Ninth Section: The Theosophical Society and its Founder
WHAT IS THE THEOSOPHICAL SOCIETY?—HỘI THÔNG THIÊN HỌC LÀ GÌ?
IT would appear that some of its members have not quite comprehended the position of this Theosophical Society to which they belong. It is not a Society which is formed merely for the promotion of learning in some special branch, like the Royal Asiatic or the Royal Geographical Societies; still less is it a Church, which exists only to spread some particular form of doctrine. It has a place in modern life which is all its own, for its origin is unlike that of any other body at present existing. To understand this origin we must glance for a moment at the hidden side of the history of the world. | Có vẻ như một số hội viên vẫn chưa hoàn toàn thấu hiểu vị trí của Hội Thông Thiên Học mà họ thuộc về. Đây không phải là một Hội được lập ra chỉ để cổ vũ học thuật trong một chuyên ngành nào đó, như các Hội Hoàng gia Á Châu hay Hoàng gia Địa Lý; lại càng không phải là một Giáo hội, vốn chỉ hiện hữu để truyền bá một hình thức giáo lý đặc thù nào đó. Hội có một vị trí riêng trong đời sống hiện đại, vì nguồn gốc của Hội khác hẳn mọi đoàn thể hiện đang tồn tại. Để hiểu nguồn gốc ấy, chúng ta phải thoáng nhìn vào mặt ẩn tàng của lịch sử thế giới. |
All students of occultism are aware that the evolution of the world is not being left to run its course haphazard, but that its direction and administration are in the hands of a great Hierarchy of Adepts, sometimes called the White Brotherhood. To that Brotherhood belong Those whom we name the Masters, because They are willing under certain conditions to accept as pupils those who prove themselves worthy of the honour. But not all Adepts are Masters; not all will take such pupils; many of Them, though equal in occult rank, have the whole of Their time occupied in quite other ways, though always for the helping of evolution. | Mọi đạo sinh của huyền bí học đều biết rằng sự tiến hoá của thế giới không phải được để mặc cho ngẫu nhiên, mà sự chỉ đạo và quản trị của nó nằm trong tay một Đại Thánh Đoàn các Chân sư, đôi khi được gọi là Huynh đệ Đoàn Chánh đạo. Thuộc về Huynh đệ Đoàn ấy là Những Vị mà chúng ta gọi là các Chân sư, bởi Các Ngài sẵn lòng, dưới những điều kiện nhất định, chấp nhận làm thầy cho những ai tự chứng tỏ mình xứng đáng với vinh dự ấy. Nhưng không phải mọi Chân sư đều là các Bậc Thầy theo nghĩa nhận đệ tử; không phải ai cũng nhận môn đồ; nhiều Vị trong Các Ngài, tuy bình đẳng về phẩm trật huyền thuật, lại dành trọn thời gian của Mình cho những công việc hoàn toàn khác, dẫu luôn là nhằm giúp đỡ tiến hoá. |
For the better surveillance and management of the field of action, They have mapped out the world into districts, much as the Church divides its territory into parishes (though these are parishes of continental size), and an Adept presides over each of these districts just as a priest does over his parish. But sometimes the Church makes a special effort, not connected specially with any one of its parishes, but intended for the good of all; it sends forth what is called a “home mission,” with the object of stirring up faith and arousing enthusiasm all over a country, the benefits obtained being in no way a matter of personal gain to the missioners, but going to increase the efficiency of the ordinary parishes. | Để giám sát và quản trị hữu hiệu hơn cánh đồng hoạt động, Các Ngài đã phân bản đồ thế giới thành các khu vực, cũng như Giáo hội chia lãnh thổ của mình thành các giáo xứ (dẫu các giáo xứ này có kích thước bằng cả lục địa), và một vị Chân sư cai quản mỗi khu vực ấy cũng như linh mục coi sóc giáo xứ của mình. Nhưng đôi khi Giáo hội thực hiện một nỗ lực đặc biệt, không gắn riêng với bất kỳ giáo xứ nào, mà nhằm lợi ích chung cho tất cả; Giáo hội phái ra điều gọi là một “truyền giáo nội địa,” với mục đích khơi dậy đức tin và đánh thức nhiệt tâm ở khắp một quốc gia, và các lợi ích đạt được không hề thuộc về mối lợi cá nhân của những vị truyền giáo, mà quay lại làm gia tăng hiệu năng cho các giáo xứ thông thường. |
In a certain way the Theosophical Society corresponds to such a mission, the ordinary religious divisions of the world being the parishes; for this Society comes forth among them all, not seeking to take away from any one of them those people who are following it, but striving to make them understand it and live it better than they ever did before, and in many cases giving back to them on a higher and more intelligent level the faith in it which they had previously all but lost. Yes, and other men too, who had nominally no religion—who, though at heart of the religious type, have yet been unable to accept the crudities of orthodox teaching—have found in Theosophy a presentation of the truth to which, because of its inherent reasonableness and wide tolerance, they are able heartily to subscribe. We have among our members Hindus, Buddhists, Jains, Parsis, Jews, Muhammadans and Christians, and no one of them all has ever heard or read from any of the officials of our Society a word against the religion to which he belongs; indeed, in many cases the work of the Society has produced a distinct revival of religious interest in places where it has been established. | Theo một nghĩa nào đó, Hội Thông Thiên Học tương ứng với một cuộc truyền giáo như vậy, còn các phân chia tôn giáo thông thường của thế giới là những giáo xứ; vì Hội này đi ra giữa tất cả những phân chia ấy, không nhằm lôi kéo khỏi bất kỳ phân hệ nào những người đang theo nó, nhưng cố khiến họ hiểu và sống đạo của mình tốt hơn bao giờ hết, và trong nhiều trường hợp trao lại cho họ, trên một bình diện cao hơn và sáng suốt hơn, đức tin mà trước đó họ hầu như đã đánh mất. Vâng, và cả những người khác nữa, vốn trên danh nghĩa thì không theo một tôn giáo nào—những người tuy trong thâm tâm thuộc loại thiên về tôn giáo, nhưng lại không thể chấp nhận những điều thô lậu của giáo huấn chính thống—đã tìm thấy trong Thông Thiên Học một trình bày chân lý mà, nhờ tính hợp lý bẩm sinh và lòng khoan dung rộng rãi của nó, họ có thể thành tâm chấp thuận. Trong hàng ngũ hội viên của chúng ta có người Ấn giáo, Phật giáo, Jain, Parsi, Do Thái giáo, Hồi giáo và Kitô giáo, và không một ai trong số họ từng nghe hay đọc được từ bất kỳ vị chức trách nào của Hội một lời chống lại tôn giáo mà họ thuộc về; thật vậy, trong nhiều trường hợp, công việc của Hội đã tạo ra một sự phục hưng rõ rệt về mối quan tâm tôn giáo tại những nơi Hội được thiết lập. |
Why this should be so is readily comprehensible when we remember that it is from this same great Brotherhood that all the religions of the world have their origin. In this true though hidden government of the world there is a department of Religious Instruction, and the Head of that department has founded all the different religions either personally or through some pupil, suiting the teaching given in each case to the people for whom it was destined, and to the period in the world’ s history which had then been reached. They are simply different presentations of the same teaching, as may at once be seen by comparing them. The external forms vary considerably, but the broad essentials are always the same. By all the same virtues are commended; by all the same vices are condemned; so that the daily life of a good Buddhist or a good Hindu is practically identical with that of a good Christian or a good Muhammadan. They do the same things, but they call them by different names; one spends much time in prayer, and the other in meditation, but really their exercises are the same, and they all agree that the good man must be just, kindly, generous and true. | Vì sao lại như thế là điều dễ hiểu khi chúng ta nhớ rằng chính từ Đại Huynh Đoàn ấy mà mọi tôn giáo của thế giới đã có nguồn gốc. Trong chính quyền chân thật tuy ẩn tàng của thế giới ấy có một bộ phận Giáo Huấn Tôn Giáo, và Vị đứng đầu bộ phận ấy đã sáng lập mọi tôn giáo khác nhau hoặc đích thân hoặc qua một môn đồ, điều chỉnh giáo huấn trong mỗi trường hợp cho phù hợp với dân tộc mà nó hướng đến, và với giai đoạn trong lịch sử thế giới đã đạt tới khi ấy. Chúng đơn giản là những trình bày khác nhau của cùng một giáo huấn, điều có thể thấy ngay bằng cách so sánh chúng. Hình thức bề ngoài có thể dị biệt rất nhiều, nhưng những yếu tính lớn lao thì luôn như nhau. Tất cả đều khen ngợi cùng những đức hạnh; tất cả đều lên án cùng những thói xấu; cho nên đời sống hằng ngày của một Phật tử tốt hay một Ấn giáo tốt trên thực tế giống hệt với đời sống của một Kitô hữu tốt hay một tín đồ Hồi giáo tốt. Họ làm những điều như nhau, chỉ là gọi bằng những tên khác nhau; một người dành nhiều thời gian cho cầu nguyện, người kia cho tham thiền, nhưng thực ra các pháp tu của họ là một, và tất cả đều đồng ý rằng con người thiện lành phải công chính, nhân hậu, rộng lượng và chân thực. |
It is said that some hundreds of years ago the leading officials of the Brotherhood decided that once in every hundred years, in what to us is the last quarter of each century, a special effort should be made to help the world in some way. Some of these attempts can be readily discerned—such, for example, as the movement initiated by Christian Rosenkreutz in the fourteenth century, simultaneously with the great reforms in Northern Buddhism introduced by Tsong- kha-pa; the remarkable renaissance of classical learning and the introduction of printing into Europe in the fifteenth; the work of Akbar in India in the sixteenth, at the same time with the publication of many works in England and elsewhere by Lord Bacon, and the splendid development of the Elizabethan age; the founding of the Royal Society, and the scientific work of Robert Boyle and others after the Restoration in the seventeenth; the activities in the eighteenth (the secret history of which on higher planes is known to but few) which escaped from control and degenerated into the French Revolution; and in the nineteenth the foundation of the Theosophical Society. | Người ta nói rằng cách đây vài trăm năm, các vị lãnh đạo của Huynh đệ Đoàn Chánh đạo đã quyết định rằng cứ mỗi một trăm năm, tức vào quý cuối của mỗi thế kỷ theo cách tính của chúng ta, cần thực hiện một nỗ lực đặc biệt nào đó để trợ giúp thế giới. Một số nỗ lực như thế có thể dễ dàng nhận ra—chẳng hạn như phong trào do Christian Rosenkreutz khởi xướng vào thế kỷ mười bốn, đồng thời với những cải cách lớn trong Phật giáo phương Bắc do Tsong-kha-pa đưa vào; cuộc phục hưng kỳ diệu của học thuật cổ điển và việc đưa kỹ nghệ in ấn vào châu Âu ở thế kỷ mười lăm; công cuộc của Akbar tại Ấn Độ vào thế kỷ mười sáu, đồng thời với việc công bố nhiều tác phẩm ở Anh và nơi khác của Lord Bacon, và sự phát triển rực rỡ của thời Elizabeth; việc sáng lập Royal Society, cùng công trình khoa học của Robert Boyle và những người khác sau Thời Phục vị vương quyền ở Anh trong thế kỷ mười bảy; những hoạt động ở thế kỷ mười tám (lịch sử bí mật của chúng trên các cõi cao chỉ ít người biết) đã vượt khỏi tầm kiểm soát và suy thoái thành Cách mạng Pháp; và ở thế kỷ mười chín là sự thành lập Hội Thông Thiên Học. |
This Society is one of the great world-movements, destined to produce effects far greater than any that we have yet seen. The history of its work so far is but a prologue to that which is to come, and its importance is out of all proportion to what it has hitherto appeared to be. It has this difference from all movements that have preceded it, that it is first, the herald of the Coming Christ, and secondly, the first definite step towards the founding of a new root-race. Many of our students are aware that the Master M., the great Adept to whom both of our founders owe special allegiance, has been selected to be the Manu of that race, and that His inseparable friend the Master K. H. is to be in charge of its religious teaching. | Hội này là một trong những phong trào lớn của thế gian, được định sẵn sẽ tạo ra những hiệu quả vượt xa mọi điều mà chúng ta từng thấy. Lịch sử công việc của Hội cho đến nay chỉ là khúc dạo đầu cho những gì sắp đến, và tầm quan trọng của Hội vượt hẳn mọi điều mà bề ngoài trước nay có vẻ như thế. Hội khác với mọi phong trào đã có trước ở chỗ, trước hết, Hội là sứ giả của Đấng Đang Đến, Đức Christ, và thứ đến, là bước đi đầu tiên, rõ rệt hướng tới việc khai sáng một giống dân gốc mới. Nhiều đạo sinh của chúng ta biết rằng Chân sư M., vị Chân sư vĩ đại mà cả hai vị sáng lập của chúng ta đều có sự quy ngưỡng đặc biệt, đã được chọn làm Manu của giống dân ấy, và rằng bạn hữu bất phân ly của Ngài là Chân sư K. H. sẽ đảm trách giáo huấn tôn giáo của giống dân này. |
It is evident that in the work which these two Great Ones will have to do They will need an army of devoted subordinates, who must above all things be loyal, obedient and painstaking. They may possess other qualities also, but these at least they must have. There will be scope for the keenest intelligence, the greatest ingenuity and ability in every direction; but all these will be useless without the capacity of instant obedience and utter trust in the Master. Self-conceit is an absolute bar to progress in this direction. The man who can never obey an order because he always thinks he knows better than the authorities, the man who cannot sink his personality entirely in the work which is given him to do, and co-operate harmoniously with his fellow-workers—such a man has no place in the army of the Manu. Those who join it will have to incarnate over and over again in rapid succession in the new race, trying each time to bring their various bodies nearer and nearer to the model set before them by the Manu—a very laborious and trying piece of work, but one that is absolutely necessary for the establishment of the new type of humanity which is required for the race. The opportunity of volunteering for this work is now open to us. | Hiển nhiên trong công việc mà Hai Đấng Cao Cả này sẽ đảm nhận, Các Ngài sẽ cần một đạo binh thuộc hạ tận tâm, những người trước hết phải trung tín, vâng phục và miệt mài. Họ có thể sở hữu các phẩm chất khác nữa, nhưng tối thiểu phải có những điều ấy. Sẽ có đất dụng võ cho trí tuệ sắc bén nhất, óc sáng tạo khéo léo nhất và năng lực trên mọi mặt; nhưng tất cả những điều ấy sẽ vô dụng nếu thiếu năng lực vâng phục tức thời và niềm tín thác trọn vẹn nơi Chân sư. Tự phụ là rào chắn tuyệt đối đối với tiến bộ trên con đường này. Người không bao giờ chịu tuân lệnh vì luôn nghĩ mình hiểu biết hơn nhà cầm quyền; người không thể dìm phàm ngã của mình trọn vẹn vào công việc được trao, và hoà hợp cộng tác với các bạn đồng công—người như thế không có chỗ đứng trong đạo binh của Manu. Những ai gia nhập sẽ phải lâm phàm hết lần này đến lần khác trong nhịp độ mau lẹ vào giống dân mới, mỗi lần cố gắng đưa các thể của mình ngày càng tiệm cận khuôn mẫu do Manu đề ra—một công cuộc rất lao lực và thử thách, nhưng tuyệt đối cần thiết cho việc thiết lập kiểu mẫu nhân loại mới cần có cho giống dân ấy. Cơ hội tình nguyện cho công việc này hiện đã mở ra cho chúng ta. |
Those who wish to join in it must begin to differentiate their aims from those of the ordinary man of the world. If we are to be selected for that work, we must show ourselves ready and willing by doing this which is now offered to us. The great Head of the department of Religious Instruction, the Lord Maitreya, who has already spoken as Krishna to the Indians and as Christ to the Christians, has decided soon to pay another visit to the world for the healing and the helping of the nations, and for the revival of spirituality on the earth which has well-nigh lost it. One great work which the Theosophical Society has to do is to try to prepare men for His coming, so that more may be able to profit by the unequalled opportunity which His presence will give. The religion which He founded when He came down in Judaea two thousand years ago has now spread widely over the world; but when, after He left His physical body, His followers gathered together to discuss the situation, we are told that the number of the names was only a hundred and twenty. A single preacher was His herald then; now it is a world-wide Society of twenty thousand members. May we hope to do a little better this time—to keep Him with us longer than three years before the wickedness of the world drives Him away, to draw round Him a somewhat larger body of followers before He leaves us? That is yet to be seen; but it depends largely upon the energy, effort and selflessness of members of the Theosophical Society now. | Những ai ao ước tham gia phải bắt đầu phân biệt mục đích của mình khỏi mục đích của người đời thông thường. Nếu chúng ta được tuyển chọn cho công việc ấy, chúng ta phải tỏ ra sẵn sàng và thiện chí bằng cách thực hiện điều hiện đang được trao cho chúng ta. Vị Đại Chủ quản của ngành Giáo Huấn Tôn Giáo, Đấng Maitreya, Đấng đã từng lên tiếng như Krishna với người Ấn và như Đức Christ với người Kitô hữu, đã quyết định sớm viếng thăm thế gian một lần nữa để chữa lành và trợ giúp các dân tộc, và để phục hưng tinh thần trên trần thế vốn hầu như đã đánh mất nó. Một công việc lớn mà Hội Thông Thiên Học phải làm là cố gắng chuẩn bị con người cho sự quang lâm của Ngài, hầu có thêm nhiều người có thể hưởng lợi từ cơ hội vô song mà sự hiện diện của Ngài sẽ mang lại. Tôn giáo mà Ngài khai sáng khi Ngài giáng trần ở Giu-đê hai nghìn năm trước nay đã lan rộng khắp thế giới; nhưng khi, sau khi Ngài rời bỏ thể xác, các môn đồ của Ngài nhóm họp lại để bàn định tình hình, chúng ta được cho biết rằng “số các tên” chỉ là một trăm hai mươi. Khi ấy chỉ có một nhà giảng đạo làm sứ giả trước của Ngài; nay là một Hội rộng khắp thế giới với hai mươi nghìn hội viên. Chúng ta có thể hy vọng làm tốt hơn đôi chút lần này—giữ Ngài ở với chúng ta lâu hơn ba năm trước khi sự gian ác của thế gian xua đuổi Ngài, quy tụ quanh Ngài một đoàn môn đồ đông đảo hơn trước khi Ngài rời chúng ta chăng? Điều đó còn phải chờ xem; nhưng phần lớn tùy thuộc vào nghị lực, nỗ lực và tinh thần vô ngã của các hội viên Hội Thông Thiên Học hiện nay. |
Besides its primary object of spreading occult truth throughout the world, the Theosophical Society has also this secondary object—that it may act as a kind of net to draw together out of all the world the people who are sufficiently interested in occultism to be willing to work for it. Out of that number a certain proportion will be found who desire to press on further, to learn all that the Society has to teach, and to make real progress. Probably not all of those will succeed, but some certainly will, as some have done in the past; and from those who thus obtain a footing the Adepts Themselves may choose those whom They consider worthy of the great privilege of working under Them in the future. Such selection cannot of course be guaranteed to any one who passes even into the innermost groups of the Society, since the choice is absolutely in the hands of the Masters; we can say only that such selections have been made in the past, and that we know that many more volunteers are required. | Bên cạnh mục đích chính là truyền bá chân lý huyền bí trên khắp thế giới, Hội Thông Thiên Học còn có một mục đích thứ yếu—rằng Hội có thể đóng vai như một tấm lưới để kết tụ từ khắp nơi những người quan tâm đủ nhiều đến huyền bí học đến mức sẵn sàng làm việc cho nó. Từ số đó, một tỷ lệ nhất định sẽ được tìm thấy là những người mong muốn tiến xa hơn, học trọn những gì Hội dạy, và tạo ra tiến bộ thực sự. Có lẽ không phải tất cả những người ấy đều thành công, nhưng chắc chắn sẽ có một số, như trong quá khứ đã có; và từ những người nhờ vậy mà đặt được bàn chân vào cửa, chính Các Chân sư có thể chọn ra những ai Các Ngài xét là xứng đáng với đặc ân lớn lao được làm việc dưới quyền Các Ngài trong tương lai. Dĩ nhiên không thể bảo đảm sự tuyển chọn như vậy cho bất kỳ ai, ngay cả khi người đó bước vào các nhóm nội môn sâu nhất của Hội, vì sự chọn lựa hoàn toàn do Các Chân sư quyết định; chúng ta chỉ có thể nói rằng những tuyển chọn như thế đã từng được thực hiện trong quá khứ, và chúng ta biết rằng hiện cần thêm nhiều tình nguyện viên nữa. |
Many have joined the Society without knowing anything of the inner opportunities which it offers, or the close relation with the great Masters of Wisdom into which it may bring its members. Many have come into it almost carelessly, with but little thought or comprehension of the importance of the step which they have taken; and there have been those who have left it equally carelessly, just because they have not fully understood. | Nhiều người đã gia nhập Hội mà chẳng biết gì về những cơ hội nội môn mà Hội cung ứng, hay mối liên hệ gần gũi với các Đại Sư Minh triết mà Hội có thể mang lại cho hội viên của mình. Nhiều người bước vào Hội một cách hờ hững, với rất ít suy tư hay thấu hiểu về tầm quan trọng của bước đi họ đã thực hiện; và cũng có những người rời Hội hờ hững như thế, chỉ vì họ chưa hiểu đầy đủ. |
Even those have gained something, though far less than they might have gained if they had had greater intelligence. The Countess Wachtmeister tells how once when some casual visitors called to see Madame Blavatsky and offered to join the Society, she immediately sent for the necessary forms and admitted them. After they had gone, the Countess seems to have said half-remonstratingly that not much could be expected from them, for even she could see that they were joining only from motives of curiosity or courtesy. | Ngay cả những người ấy cũng đã gặt hái được điều gì đó, tuy ít hơn nhiều so với điều họ có thể đạt được nếu họ có trí tuệ lớn hơn. Nữ bá tước Wachtmeister kể rằng có lần khi vài khách ghé thăm tình cờ đến gặp Bà Blavatsky và ngỏ ý xin gia nhập Hội, Bà lập tức cho gọi các mẫu đơn cần thiết và thu nhận họ. Sau khi họ ra về, Nữ bá tước có vẻ đã nửa trách nửa than rằng không thể kỳ vọng nhiều ở họ, vì ngay chính bà cũng thấy họ gia nhập chỉ vì tò mò hay vì xã giao. |
“That is true,” said Madame Blavatsky, “but even this formal act has given them a small karmic link with the Society, and that, little as it is, will mean at least something for them in the future.” | “Điều đó đúng,” Bà Blavatsky nói, “nhưng ngay cả hành động hình thức này cũng đã tạo cho họ một mối dây nghiệp quả nhỏ với Hội, và điều ấy, tuy nhỏ bé, sẽ có nghĩa là ít nhất cũng có điều gì đó cho họ trong tương lai.” |
Some have committed the incredible folly of leaving it because they disapproved of the policy of its President, not reflecting first of all, that that policy is the President’ s business and not theirs; secondly, that as the President knows enormously more in every direction than they do, there is probably for that policy some exceedingly good reason of which they are entirely unaware; and thirdly, that Presidents and policies are after all temporary, and do not on any way affect the great fundamental fact that the Society belongs to the Masters and represents Them, and that to abandon it is to desert Their standard. Since They stand behind it, and intend to use it as an instrument, we may be sure that They will permit no serious error. It is surely not the part of a good soldier to desert from the ranks because he disapproves of the plans of the General, and to go off and fight single-handed. Nor is such fighting likely to be specially efficient or useful to the cause which he professes to champion. | Có người đã phạm sự dại dột không thể tin được khi rời Hội vì bất đồng với chính sách của Hội trưởng, mà không suy xét trước hết rằng chính sách ấy là công việc của Hội trưởng chứ không phải của họ; thứ đến, vì Hội trưởng biết nhiều vô cùng trên mọi phương diện hơn họ, hẳn là có một lý do cực kỳ chính đáng nào đó cho chính sách ấy mà họ hoàn toàn không hay biết; và thứ ba, rằng Hội trưởng và chính sách rốt cuộc đều nhất thời, và không hề ảnh hưởng theo bất kỳ cách nào đến sự thật nền tảng vĩ đại rằng Hội thuộc về Các Chân sư và đại diện Các Ngài, và rời bỏ Hội là bỏ rơi ngọn cờ của Các Ngài. Vì Các Ngài đứng sau Hội và dự định dùng Hội như một khí cụ, chúng ta có thể chắc rằng Các Ngài sẽ không để xảy ra sai lầm nghiêm trọng nào. Chắc chắn đó không phải là phần việc của một người lính tốt—bỏ hàng ngũ vì bất đồng với kế hoạch của vị Tổng chỉ huy, rồi đi đánh trận một mình. Mà lối “tác chiến” như thế khó lòng hữu hiệu hay có ích cho chính lý tưởng mà y tuyên xưng là đang bênh vực. |
Some have deserted simply from a fear that if they remained in the Society they might be identified with some idea of which they disapprove. This is not only selfishness but self-conceit; what does it matter what is thought or said of any of us, so long as the Master’ s work is done and the Master’ s plan carried out? We must learn to forget ourselves and think only of that work. It is true that that work will be done in any case, and that the place of those who refuse to do it will quickly be supplied. So it may be asked, what do defections matter? They do not matter to the work, but they matter very much to the deserter, who has thrown away an opportunity which may not recur for many incarnations. Such action shows a lack of all sense of proportion, an utter ignorance of what the Society really is and of the inner side of its work. | Có người đào ngũ đơn giản vì sợ rằng nếu họ ở lại Hội, họ có thể bị đồng nhất với một ý tưởng mà họ không tán thành. Điều này không chỉ là ích kỷ mà còn là tự phụ; điều người ta nghĩ hay nói về bất cứ ai trong chúng ta có nghĩa lý gì, miễn là công việc của Chân sư được hoàn thành và kế hoạch của Chân sư được thực thi? Chúng ta phải học quên mình và chỉ nghĩ đến công việc ấy. Đúng là công việc ấy dù sao cũng sẽ được làm, và chỗ của những người từ chối làm sẽ chóng được bù đắp. Vậy có thể hỏi: những cuộc đào ngũ có hệ trọng gì chăng? Không hệ trọng đối với công việc, nhưng vô cùng hệ trọng đối với kẻ đào ngũ, vì y đã ném bỏ một cơ hội có thể không tái diễn trong nhiều kiếp lâm phàm. Hành động như thế cho thấy sự thiếu hẳn Ý thức về tỉ lệ, một sự vô tri hoàn toàn về Hội trên thực chất là gì và về nội diện công việc của Hội. |
This work which our Masters are doing, this work of the evolution of humanity, is the most fascinating thing in the whole world. Sometimes those of us who have been able to develope the faculties of the higher planes have been allowed a glimpse of that mighty scheme—have witnessed the lifting of a tiny corner of the veil. I know of nothing more stirring, more absorbingly interesting. The splendour, the colossal magnitude of the plans take away one’ s breath, yet even more impressive is the calm dignity, the utter certainty of it all. Not individuals only, but nations, are the pieces in this game; but neither nation nor individual is compelled to play any given part. The opportunity to play that part is given to it or to him; if he or it will not take it, there is invariably an understudy ready to step in and fill the gap. | Công việc mà Các Chân sư của chúng ta đang thực hiện, công cuộc tiến hoá của nhân loại, là điều hấp dẫn nhất trên đời. Đôi khi những người trong chúng ta đã có thể phát triển các năng lực của những cõi cao được phép thoáng thấy đồ án vĩ đại ấy—được chứng kiến cảnh bức màn được vén lên một góc nhỏ. Tôi không biết có gì khuấy động hơn, cuốn hút hơn thế. Vẻ lộng lẫy, tầm vóc khổng lồ của kế hoạch khiến người ta nghẹt thở, thế nhưng còn ấn tượng hơn là phẩm cách trầm tĩnh, sự chắc chắn tuyệt đối của tất cả. Không chỉ các cá nhân, mà cả các quốc gia, là những quân cờ trong ván cờ này; nhưng cả quốc gia lẫn cá nhân đều không bị cưỡng bức phải đóng một vai định sẵn. Cơ hội để đóng vai ấy được trao cho nó hay cho y; nếu y hay nó không nhận, bao giờ cũng có một người dự bị sẵn sàng bước vào lấp chỗ trống. |
At this present time a magnificent opportunity is being offered to the great Anglo-Saxon race—to the whole Teutonic sub-race, if it will only sink its petty rivalries and jealousies and take it. I hope with all my heart that it will do so; I believe that it will; but this I know, that if unfortunately it should fail, there is another nation already chosen to assume the sceptre which in that case would fall from its hands. Such failure would cause a slight delay, while the new nation was being pushed rapidly forward to the necessary level, but at the end of a few centuries exactly the same result would have been achieved. That is the one thing that is utterly certain—that the intended end will be achieved; through whose agency this will be done matters very much to the agent, but nothing at all to the total progress of the world. | Ngay lúc này một cơ hội huy hoàng đang được trao cho giống dân Anglo-Saxon vĩ đại—cho toàn thể giống dân phụ Teutonic, nếu giống dân ấy chịu gác bỏ những ganh đua và đố kỵ vụn vặt để nắm lấy cơ hội. Tôi hết lòng hy vọng rằng họ sẽ làm như vậy; tôi tin rằng họ sẽ làm; nhưng điều tôi biết là, nếu chẳng may họ thất bại, đã có một dân tộc khác được chọn sẵn để nắm lấy vương trượng sẽ rơi khỏi tay họ khi ấy. Sự thất bại như thế sẽ gây một chậm trễ nhỏ, trong khi dân tộc mới được thúc đẩy tiến nhanh tới mức cần thiết, nhưng sau vài thế kỷ rốt cuộc chính kết quả ấy sẽ được đạt tới. Đó là điều tuyệt đối chắc chắn—rằng cứu cánh đã định sẽ được thực hiện; qua tác nhân nào thì điều ấy hệ trọng vô cùng đối với tác nhân, nhưng chẳng ảnh hưởng gì đến tiến trình tổng thể của thế giới. |
Let us throw ourselves into that work, not out of it, trying ever to do more and more of it, and to do it better and better. For if we do well now in comparatively small matters—in Lodge activities, in propaganda work, in the service of those around us—we may be permitted to do something much grander—to help to smooth the way for the coming of the Lord; if we have the glorious privilege of earnestly and humbly making ourselves useful then, we may presently be entrusted with even greater responsibilities in connection with that new root-race, and of us will be true what was said of old: “Well done, good and faithful servant; thou hast been faithful over a few things; I will make thee ruler over many things; enter thou into the joy of thy Lord.” | Chúng ta hãy dấn thân vào công việc ấy, chứ không rút ra khỏi nó, luôn cố gắng làm được ngày càng nhiều hơn và làm ngày càng tốt hơn. Vì nếu hiện nay chúng ta làm tốt những việc tương đối nhỏ—trong các sinh hoạt của Chi hội, trong công tác truyền bá, trong phụng sự những người quanh ta—chúng ta có thể được phép làm điều lớn lao hơn nhiều—giúp san phẳng con đường cho sự quang lâm của Đấng; nếu khi ấy chúng ta được đặc ân rạng rỡ là thành tâm khiêm cung làm cho mình trở nên hữu ích, thì chẳng bao lâu chúng ta có thể được uỷ thác những trọng trách còn lớn hơn nữa liên quan đến giống dân gốc mới ấy, và đối với chúng ta sẽ ứng nghiệm điều đã được nói thời xưa: “Tốt lắm, đầy tớ ngay lành và trung tín; ngươi đã trung tín trong ít việc; Ta sẽ lập ngươi cai quản nhiều việc; hãy vào hưởng sự vui mừng của Chúa ngươi.” |
THEOSOPHY AND WORLD-LEADERS— THÔNG THIÊN HỌC VÀ CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO THẾ GIỚI
A thoughtful Theosophist cannot but wonder sometimes how it is that Theosophy, though unquestionably representing the most advanced theory of existence and the most complete statement of the highest wisdom at present available, yet does not seem to appeal at all to many of the most eminent leaders of the world’ s thought and progress, whether it be along the lines of science, art, literature, philosophy or religion. These men of the keenest intellect, these others of the noblest spirituality, surely they ought to be the very first to welcome the splendid effulgence of Theosophy, the clarity and common-sense of its system, the light which it throws upon all the problems of life and death, the beauty of the ideals which it puts before us. But the fact remains that they do not welcome it, but on the contrary many of them treat it with indifference, or even contempt. Their attitude is a remarkable phenomenon; how can we explain it? | Một người Thông Thiên Học biết suy tư hẳn đôi khi không thể không tự hỏi vì sao Thông Thiên Học, mặc dù không thể phủ nhận là trình bày học thuyết tiến hoá cao nhất về hiện hữu và là bản tuyên trình trọn vẹn nhất về minh triết tối thượng hiện đang khả dụng, thế mà dường như lại chẳng mảy may hấp dẫn nhiều vị lãnh đạo xuất chúng nhất của tư tưởng và tiến bộ thế giới, dầu là theo các hướng khoa học, nghệ thuật, văn chương, triết học hay tôn giáo. Những người có trí tuệ sắc bén nhất, những người khác có tinh thần cao quý nhất, lẽ ra chính họ phải là những người đầu tiên chào đón ánh huy hoàng của Thông Thiên Học, sự sáng rõ và lẽ thường của hệ thống ấy, ánh sáng mà nó chiếu vào mọi vấn đề sinh tử, vẻ đẹp của các lý tưởng nó nêu ra cho chúng ta. Thế nhưng thực tế là họ không chào đón, trái lại nhiều người trong họ đối xử với nó bằng thái độ dửng dưng, thậm chí khinh miệt. Thái độ ấy là một hiện tượng đáng chú ý; làm sao giải thích được? |
Again, as to ourselves, putting aside such an altogether abnormal person as our President, we know quite well that we who are Theosophists are in intellect far behind the great leaders of scientific and philosophical thought, just as in spirituality and devotion we are far behind some of the great saints of whom we hear in the various religions. Yet we have the inestimable privilege of finding ourselves in the Theosophical Society, we can understand, believe and assimilate its teachings, while these others apparently cannot. We are clearly no better than they; along certain lines we are obviously less developed; why should this great and glorious reward come to us and not to them? | Còn về chính chúng ta, tạm gác sang một bên một nhân vật hoàn toàn dị thường như vị Hội trưởng của chúng ta, chúng ta biết rất rõ rằng những người chúng ta, các hội viên Thông Thiên Học, xét về trí tuệ thì còn cách xa các nhà lãnh đạo lớn về tư tưởng khoa học và triết học, cũng như xét về tinh thần và lòng sùng tín, chúng ta còn cách xa một số vị thánh lớn mà chúng ta nghe nói đến trong các tôn giáo khác nhau. Thế mà chúng ta lại có đặc ân vô giá là thấy mình ở trong Hội Thông Thiên Học, chúng ta có thể thấu hiểu, tin nhận và đồng hoá với các giáo huấn của Hội, trong khi những người kia dường như không thể. Rõ ràng chúng ta chẳng hơn gì họ; theo một số phương diện, chúng ta hiển nhiên kém phát triển hơn; vậy cớ sao phần thưởng lớn lao rực rỡ ấy lại đến với chúng ta mà không đến với họ? |
It is a great and glorious reward; let us make no mistake as to that. The strongest adjectives in the language, the most poetical description that we can conceive, would fail adequately to convey what Theosophy is to those who can grasp it, what it does for those who put it into practice. Since it does all this for us who are commonplace folk, why does it leave these much higher and grander people cold and Unmoved? | Đó là một phần thưởng lớn lao rực rỡ; chớ để mình lầm lẫn về điều đó. Những tính từ mạnh nhất của ngôn ngữ, những mô tả thi vị nhất mà chúng ta có thể tưởng tượng, vẫn không tài nào diễn đạt đủ điều Thông Thiên Học là gì đối với những ai có thể nắm bắt nó, điều nó làm cho những ai thực hành nó. Vì nó làm tất cả những điều ấy cho chúng ta—những kẻ bình phàm—sao nó lại để những người cao cả và hùng vĩ kia lạnh nhạt, không lay chuyển? |
They are higher and grander; here is another point about which no mistake must be made. The intellect of the great scientific man is a very wonderful and wholly desirably thing, the culmination of ages of development. The spirituality, the utter unworldliness and the deep devotion of the saint are beautiful and precious beyond all words, and such saintship comes only as the crown of many lives of earnest effort along that special line. These are indeed gifts which none can despise or gainsay; “more to be desired are they than gold, yea, than much fine gold; sweeter also than honey and the honeycomb.” | Họ cao cả và hùng vĩ—điểm này cũng không được phép lầm lẫn. Trí tuệ của một nhà khoa học lớn là một điều kỳ diệu và hoàn toàn đáng mong ước, là đỉnh cao của những thời đại phát triển. Tinh thần linh thánh, sự thoát ly trần thế và lòng sùng tín sâu xa của vị thánh là điều đẹp đẽ và quý báu không lời nào tả xiết, và thánh hạnh như thế chỉ đến như vương miện của nhiều đời nỗ lực kiên trì theo đường hướng đặc biệt ấy. Thật vậy, đó là những ân phú mà chẳng ai có thể khinh chê hay phủ nhận; “đáng ước ao hơn vàng, phải, hơn vàng ròng nhiều; ngọt ngào hơn mật và tàng ong.” |
Yet their possessors have not the inestimable pearl of Theosophy, and we have it—we who stand on the plain, and look up to them on the mountain heights. Clearly these great men have much that we have not—much at least that in us is as yet merely rudimentary; what have we that they have not, that we are worthy of so great an honour? | Thế nhưng những vị sở hữu các ân phú ấy lại không có viên ngọc vô giá là Thông Thiên Học, còn chúng ta thì có—chúng ta đứng nơi đồng bằng mà ngước lên họ trên những đỉnh non cao. Rõ ràng các bậc vĩ nhân ấy có nhiều điều chúng ta chưa có—ít nhất là những điều nơi chúng ta mới chỉ là mầm mống; vậy chúng ta có gì mà họ chưa có, để chúng ta xứng đáng với vinh dự lớn lao đến thế? |
This is what we have—the knowledge of the direction in which to put forth our forces. We have it because from the Theosophical teaching we understand something of the scheme of things, something of the plan upon which the world is built, something of the object and method of evolution—and that not only in a broad and general sense, but also in sufficient detail to make it practically applicable to the life of the individual. | Đây là điều chúng ta có—tri thức về phương hướng để dốc phát lực của mình. Chúng ta có điều ấy vì từ giáo huấn Thông Thiên Học, chúng ta thấu hiểu phần nào đồ án vũ trụ, phần nào mô thức theo đó thế giới được dựng xây, phần nào mục đích và phương pháp của tiến hoá—và không chỉ theo nghĩa rộng lớn và tổng quát, mà còn trong mức chi tiết đủ để ứng dụng một cách thực tiễn vào đời sống cá nhân. |
But why is all this so much clearer to us, the small people, than to these greater ones? By our own doctrine we know how “utter-true the faultless balance weighs,” how none can have even the smallest benefit to which he is not entitled; what have we done to merit this greatest of all rewards—we who are very much like thousands of other people, full of ordinary human faults, neither better nor worse than the great majority of our fellow-men? | Nhưng vì sao tất cả điều này lại rõ ràng với những con người nhỏ bé như chúng ta hơn là với các vị vĩ nhân kia? Theo chính giáo nghĩa của mình, chúng ta biết “cái cân vô sai lầm cân đo hoàn toàn chân thật” biết bao, rằng chẳng ai có được dù lợi ích nhỏ nhất mà y không đáng hưởng; vậy chúng ta đã làm gì để xứng đáng với phần thưởng lớn nhất trong mọi phần thưởng—chúng ta, những kẻ rất giống hàng nghìn người khác, đầy những lỗi thường tình, chẳng hơn chẳng kém đại đa số đồng loại của mình? |
Whatever it is that we have done, it must evidently have been in some other life than this. Many of us can bear testimony that when we first met with Theosophy (this time) something within us leapt up at once in glad response to its appeal, in eager recognition of kinship to its thought. Yet we all know that there are many other better people than we in whom it evokes no response whatever—who cannot understand the depth of our enthusiasm for it. | Dù là chúng ta đã làm gì, hiển nhiên điều ấy phải đã xảy ra trong một đời khác hơn đời này. Nhiều người trong chúng ta có thể làm chứng rằng khi lần đầu gặp Thông Thiên Học (lần này), có điều gì đó bên trong chúng ta đã lập tức trỗi dậy đáp ứng hoan hỷ trước tiếng gọi của nó, nhận ra nồng nhiệt mối đồng khí tương cầu với tư tưởng của nó. Thế nhưng chúng ta đều biết rằng có rất nhiều người tốt hơn chúng ta mà Thông Thiên Học chẳng gợi lên bất kỳ đáp ứng nào—những người không thể hiểu được vì sao chúng ta lại nhiệt thành đến thế đối với nó. |
We usually (and quite correctly) explain this by saying that we have met with these glorious truths before; that we have known of and studied these things in a former life, and that our unappreciative friends have not. But that does not solve the problem; it only moves it a stage further back. Why, in that former life, did we study these things, while our more gifted friends did not? | Thông thường (và rất đúng) chúng ta giải thích rằng chúng ta đã từng gặp những chân lý huy hoàng này trước đây; rằng chúng ta từng biết và học những điều này trong một đời trước, còn những người bạn chưa thấu hiểu kia thì không. Nhưng điều đó chưa giải được bài toán; nó chỉ đẩy bài toán lùi thêm một chặng. Vì sao, trong đời trước ấy, chúng ta đã học những điều này, còn những người bạn tài năng hơn của chúng ta lại không? |
The answer is that the world is still at an early stage of its evolution, and that man has not yet had time to unfold all qualities. He must take them in some sort of order; he must begin somewhere; and men differ because they have chosen different points from which to begin. We have our qualities and our powers (such as they are), and our attraction to these subjects, because it is in that direction that we have been putting out our every effort in the far-away past. No one possesses any quality that he has not worked to unfold within himself. So if our greater friends are “gifted” in certain ways, it is because they have earned their gift by hard work in previous lives. Just as by study in another life we have acquired our “gift”—the power to understand and appreciate something of Theosophic truth—so have they acquired their shining powers of intellect or devotion by practicing these qualities long ago. | Câu trả lời là: thế giới vẫn còn ở giai đoạn sớm của tiến hoá, và con người chưa có thời gian để triển khai mọi phẩm tính. Y buộc phải tiếp nhận chúng theo một trật tự nào đó; y phải khởi đi từ đâu đó; và con người khác nhau vì họ đã chọn những điểm khởi đầu khác nhau. Chúng ta có các phẩm chất và năng lực (như hiện có), và có sức lôi cuốn tới các đề tài này, vì đó là hướng mà chúng ta đã dốc mọi nỗ lực của mình trong quá vãng xa xưa. Không ai sở hữu một phẩm chất nào mà y chưa từng lao công để khai mở từ bên trong. Vậy nếu các bạn hữu vĩ đại của chúng ta “được phú bẩm” theo những cách thức nhất định, là vì họ đã kiến đắc ân phú ấy bằng lao nhọc trong các đời trước. Cũng như nhờ học hỏi trong một đời khác mà chúng ta đã thâu đắc “ân phú” của mình—năng lực thấu hiểu và trân quý phần nào chân lý Thông Thiên Học—thì họ cũng đã thâu đắc quyền năng rực rỡ của trí tuệ hoặc sùng tín bằng cách thực hành những phẩm tính ấy từ lâu. |
We have taken different lines then, we have spent our time in developing different qualities. Now we each have what we have earned, but naturally each finds himself without those other qualities at which he has not been specially working. We are all imperfect, but not all imperfect in the same direction. Manifestly we must aim in the future at an all-round development, so that each must acquired the qualities which others now possess, but he as yet does not. | Chúng ta đã chọn những đường hướng khác nhau, chúng ta đã dành thời gian phát triển những phẩm chất khác nhau. Nay mỗi người có những gì mình đã kiến đắc, nhưng dĩ nhiên mỗi người cũng thấy mình thiếu những phẩm chất khác mà mình chưa chuyên tâm trau dồi. Tất cả chúng ta đều chưa hoàn hảo, nhưng không phải ai cũng bất toàn theo cùng một hướng. Hiển nhiên trong tương lai chúng ta phải nhắm tới một sự phát triển toàn diện, sao cho mỗi người phải thâu nhận những phẩm chất mà hiện người khác đang sở hữu, còn y thì chưa. |
Another very interesting point, which has been somewhere well put by our President, is that the great leaders of thought at the present day are fulfilling a certain function in the world’ s evolution which they could not so well fill if they knew all that we know. This is the fifth sub-race of the fifth root-race, and the fullest possible unfoldment of the lower mind is the task at the moment set before humanity. These leaders who intensity it, glory in it, almost worship it, are doing the work which they are appointed to do for the majority of mankind. It is precisely because they believe in intellect so thoroughly, because they think that there is nothing beyond it, that they can so intensify it and carry it to so high a place. It is because they know just so much, and no more, that they are convenient pawns to be used in this particular part of the cosmic game. For, as Omar Khayyam says: | Một điểm rất thú vị nữa, đã từng được vị Hội trưởng của chúng ta diễn đạt rất hay ở đâu đó, là: các nhà lãnh đạo tư tưởng vĩ đại trong thời hiện tại đang đảm nhận một chức năng nhất định trong tiến hoá của thế giới mà họ không thể đảm nhận tốt như thế nếu họ biết tất cả những gì chúng ta biết. Đây là giống dân phụ thứ năm của giống dân gốc thứ năm, và sự triển khai đầy đủ nhất có thể của hạ trí là phận sự trong lúc này được đặt ra trước nhân loại. Những nhà lãnh đạo tôn vinh hạ trí, đắm say trong nó, hầu như tôn thờ nó, đang thực hiện công việc mà họ được bổ nhiệm để làm cho đa số nhân loại. Chính vì họ tin vào trí tuệ đến mức triệt để, vì họ nghĩ rằng chẳng có gì nằm ngoài nó, nên họ có thể làm cho nó trở nên tinh luyện và đưa nó lên một địa vị cao như vậy. Chính vì họ biết bấy nhiêu, và không hơn, mà họ là những quân cờ tiện dụng để dùng trong chặng đặc thù này của ván cờ vũ trụ. Bởi, như Omar Khayyam nói: |
“We are but pieces in the game He plays | “Chúng ta chỉ là những quân cờ trong ván cờ Ngài chơi |
Upon this chequer-board of nights and days; | Trên bàn cờ chằng ô của đêm ngày; |
Hither and thither moves, and checks, and slays, | Chuyển nơi này nơi khác, chiếu tướng, đốn hạ, |
And one by one back in the closet lays.” | Rồi từng quân một lại cất vào hòm.” |
These great men are the appointed leaders of a certain stage, and they are doing their work nobly; we cannot expect them to turn aside from that now to listen to us and our message. There will come a time in the future when they will listen, and then the magnificent intellectual development which they are now acquiring will carry them far and rapidly along the road of occult progress. | Những vĩ nhân này là các lãnh đạo được chỉ định của một giai đoạn nhất định, và họ đang làm công việc của mình một cách cao cả; chúng ta không thể kỳ vọng họ quay sang lắng nghe chúng ta và sứ điệp của chúng ta vào lúc này. Sẽ đến một thời trong tương lai khi họ sẽ lắng nghe, và khi ấy sự phát triển trí tuệ huy hoàng mà họ đang thâu đắc bây giờ sẽ đưa họ tiến xa và mau lẹ trên con đường tiến bộ huyền môn. |
These three things it is clear that man must have before he can hope to reach perfection: intellect, spirituality, and discrimination—which last quality may in this case be defined as the knowledge of how to use the other two wisely. If any one of these be absent, the working of the others cannot but be to some extent defective. We constantly see that this is so. The scientific man evolves intellect to a very high level, but if the spiritual side of his nature is entirely undeveloped he may use intellect for personal ends instead of for the good of all; or he may be unscrupulous in the pursuit of knowledge, as is the vivisector. The saint reaches a high level of devotion and spirituality, yet for lack of intellect he may often make himself ridiculous by superstition, he may be narrow-minded, and even a persecutor. And both the saint and the scientist may waste their energies in quite wrong direction for want of a clear knowledge of the great plan of the LOGOS—the very thing that Theosophy gives. | Có ba điều rõ ràng con người phải có trước khi hy vọng đạt đến sự viên mãn: trí tuệ, tinh thần, và phân biện—phẩm chất sau cùng này trong trường hợp này có thể được định nghĩa là tri thức về cách sử dụng khôn ngoan hai điều kia. Nếu thiếu một trong ba, sự vận hành của hai điều còn lại ắt ở một mức độ nào đó sẽ khiếm khuyết. Chúng ta thường xuyên thấy điều này đúng. Nhà khoa học phát triển trí tuệ đến một mức rất cao, nhưng nếu phương diện tinh thần của y hoàn toàn chưa khai mở, y có thể dùng trí tuệ cho mục đích cá nhân thay vì vì lợi ích chung; hoặc y có thể bất chấp lương tri trong việc theo đuổi tri thức, như trường hợp nhà giải phẫu thực nghiệm trên sinh vật sống. Vị thánh đạt đến một cấp độ cao của lòng sùng tín và tinh thần, nhưng vì thiếu trí tuệ, y có thể nhiều phen làm mình nực cười vì mê tín, có thể hẹp hòi, thậm chí trở thành kẻ bức hại. Và cả vị thánh lẫn nhà khoa học đều có thể phung phí năng lực theo hướng hoàn toàn sai lạc vì thiếu một tri thức sáng tỏ về Thiên Cơ của Thượng đế—chính điều mà Thông Thiên Học cống hiến. |
What a man is now is the consequence of what he has done and thought in the past. If he has devoted his energy to the development of intellect—well and good, he has the intellect for which he has worked; but, since in addition to that he needs spirituality and discrimination, he must now devote himself to working for the acquisition of those faculties. If he has so far spent his time chiefly in devotion he has gained great power in that direction, but he must now proceed to unfold those other qualities of intellect and discrimination to which he has not yet turned his attention. If in previous lives he has studied the great scheme of things, he comes back this time with power to comprehend and the intuition to accept the truth, and that is indeed well for him; but he still needs to unfold from within himself the qualities to which the other men have been devoting themselves. | Con người hiện là gì là kết quả của những gì y đã làm và nghĩ trong quá khứ. Nếu y đã dốc năng lực vào việc phát triển trí tuệ—tốt lắm, y có trí tuệ mà y đã lao công gặt hái; nhưng vì ngoài điều ấy y còn cần tinh thần và phân biện, y phải nay dốc tâm làm việc để thâu đắc các năng lực ấy. Nếu trước nay y chủ yếu dành thời gian cho sùng tín, y đã đạt được quyền năng lớn theo hướng đó, nhưng nay y phải tiến hành khai mở những phẩm chất khác là trí tuệ và phân biện mà y chưa hướng chú ý vào. Nếu trong các đời trước y đã học hỏi về đại đồ án của vạn hữu, y trở lại đời này với năng lực thấu hiểu và trực giác để tiếp nhận chân lý, và điều đó thật sự lành thay cho y; nhưng y vẫn cần khai mở từ bên trong mình những phẩm chất mà các người khác đã dốc công trau dồi. |
Unfortunately man at these early stages of evolution is so constituted that he is apt to boast of what he himself possesses, and to try to exalt his own qualities by minimising those of others instead of imitating what is best in them. So it happens that the saint and the man of science rarely appreciate one another, and not infrequently there is a good deal of mutual contempt and misunderstanding. It is for us to be careful that we do not allow ourselves to fall into the same snare. Let us remember that we set before ourselves as a goal the attainment of adeptship, and that the adept is the perfect man in whom all these different good qualities exist in the highest degree. | Đáng tiếc là ở những giai đoạn sớm của tiến hoá, con người lại có cấu trúc tâm lý khiến y dễ khoe khoang điều y sở hữu, và tìm cách đề cao phẩm chất của mình bằng cách hạ thấp phẩm chất của người khác, thay vì noi theo những gì tốt đẹp nhất nơi họ. Vậy nên vị thánh và nhà khoa học hiếm khi biết trân quý nhau, và không ít lần có rất nhiều khinh miệt và hiểu lầm lẫn nhau. Về phần chúng ta, cần cẩn trọng kẻo sa vào chiếc bẫy ấy. Hãy nhớ rằng chúng ta đặt trước mình mục tiêu đạt đến địa vị chân sư, và rằng chân sư là con người hoàn hảo nơi đó mọi phẩm chất tốt đẹp này hiện hữu ở mức cao nhất. |
Before we reach adeptship we have to develope as much spirituality as the greatest of the saints, and far more—as much intellect as the most brilliant man of science, and far more. So our attitude towards those who already possess these most desirable attributes should be not carping criticism, but the most generous appreciation and admiration of all that is good, while our own quality—that of knowledge of the direction in which evolution is moving—will prevent us from imitating the mistakes in addition to the excellencies of those who, while far advanced along other lines, are as yet scarcely even on the threshold or ours. | Trước khi đạt chân sư vị, chúng ta phải phát triển tinh thần nhiều như vị thánh vĩ đại nhất, và còn hơn thế—phát triển trí tuệ nhiều như nhà khoa học lỗi lạc nhất, và còn hơn thế. Vậy nên thái độ của chúng ta đối với những ai đã sở hữu các thuộc tính đáng ao ước ấy không nên là bới móc chỉ trích, mà là sự trân trọng rộng lượng và ngưỡng mộ sâu xa tất cả điều thiện, trong khi phẩm chất riêng của chúng ta—tri thức về phương hướng mà tiến hoá đang vận hành—sẽ ngăn chúng ta khỏi việc bắt chước những sai lầm bên cạnh những ưu điểm của những người, tuy đã tiến xa theo các đường hướng khác, nhưng vẫn hầu như chưa đặt chân lên ngưỡng cửa của đường hướng chúng ta. |
All these qualities are necessary, and we have much hard work before us to develope those in which we are at present lacking. Yet I think we may congratulate ourselves upon the choice which we made in other lives, when we devoted ourselves to the study of the great scheme as a whole, to the endeavour to understand the plan of the LOGOS, and in our humble way to co-operate with Him. | Tất cả những phẩm chất này đều cần thiết, và trước mắt chúng ta còn nhiều lao công để phát triển những điều mà hiện chúng ta đang thiếu. Tuy vậy, tôi nghĩ chúng ta có thể chúc mừng chính mình về sự chọn lựa mà chúng ta đã làm trong những đời khác, khi chúng ta dành mình cho việc học hỏi đại đồ án như một chỉnh thể, nỗ lực thấu hiểu Thiên Cơ của Thượng đế, và trong khả năng khiêm tốn của mình mà cộng tác với Ngài. |
For that has brought us (or should have brought us) contentment with our lot, the power to make the best of everything, and to see the best in everything. Most men are eager to see the worst in everybody, to pounce upon flaws in everything, to find something at which to carp and cavil. We who are Theosophists should cultivate a spirit exactly the reverse of this; we should see the hidden deity in every one and everything, and our eagerness should ever be to discover in all of them not what is evil, but what is good. If these others despise us; if the scientific man ridicules us as superstitious and refuses to listen to our explanations; if the devotional person regards us with horror as unorthodox, and insists on clinging to a less noble presentation of his deity than that which we offer him; let us on our side take heed that we do not make a corresponding mistake. They have their weak points, no doubt, and one of them is this prejudice which renders them unable to appreciate the truth; let us be courteous enough gracefully to ignore such failings, and focus our attention upon the splendid qualities in which they really excel—those qualities in which we must use our most strenuous endeavour to imitate them. | Vì điều ấy đã đưa chúng ta (hoặc lẽ ra phải đưa chúng ta) đến sự mãn nguyện với phần số của mình, năng lực tận dụng điều tốt nhất trong mọi sự, và thấy điều tốt nhất nơi mọi sự. Đa số người đời hăm hở nhìn cái xấu nơi mọi người, nhào đến chỗ khiếm khuyết trong mọi sự, tìm cái gì đó để bắt bẻ và hạch sách. Chúng ta, những người Thông Thiên Học, nên vun bồi một tinh thần hoàn toàn trái ngược; chúng ta nên thấy vị thần ẩn tàng nơi mỗi người và mỗi vật, và điều chúng ta hăm hở kiếm tìm nơi tất cả không phải là điều ác, mà là điều thiện. Nếu những người khác khinh chê chúng ta; nếu nhà khoa học chế nhạo chúng ta là mê tín và từ chối lắng nghe giải thích của chúng ta; nếu người sùng tín nhìn chúng ta với vẻ kinh hãi vì cho là “bất chính thống”, và khăng khăng bám víu vào một hình dung kém cao quý về Thượng đế của y hơn điều mà chúng ta dành cho y; thì về phía chúng ta, hãy coi chừng đừng phạm một sai lầm tương ứng. Họ có điểm yếu, không nghi ngờ gì, và một trong số đó là định kiến khiến họ không thể trân quý chân lý; vậy chúng ta hãy đủ lịch nhã để khéo léo bỏ qua những thiếu sót như thế, và tập trung chú ý vào những phẩm chất huy hoàng mà họ thật sự xuất sắc—những phẩm chất mà chúng ta phải nỗ lực hết mình để noi theo. |
For since we see that the LOGOS wills to use in His service our intellect and our devotion, we have the strongest conceivable motive to develope them as rapidly as we can, and we shall be saved much trouble, much mortification and waste of energy by the knowledge which we already have of the direction in which He wills that these forces should be employed. All that we have is from Him, and therefore all that we have we hold on His behalf and at His disposal, to be used ever and only in His service. | Vì khi chúng ta thấy rằng Thượng đế muốn sử dụng trí tuệ và lòng sùng tín của chúng ta trong công cuộc phụng sự của Ngài, chúng ta có động cơ mạnh mẽ nhất có thể nghĩ ra để phát triển chúng nhanh hết mức có thể, và chúng ta sẽ tránh được nhiều rắc rối, nhiều điều bẽ bàng và sự lãng phí năng lực nhờ hiểu biết mà chúng ta đã có về chiều hướng mà Ngài muốn những lực này được vận dụng. Mọi điều chúng ta có đều từ Ngài, và do đó mọi điều chúng ta có, chúng ta giữ thay mặt Ngài và đặt dưới quyền định đoạt của Ngài, để luôn luôn và chỉ được dùng cho sự phụng sự của Ngài. |
REMINISCENCES—HỒI TƯỞNG
I first heard of Theosophy through coming across a second-hand copy of Mr. Sinnett’ s book The Occult World, but my first communication from one of the Masters was obtained in a somewhat unusual way. For some years before this I had been engaged in the investigation of spiritualism, and in the course of that enquiry I had come into contact with most of the prominent mediums of that day, and had seen every one of the ordinary phenomena about which one reads in books upon that subject. One medium with when I had much to do was Mr. Eglinton; and although I have heard stories told against him, I must bear witness that in all my own dealings with him I found him most straightforward, reasonable and courteous. | Tôi lần đầu tiên biết đến Thông Thiên Học khi tình cờ bắt gặp một cuốn sách cũ của Ông Sinnett mang tên The Occult World, nhưng lần đầu tiên tôi nhận được thông điệp từ một trong các Chân sư lại diễn ra theo cách khá bất thường. Trước đó, trong vài năm, tôi đã nghiên cứu về thuyết tâm linh và trong quá trình đó tôi đã tiếp xúc với hầu hết các nhà ngoại cảm nổi tiếng thời bấy giờ, và đã chứng kiến mọi hiện tượng thông thường mà người ta thường đọc trong các sách về chủ đề này. Một nhà ngoại cảm mà tôi thường xuyên làm việc cùng là Ông Eglinton; mặc dù tôi đã nghe kể những câu chuyện không hay về Ông ấy, tôi phải làm chứng rằng trong tất cả các lần làm việc của tôi với Ông, tôi thấy Ông rất thẳng thắn, hợp lý và lịch sự. |
One of his specialities was slate-writing, and I found it a very useful phenomenon to show to any enquirer who adopted the sceptical attitude. The method was this. On the way to the séance I took the sceptic into a stationer’ s shop and induced him to buy two new school slates, and to have them packed in one parcel with a tiny crumb of slate pencil enclosed between them. I advised him to assure himself that the parcel was securely tied, and to seal the knots with his own seal if he had one. Then I told him to carry the parcel, and on no account whatever to let it pass out of his personal custody either before or during the séance. If during the performance it was necessary to sit with joined hands, I advised him to sit upon his parcel. Thus the séance commenced, and usually after a very short time there would be raps or some other indication that the force had gathered. | Một trong những đặc sản của Ông ấy là hiện tượng viết trên bảng đá, và tôi thấy nó là một hiện tượng rất hữu ích để cho những người thắc mắc và hoài nghi thấy. Phương pháp thực hiện như sau: Trên đường đến buổi lên đồng, tôi đưa người hoài nghi vào một cửa hàng văn phòng phẩm và khiến anh ta mua hai bảng đá học sinh mới, gói chúng lại trong một gói cùng với một mẩu bút chì đá nhỏ giữa hai bảng. Tôi khuyên anh ta tự mình buộc chặt gói và nếu có con dấu thì dùng để niêm phong các nút thắt. Sau đó, tôi bảo anh ta mang gói hàng, và dù bằng bất cứ giá nào, đừng để nó rời khỏi tay anh trước hoặc trong buổi lên đồng. Nếu trong buổi diễn cần phải ngồi nắm tay nhau, tôi khuyên anh ta ngồi lên gói hàng của mình. Buổi lên đồng bắt đầu, và thường chỉ sau một thời gian ngắn sẽ có tiếng gõ hoặc một số dấu hiệu khác cho thấy lực đã tụ lại. |
We sat usually at a small square wooden table without any cloth upon it, and Eglinton’ s plan was to take an ordinary slate, lay upon it a crumb of pencil and then slip it under the table, holding the slate against the under surface of the table. As this was in broad daylight, and we were alone in the room with the medium, there was no opportunity for substitution of previously prepared slates, or anything of that sort. The slate being held in this way, writing would appear on the surface which was pressed close against the table—writing in answer to any question which we chose to ask. | Chúng tôi thường ngồi quanh một chiếc bàn gỗ vuông nhỏ không có khăn trải, và kế hoạch của Eglinton là lấy một bảng đá bình thường, đặt một mẩu bút chì lên nó rồi trượt nó xuống dưới bàn, giữ bảng sát với bề mặt bên dưới của bàn. Vì điều này diễn ra dưới ánh sáng ban ngày, và chúng tôi chỉ có hai người trong phòng với nhà ngoại cảm, không có cơ hội thay thế bảng đá đã chuẩn bị trước hoặc bất kỳ thủ thuật nào khác. Bảng được giữ theo cách này, chữ viết sẽ xuất hiện trên bề mặt áp sát vào bàn—viết trả lời cho bất kỳ câu hỏi nào chúng tôi chọn đặt ra. |
After this had been going on for some little time I asked insinuatingly whether the kind spirits could write on our slates. Nearly always the answer was in the affirmative, though once or twice I have been told that the power was not strong enough. Then I turned to the sceptic and asked him to produce his sealed package of slates:, but on no account to allow it to go out of his hands. Usually he held it out in both his hands above the table, and Mr. Eglinton would place one hand lightly upon the package. | Sau khi điều này tiếp diễn trong một thời gian ngắn, tôi đặt câu hỏi một cách gợi ý rằng liệu các tinh linh có thể viết trên các bảng đá của chúng tôi không. Gần như luôn luôn câu trả lời là có, mặc dù đôi khi họ nói rằng lực không đủ mạnh. Sau đó, tôi quay sang người hoài nghi và yêu cầu anh ta lấy gói bảng đá được niêm phong của mình ra, nhưng dù bằng cách nào cũng không để nó rời khỏi tay anh. Thường thì anh ta cầm gói hàng trong cả hai tay trên mặt bàn, và Ông Eglinton sẽ đặt nhẹ một tay lên gói hàng. |
Under those conditions I asked the sceptic to formulate a mental question, and then while he still held the package of slates we heard the writing rapidly going on inside. When the usual three little taps announced that the message was finished, I said to the sceptic: | Trong những điều kiện đó, tôi yêu cầu người hoài nghi suy nghĩ một câu hỏi trong đầu, và khi anh ta vẫn cầm gói bảng, chúng tôi nghe thấy tiếng viết nhanh bên trong. Khi ba tiếng gõ nhỏ thông báo rằng thông điệp đã hoàn thành, tôi nói với người hoài nghi: |
“Now examine your slates and your string, and make sure that no one has thrown you into an hypnotic trance and tampered with your parcel; then cut it open and read your answer.” | “Giờ hãy kiểm tra bảng đá và dây buộc của anh, và đảm bảo rằng không ai đã thôi miên anh và tác động đến gói hàng; sau đó cắt nó ra và đọc câu trả lời của mình.” |
Generally we found the two sides of the slates which had been pressed together filled with writing more or less in relation to the mental question which had been formulated. Usually the sceptic was tremendously impressed and even dumbfounded for the time; but within a week he generally wrote to say that of course we had somehow or other been deceived, and we had not really seen what we thought we saw. | Thông thường, chúng tôi thấy hai mặt của bảng đá, vốn được ép chặt với nhau, đầy chữ viết ít nhiều liên quan đến câu hỏi mà anh ta đã nghĩ trong đầu. Thường thì người hoài nghi cực kỳ ấn tượng và thậm chí câm lặng vì ngạc nhiên trong thời gian ngắn; nhưng trong vòng một tuần, anh ta thường viết thư nói rằng tất nhiên bằng cách nào đó chúng tôi đã bị lừa dối, và rằng chúng tôi thực sự không thấy những gì mình nghĩ đã thấy. |
Mr. Eglinton had various so-called controls—one a Red Indian girl who called herself Daisy, and chattered volubly whether opportunity offered or not. Another was a tall Arab, named Abdullah, considerably over six feet, who never said anything, but produced remarkable phenomena, and often exhibited feats showing great strength. I have seen him simultaneously lift two heavy men, one in each hand. A third control who frequently put in an appearance was Ernest; he comparatively rarely materialised, but frequently spoke with direct voice, and wrote a characteristic and well-educated hand. One day in conversation with him something was said in reference to the Masters of the Wisdom; Ernest spoke of Them with the most profound reverence, and said that he had on various occasions had the privilege of seeing Them. I at once enquired whether he was prepared to take charge of any message or letter for Them, and he said that he would willingly do so, and would deliver it when opportunity offered, but he could not say exactly when that would be. | Ông Eglinton có nhiều thực thể kiểm soát được cho là điều khiển, một trong số đó là một cô gái người Da Đỏ tự xưng là Daisy, cô ấy nói chuyện rất huyên thuyên dù có cơ hội hay không. Một thực thể khác là một người Ả Rập cao lớn tên Abdullah, cao hơn sáu feet, người không bao giờ nói gì nhưng lại tạo ra những hiện tượng kỳ diệu và thường biểu diễn những kỳ tích thể hiện sức mạnh lớn. Tôi đã thấy Ông ấy đồng thời nhấc hai người đàn ông nặng nề, mỗi người một tay. Một thực thể kiểm soát thứ ba thường xuất hiện là Ernest; Ông ta hiếm khi hiện hình, nhưng thường nói bằng giọng trực tiếp và viết tay với nét chữ đặc trưng và học thức. Một ngày nọ, trong cuộc trò chuyện với Ông, có điều gì đó được nói liên quan đến các Chân sư Minh triết; Ernest nói về các Ngài với lòng kính trọng sâu sắc nhất và nói rằng Ông đã nhiều lần có vinh dự được nhìn thấy các Ngài. Ngay lập tức, tôi hỏi liệu Ông có sẵn sàng chuyển bất kỳ thông điệp hoặc thư từ nào cho các Ngài không, và Ông nói rằng Ông rất sẵn lòng làm điều đó, và sẽ giao nó khi có cơ hội, nhưng không thể nói chính xác khi nào điều đó sẽ xảy ra. |
I may mention here that in connection with this I had later a good example of the unreliability of all such communications. Some considerable time afterwards some spiritualist wrote to Lights explaining that there could not possibly be such persons as the Masters, because Ernest had positively told him that there were not. I wrote to the same newspaper to say that I had it on precisely the same valueless authority that there were Masters, and that Ernest knew Them well. In each case Ernest had evidently reflected the thought of the questioner, as such entities so often do. | Tôi có thể đề cập ở đây rằng liên quan đến việc này, sau này tôi đã có một ví dụ tốt về tính không đáng tin cậy của tất cả các thông điệp kiểu này. Một thời gian sau, một nhà tâm linh đã viết thư cho tờ Light giải thích rằng không thể có các Chân sư, vì Ernest đã quả quyết nói với anh ta rằng không có các Chân sư. Tôi viết thư lại cho tờ báo đó để nói rằng tôi cũng có thông tin chính xác từ chính Ernest rằng có các Chân sư, và rằng Ernest biết rõ về các Ngài. Trong mỗi trường hợp, rõ ràng Ernest đã phản ánh suy nghĩ của người hỏi, giống như cách các thực thể như vậy thường làm. |
To return to my story, I at once provisionally accepted Ernest’ s offer; I said that I would write a letter to one of these Great Masters, and would confide it to him if my friend and teacher, Mr. Sinnett, approved. At the mention of this name the “spirits” were much perturbed; Daisy especially was very angry, and declared that she would have nothing to do with Mr. Sinnett under any circumstances; “Why, he calls us spooks!” she said, with great indignation. However I blandly stuck to my point that all I knew of Theosophy had come to me through Mr. Sinnett, and that I therefore did not feel justified in going behind his back in any way, or trying to find some other means of communication without first consulting him. | Trở lại với câu chuyện của tôi, tôi ngay lập tức tạm thời chấp nhận lời đề nghị của Ernest; tôi nói rằng tôi sẽ viết một lá thư gửi cho một trong những Chân sư vĩ đại này và sẽ giao nó cho Ông nếu người bạn và thầy của tôi, Ông Sinnett, đồng ý. Khi tôi nhắc đến tên Ông Sinnett, các “tinh linh” trở nên rất bối rối; đặc biệt là Daisy rất tức giận và tuyên bố rằng cô sẽ không bao giờ làm bất cứ điều gì liên quan đến Ông Sinnett trong bất kỳ hoàn cảnh nào. “Sao mà Ông ta lại gọi chúng tôi là ma quỷ!” cô ấy nói với sự phẫn nộ lớn. Tuy nhiên, tôi kiên định với quan điểm của mình rằng tất cả những gì tôi biết về Thông Thiên Học đều đến với tôi thông qua Ông Sinnett, vì vậy tôi không cảm thấy có quyền bỏ qua Ông ấy theo bất kỳ cách nào, hoặc cố gắng tìm một phương thức liên lạc khác mà không tham khảo ý kiến của Ông trước. |
Finally, though with a very bad grace, the spirits consented to this, and the séance presently terminated. When Mr. Eglinton came out of his trance, I asked him how I could send a letter to Ernest, and he said at once that if I would send the letter to him he would put it in a certain box which hung against the wall, from which Ernest would take it when he wished. I then posted off to Mr. Sinnett, and asked his opinion of all this. He was at once eagerly interested, and advised me promptly to accept the offer and see what happened. | Cuối cùng, mặc dù rất miễn cưỡng, các tinh linh đồng ý với điều này, và buổi lên đồng sau đó kết thúc. Khi Ông Eglinton thoát khỏi trạng thái nhập hồn, tôi hỏi làm thế nào tôi có thể gửi một lá thư cho Ernest, và Ông ngay lập tức nói rằng nếu tôi gửi thư cho Ông ấy, Ông sẽ đặt nó vào một chiếc hộp treo trên tường, và Ernest sẽ lấy nó khi Ông muốn. Sau đó, tôi gửi thư ngay cho Ông Sinnett và hỏi ý kiến của Ông về toàn bộ sự việc. Ông ấy ngay lập tức tỏ ra rất quan tâm và khuyên tôi nên chấp nhận lời đề nghị này và xem điều gì sẽ xảy ra. |
Thereupon I went home and wrote three letters. The first was to the Master K. H., telling Him with all reverence that ever since I had first heard of Theosophy my one desire had been to place myself under Him as a pupil. I told Him of my circumstances at the time, and asked whether it was necessary that the seven years of probation of which I had heard should be passed in India. I put this letter in a small envelope and sealed it carefully with my own seal. Then I enclosed it in a letter to Ernest in which I reminded him of his promise, and asked him to deliver this letter for me, and to bring back an answer, if there should be one. That second letter I sealed in the same manner as the first, and then I enclosed that in turn with a short note to Eglinton, asking him to put it in his box and let me know whether any notice was taken of it. I had asked a friend who was staying with me to examine the seals of both the letters with a microscope, so that if we should see them again we might know whether any one had been tampering with them. By return of post I received a note from Mr. Eglinton, saying that he had duly put the note for Ernest into his box, and that it had already vanished, and further that if any reply should come to him he would at once forward it. | Vì thế, tôi trở về nhà và viết ba lá thư. Lá thư đầu tiên là gửi cho Chân sư K. H., với tất cả lòng kính trọng, tôi bày tỏ rằng từ khi lần đầu nghe về Thông Thiên Học, ước nguyện duy nhất của tôi là được trở thành đệ tử của Ngài. Tôi kể với Ngài về hoàn cảnh của tôi lúc đó và hỏi liệu có cần phải trải qua bảy năm thử thách mà tôi đã nghe nói đến ở Ấn Độ hay không. Tôi đặt lá thư này vào một phong bì nhỏ và niêm phong cẩn thận bằng dấu niêm của chính mình. Sau đó, tôi đặt nó trong một lá thư gửi cho Ernest, nhắc nhở Ông về lời hứa của mình và yêu cầu Ông chuyển lá thư này cho tôi, và nếu có câu trả lời thì mang lại cho tôi. Lá thư thứ hai này tôi cũng niêm phong theo cách tương tự như lá đầu tiên, và rồi tôi đặt nó vào một bức thư ngắn gửi cho Eglinton, yêu cầu Ông đặt nó vào chiếc hộp và cho tôi biết liệu có bất kỳ phản hồi nào không. Tôi đã nhờ một người bạn đang ở cùng tôi kiểm tra dấu niêm của cả hai lá thư bằng kính hiển vi, để nếu chúng tôi thấy chúng lại, chúng tôi có thể biết liệu có ai đó đã tác động đến chúng hay không. Sau khi gửi thư, tôi nhận được một bức thư ngắn từ Ông Eglinton nói rằng Ông đã đặt lá thư gửi cho Ernest vào chiếc hộp và rằng nó đã biến mất, và nếu có bất kỳ phản hồi nào đến, Ông sẽ chuyển ngay cho tôi. |
A few days later I received a letter directed in a hand which was unknown to me, and on opening it I discovered my own letter to Ernest apparently unopened, the name “Ernest” on the envelope being marked out, and my own written underneath it in pencil. My friend and I once more examined the seal with a microscope, and were unable to detect any indication whatever that any one had tampered with the letter, and we both agreed that it was quite impossible that it could have been opened; yet on cutting it open I discovered that the letter which I had written to the Master had disappeared. All that I found inside was my own letter to Ernest, with a few words in the well-known hand-writing of the latter written on its blank page, to the effect that my letter had been duly handed to the Great Master, and that if in the future I should ever be thought worthy to receive an answer Ernest would gladly bring it to me. | Vài ngày sau, tôi nhận được một lá thư được gửi với nét chữ mà tôi không nhận ra, và khi mở ra, tôi phát hiện ra lá thư tôi gửi cho Ernest dường như chưa được mở, tên “Ernest” trên phong bì bị gạch đi, và tên tôi được viết bằng bút chì ngay bên dưới. Tôi và người bạn của tôi lại kiểm tra dấu niêm bằng kính hiển vi và không thể phát hiện bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy lá thư đã bị tác động, và chúng tôi đồng ý rằng không có khả năng nó đã bị mở ra; tuy nhiên, khi cắt nó ra, tôi phát hiện ra rằng lá thư tôi gửi cho Chân sư đã biến mất. Tất cả những gì tôi tìm thấy bên trong là lá thư của tôi gửi cho Ernest, với vài dòng chữ viết bằng nét chữ quen thuộc của Ông trên trang trống, cho biết rằng lá thư của tôi đã được chuyển cho Chân sư Vĩ đại, và rằng nếu trong tương lai tôi xứng đáng nhận câu trả lời, Ernest sẽ vui lòng mang nó đến cho tôi. |
I waited for some months, but no reply came, and whenever I went to Eglinton’ s séances and happened to encounter Ernest I always asked him when I might expect my answer. He invariably said that my letter had been duly delivered, but that nothing had yet been said about an answer, and that he could do no more. Six months later I did receive a reply, but not through Ernest, and in it the Master said that though He had not received the letter (nor, as He remarked, was it likely that He should, considering the nature of the messenger) He was aware of what I had written and He now proceeded to answer it. | Tôi đã chờ đợi nhiều tháng nhưng không nhận được hồi đáp, và mỗi khi tôi tham dự các buổi lên đồng của Ông Eglinton và tình cờ gặp Ernest, tôi luôn hỏi khi nào tôi có thể mong đợi câu trả lời của mình. Ông luôn nói rằng lá thư của tôi đã được chuyển đến đúng nơi, nhưng chưa có thông tin gì về câu trả lời, và Ông không thể làm gì hơn. Sáu tháng sau, tôi nhận được một hồi đáp, nhưng không phải từ Ernest, mà trong đó Chân sư nói rằng mặc dù Ngài không nhận được lá thư (và Ngài nhận xét rằng điều đó khó mà xảy ra, xét đến bản chất của người đưa thư), nhưng Ngài biết rõ những gì tôi đã viết và giờ đây Ngài sẽ trả lời. |
He told me that the seven years of probation could be passed anywhere, but He suggested that I might come out here for a few months, to see whether I could work with the Headquarters staff. I wished to say in answer to this that my circumstances were such that it would be impossible for me to come to Adyar for three months, and then return to the work in which I was then engaged; but that I was perfectly ready to throw up that work altogether and to devote my life absolutely to His service. Ernest having so conspicuously failed me, I knew of no way to get this message to the Master but to take it to Madame Blavatsky, and as she was to leave England on the following day for India, I rushed up to London to see her. | Ngài nói với tôi rằng bảy năm thử thách có thể được trải qua ở bất cứ đâu, nhưng Ngài gợi ý rằng tôi có thể đến đây vài tháng để xem liệu tôi có thể làm việc cùng đội ngũ tại trụ sở chính không. Tôi muốn trả lời rằng hoàn cảnh của tôi không cho phép tôi đến Adyar trong ba tháng và sau đó quay lại công việc mà tôi đang làm; nhưng tôi hoàn toàn sẵn lòng từ bỏ công việc đó và hiến dâng cuộc đời mình cho sự phụng sự của Ngài. Vì Ernest đã thất bại quá rõ ràng, tôi không biết cách nào khác để gửi thông điệp này đến Chân sư ngoài việc đưa nó cho bà Blavatsky, và vì bà ấy sắp rời Anh vào ngày hôm sau để đến Ấn Độ, tôi đã vội vã lên London để gặp bà. |
It was with difficulty that I induced her to read the letter, as she said very decidedly that such communications were intended only for the recipient. I was obliged to insist, however, and at last she read it and asked me what I wished to say in reply. I answered to the above effect, and asked her how this information could be conveyed to the Master. She replied that He knew it already, referring of course to the exceedingly close relation in which she stood with Him, so that whatever was within her consciousness was also within His when He wished it. | Tôi rất khó khăn để thuyết phục bà Blavatsky đọc lá thư, vì bà ấy nói một cách dứt khoát rằng những thông điệp như vậy chỉ dành cho người nhận. Tuy nhiên, tôi buộc phải kiên quyết, và cuối cùng bà ấy đã đọc nó và hỏi tôi muốn nói gì trong lời đáp. Tôi trả lời như đã nói ở trên và hỏi bà làm thế nào để thông tin này có thể được chuyển đến Chân sư. Bà trả lời rằng Ngài đã biết rõ điều đó rồi, tất nhiên là ám chỉ đến mối liên hệ vô cùng gần gũi giữa bà và Ngài, rằng bất cứ điều gì trong tâm thức của bà cũng đồng thời hiện hữu trong Ngài khi Ngài mong muốn. |
She then told me to wait by her, and not to leave her on any account. I waited patiently all through the afternoon and evening, and even went with her quite late at night to Mrs. Oakley’ s house, where a number of friends were gathered to say farewell Madame Blavatsky sat in an easy chair by the fireside, talking brilliantly to those who were present, and rolling one of her eternal cigarettes, when suddenly her right hand was jerked out towards the fire in a very peculiar fashion, and lay palm upwards. She looked down at it in surprise, as I did myself, for I was standing close to her, leaning with an elbow on the mantelpiece; and several of us saw quite clearly a sort of whitish mist form in the palm of her hand and then condense into a piece of’ folded paper, which she at once handed to me, saying, “There is your answer.” Every one in the room crowded round, of course, but she sent me away outside to read it, saying that I must not let anyone see its contents. It told me that my intuition of throwing up everything and coming out here was a right one; that that was what He had wished me to do, but could not ask it unless I offered. I was further told to take a steamer a few days later and to join Madame Blavatsky in Egypt, which of course I did. | Sau đó, bà bảo tôi phải đợi bên cạnh bà và không được rời bà trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Tôi kiên nhẫn chờ đợi suốt cả buổi chiều và tối, thậm chí còn đi cùng bà vào lúc rất muộn đến nhà của bà Oakley, nơi có một số bạn bè tụ họp để tạm biệt. Bà Blavatsky ngồi trên một chiếc ghế bành gần lò sưởi, nói chuyện rất sinh động với những người có mặt và cuốn một trong những điếu thuốc vĩnh cửu của mình, thì đột nhiên, tay phải của bà bị giật ra về phía lò sưởi theo một cách rất kỳ lạ, lòng bàn tay hướng lên. Bà nhìn xuống tay mình với vẻ ngạc nhiên, và tôi cũng vậy, vì tôi đứng gần bà, khuỷu tay tựa lên lò sưởi. Một số người trong chúng tôi thấy rõ một loại sương mù trắng xuất hiện trong lòng bàn tay của bà, sau đó ngưng tụ thành một mẩu giấy gấp, và bà ngay lập tức đưa nó cho tôi, nói: “Đây là câu trả lời của anh.” Mọi người trong phòng đều chen chúc lại, nhưng bà bảo tôi đi ra ngoài để đọc nó, nói rằng tôi không được để ai xem nội dung của nó. Nội dung lá thư nói với tôi rằng trực giác của tôi về việc từ bỏ tất cả và đến đây là đúng đắn; rằng đó là điều Ngài muốn tôi làm, nhưng Ngài không thể yêu cầu trừ khi tôi tự nguyện đề xuất. Ngài cũng dặn tôi đi tàu thủy vài ngày sau đó và hội ngộ với bà Blavatsky ở Ai Cập, điều mà tất nhiên tôi đã làm. |
In Cairo we took up our quarters in the Hotel d’Orient. Here it was that I first saw one of the members of the Brotherhood. While sitting on the floor at Madame Blavatsky’ s feet, sorting out some papers for her, I was startled to see standing between us a man who had not entered by the door. It was He who is now the Master D. K., though at that date He had not taken the degree which made Him an adept. | Tại Cairo, chúng tôi ở tại khách sạn d’Orient. Chính tại đó tôi lần đầu tiên nhìn thấy một thành viên của Huynh đệ đoàn. Khi đang ngồi trên sàn nhà dưới chân bà Blavatsky, phân loại một số giấy tờ cho bà, tôi kinh ngạc thấy một người đàn ông đứng giữa chúng tôi, người đã không đi vào qua cửa. Đó là Ngài, người hiện giờ là Chân sư D. K., mặc dù vào thời điểm đó Ngài chưa đạt được cấp bậc Chân sư. |
Our stay in Egypt with Madame Blavatsky was in many ways a most remarkable experience, as she constantly told us much of the inner side of what we saw there. She had been in Egypt before, and was well acquainted with some of the officials, with the Prime Minister, Nubar Pasha, with the Russian Consul Monsieur Hitrovo, and especially with the curator of the museum, Monsieur Maspero. I remember particularly how we went through the museum with this last gentleman, and how Madame Blavatsky was able to give him a great mass of most interesting information about the various curiosities which were under his care. | Trải nghiệm của chúng tôi ở Ai Cập với bà Blavatsky là vô cùng kỳ diệu theo nhiều cách, vì bà liên tục kể cho chúng tôi nghe về khía cạnh bên trong của những gì chúng tôi thấy tại đó. Bà đã từng ở Ai Cập trước đó, và quen biết rất nhiều quan chức, từ Thủ tướng Nubar Pasha, đến Tổng lãnh sự Nga Monsieur Hitrovo, và đặc biệt là với người phụ trách bảo tàng, Ông Maspero. Tôi còn nhớ rõ chúng tôi đã đi qua bảo tàng cùng với Ông ấy, và bà Blavatsky có thể cung cấp cho Ông ấy một lượng lớn thông tin vô cùng thú vị về các hiện vật mà Ông chịu trách nhiệm quản lý. |
Madame Blavatsky understood Arabic, and she used to amuse us greatly by translating for our benefit the private remarks which were being made by the grave and dignified Arab merchants, as they sat talking to one another in the bazaar. After they had for some time been calling us Christian dogs, and speaking disrespectfully of our female relatives for many generations, she blandly asked them in their own language whether they thought that this was the way in which a good son of the Prophet should speak of those from whom he hoped to gain much in the way of business. The men were always covered with confusion, not having expected that any European could possibly understand them. | Bà Blavatsky hiểu tiếng Ả Rập và thường khiến chúng tôi cười khi dịch những lời nhận xét riêng tư mà các thương nhân Ả Rập trang trọng nói với nhau trong chợ. Sau một thời gian họ gọi chúng tôi là những “con chó Kitô” và nói những điều bất kính về tổ tiên của chúng tôi, bà bình thản hỏi họ bằng ngôn ngữ của họ rằng liệu họ có nghĩ rằng đó là cách một tín đồ Hồi giáo tốt nên nói về những người mà họ hy vọng sẽ kiếm được lợi nhuận không. Những người đàn ông đó luôn tỏ ra bối rối, vì không ngờ rằng bất kỳ người châu Âu nào có thể hiểu được họ. |
Arabic, however, seems to have been the only Oriental language with which she was acquainted; she did not know Sanskrit, and many of the difficulties of our Theosophical terminology arise from the fact that in those days she would describe what she saw or knew, and then ask any Indian who happened to be near what was the Sanskrit name for it. Very often the gentleman who provided her with the term had not clearly understood what she meant; and even when he did, we must remember that she asked adherents of different schools of philosophy, and that each answered according to the shade of meaning applied to the term in his teaching. | Tuy nhiên, tiếng Ả Rập dường như là ngôn ngữ phương Đông duy nhất mà bà thông thạo; bà không biết tiếng Phạn, và nhiều khó khăn trong thuật ngữ Thông Thiên Học của chúng ta phát sinh từ thực tế rằng thời đó bà thường mô tả những gì bà thấy hoặc biết, sau đó hỏi bất kỳ người Ấn Độ nào có mặt về tên tiếng Phạn của nó. Thường thì quý Ông cung cấp thuật ngữ này không hoàn toàn hiểu bà muốn nói gì; và ngay cả khi họ hiểu, chúng ta phải nhớ rằng bà hỏi những người theo các trường phái triết học khác nhau, và mỗi người trả lời theo cách hiểu của trường phái của mình. |
Many curious phenomena were constantly taking place around her at this period. First, she was herself the most striking of all the phenomena, for her changes were protean. Sometimes the Masters Themselves used her body, and wrote or spoke directly through her. At other times when her ego was elsewhere engaged, one or other of two pupils of lower degree than herself would take the body, and there were even certain occasions when another woman used to be in charge. I have myself frequently seen all these changes take place, and I have seen the new man who had entered the body looking round to discover the condition of affairs into which he had come—trying to take up the thread of conversation, for example. Yet with all this, she was in no sense of the word like an ordinary medium, for the true owner of the body stood at the back all the time in full consciousness, and thoroughly understood what was going on. | Nhiều hiện tượng kỳ lạ thường xuyên xảy ra xung quanh bà trong giai đoạn này. Đầu tiên, chính bà là hiện tượng nổi bật nhất, bởi sự thay đổi của bà như một vạn hóa thân. Đôi khi, chính các Chân sư sử dụng cơ thể của bà và viết hoặc nói trực tiếp qua bà. Lúc khác, khi chân ngã của bà đang bận rộn ở nơi khác, một trong hai đệ tử cấp thấp hơn sẽ sử dụng cơ thể của bà, và thậm chí có những lúc một phụ nữ khác đảm nhận. Tôi đã nhiều lần tận mắt chứng kiến những sự thay đổi này, và đã thấy người mới nhập vào cơ thể nhìn quanh để khám phá tình hình mà mình vừa nhập vào—ví dụ, cố gắng tiếp tục cuộc trò chuyện. Tuy nhiên, dù có tất cả những điều này, bà không giống một nhà ngoại cảm bình thường chút nào, vì chủ thể thực sự của cơ thể vẫn luôn đứng sau với đầy đủ nhận thức, và hoàn toàn hiểu được những gì đang diễn ra. |
Extraordinary phenomena, however, also occasionally occurred. While we were crossing the desert by train from Ismailia to Cairo a letter fell in the railway carriage, referring to the subject-matter of the conversation then proceeding, and conveying by name to each one present a kindly message of encouragement. I and another member of the party happened to be looking up at the time when this letter came, and we both saw it appear in the air, just in the circular space in the roof of the carriage in which a lamp is usually put at night. It came, just as the other had done, as a vague ball of whitish mist which condensed into a piece of paper and fluttered down. | Tuy nhiên, những hiện tượng kỳ lạ cũng thỉnh thoảng xảy ra. Trong khi chúng tôi đang băng qua sa mạc bằng tàu hỏa từ Ismailia đến Cairo, một bức thư rơi xuống trong toa xe lửa, liên quan đến chủ đề của cuộc trò chuyện đang diễn ra, và truyền đạt một thông điệp khuyến khích đến từng người có mặt bằng tên. Tôi và một thành viên khác trong đoàn tình cờ ngước lên đúng lúc bức thư xuất hiện, và cả hai chúng tôi đều thấy nó xuất hiện trong không trung, ngay ở khoảng trống tròn trên trần toa nơi mà thông thường một chiếc đèn sẽ được đặt vào ban đêm. Nó xuất hiện, giống như những bức thư khác trước đó, dưới dạng một quả cầu sương mù trắng mờ mà sau đó ngưng tụ thành một mẩu giấy và rơi xuống. |
I remember another occasion on which she bought in the scent-bazaar at Cairo a tiny bottle of attar of roses, for use in the shrine-room here, paying £2 for it. When we were sitting at lunch in the hotel half-an-hour afterwards, at a small table reserved for our party in an alcove, two English sovereigns fell out of space upon the table, and Madame Blavatsky explained that she had been told she ought not to spend money upon Them in this way, as we should need every shilling that we had before we reached Adyar—a statement which certainly proved true. | Tôi nhớ có một lần khác, bà ấy mua một chai nhỏ nước hoa hồng ở chợ nước hoa tại Cairo, để dùng trong phòng thờ ở đây, và đã trả 2 bảng Anh cho nó. Khi chúng tôi ngồi ăn trưa tại khách sạn khoảng nửa giờ sau đó, tại một chiếc bàn nhỏ dành riêng cho nhóm của chúng tôi trong một góc phòng, hai đồng sovereign Anh từ trên không rơi xuống bàn, và bà Blavatsky giải thích rằng bà đã được bảo rằng bà không nên tiêu tiền vào những thứ như vậy, vì chúng tôi sẽ cần đến từng đồng xu mà chúng tôi có trước khi đến Adyar — một tuyên bố mà chắc chắn sau đó đã được chứng minh là đúng. |
At one time and another I have seen a good many of the phenomena which were so closely associated with Madame Blavatsky. I have seen her precipitate drawing and writing, and I have also seen her find a missing object by occult power. On several occasions I have seen letters fall out of the air in her presence; and I must also state that I have seen such a letter fall here in this house at Adyar when she was six thousand miles away in England, and again that I myself have several times had the privilege of being employed by the Master to deliver just such letters after her departure from the physical plane. | Tại một thời điểm khác, tôi đã chứng kiến khá nhiều hiện tượng gắn liền với bà Blavatsky. Tôi đã thấy bà thực hiện hiện tượng viết và vẽ ngay lập tức, và tôi cũng đã thấy bà tìm được các vật bị mất bằng sức mạnh huyền bí. Trong nhiều lần, tôi đã thấy các bức thư rơi ra từ không khí trước sự hiện diện của bà; và tôi cũng phải nói thêm rằng tôi đã thấy một bức thư rơi ra tại ngôi nhà này ở Adyar khi bà ở tận cách đó sáu nghìn dặm, tại Anh Quốc, và một lần nữa tôi cũng đã nhiều lần có vinh dự được Chân Sư ủy thác để trao những bức thư tương tự sau khi bà rời khỏi cõi trần. |
In those early days of the Society messages and instructions from the Masters were frequent, and we lived at a level of splendid enthusiasm which those who have joined since Madame Blavatsky’ s death can hardly imagine. Those of us who have had the inestimable privilege of direct touch with the Masters have naturally retained that enthusiasm, but we have been unable under less favourable circumstances to keep it up among the rank and file of the members. Perhaps now we may be about to witness a recrudescence of it; may we all be worthy to take part in the glorious times that are coming! | Trong những ngày đầu của Hội, những thông điệp và chỉ dẫn từ các Chân Sư rất thường xuyên, và chúng tôi sống trong một trạng thái nhiệt huyết tuyệt vời mà những người gia nhập Hội sau khi bà Blavatsky qua đời khó có thể tưởng tượng được. Những người trong chúng tôi đã có đặc ân vô giá khi được tiếp xúc trực tiếp với các Chân Sư tất nhiên vẫn giữ được lòng nhiệt huyết đó, nhưng chúng tôi đã không thể, trong những hoàn cảnh ít thuận lợi hơn, duy trì nó cho các thành viên khác. Có lẽ bây giờ chúng ta sắp chứng kiến một sự tái sinh của nó; mong rằng tất cả chúng ta đều xứng đáng để tham gia vào những thời kỳ vinh quang đang đến! |
FAITHFUL UNTO DEATH—TRUNG THÀNH ĐỀN CHẾT
A COURSE OF STUDY IN THEOSOPHY— MỘT CHƯƠNG TRÌNH HỌC THÔNG THIÊN HỌC
It is desirable that one who wishes to study Theosophy thoroughly should acquaint himself in the course of time with the whole of Theosophical literature. This is no light task; and the order in which the books are taken is of importance if a man wishes to get out of them the best that he can. But at the same time it must be remembered that no order can be prescribed which will be equally suitable for every one; there are those who can usefully absorb information only along devotional lines, and there are those who must have a scientific and non-emotional presentation of the truth. The best thing that I can do, therefore, is to prescribe such a plan of reading as I have found to be on the whole most generally useful, leaving room for considerable variation to suit individual idiosyncrasies. | Điều đáng mong muốn là người nào ước muốn học Thông Thiên Học một cách thấu đáo thì theo thời gian nên làm quen với toàn bộ văn chương của Thông Thiên Học. Đây không phải là một việc nhẹ nhàng; và thứ tự đọc các sách có tầm quan trọng nếu một người muốn rút ra từ đó điều tốt nhất có thể. Nhưng đồng thời cũng cần nhớ rằng không thể ấn định một trật tự nào phù hợp như nhau cho mọi người; có những người chỉ có thể hấp thụ thông tin một cách hữu ích theo đường hướng sùng tín, và có những người cần một sự trình bày khoa học và phi cảm xúc về chân lý. Do đó, điều tốt nhất tôi có thể làm là đề nghị một kế hoạch đọc mà tôi thấy nhìn chung là hữu ích nhất, đồng thời dành chỗ cho những biến tấu đáng kể để phù hợp với đặc tính riêng của từng cá nhân. |
It seems to me of great importance to have a clear outline of the whole scheme thoroughly in the mind before endeavouring to fill in the details. No one can know how strong is the evidence for any one part of the Theosophical teaching until he knows the whole of that teaching, and sees how each separate portion is confirmed and strengthened by the rest, and is indeed a necessary part of the scheme as a whole. My advice, therefore, is that the beginner should read first the elementary literature, not troubling himself unduly with details, but seeking rather to take in and assimilate the broad ideas contained in it, so as to see all that they imply and to realise them as facts in nature, thereby putting himself into what may be called the Theosophical attitude, and learning to look at everything from the Theosophical point of view. | Theo tôi, điều vô cùng quan trọng là phải có trong thể trí một dàn cương minh bạch về toàn bộ mô hình trước khi cố gắng bổ khuyết các chi tiết. Không ai có thể biết bằng chứng dành cho bất kỳ phần nào của giáo huấn Thông Thiên Học vững mạnh đến đâu cho đến khi người ấy biết toàn thể giáo huấn đó, và thấy được cách mỗi phần riêng lẻ được các phần khác xác nhận và gia cố, và thực sự là một phần tất yếu của toàn bộ mô hình. Vì vậy, lời khuyên của tôi là người mới bắt đầu nên đọc trước văn chương nhập môn, đừng quá bận tâm với chi tiết, mà hãy tìm cách tiếp thu và đồng hoá những ý tưởng rộng lớn chứa đựng trong đó, để thấy tất cả những gì chúng hàm ý và nhận chân chúng như những sự kiện trong thiên nhiên, nhờ đó đưa mình vào cái có thể gọi là thái độ Thông Thiên Học, và học nhìn mọi sự từ quan điểm Thông Thiên Học. |
To this end the student may take An Outline of Theosophy, The Riddle of Life, Hints to Young Students of Occultism, and various lectures by Mrs. Besant and myself which have been issued as propaganda pamphlets. When he feels himself fairly certain of these, I should recommend next Mrs. Besant’ s Popular Lectures on Theosophy and then her Ancient Wisdom, which will give him a clear idea of the system as a whole. Another book which might be useful to him at this stage is Some Glimpses of Occultism. He can then proceed to follow details along whichever line most commends itself to him. | Để đạt mục tiêu đó, đạo sinh có thể đọc Dàn cương Thông Thiên Học, Bí ẩn của Sự sống, Gợi ý cho các môn sinh trẻ của Huyền bí học, và các bài diễn giảng khác nhau của Bà Besant và của tôi đã được phát hành dưới dạng ấn phẩm tuyên truyền. Khi người ấy cảm thấy mình đã nắm khá chắc những điều này, tôi khuyên tiếp theo nên đọc Những bài diễn giảng phổ thông về Thông Thiên Học của Bà Besant, rồi đến Minh Triết Cổ, cuốn sách sẽ cho người ấy một ý niệm rõ ràng về hệ thống như một toàn thể. Một cuốn khác cũng có thể hữu ích ở giai đoạn này là Vài thoáng nhìn Huyền bí học. Sau đó, người ấy có thể tiếp tục theo đuổi các chi tiết theo bất kỳ đường hướng nào mình thấy phù hợp nhất. |
If he is interested chiefly in the ethical side, the best books are: At the Feet of the Master, Light on the Path, The Voice of the Silence, The Path of Discipleship, In the Outer Court, The Laws of the Higher Life, The Three Paths and Dharma, and The Bhagavad-Gita. | Nếu người ấy quan tâm chủ yếu đến phương diện đạo lý, những cuốn tốt nhất là: Dưới Chân Thầy, Ánh sáng trên Đường Đạo, Tiếng Nói của Im Lặng, Con Đường Đệ Tử, Ở Ngoại Viện, Những Định luật của Đời Sống Cao cả, Ba Con Đường và Dharma, và Bhagavad-Gita. |
One who wishes to study the life after death will find what he wants in: The Other Side of Death, The Astral Plane, Death and After, The Devachanic Plane. | Người muốn nghiên cứu đời sống sau khi chết sẽ tìm thấy điều mình cần trong: Phía Bên Kia Cái Chết, Cõi Cảm dục, Cái Chết và Sau Đó, Cõi thượng thiên. |
If he is approaching the matter from the scientific side, the following books will suit him: Esoteric Buddhism, Nature’ s Mysteries, Scientific Corroborations of Theosophy, Occult Chemistry and The Physics of the Secret Doctrine. | Nếu người ấy tiếp cận vấn đề từ phía khoa học, các sách sau đây sẽ phù hợp: Phật giáo Huyền bí, Những Huyền nhiệm của Tự Nhiên, Những Chứng nhận Khoa học cho Thông Thiên Học, Hóa học Huyền bí và Vật lý của Giáo Lý Bí Nhiệm. |
If he cares for the study of comparative religion he should read: Universal Text-book of Religion and Morals, Four Great Religions, The Great Law, The Bhagavad-Gita, Hints on the Study of the Bhagavad-Gita, The Upanishads, The Wisdom of the Upanishads, An Advanced Text-book of Hindu Religion and Ethics, The Light of Asia, A Buddhist Catechism, Buddhist Popular Lectures and The Religious Problem in India. | Nếu người ấy ưa thích việc nghiên cứu so sánh tôn giáo, nên đọc: Giáo trình Phổ quát về Tôn giáo và Đạo đức, Bốn Tôn Giáo Lớn, Đại Định luật, Bhagavad-Gita, Gợi ý về Việc Nghiên cứu Bhagavad-Gita, Upanishad, Minh triết của Upanishad, Giáo trình Cao cấp về Tôn giáo và Đạo đức Ấn giáo, Ánh Sáng Á Châu, Giáo Lý Vấn Đáp Phật giáo, Những Bài Diễn Giảng Phổ Thông Phật giáo và Vấn đề Tôn giáo ở Ấn Độ. |
If he thinks chiefly of the Christian presentation of these truths, the best books are: Esoteric Christianity, The Christian Creed, Fragments of a Faith Forgotten, The Perfect Way. | Nếu người ấy chủ yếu nghĩ đến sự trình bày Cơ Đốc giáo về những chân lý này, các sách tốt nhất là: Cơ Đốc giáo Huyền bí, Tín điều Cơ Đốc, Những Mảnh vụn của Một Đức Tin Bị Lãng quên, Con Đường Toàn hảo. |
If one wishes to investigate the origin and early history of Christianity, in addition to the books on the subject already mentioned, Mr. Mead’ s works will specially appeal to him: Did Jesus Live B.C. 100? The Gospel and the Gospel and the Gospel, Orpheus and Plotinus. | Nếu người ta muốn khảo cứu nguồn gốc và lịch sử sơ kỳ của Cơ Đốc giáo, ngoài những sách đã nêu về chủ đề này, các tác phẩm của Ông Mead sẽ đặc biệt cuốn hút: Liệu Đức Jesus đã sống trước Công nguyên 100 năm? Phúc Âm và Phúc Âm và Phúc Âm, Orpheus và Plotinus. |
The student who is interested in applying Theosophy to the world of modern thought, and to political and social questions, may profitably turn to; The Changing World, Some Problems of Life, Theosophy and Human Life, Occult Essays and Theosophy and the New Psychology. | Đạo sinh nào quan tâm đến việc ứng dụng Thông Thiên Học vào thế giới tư tưởng hiện đại, và vào các vấn đề chính trị, xã hội, có thể thu lợi từ: Thế giới Đang Thay đổi, Một số Vấn đề của Đời sống, Thông Thiên Học và Đời sống Con người, Luận văn Huyền bí và Thông Thiên Học và Tân Tâm lý học. |
If, as is the case with most enquirers, his main interest centres round the wider knowledge and the grasp of life resulting from a study of occultism, he should read, in addition to many of the books mentioned above: A Study in Consciousness, An Introduction to Yoga, Clairvoyance, Dreams, Invisible Helpers, Man Visible and Invisible, Thought-Forms, The Evolution of Life and Form, Thought-Power—Its Control and Culture, The Other Side of Death and the two volumes of The Inner Life. | Nếu, như trường hợp của đa số người tìm hiểu, mối quan tâm chính của người ấy xoay quanh tri thức rộng mở và sự nắm bắt sự sống nảy sinh từ việc học tập huyền bí học, thì ngoài nhiều sách đã nêu trên, người ấy nên đọc: Một Nghiên cứu về Tâm thức, Nhập môn Yoga, Thông nhãn, Giấc mơ, Những Trợ thủ Vô hình, Con người Hữu hình và Vô hình, Hình Tư tưởng, Tiến hóa của Sự sống và Hình tướng, Sức Mạnh Tư tưởng—Sự Kiểm Soát và Bồi dưỡng của nó, Phía Bên Kia Cái Chết và hai tập Đời sống Nội tâm. |
It will be desirable that he should comprehend the subjects dealt with in the manuals on Reincarnation, Karma, and Man and his Bodies. Indeed, these should be taken at an early stage of his reading. | Sẽ là điều đáng mong muốn nếu người ấy nắm được các chủ đề được trình bày trong những sổ tay về Tái sinh, Nghiệp quả, và Con Người và các Thể của Người. Thật vậy, những cuốn này nên được đọc ở giai đoạn sớm trong lộ trình đọc. |
The earnest student, who intends to live Theosophy, as well as merely to study it intellectually, should also have knowledge of the inner purpose of the Theosophical Society. He will gain this from Mrs. Besant’ s London Lectures of 1907 and The Changing World, from The Inner Life (2 vols.), as well as from the study of Colonel Olcott’ s Old Diary Leaves, and Mr. Sinnett’ s Occult World and Incidents in the Life of Madame Blavatsky. | Người đạo sinh nghiêm túc, người dự định sống Thông Thiên Học cũng như chỉ học nó bằng trí tuệ, cũng nên hiểu biết mục đích nội tại của Hội Thông Thiên Học. Người ấy sẽ đạt được điều này từ Các bài diễn giảng tại Luân Đôn năm 1907 của Bà Besant và Thế giới Đang Thay đổi, từ Đời sống Nội tâm (2 tập), cũng như từ việc nghiên cứu Lá Nhật Ký Xưa của Đại tá Olcott, và Thế Giới Huyền bí cùng Những Biến cố trong Đời của Bà Blavatsky của Ông Sinnett. |
I myself think that the greatest book of all, Madame Blavatsky’ s Secret Doctrine, should be left until all these others have been thoroughly assimilated, for the man who comes to it thus thoroughly prepared will gain from it far more than is otherwise possible. I know that many students prefer to take it at an earlier stage, but it seems to me more an encyclopaedia or book or reference. | Bản thân tôi cho rằng cuốn sách vĩ đại nhất trong tất cả, Giáo Lý Bí Nhiệm của Bà Blavatsky, nên để lại cho đến khi tất cả những cuốn khác đã được đồng hoá kỹ lưỡng, vì người đến với nó bằng sự chuẩn bị như thế sẽ thu nhận từ nó nhiều hơn hẳn so với cách khác. Tôi biết nhiều đạo sinh thích đọc nó ở giai đoạn sớm hơn, nhưng theo tôi, nó giống một bộ bách khoa hay một cuốn sách tham khảo. |
Four books which are now in preparation should be added to the above list as soon as they appear: A Text-book of Theosophy, which endeavours to state the Theosophical teaching in the simplest possible form, and without technical terms; The Hidden Side of Things, which shows how knowledge of occultism changes our view with regard to all sorts of small practical matters in every-day life, Man; Whence, How, Whither? which gives a detailed account of the past evolution of man, and shows something of the future which lies before him; First Principles of Theosophy, which is to approach the whole subject from the scientific standpoint, and to present it from an entirely new point of view. | Bốn cuốn hiện đang được chuẩn bị nên được bổ sung vào danh sách trên ngay khi chúng xuất hiện: Giáo trình Thông Thiên Học, cố gắng trình bày giáo huấn Thông Thiên Học dưới hình thức đơn giản nhất có thể và không dùng thuật ngữ kỹ thuật; Mặt Ẩn của Sự Vật, trình bày cách hiểu biết huyền bí học thay đổi cái nhìn của chúng ta đối với đủ loại vấn đề thực tiễn nhỏ nhặt trong đời sống hằng ngày; Con Người; Từ đâu, Như thế nào, Đi về đâu? cuốn này trình bày tường tận về tiến hóa quá khứ của con người, và hé lộ phần nào tương lai đang chờ trước mặt người ấy; Những Nguyên Lý Sơ Khởi của Thông Thiên Học, tiếp cận toàn bộ chủ đề từ lập trường khoa học và trình bày nó từ một quan điểm hoàn toàn mới. |
The course I have indicated above means some years of hard reading for the ordinary man, but one who has achieved it and tries to put into practice what he has learnt will certainly be in a position to afford much help to his fellow-men. | Khóa học tôi đã nêu trên đồng nghĩa với vài năm đọc miệt mài đối với người bình thường, nhưng ai hoàn tất và cố gắng đem những gì đã học vào thực hành hẳn sẽ ở vào vị thế có thể trợ giúp rất nhiều cho đồng loại của mình. |