Here we enter upon another group of phenomena. They seem, for one thing, to be marked off by the peculiarity that I experienced them only in normal waking consciousness. I find that I have the faculty of occasionally seeing an idea, a conception, in visual form. The vision comes suddenly and unexpectedly. About the nature of this seeing I might expatiate more fully, but the task is too subtle for me. Enough to say that I have not only the impression that I have seen, but also the impression that I have not seen details. I might put it that I feel as if I had seen the universals of the vision, but not its particulars. As however universals are not objectively existent in the outer world, I do not know what is the ‘form’ of what I have seen. Yet I have clearly the recollection of form, but not of a particular form. So, for instance, in the next example: there I saw the Masters, but not any particular Master, not any face or form. Still the recollection was that I saw Them. And at the time of the vision I knew that it was They who were there. I know it is hopeless to try to describe this seeing without seeing, together with the simultaneous knowledge of the meaning of what is seen. It sounds like a paradox, and yet when experienced it is quite simple. The whole question baffles and puzzles me, and only inwardly I understand something of it, but outwardly I cannot describe it satisfactorily. The consciousness can grope further than the brain-instrument is able to record. I add that this class of experiences is to me the most valuable of those I relate. They foreshadow some kind of synthetic, symbolic consciousness which seems altogether nobler and more exalted than that of normal life. I will relate three examples.
|
Ở đây chúng ta bước vào một nhóm hiện tượng khác. Về một phương diện, chúng như được đánh dấu phân biệt bởi nét riêng là tôi chỉ trải nghiệm chúng trong tâm thức thức tỉnh bình thường. Tôi nhận thấy mình có khả năng đôi khi “thấy” một ý niệm, một khái niệm, dưới dạng thị ảnh. Thị ảnh đến đột ngột và bất ngờ. Về bản chất của cái “thấy” này, tôi có thể bàn rộng hơn, nhưng nhiệm vụ quá tinh tế với tôi. Chỉ cần nói rằng tôi không chỉ có ấn tượng rằng mình đã thấy , mà còn có ấn tượng rằng mình không thấy chi tiết . Tôi có thể diễn rằng tôi như thể đã thấy những phổ quát của thị ảnh, chứ không phải những biệt thù của nó. Tuy nhiên, vì các phổ quát không hiện hữu khách quan ở ngoại giới, tôi không biết “hình thức” của cái tôi đã thấy là gì. Dẫu vậy, tôi rõ ràng ghi nhớ có “hình tướng”, nhưng không phải “một hình tướng cụ thể”. Vậy nên, chẳng hạn, trong ví dụ kế: ở đó tôi thấy các Chân sư , nhưng không phải bất kỳ một Chân sư cụ thể nào, không phải bất kỳ gương mặt hay hình dạng nào. Thế mà ký ức vẫn là tôi đã thấy Các Ngài. Và khi thị ảnh diễn ra, tôi biết rằng chính là Các Ngài hiện diện ở đó. Tôi biết là vô vọng nếu cố tả cái “thấy mà không thấy”, đồng thời lại có tri thức tức thời về ý nghĩa của cái được thấy. Nghe như một nghịch lý, nhưng khi trải nghiệm thì nó lại rất đơn giản. Toàn vấn đề khiến tôi bối rối và thắc mắc, và chỉ ở bên trong tôi mới hiểu được chút gì đó, còn bên ngoài thì tôi không thể mô tả thỏa đáng. Tâm thức có thể lần dò xa hơn điều nhạc cụ não bộ có thể ghi nhận. Tôi xin thêm rằng lớp trải nghiệm này đối với tôi là quý giá nhất trong những điều tôi thuật. Chúng báo trước một dạng tâm thức tổng hợp, biểu tượng nào đó, dường như cao nhã và cao việt hơn hẳn tâm thức đời thường. Tôi sẽ kể ba ví dụ.
|
V.10. The Secrets of the Master’s Mind. One evening, a few years ago, at Adyar, Mr. Leadbeater was answering in one of the meetings a question about how the Master could keep secret from the pupil the mysteries of the higher Initiations even though the pupil’s consciousness was partly unified with His. While Mr. Leadbeater was speaking there flashed out before me a vision of a number of lights of varying degrees of brilliancy, from faint and soft luminosity to dazzling and blinding radiance. These globes of light were pupils and Masters, seen from some higher point of view. They did not represent these people, but were they. The various globes could freely look at each other, communicate with each other and move through each other as long as each one’s outlook remained on his own level of brilliancy. But if a lesser light should strain to peer into the contents of any more brilliant globe, such a globe of a higher grade of brilliancy would mechanically blind the sight of the lower individual, and its contents would remain invisible. The content of the higher consciousness was not artificially hidden, but was quite automatically protected against prying from below by virtue of its own nature. The whole picture was living, and produced of course a far richer impression than that given in this very lame description. As in the case of the vision of brotherhood (No. 6) the whole was pregnant with meaning, instinct with intelligence. From one point of view it was a pure conception, from the other a vision; but I should not be able to separate the two nor to declare which was the primary aspect. In writing down this I feel keenly the insufficiency of the description.
|
V.10. Những Bí mật của Thể trí Chân sư. Một buổi tối, vài năm trước, ở Adyar, Ông Leadbeater đang trả lời trong một buổi họp một câu hỏi về cách Chân sư có thể giữ kín với đệ tử các huyền nhiệm của những lần Điểm đạo cao hơn dù tâm thức của đệ tử đã phần nào hợp nhất với Tâm thức của Ngài. Trong khi Ông Leadbeater đang nói, bỗng lóe ra trước mắt tôi một thị kiến về nhiều luồng sáng có mức độ chói rực khác nhau, từ thứ ánh quang mờ dịu đến rực rỡ lóa mắt. Những quả cầu ánh sáng này là các đệ tử và các Chân sư, được thấy từ một điểm nhìn cao hơn. Chúng không biểu trưng cho những người ấy, mà chính là họ. Các quả cầu khác nhau có thể tự do nhìn nhau, giao tiếp với nhau và chuyển qua nhau miễn là nhãn quan của mỗi quả cầu còn giữ ở cấp độ quang huy riêng của mình. Nhưng nếu một ánh sáng kém hơn cố căng mình để dòm ngó nội dung của một quả cầu rực sáng hơn, thì quả cầu thuộc cấp độ quang huy cao hơn ấy sẽ một cách cơ học làm mù thị giác của cá nhân thấp hơn, và nội dung của nó sẽ vẫn vô hình. Nội dung của tâm thức cao không hề bị che giấu một cách gượng ép, mà hoàn toàn được bảo vệ tự động khỏi sự tò mò từ bên dưới do chính bản tính của nó. Toàn bức họa sống động, và dĩ nhiên gây ấn tượng phong phú hơn xa so với lời mô tả quá vụng về này. Như trong trường hợp thị kiến về tình huynh đệ (số 6), toàn thể mang thai ý nghĩa, đầy ắp trí tuệ. Từ một quan điểm, đó là một quan niệm thuần tịnh; từ một quan điểm khác, là một thị kiến; nhưng tôi không thể tách rời hai điều ấy, cũng không thể nói đâu là phương diện sơ nguyên. Khi viết lại điều này, tôi cảm thấm thía sự bất cập của lời tường thuật.
|
[CWL note] (The tenth vision belongs in reality to the same class as the sixth and seventh; it is a partial impression on the physical brain of the ego’s method of thought; and when our author remarks that a description of such a thought sounds like a paradox, and yet is in reality quite simple – that inwardly he understands something of it, but outwardly he cannot describe it satisfactorily – he is saying what every one of us who can see is feeling all the time with respect to such impressions. His description of the way in which the higher secrets are preserved from possible prying on the part of those at a lower level (if such prying could at all be thinkable) is luminous in more senses than one. It is a suggestive description of the relations between a Master and His pupil.)
|
[Ghi chú của CWL] (Thị kiến thứ mười thực ra thuộc cùng một loại với thị kiến thứ sáu và thứ bảy; đó là một ấn tượng bán phần trên bộ não hồng trần về phương pháp tư duy của chân ngã; và khi tác giả nhận xét rằng mô tả một tư tưởng như vậy nghe có vẻ nghịch lý, nhưng thực ra lại hết sức giản dị – rằng bên trong ông hiểu được phần nào, nhưng bên ngoài ông không thể mô tả cho thỏa đáng – thì ông đang nói điều mà mỗi người trong chúng ta, những ai có thể thấy được, đều cảm nhận suốt thời gian đối với những ấn tượng như thế. Lời mô tả của ông về cách mà các bí mật cao hơn được gìn giữ khỏi sự tò mò có thể xảy ra từ phía những người ở cấp thấp hơn (nếu quả thật có thể nghĩ đến sự tò mò như vậy) quả là sáng tỏ theo nhiều nghĩa. Đó là một mô tả gợi ý về mối quan hệ giữa một Chân sư và Đệ tử của Ngài.)
|
V.11. The Chains of Humanity. Concerning the next vision I do not remember under what circumstances it arose, nor exactly when. I should say only a few years ago, at Adyar. Here the significance was primary, the form secondary, and I am able to analyse it a little more clearly in that I feel that the form represents less the vision as seen, than the vision as translated into ordinary brain-forms. I feel as if behind the vision as I describe it, there was another, the real vision, the mode of seeing which is different from our ordinary mode. I repeat that this seeing behind the seeing I describe is more a beholding of the principles of the things than of the things as they are here. The feeling of that higher sight remains, but of the sight itself, only its concrete projection, only a materialized deposit.
|
V.11. Những Xiềng xích của Nhân loại. Về thị kiến kế tiếp, tôi không nhớ nó phát sinh trong hoàn cảnh nào, cũng không nhớ chính xác khi nào. Tôi chỉ có thể nói là vài năm trước, ở Adyar. Ở đây, thâm nghĩa là chủ yếu, hình tướng là thứ yếu, và tôi có thể phân tích rõ hơn đôi chút vì tôi cảm thấy rằng hình tướng ít đại diện cho thị kiến như thấy, mà đúng hơn là thị kiến khi đã được chuyển dịch sang các hình thức của bộ não thông thường. Tôi có cảm giác như đằng sau thị kiến mà tôi đang mô tả, còn có một thị kiến khác nữa, thị kiến thật sự, một lối thấy khác với lối thấy thông thường của chúng ta. Tôi nhắc lại rằng cái thấy ở sau cái thấy tôi mô tả mang tính chiêm ngưỡng các nguyên khí của sự vật hơn là các sự vật như chúng là ở đây. Cảm thức về cái thấy cao ấy còn lưu lại, nhưng về chính cái thấy thì chỉ còn sự phóng chiếu cụ thể của nó, chỉ là một trầm tích đã hiện hình.
|
The picture was that of human beings, not very many, but in some mysterious way so inclusive in their totality as to represent humanity, that is physical humanity, in general. Each individual was as if chained to a kennel as dogs are. There were no chains and no kennels, but nevertheless this is as correct a description as I can make it. Each chain left each individual more or less tether-space. For all that, the tether was relatively small. The significance was that man is strictly chained to a definite locality in space, though thinking himself free. The picture had no reference to free-will and similar abstract problems, but indicated the merely natural facts of the case. The tether had a manifold meaning. Man is practically limited to a spherical plane. He cannot move through space at will. A few miles below the surface of the earth heat and atmospheric pressure make life difficult or impossible; a few miles above that surface the rarefaction of the air and cold do the same. He is restricted, for regular living, to earth, the ocean being unsuitable; he needs fertile land; deserts, marshes, jungles, are forbidden to him. In air he has no support, in water he drowns; through the earth he cannot pass. He cannot move more than a few hours away from his food supply, or he dies of hunger; he must remain near drinking water, or he perishes. He cannot move away from home or family; they claim him back. He cannot depart from the resources of his particular form of civilisation, or he loses his own form of humanity. The physical as well as social and psychic elements in the chains were all equally discernible, and somehow there was also a suggestion in the illustration of trees waving their branches, but nevertheless firmly rooted in a fixed spot. The vision meant humanity as a whole, and did not specially indicate individuals who cross oceans, travel to the poles or go up in balloons. They were visible in the mass as something like jumping dogs. (Sven Hedin would be a dog who jumped a little bit higher than the others, voilà tout; the sailors very lively dogs who were never at rest, and so on. But none of them could outreach the chain.)
|
Bức tranh là cảnh những con người, không nhiều lắm, nhưng bằng cách nào đó thật bí nhiệm, trong tính toàn bộ của họ đủ bao trùm để biểu trưng cho nhân loại, tức nhân loại hồng trần nói chung. Mỗi cá nhân dường như bị xích vào một cái chuồng như chó thường bị vậy. Không hề có xích và cũng chẳng có chuồng, nhưng dẫu sao đó vẫn là mô tả xác đáng nhất mà tôi có thể đưa ra. Mỗi sợi xích để cho mỗi người có khoảng không nhất định để đi lại. Tuy vậy, khoảng dây buộc ấy tương đối nhỏ. Thâm nghĩa là: con người bị xiềng chặt vào một địa hạt xác định trong không gian, cho dù tự cho là mình tự do. Bức tranh không nhằm đề cập đến tự do ý chí và những vấn đề trừu tượng tương tự, mà chỉ chỉ ra các sự kiện tự nhiên thuần túy của tình huống. Cái dây buộc mang nhiều tầng nghĩa. Thực tế con người bị giới hạn vào một mặt phẳng hình cầu. Y không thể tùy ý di chuyển trong không gian. Vài dặm dưới bề mặt đất, sức nóng và áp suất khí quyển khiến đời sống khó khăn hoặc bất khả; vài dặm trên bề mặt, không khí loãng và lạnh cũng gây nên điều tương tự. Để sống thường nhật, y bị giới hạn ở đất liền, đại dương thì không thích hợp; y cần đất đai phì nhiêu; sa mạc, đầm lầy, rừng rậm đều cấm cửa y. Trong không khí y không có chỗ tựa, trong nước y bị chìm; xuyên qua đất y không thể đi qua. Y không thể rời nguồn lương thực quá vài giờ, nếu không sẽ chết đói; y phải gần nguồn nước uống, nếu không sẽ tiêu vong. Y không thể rời nhà hay gia đình; họ kéo y trở về. Y không thể lìa các nguồn lực của hình thái văn minh riêng của mình; nếu làm thế, y sẽ đánh mất chính hình thái nhân tính của mình. Các yếu tố về thể chất cũng như xã hội và tâm linh trong những sợi xích đều hiện ra rõ ràng ngang nhau, và bằng cách nào đó trong minh họa còn có ám chỉ về những cái cây đu đưa cành lá, nhưng dẫu vậy vẫn bám rễ chắc nơi một chỗ cố định. Thị kiến này nói về toàn thể nhân loại, chứ không chỉ riêng về những cá nhân vượt đại dương, du hành tới các cực hay bay lên bằng khinh khí cầu. Họ hiện ra trong tổng thể như những chú chó nhảy chồm. (Sven Hedin sẽ là một con chó nhảy cao hơn một chút so với các con khác, thế thôi ; còn các thủy thủ là những con chó rất hoạt bát, không bao giờ yên, v.v. Nhưng chẳng ai trong số họ có thể vượt khỏi chiều dài sợi xích.)
|
It struck me as quite instructive that there may be a point of view from which mankind’s freedom of motion is not greater, comparatively, than that of the vegetable kingdom is to us, and with some phantasy one might ask whether, similar to our six-day motor races, green peas have also world championships, for a second and a half or so, in rapid growth, which is about all they could know of motion.
|
Điều làm tôi thấy khá bổ ích là: có thể có một góc nhìn từ đó mà tự do di chuyển của loài người, so sánh ra, không lớn hơn tự do của giới thực vật đối với chúng ta là bao; và với chút tưởng tượng, người ta có thể hỏi liệu, tương tự như cuộc đua mô-tô sáu ngày của chúng ta, các hạt đậu xanh cũng có “giải vô địch thế giới” chăng, trong khoảng một giây rưỡi gì đó, về tốc độ tăng trưởng, vốn là hầu hết những gì chúng có thể gọi là chuyển động.
|
There was no notion of time and, pondering it over at a later date, I thought of a simile of a cluster of bees or ants. The cluster remains in a fixed spot, though individuals may swarm out and return. This is, however, only a very one-sided illustration.
|
Không có khái niệm về thời gian; và khi suy ngẫm nó vào một ngày sau đó, tôi đã nghĩ tới một ẩn dụ về một đám ong hay kiến. Cả đám ở yên tại một chỗ cố định, dù các cá thể có thể tỏa ra rồi quay về. Tuy nhiên, đó chỉ là một minh họa rất phiến diện.
|
[CWL note] (The somewhat uncomplimentary vision of humanity which is given under the number eleven again represents the ego’s view with regard to physical limitations. I think that they could hardly be described more graphically. The picture of the vegetable condition of the great mass of humanity, and of the few travellers as chained dogs jumping about among the vegetables, is distinctly effective!)
|
[Ghi chú của CWL] (Thị kiến có phần không mấy lịch thiệp về nhân loại được đưa ra dưới số mười một một lần nữa trình bày cái nhìn của chân ngã về các giới hạn hồng trần. Tôi nghĩ rằng khó có thể mô tả chúng một cách sinh động hơn. Bức tranh về tình trạng “thực vật” của đại đa số nhân loại, và hình ảnh vài lữ khách như những con chó bị xích đang nhảy nhót giữa đám thực vật, quả thật gây ấn tượng mạnh!)
|
V.12. In Him We live and move and have Our Being. The last example I relate in this group is the most impressive and beautiful experience I have had. It came to me many years ago when I was still living in Amsterdam. Towards evening I was walking alone along a road just outside the town. At that place the city ends abruptly, and on the one side stretched vast masses of many-storied houses in unbroken conglomeration, whilst on the other there was the equally unbroken expanse of green meadows losing themselves in the horizon; a peaceful landscape, full of repose, and freshness. The road was a lonely one and, leisurely walking, I must have mused about many things. All of a sudden ‘themselves the heavens opened’. I use this biblical phrase because I know no apter one. Suddenly I saw inside and through the mighty expanse of the heavenly vault; and at the same time I realised with the utmost certitude that this whole dome above was nothing but the inside of some gigantic skull. The atmosphere, the space around and above me was not only filled with air and ether, but far more, and above all, with throbbing, living consciousness. And from every point in space, on high and below, in front and behind me, from the right and the left, myriads of invisible threads connected every point in space with every other point in space, serving as invisible wires to report wireless messages from every point to every point simultaneously. I had a sensation of extraordinary wideness, roominess, spaciousness. I felt space, as such, better than ever before, and space was conscious. I knew I was inside the consciousness of that measureless skull, as was everything else. And everything was related and correlated with everything else existing in that mighty brain. And though the myriads and millions of connections were beyond counting or enumerating, still this network formed an ordered whole in which the fulness was organic. I felt as if I had touched some single aspect of some world-enveloping consciousness, embracing not only the world as a whole, but every single, even minutest, item in it, in full knowledge of detail as well as totality, and moreover of all internal and mutual relations. My consciousness was swept up for a moment by that bigger insight, and I felt for that moment as if I myself might understand a whole world.
|
V.12. Trong Ngài, chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu. Ví dụ cuối cùng tôi thuật trong nhóm này là trải nghiệm ấn tượng và đẹp đẽ nhất tôi từng có. Nó đến với tôi nhiều năm trước khi tôi còn sống ở Amsterdam. Vào xế chiều, tôi đang đi một mình dọc con đường ở ngay ngoại ô. Ở chỗ đó, thành phố chấm dứt đột ngột, và ở một phía là những khối nhà nhiều tầng đồ sộ trải dài không gián đoạn, trong khi phía kia là khoảng đồng cỏ xanh mướt cũng bất tận không gián đoạn, tan vào nơi chân trời; một phong cảnh thanh bình, đầy an tĩnh và tươi mới. Con đường vắng lặng và, bước chậm rãi, hẳn tôi đã miên man nghĩ ngợi nhiều điều. Bất chợt, “chính các tầng trời mở ra”. Tôi dùng cụm từ Kinh Thánh này vì tôi không biết cụm nào xác đáng hơn. Đột ngột tôi nhìn vào bên trong và xuyên qua khoảng mênh mông của vòm trời; và đồng thời tôi nhận ra với sự xác quyết tuyệt đối rằng toàn bộ mái vòm trên kia chẳng là gì khác ngoài phía trong của một cái sọ khổng lồ. Bầu khí quyển, không gian quanh và trên tôi không chỉ đầy không khí và dĩ thái, mà hơn thế nữa, và trên hết, đầy những nhịp đập, sự sống, tâm thức. Và từ mọi điểm trong không gian, trên cao và bên dưới, trước mặt và sau lưng tôi, bên phải và bên trái, vô số sợi dây vô hình nối mọi điểm trong không gian với mọi điểm khác, làm những sợi dây vô hình để truyền các thông điệp không dây từ mọi điểm tới mọi điểm đồng thời. Tôi có một cảm giác về độ mênh mang phi thường, rộng rãi, khoáng đạt. Tôi cảm nhận không gian, như chính nó, rõ hơn bao giờ hết, và không gian là có tâm thức. Tôi biết mình đang ở bên trong tâm thức của cái sọ vô lượng ấy, như mọi sự khác. Và mọi sự đều liên hệ và tương quan với mọi sự khác đang hiện hữu trong bộ não vĩ đại ấy. Và tuy vô số vô lượng những mối nối kia vượt quá mọi tính đếm hay liệt kê, nhưng mạng lưới đó vẫn tạo thành một chỉnh thể trật tự, trong đó sự viên mãn là hữu cơ. Tôi cảm như thể mình đã chạm tới một phương diện nào đó của một tâm thức bao trùm thế giới, ôm trọn không chỉ thế giới như một toàn thể, mà cả từng điều đơn lẻ, dù nhỏ nhiệm nhất, trong đó, với sự thông tri tường tận cả chi tiết lẫn tổng thể, và hơn nữa, cả mọi mối liên hệ nội tại và tương hỗ. Tâm thức của tôi, trong một khoảnh khắc, được cuốn lên bởi tuệ kiến lớn hơn ấy, và trong khoảnh khắc đó tôi cảm như chính mình có thể hiểu cả một thế giới.
|
Again I have to repeat that the description is poor and inadequate, for the reality of these things lies in the sensation; the forms of the vision are only the fringes of the experience.
|
Một lần nữa tôi phải nhắc lại rằng mô tả này nghèo nàn và bất cập, vì thực tướng của những điều này nằm trong cảm nghiệm; các hình tướng của thị kiến chỉ là tua viền của trải nghiệm.
|
Years later I experienced something much akin to this. This was at Adyar, when, whilst walking through one of its wooded spots, I realised the unity of life, of the living force in this world, more vividly than ever before.
|
Nhiều năm sau tôi đã trải qua một điều rất gần gũi với điều đó. Ấy là ở Adyar, khi trong lúc dạo bước qua một khoảng rừng của nơi ấy, tôi nhận ra sự hợp nhất của sự sống, của sinh lực sống động trong thế giới này, sống động hơn bao giờ hết.
|
Leaving this class of experiences then with the final warning that my descriptions of them are merely indications rather than real, full, complete descriptions, we will turn to another group.
|
Vậy, tạm khép lại loại trải nghiệm này với lời cảnh báo sau rốt rằng các mô tả của tôi chỉ là những chỉ dấu hơn là những tường thuật chân thực, đầy đủ, hoàn chỉnh, chúng ta sẽ chuyển sang một nhóm khác.
|
[CWL note] (The twelfth experience is one of the best of those recorded; yet even that represents but partially the constant experience of one who has opened the higher consciousness. Here, even more than usual, our author insists that his description is inadequate, and one thoroughly realises that that is so, even while one heartily congratulates him upon it; what human words can describe that which is distinctly super-human – not in the sense that it is out of man’s reach, but that it is so far above his ordinary experiences? Still, even from what is written we receive a forcible and vivid impression of the fact that everything around us is pulsating with life and intelligence, and yet that all the intelligence is definitely one.)
|
[Ghi chú của CWL] (Trải nghiệm thứ mười hai là một trong những trải nghiệm hay nhất được ghi chép; tuy vậy, ngay cả nó cũng chỉ trình bày phần nào trải nghiệm thường hằng của người đã khai mở tâm thức cao. Ở đây, hơn thường lệ, tác giả nhấn mạnh rằng mô tả của ông là bất cập, và người ta hoàn toàn nhận ra điều đó, ngay cả khi chân thành chúc mừng ông; làm sao lời nói của con người có thể mô tả điều vốn rõ ràng là siêu nhân loại – không phải theo nghĩa vượt ngoài tầm với của con người, mà là vượt xa kinh nghiệm thông thường của y? Dẫu vậy, ngay từ những gì đã viết, chúng ta vẫn nhận được một ấn tượng mạnh mẽ và sinh động về sự kiện rằng mọi sự quanh ta đều đang rung động với sự sống và trí tuệ, và rằng tất cả trí tuệ ấy rốt ráo đều là một .)
|