1. Những Trải Nghiệm Huyền Bí Của Tôi — CHƯƠNG I – V

A person with a beard

AI-generated content may be incorrect.

MY OCCULT EXPERIENCES

The Theosophist 1913 May p249

The Theosophist 1913 June p389

The Theosophist 1913 July p581

by

Johan van Manen, F. T. S.

(with Explanatory Notes by CW Leadbeater, F. T. S.)

Chương I – V

Introduction—Dẫn nhập

There exists an old letter of H. P. B.’s, copies of which are now exceedingly rare, addressed some thirty years ago to the members of the London Lodge of the Theosophical Society. It is a confidential admonition to the Lodge concerning spiritual endeavour, and contains a paragraph which struck me very forcibly when I read it. This passage says that if members only gave proper attention to the little experiences of life they might find revealed in them unsuspected occult teachings or unthought-of instances of occult influence. In the light of this injunction I have kept a close watch on such tiny rays of light as have filtered through, from time to time, into my own every-day consciousness, and have analysed carefully the slight glimpses into the something-else which now and then have been vouchsafed to me.

Có một bức thư cũ của Bà H. P. B., nay bản sao còn lại vô cùng hiếm, được gửi cách đây chừng ba mươi năm cho các hội viên của Chi bộ London thuộc Hội Thông Thiên Học. Đó là một lời khuyên kín dành cho Chi bộ về nỗ lực tinh thần, và chứa một đoạn đã gây ấn tượng mạnh nơi tôi khi đọc. Đoạn ấy nói rằng nếu các hội viên chịu chú tâm đúng mức đến những trải nghiệm nhỏ trong đời, họ có thể khám phá trong đó những giáo huấn huyền môn không ngờ, hoặc những trường hợp ảnh hưởng huyền môn không nghĩ tới. Dưới ánh sáng của lời chỉ giáo này, tôi đã luôn canh chừng kỹ những tia sáng nhỏ bé vẫn thỉnh thoảng lọt qua vào tâm thức hằng ngày của riêng tôi, và đã cẩn thận phân tích những thoáng thấy mơ hồ về một cái-gì-khác thỉnh thoảng được ban cho tôi.

I am not a clairvoyant, and I wish at the outset to prevent any possible misconstruction of what I am going to lay before my readers. I am not able to turn on the tap of astral or any other sight as one might switch on or off the electric light. That is only for the masters in the art. It is of the utmost importance for the sane and solid development of the Theosophical movement that the strictest probity should prevail in all reports and relations of psychic experiences, and that no one should suffer to cluster round himself exaggerated opinions concerning his occult powers. Such incorrect estimation, if spread widely within our ranks, would ultimately annihilate all sound standards of judgment, falsify doctrine and turn into chaos what should be an ordered whole of testimony and description. The temptation to promote, or at least not to prevent, such a state of things is very great in our Society, and there are minor deities in our ranks who have sinned heavily in this respect.

Tôi không phải là người thông nhãn, và ngay từ đầu tôi muốn ngăn ngừa mọi lầm hiểu có thể có về những gì tôi sắp bày ra trước độc giả. Tôi không có khả năng “mở vòi” thị kiến cảm dục hay bất cứ thị kiến nào khác như người ta bật tắt đèn điện. Điều ấy chỉ dành cho những bậc thầy trong nghệ thuật ấy. Đối với sự phát triển lành mạnh và vững chắc của phong trào Thông Thiên Học, điều tối quan trọng là đức liêm chính nghiêm nhặt phải ngự trị trong mọi tường thuật và liên hệ về các trải nghiệm thông linh, và không ai được để cho chung quanh mình kết tụ những ý kiến thổi phồng về năng lực huyền môn của mình. Sự đánh giá sai lệch như thế, nếu lan rộng trong hàng ngũ chúng ta, rốt cuộc sẽ thủ tiêu mọi chuẩn mực phán đoán lành mạnh, bóp méo giáo lý và làm hỗn loạn cái lẽ ra phải là một tổng thể có trật tự của chứng từ và mô tả. Cám dỗ để dung túng, hoặc ít nhất là không ngăn ngừa, một tình trạng như thế là rất lớn trong Hội của chúng ta, và có những “tiểu thần” trong hàng ngũ đã phạm lỗi nặng nề ở phương diện này.

What I have to present then is a sober record of whatever experiences I recollect as I write, in so far as they seem to have an illustrative value, especially selecting those examples which seem to be capable of some interpretation. I divide them into groups as their nature suggests.

Vì vậy, điều tôi trình bày chỉ là một ghi chép điềm đạm về bất kỳ trải nghiệm nào tôi hồi tưởng được khi viết, trong chừng mực chúng có vẻ mang giá trị minh họa, nhất là tuyển chọn những ví dụ dường như có thể diễn giải phần nào. Tôi chia chúng thành từng nhóm tùy theo tính chất gợi ý.

It seems to me that such an autobiographical fragment may be of some value as furnishing material for comparison. It may also incite others to relate their similar experiences. In the hands of some other “James” these “varieties of religious experience” may then be ultimately welded into an instructive whole. It should, however, be well understood that any such relation can have value only if the experience has been very carefully observed and, so far as possible, analysed, keen introspection having taken place at the time. The experience may have been religious, but the description must be scientific; the value may have been mystical, but the process must be recognised as psychological. Above all, the giving of premature (Theosophical or other) explanations to such experiences must be avoided. That is a matter for the experts, psychologists or occultists. We are only concerned with one end of the line, that of truthfully reporting. The explainers stand at the other end. So, for instance, no special ‘plane’ should be assigned to any phenomenon or sensation. Only an occultist can do that. A subjective feeling of the highest rapture may well have been produced by a dulling of the general sensibility, and that only: the felicity of tamas is something else than that of sattva.

Theo tôi, một mảnh tự truyện như vậy có thể có giá trị như cung cấp chất liệu để đối chiếu. Nó cũng có thể khơi gợi những người khác thuật lại các trải nghiệm tương tự. Trong tay một “James” nào khác, những “dạng thức của kinh nghiệm tôn giáo” này rồi có thể được hàn lại thành một toàn thể có tính giáo huấn. Tuy nhiên, cần hiểu rõ rằng mọi liên thuật như vậy chỉ có giá trị nếu trải nghiệm ấy đã được quan sát rất cẩn thận và, trong chừng có thể, được phân tích, với sự hướng nội sắc bén đã diễn ra ngay khi đó. Trải nghiệm có thể mang tính tôn giáo, nhưng mô tả phải mang tính khoa học; giá trị có thể huyền nhiệm, nhưng tiến trình phải được nhận diện là tâm lý học. Trên hết, cần tránh việc vội vã gán cho các trải nghiệm như thế những lời giải (dù là Thông Thiên Học hay khác). Đó là việc của các chuyên gia, các nhà tâm lý hoặc các nhà huyền môn. Chúng ta chỉ quan tâm đến một đầu của sợi dây, tức việc tường thuật trung thực. Những người giải thích đứng ở đầu kia. Do đó, chẳng hạn, không nên gán một “cõi” đặc biệt nào cho bất kỳ hiện tượng hay cảm thọ nào. Chỉ một nhà huyền môn mới làm được điều đó. Một cảm thọ chủ quan của hỷ lạc cao nhất vẫn có thể chỉ do sự cùn mòn của cảm năng chung tạo ra, và chỉ thế thôi: cái lạc của tamas khác với cái lạc của sattva.

Many readers may recognise in the few experiences I have to relate some of their own, or at least find an affinity with them. Perhaps they may have thought that such experiences were too isolated, infrequent and unimportant to note down. Here, however. the value of H.P.B.’s remark shows itself. I too attach very little value or importance to most of the experiences which I relate, and none at all to some of them, but I see equally well that, taken together – despite their infrequency – they indicate that my mind comes now and then into touch with a mysterious other-world of consciousness, where, it seems, forms of thought prevail other than those which we know here. They tell me that if I could always have present the symbolic vision and synthetic thought or the heightened sensibility of which I have only experienced momentary and intermittent flashes, I should be so much the richer as a conscious being and, I think, a step higher in the scale as an evolving entity. The mere experience, once, leads me to believe that there may be a possibility of experiencing it always and uninterruptedly. In short, I regard these things as forebodings, foreshadowings, promises even, for distant days to come, and as my own personal and invaluable little certitudes for that hope of inner unfoldment which, roughly, is sketched out by modern Theosophical literature, but which, after all, is and must remain unprovable by books alone. In other words: our occultists testify to their higher experiences. From their vast masses of testimony I think I have perceived the existence of a few atoms; and the existence of one atom of gold is enough to prove that gold exists.

Nhiều độc giả có thể nhận ra trong vài trải nghiệm tôi thuật lại bóng dáng của chính mình, hoặc ít nhất cũng thấy sự đồng cảm với chúng. Có lẽ họ từng nghĩ rằng những trải nghiệm như vậy quá rời rạc, hiếm hoi và không quan trọng để ghi chép. Tuy nhiên, chính ở đây nhận xét của Bà H. P. B. tỏ ra giá trị. Tôi cũng coi rất ít trải nghiệm mình thuật là có giá trị hay quan trọng, và với vài cái thì chẳng có giá trị gì, nhưng tôi cũng thấy rõ rằng, khi đặt chung lại — bất chấp tính hiếm hoi — chúng cho thấy rằng tâm trí tôi đôi khi chạm vào một thế-giới-bí-ẩn khác của tâm thức, nơi, dường như, có những dạng tư tưởng khác với những gì chúng ta biết ở đây. Chúng cho tôi biết rằng nếu tôi có thể luôn hiện tiền tầm nhìn biểu tượng và tư tưởng tổng hợp, hoặc cảm năng được nâng cao mà tôi chỉ trải nghiệm bằng những tia chớp chốc lát và gián đoạn, thì tôi sẽ giàu có hơn nhiều như một hữu thể có ý thức và, tôi nghĩ, cao hơn một bậc trên nấc thang như một đơn vị đang tiến hóa. Một lần trải nghiệm thôi cũng dẫn tôi tin rằng có thể có khả năng để trải nghiệm điều ấy luôn luôn và không gián đoạn. Tóm lại, tôi coi những điều này như là những điềm báo, những bóng dự, thậm chí là những hứa hẹn cho những ngày xa tới, và như những điều cá nhân và vô giá, dầu nhỏ bé, xác quyết cho hy vọng về sự khai mở nội tâm, điều mà, nói chung, văn hiến Thông Thiên Học hiện đại phác họa, nhưng xét cho cùng, là và phải vẫn không thể chứng minh chỉ bằng sách vở. Nói cách khác: các nhà huyền môn của chúng ta làm chứng về những trải nghiệm cao hơn của Các Ngài. Từ khối lượng lớn lao những chứng từ ấy, tôi nghĩ mình đã nhận ra sự hiện hữu của vài nguyên tử; và sự hiện hữu của một nguyên tử vàng cũng đủ để chứng minh rằng vàng hiện hữu.

I. CHILDHOOD—I. THỜI THƠ ẤU

From the days of my childhood I recollect only two experiences. The first is trifling but amusing, and became intelligible to me only afterwards.

Từ những ngày thơ ấu, tôi chỉ nhớ hai trải nghiệm. Trải nghiệm đầu tiên nhỏ nhặt nhưng thú vị, và chỉ về sau tôi mới hiểu.

I.1. Astral Nakedness.

I.1. Sự trần truồng ở cõi cảm dục.

I was asleep, and was walking in one of the streets of the little town in which I was then living. I was amusing myself as children do at that age, but suddenly I became aware that I was clad only in my nightshirt (pyjamas being a fairly recent invention as far as Holland is concerned). I experienced a feeling of intense shame and felt as if all passers-by in the street were looking at me. I awoke with a start and felt still very much ashamed. Later on in reading about the astral plane I found the clue to this dream which, by its extraordinary vividness, made a strong impression on me.

Tôi đang ngủ, và đang đi bộ trên một trong những con phố của thị trấn nhỏ nơi tôi sống khi đó. Tôi đang tự vui như lũ trẻ ở tuổi ấy, nhưng bất chợt tôi nhận ra rằng mình chỉ mặc mỗi áo ngủ (đồ pyjama còn khá mới mẻ ở Hà Lan thời ấy). Tôi trải một cảm giác xấu hổ dữ dội và thấy như tất cả người qua đường đều đang nhìn tôi. Tôi giật mình tỉnh dậy và vẫn còn rất xấu hổ. Về sau, khi đọc về cõi cảm dục, tôi tìm thấy manh mối cho giấc mơ này, vốn bằng sự sống động khác thường của nó đã để lại ấn tượng mạnh nơi tôi.

[Notes by CWL]. (I very heartily congratulate my friend, Mr. Van Manen; first on his courage in coming forward thus openly to relate experiences many of which are of a somewhat private character; secondly, on the clearness and force with which he has stated them; and thirdly and chiefly, on the experiences themselves.

[Ghi chú của CWL]. (Tôi rất chân thành chúc mừng người bạn của tôi, Ông Van Manen; thứ nhất, vì lòng can đảm khi thẳng thắn bước ra để thuật lại những trải nghiệm mà nhiều cái có phần riêng tư; thứ hai, vì sự rõ ràng và sức mạnh trong cách Ông trình bày; và thứ ba, chủ yếu nhất, vì chính các trải nghiệm ấy.

For, though to those unversed in these studies they may at first glance appear disconnected, anyone who has fully opened the higher consciousness will at once recognise them all as parts of a coherent whole. True, many of them are glimpses only, but they are glimpses of the higher world, giving to him who experiences them a momentary foretaste of what will in the future be the everyday possibilities of his life.

Vì, tuy đối với những người chưa từng học các môn này, chúng thoạt nhìn có thể rời rạc, nhưng ai đã mở trọn tâm thức cao đều sẽ lập tức nhận ra tất cả chúng là những phần của một toàn thể nhất quán. Đúng là nhiều cái chỉ là thoáng thấy, nhưng đó là những thoáng thấy của thế giới cao, đem lại cho người trải nghiệm một vị nếm chốc lát về những gì trong tương lai sẽ là những khả thể hằng ngày của đời y.

Again and again our author explains that he cannot do justice to his subject – that words fail to express what be has seen and felt. We have all felt that, and we can well appreciate his difficulty; but, nevertheless, even though the attempt at description fails, as it cannot but fail, there are still touches in it which are unmistakable to those who have seen. He is assuredly quite right in regarding these experiences as foreshadowings of days still to come; and it is easy to appreciate his remark that even the simplest direct experience gives one a certainty as to the existence of other worlds which is not to be gained by any amount of mere study.

Hết lần này đến lần khác, tác giả của chúng ta giải thích rằng Ông không thể làm trọn công bằng cho đề tài — rằng ngôn từ bất lực để diễn đạt điều Ông đã thấy và cảm. Tất cả chúng ta đều từng cảm như vậy, và rất thấu hiểu cái khó của Ông; nhưng dẫu sao, dù nỗ lực mô tả có thất bại, như tất yếu sẽ thất bại, vẫn có những nét chấm phá trong đó không thể lầm đối với những ai đã thấy. Ông hoàn toàn đúng khi coi những trải nghiệm này như bóng dự của những ngày còn ở phía trước; và rất dễ hiểu nhận xét của Ông rằng ngay cả một trải nghiệm trực tiếp đơn giản cũng cho ta xác quyết về sự hiện hữu của các thế giới khác mà không bất cứ lượng học hỏi thuần túy nào có thể đem lại.

He hardly does himself and his experiences justice when he says that “a subjective feeling of the highest rapture may have been produced by a dulling of general sensibility.” The dulling of sensibility does give a blissful feeling of complete repose, of escape from the ever-present weight and weariness of physical life which we ordinarily fail to recognise, because we have been born into it, and know no other condition; but the essence of this feeling is relief, which is a kind of negative sensation. The bliss of the higher worlds has in it an intensity of positive vivid life – life in the most vigorous activity, life raised to the nth power – which is quite unmistakable, and by no means to be confused with the other. At least, so it seems to me.

Ông hầu như đã tự mình và cho các trải nghiệm của mình phần nào bất công khi nói rằng “một cảm thọ chủ quan của hỷ lạc cao nhất có thể đã được tạo ra do sự cùn mòn của cảm năng chung.” Sự cùn mòn cảm năng đúng là đem lại một cảm giác lạc thú của sự an nghỉ hoàn toàn, của sự thoát khỏi sức nặng và mệt mỏi luôn hiển diện của đời sống hồng trần — điều mà bình thường ta không nhận ra, vì ta sinh vào trong nó và không biết trạng thái nào khác; nhưng bản chất của cảm giác này là nhẹ nhõm , vốn là một dạng cảm thọ tiêu cực. Còn lạc phúc của các thế giới cao thì trong đó có cường độ sống động tích cực — sự sống trong hoạt động mãnh liệt nhất, sự sống được nâng lên đến lũy thừa mũ n — điều ấy hoàn toàn không thể lẫn, và tuyệt nhiên không thể nhầm với điều kia. Ít nhất, đối với tôi là như thế.

The first experience which he notes for us is by no means uncommon – that of finding oneself in some public place with much less than the usual amount of clothing. It has often been said in Theosophical literature that in the astral and higher worlds people clothe themselves as they choose by a mere effort of the will. Very often this will seems to act unconsciously, so that most people appear in some quite ordinary costume with which their friends are familiar; but where through forgetfulness or for some other reason the active will fails to attend to this matter, the subconscious part of it gives us an automatic reproduction of the garment which is actually worn by the physical body at the moment, as in the case which our author describes.)

Trải nghiệm đầu tiên Ông ghi nhận cho chúng ta không hề hiếm — việc thấy mình ở nơi công cộng với ít hơn mức y phục thường lệ. Văn hiến Thông Thiên Học đã nhiều lần nói rằng ở cõi cảm dục và cao hơn, con người tự khoác y phục theo ý muốn chỉ bằng một nỗ lực ý chí. Rất thường khi ý chí này dường như hành động vô thức, đến nỗi hầu hết người ta hiện ra trong một y phục khá bình thường mà bằng hữu họ quen biết; nhưng khi vì quên lãng hay vì lý do khác mà ý chí chủ động không chăm lo việc này, thì phần vô thức của nó cho ta một bản sao tự động của bộ y phục mà thể xác đang mặc vào lúc ấy, như trong trường hợp tác giả của chúng ta mô tả.)

I.2. The Wrong End of the Telescope. The second experience is one which I can only describe, not understanding it at all up to this day. Fairly often when lying in bed prior to falling asleep it seemed as if the walls of the room and perhaps also the objects therein were beginning to recede and recede unendingly, and they would appear as if seen through the wrong end of a telescope. This recession, however, was not so much in a straight line as rather in a most curious twirling motion, as if every point in them was turning itself inside out. To put it graphically, it was as if every point, as well as the whole total, was moving away in the manner of a ring of smoke, blown by an expert in these matters. I believe that I at least once saw small heinzel-männchen-like figures in the distance. Of course I did not analyse these things at the time in such detail, but I remember the experience clearly. As a matter of fact I was rather afraid of this sort of thing.

I.2. Đầu ngược của kính viễn vọng. Trải nghiệm thứ hai là điều mà cho đến nay tôi chỉ có thể tả lại, chứ hoàn toàn không hiểu. Khá thường khi, lúc nằm trên giường trước khi ngủ, dường như các bức tường của căn phòng, và có lẽ cả những đồ vật trong đó, bắt đầu lùi xa và lùi xa vô tận, và chúng hiện ra như thể được nhìn qua đầu ngược của một kính viễn vọng. Tuy nhiên, sự lùi xa này không phải theo đường thẳng mà là theo một chuyển động xoáy cực kỳ lạ lùng, như thể mọi điểm trong chúng đang lộn mình từ trong ra ngoài. Nói hình họa ra, như thể mỗi điểm, cũng như toàn thể, đang rời đi theo kiểu một vòng khói do người thổi khói điệu nghệ tạo ra. Tôi tin rằng ít nhất một lần tôi đã thấy ở đằng xa những hình nhân nhỏ giống “Heinzelmännchen”. Dĩ nhiên tôi đã không phân tích những điều đó cụ thể như thế ngay lúc ấy, nhưng tôi nhớ rất rõ trải nghiệm. Thực ra tôi khá sợ kiểu chuyện như vậy.

I.3. Turned Inside Out. I may add that in later times I have had on several occasions a sensation analogous to the above, only it was not accompanied by visual impressions. Several times I have experienced in concentration the feeling (in the body) of such a turn-inside-out movement, going on like a propeller in the air. I always expected that the next turn should lead somewhere (where exactly I could never locate), but it always ended in nothing. Sometimes this sensation is not felt inside the body but in the space around the body, and then the impression is that one ascends, or as the case may be descends, ever and ever more highly or deeply. Yet one never arrives, though firmly expecting to arrive somewhere.

I.3. Lộn từ trong ra ngoài. Tôi có thể thêm rằng về sau này tôi đã vài lần có một cảm giác tương tự như trên, chỉ khác là nó không đi kèm ấn tượng thị giác. Vài lần, trong định tâm, tôi đã trải cảm giác (trong thân) của một chuyển động lộn-từ-trong-ra-ngoài như thế, quay đều như cánh quạt trên không. Tôi luôn chờ rằng vòng quay kế tiếp sẽ dẫn đi đâu đó (chính xác nơi nào tôi không xác định được), nhưng nó luôn kết thúc trong hư không. Đôi khi cảm giác này không ở bên trong thân mà ở không gian quanh thân, và khi đó ấn tượng là người ta đang thăng lên, hoặc tùy trường hợp, hạ xuống, cao hơn nữa hoặc sâu hơn nữa. Thế mà vẫn không bao giờ tới nơi, dù kiên quyết trông chờ sẽ tới một chốn nào đó.

[CWL note] (The second and third experiences are very characteristic and instantly recognisable, yet impossible fully to describe or to make clear to those who have never felt anything of the kind. The change from the physical to the astral consciousness usually takes place so quickly that it has no observable stages; and even when the stages are observed, some people naturally select one group of phenomena for special attention, while others concentrate themselves on a quite different group. When one does reach the astral plane, its consciousness is by no means equally developed in all of us. Some of us, for example, invariably associate with it the power to see fourth-dimensionally, while most have as yet no glimpse of that quality. This peculiar spiral turning inside-out which is mentioned here clearly indicates the possession of knowledge of that sort, and the quaint way in which, when the author is just about to pass into that condition of consciousness, he experiences the change some times in himself, sometimes outside himself, and sometimes in connection with partially seen physical objects – all these again are thoroughly characteristic of that condition of half-awakened consciousness. When this is attained in meditation it ought of course to lead to something, as Mr. Van Manen very properly says; but all who have experimented in these matters know well how frequently one fails upon the very brink of success, and how many times one has to try before results are finally achieved.)

[Ghi chú của CWL] (Trải nghiệm thứ hai và thứ ba rất điển hình và lập tức có thể nhận ra, song hoàn toàn bất khả mô tả trọn vẹn hay làm sáng tỏ đối với những ai chưa từng cảm được điều gì tương tự. Sự chuyển đổi từ tâm thức hồng trần sang tâm thức cảm dục thường diễn ra nhanh đến mức không có các giai đoạn có thể quan sát; và ngay cả khi các giai đoạn được ghi nhận, vài người tự nhiên chọn một nhóm hiện tượng để chú ý đặc biệt, trong khi những người khác lại tập trung vào một nhóm hoàn toàn khác. Khi người ta đạt đến cõi cảm dục, tâm thức thuộc cõi ấy quyết không phát triển như nhau ở tất cả chúng ta. Chẳng hạn, một số người luôn gắn nó với năng lực nhìn theo chiều thứ tư, trong khi đa số thì chưa hề thoáng thấy phẩm tính đó. Cái xoáy lạ lùng lộn từ trong ra ngoài được nói đến ở đây rõ ràng chỉ thị sự sở đắc tri thức theo kiểu ấy, và cách thức độc đáo mà, khi tác giả sắp sửa chuyển vào trạng thái tâm thức đó, Ông trải sự chuyển đổi đôi khi trong chính mình, đôi khi ở ngoài mình, và đôi khi liên quan đến những đối tượng hồng trần chỉ thấy một phần — tất cả những điều này lại một lần nữa hoàn toàn điển hình cho trạng thái tâm thức nửa-tỉnh ấy. Khi điều này đạt được trong tham thiền, dĩ nhiên nó phải dẫn đến điều gì đó, như Ông Van Manen rất đúng khi nói; nhưng tất cả những ai từng thử nghiệm các vấn đề này đều biết rõ người ta thường thất bại ngay bên bờ thành công như thế nào, và phải thử bao nhiêu lần trước khi rốt cuộc đạt được kết quả.)

II. PROPHETIC VISIONS AND DREAMS—II. THỊ KIẾN VÀ GIẤC MƠ TIÊN TRI

After these two preliminary incidents I will deal with those of later years, now roughly classifying the examples. The two following experiences are of necessity of an intimate nature, and I have to apologise for mentioning them, in order not to be accused of vanity. They are, however, the only two of the class I have, and so I cannot leave them out without making my record, so far as it goes, incomplete. I need not say that I myself have not consciously invented their interpretation; the interpretation came simultaneously with the pictures as part and parcel of them. I have nothing to do with it. Besides, it may be false, and also the first part in each story is not flattering to me, nothing to boast of.

Sau hai tình tiết dạo đầu này, tôi sẽ bàn về những chuyện các năm sau, nay tạm phân loại đại khái. Hai trải nghiệm sau đây tất yếu mang tính thâm mật, và tôi phải xin lỗi vì đã nêu chúng ra, để khỏi bị cáo buộc là khoe khoang. Tuy vậy, chúng là hai cái duy nhất thuộc loại này tôi có, nên tôi không thể bỏ chúng mà vẫn muốn cho bản ghi của mình, trong giới hạn của nó, được đầy đủ. Tôi không cần nói rằng bản thân tôi không tự ý bịa ra lời diễn giải; lời giải xuất hiện đồng thời với các bức ảnh như là phần nội tại của chúng. Tôi không can dự gì. Hơn nữa, nó có thể sai, và cả phần đầu trong mỗi câu chuyện đều không có gì tâng bốc tôi, chẳng có gì đáng tự phụ.

II.4. An Inverted Icarus.

II.4. Một Icarus đảo chiều.

As far as I recollect, soon after my entrance into the Theosophical Society I would see, or a picture of it would arise in my consciousness, a little figure, standing as if on a strip of seashore. I remember quite well one morning, while dressing, how I stared a long time at that little figure, naked, on the beach, before me. I saw with the ‘mind’s eye,’ whatever that may mean. There was no objective picture, no beach anywhere near, yet I saw the picture. That little shining figure was somehow about an inch or two high, though how I could assign length I don’t know, unless I stared through the window-sill, which may have furnished a sort of general background of measure. Anyhow the little figure was me, not in the sense of a pre-incarnational me, but he signified me, he was meant to indicate me. While I watched I saw that the little figure was meant to do something, but was tarrying and tarrying. Strange – the figure was there and did nothing, but I knew that he was doing something very hard: he was waiting, losing time. I saw what he was doing: he was doing nothing, he was positively at work at doing nothing. At last, very much at last, the figure made up his mind and with one mighty jump soared upwards into the sky like a rocket, leaving a silvery track, and, reaching the sky with a graceful curve, disappeared.

Theo tôi nhớ, chẳng bao lâu sau khi tôi gia nhập Hội Thông Thiên Học, tôi thường thấy, hoặc một bức ảnh của nó hiện lên trong tâm thức tôi, một hình nhân nhỏ, đứng như trên một dải bờ biển. Tôi nhớ rất rõ một buổi sáng, đang mặc quần áo, tôi đã ngây người nhìn thật lâu hình nhân nhỏ ấy, trần truồng, trên bãi biển, ngay trước mặt tôi. Tôi thấy bằng “con mắt trí”, nghĩa là gì thì tùy hiểu. Không có bức ảnh khách quan nào, chẳng có bãi biển nào ở gần, vậy mà tôi lại thấy bức ảnh ấy. Hình nhân nhỏ sáng ấy bằng cách nào đó cao chừng một đến hai inch, dẫu tôi không biết làm sao có thể gán kích thước dài, trừ phi tôi đã nhìn xuyên qua bệ cửa sổ, thứ có thể đã cung cấp một nền chung để ước lượng. Dẫu sao, hình nhân nhỏ ấy là tôi , không phải theo nghĩa “tôi” tiền nhập thể, mà là y biểu trưng cho tôi, y có ý chỉ định tôi. Khi tôi nhìn, tôi thấy hình nhân nhỏ ấy được định làm một điều gì đó, nhưng lại dùng dằng mãi. Lạ thay — hình nhân ở đó và chẳng làm gì, nhưng tôi biết y đang làm một việc rất khó: y đang chờ , đang để lỡ thời gian. Tôi thấy y đang làm gì: y đang làm không gì cả , y đang tích cực làm cái không gì cả. Cuối cùng, rất rất lâu sau, hình nhân quyết ý và với một cú nhảy hùng mạnh, y phóng vút lên trời như một quả pháo thăng thiên, để lại một vệt bạc, và khi chạm trời bằng một đường cong duyên dáng, y biến mất.

This picture I saw several times during my younger days of membership. The explanation, neither sought for nor discussed, came simultaneously with, and as involuntarily as, the picture. It was that I should squander much time (and evidently many opportunities) in the first period (which may of course stretch over many lives, who knows?) of my endeavours to reach or tread the Path, but that once having reached it I should make rapid and brilliant progress.

Bức ảnh này tôi đã thấy nhiều lần trong những năm đầu là hội viên. Lời giải thích, không hề được tìm kiếm hay bàn luận, đến đồng thời và tự phát như bức ảnh. Rằng tôi sẽ phung phí nhiều thời giờ (và hiển nhiên nhiều cơ hội) trong giai đoạn đầu (điều này dĩ nhiên có thể kéo dài qua nhiều kiếp, ai biết?) của nỗ lực đạt đến hay bước lên Thánh Đạo, nhưng một khi đã đến đó, tôi sẽ tiến nhanh và rực rỡ.

Once more I only record my experience, and if I have constructed picture or explanation by the aid of my subconsciousness, then call my sub-ego vain but not me, for I myself do not accept responsibility for either.

Một lần nữa, tôi chỉ ghi lại trải nghiệm của mình, và nếu tôi đã kiến tạo bức ảnh hay lời giải bằng sự trợ giúp của tiềm thức, thì hãy gọi “tiểu-ngã” của tôi là tự phụ chứ đừng gọi tôi, vì bản thân tôi không nhận trách nhiệm cho cả hai.

II.5. A Troubled Dinner. The second case of prophetic character was a dream, and dates from a few years later than the previous story. I was living at the time in the Theosophical Headquarters in Amsterdam, and one night I dreamt very vividly that I was sitting at table with all, or most, of my fellow-inhabitants of Headquarters. I do not know whether Mrs. Besant and some other Theosophical leaders were present at the meal; I’m uncertain concerning that detail. We were eating the specially Dutch dish ‘hutspot’ (a kind of hodge-podge, mainly consisting of mashed potatoes and slices of carrot). I remarked that my neighbour and good friend, Mr. Wierts van Coehoorn, was eating away with fierce determination. When I made ready to fall to also, a regular flow of earwigs began to issue from the food on my plate. I began to kill them as they came along, and kept at it a long time. I felt that if I gave up the food as a bad job, I should fail in something very important. At last the stream of insects ceased; the last had been killed, and I ate the food, finishing it. Awakening in the morning I remembered simultaneously dream and explanation. The latter was similar to that of the previous experience. There were in my character as yet many flaws; I was united to a group of other people all striving for the higher life (eating the food spiritual). For me the task was very difficult. I had to slay several obnoxious skandhas, to work off several items of bad karma. But I must not leave off, must not turn away discouraged. After having overcome these difficulties I too would finish my plate, i.e., attain.

II.5. Một bữa ăn rối rắm. Trường hợp tiên tri thứ hai là một giấc mơ, và có niên đại vài năm sau câu chuyện trước. Khi ấy tôi đang sống tại Trụ sở Thông Thiên Học ở Amsterdam, và một đêm tôi mơ rất sống động rằng tôi đang ngồi vào bàn ăn với tất cả, hoặc đa số, những người cùng cư ngụ Trụ sở. Tôi không biết Bà Besant và vài vị lãnh đạo Thông Thiên Học khác có hiện diện trong bữa ăn không; về chi tiết ấy tôi không chắc. Chúng tôi ăn món “hutspot” đặc biệt kiểu Hà Lan (một kiểu thập cẩm, chủ yếu gồm khoai tây nghiền và lát cà rốt). Tôi nhận thấy người bạn tốt ngồi cạnh tôi, Ông Wierts van Coehoorn, đang ăn với quyết tâm dữ dội. Khi tôi sắp sửa nhập tiệc, thì bắt đầu có một dòng dế tai đều đặn chảy ra từ món ăn trên đĩa tôi. Tôi bắt đầu giết chúng khi chúng bò ra, và cứ thế một lúc dài. Tôi cảm thấy rằng nếu tôi bỏ món ăn như một việc hỏng, tôi sẽ thất bại ở một điều gì đó rất quan trọng. Sau cùng, dòng côn trùng ngừng; con cuối cùng đã bị giết, và tôi ăn món ăn đó, dọn sạch đĩa. Tỉnh dậy buổi sáng, tôi đồng thời nhớ cả giấc mơ và lời giải. Lời giải tương tự như ở trải nghiệm trước. Trong tính cách tôi còn nhiều tì vết; tôi được nối kết với một nhóm người khác, tất cả đều đang nỗ lực sống cao hơn (ăn món ăn tinh thần). Với tôi, nhiệm vụ rất khó. Tôi phải hạ sát nhiều uẩn đáng ghét, phải trả xong nhiều khoản nghiệp xấu. Nhưng tôi không được bỏ cuộc, không được quay đi nản chí. Sau khi vượt qua những khó khăn ấy, tôi cũng sẽ “dọn xong đĩa của mình”, tức là, đạt thành.

True prophecy or not, I have a shrewd suspicion that I recognised some of the earwigs; some of them are not yet dead at the present day! I wonder whether if I had dreamed this dream in India instead of Holland, the earwigs would not have been cockroaches or ants?

Tiên tri đúng hay không, tôi ngờ rằng tôi đã nhận ra vài con dế ấy; vài con trong số chúng đến nay vẫn chưa chết! Tôi tự hỏi nếu tôi mơ giấc mơ này ở Ấn Độ thay vì Hà Lan, liệu dế tai có thành gián hay kiến không?

[CWL note] (Experiences four and five are obviously instances of the symbolical thought of the ego, which he is kind enough to throw down in this case into the lower mind along with a strong impression of its explanation. Our writer is fortunate in this, for it is far more common to receive the symbol without the explanation, and to be left to guess wildly. The first symbol is beautiful, the second distinctly unattractive; but no doubt the ego, which does not eat, would find it difficult to comprehend the idea that unpleasant forms of life would pollute food. Very characteristic also is the fact that, in the case of the little figure standing on the beach, the seer knows that he is wasting time in unnecessary hesitation, although he is in no way told that fact, nor is there anything in the vision itself to show it. I do not mean that the ego thinks in pictures such as these; but pictures such as these are the nearest representation that we can get down here of the way in which an ego formulates thought. But his thought means and includes much more than can be represented in our picture.)

[Ghi chú của CWL] (Trải nghiệm bốn và năm hiển nhiên là những trường hợp của tư tưởng biểu tượng nơi chân ngã, mà Ông vui lòng ném xuống hạ trí kèm theo một ấn tượng mạnh về lời giải thích của nó. Tác giả thật may mắn ở điểm này, vì thường thì ta chỉ nhận được biểu tượng mà không có lời giải, và bị bỏ mặc phải đoán già đoán non. Biểu tượng thứ nhất đẹp, biểu tượng thứ hai thì rõ ràng kém hấp dẫn; nhưng hẳn chân ngã — vốn không “ăn” — sẽ khó hiểu được ý niệm rằng những dạng sống khó chịu có thể làm ô uế thực phẩm. Cũng rất điển hình là việc, trong trường hợp hình nhân nhỏ đứng trên bãi biển, người thấy biết rằng y đang phí thời giờ trong sự do dự không cần thiết, dù y không hề được nói điều ấy, và trong chính thị kiến cũng chẳng có gì cho thấy điều đó. Tôi không có ý nói rằng chân ngã nghĩ bằng những bức tranh như thế; nhưng những bức tranh như thế là hình dung gần nhất mà chúng ta có thể đem xuống đây về cách một chân ngã cấu hình tư tưởng. Tuy vậy, tư tưởng của y còn hàm nghĩa và bao gồm nhiều hơn những gì có thể biểu hiện trong bức tranh của chúng ta.)

III. MEDITATIONAL EXPERIENCES—III. NHỮNG KINH NGHIỆM TRONG THAM THIỀN

Of these I will relate two. The first I have already published in this journal some years ago, but it may be repeated here as having a natural place in this report.

Về những điều này tôi sẽ kể hai chuyện. Chuyện thứ nhất tôi đã công bố trong tạp chí này vài năm trước, nhưng có thể nhắc lại ở đây vì nó có chỗ tự nhiên trong bản tường trình này.

III.6. A Vision of Brotherhood. Some years ago in meditation I tried several experiments with myself, and some of these led to results which I found rather interesting. When meditating on a single idea, such as purity, love, or unity, there would often come to me a sudden and vivid vision symbolising that idea, accompanied by a spontaneously-arising sonnet, the contents of which were always a poetic commentary on the vision.

III.6. Một thị kiến về tình huynh đệ. Vài năm trước, trong tham thiền, tôi đã thử vài thí nghiệm với chính mình, và một số trong đó dẫn đến những kết quả mà tôi thấy khá thú vị. Khi tham thiền trên một ý niệm đơn lẻ, như thanh khiết, tình thương, hay hợp nhất, thường sẽ xuất hiện nơi tôi một thị kiến bừng lên đột ngột và sống động tượng trưng cho ý niệm ấy, kèm theo một bài sonnet tự phát sinh, nội dung luôn là một lời bình thi vị cho thị kiến.

For example, one day when meditating on brotherhood there suddenly leaped into existence before my internal vision a magnificent temple, apparently Egyptian or Grecian in style. It had no outer walls, but consisted of a large number of pillars, supporting a graceful roof, and surrounding a small walled shrine, into which I did not see. I cannot express the vividness with which I felt that the building was instinct with meaning – impregnated, as it were, with a magnetism of intelligence which made it no mere vision, but an object lesson containing the very highest teaching. Simultaneously the explanatory sonnet unfolded itself, and described in its few terse compact lines how this was a symbol of true brotherhood – how all these pillars, all in different places, some bathed in the glorious sunlight, some forever in the half shade of the inner lines, some thick, some thin, some exquisitely decorated, some equally strong yet unadorned, some always frequented by devotees who used to sit near them, others always deserted – how all of them silently, ungrudgingly, perseveringly and equally bore together the one roof, protecting the inner hall and its shrine – all different and yet so truly all the same. And the sonnet ended: “In this see brotherhood.”

Chẳng hạn, một ngày nọ khi tham thiền về tình huynh đệ, bỗng nhiên hiện lên trước nhãn quan nội tại của tôi một ngôi đền tráng lệ, dường như theo phong cách Ai Cập hay Hy Lạp. Đền không có tường ngoài, mà gồm một số lượng lớn những cột trụ, đỡ một mái vòm duyên dáng, và vây quanh một tịnh xá nhỏ có tường, bên trong tôi không thấy. Tôi không thể diễn tả sự sống động với đó tôi cảm rằng toàn công trình thấm đẫm ý nghĩa — như thể được thụ cảm, thấm nhuần một từ điện của trí tuệ khiến nó không chỉ là một thị kiến, mà là một bài học trực quan chứa đựng giáo huấn rất cao. Đồng thời, bài sonnet giải thích mở ra, và trong những câu ngắn gọn mà hàm súc, bài thơ mô tả rằng đây là một biểu tượng của tình huynh đệ chân chính — rằng tất cả những cột ấy, tất cả ở các vị trí khác nhau, có cái tắm trong ánh dương huy hoàng, có cái mãi mãi trong nửa bóng bên trong, cột thì dày, cột thì mảnh, cột thì trang trí tuyệt mỹ, cột kia cũng vững chắc mà không tô điểm, có cột luôn có người mộ đạo ngồi gần, cột khác luôn vắng vẻ — rằng tất cả đều âm thầm, không than vãn, bền bỉ và bình đẳng cùng nhau đỡ một mái chung, che chở tiền điện và tịnh xá bên trong — tất cả khác nhau mà lại thật sự đều như nhau. Và bài sonnet kết: “Trong điều này hãy thấy tình huynh đệ.”

I could not reproduce it now, but the richness and fulness of its meaning, the deep wisdom so neatly wrapped up in those few words, made me see as if in the gleam of a search-light what true brotherhood really means – the sharing of service, the bearing one’s part, regardless of all else but the work to be done.

Giờ tôi không thể chép lại nó, nhưng sự phong phú và đầy đặn của ý nghĩa, sự minh triết sâu xa được gói ghém gọn ghẽ trong những lời ít ỏi ấy, đã khiến tôi thấy — như dưới luồng sáng của một đèn pha — tình huynh đệ chân chính thật sự là gì — là cùng chia sẻ phụng sự, là gánh phần mình, bất kể mọi điều khác ngoài công việc phải làm.

A word of caution should be added. Cases are on record where glorious poems have been composed in states of meditation or rapture, but when written down these proved sometimes to be nothing more than insufferable doggerel. I never put my experiences along such lines to the test by writing them down.

Cần thêm một lời thận trọng. Có những trường hợp đã ghi nhận nơi những bài thơ tuyệt vời được sáng tác trong các trạng thái tham thiền hay ngây ngất, nhưng khi chép ra, chúng có khi chỉ là những câu vụng về không thể chịu được. Tôi chưa bao giờ đem những trải nghiệm theo hướng này ra thử thách bằng cách viết xuống.

III.7. The Master’s Love for Humanity. At another time, whilst sitting in meditation, there appeared before me a figure of Master K. H., bearing a child on His arm. The appearance was like the image of a Roman Catholic saint, something similar to the figure of the Virgin with the Christ-child. Its height was about two or three feet – though I cannot find any reason why I should fix any definite measurement to the appearance, there being no point of comparison. Nevertheless the impression of size was there. My eyes were closed and the figure drifted into (internal) vision and out of it, not fading away, as far as I can remember. The curious thing was that I was at the time not at all thinking of the Master, and the appearance was, as it were, an intrusion from without into the current of my consciousness.

III.7. Tình thương của Chân sư dành cho nhân loại. Một lần khác, khi đang ngồi tham thiền, trước tôi hiện ra hình ảnh Chân sư KH, bế một đứa trẻ trên tay Ngài. Hình ảnh giống như tượng một vị thánh Công giáo Rôma, tương tự hình Đức Mẹ bồng Hài Nhi. Chiều cao vào khoảng hai hay ba feet — dù tôi không tìm ra lý do để ấn định bất kỳ số đo chắc chắn nào cho hình ảnh, vì không có điểm so sánh. Tuy nhiên, ấn tượng về kích thước vẫn hiện diện. Tôi nhắm mắt và hình ảnh trôi vào trong (nội) thị và trôi ra khỏi đó, theo tôi nhớ thì không phai dần. Điều lạ lùng là lúc ấy tôi hoàn toàn không nghĩ đến Chân sư, và hình ảnh như là một sự “xen ngang” từ bên ngoài vào dòng ý thức của tôi.

Now the chief importance of the phenomenon was that I knew that the child was humanity, and that I felt the immense and indescribable love of the Master for it. It was this love that was the central point in the experience. I have never before or since felt anything like it. It was overwhelming in its strength and virility, and at the same time in its softness and tenderness. It was mighty and holy and overflowingly full of life and reality and force. It was something beyond merely human capacity; mighty without violence, sweet without weakness; unique, and yet so natural. Of course I cannot describe it, of course I cannot remember – or better, recall it. I remember that it was, but not how it was, as, in after years, one remembers that some excruciating pain was once suffered, but the pain itself does not emerge again from the past. All I know now is that, since that time, I can laugh at any ordinary talk about love, even the highest and holiest descriptions. All love that I have heard about, or read about, or have seen manifested, or have been able to feel myself, is as a pale shadow of that great Love radiating from that picture, is in comparison to it a stone for bread, an empty husk for the fruit of life, is a dream, a delusion, a snare – is nothing.

Giờ đây điều quan trọng nhất của hiện tượng là tôi biết rằng đứa trẻ ấy là nhân loại, và tôi cảm được tình thương mênh mông và bất khả tả của Chân sư dành cho nhân loại. Chính tình thương ấy là điểm trung tâm của trải nghiệm. Tôi chưa bao giờ trước đó hay từ đó về sau cảm được điều gì giống như vậy. Nó áp đảo trong sức mạnh và nghị lực, đồng thời trong sự dịu dàng và âu yếm. Nó hùng tráng và thánh thiện và tràn trề sinh khí, thực tại và mãnh lực. Nó vượt quá khả năng thuần nhân loại; hùng mà không bạo, dịu mà không yếu; độc nhất, mà lại rất tự nhiên. Dĩ nhiên tôi không thể mô tả nó, dĩ nhiên tôi không thể nhớ — đúng hơn, không thể gợi lại nó. Tôi nhớ rằng nó đã có, nhưng không nhớ như thế nào nó đã có, như về sau người ta nhớ rằng mình từng chịu một nỗi đau đớn khôn tả, nhưng bản thân cơn đau thì không hiện lại từ quá khứ. Tất cả những gì tôi biết lúc này là, từ dạo ấy, tôi có thể cười nhạo mọi lời nói thường tình về tình yêu, ngay cả những mô tả cao cả và thánh thiện nhất. Mọi tình yêu mà tôi nghe nói, hay đọc thấy, hay chứng kiến, hay chính tôi có thể cảm, đều chỉ như một chiếc bóng nhạt của Đại Tình Thương tỏa ra từ bức ảnh ấy, so với nó thì chỉ là hòn đá thay cho bánh, là vỏ trấu thay cho trái sự sống, là một giấc mộng, một ảo tưởng, một cạm bẫy — là không gì cả.

When I speak here again of ‘seeing,’ it should be understood that in this as in other cases I do so only for want of other words. I had a visual impression, that is all. Of its nature I am wholly ignorant.

Khi tôi lại nói “thấy” ở đây, cần hiểu rằng trong trường hợp này cũng như các trường hợp khác, tôi làm thế chỉ vì thiếu các từ khác. Tôi có một ấn tượng thị giác, chỉ thế thôi. Về bản chất của nó tôi hoàn toàn không hay biết.

[CWL note] (The vision of brotherhood, and that other which indicates the Master’s love for humanity, are deeper and more beautiful examples of the same faculty. The wonderful vision of the temple is a very fine example of thought in the causal body, and our author describes for us also how there comes along with it a poetical expression of its meaning – a sonnet which, however, he is unable to recover upon the physical plane. The thought of the ego is perfect; it is in itself at the same time a picture and a description, but in order to give upon the physical plane even the most imperfect expression of its wondrous fullness, it is necessary to call upon two of our modes of manifestation – painting and poetry. But for the ego the picture and the poetic description are one effort, and that no more of an effort than the flash of an ordinary thought into the brain is for us. The word of caution with which our author annotates this experiences – saying that what in a condition of rapture appear to be glorious poems often prove to be dreadful doggerel when written down – is not, strictly speaking, appropriate in this case, though true with regard to another and quite different type of experience – the partial recollection on waking of the memories of the physical brain, whose rather dull consciousness is apt to regard its geese as especially noble swans, and is quite capable of endowing doggerel with indescribable splendour. But this is a case of the consciousness of the ego, and consequently the poem, on its own plane, must have been perfect – indeed, what would seem to us super-perfect; though it is true that it is utterly impossible to bring such a thing down into ordinary human words, and that attempts to do so have frequently ended in bathos. But he need have no doubt that at its own level the poetical expression was as perfect as the picture, though less susceptible of translation. Such a thought as that, including all those varied meanings, and manifesting in many different ways, is the thought “brotherhood” to an ego.

[Ghi chú của CWL] (Thị kiến về tình huynh đệ, và thị kiến kia chỉ bày tình thương của Chân sư dành cho nhân loại, là những ví dụ sâu hơn và đẹp hơn về cùng một năng lực. Thị kiến tuyệt diệu về ngôi đền là một ví dụ rất hay của tư tưởng nơi thể nguyên nhân, và tác giả của chúng ta cũng mô tả cho chúng ta cách có đi kèm một biểu đạt thi ca về ý nghĩa của nó — một bài sonnet, tuy nhiên, Ông không thể phục hồi lại được trên cõi hồng trần. Tư tưởng của chân ngã là toàn hảo; tự thân nó đồng thời là một bức tranh và một mô tả, nhưng để có thể cho ra ngay trên cõi hồng trần một biểu đạt dù bất toàn nhất về sự phong phú kỳ diệu của nó, cần phải cầu đến hai phương thức biểu lộ của chúng ta — hội họa và thi ca. Nhưng đối với chân ngã, bức tranh và mô tả thi ca là một nỗ lực, và nỗ lực ấy không hơn gì một tia lóe của một tư tưởng bình thường đánh xuống bộ não đối với chúng ta. Lời thận trọng mà tác giả chú thích cho trải nghiệm này — rằng những bài thơ vốn hiện ra huy hoàng trong trạng thái ngây ngất thường hóa ra đáng tệ khi viết xuống — nói đúng thì không thật thích hợp trong trường hợp này, dù đúng với một loại trải nghiệm khác và hoàn toàn khác — tức ký ức bán phần lúc tỉnh dậy của bộ não hồng trần, mà tâm thức khá đờ đẫn của nó thường coi ngỗng mình là thiên nga tuyệt mỹ, và hoàn toàn có thể gán cho câu vụng về một vẻ huy hoàng bất khả tả. Nhưng đây là trường hợp của tâm thức nơi chân ngã, và hệ quả là bài thơ, trên cõi của nó, hẳn đã toàn hảo — thực vậy, theo cách nhìn của chúng ta thì còn siêu-toàn-hảo; dù đúng là hoàn toàn bất khả đem một điều như thế xuống thành ngôn từ nhân loại thông thường, và những nỗ lực làm thế thường chấm dứt trong sự tầm thường. Tuy nhiên, Ông không cần hoài nghi rằng ở cấp độ riêng của mình, biểu đạt thi ca hoàn hảo chẳng kém gì bức tranh, chỉ là kém thích ứng để phiên dịch. Một tư tưởng như thế, bao gồm tất cả những nghĩa đa tạp ấy, và biểu hiện theo nhiều cách khác nhau, chính là tư tưởng “huynh đệ” đối với một chân ngã.

In the second of these two experiences we have again the characteristic knowledge of the exact meaning of what was seen, without the reception of definite information; and again in the deep realisation of the intensity of the Master’s love, so far beyond anything which language can express. Every word of the description at once evokes a mental response in those who have felt, but cannot describe. The figure may have been a thought-form called into existence by some other ego, but if that were so, the writer instantly accepted it, understood it and responded to it, and through it attained a realisation which can never be reached on the physical plane.)

Trong trải nghiệm thứ hai trong hai trải nghiệm này, ta lại thấy đặc điểm là biết chính xác ý nghĩa của điều được thấy, mà không nhận một thông tin rõ rệt; và một lần nữa, trong sự thâm cảm về cường độ của tình thương nơi Chân sư, vượt quá bất kỳ điều gì ngôn ngữ có thể biểu đạt. Mỗi lời trong mô tả lập tức gợi một hồi đáp nơi tâm những người từng cảm, nhưng không thể tả. Hình ảnh ấy có thể là một hình tư tưởng do một chân ngã nào khác gọi hiện, nhưng nếu thế, người viết lập tức tiếp nhận nó, hiểu nó và ứng đáp với nó, và qua nó đạt đến một nhận thức mà không thể nào đạt được trên cõi hồng trần.)

IV. PSYCHOLOGY—IV. TÂM LÝ HỌC

The next two experiences seem best classified as more directly psychological. The first appears very trivial, but as I have found that others also have observed a similar thing I record it.

Hai trải nghiệm kế tiếp có vẻ thuộc loại trực tiếp tâm lý học hơn. Trải nghiệm đầu có vẻ rất tầm thường, nhưng vì tôi nhận thấy những người khác cũng từng quan sát điều tương tự nên tôi ghi lại.

IV.8. A Living Portrait. During the first year of my membership in the Society I habitually put a portrait of H. P. B. on the table at which I worked. (The maidservant was afraid of that queer face; she thought it uncanny, and called it – out of my hearing – the spook.) Now, often looking up to the portrait, it seemed many a time to express a variety of moods in response to mine. I got the impression that it could clearly express approbation and discontentment, approval and reproach. Of course I do not refer to actual physical changes in the piece of cardboard, but its psychical impression changed according to circumstances; I felt the facial expression differently.

IV.8. Bức chân dung sống động. Trong năm đầu tiên là hội viên Hội, tôi thường đặt một bức chân dung của Bà H. P. B. trên chiếc bàn nơi tôi làm việc. (Người hầu gái sợ khuôn mặt lạ lùng ấy; cô thấy nó “rờn rợn”, và gọi — khi không có tôi nghe — là ma.) Nay, khi thường nhìn lên bức chân dung, nhiều lần dường như nó biểu thị nhiều tâm trạng khác nhau ứng đáp với tâm trạng của tôi. Tôi có ấn tượng rằng nó có thể biểu lộ rõ sự tán đồng và bất bình, bằng lòng và quở trách. Dĩ nhiên tôi không nói đến những biến đổi vật lý thật sự trong tấm bìa, nhưng ấn tượng tâm lý của nó thay đổi theo hoàn cảnh; tôi cảm nét mặt theo cách khác.

For many years I have no longer observed similar impressions, and I recognise that I have perhaps lost a certain guilelessness which may probably be a prerequisite for receptivity in this direction.

Trong nhiều năm tôi không còn ghi nhận những ấn tượng tương tự, và tôi nhận ra rằng có lẽ mình đã mất một phần nào đó sự vô tư chất phác, vốn có thể là điều kiện tiên quyết cho tính thụ cảm theo hướng này.

To the second experience I attach more value; indeed, it afforded me some instruction and furnished me with some food for serious thought.

Trải nghiệm thứ hai tôi coi trọng hơn; quả vậy, nó đem lại cho tôi ít nhiều chỉ giáo và cung cấp nhiều điều đáng suy ngẫm.

IV.9. A Spiritual Duel. In the Amsterdam Headquarters, where I resided at the time, the chief leader was Mrs. Meuleman, a striking and forceful character, of whom I still think with great gratitude and respect, and to whom I owe much in the way of help and guidance during a stage of my journey through life. She was a remarkable personality and, so far as I can gather, was of the H. P. B. type, though not, perhaps, of the same stature. She had all the ruggedness and incalculability of that type, as well as its constant self-contradictions; at the same time she was whole-heartedly devoted to the Theosophical cause, and was a true, loyal and tender friend. To me she has always been a living commentary on H. P. B. herself, and by living in close intimacy with her I have learned to understand much in Theosophical history which otherwise would have remained puzzling and unintelligible to me.

IV.9. Một cuộc đấu tay đôi tinh thần. Tại Trụ sở Amsterdam, nơi tôi cư trú khi đó, người lãnh đạo chính là Bà Meuleman, một nhân cách nổi bật và mạnh mẽ, mà đến nay tôi vẫn nghĩ về Bà với lòng tri ân và kính trọng lớn lao, và tôi mắc nợ Bà nhiều điều về sự giúp đỡ và chỉ dẫn trong một chặng đường đời của tôi. Bà là một phàm ngã đặc sắc và, theo tôi có thể suy, thuộc kiểu H. P. B., dẫu có lẽ không cùng tầm vóc. Bà có tất cả cái góc cạnh và khó lường của kiểu ấy, cũng như những tự mâu thuẫn thường trực; đồng thời Bà hết lòng tận hiến cho sự nghiệp Thông Thiên Học, và là một người bạn chân thành, trung tín và dịu hiền. Với tôi, Bà luôn là một “bình chú sống” về chính Bà H. P. B., và bằng việc sống thân cận với Bà, tôi đã học hiểu được nhiều điều trong lịch sử Thông Thiên Học mà bằng không sẽ vẫn rối rắm và bất khả thấu hiểu.

Temperamentally Mrs. Meuleman and myself were very different, and though I recognised her very many superior qualities, her manner and method were often unacceptable to me. In short, I felt often towards her a sort of inner rebellion wedded to outer assent – not so much a state of hypocrisy as a war of conflicting elements in my nature. Now the curious point about it was that this feeling chiefly manifested only in meditation and in dreams, and little in the ordinary waking consciousness. Without intentionally seeking it, I would in meditation drift into veritable battles, true duels, of arguments and controversy with Mrs. Meuleman, or wake up from sleep with the memory of a vivid dream to the same effect. There was no question of insults or of unseemly fighting, but rather I felt as if my real self was ‘having it out’ with the real self of my antagonist. I had a sort of impression not as if the personalities were in conflict, but as if the egos were engaged, so that my own personality-consciousness was not only looking on, but also half identifying itself with something behind itself that fought the battle. As said before, I never consciously started this train of thought, it was rather as if some restrained and subdued subconscious impulse worked itself out on these occasions. (Mrs. Meuleman being an old lady and I a youngster, she holding the local headship of the E. S. whilst I was a novice, and all other points being similarly disproportionate, there could not be any frank discussion on the footing of equality. Some things must therefore needs remain unsolved.) I related the case to Mrs. Meuleman, and she gave a fine intuitive answer for which I am still grateful to her – which symbolised one of these large traits in her character – showing tolerance and insight – which made us all love her so much. She simply said: “That is a very good sign, my boy. Go on fighting until you have fought it out.” And she spoke no more of it. Indeed, it has been a source of the greatest satisfaction to me to have been able to come to a definite conclusion, and be consequently at rest, with regard to Mrs. Meuleman’s remarkable character a short time before her death. She was in many ways a great woman, who nobly and strongly held a responsible post during the period when there was no other to hold it.

Về khí chất, Bà Meuleman và tôi rất khác nhau, và tuy tôi nhận biết rất nhiều phẩm chất trổi vượt của Bà, cách thức và phương pháp của Bà thường không được tôi chấp nhận. Tóm lại, tôi thường cảm với Bà một thứ phản kháng nội tâm đi đôi với sự ưng thuận bên ngoài — không hẳn là trạng thái giả trá, mà là một cuộc giao tranh giữa các yếu tố xung đột trong bản tính tôi. Nay điểm lạ là cảm thức ấy chủ yếu chỉ biểu hiện trong tham thiền và trong mộng, ít xuất hiện trong tâm thức thức tỉnh bình thường. Không cố ý tìm kiếm nó, tôi lại trôi vào trong tham thiền những trận chiến thực thụ, những cuộc song đấu đúng nghĩa, bằng lý lẽ và tranh biện với Bà Meuleman, hoặc tỉnh dậy sau giấc ngủ với ký ức về một giấc mơ sống động cùng nội dung. Không có chuyện sỉ nhục hay đấu đá khiếm nhã nào, mà đúng hơn tôi cảm như “chân ngã” của tôi đang “giải quyết cho xong” với chân ngã của đối thủ. Tôi có một ấn tượng — không phải như là các phàm ngã đang xung đột, mà như thể các chân ngã lâm chiến, đến nỗi tâm thức phàm ngã của tôi không chỉ đứng nhìn, mà còn nửa phần đồng hóa với một cái gì đó đằng sau chính nó đang đánh trận. Như đã nói, tôi không bao giờ cố ý khởi động dòng tư tưởng này, mà đúng hơn như thể một xung lực tiềm thức bị ghì nén và kềm chế đã tự nó bung ra trong những dịp ấy. (Bà Meuleman là một quý bà lớn tuổi còn tôi là kẻ trẻ tuổi, Bà giữ cương vị lãnh đạo địa phương của E. S. còn tôi là người mới nhập môn, và các điểm khác cũng lệch nhau tương tự, nên không thể có một cuộc thảo luận thẳng thắn trên nền bình đẳng. Một số việc tất nhiên phải còn treo lại.) Tôi kể lại sự việc với Bà Meuleman, và Bà đã cho một đáp từ trực giác thật hay mà đến giờ tôi vẫn tri ân — điều tượng trưng cho một trong những nét lớn trong tính cách Bà — biểu lộ lòng khoan dung và thấu hiểu — nhờ đó tất cả chúng tôi đều rất mến Bà. Bà chỉ nói: “Đó là một dấu hiệu rất tốt, con trai ạ. Cứ chiến đấu cho đến khi con giải quyết xong.” Rồi Bà không nhắc đến nữa. Quả thực, đối với tôi, có thể đi đến một kết luận dứt khoát, và nhờ đó được an ổn, về nhân cách đặc sắc của Bà Meuleman ít lâu trước khi Bà viên tịch, là một nguồn thỏa mãn lớn lao. Ở nhiều phương diện Bà là một phụ nữ lớn lao, đã kiên cường và xứng đáng giữ một vị trí trọng trách trong thời kỳ không ai khác có thể đảm nhiệm.

[CWL note] (The eighth item on our list sounds fantastic, yet is not so in reality. It must be remembered that every portrait is a definite link with its subject, and I have little doubt that that would be so to a far greater extent than is usual in the case of such a teacher as Madame Blavatsky. It is not probable that any change (other than a very slow and gradual one) took place in the physical expression of the face upon the cardboard; but it is certain that the author’s frequent thought of Madame Blavatsky would attract her attention, and it is likely that in answer to it she would project enough of herself into that portrait to convey to him such impressions as he describes. These impressions would be by no means necessarily reflections of the moods of the owner of the portrait; they are far more likely to have been the comments of the original of the portrait upon those moods, or upon the actions which had led to them or resulted from them. A portrait is a very real centre of force, and when the person whom it represents has any degree of occult advancement it is often an actual means of communication to a quite considerable extent.

[Ghi chú của CWL] (Mục thứ tám trong danh sách của chúng ta nghe có vẻ kỳ quái, song thực ra không phải vậy. Cần nhớ rằng mỗi bức chân dung là một mối liên kết xác định với nhân vật của nó, và tôi ít nghi ngờ rằng điều đó sẽ còn đúng ở mức độ lớn hơn thường lệ trong trường hợp một vị đạo sư như Bà Blavatsky. Khó có khả năng có bất kỳ biến đổi nào (trừ một biến đổi rất chậm và tiệm tiến) xảy ra nơi biểu cảm hồng trần của khuôn mặt trên tấm bìa; nhưng chắc chắn rằng tư tưởng thường xuyên của tác giả hướng về Bà Blavatsky sẽ thu hút sự chú ý của Bà, và rất có khả năng để đáp lại, Bà sẽ phóng chiếu đủ “bản thân” vào bức chân dung ấy để truyền đạt cho Ông những ấn tượng như Ông mô tả. Những ấn tượng này quyết không nhất thiết là phản chiếu tâm trạng của người chủ bức chân dung; khả dĩ hơn nhiều là chúng là các lời bình của nhân vật nguyên thủy của bức chân dung đối với các tâm trạng ấy, hoặc đối với những hành vi đã dẫn đến chúng hay phát sinh từ chúng. Một bức chân dung là một trung tâm mãnh lực rất thực, và khi người mà nó biểu trưng có bất kỳ mức tiến bộ huyền môn nào, nó thường là một phương tiện giao tiếp thực thụ ở một phạm vi đáng kể.

Many of our students know that it is possible gradually to modify the expression of a portrait by long meditation upon it; but that is a phenomenon of a class different from that which is mentioned above. The fact that similar impressions are no longer received may possibly be due to the reason given in the text but it is just as likely to mean that Madame Blavatsky herself considers that her pupil has reached a stage where such special attentions are no longer necessary.

Nhiều đạo sinh của chúng ta biết rằng có thể từ từ cải biến biểu cảm của một bức chân dung bằng cách lâu ngày tham thiền về nó; nhưng đó là một hiện tượng thuộc lớp khác với lớp vừa được nói trên. Việc không còn nhận được các ấn tượng tương tự có thể là do lý do được nêu trong bản văn, nhưng cũng rất có thể có nghĩa rằng chính Bà Blavatsky xét thấy môn sinh của mình đã đạt đến giai đoạn mà những “chăm chút đặc biệt” như vậy không còn cần nữa.

The spiritual duel described in number nine is remarkable and interesting. It is clearly a case of an argument between two egos working on different lines. The physical plane personalities attached to the two egos were brought into a somewhat difficult relationship – one in which our author was expected to adopt the attitude of a submissive disciple. One can see that there were many ways in which this was good and necessary at a certain stage in evolution; but it was inevitable that difficulties should arise, owing to the fact that the dispositions and the lines of evolution of the two egos were so entirely different. If the people concerned had been less forbearing, these innate differences between those who were forced together into such a close relationship would have led to violent quarrels; I think both parties may be congratulated on the good sense with which they faced a delicate situation.)

Cuộc đấu tay đôi tinh thần được mô tả ở số chín thật đáng chú ý và thú vị. Rõ ràng đây là trường hợp một cuộc tranh biện giữa hai chân ngã tiến hóa theo các đường khác nhau. Các phàm ngã hồng trần gắn với hai chân ngã đã bị đưa vào một mối tương quan có phần khó xử — một mối tương quan trong đó tác giả của chúng ta được kỳ vọng phải giữ thái độ của một môn đồ vâng phục. Có thể thấy rằng có nhiều phương diện theo đó đây là điều tốt và cần thiết ở một giai đoạn nhất định trong tiến hóa; nhưng khó tránh rằng khó khăn sẽ nảy sinh, do các khuynh hướng và đường tiến hóa của hai chân ngã khác nhau hoàn toàn. Nếu những người liên can ít độ lượng hơn, những dị biệt bẩm sinh giữa những người bị buộc gắn bó trong một mối liên hệ gần như vậy sẽ dẫn tới những cuộc cãi vã kịch liệt; tôi nghĩ cả hai bên đều đáng được chúc mừng về sự khôn ngoan mà họ đã đối diện một tình huống tế nhị.)

V. SEEING IDEAS—V. THẤY CÁC Ý TƯỞNG

Here we enter upon another group of phenomena. They seem, for one thing, to be marked off by the peculiarity that I experienced them only in normal waking consciousness. I find that I have the faculty of occasionally seeing an idea, a conception, in visual form. The vision comes suddenly and unexpectedly. About the nature of this seeing I might expatiate more fully, but the task is too subtle for me. Enough to say that I have not only the impression that I have seen, but also the impression that I have not seen details. I might put it that I feel as if I had seen the universals of the vision, but not its particulars. As however universals are not objectively existent in the outer world, I do not know what is the ‘form’ of what I have seen. Yet I have clearly the recollection of form, but not of a particular form. So, for instance, in the next example: there I saw the Masters, but not any particular Master, not any face or form. Still the recollection was that I saw Them. And at the time of the vision I knew that it was They who were there. I know it is hopeless to try to describe this seeing without seeing, together with the simultaneous knowledge of the meaning of what is seen. It sounds like a paradox, and yet when experienced it is quite simple. The whole question baffles and puzzles me, and only inwardly I understand something of it, but outwardly I cannot describe it satisfactorily. The consciousness can grope further than the brain-instrument is able to record. I add that this class of experiences is to me the most valuable of those I relate. They foreshadow some kind of synthetic, symbolic consciousness which seems altogether nobler and more exalted than that of normal life. I will relate three examples.

Ở đây chúng ta bước vào một nhóm hiện tượng khác. Về một phương diện, chúng như được đánh dấu phân biệt bởi nét riêng là tôi chỉ trải nghiệm chúng trong tâm thức thức tỉnh bình thường. Tôi nhận thấy mình có khả năng đôi khi “thấy” một ý niệm, một khái niệm, dưới dạng thị ảnh. Thị ảnh đến đột ngột và bất ngờ. Về bản chất của cái “thấy” này, tôi có thể bàn rộng hơn, nhưng nhiệm vụ quá tinh tế với tôi. Chỉ cần nói rằng tôi không chỉ có ấn tượng rằng mình đã thấy , mà còn có ấn tượng rằng mình không thấy chi tiết . Tôi có thể diễn rằng tôi như thể đã thấy những phổ quát của thị ảnh, chứ không phải những biệt thù của nó. Tuy nhiên, vì các phổ quát không hiện hữu khách quan ở ngoại giới, tôi không biết “hình thức” của cái tôi đã thấy là gì. Dẫu vậy, tôi rõ ràng ghi nhớ có “hình tướng”, nhưng không phải “một hình tướng cụ thể”. Vậy nên, chẳng hạn, trong ví dụ kế: ở đó tôi thấy các Chân sư , nhưng không phải bất kỳ một Chân sư cụ thể nào, không phải bất kỳ gương mặt hay hình dạng nào. Thế mà ký ức vẫn là tôi đã thấy Các Ngài. Và khi thị ảnh diễn ra, tôi biết rằng chính là Các Ngài hiện diện ở đó. Tôi biết là vô vọng nếu cố tả cái “thấy mà không thấy”, đồng thời lại có tri thức tức thời về ý nghĩa của cái được thấy. Nghe như một nghịch lý, nhưng khi trải nghiệm thì nó lại rất đơn giản. Toàn vấn đề khiến tôi bối rối và thắc mắc, và chỉ ở bên trong tôi mới hiểu được chút gì đó, còn bên ngoài thì tôi không thể mô tả thỏa đáng. Tâm thức có thể lần dò xa hơn điều nhạc cụ não bộ có thể ghi nhận. Tôi xin thêm rằng lớp trải nghiệm này đối với tôi là quý giá nhất trong những điều tôi thuật. Chúng báo trước một dạng tâm thức tổng hợp, biểu tượng nào đó, dường như cao nhã và cao việt hơn hẳn tâm thức đời thường. Tôi sẽ kể ba ví dụ.

V.10. The Secrets of the Master’s Mind. One evening, a few years ago, at Adyar, Mr. Leadbeater was answering in one of the meetings a question about how the Master could keep secret from the pupil the mysteries of the higher Initiations even though the pupil’s consciousness was partly unified with His. While Mr. Leadbeater was speaking there flashed out before me a vision of a number of lights of varying degrees of brilliancy, from faint and soft luminosity to dazzling and blinding radiance. These globes of light were pupils and Masters, seen from some higher point of view. They did not represent these people, but were they. The various globes could freely look at each other, communicate with each other and move through each other as long as each one’s outlook remained on his own level of brilliancy. But if a lesser light should strain to peer into the contents of any more brilliant globe, such a globe of a higher grade of brilliancy would mechanically blind the sight of the lower individual, and its contents would remain invisible. The content of the higher consciousness was not artificially hidden, but was quite automatically protected against prying from below by virtue of its own nature. The whole picture was living, and produced of course a far richer impression than that given in this very lame description. As in the case of the vision of brotherhood (No. 6) the whole was pregnant with meaning, instinct with intelligence. From one point of view it was a pure conception, from the other a vision; but I should not be able to separate the two nor to declare which was the primary aspect. In writing down this I feel keenly the insufficiency of the description.

V.10. Những Bí mật của Thể trí Chân sư. Một buổi tối, vài năm trước, ở Adyar, Ông Leadbeater đang trả lời trong một buổi họp một câu hỏi về cách Chân sư có thể giữ kín với đệ tử các huyền nhiệm của những lần Điểm đạo cao hơn dù tâm thức của đệ tử đã phần nào hợp nhất với Tâm thức của Ngài. Trong khi Ông Leadbeater đang nói, bỗng lóe ra trước mắt tôi một thị kiến về nhiều luồng sáng có mức độ chói rực khác nhau, từ thứ ánh quang mờ dịu đến rực rỡ lóa mắt. Những quả cầu ánh sáng này là các đệ tử và các Chân sư, được thấy từ một điểm nhìn cao hơn. Chúng không biểu trưng cho những người ấy, mà chính là họ. Các quả cầu khác nhau có thể tự do nhìn nhau, giao tiếp với nhau và chuyển qua nhau miễn là nhãn quan của mỗi quả cầu còn giữ ở cấp độ quang huy riêng của mình. Nhưng nếu một ánh sáng kém hơn cố căng mình để dòm ngó nội dung của một quả cầu rực sáng hơn, thì quả cầu thuộc cấp độ quang huy cao hơn ấy sẽ một cách cơ học làm mù thị giác của cá nhân thấp hơn, và nội dung của nó sẽ vẫn vô hình. Nội dung của tâm thức cao không hề bị che giấu một cách gượng ép, mà hoàn toàn được bảo vệ tự động khỏi sự tò mò từ bên dưới do chính bản tính của nó. Toàn bức họa sống động, và dĩ nhiên gây ấn tượng phong phú hơn xa so với lời mô tả quá vụng về này. Như trong trường hợp thị kiến về tình huynh đệ (số 6), toàn thể mang thai ý nghĩa, đầy ắp trí tuệ. Từ một quan điểm, đó là một quan niệm thuần tịnh; từ một quan điểm khác, là một thị kiến; nhưng tôi không thể tách rời hai điều ấy, cũng không thể nói đâu là phương diện sơ nguyên. Khi viết lại điều này, tôi cảm thấm thía sự bất cập của lời tường thuật.

[CWL note] (The tenth vision belongs in reality to the same class as the sixth and seventh; it is a partial impression on the physical brain of the ego’s method of thought; and when our author remarks that a description of such a thought sounds like a paradox, and yet is in reality quite simple – that inwardly he understands something of it, but outwardly he cannot describe it satisfactorily – he is saying what every one of us who can see is feeling all the time with respect to such impressions. His description of the way in which the higher secrets are preserved from possible prying on the part of those at a lower level (if such prying could at all be thinkable) is luminous in more senses than one. It is a suggestive description of the relations between a Master and His pupil.)

[Ghi chú của CWL] (Thị kiến thứ mười thực ra thuộc cùng một loại với thị kiến thứ sáu và thứ bảy; đó là một ấn tượng bán phần trên bộ não hồng trần về phương pháp tư duy của chân ngã; và khi tác giả nhận xét rằng mô tả một tư tưởng như vậy nghe có vẻ nghịch lý, nhưng thực ra lại hết sức giản dị – rằng bên trong ông hiểu được phần nào, nhưng bên ngoài ông không thể mô tả cho thỏa đáng – thì ông đang nói điều mà mỗi người trong chúng ta, những ai có thể thấy được, đều cảm nhận suốt thời gian đối với những ấn tượng như thế. Lời mô tả của ông về cách mà các bí mật cao hơn được gìn giữ khỏi sự tò mò có thể xảy ra từ phía những người ở cấp thấp hơn (nếu quả thật có thể nghĩ đến sự tò mò như vậy) quả là sáng tỏ theo nhiều nghĩa. Đó là một mô tả gợi ý về mối quan hệ giữa một Chân sư và Đệ tử của Ngài.)

V.11. The Chains of Humanity. Concerning the next vision I do not remember under what circumstances it arose, nor exactly when. I should say only a few years ago, at Adyar. Here the significance was primary, the form secondary, and I am able to analyse it a little more clearly in that I feel that the form represents less the vision as seen, than the vision as translated into ordinary brain-forms. I feel as if behind the vision as I describe it, there was another, the real vision, the mode of seeing which is different from our ordinary mode. I repeat that this seeing behind the seeing I describe is more a beholding of the principles of the things than of the things as they are here. The feeling of that higher sight remains, but of the sight itself, only its concrete projection, only a materialized deposit.

V.11. Những Xiềng xích của Nhân loại. Về thị kiến kế tiếp, tôi không nhớ nó phát sinh trong hoàn cảnh nào, cũng không nhớ chính xác khi nào. Tôi chỉ có thể nói là vài năm trước, ở Adyar. Ở đây, thâm nghĩa là chủ yếu, hình tướng là thứ yếu, và tôi có thể phân tích rõ hơn đôi chút vì tôi cảm thấy rằng hình tướng ít đại diện cho thị kiến như thấy, mà đúng hơn là thị kiến khi đã được chuyển dịch sang các hình thức của bộ não thông thường. Tôi có cảm giác như đằng sau thị kiến mà tôi đang mô tả, còn có một thị kiến khác nữa, thị kiến thật sự, một lối thấy khác với lối thấy thông thường của chúng ta. Tôi nhắc lại rằng cái thấy ở sau cái thấy tôi mô tả mang tính chiêm ngưỡng các nguyên khí của sự vật hơn là các sự vật như chúng ở đây. Cảm thức về cái thấy cao ấy còn lưu lại, nhưng về chính cái thấy thì chỉ còn sự phóng chiếu cụ thể của nó, chỉ là một trầm tích đã hiện hình.

The picture was that of human beings, not very many, but in some mysterious way so inclusive in their totality as to represent humanity, that is physical humanity, in general. Each individual was as if chained to a kennel as dogs are. There were no chains and no kennels, but nevertheless this is as correct a description as I can make it. Each chain left each individual more or less tether-space. For all that, the tether was relatively small. The significance was that man is strictly chained to a definite locality in space, though thinking himself free. The picture had no reference to free-will and similar abstract problems, but indicated the merely natural facts of the case. The tether had a manifold meaning. Man is practically limited to a spherical plane. He cannot move through space at will. A few miles below the surface of the earth heat and atmospheric pressure make life difficult or impossible; a few miles above that surface the rarefaction of the air and cold do the same. He is restricted, for regular living, to earth, the ocean being unsuitable; he needs fertile land; deserts, marshes, jungles, are forbidden to him. In air he has no support, in water he drowns; through the earth he cannot pass. He cannot move more than a few hours away from his food supply, or he dies of hunger; he must remain near drinking water, or he perishes. He cannot move away from home or family; they claim him back. He cannot depart from the resources of his particular form of civilisation, or he loses his own form of humanity. The physical as well as social and psychic elements in the chains were all equally discernible, and somehow there was also a suggestion in the illustration of trees waving their branches, but nevertheless firmly rooted in a fixed spot. The vision meant humanity as a whole, and did not specially indicate individuals who cross oceans, travel to the poles or go up in balloons. They were visible in the mass as something like jumping dogs. (Sven Hedin would be a dog who jumped a little bit higher than the others, voilà tout; the sailors very lively dogs who were never at rest, and so on. But none of them could outreach the chain.)

Bức tranh là cảnh những con người, không nhiều lắm, nhưng bằng cách nào đó thật bí nhiệm, trong tính toàn bộ của họ đủ bao trùm để biểu trưng cho nhân loại, tức nhân loại hồng trần nói chung. Mỗi cá nhân dường như bị xích vào một cái chuồng như chó thường bị vậy. Không hề có xích và cũng chẳng có chuồng, nhưng dẫu sao đó vẫn là mô tả xác đáng nhất mà tôi có thể đưa ra. Mỗi sợi xích để cho mỗi người có khoảng không nhất định để đi lại. Tuy vậy, khoảng dây buộc ấy tương đối nhỏ. Thâm nghĩa là: con người bị xiềng chặt vào một địa hạt xác định trong không gian, cho dù tự cho là mình tự do. Bức tranh không nhằm đề cập đến tự do ý chí và những vấn đề trừu tượng tương tự, mà chỉ chỉ ra các sự kiện tự nhiên thuần túy của tình huống. Cái dây buộc mang nhiều tầng nghĩa. Thực tế con người bị giới hạn vào một mặt phẳng hình cầu. Y không thể tùy ý di chuyển trong không gian. Vài dặm dưới bề mặt đất, sức nóng và áp suất khí quyển khiến đời sống khó khăn hoặc bất khả; vài dặm trên bề mặt, không khí loãng và lạnh cũng gây nên điều tương tự. Để sống thường nhật, y bị giới hạn ở đất liền, đại dương thì không thích hợp; y cần đất đai phì nhiêu; sa mạc, đầm lầy, rừng rậm đều cấm cửa y. Trong không khí y không có chỗ tựa, trong nước y bị chìm; xuyên qua đất y không thể đi qua. Y không thể rời nguồn lương thực quá vài giờ, nếu không sẽ chết đói; y phải gần nguồn nước uống, nếu không sẽ tiêu vong. Y không thể rời nhà hay gia đình; họ kéo y trở về. Y không thể lìa các nguồn lực của hình thái văn minh riêng của mình; nếu làm thế, y sẽ đánh mất chính hình thái nhân tính của mình. Các yếu tố về thể chất cũng như xã hội và tâm linh trong những sợi xích đều hiện ra rõ ràng ngang nhau, và bằng cách nào đó trong minh họa còn có ám chỉ về những cái cây đu đưa cành lá, nhưng dẫu vậy vẫn bám rễ chắc nơi một chỗ cố định. Thị kiến này nói về toàn thể nhân loại, chứ không chỉ riêng về những cá nhân vượt đại dương, du hành tới các cực hay bay lên bằng khinh khí cầu. Họ hiện ra trong tổng thể như những chú chó nhảy chồm. (Sven Hedin sẽ là một con chó nhảy cao hơn một chút so với các con khác, thế thôi ; còn các thủy thủ là những con chó rất hoạt bát, không bao giờ yên, v.v. Nhưng chẳng ai trong số họ có thể vượt khỏi chiều dài sợi xích.)

It struck me as quite instructive that there may be a point of view from which mankind’s freedom of motion is not greater, comparatively, than that of the vegetable kingdom is to us, and with some phantasy one might ask whether, similar to our six-day motor races, green peas have also world championships, for a second and a half or so, in rapid growth, which is about all they could know of motion.

Điều làm tôi thấy khá bổ ích là: có thể có một góc nhìn từ đó mà tự do di chuyển của loài người, so sánh ra, không lớn hơn tự do của giới thực vật đối với chúng ta là bao; và với chút tưởng tượng, người ta có thể hỏi liệu, tương tự như cuộc đua mô-tô sáu ngày của chúng ta, các hạt đậu xanh cũng có “giải vô địch thế giới” chăng, trong khoảng một giây rưỡi gì đó, về tốc độ tăng trưởng, vốn là hầu hết những gì chúng có thể gọi là chuyển động.

There was no notion of time and, pondering it over at a later date, I thought of a simile of a cluster of bees or ants. The cluster remains in a fixed spot, though individuals may swarm out and return. This is, however, only a very one-sided illustration.

Không có khái niệm về thời gian; và khi suy ngẫm nó vào một ngày sau đó, tôi đã nghĩ tới một ẩn dụ về một đám ong hay kiến. Cả đám ở yên tại một chỗ cố định, dù các cá thể có thể tỏa ra rồi quay về. Tuy nhiên, đó chỉ là một minh họa rất phiến diện.

[CWL note] (The somewhat uncomplimentary vision of humanity which is given under the number eleven again represents the ego’s view with regard to physical limitations. I think that they could hardly be described more graphically. The picture of the vegetable condition of the great mass of humanity, and of the few travellers as chained dogs jumping about among the vegetables, is distinctly effective!)

[Ghi chú của CWL] (Thị kiến có phần không mấy lịch thiệp về nhân loại được đưa ra dưới số mười một một lần nữa trình bày cái nhìn của chân ngã về các giới hạn hồng trần. Tôi nghĩ rằng khó có thể mô tả chúng một cách sinh động hơn. Bức tranh về tình trạng “thực vật” của đại đa số nhân loại, và hình ảnh vài lữ khách như những con chó bị xích đang nhảy nhót giữa đám thực vật, quả thật gây ấn tượng mạnh!)

V.12. In Him We live and move and have Our Being. The last example I relate in this group is the most impressive and beautiful experience I have had. It came to me many years ago when I was still living in Amsterdam. Towards evening I was walking alone along a road just outside the town. At that place the city ends abruptly, and on the one side stretched vast masses of many-storied houses in unbroken conglomeration, whilst on the other there was the equally unbroken expanse of green meadows losing themselves in the horizon; a peaceful landscape, full of repose, and freshness. The road was a lonely one and, leisurely walking, I must have mused about many things. All of a sudden ‘themselves the heavens opened’. I use this biblical phrase because I know no apter one. Suddenly I saw inside and through the mighty expanse of the heavenly vault; and at the same time I realised with the utmost certitude that this whole dome above was nothing but the inside of some gigantic skull. The atmosphere, the space around and above me was not only filled with air and ether, but far more, and above all, with throbbing, living consciousness. And from every point in space, on high and below, in front and behind me, from the right and the left, myriads of invisible threads connected every point in space with every other point in space, serving as invisible wires to report wireless messages from every point to every point simultaneously. I had a sensation of extraordinary wideness, roominess, spaciousness. I felt space, as such, better than ever before, and space was conscious. I knew I was inside the consciousness of that measureless skull, as was everything else. And everything was related and correlated with everything else existing in that mighty brain. And though the myriads and millions of connections were beyond counting or enumerating, still this network formed an ordered whole in which the fulness was organic. I felt as if I had touched some single aspect of some world-enveloping consciousness, embracing not only the world as a whole, but every single, even minutest, item in it, in full knowledge of detail as well as totality, and moreover of all internal and mutual relations. My consciousness was swept up for a moment by that bigger insight, and I felt for that moment as if I myself might understand a whole world.

V.12. Trong Ngài, chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu. Ví dụ cuối cùng tôi thuật trong nhóm này là trải nghiệm ấn tượng và đẹp đẽ nhất tôi từng có. Nó đến với tôi nhiều năm trước khi tôi còn sống ở Amsterdam. Vào xế chiều, tôi đang đi một mình dọc con đường ở ngay ngoại ô. Ở chỗ đó, thành phố chấm dứt đột ngột, và ở một phía là những khối nhà nhiều tầng đồ sộ trải dài không gián đoạn, trong khi phía kia là khoảng đồng cỏ xanh mướt cũng bất tận không gián đoạn, tan vào nơi chân trời; một phong cảnh thanh bình, đầy an tĩnh và tươi mới. Con đường vắng lặng và, bước chậm rãi, hẳn tôi đã miên man nghĩ ngợi nhiều điều. Bất chợt, “chính các tầng trời mở ra”. Tôi dùng cụm từ Kinh Thánh này vì tôi không biết cụm nào xác đáng hơn. Đột ngột tôi nhìn vào bên trong và xuyên qua khoảng mênh mông của vòm trời; và đồng thời tôi nhận ra với sự xác quyết tuyệt đối rằng toàn bộ mái vòm trên kia chẳng là gì khác ngoài phía trong của một cái sọ khổng lồ. Bầu khí quyển, không gian quanh và trên tôi không chỉ đầy không khí và dĩ thái, mà hơn thế nữa, và trên hết, đầy những nhịp đập, sự sống, tâm thức. Và từ mọi điểm trong không gian, trên cao và bên dưới, trước mặt và sau lưng tôi, bên phải và bên trái, vô số sợi dây vô hình nối mọi điểm trong không gian với mọi điểm khác, làm những sợi dây vô hình để truyền các thông điệp không dây từ mọi điểm tới mọi điểm đồng thời. Tôi có một cảm giác về độ mênh mang phi thường, rộng rãi, khoáng đạt. Tôi cảm nhận không gian, như chính nó, rõ hơn bao giờ hết, và không gian là có tâm thức. Tôi biết mình đang ở bên trong tâm thức của cái sọ vô lượng ấy, như mọi sự khác. Và mọi sự đều liên hệ và tương quan với mọi sự khác đang hiện hữu trong bộ não vĩ đại ấy. Và tuy vô số vô lượng những mối nối kia vượt quá mọi tính đếm hay liệt kê, nhưng mạng lưới đó vẫn tạo thành một chỉnh thể trật tự, trong đó sự viên mãn là hữu cơ. Tôi cảm như thể mình đã chạm tới một phương diện nào đó của một tâm thức bao trùm thế giới, ôm trọn không chỉ thế giới như một toàn thể, mà cả từng điều đơn lẻ, dù nhỏ nhiệm nhất, trong đó, với sự thông tri tường tận cả chi tiết lẫn tổng thể, và hơn nữa, cả mọi mối liên hệ nội tại và tương hỗ. Tâm thức của tôi, trong một khoảnh khắc, được cuốn lên bởi tuệ kiến lớn hơn ấy, và trong khoảnh khắc đó tôi cảm như chính mình có thể hiểu cả một thế giới.

Again I have to repeat that the description is poor and inadequate, for the reality of these things lies in the sensation; the forms of the vision are only the fringes of the experience.

Một lần nữa tôi phải nhắc lại rằng mô tả này nghèo nàn và bất cập, vì thực tướng của những điều này nằm trong cảm nghiệm; các hình tướng của thị kiến chỉ là tua viền của trải nghiệm.

Years later I experienced something much akin to this. This was at Adyar, when, whilst walking through one of its wooded spots, I realised the unity of life, of the living force in this world, more vividly than ever before.

Nhiều năm sau tôi đã trải qua một điều rất gần gũi với điều đó. Ấy là ở Adyar, khi trong lúc dạo bước qua một khoảng rừng của nơi ấy, tôi nhận ra sự hợp nhất của sự sống, của sinh lực sống động trong thế giới này, sống động hơn bao giờ hết.

Leaving this class of experiences then with the final warning that my descriptions of them are merely indications rather than real, full, complete descriptions, we will turn to another group.

Vậy, tạm khép lại loại trải nghiệm này với lời cảnh báo sau rốt rằng các mô tả của tôi chỉ là những chỉ dấu hơn là những tường thuật chân thực, đầy đủ, hoàn chỉnh, chúng ta sẽ chuyển sang một nhóm khác.

[CWL note] (The twelfth experience is one of the best of those recorded; yet even that represents but partially the constant experience of one who has opened the higher consciousness. Here, even more than usual, our author insists that his description is inadequate, and one thoroughly realises that that is so, even while one heartily congratulates him upon it; what human words can describe that which is distinctly super-human – not in the sense that it is out of man’s reach, but that it is so far above his ordinary experiences? Still, even from what is written we receive a forcible and vivid impression of the fact that everything around us is pulsating with life and intelligence, and yet that all the intelligence is definitely one.)

[Ghi chú của CWL] (Trải nghiệm thứ mười hai là một trong những trải nghiệm hay nhất được ghi chép; tuy vậy, ngay cả nó cũng chỉ trình bày phần nào trải nghiệm thường hằng của người đã khai mở tâm thức cao. Ở đây, hơn thường lệ, tác giả nhấn mạnh rằng mô tả của ông là bất cập, và người ta hoàn toàn nhận ra điều đó, ngay cả khi chân thành chúc mừng ông; làm sao lời nói của con người có thể mô tả điều vốn rõ ràng là siêu nhân loại – không phải theo nghĩa vượt ngoài tầm với của con người, mà là vượt xa kinh nghiệm thông thường của y? Dẫu vậy, ngay từ những gì đã viết, chúng ta vẫn nhận được một ấn tượng mạnh mẽ và sinh động về sự kiện rằng mọi sự quanh ta đều đang rung động với sự sống và trí tuệ, và rằng tất cả trí tuệ ấy rốt ráo đều là một .)

Leave a Comment

Scroll to Top