Bình Giảng về Lửa Vũ Trụ S7S9 Part III (844-849)

TCF 844-849: S7S9 Part III

18 July – 1 August 2008

18 Tháng Bảy – 1 Tháng Tám 2008

It might here be noted that the planetary Entity [see #11, above] is the sumtotal of all the elemental lives of the lesser Builders function­ing as, or forming, the substance of any particular globe in phy­sical objectivity.

Cần lưu ý ở đây rằng Thực thể Hành tinh [xem #11, ở trên] là tổng thể của tất cả các sự sống hành khí thuộc các Tiểu Kiến Tạo đang vận hành như, hoặc cấu thành, chất liệu của bất kỳ bầu hành tinh nào trong tình trạng khách quan hồng trần,

1. The “planetary Entity” is a massive but low order of life.

1. “Thực thể Hành tinh” là một dạng sự sống đồ sộ nhưng thuộc hạng thấp.

2. Within any planetary scheme there are, therefore, many planetary Entities, yet it may be presumed that (as regards the process occurring within any planetary scheme) all of these may be viewed together as one “planetary Entity”.

2. Trong bất kỳ hệ hành tinh nào cũng có, do đó, nhiều Thực thể Hành tinh; tuy vậy có thể suy định rằng (xét về tiến trình đang diễn ra trong bất kỳ hệ hành tinh nào) tất cả các Thực thể ấy có thể được xem chung như một “Thực thể Hành tinh”.

3. Elemental lives are not only physical (i.e., to be found upon the systemic physical plane), but are found on all the planes with the physical body of a Planetary Logos (or Solar Logos).

3. Các sự sống hành khí không chỉ là hồng trần (tức được tìm thấy trên cõi hồng trần hệ mặt trời), mà còn hiện diện trên mọi cõi nằm trong thể hồng trần của một Hành Tinh Thượng đế (hoặc Thái dương Thượng đế).

4. When DK speaks of “physical objectivity” we must decide whether He is speaking of what the human being calls “objective” or what a Planetary Logos (or Solar Logos) deems as “objective”. There is certainly elemental life upon the astral and mental planes, but from the human perspective, such life is not “objective” in the customary sense..

4. Khi Chân sư DK nói về “tính khách quan hồng trần” chúng ta phải quyết định liệu Ngài đang nói về cái mà con người gọi là “khách quan” hay cái mà một Hành Tinh Thượng đế (hoặc Thái dương Thượng đế) xem là “khách quan”. Ắt hẳn có sự sống hành khí trên các cõi cảm dục và trí tuệ, nhưng xét theo quan điểm của con người, sự sống như vậy không “khách quan” theo nghĩa quen thuộc.

5. Further, which globes are in “physical objectivity”? Within our Earth-scheme, for instance, only the fourth globe of the fourth chain is in systemic-physical objectivity, but from the perspective of the Planetary Logos (or Solar Logos), perhaps there are at least some aspects of all globes which are in physical objectivity. (We leave out of this consideration the thought that there may be globes the lowest stratum of which is found on the cosmic etheric planes.)

5. Hơn nữa, những bầu nào đang ở trong “tính khách quan hồng trần”? Chẳng hạn, trong Hệ Địa Cầu của chúng ta, chỉ bầu thứ tư của Dãy thứ tư là ở trong tính khách quan thuộc hệ mặt trời, nhưng xét theo quan điểm của Hành Tinh Thượng đế (hoặc Thái dương Thượng đế), có lẽ ít nhất một số phương diện của mọi bầu đều ở trong tính khách quan hồng trần. (Chúng ta tạm bỏ qua ý tưởng rằng có thể có những bầu mà tầng thấp nhất của chúng nằm trên các cõi dĩ thái vũ trụ.)

6. From what is said below, it appears that, from the solar logoic perspective, the lesser lives to be found upon the higher mental plane must also be considered as “elemental”.

6. Từ những điều nói dưới đây, có vẻ như, xét theo quan điểm Thái dương logoic, các sự sống tiểu vi được tìm thấy trên cõi thượng trí cũng phải được xem như là “hành khí”.

7. One wonders about the further development of this massive form of elemental life. Below, DK extends our vision towards the next solar system when the “planetary Entity”, the ‘planetary Entities’ and the still more encompassing ‘solar Entity’ will emerge into cons as a third form of life accompanying–

7. Người ta tự hỏi về sự phát triển thêm nữa của dạng sự sống hành khí đồ sộ này. Bên dưới, Chân sư DK mở rộng tầm nhìn của chúng ta về hệ mặt trời tới khi “Thực thể Hành tinh”, ‘các Thực thể Hành tinh’ và ‘Thực thể Thái dương’ còn bao trùm hơn sẽ xuất lộ vào ý thức như một dạng sự sống thứ ba đi kèm cùng—

a. Devic life

a. Sự sống deva

b. Human and subhuman life

b. Sự sống nhân loại và tiền nhân loại

The mystery of the whole subject lies hidden in three things:

Huyền bí của toàn đề mục ẩn giấu trong ba điều:

              First, the fact that our three planes, physical, astral, and mental, form the dense body of the solar Logos, and are therefore not considered as forming principles.

Thứ nhất, thực tế là ba cõi của chúng ta—hồng trần, cảm dục và trí tuệ—cấu thành thể đậm đặc của Thái dương Thượng đế, và do đó không được xem là cấu thành các nguyên khí.

8. This includes the devic lives to be found upon the higher mental plane—a plane which, technically, is within the dense physical body of the Solar Logos, though, from one perspective, not in the dense physical body of the Planetary Logos.

8. Điều này bao gồm cả các sự sống deva được tìm thấy trên cõi thượng trí—một cõi, về kỹ thuật, nằm trong thể đậm đặc hồng trần của Thái dương Thượng đế, dù xét từ một góc nhìn, lại không nằm trong thể hồng trần đậm đặc của Hành Tinh Thượng đế.

9. It is impossible to consider the Solar Pitris as unprincipled solar logoic substance, yet such Pitris are often spoken of in terms of substance. It would seem important, therefore, to differentiate the unprincipled substance to be found on the systemic higher mental plane from that type of solar logoic substance which we think of as ‘solar pitric’ substance.

9. Không thể xem các thái dương tổ phụ như một thứ chất liệu logoic vô nguyên khí , vậy mà các tổ phụ này thường được nói đến như một hình thái chất liệu. Vì thế, có vẻ quan trọng là phân biệt thứ chất liệu vô nguyên khí được tìm thấy trên cõi thượng trí hệ mặt trời với loại chất liệu logoic mà chúng ta nghĩ đến như là ‘chất liệu thái dương tổ phụ’.

10. We must remember that “energy”, “force”, “substance” and “matter” can, from one perspective, be considered identical.

10. Chúng ta phải nhớ rằng “năng lượng”, “lực”, “chất liệu” và “vật chất”, xét từ một quan điểm, có thể được xem là đồng nhất.

It was the result of the internal decision on the part of the planetary Logos to turn His attention away from the act of creation on the systemic mental plane to the work of progressive evolution. This caused a cessation of certain types of activity, producing a quiescence in certain of His centres, and an increased activity in others. It also had an effect upon the solar Angels, and consequently upon the Heart of the solar system from whence they are drawn. Floods of energy or streams of force from the heart of the sun (the subjective Sun) were arrested and directed elsewhere, while the Pitris already active began to centre their attention upon the work begun, and temporarily new beginnings were out of order. It must not be forgotten here that the work of the solar Pitris from their point of view, is not primarily the evolution of man, but is the process of their own development within the plan of the solar Logos. The evolution of the human race is, for them, but a method. (TCF 843)

Đó là kết quả của quyết định nội tại nơi Hành Tinh Thượng đế khi Ngài chuyển sự chú ý khỏi hành tác Sáng Tạo trên cõi trí hệ mặt trời để hướng đến công việc tiến hoá tuần tự. Điều này gây nên sự đình chỉ một số loại hoạt động nhất định, tạo ra sự yên tĩnh trong một vài trung tâm của Ngài, và sự tăng hoạt trong những trung tâm khác. Nó cũng có tác động lên các Thái dương Thiên Thần, và do đó, lên Trái Tim của hệ mặt trời nơi họ được thu hút đến. Những cơn lũ năng lượng hay những dòng mãnh lực từ trái tim của mặt trời (Mặt Trời chủ quan) bị chặn lại và chuyển hướng sang nơi khác, trong khi các Tổ phụ đã hoạt động thì bắt đầu tập trung sự chú ý vào công việc đã khởi sự, và tạm thời, những khởi sự mới không còn thích hợp. Không được quên rằng công việc của các thái dương tổ phụ, xét theo quan điểm của họ, không chủ yếu là sự tiến hoá của con người, mà là tiến trình phát triển riêng của họ trong Thiên Cơ của Thái dương Thượng đế. Sự tiến hoá của nhân loại, đối với họ, chỉ là một phương tiện. (TCF 843)

              The second fact is that the lesser “lives” or the elemental essence are the “refuse” of an earlier system, and react to inher­ent impulses so powerfully that it was only possible to control them through the dynamic will of the Logos, con­scious­ly applied.

Thứ hai là thực tế rằng các “sự sống” nhỏ hay Tinh chất hành khí là “phế liệu” của một hệ trước, và phản ứng với những xung lực bẩm sinh mạnh mẽ đến mức chỉ có thể kiểm soát chúng bằng Ý Chí năng động của Thượng đế, được áp dụng một cách có ý thức,

11. Here we have a very important section of text. The elemental “refuse” of an earlier solar system (and note that DK does not necessarily indicate the immediately previous solar system), must be associated with those forms of human life who are called the “failures” of the previous solar system.

11. Ở đây chúng ta có một đoạn văn vô cùng quan trọng. “Phế liệu” hành khí của một hệ mặt trời trước (và lưu ý rằng Chân sư DK không nhất thiết chỉ định là hệ mặt trời ngay trước hệ này), hẳn phải liên hệ với những hình thái sự sống con người được gọi là “các thất bại” của hệ mặt trời trước.

12. A number of subjects are to be considered in relation as follows:

12. Có một số đề mục cần được xét liên hệ như sau:

a. The quality of energy-substance/force-matter of the previous major and minor solar systems.

a. Phẩm chất của năng lượng-chất liệu/lực-vật chất của các hệ mặt trời chính và phụ trước.

b. The “planetary Entity”, the ‘planetary Entities’ and the composite ‘solar Entity’ made of all the ‘planetary Entities’.

b. “Thực thể Hành tinh”, ‘các Thực thể Hành tinh’ và ‘Thực thể Thái dương’ tổng hợp được tạo bởi tất cả ‘các Thực thể Hành tinh’.

c. The role of the Lives which inform the aggregate of the lowest grade involutionary lives of any particular globe, grouping of globes within a planetary scheme, and the total grouping of globes within our solar system.

c. Vai trò của các Sự Sống thấm nhuần tập hợp các sự sống giáng hạ tiến hoá bậc thấp nhất của bất kỳ bầu nào, nhóm bầu nào trong một hệ hành tinh, và toàn bộ nhóm bầu trong hệ mặt trời của chúng ta.

d. The discrimination of the nature of these informing Lives from the aggregates of involutionary lives they inform.

d. Sự phân biện bản chất của các Sự Sống thấm nhuần ấy so với các tập hợp sự sống giáng hạ tiến hoá mà họ thấm nhuần.

e. The failures of the previous solar system

e. Các thất bại của hệ mặt trời trước.

f. The quality of energy-substance/force-matter which characterized life upon the Moon-chain.

f. Phẩm chất năng lượng-chất liệu/lực-vật chất đặc trưng cho sự sống trên Dãy Mặt Trăng.

g. The human beings who migrated from the Moon-chain to the Earth-chain just as certain human beings migrated from the previous solar system to the present one.

g. Những con người đã di cư từ Dãy Mặt Trăng sang Dãy Địa Cầu cũng như có những con người đã di cư từ hệ mặt trời trước sang hệ hiện tại.

h. The nature, role and function of the lunar lords within the Earth-chain, and the Earth-globe.

h. Bản chất, vai trò và chức năng của các nguyệt tinh quân trong Dãy Địa Cầu và trên Bầu Địa Cầu.

i. The place of the “lesser Builders” in relation to the energy-substance/force-matter of the previous solar system, of the Moon-chain, and in relation to the processes intended to occur within the present solar system and the Earth-chain/Earth-globe.

i. Vị trí của “các Tiểu Kiến Tạo” liên quan đến năng lượng-chất liệu/lực-vật chất của hệ mặt trời trước, của Dãy Mặt Trăng, và liên quan đến các tiến trình dự định diễn ra trong hệ mặt trời hiện tại và trong Dãy Địa Cầu/Bầu Địa Cầu.

13. It is clear that we are taking on a vast and obscure subject.

13. Rõ ràng là chúng ta đang ôm lấy một đề tài mênh mông và tối mờ.

14. We see that our Solar Logos has a difficult task in controlling the involutionary through which the ‘solar Entity’ is expressing, just as our Planetary Logos has a very difficult task controlling the aggregate of involutionary lives through which our particular “planetary Entity” is expressing.

14. Chúng ta thấy rằng Thái dương Thượng đế của chúng ta có một nhiệm vụ khó khăn trong việc kiểm soát các sự sống giáng hạ tiến hoá mà qua đó ‘Thực thể Thái dương’ biểu lộ, cũng như Hành Tinh Thượng đế của chúng ta có một nhiệm vụ rất khó khăn trong việc kiểm soát tập hợp các sự sống giáng hạ tiến hoá mà qua đó “Thực thể Hành tinh” đặc thù của chúng ta biểu lộ.

15. The difficulty of these tasks is analogous to the task which faces every human being when he tries to control his lunar vehicles and the tiny elemental lives composing them.

15. Sự khó khăn của những nhiệm vụ này tương tự với nhiệm vụ đối diện mỗi con người khi y cố gắng kiểm soát các hiện thể nguyệt tính của mình và các tiểu sinh linh hành khí cấu thành chúng.

16. We are learning something about the initiatory task facing both our Solar Logos and our Planetary Logos: We are also learning that the human being must utilize (on his own tiny scaled) “the dynamic will…consciously applied”. It appears from what is said that some degree of control has been exerted by our Solar Logos, as the past tense “it was” is used.

16. Chúng ta đang học về nhiệm vụ điểm đạo đang đối diện cả Thái dương Thượng đế lẫn Hành Tinh Thượng đế của chúng ta: Đồng thời chúng ta cũng học rằng con người phải vận dụng (trên tỉ lệ vi mô của chính mình) “Ý Chí năng động… được áp dụng một cách có ý thức”. Có vẻ như từ những điều được nói ra rằng một mức độ kiểm soát nào đó đã được Thái dương Thượng đế của chúng ta thực thi, vì thì quá khứ “đã là” được dùng.

17. We are discussing the principle of inertia on a systemic, planetary and human scale. By inference we can extend the discussion to a cosmic scale.

17. Chúng ta đang bàn về nguyên lý quán tính trên bình diện hệ mặt trời, hành tinh và con người. Theo suy luận, chúng ta có thể mở rộng thảo luận đến bình diện vũ trụ.

The word “refuse” must be interpreted analogically, and as is under­stood when it is said that man gathers to himself in each fresh incarnation matter to form his dense physical body which is tinged with the earlier vibrations of preceding incarnations.

Từ “phế liệu” phải được hiểu theo lối tương đồng, như khi nói rằng con người trong mỗi lần lâm phàm mới đều thu góp cho mình vật chất để cấu thành thể hồng trần đậm đặc vốn được nhuộm sắc bởi những rung động sớm hơn của các lần lâm phàm trước.

18. DK offers a clarification. The term “refuse” seems to indicate matter which was not successfully integrated into the plans and purposes of the Solar Logos as He expressed through previous solar systems (and especially, through the major solar system immediately preceding our own).

18. Chân sư DK đưa ra một sự minh giải. Thuật ngữ “phế liệu” dường như chỉ thứ vật chất vốn chưa được tích hợp thành công vào các kế hoạch và mục đích của Thái dương Thượng đế khi Ngài biểu lộ qua các hệ mặt trời trước (và đặc biệt là qua hệ mặt trời chính ngay trước hệ của chúng ta).

19. The matter to be gathered has not yet achieved the initiatory vibrational level which will be achieved when the indwelling Life (in this case our Solar Logos) has taken its fourth initiation.

19. Vật chất cần được thu góp ấy chưa đạt tới cấp rung điểm đạo sẽ đắc thành khi Sự Sống nội tại (trong trường hợp này là Thái dương Thượng đế của chúng ta) đã trải qua cuộc điểm đạo thứ tư.

20. At the onset of our particular solar system, the Solar Logos had not yet completed His task of transforming the lower type of matter in question. Complete redemption of this earlier energy-substance/force-matter will, we gather, be completed during the next and final solar system in this series of solar systems.

20. Vào lúc khởi nguyên hệ mặt trời đặc thù của chúng ta, Thái dương Thượng đế vẫn chưa hoàn tất nhiệm vụ chuyển hóa loại vật chất thấp đang được nói đến. Sự cứu chuộc trọn vẹn của năng lượng-chất liệu/lực-vật chất tiền-kỳ này, chúng ta suy ra, sẽ hoàn tất trong hệ mặt trời kế tiếp và cuối cùng của chuỗi các hệ mặt trời này.

21. When a human being has not yet achieved the fourth initiation, he still has much to do to redeem the matter through which he expresses in the three lower worlds. Once he has taken this initiation, he no longer incarnates in the usual way and, thus, no longer re-gathers for his vehicles of expression unredeemed (or insufficiently redeemed) matter or the “refuse” of his previous incarnations.

21. Khi một con người chưa đạt cuộc điểm đạo thứ tư, y vẫn còn nhiều việc phải làm để cứu chuộc vật chất mà qua đó y biểu lộ trong ba cõi thấp. Một khi đã trải qua cuộc điểm đạo này, y không còn lâm phàm theo cách thông thường nữa, và như thế, không còn tái-thu góp cho các hiện thể biểu lộ của mình thứ vật chất chưa được cứu chuộc (hay cứu chuộc chưa đầy đủ) hoặc “phế liệu” của các lần lâm phàm trước nữa.

22. We can see how the study of this particular analogy can clarify our minds regarding the regathering process for both the Solar Logos and human being. Of course, we must include the various Planetary Logoi in our consideration.

22. Chúng ta có thể thấy việc nghiên cứu phép tương đồng đặc thù này có thể làm sáng tỏ tâm trí chúng ta liên quan đến tiến trình tái thu góp cả đối với Thái dương Thượng đế và con người. Dĩ nhiên, chúng ta phải bao gồm cả các Hành Tinh Thượng đế khác nhau trong sự cân nhắc.

These “lives”

Những “sự sống” này

23. The “lesser lives”, the involutionary lives—the “lesser Builders”.

23. Chính là “các sự sống nhỏ”, các sự sống giáng hạ tiến hoá—“các Tiểu Kiến Tạo”.

have been gradually drawn in during the entire mahaman­vantara as it became safe and possible to control and bend them to the will of the greater Builders.

đã được kéo vào dần dần suốt toàn bộ đại giai kỳ sinh hóa khi đã trở nên an toàncó thể kiểm soát và uốn chúng theo Ý Chí của các Đại Kiến Tạo,

24. This is an interesting statement. It seems to suggest that, perhaps, not all the residual lesser lives from the previous solar system were simultaneously gathered into the structure of the present solar system. There seems to be a phased ingathering of such lives, building them into the present system only as it becomes possible for the higher forms of devic Lives (the “greater Builders”) within the present solar system to control them.

24. Đây là một phát biểu thú vị. Nó dường như ngụ ý rằng, có lẽ không phải mọi sự sống nhỏ tàn lưu từ hệ mặt trời trước đều được thu nạp đồng thời vào cấu trúc của hệ mặt trời hiện tại. Có vẻ như có một tiến trình thu nạp theo giai đoạn các sự sống như vậy, chỉ xây dựng chúng vào hệ hiện tại khi các Hình thái Sự Sống deva cao hơn (các “Đại Kiến Tạo”) trong hệ mặt trời hiện tại đủ khả năng để kiểm soát chúng.

25. It can be inferred that the lives under discussion are retained within a “reservoir of life” until they can be drawn in.

25. Có thể suy ra rằng các sự sống đang bàn được giữ trong một “hồ chứa sự sống” cho đến khi có thể được thu hút vào.

26. There is probably an analogy relating to the manner in which a human being re-gathers previously utilized lesser lives during the incarnation though which he is presently passing.

26. Có lẽ có một phép tương đồng liên quan đến cách một con người tái-thu góp những sự sống nhỏ đã sử dụng trước đó trong lần lâm phàm mà y đang trải qua.

27. Perhaps the dynamics of the life cycle of the human being (from birth to youth to maturity and on into old age) may tell us something about the phased appropriation and utilization of previously tinged lesser lives.

27. Có lẽ động lực của vòng đời con người (từ sinh ra đến tuổi trẻ, trưởng thành rồi già nua) có thể cho chúng ta thấy điều gì đó về sự tiếp nhận và sử dụng theo giai đoạn các sự sống nhỏ từng được nhuộm sắc trước đó.

28. Just as the Solar Logos apparently does not gather all previously tinged lesser lives into His present incarnational expression, so it may be for the human being, gathering more and more of such substance as he grows towards maturity and greater control.

28. Cũng như Thái dương Thượng đế xem chừng không thu góp mọi sự sống nhỏ từng được nhuộm sắc trước đó vào biểu lộ lâm phàm hiện tại của Ngài, thì cũng vậy đối với con người—y càng lớn lên đến chỗ trưởng thành và kiểm soát lớn hơn thì y càng thu góp nhiều chất liệu như thế.

Much of the earlier energy-substance in systemic construct­ion has been passed on into that force-matter which we call that of the lunar Pitris, and its place has gradually been taken by this type of energy, gathered in from the greater sphere in which our Logos has place.

Phần lớn năng lượng-chất liệu sớm hơn trong cấu trúc hệ thống đã được chuyển giao vào thứ lực-vật chất mà chúng ta gọi là của các thái âm tổ phụ, và chỗ của nó đã dần được thay bằng loại năng lượng này , được thu góp từ Đại Quả Cầu mà trong đó Thái dương Thượng đế của chúng ta có vị trí.

29. We seem to be dealing here with a replacement of substances.

29. Ở đây dường như chúng ta đang xử lý một sự thay thế các chất liệu.

30. The “lunar Pitris” (we again see) are referred to as a particular type of force-matter”. We note, in this instance, the order of the words, with the term “force” preceding that of matter.

30. “Các thái âm tổ phụ” (một lần nữa chúng ta thấy) được nói đến như một dạng “lực-vật chất” đặc thù. Xin lưu ý trật tự các từ trong trường hợp này, với thuật ngữ “lực” đứng trước “vật chất”.

31. The lunar pitris seem to be those forms of lesser lives through which the “earlier energy-substance” (again note the order of the words) is being built-up, elevated or transformed (in this solar system). The earlier energy-substance is thus being incorporated into certain forms within the present solar system. Incorporation results in elevation through exposure to systemically sanctioned patterns.

31. Các thái âm tổ phụ dường như là những dạng sự sống nhỏ qua đó “năng lượng-chất liệu sớm hơn” (một lần nữa lưu ý trật tự từ ngữ) đang được xây đắp, nâng lên hay chuyển hoá (trong hệ mặt trời này). Như thế, năng lượng-chất liệu sớm hơn đang được tích hợp vào những hình thức nhất định trong hệ mặt trời hiện tại. Sự nhập thể vào hình tướng mang lại sự nâng lên qua sự tiếp xúc với các mô thức được hệ thống phê chuẩn.

32. As replacement of “earlier energy-substance” by what we might call ‘present energy-substance’ is needed, there must be an ingathering of such substance from the reservoir of life to which our Solar Logos has access by right of His participation in the “greater sphere” (probably of the Cosmic Logos in which our Logos holds place).

32. Vì cần thay thế “năng lượng-chất liệu sớm hơn” bằng cái mà chúng ta có thể gọi là ‘năng lượng-chất liệu hiện thời ’, nên phải có một sự thu góp chất liệu như thế từ hồ chứa sự sống mà Thái dương Thượng đế của chúng ta có thể tiếp cận nhờ quyền thuộc về “Đại Quả Cầu” (có lẽ là vị Đại Thiên Thần Vũ Trụ mà trong đó Thái dương Thượng đế của chúng ta giữ vị trí).

33. Thus, the older, “earlier energy-substance” is built into lunar pitric forms, and is replaced by energy-substance drawn from the great reservoir of life associated with the sphere of the Cosmic Logos.

33. Như vậy, năng lượng-chất liệu cũ, “sớm hơn” được xây vào các hình thái thái âm tổ phụ, và được thay thế bằng năng lượng-chất liệu được rút từ đại hồ chứa sự sống liên hệ với Quả Cầu của Thượng đế Vũ Trụ.

The twelve evolutions

Mười hai cuộc tiến hoá

34. By the “twelve evolutions” DK seems to be indicating the Twelve Creative Hierarchies.

34. Với “mười hai cuộc tiến hoá”, Chân sư DK dường như muốn chỉ mười hai Huyền Giai Sáng Tạo.

35. Given that life is all-pervasive and must necessarily be found expressing through all cosmic planes and subplanes, there must necessarily be far more than twelve evolutions. It can be supposed, however, that the twelve mentioned are those about which human being can know even a little.

35. Vì sự sống là thấm khắp và tất yếu phải biểu lộ qua mọi cõi và cõi phụ vũ trụ, tất yếu phải có nhiều hơn mười hai cuộc tiến hoá. Tuy nhiên, có thể cho rằng mười hai cuộc được nêu là những cuộc mà con người có thể biết dù chỉ một phần nhỏ.

are after all but the twelve types of energy,

suy cho cùng chỉ là mười hai loại năng lượng,

36. DK has often told us that He wishes us to think in terms of energies and forces and not so much in terms of entities and personalities.

36. Chân sư DK thường nói Ngài muốn chúng ta tư duy theo các phương diện năng lượng và lực thay vì theo các thực thể và phàm ngã.

manifesting ever in three groups of forces,

biểu lộ luôn luôn trong ba nhóm lực,

37. We are dealing with the principle of the trinity. Each energy expresses through three groups of forces. On the human level, the soul expresses itself through the three personality vehicles which are three groups of forces.

37. Chúng ta đang xử lý nguyên lý Tam Vị. Mỗi năng lượng biểu lộ qua ba nhóm lực. Trên bình diện con người, linh hồn biểu lộ qua ba vận cụ phàm ngã vốn là ba nhóm lực.

38. We understand that the important number forty-nine is involved in these groupings. Twelve types, each expressing as three, make forty-eight. When all twelve and their expression are taken as a whole, the forty-nine is produced.

38. Chúng ta hiểu rằng con số bốn mươi chín quan trọng có liên hệ đến các nhóm này. Mười hai loại, mỗi loại biểu lộ như ba, tạo thành bốn mươi tám. Khi tính cả mười hai và sự biểu lộ của chúng như một toàn thể, con số bốn mươi chín được tạo nên.

and again as one group when synthesised during the process of manifest­ation.

và lại như một nhóm khi được tổng hợp trong tiến trình biểu lộ.

39. It seems that the twelve are to be considered as one, just as the twelvefold zodiac is to be considered (at its final stage of development) as a synthesized unity.

39. Có vẻ như mười hai được xem như một, cũng như hoàng đạo mười hai cung ở giai đoạn phát triển rốt ráo được xem như một nhất tính tổng hợp.

They are fourfold in interaction, and have a systemic ebb and flow about which little is known.

Chúng là tứ phân trong tương tác, và có một thủy triều hệ thống—lúc lớn lúc ròng—mà hầu như chẳng ai biết đến,

40. VSK queries: “These three groups would be analogous to cardinal, fixed, and mutable? And, fourfold in interaction relating to fire earth air and water?”

40. VSK nêu vấn đề: “Ba nhóm này sẽ tương tự với chủ yếu, cố định và biến đổi? Và, tứ phân trong tương tác liên hệ với lửa, đất, khí, và nước?”

41. May it be suggested that astrological analogies can be related to what is said. While the Twelve Creative Hierarchies can be directly related to the twelve zodiacal signs, they are certainly not identical.

41. Xin đề nghị rằng có thể liên hệ các tương đồng chiêm tinh với điều được nói. Dẫu mười hai Huyền Giai Sáng Tạo có thể liên hệ trực tiếp với mười hai dấu hiệu hoàng đạo, chúng chắc chắn không đồng nhất.

42. It is not immediately apparent what DK means by the term “interaction”. Is He saying that the twelve (as a twelvefold unit) have four modes of interaction amongst themselves, or that each of the twelve expresses (in totality) as a quadruplicity? Each of the twelve, as well, having a “systemic ebb and flow”.

42. Chưa hiển nhiên ngay Chân sư DK muốn nói gì qua thuật ngữ “tương tác”. Ngài đang nói rằng cả bộ mười hai (như một đơn vị mười hai) có bốn phương thức tương tác giữa chúng, hay rằng mỗi trong mười hai, xét trọn vẹn, biểu lộ như một bộ bốn? Mỗi trong mười hai, đồng thời, có một “thủy triều hệ thống—lúc lớn lúc ròng”.

43. If we focus on the twelve (taken together) as having four modes of interaction, then, naturally, such modes of interaction could be related to those four modes of energy-force expression we call the “four elements”.

43. Nếu chúng ta tập trung vào cả mười hai (tính chung) như có bốn phương thức tương tác, thì tự nhiên, các phương thức ấy có thể được liên hệ với bốn phương thức biểu lộ năng-lực mà chúng ta gọi là “bốn nguyên tố”.

44. DK is speaking of the ways in which the twelve groupings of lives emerge into prominence and then subside during distinct cyclic periods, this emergence and subsiding due to a flowing and ebbing of solar logoic energy.

44. Chân sư DK đang nói về cách mà mười hai nhóm sự sống trồi lên nổi bật rồi lại chìm xuống trong các chu kỳ biệt định, sự trồi lên và chìm xuống này là do sự lưu chuyển và triều thoái của năng lượng thuộc Thái dương Thượng đế.

Third, the fact of the coming into incarnation of the [846] informing “life” of this low grade substance, who is an entity from a point in the Heavens which may not be mentioned:

 Thứ ba , thực tế về sự giáng phàm của [846] “sự sống” thấm nhuần thứ chất liệu hạng thấp này , đó là một thực thể đến từ một điểm trên Trời mà không thể nêu tên:

45. We are being given another perspective upon the planetary Entity (or perhaps, as well, upon its higher counterpart on a solar systemic level, which we have been calling the ‘solar Entity’).

45. Chúng ta đang được cho một quan điểm khác về Thực thể Hành tinh (hoặc, có lẽ, về đối phần cao hơn của nó trên bình diện Thái dương hệ, mà chúng ta vẫn gọi là ‘Thực thể Thái dương’).

46. We see we must differentiate between the “low grade substance” itself and the “informing life” within this low grade substance.

46. Chúng ta thấy cần phân biệt giữa “thứ chất liệu hạng thấp” tự thân nó và “sự sống thấm nhuần” bên trong thứ chất liệu hạng thấp ấy.

47. When DK speaks of “a point in the Heavens”, we do not know whether He is speaking cosmically (i.e., extra-systemically) or systemically.

47. Khi Chân sư DK nói “một điểm trên Trời”, chúng ta không biết Ngài đang nói trên bình diện vũ trụ (tức là, ngoài hệ) hay trên bình diện hệ mặt trời.

48. It could be that He is speaking of the “comic Moon” (a decaying solar system or constellation) which stands in relation to our present solar system as Earth’s Moon stands in relation to the Earth-chain.

48. Có thể Ngài đang nói đến “Mặt Trăng vũ trụ” (một hệ mặt trời hay một chòm sao đang suy tàn) mà tương quan với hệ mặt trời hiện tại của chúng ta cũng như Mặt Trăng của Trái Đất tương quan với Dãy Địa Cầu.

49. If we are speaking of an Entity associated with our solar system’s cosmic Moon, is it important for the safe development of the human race that humanity not know where it is located? Perhaps.

49. Nếu chúng ta đang nói đến một Thực thể liên hệ với “Mặt Trăng vũ trụ” của hệ mặt trời chúng ta, thì việc con người không biết nó ở đâu có thể là quan trọng cho sự phát triển an toàn của nhân loại. Có lẽ là vậy.

50. The Entity of which we are speaking, therefore, could be intra-systemic, or if not an integral part of the present solar system, at least directly related to the Solar Logos Who expressed both through the previous solar system and the present one. Many great Entities have originated and are evolving intra-systemically—the Planetary Logoi and the three Logoi subsidiary to the Solar Logos are among them.

50. Thực thể mà chúng ta đang nói đến, vì thế, có thể là nội -hệ, hoặc nếu không phải là một phần tích hợp của hệ mặt trời hiện tại, thì chí ít là liên hệ trực tiếp với Thái dương Thượng đế, Đấng đã biểu lộ qua cả hệ mặt trời trước lẫn hệ hiện tại. Nhiều Đại Thực Thể đã khởi nguyên và đang tiến hoá nội-hệ—các Hành Tinh Thượng đế và ba Vị Logos phụ thuộc vào Thái dương Thượng đế nằm trong số đó.

51. On the other hand, we could be speaking of an extra-systemic Entity altogether—one which did not originate within the life expression of our Solar Logos, and which was drawn in to inform residual solar logoic substance. Later, however, there emerges a reason for us not to hold the extra-systemic option to firmly. (The discussion on the “beast” and its origin in relation to the dense physical globe of the Moon-chain is to be considered in this regard.)

51. Mặt khác, chúng ta cũng có thể đang nói đến một Thực Thể hoàn toàn ngoại-hệ —một Đấng không khởi nguyên trong biểu lộ sự sống của Thái dương Thượng đế của chúng ta, nhưng được thu hút vào để thấm nhuần chất liệu logoic tàn dư. Tuy nhiên, sau đó sẽ có một lý do khiến chúng ta không nên bám chặt lấy phương án ngoại-hệ. (Cần cân nhắc phần thảo luận về “thú vật” và nguồn gốc của nó liên quan đến bầu hồng trần đậm đặc của Dãy Mặt Trăng.)

He embod­ies influences of a manasic nature, but manas at its very lowest vibration.

Ngài hàm chứa các ảnh hưởng có bản chất manas, nhưng là manas ở rung động thấp nhất.

52. We are perhaps dealing with two types of Entities. There is the composite “planetary Entity” which embodies the elemental substance of our Earth-scheme expression, but on solar logoic levels, there may also be a ‘solar Entity’, which embodies such substance throughout the solar system and not only in relation to our planet or some other planet.

52. Có thể chúng ta đang xử lý hai loại Thực Thể. Có Thực thể Hành tinh tổng hợp vốn bao hàm chất liệu hành khí của biểu lộ Hệ Địa Cầu của chúng ta; nhưng trên bình diện logoic Thái dương, cũng có thể có một ‘Thực thể Thái dương’ bao hàm thứ chất liệu như thế khắp toàn hệ mặt trời chứ không chỉ liên hệ với hành tinh của chúng ta hay một hành tinh nào khác.

53. One must attempt to follow DK as He moves, apparently unannounced, from the globe level, to chain and scheme levels and thence to the solar systemic level.

53. Cần cố gắng theo sát Chân sư DK khi Ngài dường như chuyển dịch (mà không báo trước) từ bình diện bầu, sang dãy và hệ, rồi từ đó thăng lên bình diện Thái dương hệ.

54. The Moon-chain analogies are further reinforced by the statement about the manasic nature of this Entity. The informing Life of the Moon-chain was of a manasic nature. The informing Life or Entity of the low grade substance under discussion is also “of a manasic nature”.

54. Các tương đồng Dãy Mặt Trăng càng được củng cố thêm qua phát biểu về bản chất manas của Thực Thể này. Sự Sống thấm nhuần Dãy Mặt Trăng mang bản chất manas. Sự Sống hay Thực Thể thấm nhuần thứ chất liệu hạng thấp đang bàn cũng “mang bản chất manas”.

55. The simple point to be derived is that there is a older type of energy-substance expressing as force-matter which (whether in relation to a human being, a Planetary Logos or Solar Logos) must be redeemed or ‘made present’—i.e., brought up to present standards. This is an immense evolutionary task for all three—the human being, the Planetary Logos or the Solar Logos.

55. Điểm đơn giản cần rút ra là có một loại năng lượng-chất liệu cổ hơn biểu lộ như lực-vật chất mà (dù là đối với một con người, một Hành Tinh Thượng đế hay một Thái dương Thượng đế) đều phải được cứu chuộc hay ‘làm cho hiện thời ’—tức được nâng lên tới chuẩn mực hiện tại. Đây là một nhiệm vụ tiến hoá to tát đối với cả ba—con người, Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế.

Perhaps some idea of this may be gathered if it is stated that there is a resemblance between this vibration, or this energising life, and the basic vibration of the solar system preceding this one.

Có thể lĩnh hội đôi phần điều này nếu nói rằng có một sự tương tự giữa rung động này, hay Sự Sống đang tác năng này với rung động cơ bản của hệ mặt trời liền trước hệ này.

56. The vibration of our planetary Entity or (on an expanded scale) of the ‘solar Entity’ is being compared to the basic or fundamental vibration of the solar system preceding this solar system.

56. Rung động của Thực thể Hành tinh của chúng ta, hoặc (ở quy mô mở rộng) của ‘Thực thể Thái dương’, đang được so sánh với rung động cơ bản hay nền tảng của hệ mặt trời liền trước hệ mặt trời này.

57. The planetary Entity (or corresponding ‘solar Entity’) as an “energising life” is being call, alternatively a “vibration”.

57. Thực thể Hành tinh (hoặc ‘Thực thể Thái dương’ tương ứng) như một “Sự Sống tác năng” đang được gọi, một cách thay thế, là một “rung động”.

58. It appears that these low-grade Entities (whether on a planetary or solar systemic level) carry the basic vibration of the previous major solar system into our present solar system.

58. Có vẻ như các Thực Thể hạ cấp này (dù trên bình diện hành tinh hay Thái dương hệ) mang theo rung động cơ bản của hệ mặt trời chính trước kia vào hệ mặt trời hiện tại của chúng ta.

We must remember that our basic vibration was the result of the evolutionary process of the entire earlier system.

Chúng ta phải nhớ rằng rung động cơ bản của chúng ta là kết quả của tiến trình tiến hoá của toàn bộ hệ trước.

59. We are speaking of the “Primordial Ray” (the third) or, in another sense, of the fundamental vibration on which our entire solar system is built. We are speaking of a great vibration FA or F, and all vibrations within the Solar Logos which correlate with this great fundamental tone.

59. Chúng ta đang nói về “Cung Sơ Nguyên” (cung ba) hoặc, ở một nghĩa khác, về rung động nền tảng mà trên đó toàn hệ mặt trời của chúng ta được kiến lập. Chúng ta đang nói về một đại âm điệu FA hay F, và tất cả những rung động trong Thái dương Thượng đế tương ứng với đại âm điệu căn bản này.

This entity has the same analogous relation to the deva evolution as the mysterious “bridges” which baffle scientists, and which are found between the vegetable and the animal kingdom, and the mineral and the vegetable; they are neither the one nor the other.

Thực thể này có tương quan tương tự đối với tiến hoá deva như những “cầu nối” bí ẩn gây bối rối cho các nhà khoa học—những “cầu nối” được tìm thấy giữa giới thực vật và giới động vật, và giữa giới kim thạch và giới thực vật; chúng không phải là cái này mà cũng không phải là cái kia,

60. Here DK speaks of transitional forms of life which belong neither entirely to one kingdom of nature not to another. Presumably, there are bridges which unite each kingdom to the next higher kingdom.

60. Ở đây Chân sư DK nói về các hình thái sự sống chuyển tiếp vốn không thuộc hẳn về một giới nào cũng không thuộc hẳn về giới kia. Suy ra, ắt hẳn có những “cầu nối” nối mỗi giới với giới cao hơn kế tiếp.

61. This bridging function, presumably, does not concern only the mineral, vegetable and animal kingdom. Domesticated animals nearly ready for individualization could be considered animal-bridges toward the human kingdom. Aspirants and disciples could be considered as bridges into the fifth kingdom of nature—the Kingdom of Souls.

61. Chức năng bắc cầu này, suy ra, không chỉ liên hệ đến giới kim thạch, thực vật và động vật. Các thú vật được thuần hoá và hầu sẵn sàng để biệt ngã hóa có thể được xem là những “cầu nối” từ giới động vật hướng lên giới nhân loại. Những người chí nguyện và đệ tử có thể được xem là những “cầu nối” vào giới thứ năm của thiên nhiên—Vương quốc của các Linh hồn.

62. By analogy, there would necessarily be still higher bridges but we are in no position to do more than suppose their existence.

62. Theo tương đồng, tất nhiên sẽ có những “cầu nối” còn cao hơn nữa nhưng chúng ta không ở vị thế làm gì hơn ngoài sự giả định tồn tại của chúng.

63. In general, we could say that elemental lives bridge towards the deva kingdom. Devas have their ‘wings’. Elementals do not—yet.

63. Nói chung, chúng ta có thể nói rằng các sự sống hành khí bắc cầu hướng lên giới deva. Deva có ‘đôi cánh’ của họ. Hành khí thì chưa—ít ra là chưa.

64. The planetary Entity (or larger ‘solar Entity’) under discussion is, therefore, to be considered as a “bridge” towards the Deva Kingdom as a whole. It is apparently on the deva line of evolution. Would it, eventually, work itself towards the status of a Raja Deva Lord?

64. Thực thể Hành tinh (hoặc ‘Thực thể Thái dương’ bao quát hơn) đang bàn, vì thế, phải được xem như một “cây cầu” hướng lên toàn thể Giới Deva. Nó hiển nhiên ở trên tuyến tiến hoá deva. Sau rốt, nó có sẽ vươn mình đến địa vị của một Chúa Tể Deva Raja chăng?

65. There are some statements below, however, which lead us to believe that the Entity/Entities concerned are on their own line of evolution, which is neither devic nor human/subhuman. So we must proceed carefully.

65. Tuy vậy, có vài phát biểu bên dưới dẫn chúng ta tin rằng Thực thể/những Thực thể liên quan đang ở trên đường tuyến riêng của nó—không phải deva cũng không phải nhân loại/tiền nhân loại. Do vậy, chúng ta phải tiến bước một cách thận trọng.

On a large scale, this “life” or the informing entity of the lower life of the physical plane of the solar system

Ở quy mô lớn, “sự sống” này hay thực thể thấm nhuần của sự sống thấp của cõi hồng trần trong hệ mặt trời

66. Here we are definitely speaking on a solar systemic level and not only a “planetary Entity” or ‘planetary Entities’.

66. Ở đây chúng ta quả quyết đang nói trên cấp độ toàn hệ mặt trời chứ không chỉ về một “Thực thể hành tinh” hay các ‘thực thể hành tinh’.

67. We began this larger section of text by speaking of the “planetary Entity” but, it is certainly clear, are also speaking of its solar systemic counterpart, which we are calling the ‘solar Entity’.

67. Chúng ta đã khởi đầu phần lớn hơn này bằng cách nói về “thực thể hành tinh” nhưng, rõ ràng, cũng đang nói về đối phần cấp hệ mặt trời của nó, mà chúng ta gọi là ‘thực thể thái dương’.

68. The etheric plane of our solar system consists in the four higher subplanes of the systemic physical plane—the cosmic ethers.

68. Cõi dĩ thái của hệ mặt trời chúng ta bao gồm bốn cõi phụ cao của cõi hồng trần hệ thống—các dĩ thái vũ trụ.

69. DK seems to infer that the physical plane of the solar system also has a higher life, or higher lives.

69. Có vẻ như Chân sư DK hàm ý rằng cõi hồng trần của hệ mặt trời cũng có một sự sống cao hơn , hay các sự sống cao hơn.

70. The higher lives of the physical plane of the solar system can be considered devic. The lower lives of the “physical plane of our solar system” are more related elemental life, but, perhaps, not entirely so, as we see below.

70. Các sự sống cao của cõi hồng trần trong hệ mặt trời có thể được xem là thiên thần. Các sự sống thấp của “cõi hồng trần của hệ mặt trời chúng ta” liên hệ nhiều hơn với sự sống hành khí, nhưng, có lẽ, không phải hoàn toàn như thế, như chúng ta sẽ thấy dưới đây.

is neither a full exponent of the subconscious life of the earlier system, nor of the elemental life of this;

không phải là một biểu thức trọn vẹn cho sự sống tiềm thức của hệ thống trước, cũng không phải cho sự sống hành khí của hệ thống hiện tại;

71. DK continues to emphasize the bridging nature of this (solar systemic) Entity and how the bridging should be understood.

71. Chân sư DK tiếp tục nhấn mạnh bản chất bắc cầu của Thực thể (cấp hệ mặt trời) này và cách cần hiểu sự bắc cầu ấy.

72. The Entity in question has moved beyond the “subconscious life of the earlier system”, but the elemental life of the present system seems to be in advance of the Entity’s form of expression.

72. Thực thể đang xét đã vượt khỏi “sự sống tiềm thức của hệ thống trước”, nhưng sự sống hành khí của hệ thống hiện tại dường như lại vượt trước hình thức biểu lộ của Thực thể này.

73. The whole matter is extremely mysterious.

73. Toàn bộ vấn đề này cực kỳ bí nhiệm.

74. Are we to differentiate between the quality of the elemental lives of the previous solar system and the quality of the elemental lives in this solar system?

74. Chúng ta có nên phân biệt giữa phẩm tính của các sự sống hành khí của hệ mặt trời trước và phẩm tính của các sự sống hành khí trong hệ mặt trời này?

75. Perhaps, the term “full exponent” is to be emphasized, as this type of life may an exponent of the elemental life of this solar system but not a full exponent.

75. Có lẽ cần nhấn mạnh đến thuật ngữ “biểu thức trọn vẹn”, vì loại sự sống này có thể là một biểu thức cho sự sống hành khí của hệ mặt trời này nhưng không phải là một biểu thức trọn vẹn,

only in the next system will be seen the manifestation of a form of consciousness of a type at present inconceivable to man.

chỉ trong hệ thống kế tiếp mới thấy được sự biểu lộ của một dạng tâm thức hiện nay đối với con người là không thể nghĩ bàn.

76. It is clear that the form of consciousness of which this Entity is meant to be the expression will only come into expression during the next and final solar system.

76. Rõ ràng dạng tâm thức mà Thực thể này được định là biểu lộ sẽ chỉ xuất hiện trong hệ mặt trời tới và sau cùng.

77. While the Entity under discussion is linked to the lower grades of manas, it may reasonably be thought that such an Entity is also closely linked to the energy of Will.

77. Trong khi Thực thể đang bàn được liên kết với các cung bậc thấp của manas, có thể hợp lý nghĩ rằng Thực thể như vậy cũng liên hệ chặt chẽ với năng lượng của Ý Chí.

Esoterically he is stated to have “neither sight nor hearing”; he is neither deva nor human in essence. He is occultly “blind,” utterly unaware; he is capable only of movement, and resembles the foetus in the womb; that which is coming to the birth only the next greater cycle will reveal.

Về huyền bí, y được nói là “không có thị giác cũng chẳng có thính giác”; y không phải là thiên thần cũng không phải là con người về bản chất, Y huyền bí “mù lòa”, hoàn toàn vô tri; y chỉ có khả năng chuyển động, và giống như thai nhi trong dạ mẹ; điều sẽ chào đời chỉ chu kỳ lớn kế tiếp mới tiết lộ.

78. The systemically undeveloped nature of this Entity is emphasized.

78. Tính chất chưa phát triển theo hệ thống của Thực thể này được nhấn mạnh.

79. The senses it does not possessed are mentioned—it possess “neither sight nor hearing”, yet (in this solar system, at least) hearing is the very first sense to be developed.

79. Những cảm quan mà y không có được nêu ra—y “không có thị giác cũng không có thính giác”, thế nhưng (ít nhất trong hệ mặt trời này) thính giác là cảm quan đầu tiên được phát triển.

80. Does this Entity possess the sense of touch, interestingly not mentioned in the description? Perhaps not.

80. Liệu Thực thể này có cảm quan xúc chạm chăng—điều thú vị là không được nhắc tới? Có lẽ là không.

81. We see that it is unwise to draw analogies between this Entity and any other E/entity of which we may be presently aware. There are, so it is hinted, fundamental differences,

81. Chúng ta thấy rằng không khôn ngoan khi gán các đối chiếu giữa Thực thể này và bất kỳ thực thể nào khác mà hiện nay chúng ta có thể biết. Như được ám chỉ, có những sai khác nền tảng.

82. The Entity is not a deva and not human in nature. The “essence” of this Entity is different from the essence of either deva or human.

82. Thực thể này không phải thiên thần và không phải nhân loại theo bản tánh. “Bản chất” của Thực thể này khác với bản chất của cả thiên thần lẫn con người.

83. In our present solar system (being a second ray system and thus dual) there is an emphasis upon the parallel deva and human evolutions. In the next solar system (the third major solar system in a series of six minor and major systems) however, there is, occultly ‘room’ for the emergence of yet another expression of life.

83. Trong hệ mặt trời hiện tại (một hệ thống cung hai và do đó nhị nguyên) có nhấn mạnh đến hai tiến hóa song song là thiên thần và nhân loại. Tuy nhiên, trong hệ mặt trời kế (hệ mặt trời lớn thứ ba trong chuỗi sáu hệ lớn nhỏ), một cách huyền bí, có “dư địa” cho sự trỗi hiện của một biểu lộ sự sống khác nữa.

84. The consciousness of this Entity has obviously not awakened in the least. “He is occultly “blind”, utterly unaware”. In our solar system, even elemental lives are said to be responsive. The term “Army of the Voice” suggests that the elemental lives of our solar system are responsive to sound and that, occultly, they “hear”. The Entity under discussion does not even hear.

84. Tâm thức của Thực thể này hiển nhiên chưa hề tỉnh thức chút nào. “Y huyền bí ‘mù lòa’, hoàn toàn vô tri”. Trong hệ mặt trời chúng ta, ngay cả các sự sống hành khí cũng được nói là có đáp ứng. Thuật ngữ “Đạo binh của Âm Thanh” gợi ý rằng các sự sống hành khí của hệ mặt trời chúng ta đáp ứng với âm thanh và, theo huyền bí, chúng “nghe thấy”. Thực thể đang xét thậm chí còn không “nghe”.

85. As we study more, the mystery deepens.

85. Càng học, điều bí nhiệm càng sâu thêm.

The mystery of the moon70 [S. D., I, 172, see footnote] or of the “divine lunatic”

Bí nhiệm của Mặt Trăng70 [S. D., I, 172, xem chú thích] hay của “kẻ điên thiêng liêng”

86. An extraordinary concept for romantic ‘moon gazers’…

86. Một khái niệm phi thường đối với những ‘kẻ mơ trăng’ lãng mạn…

is connected somewhat with the revelation (through the premature compassion of our planetary Logos) of the life of this nature, informing the dense globe of the moon chain.

có liên hệ phần nào với sự mặc khải (thông qua lòng bi mẫn sớm của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta) về sự sống thuộc loại này , thấm nhuần bầu hành tinh đậm đặc của Dãy Mặt Trăng,

87. We have an amazing piece of occultism with deep implications.

87. Ở đây có một mảng huyền bí học kỳ diệu với những hệ quả sâu xa.

88. It was the “premature compassion” of our Planetary Logos which revealed, obviously prematurely, the “life of this nature”.

88. Chính “lòng bi mẫn sớm” của Hành Tinh Thượng đế chúng ta đã—hiển nhiên là quá sớm —mặc khải “sự sống thuộc loại này”.

89. Had our Planetary Logos not been possessed of “premature compassion”, the life of the “planetary Entity” would not have been revealed and its detected presence would not have complicated the life of evolving kingdoms (especially the human kingdom) upon the Moon-chain.

89. Nếu Hành Tinh Thượng đế của chúng ta không có “lòng bi mẫn sớm”, thì sự sống của “thực thể hành tinh” đã không được mặc khải và sự hiện diện (được phát hiện) của nó đã không làm phức tạp đời sống của các giới tiến hóa (đặc biệt là giới nhân loại) trên Dãy Mặt Trăng.

90. This was the life informing the dense globe of our Moon-chain. We are speaking now from a planetary perspective.

90. Đây là sự sống thấm nhuần bầu cầu đậm đặc của Dãy Mặt Trăng của chúng ta. Giờ chúng ta đang nói từ phối cảnh hành tinh.

91. Could the Entity (considered more broadly, i.e., solar systemically, as the ‘solar Entity’) be that which informed the dense nature of our “cosmic Moon”? This is a potentially rich analogy.

91. Liệu Thực thể này (nếu xét rộng hơn, tức ở cấp hệ mặt trời, như ‘thực thể thái dương’) có thể là cái đã thấm nhuần bản chất đậm đặc của “Mặt Trăng vũ trụ ” của chúng ta chăng? Đây là một đối chiếu nhiều điều đáng suy ngẫm.

92. Obviously, though the Moon-chain ‘died’, the “planetary Entity” (working through the globes of that chain—especially the “dense globe of the moon chain”) still remains and is slowly being brought into expression through our Earth-scheme.

92. Rõ ràng, dẫu Dãy Mặt Trăng ‘chết’, “thực thể hành tinh” (làm việc qua các bầu của dãy đó—đặc biệt là “bầu đậm đặc của Dãy Mặt Trăng”) vẫn còn đó và đang chậm rãi được đưa vào biểu lộ qua Hệ Địa Cầu của chúng ta.

93. And could we say, by analogy, that, although the Life-expression which became our “cosmic Moon” apparently ‘died’, it too, still remains—present, though, mercifully, incompletely “revealed” in the present solar system?

93. Và theo phép tương đồng, liệu chúng ta có thể nói rằng, dẫu Biểu lộ Sự Sống trở thành “Mặt Trăng vũ trụ” của chúng ta dường như đã ‘chết’, thì nó cũng vẫn còn—hiện diện, dù—nhờ ơn lành—chưa được “mặc khải” trọn vẹn trong hệ mặt trời hiện tại?

94. In all processes of evolutionary unfoldment, there is a proper schedule to be maintained. The consequences of altering this schedule (whether the schedule pertains to the human being, the Planetary Logos or the Solar Logos) can be dire.

94. Trong mọi tiến trình khai mở tiến hóa, cần giữ đúng lịch trình thích hợp. Hậu quả của việc thay đổi lịch trình này (bất kể lịch trình đó thuộc về con người, Hành Tinh Thượng đế hay Thái dương Thượng đế) có thể rất nghiêm trọng.

On His high level, pity awoke in the heart of the planetary Logos for certain involutionary existences within the moon chain,

Trên cấp độ cao cả của Ngài, lòng thương xót đã thức dậy trong trái tim của Hành Tinh Thượng đế đối với các sinh tồn giáng hạ trong Dãy Mặt Trăng,

95. We are speaking of that which, in sum, is known today as the “planetary Entity” and was, in that far-off time, the Entity “informing the dense globe of the moon chain”.

95. Chúng ta đang nói về cái mà, gộp lại, nay được biết là “thực thể hành tinh” và, vào thời xa xưa ấy, là Thực thể “thấm nhuần bầu đậm đặc của Dãy Mặt Trăng”.

96. It is clear that our Planetary Logos sought to hasten the evolution of these “involutionary existences”, which in their aggregate belonged to the “planetary Entity”.

96. Rõ ràng Hành Tinh Thượng đế chúng ta đã tìm cách thúc đẩy sự tiến hóa của những “sinh tồn giáng hạ” này, vốn trong tổng thể thuộc về “thực thể hành tinh”.

97. We note the activation of the heart nature of our Planetary Logos.

97. Chúng ta ghi nhận sự kích hoạt tâm tính của Hành Tinh Thượng đế chúng ta.

and (like the Buddha on a lesser scale and at a much later date)

(giống như Đức Phật ở quy mô nhỏ hơn và vào một thời rất muộn về sau)

98. The Buddha, though a great Being from the human perspective, is a Being of far lesser scope than our Planetary Logos.

98. Đức Phật, tuy là một Đấng vĩ đại xét theo phối cảnh nhân loại, vẫn là một Đấng có tầm vóc nhỏ hơn rất nhiều so với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta.

99. The so-called “sin of the Buddha” occurred within our present chain, the Earth-chain. The ‘sin’ (if we can call it that) of the Planetary Logos, occurred within the chain preceding our own—the Moon-chain

99. “Lỗi lầm của Đức Phật” (như thường gọi) xảy ra trong dãy hiện tại của chúng ta, Dãy Địa Cầu. ‘Lỗi’ (nếu có thể gọi vậy) của Hành Tinh Thượng đế xảy ra trong dãy ngay trước dãy của chúng ta—Dãy Mặt Trăng.

compassionate zeal brought the karmic results with which we are still concerned.

nhiệt tâm bi mẫn đã đem lại những kết quả nghiệp quả mà chúng ta vẫn còn phải bận tâm.

100. The term “compassionate zeal” applies to both the Planetary Logos and the Buddha and is the quality of energy which motivated their ‘mistakes’.

100. Thuật ngữ “nhiệt tâm bi mẫn” áp dụng cho cả Hành Tinh Thượng đế lẫn Đức Phật và là phẩm chất năng lượng thúc đẩy những ‘sai lầm’ của Các Ngài.

101. When we study the combination of these two words (“compassionate” and “zeal”), we may with reason infer that both the second and sixth rays were highly influential in allowing to emerge forms of life which should not (yet) have emerged.

101. Khi nghiên cứu kết hợp hai từ này (“bi mẫn” và “nhiệt tâm”), chúng ta có lý để suy ra rằng cả cung hai lẫn cung sáu đều ảnh hưởng mạnh, cho phép trỗi hiện những hình thức sự sống lẽ ra chưa (nên) trỗi hiện.

102. The “sin of the Buddha” involved, it has been suggested, choosing a Cosmic Path which, for Him, was not the correct one. He was not destined for the Path of Earth Service and remained with humanity too long following the time of His Enlightenment.

102. “Lỗi của Đức Phật” được gợi ý là chọn một Con Đường Vũ Trụ vốn không phù hợp với Ngài. Ngài không định hướng cho Con Đường Phụng Sự Trần Thế và đã ở lại với nhân loại quá lâu sau thời điểm Giác Ngộ của Ngài.

103. Is it possible that, by doing so, He caused something to emerge within humanity which should not have emerged? The whole matter is most mysterious, because we human beings think that the ongoing presence of the Buddha has had only a good effect on human and planetary evolution.

103. Có thể chăng bằng việc ấy, Ngài đã làm trỗi hiện nơi nhân loại điều lẽ ra không nên trỗi hiện? Toàn bộ vấn đề rất bí nhiệm, vì chúng ta—con người—nghĩ rằng sự hiện diện liên tục của Đức Phật chỉ mang lại hiệu ứng tốt lành cho tiến hóa nhân loại và hành tinh.

104. Yet, an incorrect decision by a Being as great as the Buddha can upset the planetary balance—in this case, especially in relation to the human kingdom.

104. Thế nhưng, một quyết định không chuẩn xác của một Đấng vĩ đại như Đức Phật có thể làm xáo trộn cân bằng hành tinh—trong trường hợp này, đặc biệt liên hệ đến giới nhân loại.

The “beast” must be driven back [847] for his own good to run his cycle, hidden in his den and confined within safe limits until the dawning of a new system brings him conscious opportunity.

“Con thú” phải bị dồn lui trở lại [847] vì lợi ích của chính nó để chạy vòng quay của mình, ẩn trong hang và bị giới hạn trong các ranh an toàn cho tới khi bình minh của một hệ thống mới mang đến cơ hội có ý thức cho nó.

105. A “beast” has been prematurely released into a planetary system (and perhaps, into a solar logoic system). We do not know, with certainty, whether our Solar Logos is, correspondingly, in a difficulty comparable to the difficulty in which our Planetary Logos finds Himself.

105. Một “con thú” đã bị phóng thích quá sớm vào một hệ hành tinh (và có lẽ, vào một hệ của Thái dương Thượng đế). Chúng ta không biết chắc liệu Thái dương Thượng đế của chúng ta có tương ứng gặp một khó khăn sánh được với khó khăn mà Hành Tinh Thượng đế của chúng ta đang gặp hay không.

106. We see here the union of such topics as premature revelation, over-stimulation, rampant instinctuality, etc.

106. Ở đây chúng ta thấy sự kết hợp của những chủ đề như mặc khải sớm, quá kích thích, bản năng hoành hành, v.v.

107. When, in the Great Invocation, we are asked to participate in sealing the “door where evil dwells” (which the Divine “Plan” must accomplish), and when we are asked in the potent meditation found under Rule X in The Rays and the Initiations, to assist in forcing streams of evil back onto the astral plane, we see that we are being asked participate in this process of ‘driving back’ which the Planetary Logos must now undertake as a result the His premature compassion He expressed on the Moon-chain. This same process may also be occurring at a solar systemic level. Our Solar Logos is not yet a sacred Solar Logos.

107. Khi, trong Đại Khấn Nguyện, chúng ta được kêu gọi tham gia niêm phong “cánh cửa nơi ác trú ngụ” (điều mà “Thiên Cơ” thiêng liêng phải hoàn thành), và khi chúng ta được kêu gọi, trong bài tham thiền đầy uy lực nằm dưới Quy luật X trong Các Cung và những Cuộc Điểm đạo , hỗ trợ dồn ép những dòng ác lực trở lại cõi cảm dục, chúng ta thấy rằng chúng ta được yêu cầu tham dự vào tiến trình ‘dồn lui’ này mà Hành Tinh Thượng đế hiện phải đảm nhận như hệ quả của lòng bi mẫn quá sớm mà Ngài đã biểu lộ trên Dãy Mặt Trăng. Cùng tiến trình này có thể cũng đang diễn ra ở cấp hệ mặt trời. Thái dương Thượng đế của chúng ta vẫn chưa phải là một Thái dương Thượng đế thiêng liêng,

108. Much is being revealed here about the nature of evil. We hear of the “dens of evil” (on the astral plane, particularly). The use of the word “den” in relation to the “planetary Entity” (and, perhaps, its higher and solar counterpart) is not accidental.

108. Ở đây nhiều điều được mặc khải về bản chất của ác. Chúng ta nghe nói đến “những hang ổ của ác” (đặc biệt trên cõi cảm dục). Việc dùng từ “hang ổ” liên hệ đến “thực thể hành tinh” (và có lẽ, đối phần cao hơn là thực thể thái dương) không phải là vô tình.

109. The role of Saturn as guardian and ‘jailor’ is not to be overlooked. Saturn, in relation to, a human being, works to confine those aspects of life which cannot yet be correctly and successfully handled by the incarnating human being. We must not suppose that we human beings can manage all forces to which we may be exposed.

109. Không nên bỏ qua vai trò của sao Thổ như người canh gác và ‘ngục tốt’. Trong liên hệ với con người, sao Thổ làm việc để cầm giữ những phương diện sự sống mà con người đang nhập thể chưa thể xử lý đúng và thành công. Chúng ta không nên cho rằng mình có thể quản trị mọi lực mà mình có thể tiếp xúc.

110. The use of the word “beast” suggest Mars (the number of which may be presumed as 666). Mars is the planet ruling the Creative Hierarchy of Lunar Lords and is, thus, intimately related to our Moon. This Martian function probably also has application throughout the solar system, as the Creative Hierarchies tabulated in Esoteric Astrology, 35, are not only planetary in nature, but occur throughout the solar system.

110. Việc dùng từ “con thú” gợi đến sao Hỏa (con số của hành tinh này có thể được xem là 666). Sao Hỏa cai quản Huyền Giai Sáng Tạo của các nguyệt tinh quân và do đó liên hệ mật thiết với Mặt Trăng của chúng ta. Chức năng Hỏa tinh này có lẽ cũng áp dụng trên khắp hệ mặt trời, vì các Huyền Giai Sáng Tạo được bảng kê trong Chiêm Tinh Học Nội Môn, 35, không chỉ mang tính hành tinh, mà còn hiện diện khắp hệ mặt trời.

111. Right now the “beast” (in relation to our planetary scheme) has no consciousness, no awareness. His release has meant the introduction of chaos into the life of the Earth-scheme and, perhaps, within the entire solar system. We do not know whether the Solar Logos was afflicted with “premature compassion” (as our Planetary Logos was), but we do know that the Solar Logos has struggles which are comparable to those of our Planetary Logos.

111. Hiện thời “con thú” (trong liên hệ với hệ hành tinh của chúng ta) không có tâm thức, không có tri giác. Sự phóng thích nó đã đem hỗn loạn vào đời sống của Hệ Địa Cầu và, có lẽ, trong toàn bộ hệ mặt trời. Chúng ta không biết liệu Thái dương Thượng đế có mắc “lòng bi mẫn sớm” (như Hành Tinh Thượng đế của chúng ta) hay không, nhưng chúng ta biết Thái dương Thượng đế cũng có những đấu tranh sánh với những đấu tranh của Hành Tinh Thượng đế chúng ta.

112. Conscious opportunity comes for the “beast” in the next solar system. It (the “beast”) is a Life which is neither deva nor human and will only find rightful expression in the Will System, at which time this third form of Life can safely emerge.

112. Cơ hội có ý thức đến với “con thú” trong hệ mặt trời kế tiếp, Nó (tức “con thú”) là một Sự Sống không phải thiên thần cũng không phải nhân loại và chỉ sẽ tìm thấy biểu lộ đúng đắn trong Hệ Thống của Ý Chí, khi ấy hình thức Sự Sống thứ ba này mới có thể trỗi hiện một cách an toàn.

113. It is interesting to realize that mistakes can be made by such high Beings as a Planetary Logos or a Buddha.

113. Thật thú vị khi nhận ra rằng ngay cả những Đấng cao như một Hành Tinh Thượng đế hay một Đức Phật cũng có thể phạm sai lầm.

114. The Universe itself, on all levels, is in a state of profound ignorance when compared to the ABSOLUTE (even though the ABSOLUTE is, technically speaking the INCOMPARALE). The density of ignorance only lessens as we ascend the Ladder of Being. Ignorance does not vanish until ABSOLUTENESS prevails ABSOLUTELY.

114. Chính Vũ Trụ, trên mọi cấp, ở trong một tình trạng vô minh sâu xa khi so với TUYỆT ĐỐI (dẫu TUYỆT ĐỐI, nói cho đúng, là BẤT KHẢ SO SÁNH). Mật độ vô minh chỉ giảm dần khi chúng ta leo lên Thang Bậc của Hữu Thể. Vô minh không tiêu vong cho đến khi TÍNH TUYỆT ĐỐI ngự trị TUYỆT ĐỐI.

115. As human beings, we must ask, whether there is something in us which must be “driven back” until it is safe to have it emerge?

115. Là con người, chúng ta phải tự hỏi, có điều gì trong ta cần phải bị “dồn lui” cho tới khi an toàn để cho nó trỗi hiện chăng?

116. Probably the answer is, “Yes”. Each of us has the “beast” within, and only when we have entered those series of incarnations in which the Monad is released into the soul-infused personality life, it is safe to see the “beast” emerge. Then the “beast” can be subdued and managed.

116. Có lẽ câu trả lời là “Có”. Mỗi người chúng ta đều có “con thú” bên trong, và chỉ khi chúng ta bước vào chuỗi hóa thân trong đó Chân Thần được phóng xuất vào đời sống phàm ngã được linh hồn thấm nhuần, thì mới an toàn để cho “con thú” trỗi hiện. Khi ấy “con thú” có thể bị khuất phục và quản trị.

117. Such as series of lives (and they will not be many) is the analogy in the human developmental process to the onset of the third major solar system in the developmental process of our Solar Logos.

117. Chuỗi đời sống như thế (và sẽ không nhiều) là phép tương đồng, trong tiến trình phát triển con người, với khởi sự của hệ mặt trời lớn thứ ba trong tiến trình phát triển của Thái dương Thượng đế chúng ta.

More we may not say.

Chúng ta không thể nói thêm.

118. We can see why this must be the case. These are profound mysteries dealing with dangerous matters. Humanity has, at times, almost become the “beast”. This we see in times of war—ruled, interestingly, by Mars, the number of which is 666, the “Number of the Beast”.

118. Chúng ta có thể thấy vì sao phải như vậy. Đây là những bí nhiệm thâm sâu liên quan tới những vấn đề nguy hiểm. Nhân loại đôi khi đã gần như trở thành “con thú”. Điều này thấy rõ trong thời chiến—mà kỳ lạ thay, do sao Hỏa cai quản, con số của nó là 666, “Con số của Con Thú”.

It must be remembered that the mysteries of existence are as yet but little cognised by man.

Cần ghi nhớ rằng những bí nhiệm của hiện hữu vẫn còn được con người nhận thức rất ít.

119. Continued close study of A Treatise on Cosmic Fire reveals this to be the case. We awaken to the fact that we know virtually nothing of Reality and of the any types of L/lives which express this Reality.

119. Việc học tập sát sao Luận về Lửa Vũ Trụ cho thấy điều đó là đúng. Chúng ta bừng tỉnh trước sự kiện rằng hầu như chúng ta chẳng biết gì về Thực Tại và về bất kỳ loại S/sự Sống nào biểu lộ Thực Tại ấy.

In cases where profound mysteries lie, man is often totally unaware of it; and frequently man remains blind and deaf where no mystery is but only revelation for those who have eyes to see and ears to hear.

Trong những trường hợp nơi các bí nhiệm sâu xa ẩn náu, con người thường hoàn toàn vô tri về chúng; và thường khi con người vẫn mù và điếc ở nơi không hề có bí nhiệm nào mà chỉ có sự mặc khải dành cho những ai có mắt để thấy và tai để nghe.

120. We human beings customarily live in a state of profound ignorance. There is nothing we can do about this (at least not all at once) except slowly to lift the veil which conceals ever-deeper layers of reality from our consciousness.

120. Thói thường, chúng ta sống trong một trạng thái vô minh sâu dày. Không có gì chúng ta có thể làm (ít nhất không thể cùng lúc ) ngoài việc chậm rãi vén bức màn che luôn luôn những tầng thực tại sâu hơn khỏi tâm thức chúng ta.

121. DK is distinguishing between “profound mysteries” and those states of potential consciousness which only seem to be mysteries but are, in fact, revealed “for those who have eyes to see and ears to hear”.

121. Chân sư DK đang phân biệt giữa “các bí nhiệm sâu xa” và những trạng thái tâm thức tiềm năng vốn chỉ có vẻ là bí nhiệm nhưng, kỳ thực, được mặc khải “cho những ai có mắt để thấy và tai để nghe”.

122. Relief from the latter type of ignorance is imminently possible. We can train ourselves in occultism (which, in many respects, is equivalent to training ourselves in ever-deepening perception). Tried and true methods have been given to us.

122. Sự giải thoát khỏi dạng vô minh sau cùng này là điều rất gần kề. Chúng ta có thể rèn luyện mình trong huyền bí học (mà ở nhiều phương diện, tương đương với rèn luyện mình trong năng lực tri giác ngày càng thâm sâu). Những phương pháp đã được thử thách và xác chứng đã được trao cho chúng ta.

123. With respect to the “profound mysteries” only time and much evolutionary development will make revelation possible.

123. Còn đối với “những bí nhiệm sâu xa”, chỉ có thời gian và nhiều phát triển tiến hóa mới có thể làm cho sự mặc khải trở nên khả hữu.

124. Incidentally, we can see DK telling us that we must cultivate our senses—especially the subtle senses of sight and hearing.

124. Nhân đây, chúng ta thấy Chân sư DK nhắc chúng ta phải tu dưỡng các giác quan—đặc biệt là các giác quan vi tế của thị giác và thính giác.

When man has penetrated to those secrets which lie behind the lower kingdoms in nature, when he has solved the problem of the constitution of the interior of the Earth, and has from there worked his way back to knowledge of the working of the involutionary path and the lives which tread that path, then and then only will he begin to realise the strangeness of that which lies beyond his ken.

Khi con người đã xuyên nhập vào những bí mật nằm phía sau các giới thấp trong thiên nhiên, khi người ấy đã giải bài toán về cấu tạo nội tâm của Trái Đất, và từ đó lần ngược lại để tri thức về vận hành của con đường giáng hạ và những sự sống đang bước trên con đường ấy, thì khi đó và chỉ khi đó người ấy mới bắt đầu nhận ra sự kỳ dị của cái nằm vượt ngoài tầm hiểu biết của mình.

125. DK is hinting at types of knowledge which man (at his present level of ignorance) must necessarily consider very strange.

125. Chân sư DK đang ám chỉ những loại tri thức mà con người (ở mức độ vô minh hiện tại) tất yếu phải coi là rất kỳ lạ.

126. DK is telling us that, for humanity, reality is inconceivably strange. When studying occultism, we often are prompted to realize that “truth is [indeed] stranger than fiction”.

126. Ngài đang nói với chúng ta rằng, đối với nhân loại, thực tại kỳ dị không thể nghĩ bàn. Khi học huyền bí học, chúng ta thường được thôi thúc nhận ra rằng “sự thật [quả thật] còn lạ lùng hơn hư cấu”.

127. Let us tabulate what man must do to realize the strangeness with which he is surrounded:

127. Chúng ta hãy liệt kê điều con người phải làm để nhận ra sự kỳ dị đang bủa vây mình:

a. He must penetrate those secrets which lie behind the lower kingdoms of nature.

a. Con người phải xuyên nhập những bí mật nằm phía sau các giới thấp của thiên nhiên.

b. He must solve the problem of the interior of the Earth

b. Con người phải giải bài toán về nội tâm của Trái Đất.

c. He must, knowing something of the nature of the interior of the Earth, more fully understand the involutionary path and the lives which tread that path.

c. Con người, sau khi biết đôi điều về bản chất nội tâm của Trái Đất, phải hiểu thấu đáo hơn con đường giáng hạ và những sự sống bước trên con đường ấy.

128. A number of hints are given by DK as He tells us how to proceed. May we infer that…

128. Nhiều ám chỉ được Chân sư DK trao ra khi Ngài nói cho chúng ta biết cách tiến hành. Chúng ta có thể suy ra rằng…

a. the expression of the lower kingdoms of nature, are closely related to the expression of the lives upon the involutionary path?

a. sự biểu lộ của các giới thấp trong thiên nhiên liên hệ mật thiết với sự biểu lộ của các sự sống trên con đường giáng hạ?

b. the true nature of the “interior of the Earth” is presently unknown to man? The “hollow Earth theory” comes to mind in this respect.

b. bản chất chân thật của “nội tâm Trái Đất” hiện đang là điều con người chưa biết? Ở đây chợt nhớ đến “thuyết Trái Đất rỗng”.

As said above, the aggregate of these lives is greater than the aggregate of those lives which form the sum total of solid earth as we understand the term, even though they do not exceed the number of lives which form the gaseous portion of manifestation; this gaseous portion is found in the atmosphere, interpenetrating dense matter, and filling in a large degree the interior caverns of the planet. The microcosmic resemblance to the great Life of the planet is seen in the fact that both forms are but outer sheaths or frameworks, sheltering an inner “vault”; both forms are hollow, both have their negative and positive extremities, their poles, so to speak, and internally much proceeds affecting the outer evolutions. (TCF 897)

Như đã nói ở trên, tổng thể những sự sống này lớn hơn tổng thể những sự sống hợp thành tổng số đất rắn như chúng ta hiểu thuật ngữ này, dẫu chúng không vượt quá số lượng những sự sống hợp thành phần khí của biểu lộ; phần khí này được tìm thấy trong khí quyển, xuyên thấm vật chất đậm đặc, và ở mức độ lớn lấp đầy các hang động bên trong của hành tinh, Tính tương tự vi mô đối với Sự Sống vĩ đại của hành tinh được thấy ở chỗ cả hai hình thể chỉ là những lớp vỏ ngoài hay khung sườn, che chở một “hầm” nội tại; cả hai đều rỗng , cả hai đều có đầu cực âm và cực dương của chúng, tức là các cực, và bên trong có nhiều vận hành ảnh hưởng đến các tiến hóa bên ngoài. (TCF 897)

c. the lives which tread the involutionary path are closely connected with the interior caverns of the planet?

c. các sự sống đang bước trên con đường giáng hạ liên hệ chặt chẽ với các hang động bên trong của hành tinh?

d. the evolutionary path is based upon the foundation of the involutionary path?

d. con đường thăng thượng tiến hóa được đặt nền trên con đường giáng hạ tiến hóa?

129. For the human mind, as presently conditioned, it seems that the mysteries of the involutionary path are far greater than the mysteries concerning those lives who are presently treading that part of the evolutionary path which is more or less cognizable.

129. Đối với trí con người, như hiện đang được điều kiện hóa, dường như các bí nhiệm của con đường giáng hạ lớn hơn nhiều so với các bí nhiệm liên quan đến những sự sống hiện đang bước trên phần của con đường thăng thượng tiến hóa mà chúng ta phần nào có thể nhận biết.

130. An important point to be gathered from the foregoing section is that ‘familiarity is not reality’—that with which we are familiar is usually a poor representation of that which is real.

130. Một điểm quan trọng rút ra từ đoạn trên là ‘sự quen thuộc không phải là thực tại’—cái mà chúng ta quen thuộc thường chỉ là một biểu ảnh nghèo nàn của điều vốn có thật.

One further hint may be given, which will serve to throw a beam of light upon the problem for those who are ready, and will add to the confusion of the non-intuitive:

Một gợi ý nữa có thể được đưa ra, hòng chiếu một tia sáng lên vấn đề đối với những ai đã sẵn sàng, và sẽ chỉ gia tăng hoang mang cho người không trực giác:

131. We note how DK works when seeking to shed more light on certain mysteries which must, necessarily, remain profound and unrevealed to any but those who are ready to understand them.

131. Chúng ta ghi nhận cách Chân sư DK làm việc khi muốn soi thêm ánh sáng vào những bí nhiệm nhất định vốn phải, tất yếu, vẫn rất sâu xa và chưa thể mặc khải cho bất kỳ ai ngoài những người sẵn sàng thấu hiểu.

132. The problem with which we are concerned is to understand more of the nature of the “planetary Entity” (and ‘planetary Entities’) and of the ‘solar systemic Entity’ which is the systemic counterpart of the planetary Entity.

132. Vấn đề chúng ta đang bận tâm là hiểu biết nhiều hơn về bản chất của “thực thể hành tinh” (và các ‘thực thể hành tinh’) và “thực thể cấp hệ mặt trời” vốn là đối phần hệ thống của thực thể hành tinh.

                             —From the standpoint of the ONE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID, to Whom our solar system is but a centre (which centre being one of the three truths revealed at the seventh Initiation)

—Từ lập trường của ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ, đối với Ngài, hệ mặt trời của chúng ta chỉ là một trung tâm (trung tâm này là một trong ba chân lý được mặc khải ở lần Điểm đạo thứ bảy)

133. DK seems to be speaking in terms of the Cosmic Logos in which our solar system forms a center—namely the heart center.

133. Có vẻ như Chân sư DK đang nói theo các cấp của một Thái dương Thượng đế Càn Khôn mà trong Ngài, hệ mặt trời của chúng ta tạo thành một trung tâm—tức trung tâm trái tim.

134. We remember that the term “One About Whom Naught May Be Said” may have multiple meanings—the most familiar of which, for us, concern the levels of Cosmic Logos and Super-Cosmic Logos (a Being which has constellations of stars as its chakras). (cf. TCF 293)

134. Chúng ta nhớ rằng thuật ngữ “Đấng Bất Khả Tư Nghị” có thể mang nhiều ý nghĩa—quen thuộc nhất với chúng ta là ở các cấp Thái dương Thượng đế Càn Khôn và Siêu Thái dương Thượng đế Càn Khôn (một Đấng có các chòm sao làm luân xa của Ngài). (x. TCF 293)

135. We have also discussed the manner in which the term “solar system” can mean a sun surrounded by planets (or, perhaps, not surrounded by planets, or even a dual-sun system), OR a system of seven major suns (really, a constellation). Both are systems and the main unit or units in both are solar.

135. Chúng ta cũng đã bàn luận cách thuật ngữ “hệ mặt trời” có thể nghĩa là một mặt trời được bao quanh bởi các hành tinh (hoặc có lẽ không có hành tinh, hay thậm chí là một hệ hai mặt trời), HOẶC một hệ gồm bảy mặt trời chính (thực sự là một chòm sao). Cả hai đều là hệ và đơn vị chủ đạo trong cả hai đều là thái dương,

136. Presumably, however, the Tibetan is discussing our immediate solar system consisting of our Sun, Helios, and His seven major and many more minor planets and planetoids.

136. Tuy nhiên, có lẽ Chân sư Tây Tạng đang bàn về hệ mặt trời gần gũi của chúng ta gồm Mặt Trời, Helios, và bảy hành tinh chính cùng nhiều hành tinh, tiểu hành tinh phụ.

137. We learn that there are three truths revealed at the seventh initiation. We could wonder why DK speaks of the revelations conferred at such a high initiation.

137. Chúng ta biết có ba chân lý được mặc khải ở lần điểm đạo thứ bảy. Ta có thể tự hỏi vì sao Chân sư DK nhắc đến các mặc khải được ban ở một lần điểm đạo cao như vậy.

138. We could also wonder at the idea that the revelation of which center our solar system represents is, thus far, unrevealed. At various points throughout the Teaching, DK seems to tell us that our solar system is a heart center within the “One About Whom Naught May Be Said”—the lesser One About Whom, so it seems.

138. Ta cũng có thể thắc mắc về ý niệm cho rằng mặc khải về trung tâm mà hệ mặt trời chúng ta đại diện vẫn còn chưa được công bố. Ở nhiều chỗ trong Giáo huấn, có vẻ Chân sư DK nói rằng hệ mặt trời của chúng ta là một trung tâm trái tim trong “Đấng Bất Khả Tư Nghị”—dường như là Đấng Bất Khả Tư Nghị nhỏ hơn,

139. Of course, He does not explicitly tell us which center in the “One About Whom Naught May Be Said” is represented by our Cosmic Logos in which our Solar Logos (and His solar system) is the heart center. We have reasoned that our local Cosmic Logos represents the solar plexus center of that Great Entity.

139. Tất nhiên, Ngài không nói rõ trung tâm nào trong “Đấng Bất Khả Tư Nghị” được biểu trưng bởi Thái dương Thượng đế Càn Khôn của chúng ta, trong Ngài, Thái dương Thượng đế (và hệ mặt trời của Ngài) là trung tâm trái tim. Chúng ta đã lý luận rằng Thái dương Thượng đế Càn Khôn cục bộ của chúng ta biểu trưng trung tâm tùng thái dương của Đấng Vĩ Đại kia.

140. The seventh initiation is a highly solar initiation. In the scheme of solar initiations, it represents Mastership, and in the scheme of Sirian initiations, Transfiguration. It is fitting, then, that deep secrets about the Solar Logos and His place and position in the larger scheme of things would be revealed at this initiation.

140. Lần điểm đạo thứ bảy là một lần điểm đạo rất thái dương, Trong sơ đồ các lần điểm đạo thái dương , nó biểu hiệu Địa vị Chân sư, và trong sơ đồ các lần điểm đạo Sirius, là Biến hình. Do vậy, thật thích đáng khi các bí mật sâu xa về Thái dương Thượng đế và vị trí của Ngài trong cương vực lớn hơn được mặc khải ở lần điểm đạo này.

141. Below we are speaking of the organization of a center (a chakra) from which the “mysterious life” under discussion, emerged.

141. Dưới đây chúng ta nói về sự tổ chức của một trung tâm (luân xa) từ đó “sự sống bí nhiệm” đang bàn trỗi hiện.

a. System I……             was characterised by the organisation of a centre, and the mysterious life we have been speaking about was produced by the “lowest vibration of the centre.”

a. Hệ I…… được đặc trưng bởi sự tổ chức một trung tâm, và sự sống bí nhiệm mà chúng ta đang nói tới được sản sinh bởi “rung động thấp nhất của trung tâm”.

142. By “System I” is meant the previous solar system, the first of the major solar systems.

142. “Hệ I” là chỉ hệ mặt trời trước—hệ mặt trời lớn thứ nhất.

143. If this “centre” was organized within the ring-pass-not of the Solar Logos, then the Entity concerned is intra-systemic, and the “point in the Heavens” from which it originates may be considered an intra-systemic point.

143. Nếu “trung tâm” này được tổ chức bên trong vòng-giới-hạn của Thái dương Thượng đế, thì Thực thể liên hệ là nội hệ, và “điểm trên Trời” từ đó nó khởi nguyên có thể được xem là một điểm nội hệ.

144. The “centre” concerned is the origin, apparently, of the ‘solar Entity’ (the higher analogue of the “planetary Entity”. It can be reasoned that the “planetary Entity” is an aspect of the larger ‘solar Entity’.

144. “Trung tâm” đang nói tới là khởi nguyên, hiển nhiên, của ‘thực thể thái dương’ (đối ảnh cao của “thực thể hành tinh”). Có thể suy luận rằng “thực thể hành tinh” là một phương diện của ‘thực thể thái dương’ lớn hơn.

145. We are presented with a picture of Entities emerging from solar centers or chakras.

145. Bức tranh được đưa ra là các Thực thể trỗi hiện từ các trung tâm hay luân xa thái dương.

146. We remember that planets, themselves, are centers within a Solar Logos, and so it could be inferred that there is a certain planet from which the Entity under discussion emerged.

146. Chúng ta nhớ rằng chính các hành tinh là những trung tâm trong một Thái dương Thượng đế, nên có thể suy ra có một hành tinh nào đó là nơi Thực thể đang bàn đã trỗi sinh.

147. We must also remember that chakras/centers are E/entities in themselves.

147. Chúng ta cũng cần nhớ rằng các luân xa/trung tâm những Thực thể tự thân.

b. System II.….             is characterised by the activity in three di­men­sions of this centre,

b. Hệ II….. được đặc trưng bởi hoạt động trong ba chiều của trung tâm này,

148. The “centre”, we see, persists from one major solar system to the next. We might inquire whether anything resembling this centre existed in the three minor solar systems preceding the previous solar system for certainly there was elemental substance in those systems. Yet, perhaps, that substance was not then “informed” by such an Entity.

148. “Trung tâm” này, ta thấy, tồn tại từ hệ mặt trời lớn này sang hệ mặt trời lớn khác. Ta có thể hỏi liệu có gì tương tự trung tâm này hiện hữu trong ba hệ mặt trời nhỏ trước hệ trước hay không, vì chắc chắn đã có chất liệu hành khí trong các hệ ấy. Tuy vậy, có lẽ chất liệu đó khi ấy chưa được “thấm nhuần” bởi một Thực thể như vậy.

and the evolution of three types of consciousness, deva, human and subhuman, in all their many grades and hierarch­ies.

và sự tiến hóa của ba loại tâm thức, thiên thần, nhân loại và bán nhân loại, trong tất cả các cấp bậc và huyền giai của chúng.

149. The three lower kingdoms of nature are considered “subhuman” but not devic.

149. Ba giới thấp của thiên nhiên được xem là “bán nhân loại” nhưng không phải thiên thần.

150. The “hierarchies” here mentioned are other than the Twelve Creative Hierarchies. The term “hierarchies” is used in a general sense.

150. “Huyền giai” ở đây được dùng theo nghĩa chung, khác với mười hai Huyền Giai Sáng Tạo. Thuật ngữ “huyền giai” được dùng theo nghĩa rộng.

151. We may infer that every center has a number of dimensions. In the previous solar system, only one (the very lowest) dimension was active—at least as regards the center under discussion.

151. Chúng ta có thể suy ra rằng mọi trung tâm đều có nhiều chiều. Trong hệ mặt trời trước, chỉ một chiều (thấp nhất) hoạt động—ít nhất xét với trung tâm đang bàn.

152. In the second solar system, three dimensions of the center in question became active. It appears as if the lowest dimension active in the previous solar system is one of the three active in the second.

152. Trong hệ mặt trời thứ hai, ba chiều của trung tâm này hoạt động. Có vẻ chiều thấp nhất từng hoạt động trong hệ mặt trời trước là một trong ba chiều hoạt động trong hệ thứ hai.

It is the period of the balancing of the forces in the centre.

Đây là thời kỳ quân bình hóa các lực trong trung tâm.

153. Our solar system is apparently not meant to be the period of the emergence and release of the forces in this centre.

153. Hiển nhiên hệ mặt trời của chúng ta không được định là thời kỳ để các lực trong trung tâm này trỗi hiện và được phóng thích.

154. In a second ray solar system, balance can easily be achieved. We think of Libra, the third ray, and karmic balancing in relation to the matter of the dense physical plane of the Solar Logos.

154. Trong một hệ mặt trời cung hai, sự quân bình dễ đạt được. Chúng ta nghĩ đến Thiên Bình, cung ba, và sự quân bình nghiệp trong liên hệ với vấn đề của cõi hồng trần đậm đặc của Thái dương Thượng đế.

c. System III….             will be characterised by the fourth dimen­sional activity of the centre, and the twelve types of evolution will become four types of force. [848]

c. Hệ III…. sẽ được đặc trưng bởi hoạt động bốn chiều của trung tâm, và mười hai loại tiến hóa sẽ trở thành bốn loại lực. [848]

155. We know that fourth dimensional activity immediately precedes the process of initiation. For instance, as the first initiation is approached, certain of the etheric chakras of man become fourth dimensional. As the second initiation is approached, this becomes so for certain of the astral chakras, etc. We cannot say that all etheric chakras become fourth dimensional in their rotation before the first initiation, and likewise of the astral chakras in relation to the second.

155. Chúng ta biết hoạt động bốn chiều ngay lập tức đi trước tiến trình điểm đạo. Chẳng hạn, khi tiếp cận lần điểm đạo thứ nhất, một số luân xa dĩ thái của con người trở nên hoạt động bốn chiều. Khi tiếp cận lần điểm đạo thứ hai, điều này xảy ra với một số luân xa cảm dục, v.v. Chúng ta không thể nói rằng mọi luân xa dĩ thái đều trở nên hoạt động bốn chiều trước lần điểm đạo thứ nhất, và tương tự với các luân xa cảm dục đối với lần thứ hai.

156. The activity of the Entity under discussion, will be truly conscious during the next solar system, “System III”. Presumably, the development of the “centre” in question has much to do with the emerging consciousness of the Entity in question. The “centre” and the “Entity” appear not to be the same, the first being the source of the second.

156. Hoạt động của Thực thể đang bàn sẽ thực sự có ý thức trong hệ mặt trời kế, “Hệ III”. Có thể tiên liệu rằng sự phát triển của “trung tâm” này có liên hệ mật thiết với sự trỗi dậy tâm thức của Thực thể ấy. Có vẻ “trung tâm” và “Thực thể” không đồng nhất; cái thứ nhất là nguồn của cái thứ hai.

157. When energies become forces they are concretized. Since we will be entering a solar system of synthesis, the ingathering of three into one will be occurring. Perhaps among the “twelve types of evolution” there are four which are to be considered synthetic. If each of these major four ingathers a lesser three, then four major types of force will remain.

157. Khi các năng lượng trở thành các lực, chúng trở nên cụ thể hóa. Vì chúng ta sẽ bước vào một hệ mặt trời của tổng hợp, sự gom ba thành một sẽ diễn ra. Có lẽ trong “mười hai loại tiến hóa” có bốn loại được xem là tổng hợp. Nếu mỗi một trong bốn chính này gom về một bộ ba phụ, thì bốn loại lực chính sẽ còn lại.

158. In relation to the kingdom of “Man” (Planetary Man, Solar Man, etc.) there are three Beings which are synthetic. Perhaps, in relation to the devic kingdom, towards which the Entity under discussion appears to be bridging, the number of synthetic Beings is four and not three.

158. Trong liên hệ với giới “Con Người” (Con Người Hành tinh, Con Người Thái dương, v.v.) có ba Đấng mang tính tổng hợp. Có lẽ, trong liên hệ với giới thiên thần, mà về phía đó Thực thể đang bàn dường như đang làm nhịp cầu, con số các Đấng tổng hợp là bốn chứ không phải ba,

This is next to impossible for man to understand and will seem inexplicable,

Điều này gần như bất khả cho con người hiểu nổi và sẽ có vẻ không thể giải thích,

159. Does it not?

159. Phải chăng là vậy?

but this hint is imparted in order that man may real­ise the interdependence of the various systems,

nhưng gợi ý này được trao ra để con người có thể nhận ra sự tương thuộc giữa các hệ thống khác nhau,

160. In this case, the interdependence of the three major solar systems.

160. Trong trường hợp này, là sự tương thuộc giữa ba hệ mặt trời lớn,

and the place they hold in a greater scheme;

và vị trí mà chúng chiếm giữ trong một sơ đồ lớn hơn;

161. By “the greater scheme” is meant the full evolutionary process of our Solar Logos.

161. “Sơ đồ lớn hơn” ở đây là toàn bộ tiến trình tiến hóa của Thái dương Thượng đế chúng ta.

the intent is not to give the student uncorrelated facts of no apparent use to him.

mục đích không phải là cung cấp cho đạo sinh những sự kiện rời rạc không có ích lợi rõ rệt cho y.

162. The amassing of uncorrelated facts is a menace to the enlightenment of the student. When presented with a mass of detail (at first seemingly uncorrelated) our task is to begin the process of correlation. This we are attempting to do in these commentaries on A Treatise on Cosmic Fire. In relation to any fact, its meaning or place within the pattern of the whole is to be discovered.

162. Việc tích góp những dữ kiện chưa được liên kết là mối nguy cho sự soi sáng của đạo sinh. Khi được trình ra một khối chi tiết (ban đầu dường như rời rạc), nhiệm vụ của chúng ta là khởi sự quá trình liên kết. Đây là điều chúng ta đang cố gắng thực hiện trong các chú giải về Luận về Lửa Vũ Trụ, Với bất kỳ dữ kiện nào, ý nghĩa hay vị trí của nó trong mô hình toàn thể cần được khám phá.

163. The use of the word “apparent” is important. The facts presented may, in fact, be of some use to the recipient of the facts, even if the necessary correlation has not yet been performed.

163. Việc dùng từ “rõ rệt” là quan trọng. Các dữ kiện được nêu có thể, thực ra, có một phần ích dụng cho người tiếp nhận, ngay cả khi việc liên kết cần thiết chưa được thực hiện.

Without the pre­mise of our position within a vaster scheme, man’s deductions will remain inaccurate.

Không có tiền đề về vị trí của chúng ta trong một sơ đồ bao la hơn, các suy luận của con người sẽ vẫn thiếu chính xác,

164. The Earth has its place within the solar systemic scheme. Of this we are customarily aware.

164. Trái Đất có vị trí của nó trong sơ đồ hệ mặt trời. Điều này chúng ta thường biết.

165. But we are far from accurately aware of the position of our solar system within a still larger system of seven major suns (including, as well, additional minor suns).

165. Nhưng chúng ta còn rất xa mới biết chính xác vị trí của hệ mặt trời chúng ta trong một hệ còn lớn hơn gồm bảy mặt trời chính (đồng thời bao hàm thêm các mặt trời phụ).

166. We are also totally unaware of the position of the body of manifestation of this Cosmic Logos within a still greater system expressing the synthetic Life of the “One About Whom Naught May Be Said”.

166. Chúng ta cũng hoàn toàn không hay biết vị trí thân biểu lộ của Thái dương Thượng đế Càn Khôn này trong một hệ còn lớn hơn nữa, vốn biểu lộ Sự Sống tổng hợp của “Đấng Bất Khả Tư Nghị”.

167. The principle emerges: when we search for meaning, we must always do so in relation to a vaster scheme, system or whole. Meaning is derived by relating the part to the whole, and in occultism, there are ever grater wholes to contend with.

167. Một nguyên tắc hiện ra: khi tìm kiếm ý nghĩa, chúng ta luôn phải làm như thế trong liên hệ với một sơ đồ, hệ, hay toàn thể bao la hơn. Ý nghĩa được rút ra bằng cách liên hệ bộ phận với toàn thể, và trong huyền bí học, luôn luôn có những toàn thể lớn hơn để xét đến.

Scroll to Top