Soul/Personality Combinations with a Ray Five Soul
Some Contrasts Between the Ray 5 Soul and the Ray 1 Personality
Ray 5 Soul | Ray 1 Personality |
1. search for exact knowledge | 1. love of personal power |
2. dedication to science and pure research | 2. dedication to assertive self-advancement |
3. emphasis upon the intellect as an instrument of enquiry, investigation and discovery | 3. emphasis upon the will as a means of promoting personal authority |
4. rationality as the justification of action | 4. powerful personal ambition as the justification for action |
5. great capacity for living the pure life of the mind | 5. rejection of the pure life of the mind as insufficiently vital or practical |
6. modesty in the face of the endlessness of knowledge | 6. arrogance based upon excessive self-emphasis |
7. great analytical ability | 7. brushing exact analysis aside |
8. laborious patience in the pursuit of truth | 8. impatience in the satisfaction of personal demands |
9. meticulous attention to knowledge in detail | 9. careless dismissal of the highly detailed approach because it retards rapid action |
10. thorough understanding of cause-and-effect relationships | 10. rash oversimplification |
11. knowledge before action | 11. action before knowledge |
12. precision of action based upon exact knowledge | 12. impetuous, often destructive action based simply on the will-to-act, and the will to make a strong impact |
13. insistence upon scientific verification | 13. assertion of personal opinion as ‘truth,’ without recourse to scientific verification |
14. scientifically detached objectivity concerning one’s self | 14. intense self-centeredness which makes it difficult to regard the self objectively |
Linh hồn cung năm | Phàm ngã cung một |
1. Tìm kiếm tri thức chính xác | 1. Yêu thích quyền lực cá nhân |
2. Tận hiến cho khoa học và nghiên cứu thuần khiết | 2. Tận hiến cho việc tự khẳng định và thăng tiến bản thân |
3. Nhấn mạnh vào trí tuệ như công cụ để truy vấn, khảo sát và khám phá | 3. Nhấn mạnh vào ý chí như phương tiện thúc đẩy quyền uy cá nhân |
4. Dựa vào lý trí để biện minh cho hành động | 4. Tham vọng cá nhân mạnh mẽ là lý do biện minh cho hành động |
5. Có năng lực lớn trong việc sống cuộc đời thuần khiết của trí tuệ | 5. Bác bỏ đời sống thuần khiết của trí tuệ vì cho là không đủ sinh động hay thực tiễn |
6. Khiêm tốn trước sự vô tận của tri thức | 6. Kiêu ngạo dựa trên việc quá đề cao bản thân |
7. Có khả năng phân tích vĩ đại | 7. Gạt bỏ sự phân tích chính xác sang một bên |
8. Kiên nhẫn lao động trong việc truy tìm chân lý | 8. Nóng vội trong việc thoả mãn các đòi hỏi cá nhân |
9. Chú tâm tỉ mỉ đến tri thức trong từng chi tiết | 9. Bất cẩn gạt bỏ cách tiếp cận chi tiết cao vì cho rằng nó làm chậm hành động nhanh chóng |
10. Hiểu thấu mối liên hệ nhân quả | 10. Đơn giản hoá hấp tấp một cách liều lĩnh |
11. Đặt tri thức lên trước hành động | 11. Hành động trước khi có tri thức |
12. Hành động chính xác dựa trên tri thức chuẩn xác | 12. Hành động bốc đồng, thường mang tính phá hoại, chỉ dựa trên ý chí hành động và ý chí tạo ấn tượng mạnh |
13. Khăng khăng đòi hỏi sự kiểm chứng khoa học | 13. Khẳng định ý kiến cá nhân như là “chân lý” mà không cần kiểm chứng khoa học |
14. Khách quan, tách biệt về mặt khoa học đối với bản thân | 14. Tập trung mãnh liệt vào bản ngã khiến bản thân khó có thể được nhìn nhận một cách khách quan |
The Integration Process for the Individual with a Ray 5 Soul and a Ray 1 Personality | Quy trình tích hợp cho cá nhân có Linh hồn Cung 5 và Phàm ngã Cung 1 |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of fifth ray soul energy, and the self-centered use of first ray personality force) are to achieve narrow, materialistic, intellectual certainty, as well as great personal power, arising from the unrestrained imposition of the personal will. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị một phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của sự khai mở tiến hóa này, động cơ của cá nhân (dựa trên sự xuyên tạc nơi phàm ngã đối với năng lượng linh hồn cung năm, và việc sử dụng vị-kỷ năng lực phàm ngã cung một) là đạt cho được sự chắc chắn trí tuệ hẹp hòi, duy vật, cũng như quyền lực cá nhân lớn lao, phát sinh từ việc áp đặt vô độ ý chí cá nhân. |
The person wants primarily to take everything apart (either analytically or actually), reduce all life experience to nothing but rationalistic formulae, control matter mechanically for selfish ends, and reject any kind of knowledge that is not materialistic or derived from the five senses, but he also wants to dominate and control others, and wield authority unopposed. | Người này chủ yếu muốn tháo tung mọi thứ (dù bằng phân tích hay bằng thực hành), quy giảm mọi trải nghiệm đời sống thành chẳng gì ngoài các công thức duy lý, điều khiển vật chất một cách cơ giới vì những mục đích ích kỷ, và khước từ mọi loại tri thức không phải duy vật hay không xuất phát từ năm giác quan, nhưng y cũng muốn thống trị và kiểm soát người khác, và nắm quyền uy không gặp chống đối. |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: the stubborn, self-assured, materialistic thinker, who instinctively discounts any evidence which challenges his authority (5A +1); the harsh critic who does not care if his criticism hurts or destroys others (5 + 1B); one who examines all people and circumstances with an attitude of cold detachment, and from a position of proud isolation; the investigator who will use any means, however inhumane, to get the information he is seeking—for instance, the sadistic scientist (5A + 1B); the amoral scientist who feels more powerful because his discoveries are utilized for purposes of war and destruction (5 + 1B); the arid, nonmagnetic individual who deliberately cuts himself off from his fellow human beings; the inveterate skeptic who severely derides those who have faith as gullible fools; one who, suffering from an idée fixe, forcefully “hammers home” his opinions at every occasion; one who, believing his mental prejudices to be proven facts, rudely resists all attempts to point out his errors; one who loves technology but rejects people (5B + 1B); one for whom great knowledge serves only as an incentive to pride and separativeness (5A + 1); one whose “hard-headedness” easily turns to “hard-heartedness”; etc. | Một cách tiêu cực và đầy ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: nhà tư tưởng cố chấp, tự tin, duy vật, người theo bản năng gạt bỏ bất cứ bằng chứng nào thách thức quyền uy của y (5A + 1); nhà phê bình khắc nghiệt, kẻ chẳng màng việc lời phê bình của mình có gây tổn thương hay hủy hoại người khác không (5 + 1B); kẻ khảo sát mọi người và mọi hoàn cảnh với thái độ lạnh lùng, tách rời, từ một vị trí cô lập kiêu hãnh; nhà điều tra sẽ dùng bất cứ phương tiện nào, dù vô nhân đạo, để có được thông tin y tìm kiếm—ví dụ, nhà khoa học bạo dâm (5A + 1B); nhà khoa học vô luân cảm thấy mình quyền lực hơn vì các khám phá của y được dùng cho mục đích chiến tranh và hủy diệt (5 + 1B); người khô khan, không có từ điện, cố ý cắt đứt mình khỏi đồng loại; kẻ hoài nghi bất trị, dữ dằn nhạo báng những ai có đức tin như những kẻ nhẹ dạ; người mắc chứng ý niệm cố định, thô bạo “đóng búa” nhồi nhét ý kiến của mình vào mọi dịp; kẻ tin các thành kiến trí tuệ của mình là các sự kiện đã được chứng minh, thô lỗ kháng cự mọi nỗ lực chỉ ra sai lầm của y; kẻ yêu công nghệ nhưng khước từ con người (5B + 1B); người mà tri thức lớn lao chỉ phục vụ như một động năng cho kiêu mạn và tính chia rẽ (5A + 1); kẻ mà “đầu cứng” rất dễ trở thành “tim cứng”; v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray five soul and the ray one personality is the struggle between the spiritually-pure need to know, and the selfish desire for personal power. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần khiết xung đột với lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung một là cuộc giằng co giữa nhu cầu được tinh thần thanh lọc để biết, và dục vọng ích kỷ đối với quyền lực cá nhân. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the fifth ray soul: It will be the task of the fifth ray soul to convey to the first ray personality a love of knowledge for its own sake, and not for the power and advancement it can bring. The consciousness identified with the fifth ray soul is truly fascinated with the world, and takes great delight in understanding how things are, and how things work, whether or not the personality benefits materially from such knowledge. The soul, characterized thus by the quality of pure interest, is faced with a personality which is often engulfed in egotism—feeling that all people and all things are to be used for its own aggrandizement. The soul is naturally frustrated because the personal consciousness refuses to see things as they are, to observe with pure disinterestedness, and to keep self from distorting the understanding of what is seen. | 3. Quy trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ quan điểm của tâm thức đồng nhất chủ yếu với linh hồn cung năm: Nhiệm vụ của linh hồn cung năm sẽ là truyền đạt cho phàm ngã cung một tình yêu tri thức vì chính nó, chứ không vì quyền lực và sự thăng tiến mà nó có thể đem lại. Tâm thức đồng nhất với linh hồn cung năm thực sự bị cuốn hút bởi thế giới, và hân hoan lớn lao trong việc thấu hiểu cách các sự vật là, và cách các sự vật vận hành, bất kể phàm ngã có được lợi ích vật chất từ tri thức ấy hay không. Linh hồn, vốn được đặc trưng bởi phẩm tính quan tâm thuần túy, phải đối mặt với một phàm ngã thường bị ngập chìm trong tính ngã—cảm thấy rằng mọi người và mọi vật đều phải được sử dụng cho sự tự tôn vinh của nó. Linh hồn tự nhiên thấy bực bội vì tâm thức cá nhân khước từ thấy các sự vật như chúng là, khước từ quan sát với sự vô tư thuần khiết, và không giữ cái ngã khỏi việc xuyên tạc sự hiểu biết về điều được thấy. |
It will be the soul’s difficult responsibility to guide the personality towards a truly detached attitude—not the detachment which is unaffected by ties to others (for this, the first ray personality already has), but the detachment which creates a new perspective in consciousness leading to illumined knowledge of the “garment of God.” For the fifth ray soul, light is paramount, and the lust for personal power, which obscures the light, a definite hindrance. | Sẽ là trách nhiệm khó khăn của linh hồn trong việc hướng dẫn phàm ngã đến một thái độ thực sự tách rời—không phải sự tách rời vốn không bị ràng buộc bởi mối dây với người khác (vì điều này phàm ngã cung một vốn đã có), mà là sự tách rời tạo nên một nhãn quan mới trong tâm thức, dẫn đến tri thức được soi sáng về “chiếc áo của Thượng đế.” Với linh hồn cung năm, ánh sáng là tối thượng, và dục vọng đối với quyền lực cá nhân, điều che mờ ánh sáng, là một chướng ngại rõ rệt. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified with the first ray personality: The fifth ray pressure towards integration will be felt by the first ray personality as something of an irrelevance—almost an impertinence. The personality feels most comfortable when doing precisely what it pleases; people and things either further its purposes or, they are in the way. Certainly, there is little inclination to stop and make a study of situations, purely for the pleasure of learning. Those with a strong first ray frequently refer, with some scorn, to certain lines of thought as “merely academic” —i.e., useless in terms of accomplishment. This sense of being asked to engage in the useless acquisition of knowledge is precisely what the first ray personality may experience as the fifth ray becomes more influential. The personality has no time, so it thinks, for patient, detached observation and analysis prior to acting. Should the personality ‘waste its time’ in doing so, it would have to slacken its pace, and might risk sacrificing that which it intends to grasp for itself. The personality, therefore, resists the call to know with purity as something unnecessary in the life of a “mover and a shaker.” | 4. Quy trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ quan điểm của tâm thức đồng nhất với phàm ngã cung một: Sức ép tích hợp từ cung năm sẽ được phàm ngã cung một cảm nhận như một điều gì đó không liên quan—gần như là vô lễ. Phàm ngã cảm thấy thoải mái nhất khi làm chính xác điều nó muốn; con người và sự vật hoặc là phục vụ mục đích của nó, hoặc là cản đường. Chắc chắn, có rất ít khuynh hướng dừng lại để nghiên cứu các tình huống, chỉ vì thú vui học hỏi. Những ai có cung một mạnh thường nhắc tới, với chút khinh thường, một vài đường lối tư tưởng như là “thuần túy hàn lâm”—tức vô dụng về mặt hoàn thành công việc. Cảm giác như thể bị yêu cầu dấn thân vào việc thu nạp tri thức vô dụng chính là điều mà phàm ngã cung một có thể trải nghiệm khi cung năm trở nên có ảnh hưởng hơn. Phàm ngã không có thời gian, nó nghĩ vậy, cho việc quan sát và phân tích kiên nhẫn, tách rời trước khi hành động. Nếu phàm ngã ‘phí thời gian’ làm vậy, nó sẽ phải chậm lại, và có thể liều đánh mất thứ mà nó định giành cho mình. Vì vậy, phàm ngã kháng cự lời kêu gọi biết với sự tinh ròng như một điều không cần thiết trong đời sống của một “kẻ khuấy động và kiến tạo.” |
Gradually, however, under the impress of the soul, there begins to arise within the personal consciousness an unsettling perception of its own ignorance. Gradually, it is realized that power without knowledge is, itself, useless. The vision of an endlessly fascinating world awaiting discovery enters the consciousness, along with the realization of the counter-productivity of impetuous, benighted blundering. A new and important learning begins to grow—that knowledge is a good in its own right, and that eventually, “knowledge is power.” The personality temporarily holds its will-to-power in abeyance and takes the time to understand, with real clarity, at least a few of the many particulars before its eyes. | Tuy nhiên, dần dần, dưới ấn tượng của linh hồn, bắt đầu khởi lên trong tâm thức cá nhân một tri nhận gây bất an về chính sự vô tri của mình. Từ từ, nó nhận ra rằng quyền lực mà thiếu tri thức thì, tự thân nó, là vô ích. Thị kiến về một thế giới cuốn hút vô tận đang chờ được khám phá đi vào tâm thức, cùng với sự nhận biết về tính phản tác dụng của lối làm liều lĩnh, mù quáng. Một bài học mới và quan trọng bắt đầu lớn lên—rằng tri thức là một thiện ích tự thân, và rốt cuộc, “tri thức là sức mạnh.” Phàm ngã tạm thời gác lại ý chí-quyền lực và dành thời gian để thấu hiểu, với sự minh bạch thực sự, ít nhất một vài điều trong muôn vàn điều trước mắt. |
5. The ideal combination of the fifth ray soul and the first ray personality: The pursuit and application of concrete knowledge are expressed with power and endurance. Patient research is supported by relentless personal strength. An individual with this ray combination is likely to have a penetrating power of analysis, with the will to stay focused upon the object of attention for long periods of time. Fortitude and one-pointed persistence serve the spirit of selfless, scientific enquiry and discovery. Once discovery is made, this individual would have the bravery to present the discovery unequivocally, no matter how upsetting or revolutionary its implications. The urge towards specific, focused research masters the attitude of focused self-importance, and yet, self-confidence is abidingly present to sustain the search for knowledge. Here is an individual who, understanding the necessity for experimentation, has the courage to undertake experiments which are particularly demanding and even dangerous. There is a tremendous capacity for sheer common sense, and for “no-nonsense” action which gets the job done. | 5. Sự kết hợp lý tưởng của linh hồn cung năm và phàm ngã cung một: Việc truy tầm và ứng dụng tri thức cụ thể được biểu lộ với quyền năng và sức bền. Nghiên cứu kiên nhẫn được nâng đỡ bởi sức mạnh cá nhân không nao núng. Một cá nhân có sự kết hợp cung này có khuynh hướng có quyền năng thấu suốt phân tích, với ý chí lưu trú nơi đối tượng chú ý trong thời gian dài. Kiên cường và bền chí nhất tâm phục vụ tinh thần khảo cứu và khám phá khoa học vô ngã. Một khi khám phá được thực hiện, cá nhân này sẽ có can đảm trình bày phát hiện một cách dứt khoát, bất chấp các hệ lụy có gây xáo trộn hay cách mạng đến đâu. Xung lực hướng tới khảo cứu chuyên biệt, tập trung làm chủ thái độ tự tôn tập trung, tuy vậy, tự tin thì luôn hiện diện để nâng đỡ việc truy cầu tri thức. Đây là người, hiểu sự cần thiết của thí nghiệm, có can đảm thực hiện những thí nghiệm đặc biệt đòi hỏi cao và thậm chí nguy hiểm. Có một năng lực to lớn đối với lẽ thường giản dị, và cho hành động “không vòng vo” giúp công việc được hoàn tất. |
The fifth ray individual is unusually objective about his own feelings and emotions, and when the fifth ray is complemented by the first, emotions are strictly controlled, and never allowed to interfere with the functioning of the will. Technical and mechanical ability will be outstanding, accompanied by a real understanding for how to use such ability to leverage personal power. All discoveries are utilized to help humanity triumph over its adversaries. Here, one might find a scientist who realizes that knowledge is a matter of life and death; in fact, his research may focus upon “life-and-death” issues. | Người cung năm đặc biệt khách quan về các cảm xúc và xúc cảm của chính mình, và khi cung năm được bổ trợ bởi cung một, cảm xúc được kiểm soát nghiêm ngặt, và không bao giờ được phép can thiệp vào sự vận hành của ý chí. Năng lực kỹ thuật và cơ khí sẽ nổi bật, đi kèm với sự thấu hiểu thực sự về cách sử dụng năng lực ấy để gia tăng quyền lực cá nhân. Mọi khám phá đều được vận dụng để giúp nhân loại chiến thắng các nghịch cảnh. Ở đây, ta có thể thấy một nhà khoa học nhận ra rằng tri thức là vấn đề sống-còn; thực vậy, nghiên cứu của y có thể tập trung vào các vấn đề “sống-còn.” |
The keen particularity of the fifth ray supersedes the first ray desire to see only “the big picture,” but an understanding of the value of simplicity assists in transforming knowledge of particular facts into essential, immediately-useful action. With this combination, analysis is primary, but synthesis, with its concern for the essential, is also present. | Tính chi li sắc bén của cung năm vượt trội mong muốn cung một chỉ thấy “bức tranh lớn,” nhưng sự thấu hiểu giá trị của tính giản dị trợ giúp việc chuyển hóa tri thức về các dữ kiện cụ thể thành hành động cốt yếu, hữu dụng tức thời. Với sự kết hợp này, phân tích là chủ đạo, nhưng tổng hợp, với mối quan tâm đến điều cốt yếu, cũng hiện diện. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Detachment, keyed to the fifth ray soul. The secondary integration formula is Inclusion, keyed to the first ray soul. The first formula corrects the fifth ray tendencies towards mental attachment to matter, and the obsessive preoccupation with investigating or manipulating concrete form while ignoring the reality of that which is “formless,” whereas the second formula corrects the exclusive and isolating tendencies characteristic of the first ray personality. | 6. Tác động kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ cấp là Sự tách rời, được gắn với linh hồn cung năm. Công thức tích hợp thứ cấp là Tính bao gồm, được gắn với linh hồn cung một. Công thức thứ nhất điều chỉnh các khuynh hướng cung năm hướng tới sự bám chấp trí tuệ vào vật chất, và sự ám chú bị ám ảnh với việc khảo sát hay thao túng hình tướng cụ thể trong khi bỏ qua thực tại của cái “vô hình tướng,” trong khi công thức thứ hai điều chỉnh các khuynh hướng độc tôn và cô lập đặc trưng nơi phàm ngã cung một. |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘inclusive detachment’ (i.e., the magnetic, inclusive and accepting attitude within the personal consciousness which facilitates, within the inner psyche, a detachment from matter, and an attachment to the subjective reality which unifies all things). Aided by these formulae, the individual detaches his inner consciousness from the perspective of fragmentation (induced by the discriminating fifth ray), and begins to experience a stronger and more loving relationship to the many who are subjectively related (despite appearances to the contrary caused by what might be called ‘the illusion of fragmentation,’ which life in the three worlds imposes upon the human consciousness). | Khi được sử dụng cùng nhau, hai công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã một phẩm tính tổng hợp của “sự tách rời bao gồm” (tức là thái độ từ tính, bao gồm và chấp nhận trong tâm thức phàm ngã, vốn tạo thuận lợi, nơi nội tâm, cho sự tách rời khỏi vật chất, và sự gắn bó với thực tại chủ quan, vốn hợp nhất mọi sự). Được hai công thức này trợ lực, cá nhân tách tâm thức bên trong của mình khỏi viễn kiến phân mảnh (do cung năm với khuynh hướng phân biện gây nên), và bắt đầu kinh nghiệm một mối liên hệ mạnh mẽ hơn và đầy yêu thương hơn với muôn người vốn liên hệ với nhau về mặt chủ quan (bất chấp bề ngoài trái ngược do cái có thể gọi là “ảo tưởng về phân mảnh” gây ra, điều mà đời sống trong ba cõi áp đặt lên tâm thức con người). |
Thus, these formulae make it possible for the individual to cultivate a more inviting and embracing personal consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness, when (pervaded by the presence of the soul) he knows, past all doubting and seeming, the indisputable reality of that great subjective Entity—the planetary God—whose “garment” of matter has long been the object of his fascination and enquiry. | Do đó, các công thức này khiến cá nhân có thể bồi đắp một tâm thức phàm ngã cởi mở và ôm trọn hơn, nâng đỡ cho những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức thăng hoa, khi (được sự hiện diện của linh hồn thấm nhuần) y biết, vượt trên mọi nghi hoặc và mọi vẻ bề ngoài, thực tại không thể chối cãi của Vị Đại Ngã chủ quan vĩ đại—Thượng đế Hành tinh—Đấng mà “tấm áo” bằng chất liệu đã từ lâu là đối tượng khiến y say mê và khảo cứu. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself engrossed in matter and utterly isolated from his fellow human beings. Knowledge of the outer form is his one, great, all-consuming interest and he rebuffs others so that he may occupy himself ever more exclusively with that interest. As his enquiries proceed, he becomes more and more unapproachable—an isolated mind at work. His life is filled with barriers: between himself and other people, and between his materialistic mind and the perception of the unifying reality lying behind and within all matter. He is “caught in concrete” and repels those who might help him break free. | Trong các giai đoạn đầu của tiến hoá, trước khi áp dụng thành công những công thức này, người có phối hợp cung như thế thường thấy mình đắm chìm trong vật chất và hoàn toàn cô lập khỏi đồng loại. Tri thức về hình tướng bên ngoài là mối quan tâm duy nhất, lớn lao, và tiêu hao tất cả của y; y gạt người khác ra, để có thể chuyên chú vào mối quan tâm đó một cách ngày càng độc hữu. Khi cuộc khảo cứu tiếp diễn, y trở nên ngày càng khó gần—một thể trí cô lập đang làm việc. Cuộc đời y đầy rẫy hàng rào: giữa y với người khác, và giữa thể trí duy vật của y với sự nhận thức về thực tại hợp nhất nằm phía sau và bên trong mọi vật chất. Y “bị mắc kẹt trong bê tông” và xua đuổi những ai có thể giúp y phá vỡ để thoát ra. |
The intelligent use of these formulae, however, transmutes the abuses of the past. The individual terminates his slavery to the misperception that form is reality. He realizes, too, that he does not stand alone, and he begins to embrace those he previously rejected. By using the formulae, the individual learns, primarily, to detach himself from the illusion of multiplicity, and to know the One God who is the Unity behind all material diversity, and his growing secondary ability to embrace others within that Unity, rather than reject them as heretofore, ensures the soul of a strong and loving instrument with which to investigate diversity and prove its relationship to a seamless, subjective Unity. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông tuệ các công thức này chuyển hoá những lạm dụng của quá khứ. Cá nhân chấm dứt sự nô lệ của mình đối với nhận thức sai lầm rằng hình tướng là thực tại. Y cũng nhận ra rằng y không đứng một mình, và bắt đầu ôm trọn những người trước đây y loại trừ. Nhờ sử dụng các công thức, trước hết, y học cách tách mình khỏi ảo tưởng về tính đa tạp, và biết Đấng Thượng đế Duy Nhất, Đấng là Sự Hợp Nhất ẩn sau mọi đa tạp vật chất; và năng lực thứ yếu đang tăng trưởng của y trong việc bao dung người khác trong Sự Hợp Nhất ấy, thay vì loại trừ họ như trước nay, đảm bảo cho linh hồn có một khí cụ mạnh mẽ và đầy tình thương để khảo cứu tính đa tạp và chứng minh mối liên hệ của nó với một Sự Hợp Nhất chủ quan, liền lạc. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the fifth ray soul and the first ray personality: | 7. Một vài ví dụ về năng khiếu và khuynh hướng nghề nghiệp liên quan đến phối hợp linh hồn cung năm và phàm ngã cung một: |
• the scientist whose major focus of interest is researching the means for releasing vast amounts of power. | • nhà khoa học có mối quan tâm trọng yếu là nghiên cứu các phương cách giải phóng một lượng quyền năng khổng lồ. |
• the researcher for whom no research project is too arduous. | • nhà nghiên cứu đối với người mà không có dự án nghiên cứu nào là quá gian nan. |
• the investigator who is ready and willing to face danger fearlessly in order to carry out his investigations. | • nhà điều tra sẵn sàng và sẵn lòng đối mặt hiểm nguy một cách vô uý để tiến hành cuộc điều tra của mình. |
• the inquirer who asks his questions with uncompromising detachment and impersonality. | • người truy vấn đặt câu hỏi với sự tách rời và vô tư triệt để. |
• the experimenter capable of controlled, yet relentless, persistence in conducting a difficult and prolonged program of experimentation. | • nhà thực nghiệm có khả năng kiên trì được kiểm soát nhưng bền bỉ không ngơi trong việc tiến hành một chương trình thí nghiệm khó và kéo dài. |
• the analyst who has a knack for grasping the essential point. | • nhà phân tích có sở trường nắm bắt điểm cốt yếu. |
• the specialist with a keen sense of priorities, knowing, in no uncertain terms, the relative importance of his field of expertise. | • chuyên gia với ý thức sắc bén về ưu tiên, biết rất rõ tầm quan trọng tương đối của lĩnh vực chuyên môn của mình. |
• the objective observer whose accuracy and efficiency are enhanced by great discipline and self-control. | • nhà quan sát khách quan có độ chính xác và hiệu suất được tăng cường nhờ tính kỷ luật lớn và khả năng tự chủ. |
• the inventor who rises to the challenge of harsh necessity. | • nhà phát minh biết vươn lên trước thách thức của nhu cầu khắc nghiệt. |
• the engineer who enjoys his work most when there are tremendous obstacles to be overcome. | • kỹ sư thích thú công việc nhất khi có những chướng ngại khổng lồ cần vượt qua. |
• the technician who can be trusted to let nothing stand in the way of the execution of his responsibilities. | • kỹ thuật viên đáng tin cậy ở chỗ không để bất cứ điều gì cản trở việc thi hành trách nhiệm. |
• the mechanic who is a totally independent and self-reliant “troubleshooter.” | • thợ máy là một “người khắc phục sự cố” hoàn toàn độc lập và tự lực. |
• the repair-person who is completely confident that he can fix anything. | • người sửa chữa hoàn toàn tự tin rằng mình có thể sửa bất cứ thứ gì. |
In general: vocations and professions which require keen analytical abilities, the capacity for research, and scientific and/or technical expertise, as well as great will power, strength and stamina, the ability to stand firmly on principle, and (when necessary) the power to destroy obstacles. | Nhìn chung: các nghề nghiệp đòi hỏi năng lực phân tích sắc sảo, khả năng nghiên cứu, và chuyên môn khoa học và/hoặc kỹ thuật, cũng như ý chí lớn, sức mạnh và sức bền, khả năng kiên định trên nền tảng nguyên tắc, và (khi cần) năng lực phá huỷ chướng ngại. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the fifth, with a strong subsidiary first ray influence (whether or not the first ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh sách đề xuất một số nhân vật nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hoặc thần thoại) mà cung linh hồn có thể được xem là cung năm, với ảnh hưởng phụ mạnh của cung một (bất kể cung một có, theo nghĩa hẹp, là cung phàm ngã hay không): |
Thomas Alva Edison: one of the outstanding geniuses in the history of technology. Edison held 1,093 patents which included the incandescent electric lamp, the phonograph, the carbon telephone transmitter, and the motion picture projector. He also created the first industrial-research laboratory. | Thomas Alva Edison: một trong những thiên tài kiệt xuất trong lịch sử công nghệ. Edison nắm giữ 1.093 bằng sáng chế, bao gồm đèn điện sợi đốt, máy hát, bộ truyền thoại bằng carbon, và máy chiếu phim. Ông cũng tạo lập phòng thí nghiệm nghiên cứu công nghiệp đầu tiên. |
Thomas Henry Huxley: 19th century English physician, biologist, and “bull dog” for Charles Darwin in the advancement of the Theory of Evolution. | Thomas Henry Huxley: bác sĩ, nhà sinh học người Anh thế kỷ 19, và “chó bull” của Charles Darwin trong việc thúc đẩy Học thuyết Tiến hóa. |
Louis Pasteur: French chemist, microbiologist, whose contributions to humanity’s welfare were among the most valuable and varied in the history of science and industry. (See ray analysis in Section VI, Volume II.) | Louis Pasteur: nhà hoá học, nhà vi sinh học người Pháp, có những đóng góp cho phúc lợi của nhân loại thuộc hàng giá trị và đa dạng nhất trong lịch sử khoa học và công nghiệp. (Xem phân tích cung trong Phần VI, Tập II.) |
Igor Sikorsky: outstanding pioneer of aircraft design, and developer of the helicopter. He always insisted upon being the test pilot for any airplane or helicopter he designed. | Igor Sikorsky: nhà tiên phong xuất sắc trong thiết kế máy bay, và là người phát triển trực thăng. Ông luôn khăng khăng làm phi công thử nghiệm cho bất kỳ máy bay hay trực thăng nào do mình thiết kế. |
Some Contrasts Between the Ray 5 Soul and the Ray 2 Personality
Ray 5 Soul | Ray 2 Personality |
1. the scientific pursuit of pure truth | 1. preoccupation with the demands of personal love and affection |
2. relentless, painstaking investigation | 2. aversion to extreme efforts which disrupt ease and comfort |
3. uncompromising tough-mindedness | 3. undiscriminating soft-hearted |
4. hard-headed recognition of straight fact, unswayed by affection or sentiment | 4. unwisely allowing personal love and affection to influence the hard-won, rational conclusions of the mind |
5. well-suited to understand matter and handle concrete, physical plane reality | 5. often too ‘soft’ and vulnerable to cope practically and effectively with concrete physical plane reality |
6. scientifically applied spiritual detachment serving the clear perception of reality | 6. personal attachment blurs the perception of reality |
7. standing back for improved vision | 7. great difficulty standing back; prefers closeness and intimacy |
8. insistence on preserving the totally objective point of view | 8. allowing personal magnetism and attraction to interfere with objectivity |
9. uncompromisingly impersonal approach to truth | 9. the “personal equation” looms overly large |
10. presentation of the exact scientific facts even when they are socially upsetting or unpopular | 10. softening facts in order to preserve personal popularity |
11. independent self-verification of the accuracy of thoughts | 11. too likely to be swayed by the opinions of those who are closely related |
12. a vision of truth based upon the operative modalities of thought—analysis and discrimination | 12. loathe to implement any kind of separative act, hence an avoidance of analysis and discrimination |
13. spiritual skepticism as an instrument of truth and an antidote for gullibility in spiritual matters | 13. often too open and willing to accept on trust |
14. putting all ideas to the test by means of strict rationality | 14. a distrust of rationality which may be a disguise for mental laziness |
15. willingness to make great sacrifices in the pursuit of knowledge | 15. too much love of fun and enjoyment |
Linh hồn cung năm | Phàm ngã cung hai |
1. Theo đuổi khoa học để đạt được chân lý thuần khiết | 1. Bị chi phối bởi những đòi hỏi của tình thương và cảm tình cá nhân |
2. Khảo cứu kiên trì, tỉ mỉ và không ngừng nghỉ | 2. Ghét phải nỗ lực quá mức làm xáo trộn sự thoải mái và dễ chịu |
3. Kiên định, không thoả hiệp trong sự cứng rắn của lý trí | 3. Quá mềm lòng, thiếu khả năng phân biện |
4. Nhận thức thực tế một cách tỉnh táo và cứng rắn, không bị ảnh hưởng bởi tình cảm hay cảm xúc | 4. Dễ dãi để cho tình thương và cảm tình cá nhân làm ảnh hưởng đến các kết luận lý trí đã khó nhọc đạt được |
5. Có khả năng tự nhiên trong việc hiểu vật chất và xử lý thực tại cụ thể trên cõi hồng trần | 5. Thường quá “mềm yếu” và dễ tổn thương nên không đủ thực tế và hiệu quả khi đối mặt với thực tại cụ thể trên cõi hồng trần |
6. Áp dụng một cách khoa học sự tách rời tinh thần để phục vụ cho việc nhận thức rõ ràng về thực tại | 6. Sự gắn bó cá nhân làm mờ đi khả năng nhận thức thực tại |
7. Giữ khoảng cách để có tầm nhìn rõ hơn | 7. Rất khó đứng lùi lại để quan sát; thích sự gần gũi và thân mật |
8. Khăng khăng giữ quan điểm hoàn toàn khách quan | 8. Để cho sức hấp dẫn và từ tính cá nhân can thiệp vào tính khách quan |
9. Tiếp cận chân lý một cách hoàn toàn phi cá nhân, không thoả hiệp | 9. “Phương trình cá nhân” trở nên quá lớn, lấn át sự thật |
10. Trình bày các dữ kiện khoa học chính xác ngay cả khi chúng gây xáo trộn xã hội hoặc không được ưa chuộng | 10. Làm dịu các sự kiện để duy trì sự yêu mến cá nhân |
11. Tự xác minh độc lập tính chính xác của tư tưởng | 11. Dễ bị ảnh hưởng bởi ý kiến của những người thân cận |
12. Có tầm nhìn về chân lý dựa trên các phương thức hoạt động của tư duy — phân tích và phân biện | 12. Ghét phải thực hiện bất kỳ hành động mang tính phân ly nào, do đó tránh né phân tích và phân biện |
13. Hoài nghi tinh thần như một công cụ tìm kiếm chân lý và là liều thuốc giải cho sự cả tin trong các vấn đề tinh thần | 13. Thường quá cởi mở và sẵn sàng tin tưởng một cách dễ dãi |
14. Đặt mọi ý tưởng vào thử nghiệm thông qua lý trí nghiêm ngặt | 14. Không tin tưởng vào lý trí, điều này có thể che giấu sự lười biếng trí tuệ |
15. Sẵn lòng hy sinh lớn lao trong việc theo đuổi tri thức | 15. Quá yêu thích niềm vui và sự hưởng thụ |
The Integration Process for the Individual with a Ray 5 Soul and a Ray 2 Personality | Quá Trình Tích Hợp cho Cá Nhân có Linh hồn Cung 5 và Phàm ngã Cung 2 |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of fifth ray soul energy, and the self-centered use of second ray personality force) are to achieve narrow, materialistic, intellectual certainty, as well as the complete fulfillment of personal love (or the complete satisfaction of studious enquiry [2B]). | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị một phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của khai mở tiến hoá, động cơ của cá nhân (dựa trên sự bóp méo của năng lượng linh hồn cung năm bởi phàm ngã, và việc sử dụng vị kỷ lực phàm ngã cung hai) là đạt được sự chắc chắn trí-thức hẹp hòi, duy vật, cũng như sự viên mãn trọn vẹn của tình yêu cá nhân (hoặc sự thoả mãn trọn vẹn của việc khảo cứu cần mẫn [2B]). |
The person wants primarily to take everything apart (either analytically or actually), reduce all life experience to nothing but rationalistic formulae, control matter mechanically for selfish ends, and reject any kind of knowledge that is not materialistic or derived from the five senses, but he also wants to be constantly loved, consistently popular, warmly admired, well-cared-for, and to live a soft, comfortable, well-protected and well-insulated life, closely attached to those people, places and things which he loves and finds personally satisfying. | Người đó chủ yếu muốn tháo rời mọi thứ (hoặc theo lối phân tích, hoặc trên thực tế), quy tất cả kinh nghiệm sống về những công thức duy lý, kiểm soát vật chất một cách cơ giới cho mục đích ích kỷ, và bác bỏ mọi dạng tri thức không duy vật hoặc không xuất phát từ năm giác quan; nhưng y cũng muốn được yêu thương liên tục, được ưa chuộng bền bỉ, được ngưỡng mộ ấm áp, được chăm sóc chu đáo, và sống một đời mềm mại, tiện nghi, an toàn và được che chở, gắn bó mật thiết với những người, nơi chốn và sự vật mà y yêu thương và cảm thấy thoả mãn về mặt cá nhân. |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: one with an exclusively mental focus, complacently over-absorbed in his studies (5A + 2B); one who, focusing upon his area of interest, attempts to achieve encyclopedic knowledge of a virtual infinitude of particulars, thus becoming overwhelmed by inapplicable minutiae (5A + 2B); one who has only harsh criticism and self-satisfied contempt for the mental limitations of others (5A + 2B); one who is filled with doubt, but is too timid to discover whether his doubt is really warranted (5 + 2A); one who confines his enquiries strictly to the world of the senses (or their instrumental extensions), and becomes threatened or, even, frightened at the thought that subjective or spiritual things may be real (5 + 2A); one who has become comfortably satisfied with the commonsense view of the world, and is too lazy to disturb himself by looking beyond it; the convinced materialist who, having justified his materialism rationally, thinks it only sensible to live a “soft life” of comfort and easy gratification; one who becomes so aware of the infinitude of knowledge, and is so filled with the sense of his own personal limitations, that he easily falls into self-pity and a sense of inferiority (5A + 2B); one who hesitates to present the facts as he knows them, because he desires to remain popular and well-liked (5 + 2A); one who, having assured himself of the unchanging veracity of his factual knowledge, is smugly indulgent with those who are foolish enough to question him (5 + 2B); one whose relaxed, unassuming personality entirely disguises his mental commitment to develop technologies which threaten the welfare of human beings (5B + 2); in general, one who is inclined to employ his very capable mind for destructive purposes, but gets away with it because he appears harmless; etc. | Một cách tiêu cực và đầy ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: một người chỉ tập trung trí tuệ, tự mãn vì quá đắm chìm trong việc học của mình (5A + 2B); một người, tập trung vào lĩnh vực quan tâm, cố đạt tri thức bách khoa về một vô số gần như vô hạn các tiểu tiết, từ đó bị ngập chìm trong những vụn vặt không áp dụng được (5A + 2B); một người chỉ có phê phán gay gắt và khinh miệt tự mãn đối với những giới hạn trí óc của người khác (5A + 2B); một người đầy hoài nghi nhưng quá nhút nhát để khám phá liệu hoài nghi của mình có thực sự chính đáng hay không (5 + 2A); một người giới hạn khảo cứu của mình nghiêm ngặt trong thế giới giác quan (hoặc những mở rộng bằng dụng cụ của chúng), và thấy bị đe doạ hoặc thậm chí bị khiếp sợ trước ý nghĩ rằng các sự vật chủ quan hay tinh thần có thể là có thực (5 + 2A); một người đã trở nên thoả mãn một cách dễ chịu với cái nhìn thường nghiệm về thế giới, và quá lười biếng để làm phiền mình bằng cách nhìn vượt ra ngoài nó; một người duy vật xác tín, sau khi biện minh duy lý cho chủ nghĩa duy vật của mình, cho rằng chỉ là khôn ngoan khi sống một “đời mềm” đầy tiện nghi và thoả mãn dễ dàng; một người trở nên quá ý thức về tính vô hạn của tri thức, và quá đầy ứ cảm thức về những hạn chế cá nhân của mình, đến nỗi dễ rơi vào tự thương hại và mặc cảm tự ti (5A + 2B); một người do dự không trình bày sự kiện như y biết, vì y muốn vẫn được ưa thích và yêu mến (5 + 2A); một người, sau khi tự đảm bảo tính bất biến của chân xác trong tri thức thực chứng của mình, tự mãn nuông chiều những ai đủ dại dột để chất vấn y (5 + 2B); một người có tính cách thư thái, khiêm nhu hoàn toàn che giấu cam kết trí tuệ của y đối với việc phát triển các công nghệ đe doạ phúc lợi của con người (5B + 2); nói chung, một người có khuynh hướng dùng cái trí rất hữu hiệu của mình cho những mục đích phá hoại, nhưng vẫn thoát khỏi bị trách cứ vì bề ngoài y có vẻ vô hại; v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray five soul and the ray two personality is the struggle between the spiritual need to discover and apply true knowledge at all costs, and the personal desire to do nothing and to know nothing that would disrupt cherished relationships and comfortable circumstances. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần khiết xung đột với lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung hai là cuộc giằng co giữa nhu cầu tinh thần phải khám phá và áp dụng chân tri thức bằng mọi giá, và ham muốn cá nhân là không làm gì và không biết gì có thể phá vỡ những mối quan hệ được nâng niu và hoàn cảnh tiện nghi. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the fifth ray soul: It will be the task of the fifth ray soul to infuse the second ray personality with the urge to know, no matter how much the “truth” may hurt. The consciousness identified with the fifth ray soul is forever asking questions, searching, inquiring, investigating, seeking to discover the true nature of matter and form. | 3. Quá trình tích hợp linh hồn/phàm ngã nhìn từ quan điểm tâm thức chủ yếu đồng hoá với linh hồn cung năm: Nhiệm vụ của linh hồn cung năm sẽ là thấm nhuần cho phàm ngã cung hai xung lực nhận biết, bất kể “sự thật” có gây đau đớn đến đâu. Tâm thức đồng hoá với linh hồn cung năm không ngừng đặt câu hỏi, tìm kiếm, truy vấn, khảo sát, nhằm khám phá bản chất chân thực của vật chất và hình tướng. |
Faced with a personality which is often disinclined to use the mind in a strictly rational manner (being, in general, far more interested in feelings and sentient sensitivities), the soul must find a way to awaken it to a genuine and purely mental “interest in things,” beyond the kind of interest which such a personality naturally has in those things (and people) to which it is closely attached. Such attachment inhibits pure knowledge, for the personality does not really understand (nor does it wish to understand), with any kind of objectivity, the various objects of its attachment—whether people, places or things. Objective understanding might, so the personality thinks, disturb the quality of its relationships, and it is right—only it little suspects that the disturbance will be for the better, and will be a disturbance of sentiment but not of real quality. | Đối diện với một phàm ngã thường không muốn sử dụng thể trí theo cách nghiêm ngặt duy lý (vì nói chung, phàm ngã ấy quan tâm nhiều hơn đến cảm xúc và các nhạy cảm cảm thụ), linh hồn phải tìm cách đánh thức nó tới một “mối quan tâm đến sự vật” thuần túy trí năng và chân chính, vượt lên loại mối quan tâm mà một phàm ngã như vậy vốn dĩ có với những sự vật (và con người) mà nó gắn bó mật thiết. Sự gắn bó như thế cản trở tri thức thuần khiết, vì phàm ngã thật sự không hiểu (cũng không muốn hiểu), với bất kỳ mức độ khách quan nào, các đối tượng của sự gắn bó của nó—dù là người, nơi chốn hay sự vật. Sự hiểu biết khách quan, theo phàm ngã nghĩ, có thể làm xáo trộn chất lượng các mối quan hệ của nó, và điều đó đúng—chỉ có điều nó ít ngờ rằng sự xáo trộn ấy sẽ theo chiều hướng tốt hơn, và sẽ là sự xáo trộn của tình cảm chứ không phải của phẩm chất thật sự. |
The soul is frustrated that the personality will not truly observe, but tends to overestimate whatever it loves, and, especially, the people it loves. The second ray personality draws “too close” for the exercise of truly objective understanding. The soul, therefore, seeks to have the personality “stand back,” and look on with unbiased disinterest, no matter what the heart and feelings may say to the contrary. Only in this way will the truth be revealed (in all its purity and lucidity), and well-meaning (or, self-comforting) distortions of the truth be relinquished. | Linh hồn nản lòng vì phàm ngã không chịu thực sự quan sát, mà có khuynh hướng đánh giá quá cao bất cứ cái gì nó yêu, đặc biệt là những người nó yêu. Phàm ngã cung hai kéo “quá gần” nên không thể thực thi sự thấu hiểu khách quan đích thực. Vì vậy, linh hồn tìm cách khiến phàm ngã “lùi lại,” và quan sát với sự vô tư không thiên vị, bất kể con tim và cảm xúc có nói gì trái ngược. Chỉ bằng cách này chân lý mới được hiển lộ (trong sự tinh khiết và minh triết của nó), và những bóp méo thiện chí (hoặc tự an ủi) của chân lý mới được buông bỏ. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the second ray personality: The fifth ray pressure towards integration will be felt by the second ray personality as a growing (and very unwelcome) inclination towards cold, and even clinical, detachment. The consciousness when identified with the second ray personality feels most comfortable when it can enjoy contact, close and reassuring relations, the warmth of accumulation—whatever and whomever may be magnetically accumulated. There are some things the personality simply does not wish to question. The thought of treating the “near and dear” people and things with scientific detachment, and without familiarity, is most uncomfortable. And yet, deep within the consciousness of the second ray personality the call for truth in all things, for exact evaluation, slowly begins to arise. | 4. Quá trình tích hợp linh hồn/phàm ngã nhìn từ quan điểm tâm thức chủ yếu đồng hoá với phàm ngã cung hai: Áp lực tích hợp của cung năm sẽ được phàm ngã cung hai cảm nhận như một khuynh hướng (đang lớn dần và rất không được hoan nghênh) hướng tới sự tách rời lạnh lùng, thậm chí lâm sàng. Tâm thức khi đồng hoá với phàm ngã cung hai cảm thấy dễ chịu nhất khi nó có thể tận hưởng tiếp xúc, những liên hệ mật thiết và trấn an, sự ấm áp của tích luỹ—bất cứ cái gì và bất cứ ai có thể được tích tụ theo từ tính. Có những điều phàm ngã đơn giản là không muốn chất vấn. Ý nghĩ đối xử với những người và sự vật “thân cận và yêu dấu” bằng sự tách rời khoa học, không có tính quen thuộc, là điều rất khó chịu. Thế nhưng, sâu thẳm trong tâm thức của phàm ngã cung hai, tiếng gọi về chân lý trong mọi sự, về sự đánh giá chính xác, bắt đầu trỗi dậy từ từ. |
It is a difficult thing for an individual with this ray combination (especially at the intermediary stage of development here being discussed) to suspend the action of what is normally called the “heart” in order to allow the head to convey its mode of light and revelation. Here, as is the case with all the ray combinations, one of the individual’s early tendencies may be to compartmentalize, allowing (in this particular instance), the second ray personality, at times, to have its way entirely, and at other times, completely forgetting the inclinations of the personality and abiding entirely with those of the soul. But, in terms of the integration process, compartmentalization is counterproductive, and does not lead towards soul/personality fusion. | Đó là điều khó khăn cho một cá nhân có phối hợp cung như thế (đặc biệt ở giai đoạn trung gian đang được bàn tới đây) để đình chỉ hoạt động của cái thường được gọi là “con tim” nhằm cho phép cái đầu truyền đạt phương thức ánh sáng và mặc khải của nó. Ở đây, như với tất cả các phối hợp cung, một trong những khuynh hướng ban đầu của cá nhân có thể là phân ngăn, cho phép (trong trường hợp này), phàm ngã cung hai, vào lúc này, được hoàn toàn tuỳ ý, và vào lúc khác, hoàn toàn quên các khuynh hướng của phàm ngã mà chỉ thuận theo những khuynh hướng của linh hồn. Tuy nhiên, xét theo tiến trình tích hợp, sự phân ngăn là phản tác dụng, và không dẫn đến dung hợp linh hồn/phàm ngã. |
The personality must at length accede to the ‘unpleasant’ task of objectivity, or it will begin to have intimations that the closeness it so much cherishes is warm but unenlightened. The personality learns, at length, that it cannot tolerate a state of comfortable darkness, no matter how unflattering and disconcerting the truth may be. The glare of the harsh light of pure knowledge is better than the blindness of a comfortable mole. | Rốt cuộc, phàm ngã phải chấp thuận gánh vác nhiệm vụ ‘khó chịu’ là khách quan, nếu không nó sẽ bắt đầu linh cảm rằng sự gần gũi mà nó hằng nâng niu tuy ấm áp nhưng vô minh. Phàm ngã học được, rốt cuộc, rằng nó không thể chịu đựng tình trạng tăm tối tiện nghi, bất kể chân lý có kém dễ chịu và gây bối rối đến đâu. Ánh chói gắt của ánh sáng khắc nghiệt của tri thức thuần khiết còn hơn là sự mù loà của một con chuột chũi thoải mái. |
5. The ideal expression of the combination of the ray five soul and the ray two personality: The pursuit and application of concrete knowledge are expressed lovingly, responsibly, and with great attention to human impact. This combination is one of those in which mind and heart are united; the mind of God is scanned with focused intensity so that some new, practical understanding of natural law may be won for the edification (and the comforting) of humanity. The love of pure research grows stronger than the love of an “easygoing” life, and yet the sense that the fruits of research must ameliorate the lives of the human family is never lost. | 5. Biểu hiện lý tưởng của phối hợp linh hồn cung năm và phàm ngã cung hai: Việc truy cầu và áp dụng tri thức cụ thể được biểu lộ một cách đầy yêu thương, có trách nhiệm, và với sự chú ý lớn đến tác động lên con người. Đây là một phối hợp trong đó trí và tim được hợp nhất; trí tuệ của Thượng đế được quán sát với cường độ nhất tâm để giành được một sự thấu hiểu mới, thực tiễn về định luật tự nhiên cho sự giáo hoá (và an ủi) nhân loại. Tình yêu của nghiên cứu thuần khiết trở nên mạnh hơn tình yêu một đời “dễ dãi”, tuy nhiên cảm thức rằng thành quả nghiên cứu phải cải thiện đời sống của gia đình nhân loại không bao giờ bị đánh mất. |
Here we may find an individual who must know the truth, no matter how he may feel about it—personally, and yet the personal touch never fails to soften the glare of plain truth. One can imagine an accomplished surgeon—a master with the scalpel, but kind of heart. Ideally, there will be a perfect blend of scientific detachment and loving attachment. A kind and loving, humanitarian outlook is an excellent support for one who seeks to promote the application of specialized, technical knowledge for the advancement of the race. A “high-powered” scientific mind dwells within a gracious person. | Ở đây, chúng ta có thể gặp một người phải biết sự thật, bất kể y cảm thấy thế nào về nó—về mặt cá nhân, và tuy vậy, cái chạm cá nhân ấy không bao giờ thiếu để làm dịu ánh chói của sự thật trần trụi. Có thể hình dung một phẫu thuật gia điêu luyện—bậc thầy với dao mổ, nhưng nhân hậu trong tim. Lý tưởng là sẽ có một hoà trộn hoàn hảo giữa sự tách rời khoa học và sự gắn bó đầy yêu thương. Một viễn kiến nhân bản, tử tế và đầy tình thương là chỗ dựa tuyệt hảo cho người tìm cách xúc tiến việc áp dụng tri thức chuyên biệt, kỹ thuật nhằm thăng tiến nhân loại. Một trí tuệ khoa học “đầy công suất” cư ngụ trong một con người ôn hoà. |
Here may also be found the student of any one of the multitudinous aspects of reality—one who loves his field, approaching its study with innocence, fascination, wonderment, and infinite respect. Such an individual will realize that the mysteries of Nature (in all their mind-baffling intricacy) are mysteries created by Love. This is also the ray combination of an expert who has spent years mastering all the many particulars of his field, but has the tact and loving patience to do an admirable job of teaching what he knows. | Ở đây cũng có thể là đạo sinh của bất cứ một trong vô số phương diện của thực tại—người yêu lĩnh vực của mình, tiếp cận việc học bằng sự ngây thơ, say mê, ngạc nhiên và kính trọng vô biên. Một cá nhân như vậy sẽ nhận ra rằng các huyền nhiệm của Tự Nhiên (với sự rắc rối làm rối trí đến kinh ngạc) là những huyền nhiệm được Tình Thương tạo ra. Đây cũng là phối hợp cung của một chuyên gia đã dành nhiều năm nắm vững mọi tiểu tiết phong phú của lĩnh vực của mình, nhưng có sự khéo léo và nhẫn nại đầy yêu thương để thực hiện một công việc giảng dạy mẫu mực về những gì y biết. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Detachment, keyed to the fifth ray soul. The secondary integration formula is Centralization, keyed to the second ray personality. The first formula corrects the fifth ray tendencies towards mental attachment to matter, and the obsessive preoccupation with investigating or manipulating concrete form (while ignoring the reality of that which is “formless”), whereas the second formula corrects the second ray tendencies towards diffusion, over-expansion, and an energy-draining attachment to life’s peripheral attractions. | 6. Tác dụng kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ cấp là Sự Tách Rời, được nối phím với linh hồn cung năm. Công thức tích hợp thứ cấp là Tập Trung, được nối phím với phàm ngã cung hai. Công thức thứ nhất sửa chữa khuynh hướng của cung năm hướng tới sự gắn bó trí năng với vật chất, và mối bận tâm ám ảnh với việc khảo cứu hay thao tác hình tướng cụ thể (trong khi bỏ qua thực tại của cái “vô hình tướng”), trong khi công thức thứ hai sửa khuynh hướng của cung hai hướng tới sự tản mạn, quá-giãn nở, và sự gắn bó tiêu hao năng lượng vào các hấp lực ở ngoại vi của đời sống. |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘centralized detachment,’ (i.e., the attainment of a centered personality consciousness [loving, yet detached] which complements the will of the “inner man” to detach from what might be called ‘the mystification of matter’ [the illusion of the ultimate reality of material form]). The “inner man” is enabled to detach his spiritual-mind from a preoccupation with the modalities of matter and form; the “outer man” detaches his heart from peripheral attractions, however pleasant. | Khi dùng cùng nhau, hai công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã phẩm tính tổng hợp của “sự tách rời tập trung” (tức là việc đạt được một tâm thức phàm ngã đặt ở tâm điểm [đầy yêu thương, nhưng tách rời] bổ trợ cho ý chí của “người bên trong” nhằm tách khỏi cái có thể gọi là “sự huyền hoặc của vật chất” [ảo tưởng về tính hiện thực tối hậu của hình tướng vật chất]). “Người bên trong” được giúp tách trí-tuệ-tinh thần khỏi mối bận tâm với các mô thức của vật chất và hình tướng; “người bên ngoài” tách con tim khỏi các hấp lực ngoại vi, dù dễ chịu đến đâu. |
Thus, these formulae make it possible for the individual to cultivate a firmer, more centered, more detached personal consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness, when (pervaded by the presence of the soul) he knows, past all doubting and seeming, the indisputable reality of that great subjective Entity (the planetary God), whose “garment” of matter has long been the object of his fascination and enquiry. | Do đó, các công thức này khiến cá nhân có thể trau dồi một tâm thức phàm ngã vững chãi hơn, tập trung hơn, tách rời hơn, nâng đỡ cho những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức thăng hoa, khi (được thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn) y biết, vượt trên mọi nghi hoặc và vẻ bề ngoài, thực tại không thể chối cãi của Vị Đại Ngã chủ quan vĩ đại (Thượng đế Hành tinh), Đấng mà “tấm áo” bằng chất liệu đã từ lâu là đối tượng khiến y say mê và khảo cứu. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself engrossed in the endless questions concerning form and matter, and all-too-comfortably attached to that which he seeks to understand. He is too attached to material appearances to really understand what lies behind them, nor does he really want to. There is more than enough diversity to occupy his mind totally, and more than enough attractions to keep his personality “enthralled,” (i.e., imprisoned). He goes no further than a superficial materialistic enquiry leading to results which enhance his comfort and personal satisfaction. He is blind to the Presence. His eyes are focused too closely on the immediate foreground. He is warm, “cozy,” interested, satisfied, and as divorced from the center of his life as he is from subjective understanding. | Trong các giai đoạn đầu của tiến hoá, trước khi áp dụng thành công các công thức này, người có phối hợp cung như thế thường thấy mình đắm chìm trong những câu hỏi bất tận về hình tướng và vật chất, và quá-dễ-dàng gắn bó với cái mà y đang tìm hiểu. Y quá gắn bó với các dáng vẻ vật chất để thật sự hiểu cái nằm phía sau chúng, và y cũng không thật sự muốn hiểu. Có hơn đủ tính đa tạp để chiếm trọn thể trí của y, và hơn đủ hấp lực để khiến phàm ngã của y “bị mê hoặc” (tức là, bị giam cầm). Y không đi xa hơn một khảo cứu duy vật hời hợt dẫn đến các kết quả làm tăng tiện nghi và sự thoả mãn cá nhân. Y mù trước Hiện Diện. Mắt y tập trung quá gần vào tiền cảnh trước mắt. Y ấm áp, “ấm cúng”, quan tâm, thoả mãn, và xa lìa trung tâm đời sống của mình cũng như xa lìa sự thấu hiểu chủ quan. |
The intelligent use of the two formulae, however, transmutes the abuses of the past. He seeks intangible reality, and releases the grip with which both his mind and heart have fastened upon the fragments and nonessentials of life. He learns, primarily, to recognize the One Identity behind all material forms, and his growing secondary ability to stand detached from all lesser loves, introduces him to that central Place where divine Love is wedded to divine Knowledge. It is a domain of his consciousness which might be called ‘the Temple of Intelligent-Love,’ and there, his fifth ray soul holds sway. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông tuệ hai công thức đó chuyển hoá những lạm dụng của quá khứ. Y tìm kiếm thực tại vô hình tướng, và nới lỏng cái kẹp mà cả thể trí lẫn con tim y đã ghì chặt lên những mảnh vụn và điều không thiết yếu của đời sống. Trước hết, y học cách nhận ra Đồng Nhất Thể Duy Nhất đằng sau mọi hình tướng vật chất, và năng lực thứ yếu đang tăng trưởng của y để đứng tách rời khỏi mọi tình yêu nhỏ hơn đưa y đến với Nơi trung tâm nơi Tình Thương thiêng liêng kết hợp với Tri Thức thiêng liêng. Đó là một miền trong tâm thức của y có thể gọi là “Đền của Tình Thương-Trí Tuệ,” và ở đó, linh hồn cung năm của y nắm quyền. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the fifth ray soul and the second ray personality: | 7. Một vài ví dụ về năng khiếu và khuynh hướng nghề nghiệp liên quan đến phối hợp linh hồn cung năm và phàm ngã cung hai: |
• the scientist as humanitarian. | • nhà khoa học như một người nhân bản. |
• the researcher with a calm demeanor and tireless patience. | • nhà nghiên cứu có phong thái điềm đạm và lòng nhẫn nại không mệt mỏi. |
• the investigator who is frequently guided by subjective sensitivity and intuition. | • nhà điều tra thường được dẫn dắt bởi nhạy cảm chủ quan và trực giác. |
• the inquirer who always exercises tact and consideration. | • người truy vấn luôn thể hiện sự khéo léo và quan tâm. |
• the experimenter who is humane in both his objectives and procedures. | • nhà thực nghiệm nhân đạo cả trong mục tiêu lẫn quy trình. |
• the analyst who always uses his heart as well as his head. | • nhà phân tích luôn dùng cả con tim lẫn cái đầu. |
• the specialist with an inclusive awareness of other specialties. | • chuyên gia có ý thức bao gồm về các chuyên ngành khác. |
• the objective observer whose undisturbed tranquillity renders his observations even more accurate. | • nhà quan sát khách quan có sự an tĩnh không xáo động khiến quan sát càng chính xác hơn. |
• the inventor whose inventions are particularly designed to comfort, ameliorate or salvage the lives of others. | • nhà phát minh với các phát minh được thiết kế đặc biệt để an ủi, cải thiện hoặc cứu vãn đời sống của người khác. |
• the engineer who consistently seeks to understand the human impact of his work. | • kỹ sư luôn tìm cách thấu hiểu tác động nhân sinh của công việc mình. |
• the technician for whom cooperation with others comes very naturally. | • kỹ thuật viên mà hợp tác với người khác đến rất tự nhiên. |
• the mechanic who always seems to have a positive, “can do” attitude. | • thợ máy luôn có một thái độ tích cực, “làm được”. |
• the repair-person who serenely and cheerfully goes about his task. | • người sửa chữa thanh thản và hoan hỷ tiến hành công việc của mình. |
In general: vocations and professions which require keen analytical abilities, the capacity for research, and scientific and/or technical expertise, as well as a wise and loving attitude, great empathy and understanding, studiousness, and the ability to teach or compassionately heal. | Nhìn chung: các nghề nghiệp đòi hỏi năng lực phân tích sắc sảo, khả năng nghiên cứu, và chuyên môn khoa học và/hoặc kỹ thuật, cũng như thái độ khôn ngoan và đầy tình thương, lòng thấu cảm và sự thấu hiểu lớn, tính chuyên cần học hỏi, và khả năng giảng dạy hoặc chữa lành đầy từ bi. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the fifth, with a strong subsidiary second ray influence (whether or not the second ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh sách đề xuất một số nhân vật nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hoặc thần thoại) mà cung linh hồn có thể được xem là cung năm, với ảnh hưởng phụ mạnh của cung hai (bất kể cung hai có, theo nghĩa hẹp, là cung phàm ngã hay không): |
Luther Burbank: plant breeder whose successful production of many useful varieties of fruits, flowers, vegetables, grains and grasses encouraged the development of plant breeding into a modern science. | Luther Burbank: nhà lai tạo thực vật, người có việc sản xuất thành công nhiều giống trái cây, hoa, rau, ngũ cốc và cỏ hữu ích đã khích lệ sự phát triển của ngành lai tạo thực vật thành một khoa học hiện đại. |
George Washington Carver: agricultural chemist, experimenter and educator. Carver was a great benefactor of the American South and a black hero. | George Washington Carver: nhà hoá nông, nhà thực nghiệm và nhà giáo dục. Carver là đại ân nhân của miền Nam Hoa Kỳ và là anh hùng da đen. |
Charles Darwin: English naturalist who demonstrated the principle of organic evolution through natural selection. The third ray energy may have been represented as well. | Charles Darwin: nhà tự nhiên học người Anh, người đã minh chứng nguyên lý tiến hoá hữu cơ thông qua chọn lọc tự nhiên. Năng lượng cung ba cũng có thể đã hiện diện. |
Edward Jenner: physician and surgeon who discovered the process of vaccination. Jenner did more than any other person to reduce the menace of smallpox. | Edward Jenner: bác sĩ và phẫu thuật gia, người phát hiện quy trình tiêm chủng. Jenner đã làm nhiều hơn bất cứ ai khác để giảm mối đe doạ của bệnh đậu mùa. |
Jonas Salk: scientist, physician, discoverer of the vaccine for polio myelitis. | Jonas Salk: nhà khoa học, bác sĩ, người phát hiện vắc-xin bại liệt. |
Some Contrasts Between the Ray 5 Soul and the Ray 3 Personality
Ray 5 Soul | Ray 3 Personality |
1. spiritual science | 1. personal business |
2. conscientious experimentation and verification | 2. loose speculation and theorization |
3. spiritual pragmatism and common sense | 3. impractical “big ideas” |
4. directed, purposeful activity in the pursuit of truth | 4. often purposeless overactivity |
5. highly developed power to define | 5. tendency towards fluid indefiniteness |
6. highly accurate descriptive abilities | 6. inaccurate registration of sensation due to submergence in thought and activity, and, hence, inaccurate descriptions |
7. patience to determine concrete specifics | 7. dealing in “glittering generalities” |
8. great emphasis upon the importance of factual detail | 8. irresponsible and even “slippery” ignoring of pertinent detail |
9. enunciation of exact truth | 9. ‘creative’ disregard for exact truth and accuracy |
10. dedication to pure research | 10. absorption in commercialism |
11. the spiritual wonderment arising from pure and “innocent” observation | 11. jaded cynicism: the attitude of, “I’ve seen it all.” |
12. laser-like focus on soul-inspired investigations; deep concentration upon the One | 12. scattering of personal energies; preoccupation with the Many |
13. serious, economical, purposeful use of words | 13. over-verbalization |
14. excellent methodical procedures | 14. unmethodical, often-random approaches |
15. revelation arising from convergent thinking | 15. obscurity arising from undisciplined, divergent thinking |
16. keen observational ability and undeflectable presence of mind | 16. vagueness, distraction and absent-mindedness |
17. uprightness and personal rectitude | 17. amoral expediency |
18. highly practical use of the mind | 18. empty intellectualism |
Linh hồn cung năm | Phàm ngã cung ba |
1. Khoa học tinh thần | 1. Việc kinh doanh cá nhân |
2. Thí nghiệm và kiểm chứng một cách tận tâm | 2. Suy đoán và lý thuyết lỏng lẻo |
3. Chủ nghĩa thực dụng tinh thần và lương tri thông thường | 3. Những “ý tưởng lớn” phi thực tế |
4. Hoạt động có định hướng và có mục đích trong việc truy cầu chân lý | 4. Thường hoạt động quá mức mà không có mục tiêu |
5. Năng lực xác định rõ ràng được phát triển cao | 5. Khuynh hướng mơ hồ, trôi nổi, thiếu tính xác định |
6. Khả năng mô tả cực kỳ chính xác | 6. Ghi nhận cảm giác không chính xác do bị chìm đắm trong tư tưởng và hoạt động, dẫn đến mô tả sai lệch |
7. Kiên nhẫn trong việc xác định các yếu tố cụ thể | 7. Chỉ xử lý những “khái quát hào nhoáng” |
8. Đặt trọng tâm lớn vào tầm quan trọng của chi tiết thực tế | 8. Bỏ qua vô trách nhiệm, thậm chí “trơn trượt”, những chi tiết có liên quan |
9. Trình bày chân lý chính xác | 9. Cố tình “sáng tạo” mà bỏ qua sự thật và độ chính xác |
10. Tận hiến cho nghiên cứu thuần khiết | 10. Đắm chìm trong chủ nghĩa thương mại |
11. Sự ngạc nhiên tinh thần phát sinh từ quan sát thuần khiết và “ngây thơ” | 11. Sự hoài nghi chán chường: thái độ “tôi đã thấy tất cả rồi” |
12. Tập trung như tia laser vào những khảo cứu được linh hồn soi dẫn; tập trung sâu vào Đấng Duy Nhất | 12. Phân tán năng lượng cá nhân; bị cuốn vào trong cái Nhiều |
13. Sử dụng lời nói một cách nghiêm túc, tiết kiệm và có mục đích | 13. Nói quá nhiều, thừa lời |
14. Quy trình làm việc có phương pháp xuất sắc | 14. Tiếp cận không có phương pháp, thường ngẫu nhiên |
15. Sự mặc khải phát sinh từ tư duy hội tụ | 15. Sự mơ hồ phát sinh từ tư duy phân tán, thiếu kỷ luật |
16. Khả năng quan sát nhạy bén và tâm trí hiện diện vững vàng, không bị xao động | 16. Mơ hồ, sao lãng và hay đãng trí |
17. Chính trực và ngay thẳng cá nhân | 17. Tính vụ lợi vô đạo đức |
18. Sử dụng trí tuệ một cách thực tiễn cao | 18. Trí thức rỗng tuếch, thiếu thực chất |
The Integration Process for the Individual with a Ray 5 Soul and a Ray 3 Personality | Quá Trình Tích Hợp cho Cá Nhân có Linh hồn Cung 5 và Phàm ngã Cung 3 |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of fifth ray soul energy, and the self-centered use of third ray personality force is to achieve narrow, materialistic, intellectual certainty, as well as cleverly intelligent, self-serving mastery of circumstances and the environment. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần; năng lượng linh hồn bị một phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền-tinh thần của khai mở tiến hoá, động cơ của cá nhân (dựa trên sự bóp méo của năng lượng linh hồn cung năm bởi phàm ngã, và việc sử dụng vị kỷ lực phàm ngã cung ba) là đạt được sự chắc chắn trí-thức hẹp hòi, duy vật, cũng như sự tinh khôn lanh lợi, tự phục vụ, khống chế hoàn cảnh và môi trường. |
The person wants, primarily, to take everything apart (either analytically or actually), reduce all life experiences to nothing but rationalistic formulae, control matter mechanically for selfish ends, and reject any kind of knowledge that is not materialistic or derived from the five senses, but he also wants to demonstrate his ‘superior’ intelligence at every opportunity, manipulate money and other people for his own material and intellectual satisfaction, keep incessantly busy in the pursuit of his own self-centered interests, and evade responsibilities through selfish, strategic planning. | Người đó chủ yếu muốn tháo rời mọi thứ (hoặc theo lối phân tích, hoặc trên thực tế), quy tất cả kinh nghiệm sống về những công thức duy lý, kiểm soát vật chất một cách cơ giới cho mục đích ích kỷ, và bác bỏ mọi dạng tri thức không duy vật hoặc không xuất phát từ năm giác quan; nhưng y cũng muốn phô diễn trí thông minh “vượt trội” của mình ở mọi cơ hội, thao túng tiền bạc và người khác cho sự thoả mãn vật chất và trí năng của riêng y, không ngừng bận rộn theo đuổi các lợi ích vị kỷ, và né tránh trách nhiệm bằng hoạch định chiến lược ích kỷ. |
Negatively and glamorously these two ray influences can combine to produce: the ultimate skeptic and critic; one whose approach to people and life situations is entirely mental, lacking all heart and feeling; an irreverent person who is disdainful of all thinking rooted in subtle sensitivity, intuition or other transcendent impulses (5 + 3B); one whose orientation is so analytical, that he becomes lost in distinctions, and is unable to put things back together (5A + 3); one who knows a tremendous amount and thinks incessantly about what he knows, but is too lacking in will and practicality to use or apply it (5A + 3A); one who is not only harshly critical of the ‘inadequate’ thinking of others, but is swelled with mental pride (5A + 3A); one whose motive for research is purely mercenary (5 + 3B); one who coldly manipulates others in order to study what they will do; the dishonest scientist who manipulates the results of his experiments (5A + 3); a narrow-minded investigator who cares only for his own speciality, and will “pull any strings” to make sure that it receives preferential treatment; one who will work strenuously on destructive or morally-questionable projects purely because he finds them mentally interesting (5 + 3A); one who is so mentally detached and absorbed that he lacks any warmth or personal magnetism; an inquisitor who is devious in his methods of enquiry (5A + 3); one who is thoroughly committed to finding economical ways to have machines replace as many human beings as possible (5B + 3B); the confirmed materialist whose concrete thinking and reasoning rejects as unreal anything abstract or subtle (5B + 3B); one with such a thoroughly mechanistic and a determinist view of reality that he sees the universe as a great mechanism (5B + 3); one who is overly enamored of definition, mistaking words for the substance of experience (5A + 3A); one whose incessant intellectuality prevents the development of normal, natural relationships based on personal closeness or intimacy; etc. | Một cách tiêu cực và đầy ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: kẻ hoài nghi và phê bình tận cùng; người có cách tiếp cận con người và tình huống sống hoàn toàn bằng trí, thiếu mọi con tim và cảm xúc; kẻ bất kính, khinh miệt mọi tư duy đặt nền trên nhạy cảm tế vi, trực giác hay các xung lực siêu việt khác (5 + 3B); kẻ quá thiên về phân tích đến nỗi lạc mất trong các biệt phân và không thể ráp lại mọi thứ (5A + 3); người biết một lượng khổng lồ và nghĩ không ngừng về những gì mình biết, nhưng thiếu ý chí và tính thực tiễn để sử dụng hay áp dụng nó (5A + 3A); kẻ không chỉ phê phán gay gắt lối nghĩ ‘bất cập’ của người khác, mà còn trương phình vì kiêu mạn trí thức (5A + 3A); kẻ có động cơ nghiên cứu thuần tuý là vụ lợi (5 + 3B); kẻ lạnh lùng thao túng người khác để quan sát xem họ sẽ làm gì; nhà khoa học bất lương thao túng kết quả thí nghiệm (5A + 3); nhà điều tra thiển cận chỉ quan tâm tới chuyên môn của mình, và sẽ “giật mọi dây” để chắc chắn nó được đối xử ưu tiên; kẻ sẽ làm việc cật lực cho những dự án phá hoại hoặc đáng ngờ về mặt đạo đức chỉ vì y thấy chúng thú vị về mặt trí năng (5 + 3A); người quá tách rời và đắm chìm trong trí đến mức thiếu mọi ấm áp hay từ tính cá nhân; kẻ thẩm vấn dùng thủ đoạn quanh co trong phương thức truy vấn (5A + 3); người tận tâm với việc tìm cách kinh tế để máy móc thay thế càng nhiều con người càng tốt (5B + 3B); người duy vật xác tín mà tư duy và lý luận cụ thể bác bỏ như không có thực mọi cái gì trừu tượng hay tế vi (5B + 3B); kẻ có cái nhìn cơ giới và quyết định luận đến mức thấy vũ trụ như một đại cơ chế (5B + 3); người quá mê đắm định nghĩa, lầm chữ nghĩa với chất liệu kinh nghiệm (5A + 3A); kẻ trí óc không ngừng nghỉ đến mức cản trở sự phát triển các mối quan hệ bình thường, tự nhiên dựa trên sự gần gũi hay thân mật; v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray five soul and the ray three personality is the struggle between the spiritual need to know and verify the truth, and the personal desire to manipulate knowledge, people and circumstances for one’s own selfish benefit—almost always at the expense of the truth. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần khiết xung đột với lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung ba là cuộc giằng co giữa nhu cầu tinh thần phải biết và thẩm xác chân lý, và ham muốn cá nhân nhằm thao túng tri thức, con người và hoàn cảnh vì lợi ích ích kỷ của riêng mình—hầu như luôn với cái giá phải trả là chân lý. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the fifth ray soul: It will be the task of the fifth ray soul to gather and focus the scattered, ill-directed forces of the third ray personality. The soul seeks precise knowledge and its concrete application, whereas the personality prefers to dabble with many thoughts and many activities, a tendency often leading to confusion and ineffectuality. Consciousness, when identified with the fifth ray soul, pursues a highly focused line of enquiry which yields definite revelation. The soul, bending every mental quality to the solution of one important, specific problem at a time, seeks to prevent the personality from diffusing energy, for the personality frequently refuses to settle down to the task at hand. Thus, faced with a personality which is easily deflected from singleness of purpose, which easily takes flight into inaccurate generalization, and for which diversification easily produces futility, the soul seeks to induce prolonged concentration upon concrete issues. | 3. Quá trình tích hợp linh hồn/phàm ngã nhìn từ quan điểm tâm thức chủ yếu đồng hoá với linh hồn cung năm: Nhiệm vụ của linh hồn cung năm sẽ là gom và tập trung các lực tản mạn, sai hướng của phàm ngã cung ba. Linh hồn tìm cầu tri thức chính xác và ứng dụng cụ thể của nó, trong khi phàm ngã thích đùa giỡn với nhiều ý tưởng và nhiều hoạt động—một khuynh hướng thường dẫn tới rối loạn và vô hiệu. Tâm thức, khi đồng hoá với linh hồn cung năm, theo đuổi một tuyến truy vấn tập trung cao, đem lại mặc khải dứt khoát. Linh hồn, huy động mọi phẩm chất trí tuệ để giải quyết từng vấn đề quan trọng, cụ thể một, tìm cách ngăn phàm ngã tán phát năng lượng, vì phàm ngã thường xuyên từ chối an trụ vào nhiệm vụ trước mắt. Do vậy, đối diện một phàm ngã dễ bị chệch khỏi mục đích nhất quán, dễ bay bổng vào khái quát hoá thiếu chính xác, và vì đa dạng mà rơi vào vô hiệu, linh hồn tìm cách gây ra sự tập trung kéo dài vào các vấn đề cụ thể. |
The soul must guide the personality from the “many” to the “one”; from the indefinite to the definite; from divergency to convergency; from copious talk to concrete action. The personality scans the distant horizon for a glimpse of exciting, though remote, possibilities; the soul brings everything remote into the foreground where it can be closely examined. The “far-away look” of the third ray personality is transformed into the sharp, observant, fifth ray gaze, alert to every detail. | Linh hồn phải dẫn dắt phàm ngã đi từ “nhiều” về “một”; từ bất định đến xác định; từ phân kỳ đến hội tụ; từ lời lẽ dông dài đến hành động cụ thể. Phàm ngã quét mắt về đường chân trời xa xăm để bắt gặp những khả năng hấp dẫn nhưng xa vời; linh hồn đem mọi thứ xa xôi vào tiền cảnh, nơi có thể khảo sát kỹ lưỡng. “Ánh nhìn xa xăm” của phàm ngã cung ba được chuyển hoá thành cái nhìn sắc bén, tinh tường của cung năm, cảnh giác với từng chi tiết. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the third ray personality: The fifth ray pressure towards integration will initially be felt by the third ray personality as a loss of numerous interests and potentials. The personality feels most comfortable when it is incessantly active, in mind or body, and engaged in a wide variety of mental or physical interactions. The soul, however, has other intentions, and begins to exert a counteractive influence. Thus, every time the personality begins reaching for a new contact, or tries to extend itself into a new field of activity, it feels itself pulled back to a central focus, and forced to engage in a narrowly restricted, highly disciplined enquiry. | 4. Quá trình tích hợp linh hồn/phàm ngã nhìn từ quan điểm tâm thức chủ yếu đồng hoá với phàm ngã cung ba: Áp lực tích hợp của cung năm ban đầu sẽ được phàm ngã cung ba cảm nhận như sự mất mát của nhiều mối quan tâm và tiềm năng. Phàm ngã cảm thấy dễ chịu nhất khi nó không ngừng hoạt động, trí hay thân, và tham dự vào một loạt đa dạng các tương tác trí óc hay thể chất. Tuy nhiên, linh hồn có những chủ đích khác, và bắt đầu tác động đối kháng. Vì vậy, mỗi lần phàm ngã bắt đầu với tới một tiếp xúc mới, hoặc cố vươn mình vào một lĩnh vực hoạt động mới, nó lại cảm thấy bị kéo về một tiêu điểm trung tâm, và buộc phải dấn thân vào một cuộc truy vấn bị giới hạn chặt chẽ, kỷ luật cao. |
The third ray personality usually becomes bored if forced to focus for long upon a small range of mental data or physical activity, but it soon discovers, arising within its consciousness, a surprisingly insistent demand for certainty, for precise and definite knowledge requiring keen observation (undisrupted by commotion), and for careful experimentation rather than undisciplined speculation. The personality will, in revolt, temporarily attempt to seek refuge in variety, but gradually it capitulates to the soul-demand for a more scientific and truthful approach to living. Gradually, there dawns the realization that hyperactivity (whether mental or physical) leads away from knowledge and truth, and that things as they actually are, are far more interesting than things as one would have them be. | Phàm ngã cung ba thường cảm thấy chán nếu bị buộc phải tập trung lâu vào một dải nhỏ dữ liệu trí năng hoặc hoạt động thể chất, nhưng nó sớm khám phá, nổi lên trong tâm thức mình, một đòi hỏi bất ngờ mà khẩn thiết về sự chắc chắn, về tri thức chính xác và dứt khoát đòi hỏi sự quan sát sắc sảo (không bị náo động làm gián đoạn), và về thực nghiệm thận trọng thay vì suy đoán vô kỷ luật. Phàm ngã sẽ, trong phản kháng, tạm thời tìm nơi ẩn náu trong tính đa dạng, nhưng dần dà nó chấp thuận đòi hỏi của linh hồn về một lối tiếp cận khoa học và chân thực hơn đối với cuộc sống. Từ từ, nảy sinh nhận thức rằng tình trạng siêu hoạt (dù trí hay thân) dẫn ra khỏi tri thức và chân lý, và rằng sự vật đúng như thực tại của chúng, thú vị hơn nhiều so với sự vật như người ta muốn chúng là. |
5. The ideal expression of the ray five soul and the ray three personality: The pursuit of concrete knowledge is accompanied by an innovative understanding of a diversity of possible applications for such knowledge. “One-hundred-and-one” uses are found for the products of pure research. Here we find the researcher whose fertile and resourceful imagination devises many ways to adapt his discoveries to present conditions. In general, pure research is valued more than commercial enterprise, but business skills are effectively used to spread and implement the benefits of the research process. The love of facts is well-served by respect for the principle of economy. | 5. Biểu hiện lý tưởng của linh hồn cung năm và phàm ngã cung ba: Việc truy cầu tri thức cụ thể đi kèm một sự thấu hiểu sáng tạo về muôn vàn khả năng ứng dụng tri thức ấy. “Trăm lẻ một” công dụng được tìm thấy cho những sản phẩm của nghiên cứu thuần tuý. Ở đây, ta thấy nhà nghiên cứu với trí tưởng tượng phong phú và tài xoay xở, nghĩ ra nhiều cách thích nghi các khám phá của mình với điều kiện hiện thời. Nói chung, nghiên cứu thuần tuý được coi trọng hơn doanh nghiệp thương mại, nhưng kỹ năng kinh doanh được sử dụng hữu hiệu để lan truyền và thực thi lợi ích của tiến trình nghiên cứu. Tình yêu sự kiện được phục vụ tốt bởi sự tôn trọng nguyên tắc tiết kiệm. |
This is another combination in which the impulse to theorize and the impulse to verify are well blended, there being, in this case, a decided preference for verification. There will also be great facility for applied mathematics; figures will be easily manipulated and adapted to a diversity of contexts. This is, perhaps (with the possible exception of the ray three soul and the ray five personality) the most analytically gifted combination; the powers of discrimination are very highly developed. There is the capacity to shed much light upon specific fields of enquiry, accompanied by the ability to articulate and interpret that light in words. The individual will have great expertise in his field, but he will also have the flexibility of mind to understand how his field and many other fields are tied together through many ‘threads’ of relationship. Thus he becomes an expert with interdisciplinary understanding. While discovery is valued more highly than utility, the utilitarian attitude is never abandoned. As a matter of fact, business prowess provides the means of financing research and investigation. | Đây là một phối hợp khác trong đó xung lực lý thuyết hoá và xung lực thẩm chứng được hoà trộn tốt, với một thiên hướng rõ rệt ưa chuộng thẩm chứng. Cũng sẽ có năng lực lớn về toán ứng dụng; con số sẽ được thao tác dễ dàng và thích nghi với nhiều bối cảnh đa dạng. Đây có lẽ là (ngoại trừ khả năng linh hồn cung ba và phàm ngã cung năm) phối hợp có năng lực phân tích nhất; quyền năng phân biện được phát triển rất cao. Có khả năng rọi nhiều ánh sáng vào các lĩnh vực truy vấn cụ thể, đi kèm với khả năng diễn đạt và diễn giải ánh sáng đó bằng lời. Cá nhân sẽ có chuyên môn lớn trong lĩnh vực của mình, nhưng cũng có tính linh hoạt trí tuệ để hiểu cách lĩnh vực của y và nhiều lĩnh vực khác được gắn kết với nhau qua nhiều “sợi dây” liên hệ. Do đó y trở thành chuyên gia với sự hiểu biết liên ngành. Trong khi phát hiện được coi trọng hơn tính hữu dụng, thái độ thực dụng không bao giờ bị từ bỏ. Thực vậy, năng lực kinh doanh cung cấp phương tiện tài trợ cho nghiên cứu và khảo sát. |
Under this combination, science and industry are united. When certain “types” (or, more accurately, “subtypes”) within each ray are accented, there is ingenious technological inventiveness. The inventions will be eminently useful and will be skillfully marketed and adapted to prevailing commercial trends. There will also be a special aptitude for conducting research in (or inventing new means of) travel, locomotion and conveyance. | Dưới phối hợp này, khoa học và công nghiệp được hợp nhất. Khi các “kiểu” nhất định (hay, đúng hơn, “phân kiểu”) trong mỗi cung được nhấn mạnh, có sự phát minh công nghệ đầy sáng kiến. Những phát minh sẽ cực kỳ hữu dụng và sẽ được tiếp thị khéo léo, thích nghi với các xu hướng thương mại hiện hành. Cũng sẽ có thiên hướng đặc biệt trong việc tiến hành nghiên cứu về (hoặc phát minh phương tiện mới cho) du hành, chuyển động và chuyên chở. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Detachment, keyed to the fifth ray soul. The secondary integration formula is Stillness, keyed to the third ray personality. The first formula corrects the fifth ray tendencies towards mental attachment to matter, and the obsessive preoccupation with investigating or manipulating concrete form, while ignoring the reality of that which is “formless,” whereas the second formula corrects the third ray tendencies towards a busy scattering of attention, wasted thought, and physical overactivity (with their resultant disturbances and obscurating of consciousness). | 6. Tác dụng kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp sơ cấp là Sự Tách Rời, được nối phím với linh hồn cung năm. Công thức tích hợp thứ cấp là Tĩnh Lặng, được nối phím với phàm ngã cung ba. Công thức thứ nhất sửa chữa khuynh hướng của cung năm hướng tới sự gắn bó trí năng với vật chất, và mối bận tâm ám ảnh với việc khảo cứu hay thao tác hình tướng cụ thể, trong khi bỏ qua thực tại của cái “vô hình tướng”; trong khi công thức thứ hai sửa chữa khuynh hướng của cung ba hướng tới sự phân tán bận rộn của chú ý, suy nghĩ lãng phí, và hoạt động thân xác quá mức (với các xáo động kéo theo và sự che mờ tâm thức). |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘still detachment’ (i.e., a still and quiet disposition of the “outer man” which complements the intention of the “inner man” to achieve detachment from a mental preoccupation with matter and form). Stillness without; detachment within. For ages the evolving individual has been captivated by the illusory reality of material forms. At the stage of evolution when the integration of soul and personality become a possibility, he must release himself from this very plausible “seeming,” and understand that which matter and form both veil and reveal. In any one incarnation the individual works upon both the outer (personal) and inner or deeper (i.e., soul-inspired) layers of his psyche, availing himself of the potency of the integration formulae. | Khi dùng cùng nhau, hai công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã phẩm tính tổng hợp của “sự tách rời tĩnh lặng” (tức là, một khí chất “người bên ngoài” tĩnh và yên, bổ trợ cho ý hướng của “người bên trong” nhằm đạt sự tách rời khỏi mối bận tâm trí năng với vật chất và hình tướng). Bên ngoài là tĩnh lặng; bên trong là tách rời. Trải qua vô số thời đại, con người đang tiến hoá đã bị cuốn hút bởi thực tại hư huyễn của các hình tướng vật chất. Ở giai đoạn tiến hoá khi việc tích hợp linh hồn và phàm ngã trở thành khả hữu, y phải giải phóng mình khỏi “vẻ bề ngoài” hết sức có lý đó, và thấu hiểu cái mà vật chất và hình tướng vừa che vừa hiện. Trong một kiếp sống, cá nhân làm việc trên cả tầng ngoài (cá nhân) và tầng trong hay sâu hơn (tức là, được linh hồn truyền hứng) của tâm lý mình, tận dụng năng lực của các công thức tích hợp. |
In this case, the two formulae make it possible for him to cultivate a more quiet, collected, and purposefully active personal consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness when (pervaded by the presence of the soul), he knows, past all doubting and seeming, the indisputable reality of that great subjective Entity—the planetary God—whose “garment” of matter has long been the object of his fascination and enquiry. | Trong trường hợp này, hai công thức khiến y có thể trau dồi một tâm thức phàm ngã yên tĩnh hơn, thu góp hơn, và chủ đích hoạt động hơn, nâng đỡ cho những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức thăng hoa khi (được thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn) y biết, vượt trên mọi nghi hoặc và vẻ bề ngoài, thực tại không thể chối cãi của Vị Đại Ngã chủ quan vĩ đại—Thượng đế Hành tinh—Đấng mà “tấm áo” bằng chất liệu đã từ lâu là đối tượng khiến y say mê và khảo cứu. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself attentively engrossed by the modifications of matter—his inner light veiled in hectic material thought and activity. Restless, the victim of excessive activity of mind and body, he is utterly preoccupied with the movements and events within the veils of matter. His eyes are blinded by a fascination with multiplicity, and with the many possible interrelationships of that which he sees. His motion is too great and his vision too narrowly focused to glimpse the life behind the multiplicity of fragmentary forms. He fails to sense the origin of things, or of himself. | Trong các giai đoạn đầu của tiến hoá, trước khi áp dụng thành công các công thức này, người có phối hợp cung như thế thường thấy mình say sưa bị cuốn hút bởi những biến thiên của vật chất—ánh sáng nội tâm của y bị che phủ trong tư tưởng và hoạt động vật chất cuồng nhiệt. Bồn chồn, là nạn nhân của hoạt động quá mức của trí và thân, y hoàn toàn bị ám chiếm bởi các chuyển động và sự kiện bên trong những bức màn vật chất. Mắt y bị mù loà bởi sức hấp dẫn của tính đa tạp, và bởi vô số liên hệ khả dĩ giữa những gì y thấy. Chuyển động của y quá lớn và tầm nhìn quá hẹp để thoáng thấy sự sống sau tính đa tạp của các hình tướng rời rạc. Y không cảm được nguồn gốc của sự vật, hay của chính mình. |
The intelligent use of the two formulae, however, transmutes the abuses of the past. He concludes that period of his evolutionary journey in which he is the victim of an overactive attachment to illusory externals. Aided by concentration upon the formulae, the individual learns, primarily, to recognize the One Identity behind all form (the Unity behind all material diversity), and his growing secondary ability to quiet himself, and act only when acting serves the purposes of his ever-inquiring soul, loosens the hold which “maya” has upon him, thus ensuring the soul of an intelligent and versatile instrument with which to investigate the amazing diversity and prove it to be an emanation of the one invisible, all-containing, subjective Life. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông tuệ hai công thức đó chuyển hoá những lạm dụng của quá khứ. Y khép lại giai đoạn trong hành trình tiến hoá của mình khi y là nạn nhân của sự gắn bó quá hoạt với những cái bên ngoài hư huyễn. Được hỗ trợ bởi sự tập trung vào các công thức, cá nhân học được, trước hết, cách nhận ra Đồng Nhất Thể Duy Nhất sau mọi hình tướng (Sự Hợp Nhất ẩn sau mọi đa tạp vật chất), và năng lực thứ yếu đang tăng trưởng của y để làm mình yên tĩnh lại, và chỉ hành động khi hành động phục vụ các mục đích của linh hồn luôn truy vấn của y, nới lỏng cái nắm của “ảo lực” trên y, từ đó đảm bảo cho linh hồn có một khí cụ thông tuệ và linh hoạt để khảo cứu tính đa tạp kỳ diệu và chứng minh nó là một sự xuất lộ của Sự sống Duy Nhất chủ quan, vô hình, bao hàm tất cả. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the fifth ray soul and the second ray personality: | 7. Một vài ví dụ về năng khiếu và khuynh hướng nghề nghiệp liên quan đến phối hợp linh hồn cung năm và phàm ngã cung hai: |
• the scientist endowed with strong business aptitudes. | • nhà khoa học được phú bẩm khuynh hướng kinh doanh mạnh. |
• the researcher who is extremely versatile in the development of research strategies. | • nhà nghiên cứu cực kỳ linh hoạt trong phát triển các chiến lược nghiên cứu. |
• the investigator, willing and inclined to travel extensively in pursuit of information. | • nhà điều tra sẵn lòng và có xu hướng du hành rộng rãi để truy tìm thông tin. |
• the inquirer with an unusual ability to propose intelligent, thought-provoking questions. | • người truy vấn có năng lực bất thường trong việc nêu ra những câu hỏi thông minh, gợi suy tư. |
• the experimenter who utilizes a wide range of eclectic approaches, realizing that if one thing doesn’t work, something else will. | • nhà thực nghiệm sử dụng một dải rộng các tiếp cận chiết trung, nhận ra rằng nếu một cách không hiệu quả thì sẽ có cách khác hiệu quả. |
• the analyst with a gift for giving well-reasoned interpretations and explanations of the implications of his analyses. | • nhà phân tích có tài đưa ra những diễn giải và giải thích có lý lẽ chặt chẽ về các hàm ý của các phân tích của mình. |
• the specialist who understands how a broad network of variables relates to his specialty. | • chuyên gia hiểu được cách một mạng lưới rộng các biến số liên hệ với chuyên môn của y. |
• the objective observer with a talent for building extensive theories based upon his observations. | • nhà quan sát khách quan có tài xây dựng những lý thuyết rộng dựa trên các quan sát của mình. |
• the inventor of machines and instruments which promote travel and, in general, the ability to “move through space.” | • nhà phát minh máy móc và dụng cụ thúc đẩy du hành và, nói chung, năng lực “di chuyển trong không gian”. |
• the engineer who brings notable fertility of thought and resourcefulness to the solution of engineering problems. | • kỹ sư mang đến sự phong phú ý tưởng và tài xoay xở đáng kể cho việc giải quyết các bài toán kỹ thuật. |
• the technician who handles his instruments with a manual dexterity amounting, almost, to virtuosity. | • kỹ thuật viên thao tác dụng cụ của mình với sự khéo tay gần như bậc nghệ sĩ. |
• the mechanic who consistently knows how to get the job done in the most economical manner. | • thợ máy nhất quán biết cách hoàn thành công việc theo cách tiết kiệm nhất. |
• the repair-person who is adept at finding ingenious ways to make something work again. | • người sửa chữa khéo léo tìm ra những cách đầy sáng kiến để khiến vật lại hoạt động. |
In general: vocations and professions which require keen analytical abilities, the capacity for research, and scientific and/or technical expertise, as well as acute intelligence (whether active or abstract), great adaptability and resourcefulness, abundant creative and communicative abilities, and (frequently) strong business aptitudes. | Nhìn chung: các nghề nghiệp đòi hỏi năng lực phân tích sắc sảo, khả năng nghiên cứu, và chuyên môn khoa học và/hoặc kỹ thuật, cũng như trí tuệ sắc bén (dù hoạt động hay trừu tượng), tính thích nghi và tài xoay xở lớn, năng lực sáng tạo và truyền đạt dồi dào, và (thường) khuynh hướng kinh doanh mạnh. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the fifth, with a strong subsidiary third ray (whether or not the third ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh sách đề xuất những cá nhân nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hoặc thần thoại) mà cung linh hồn của họ có thể hợp lý xét là cung năm, với một cung ba phụ trợ mạnh (bất kể cung ba, nói nghiêm nhặt, có là cung phàm ngã hay không): |
Alexander Graham Bell: inventor of the telephone. | Alexander Graham Bell: nhà phát minh điện thoại. |
Guglielmo Marconi: a distinguished Italian physicist who was the inventor of a successful system of radio telegraphy and exploited the commercial possibilities of wireless communication to an unlimited number of receivers at the same time. | Guglielmo Marconi: một nhà vật lý Ý lỗi lạc, là người phát minh ra một hệ thống điện tín vô tuyến thành công và đã khai thác các khả năng thương mại của truyền thông không dây đến số lượng không hạn định các máy thu cùng lúc. |
Some Contrasts Between the Ray 5 Soul and the Ray 4 Personality
Ray 5 Soul | Ray 4 Personality |
1. unrelenting examination of the “garment of God” to find the “Wearer” of the “garment” | 1. pursuit of knowledge is sacrificed to the preservation of personal taste and aesthetics |
2. the scientific pursuit of pure knowledge | 2. pursuit of personal expressivity |
3. unobscured lucidity of thought, and keen critical thinking | 3. volatile feelings interfere with mental clarity and critical discrimination |
4. steadfast concentration and undivided mental focus | 4. capriciousness and inconsistency; ingrained self-division and ambivalence |
5. stability and reliability growing out of a fixed mental orientation | 5. personal instability due to fluctuating emotions and moods |
6. insistence upon accuracy and precision | 6. exaggeration for dramatic effect; conspicuous disregard for accuracy |
7. innate common sense | 7. abandonment of common sense in favor of play, fantasy and frequent foolishness |
8. ultra-realism and factuality; ‘nonfictionalism’ | 8. rejection of pure ‘factuality’; overemphasis upon ‘fictional’ thought and imaginative (i.e., unrealistic) living |
9. uncompromising rationality and logic as methods of enhancing spirituality | 9. frequent recourse to irrationality (creative or otherwise) as a method for alleviating personal tensions |
10. keen ability to analyze the quantitative basis of reality | 10. repudiation of analysis and quantification as dull and uninteresting |
11. constant recourse to “cause-and-effect” thinking | 11. a pronounced distaste for (and inability for) linear, sequential thinking based upon the tracing of causes and effects |
12. the zenith of objectivity | 12. unstable, mood-influenced subjectivism |
13. an innate ability to recognize and respect the distinct lines of demarcation and the separative boundaries necessary for intelligent spiritual living | 13. inappropriate mixing and blending; promiscuity on all levels |
14. great technical/mechanical skill and inventiveness | 14. often an aesthetic aversion to machines and the handling of “nuts-and-bolts” matters |
Linh hồn cung năm | Phàm ngã cung bốn |
1. Kiên trì khảo sát “tấm áo của Thượng đế” để tìm ra “Đấng Mặc Áo” ấy | 1. Việc theo đuổi tri thức bị hy sinh cho việc duy trì thị hiếu và thẩm mỹ cá nhân |
2. Theo đuổi tri thức thuần khiết một cách khoa học | 2. Theo đuổi khả năng tự biểu đạt cá nhân |
3. Sự sáng suốt không bị che mờ và khả năng tư duy phê phán sắc bén | 3. Cảm xúc biến động can thiệp vào sự sáng suốt trí tuệ và khả năng phân biện phê phán |
4. Tập trung kiên định và chuyên nhất của thể trí | 4. Tính thất thường và thiếu nhất quán; sự chia rẽ nội tâm và lưỡng lự bẩm sinh |
5. Tính ổn định và đáng tin cậy bắt nguồn từ định hướng thể trí kiên cố | 5. Bất ổn cá nhân do cảm xúc và tâm trạng dao động |
6. Khăng khăng đòi hỏi sự chính xác và tỉ mỉ | 6. Phóng đại để tạo hiệu ứng kịch tính; coi thường rõ rệt tính chính xác |
7. Lương tri tự nhiên | 7. Từ bỏ lương tri để theo đuổi trò chơi, tưởng tượng và những điều nông nổi |
8. Tính hiện thực cực độ và chú trọng sự kiện; “phi hư cấu” | 8. Bác bỏ tính “phi hư cấu” thuần túy; quá nhấn mạnh tư duy “hư cấu” và lối sống tưởng tượng (tức là phi thực tế) |
9. Lý trí và logic không thoả hiệp như những phương tiện để nâng cao đời sống tinh thần | 9. Thường xuyên dựa vào sự phi lý (dù sáng tạo hay không) như một cách để giảm căng thẳng cá nhân |
10. Khả năng sắc bén trong việc phân tích nền tảng định lượng của thực tại | 10. Bác bỏ sự phân tích và định lượng vì cho là buồn tẻ và không hấp dẫn |
11. Luôn vận dụng tư duy “nhân-quả” | 11. Ác cảm rõ rệt (và bất lực) với lối tư duy tuyến tính, tuần tự dựa trên việc truy nguyên nguyên nhân và kết quả |
12. Đỉnh cao của tính khách quan | 12. Tính chủ quan bất ổn, bị ảnh hưởng bởi tâm trạng |
13. Khả năng bẩm sinh trong việc nhận biết và tôn trọng các đường ranh giới phân định rõ ràng – điều cần thiết cho đời sống tinh thần có trí tuệ | 13. Trộn lẫn và pha tạp không thích hợp; buông thả trên mọi bình diện |
14. Kỹ năng kỹ thuật/cơ khí và óc sáng tạo phát minh cao | 14. Thường có sự ác cảm về thẩm mỹ đối với máy móc và việc xử lý các vấn đề “ốc vít” thực tế |
The Integration Process for the Individual with a Ray 5 Soul and a Ray 4 Personality | Quy trình Tích hợp cho Cá nhân có Linh hồn Cung năm và Phàm ngã Cung bốn |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of fifth ray soul energy, and the self-centered use of fourth ray personality force) are to achieve narrow, materialistic, intellectual certainty, as well as an agreeable feeling of personal peace and harmony through the tension-releasing expression of conflicting bio-psychic impulses. | 1. Giai đoạn tiền tinh thần; năng lượng linh hồn bị phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, động cơ của cá nhân (dựa trên sự méo mó của năng lượng linh hồn cung năm bởi phàm ngã, và việc sử dụng vị kỷ lực phàm ngã cung bốn) là đạt được sự chắc chắn trí tuệ hẹp hòi, duy vật, cũng như một cảm giác dễ chịu về bình an và hòa điệu cá nhân thông qua sự biểu lộ giải toả căng thẳng của các xung lực sinh–tâm lý xung đột. |
The person wants, primarily, to take everything apart (either analytically or actually), reduce all life experience to nothing but rationalistic formulae, control matter mechanically for selfish ends, and reject any kind of knowledge that is not materialistic or derived from the five physical senses, but he also wants to be consistently surrounded by what he considers beautiful or attractive, to be spontaneously self-expressive without discipline or control, self-indulgently dramatic or moody (as he pleases), and greatly appreciated for his colorful, unpredictable temperament. | Người này, trước hết, muốn tháo gỡ mọi thứ (phân tích hoặc thực sự), quy mọi kinh nghiệm sống thành những công thức duy lý thuần tuý, điều khiển vật chất một cách cơ giới vì mục đích ích kỷ, và bác bỏ bất cứ loại tri thức nào không duy vật hoặc không xuất phát từ năm giác quan hồng trần; nhưng y cũng muốn luôn được vây quanh bởi những gì y cho là đẹp hoặc hấp dẫn, được tự phát tự biểu đạt không kỷ luật hay kiểm soát, tự nuông chiều theo lối kịch tính hoặc u sầu (tuỳ ý thích), và được đánh giá cao vì khí chất sặc sỡ, khó lường của mình. |
Negatively and glamorously these two ray influences can combine to produce: one who deeply wishes to give his life to science, study and research, but has insufficient personal stability to do so successfully (5A + 4B); a harshly critical thinker who is consistently getting into fights because of his combative attitude (5 + 4B); one who causes cleavages between himself and others through an overly discriminating attitude and excessive moodiness (5A + 4B); one who is torn between the urges to be both rational and irrational; one who compounds his problem of debilitating social awkwardness with a notable lack of self-confidence; one for whom decisions present a constant dilemma, because he persistently over-analyzes everything; one whose gnawing sense of life’s aridity is compounded by his inability to rid himself of interpersonal and intrapersonal dissonances (5 + 4B); one who, knowing a great deal, disguises or compromises his knowledge for the sake of personal peace and emotional comfort (5 + 4A); an individual afflicted mentally by doubt and skepticism, and emotionally by pessimism and negativity; one whose materialistic rationality justifies living a hedonistic and morally unbalanced personal life (5 + 4B); one who focuses destructive analysis and deadening rationality upon the arts, robbing them of their mysterious power to inspire (5B + 4); one who focuses so exclusively upon a narrow, restricted area of enquiry that he loses his mental and emotional balance and begins to “go to pieces”—the “mad scientist” (5 + 4B); etc. | Một cách tiêu cực và ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: người tha thiết muốn hiến dâng đời mình cho khoa học, học tập và nghiên cứu, nhưng không đủ ổn định cá nhân để làm điều đó thành công (5A + 4B); một người tư duy chỉ trích gay gắt, luôn rơi vào xung đột vì thái độ hiếu chiến (5 + 4B); người gây ra chia rẽ giữa mình và người khác do thái độ quá phân biệt và quá u sầu (5A + 4B); người bị xé đôi giữa thôi thúc vừa lý trí vừa phi lý; người làm trầm trọng vấn đề vụng về xã hội làm suy kiệt bằng sự thiếu tự tin đáng kể; người đối với kẻ đó việc quyết định luôn là thế lưỡng nan vì y kiên trì phân tích quá mức mọi thứ; người có cảm giác nhức nhối về sự khô cằn của đời sống lại bị làm trầm trọng do không thể thoát khỏi những bất hòa liên nhân và nội tâm (5 + 4B); người biết rất nhiều nhưng che giấu hoặc thỏa hiệp tri thức vì hòa bình cá nhân và dễ chịu cảm xúc (5 + 4A); cá nhân bị hành hạ về mặt trí bởi hoài nghi và hoài nghi luận, và về mặt cảm xúc bởi bi quan và tiêu cực; người mà lý tính duy vật biện minh cho việc sống một đời tư hưởng lạc và mất cân bằng đạo đức (5 + 4B); người đem phân tích phá hoại và lý tính làm tê liệt áp vào nghệ thuật, cướp đi quyền năng huyền nhiệm truyền cảm hứng của nghệ thuật (5B + 4); người tập trung độc tôn vào một phạm vi khảo cứu hẹp hòi đến nỗi đánh mất cân bằng trí tuệ và cảm xúc và bắt đầu “rã rời”—“nhà khoa học điên” (5 + 4B); v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray five soul and the ray four personality is the struggle between the spiritual need to acquire exact knowledge at all costs, and the personal desire to reduce tension and preserve harmony, even if it means compromising the search for knowledge. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần túy xung đột với lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung bốn là cuộc giằng co giữa nhu cầu tinh thần phải đạt tri thức chính xác bằng mọi giá, và ham muốn cá nhân muốn giảm căng thẳng và giữ gìn hòa điệu, dẫu phải thỏa hiệp việc truy cầu tri thức. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the ray five soul: It will be the task of the ray five soul to bring keen observation and detached, mental stability to an emotionally impressionable, fluctuating personality. The soul values factual knowledge above things, whereas the personal consciousness is invested in its own expressivity, often to the detriment of mental concentration. The soul seeks to evoke a passion for exactitude from a personality which has little use for particulars. Faced with a personality which interprets most things in terms of their “feeling-tone,” the soul seeks (temporarily, at least) to dampen the volatile reactivity of the feelings, so that pure, lucid vision may eventuate—vision uncontaminated by any mood, emotion or bias. | 3. Quy trình tích hợp linh hồn/phàm ngã dưới viễn tượng của tâm thức đồng hóa chủ yếu với linh hồn cung năm: Nhiệm vụ của linh hồn cung năm sẽ là đem quan sát sắc bén và sự ổn định trí tuệ điềm nhiên đến với một phàm ngã ấn tượng bởi cảm xúc và hay biến động. Linh hồn coi trọng tri thức sự kiện hơn sự vật, trong khi tâm thức cá nhân lại đầu tư vào tính biểu đạt của chính mình, thường phương hại đến sự tập trung trí tuệ. Linh hồn tìm cách gợi lên một đam mê về tính chính xác từ một phàm ngã ít coi trọng tiểu tiết. Đối diện với một phàm ngã diễn giải hầu hết sự vật theo “âm hưởng cảm xúc” của chúng, linh hồn tìm cách (ít nhất là tạm thời) làm dịu tính phản ứng bốc đồng của cảm xúc, để rồi cái thấy thuần khiết, minh bạch có thể phát sinh—cái thấy không bị nhiễm bởi bất kỳ tâm trạng, xúc cảm hay thiên kiến nào. |
The soul must guide the personal consciousness to seek a steadfast, centralized position, where it is unlikely to be pulled off balance. It is the soul’s intent to persevere in its focused enquiry until the light of knowledge dawns. When the individual is identified with the consciousness of the soul, he experiences frustration at the disruptive instabilities thrown up by the vacillating personality. The soul must stabilize the personality before it can possibly persist throughout the lengthy time-spans required to complete all significant research efforts. | Linh hồn phải hướng dẫn tâm thức cá nhân tìm một vị thế kiên định, tập trung, nơi ít có khả năng bị kéo lệch khỏi cân bằng. Chủ ý của linh hồn là kiên trì trong khảo cứu tập trung của mình cho đến khi ánh sáng tri thức bừng lên. Khi cá nhân đồng hóa với tâm thức của linh hồn, y trải nghiệm sự bực bội trước các bất ổn phá hoại do phàm ngã do dự tung ra. Linh hồn phải làm ổn định phàm ngã trước khi phàm ngã có thể bền bỉ qua các khoảng thời gian dài cần thiết để hoàn tất mọi nỗ lực nghiên cứu có ý nghĩa. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the fourth ray personality: The fifth ray pressure towards integration will initially be experienced by the fourth ray personality as an attack of aridity. The personality is most comfortable when it can continue to be its vibrant, responsive, spontaneous self. It changes when it feels like changing; when it can readily express contrasting moods and emotions when and as it will, the personality feels that all is well. It has no wish to become strictly “mental”; when under the impress of the fifth ray soul, it feels threatened with the neutralization of its colorful nature. The fourth ray personality dislikes the thought that its very sensitive aesthetic responsiveness no longer counts as a primary function. And yet, as the soul continues to work its intelligent will, from deep within the personal consciousness there arises a growing inclination towards unbiased observation and impartial examination—in short, towards the exact comprehension of things, whether or not they are beautiful or ugly, harmonious or dissonant. In the serious study of these things, personality preferences have to be set aside; they simply do not count. | 4. Quy trình tích hợp linh hồn/phàm ngã dưới viễn tượng của tâm thức đồng hóa chủ yếu với phàm ngã cung bốn: Áp lực tích hợp của cung năm ban đầu sẽ được phàm ngã cung bốn cảm nhận như một cơn tấn công của sự khô cằn. Phàm ngã cảm thấy thoải mái nhất khi nó tiếp tục là chính nó—sinh động, đáp ứng, tự phát. Nó thay đổi khi nó muốn thay đổi; khi nó có thể dễ dàng biểu đạt các tâm trạng và xúc cảm đối chọi lúc nào và như thế nào tuỳ ý, phàm ngã cảm thấy mọi thứ đều ổn. Nó không mong trở nên thuần “trí tuệ”; khi chịu ấn tượng của linh hồn cung năm, nó cảm thấy bị đe doạ bởi việc vô hiệu hóa bản chất sặc sỡ của mình. Phàm ngã cung bốn không thích ý nghĩ rằng tính nhạy cảm thẩm mỹ rất tinh tế của nó không còn được tính là chức năng chủ đạo. Thế nhưng, khi linh hồn tiếp tục vận dụng ý chí thông tuệ của mình, từ sâu trong tâm thức cá nhân trỗi dậy một khuynh hướng ngày càng tăng đối với quan sát vô tư và khảo sát khách quan—nói ngắn gọn, hướng đến sự thấu hiểu chính xác về sự vật, bất kể chúng đẹp hay xấu, hoà điệu hay bất hoà. Trong việc học hỏi nghiêm túc những điều này, các sở thích phàm ngã phải được gác sang một bên; chúng đơn giản là không được tính đến. |
This growing emphasis upon the intellect will, initially, cause rebellion, and the personality will, with desperate vigor, seek to re-indulge its temperamental tastes. Increasingly, however, it will be beset by the gnawing feeling that it is missing something important, that its responses and reactions are somehow obscuring the face of reality. If it does not quiet down, become serene, and see things exactly as they are, the personality will begin to feel stupid—somehow lacking in commonsense and realism. Gradually, new learnings arise, and are accepted and integrated within the personality consciousness: especially the learning that knowledge of reality is beautiful, and that factual understanding, at length, contributes to the significance of the expressivity and creativity which the personality so much values. | Sự nhấn mạnh ngày càng lớn lên trí năng này ban đầu sẽ gây phản kháng, và phàm ngã, với nghị lực tuyệt vọng, sẽ tìm cách tái nuông chiều các thị hiếu khí chất của mình. Tuy nhiên, nó ngày càng bị dày vò bởi cảm giác như đang bỏ lỡ điều gì quan trọng, rằng các đáp ứng và phản ứng của nó bằng cách nào đó đang che mờ khuôn mặt của thực tại. Nếu nó không lắng xuống, trở nên tĩnh tại, và thấy sự vật đúng như chúng là, phàm ngã sẽ bắt đầu cảm thấy mình ngu dại—bằng cách nào đó thiếu lương tri và hiện thực. Dần dần, những học hỏi mới trỗi dậy, được chấp nhận và tích hợp trong tâm thức phàm ngã: đặc biệt là học hỏi rằng tri thức về thực tại là đẹp, và rằng sự hiểu biết về sự kiện, rốt cục, góp phần vào thâm nghĩa của tính biểu đạt và sáng tạo mà phàm ngã hết mực coi trọng. |
5. The ideal combination of the fifth ray soul energy and the fourth ray personality force: The pursuit and application of concrete knowledge is accompanied by a colorful and entertaining manner. When working ideally, this is a fortunate blend of energies, each tempering the other. The presentation of knowledge will never be dry, and expressivity will never be empty and unrelated to the world of facts and common sense. Here, one might expect to find the ability to present factual, natural things with excitement and drama. | 5. Sự phối hợp lý tưởng giữa năng lượng linh hồn cung năm và lực phàm ngã cung bốn: Việc truy cầu và ứng dụng tri thức cụ thể được đồng hành bởi một phong thái sặc sỡ và hấp dẫn. Khi vận hành lý tưởng, đây là một hòa phối may mắn của các năng lượng, mỗi bên tiết chế bên kia. Sự trình bày tri thức sẽ không bao giờ khô khan, và tính biểu đạt sẽ không bao giờ rỗng tuếch, tách rời khỏi thế giới sự kiện và lẽ thường. Ở đây, có thể mong đợi khả năng trình bày những điều thực tại, tự nhiên với sự phấn khích và kịch tính. |
With this combination of rays might also be found the artist who begins to investigate his medium so thoroughly and carefully, that learning all about the technical means of expression becomes almost more important than that which is to be expressed. All the arts have their technical side, which this type of individual easily masters, providing the artistic community with invaluable technical support. One has only to think of photography to realize the importance of technical knowledge in the creation of that which has aesthetic appeal. In general, with this combination, science proves itself the master of art, and yet scientific findings are beautifully, colorfully and appealingly expressed. Here is one who can present the beauty of scientific fact, who can dramatize the story of science, picturesquely portraying the romance of the quest for knowledge. | Với sự phối hợp cung này cũng có thể thấy người nghệ sĩ bắt đầu khảo cứu phương tiện của mình thật sâu và cẩn trọng, đến mức việc học toàn bộ các phương tiện kỹ thuật biểu đạt trở nên gần như quan trọng hơn chính điều cần biểu đạt. Mọi nghệ thuật đều có mặt kỹ thuật, mà kiểu cá nhân này dễ dàng tinh thông, cung cấp cho cộng đồng nghệ sĩ sự hỗ trợ kỹ thuật vô giá. Chỉ cần nghĩ đến nhiếp ảnh là thấy tầm quan trọng của tri thức kỹ thuật trong sáng tạo ra cái có sức hấp dẫn thẩm mỹ. Nói chung, với sự kết hợp này, khoa học chứng tỏ mình là bậc thầy của nghệ thuật, và tuy vậy các phát hiện khoa học lại được diễn đạt một cách đẹp đẽ, sặc sỡ và lôi cuốn. Đây là người có thể trình bày vẻ đẹp của sự kiện khoa học, có thể kịch hoá câu chuyện khoa học, vẽ nên một cách nên thơ cuộc phiêu lưu đi tìm tri thức. |
Scientific research is also furthered by the ability to establish harmonious rapport with diverse individuals. One can imagine the reconciliation of disagreements within the scientific community being facilitated with the help of a scientifically-inclined individual equipped with a strong fourth ray. There is an unusual ability to blend analysis with synthesis, as well as fact with imagination. In the quest for knowledge, analysis may reveal numerous discrepancies and apparent contradictions, but when soul consciousness upon the fifth ray is equipped with the fourth subray of “Harmony through Conflict,” the reconciliation of discrepancies and contradictions is much facilitated. The logical procedures of the concrete mind are also complemented by fourth ray intuitive and analogical thinking. The most advanced scientific enquiry of the present is heavily dependent upon the utilization of revelatory metaphor, for the creation of which the fourth ray is ideally suited. The fifth ray, it must be remembered, is the primary energy by means of which thoughtforms are created; with the help of the imaginative fourth ray, the thoughtforms will usually be colorful and interesting. In general, this is an outstanding combination for presenting concrete knowledge in an attractive, fascinating manner. | Nghiên cứu khoa học còn được thúc đẩy bởi khả năng thiết lập hòa hợp giao cảm với các cá nhân đa dạng. Có thể hình dung việc hoà giải những bất đồng trong cộng đồng khoa học được hỗ trợ bởi một cá nhân thiên khoa học nhưng được trang bị cung bốn mạnh. Có một khả năng khác thường trong việc hoà trộn phân tích với tổng hợp, cũng như sự kiện với tưởng tượng. Trong hành trình tìm tri thức, phân tích có thể bộc lộ vô số sai khác và mâu thuẫn bề ngoài, nhưng khi tâm thức linh hồn trên cung năm được trang bị cung phụ thứ tư của “Hài hoà qua Xung đột”, thì việc hoà giải các sai khác và mâu thuẫn được dễ dàng hơn nhiều. Các quy trình lôgic của trí cụ thể cũng được bổ trợ bởi tư duy trực giác và tư duy tương đồng của cung bốn. Cuộc khảo cứu khoa học tiên tiến nhất hiện nay phụ thuộc nặng nề vào việc sử dụng ẩn dụ mặc khải, mà cung bốn rất thích hợp để sáng tạo. Cần nhớ rằng cung năm là năng lượng chủ yếu nhờ đó các hình tư tưởng được tạo ra; với sự trợ giúp của cung bốn giàu tưởng tượng, các hình tư tưởng thường sẽ sặc sỡ và thú vị. Nói chung, đây là một phối hợp xuất sắc để trình bày tri thức cụ thể theo một lối hấp dẫn, lôi cuốn. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Detachment, keyed to the fifth ray soul. The secondary integration formula is Steadfastness, keyed to the fourth ray personality. The first formula corrects the fifth ray tendencies towards mental attachment to matter, and the obsessive preoccupation with investigating or manipulating concrete form, while ignoring the reality of that which is “formless,” whereas the second formula corrects the tendencies towards vacillation, irresoluteness, instability, indecisiveness and moral cowardice characteristic of the fourth ray personality. | 6. Tác dụng kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp chủ đạo là Sự tách rời, gắn với linh hồn cung năm. Công thức tích hợp thứ yếu là Tính kiên định, gắn với phàm ngã cung bốn. Công thức thứ nhất sửa chữa khuynh hướng cung năm dễ bám chấp trí tuệ vào vật chất, và mải miết ám chấp vào việc khảo sát hay thao tác hình tướng cụ thể trong khi bỏ qua thực tại của cái “vô tướng”, trong khi công thức thứ hai sửa chữa các khuynh hướng do dự, thiếu quả quyết, bất ổn, thiếu quyết đoán và hèn nhát đạo đức, vốn đặc trưng phàm ngã cung bốn. |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘steadfast detachment’ (i.e., the development of a steadfast and stable personality attitude which complements and fortifies the determination of the “inner man” to detach from his obsession with the material aspect of reality). Upon the outer plane he stands midway between the warring forces of his nature and of the environment. And upon the inner planes he learns to detach himself from the illusion that the testimony of the senses (gross or subtle) is reality itself. | Khi dùng cùng nhau, hai công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã một phẩm chất tổng hợp là ‘kiên định trong tách rời’ (tức là phát triển một thái độ phàm ngã kiên định và ổn định, bổ sung và củng cố quyết tâm của “con người bên trong” nhằm tách rời khỏi ám chấp của y vào phương diện vật chất của thực tại). Trên bình diện ngoại giới y đứng ở nơi giữa đường giữa các lực đang giao chiến của bản tính mình và của môi trường. Và trên các cõi nội giới y học cách tách mình khỏi ảo tưởng rằng lời chứng của các giác quan (thô hay tế) chính là thực tại tự thân. |
Thus, assisted by the right use of these two formulae, the individual is enabled to cultivate a more serene, balanced and peaceful personal consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness when (pervaded by the presence of the soul), he knows past all doubt and seeming, the indisputable reality of that great subjective Entity—the planetary God—whose “garment” of matter has long been the object of his fascination and enquiry. | Nhờ vậy, được trợ giúp bởi việc sử dụng đúng đắn hai công thức này, cá nhân có thể tu dưỡng một tâm thức cá nhân tĩnh tại hơn, quân bình hơn và an hòa hơn, hỗ trợ cho những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức cao siêu khi (thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn), y biết vượt trên mọi hoài nghi và vẻ bề ngoài, cái thực tại không thể tranh cãi của Đại Hữu Thể chủ quan—Thượng đế Hành tinh—Đấng mà “chiếc áo” vật chất từ lâu đã là đối tượng say mê và khảo cứu của y. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself utterly enthralled by the innumerable modifications of matter, and captivated by the fluctuating pairs of opposites. Opposing energies turn him this way and that—he has no stability. He is minutely interested in everything that occurs upon the battlefield of life; his analysis of vicissitudes is even too complete, but his vision is still obscured. Blinded by conflict, he fails to see the One Who does not fight. Blinded by too close an examination of obvious things, he fails to see the One Who is not obvious, and who dwells behind all things. A distressed and materially-minded individual, he is still far from his spiritual center. | Trong các giai đoạn đầu của tiến hoá, trước khi áp dụng thành công các công thức này, một cá nhân với phối hợp cung này thường thấy mình hoàn toàn bị mê hoặc bởi vô vàn biến thái của vật chất, và bị cuốn hút bởi các cặp đối đãi biến động. Những năng lượng đối kháng xoay trở y hết hướng này đến hướng khác—y không có sự ổn định. Y quan tâm tỉ mỉ đến mọi điều xảy ra trên chiến trường của đời sống; sự phân tích thăng trầm của y còn quá đầy đủ, nhưng cái thấy của y vẫn bị che mờ. Bị mù lòa bởi xung đột, y không thấy Đấng không giao chiến. Bị mù lòa bởi việc khảo sát quá sát những điều hiển nhiên, y không thấy Đấng không hiển nhiên và ngự sau mọi sự. Là một cá nhân khổ não và thiên về vật chất, y còn xa trung tâm tinh thần của mình. |
The intelligent use of the two formulae, however, transmutes the abuses of the past. Aided by the potency of these formulae, he brings to a conclusion the period of personal inconstancy, and of attachment to the durable illusion of “objective reality.” The individual learns, primarily, to recognize the One Identity behind all form (the great Unity behind all material diversity), and his growing secondary ability to steadfastly reconcile the warring pairs of opposites (within his nature and within the environment) clears the personality consciousness of the smoke and din of battle, thus ensuring the ever-inquiring fifth ray soul of a sensitive, stable, balanced and intuitive personal instrument, useful in the task of scientifically unveiling the great subjective Reality which is the intangible matrix from which all material forms emanate. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông tuệ hai công thức này chuyển hoá các lạm dụng quá khứ. Được trợ lực bởi năng lực của các công thức này, y chấm dứt thời kỳ bất thường cá nhân, và bám chấp vào ảo tưởng bền bỉ của “thực tại khách quan”. Cá nhân học, trước hết, nhận ra Đồng Nhất Thể đằng sau mọi hình tướng (Đại Nhất Thể ẩn sau mọi đa tạp vật chất), và khả năng thứ yếu ngày càng lớn lên của y trong việc kiên định hoà giải các cặp đối đãi giao tranh (trong bản tính y và trong môi trường) làm quang đãng tâm thức phàm ngã khỏi khói bụi và tiếng ồn của chiến trận, nhờ đó bảo đảm cho linh hồn cung năm luôn khát khao truy vấn một vận cụ cá nhân nhạy cảm, ổn định, quân bình và trực giác, hữu ích cho nhiệm vụ vén mở khoa học Đại Thực Tại chủ quan vốn là mẫu thể vô hình từ đó mọi hình tướng vật chất xuất lộ. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the fifth ray soul and the fourth ray personality: | 7. Một số ví dụ về thiên hướng và định hướng nghề nghiệp liên quan đến sự kết hợp của linh hồn cung năm và phàm ngã cung bốn: |
• the scientist who is always alive to the beauty of scientific knowledge. | • nhà khoa học luôn sống động trước vẻ đẹp của tri thức khoa học. |
• the researcher with a gift for dramatizing the significance of his discoveries. | • nhà nghiên cứu có tài kịch hoá thâm nghĩa các phát hiện của mình. |
• the investigator whose delightful, entertaining manner lightens his labors with humor. | • nhà điều tra với phong thái duyên dáng, tiêu khiển, làm nhẹ công việc bằng hài hước. |
• the inquirer who poses questions to himself and others in a nonlinear, unpredictable, “right-brained” manner. | • người truy vấn đặt câu hỏi cho mình và người khác theo lối phi tuyến, khó lường, “thiên não phải”. |
• the experimenter whose strong improvisatory streak helps him formulate creative experimental procedures. | • nhà thí nghiệm với mạch ứng tác mạnh giúp y hình thành các quy trình thực nghiệm sáng tạo. |
• the analyst with an intuitive gift based upon a powerful imagination. | • nhà phân tích có năng khiếu trực giác dựa trên óc tưởng tượng mạnh mẽ. |
• the specialist who builds bridges of relationship between his own and other specialties. | • chuyên gia xây những nhịp cầu liên hệ giữa chuyên ngành của mình và các chuyên ngành khác. |
• the objective observer with sufficient sensitivity to feel the subjectivity of that which he is observing objectively. | • người quan sát khách quan có đủ nhạy cảm để cảm được tính chủ quan của điều mình đang quan sát một cách khách quan. |
• the inventor for whom the law of analogy is the source of some of his best ideas. | • nhà phát minh đối với người đó định luật tương đồng là nguồn của một số ý tưởng hay nhất. |
• the engineer who specializes in the building of bridges and other means of connection. | • kỹ sư chuyên về xây dựng cầu và các phương tiện nối kết khác. |
• the technician who focuses upon the technical means for enhancing the expression of beauty. | • kỹ thuật viên tập trung vào các phương tiện kỹ thuật để tăng cường biểu hiện của cái đẹp. |
• the mechanic with a real imaginative “feel” for adjusting all parts of a mechanism so they function harmoniously. | • thợ máy có “cảm” tưởng tượng thực sự để điều chỉnh mọi bộ phận của một cơ cấu sao cho vận hành hài hòa. |
• the repair-person who attempts to restore whatever he repairs to a condition of beauty (repair being for him as much an art as a technology): for instance, a specialist in auto-body restoration and painting. | • thợ sửa chữa cố gắng khôi phục bất cứ thứ gì y sửa chữa về một tình trạng đẹp đẽ (đối với y, sửa chữa vừa là nghệ thuật vừa là công nghệ): ví dụ, chuyên gia phục hồi thân vỏ và sơn ô tô. |
• the plastic surgeon. | • bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ. |
In general: vocations and professions which require keen analytical abilities, the capacity for research, and scientific and/or technical expertise, as well as a strong creative imagination, spontaneity, expressivity, aesthetic sensitivity, and a marked ability to bring harmony out of conflict, beauty out of ugliness, and at-one-ment out of divisiveness. | Nói chung: các thiên hướng và nghề nghiệp đòi hỏi năng lực phân tích sắc bén, năng lực nghiên cứu, và chuyên môn khoa học và/hoặc kỹ thuật, cũng như óc tưởng tượng sáng tạo mạnh, tính tự phát, khả năng biểu đạt, nhạy cảm thẩm mỹ, và một khả năng nổi bật đưa hoà điệu ra từ xung đột, vẻ đẹp ra từ xấu xí, và hợp nhất ra từ chia rẽ. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the fifth, with a strong subsidiary fourth ray influence (whether or not this fourth ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh sách đề xuất những cá nhân nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hoặc thần thoại) mà cung linh hồn của họ có thể hợp lý xét là cung năm, với ảnh hưởng phụ trợ cung bốn mạnh (bất kể cung bốn này, nói nghiêm nhặt, có là cung phàm ngã hay không): |
Tycho Brahe: Danish astronomer, artist and craftsman. Brahe gave the majority of his life to making accurate astronomical measurements. The accuracy of his many measurements was extraordinary considering that they were made without the benefit of the telescope. He was also a man of refined artistic and aesthetic tastes. | Tycho Brahe: nhà thiên văn học, nghệ sĩ và thợ thủ công người Đan Mạch. Brahe dành phần lớn đời mình để thực hiện các phép đo thiên văn chính xác. Độ chính xác của vô số phép đo của ông là phi thường xét đến việc chúng được thực hiện không có lợi thế của kính thiên văn. Ông cũng là người có thị hiếu nghệ thuật và thẩm mỹ tinh luyện. |
Robert Fulton: developer of the first successful steamboat, Fulton was also an accomplished artist. In addition, ray two was a significant influence. | Robert Fulton: người phát triển tàu hơi nước thành công đầu tiên, Fulton cũng là một nghệ sĩ thành đạt. Ngoài ra, cung hai cũng là một ảnh hưởng đáng kể. |
Rudolf Steiner: Rudolf Steiner was both an occult scientist and artist. It is possible that he is a fifth ray soul working under the Master Hilarion upon the development of the psychic sciences. In this case, the fourth ray would form a prominent part of the personality equipment. (See discussion under the fourth ray soul and fifth ray personality.) | Rudolf Steiner: Rudolf Steiner vừa là một nhà khoa học huyền môn vừa là nghệ sĩ. Có thể ông là một linh hồn cung năm làm việc dưới Chân sư Hilarion về phát triển các khoa học thông linh. Trong trường hợp này, cung bốn sẽ tạo thành một bộ phận nổi bật trong trang bị phàm ngã. (Xem thảo luận dưới mục linh hồn cung bốn và phàm ngã cung năm.) |
Some Contrasts Between the Ray 5 Soul and the Ray 5 Personality
Ray 5 Soul | Ray 5 Personality |
1. pursuit of spiritual science | 1. pursuit of orthodox, form-limited materialistic science |
2. scientific investigation of dimensions of nature undetectable by the five senses | 2. thought imprisoned within spheres of knowledge circumscribed by the five senses |
3. close cooperation with and validation of the great spiritual truths of religion and philosophy | 3. harsh repudiation of religion and philosophy as superstitious and unscientific |
4. unbiased, fair-mindedness | 4. mentally confined to the prejudices of the orthodox scientific community |
5. the spiritual power to unite “three minds”: the lower (concrete) mind, the “Son of mind” or soul, and the higher (abstract) mind—pure manas | 5. restriction to the sphere of influence of the concrete mind |
6. mind as an instrument of spiritual love and union | 6. mind as the “slayer of the real”—an instrument producing separation and cleavage |
7. mind as the revealer of the true nature of human identity as soul; mind, the servant of Raja Yoga | 7. mind used to obscure the true nature of human identity as soul |
8. mind leading to the Higher Self | 8. mind precipitating man into the “eighth sphere”—severed from soul |
9. detailed analysis within the context of synthesis; realization of the broader spiritual implications of scientific discoveries | 9. minute analysis within a narrow field, isolated (through ignorance) from the larger context: knowledge within a vacuum |
10. scientific inventiveness aiding the manifestation of the Divine Plan | 10. inventiveness turned to trivial or material ends |
Linh hồn cung năm | Phàm ngã cung năm |
1. Theo đuổi khoa học tinh thần | 1. Theo đuổi khoa học duy vật chính thống, bị giới hạn bởi hình tướng |
2. Nghiên cứu khoa học về các chiều kích của thiên nhiên mà năm giác quan không thể nhận biết | 2. Tư tưởng bị giam hãm trong phạm vi tri thức giới hạn bởi năm giác quan |
3. Hợp tác chặt chẽ và xác nhận các chân lý tinh thần vĩ đại của tôn giáo và triết học | 3. Phủ nhận gay gắt tôn giáo và triết học, xem đó là mê tín và phi khoa học |
4. Không thiên vị, công bằng trong tư duy | 4. Tâm trí bị giới hạn trong các thành kiến của cộng đồng khoa học chính thống |
5. Quyền năng tinh thần để hợp nhất “ba trí”: hạ trí (trí cụ thể), “Con của Trí Tuệ” hay linh hồn, và thượng trí (trí trừu tượng) — tức là manas thuần khiết | 5. Bị giới hạn trong phạm vi ảnh hưởng của hạ trí |
6. Trí tuệ như một khí cụ của tình thương tinh thần và sự hợp nhất | 6. Trí tuệ như “kẻ sát hại cái thật” — một công cụ tạo ra sự chia rẽ và phân cách |
7. Trí tuệ như là kẻ tiết lộ bản chất thật sự của nhân tính như linh hồn; trí tuệ là tôi tớ của Raja Yoga | 7. Trí tuệ được sử dụng để che mờ bản chất thật sự của nhân tính như linh hồn |
8. Trí tuệ dẫn đến Chân Ngã cao hơn | 8. Trí tuệ khiến con người rơi vào “cõi thứ tám” — bị tách lìa khỏi linh hồn |
9. Phân tích chi tiết trong bối cảnh tổng hợp; nhận ra các hàm ý tinh thần sâu xa hơn của những khám phá khoa học | 9. Phân tích tỉ mỉ trong một lĩnh vực hẹp, bị cô lập (do vô minh) khỏi bối cảnh rộng lớn hơn: tri thức trong một khoảng trống |
10. Óc sáng tạo khoa học hỗ trợ sự biểu hiện của Thiên Cơ | 10. Óc sáng tạo bị hướng đến những mục tiêu tầm thường hoặc vật chất |
Commentary—Bình Luận
Please refer to the commentary following the tabulation of contrasts between the fourth ray soul and the fourth ray personality for a complete discussion of the reasons why no commentary will be offered for any combinations of identical soul and personality rays when the ray in question is one of the rays of attribute. | Xin tham chiếu phần bình luận sau bảng đối chiếu giữa linh hồn cung bốn và phàm ngã cung bốn để có thảo luận đầy đủ về lý do vì sao sẽ không có bình luận nào được đưa ra cho bất kỳ phối hợp nào có linh hồn và phàm ngã cùng một cung khi cung được xét là một trong các cung thuộc tính. |
Some Contrasts Between the Ray 5 Soul and the Ray 6 Personality
Ray 5 Soul | Ray 6 Personality |
1. spiritual science | 1. inflexible personal belief |
2. the earnest pursuit of irrefutably accurate knowledge | 2. passionate adherence to cherished convictions, whether or not they can be substantiated |
3. the cultivation of the soul-inspired intellect as an excellent means of understanding God and His Creation | 3. innate distrust of the intellect |
4. unbiased consideration of all tenable hypotheses | 4. the refusal, because of strong biases, to consider all hypotheses fairly and openly |
5. extremely accurate appraisement of facts | 5. extreme exaggeration, proportional to the degree of devotion, or the intensity of attachment to a particular point of view |
6. luminous knowledge | 6. the obscurating of emotionality |
7. surpassing mental objectivity and detachment | 7. mental distortions induced by personal attachments |
8. unwavering mental discipline | 8. heated passions overcome rational thought |
9. profound respect for and adherence to the experimental method | 9. tenacious reliance upon faith as the only path to truth and understanding |
10. a spiritual common sense which fully understands the nature, place and rightful requirements of matter in the process of living the spiritual life upon the physical plane | 10. impractical escapism; obliviousness to the commonsense requirements of physical plane living; sacrificing a “level head” to wish-fulfillment |
11. accurate ‘this-worldly’ knowledge—on all planes; hence, presence of mind, and attunement with immediate reality | 11. flight into impractical “other-worldliness”—hence, taking refuge in ‘absence’ from immediate reality |
12. healthy, soul-inspired skepticism | 12. foolish credulity |
13. noteworthy independence of thought and action | 13. debilitating personal dependency |
Linh hồn cung năm | Phàm ngã cung sáu |
1. Khoa học tinh thần | 1. Niềm tin cá nhân cứng nhắc, không lay chuyển |
2. Theo đuổi nghiêm túc tri thức chính xác không thể bác bỏ | 2. Gắn bó mãnh liệt với các tín điều yêu thích, dù chúng có được chứng minh hay không |
3. Nuôi dưỡng trí tuệ được linh hồn soi dẫn như một phương tiện tuyệt hảo để hiểu Thượng Đế và Sáng Tạo của Ngài | 3. Bẩm sinh không tin tưởng vào trí tuệ |
4. Xem xét vô tư mọi giả thuyết hợp lý | 4. Từ chối xem xét công bằng và cởi mở mọi giả thuyết vì thành kiến mạnh mẽ |
5. Đánh giá cực kỳ chính xác các dữ kiện | 5. Phóng đại quá mức, tỷ lệ thuận với mức độ sùng tín hoặc mức độ bám chấp vào một quan điểm nhất định |
6. Tri thức sáng tỏ, rực rỡ | 6. Sự che mờ do cảm xúc |
7. Tính khách quan và tách rời trí tuệ vượt trội | 7. Các méo mó trí tuệ phát sinh từ sự gắn bó cá nhân |
8. Kỷ luật trí tuệ không dao động | 8. Cảm xúc mãnh liệt lấn át tư duy lý trí |
9. Tôn trọng sâu sắc và tuân thủ phương pháp thực nghiệm | 9. Cố chấp dựa hoàn toàn vào đức tin như con đường duy nhất dẫn đến chân lý và hiểu biết |
10. Lương tri tinh thần lành mạnh, hiểu rõ bản chất, vị trí và những nhu cầu chính đáng của vật chất trong tiến trình sống đời sống tinh thần trên cõi hồng trần | 10. Thoát ly phi thực tế; không nhận ra những đòi hỏi hợp lý của đời sống trên cõi hồng trần; hy sinh sự “sáng suốt thực tiễn” cho ảo tưởng thỏa mãn ước muốn |
11. Tri thức “thế gian” chính xác — trên mọi cõi; do đó có sự hiện diện của tâm trí và sự hòa điệu với thực tại trước mắt | 11. Trốn chạy vào trạng thái “phi thế gian” phi thực tế — do đó tìm nơi trú ẩn trong sự “vắng mặt” khỏi thực tại trước mắt |
12. Tính hoài nghi lành mạnh, được linh hồn soi dẫn | 12. Niềm tin nhẹ dạ, dễ bị lừa dối |
13. Tư tưởng và hành động độc lập đáng chú ý | 13. Sự lệ thuộc cá nhân làm suy yếu bản thân |
The Integration Process for the Individual with a Ray 5 Soul and a Ray 6 Personality | Quy trình Tích hợp cho Cá nhân có Linh hồn Cung năm và Phàm ngã Cung sáu |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of fifth ray soul energy, and the self-centered use of sixth ray personality force) are to achieve narrow, materialistic, intellectual certainty, as well as the uncompromising satisfaction of the ideals and goals to which the personality is passionately devoted. | 1. Giai đoạn tiền tinh thần; năng lượng linh hồn bị phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, động cơ của cá nhân (dựa trên sự méo mó của năng lượng linh hồn cung năm bởi phàm ngã, và việc sử dụng vị kỷ lực phàm ngã cung sáu) là đạt được sự chắc chắn trí tuệ hẹp hòi, duy vật, cũng như sự thoả mãn không khoan nhượng các lý tưởng và mục tiêu mà phàm ngã say mê tận hiến. |
The person wants, primarily, to take everything apart (either analytically or actually), reduce all life experience to nothing but rationalistic formulae, control matter mechanically for selfish ends, and reject any kind of knowledge that is not materialistic or derived from the five physical senses, but he also wants to ignore everything except the object or path of his devotion, spurn even reasonable, mundane responsibilities if they do not relate specifically to his quest, fanatically follow his ideal regardless of destructive consequences, and cling desperately to that which he believes he loves. | Người này, trước hết, muốn tháo gỡ mọi thứ (phân tích hoặc thực sự), quy mọi kinh nghiệm sống thành những công thức duy lý thuần túy, điều khiển vật chất một cách cơ giới vì mục đích ích kỷ, và bác bỏ bất cứ loại tri thức nào không duy vật hoặc không xuất phát nghiêm ngặt từ năm giác quan hồng trần; nhưng y cũng muốn bỏ qua mọi thứ ngoại trừ đối tượng hay con đường tận hiến của mình, khước từ cả những trách nhiệm trần thế hợp lý nếu chúng không liên hệ trực tiếp đến cuộc truy cầu của y, mù quáng theo đuổi lý tưởng bất chấp hậu quả phá hoại, và bám chặt tuyệt vọng vào điều y tin là y yêu. |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: the harshly critical person who inflicts criticism with fury (5 + 6B); the narrow-minded materialist who passionately refuses to deviate from his limited point of view (5 + 6B); the confirmed skeptic devoted to his skepticism; the one who, thinking he knows, and assured that his views make perfect sense, will persecute anyone who does not think as he thinks (5A + 6B); one who can easily fall victim to idée-fixe; the crystallized thinker with utterly rigid emotional attitudes; one whose interests are totally focused, severely restricted in scope, and fanatically pursued; the mentally prejudiced, emotionally biased individual; an unbalanced person, exclusively devoted to the exercise of the mind (5A + 6); one whose need to know is so intense, that he justifies any means to reach the knowledge he desires; one whose desire for knowledge (and lack of original thinking) inclines him to become passively dependent upon those who supposedly have the knowledge he requires (5 + 6A); one whose excessive discrimination leads to a separative attitude which he seeks to maintain at all costs (5A + 6); an individual whose love of analytical classification inclines him first to “pigeon-hole” others, and then to zealously defend the ‘correctness’ of his classification (5 + 6B); one who is so convinced of the value of certain theories or explanations that he becomes a tireless and tiresome proselytizer for them (5A + 6B); etc. | Một cách tiêu cực và ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: người chỉ trích gay gắt giáng phê bình như bão tố (5 + 6B); kẻ duy vật thiển cận kịch liệt từ chối lệch khỏi quan điểm hạn hẹp của mình (5 + 6B); người hoài nghi cứng cỏi tận hiến cho chủ nghĩa hoài nghi của y; kẻ tưởng rằng mình biết, và tin chắc quan điểm của mình hoàn toàn hợp lý, sẽ bức hại bất kỳ ai không nghĩ như y nghĩ (5A + 6B); người rất dễ sa nạn “ý niệm cố định”; nhà tư tưởng kết tinh với thái độ cảm xúc tuyệt đối cứng nhắc; người có mối quan tâm hoàn toàn tập trung, bị hạn chế nghiêm trọng về phạm vi, và được theo đuổi một cách cuồng tín; kẻ thiên kiến về trí, thiên vị về cảm; một người mất cân bằng, chỉ tận hiến độc tôn cho việc sử dụng thể trí (5A + 6); kẻ có nhu cầu biết mạnh đến mức biện minh mọi phương tiện để đạt điều y muốn biết; người có ham muốn tri thức (và thiếu tư duy nguyên bản) khiến y trở nên lệ thuộc thụ động vào những ai được cho là có tri thức y cần (5 + 6A); người có phân biện quá độ dẫn đến thái độ phân ly mà y tìm cách duy trì bằng mọi giá (5A + 6); cá nhân yêu thích phân loại phân tích đến mức trước hết “xếp người khác vào ngăn kéo”, rồi hăng hái bảo vệ ‘tính đúng đắn’ của phân loại đó (5 + 6B); kẻ tin quá mức vào giá trị của những học thuyết hay lời giải thích nào đó đến nỗi trở thành một người truyền bá không biết mệt (và gây mệt mỏi) cho chúng (5A + 6B); v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray five soul and the ray six personality is the struggle between the spiritual need for exact knowledge, and the personal desire for an intense devotional attachment to some person, cause or ideal, despite the fact that such attachment may inhibit or distort progress towards knowledge. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần túy xung đột với lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung sáu là cuộc giằng co giữa nhu cầu tinh thần về tri thức chính xác, và ham muốn cá nhân về một sự tận hiến mãnh liệt đối với một người, một sự nghiệp hay một lý tưởng nào đó, mặc cho việc gắn bó như thế có thể kìm hãm hay làm méo mó tiến trình hướng đến tri thức. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified with the fifth ray soul: It will be the task of the fifth ray soul, initially, to inspire the sixth ray personality with an appreciation for rationality. The soul is faced with a personality given to emotionality and, frequently, to irrationality. No matter what the ray of the soul, its demand of the personality is “more light and less heat” (for the personality is, generically, motivated by the “heat” of desire), but this is especially the case when a fifth ray soul is accompanied by a sixth ray personality. The mental and the emotional fields are two of the great “pairs of opposites,” and with this particular ray combination, these opposites are very much at odds—even more so than when the soul is upon the third ray and the personality upon the sixth, for rays three and six are closely related. | 3. Quy trình tích hợp linh hồn/phàm ngã dưới viễn tượng của tâm thức đồng hóa với linh hồn cung năm: Nhiệm vụ ban đầu của linh hồn cung năm là truyền cảm hứng cho phàm ngã cung sáu biết trân trọng tính duy lý. Linh hồn đối diện một phàm ngã thiên về cảm xúc và, thường là, phi lý. Dù linh hồn thuộc cung nào, đòi hỏi của Ngài đối với phàm ngã là “nhiều ánh sáng và ít nhiệt hơn” (vì phàm ngã, nói chung, được thúc động bởi “nhiệt” của dục vọng), nhưng điều này đặc biệt đúng khi linh hồn cung năm đi kèm phàm ngã cung sáu. Lĩnh vực trí tuệ và cảm xúc là hai trong số những “cặp đối đãi” lớn, và với phối hợp cung đặc thù này, hai đối đãi ấy rất xung khắc—còn hơn cả khi linh hồn thuộc cung ba và phàm ngã thuộc cung sáu, vì cung ba và sáu có liên hệ gần gũi. |
The soul, therefore, seeks to impose the regime of the mind upon a personality whose emotional or aspirational intensity is often extremely difficult to restrain. Patient, unbiased observation and experimentation are required, but the personality is naturally impatient, strongly biased, blind with passion, and well-assured that its conclusions need not be submitted to experimentation. The soul, therefore, is frustrated by a personality which, initially at least, rejects mental values and prefers to submerge itself in sentiency and sentimentality. For the soul, of course, belief is not enough; the soul seeks to have the personality learn the value of proof. Gradually the soul must find a way to dry the waters of feeling, and subdue and direct the fires of emotional aspiration if there is to eventuate sufficient lucidity of consciousness to lead to exact knowledge. The soul must lead the personality to the point where it can envision the pursuit and application of knowledge as an ideal end worthy of its devotion. | Vì vậy, linh hồn tìm cách đặt “chế độ” của thể trí lên một phàm ngã có cường độ cảm xúc hay khát vọng thường cực kỳ khó kiềm thúc. Cần có quan sát kiên nhẫn, vô tư và thực nghiệm, nhưng phàm ngã thì vốn sốt ruột, thiên lệch mạnh, mù quáng vì đam mê, và tin chắc rằng kết luận của mình không cần phải đem ra thực nghiệm. Do đó, linh hồn bị một phàm ngã, ít nhất là ban đầu, bác bỏ các giá trị trí tuệ và thích đắm chìm trong cảm năng và ủy mị, làm cho thất vọng. Đối với linh hồn, dĩ nhiên, niềm tin là không đủ; linh hồn tìm cách khiến phàm ngã học được giá trị của bằng chứng. Dần dần linh hồn phải tìm cách làm khô “thuỷ chất” của cảm xúc, và chế ngự, hướng dẫn các hỏa lực của khát vọng cảm xúc nếu muốn rồi đây xuất hiện đủ sự minh bạch của tâm thức để dẫn đến tri thức chính xác. Linh hồn phải dẫn phàm ngã đến điểm mà tại đó nó có thể hình dung việc truy cầu và ứng dụng tri thức như một lý tưởng xứng đáng để nó tận hiến. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the sixth ray personality: The fifth ray pressure towards integration will be felt by the sixth ray personality as a sharply critical voice demanding rational self-restraint. The personality feels most comfortable when it can simply (to use a colloquial phrase) “go for it.” Why should the personality (so it thinks) stop to question the desirability of the goals and objectives it passionately desires to achieve? Their value seems self-evident! The personality enjoys the intensity of pursuit, the uncontaminated purity of its adherence to the desirable; the questioning mind seems an unwelcome annoyance—even a threat. But as the influence of the fifth ray soul grows within the personal consciousness, the urge to question everything (and worse!—prove everything) is precisely what arises. | 4. Quy trình tích hợp linh hồn/phàm ngã dưới viễn tượng của tâm thức đồng hóa chủ yếu với phàm ngã cung sáu: Áp lực tích hợp của cung năm sẽ được phàm ngã cung sáu cảm như một giọng nói sắc bén chỉ trích, đòi hỏi sự tự kiềm chế duy lý. Phàm ngã cảm thấy thoải mái nhất khi nó có thể đơn giản (nói theo khẩu ngữ) “cứ thế mà tiến tới”. Tại sao (nó nghĩ) phàm ngã phải dừng lại để nghi vấn về sự mong muốn của những mục tiêu và đối tượng mà nó say mê muốn đạt? Giá trị của chúng có vẻ hiển nhiên! Phàm ngã thích thú cường độ của cuộc truy đuổi, sự thuần khiết không bị pha tạp của việc bám theo điều đáng ước ao; cái trí biết đặt câu hỏi dường như là một phiền toái không mong muốn—thậm chí là một mối đe doạ. Nhưng khi ảnh hưởng của linh hồn cung năm lớn dần trong tâm thức cá nhân, thôi thúc đặt câu hỏi về mọi thứ (và tệ hơn!—chứng minh mọi thứ) chính là điều trỗi dậy. |
Doubt and skepticism—those great apparent enemies of faith—begin to corrode the unquestioning devotion and idealism of the discomfited personality. Fear arises. The emotional certainty, so much prized by a personality for which belief was formerly all sufficient, is now under siege by the inquiring mind. The personality is both irritated and frightened by these constant internal calls for analysis, close examination and verification; it wants to feel; it does not want to look, nor does it wish to stop to think about what makes sense. What is truth, after all? To the personality, it is a matter of faith and conviction; to the soul, only that qualifies as truth which has been rigorously confirmed by the scientific method—or, at least by common sense. | Hoài nghi và ngờ vực—những kẻ thù có vẻ lớn lao của đức tin—bắt đầu bào mòn sự tận hiến và lý tưởng không chút nghi vấn của phàm ngã bị bất an. Nỗi sợ nổi lên. Sự chắc chắn cảm xúc—điều phàm ngã xem như trước đây đã quá đủ—nay bị công phá bởi thể trí truy vấn. Phàm ngã vừa bực bội vừa khiếp hãi trước những lời gọi nội tâm thường xuyên đòi hỏi phân tích, khảo sát kỹ lưỡng và xác minh; nó muốn cảm; nó không muốn nhìn, cũng không muốn dừng lại để nghĩ xem điều gì hợp lý. Rốt cuộc, sự thật là gì? Với phàm ngã, đó là vấn đề của đức tin và xác tín; với linh hồn, chỉ điều gì được xác nhận nghiêm ngặt bởi phương pháp khoa học—hoặc ít nhất bởi lẽ thường—mới được coi là sự thật. |
Under this relentless pressure to know, to “find out,” the personality will, most likely, rebel, experience a belligerent ‘revival’ of its faith, and self-righteously shut the door on all further enquiry, but, increasingly, it will find itself wondering about the true nature of that o which it so tenaciously clings. Perforce, the personality must begin to open its eyes; the erosion of its blind faith has already begun, and if faith is to be reacquired, it will have to be a faith based upon sound knowledge—soul knowledge. The personality eventually learns that it is gratifyingly possible to become just as intensely devoted to the pursuit of the ideal of scientific knowledge, as it was to lesser objects of devotion unrelated to mental values. | Dưới áp lực không khoan nhượng phải biết, phải “tìm ra”, phàm ngã rất có thể phản kháng, trải nghiệm một “phục hưng” hiếu chiến của đức tin, và tự cho mình đúng mà khép chặt cánh cửa trước mọi cuộc truy vấn tiếp theo, nhưng rồi, ngày càng nhiều, nó sẽ thấy mình băn khoăn về bản chất chân thực của điều mà nó bám chặt đến thế. Bất đắc dĩ, phàm ngã phải bắt đầu mở mắt; sự xói mòn đức tin mù quáng của nó đã khởi sự, và nếu đức tin được tái lập, đó phải là một đức tin dựa trên tri thức vững chắc—tri thức linh hồn. Cuối cùng, phàm ngã học được rằng hoàn toàn có thể cảm thấy thoả mãn khi tận hiến nồng nhiệt cho lý tưởng tri thức khoa học, như trước đây nó từng tận hiến cho những đối tượng kém hơn không liên quan đến các giá trị trí tuệ. |
5. The ideal expression of the combination of the fifth ray soul and the sixth ray personality: The pursuit and application of concrete knowledge are fueled by ardent, one-pointed devotion. This is the ray combination of an individual who believes in science, and in the indisputable value of exact knowledge. Science and concrete knowledge are so loved, that they are pursued to the exclusion of all else. Narrow lines of technical enquiry, which to most people would be dry or tedious, are investigated with unabating enthusiasm. The chances for successful investigation are greatly increased by a capacity for iron discipline. The need to know precisely, masters the need to believe, and yet passionate belief hastens the acquisition of knowledge. | 5. Biểu hiện lý tưởng của sự phối hợp giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung sáu: Việc truy cầu và ứng dụng tri thức cụ thể được tiếp nhiên liệu bởi lòng tận hiến nồng nhiệt, nhất tâm. Đây là phối hợp cung của một cá nhân tin vào khoa học, và tin vào giá trị không thể tranh cãi của tri thức chính xác. Khoa học và tri thức cụ thể được yêu đến mức chúng được theo đuổi loại trừ mọi điều khác. Những dòng truy vấn kỹ thuật hẹp hòi, đối với đa số thường khô khan hoặc tẻ nhạt, lại được khảo cứu với nhiệt tình không suy giảm. Cơ may thành công của điều tra tăng lên rất nhiều nhờ năng lực kỷ luật sắt. Nhu cầu biết chính xác chế ngự nhu cầu tin, và tuy vậy niềm tin nóng bỏng lại làm nhanh tiến trình tiếp thu tri thức. |
There is an unusual capacity to understand that science and religion are both saying the same thing. The individual realizes that research into unseen dimensions, can, in fact, be conducted just as effectively, as research into the realms of sensory knowledge. While realism masters blind faith and idealism, this individual’s ideal becomes the discovery of the real, and faith (being the “evidence of things not seen”) leads the probing consciousness ever closer to the unveiling of hidden reality. In this case, faith functions as an aspect of the intuition, which adds its revelatory power to the use of the scientific method. In this combination we find the ability to unite science and religion, with the scientific approach always predominating. Here, too, is an individual who will sacrifice all to achieve discovery. Once discovery has been achieved, the power of the sixth ray will help such an individual awaken others to its value, and motivate them to find a means of application. Ideally, this combination produces one who has abiding faith in the value of scientific knowledge, and who will promote and defend its worth tirelessly, and without thought of himself. The capacity to arouse and enthuse others in the cause of science, and in the technical mastery of energies and forces, is pronounced. Here we may find the martyr in the cause of scientific revelation. Science has become his god, because science, rightly understood, leads to God. | Có một năng lực khác thường để hiểu rằng khoa học và tôn giáo đều đang nói cùng một điều. Cá nhân này nhận ra rằng nghiên cứu các chiều kích vô hình, thực ra, có thể được tiến hành hiệu quả như nghiên cứu các cõi tri thức giác quan. Trong khi chủ nghĩa hiện thực chế ngự đức tin và lý tưởng mù quáng, lý tưởng của cá nhân này trở thành sự khám phá cái thực, và đức tin (vốn là “bằng cớ của những điều chẳng thấy”) dẫn dắt tâm thức dò tìm đến gần hơn với việc vén mở thực tại ẩn tàng. Trong phối hợp này, chúng ta thấy khả năng hợp nhất khoa học và tôn giáo, với phương pháp khoa học luôn giữ vai trò chủ đạo. Ở đây nữa, là một cá nhân sẽ hy sinh tất cả để đạt khám phá. Khi khám phá đạt được, quyền năng của cung sáu sẽ giúp cá nhân như vậy đánh thức người khác trước giá trị của nó, và thúc đẩy họ tìm cách ứng dụng. Lý tưởng, sự phối hợp này tạo ra một người có đức tin bền vững vào giá trị của tri thức khoa học, và sẽ cổ vũ, bênh vực giá trị ấy một cách không mệt mỏi, không nghĩ đến bản thân. Năng lực khơi dậy và truyền hứng cho người khác dấn thân vào sự nghiệp khoa học, và vào việc tinh thông kỹ thuật các năng lượng và lực, là nổi bật. Ở đây, chúng ta có thể tìm thấy một vị tử đạo cho sự nghiệp mặc khải khoa học. Khoa học đã trở thành vị thần của y, vì khoa học, nếu hiểu đúng, dẫn tới Thượng đế. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Detachment, keyed to the fifth ray soul. The secondary integration formula is proposed as Restraint, keyed to the sixth ray personality. The first formula corrects the fifth ray tendencies towards mental attachment to matter, and an obsessive preoccupation with investigating or manipulating concrete form, while ignoring the reality of that which is “formless,” whereas the second formula corrects the unrestrained, passionate pursuit of the ‘partial’ and ‘peripheral,’ so common to the emotionally undisciplined sixth ray personality. | 6. Tác dụng kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp chủ đạo là Sự tách rời, gắn với linh hồn cung năm. Công thức tích hợp thứ yếu được đề xuất là Sự kiềm chế, gắn với phàm ngã cung sáu. Công thức thứ nhất sửa chữa khuynh hướng cung năm dễ bám chấp trí tuệ vào vật chất, và ám chấp vào việc khảo sát hay thao tác hình tướng cụ thể trong khi bỏ qua thực tại của cái “vô tướng”, trong khi công thức thứ hai sửa chữa sự theo đuổi vô độ, say đắm các điều ‘bộ phận’ và ‘ngoại biên’, vốn thường thấy ở phàm ngã cung sáu thiếu kỷ luật cảm xúc. |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘restrained detachment’ (i.e., the restraint of the “outer man” [the personality] which complements the inner man’s intent to detach his consciousness from a preoccupation and false identification with the many forms of matter). The formulae enable the individual to restrain the outgoing rush of desire within his personal consciousness while he (within the depths of his consciousness—that ‘place’ where he ‘becomes’ the “inner man”—the true disciple) learns to detach himself from the illusion that the testimony of the senses (gross or subtle) is reality itself. | Khi dùng cùng nhau, hai công thức này cung cấp cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã một phẩm chất tổng hợp là ‘tách rời trong kiềm chế’ (tức là sự kiềm chế của “con người bên ngoài” [phàm ngã] bổ sung cho ý định của con người bên trong muốn tách tâm thức mình khỏi sự bận tâm và đồng hóa sai lạc với vô vàn hình tướng của vật chất). Các công thức giúp cá nhân kiềm chế dòng trào ra của dục vọng trong tâm thức cá nhân, trong khi y (trong chiều sâu tâm thức—nơi y ‘trở thành’ “con người bên trong”—vị đệ tử chân thực) học cách tách mình khỏi ảo tưởng rằng lời chứng của các giác quan (thô hay tế) chính là thực tại tự thân. |
Thus the individual cultivates a less impassioned, less intense, more controlled personal consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness when (pervaded by the presence of the soul), he knows, past all doubt and seeming, the indisputable reality of that great subjective Entity—the planetary God—whose “garment” of matter has long been the object of his fascination and enquiry. | Như thế cá nhân tu dưỡng một tâm thức cá nhân bớt say đắm, bớt cường độ, được kiểm soát hơn, hỗ trợ cho những khoảnh khắc hiếm hoi của tâm thức cao siêu khi (thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn), y biết, vượt lên mọi hoài nghi và vẻ bề ngoài, cái thực tại không thể tranh cãi của Đại Hữu Thể chủ quan—Thượng đế Hành tinh—Đấng mà “chiếc áo” vật chất từ lâu đã là đối tượng say mê và khảo cứu của y. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, an individual with this ray combination often finds himself enthralled (literally, imprisoned) by the innumerable modifications of matter, and tenaciously and devotedly adhering now to one, now to another of those modifications—all of them on the periphery of subjective reality. His very intensity leads him away from that which he most desires, and his preoccupation with multiplicity blinds him to the essential Unity which he must, one day, discover as the true object of his spiritual quest. | Trong các giai đoạn đầu của tiến hoá, trước khi áp dụng thành công các công thức này, một cá nhân với phối hợp cung này thường thấy mình bị mê trói (nghĩa đen, bị cầm tù) bởi vô vàn biến thái của vật chất, và bám riết, tận hiến lúc thì cái này, lúc thì cái khác trong các biến thái ấy—tất cả đều ở ngoại biên của thực tại chủ quan. Chính cường độ của y lại đưa y xa khỏi điều y mong mỏi nhất, và sự bận tâm với đa tạp che mờ y trước Nhất thể cốt yếu mà một ngày kia y phải khám phá như đối tượng chân thực của cuộc truy cầu tinh thần. |
The intelligent use of the two formulae, however, transmutes past abuses, and ends the period of ‘unrestrained attachment’ to the illusion of “objective reality.” The individual learns, primarily, to recognize the One Identity behind all material form (i.e., the great subjective Unity behind all material diversity), and his growing secondary ability to restrain his passionate pursuit of the worthless and nonessential (while learning the nature of real values by attending to spiritual guidance from the deeper and profoundly knowledgeable levels of his consciousness [the levels of soul]), erases the former futility of his outer life, and helps him adhere to a vision of the true Life veiled by the form. At last he sees the One, and he steadies his gaze upon it. Thus the ‘great Investigator,’ the fifth ray soul, is assured of a personal instrument which will be properly directed, controlled, focused and utterly dedicated to the task of demonstrating the reality of the invisible Oneness, which is the true quest of every spiritual scientist. | Tuy nhiên, việc sử dụng thông tuệ hai công thức này chuyển hoá các lạm dụng quá khứ, và kết thúc thời kỳ ‘gắn bó vô độ’ với ảo tưởng về “thực tại khách quan.” Cá nhân học, trước hết, nhận ra Đồng Nhất Thể đằng sau mọi hình tướng vật chất (tức là Đại Nhất Thể chủ quan đằng sau mọi đa tạp vật chất), và khả năng thứ yếu ngày càng lớn lên của y trong việc kiềm chế sự theo đuổi say đắm những điều vô giá trị và không thiết yếu (trong khi học bản chất của các giá trị đích thực bằng cách chú tâm vào chỉ dẫn tinh thần từ các tầng sâu thẳm và giàu tri thức thâm hậu trong tâm thức y [các tầng linh hồn]), xoá đi sự vô ích trước kia của đời sống ngoại giới, và giúp y bám theo một viễn tượng về Chân Sự Sống được che phủ bởi hình tướng. Cuối cùng y thấy Đấng Duy Nhất, và y giữ vững cái nhìn của mình vào Ngài. Nhờ vậy ‘Nhà Điều tra vĩ đại’, linh hồn cung năm, được bảo đảm có một vận cụ cá nhân được định hướng đúng, được kiểm soát, được tập trung và tận hiến tuyệt đối cho nhiệm vụ chứng minh tính hiện thực của Nhất thể vô hình, vốn là cuộc truy cầu chân thực của mọi nhà khoa học tinh thần. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the fifth ray soul and the sixth ray personality: | 7. Một số ví dụ về thiên hướng và định hướng nghề nghiệp liên quan đến sự kết hợp của linh hồn cung năm và phàm ngã cung sáu: |
• the scientist consistently animated by the highest idealism. | • nhà khoa học nhất quán được khơi động bởi lý tưởng cao cả nhất. |
• the “hard-headed” realist who attempts to prove the essential reality and tangibility of those apparently unreal and intangible dimensions of life which are usually approached only through faith, belief and religious practices. | • người hiện thực rắn rỏi cố gắng chứng minh tính hiện thực cốt yếu và tính hữu hình của những chiều kích dường như không thực và vô hình của đời sống, vốn thường chỉ được tiếp cận qua đức tin, niềm tin và thực hành tôn giáo. |
• the researcher who counts all as lost unless he achieves his research objectives. | • nhà nghiên cứu coi như mất hết nếu không đạt được mục tiêu nghiên cứu. |
• the investigator who never doubts that he will find what he is looking for. | • nhà điều tra không bao giờ hoài nghi rằng y sẽ tìm ra điều mình kiếm. |
• the inquirer who is ever-optimistic that his questions will be answered. | • người truy vấn luôn lạc quan rằng các câu hỏi của mình sẽ được đáp. |
• the experimenter whose persistence is proverbial. | • nhà thí nghiệm có tính kiên trì nổi tiếng như tục ngữ. |
• the analyst who zealously propagates his conclusions. | • nhà phân tích hăng hái truyền bá các kết luận của mình. |
• the specialist who “lives, eats and breathes” his specialty—exclusively. | • chuyên gia “ăn, ngủ và thở” với chuyên ngành của mình—một cách độc tôn. |
• the objective observer who gazes with focused intensity. | • người quan sát khách quan nhìn chăm chú với cường độ tập trung cao. |
• the inventor filled with faith in the value of his inventions. | • nhà phát minh tràn đầy đức tin vào giá trị các phát minh của mình. |
• the engineer intent upon assisting a specific cause or “special interest” (political, environmental, social, religious, etc.) with his expertise. | • kỹ sư chuyên tâm hỗ trợ một sự nghiệp hay “lợi ích đặc thù” (chính trị, môi trường, xã hội, tôn giáo, v.v.) bằng chuyên môn của mình. |
• the technician who devotes his life to improving the quality of work done within his field. | • kỹ thuật viên tận hiến đời mình để cải thiện chất lượng công việc được thực hiện trong lĩnh vực của mình. |
• the mechanic filled with infectious enthusiasm for his work. | • thợ máy tràn đầy nhiệt huyết lan truyền cho công việc của y. |
• the repair-person who is almost incapable of letting go of a project until it is completed. | • thợ sửa chữa gần như không thể buông một dự án cho đến khi hoàn tất. |
In general: vocations and professions which require keen analytical abilities, the capacity for research, and scientific and/or technical expertise, as well as high idealism, undeviating devotion, great enthusiasm and persistent emotional intensity. | Nói chung: các thiên hướng và nghề nghiệp đòi hỏi năng lực phân tích sắc bén, năng lực nghiên cứu, và chuyên môn khoa học và/hoặc kỹ thuật, cũng như lý tưởng cao, sự tận hiến không chệch hướng, nhiệt huyết lớn và cường độ cảm xúc bền bỉ. |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the fifth, with a strong subsidiary sixth ray influence (whether or not the sixth ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh sách đề xuất những cá nhân nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hoặc thần thoại) mà cung linh hồn của họ có thể hợp lý xét là cung năm, với ảnh hưởng phụ trợ cung sáu mạnh (bất kể cung sáu, nói nghiêm nhặt, có là cung phàm ngã hay không): |
Ernst Haeckel: zoologist and an enthusiastic proponent of Darwin’s theory of evolution. He was, reputedly, “more Darwinist than Darwin himself.” | Ernst Haeckel: nhà động vật học và một người cổ vũ nhiệt thành cho thuyết tiến hóa của Darwin. Tương truyền ông “Darwinist hơn cả Darwin.” |
Joseph Lister: celebrated British surgeon and medical scientist. Lister was the pioneer of antisepsis—the use of chemicals to prevent surgical infections. He was also a deeply religious man. | Joseph Lister: vị phẫu thuật gia và nhà khoa học y học người Anh lừng danh. Lister là người tiên phong về vô trùng—việc dùng hoá chất để ngăn nhiễm trùng phẫu thuật. Ông cũng là một người rất mộ đạo. |
Gregor Mendel: the Austrian monk whose discoveries of the first laws of heredity laid the foundation of the science of genetics. Given the nature of his experiments with varieties of garden peas, the presence of the third ray is also a possibility. | Gregor Mendel: vị tu sĩ Áo mà các khám phá về những định luật đầu tiên của di truyền đã đặt nền móng cho khoa di truyền học. Xét bản chất các thí nghiệm của ông với các chủng loại đậu vườn, sự hiện diện của cung ba cũng là một khả năng. |
Charles Proteus Steinmetz: one of the world’s foremost electrical engineers. Steinmetz developed fundamental ideas concerning alternating current systems and devised calculating methods that enabled engineers to design more efficient electrical machinery. He exemplified the engineer with a social consciousness. The third ray was also pronounced. | Charles Proteus Steinmetz: một trong những kỹ sư điện hàng đầu thế giới. Steinmetz phát triển các ý tưởng nền tảng liên quan đến hệ thống dòng điện xoay chiều và đề ra các phương pháp tính toán cho phép kỹ sư thiết kế máy điện hiệu quả hơn. Ông là tấm gương của một kỹ sư có ý thức xã hội. Cung ba của ông cũng rất nổi bật. |
Some Contrasts Between the Ray 5 Soul and the Ray 7 Personality
Ray 5 Soul | Ray 7 Personality |
1. independent research into the nature of reality | 1. conformity; dependency upon patterns of social conditioning |
2. healthy reliance upon verification | 2. habitual acceptance of that which is usual, customary or normal |
3. dedication to pure knowledge | 3. dedication to maintaining appearances |
4. innate truthfulness | 4. the politic or polite disguising of the truth |
5. embracing of confirmed knowledge despite its social consequences | 5. disregard or suppression of knowledge if it threatens traditions and established social conventions, or even new social arrangements |
6. revelation of “embarrassing facts” | 6. discomfited by “embarrassing facts” which are promptly “swept under the rug”; ignoring of “inconvenient” truths |
7. the constant search for scientific improvements in methods and procedures | 7. the constant attempt to preserve and fortify comfortable routines |
8. pursuit of iconoclastic discoveries—the knowledge that destroys “sacred cows” | 8. preservation of meaningless rituals and the protection of unproductive but time-honored “sacred cows” |
9. a spirit of free-minded enquiry | 9. enquiry limited by adherence to established precedent |
10. strong belief in the free dissemination of facts to benefit many | 10. instinctive reliance upon secrecy to prevent disturbance to the smooth functioning of the established organizational structure |
11. intellectual detachment from biological rhythms and compulsions | 11. susceptibility to biological compulsions—especially sexual compulsions |
12. cultivation of the mind as the preferred instrument of spiritual release | 12. excessive attention to the body and its processes |
13. research and development of the true science of spirituality | 13. easily deceived by superstitious magical practices rather than scientific magical practices |
Linh hồn cung năm | Phàm ngã cung bảy |
1. Nghiên cứu độc lập về bản chất của thực tại | 1. Tuân thủ; lệ thuộc vào các khuôn mẫu của sự điều kiện hoá xã hội |
2. Dựa vào sự kiểm chứng một cách lành mạnh | 2. Chấp nhận một cách máy móc những gì quen thuộc, thông lệ hay bình thường |
3. Tận hiến cho tri thức thuần khiết | 3. Tận hiến cho việc duy trì bề ngoài |
4. Tính trung thực bẩm sinh | 4. Khéo léo hoặc lịch thiệp trong việc che giấu sự thật |
5. Đón nhận tri thức đã được xác nhận, bất chấp hệ quả xã hội của nó | 5. Xem thường hoặc đàn áp tri thức nếu nó đe dọa các truyền thống và quy ước xã hội đã được thiết lập, hoặc ngay cả các trật tự xã hội mới |
6. Tiết lộ những “sự thật khó chịu” | 6. Bối rối trước những “sự thật khó chịu” và nhanh chóng “quét chúng xuống dưới tấm thảm”; phớt lờ những chân lý “bất tiện” |
7. Không ngừng tìm kiếm sự cải tiến khoa học trong các phương pháp và quy trình | 7. Không ngừng cố gắng duy trì và củng cố các thói quen dễ chịu |
8. Theo đuổi những khám phá mang tính phá bỏ thần tượng — tri thức phá vỡ các “thần bò thiêng” | 8. Duy trì các nghi thức vô nghĩa và bảo vệ những “thần bò thiêng” lỗi thời, không còn hiệu quả |
9. Tinh thần tự do truy vấn | 9. Sự truy vấn bị giới hạn bởi việc tuân thủ tiền lệ đã được thiết lập |
10. Niềm tin mạnh mẽ vào việc phổ biến tự do các dữ kiện để mang lại lợi ích cho số đông | 10. Khuynh hướng bản năng dựa vào sự bí mật nhằm tránh làm gián đoạn sự vận hành êm thấm của cơ cấu tổ chức hiện có |
11. Sự tách rời trí tuệ khỏi các xung động và nhịp sinh học | 11. Dễ bị chi phối bởi các xung động sinh học — đặc biệt là xung động tình dục |
12. Nuôi dưỡng thể trí như khí cụ ưu tiên cho sự giải thoát tinh thần | 12. Chú tâm quá mức vào thân xác và các tiến trình của nó |
13. Nghiên cứu và phát triển khoa học chân chính của tinh thần | 13. Dễ bị mê hoặc bởi các thực hành ma thuật mê tín thay vì các thực hành ma thuật có tính khoa học |
The Integration Process for the Individual with a Ray 5 Soul and a Ray 7 Personality | Quy trình Tích hợp cho Cá nhân có Linh hồn Cung năm và Phàm ngã Cung bảy |
1. The pre-spiritual phase; soul energy appropriated by a selfish personality: At this pre-spiritual phase of evolutionary unfoldment, the individual’s motives (based upon the personality distortion of fifth ray soul energy, and the self-centered use of seventh ray personality force) are to achieve narrow, materialistic, intellectual certainty, as well as a rigidly ritualized, tightly ordered life conducive to physical plane safety, security and ‘perfected,’ materialistic living. | 1. Giai đoạn tiền tinh thần; năng lượng linh hồn bị phàm ngã ích kỷ chiếm dụng: Ở giai đoạn tiền tinh thần của sự khai mở tiến hoá này, động cơ của cá nhân (dựa trên sự méo mó của năng lượng linh hồn cung năm bởi phàm ngã, và việc sử dụng vị kỷ lực phàm ngã cung bảy) là đạt được sự chắc chắn trí tuệ hẹp hòi, duy vật, cũng như một đời sống nghi thức hoá cứng nhắc, trật tự chặt chẽ, thuận tiện cho an toàn, an ninh trên cõi hồng trần và một lối sống duy vật ‘được hoàn thiện’. |
The person wants, primarily, to take everything apart (whether analytically or actually), reduce all life experience to nothing but rationalistic formulae, control matter mechanically for selfish ends, and reject any kind of knowledge that is not materialistic or derived strictly from the five physical senses, but he also wants a highly predictable (hence, relatively risk-free) life, to avoid having to think for himself or act upon his own initiative, and to have the solid assurance that all his instinctual appetites and imagined material needs will be satisfied on schedule. | Người này, trước hết, muốn tháo gỡ mọi thứ (dù là phân tích hay thực sự), quy mọi kinh nghiệm sống thành những công thức duy lý thuần túy, điều khiển vật chất một cách cơ giới vì mục đích ích kỷ, và bác bỏ bất kỳ loại tri thức nào không duy vật hoặc không xuất phát nghiêm ngặt từ năm giác quan hồng trần; nhưng y cũng muốn một đời sống có thể dự đoán cao (vì thế, tương đối ít rủi ro), tránh phải tự mình suy nghĩ hay hành động theo sáng kiến riêng, và có bảo đảm chắc chắn rằng mọi bản năng dục vọng và các nhu cầu vật chất tưởng tượng của y sẽ được thoả mãn đúng lịch. |
Negatively and glamorously, these two ray influences can combine to produce: the harsh critic of all that does not exactly conform to his standards of sensible thought and action; the exponent of strict, scientific orthodoxy (5 + 7A); the materialistic thinker, interested exclusively in appearances and externals (5 + 7A); one whose mind is so entirely focused upon form and physical process, that he denies any reality to feeling and subjectivity (5 + 7A); the excessively analytical individual whose thought procedures are rigidly routinized (5 + 7A); one so fascinated by technology that he organizes human beings and their interactions inhumanely—as if people were machines and their human responses mere mechanistic functions (5B + 7A, 7B); one who classifies and organizes all things into separate and distinct categories (5A + 7A); the individual with a fetish for exactitude of definition (5A + 7A); the detached and socially awkward individual who is incapable of interpersonal spontaneity, and can only relate to others by means of unimaginative formalities (5 + 7A); the utterly arid and nonmagnetic person whose individuality has been swallowed up in the rigid observance of rules and regulations (5 + 7A, 7C); one whose pride of mind leads to “scientific sectarianism,” analogous to religious sectarianism (5A + 7A); one so assured of the correctness of his thought and his rationality, that his ‘informed’ opinions become a comfortable, self-consistent collection of views—rigid, unadaptable and rapidly obsolete (5 + 7A, 7C); an uncompromisingly irreverent thinker who has no use for any traditional values or patterns (5 + 7B); the mechanistic thinker who, espousing that the concept of free-will is meaningless, believes that all human behavior is programmed, and all human responses are conditioned (5B + 7A, 7B); etc. | Một cách tiêu cực và dưới ảo cảm, hai ảnh hưởng cung này có thể kết hợp để tạo ra: kẻ phê bình gay gắt mọi điều không hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực tư duy và hành động có lý của y; người chủ trương chính thống khoa học nghiêm ngặt (5 + 7A); nhà tư tưởng duy vật, chỉ quan tâm đến bề ngoài và các mặt bên ngoài (5 + 7A); kẻ có tâm trí hoàn toàn tập trung vào hình tướng và tiến trình hồng trần đến mức phủ nhận mọi thực tại của cảm xúc và tính chủ thể (5 + 7A); cá nhân quá thiên về phân tích với các quy trình tư duy bị khuôn sáo cứng nhắc (5 + 7A); người bị kỹ thuật mê hoặc đến nỗi tổ chức con người và các tương tác của họ một cách phi nhân—như thể con người là máy móc và các đáp ứng của họ chỉ là những chức năng cơ giới (5B + 7A, 7B); kẻ phân loại và sắp xếp mọi sự vào các phạm loại tách biệt và phân minh (5A + 7A); cá nhân có ám ảnh về sự chuẩn xác của định nghĩa (5A + 7A); người tách rời và vụng về trong giao tế xã hội, bất năng về tính tự nhiên trong tương giao, và chỉ có thể liên hệ với người khác qua những hình thức công thức thiếu tưởng tượng (5 + 7A); kẻ hoàn toàn khô khan và vô từ lực, có cá tính bị nuốt chửng trong sự tuân thủ cứng nhắc các quy tắc và điều lệ (5 + 7A, 7C); kẻ kiêu mạn trí tuệ dẫn tới “giáo phái khoa học” tương tự giáo phái tôn giáo (5A + 7A); người quá tin chắc vào sự đúng đắn của tư tưởng và tính hợp lý của mình đến mức các ý kiến “am hiểu” của y trở thành một tập hợp quan điểm dễ chịu và tự nhất quán—cứng nhắc, không thích nghi và nhanh chóng lỗi thời (5 + 7A, 7C); nhà tư tưởng bất kính một cách không khoan nhượng, không đếm xỉa đến bất kỳ giá trị hay khuôn mẫu truyền thống nào (5 + 7B); nhà tư tưởng duy cơ giới, chủ trương rằng khái niệm ý chí tự do là vô nghĩa, tin rằng mọi hành vi của con người đều được lập trình, và mọi đáp ứng của con người đều là có điều kiện (5B + 7A, 7B); v.v. |
2. The phase of conflict; pure soul energy conflicts with personality force: The essential conflict between the ray five soul and the ray seven personality is the struggle between the spiritual need to inquire until exact knowledge is achieved, and the personal desire to conform to some pattern (new or old), even if conformity inhibits the progress of meaningful enquiry. | 2. Giai đoạn xung đột; năng lượng linh hồn thuần khiết xung đột với lực phàm ngã: Xung đột cốt yếu giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung bảy là cuộc tranh đấu giữa nhu cầu tinh thần phải truy vấn cho đến khi đạt tri thức chính xác, và dục vọng phàm ngã muốn khuất phục theo một khuôn mẫu nào đó (mới hay cũ), dù sự tùy thuận ấy kìm hãm tiến trình truy cứu đầy ý nghĩa. |
3. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the fifth ray soul: It will be the task of the fifth ray soul to lead the seventh ray personality towards a love of knowledge and away from an excessive love of form. The soul does not care if time-honored traditions and customs are shown to be useless or worse, or if new plans for restructuring and reorganizing are shown to be foolish; it seeks to see things exactly as they are—to know the truth no matter how disillusioning. The soul, however, is faced with a personality which seeks to be comforted by rhythms, a personality which allays its anxieties through the creation of order and routine. These patterns of action become solidly ingrained habits which numb the inquiring mind. Some patterns become so ingrained and so comfortable that they are considered beyond questioning. This proves frustrating to the soul, which wishes to examine all things impartially. The soul must lead the personality to the point where it begins to understand exactly what it is really doing. Stability, security and the feeling of reassurance evoked by sameness, formality and frictionless routine must not be allowed to interfere with the endless quest for knowledge. | 3. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ phối cảnh của tâm thức đồng nhất chủ yếu với linh hồn cung năm: Đó sẽ là phận vụ của linh hồn cung năm dẫn dắt phàm ngã cung bảy hướng tới tình yêu tri thức và rời xa tình yêu thái quá đối với hình tướng. Linh hồn không bận lòng nếu những truyền thống và tập tục cổ kính bị chỉ ra là vô dụng hay tệ hại hơn, hoặc nếu những kế hoạch mới để tái cấu trúc và tái tổ chức bị chứng tỏ là dại dột; linh hồn tìm thấy sự thấy biết đúng như sự vật là vậy—biết chân lý bất kể nó gây vỡ mộng đến đâu. Tuy nhiên, linh hồn đang đối diện với một phàm ngã tìm ủi an nơi các nhịp điệu, một phàm ngã xoa dịu bất an bằng việc tạo lập trật tự và thói lệ. Những khuôn mẫu hành động này trở thành các tập quán ăn sâu vững chắc làm tê liệt trí truy vấn. Một số khuôn mẫu trở nên ăn sâu và dễ chịu đến mức chúng được coi là vượt ra ngoài mọi chất vấn. Điều này làm nản lòng linh hồn, vốn muốn xem xét mọi sự một cách vô tư. Linh hồn phải dẫn dắt phàm ngã đến điểm mà nó bắt đầu thấu hiểu một cách chính xác mình thật sự đang làm gì. Tính ổn định, an ninh và cảm giác yên tâm do sự đồng dạng, hình thức và thói lệ trơn tru gợi nên, không được phép can thiệp vào cuộc truy tầm tri thức bất tận. |
4. The soul/personality integration process from the perspective of the consciousness identified primarily with the seventh ray personality: The fifth ray pressure towards integration will initially be felt by the seventh ray personality as an unwelcome voice questioning the validity of personality patterns that have become so well established that they are “second nature.” The personality feels most comfortable creating order and form as a hedge against the unexpected and chaotic. Within its ordered world, it lives a life of satisfaction, free from the intrusion of elements which do not “fit,” and cannot be predicted and regulated. It has no wish to begin scrutinizing its highly organized life, disrupting well-nurtured ‘automaticisms’ with questions. But from deep within its consciousness arises the voice of the ‘spiritual investigator’ asking such questions as: What am I really doing?; Why am I doing it?; What is it really accomplishing?; Are my habit patterns blinding me to reality?; etc. | 4. Tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã từ phối cảnh của tâm thức đồng nhất chủ yếu với phàm ngã cung bảy: Áp lực hướng tới tích hợp của cung năm ban đầu sẽ được phàm ngã cung bảy cảm nhận như một giọng nói không được hoan nghênh đang chất vấn tính hợp lệ của các khuôn mẫu phàm ngã vốn đã được thiết lập đến độ trở thành “bản tính thứ hai.” Phàm ngã cảm thấy thoải mái nhất khi tạo ra trật tự và hình tướng như một hàng rào chống lại điều bất ngờ và hỗn loạn. Trong thế giới có trật tự của mình, nó sống một đời thỏa mãn, không bị xâm nhập bởi các yếu tố “không khớp,” và không thể dự đoán hay điều chỉnh. Nó không hề muốn bắt đầu soi xét đời sống được tổ chức cao độ của mình, gây rối các “tự động tính” được nuôi dưỡng kỹ bằng những câu hỏi. Nhưng từ sâu trong tâm thức, cất lên tiếng nói của “nhà điều tra tinh thần” với những câu hỏi như: Rốt cuộc tôi thật sự đang làm gì?; Vì sao tôi làm điều đó?; Thật sự nó đạt được điều gì?; Phải chăng các khuôn mẫu tập quán của tôi đang làm tôi mù lòa trước thực tại?; v.v. |
The personality wishes to continue its well-programmed activity, but the soul forces it to “stand back” mentally, and learn. The personality may reassert itself, and insist upon continuing its unexamined, patterned activity, but slowly there will arise within the personal consciousness the sense of being an ignorant automaton. The personality will, eventually, find unknowledgeable action (no matter how well-performed) distasteful, and its days of an unquestioning conformity to long-programmed patterns and styles (religious, national, ethnic, civic, bureaucratic, modish, etc.) will end. The personality comes to learn that exact knowledge makes possible the creation of patterns which are truly magical, rational and, hence, spiritually effective. | Phàm ngã muốn tiếp tục các hoạt động được lập trình tốt của nó, nhưng linh hồn buộc nó phải “lùi lại” trong trí, và học hỏi. Phàm ngã có thể tái khẳng định mình và khăng khăng tiếp tục hoạt động theo khuôn mẫu không được xét hỏi, nhưng dần dần trong tâm thức phàm ngã sẽ khởi lên cảm giác mình là một tự động nhân vô minh. Rốt cuộc, phàm ngã sẽ thấy khó chịu với hành động vô tri (dù thực hiện khéo đến đâu), và ngày tháng của sự tùy thuận không hề chất vấn đối với những khuôn mẫu và lối thức lâu ngày (tôn giáo, quốc gia, sắc tộc, công dân, quan liêu, thời thượng, v.v.) sẽ chấm dứt. Phàm ngã dần học được rằng tri thức chính xác làm cho có thể tạo ra những khuôn mẫu đích thực mang tính huyền thuật, hợp lý và, do đó, hiệu quả về mặt tinh thần. |
5. The ideal expression of the combination of the ray five soul and the ray seven personality: Scientific and technical knowledge are pursued systematically, methodically and with great organizational skill. Right procedure and exactitude of method and measurement strengthen the effectiveness of research. The discovery and revelation of what actually is overcomes unquestioning adherence to established patterns, and yet such patterns are enriched by the infusion of new knowledge. The love of facts and truth—“no matter what”—masters the attempt to “keep up appearances,” and yet the “appearance” of manifested ideas (i.e., the quality of their presentation in form) is, in the long run, enhanced by increased knowledge. | 5. Biểu lộ lý tưởng của sự phối hợp giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung bảy: Tri thức khoa học và kỹ thuật được truy cầu một cách hệ thống, có phương pháp và với kỹ năng tổ chức lớn. Quy trình đúng đắn và sự chuẩn xác của phương pháp và đo lường tăng cường hiệu lực của nghiên cứu. Sự khám phá và mặc khải về điều thực sự là vượt thắng sự bám chặt không chất vấn vào các khuôn mẫu đã có, và tuy vậy các khuôn mẫu ấy lại được phong phú hoá nhờ sự thấm vào của tri thức mới. Tình yêu đối với sự kiện và chân lý—“bất kể thế nào”—chế ngự nỗ lực “giữ gìn bề ngoài,” và tuy thế, “vẻ bề ngoài” của các ý tưởng được biểu lộ (tức phẩm chất trình bày chúng trong hình tướng) rốt cuộc được nâng cao nhờ tri thức gia tăng. |
Here we find the capacity to discover a wealth of knowledge and then organize it brilliantly. There may be a particular interest in understanding the processes of manifestation scientifically; such an individual may possess the skill to prove that magic is a scientific process. This is, potentially, an exceedingly occult combination, conferring the capacity to determine exact formulae for the laws of Nature, and then to wield those laws effectively upon the physical plane. The blend of these two rays adds an exquisite sense of timing to investigative abilities; the investigation of all cyclic phenomena in Nature would be a natural focus. | Ở đây, chúng ta thấy năng lực khám phá cả một kho tàng tri thức rồi tổ chức nó một cách xuất sắc. Có thể có mối quan tâm đặc thù đến việc thấu hiểu các tiến trình biểu lộ theo phương pháp khoa học; một cá nhân như vậy có thể sở hữu kỹ năng chứng minh rằng huyền thuật là một tiến trình khoa học. Đây, tiềm năng, là một phối hợp hết sức huyền bí, ban cho năng lực xác định các công thức chính xác cho những định luật của Tự Nhiên, rồi vận dụng hữu hiệu các định luật ấy trên cõi hồng trần. Sự pha trộn hai cung này thêm vào khả năng điều tra một cảm quan tinh tế về thời điểm; việc khảo cứu mọi hiện tượng chu kỳ trong Tự Nhiên sẽ là một trọng tâm tự nhiên. |
More conventionally, this is the ray combination of the researcher who is capable of designing and administering programs of action which implement the results of his research in the most organized and most effective manner. It is a combination which gives the capacity for the perfect material application of scientific discovery. Consummate engineering skill can be anticipated. Here would be found the brilliant inventor with an unusual capacity to materialize his ideas so that they become practical inventions. With the fifth ray soul and the seventh ray personality, knowledge is easily transformed into concrete actuality. | Theo nghĩa quy ước hơn, đây là phối hợp cung của nhà nghiên cứu có khả năng thiết kế và quản trị các chương trình hành động nhằm triển khai kết quả nghiên cứu của mình theo cách thức có tổ chức nhất và hữu hiệu nhất. Đây là một phối hợp trao năng lực ứng dụng vật chất hoàn hảo cho phát minh khoa học. Có thể trông đợi kỹ năng kỹ thuật thượng thừa. Ở đây có thể thấy nhà phát minh lỗi lạc với năng lực khác thường hiện hình hóa các ý tưởng của mình để chúng trở thành những phát minh thực dụng. Với linh hồn cung năm và phàm ngã cung bảy, tri thức dễ được chuyển thành hiện thực cụ thể. |
6. The combined effect of the two integration formulae: The primary integration formula is Detachment, keyed to the fifth ray soul. The secondary integration formula is proposed as Orientation, keyed to the seventh ray personality. The first formula corrects the fifth ray tendencies towards mental attachment to matter, and an obsessive preoccupation with investigating or manipulating concrete form, while ignoring the reality of that which is “formless,” whereas the second formula corrects the seventh ray tendencies towards selfish building and organizing according to short-sighted, materially-minded personal plans, but without an attentive orientation to the Divine Design as revealed by the soul. | 6. Tác động kết hợp của hai công thức tích hợp: Công thức tích hợp chính là Tách rời, được điều âm với linh hồn cung năm. Công thức tích hợp phụ được đề xuất là Định hướng, được điều âm với phàm ngã cung bảy. Công thức thứ nhất sửa chữa khuynh hướng cung năm bám dính về mặt trí vào vật chất, và mải miết ám nhiễm với việc khảo sát hay thao tác hình tướng cụ thể, trong khi bỏ qua thực tại của cái “vô hình tướng,” trong lúc công thức thứ hai sửa chữa khuynh hướng cung bảy xây dựng và tổ chức vị kỷ theo các kế hoạch phàm ngã thiển cận, trọng vật chất, nhưng thiếu sự định hướng chăm chú vào Đồ Hình Thiêng liêng như linh hồn mặc khải. |
Used together, these two formulae provide the individual striving for soul/personality integration with the composite quality of ‘oriented detachment’ (i.e., the “outer man’s” orientation towards the inner Light which complements the “inner man’s” will to detach from the light-concealing, illusory reality of the many forms of matter). These formulae enable the individual to stand within the center of his personal consciousness, his attention oriented towards the center of his spiritual life, and attentively await the appearance of a ‘subjective template,’ a soul-inspired design, to guide his personal actions within the three lower worlds. When identified with the inner ‘heights” of his consciousness (nearest to the soul on its own plane), he learns the even more difficult task of detaching himself from the illusion that the testimony of the senses (gross or subtle) is reality itself. | Được dùng cùng nhau, hai công thức này ban cho cá nhân đang nỗ lực tích hợp linh hồn/phàm ngã phẩm tính tổng hợp là “tách rời có định hướng” (tức là sự định hướng của “người bên ngoài” hướng về Ánh sáng nội tâm, bổ sung cho ý chí của “người bên trong” tách rời khỏi thực tại hư ảo che ánh sáng của muôn vàn hình thức vật chất). Những công thức này giúp cá nhân đứng trong trung tâm tâm thức phàm ngã của mình, với sự chú tâm được định hướng vào trung tâm đời sống tinh thần của y, và chăm chú đợi sự xuất hiện của một “bản mẫu chủ quan,” một đồ án do linh hồn linh hứng, để dẫn dắt các hành động phàm ngã của y trong ba cõi thấp. Khi đồng nhất với các “đỉnh cao” nội tại của tâm thức (gần nhất với linh hồn trên chính cõi của nó), y học bài học còn khó hơn nữa là tách mình khỏi ảo tưởng cho rằng lời chứng của các giác quan (thô hay tế) là thực tại tự thân. |
Thus, by using these formulae, the individual cultivates a more aligned, more spiritually-oriented personal consciousness, supportive of those rare moments of exalted consciousness when (pervaded by the presence of the soul) he knows, past all doubt or seeming, the indisputable reality of that great subjective Entity—the planetary God—whose “garment” of matter has long been the object of his fascination and enquiry. | Như thế, bằng cách dùng các công thức này, cá nhân vun bồi một tâm thức phàm ngã được chỉnh hợp hơn, định hướng tinh thần hơn, hỗ trợ cho những khoảnh khắc hiếm hoi của thăng hoa tâm thức khi (được thấm nhuần bởi sự hiện diện của linh hồn) y biết, vượt ngoài mọi hồ nghi hay bề ngoài, thực tại không thể tranh cãi của Đại Hữu thể chủ quan—Thượng đế Hành tinh—Đấng mà “y phục” bằng vật chất của Ngài đã từ lâu là đối tượng khiến y say đắm và truy vấn. |
In the earlier stages of evolution, before successfully applying these formulae, the individual with this ray combination often finds himself thoroughly engrossed in the investigation and organization of matter and form—actively involved upon the periphery of subjective life. What he knows, he knows exactly. What he organizes, he organizes exactly. But he does not know the Truth, and he does not organize in alignment with the Plan. He is an eager student within what might be called the ‘prison of crystallized form.’ He investigates everything but the ‘One Thing’ which would dissolve the many-celled prison to which he has confined himself; he does not investigate the One Life, nor does he even suspect it exists. Only at the center of his being can he find access to the “One behind the Many,” and, at this stage of his development, he prefers the dark and densified conditions at the periphery. | Trong những giai đoạn sớm của tiến hoá, trước khi áp dụng thành công các công thức này, người có phối hợp cung này thường thấy mình hoàn toàn miệt mài trong việc khảo cứu và tổ chức vật chất và hình tướng—hăng hái hoạt động ở chu vi của sự sống chủ quan. Điều y biết, y biết một cách chính xác. Điều y tổ chức, y tổ chức một cách chính xác. Nhưng y không biết Chân Lý, và y không tổ chức trong sự chỉnh hợp với Thiên Cơ. Y là một đạo sinh hăm hở trong cái có thể gọi là “nhà tù của hình tướng kết tinh.” Y khảo sát mọi thứ trừ “Điều Duy Nhất” có thể làm tan rã nhà tù đa bào nơi y tự giam mình; y không khảo sát Sự Sống Duy Nhất, thậm chí cũng chẳng ngờ rằng Sự Sống ấy hiện hữu. Chỉ ở trung tâm bản thể mình y mới có thể tìm ra lối vào “Đấng Ẩn Sau Muôn Vạn,” và, ở giai đoạn phát triển này, y lại ưa chuộng những điều kiện tối tăm và đậm đặc nơi ngoại vi. |
The intelligent use of the two formulae, however, transmutes the abuses of the past. Aided by the potency of these formulae, he terminates the period of personal disorientation and inattentiveness to subjective, spiritual design, and of ignorant attachment to the illusion that objective form is real. The individual learns, primarily, to recognize the reality of the One Identity behind all form (the great subjective Unity behind all material diversity), and his growing secondary ability to register a more subjective “blueprint” to guide him in the reorganization and reconstruction of both his life and his environment, ensures his soul of an utterly reliable, rightly oriented personal instrument which can build forms exactly suited to embody and reveal divine knowledge upon the outer plane of manifestation. | Việc sử dụng thông tuệ hai công thức, tuy nhiên, chuyển hoá những lạm dụng trong quá khứ. Được trợ lực bởi sức mạnh của các công thức này, y chấm dứt thời kỳ lạc hướng phàm ngã và thiếu chú tâm đến đồ án chủ quan, tinh thần, cùng sự chấp trước vô minh vào ảo tưởng rằng hình tướng khách quan là thực. Cá nhân học được, trước hết, nhận ra thực tại của Đồng Nhất Thể đằng sau mọi hình tướng (Đại Nhất thể chủ quan đằng sau mọi dị biệt vật chất), và khả năng phụ đang lớn dần của y trong việc ghi nhận một “bản vẽ” chủ quan hơn để hướng dẫn y trong việc tái tổ chức và tái kiến tạo cả đời sống lẫn môi trường của mình, bảo đảm cho linh hồn của y một khí cụ phàm ngã tuyệt đối đáng tin, đúng hướng, có thể kiến tạo những hình tướng hoàn toàn thích hợp để bao hàm và hiển lộ tri thức thiêng liêng trên bình diện ngoại hiện. |
7. Some examples of vocational aptitudes and orientations relating to the combination of the fifth ray soul and the seventh ray personality: | 7. Một vài ví dụ về năng khiếu và định hướng nghề nghiệp liên hệ đến phối hợp giữa linh hồn cung năm và phàm ngã cung bảy: |
• the scientist as reformer and renovator. | • nhà khoa học với vai trò người cải cách và canh tân. |
• the researcher whose research methods are impeccable. | • nhà nghiên cứu với phương pháp nghiên cứu không chê vào đâu. |
• the investigator whose success depends upon his timing and his knowledge of cycles. | • nhà khảo cứu mà thành công tùy thuộc vào cảm quan thời điểm và hiểu biết về các chu kỳ. |
• the inquirer whose questions are unfailingly polite and courteous. | • người truy vấn với những câu hỏi luôn lịch nhã và nhã nhặn. |
• the experimenter who ensures that his experiments conform to the highest scientific standards. | • nhà thực nghiệm bảo đảm các thí nghiệm của mình phù hợp với chuẩn mực khoa học cao nhất. |
• the analyst with a superb ability for classification. | • nhà phân tích với khả năng phân loại tuyệt hảo. |
• the surgeon with consummate surgical technique. | • bác sĩ phẫu thuật với kỹ xảo phẫu thuật thượng thừa. |
• the reliable specialist with an exact understanding of his function within the corporate whole. | • chuyên gia tin cậy với sự hiểu biết chính xác về chức năng của mình trong toàn thể tổ chức. |
• the objective observer with highly developed spatial perception, useful in such professions as surveying or map-making. | • nhà quan sát khách quan với tri giác không gian phát triển cao, hữu ích trong các nghề như trắc địa hay vẽ bản đồ. |
• the inventor with the skill-in-action to manifest his ideas successfully. | • nhà phát minh với kỹ năng-hành động để hiện hình ý tưởng thành công. |
• the engineer with a talent for building and construction. | • kỹ sư có tài xây dựng và kiến tạo. |
• the technician who is unusually well-organized. | • kỹ thuật viên có tổ chức khác thường tốt. |
• the mechanic with a remarkable ability to fine-tune mechanisms until they function like a perfect organism. | • thợ máy với khả năng đáng chú ý tinh chỉnh cơ cấu cho tới khi chúng vận hành như một cơ thể hoàn hảo. |
• the repair-person with an excellent knack for understanding exactly how things fit together. | • người sửa chữa với năng khiếu xuất sắc thấu hiểu chính xác cách các thứ khớp lại với nhau. |
• the expert in robotics. | • chuyên gia về người máy. |
In general: vocations and professions which require keen analytical abilities, the capacity for research, and scientific and/or technical expertise, as well as the power to organize or reorganize, the ability to build, a facility for creating or maintaining standards, and the capacity to skillfully manifest ideas through form | Nói chung: các nghề nghiệp đòi hỏi năng lực phân tích sắc bén, khả năng nghiên cứu, và chuyên môn khoa học và/hoặc kỹ thuật, cũng như năng lực tổ chức hay tái tổ chức, khả năng kiến tạo, sở trường thiết lập hay duy trì các chuẩn mực, và năng lực khéo léo hiện hình các ý tưởng qua hình tướng |
8. A proposed list of well-known individuals (historical, contemporary, fictional or mythological) whose soul ray can reasonably be considered the fifth, with a strong subsidiary seventh ray influence (whether or not the seventh ray is, strictly speaking, the personality ray): | 8. Danh mục đề xuất những cá nhân nổi tiếng (lịch sử, đương đại, hư cấu hay huyền thoại) có thể hợp lý được xem là có cung linh hồn thứ năm, với ảnh hưởng cung bảy phụ mạnh (bất kể cung bảy có, nghiêm ngặt mà nói, là cung phàm ngã hay không): |
Oswold Avery: microbiologist who identified DNA as the chemical substance of which genes are composed. | Oswold Avery: nhà vi sinh học, người đã xác định ADN là chất hoá học cấu tạo nên các gen. |
Galileo Galilei: Italian astronomer, mathematician and physicist. He was the first man to use the telescope to study the skies, and amassed evidence that proved the Earth revolves around the Sun. | Galileo Galilei: nhà thiên văn, toán học và vật lý người Ý. Ông là người đầu tiên dùng kính viễn vọng để nghiên cứu bầu trời, và tích lũy bằng chứng chứng minh rằng Trái Đất quay quanh Mặt Trời. |
Dimitry Mendeleyev: chemist who established a periodic classification of the elements. | Dimitry Mendeleyev: nhà hoá học thiết lập bảng phân loại tuần hoàn các nguyên tố. |
Max Plank: German physicist, originator of the Quantum Theory. | Max Plank: nhà vật lý người Đức, người khởi xướng Thuyết Lượng tử. |
Ivan Petrovich Pavlov: Russian physician and physiologist, chiefly known for his development of the concept of the conditioned reflex. Pavlov was strongly endowed with first ray energy as well. | Ivan Petrovich Pavlov: bác sĩ và nhà sinh lý học người Nga, nổi tiếng chủ yếu với việc phát triển khái niệm phản xạ có điều kiện. Pavlov cũng được phú bẩm mạnh mẽ năng lượng cung một. |
Nikola Tesla: prophetic inventor, who discovered the rotating magnetic field. The fourth ray was also strongly represented in his make-up, augmenting and enhancing his intuitive abilities and his incredible powers of visualization. (Due to his almost magical control of electrical energies, some might wish to argue for a seventh ray soul.) | Nikola Tesla: nhà phát minh như có khả năng tiên tri, người đã khám phá trường từ quay. Cung bốn cũng biểu lộ rất mạnh trong cấu trúc của ông, tăng cường và thăng hoa năng lực trực giác và quyền năng hình dung phi thường của ông. (Do khả năng gần như huyền thuật trong việc điều khiển các năng lượng điện, có người có thể muốn cho rằng linh hồn của ông thuộc cung bảy.) |