiết lập trên Dãy Mặt Trăng có lẽ không phải là một rung động tích cực và có thể đã có nguồn gốc hữu hiệu từ hệ mặt trời trước.

409. Thus, another triangle can be inferred: influences from the previous solar system; influences originating on the Moon-chain; conditions (resonant to both these antecedent causes) existent on our planet at the time of the war.

409. Do đó, có thể suy ra một tam giác khác: các ảnh hưởng từ hệ mặt trời trước; các ảnh hưởng phát sinh trên Dãy Mặt Trăng; các điều kiện (cộng hưởng với cả hai nguyên nhân tiền đề này) tồn tại trên hành tinh chúng ta vào thời chiến.

410. Is DK suggesting something about the functioning of our Planetary Logos in a previous solar system? We have many times gathered that the Planetary Logos of the Earth did, indeed, exist in the immediately previous solar system as did certain other planets, such as Mercury and, certainly, Saturn.

410. Chân sư DK có đang gợi ý điều gì về sự vận hành của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta trong một hệ mặt trời trước không? Chúng ta đã nhiều lần thu thập được rằng Hành Tinh Thượng đế của Trái Đất quả thực đã tồn tại trong hệ mặt trời ngay trước đó, như một số hành tinh khác—chẳng hạn Sao Thủy và, chắc chắn, Sao Thổ.

411. We gather that the forceful arising of certain ancient vibrations (possibly evoked by the approach of the Good—as “Perfection calls imperfection to the surface”) were responsible for WWI and its continuation as WWII—both constituting the “Great War”.

411. Chúng ta nhận thấy rằng sự trỗi dậy mạnh mẽ của một số rung động cổ xưa (có thể được gợi lên bởi sự tiến gần của Thiện—“Sự Hoàn Thiện kêu gọi sự bất toàn trồi lên bề mặt”) đã là nguyên nhân của Thế chiến thứ nhất và sự tiếp diễn của nó thành Thế chiến thứ hai—cả hai hợp thành “Đại Chiến”.

This vibration impinged primarily upon certain atoms and groups of atoms in His body, principally those composing the human and animal kingdoms, and produced the apparently dire results which we have been witnessing.

Rung động này chủ yếu tác động lên một số nguyên tử và nhóm nguyên tử nhất định trong Thân thể của Ngài, chủ yếu là những nguyên tử cấu thành giới nhân loại và giới động vật, và đã tạo ra những kết quả có vẻ khắc nghiệt mà chúng ta đã và đang chứng kiến.

412. The atoms here mentioned are human and animal units.

412. Các “nguyên tử” được nhắc đến ở đây là các đơn vị nhân loại và thú vật.

413. The atoms upon which the vibration impinged must have been peculiarly responsive to that vibration. May they have been atoms characterized to a high degree by selfishness (i.e., atoms highly conditioned by the lunar nature rather than the solar)?

413. Những nguyên tử bị rung động ấy tác động hẳn đã đặc biệt đáp ứng với rung động đó. Có thể chăng chúng là những nguyên tử bị đặc trưng ở mức độ cao bởi tính ích kỷ (tức là những nguyên tử bị điều kiện hóa mạnh bởi bản chất nguyệt thay vì thái dương)?

So great was the effect of His energy, that the vegetable kingdom was somewhat (though not so much) affected, and the mineral kingdom felt the effect in a startling manner,

Mãnh liệt đến nỗi tác động của sinh lực của Ngài , khiến cho giới thực vật cũng bị ảnh hưởng phần nào (dù không nhiều bằng), và giới kim thạch thì cảm nhận tác động ấy theo một cách gây kinh ngạc,

414. Nuclear chain reactions are “startling”.

414. Các phản ứng dây chuyền hạt nhân là “gây kinh ngạc”.

far more than the vegetable kingdom and almost as much as the animal.

còn mạnh hơn nhiều so với giới thực vật và gần như ngang bằng với giới động vật.

415. Mars is largely the ruler of the animal kingdom, and, thus, the thought of its involvement as part of the planetary triangle mentioned.

415. Sao Hỏa phần lớn là chủ tinh của giới động vật, và, do đó, nghĩ đến sự tham gia của nó như một phần của tam giác hành tinh đã đề cập là điều dễ hiểu.

416. Vulcan is the ruler of the mineral kingdom, hence, likewise, the reason for including it within the proposed planetary triangle.

416. Vulcan là chủ tinh của giới kim thạch, vì vậy, cũng có lý do để đưa nó vào tam giác hành tinh giả định.

417. Or, perhaps there have been chains and globes responsive to such planetary influences.

417. Hoặc, có lẽ đã có những dãy và những bầu đáp ứng với các ảnh hưởng hành tinh như vậy.

418. The vegetable kingdom is ruled by Venus. To what extent should Venus be implicated in that war, except for the fact that it represents the emergent soul in humanity?

418. Giới thực vật do Sao Kim cai quản. Sao Kim nên được quy kết đến mức nào trong cuộc chiến đó, ngoại trừ việc nó đại diện cho linh hồn đang trỗi dậy trong nhân loại?

419. We may further conclude that our Planetary Logos, Himself, was very much involved in impulsing the first phase of the Great War.

419. Chúng ta có thể kết luận thêm rằng chính Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đã tham dự rất sâu vào việc phát động giai đoạn đầu của Đại Chiến.

Here we have a setting of circumstances outside human and even group control, which illustrates the helplessness of man in certain conditions,

Ở đây chúng ta có một bối cảnh những hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của con người và thậm chí cả của nhóm, điều này minh họa sự bất lực của con người trong những điều kiện nhất định,

420. Millions of human beings were the victims of an enforced sacrifice, necessitated through the imposition of the Will of the Planetary Logos, and other equally high (and probably still greater) sources of Will.

420. Hàng triệu con người là nạn nhân của một sự hy sinh bị ép buộc, do sự áp đặt của Ý Chí của Hành Tinh Thượng đế, và của các nguồn Ý Chí khác cũng cao cả (và có lẽ còn vĩ đại hơn).

421. Not only could man not control the circumstances which drove him into inevitable sacrifice, but groups, as well, could not exert any control.

421. Không những con người không thể kiểm soát các hoàn cảnh đã đẩy y vào sự hy sinh tất yếu, mà các nhóm cũng không thể tác động bất kỳ kiểm soát nào.

and which serves to bring in factors apparently apart from the individual vibration of the fourth kingdom.

và điều đó đưa vào các yếu tố dường như tách rời khỏi rung động cá nhân của giới thứ tư.

422. DK has been enumerating various energies and forces which affect the human unit and the human kingdom and over which no human control can possibly be exerted. This is part of His attempt to indicate the greater and often more remote causes of the karmic conditions presently facing the human kingdom and the individual human being.

422. Chân sư DK đã liệt kê nhiều loại năng lượng và mãnh lực tác động đến đơn vị nhân loại và giới nhân loại mà không hề có khả năng kiểm soát nào từ phía con người. Đây là một phần nỗ lực của Ngài nhằm chỉ ra các nguyên nhân lớn lao hơn và thường xa xôi hơn của những điều kiện nghiệp quả mà hiện nay giới nhân loại và từng con người đang đối mặt.

Nevertheless, within limits, man definitely does “control his destiny,” and can initiate action which produces effects recog­nisable by him as being dependent upon his activity along a particular line.

Tuy nhiên, trong những giới hạn nhất định, con người quả quyết “kiểm soát định mệnh của mình,” và có thể khởi xướng hành động tạo ra những hiệu quả có thể được nhận ra bởi y là tùy thuộc vào hoạt động của y theo một đường hướng nhất định,

423. Though individual man is helpless to alter the course of great causes arising from great systemic and cosmic sources, he does, at least, have some control over his individual destiny.

423. Dù con người riêng lẻ bất lực trong việc thay đổi dòng chảy của những nguyên nhân lớn lao khởi phát từ các nguồn hệ thống và vũ trụ vĩ đại, thì ít nhất y cũng có một phần kiểm soát đối với định mệnh cá nhân của mình.

424. When dealing with karma, we are always dealing with the principle of limitation and the energy and force of the planet which sets limits—Saturn.

424. Khi xử lý nghiệp quả, chúng ta luôn xử lý với nguyên khí giới hạn và với năng lượng cùng mãnh lực của hành tinh vốn đặt định các giới hạn—Sao Thổ.

425. It is important for the human being to develop a balanced attitude, recognizing those conditions and circumstances over which he has no possible control and those over which he may exert a degree of control.

425. Điều quan trọng là con người phát triển một thái độ quân bình, nhận ra những điều kiện và hoàn cảnh mà y hoàn toàn không thể kiểm soát, và những điều kiện mà y có thể tác động ở một mức độ nào đó.

426. To say this reminds one of the Serenity Prayer of St. Francis, who, according to reasonable astrological hypothesis was a Libran—perhaps the major sign of karma and one in which the planet Saturn has unique potency.

426. Nói như vậy làm người ta nhớ đến Lời Nguyện Bình An của Thánh Francis, người mà theo giả thuyết chiêm tinh hợp lý thì thuộc Thiên Bình—có lẽ là dấu hiệu chủ yếu của nghiệp quả và là dấu hiệu mà hành tinh Sao Thổ có uy lực độc đáo.

He does, on a miniature scale, repeat the procedure of the Logos on a vaster scale, and thus is the arbiter of his own destiny, the producer of his own drama, the architect of his own home, and the initiator of his own affairs.

Y thực hiện, ở một tầm vi mô, thủ tục mà Thượng đế thực hiện ở tầm vĩ mô, nhờ đó y là người định đoạt định mệnh của chính mình, người tạo tác vở kịch của chính mình, kiến trúc sư của ngôi nhà của chính mình, và là kẻ khởi xướng các công việc của chính mình.

427. DK discusses the control which man may exert upon his own destiny in a variety of ways. Let us tabulate them for impact: Within limits, man is—

427. Chân sư DK bàn đến sự kiểm soát mà con người có thể tác động trên định mệnh của chính mình theo nhiều cách. Chúng ta hãy liệt kê để tạo ấn tượng: Trong những giới hạn nhất định, con người là—

a. The arbiter of his own destiny

a. Người định đoạt định mệnh của chính mình

b. The producer of his own drama. Is he the author and director as well?

b. Người tạo tác vở kịch của chính mình. Y cũng là tác giả và đạo diễn chăng?

c. The architect of his own home. ‘You built your house. Now live in it.’ ‘You made your own bed. No lie in it.’

c. Kiến trúc sư của ngôi nhà của chính mình. “Anh tự xây nhà mình. Giờ hãy sống trong đó.” “Giường do anh dọn, anh phải nằm.”

d. The initiator of his own affairs.

d. Kẻ khởi xướng các công việc của chính mình.

428. We gather from what is said that, as human beings, we are both controlling and controlled and that we must understand the balance between these two conditions.

428. Từ những điều được nói, chúng ta hiểu rằng, với tư cách con người, chúng ta vừa kiểm soát vừa bị kiểm soát, và chúng ta phải thấu hiểu sự quân bình giữa hai tình trạng này.

429. It would behoove us to make lists of those conditions and circumstances over which we seem to have a degree of control and those over which we have none.

429. Sẽ hữu ích nếu chúng ta lập các danh mục về những điều kiện và hoàn cảnh mà chúng ta dường như có một mức độ kiểm soát, và những điều mà chúng ta không có.

Though he may be the meeting place of forces out­side his control, yet he can utilize force, circumstance and en­vironment and can turn them, if he so will, to his own ends.

Dù y có thể là nơi gặp gỡ của những mãnh lực ở ngoài sự kiểm soát của y, y vẫn có thể sử dụng mãnh lực, hoàn cảnh và môi trường, và nếu y muốn, có thể chuyển hướng chúng theo mục đích của riêng mình.

430. We are reminded of the sailor who must sail into the wind. If he knows what he is doing, he may utilize this counterforce to his advantage, thus propelling his craft forward.

430. Điều này khiến ta nhớ đến người thủy thủ phải dong buồm ngược gió. Nếu biết mình đang làm gì, y có thể sử dụng lực đối kháng này để tạo lợi thế, nhờ đó đẩy con thuyền của mình tiến lên.

431. Thus, even if man cannot stem the forces which will impact him, he can, to a degree, utilize such forces in a constructive manner. In his own little sphere, he can turn evil into good, and adversity into advantage.

431. Như vậy, ngay cả khi con người không thể ngăn dòng các mãnh lực sẽ tác động lên y, y vẫn có thể, ở một mức độ, sử dụng các mãnh lực ấy theo cách xây dựng. Trong phạm vi nhỏ của mình, y có thể chuyển dữ thành lành, và nghịch cảnh thành lợi thế.

The working out of karmic law in a man’s own life might be broadly divided into three divisions, in each of which a different type of energy is demonstrating, producing effects upon the lower and higher bodies of a definite nature.

Sự vận hành của định luật nghiệp quả trong chính đời sống của một con người có thể được phân chia rộng ra thành ba phân đoạn , trong mỗi phân đoạn, một loại năng lượng khác nhau đang biểu hiện, tạo ra những hiệu quả có tính xác định trên các thể thấp và cao.

432. In this entire commentary we have been dealing with karma and its working out.

432. Trong toàn bộ bình giảng này, chúng ta đã xử lý nghiệp quả và sự vận hành của nó.

433. DK seeks to help us structure our thought process in relation to this subject.

433. Chân sư DK tìm cách giúp chúng ta cấu trúc tiến trình tư duy liên hệ đến đề tài này.

434. Now we are to consider three divisions applicable to the working out of karmic law in a man’s life.

434. Giờ đây chúng ta sẽ xét ba phân đoạn áp dụng cho sự vận hành của định luật nghiệp quả trong đời một con người.

435. Division One:

435. Phân đoạn Một:

In the very early stages, when man is scarcely more than an animal,

Ở những giai đoạn rất sớm, khi con người hầu như không hơn một con thú,

436. This is the stage of individualized “animal-man”.

436. Đây là giai đoạn “người-thú” vừa được biệt ngã hóa.

the vibratory activity of the atoms of his three sheaths (and of the lowest primarily)

hoạt động rung động của các nguyên tử trong ba thể của y (và chủ yếu là thể thấp nhất)

437. The physical body, primarily…

437. Chủ yếu là thể xác…

governs all actions on his part.

chi phối tất cả hành động của y.

438. Man is entirely governed by his lunar nature and, especially, by the lowest of the four elementals—the physical elemental.

438. Con người hoàn toàn bị bản chất nguyệt của mình chi phối và, đặc biệt, bởi tinh linh thể xác—tinh linh thấp nhất trong bốn hành khí.

He is the victim of the vibratory activity of physical substance, and much that occurs is the [805] conse­quence of the interaction between the Ego and its lowest manifestation, the physical sheath.

Y là nạn nhân của hoạt động rung động của chất liệu thể xác, và nhiều điều xảy ra là [805] hậu quả của sự tương tác giữa Chân ngã và biểu lộ thấp nhất của nó, tức thể xác,

439. Though the stage is primitive, the Ego nevertheless interacts with the man’s life in the three worlds.

439. Dù giai đoạn hãy còn thô sơ, Chân ngã vẫn tương tác với đời sống của con người trong ba cõi.

440. The attention of the Ego on its own plane (such attention as there is) is directed to the physical vehicle.

440. Sự chú ý của Chân ngã trên cõi riêng của nó (chừng nào có) được hướng vào vận cụ thể xác.

441. We note that the man is considered a “victim”. He has very little or no control over his physical substance. He is not self-directing.

441. Chúng ta lưu ý rằng con người được xem là “nạn nhân”. Y rất ít hoặc không có kiểm soát nào trên chất liệu thể xác của mình. Y không tự chủ.

The centre of attention is the physical body and only faintly are the two subtler bodies responding.

Trung tâm của sự chú ý là thể xác và chỉ mờ nhạt hai thể tinh tế hơn mới đáp ứng.

442. The period of development indicated is principally that of the organizing and unfoldment of the first petal of the egoic lotus. The focus is definitely within the first tier of petals. The man is engaged in work within the Hall of Ignorance.

442. Giai đoạn phát triển được chỉ ra chủ yếu là giai đoạn tổ chức và khai mở cánh hoa thứ nhất của Hoa Sen Chân Ngã. Tâm điểm chắc chắn nằm trong vòng cánh hoa thứ nhất. Con người đang làm việc trong Phòng Vô Minh.

443. There is response from the astral body and mental body while within the Hall of Ignorance, but the astral and mental natures are not fully developed until subsequent tiers are unfolded.

443. Có sự đáp ứng của thể cảm dục và thể trí khi còn ở trong Phòng Vô Minh, nhưng các bản chất cảm dục và trí tuệ chưa được phát triển đầy đủ cho đến khi các vòng cánh hoa tiếp theo được khai mở.

The egoic impulse is slow and heavy,

Xung lực của Chân ngã thì chậm và nặng nề,

444. This means that the Ego is only rarely attending to the outer personality and that its impacts are not aimed at producing delicacy of response but only in establishing basic, necessitous conditions.

444. Điều này có nghĩa là Chân ngã chỉ hiếm khi chú tâm vào ngoại phàm ngã và các tác động của nó không nhắm đến việc tạo sự tinh tế trong đáp ứng mà chỉ nhằm thiết lập các điều kiện cơ bản, tất yếu.

and the vibration is directed to producing response between the egoic consciousness and the atoms of the physical body.

và rung động được hướng đến việc tạo đáp ứng giữa tâm thức chân ngã và các nguyên tử của thể xác.

445. The Ego is not attempting to influence or refine the astral and mental bodies. Its work is concentrated upon rendering the physical body increasingly responsive (albeit crudely responsive) to egoic impulses.

445. Chân ngã không cố gắng ảnh hưởng hay tinh luyện các thể cảm dục và thể trí. Công việc của nó tập trung vào việc khiến thể xác ngày càng đáp ứng (dù thô thiển) với các xung lực của chân ngã.

The physical permanent atom is more active than the other two.

Nguyên tử trường tồn thể xác hoạt động nhiều hơn hai nguyên tử kia.

446. This is the case throughout development in the first tier of petals, and, in fact, even until the sixth petal is unfolded, at which time the astral permanent atom is equally vibrant as the physical permanent atom.

446. Điều này đúng suốt quá trình phát triển trong vòng cánh hoa thứ nhất, và thực ra, thậm chí cho đến khi cánh hoa thứ sáu được khai mở, lúc đó nguyên tử trường tồn cảm dục rung động ngang bằng nguyên tử trường tồn thể xác.

It is the aspect of “fire by friction” which is fanned by the egoic breath, with a triple object in view:

Chính phương diện “Lửa ma sát” được hơi thở chân ngã quạt bùng , với ba mục tiêu trước mắt:

447. We note the interesting term “egoic breath” connoting the outgoing influence of the Ego upon the lower sheaths.

447. Chúng ta lưu ý thuật ngữ thú vị “hơi thở chân ngã” hàm chỉ ảnh hưởng phát ra của Chân ngã lên các thể thấp.

448. The term “fanned” is also used. We recall the “fanning of the spark of mind” for which the Solar Angel is responsible.

448. Từ “quạt bùng” cũng được dùng. Chúng ta nhớ đến “quạt bùng tia lửa trí tuệ” mà Thái dương Thiên Thần chịu trách nhiệm.

449. We can conclude that the fanning which occurs in those early days occurs through the emanation of the egoic breath (or, perhaps we could call it the ‘Breath of the Solar Angel’). In this context, egoic breathing is fanning.

449. Chúng ta có thể kết luận rằng việc quạt bùng diễn ra trong những ngày đầu ấy là thông qua xuất lộ của hơi thở chân ngã (hoặc, có thể gọi là ‘Hơi Thở của Thái dương Thiên Thần’). Trong ngữ cảnh này, hô hấp chân ngã chính là quạt bùng.

450. We must remember that fire by friction is not only physical, but is an aspect of energy found within the astral body and lower mental body as well.

450. Chúng ta phải nhớ rằng Lửa ma sát không chỉ là thể xác, mà còn là một phương diện năng lượng cũng có trong thể cảm dục và phần thấp của thể trí.

451. In the early days of the working out of karmic law, the Ego seeks to achieve three results.

451. Trong những ngày đầu của sự vận hành định luật nghiệp quả, Chân ngã tìm đạt ba kết quả.

a. Co-ordinating the physical body.

a. Phối kết thể xác.

452. The physical body of early man was, we are told, ill-coordinated. One of the first necessities was the coordination of the physical body with the etheric body. Success with respect to this coordination was the mark of an early form of initiation.

452. Thể xác của người xưa, như chúng ta được cho biết, vốn kém phối kết. Một trong những nhu cầu đầu tiên là phối kết thể xác với thể dĩ thái. Thành công trong phối kết này là dấu ấn của một dạng điểm đạo sơ kỳ.

b. Increasing the resistance of the etheric web, a work which was only carried to the desired point by the middle of the Atlantean root-race.

b. Gia tăng sức kháng của lưới dĩ thái, một công việc chỉ được đưa tới mức mong muốn vào giữa giống dân gốc Atlantis.

453. We see that millions of years were required to strengthen the resistance of the etheric web.

453. Chúng ta thấy rằng cần hàng triệu năm để gia tăng sức kháng của lưới dĩ thái.

454. If the etheric web was not sufficiently resistant, may we conclude that man was very passive to influences reaching him via the astral plane. Such a condition may well have furthered the psychism for which the Atlanteans were renowned.

454. Nếu lưới dĩ thái không đủ sức kháng, có thể kết luận rằng con người rất thụ động trước những ảnh hưởng đến với y qua cõi cảm dục. Tình trạng như vậy có thể đã thúc đẩy tính thông linh mà người Atlantis nổi tiếng.

455. May the sufficient strengthening of the etheric web have coincided with that period of man’s development when his mental apparatus was growing in strength. We have read that in the middle of the Atlantean rootrace, the foremost members of the human race were becoming increasingly mentally focussed.

455. Phải chăng sự gia cố đủ mức của lưới dĩ thái đã trùng hợp với thời kỳ phát triển mà lúc ấy bộ máy trí tuệ của con người đang tăng trưởng sức mạnh. Chúng ta đã đọc rằng vào giữa giống dân gốc Atlantis, những thành viên tiên phong của nhân loại ngày càng đạt tập trung trí tuệ.

c. Bringing certain of the lower centres to the necessary stage of expression.

c. Đưa một số luân xa thấp đến giai đoạn biểu hiện cần thiết.

456. Why does DK not specify which centers? He may mean the base of the spine center, the sacral center and the solar plexus center, but He may also be including the spleen. There are other, lesser and more ancient centers which it would not be the goal of early man to cultivate but, rather, to see subdued.

456. Vì sao Chân sư DK không chỉ rõ luân xa nào? Ngài có thể muốn nói đến luân xa đáy cột sống, luân xa xương cùng và luân xa tùng thái dương, nhưng Ngài cũng có thể bao gồm cả luân xa lá lách. Có những luân xa khác, nhỏ hơn và cổ xưa hơn, mà mục tiêu của người thuở đầu không phải là nuôi dưỡng mà đúng hơn là khiến chúng được chế ngự.

The heat of the atoms in the bodies is increased during this stage, and their atomic life co-ordinated, while the triangle between the three permanent atoms becomes a demonstra­ble fact and not a faint indication.

Nhiệt của các nguyên tử trong các thể tăng lên trong giai đoạn này, và sinh hoạt nguyên tử của chúng được phối kết, trong khi tam giác giữa ba nguyên tử trường tồn trở thành một thực tại có thể chứng minh chứ không còn chỉ là một dấu hiệu mờ nhạt.

457. Three more effects are found during this first phase of the outworking of karmic law:

457. Có thêm ba hiệu quả nữa xuất hiện trong giai đoạn đầu tiên của sự vận hành định luật nghiệp quả:

a. The heat of the atoms in the three bodies in increased.

a. Nhiệt của các nguyên tử trong ba thể được gia tăng.

b. The atomic life of these atoms is coordinated

b. Sinh hoạt nguyên tử của các nguyên tử này được phối kết

c. The three permanent atoms are related in triangular formation. The triangle, however, is still weak, and will not be strong until the phase of initiation is reached.

c. Ba nguyên tử trường tồn được liên hệ trong một hình tam giác. Tuy nhiên, tam giác vẫn còn yếu, và sẽ không mạnh cho đến khi đạt tới giai đoạn điểm đạo.

458. Thus, six developments in all occur during this first period of karmic expression:

458. Như vậy, tổng cộng sáu phát triển diễn ra trong thời kỳ đầu tiên của biểu hiện nghiệp quả:

a. The physical body is coordinated

a. Thể xác được phối kết

b. The resistance of the etheric web is increased

b. Sức kháng của lưới dĩ thái được gia tăng

c. Certain of the lower centers are brought to a necessary level of expression

c. Một số luân xa thấp được đưa đến mức biểu hiện cần thiết

d. The heat of the atoms in the three bodies is increased.

d. Nhiệt của các nguyên tử trong ba thể được gia tăng.

e. The atomic life of these atoms is coordinated

e. Sinh hoạt nguyên tử của các nguyên tử này được phối kết

d. The three permanent atoms are related in triangular formation

d. Ba nguyên tử trường tồn được liên hệ trong một hình tam giác

459. We are reminded that in each of these three phases, the law of karma or of karmic influence is seeking to effect certain ends within the vehicles of man in the lower three worlds.

459. Chúng ta được nhắc rằng trong mỗi trong ba giai đoạn này, định luật nghiệp quả hay ảnh hưởng nghiệp quả tìm đạt những cứu cánh nhất định trong các vận cụ của con người ở ba cõi thấp.

460. Division Two:

460. Phân đoạn Hai:

During the second stage, the law of karma or karmic influence (through the inevitable reflex action produced by the increased activity of the sheaths) turns its attention to the working out of desire, and its transmutation into the higher aspiration.

Trong giai đoạn thứ hai, định luật nghiệp quả hay ảnh hưởng nghiệp quả (thông qua phản xạ tất yếu do hoạt động gia tăng của các thể) chuyển sự chú ý sang việc khai thác dục vọng, và chuyển hoá nó thành hoài vọng cao hơn,

461. When the outworking with respect to the physical body has been sufficiently accomplished, a reflex action turns the direction and application of the law of karmic influence towards the astral body. The goal is the “working out of desire and its transmutation into the higher aspiration”.

461. Khi sự khai thác liên quan đến thể xác đã được hoàn tất đủ mức, một phản xạ quay hướng sự vận hành và ứng dụng của định luật ảnh hưởng nghiệp quả về phía thể cảm dục. Mục tiêu là “khai thác dục vọng và chuyển hoá nó thành hoài vọng cao hơn”.

462. We may judge that the major focus of egoic attention is the love petals (for the astral plane).

462. Chúng ta có thể ước đoán rằng trọng tâm chú ý của chân ngã là các cánh hoa bác ái (vì cõi cảm dục).

Through experience, the pairs of opposites are recognised by the Thinker, and he becomes no longer the victim of the vibratory impulses of his physical body;

Thông qua kinh nghiệm, các cặp đối cực được Vị Tư tưởng nhận ra , và y không còn là nạn nhân của những xung lực rung động của thể xác mình;

463. We may recall that the recognition of the pairs of opposites is particularly associated with the development and unfoldment of the fourth petal.

463. Chúng ta có thể nhớ rằng nhận ra các cặp đối cực đặc biệt gắn với sự phát triển và khai mở cánh hoa thứ tư.

1. The Petal of Knowledge, for the astral plane; unfoldment is brought about by the conscious balancing of the pairs of opposites, and the gradual utilisation of the Law of Attraction and Repulsion. (TCF 540)

1. Cánh Hoa Tri Thức, cho cõi cảm dục; khai mở được đem lại bởi sự cân bằng một cách có ý thức các cặp đối cực, và dần dà sử dụng Định luật Hấp Dẫn và Đẩy Lùi. (TCF 540)

464. The astral plane is particularly that dimension in the life of man which presents the challenge of duality, and this even though it is the only unitary body of the three personality vehicles.

464. Cõi cảm dục đặc biệt là chiều kích trong đời sống của con người nơi bày ra thách thức nhị nguyên, dù rằng nó là vận cụ nhất thể duy nhất trong ba vận cụ của phàm ngã.

the factor of intelli­gent choice becomes apparent.

yếu tố lựa chọn có trí tuệ trở nên hiển lộ.

465. We will naturally find the presence of Libra, Saturn and the third ray.

465. Chúng ta sẽ tự nhiên thấy sự hiện diện của Thiên Bình, Sao Thổ và cung ba.

466. Man is no longer ignorant. He understands that there are a higher and lower pair of opposites and that he has the choice regarding which of these he will emphasize.

466. Con người không còn vô minh. Y hiểu rằng có một cặp đối cực cao và thấp, và rằng y có lựa chọn về việc y sẽ nhấn mạnh bên nào.

467. His first work is with horizontal pairs of opposites. Later he becomes aware of the vertical pair of opposites—soul and personality.

467. Công việc đầu tiên của y là với các cặp đối cực theo phương ngang. Về sau y ý thức được cặp đối cực theo phương dọc—linh hồn và phàm ngã.

The man begins to discrimi­nate between the pairs of opposites, choosing ever in the early stages that which appeals most to his lower nature and that which he believes will bring him pleasure.

Con người bắt đầu phân biện giữa các cặp đối cực, và trong những giai đoạn sớm, luôn chọn điều hấp dẫn bản chất thấp của y nhất và điều mà y tin rằng sẽ mang lại khoái lạc cho y.

468. Man is confronted with the choice between pleasure and responsibility (which leads ever to the soul).

468. Con người đối mặt với lựa chọn giữa khoái lạc và trách nhiệm (vốn luôn dẫn đến linh hồn).

469. DK emphasizes the thought that, in the beginning, man almost always fails to choose aright. He has not yet learned through bitter experience, to do otherwise.

469. Chân sư DK nhấn mạnh rằng, ban đầu, con người gần như luôn chọn sai. Y chưa học được, qua kinh nghiệm đắng cay, để làm khác đi.

The centre of the attention of the Ego is the astral body,

Trung tâm của sự chú ý của Chân ngã là thể cảm dục,

470. We note that the Ego (in this instance the Solar Angel as the Divine Supervisor) will concentrate progressively upon the different vehicles in ascending order. Now the solar angelic attention is focussed on the astral body.

470. Chúng ta lưu ý rằng Chân ngã (trong trường hợp này là Thái dương Thiên Thần với tư cách Giám Quản Thiêng Liêng) sẽ tập trung dần dần vào các vận cụ khác nhau theo thứ tự đi lên. Giờ đây sự chú ý thiên thần thái dương tập trung vào thể cảm dục.

and it becomes so closely co-ordinated with the physical body that the two form one united expression of desire.

và thể này trở nên phối kết sát với thể xác đến mức cả hai hình thành một biểu lộ hợp nhất của dục vọng.

471. We witness the close coordination of the etheric-physical body and the astral body. This is completed in fulness when the sixth petal is opened, but that lies relatively far ahead of this stage.

471. Chúng ta chứng kiến sự phối kết chặt chẽ của thể dĩ thái–thể xác với thể cảm dục. Điều này được hoàn tất một cách viên mãn khi cánh hoa thứ sáu mở ra, nhưng điều đó còn tương đối xa ở giai đoạn này.

472. At the stage under discussion, the physical body serves the behests of the astral body. The physical nature becomes the immediate servant of desire. Mind, however, slowly enters and provides the necessary “checks and balances”. Mind becomes the instrument of conscious choice.

472. Ở giai đoạn đang xét, thể xác phục vụ mệnh lệnh của thể cảm dục. Bản chất thể xác trở thành kẻ phục dịch tức thì của dục vọng. Tuy nhiên, trí tuệ dần dần xen vào và cung ứng các “kiểm tra và cân bằng” cần thiết. Trí trở thành khí cụ của lựa chọn có ý thức.

The mental body [806] remains comparatively inactive at this stage.

Thể trí [806] vẫn tương đối thụ động ở giai đoạn này.

473. Yet, we have been told that the man is confronted with choice between the pairs of opposites, and this must be a growing tendency, even if, in the beginning, the outcome is a foregone conclusion.

473. Tuy vậy, chúng ta được cho biết rằng con người đối mặt với lựa chọn giữa các cặp đối cực, và đây phải là một xu hướng đang tăng, dù ban đầu kết cục gần như đã được định trước.

The love nature of the Ego is in process of being developed, and this stage is the longest of the three.

Bản chất Tình thương của Chân ngã đang trong tiến trình được phát triển, và giai đoạn này là dài nhất trong ba giai đoạn.

474. We live within a love solar system and upon a planet which, under its second ray soul, will be expressive of love.

474. Chúng ta sống trong một hệ mặt trời Tình thương và trên một hành tinh, dưới linh hồn cung hai, sẽ biểu hiện Tình thương.

475. The love nature of the Ego begins its development even in the second petal (and in the Hall of Ignorance) and continues through the development of the sixth petal (the last of the petals of love for the astral plane). In fact the love nature continues to grow through the opening of all twelve petals.

475. Bản chất Tình thương của Chân ngã khởi phát triển ngay từ cánh hoa thứ hai (và trong Phòng Vô Minh) và tiếp tục xuyên suốt sự phát triển của cánh hoa thứ sáu (cánh hoa cuối của bộ cánh hoa bác ái dành cho cõi cảm dục). Thực vậy, bản chất Tình thương tiếp tục tăng trưởng qua việc khai mở đủ mười hai cánh hoa.

It deals with the evolution of the petals of the egoic lotus, and with the blending of solar fire and of fire by friction.

Nó liên hệ đến sự tiến hóa của các cánh hoa của Hoa Sen Chân Ngã , và đến sự hòa trộn của Lửa Thái dương với Lửa ma sát.

476. To a certain extent, all the petals of the egoic lotus relate to the love nature, just as the three permanent atoms (i.e., the atomic triangle) relate to the intelligence aspect and the Jewel in the Lotus to the will aspect.

476. Đến một mức độ nào đó, mọi cánh hoa của Hoa Sen Chân Ngã đều liên hệ với bản chất Tình thương, cũng như ba nguyên tử trường tồn (tức tam giác nguyên tử) liên hệ với phương diện trí tuệ, và Viên Ngọc trong Hoa Sen liên hệ với phương diện ý chí.

477. With the unfolding of the second tier of petals, solar fire is blended with fire by friction, but this blending continues throughout the unfoldment of the sacrifice petals during which the process of initiation commands the attention of the human being. Even between the third and fourth initiation, when the synthesizing planets are opening completely, the quality of love continues to grow.

477. Với sự khai mở vòng cánh hoa thứ hai, Lửa Thái dương được hòa trộn với Lửa ma sát, nhưng sự hòa trộn này tiếp diễn suốt thời kỳ khai mở các cánh hoa hy sinh, trong đó tiến trình điểm đạo thu hút sự chú tâm của con người. Ngay cả giữa lần điểm đạo thứ ba và thứ tư, khi các hành tinh tổng hợp mở ra hoàn toàn, phẩm chất Tình thương vẫn tiếp tục tăng trưởng.

Reflex action between the lower and the higher during this middle period produces three effects, which will be seen, if carefully studied to convey much information anent the work­ing out of the law of Karma.

Phản xạ giữa thấp và cao trong giai đoạn giữa này tạo ra ba hiệu quả, nếu được nghiên cứu kỹ sẽ thấy truyền đạt nhiều thông tin liên hệ đến sự vận hành của định luật Nghiệp quả.

478. During this second phase, man is far more conscious of karmic law and of the manner in which the quality of his choices determine the effects which he experiences as karmic repercussion or beneficence.

478. Trong giai đoạn thứ hai này, con người ý thức hơn nhiều về định luật nghiệp quả và về cách phẩm chất các lựa chọn của y quyết định những hiệu quả mà y trải nghiệm như là sự dội lại nghiệp quả hay ân phước.

479. During this stage man becomes increasingly aware of being torn between the pairs of opposites. He also recognizes that he need not be helplessly torn, but, upon the Battlefield of Kurukshetra, may throw his will upon the side of the soul and of spiritual values.

479. Trong giai đoạn này con người ngày càng ý thức rằng mình bị kéo căng giữa các cặp đối cực. Y cũng nhận ra rằng y không cần bị xé toạc một cách bất lực, mà trên Chiến Trường Kurukshetra, y có thể đặt ý chí mình về phía linh hồn và các giá trị tinh thần.

These three effects are:

Ba hiệu quả đó là:

1. The development of the astral permanent atom with a concurrent stimulation of the physical permanent atom, and thus the growth and evolution of the two sheaths concerned.

1. Sự phát triển của nguyên tử trường tồn cảm dục kèm theo sự kích thích đồng thời của nguyên tử trường tồn thể xác, và do vậy là sự tăng trưởng và tiến hóa của hai thể có liên hệ.

480. In this second phase of the expression of karmic law, both the astral permanent atom and physical permanent atom are stimulated.

480. Trong giai đoạn thứ hai của biểu hiện định luật nghiệp quả, cả nguyên tử trường tồn cảm dục lẫn nguyên tử trường tồn thể xác đều được kích thích.

481. The astral permanent atom is stimulated to the fullest extent by the time the second tier is fully opened.

481. Nguyên tử trường tồn cảm dục được kích thích đến mức tối đa vào lúc vòng cánh hoa thứ hai mở trọn.

2. The co-ordination of the threefold man through the innate vitality of the astral body and its effect upon the mental and the physical.

2. Sự phối kết của con người tam phân thông qua sinh khí tiềm hữu của thể cảm dục và ảnh hưởng của nó lên thể trí và thể xác.

482. The first stages of personality integration are reached.

482. Những giai đoạn đầu của sự tích hợp phàm ngã được đạt tới.

483. We note that the astral body has an effect both upon the physical body and mental body. The physical body is compelled by desire and the mental body is stimulated by focused desire and then aspiration.

483. Chúng ta lưu ý rằng thể cảm dục có ảnh hưởng cả lên thể xác lẫn thể trí. Thể xác bị dục vọng sai khiến và thể trí được kích thích bởi dục vọng tập trung rồi hoài vọng.

484. In our study of the petals we noticed that a high stage of personality integration was reached with the development of the fifth petal.

484. Trong nghiên cứu về các cánh hoa, chúng ta nhận thấy một trình độ cao của sự tích hợp phàm ngã đạt được với sự phát triển của cánh hoa thứ năm.

This is the kama-mana­sic period,

Đây là thời kỳ trí-cảm,

485. Thus it is ruled by Venus, just as the first period was ruled by Mars.

485. Vậy nên nó do Sao Kim chi phối, cũng như thời kỳ thứ nhất do Sao Hỏa chi phối.

and as this body is the only com­plete sphere in the threefold lower man,

và vì thể này là lĩnh vực hình cầu duy nhất hoàn chỉnh trong con người tam phân ở hạ giới,

486. The physical body and mental body are, we realize, divided into physical and etheric sections and into lower and higher mental sections.

486. Chúng ta hiểu rằng thể xác và thể trí đều phân đôi: thể xác có phần hồng trần và dĩ thái, thể trí có phần hạ trí và thượng trí.

it is the most power­ful body inherently for it embodies (as does the solar system) the heart aspect, or embryonic love nature,

nó là thể có uy lực nhất về mặt tự hữu, vì nó hàm chứa (như hệ mặt trời vậy) phương diện trái tim, hay bản chất Tình thương phôi thai,

487. The soul nature is reflected in the astral body as the personality is in the physical body and the Monad in the mental body.

487. Bản chất linh hồn được phản chiếu trong thể cảm dục như phàm ngã được phản chiếu trong thể xác và Chân thần trong thể trí.

which it is the object of macrocosmic and microcosmic evolution to develop.

mà mục đích của tiến hóa vĩ mô và vi mô là để phát triển.

488. Generically, the astral body is most attuned with the quality which the Planetary Logos seeks to develop upon the planet and which the Solar Logos seeks to express throughout His solar system—the quality of Love.

488. Nói chung, thể cảm dục hoà điệu nhất với phẩm tính mà Hành Tinh Thượng đế tìm phát triển trên hành tinh, và Thái dương Thượng đế tìm biểu hiện trong toàn hệ mặt trời của Ngài—phẩm tính Tình thương.

3. Finally the unfoldment of the nine egoic petals in three stages.

3. Sau cùng là sự khai mở chín cánh hoa của Hoa Sen Chân Ngã qua ba giai đoạn.

489. The second division of karmic expression includes, it seems, the development of the nine petals of the egoic lotus, and thus leads to the third initiation.

489. Phân đoạn thứ hai của biểu hiện nghiệp quả bao gồm, xem ra, sự phát triển chín cánh hoa của Hoa Sen Chân Ngã, và như thế dẫn đến lần điểm đạo thứ ba.

490. This second division or phase is, we see, not a strictly emotional phase, as during the stage of the unfoldment of the sacrifice petals, initiation is pursued and the mental nature is brought to a high stage of development.

490. Phân đoạn hay giai đoạn thứ hai này không phải là một giai đoạn thuần túy cảm xúc, vì trong giai đoạn khai mở các cánh hoa hy sinh, con đường điểm đạo được theo đuổi và bản chất trí tuệ được đưa đến một trình độ phát triển cao.

491. Yet from a higher perspective, this phase may still be called “kama-manas”, and that stage may end only with the fourth initiation, when the causal body (under Venus, the planet of kama-manas) disappears.

491. Tuy nhiên từ một viễn cảnh cao hơn, giai đoạn này vẫn có thể được gọi là “trí-cảm”, và giai đoạn đó có thể chỉ kết thúc với lần điểm đạo thứ tư, khi thể nguyên nhân (dưới Sao Kim, hành tinh của trí-cảm) biến mất.

In the working out of the law we must therefore note that man is first of all the victim of the impulses of dense sub­stance or of the brahma aspect, and thus repeats rapidly the evolutionary process of the preceding solar system; in the second stage he is the victim of desire, or of his own love nature.

Trong sự vận hành của định luật, vì thế chúng ta phải lưu ý rằng con người trước hết là nạn nhân của những xung lực của chất đậm đặc hay của phương diện Brahma, và như thế nhanh chóng lặp lại tiến trình tiến hóa của hệ mặt trời trước; trong giai đoạn thứ hai y là nạn nhân của dục vọng, hay của bản chất Tình thương của chính y.

492. In both phases thus far under discussion, the man if the victim of impulses he cannot control.

492. Trong cả hai giai đoạn đã bàn, con người là nạn nhân của những xung lực mà y không thể kiểm soát.

493. In the Hall of Ignorance the man recapitulates the development pursued during the previous solar system (and for some, upon the Moon-chain).

493. Trong Phòng Vô Minh con người lặp lại sự phát triển đã theo đuổi trong hệ mặt trời trước (và đối với một số người, trên Dãy Mặt Trăng).

494. In the second phase of the working out of karmic law, the man is the victim of his desire nature, a reflection of his love nature.

494. Trong giai đoạn thứ hai của sự vận hành định luật nghiệp quả, con người là nạn nhân của bản chất dục vọng của y, một phản ảnh của bản chất Tình thương của y.

495. Shall we say that this is the case even as the last tier of petals is being unfolded? Until the will aspect comes strongly into prominence, it is, indeed, the case, even though during the development of the sacrifice tier, the man is developing a high mentality and responsiveness to the soul.

495. Chúng ta có nên nói rằng điều này vẫn đúng ngay cả khi vòng cánh hoa cuối cùng đang được khai mở? Cho đến khi phương diện ý chí nổi bật mạnh mẽ, điều đó quả thực là như vậy, dù trong lúc phát triển bộ cánh hoa hy sinh, con người đang phát triển một trí tuệ cao và khả năng đáp ứng với linh hồn.

496. Division Three:

496. Phân đoạn Ba:

In the third stage, the law of karma works through a man’s mental nature, and awakens in him recognition of the law, and an intellectual apprehension of cause and of effect.

Trong giai đoạn thứ ba, định luật nghiệp quả vận hành thông qua bản chất trí tuệ của con người, và đánh thức nơi y sự nhận biết về định luật, và một sự nắm bắt trí tuệ về nhân và về quả,

497. To a certain extent, this stage of development is occurring during the development of the final tier of petals, the sacrifice tier, yet there may be sufficient mentality even during the development of the second tier for a useful apprehension of cause and of effect to occur.

497. Ở một mức độ nào đó, giai đoạn phát triển này đang diễn ra trong lúc phát triển vòng cánh hoa cuối, tức vòng hy sinh, tuy vậy có thể đã có đủ trình độ trí tuệ ngay trong khi phát triển vòng cánh hoa thứ hai để một sự nắm bắt hữu ích về nhân và quả xảy ra.

498. The man is becoming responsive to a higher will than his personal will, and is able to restrain both his desire and aspiration by conscious, intellectual realization reinforced by the power of spiritual will.

498. Con người đang trở nên đáp ứng với một ý chí cao hơn ý chí cá nhân của y, và có thể kiềm chế cả dục vọng và hoài vọng bằng sự nhận thức có ý thức, có tính trí tuệ, được gia cường bởi quyền năng của ý chí tinh thần.

This is the shortest stage but is also the most powerful; it concerns the evolution of the three inner [807] petals shielding the “jewel,”

Đây là giai đoạn ngắn nhất nhưng cũng là uy lực nhất; nó liên quan đến sự tiến hóa của ba cánh hoa bên trong  [807]  che chở “viên ngọc,”

499. If the second phase in the working out of karma leads to the unfoldment of all nine petals of the egoic lotus, then the final stage (concerned with the evolution of the three synthesis petals shielding the Jewel in the Lotus) must necessarily occur from the period of the third initiation until the fourth. At least this will be the focal period for stage three.

499. Nếu phân đoạn thứ hai trong sự vận hành của nghiệp quả dẫn đến sự khai mở đủ chín cánh hoa của Hoa Sen Chân Ngã, thì giai đoạn sau cùng (liên hệ đến sự tiến hóa của ba cánh hoa tổng hợp che chở Viên Ngọc trong Hoa Sen) ắt hẳn diễn ra từ giai kỳ của lần điểm đạo thứ ba cho đến lần thứ tư. Ít nhất đó sẽ là thời kỳ trọng tâm của giai đoạn ba.

500. This is the period of true mental polarization during which the man can actually spiritually discern causes and their effects—karmically considered.

500. Đây là thời kỳ phân cực trí tuệ chân chính trong đó con người thực sự có thể một cách tinh thần phân biện các nguyên nhân và hiệu quả của chúng—xét theo nghiệp quả.

501. We see that the period following the third initiation is highly mental in nature, even though the intuition is being cultivated.

501. Chúng ta thấy rằng thời kỳ theo sau lần điểm đạo thứ ba có tính chất rất trí tuệ, dù trực giác đang được tu dưỡng.

and their ability to disclose at the right moment that which lies hidden.

và khả năng của chúng để tiết lộ vào đúng thời điểm điều vốn ẩn tàng.

502. That “right moment” occurs just before the fourth initiation.

502. “Đúng thời điểm” đó xảy ra ngay trước lần điểm đạo thứ tư.

It covers the period of the evolution of advanced man, and of the man upon the Path.

Nó bao trùm thời kỳ tiến hóa của con người tiến bộ, và của con người trên Thánh Đạo.

503. In DK’s presentation of this subject we see that there is some overlap between the phases.

503. Trong trình bày của Chân sư DK về đề tài này, chúng ta thấy có một số chồng lấn giữa các giai đoạn.

504. Phase two takes a man to the unfoldment of nine of the petals and thus to the third initiation.

504. Giai đoạn hai đưa con người đến sự khai mở đủ chín cánh hoa và như thế đến lần điểm đạo thứ ba.

505. Yet, if it is true that phase three covers the period of evolution of “advanced man and of man upon the Path”, it includes all the work done on the sacrifice petals, at which time the first three initiations are experienced and the synthesis petals begin to open, disclosing as they do ever more of the central Jewel.

505. Tuy nhiên, nếu đúng là giai đoạn ba bao trùm thời kỳ tiến hóa của “con người tiến bộ và của con người trên Thánh Đạo”, thì nó bao gồm tất cả công việc thực hiện trên các cánh hoa hy sinh, vào lúc đó ba lần điểm đạo đầu tiên được trải nghiệm và các cánh hoa tổng hợp bắt đầu mở, phơi bày ngày càng nhiều hơn Viên Ngọc trung tâm.

506. We can divide the three stages, basically, into physical, emotional and mental, but DK extends the second period to the third initiation, and includes in the third period those phases of development which begin even before the first initiation, for it is advance man who makes application to the first initiation.

506. Về cơ bản, chúng ta có thể phân chia ba giai đoạn thành thể xác, cảm xúc và trí tuệ, nhưng Chân sư DK mở rộng giai đoạn hai đến lần điểm đạo thứ ba, và bao gồm trong giai đoạn ba những pha phát triển bắt đầu ngay cả trước lần điểm đạo thứ nhất, vì chính con người tiến bộ là kẻ nộp đơn xin lần điểm đạo thứ nhất.

507. The general picture, however, remains clear, if we retain the divisions of physical, emotional, mental.

507. Tuy nhiên, bức tranh tổng quát vẫn rõ ràng, nếu chúng ta giữ các phân chia: thể xác, cảm xúc, trí tuệ.

In connection with the human family it covers the first half of the next round, prior to the great separation.

Liên hệ với gia đình nhân loại, nó bao trùm nửa đầu của vòng tuần hoàn tới, trước cuộc phân ly vĩ đại.

508. It is at that time that man will truly be able to discriminate cause from effect and will be truly mentally focussed.

508. Khi ấy con người sẽ thực sự có thể phân biệt nhân với quả và thực sự tập trung trí tuệ.

509. This realization may cause us to pause and reflect. At his present stage of development, man is, largely, a very emotional being.

509. Nhận thức này có thể khiến chúng ta dừng lại và suy gẫm. Ở giai đoạn phát triển hiện tại, con người phần lớn là một sinh vật rất cảm xúc.

Electric fire is beginning to make its radiations felt,

Lửa điện bắt đầu khiến các bức xạ của nó được cảm nhận,

510. It does so at the first initiation, but even more emphatically at the third.

510. Nó làm như vậy ở lần điểm đạo thứ nhất, nhưng còn nhấn mạnh hơn ở lần thứ ba.

and the will or purpose of the Ego is now consciously realised upon the physical plane.

và ý chí hay mục đích của Chân ngã giờ đây được ý thức một cách tự giác trên cõi hồng trần.

511. It is the initiate of the third degree who realizes the will or purpose of the Ego while in his physical plane consciousness.

511. Chính điểm đạo đồ bậc ba là người nhận biết ý chí hay mục đích của Chân ngã trong khi còn ở tâm thức cõi hồng trần của mình.

The three permanent atoms form a triangle of light, and the petals of the lotus are rapidly unfolding.

Ba nguyên tử trường tồn hình thành một tam giác ánh sáng, và các cánh hoa của hoa sen nhanh chóng khai mở.

512. This rapid unfoldment occurs as the third initiation is approached, with the synthesis petals unfolding more fully after the third degree.

512. Sự khai mở nhanh chóng này diễn ra khi bước gần đến lần điểm đạo thứ ba, với các cánh hoa tổng hợp mở trọn hơn sau bậc ba.

When the will and purpose of the Ego are realised by man in his waking con­scious­ness in the physical brain, then the law of karma in the three worlds is becoming neutralised, and man is on the verge of liberation.

Khi ý chí và mục đích của Chân ngã được nhận biết bởi con người trong ý thức tỉnh khi ở trong bộ não hồng trần, thì định luật nghiệp quả trong ba cõi đang dần được trung hòa, và con người đang bên bờ giải thoát.

513. To be “on the verge of liberation” is to have achieved the third degree and to be moving towards the fourth.

513. “Bên bờ giải thoát” là đã đạt bậc ba và đang tiến về bậc bốn.

514. It is not that the will and purpose of the Ego are inferred or imagined; they are actually realized. The power of Venus is (in relation to Capricorn) offsetting the personality effects of Saturn. Man is becoming a conscious soul in incarnation.

514. Không phải là ý chí và mục đích của Chân ngã được suy diễn hay tưởng tượng; chúng thực sự được nhận biết. Quyền lực của Sao Kim (trong tương quan với Ma Kết) đang hóa giải các hiệu ứng phàm ngã của Sao Thổ. Con người đang trở thành một linh hồn ý thức khi nhập thể.

He has exhausted the initial vibration,

Y đã cạn kiệt rung động sơ khởi,

515. This is the lunar vibration.

515. Đây là rung động nguyệt,

and there is no response within his sheaths to the threefold vibration of the three worlds; he stands freed from the three kingdoms and the fourth.

và không còn có sự đáp ứng nào trong các thể của y đối với rung động tam phân của ba cõi; y đứng tự do khỏi ba giới và giới thứ tư.

516. The last sentence tells us that the man has achieved the fourth degree because even the initiate of the third degree does not stand free of the three kingdoms and the fourth.

516. Câu cuối cho biết con người đã đạt bậc bốn vì ngay cả điểm đạo đồ bậc ba cũng chưa đứng tự do khỏi ba giới và giới thứ tư.

Scroll to Top