Soul/Personality Combinations with a Ray Two Soul
Some Contrasts Between the Ray 2 Soul and the Ray 1 Personality—Một vài đối chiếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung một
Ray 2 Soul | Ray 1 Personality |
1. spiritual love and wisdom | 1. personal willfulness and aggression |
2. the will to preserve and save | 2. inconsiderate destructiveness in order to achieve personal advantage |
3. joy and spiritual positivity | 3. wrath and anger |
4. spiritual inclusiveness; accepting others despite their imperfections | 4. personal exclusiveness; rejecting others because of their imperfections |
5. spiritual attachment to the heart and soul of others | 5. cold detachment; rebuffing others |
6. spiritual achievement through the power of magnetic attraction | 6. accomplishment through grasping assertiveness and, even aggressiveness |
7. loving impersonality | 7. callous impersonality |
8. spiritual intimacy | 8. isolating aloofness |
9. extreme spiritual sensitivity and intuition | 9. hardness, insensitivity, imperviousness |
10. deep, empathic understanding | 10. inability (or lack of desire) to get close enough to others to really understand them |
11. kindness and long-suffering patience | 11. personal demands and impatience |
12. gentle tact based upon spiritual love | 12. harsh, blunt expression of opinion despite the wounds it may cause |
13. group love and cooperation | 13. personal egotism and lack of cooperation; unilateral undertakings unrelated to the group |
14. humble, spiritual decentralization | 14. selfish personal centralization and self-aggrandizement |
15. well-considered action based on profound thought | 15. rash, unconsidered action |
16. the “wise use of slow action” | 16. violence |
17. spiritually evocative; noncoercive | 17. dominating, coercive and controlling |
Ray 2 Soul – Linh hồn Cung Hai | Ray 1 Personality – Phàm ngã Cung Một |
1. Tình thương và minh triết tinh thần | 1. Ý chí cá nhân cố chấp và hung hăng |
2. Ý chí bảo tồn và cứu rỗi | 2. Tính phá hủy bất chấp để đạt lợi ích cá nhân |
3. Niềm vui và tính tích cực tinh thần | 3. Cơn thịnh nộ và giận dữ |
4. Tính bao dung tinh thần; chấp nhận người khác dù họ có khiếm khuyết | 4. Tính loại trừ cá nhân; khước từ người khác vì khuyết điểm của họ |
5. Sự gắn bó tinh thần với trái tim và linh hồn của người khác | 5. Sự lạnh lùng tách biệt; xua đuổi người khác |
6. Thành tựu tinh thần thông qua quyền năng của sự thu hút từ tính | 6. Thành công bằng sự nắm bắt khẳng định và thậm chí là tính hiếu chiến |
7. Tính vô ngã đầy tình thương | 7. Tính vô cảm và lạnh lùng |
8. Sự thân mật tinh thần | 8. Sự cô lập xa cách |
9. Sự nhạy cảm và trực giác tinh thần sâu sắc | 9. Sự cứng rắn, thiếu nhạy cảm, không lay chuyển |
10. Sự thấu hiểu sâu sắc đầy cảm thông | 10. Sự bất lực (hoặc thiếu mong muốn) đến gần người khác để thật sự hiểu họ |
11. Lòng nhân từ và tính kiên nhẫn chịu đựng | 11. Đòi hỏi cá nhân và thiếu kiên nhẫn |
12. Sự khéo léo nhẹ nhàng dựa trên tình thương tinh thần | 12. Cách diễn đạt gay gắt, thô bạo dù có thể gây tổn thương |
13. Tình thương và sự hợp tác trong nhóm | 13. Tính ích kỷ cá nhân và thiếu hợp tác; hành động đơn phương không liên hệ với nhóm |
14. Sự khiêm cung và phi tập trung tinh thần | 14. Sự tập trung ích kỷ vào bản thân và tự đề cao cá nhân |
15. Hành động được suy xét kỹ lưỡng dựa trên tư duy sâu sắc | 15. Hành động hấp tấp, thiếu cân nhắc |
16. “Sự sử dụng khôn ngoan của hành động chậm rãi” | 16. Bạo lực |
17. Có sức gợi tinh thần; không cưỡng ép | 17. Tính thống trị, cưỡng ép và kiểm soát |
The Integration Process for the Individual with a Ray 2 Soul and a Ray 1 Personality | Tiến trình tích hợp cho cá nhân có linh hồn cung hai và phàm ngã cung một |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of second ray soul energy and the self-centered use of first ray personality force), are to achieve the complete fulfillment of personal love (or the complete satisfaction of studious inquiry [2B]), as well as great personal power arising from the unrestrained imposition of the personal will. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị một phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, các động cơ của cá nhân (dựa trên sự xuyên tạc ở cấp phàm ngã của năng lượng linh hồn cung hai và việc sử dụng tập trung vào bản ngã của mãnh lực phàm ngã cung một), là đạt đến sự viên mãn trọn vẹn của tình thương cá nhân (hoặc sự thoả mãn trọn vẹn của khảo cứu chuyên chú [2B]), cũng như quyền lực cá nhân to lớn phát sinh từ sự áp đặt vô độ ý chí cá nhân. |
The person wants, primarily, to be constantly loved, consistently popular, warmly admired, well-cared-for, and to live a soft, comfortable, well-protected, well-insulated life—closely attached to those people, places and things which he loves and finds personally satisfying, but he also want to dominate and control others, and wield authority unopposed. (The inherent contradiction of this combination is extremely evident, just as there was an inherent contradiction associated with the combination of the first ray soul and the second ray personality.) | Người này chủ yếu muốn được yêu thương liên tục, luôn được ưa chuộng, được ngưỡng mộ nồng ấm, được chăm sóc chu đáo, và sống một đời sống êm ả, tiện nghi, được che chở tốt—gắn bó chặt chẽ với những người, nơi chốn và vật sở hữu mà y yêu và cảm thấy thoả mãn cá nhân, nhưng y cũng muốn thống trị và kiểm soát người khác, và nắm quyền lực không bị chống đối. (Mâu thuẫn vốn có của tổ hợp này hết sức hiển nhiên, cũng như đã có một mâu thuẫn vốn có đi kèm tổ hợp linh hồn cung một và phàm ngã cung hai.) |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: the essentially weak but willful person; the spoiled individual who believes that he has a right to self-indulgence; the socialite who always wants to be noticed and appreciated (2A + 1A); the fearful, “motherly” type, who forces his overprotectiveness on those for whom he imagines he is totally responsible (2A + 1); the ‘helper’ whose ego is invested in keeping those he helps dependent upon him; the intimate advisor who loves to tell others what to do (2B + 1); the overly-responsible person who destroys the character of others because he does too much for them (2A + 1B); the savior who, in glorifying his role as savior, robs others of their strength (2A + 1); the religiously inclined individual who believes that he personally has the power to “save the world” (2A + 1); the person with a deep inferiority complex who compensates by acting superior—superior as a source of love (2A + 1), or superior as a source of wisdom (2B + 1); the person who becomes so thoroughly absorbed in study that he remains selfishly aloof from others (2B + 1); the person who wants to say “Yes” but always finds himself saying “No”; the self-consciously humble person who forces others to be humble too; the one who ‘hates’ those who do not ‘love’ (2A + 1); the comfort-loving person who will use the full force of his personal will to preserve his personal comforts; the ‘wise’ individual who is destructively critical of all forms of wisdom except his own (2B + 1B); the ‘sage’ who prides himself on the supremacy of his world view and the scope of his understanding (2B + 1); etc. | Về mặt tiêu cực và trong ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp tạo ra: người về bản chất là yếu nhưng đầy ý chí; kẻ được nuông chiều tin rằng mình có quyền tự phóng túng; người giao thiệp ưa phô trương luôn muốn được chú ý và trân trọng (2A + 1A); kiểu người “mẹ” sợ hãi, áp đặt sự quá-mực bảo bọc của mình lên những người mà y tưởng là mình hoàn toàn chịu trách nhiệm (2A + 1); ‘người giúp đỡ’ gắn cái tôi của mình vào việc giữ cho những người được giúp lệ thuộc vào y; người thân tín ưa khuyên bảo thích nói cho người khác phải làm gì (2B + 1); người quá-mức trách nhiệm phá hỏng phẩm cách của người khác vì y làm quá nhiều thay cho họ (2A + 1B); “vị cứu tinh” mà trong việc tôn vinh vai trò cứu tinh của mình, lại làm yếu đi sức mạnh của người khác (2A + 1); người có khuynh hướng tôn giáo tin rằng y, cá nhân y, có quyền năng “cứu thế giới” (2A + 1); người mang mặc cảm tự ti sâu sắc bù trừ bằng cách hành xử như ở trên—trội vượt như nguồn tình thương (2A + 1), hoặc trội vượt như nguồn minh triết (2B + 1); người chìm sâu vào học tập đến mức vẫn ích kỷ tách biệt khỏi người khác (2B + 1); người muốn nói “Vâng” nhưng luôn thấy mình nói “Không”; kẻ tự ý thức về đức khiêm tốn của mình, rồi cũng buộc người khác phải khiêm tốn; người ‘ghét’ những ai không ‘yêu’ (2A + 1); người ưa tiện nghi sẽ dùng hết sức mạnh của ý chí cá nhân để bảo toàn tiện nghi riêng; ‘người khôn ngoan’ phê phán phá hoại mọi hình thái minh triết trừ minh triết của chính y (2B + 1B); ‘bậc hiền’ tự hào về tính tối thượng của thế giới quan và độ bao quát hiểu biết của mình (2B + 1); v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray two soul and the ray one personality is the struggle between the need to express unconditional soul love and wisdom and the urge to express personal will regardless of destructive consequences. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần khiết xung đột với mãnh lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung một là cuộc đấu tranh giữa nhu cầu biểu lộ tình thương và minh triết vô điều kiện của linh hồn và thôi thúc bộc lộ ý chí cá nhân bất chấp hậu quả phá hoại. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the second ray soul: It will be the task of the second ray soul to pervade with spiritual love and wisdom a personality that is instinctively self-centered, self-willed and resistant to altruism. The soul seeks to impose a broader, and more inclusive perspective, but the personality is innately exclusive, overly-assertive and infused with the quality of rebuff, contributing to its repudiation of and by others—hence its isolation and alienation. The soul works to dissolve the many barriers the personality has built around itself; through the steady and consistent infusion of light, the soul reveals to the personality the unhappy consequences of egotism and a loveless existence. | 3. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ góc nhìn của tâm thức đồng nhất chủ yếu với linh hồn cung hai: Nhiệm vụ của linh hồn cung hai sẽ là thấm nhuần tình thương và minh triết tinh thần vào một phàm ngã theo bản năng là vị kỷ, tự ý chí và kháng cự lòng vị tha. Linh hồn tìm cách áp đặt một viễn kiến rộng hơn, bao gồm hơn, nhưng phàm ngã vốn thiên về loại trừ, quá khẳng quyết và thấm đẫm phẩm tính đẩy-lùi, góp phần vào việc y vừa khước từ người khác vừa bị người khác khước từ—do đó là cô lập và lạc loài. Linh hồn làm việc để hoà tan nhiều hàng rào mà phàm ngã đã dựng quanh mình; bằng sự thấm nhuần ánh sáng ổn định và liên tục, linh hồn cho phàm ngã thấy những hậu quả bất hạnh của thói ngã chấp và đời sống thiếu tình thương. |
By a process of constant ‘softening,’ the soul trains the personality to cease rupturing interpersonal links. Softening, smoothing, restraining, ameliorating, cushioning, enfolding, illuminating, quieting—these are the methods by which the second ray soul brings love and wisdom into the consciousness of a personality which would rather force its way through the world—alone. | Bằng tiến trình ‘làm mềm’ không ngừng, linh hồn rèn phàm ngã ngưng làm đứt gãy các mối liên kết liên nhân. Làm mềm, làm mịn, kiềm chế, điều hoà, đệm đỡ, bao bọc, soi sáng, làm lắng—đó là các phương cách mà linh hồn cung hai mang tình thương và minh triết vào tâm thức của một phàm ngã vốn thích cậy sức băng qua cuộc đời—một mình. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the first ray personality: The second ray pressure towards integration will be felt by the first ray personality as a subtle and frustrating, weakening experience. The personality will feel robbed of its strength, its edges dulled, its impacts lessened, and its sharp lines of personal distinction blurred. | 4. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ góc nhìn của tâm thức đồng nhất chủ yếu với phàm ngã cung một: Áp lực hướng tới tích hợp của cung hai sẽ được phàm ngã cung một cảm như một kinh nghiệm tinh vi nhưng gây ức chế và suy yếu. Phàm ngã sẽ thấy sức mạnh của mình bị rút bớt, các cạnh bị làm cùn, tác động bị giảm, và những đường nét phân biệt cá nhân sắc bén bị làm nhòe. |
The first ray personality prides itself on its strength; it is not used to blending, merging, and deferring. It does not immediately see why it should “hold back,” and stop itself from grasping that which it desires, because, after all, it is perfectly capable of getting what it wants! And yet every straight line of assertive action is subtly and gently changed into a curved line of more mutual, considerate action. | Phàm ngã cung một hãnh diện về sức mạnh của mình; nó không quen hoà trộn, dung hợp và nhường nhịn. Nó không nhìn ngay ra vì sao nó phải “kìm lại” và ngưng tự vươn tay nắm lấy cái mình ham muốn, vì rốt cuộc nó hoàn toàn có thể đạt được điều nó muốn! Và rồi mọi đường thẳng của hành động khẳng quyết được tinh vi và nhẹ nhàng biến thành đường cong của hành động tương hỗ, biết quan tâm hơn. |
From deep within itself (which is another way of describing soul action) the personality feels itself being rounded, and rendered more magnetic. The real meaning of love and relationship begins to dawn upon the personal consciousness, which realizes the truth of the age-old saying: “it’s easier to catch flies with honey than with vinegar.” Gradually, and subtly, under the steady, persistent impress of the soul, the personality mellows, realizing that real strength need not hurt others, and that, after all, “life is with people.” | Từ sâu thẳm trong chính nó (đó cũng là một cách khác để miêu tả hành động của linh hồn) phàm ngã cảm thấy mình được bo tròn, và được làm cho có từ tính hơn. Ý nghĩa đích thực của tình thương và tương quan bắt đầu rạng ra trong tâm thức cá nhân, vốn nhận ra chân lý của câu ngạn ngữ xưa: “bắt ruồi bằng mật ong dễ hơn bằng giấm.” Từ từ và tinh vi, dưới ấn tượng đều đặn và bền bỉ của linh hồn, phàm ngã trở nên chín chắn, nhận ra rằng sức mạnh chân thực không cần làm tổn thương người khác, và rốt cuộc rằng “đời sống là với con người.” |
5. The ideal expression of the combination of the ray two soul and the ray one personality: Loving understanding is expressed with power and firmness. The union of love and will is solidly achieved, with love preponderating. The tendency towards attachment masters the personality tendency towards detachment, and yet the balance is preserved. Love is poured forth, but always with detachment; thus a state of ‘detached attachment’ comes to fruition. The individual masters the lesson of becoming “impersonally personal.” The “Will to Unify” is powerfully implemented. Wise and gentle understanding is conveyed with strength. Comprehensive studies are relentlessly pursued. | 5. Biểu hiện lý tưởng của sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung một: Sự hiểu biết xuất phát từ tình thương được biểu đạt với quyền lực và sự kiên định. Sự kết hợp của tình thương và ý chí được thực hiện một cách vững vàng, với tình thương trội hơn. Khuynh hướng gắn bó chế ngự khuynh hướng tách rời của phàm ngã, và thế quân bình vẫn được gìn giữ. Tình thương được tuôn đổ, nhưng luôn với sự tách rời; nhờ đó một trạng thái ‘gắn bó mà vẫn tách rời’ kết thành quả. Cá nhân lĩnh hội bài học trở thành “cá nhân một cách vô ngã.” “Ý Chí Hợp Nhất” được thực thi đầy uy lực. Sự thấu hiểu hiền hoà và khôn ngoan được chuyển tải với sức mạnh. Những khảo cứu bao quát được theo đuổi không mệt mỏi. |
This combination can create an unusually effective educator: one who will accumulate a wealth of knowledge, but who will strenuously insist that knowledge be applied directly and forcefully in service. The most benevolent motives are powerfully carried into life experience. Here is an individual who understands the meaning of humility and decentralization, but who is sufficiently “centered” to be a vigorous, effective and practical world server. | Tổ hợp này có thể tạo nên một nhà giáo dục hữu hiệu khác thường: người sẽ tích lũy một kho tàng tri thức, nhưng sẽ cương quyết đòi hỏi tri thức phải được áp dụng trực tiếp và mạnh mẽ vào phụng sự. Những động cơ nhân hậu nhất được đưa vào đời sống bằng quyền lực. Đây là một cá nhân hiểu ý nghĩa của khiêm nhu và phi tập trung vào bản thân, nhưng vẫn đủ “tâm điểm” để là một người phụng sự thế gian nhiệt huyết, hiệu quả và thực tiễn. |
Deep love is expressed without a trace of sentimentality. The heart-felt yearning to save and salvage is firmly buttressed by first ray fortitude. Redemption becomes the theme of the life, but those who are helped are never weakened or made dependent; they are encouraged to stand on their own feet and rely upon themselves. The “heart of gold” is found beneath what may sometimes seem a rather distant or, even, forbidding exterior. With this combination, we find experts in the art of “tough love.” | Tình thương sâu xa được biểu lộ không chút uỷ mị. Khát vọng từ trái tim muốn cứu rỗi và cứu vớt được nâng đỡ vững chắc bởi kiên lực cung một. Cứu chuộc trở thành chủ âm của đời sống, nhưng những người được giúp không bao giờ bị làm cho yếu ớt hay lệ thuộc; họ được khuyến khích tự đứng vững và cậy nơi chính mình. “Trái tim vàng” nằm bên dưới cái bề ngoài đôi khi có vẻ hơi xa cách hay thậm chí, đáng e dè. Với tổ hợp này, chúng ta thấy những bậc thầy trong nghệ thuật “tình thương nghiêm khắc.” |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Centralization, keyed to the second ray soul. The secondary integration formula is Inclusion, keyed to the first ray personality. The first formula corrects second ray tendencies towards diffusion, over-expansion, and an energy—draining attachment to life’s peripheral attractions, whereas the first formula corrects the exclusive and isolating tendencies characteristic of the first ray personality. | 6. Hiệu ứng kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ cấp là Tập trung hoá, được phím hoá cho linh hồn cung hai. Công thức tích hợp thứ cấp là Bao gồm, được phím hoá cho phàm ngã cung một. Công thức thứ nhất sửa chữa các khuynh hướng cung hai hướng đến tản mạn, quá-trương nở, và sự gắn bó vào những hấp lực ngoại vi của đời sống làm tiêu hao năng lượng, trong khi công thức thứ hai sửa chữa các khuynh hướng loại trừ và cô lập đặc trưng của phàm ngã cung một. |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘inclusive centralization,’ (i.e., the tolerant and inclusive personal attitude which fosters the discovery of one’s spiritual center). The proper use of the formulae make it possible for the individual to cultivate a more loving and accepting personal consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness when, pervaded by the presence of the soul, and detached from all lesser attractions, he takes his stand firmly and, immovably within the “center of all love.” | Được sử dụng cùng nhau, hai công thức này ban cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã phẩm tính tổng hợp của ‘tập trung bao gồm’ (tức thái độ cá nhân khoan dung và bao gồm nuôi dưỡng việc khám phá trung tâm tinh thần của mình). Việc sử dụng đúng đắn các công thức giúp cá nhân nuôi dưỡng một tâm thức cá nhân yêu thương và chấp nhận hơn, hỗ trợ cho những giây phút hiếm hoi của tâm thức siêu thăng khi, thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn và tách rời khỏi mọi hấp lực kém cỏi hơn, y đứng vững vàng và bất lay chuyển trong “trung tâm của mọi tình thương.” |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself unable to relate to others in a loving and intimate way no matter how hard he tries to do so. Although he is attracted (almost indiscriminately) to many people, there is always something within himself which quickly repels them, causing him constant frustration over his inability to express and receive love. Using his first ray qualities he might even try to force others to love him. He does not yet understand real love, spiritual love. Never, at any time, is he really centered in his essence, which is the “center of all love.” His love is still personal and selfish, and while it remains so, he will remain off balance, driving away from himself that which he most desires. | Ở các giai đoạn tiến hoá sớm hơn, trước khi áp dụng thành công các công thức này, một cá nhân mang tổ hợp cung này thường thấy mình không thể liên hệ với người khác bằng cách yêu thương và thân mật cho dù y cố gắng đến đâu. Mặc dù y bị hấp dẫn (gần như không phân biệt) bởi nhiều người, luôn có một cái gì đó trong chính y nhanh chóng đẩy họ ra, khiến y liên tục bực bội vì bất lực trong việc biểu lộ và đón nhận tình thương. Dùng các phẩm tính cung một, y thậm chí có thể cố cưỡng bức người khác yêu mình. Y chưa hiểu tình thương thật sự, tình thương tinh thần. Chưa bao giờ, vào bất cứ lúc nào, y thật sự tâm điểm trong bản thể mình, vốn là “trung tâm của mọi tình thương.” Tình thương của y vẫn còn cá nhân và vị kỷ, và chừng nào nó còn như vậy, y sẽ còn mất thăng bằng, đẩy xa khỏi mình điều y khao khát nhất. |
Through the intelligent use of these formulae, the individual learns, primarily, to stand within the center of the love and wisdom of his second ray soul, loving others purely, wisely and with detachment; his growing secondary ability to include others where he once rebuffed them, attracts to him many with whom he can now share his newer, purer and more centered form of love—spiritual love. | Thông qua việc sử dụng thông tuệ các công thức này, cá nhân học được, trước hết, đứng trong trung tâm của tình thương và minh triết nơi linh hồn cung hai của mình, yêu thương người khác một cách thuần khiết, khôn ngoan và với sự tách rời; khả năng thứ cấp đang lớn lên của y để bao gồm người khác nơi mà trước kia y đẩy họ ra, thu hút đến với y nhiều người mà với họ y giờ đây có thể chia sẻ hình thái tình thương mới hơn, thuần khiết hơn và có tâm điểm hơn—tình thương tinh thần. |
These two formulae (as in the case of the identical [though reversed] formulae for the first ray soul and second ray personality) provide a perfectly balanced energy configuration. The second ray soul must learn Centralization, and it is aided in this task by its first ray personality. The first ray personality (though it is essentially a subray of the second ray soul) still must learn to be inclusive; this is naturally aided by the very inclusive tendencies of its ‘sponsoring’ soul. The combined formula, ‘inclusive centralization,’ can be aptly portrayed by the point within the circle—a powerful occult symbol, conveying the ideas of unity and identity. | Hai công thức này (cũng như trong trường hợp các công thức giống hệt [dù đảo ngược] cho linh hồn cung một và phàm ngã cung hai) mang lại một cấu hình năng lượng cân bằng hoàn hảo. Linh hồn cung hai phải học Tập trung hoá, và y được trợ giúp trong nhiệm vụ này bởi phàm ngã cung một của mình. Phàm ngã cung một (dù về bản chất là một cung phụ của linh hồn cung hai) vẫn phải học tính bao gồm; điều này tự nhiên được trợ giúp bởi các khuynh hướng hết sức bao gồm của linh hồn ‘bảo trợ’. Công thức kết hợp, ‘tập trung bao gồm,’ có thể được minh hoạ xác đáng bằng điểm trong vòng tròn—một biểu tượng huyền môn mạnh mẽ, truyền đạt các ý niệm về hợp nhất và đồng nhất. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the second ray soul and the first ray personality: | 7. Vài thí dụ về năng khiếu và định hướng nghề nghiệp liên quan đến sự kết hợp linh hồn cung hai và phàm ngã cung một: |
• the server who teaches those he serves to become self-reliant | • người phụng sự dạy cho những người y phục vụ trở nên tự lực |
• the teacher who insists that students embody and become an example of the best that they learn | • người thầy đòi hỏi học trò hiện thân và trở thành gương mẫu cho điều tốt nhất mà họ học được |
• the therapist who refuses to allow his clients to act like weaklings | • nhà trị liệu không cho phép thân chủ của mình hành xử như những kẻ yếu đuối |
• the humanist who loves all of humanity, but believes that people must earn the respect they receive | • nhà nhân bản yêu thương toàn thể nhân loại, nhưng tin rằng con người phải xứng đáng với sự tôn trọng mà họ nhận |
• the unifier who requires that everyone live up to his responsibility in the unification process | • nhà hợp nhất đòi hỏi mọi người đều sống đúng trách nhiệm của mình trong tiến trình hợp nhất |
• the illuminator who teaches that the greatest understanding comes from the “hard knocks” of first hand experience | • người khai sáng dạy rằng thấu hiểu lớn lao nhất đến từ những “cú hích” gay gắt của trải nghiệm trực tiếp |
• the “guru” who thinks it best to hold the mirror up to his chela’s weaknesses without delay | • “guru” cho rằng tốt nhất là soi gương vào các yếu của đệ tử mình mà không chậm trễ |
• the scholar who will risk danger and hardship to acquire the knowledge he seeks | • học giả dám liều nguy hiểm và gian khổ để thu đạt tri thức y truy tầm |
• the healer who teaches his patients to draw upon their own unsuspected reserves of healing power | • người chữa lành dạy bệnh nhân của mình khai mở những trữ lượng quyền năng chữa lành chưa ngờ tới nơi chính họ |
• the counselor who reminds those counseled of their own strength | • nhà tham vấn nhắc người được tham vấn về sức mạnh của chính họ |
• the social worker who does not allow fit people to become dependent | • nhân viên xã hội không cho phép người khoẻ mạnh trở thành lệ thuộc |
• the meditator who disciplines his personality vehicles with ease | • người tham thiền kỷ luật các vận cụ phàm ngã của mình một cách dễ dàng |
In general: vocations and professions which require a wise and loving attitude, great empathy, studiousness, and the ability to teach or compassionately heal, as well as great will power, strength and stamina, the ability to stand firmly on principle, and (when necessary) the power to destroy obstacles. | Nói chung: các thiên hướng và nghề nghiệp đòi hỏi một thái độ khôn ngoan và yêu thương, sự thấu cảm lớn, sự chuyên chú học hỏi, và khả năng dạy dỗ hay chữa lành một cách từ bi, cũng như ý chí mạnh mẽ, sức mạnh và sức bền, khả năng đứng vững trên nguyên tắc, và (khi cần) quyền năng phá tan chướng ngại. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the second, with a strong subsidiary first ray influence (whether or not the first ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh sách đề xuất những cá nhân nổi tiếng (lịch sử, đương thời, hư cấu hay huyền thoại) có thể hợp lý được xem là linh hồn cung hai, với ảnh hưởng phụ cung một mạnh mẽ (bất kể cung một, nói nghiêm ngặt, có phải là cung phàm ngã hay không): |
Alice A. Bailey: amanuensis for the Tibetan, author, lecturer, founder of the Arcane School. | Alice A. Bailey: thư ký ghi chép cho Chân sư Tây Tạng, tác giả, diễn giả, sáng lập Trường Arcane. |
Robert Browning: one of the great poets of the Victorian Age. His poetic genius is most evident in his mastery of the dramatic monologue as a technique for powerful poetic narrative and rich psychological portraiture. Browning is said to be a high initiate, and, according to Dr. Douglas Baker, a Master of the Wisdom. | Robert Browning: một trong những nhà thơ lớn của thời Victoria. Thi tài của Ông hiển lộ nhất trong nghệ thuật độc thoại kịch như một kỹ thuật cho tự sự thi ca hùng lực và phác hoạ tâm lý phong phú. Browning được nói là một điểm đạo đồ cao, và, theo Tiến sĩ Douglas Baker, là một Chân sư của Minh Triết. |
The Buddha (Siddhartha Gautama): founder of Buddhism. In the esoteric tradition, the Buddha is known as the “Lord of Light,” and the “Lord of Wisdom.” In many respects, both He and the Christ are the World Saviors. | Đức Phật (Siddhartha Gautama): đấng sáng lập Phật giáo. Theo truyền thống huyền môn, Đức Phật được biết như “Chúa Tể của Ánh sáng,” và “Chúa Tể của Minh triết.” Trên nhiều phương diện, cả Ngài và Đức Christ đều là các Đấng Cứu Thế Gian. |
Sigmund Freud: founder of psychoanalysis. Freud was also strongly influenced by the fifth ray, and the seventh to no small degree. | Sigmund Freud: người sáng lập phân tâm học. Freud cũng chịu ảnh hưởng mạnh của cung năm, và không ít của cung bảy. |
Pythagoras: a great sage, founder of the school of wisdom at Crotona. Presumably, a strong fourth ray influence was also in evidence. He Who was once Pythagoras is now said to be the Chohan Koot Hoomi—the Tibetan’s Master. | Pythagoras: một bậc hiền triết vĩ đại, người sáng lập trường minh triết tại Crotona. Nhiều khả năng, ảnh hưởng cung bốn mạnh cũng hiện diện. Ngài, Vị từng là Pythagoras, nay được nói là Chohan Koot Hoomi—Huấn Sư của Chân sư Tây Tạng. |
Albert Schweitzer: author, theologian, philosopher, musician and physician. Schweitzer established what became a world-renowned missionary hospital at Lambaréné in French Equatorial Africa. | Albert Schweitzer: tác giả, thần học gia, triết gia, nhạc sĩ và y sĩ. Schweitzer sáng lập bệnh viện truyền giáo tại Lambaréné ở Phi Châu Xích Đạo thuộc Pháp, vốn trở nên nổi tiếng thế giới. |
Mother Theresa: regarded by many as a living saint, and an embodiment of the energy of love. There is also a strong sixth ray present in her energy system, and it is possible that she has transferred onto the second ray from the sixth. | Mother Theresa: được nhiều người xem là một vị thánh sống, và là hiện thân của năng lượng Tình thương. Cũng có một cung sáu mạnh trong hệ thống năng lượng của Bà, và có thể Bà đã chuyển sang cung hai từ cung sáu. |
Some Contrasts Between the Ray 2 Soul and the Ray 2 Personality—Một vài đối chiếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung hai
Ray 2 Soul | Ray 2 Personality |
1. expression of spiritual magnetism and attraction | 1. reliance upon personal magnetism and attraction |
2. loving spiritual impersonality | 2. close personal attachments |
3. soul-inspired patience | 3. personal inertia; self-indulgent slowness to act |
4. the love of love | 4. the love of being loved |
5. sensitivity to the heart and soul of others | 5. debilitating personal sensitivity; fearfulness |
6. compassion for the weak and vulnerable | 6. personal weakness and vulnerability |
7. pity based upon a loving heart | 7. self-pity |
8. wide tolerance based upon loving understanding | 8. unwisely permissive |
9. inclusive attitude towards knowledge and understanding | 9. includes too many personally related nonessentials |
10. attachment to the spiritual consolations of the divine heart of love | 10. attachment to personal comfort |
11. radiation of spiritual joy | 11. insistence upon “being happy” |
Ray 2 Soul – Linh hồn Cung Hai | Ray 2 Personality – Phàm ngã Cung Hai |
1. Sự biểu lộ của từ tính và sức thu hút tinh thần | 1. Sự dựa dẫm vào từ tính và sức thu hút cá nhân |
2. Tính vô ngã đầy tình thương tinh thần | 2. Sự gắn bó cá nhân mật thiết |
3. Sự kiên nhẫn được linh hồn soi dẫn | 3. Tình trạng trì trệ cá nhân; sự chậm chạp nuông chiều bản thân trong hành động |
4. Tình thương đối với chính tình thương | 4. Tình thương đối với việc được yêu thương |
5. Sự nhạy cảm với trái tim và linh hồn của người khác | 5. Sự nhạy cảm cá nhân làm suy yếu; nỗi sợ hãi |
6. Lòng từ bi đối với kẻ yếu và người dễ bị tổn thương | 6. Sự yếu đuối và dễ tổn thương cá nhân |
7. Lòng thương xót dựa trên con tim đầy tình thương | 7. Sự tự thương hại |
8. Sự khoan dung rộng rãi dựa trên lòng thấu hiểu yêu thương | 8. Sự dễ dãi không khôn ngoan |
9. Thái độ bao dung đối với tri thức và sự hiểu biết | 9. Bao gồm quá nhiều điều vụn vặt liên hệ đến cá nhân |
10. Sự gắn bó với niềm an ủi tinh thần của trái tim thiêng liêng của tình thương | 10. Sự gắn bó với sự thoải mái cá nhân |
11. Sự toả sáng của niềm vui tinh thần | 11. Sự khăng khăng đòi “được hạnh phúc” |
Commentary | Bình giải |
1. As it is assumed that identical soul and personality rays are a rare occurrence, appearing only in the very last stages of evolution, it is not really meaningful to discuss the dynamics of soul/personality interaction in a pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment. | 1. Vì giả định rằng linh hồn và phàm ngã đồng cung là hiện tượng hiếm, chỉ xuất hiện ở các giai đoạn rất cuối của tiến hoá, nên không thật sự có ý nghĩa khi bàn về động học tương tác linh hồn/phàm ngã trong một giai đoạn tiền-tinh thần của sự khai mở tiến hoá. |
2. If it is true that the combination of a second ray soul with a second ray personality would not appear until the second ray qualities had been balanced over many lives by the acquisition of a great deal of strength and independence (first ray qualities), the spiritual maturity of the individual would negate the possibility of a pronounced or prolonged stage of soul/personality conflict—as frequently occurs during a somewhat earlier stage of evolution, when the soul is just beginning to impose itself upon established personality rhythms. | 2. Nếu đúng là sự kết hợp linh hồn cung hai với phàm ngã cung hai sẽ không xuất hiện cho đến khi các phẩm tính cung hai đã được quân bình qua nhiều đời bằng việc thủ đắc rất nhiều sức mạnh và tính độc lập (các phẩm tính cung một), thì độ trưởng thành tinh thần của cá nhân sẽ triệt tiêu khả năng có một giai đoạn xung đột linh hồn/phàm ngã nổi bật hay kéo dài—như thường xảy ra vào một giai đoạn tiến hoá sớm hơn, khi linh hồn chỉ mới bắt đầu áp đặt mình lên các nhịp điệu phàm ngã đã thành nếp. |
It is important to remember that, no matter what rays may condition the personality fields during a particular incarnation, the experiences of past lives (colored by many different combinations of rays) have been built into the character of the individual (being stored as spiritual qualities within the causal body, and as “skandhas” or “tendencies” within the permanent atoms). Such ray-qualified qualities and tendencies do, in fact, exert their influence on an individual’s present character. | Cần nhớ rằng, bất luận các cung nào có thể điều kiện hoá các trường phàm ngã trong một kiếp nhập thế cụ thể, các kinh nghiệm của những kiếp trước (được tô màu bởi nhiều tổ hợp cung khác nhau) đã được xây vào tính cách của cá nhân (được lưu trữ như các phẩm tính tinh thần trong thể nguyên nhân, và như các “skandha” hay “khuynh hướng” trong các Nguyên tử trường tồn). Các phẩm tính và khuynh hướng mang sắc thái cung như vậy thực sự tác động ảnh hưởng lên tính cách hiện tại của cá nhân. |
Such rare conflicts as there might be, would be based upon the higher and lower possibilities of the second ray. Essentially: the contrast would be between a radiant, inclusive, impersonal, all-encompassing love, and an attached, personal, overly-sensitive and fearful holding of others to the self. It can be assumed that for such an individual, the use of second ray energy in a strictly personal sense would be quite rare. In general, however, it would always be necessary to guard against an over-accentuation of second ray energy, with the result of too much attachment and too much loving understanding (if the latter can be imagined). The presence of a highly developed quality becomes an overaccentuation when the compensatory qualities of other rays are severely diminished or missing. For instance, second ray virtues become vices unless they are balanced by rays along the 1-3-5-7 line of energy. | Những xung đột hiếm hoi nếu có, sẽ dựa trên các khả năng cao và thấp của cung hai. Về bản chất: đối chiếu sẽ là giữa một tình thương rạng ngời, bao trùm, vô ngã, tất cả-ôm trọn, và một sự gắn bó, cá nhân, quá nhạy cảm và sợ hãi khi giữ người khác lại cho cái tôi. Có thể giả định rằng đối với một cá nhân như vậy, việc dùng năng lượng cung hai theo nghĩa thuần cá nhân sẽ khá hiếm. Tuy nhiên, nhìn chung, lúc nào cũng cần canh chừng trước việc quá nhấn mạnh năng lượng cung hai, đưa tới quá nhiều gắn bó và quá nhiều hiểu biết yêu thương (nếu có thể hình dung điều sau). Sự hiện diện của một phẩm chất phát triển cao trở thành sự quá khích khi các phẩm tính bù trừ của các cung khác bị suy giảm nặng hoặc thiếu vắng. Thí dụ, các đức hạnh cung hai sẽ hoá thành tật xấu trừ khi chúng được cân bằng bởi các cung dọc theo tuyến năng lượng 1-3-5-7. |
As regards this particular combination, it must be remembered that the two greatest exponents of second ray energy, the Buddha and the Christ, both worked through personalities which were not upon the second ray—the Buddha through a first ray personality and the Christ through a personality upon the sixth ray. Certainly, these great Individuals were expressions of the purest kind of second ray energy available to humanity, and those who associated with them directly must have experienced an overwhelming flow of second ray quality. | Liên quan đến tổ hợp đặc thù này, phải nhớ rằng hai bậc Đại diện lớn lao nhất của năng lượng cung hai, Đức Phật và Đức Christ, đều làm việc qua các phàm ngã không thuộc cung hai—Đức Phật qua phàm ngã cung một và Đức Christ qua phàm ngã thuộc cung sáu. Chắc chắn, Các Ngài là biểu hiện của kiểu năng lượng cung hai thuần khiết nhất khả dụng cho nhân loại, và những ai trực tiếp giao tiếp với Các Ngài hẳn đã kinh nghiệm một dòng chảy áp đảo của phẩm tính cung hai. |
It therefore stands to reason that the combination of a second ray soul and second ray personality is not absolutely necessary for the manifestation of an unusually pure expression of second ray energy, and, in those cases in which the presence of the second ray seems unusually pure and powerful, it must not too hastily be assumed that this necessarily entails the presence of both a second ray soul and second ray personality. | Vì vậy, có lý do để khẳng định rằng sự kết hợp linh hồn cung hai và phàm ngã cung hai không tuyệt đối cần thiết cho sự biểu hiện của một dạng thức đặc biệt thuần khiết của năng lượng cung hai, và trong những trường hợp mà sự hiện diện của cung hai dường như đặc biệt thuần khiết và mạnh mẽ, ta không nên vội vã giả định rằng điều ấy nhất thiết bao hàm sự hiện diện của cả linh hồn cung hai lẫn phàm ngã cung hai. |
3. As regards the ideal expression of the combination of the ray two soul and the ray two personality, it is clear that the personality would serve as a pure channel for the unimpeded flow of the soul’s love-wisdom. | 3. Liên quan đến biểu hiện lý tưởng của sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung hai, rõ ràng phàm ngã sẽ phục vụ như một kênh tinh sạch cho dòng chảy không bị cản trở của tình thương-minh triết nơi linh hồn. |
Some Contrasts Between the Ray 2 Soul and the Ray 3 Personality— Một vài đối chiếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung ba
Ray 2 Soul | Ray 3 Personality |
1. spiritual love | 1. personally motivated intellectual ity |
2. deep feeling of the heart | 2. unfeeling thought of the selfish, self-interested mind |
3. inclusive spiritual synthesis and fusion | 3. discriminating separativeness |
4. deep intuitive comprehension | 4. confusions and uncertainties of the unenlightened reasoning process |
5. profound subjectivity | 5. blindness to spiritual subtleties caused by an excessively objective and intellectual attitude |
6. silent, nonverbal understanding | 6. overly verbal or wordy |
7. tolerance born of love and wisdom | 7. criticism, copiously produced by the intellectually proud mind |
8. clear perception arising from stillness | 8. clouded perception arising from an overactive mind and body |
9. great luminosity of soul | 9. the veiling of light through the creation of an overabundance of forms, whether mental or physical |
10. instinctive spiritual truthfulness | 10. facile deviation from truthfulness |
11. wholesome spiritual simplicity | 11. entanglement in unnecessary complexities |
12. sensitive stillness contributing to effectiveness in the art and science of meditation | 12. busyness militating against effective meditation |
13. slow but sure spiritual constructiveness | 13. wasted energy through excessive activity |
14. sensitive, magnetic evocation of the identity of others | 14. manipulation of others for personal ends |
15. spiritual loyalty and faithfulness | 15. elusive, noncommittal attitude to the end |
16. a wise understanding of the very next spiritual step ahead | 16. preoccupation with impractical or excessively abstract eventualities lying far ahead |
17. facility for the accumulation and the realm of scholarly studies) | 17. sloppiness and inaccuracy; small concern for detail, (especially mundane detail) |
18. loving cooperation | 18. competitive maneuvering for advantage |
19. expansion of consciousness | 19. increase of information |
20. trust and joyful openness | 20. wariness and suspicion |
Ray 2 Soul – Linh hồn Cung Hai | Ray 3 Personality – Phàm ngã Cung Ba |
1. Tình thương tinh thần | 1. Tính trí tuệ được thúc đẩy bởi động cơ cá nhân |
2. Cảm xúc sâu lắng của con tim | 2. Suy nghĩ vô cảm của tâm trí ích kỷ, vụ lợi |
3. Sự dung hợp và tổng hợp tinh thần bao dung | 3. Tính phân biệt dẫn đến chia rẽ |
4. Sự thấu hiểu trực giác sâu sắc | 4. Sự mơ hồ và bất định của quá trình lý luận chưa được soi sáng |
5. Tính chủ quan sâu sắc | 5. Mù quáng trước các vi tế tinh thần do thái độ quá khách quan và trí thức |
6. Sự thấu hiểu tĩnh lặng, không lời | 6. Nói quá nhiều, dài dòng |
7. Lòng khoan dung sinh ra từ tình thương và minh triết | 7. Tính hay chỉ trích, sản sinh dồi dào từ tâm trí kiêu ngạo trí thức |
8. Nhận thức rõ ràng phát sinh từ sự tĩnh lặng | 8. Nhận thức mờ đục phát sinh từ tâm trí và thân thể hoạt động quá mức |
9. Sự sáng ngời vĩ đại của linh hồn | 9. Sự che khuất ánh sáng do tạo ra quá nhiều hình tướng, dù là trí tuệ hay vật chất |
10. Sự chân thật tinh thần mang tính bản năng | 10. Sự lệch khỏi chân thật một cách dễ dãi |
11. Sự giản dị lành mạnh tinh thần | 11. Sự rối rắm trong các phức tạp không cần thiết |
12. Sự tĩnh lặng nhạy cảm góp phần vào hiệu quả trong nghệ thuật và khoa học tham thiền | 12. Sự bận rộn cản trở việc tham thiền hiệu quả |
13. Tính xây dựng tinh thần chậm mà chắc | 13. Năng lượng bị lãng phí do hoạt động quá mức |
14. Sự gợi mở từ tính và nhạy cảm đối với bản sắc của người khác | 14. Sự thao túng người khác vì mục đích cá nhân |
15. Lòng trung thành và thủy chung tinh thần | 15. Thái độ thoái thác, không cam kết cho đến cuối cùng |
16. Sự thấu hiểu khôn ngoan về bước tinh thần kế tiếp ngay trước mắt | 16. Sự bận tâm với những khả năng không thực tế hoặc quá trừu tượng ở xa phía trước |
17. Khả năng tích lũy và nghiên cứu trong lĩnh vực học thuật | 17. Tính cẩu thả và thiếu chính xác; ít quan tâm đến chi tiết (đặc biệt là chi tiết trần tục) |
18. Sự hợp tác đầy tình thương | 18. Sự cạnh tranh, mưu tính để đạt lợi thế |
19. Sự mở rộng tâm thức | 19. Sự gia tăng thông tin |
20. Lòng tin và sự cởi mở vui tươi | 20. Tính cảnh giác và nghi ngờ |
The Integration Process for the Individual with a Ray 2 Soul and a Ray 3 Personality | Tiến trình tích hợp cho cá nhân có linh hồn cung hai và phàm ngã cung ba |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of second ray soul energy and the self-centered use of third ray personality force), are to achieve the complete fulfillment of personal love, (or the complete satisfaction of studious inquiry [2B]), as well as a cleverly intelligent, self-serving mastery of circumstances and the environment. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị một phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, các động cơ của cá nhân (dựa trên sự xuyên tạc ở cấp phàm ngã của năng lượng linh hồn cung hai và việc sử dụng tập trung vào bản ngã của mãnh lực phàm ngã cung ba), là đạt đến sự viên mãn trọn vẹn của tình thương cá nhân (hoặc sự thoả mãn trọn vẹn của khảo cứu chuyên chú [2B]), cũng như một sự làm chủ mưu lược, thông minh, vụ lợi đối với hoàn cảnh và môi trường. |
The person wants, primarily, to be constantly loved, consistently popular, warmly admired, well-cared-for, and to live a soft, comfortable, well-protected, well-insulated life—closely attached to those people, places and things which he loves and finds personally satisfying, but, he also wants to demonstrate his superior intelligence at every opportunity, manipulate money and other people for his own material and intellectual satisfaction, keep incessantly busy in the pursuit of his own self-centered interests, and evade responsibilities through selfish, strategic planning. | Người này chủ yếu muốn được yêu thương liên tục, luôn được ưa thích, được ngưỡng mộ nồng hậu, được chăm sóc chu đáo, và sống một đời sống êm ái, tiện nghi, được che chở kỹ lưỡng, cách ly tốt—gắn bó mật thiết với những người, nơi chốn và sự vật mà y yêu thương và thấy thỏa mãn trên phương diện cá nhân, nhưng y cũng muốn phô diễn trí thông minh vượt trội của mình ở mọi cơ hội, thao túng tiền bạc và người khác cho sự thỏa mãn vật chất và trí tuệ của riêng y, giữ mình bận rộn không ngừng trong việc theo đuổi những lợi ích vị kỷ xoay quanh bản thân, và lẩn tránh trách nhiệm bằng các kế hoạch vị kỷ, có tính chiến lược. |
Negatively and glamorously these two ray influences can combine to produce: the overly soft-hearted individual who “arranges” the lives of others, so they do not have to do so themselves (2A + 3B); the person, who feeling weak and inadequate, compensates by pretending to be more intelligent than others (2B + 3A); the studious individual who is contemptuous of the mental limitations of others and filled with detailed, verbal criticism of those limitations (2B + 3A); the person who does not know when to stop taking-on responsibility, and then becomes hyperactive in the frantic attempt to do everything he promised to do (2A + 3B); similarly, one who tries to make up for a deep-seated feeling of inferiority by undertaking far too many activities (2A + 3B); a life lived with entirely too much ‘scatter’ and ‘spread’; the person who attempts to offer too comprehensive a picture in too complex a manner, and finishes by confusing those he intended to enlighten (2B + 3A); one who sees and talks about an extraordinary number of possibilities, but carries out very few; one who is content with amassing and thinking about knowledge he never uses (2B + 3A); one who is always protecting his sensitive psyche through evasive maneuvers (2A + 3); one who uses constant financial manipulations to cushion and enwrap his life with many material comforts (2A + 3B); one who, desperately wanting to be popular and well-liked, uses his financial skill to “buy” the love and appreciation of others; etc. | Ở mặt tiêu cực và trong ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: người quá mềm lòng “sắp xếp” đời sống của người khác, để họ khỏi phải tự làm (2A + 3B); người cảm thấy yếu đuối và bất cập, bù trừ bằng cách giả vờ thông minh hơn người (2B + 3A); người chịu khó học nhưng khinh thường giới hạn trí tuệ của kẻ khác và đầy ắp những lời chỉ trích tỉ mỉ, câu chữ về các giới hạn đó (2B + 3A); người không biết khi nào nên dừng việc ôm đồm trách nhiệm, rồi trở nên quá hoạt trong nỗ lực cuống cuồng để làm mọi điều y đã hứa (2A + 3B); tương tự, kẻ cố bù trừ cảm thức tự ti ăn sâu bằng cách đảm đương quá nhiều hoạt động (2A + 3B); một đời sống quá nhiều “tản mát” và “lan tỏa”; người tìm cách đưa ra một bức tranh quá bao quát theo một cách quá phức tạp, và rốt cuộc làm rối trí những ai y định soi sáng (2B + 3A); kẻ thấy và nói về vô số khả năng phi thường, nhưng thực hiện rất ít; kẻ hài lòng với việc tích lũy và suy nghĩ về kiến thức mà y chẳng bao giờ dùng đến (2B + 3A); kẻ luôn bảo vệ tâm lý nhạy cảm của mình bằng những thao tác né tránh (2A + 3); kẻ dùng thao túng tài chính thường xuyên để đệm và quấn lấy đời y bằng nhiều tiện nghi vật chất (2A + 3B); kẻ tuyệt vọng muốn được ưa thích và được yêu mến, nên dùng kỹ năng tài chính để “mua” tình yêu và sự trân trọng của người khác; v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray two soul and the ray three personality is the struggle between a deeply subjective attitude characterized by wisdom and loving understanding, and a far more objective, materialistic attitude based upon a determination to face life chiefly through intellectual acuity, resourcefulness and adaptability. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng tinh ròng của linh hồn xung đột với lực của phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung ba là cuộc giằng co giữa một thái độ rất chủ quan, được đặc trưng bởi minh triết và sự thấu hiểu đầy tình thương, với một thái độ khách quan hơn nhiều, duy vật, dựa trên quyết tâm đối diện đời sống chủ yếu thông qua sự sắc bén trí tuệ, tính tháo vát và khả năng thích ứng. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the second ray soul: It will be the task of the second ray soul to quiet and sensitize the third ray personality. The soul is faced with a personality which is overactive, over-talkative and frequently so busy that it “crowds out” the impressions that might be received from others. The soul senses a complicated maze of words and actions interfering with the straight and simple nurturing love it seeks to express. Breathing forth calm, silence and stillness, the soul seeks to reveal to the personality the ‘noise’ which that personality so constantly generates and in which it so constantly lives. Further, the soul impresses upon the personality the thought that “less is more”—that it is not always necessary to meddle, interfere, or “have a (manipulative) hand in” the affairs of others. | 3. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ quan điểm của tâm thức chủ yếu đồng nhất với linh hồn cung hai: Nhiệm vụ của linh hồn cung hai sẽ là làm lắng dịu và làm nhạy bén phàm ngã cung ba. Linh hồn đối diện với một phàm ngã hoạt động quá mức, nói quá nhiều và thường bận rộn đến mức nó “chen chặt” những ấn tượng có thể nhận được từ người khác. Linh hồn cảm nhận một mê cung phức tạp của lời nói và hành động cản trở tình yêu dưỡng nuôi, ngay thẳng và đơn giản mà linh hồn tìm cách biểu lộ. Thở ra sự bình an, im lặng và tĩnh tại, linh hồn tìm cách cho phàm ngã thấy “tiếng ồn” mà phàm ngã ấy liên tục tạo ra và trong đó y liên tục sống. Hơn nữa, linh hồn khắc sâu vào phàm ngã tư tưởng rằng “ít lại là nhiều”—rằng không phải lúc nào cũng cần xía vào, can thiệp, hoặc “thò (bàn tay thao túng) vào” công việc của người khác. |
It is the soul’s intention to teach the personality how to allow, and how to trust in love. Inherent in others is the possibility of their success, and that they do not have to be manipulated into doing, but will act (at the right time) of their own accord. This, the third ray personality very much needs to learn. In essence, the soul is imposing a more subjective, internal attitude upon a personal mechanism which has, heretofore, been firmly convinced of the efficacy of the active, external approach to “getting things done.” | Mục đích của linh hồn là dạy phàm ngã cách cho phép, và cách tin cậy vào tình thương. Tiềm ẩn nơi người khác là khả tính thành công của họ, và họ không cần bị thao túng để làm, mà sẽ hành động (đúng thời) theo ý mình. Điều này, phàm ngã cung ba rất cần học. Tựu trung, linh hồn đang áp đặt một thái độ chủ quan, nội tại hơn lên một cơ cấu cá nhân mà từ trước đến nay kiên quyết tin vào hiệu quả của phương cách chủ động, hướng ngoại để “khiến mọi việc được hoàn tất.” |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the third ray personality: The pressure towards integration exerted by the second ray soul will be felt by the third ray personality as a subtle changing of the “rules of the game.” The personality likes to have the “strings” in its own hands so that it can “pull” them. When the soul requires a trustful “letting-go,” the personality feels an indefinable malaise. | 4. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ quan điểm của tâm thức chủ yếu đồng nhất với phàm ngã cung ba: Sức ép hướng tới tích hợp do linh hồn cung hai tác động sẽ được phàm ngã cung ba cảm nhận như một sự thay đổi tinh vi của “luật chơi.” Phàm ngã thích nắm “những sợi dây” trong tay mình để có thể “giật” chúng. Khi linh hồn đòi hỏi một sự tin cậy mang tính “buông xả,” phàm ngã cảm thấy một nỗi bất an khó gọi tên. |
The individual with this type of personality does not like to admit that, “It’s out of my hands”; he feels most comfortable when he is able to “do something.” A disturbing feeling of helplessness, and lost control develops until the personality begins to see that ‘doing’ is a “two-way street,” a reciprocal activity; that one need not do everything oneself, and that things work out well when others are allowed to initiate actions, on their own, without interference (however subtle). | Người có kiểu phàm ngã này không thích thừa nhận rằng, “Nó nằm ngoài tầm tay tôi”; y thấy thoải mái nhất khi có thể “làm gì đó.” Một cảm giác khó chịu về bất lực và đánh mất kiểm soát nảy sinh cho đến khi phàm ngã bắt đầu thấy rằng ‘làm’ là một “con đường hai chiều,” một hoạt động có tính hỗ tương; rằng không cần phải tự mình làm tất cả, và mọi việc vẫn ổn khi cho phép người khác tự khởi xướng hành động, theo ý họ, không có can thiệp (dù tinh vi đến đâu). |
Then, there is the matter of openness and honesty. In order to accomplish its ends, the third ray personality understands how to disguise, complicate, evade, mislead others and, generally, “cover its tracks”; the second ray soul, however, inclines towards honest, self-disclosure. The maxim, “Truth is good for the soul,” bears the signature of the second ray. But the third ray personality realizes that if it embraces truth, simply and without complication, it loses one more “maneuvering advantage,” and it is no longer possible to “move behind the scenes” to bring things about. However, the uncompromising illumination thrown by the second ray soul upon the actual results of the unending stream of third ray plans and activities, reveals their futility, and soon convinces the personality that it is useless to weave and maneuver “in the dark,” i.e., whether that darkness is caused by a distrust of others’ motives, a distrust of the value of truth, or a distrust of that which the light of intuition reveals. | Rồi đến vấn đề cởi mở và trung thực. Để đạt mục đích, phàm ngã cung ba hiểu cách ngụy trang, làm rối, tránh né, đánh lạc hướng người khác và, nói chung là, “xóa dấu vết” của mình; linh hồn cung hai, tuy nhiên, thiên về sự trung thực và tự bộc lộ. Châm ngôn “Sự thật tốt cho linh hồn” mang dấu ấn của cung hai. Nhưng phàm ngã cung ba nhận ra rằng nếu tiếp nhận sự thật một cách giản dị, không rắc rối, y sẽ mất thêm một “lợi thế xoay xở,” và không còn có thể “hành động hậu trường” để khiến sự việc xảy ra. Tuy nhiên, ánh sáng không khoan nhượng do linh hồn cung hai chiếu lên các kết quả thực tế của dòng kế hoạch và hoạt động bất tận của cung ba, phơi bày tính vô ích của chúng, và sớm thuyết phục phàm ngã rằng thật vô nghĩa khi dệt và xoay xở “trong bóng tối,” tức là, dù bóng tối ấy do sự ngờ vực động cơ của người khác, ngờ vực giá trị của sự thật, hay ngờ vực điều mà ánh sáng của trực giác mặc khải. |
5. The ideal expression of the combination of the ray two soul and the ray three personality: Love and understanding are actively expressed with great intellectual resourcefulness. Intangible, subjective realizations are verbalized with outstanding interpretive finesse. A multitude of ways are devised to express a deeply-felt humanitarianism. This is an individual capable of originating ingenious strategies to unite in cooperative enterprise those who work for the expansion of consciousness. Philanthropic motives are supported by excellent business skills. Intuitive insights are creatively communicated, and a diversity of methods is generated to convey wisdom and illumination. A profound and inclusive understanding of reality is eloquently articulated. | 5. Biểu lộ lý tưởng của sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung ba: Tình thương và sự thấu hiểu được biểu lộ một cách chủ động với nguồn trí tuệ tháo vát lớn lao. Những nhận biết vô hình, chủ quan được diễn đạt bằng lời với năng lực diễn giải xuất sắc, tinh tế. Vô số cách thức được nghĩ ra để biểu lộ chủ nghĩa nhân bản được cảm nhận sâu sắc. Đây là một cá nhân có khả năng khởi xướng những chiến lược khéo léo nhằm hiệp nhất trong các công cuộc hợp tác những ai làm việc cho sự mở rộng tâm thức. Các động cơ vị nhân được hậu thuẫn bởi kỹ năng kinh doanh tuyệt hảo. Những thấu thị trực giác được truyền đạt sáng tạo, và một sự đa dạng phương pháp được tạo sinh để chuyển tải minh triết và soi sáng. Một sự thấu hiểu sâu xa và bao gồm về thực tại được diễn đạt hùng biện. |
Those with this combination of rays can argue tirelessly for the value of a broad, humanistic education as necessary for the optimum development of the human soul and intellect. They can weave together, with unusual skill and intelligence, the many details of a vast and comprehensive knowledge. The wise use of slow action masters the tendency towards excessive activity and wasted motion, but such people remain flexible and mobile, ready and able to go anywhere and do anything to further love, wisdom and understanding. The heart fuses with the ever-active mind. Benevolence and loving kindness are expressed with intellectually sophisticated “savoir-faire.” | Những ai có tổ hợp cung này có thể biện luận không mệt mỏi cho giá trị của một nền giáo dục rộng mở, nhân bản như điều kiện cần thiết cho sự phát triển tối ưu của linh hồn và trí tuệ con người. Họ có thể dệt lại, với kỹ năng và trí thông minh hiếm có, vô vàn chi tiết của một kho tri thức mênh mông và bao quát. Việc sử dụng khôn ngoan hành động chậm rãi chế ngự khuynh hướng hoạt động thái quá và những chuyển động lãng phí, nhưng những người như vậy vẫn linh hoạt và cơ động, sẵn sàng và có thể đi bất cứ đâu và làm bất cứ điều gì để tiến triển tình thương, minh triết và sự thấu hiểu. Trái tim dung hợp với cái trí luôn hoạt động. Lòng nhân từ và tình thương được biểu lộ với tài xử thế trí tuệ tinh tế. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Centralization, keyed to the second ray soul. The secondary integration formula is Stillness, keyed to the third ray personality. The first formula corrects the second ray tendencies towards diffusion, over-expansion, and an energy-draining attachment to life’s peripheral attractions, whereas the second formula corrects third ray tendencies towards a busy scattering of attention, wasted thought and physical overactivity (with their resultant disturbances and obscuring of consciousness). | 6. Tác dụng kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ yếu là Trung tâm hóa, gắn với linh hồn cung hai. Công thức tích hợp thứ yếu là Tĩnh lặng, gắn với phàm ngã cung ba. Công thức thứ nhất điều chỉnh những khuynh hướng của cung hai hướng tới sự khuếch tán, quá mở rộng, và sự bám chấp tiêu hao năng lượng vào các hấp dẫn ở ngoại vi đời sống, trong khi công thức thứ hai điều chỉnh các khuynh hướng cung ba hướng tới sự tán loạn bận rộn của chú tâm, tư tưởng lãng phí và hoạt động hồng trần quá mức (với những xáo trộn phát sinh và sự che mờ tâm thức). |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘still centralization,’ (i.e., the personality stillness which fosters the ability to find one’s spiritual center). The formulae make it possible for the individual (by detaching his loving attention from the periphery of life) to gather his consciousness to the center of his being and (aided by the newfound stillness of his personality), become sensitive to that which is central to his expression as a soul. | Khi dùng cùng nhau, hai công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã phẩm tính tổng hợp của ‘trung tâm hóa tĩnh’ (tức là, sự tĩnh lặng của phàm ngã nuôi dưỡng khả năng tìm được trung tâm tinh thần của mình). Các công thức khiến cá nhân (bằng cách tách rời sự chú tâm thương yêu khỏi ngoại vi của đời sống) có thể tụ hội tâm thức về trung tâm bản thể mình và (được hỗ trợ bởi sự tĩnh lặng mới tìm được nơi phàm ngã), trở nên nhạy cảm với điều trung tâm đối với sự biểu lộ của y như một linh hồn. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself desperately overextended, attached to far too many things, and wildly active in the pursuit of those things. Restless activity, and a too-inclusive, expansive, undiscriminating attitude towards love and attachment keeps him constantly “un-centered” and off balance. He is too involved and too busy to seek the center of his being. | Ở những giai đoạn tiến hoá sớm hơn, trước khi áp dụng thành công các công thức này, một cá nhân có tổ hợp cung này thường thấy mình rơi vào tình trạng phóng dãn đến tuyệt vọng, bám chấp quá nhiều điều, và hoạt động điên cuồng trong việc theo đuổi những điều ấy. Hoạt động bồn chồn, và một thái độ quá bao gồm, quá mở rộng, không phân biện đối với tình yêu và sự bám chấp khiến y liên tục “mất trung tâm” và mất cân bằng. Y dính can vào quá nhiều và quá bận để có thể tìm kiếm trung tâm bản thể mình. |
The intelligent use of these formulae, however, transmutes the abuses of the past. The individual learns, primarily, to stand within the center of the love and wisdom of his second ray soul, loving others purely, wisely and with detachment, and his growing secondary ability to find clarity and right-action through stillness helps him remain spiritually “centered”. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông minh các công thức này chuyển hóa những lạm dụng của quá khứ. Cá nhân học, chủ yếu, đứng trong trung tâm tình thương và minh triết của linh hồn cung hai của y, yêu thương người khác một cách tinh ròng, khôn ngoan và với sự tách rời, và năng lực thứ yếu đang tăng trưởng của y để tìm thấy sự minh bạch và hành động đúng thông qua tĩnh lặng giúp y duy trì trạng thái “định tâm” tinh thần. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the second ray soul and the third ray personality: | 7. Một số ví dụ về năng khiếu và định hướng nghề nghiệp liên quan đến tổ hợp linh hồn cung hai và phàm ngã cung ba: |
• the server who thinks of every possible contingency which may arise during the course of his service. | • người phụng sự nghĩ tới mọi tình huống có thể phát sinh trong quá trình phụng sự của mình. |
• the teacher who persistently encourages intelligent, verbal self-expression among her students. | • người dạy học kiên trì khuyến khích sự tự biểu đạt thông minh, bằng lời của các môn sinh nữ của mình. |
• the therapist with outstanding interpretive skill. | • nhà trị liệu có kỹ năng diễn giải xuất chúng. |
• the humanist who realizes the importance of historical perspective in the development of humanity. | • nhà nhân văn nhận ra tầm quan trọng của viễn tượng lịch sử trong sự phát triển của nhân loại. |
• the unifier with a skill for pulling a great diversity of ‘threads’ together. | • người hợp nhất có tài kéo rất nhiều “sợi chỉ” đa dạng lại cùng nhau. |
• the compassionate helper who will “go anywhere and do anything” to render his help effective. | • người trợ giúp đầy từ bi, sẵn sàng “đi bất cứ đâu và làm bất cứ điều gì” để cho sự giúp đỡ của mình hữu hiệu. |
• the illuminator who is broadly eclectic in her methods. | • người soi sáng có phương pháp rất rộng mở, mang tính chiết trung. |
• the light-bearer who spreads knowledge far and wide. | • người mang ánh sáng truyền bá kiến thức khắp nơi. |
• the sage who uses every means at her disposal to communicate her ideas. | • vị hiền triết dùng mọi phương tiện sẵn có để truyền đạt tư tưởng của mình. |
• the guru who is adept at sharpening the intellect of his chelas. | • vị guru thiện xảo trong việc mài sắc trí tuệ của các đệ tử của mình. |
• the scholar with a strong penchant for philosophical thought. | • học giả có khuynh hướng mạnh mẽ đối với tư tưởng triết học. |
• the healer who combines psychological understanding with herbal medicines. | • người chữa lành kết hợp sự thấu hiểu tâm lý với dược thảo. |
• the counselor with a multitude of constructive alternatives for her clients. | • nhà tư vấn có một loạt phương án xây dựng cho thân chủ của mình. |
• the social worker who is keenly aware of the financial dimensions of social welfare. | • nhân viên công tác xã hội nhạy bén với chiều kích tài chính của phúc lợi xã hội. |
• the astrologer who focuses extensively upon the timing of events in relation to the expression of subjective soul potentials. | • nhà chiêm tinh tập trung rộng rãi vào thời điểm của các sự kiện liên hệ đến sự biểu lộ các tiềm năng linh hồn chủ quan. |
• the meditator with unusual facility for the creative development of seed thoughts. | • người tham thiền có khả năng khác thường trong phát triển sáng tạo các tư tưởng hạt giống. |
In general: vocations and professions which require a wise and loving attitude, great empathy and understanding, studiousness, and the ability to teach or compassionately heal, as well as, acute intelligence (whether active or abstract), great adaptability and resourcefulness, abundant creative and communicative abilities, and (frequently) strong business aptitudes. | Nói chung: các nghề nghiệp và chuyên môn đòi hỏi một thái độ khôn ngoan và đầy tình thương, sự đồng cảm và thấu hiểu lớn, tính chăm học, và khả năng dạy dỗ hoặc chữa lành đầy từ bi, cũng như trí tuệ sắc bén (dù chủ động hay trừu tượng), khả năng thích ứng và tháo vát tuyệt vời, dồi dào năng lực sáng tạo và truyền đạt, và (thường) năng khiếu kinh doanh mạnh. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the second, with a strong subsidiary third ray influence (whether or not the third ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh sách đề xuất những nhân vật nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hoặc thần thoại) có thể hợp lý xem là có linh hồn cung hai, với ảnh hưởng cung ba phụ trợ mạnh (dù cung ba có hay không, nói một cách chặt chẽ, là cung phàm ngã): |
Martin Buber: Jewish religious philosopher, biblical translator and interpreter. Buber is best known for his development of the ethical concept of “I and Thou”. | Martin Buber: triết gia tôn giáo Do Thái, dịch giả và nhà diễn giải Kinh Thánh. Buber nổi tiếng nhất với việc phát triển khái niệm đạo đức “Ta và Ngươi”. |
Meister Eckehart: the greatest German speculative mystic. Although mysticism flourishes, primarily, under the sixth ray, Eckehart’s mysticism was broad characterized by the lucidity of the second ray. The Tibetan refers to him as an occultist. | Meister Eckehart: nhà thần bí suy tư vĩ đại nhất của Đức. Dẫu thần bí học nở rộ chủ yếu dưới cung sáu, chủ nghĩa thần bí của Eckehart có tính rộng mở, được đặc trưng bởi sự sáng tỏ của cung hai. Chân sư Tây Tạng gọi Ông là một nhà huyền bí học. |
Marilyn Ferguson: new-age educator, author of The Aquarian Conspiracy, and editor of “The Brain-Mind Bulletin.” | Marilyn Ferguson: nhà giáo dục thời đại mới, tác giả The Aquarian Conspiracy, và biên tập viên của “The Brain-Mind Bulletin.” |
Hypatia: Alexandrian Neoplatonist philosopher, mathematician and educator. Hypatia was considered the most learned woman of the ancient world. | Hypatia: nữ triết gia Tân-Plato ở Alexandria, nhà toán học và nhà giáo dục. Hypatia được xem là người phụ nữ uyên bác nhất của thế giới cổ đại. |
Henry James: American novelist. A strong ray four was also in evidence. | Henry James: tiểu thuyết gia Mỹ. Cũng có bằng chứng về ảnh hưởng mạnh của cung bốn. |
Origen: the most influential and seminal theologian and biblical scholar of the early Greek Church. | Origen: nhà thần học có ảnh hưởng và tính khai nguyên nhất, học giả Kinh Thánh của Giáo hội Hy Lạp thời sơ kỳ. |
Plato: Greek philosopher, who with Socrates and Aristotle laid the philosophical foundations of western culture. The first ray appears to have been a strong influence. | Plato: triết gia Hy Lạp, cùng với Socrates và Aristotle đặt nền móng triết học cho văn hóa phương Tây. Cung một dường như là một ảnh hưởng mạnh. |
Socrates: Greek philosopher, and teacher of Plato. The first ray was definitely an important influence. | Socrates: triết gia Hy Lạp, thầy của Plato. Cung một chắc chắn là một ảnh hưởng quan trọng. |
Some Contrasts Between the Ray 2 Soul and the Ray 4 Personality—
Ray 2 Soul | Ray 4 Personality |
1. spiritual love and wisdom | 1. personal expressiveness |
2. serenity based upon deep faith in and understanding of Divine Love | 2. persistent personal crises and conflicts—mental, emotional, and even physical |
3. tranquillity based upon clear spiritual vision | 3. moodiness based upon blind reaction to the fluctuations of the form life |
4. undimmed spiritual positivity | 4. unstable alternation between “highs” and “lows”; unpredictable personality reactions |
5. scholarly inclinations in the pursuit of Divine Wisdom | 5. rejection of the scholarly path in the pursuit of “experiential” living |
6. a profoundly spiritual/religious attitude and world-view | 6. ‘artistic’ temperamentalism |
7. soul-inspired restraint of the passions; wise dispassion | 7. surrender to the emotional fluctuations of the passions |
8. slow, steady and stable spiritual progress | 8. a personal life filled with constant self-inflicted reversals |
9. quiet faithfulness and spiritual loyalty | 9. fickleness due to self-contradiction and divided loyalties |
10. the wise avoidance of extremes | 10. constant alternation between the extremes |
11. capacity to “stand” within “the center of all love” | 11. difficulty achieving a centered position due to constant vacillations |
12. upholding of spiritual values through the application of detached spiritual love | 12. relinquishing of spiritual values because of the felt need for tension-reduction, resulting in unwise compromise and “peace at any price” |
13. selfless concern for others | 13. selfish concern with one’s never-ending problems and turmoils |
14. gentleness and loving-kindness | 14. contrariness and combativeness |
15. humility and “occult obedience” | 15. temperamental rebelliousness; the refusal to be quiet and disciplined |
16. quiet joy | 16. frequent bouts with depression |
Ray 2 Soul – Linh hồn Cung Hai | Ray 4 Personality – Phàm ngã Cung Bốn |
1. Tình thương và minh triết tinh thần | 1. Tính biểu cảm cá nhân |
2. Sự thanh thản dựa trên niềm tin sâu sắc và sự thấu hiểu về Tình thương Thiêng Liêng | 2. Những khủng hoảng và xung đột cá nhân dai dẳng — thuộc trí tuệ, cảm xúc và thậm chí thể xác |
3. Sự an tĩnh dựa trên tầm nhìn tinh thần rõ ràng | 3. Tâm trạng thất thường bắt nguồn từ phản ứng mù quáng đối với các dao động của đời sống hình tướng |
4. Tính tích cực tinh thần không phai mờ | 4. Sự thay đổi thất thường giữa “cao trào” và “tụt dốc”; các phản ứng cá nhân khó lường |
5. Khuynh hướng học thuật trong việc theo đuổi Minh triết Thiêng Liêng | 5. Bác bỏ con đường học thuật để theo đuổi lối sống “trải nghiệm” |
6. Thái độ và thế giới quan mang tính tôn giáo/tinh thần sâu sắc | 6. Tính khí “nghệ sĩ” thất thường |
7. Sự kiềm chế đam mê được linh hồn soi dẫn; sự vô dục khôn ngoan | 7. Sự buông xuôi trước những dao động cảm xúc của dục vọng |
8. Tiến trình tinh thần chậm rãi, ổn định và vững chắc | 8. Đời sống cá nhân đầy những đảo lộn tự gây ra |
9. Sự trung tín và trung thành tinh thần trong tĩnh lặng | 9. Tính thất thường do tự mâu thuẫn và lòng trung thành chia rẽ |
10. Khả năng khôn ngoan trong việc tránh các thái cực | 10. Sự thay đổi liên tục giữa các cực đoan |
11. Khả năng “đứng vững” trong “trung tâm của mọi tình thương” | 11. Khó đạt được trạng thái tập trung do dao động không ngừng |
12. Duy trì các giá trị tinh thần thông qua việc thực hành tình thương tinh thần ly cách | 12. Từ bỏ các giá trị tinh thần vì nhu cầu giảm căng thẳng, dẫn đến sự thỏa hiệp thiếu khôn ngoan và “hòa bình bằng mọi giá” |
13. Mối quan tâm vô ngã đối với người khác | 13. Sự quan tâm ích kỷ với những vấn đề và xáo trộn không dứt của bản thân |
14. Sự dịu dàng và lòng nhân ái đầy tình thương | 14. Tính đối nghịch và hiếu chiến |
15. Khiêm cung và “vâng phục huyền linh” | 15. Sự phản kháng thất thường; từ chối tĩnh lặng và kỷ luật |
16. Niềm vui tĩnh lặng | 16. Thường xuyên rơi vào các cơn trầm uất |
The Integration Process for the Individual with a Ray 2 Soul and a Ray 4 Personality | Tiến trình Tích hợp cho Cá nhân có Linh hồn Cung 2 và Phàm ngã Cung 4 |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of second ray soul energy and the self-centered use of fourth ray personality force) are to achieve the complete fulfillment of personal love (or the complete satisfaction of studious inquiry [2B]), as well as an agreeable feeling of personal peace and harmony through a tension-releasing expression of conflicting bio-psychic impulses. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị một phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, các động cơ của cá nhân (dựa trên sự méo mó nơi phàm ngã của năng lượng linh hồn cung hai và việc sử dụng vị kỷ lực phàm ngã cung bốn) là đạt đến sự viên mãn trọn vẹn của tình yêu cá nhân (hoặc sự thỏa mãn trọn vẹn của khảo cứu chăm học [2B]), cũng như một cảm giác dễ chịu của hòa bình và hòa hợp cá nhân thông qua sự biểu lộ giải phóng căng thẳng của các xung lực sinh tâm mâu thuẫn. |
The person wants primarily to be constantly loved, consistently popular, warmly admired, well-cared-for, and to live a soft, comfortable, well-protected, well-insulated life—closely attached to those people, places, and things which he loves and finds personally satisfying, but, he also wants to be constantly surrounded by what he considers beautiful or attractive, to be spontaneously self-expressive without discipline or control, self-indulgently dramatic or moody (as he pleases), and greatly appreciated for his colorful, unpredictable temperament. | Người này chủ yếu muốn được yêu thương liên tục, luôn được ưa thích, được ngưỡng mộ nồng hậu, được chăm sóc chu đáo, và sống một đời sống êm ái, tiện nghi, được che chở kỹ lưỡng, cách ly tốt—gắn bó mật thiết với những người, nơi chốn và sự vật mà y yêu thương và thấy thỏa mãn trên phương diện cá nhân, nhưng y cũng muốn luôn được bao quanh bởi những gì y cho là đẹp hay hấp dẫn, được tự phát tự biểu lộ không cần kỷ luật hay kiểm soát, phóng túng theo ý thích một cách kịch tính hoặc u uất, và được đánh giá cao vì khí chất đầy màu sắc, khó lường của mình. |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: a fearful, self-tortured person (2 + 4B); one who over-dramatizes himself, or becomes the ‘entertainer’ in the effort to be loved and appreciated; one who is filled with self-pity because of the constant turmoils and personal crises in which he finds himself (2A + 4B); one with a deep-seated inferiority complex, aggravated by psychological instability; an over-sensitive, vulnerable person who is always giving in, and compromising so that he doesn’t have to be assertive (2A + 4A); one who is too permissive, realizes it, tries to combat the tendency, and continually reverses himself in the process (2A + 4B); an individual who is too protective and is always worrying about someone or something (2A + 4); one who is constantly in a state of apprehension and usually falls victim to pessimism or negativity; one who always has to be “in love” or “in a relationship” (2A + 4A); one who becomes promiscuous in the desire to be loved by (and in harmony with) everyone (2A + 4A); one who values unity and loving relations so much that he desires peace and harmony at any price (2A + 4A); the person who, convinced of his own wisdom, believes he can reconcile all differences and solve all conflicts (2B + 4A); a person so determined to be inclusive that he can never decide upon what (or whom) to relinquish (2 + 4A); one who always has difficulty deciding upon whom to love—faithfully (2A + 4A); one who moves at an excruciatingly slow pace, largely because of inner and outer conflict (2 + 4B); an individual who is too ‘soft,’ being unable to function unless those around him are in a state of love and harmony (2A + 4A); one who “enables” another’s weaknesses because of “moral cowardice” and the inability to abide unpleasantness (2A + 4A); etc. | Ở mặt tiêu cực và trong ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: một người sợ hãi, tự dày vò (2 + 4B); kẻ cường điệu hóa bản thân, hoặc trở thành ‘người mua vui’ trong nỗ lực được yêu và được trân trọng; kẻ tràn đầy tự thương hại vì những hỗn loạn và khủng hoảng cá nhân liên miên mà y gặp phải (2A + 4B); người có mặc cảm tự ti ăn sâu, bị làm trầm trọng thêm bởi sự bất ổn tâm lý; một người quá nhạy cảm, mong manh, luôn nhượng bộ và thỏa hiệp để khỏi phải quyết đoán (2A + 4A); kẻ quá dễ dãi, tự biết thế, cố chống lại khuynh hướng ấy, và liên tục tự đảo ngược trong tiến trình (2A + 4B); một cá nhân quá bảo bọc và luôn lo lắng về ai đó hay điều gì đó (2A + 4); kẻ thường xuyên ở trong trạng thái âu lo và thường trở thành nạn nhân của bi quan hoặc tiêu cực; kẻ lúc nào cũng phải “đang yêu” hoặc “đang trong một mối quan hệ” (2A + 4A); kẻ trở nên trăng hoa vì khao khát được tất cả mọi người yêu mình (và hòa hợp với mình) (2A + 4A); kẻ coi trọng hợp nhất và các mối liên hệ yêu thương đến mức y mong muốn hòa bình và hòa hợp bằng mọi giá (2A + 4A); người, tin chắc vào minh triết của mình, tin rằng y có thể hòa giải mọi khác biệt và giải quyết mọi xung đột (2B + 4A); một người quyết tâm bao gồm đến mức không bao giờ quyết định được nên từ bỏ cái gì (hay ai) (2 + 4A); kẻ lúc nào cũng khó quyết định nên yêu ai—một cách thủy chung (2A + 4A); kẻ di chuyển với tốc độ chậm đến cực hình, phần lớn vì xung đột nội tâm và ngoại cảnh (2 + 4B); một cá nhân quá “mềm,” không thể vận hành nếu những người quanh y không ở trong trạng thái yêu thương và hòa hợp (2A + 4A); kẻ “tiếp tay” cho các yếu hèn của người khác vì “hèn nhát đạo đức” và không thể chịu đựng sự khó chịu (2A + 4A); v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray two soul and the ray four personality is the struggle between the serene expression of spiritual love-wisdom, and the dramatic expression of widely fluctuating states of personal feeling and emotion. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng tinh ròng của linh hồn xung đột với lực của phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung bốn là cuộc giằng co giữa sự biểu lộ thanh thản của tình thương–minh triết tinh thần, và sự biểu lộ kịch tính của những trạng thái cảm xúc cá nhân dao động rộng lớn. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the second ray soul: It will be the task of the second ray soul to bring serenity to the many turmoils and crises of the fourth ray personality. The soul, endowed with a steady, loving radiance, impervious to the fluctuations of form, seeks to share this radiance with a personality that is constantly reactive and fluctuating. Abiding, as it does, in the “center of all love,” the second ray soul naturally seeks to bring the vacillating personality to a “centered” position, from the vantage point of which, clear perceptions will no longer be obscured by the smoke and din of battle. With undimmed positivity the soul pours its warming, encouraging influence into a personality which suffers from frequent bouts of negativity and lost confidence. | 3. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ quan điểm của tâm thức chủ yếu đồng nhất với linh hồn cung hai: Nhiệm vụ của linh hồn cung hai sẽ là mang sự thanh thản đến với muôn vàn xáo trộn và khủng hoảng của phàm ngã cung bốn. Linh hồn, được phú cho một quang huy yêu thương bền vững, không bị lay động bởi các dao động của hình tướng, tìm cách chia sẻ quang huy này với một phàm ngã liên tục phản ứng và dao động. Vì an trú trong “trung tâm của mọi tình thương,” linh hồn cung hai tự nhiên tìm cách đưa phàm ngã hay do dự đến một vị thế “định tâm,” từ điểm nhìn ấy, những tri nhận sáng suốt sẽ không còn bị khói lửa chiến trận che mờ. Với thái độ tích cực không suy giảm, linh hồn rót ảnh hưởng sưởi ấm, khích lệ của mình vào một phàm ngã vốn chịu đựng những cơn bộc phát thường xuyên của tiêu cực và đánh mất tự tin. |
With an all-embracing sense of inclusiveness, the second ray soul pervades the personal psyche, for the love and wisdom of the second ray soul already contain the many opposites between which the fourth ray personality oscillates. The soul seeks to demonstrate that both sides of a conflict must be brought together in unity, for both sides are different aspects of the same thing. Gradually, after demonstrating the waste and futility of conflict, the soul brings the personality to a condition of greater peacefulness. It is the broad, impersonal, complete view of the whole (greater than all strictly personal sensitivities—however deeply-felt) that the second ray soul seeks to convey. The soul seeks to guide this most human (“all too human”) of personality types to a wise understanding of its true place within the larger whole. | Với cảm thức bao gồm trọn vẹn, linh hồn cung hai thấm nhuần toàn bộ tâm lý cá nhân, vì tình thương và minh triết của linh hồn cung hai đã bao hàm những đối cực đa tạp mà phàm ngã cung bốn đu đưa giữa chúng. Linh hồn tìm cách chứng minh rằng cả hai phía của xung đột đều phải được đưa về hợp nhất, vì cả hai phía chỉ là các phương diện khác nhau của cùng một điều. Dần dần, sau khi cho thấy sự phí phạm và vô ích của xung đột, linh hồn mang phàm ngã đến một trạng thái bình an hơn. Chính cái nhìn toàn thể, vô ngã, trọn vẹn (cao hơn mọi nhạy cảm thuần cá nhân—dù cảm sâu đến đâu) là điều linh hồn cung hai tìm cách truyền đạt. Linh hồn tìm cách hướng dẫn kiểu phàm ngã rất “con người” (theo nghĩa “quá đỗi con người”) này đến một sự thấu hiểu khôn ngoan về vị trí chân thật của nó trong toàn thể lớn hơn. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of a consciousness identified primarily with the fourth ray personality: The second ray pressure towards integration will be felt by the fourth ray personality (initially, at least) as a diminution of its expressive power, and the quieting and neutralizing of its dramatic flair. The vibrant fourth ray personality has no great love of serenity—at least not for any length of time. It loves the feeling of poignant contrasts, sudden emotional changes of pace; it loves to be moved by the muse and inspired by spontaneous urges. The calm of the second ray soul—no matter how spiritual, no matter how radiant—appears unappealing, even insipid—altogether lacking in what the personality recognizes as “life” and “vitality.” Living a colorful, exciting life, filled with surprises and “aesthetic moments” is the joy of the fourth ray personality, and this proves difficult to relinquish. | 4. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ quan điểm của một tâm thức chủ yếu đồng nhất với phàm ngã cung bốn: Áp lực tích hợp của cung hai sẽ được phàm ngã cung bốn cảm nhận (ít nhất ban đầu) như một sự suy giảm quyền năng biểu lộ của nó, và như việc làm lắng dịu và vô hiệu hóa phẩm tính kịch tính của nó. Phàm ngã cung bốn sinh động không mấy yêu thích sự thanh thản—ít nhất không trong một thời gian dài. Nó yêu cảm thức của những tương phản nhói buốt, những đổi nhịp cảm xúc đột ngột; nó yêu được nàng thơ lay động và được các xung lực tự phát truyền hứng. Sự bình thản của linh hồn cung hai—dẫu tinh thần đến đâu, dẫu quang huy đến đâu—có vẻ kém hấp dẫn, thậm chí nhạt nhòa—hoàn toàn thiếu vắng điều mà phàm ngã nhận ra là “sự sống” và “sinh khí.” Sống một đời sống rực rỡ, thú vị, đầy bất ngờ và “khoảnh khắc thẩm mỹ” là niềm vui của phàm ngã cung bốn, và điều này tỏ ra khó mà từ bỏ. |
Gradually, however, it begins to dawn upon the fourth ray person that the steady outpouring of loving radiance is a greater thing than personal expressivity (no matter how engaging), and that fluctuating personality extremes only inhibit the flow of this all-pervading, all-inclusive love. After agony and ecstasy have run their course, something greater appears. After the pain of being strictly human, comes the joy of realizing that “the soul of things is sweet.” The fourth ray person-ality begins to relinquish its central place on the stage to the rising of a greater ‘star’—the soul. Beyond the delights of personal self-expression lies the beauty of love and wisdom. | Tuy nhiên, dần dần, phàm ngã cung bốn bắt đầu nhận ra rằng sự tuôn đổ bền bỉ của quang huy yêu thương là điều lớn lao hơn khả năng biểu lộ cá nhân (dù lôi cuốn đến đâu), và rằng những cực đoan dao động của phàm ngã chỉ cản trở dòng chảy của tình thương bao trùm, bao gồm tất cả này. Sau khi nỗi thống khổ và hoan lạc đã đi đến tận cùng, một điều lớn hơn xuất hiện. Sau nỗi đớn đau của kiếp làm người đơn thuần, đến niềm hoan hỷ khi nhận ra rằng “linh hồn của vạn vật là ngọt ngào.” Phàm ngã cung bốn bắt đầu nhường vị trí trung tâm trên sân khấu cho sự trỗi dậy của một ‘ngôi sao’ lớn hơn—linh hồn. Bên kia những thú vui của tự biểu lộ cá nhân là vẻ đẹp của tình thương và minh triết. |
5. The ideal expression of the combination of the ray two soul and the ray four personality: Loving understanding is expressed harmoniously and beautifully, with complete skill-in-action. Radiant serenity and confidence master inner and outer conflict, fret, turmoil and the agony of dissonance, but an intimate understanding of the causes of inharmony strengthens the personality as an agent of harmony, serving the wise and loving soul. Many conflicting personal and environmental energies are wisely and gently fused into a whole; psychological and environed synthesis is created. Love is served, and love is expressed through the ability to end conflicts constructively, bringing peace and equilibrium to the inner and outer environment. There is a deep understanding of the joy and pain of the human condition, accompanied by the harmonizing skill to alleviate the pain, and the inspirational sensitivity to express the joy. | 5. Biểu lộ lý tưởng của sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung bốn: Sự thấu hiểu đầy tình thương được biểu lộ một cách hòa hợp và mỹ lệ, với sự thuần thục trọn vẹn trong hành động. Sự thanh thản và tự tin rạng ngời chế ngự xung đột nội tâm và ngoại cảnh, sự bức bối, xáo trộn và nỗi thống khổ của bất hòa, nhưng một sự thấu hiểu thâm mật về các nguyên nhân của bất hòa lại làm mạnh phàm ngã như một tác nhân của hòa hợp, phụng sự linh hồn khôn ngoan và đầy tình thương. Nhiều năng lượng cá nhân và môi sinh xung đột được dung hợp khôn ngoan và nhẹ nhàng thành một toàn thể; tổng hợp tâm lý và môi vi được kiến tạo. Tình thương được phụng sự, và tình thương được biểu lộ qua khả năng kết thúc xung đột một cách xây dựng, mang lại hòa bình và quân bình cho môi trường nội tâm và ngoại giới. Có một sự thấu hiểu sâu xa về niềm vui và nỗi đau của thân phận con người, đi kèm là kỹ năng hòa hợp để xoa dịu nỗi đau, và cảm năng truyền hứng để biểu lộ niềm vui. |
Because of a broad, heart-felt understanding of diverse and contrasting human qualities, there is an unusual capacity to reconcile differences between many types of people. Many are drawn together and unified through a pronounced facility for building bridges of rapport. There is a willingness (even an eagerness) to fight and struggle, if necessary, to express wisdom and understanding through beautiful or imaginative forms. The teacher teaches through his aesthetic sensibilities. The educator makes his subject “come alive” through a vibrant, engaging, entertaining presentation style. A wise understanding of human nature is expressed through drama or through dramatic action. The one who seeks to save and salvage finds success through his deep understanding of, and identification with, the “human predicament.” | Nhờ sự thấu hiểu rộng mở, xuất phát từ trái tim, về những phẩm chất con người đa dạng và tương phản, có một năng lực khác thường trong việc hòa giải khác biệt giữa nhiều loại người. Nhiều người được quy tụ và hợp nhất thông qua khả năng nổi bật trong việc xây những cây cầu tương giao. Có một sự sẵn lòng (thậm chí háo hức) chiến đấu và tranh đấu, khi cần, để biểu lộ minh triết và sự thấu hiểu qua những hình thức đẹp đẽ hoặc giàu tưởng tượng. Người thầy dạy học thông qua cảm năng thẩm mỹ của mình. Nhà giáo khiến môn học “sống động” qua phong cách trình bày sinh khí, lôi cuốn, giải trí. Sự thấu hiểu khôn ngoan về bản tính con người được biểu lộ qua kịch nghệ hoặc hành động kịch tính. Người kiếm tìm để cứu rỗi và cứu vãn tìm được thành công nhờ sự thấu hiểu sâu sắc và đồng nhất của mình với “tình thế con người.” |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Centralization, keyed to the second ray soul. The second ray integration formula is Steadfastness, keyed to the fourth ray personality. The first formula corrects the second ray tendencies towards diffusion, over-expansion, and an energy-draining attachment to life’s peripheral attractions, whereas the second formula corrects the tendencies towards vacillation, irresoluteness, instability, indecisiveness and moral cowardice characteristic of the fourth ray personality. | 6. Tác dụng kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ yếu là Trung tâm hóa, gắn với linh hồn cung hai. Công thức tích hợp thứ yếu là Kiên định, gắn với phàm ngã cung bốn. Công thức thứ nhất điều chỉnh các khuynh hướng cung hai hướng tới sự khuếch tán, quá mở rộng, và sự bám chấp tiêu hao năng lượng vào các hấp dẫn ở ngoại vi đời sống, trong khi công thức thứ hai điều chỉnh các khuynh hướng do dự, thiếu quyết đoán, bất ổn, không dứt khoát và hèn nhát đạo đức đặc trưng của phàm ngã cung bốn. |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘steadfast centralization’ (the steadfastness of personality consciousness which fosters the ability to find and maintain one’s spiritual center). The formulae make it possible for the individual to cultivate a more serene and stable personal consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness when (pervaded by the presence of the soul) he takes his stand firmly and immovably “in the center of all love.” Thus, as a soul he stands centered in spiritual love, detached from all outer bonds; as a personality he stands, steadfastly, midway between the warring opposites, yet embracing and valuing them both. | Khi dùng cùng nhau, hai công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã phẩm tính tổng hợp của ‘trung tâm hóa kiên định’ (tức là, sự kiên định của tâm thức phàm ngã nuôi dưỡng khả năng tìm và duy trì trung tâm tinh thần của mình). Các công thức khiến cá nhân có thể vun trồng một tâm thức cá nhân bình thản và ổn định hơn, hỗ trợ những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức cao siêu khi (được thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn) y đứng vững chắc và bất lay chuyển “trong trung tâm của mọi tình thương.” Như thế, như một linh hồn, y đứng định tâm trong tình thương tinh thần, tách rời khỏi mọi ràng buộc bên ngoài; như một phàm ngã, y đứng, kiên định, ở điểm giữa hai đối cực đang giao chiến, nhưng vẫn ôm trọn và trân quý cả hai. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, the individual often finds himself excessively attached to many personalities and to many extraneous things, torn between competing commitments, irresolutely swinging from one peripheral attachment to another. The constant turmoils and fluctuations of his life and the excessive number of his attachments lead him far from his spiritual center. | Ở những giai đoạn tiến hoá sớm hơn, trước khi áp dụng thành công các công thức này, cá nhân thường thấy mình bám chấp quá mức vào nhiều nhân cách và nhiều điều phụ trội, bị xé toạc giữa các cam kết cạnh tranh, do dự lắc lư từ chấp dính ngoại vi này sang chấp dính ngoại vi khác. Những hỗn loạn và dao động liên tục của đời y và số lượng bám chấp quá nhiều đã dẫn y rời xa trung tâm tinh thần của mình. |
The intelligent use of these two formulae, however, transmutes the abuses of the past. The individual learns, primarily, to stand within the center of the love and wisdom of his second ray soul, loving others purely, wisely and with detachment, and his growing secondary ability to achieve a poised, steadfast and balanced personality consciousness helps him maintain his spiritual “centeredness.” | Tuy nhiên, việc sử dụng thông minh hai công thức này chuyển hóa những lạm dụng của quá khứ. Cá nhân học, chủ yếu, đứng trong trung tâm tình thương và minh triết của linh hồn cung hai của y, yêu thương người khác một cách tinh ròng, khôn ngoan và với sự tách rời, và năng lực thứ yếu đang tăng trưởng của y để đạt được một tâm thức phàm ngã trầm tĩnh, kiên định và quân bình giúp y duy trì “tính định tâm” tinh thần của mình. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the second ray soul and the fourth ray personality: | 7. Một số ví dụ về năng khiếu và định hướng nghề nghiệp liên quan đến tổ hợp linh hồn cung hai và phàm ngã cung bốn: |
• the server who establishes excellent rapport with those he serves. | • người phụng sự thiết lập tương giao tuyệt hảo với những ai y phục vụ. |
• the teacher who dramatizes his subject, teaching through the arts, through entertainment and the evocation of the imagination. | • người thầy kịch hóa môn học của mình, dạy thông qua nghệ thuật, thông qua giải trí và khơi gợi trí tưởng tượng. |
• the therapist who utilizes the arts extensively in his therapeutic practices. | • nhà trị liệu sử dụng rộng rãi nghệ thuật trong thực hành trị liệu của mình. |
• the humanist animated by a “renaissance spirit”. | • nhà nhân văn được thôi thúc bởi “tinh thần Phục Hưng”. |
• the unifier capable of working-through the difficulties of reconciling many differences. | • người hợp nhất có khả năng làm việc xuyên qua những khó khăn của việc hòa giải nhiều dị biệt. |
• the illuminator who draws constantly upon the revealing power of the intuition. | • người soi sáng liên tục rút tỉa từ quyền năng mặc khải của trực giác. |
• the “light-bearer” who fights and struggles to express the light through art. | • “người mang ánh sáng” chiến đấu và tranh đấu để biểu lộ ánh sáng qua nghệ thuật. |
• the guru who teaches his chelas that “beauty is truth”. | • vị guru dạy các đệ tử rằng “cái đẹp là chân lý”. |
• the scholar who makes his learning “come alive” through the use of many lively stories and anecdotal illustrations. | • học giả làm cho sự học của mình “sống động” qua việc sử dụng nhiều câu chuyện sinh động và minh họa giai thoại. |
• the healer who works particularly through color and sound. | • người chữa lành làm việc đặc biệt thông qua màu sắc và âm thanh. |
• the counselor who encourages his clients to struggle with their internal conflicts rather than simply smooth them over. | • nhà tư vấn khuyến khích thân chủ của mình tranh đấu với các xung đột nội tâm thay vì chỉ đơn giản làm êm dịu chúng. |
• the social worker who is willing to fight to see that his clients get fair treatment. | • nhân viên công tác xã hội sẵn sàng đấu tranh để bảo đảm thân chủ của mình được đối xử công bằng. |
In general: vocations and professions which require a wise and loving attitude, great empathy and understanding, studiousness, and the ability to teach and heal, as well as a strong creative imagination, spontaneity, expressivity, aesthetic sensitivity and the ability to bring harmony out of conflict, beauty out of ugliness and at-one-ment out of divisiveness. | Nói chung: các nghề nghiệp và chuyên môn đòi hỏi một thái độ khôn ngoan và đầy tình thương, sự đồng cảm và thấu hiểu lớn, tính chăm học, và khả năng dạy dỗ và chữa lành, cũng như một trí tưởng tượng sáng tạo mạnh, tính tự phát, khả năng biểu lộ, nhạy cảm thẩm mỹ và khả năng mang hòa hợp ra từ xung đột, cái đẹp ra từ cái xấu xí và hợp nhất ra từ chia rẽ. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the second, with a strong subsidiary fourth ray (whether or not the fourth ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh sách đề xuất những nhân vật nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hoặc thần thoại) có thể hợp lý xem là có linh hồn cung hai, với ảnh hưởng cung bốn phụ trợ mạnh (dù cung bốn có hay không, nói một cách chặt chẽ, là cung phàm ngã): |
Roberto Assagioli: Italian psychiatrist and founder of Psychosynthesis. | Roberto Assagioli: bác sĩ tâm thần người Ý và là người sáng lập Tâm Hợp Nhất (Psychosynthesis). |
Nadia Boulanger: teacher of musical composition whose students have included many of the leading composers of the 20th century. | Nadia Boulanger: giáo sư sáng tác âm nhạc, các môn sinh của bà bao gồm nhiều nhà soạn nhạc hàng đầu thế kỷ 20. |
Charles Dickens: generally regarded as the greatest English novelist. His thorough understanding of human nature and his dramatic gifts, imparted the quality of universality to his work. | Charles Dickens: thường được xem là tiểu thuyết gia Anh vĩ đại nhất. Sự thấu hiểu sâu sắc của ông về bản tính con người và các thiên tư kịch tính đã đem lại phẩm tính phổ quát cho tác phẩm của ông. |
Fyodor Dostoyevsky: perhaps the greatest Russian novelist, renowned for the depth of his psychological penetration, and the intensity of his characterization. The sixth ray is also strongly in evidence. Dostoyevsky may be an example of an individual undergoing the transformation from a sixth to a second ray soul. | Fyodor Dostoyevsky: có lẽ là tiểu thuyết gia Nga vĩ đại nhất, nổi tiếng vì chiều sâu xuyên thấu tâm lý và cường độ khắc họa nhân vật. Cung sáu cũng hiện diện mạnh mẽ. Dostoyevsky có thể là một ví dụ về cá nhân đang trải qua chuyển hóa từ linh hồn cung sáu sang cung hai. |
Dane Rudhyar: sage, philosopher, astrologer, artist and composer. Rudhyar was also strongly influenced by the third ray. | Dane Rudhyar: hiền triết, triết gia, nhà chiêm tinh, nghệ sĩ và nhà soạn nhạc. Rudhyar cũng chịu ảnh hưởng mạnh của cung ba. |
Carl Jung: Swiss psychiatrist and scholarly author. Jung named his psychological orientation Analytic Psychology. His prodigious scholarship suggests the presence of the fifth ray, as well. | Carl Jung: bác sĩ tâm thần Thụy Sĩ và học giả tác giả. Jung đặt tên định hướng tâm lý của mình là Tâm lý Phân tích. Học vấn uyên bác phi thường của ông cũng gợi ý sự hiện diện của cung năm. |
Carl Rogers: American psychologist who originated the nondirective, or client-centered approach to psychotherapy. His version of unconditional love is called “unconditional, positive regard.” | Carl Rogers: nhà tâm lý học Mỹ, người khởi xướng phương pháp trị liệu không chỉ dẫn, hay lấy thân chủ làm trung tâm. Phiên bản tình thương vô điều kiện của ông được gọi là “trân trọng tích cực vô điều kiện.” |
Jean-Jacques Rousseau: French philosopher, composer, and educator of the Enlightenment. | Jean-Jacques Rousseau: triết gia, nhà soạn nhạc và nhà giáo dục người Pháp của Kỷ Ngộ. |
Sappho: one of the greatest lyric poets of Western Civilization. She was also a renowned teacher of the arts of poetry, music and dancing. It would seem that a strong seventh ray was also in evidence. | Sappho: một trong những nữ thi sĩ trữ tình vĩ đại nhất của nền Văn minh Tây phương. Bà cũng là một bậc thầy nổi tiếng về các nghệ thuật thi ca, âm nhạc và vũ đạo. Có vẻ như một cung bảy mạnh cũng hiện diện. |
Some Contrasts Between the Ray 2 Soul and the Ray 5 Personality— Một vài đối chiếu giữa Linh hồn Cung 2 và Phàm ngã Cung 5
Ray 2 Soul | Ray 5 Personality |
1. soul-inspired love and wisdom | 1. preoccupation with limited concrete knowledge and analytical thought |
2. irrefutable recognition of the reality of soul life, love and light | 2. materialistic skepticism |
3. great intuitive sensitivity; the revelations of the “soft heart” | 3. the limitations of “common sense”; the limitations of the “hard head” |
4. the magnetism of the loving heart | 4. nonmagnetic personality radiation due to an interfering mind |
5. the wise, inclusive, “rounded-out” point of view | 5. the narrow, restricted view of the strict specialist |
6. direct experience of the eternal verities proclaimed by the world’s great religions | 6. sense-blinded rejection of the eternal verities proclaimed by the world’s great religions |
7. love of pure, subjective truth | 7. acceptance of only that which can be immediately verified and practically applied |
8. deep identification with others through empathic love | 8. separation from others due to a detached, overly-objective attitude |
9. great warmth of soul | 9. cool, unfeeling personality reactions |
10. a broad and wise tolerance | 10. the harsh criticism of a keen, overly-discriminating mind |
11. deep appreciation for meaning based upon a broad synthesis of accumulated detail | 11. blinded to meaning by the accumulation of unsynthesized facts |
12. fluidity of thought leading to a well developed faculty for synthesis | 12. stubborn fixity of thought based upon the assurance of correctness and accuracy |
13. reverence and deep humility | 13. irreverence and mental arrogance, based upon a condescending attitude towards subtle ideas which are difficult to prove by conventional means |
14. profound spiritual morality based on a deep feeling of fellowship with all humanity | 14. the amorality of the overly fascinated mind |
Ray 2 Soul – Linh hồn Cung Hai | Ray 5 Personality – Phàm ngã Cung Năm |
1. Tình thương và minh triết được linh hồn soi dẫn | 1. Sự bận tâm với tri thức giới hạn và tư duy phân tích cụ thể |
2. Sự nhận biết không thể bác bỏ về thực tại của đời sống linh hồn, tình thương và ánh sáng | 2. Tính hoài nghi duy vật |
3. Sự nhạy cảm trực giác sâu sắc; những mặc khải của “con tim mềm mại” | 3. Giới hạn của “lẽ thường”; giới hạn của “cái đầu cứng rắn” |
4. Từ tính của con tim yêu thương | 4. Sự toả sáng phi từ tính của phàm ngã do thể trí can thiệp |
5. Quan điểm khôn ngoan, bao dung và toàn diện | 5. Cái nhìn hẹp hòi, giới hạn của nhà chuyên môn cứng nhắc |
6. Kinh nghiệm trực tiếp về các chân lý vĩnh cửu được công bố bởi các tôn giáo vĩ đại của thế giới | 6. Sự khước từ mù quáng các chân lý vĩnh cửu được công bố bởi các tôn giáo vĩ đại của thế giới |
7. Tình yêu đối với chân lý thuần khiết, chủ quan | 7. Chỉ chấp nhận những gì có thể được kiểm chứng ngay và áp dụng thực tiễn |
8. Sự đồng nhất sâu sắc với người khác thông qua tình thương cảm thông | 8. Sự tách biệt khỏi người khác do thái độ quá khách quan và ly cách |
9. Sự ấm áp lớn lao của linh hồn | 9. Phản ứng phàm ngã lạnh lùng, vô cảm |
10. Sự khoan dung rộng lớn và khôn ngoan | 10. Sự chỉ trích gay gắt của tâm trí sắc bén, quá thiên về phân biện |
11. Sự cảm nhận sâu sắc về ý nghĩa dựa trên tổng hợp rộng lớn của các chi tiết tích lũy | 11. Bị mù lòa trước ý nghĩa do tích lũy các dữ kiện chưa được tổng hợp |
12. Tư tưởng linh hoạt dẫn đến khả năng tổng hợp phát triển tốt | 12. Tư tưởng cố chấp dựa trên sự tin tưởng vào tính đúng đắn và chính xác của bản thân |
13. Lòng tôn kính và sự khiêm cung sâu sắc | 13. Sự bất kính và kiêu ngạo trí thức, dựa trên thái độ khinh thường các ý tưởng vi tế khó chứng minh bằng phương tiện thông thường |
14. Đạo đức tinh thần sâu sắc dựa trên cảm nhận sâu xa về tình huynh đệ với toàn nhân loại | 14. Tính phi đạo đức của một tâm trí bị mê hoặc quá mức |
The Integration Process for the Individual with a Ray 2 Soul and a Ray 5 Personality | Tiến trình Tích hợp cho Cá nhân có Linh hồn Cung 2 và Phàm ngã Cung 5 |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of second ray soul energy and the self-centered use of fifth ray personality force) are to achieve the complete fulfillment of personal love (or the complete satisfaction of studious inquiry [2B]), as well as a narrow, materialistic intellectual certainty. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị một phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, các động cơ của cá nhân (dựa trên sự méo mó nơi phàm ngã của năng lượng linh hồn cung hai và việc sử dụng vị kỷ lực phàm ngã cung năm) là đạt đến sự viên mãn trọn vẹn của tình yêu cá nhân (hoặc sự thỏa mãn trọn vẹn của khảo cứu chăm học [2B]), cũng như một sự chắc chắn trí tuệ hẹp hòi, duy vật. |
The person wants, primarily, to be constantly loved, consistently popular, warmly admired, well-cared-for, and to live a soft comfortable, well-protected, well-insulated life—closely attached to those people, places, and things which he loves and finds personally satisfying, but, he also wants to take everything apart (either analytically or actually), reduce all life experience to nothing but rationalistic formulae, control matter mechanically for selfish ends, and reject any kind of knowledge that is not materialistic and derived strictly from the five physical senses. As can be seen, these are very contradictory orientations. | Người này chủ yếu muốn được yêu thương liên tục, luôn được ưa thích, được ngưỡng mộ nồng hậu, được chăm sóc chu đáo, và sống một đời sống êm ái tiện nghi, được che chở kỹ lưỡng, cách ly tốt—gắn bó mật thiết với những người, nơi chốn và sự vật mà y yêu thương và thấy thỏa mãn trên phương diện cá nhân, nhưng y cũng muốn tháo tung mọi thứ (hoặc theo lối phân tích, hoặc trên thực tế), quy mọi kinh nghiệm sống về không gì khác ngoài những công thức duy lý, điều khiển vật chất một cách cơ giới cho các mục đích vị kỷ, và bác bỏ mọi loại tri thức không phải duy vật và không được rút ra nghiêm ngặt từ năm giác quan hồng trần. Như có thể thấy, đây là những định hướng rất mâu thuẫn. |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: one who seeks to amass detailed knowledge for himself alone (2B + 5A); one who, seeking comfort and material well-being, enlists all his mechanical aptitudes to that end (2 + 5B); one who becomes utterly and coldly preoccupied with study, especially the selfish accumulation of un-utilized facts (2B + 5A); the individual who detachedly studies and analyzes everyone and everything, without actually participating in life experientially (2B + 5A); one who has great contempt for the mental limitations of others, demanding, with harsh criticism, that they verify or substantiate everything they say or write (2B + 5A); one who senses the Whole and yet remains apart, analyzing everything and everyone as if from a distance (2B + 5A); one who is very cold and nonmagnetic (2B + 5); an individual who tries to compensate for inferiority feelings through the presumption of mental certainty (2A + 5); one who is afraid of bold initiatives and uses the rationality of a narrow and rigid mind to justify this fear—“it can’t be done and there is no use trying”; the diffident person who observes but does not take action; the overly-protective person who finds a “thousand-and-one” “scientific” reasons to justify his fears for his loved ones (2A + 5A); the overly attached person who expresses his “love” (really, fearful concern) through an attitude of constant criticism of that which he loves (2A + 5A); the one whose progress is extremely slow (and whose writing and conversation are extremely tedious) due to preoccupation with a vast amount of detailed knowledge (2B + 5A); the unwarranted presumption of great wisdom based upon the limited certainties of the concrete mind (2B + 5); etc. | Ở mặt tiêu cực và trong ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: kẻ tìm cách chất chứa tri thức chi tiết chỉ cho riêng mình (2B + 5A); kẻ, tìm kiếm tiện nghi và phúc lợi vật chất, huy động mọi năng khiếu cơ khí cho mục đích ấy (2 + 5B); kẻ hoàn toàn và lạnh lùng bận tâm với việc học, đặc biệt là tích lũy ích kỷ những sự kiện không được sử dụng (2B + 5A); cá nhân nghiên cứu và phân tích mọi người và mọi vật một cách tách rời, mà không thực sự tham dự đời sống bằng trải nghiệm (2B + 5A); kẻ khinh miệt lớn lao giới hạn trí tuệ của người khác, đòi hỏi, với lời chỉ trích gay gắt, rằng họ phải kiểm chứng hay chứng minh mọi điều họ nói hay viết (2B + 5A); kẻ cảm nhận được Toàn thể nhưng vẫn đứng ngoài, phân tích mọi người và mọi vật như thể từ xa (2B + 5A); kẻ rất lạnh lùng và không có từ điện thu hút (2B + 5); cá nhân cố bù trừ cảm thức tự ti bằng sự tự phụ về chắc chắn trí năng (2A + 5); kẻ sợ những khởi xướng táo bạo và dùng tính duy lý của một cái trí hẹp hòi cứng nhắc để biện minh cho nỗi sợ ấy—“việc đó không thể làm được và không đáng thử”; người rụt rè quan sát nhưng không hành động; người quá bảo bọc tìm ra “nghìn lẻ một” lý do “khoa học” để biện minh cho nỗi sợ của y đối với những người thân yêu (2A + 5A); kẻ bám chấp quá mức bộc lộ “tình yêu” của mình (thực ra là mối quan tâm sợ hãi) qua một thái độ liên tục chỉ trích điều y yêu quý (2A + 5A); kẻ tiến bộ cực kỳ chậm chạp (và bài viết cùng lời nói của y cực kỳ nhàm chán) do bận bịu với một lượng khổng lồ tri thức chi tiết (2B + 5A); sự ngộ nhận vô căn cứ về minh triết lớn lao dựa trên những chắc chắn hạn hẹp của trí cụ thể (2B + 5); v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray two soul and the ray five personality is the struggle between the deep, intuitive love of the heart and the strictly analytical and rational approach to knowledge, which rejects all that does not appeal to “common sense.” | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng tinh ròng của linh hồn xung đột với lực của phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung năm là cuộc giằng co giữa tình thương trực nhận sâu xa của trái tim và phương cách tri nhận thuần phân tích, duy lý, vốn bác bỏ tất cả những gì không hợp với “lẽ thường.” |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the second ray soul: It will be the task of the second ray soul to broaden the understanding of the fifth ray personality, dissolving the barriers (erected by concrete thought) which prevent an acceptance of the subtler realities. The soul consciousness, rich in intuitions and exquisitely attuned to the value of spiritual intangibles, is faced with a personality which functions in a linear, analytical fashion, utilizing only the head, and repudiating (as unreliable) the testimony of the heart. The soul, ever sensitive to the wisdom beyond and within knowledge, seeks so to illumine the personal mind, that the personality can begin to see its preoccupation with narrowly-defined, concrete areas of specialization as a serious limitation. Consciousness, under the inspiration of a second ray soul, is filled with a faith arising from breadth of vision and an awakened intuition; the general nature of truth is realized even if the many details and “matters of fact” are not yet externally verified. | 3. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ quan điểm của tâm thức chủ yếu đồng nhất với linh hồn cung hai: Nhiệm vụ của linh hồn cung hai sẽ là mở rộng sự thấu hiểu của phàm ngã cung năm, làm tan những rào cản (được dựng lên bởi tư tưởng cụ thể) ngăn cản sự chấp nhận các thực tại vi tế hơn. Tâm thức linh hồn, phong phú trực giác và tinh tế đồng điệu với giá trị của những điều vô hình tinh thần, đang đối diện một phàm ngã vận hành theo lối tuyến tính, phân tích, chỉ sử dụng cái đầu, và khước từ (như không đáng tin cậy) lời chứng của trái tim. Linh hồn, vốn luôn nhạy bén với minh triết vượt ngoài và nằm bên trong tri thức, tìm cách soi sáng cái trí cá nhân đến mức phàm ngã có thể bắt đầu thấy sự bận tâm của mình với những lĩnh vực chuyên biệt, cụ thể, được định nghĩa hẹp hòi là một giới hạn nghiêm trọng. Tâm thức, dưới cảm hứng của một linh hồn cung hai, đầy ắp một đức tin nảy sinh từ bề rộng viễn kiến và trực giác thức tỉnh; bản chất đại thể của chân lý được nhận ra ngay cả khi nhiều chi tiết và “các sự kiện” chưa được kiểm chứng ở bên ngoài. |
The second ray soul has a remarkable ability to verify truth “inwardly,” and it is a reliance upon this capacity that it tries to convey to the skeptical, doubting, concretely-intellectual fifth ray personality. The second ray soul (of all the soul types) is the great representative of the powers of the heart (in all the many ways the term “heart” can be interpreted). Life lacking heart is woefully incomplete, even though the fifth ray personality is likely to feel very satisfied with the surety of that which it knows—mentally. The soul, in subtle ways, demonstrates to this mentally self-sufficient personality the many areas in which “the way of the head” is simply inadequate. Thus gradually, the “mental fixation” of the personality is dissolved; the ‘knot’ of concrete consciousness is loosened, and the broader ways of “heart understanding” begin to overcome the restrictions of a too commonsensical, too “hardheaded” outlook. | Linh hồn cung hai có một khả năng khác thường trong việc kiểm chứng chân lý “từ bên trong,” và chính sự nương cậy vào năng lực này là điều nó cố truyền đạt cho phàm ngã cung năm hoài nghi, đa ngờ, trí năng-cụ thể. Linh hồn cung hai (trong tất cả các loại linh hồn) là đại biểu lớn của các quyền năng của trái tim (theo tất cả những cách có thể diễn giải từ “trái tim”). Đời sống thiếu trái tim là vô cùng khiếm khuyết, dù phàm ngã cung năm có thể thấy rất thỏa mãn với sự chắc chắn về điều mà nó biết—trí năng. Linh hồn, bằng những cách tinh tế, cho thấy với phàm ngã tự mãn về trí năng này nhiều lĩnh vực mà “con đường của cái đầu” đơn giản là bất cập. Nhờ vậy, dần dần, “cố chấp trí năng” của phàm ngã được hóa giải; ‘nút thắt’ của tâm thức cụ thể được nới lỏng, và các phương cách rộng mở hơn của “thấu hiểu bằng trái tim” bắt đầu vượt thắng những giới hạn của một quan điểm quá duy lẽ thường, quá “đầu óc cứng rắn.” |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the fifth ray personality: The second ray pressure towards integration will be felt by the fifth ray personality as a subtle but persistent devaluation of the technical interests which have, hitherto, been all-consuming. The personality has been engrossed in its specialized fascinations and enthusiasms, learning “more and more about less and less.” These narrowly focused interests have been quite satisfying, no matter how unrelated they have been (at least in the consciousness of the personality) to the larger picture. The world of the fifth ray personality has been very small but very secure. | 4. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ quan điểm của tâm thức chủ yếu đồng nhất với phàm ngã cung năm: Áp lực tích hợp của cung hai sẽ được phàm ngã cung năm cảm nhận như một sự hạ giảm tinh vi nhưng dai dẳng đối với các mối quan tâm kỹ thuật mà trước đây vốn ngốn trọn tâm sức. Phàm ngã đã đắm chìm trong các say mê và nhiệt hứng chuyên biệt, học “ngày càng nhiều về ngày càng ít.” Những mối quan tâm tập trung hẹp hòi này đã khá thỏa mãn, cho dù chúng (ít nhất trong tâm thức phàm ngã) chẳng mấy liên hệ đến bức tranh lớn. Thế giới của phàm ngã cung năm vốn rất nhỏ nhưng rất an toàn. |
Now, from deep within the consciousness, arises a sense of the inadequacy of all that had been the focus of personality preoccupation. The heart begins to stir, and longings for things that cannot be measured, quantified or definitely fixed in mind begin to arise. The personality feels as if its mental security is being dissolved in an ocean of uncertainties. Its “rock-solid” discriminations no longer seem to hold. Instead of differences, distinctions and ‘perfect’ mental clarity, it becomes hard to separate one thing from another, or one person from another. The perception of the meaning and scope of truth begins to undergo a profound change. The sense of the inescapable inter-relatedness of all things intrudes upon the personal consciousness. The sensed urge towards unification takes the joy out of being a specialist. “Standing back,” and observing the world from a protected point of mental objectivity, begins to seem arid. Participation of the whole self is demanded as the personality realizes that it is intimately involved in the Wholeness. The urge towards inclusiveness, and comprehension of the Whole overcomes the mental passion for narrow certainty; everything has changed. | Giờ đây, từ sâu thẳm trong tâm thức trỗi dậy một cảm thức về sự bất cập của tất cả những gì từng là trọng tâm bận tâm của phàm ngã. Trái tim bắt đầu bồi hồi, và những khát khao đối với những điều không thể đo lường, định lượng hay chắc chắn được cố định trong trí bắt đầu dâng lên. Phàm ngã cảm thấy như sự an ninh trí năng của nó đang tan rã trong một đại dương bất định. Những phân biện “vững như đá” của nó dường như không còn đứng vững. Thay vì những khác biệt, phân biệt và sự minh bạch trí năng ‘hoàn hảo,’ nay trở nên khó tách vật này khỏi vật kia, người này khỏi người kia. Nhận thức về ý nghĩa và tầm vóc của chân lý bắt đầu trải qua một biến đổi sâu sắc. Cảm thức về tính liên hệ không thể tránh khỏi của muôn vật xâm nhập vào tâm thức cá nhân. Xung lực hướng tới hợp nhất khiến niềm vui làm người chuyên môn phai nhạt. “Đứng tách ra,” quan sát thế giới từ một điểm khách quan được bảo vệ về mặt trí năng, bắt đầu trở nên khô hạn. Sự tham dự của toàn thể bản thân được đòi hỏi khi phàm ngã nhận ra rằng nó mật thiết dự phần vào Toàn Thể. Xung lực hướng tới tính bao gồm, và việc lĩnh hội Toàn Thể vượt thắng đam mê trí năng về sự chắc chắn hẹp hòi; mọi sự đã đổi thay. |
5. The ideal expression of the combination of the ray two soul and the ray five personality: The loving understanding of the heart is expressed through the application of scientific knowledge and with solid common sense. Those who seek to serve and save through compassion utilize the latest, scientifically developed procedures which translate benevolent impulses into effective, working techniques; the persistent urge to ameliorate human conditions takes form through the development of new technologies which improve the condition of those in need. | 5. Biểu hiện lý tưởng của sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung năm: Sự thấu hiểu bằng tình thương của trái tim được biểu đạt qua việc vận dụng tri thức khoa học và bằng lương tri vững vàng. Những ai tìm cách phụng sự và cứu giúp bằng lòng bi mẫn vận dụng các quy trình mới nhất được phát triển một cách khoa học để chuyển dịch các xung lực nhân ái thành những kỹ thuật vận hành hữu hiệu; thôi thúc bền bỉ nhằm cải thiện điều kiện nhân sinh được cụ thể hóa qua sự phát triển các công nghệ mới nâng cao tình trạng của những người đang cần được trợ giúp. |
Individuals qualified by this combination of rays so value the pure truth, that they work diligently to discover concrete examples substantiating that truth, and develop practical/technical means for implementing the truth. The capacity for scholarship is greatly advanced through meticulous experiment and research. The gift for amassing encyclopedic knowledge is fortified by easy mental access to a great number of pertinent references. The validity and reasonableness of a broadly inclusive and synthetic world-view is supported by the citation of many specific instances of confirmation which point to the reality of wholeness. | Những cá nhân được cấu định bởi sự kết hợp cung này quý trọng chân lý thuần khiết đến mức họ làm việc chuyên cần để phát hiện các minh chứng cụ thể xác nhận chân lý ấy, và phát triển những phương tiện thực tiễn/kỹ thuật để hiện thực hóa chân lý. Năng lực học thuật được tiến triển lớn nhờ thí nghiệm và nghiên cứu tỉ mỉ. Năng khiếu tích lũy tri thức bách khoa được củng cố bởi khả năng trí tuệ dễ dàng tiếp cận vô số tư liệu tham chiếu thích đáng. Tính xác thực và lẽ hợp lý của một thế giới quan bao quát, tổng hợp được hậu thuẫn bằng việc dẫn chứng nhiều trường hợp xác nhận cụ thể, chỉ ra thực tại của tính toàn thể. |
Those in the “helping professions” improve their abilities to serve through solid analysis and sensibility. Preoccupation with essential quality and subjective reality masters preoccupation with form and matter, but a strong commonsensical, realistic attitude provides a balance against excessive subjectivity. The ability to see the whole pattern and the multitude of interrelationships masters the tendency to see just the detail or the part, but, even though the scope of inquiry be great, the details are never ignored. Compassion and mercy master the tendency to “sit in judgment,” yet such individuals are “hard headed” enough to avoid becoming unrealistic “bleeding hearts.” The heart masters the concrete intellect, yet uses that intellect to serve more effectively in the material world. The way of wisdom and divine understanding is shown to be based upon solid evidence. | Những người hoạt động trong “các nghề trợ giúp” nâng cao năng lực phụng sự qua phân tích vững chắc và cảm quan tinh tế. Mối bận tâm với phẩm tính thiết yếu và thực tại chủ quan chế ngự mối bận tâm với hình tướng và chất liệu, nhưng một thái độ thực tế, thường nghiệm mạnh mẽ tạo thế cân bằng chống lại tính chủ quan quá độ. Năng lực thấy toàn bộ mô hình và muôn vàn tương quan chế ngự khuynh hướng chỉ thấy chi tiết hay bộ phận; tuy vậy, dẫu phạm vi khảo sát lớn đến đâu, chi tiết vẫn không bao giờ bị bỏ qua. Bi mẫn và từ dung chế ngự khuynh hướng “ngồi ghế phán xét”, nhưng những cá nhân như vậy vẫn đủ cứng cỏi và thực tế để tránh trở thành những “trái tim mềm yếu sướt mướt” phi thực tế. Trái tim chế ngự trí cụ thể, nhưng vẫn sử dụng trí ấy để phụng sự hữu hiệu hơn trong thế giới vật chất. Con đường của minh triết và thấu hiểu thiêng liêng được chứng minh là đặt nền trên bằng chứng vững chắc. |
These are individuals who have an extraordinary ability to demonstrate that humanity’s religious and spiritual impulses are rooted in scientific fact and natural law. They are able to demonstrate the factual nature of the “Law of Love.” Love is proven to ‘work,’ and to be an energy as real as light or heat. | Đây là những người có khả năng phi thường trong việc chứng minh rằng những xung lực tôn giáo và tinh thần của nhân loại cắm rễ trong sự kiện khoa học và định luật tự nhiên. Họ có thể chứng minh tính sự kiện của “Định luật Tình thương”. Tình thương được chứng nghiệm là “vận hành hữu hiệu”, và là một năng lượng thực như ánh sáng hay nhiệt. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Centralization, keyed to the second ray soul. The secondary integration formula is Detachment, keyed to the fifth ray personality. The first formula corrects the second ray tendencies towards diffusion, over-expansion, and an energy-draining attachment to life’s peripheral attractions, whereas the second formula corrects fifth ray tendencies towards a mental attachment to matter, and an obsessive preoccupation with investigating or manipulating concrete form while ignoring the reality of that which is “formless.” | 6. Tác dụng tổng hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ cấp là Trung tâm hóa, gắn với linh hồn cung hai. Công thức tích hợp thứ cấp là Tách rời, gắn với phàm ngã cung năm. Công thức thứ nhất chỉnh hóa các khuynh hướng cung hai là phân tán, quá mở rộng, và sự bám chấp vào những hấp lực ngoại vi của đời sống gây thất thoát năng lượng, trong khi công thức thứ hai chỉnh hóa các khuynh hướng cung năm là bám chấp trí năng vào vật chất, và sự bận bịu ám ảnh với việc điều tra hay thao tác hình tướng cụ thể mà phớt lờ thực tại của cái “phi hình tướng”. |
Used together these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘detached centralization’ (i.e., the kind of mental detachment which fosters the ability to find and maintain one’s spiritual center). The formulae make it possible for the individual to cultivate a personal consciousness which can detach itself from a preoccupation with matter. A personal consciousness free of the glamor of materiality serves as a complement to those rare moments of exalted consciousness when (pervaded by the presence of the soul), the individual takes his stand firmly and immovably “in the center of all love.” His vision becomes that of one who is thoroughly abstracted from matter, and profoundly cognizant of God (a Being Whose nature is Love) standing behind the “garment” of matter and form which He “wears” during the period of manifestation. Thus, as a soul, the individual stands centered in spiritual love and wisdom, detached from all outer bonds; as a personality, he stands interested in (yet not captivated by) matter—his eyes trained upon the divinity which lies within and behind appearances. | Khi được sử dụng cùng nhau, hai công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã một phẩm tính tổng hợp của “trung tâm hóa tách rời” (tức là dạng tách rời bằng trí tuệ nuôi dưỡng khả năng tìm ra và duy trì trung tâm tinh thần của mình). Các công thức khiến cá nhân có thể bồi dưỡng một tâm thức cá nhân có khả năng tách mình khỏi mối bận tâm với vật chất. Một tâm thức cá nhân thoát khỏi ảo cảm vật chất sẽ bổ khuyết cho những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức siêu thăng khi (được thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn), cá nhân đứng vững vàng và bất lay chuyển “trong trung tâm của mọi tình thương”. Tầm nhìn của y trở thành tầm nhìn của kẻ hoàn toàn ly khai khỏi vật chất, và thấu triệt sâu xa về Thượng đế (một Đấng có Bản tính là Tình thương) đang đứng sau “chiếc áo” của vật chất và hình tướng mà Ngài “khoác” trong kỳ biểu lộ. Do đó, như một linh hồn, cá nhân đứng trụ trong tình yêu và minh triết tinh thần, tách rời mọi ràng buộc bên ngoài; như một phàm ngã, y đứng trong sự quan tâm (nhưng không bị quyến luyến) đối với vật chất—mắt hướng về thiên tính ẩn trong và phía sau mọi hiện tướng. |
In the earlier stages of evolution, before applying these formulae, the individual often finds himself excessively attached to form and matter, and to their utilization for personal comfort and security. His fascination for ‘things,’ and how they can be made to serve his “creature comforts,” leads him far from his spiritual center. | Ở những giai đoạn đầu của tiến hoá, trước khi áp dụng các công thức này, cá nhân thường thấy mình quá bám chấp vào hình tướng và vật chất, và vào việc sử dụng chúng cho tiện nghi và an toàn cá nhân. Sự say mê của y đối với “các vật”, và cách chúng có thể được dùng để phục vụ các “tiện nghi sinh tồn” lôi kéo y xa rời trung tâm tinh thần của mình. |
The intelligent use of these two formulae, however, transmutes the abuses of the past, allowing the individual to see how the illusory ‘spell’ of matter prevented him from recognizing the subtle presence of the God of Love within the material form. He learns, primarily, to stand within the center of the love and wisdom of his second ray soul, loving others purely, wisely and with detachment, and he utilizes his growing secondary ability (the ability to disengage his personality consciousness from excessive fascination for the ‘movements of matter’) as a means of maintaining and sustaining his centered, soul-inspired identification with the God of Love. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông minh hai công thức này sẽ chuyển hoá những lạm dụng trong quá khứ, cho phép cá nhân thấy được cách thức “thần chú” ảo tưởng của vật chất đã ngăn cản y nhận ra sự hiện diện vi tế của Thượng đế Tình thương trong hình tướng vật chất. Trước hết, y học cách đứng trong trung tâm của tình yêu và minh triết của linh hồn cung hai của mình, thương yêu người khác một cách thuần khiết, khôn ngoan và với sự tách rời, và y vận dụng năng lực thứ cấp đang tăng trưởng (năng lực giải trừ tâm thức phàm ngã khỏi sự say mê quá độ với các “chuyển động của vật chất”) như một phương tiện duy trì và nâng đỡ sự đồng nhất đặt-trung-tâm, được linh hồn truyền cảm, với Thượng đế Tình thương. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the second ray soul and the fifth ray personality: | 7. Một vài thí dụ về năng khiếu và định hướng nghề nghiệp liên hệ đến sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung năm: |
• the compassionate server who is filled with the spirit of common sense. | • người phụng sự bi mẫn, thấm đượm tinh thần lương tri. |
• the teacher who excels in the imparting of illuminating facts. | • người thầy xuất sắc trong việc truyền đạt những sự kiện soi sáng. |
• the educator with an unusual ability to evoke lucidity of mind. | • nhà giáo dục có năng lực khác thường trong việc khơi dậy sự minh bạch của thể trí. |
• the therapist whose therapeutic methods rely upon instrumentation. | • nhà trị liệu có phương pháp trị liệu dựa vào thiết bị. |
• the psychologist with keen analytical abilities. | • nhà tâm lý học với năng lực phân tích sắc bén. |
• the humanist who enthusiastically values the contributions of technology to modern civilization. | • nhà nhân bản hăng say trân trọng những đóng góp của công nghệ cho nền văn minh hiện đại. |
• the unifier who emphasizes the use of communications technology to draw people together. | • người hợp nhất nhấn mạnh việc sử dụng công nghệ truyền thông để kết nối con người với nhau. |
• the guru who insists that his chelas experiment with their theoretical knowledge. | • đạo sư khăng khăng đòi các đệ tử của mình thực nghiệm với tri thức lý thuyết của họ. |
• the consummate “light-bearer”. | • bậc “mang ánh sáng” thuần thành. |
• the scholar who verifies every detail of his research. | • học giả kiểm chứng mọi chi tiết của nghiên cứu. |
• the healer who employs the most modern, scientific techniques. | • người chữa lành vận dụng những kỹ thuật khoa học hiện đại nhất. |
• the counselor who depends upon “down-to-earth” techniques which have been proven to work. | • nhà tham vấn dựa vào các kỹ thuật “thiết thực, sát đất” đã được chứng minh là hữu hiệu. |
• the nurturer who utilizes precise, factual information to improve the quality of nurture offered. | • người nuôi dưỡng sử dụng thông tin chính xác, thực chứng để nâng cao chất lượng chăm dưỡng được trao. |
In general: vocations and professions which require a wise and loving attitude, great empathy and understanding, studiousness, and an ability to teach or compassionately heal, as well as keen analytical abilities, the capacity to conduct research, and scientific and/or technical expertise. | Nói chung: những thiên chức và nghề nghiệp đòi hỏi thái độ khôn ngoan và nhân ái, lòng thấu cảm và thấu hiểu lớn, tính ham học, và năng lực dạy dỗ hoặc chữa lành bằng lòng bi mẫn, cũng như năng lực phân tích sắc bén, khả năng tiến hành nghiên cứu, và chuyên môn khoa học và/hoặc kỹ thuật. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the second, with a strong subsidiary fifth ray influence (whether or not the fifth ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Một danh sách đề xuất các cá nhân nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hoặc huyền thoại) mà cung linh hồn có thể được xem là cung hai, với ảnh hưởng phụ cung năm mạnh (dù cung năm có, xét cho nghiêm ngặt, là cung phàm ngã hay không): |
Bhagavan Das: Indian sage and educator, author of The Science of the Emotions. | Bhagavan Das: bậc hiền triết và nhà giáo Ấn Độ, tác giả Khoa học về Cảm xúc. |
Fritjof Capra: educator in the field of science, and author of The Tao of Physics. Capra’s work relates the “new physics” to the transformation of consciousness. | Fritjof Capra: nhà giáo dục trong lĩnh vực khoa học, và tác giả Đạo của Vật lý. Công trình của Capra liên hệ “vật lý mới” với sự chuyển hoá tâm thức. |
Christopher Hills: author of Nuclear Evolution. Hills approaches the expansion of consciousness from a scientific perspective. | Christopher Hills: tác giả Tiến hoá Hạt nhân. Hills tiếp cận sự mở rộng tâm thức từ một viễn kiến khoa học. |
Hippocrates: the “Father of Medicine.” | Hippocrates: “Cha đẻ của Y học.” |
Patanjali: the great sage of India who was the foremost exponent of the system of esoteric training known as Raja Yoga. He was the author of the Yoga Sutras which formed the basis of Alice Bailey’s book, The Light of the Soul. | Patanjali: bậc đại hiền Ấn Độ, người trình bày hàng đầu hệ thống huấn luyện huyền môn được biết là Raja Yoga. Ngài là tác giả các Kinh Yoga làm nền tảng cho tác phẩm của Bà Alice Bailey, Ánh sáng của Linh hồn. |
Peter Russell: author of The Global Brain. | Peter Russell: tác giả Bộ Não Toàn Cầu. |
Some Contrasts Between the Ray 2 Soul and the Ray 6 Personality— Một vài đối chiếu giữa Linh hồn Cung 2 và Phàm ngã Cung 6
Ray 2 Soul | Ray 6 Personality |
1. all-inclusive spiritual love | 1. narrow personal devotion |
2. deep, yet detached, loving understanding | 2. intense, even violent, personal emotion |
3. the attractiveness of the loving soul | 3. a passionate personality which follows goals without intelligent discrimination, often achieving those goals through intrusion |
4. the wisdom to love nonpossessively | 4. extreme possessiveness and jealousy |
5. “unconditional positive regard”; love for the ‘sinner’ regardless of his ‘sins’ | 5. love given only to those who completely and continuously live up to one’s expectations |
6. spontaneous forgiveness | 6. persecution of those who do not stand for one’s idea |
7. experiencing the center of love divine within one’s Self | 7. unremitting longing for someone or something other than one’s Self |
8. a very broad and synthetic world view | 8. unreasoning fanaticism |
9. the embodiment of pure reason | 9. blind faith and foolish single-mindedness |
10. wide tolerance based upon love and wisdom | 10. extreme intolerance based upon the conviction of personal rectitude |
11. gentle soul love | 11. unregulated personal intensity |
12. the patience of understanding love | 12. impatience driven by furious desire; inordinate haste |
13. assiduous cultivation of the discipline of meditation | 13. over-reliance upon fervent personal prayer |
14. teaching through wise and loving evocation | 14. insistence that others follow one’s preaching |
15. the loving wisdom to appraise others realistically | 15. greatly exaggerated estimation or deprecation |
16. spontaneous joyfulness and happiness | 16. overly earnest and humorless |
Ray 2 Soul – Linh hồn Cung Hai | Ray 6 Personality – Phàm ngã Cung Sáu |
1. Tình thương tinh thần bao trùm tất cả | 1. Sự tận hiến cá nhân hẹp hòi |
2. Sự thấu hiểu yêu thương sâu sắc nhưng ly cách | 2. Cảm xúc cá nhân mãnh liệt, thậm chí dữ dội |
3. Sức thu hút của linh hồn đầy tình thương | 3. Tính cách đầy đam mê theo đuổi mục tiêu mà không có sự phân biện trí tuệ, thường đạt được mục tiêu bằng cách can thiệp thô bạo |
4. Minh triết trong tình thương không chiếm hữu | 4. Tính chiếm hữu và ghen tuông cực độ |
5. “Sự chấp nhận tích cực vô điều kiện”; tình thương dành cho “kẻ tội lỗi” bất chấp “tội lỗi” của y | 5. Tình thương chỉ dành cho những ai hoàn toàn và liên tục đáp ứng kỳ vọng của bản thân |
6. Sự tha thứ tự nhiên | 6. Sự bức hại những người không ủng hộ quan điểm của bản thân |
7. Trải nghiệm trung tâm của tình thương thiêng liêng trong chính bản thân | 7. Niềm khao khát không nguôi đối với một người hay điều gì đó ngoài bản thân |
8. Thế giới quan rộng lớn và tổng hợp | 8. Tính cuồng tín mù quáng |
9. Sự thể hiện của lý trí thuần khiết | 9. Đức tin mù quáng và sự nhất tâm dại dột |
10. Sự khoan dung rộng lớn dựa trên tình thương và minh triết | 10. Tính không khoan dung cực độ dựa trên niềm tin vào sự đúng đắn cá nhân |
11. Tình thương hiền hòa của linh hồn | 11. Cường độ cá nhân không được kiểm soát |
12. Sự kiên nhẫn của tình thương thấu hiểu | 12. Sự thiếu kiên nhẫn bị thúc đẩy bởi ham muốn dữ dội; vội vã quá mức |
13. Sự chăm chỉ nuôi dưỡng kỷ luật tham thiền | 13. Sự lệ thuộc quá mức vào cầu nguyện sùng tín cá nhân |
14. Giảng dạy thông qua sự gợi mở khôn ngoan và đầy tình thương | 14. Khăng khăng đòi người khác phải theo lời mình giảng |
15. Minh triết yêu thương trong việc đánh giá người khác một cách thực tế | 15. Sự đánh giá quá mức hoặc hạ thấp người khác |
16. Niềm vui và hạnh phúc tự nhiên | 16. Quá nghiêm nghị và thiếu khiếu hài hước |
The Integration Process for the Individual with a Ray 2 Soul and a Ray 6 Personality | Quá trình Tích hợp dành cho Cá nhân với Linh hồn Cung 2 và Phàm ngã Cung 6 |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of second ray soul energy, and the self-centered use of sixth ray personality force), are to achieve the complete fulfillment of personal love (or the complete satisfaction of studious inquiry [2B]), as well as the uncompromising satisfaction of the ideals and goals to which the personality is passionately devoted. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, các động cơ của cá nhân (dựa trên sự sai lệch mang tính phàm ngã của năng lượng linh hồn cung hai, và sự sử dụng vị kỷ năng lượng phàm ngã cung sáu) là đạt cho được sự viên mãn trọn vẹn của tình yêu cá nhân (hoặc sự thoả mãn trọn vẹn của khảo cứu miệt mài [2B]), cũng như sự thoả mãn không khoan nhượng các lý tưởng và mục tiêu mà phàm ngã sôi nổi dấn thân. |
The person wants primarily to be constantly loved, consistently popular, warmly admired, well-cared-for, and to live a soft, comfortable, well-protected, well-insulated life—closely attached to those people, places and things which he loves and finds personally satisfying, but he also wants to ignore everything except the object or path of his devotion, spurn tedious mundane responsibilities which do not relate specifically to his quest, fanatically follow his ideal regardless of destructive consequences, and cling desperately to that which he believes he loves. There are some similarities between these two sets of desires, but they vary in intensity. | Con người chủ yếu muốn được yêu thương không ngừng, luôn được ưa chuộng, được ái mộ nồng ấm, được chăm sóc chu đáo, và sống một đời mềm mại, tiện nghi, được bảo vệ và cách ly tốt—gắn bó gần gũi với những người, nơi chốn và vật sở hữu mà y yêu thương và thấy thoả mãn cá nhân; nhưng y cũng muốn phớt lờ mọi thứ ngoại trừ đối tượng hay con đường sùng tín của mình, khước từ những trách nhiệm đời thường tẻ nhạt không liên hệ trực tiếp đến cuộc truy tầm của y, cuồng tín theo đuổi lý tưởng bất chấp hậu quả tàn phá, và bám víu tuyệt vọng vào điều y tin là y yêu. Có một số tương đồng giữa hai tập hợp ước muốn này, nhưng chúng khác nhau về cường độ. |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: the fearful and overly-attached person who clings tenaciously to those he loves (2A + 6A); the person who feels helpless and vulnerable and leans upon others in the hope that they will take care of him (2A + 6A); the masochistic person who prefers to remain in a servile position relative to his “superiors” (2A + 6A); the person filled with such a strong sense of protectiveness and responsibility for another that he allows that person no freedom from his obsessive concern; the person with such low self-esteem that devotion to another person becomes his whole “reason for living” (2A + 6A); an individual who wants so much to be loved by a particular person that he will remain utterly loyal and devoted to that person despite constant mistreatment and abuse (2A + 6A); the lover who is filled with such insecurity that he is frequently swept by waves of intense jealousy (2A + 6B); the person who, selfishly, seeks wisdom for himself alone, and devotes himself fanatically to its pursuit (2B + 6B); the scholar so intent upon pursuing “omniscience” that he studies with passionate one-pointedness, leaving no time for balanced living (2B + 6B); the person who has such a desire to be popular and appreciated that he will go to unrealistic lengths to secure the recognition of others (2A + 6B); the overly-meek, religiously inclined person who believes that he must wait for God to guide him in all matters (2A + 6A); the person who is so intent on achieving completeness that he never knows when enough is enough (2B + 6B); the extremely conscientious server who, because of his over-pitiful heart, believes he has a responsibility to ‘save’ all those who ask for help, and even those who don’t (2A + 6); the devoted lover who knows he cannot live if he is separated from the one he loves (2A + 6); the “motherly” type of individual who is totally unrealistic about the true nature of the one for whom he devotedly cares (2A + 6A); the individual with an irresistible “Messiah complex” (2A + 6B); etc. | Một cách tiêu cực và đầy ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: người sợ hãi và quá bám chấp, bám riết những người y yêu (2A + 6A); người cảm thấy bất lực và mong manh, dựa dẫm vào người khác với hy vọng họ sẽ chăm sóc cho y (2A + 6A); người khổ dâm thích ở vị trí nô bộc so với “bề trên” của mình (2A + 6A); người mang cảm thức bảo bọc và trách nhiệm mạnh đến mức không cho người khác tự do thoát khỏi mối bận tâm ám ảnh của y; người có lòng tự trọng thấp đến mức sùng tín một người khác trở thành toàn bộ “lý do sống” của y (2A + 6A); cá nhân muốn được một người cụ thể yêu đến nỗi y sẽ tuyệt đối trung thành và tận tụy với người đó dù bị đối xử tệ bạc và lạm dụng liên tục (2A + 6A); người yêu đầy bất an đến nỗi thường bị những cơn sóng ghen tuông mãnh liệt cuốn phăng (2A + 6B); người, vì vị kỷ, tìm cầu minh triết cho riêng mình, và cuồng tín tận hiến cho cuộc truy cầu ấy (2B + 6B); học giả say sưa theo đuổi “toàn tri” đến độ học hành với sự nhất tâm sôi nổi, không còn thời giờ cho một đời sống quân bình (2B + 6B); người quá khao khát được ưa thích và được ghi nhận đến nỗi sẽ đi đến những mức độ phi thực tế để đạt sự thừa nhận của kẻ khác (2A + 6B); kẻ quá nhu mì, thiên về tôn giáo và tin rằng y phải chờ Thượng đế hướng dẫn trong mọi việc (2A + 6A); người quá chú tâm đạt cho được sự trọn vẹn đến nỗi không bao giờ biết đâu là đủ (2B + 6B); người phụng sự cực kỳ lương tâm, và vì trái tim quá tội nghiệp, tin rằng y có trách nhiệm “cứu” tất cả những ai xin giúp, và thậm chí cả những người không xin (2A + 6); người yêu tận tụy biết rằng y không thể sống nếu bị tách rời khỏi người y yêu (2A + 6); kiểu người “mẫu tử” hoàn toàn phi thực tế về bản chất thật sự của kẻ mà y chăm nom tận tụy (2A + 6A); cá nhân mang một “mặc cảm Đấng Cứu thế” không cưỡng nổi (2A + 6B); v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray two soul and the ray six personality is the struggle between the need to express a broad, unconditional soul-love, and the passionate desire to focus a narrow, devoted, personal ‘love’ upon an idealized “other.” | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần khiết xung đột với mãnh lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung sáu là cuộc tranh đấu giữa nhu cầu biểu đạt một tình thương vô điều kiện, bao quát của linh hồn, và ham muốn nồng nhiệt muốn tập trung một ‘tình yêu’ cá nhân hẹp hòi, sùng tín lên một “kẻ khác” được lý tưởng hoá. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the second ray soul: It will be the task of the second ray soul to moderate the extremism of the sixth ray personality. The soul seeks to present a broad, inclusive, widely tolerant perspective to a personality which is fanatically driven to propel itself towards limited objectives and limited loves. The soul knows that limited objects of devotion will ever fail to satisfy, and seeks to expand the consciousness of the personality so that a truer sense of values and of proportion can be established. | 3. Quá trình tích hợp linh hồn/phàm ngã xét từ viễn kiến của tâm thức chủ yếu đồng nhất với linh hồn cung hai: Nhiệm vụ của linh hồn cung hai sẽ là điều hoà chủ nghĩa cực đoan của phàm ngã cung sáu. Linh hồn tìm cách cống hiến cho phàm ngã một viễn tượng bao quát, bao dung rộng và khoan dung sâu, trong khi phàm ngã bị thôi thúc cuồng nhiệt để tự đẩy mình về những mục tiêu hạn hẹp và những tình yêu hạn hẹp. Linh hồn biết rằng các đối tượng sùng tín hữu hạn sẽ không bao giờ đủ để thoả lòng, và tìm cách mở rộng tâm thức của phàm ngã để thiết lập một cảm thức chân thực hơn về giá trị và tỉ lệ. |
The soul has the constant problem of “reining in” (ever so gently) a personality which is always rushing off after an idealized vision. Armed with the brilliant light of revelation, the soul consistently demonstrates to the impassioned personality the relative worthlessness and insignificance of all it held dear. Gradually, the soul weakens and dissolves the personality’s furious grip upon the inconsequential. Imperceptibly, the soul teaches the personality (after numerous disillusionments) to remove the “blinders” which prevented a vision of the beauty of the Whole—not just the idealized beauty of one or two things within the Whole. For the loving soul, there is nowhere to “run” because the “center of all love” (which is the most desirable object of devotion) is everywhere to be found. The second ray soul teaches the sixth ray personality to idealize the divine center within itself (the spiritual essence) and to focus its devotion there. | Linh hồn luôn gặp vấn nạn thường trực là phải (thật nhẹ nhàng) “ghìm cương” một phàm ngã luôn vội vã chạy theo một thị kiến lý tưởng hoá. Được trang bị ánh sáng chói ngời của sự mặc khải, linh hồn bền bỉ chứng minh cho phàm ngã đang bốc lửa thấy tính vô giá trị tương đối và sự nhỏ nhoi của mọi điều nó từng coi trọng. Dần dần, linh hồn làm suy yếu và tan biến cái nắm chặt điên cuồng của phàm ngã vào những điều không hệ trọng. Một cách tiệm tiến khó nhận biết, linh hồn dạy phàm ngã (sau vô số vỡ mộng) gỡ bỏ những “tấm che mắt” đã ngăn cản tầm nhìn về vẻ đẹp của Toàn Thể—không chỉ vẻ đẹp được lý tưởng hoá của một hai thứ trong Toàn Thể. Đối với linh hồn yêu thương, chẳng có nơi nào để “chạy” vì “trung tâm của mọi tình thương” (đối tượng đáng khao khát nhất của sự sùng tín) ở đâu cũng có thể tìm thấy. Linh hồn cung hai dạy phàm ngã cung sáu lý tưởng hoá trung tâm thiêng liêng trong chính mình (tinh tuý tinh thần) và tập trung sự sùng tín ở đó. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the sixth ray personality: The second ray pressure towards integration will be felt by the sixth ray personality as an unwelcome and disquieting reduction of personal intensity. The personality is convinced that “broad is the way, that leadeth to destruction” and “narrow is the way, which leadeth unto life.” | 4. Quá trình tích hợp linh hồn/phàm ngã xét từ viễn kiến của tâm thức chủ yếu đồng nhất với phàm ngã cung sáu: Áp lực tích hợp mang tính cung hai sẽ được phàm ngã cung sáu cảm nhận như một ảnh hưởng làm lỏng, vô định hình. Phàm ngã có những hình thức và thực hành mà nó xem như hầu như là “nghi lễ thiêng”. Tuy nhiên, việc lặp đi lặp lại vô tận những hình thức và thực hành ấy có xu hướng gây tê liệt tâm thức bằng một cảm giác an toàn giả—cảm tưởng rằng “mọi sự đều vào nề nếp” và “mọi sự trên đời đều ổn cả”. Ảnh hưởng mở rộng, bao gồm của linh hồn bắt đầu tan rã sự an toàn đó, và đưa vào tầm nhìn của tâm thức những gì phàm ngã muốn né tránh, những điều khiến thế giới dường như hỗn mang như nó thực sự là (trên cõi này và ở giai đoạn tiến hoá toàn cầu hiện tại). |
The sixth ray personality is narrow and intense. The pleasure of intensity is self-validating; something done intensely feels significant and important. However, as the soul influence begins to pervade the personal consciousness, the personality senses itself weakening, spreading, and relaxing (a dreadful word for the sixth ray zealot!). An uncomfortable feeling of futility begins to arise; the goals which inspired so much dedication and impassioned questing no longer seem so worthwhile. When this perception is registered, there may be a rebellious redoubling of previous efforts, but at length it becomes difficult for the personality to summon the motivation to chase after former ‘idols.’ | Phàm ngã không muốn từ bỏ điều quen thuộc; đôi khi, nó thậm chí không muốn hiểu điều quen thuộc; nó chỉ muốn thực hiện nó. Linh hồn, tuy nhiên, mang đến sự hiểu, và cùng với đó, tính hời hợt, vô nghĩa và bản chất kìm hãm, hạn cuộc của vô số thói quen, tập tục, và hình thức được phơi bày. Phàm ngã bị buộc phải tự vấn vì sao nó làm những gì nó làm; sự tuân thủ nghiêm nhặt, không hoài nghi đối với thói quen êm ái không còn thoả mãn dưới “con mắt” soi sáng của linh hồn cung hai rực rỡ. Phàm ngã tìm cách ẩn náu trong hình tướng, nhưng linh hồn thách thức tâm thức phàm ngã liều lĩnh dấn thân vào một trạng thái tương đối vô hình tướng nơi bất cứ điều gì cũng có thể xảy đến—đặc biệt trong lĩnh vực tương tác nhân sinh. |
Many things and many ways now begin to reveal their desirability; intolerance is no longer so easy, and rejection of the ‘worthless’ no longer such a simple and obvious task. The personality begins to learn that the fury of its former pursuit blinded it to the larger reality. The many who aspire along different paths are now noticed, and the value of their paths acknowledged. The personality begins to sense its relative unimportance, for it sees itself as only one of innumerable others—all following their vision, all devoted to their ideals. Life seems less secure, the future less certain, the path to be trodden less direct, but the world—larger! | Mọi tiến bộ tinh thần chân chính, rốt cuộc, đều đòi hỏi từ bỏ điều kiện hóa trước đây và tiếp xúc với những kinh nghiệm mới. Phàm ngã cung bảy là kiểu phàm ngã khó từ bỏ nhất nhiều loại điều kiện hóa đã thấm vào nó (do đó đôi khi nó nỗ lực dữ dội để phủi bỏ điều kiện cũ chỉ để trở thành nô lệ cho một kiểu điều kiện “phi quy ước” mới); sự tin tưởng và tích cực đang dần bừng nở, được linh hồn cung hai đầy yêu thương truyền cảm, sẽ từng bước khiến sự từ bỏ ấy trở thành điều tất yếu. Phàm ngã buông tay khỏi sự an toàn của hình thức đã thiết lập và được bù đắp bằng sự vững tin của tình yêu và minh triết tinh thần. |
5. The ideal expression of the combination of the ray two soul and the ray six personality: Loving understanding is expressed with complete devotion and self-sacrifice. Broad, inclusive love masters narrow, emotional loyalties and attachments, but spiritual loyalty and attachment are never relinquished. The love of the heart masters the emotion of the solar plexus, but an intense feeling-sensitivity remains. Impersonal love prevails, but a warm, “personal touch” is still preserved. The expression of love for all becomes a cherished ideal. The pursuit of wisdom, and of the detailed patterns of pure truth is furthered by unflagging zeal. | 5. Biểu hiện lý tưởng của sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung sáu: Cảm thức sâu xa về nhất thể nhân sinh được biểu đạt trong các “phong trào” tập thể, qua những chương trình được cấu trúc tốt, và với sự chú tâm thực sự (và thấu hiểu) tầm quan trọng của tổ chức. Những cá nhân có tổ hợp cung này có sự thấu hiểu bằng tình thương dồi dào, và một tôn trọng bẩm sinh dành cho thực hành đúng đắn góp phần lớn vào biểu hiện thành công của nó. Có một dấn thân mạnh mẽ cho chủ nghĩa nhân bản được biểu lộ qua việc tạo ra các mô thức tương tác xã hội mới và sáng tạo—những mô thức tạo điều kiện cho biểu hiện của “các mối quan hệ đúng đắn”. Thúc lực hợp nhất con người mang hình thức hành động thiết thực và thích hợp trên cõi hồng trần; con người được kết nối vì những mục đích hợp tác và yêu thương theo những cách được tổ chức và phối hợp khác thường tốt đẹp. |
For individuals with this ray combination, the profound spiritual realizations, foundational to the world’s great religions, become living facts within their consciousness, and there arises the commitment and idealism to live those realizations and share them tirelessly with others. Deep humility is supported by a willing, self-abnegation, a devotion to the “heart of all love.” There is total emotional commitment to a life of salvage and redemption. The will to sacrifice one’s own spiritual progress in order to bring love, illumination, healing and release to others becomes the all-consuming passion of the life. | Ở đây ta gặp những người có tài năng lớn trong việc khéo léo thiết kế và tạo ra các hình tướng vật chất hàm chứa hay biểu trưng cho ánh sáng minh triết tuôn tràn từ một tâm thức trực giác sâu xa; tay nghề của họ được dẫn dắt bởi năng lực của tình thương. Với những cá nhân kiểu này, minh triết của trái tim chế ngự cái được cho là đúng đắn của phương pháp phàm ngã và kỹ thuật bên ngoài, nhưng phương tiện và phương pháp hữu hiệu để biểu đạt những chứng ngộ vi tế thì không bao giờ thiếu. Tuy nhiên, công việc nội tâm luôn được nhìn nhận là quan trọng hơn biểu hiện bên ngoài của nó—tối thiểu, người ta hiểu rằng trái tim phải có mặt trong mọi hành vi, trước khi các hành vi này thực sự có thể được gọi là biểu hiện của tinh thần, cho dù chúng có được “thực hiện đúng” hay “hoàn hảo” đến đâu. Tình thương thiết yếu chiến thắng (và vẫn biểu đạt qua) những hình tướng được hoàn thiện. Lòng thấu cảm lớn đối với nhân loại cung cấp sự kiên nhẫn cho công cuộc tái thiết chậm rãi, tuần tự và công phu “đền thờ cho đời sống nhân sinh”. Tình yêu đầy minh triết chữa lành được áp dụng với kỹ xảo hoàn mãn trên cõi dĩ thái-hồng trần. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Centralization, keyed to the second ray soul. The secondary integration formula is proposed as Restraint, keyed to the sixth ray personality. The first formula corrects the second ray tendencies towards diffusion, over-expansion, and an energy-draining attachment to life’s peripheral attractions, whereas the second formula corrects the unrestrained, passionate pursuit of the ‘partial’ and ‘peripheral,’ so common to the emotionally undisciplined sixth ray personality. | 6. Tác dụng tổng hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ cấp là Trung tâm hóa, gắn với linh hồn cung hai. Công thức tích hợp thứ cấp được đề xuất là Kiềm chế, gắn với phàm ngã cung sáu. Công thức thứ nhất chỉnh hóa các khuynh hướng cung hai là phân tán, quá mở rộng, và sự bám chấp vào những hấp lực ngoại vi của đời sống gây thất thoát năng lượng, trong khi công thức thứ hai chỉnh hóa sự theo đuổi cuồng nhiệt, vô kiềm chế đối với cái “bộ phận” và “ngoại vi”, vốn rất thường gặp ở phàm ngã cung sáu thiếu kỷ luật cảm xúc. |
Used together, these formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘restrained centralization,’ (i.e., the emotional and personality restraint which fosters the ability to find and maintain one’s spiritual center). The formulae make it possible for the individual to cultivate a more moderate, dispassionate personality consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness when, pervaded by the presence of the soul, he takes his stand firmly and immovably “in the center of all love.” Because he learns to restrain his personal consciousness from violent attachments to people, places and things, he finds that deeper center within his nature from which he can relate to all beings with love and wisdom, and yet remain detached from their form aspect. | Khi được sử dụng cùng nhau, các công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã phẩm tính tổng hợp của “trung tâm hóa có kiềm chế” (tức là sự kiềm chế cảm xúc và phàm ngã nuôi dưỡng khả năng tìm ra và duy trì trung tâm tinh thần của mình). Các công thức khiến cá nhân có thể bồi dưỡng một tâm thức phàm ngã điều độ hơn, vô tư hơn, hỗ trợ những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức siêu thăng khi, được thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn, y đứng vững vàng và bất lay chuyển “trong trung tâm của mọi tình thương”. Bởi vì y học cách kiềm chế tâm thức phàm ngã khỏi những bám chấp dữ dội vào người, nơi chốn và vật, y tìm thấy trung tâm sâu xa hơn trong bản tính của mình, từ đó y có thể liên hệ với mọi hữu tình bằng tình yêu và minh triết, đồng thời vẫn tách rời khỏi khía cạnh hình tướng của họ. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself throwing himself into one attachment after another, clinging so tightly that it is extremely difficult to pry him loose. For all their intensity, these attachments occur without proper discrimination, and chain the individual to the periphery of his life, where he becomes so thoroughly ‘fastened’ that he cannot find his way back to his spiritual center. | Ở các giai đoạn sớm của tiến hoá, trước khi áp dụng thành công các công thức này, một cá nhân mang tổ hợp cung này thường thấy mình lao vào hết bám chấp này đến bám chấp khác, bấu víu chặt đến mức cực kỳ khó khăn để gỡ y ra. Dù mãnh liệt là vậy, những bám chấp này xảy ra thiếu sự phân biện đúng đắn, và xích xiềng cá nhân vào ngoại vi đời sống mình, nơi y bị “ghim chặt” đến nỗi không thể tìm đường quay về trung tâm tinh thần của mình. |
The intelligent use of these two formulae, however, transmutes the abuses of the past. The individual learns, primarily, to stand within the center of the love and wisdom of his second ray soul, loving others purely, wisely and with detachment, and his growing secondary ability to restrain the fury of his desires, and pursue only that which is truly of spiritual value, assists him in maintaining his spiritual “centeredness.” No more will he rush from the center to the periphery, and from a state of centered spiritual detachment into a passionate attachment to particular peripheral forms. His desires are now directed towards spiritual realities, the most important of which is to be found in the central core of his own being. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông minh hai công thức này sẽ chuyển hoá những lạm dụng trong quá khứ. Cá nhân trước hết học cách đứng trong trung tâm của tình yêu và minh triết của linh hồn cung hai của mình, yêu thương người khác một cách thuần khiết, khôn ngoan và với sự tách rời; đồng thời năng lực thứ cấp đang lớn mạnh của y trong việc kiềm chế cơn bão của ham muốn, và chỉ theo đuổi điều gì thực sự có giá trị tinh thần, hỗ trợ y duy trì “tính đặt-trung-tâm” tinh thần. Y sẽ không còn lao vùn vụt từ trung tâm ra ngoại vi, và từ trạng thái tách rời tinh thần đặt-trung-tâm rơi vào bám chấp nồng nhiệt vào các hình tướng ngoại vi cụ thể. Giờ đây, ham muốn của y được hướng về các thực tại tinh thần, quan trọng nhất trong số đó được tìm thấy nơi lõi trung tâm của chính hữu thể y. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the second ray soul and the sixth ray personality: | 7. Một vài thí dụ về năng khiếu và định hướng nghề nghiệp liên hệ đến sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung sáu: |
• the compassionate server who dedicates everything he is and has to his service. | • người phụng sự bi mẫn hiến dâng mọi điều mình là và mình có cho sự phụng sự. |
• the teacher who always inspires great enthusiasm in his students. | • người thầy luôn khơi dậy nhiệt huyết lớn lao nơi môn sinh. |
• the educator who is remarkably idealistic. | • nhà giáo dục có lý tưởng chủ nghĩa phi thường. |
• the therapist with unusual ability to motivate his patients. | • nhà trị liệu có năng lực bất thường trong việc tạo động lực cho bệnh nhân. |
• the humanist who offers a glowing vision of human possibilities. | • nhà nhân bản đưa ra một viễn tượng rực rỡ về các khả tính của con người. |
• the unifier who arouses in others the aspiration to come together. | • người hợp nhất khơi dậy nơi kẻ khác khát vọng quy tụ. |
• the illuminator who inspires people to follow the light. | • người soi sáng truyền cảm hứng để con người bước theo ánh sáng. |
• the guru who emphasizes devotion among his chelas. | • đạo sư nhấn mạnh sự sùng tín nơi các đệ tử. |
• the scholar who counts all as lost if he does not complete his inquiry. | • học giả coi như mất hết nếu không hoàn tất cuộc khảo cứu của mình. |
• the healer intensely animated primarily by faith. | • người chữa lành được thúc động mãnh liệt chủ yếu bởi đức tin. |
• the counselor who is always “there” for his clients. | • nhà tham vấn luôn “có mặt” vì thân chủ. |
• the social-worker who sees his work as a cause. | • nhân viên công tác xã hội xem công việc của mình như một chính nghĩa. |
• the nurturer who nurtures with unflagging persistence and loyalty. | • người nuôi dưỡng nuôi dưỡng với sự bền bỉ kiên định và trung thành không mỏi. |
• the priest, minister or rabbi who excels in arousing religious commitment. | • linh mục, mục sư hay giáo sĩ Do Thái xuất sắc trong việc khơi dậy cam kết tôn giáo. |
In general: vocations or professions which require a wise and loving attitude, great empathy and understanding, studiousness, and the ability to teach or compassionately heal, as well as high idealism, undeviating devotion, great enthusiasm and persistent emotional intensity. | Nói chung: những thiên chức hay nghề nghiệp đòi hỏi thái độ khôn ngoan và nhân ái, lòng thấu cảm và thấu hiểu lớn, tính ham học, và năng lực dạy dỗ hoặc chữa lành bằng lòng bi mẫn, cũng như chủ nghĩa lý tưởng cao, lòng sùng tín không nao núng, nhiệt huyết lớn và cường độ cảm xúc bền bỉ. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the second, with a strong subsidiary sixth ray (whether or not the sixth ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Một danh sách đề xuất các cá nhân nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hoặc huyền thoại) mà cung linh hồn có thể được xem là cung hai, với ảnh hưởng phụ cung sáu mạnh (dù cung sáu có, xét cho nghiêm ngặt, là cung phàm ngã hay không): |
Elizabeth Barrett Browning: English poet, wife of Robert Browning. She wrote love poems that are gentle, yet passionately sincere. | Elizabeth Barrett Browning: nhà thơ Anh, vợ của Robert Browning. Bà viết những bài thơ tình dịu dàng nhưng đầy thành tín nồng nhiệt. |
Ralph Waldo Emerson: essayist, poet, and Unitarian minister. Emerson was the leading light of the American Transcendentalist movement. | Ralph Waldo Emerson: nhà tiểu luận, nhà thơ, và mục sư Nhất thần. Emerson là ánh sáng dẫn đầu của phong trào Siêu nghiệm Mỹ. |
Judith Hollister: ecumenist, founder of the Temple of Understanding. | Judith Hollister: nhà đại kết, sáng lập Đền Hiểu Biết (Temple of Understanding). |
Pope John XXIII: the pope renowned for his efforts to achieve Christian unity. His influence was responsible for the modern ecumenical movement in the Catholic Church. The mediating influence of the fourth ray was also in evidence. | Giáo hoàng Gioan XXIII: vị giáo hoàng lừng danh vì nỗ lực đạt đến hiệp nhất Kitô giáo. Ảnh hưởng của Ngài chịu trách nhiệm cho phong trào đại kết hiện đại trong Giáo hội Công giáo. Ảnh hưởng trung giới của cung bốn cũng hiện rõ. |
Helen Keller: author and educator who was blind and deaf. Given the nature of her handicaps, her accomplishments were extraordinary. She devoted her life to publicly aiding the deaf and blind. | Helen Keller: tác giả và nhà giáo dục khiếm thị và khiếm thính. Xét bản chất những khiếm khuyết của Bà, thành tựu của Bà thật phi thường. Bà hiến dâng đời mình để công khai trợ giúp người điếc và mù. |
Charles W. Leadbeater: prominent member of the Theosophical Society, psychic, occult investigator, author of many books on the Ageless Wisdom. The fifth ray was also prominent. | Charles W. Leadbeater: thành viên nổi bật của Hội Thông Thiên Học, nhà thông linh, nhà điều tra huyền bí, tác giả nhiều sách về Minh Triết Ngàn Đời. Cung năm cũng nổi trội. |
Abraham Maslow: psychologist, founder of the Psychology of Self-Actualization. | Abraham Maslow: nhà tâm lý học, người sáng lập Tâm lý học Tự Hiện thực hóa. |
Dr. Benjamin Spock: the “Father of modern pediatrics.” A strong fifth and seventh ray are also evident. | Bác sĩ Benjamin Spock: “Cha đẻ của nhi khoa hiện đại.” Cung năm và cung bảy mạnh cũng hiển lộ. |
Paramahansa Yogananda: Indian sage, teacher of Kriya Yoga, and founder of the Self-realization Fellowship. | Paramahansa Yogananda: bậc hiền triết Ấn Độ, vị thầy Kriya Yoga, và người sáng lập Hội Tự Giác Ngộ. |
Some Contrasts Between the Ray 2 Soul and the Ray 7 Personality— Một vài đối chiếu giữa Linh hồn Cung 2 và Phàm ngã Cung 7
Ray 2 Soul | Ray 7 Personality |
1. deep spiritual subjectivity | 1. preoccupation with pragmatism |
2. spiritual orientation towards the expansion of consciousness | 2. excessive concern with matters of form |
3. natural realization of the loving soul as the essence of individual reality | 3. over-absorption with the form and processes of the physical body |
4. the joy of accumulating and bearing the light of the soul | 4. encapsulating the light of the soul in tight, repressive forms |
5. intuitive focus upon the essential quality of the human being | 5. a limiting focus upon external appearances |
6. loving interpersonal rapport; the spontaneous release of warm feelings | 6. insistent subjection of interpersonal relations to artificial social rituals |
7. the wise and loving evocation of individual identity; giving people permission to be who they are | 7. the inclination to standardize others |
8. the love of setting people at ease; spiritual informality | 8. rigid and formal attitudes which arouse discomfort in others |
9. moment-to-moment trust in the adequacy of the wise and loving soul | 9. personal insecurity if without a form, formula, pattern or outline to follow |
10. a broad and loving ecumenical spirit | 10. superficial sectarianism |
11. spontaneous mercy and humanitarianism | 11. the pettiness which imposes the “letter of the law” |
12. the realization of essential spiritual democracy | 12. class-conscious superciliousness and condescension |
13. allowing spiritual intuition to guide interpersonal interactions | 13. fixation upon structuring all interpersonal interactions |
14. wise and loving group consciousness | 14. stifling the group by forcing it to become a rigid organization |
15. the radiant light of the soul | 15. the instinctual life of the form |
16. the radiant love of the soul; ability to fuse the opposites through love | 16. immersion in sexuality (the physical symbol of the fusion of the opposites) |
Ray 2 Soul – Linh hồn Cung Hai | Ray 7 Personality – Phàm ngã Cung Bảy |
1. Tính chủ quan tinh thần sâu sắc | 1. Sự bận tâm với tính thực dụng |
2. Định hướng tinh thần hướng đến sự mở rộng tâm thức | 2. Quá quan tâm đến các vấn đề của hình tướng |
3. Sự nhận biết tự nhiên về linh hồn đầy tình thương như bản chất của thực tại cá nhân | 3. Sự đắm chìm quá mức vào hình tướng và các tiến trình của thể xác |
4. Niềm vui trong việc tích lũy và mang ánh sáng của linh hồn | 4. Giam giữ ánh sáng của linh hồn trong những khuôn mẫu chặt chẽ và áp chế |
5. Tập trung trực giác vào phẩm tính thiết yếu của con người | 5. Sự chú trọng giới hạn vào bề ngoài hình thức |
6. Sự hòa hợp giữa người với người đầy tình thương; sự bộc lộ tự nhiên của cảm xúc ấm áp | 6. Sự ép buộc các mối quan hệ vào những nghi thức xã hội giả tạo |
7. Sự gợi mở khôn ngoan và đầy tình thương về bản sắc cá nhân; giúp người khác được là chính mình | 7. Khuynh hướng chuẩn hóa và đồng nhất người khác |
8. Tình thương trong việc giúp người khác cảm thấy thoải mái; sự tự nhiên tinh thần | 8. Thái độ cứng nhắc và hình thức gây khó chịu cho người khác |
9. Niềm tin từng khoảnh khắc vào sự đầy đủ của linh hồn khôn ngoan và đầy tình thương | 9. Sự bất an cá nhân khi thiếu khuôn mẫu, công thức hoặc hình thức để bám vào |
10. Tinh thần đại đồng rộng mở và đầy tình thương | 10. Chủ nghĩa bè phái hời hợt |
11. Lòng nhân ái và tinh thần nhân đạo tự nhiên | 11. Tính nhỏ nhen áp đặt “chữ nghĩa của luật lệ” |
12. Sự nhận biết về nền dân chủ tinh thần thiết yếu | 12. Tính kiêu căng và phân biệt giai cấp |
13. Để trực giác tinh thần dẫn dắt trong các tương tác giữa người với người | 13. Khuynh hướng cố định hóa và cấu trúc mọi tương tác giữa người với người |
14. Tâm thức nhóm khôn ngoan và đầy tình thương | 14. Làm ngột ngạt nhóm bằng cách ép nó trở thành một tổ chức cứng nhắc |
15. Ánh sáng rạng ngời của linh hồn | 15. Đời sống bản năng của hình tướng |
16. Tình thương rạng ngời của linh hồn; khả năng dung hợp các đối cực thông qua tình thương | 16. Sự đắm chìm trong dục tính (biểu tượng vật chất của sự dung hợp các đối cực) |
The Integration Process for the Individual with a Ray 2 Soul and a Ray 7 Personality | Quá trình Tích hợp dành cho Cá nhân với Linh hồn Cung 2 và Phàm ngã Cung 7 |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of the second ray soul energy, and the self-centered use of the seventh ray personality force), are to achieve the complete fulfillment of personal love, (or the complete satisfaction of studious inquiry [2B]), as well as a rigidly ritualized, tightly ordered life conducive to physical plane safety, security and ‘perfected’ materialistic living. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, các động cơ của cá nhân (dựa trên sự sai lệch mang tính phàm ngã của năng lượng linh hồn cung hai, và sự sử dụng vị kỷ năng lượng phàm ngã cung bảy) là đạt cho được sự viên mãn trọn vẹn của tình yêu cá nhân (hoặc sự thoả mãn trọn vẹn của khảo cứu miệt mài [2B]), cũng như một đời sống được nghi thức hoá chặt chẽ, trật tự nghiêm ngặt, thuận lợi cho an toàn, an ninh trên cõi hồng trần và đời sống vật chất ‘hoàn hảo’. |
The person wants, primarily, to be constantly loved, consistently popular, warmly admired, well-cared-for, and to live a soft, comfortable, well-protected, well-insulated life—closely attached to those people, places and things which he loves and finds personally satisfying, but he also wants a highly predictable (hence, relatively risk-free) life, to avoid having to think for himself or act upon his own initiative, and to have the solid assurance that all instinctual appetites and imagined material needs will be satisfied on schedule. | Con người chủ yếu muốn được yêu thương không ngừng, luôn được ưa chuộng, được ái mộ nồng ấm, được chăm sóc chu đáo, và sống một đời mềm mại, tiện nghi, được bảo vệ và cách ly tốt—gắn bó gần gũi với những người, nơi chốn và vật sở hữu mà y yêu thương và thấy thoả mãn cá nhân; nhưng y cũng muốn một đời sống có thể dự đoán cao (do đó, tương đối ít rủi ro), tránh phải tự mình suy nghĩ hay hành động theo sáng kiến riêng, và có bảo đảm chắc chắn rằng mọi bản năng, mọi nhu cầu vật chất tưởng tượng đều sẽ được thoả mãn theo lịch trình. |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: a timid person who protects himself from the risks of initiatives by relying upon established precedents (2A + 7A); a fearful person who depends upon personal routines and rituals to allay anxieties (2A + 7C); an overly-sensitive person who is always concerned with security and stability (2A + 7A); a person who is afraid of not being comfortable and in “good-looking” surroundings; one who becomes a complete conformist out of the desire to be well-liked and popular (2A + 7A); one who feels he can only function when he is with other people and “playing by the rules”; an overly-conscientious student, unwilling to risk originality—a “grind” (2B + 7A); a person, who attempting to be too inclusive or complete, becomes absolutely mired in details (2B + 7); one who is a victim of inertia and habitual-bound behavior, resulting in a very slow pace (2 + 7A, 7C); a person with low self-esteem and plagued by compulsions (2A + 7A, 7C); a socially insecure person who plays the role of “outrageous nonconformist” in order to gain attention (2B + 7B); a religiously oriented person who feels warm and comfortable with certain established rituals, and wants to make sure they never vary (2A + 7C); a person with a strong inferiority complex who resorts to social affectation as a compensation; a teacher who rigidly insists upon repetitive and stultifying class procedures (2B + 7A); etc. | Một cách tiêu cực và đầy ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: người nhút nhát né rủi ro của sáng kiến bằng cách dựa vào các tiền lệ đã thiết lập (2A + 7A); kẻ sợ hãi phụ thuộc vào các thói quen và nghi lễ cá nhân để xoa dịu lo âu (2A + 7C); người quá nhạy cảm luôn bận tâm với an ninh và ổn định (2A + 7A); kẻ sợ không được thoải mái và không ở trong môi trường “trông cho đẹp”; người trở thành kẻ hoàn toàn tuân thủ khuôn phép vì mong muốn được ưa thích và nổi tiếng (2A + 7A); người cảm thấy chỉ có thể vận hành khi ở cùng người khác và “chơi đúng luật”; học trò quá mẫn cán, không dám liều lĩnh tính độc đáo—một “mọt sách” (2B + 7A); người cố gắng quá bao gồm hay quá trọn vẹn đến nỗi hoàn toàn sa lầy trong chi tiết (2B + 7); kẻ là nạn nhân của quán tính và hành vi bị thói quen trói buộc, đưa đến nhịp độ rất chậm (2 + 7A, 7C); người có tự ti và bị quấy nhiễu bởi các ám buộc (2A + 7A, 7C); kẻ bất an xã hội đóng vai “kẻ phi chính thống ngông cuồng” để gây chú ý (2B + 7B); người thiên về tôn giáo cảm thấy ấm áp và thoải mái với những nghi lễ đã định, và muốn bảo đảm rằng chúng không bao giờ thay đổi (2A + 7C); người mang mặc cảm tự ti mạnh, dùng kiểu cách xã hội làm bù trừ; thầy giáo cứng nhắc khăng khăng các thủ tục lớp học lặp đi lặp lại và gây trì trệ (2B + 7A); v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray two soul and the ray seven personality is the struggle between the love of internal quality and preoccupation with manifested actuality. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần khiết xung đột với mãnh lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung bảy là cuộc tranh đấu giữa tình yêu đối với phẩm tính nội tại và mối bận tâm với hiện thực đã biểu lộ. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the second ray soul: It will be the task of the second ray soul to impress upon the personality the value of subjectivity. The soul understands the essential quality of which all form is an emanation; the seventh ray personality, however, is usually all too attentive to the form. The second ray soul is ever sensitive to the “heart.” It seeks to pervade the personal consciousness with a deep, impersonal love, to ameliorate the personality’s tendency to judge by appearances or according to artificial, socially contrived standards. The radiant soul seeks to express itself with a loving spontaneity which understands all and forgives all, but it encounters, in the personality, an orientation towards rigidity and conventionality. Sowing love and wisdom in all experiences, the second ray soul looks for a harvest of right human relations and illumination; the personality is wedded to other values, and they are far more material, far more sensuously (and even sensually) based. | 3. Quá trình tích hợp linh hồn/phàm ngã xét từ viễn kiến của tâm thức chủ yếu đồng nhất với linh hồn cung hai: Nhiệm vụ của linh hồn cung hai sẽ là in sâu vào phàm ngã giá trị của tính chủ quan. Linh hồn thấu hiểu phẩm tính thiết yếu mà mọi hình tướng đều là sự xuất lộ của nó; tuy nhiên phàm ngã cung bảy thường quá chú mục vào hình tướng. Linh hồn cung hai luôn nhạy cảm với “trái tim”. Nó tìm cách thấm nhuần tâm thức phàm ngã bằng một tình yêu vô ngã sâu xa, để giảm nhẹ khuynh hướng của phàm ngã là phán xét theo bề ngoài hay theo các chuẩn mực nhân tạo, do xã hội đặt ra. Linh hồn toả sáng tìm cách tự biểu đạt bằng một sự tự phát đầy yêu thương vốn thấu hiểu tất cả và tha thứ tất cả, nhưng nó gặp phải nơi phàm ngã một định hướng thiên về cứng nhắc và quy ước. Gieo rắc tình yêu và minh triết trong mọi kinh nghiệm, linh hồn cung hai chờ đợi một mùa gặt về các mối quan hệ đúng đắn và sự soi sáng; phàm ngã lại gắn hôn phối với những giá trị khác, thiên về vật chất nhiều hơn, căn cứ trên cảm giác (thậm chí cảm dục) nhiều hơn. |
The soul’s task is to influence the personality to release its grip upon the material plane. Too often the seventh ray personality, like Martha in the New Testament, has no time for the “Christ”—the Christ aspect being the soul. Gradually, the soul teaches the personality how to love, and how to await the response of love without dictating what that response should be, or judging its appropriateness according to conventional standards. The seventh ray personality does not like surprises, but the soul, trusting in the inherent goodness of life, understands that all surprises arising from openness to the spirit will be beneficent ones. | Nhiệm vụ của linh hồn là ảnh hưởng để phàm ngã buông lỏng cái nắm của nó trên cõi hồng trần. Phàm ngã cung bảy, quá thường, giống như Martha trong Tân Ước, không còn thời giờ cho “Đức Christ”—và phương diện Christ chính là linh hồn. Từng bước, linh hồn dạy phàm ngã biết yêu, và biết chờ đáp ứng của tình yêu mà không áp đặt đáp ứng ấy phải là gì, cũng không phán xét tính thích đáng của nó theo chuẩn mực quy ước. Phàm ngã cung bảy không thích những điều bất ngờ, nhưng linh hồn, tin vào sự tốt lành cố hữu của sự sống, hiểu rằng mọi bất ngờ phát sinh từ sự rộng mở với tinh thần đều sẽ là những điều lành thiện. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the seventh ray personality: The second ray pressure towards integration will be felt by the seventh ray personality as a loosening, amorphous influence. The personality has certain forms and practices which it treats as, virtually, “sacred observances.” Endless repetition of these forms and practices, however, tends to numb the consciousness into a sense of false security—a feeling that “all is in order” and that “all’s right with the world.” The broadening, inclusive influence of the soul begins to dissolve that security, and to include within the purview of consciousness that which the personality would rather not consider, things which make the world seem as chaotic as it really is (on this plane and at this stage of global evolution). | 4. Quá trình tích hợp linh hồn/phàm ngã xét từ viễn kiến của tâm thức chủ yếu đồng nhất với phàm ngã cung bảy: Áp lực tích hợp mang tính cung hai sẽ được phàm ngã cung bảy cảm nhận như một ảnh hưởng làm lỏng và vô định hình. Phàm ngã có một số hình thức và thực hành mà nó gần như xem như “nghi lễ thiêng liêng”. Tuy nhiên, sự lặp lại vô tận các hình thức và thực hành ấy có khuynh hướng ru ngủ tâm thức trong một cảm giác an toàn giả—cảm giác rằng “mọi sự đâu vào đấy” và rằng “mọi sự trên đời đang tốt đẹp”. Ảnh hưởng mở rộng, bao gồm của linh hồn bắt đầu làm tan giải sự an toàn đó, và đưa vào tầm nhìn những gì phàm ngã muốn tránh né, những điều khiến thế giới dường như hỗn mang như nó thực sự là (trên cõi này và ở giai đoạn tiến hoá toàn cầu hiện tại). |
The personality does not want to abandon the customary; sometimes, it does not even want to understand the customary; it simply wants to perform it. The soul however brings understanding, and with it the shallowness, meaninglessness and repressive, limiting nature of numerous habits, customs, and formalities are revealed. The personality is made to question why it does the things it does; strict, unquestioning adherence to the comfortable routine is no longer satisfying under the illuminating ‘eye’ of the brilliant second ray soul. The personality seeks to hide within form, but the soul challenges the personal consciousness to risk adventuring into a state of relative formlessness where anything can happen—especially in the area of human interaction. | Phàm ngã không muốn từ bỏ cái quen thuộc; đôi khi, nó còn chẳng muốn hiểu cái quen thuộc; nó chỉ muốn thi hành nó. Tuy nhiên, linh hồn đem đến sự hiểu biết, và cùng với đó, sự nông cạn, vô nghĩa và bản chất kìm hãm, hạn cuộc của vô số thói quen, phong tục và hình thức bộc lộ ra. Phàm ngã bị buộc phải tự vấn tại sao nó làm những điều nó làm; việc tuân thủ nghiêm ngặt, không thắc mắc đối với nếp quen dễ chịu không còn đủ thoả mãn dưới “con mắt” soi chiếu của linh hồn cung hai rực rỡ. Phàm ngã tìm cách ẩn náu trong hình tướng, nhưng linh hồn thách thức tâm thức phàm ngã mạo hiểm dấn vào một trạng thái tương đối vô hình tướng nơi bất cứ điều gì cũng có thể xảy đến—đặc biệt trong phạm vi tương giao nhân loại. |
All real spiritual progress, at length, calls for the relinquishing of previous conditioning and the exposure to new experiences. The seventh ray personality, of all personality types, has the greatest difficulty relinquishing the many forms of conditioning to which it has been subjected (hence, its sometimes violent attempts to throw off old conditioning only to become the slave of a new, ‘unconventional’ kind of conditioning); the gradually dawning trust and positivity inspired by the loving second ray soul gradually makes this relinquishment an inevitability. The personality lets go of the security of established form and is compensated by receiving the surety of spiritual love and wisdom. | Mọi tiến bộ tinh thần đích thực, cuối cùng, đều đòi hỏi phải từ bỏ các điều kiện hóa trước kia và mở ra với các kinh nghiệm mới. Trong tất cả các kiểu phàm ngã, phàm ngã cung bảy là khó từ bỏ nhất những dạng điều kiện hóa đã được áp đặt (bởi vậy đôi khi nó gắng sức dữ dội để ném bỏ điều kiện cũ chỉ để trở thành nô lệ cho một dạng điều kiện “phi quy ước” mới); lòng tin cậy và tính tích cực đang nhen lên dần, do linh hồn cung hai yêu thương khơi gợi, sẽ từng bước khiến sự từ bỏ ấy trở thành điều tất yếu. Phàm ngã buông tay khỏi sự an toàn của hình thức thiết lập và được bù đắp bằng sự vững tin vào tình yêu và minh triết tinh thần. |
5. The ideal expression of the combination of the ray two soul and the ray seven personality: A deep feeling for human unity is expressed in group “movements,” through well-structured programs, and with real attention to (and an understanding of) the importance of organization. Individuals with this combination have abundant loving understanding, and an innate respect for right practice which contributes greatly to its successful expression. There is a strong commitment to humanism which manifests through the creation of new and innovative patterns of social interaction—patterns which facilitate the expression of “right human relations.” The urge to unify people takes the form of practical and appropriate action upon the physical plane; people are drawn together for cooperative and loving purposes in ways that are unusually well-organized and coordinated. | 5. Biểu hiện lý tưởng của sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung bảy: Cảm thức sâu xa về nhất thể nhân sinh được biểu đạt trong các “phong trào” tập thể, thông qua những chương trình được cấu trúc tốt, và với sự chú tâm thực sự (cùng sự thấu hiểu) đối với tầm quan trọng của tổ chức. Những cá nhân có tổ hợp này có thấu hiểu bằng tình thương dồi dào, và một sự tôn trọng bẩm sinh đối với thực hành đúng đắn—điều đóng góp to lớn cho thành công của sự biểu lộ ấy. Có một dấn thân mạnh mẽ với chủ nghĩa nhân bản, được biểu thị qua việc kiến tạo các mô thức tương tác xã hội mới mẻ, sáng tạo—các mô thức tạo điều kiện cho sự biểu hiện của “các mối quan hệ đúng đắn”. Thúc lực hợp nhất con người mang hình thức hành động thiết thực, thích hợp trên cõi hồng trần; con người được quy tụ vì các mục đích hợp tác và yêu thương theo những cách được tổ chức và phối hợp khác thường tốt đẹp. |
Here we find those who have a great talent for skillfully designing and creating material forms which embody or symbolize the light of wisdom streaming forth from a deeply intuitive consciousness; their craftsmanship is guided by the power of love. With individuals of this type, the wisdom of the heart masters the presumed rightness of personality method and outer technique, but efficient means and methods for expressing subtle realizations are never wanting. The inner work, however, is always seen to be more important than its outer expression—at least, it is understood that the heart must be in all acts before these acts can truly be called an expression of spirituality, no matter how rightly or perfectly they may be performed. Essential love triumphs over (and yet expresses itself through) perfected forms. Great empathy for humanity provides the patience for a slow, sequential and painstaking reconstruction of the “shrine of human living.” The loving wisdom which heals is applied with consummate skill upon the etheric-physical plane. | Ở đây ta gặp những người có tài năng lớn trong việc khéo léo thiết kế và kiến tạo các hình tướng vật chất hàm chứa hay biểu trưng cho ánh sáng minh triết tuôn tràn từ một tâm thức trực giác sâu xa; kỹ nghệ của họ được dẫn dắt bởi quyền năng của tình thương. Với những cá nhân kiểu này, minh triết của trái tim chế ngự cái được cho là đúng đắn của phương pháp phàm ngã và kỹ thuật bề ngoài, nhưng những phương tiện và phương pháp hữu hiệu để biểu đạt các chứng nghiệm vi tế thì không bao giờ thiếu. Tuy vậy, công việc nội tâm luôn được xem là quan trọng hơn biểu lộ bên ngoài của nó—ít nhất, người ta hiểu rằng trái tim phải hiện diện trong mọi hành vi, trước khi các hành vi có thể thực sự được gọi là biểu hiện của tinh thần, bất kể chúng có “đúng” hay “hoàn hảo” đến đâu. Tình thương thiết yếu chiến thắng (và vẫn biểu đạt qua) các hình tướng được hoàn thiện. Lòng thấu cảm lớn dành cho nhân loại cung cấp sự kiên nhẫn cho việc tái thiết chậm rãi, tuần tự và công phu “điện thờ của đời sống nhân sinh”. Tình yêu đầy minh triết chữa lành được áp dụng với nghệ xảo tuyệt hảo trên cõi dĩ thái-hồng trần. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Centralization, keyed to the second ray soul. The secondary integration formula is proposed as Orientation, keyed to the seventh ray personality. The first formula corrects the second ray tendencies towards diffusion, over-expansion, and an energy-draining attachment to life’s peripheral attractions, whereas the second formula corrects seventh ray tendencies towards selfish building and organizing according to short-sighted, materially-minded personal plans, but without an attentive orientation to the Divine Design as revealed by the soul. | 6. Tác dụng tổng hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ cấp là Trung tâm hóa, gắn với linh hồn cung hai. Công thức tích hợp thứ cấp được đề xuất là Định hướng, gắn với phàm ngã cung bảy. Công thức thứ nhất chỉnh hóa các khuynh hướng cung hai là phân tán, quá mở rộng, và sự bám chấp vào những hấp lực ngoại vi của đời sống gây thất thoát năng lượng, trong khi công thức thứ hai chỉnh hóa các khuynh hướng cung bảy là xây dựng và tổ chức ích kỷ theo những kế hoạch phàm ngã thiển cận, nặng vật chất, nhưng thiếu sự định hướng chú tâm vào Đồ án thiêng liêng như linh hồn mặc khải. |
Used together, these formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘oriented centralization,” (i.e., the attentive spiritual orientation of the personality which helps the individual detach from peripheral attachments, and find and maintain his spiritual center). The formulae make it possible for the individual to cultivate a spiritually-oriented and attentive personality consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness when, pervaded by the presence of the soul, he takes his stand firmly and immovably “in the center of all love.” | Khi được sử dụng cùng nhau, các công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã phẩm tính tổng hợp của “trung tâm hóa có định hướng” (tức là định hướng tinh thần chú tâm của phàm ngã giúp cá nhân tách khỏi các bám chấp ngoại vi, và tìm ra, duy trì trung tâm tinh thần của mình). Các công thức khiến cá nhân có thể bồi dưỡng một tâm thức phàm ngã được định hướng tinh thần và chú tâm, hỗ trợ những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức siêu thăng khi, được thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn, y đứng vững vàng và bất lay chuyển “trong trung tâm của mọi tình thương”. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself closely attached to many people and things and working diligently to create outer forms which only increase the extent of his attachment to externals. The many forms he creates under selfish impulse confine him to the worlds of form, and separate him further from the central point of his spirituality—the soul. At length, so ‘successful’ is his unenlightened constructiveness, that the light of the soul is totally obscured, hidden within the many forms and patterns he has built. He is ‘safe,’ ‘secure,’ utterly attached, and exiled from his essence. | Ở các giai đoạn sớm của tiến hoá, trước khi áp dụng thành công các công thức này, một cá nhân mang tổ hợp cung này thường thấy mình gắn bó chặt chẽ với nhiều người và vật, và miệt mài tạo dựng các hình tướng bên ngoài chỉ càng làm tăng mức độ bám chấp vào ngoại vật. Nhiều hình tướng y kiến tạo dưới xung lực vị kỷ giam hãm y trong các thế giới hình tướng, và tách y xa hơn khỏi điểm trung tâm của tinh thần—linh hồn. Cuối cùng, “thành công” đến mức như vậy trong tính kiến tạo vô minh, đến nỗi ánh sáng của linh hồn bị che khuất hoàn toàn, ẩn kín trong những hình tướng và mô thức đa đoan y đã xây. Y “an toàn”, “bảo đảm”, bám chấp tuyệt đối, và bị lưu đày khỏi bản thể mình. |
The intelligent use of these two formulae, however, transmutes the abuses of the past. The individual learns primarily, to stand within the center of the love and wisdom of his second ray soul, loving others purely, wisely and with detachment, and his growing secondary ability to orient himself to the divine Plan (while ceasing from entombing the spirit in nonessential constructs) makes it possible for him to create forms which will always be expressive of his spiritual “center.” Thus, during all excursions into form (whether psychological or actual), he will remain centered in the consciousness of his soul. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông minh hai công thức này sẽ chuyển hoá những lạm dụng trong quá khứ. Trước hết cá nhân học cách đứng trong trung tâm của tình yêu và minh triết của linh hồn cung hai, thương yêu người khác một cách thuần khiết, khôn ngoan và với sự tách rời; đồng thời, năng lực thứ cấp đang tăng trưởng để tự định hướng vào Thiên Cơ (trong khi thôi không chôn vùi tinh thần trong những cấu trúc không thiết yếu) khiến y có thể tạo ra những hình tướng luôn biểu đạt “trung tâm” tinh thần của mình. Như thế, trong mọi cuộc dấn thân vào hình tướng (dù là tâm lý hay hiện thực), y sẽ vẫn đặt-trung-tâm trong tâm thức của linh hồn. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the second ray soul and the seventh ray personality: | 7. Một vài thí dụ về năng khiếu và định hướng nghề nghiệp liên hệ đến sự kết hợp giữa linh hồn cung hai và phàm ngã cung bảy: |
• the server whose preferred method of service is “karma yoga.” | • người phụng sự có phương pháp phụng sự ưa thích là “karma yoga”. |
• the teacher whose lesson plans are consistently well-organized. | • người thầy có giáo án luôn được tổ chức tốt. |
• the educator whose philosophy of education emphasizes the inculcation of ethical principles. | • nhà giáo dục có triết lý giáo dục nhấn mạnh việc hun đúc các nguyên lý đạo đức. |
• the therapist who emphasizes the importance of “body work.” | • nhà trị liệu nhấn mạnh tầm quan trọng của “liệu pháp thân thể”. |
• the humanistic psychologist who sees the value of behavioristic therapy. | • nhà tâm lý học nhân bản nhìn thấy giá trị của liệu pháp hành vi. |
• the humanist who believes that society can best be improved through the creation of new patterns of behavior, the keynote of which is decent human relations. | • nhà nhân bản tin rằng xã hội có thể được cải thiện tốt nhất qua việc tạo ra các mô thức hành vi mới, với chủ âm là các mối quan hệ nhân bản đoan chính. |
• the unifier who excels through his ability to organize cooperative networks. | • người hợp nhất trổi vượt nhờ năng lực tổ chức các mạng lưới hợp tác. |
• the illuminator who focuses upon the interpretation of symbols. | • người soi sáng chú tâm vào diễn giải biểu tượng. |
• the guru who teaches strict rules and practices of spiritual development. | • đạo sư dạy các quy tắc và thực hành nghiêm ngặt của phát triển tinh thần. |
• the scholar who researches the history of fraternal orders and their laws, customs and rituals. | • học giả khảo cứu lịch sử các đoàn thể huynh đệ cùng luật lệ, phong tục và nghi lễ của họ. |
• the healer with an excellent understanding of how to work with the etheric body. | • nhà trị liệu có sự thấu hiểu xuất sắc về cách làm việc với thể dĩ thái. |
• the counselor who stresses involvement in well-structured programs of action as the best means of client improvement. | • nhà tham vấn nhấn mạnh việc dấn thân vào các chương trình hành động có cấu trúc tốt như là phương tiện tối ưu để cải thiện cho thân chủ. |
• the social worker who stresses the importance of improvement in administrative methods. | • nhân viên công tác xã hội, người nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện các phương pháp hành chính. |
• the nurturer endowed with remarkable tact and timing. | • người chăm dưỡng được phú bẩm sự khéo léo và đúng thời điểm đáng kể. |
• the priest, minister or rabbi who values, preserves and interprets the religious rituals associated with his faith. | • linh mục, mục sư hay rabbi, người trân quý, gìn giữ và diễn giải các nghi lễ tôn giáo gắn với đức tin của mình. |
• the “light bearer” who creates the rituals of the New Age. | • “người mang ánh sáng” kiến tạo các nghi lễ của Kỷ Nguyên Mới. |
In general: vocations or professions which require a wise and loving attitude, great empathy and understanding, studiousness, and the ability to teach or compassionately heal, as well as the power to organize or reorganize, the ability to build, a facility for creating or maintaining standards, and the capacity to skillfully manifest ideas through form. | Nói chung: các thiên hướng nghề nghiệp hay chuyên môn đòi hỏi một thái độ khôn ngoan và yêu thương, năng lực thấu cảm và thấu hiểu lớn, tính hiếu học, và khả năng dạy dỗ hoặc chữa lành đầy từ bi, cũng như quyền năng tổ chức hoặc tái tổ chức, khả năng xây dựng, sở trường kiến tạo hoặc duy trì các chuẩn mực, và năng lực khéo léo biểu lộ các ý tưởng qua hình tướng. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the second, with a strong subsidiary seventh ray (whether or not the seventh ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Một danh sách đề nghị những nhân vật quen thuộc (lịch sử, đương đại, hư cấu hay huyền thoại) có thể hợp lý xem cung linh hồn là cung hai, với một ảnh hưởng phụ cung bảy mạnh mẽ (bất kể cung bảy có, nói một cách nghiêm ngặt, là cung phàm ngã hay không): |
Clara Barton: humanitarian and founder of the American Red Cross, known as the “angel of the battlefield.” A strong ray six influence is also evident. | Clara Barton: nhà nhân đạo và người sáng lập Hội Chữ Thập Đỏ Hoa Kỳ, được biết đến như “thiên thần của chiến địa.” Ảnh hưởng cung sáu mạnh mẽ cũng rõ rệt. |
Confucius: Chinese teacher, philosopher and political theorist, whose ideas have deeply influenced the civilization of all eastern Asia. | Khổng Tử: nhà giáo, triết gia và lý thuyết gia chính trị Trung Hoa, tư tưởng của Ông đã ảnh hưởng sâu xa đến nền văn minh của toàn Đông Á. |
The Dalai Lama: leader of the exiled Tibetan Buddhist community, and a unifier of East and West. The mediating power of the fourth ray is strongly in evidence. | Đức Đạt-lai Lạt-ma: lãnh đạo cộng đồng Phật giáo Tây Tạng lưu vong, và là người kết nối Đông và Tây. Quyền năng điều hòa của cung bốn biểu lộ rất mạnh. |
Manly Palmer Hall: philosopher, sage, scholar. Dr. Hall is the founder and president of the Philosophical Research Society. A strong ray three influence is also in evidence. | Manly Palmer Hall: triết gia, đạo sĩ, học giả. Tiến sĩ Hall là người sáng lập và chủ tịch Hội Nghiên Cứu Triết Học. Ảnh hưởng cung ba mạnh mẽ cũng hiện rõ. |
Maria Montessori: Italian physician and educational reformer—originator of the educational system which bears her name (the Montessori Method). | Maria Montessori: nữ bác sĩ Ý và nhà cải cách giáo dục—người khởi xướng hệ thống giáo dục mang tên Bà (Phương pháp Montessori). |
Sir Thomas More: English saint and humanist, martyred for refusing to accept the Act of Supremacy, establishing the king as supreme head of the Church of England. A strong sixth ray is also present. | Ngài Thomas More: thánh nhân và nhà nhân bản Anh, tử đạo vì từ chối chấp nhận Đạo Luật Tối Thượng, thiết lập nhà vua là thủ lĩnh tối cao của Giáo hội Anh. Một cung sáu mạnh mẽ cũng hiện diện. |
Florence Nightingale: pioneer in the development of military and civilian nursing and of hospital care. A strong first ray and sixth ray are also apparent. | Florence Nightingale: người tiên phong trong phát triển điều dưỡng quân sự và dân sự, và chăm sóc bệnh viện. Cung một và cung sáu mạnh mẽ cũng hiển lộ. |
Emmanuel Swedenborg: Swedish scientist, mystic, philosopher and theologian. Swedenborg was strongly influenced by the fifth ray. | Emmanuel Swedenborg: nhà khoa học, thần bí, triết gia và thần học gia Thụy Điển. Swedenborg chịu ảnh hưởng mạnh của cung năm. |