TÂM LÍ HỌC CỦA ĐỊA VỊ ĐỆ TỬ

Cover

SECTION ONE

The Operation of Natural Law

Abreaction and the Dweller on the Threshold—Giải toả cảm xúc và Kẻ Chận Ngõ

That the Soul should express itself adequately through its lower vehicles has been emphasised again and again in my various works. The alternative to this is dis-ease and dis-stress[1]. The complete expression of Soul’s purpose is rare except in the initiate or the advanced pupil. In the interim periods before the stage of accepted pupilage, many adjustments have to be made in the personality vehicles before major initiations can be undertaken safely and the Soul’s purpose then permitted full expression. This implies integration of personality or what my friend Robert Assagioli used to term ‘Psychosynthesis’. Disorders of personality must be attended to. Elements of it that have been repressed must be confronted; other aspects of it which are no longer the field for the Soul’s attention should be allowed to subside gently into the subconscious. For this reason, hypnosis should almost never be used within the scope of pupilage.

Rằng linh hồn phải tự biểu hiện một cách đầy đủ qua các vận cụ thấp của nó đã được nhấn mạnh lặp đi lặp lại trong nhiều tác phẩm của tôi. Điều thay thế cho điều này là sự bất-an và căng thẳng. Sự biểu hiện trọn vẹn của mục đích linh hồn hiếm khi xảy ra, ngoại trừ nơi một điểm đạo đồ hoặc một môn sinh cao cấp. Trong những giai đoạn trung gian trước khi bước vào địa vị đệ tử chính thức, nhiều sự điều chỉnh phải được thực hiện nơi các vận cụ của phàm ngã trước khi những cuộc điểm đạo chính yếu có thể được tiến hành một cách an toàn và mục đích của linh hồn khi đó mới được phép biểu hiện trọn vẹn. Điều này hàm ý sự tích hợp phàm ngã, hay như bạn tôi Robert Assagioli thường gọi là ‘Tổng hợp Tâm lý’. Những rối loạn của phàm ngã phải được quan tâm giải quyết. Các yếu tố bị dồn nén của nó phải được đối diện; những phương diện khác của nó, vốn không còn là lĩnh vực để linh hồn quan tâm nữa, nên được để cho chìm dần vào tiềm thức một cách nhẹ nhàng. Vì lý do này, thôi miên hầu như không bao giờ nên được sử dụng trong phạm vi của địa vị đệ tử.

The surrender of consciousness, partly or in full to anyone, carnate or discarnate, is a direct contradiction of the basic mechanisms that govern Soul unfoldment.

Việc trao nộp tâm thức, một phần hay toàn phần, cho bất kỳ ai, nhập thể hay phi nhập thể, là sự mâu thuẫn trực tiếp với các cơ chế căn bản chi phối sự khai mở của Linh hồn.

Those of us who have had some experience of dealing with mental and emotional disorders of the lower triad are well aware of abreaction. This is the process of bringing into the consciousness material which has been part of the unconscious usually because it has been repressed. In abreaction we seek better expression of some hidden factor so that it is allowed to be extruded from the aura for all time. In psychiatry, the manner in which the experience is made to surface is called Catharsis.* Abreaction is really the end result which is not only the recollection of forgotten memories and experiences but includes all the reliving of those memories and the emotions associated with them. Long before they actually surface into consciousness there may be emotional discharges heralding them which psychiatry calls the abreaction of emotion.

Những ai trong chúng ta đã từng có ít nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý các rối loạn tâm trí và cảm xúc của hạ tam phân đều rất quen thuộc với abreaction[2][LK1] . Đây là tiến trình đưa vào tâm thức những chất liệu vốn thuộc về vô thức, thường là vì đã bị dồn nén. Trong abreaction, chúng ta tìm cách biểu lộ tốt hơn một yếu tố ẩn giấu nào đó để nó được tống xuất khỏi hào quang vĩnh viễn. Trong tâm thần học, cách thức khiến cho kinh nghiệm được đưa lên bề mặt được gọi là Catharsis (thanh lọc cảm xúc). Abreaction thực sự là kết quả sau cùng, không chỉ bao gồm việc hồi tưởng lại các ký ức và kinh nghiệm đã quên mà còn bao gồm việc sống lại toàn bộ những ký ức đó và các cảm xúc gắn liền với chúng. Lâu trước khi chúng thật sự nổi lên bề mặt tâm thức, có thể đã có những sự phát tiết cảm xúc báo hiệu chúng, mà tâm thần học gọi là abreaction cảm xúc.

 * Catharsis: In psychiatry the term was first used by Freud to designate a type of psychotherapy. He tried through the methods of ‘free association’ and hypnosis to bring so-called traumatic experiences and their affective associations into consciousness. Psychiatric symptoms or symbols are looked upon as disguised representations of forgotten or repressed ideas or experiences. When the latter are brought back into the sphere of consciousness and lived out fully, in a therapeutic sense, the method is called catharsis. Abreaction and catharsis are often used synonymously.— Quoted from the Psychiatric Dictionary, Fourth Edition, by Leland E. Hinsie, M.D. and Robert Jean Campbell, M.D.; Oxford University Press, London.

* Thanh lọc (Catharsis): Trong tâm thần học, thuật ngữ này lần đầu được Freud dùng để chỉ một kiểu liệu pháp tâm lý. Ông cố gắng, thông qua phương pháp “liên tưởng tự do” và thôi miên, đưa các trải nghiệm gọi là sang chấn và những liên tưởng cảm xúc của chúng vào trong tâm thức. Các triệu chứng hay biểu trưng tâm thần được xem là những biểu hiện ngụy trang của các ý tưởng hay trải nghiệm bị quên hay dồn nén. Khi những điều sau được đem trở lại phạm vi tâm thức và được sống lại trọn vẹn, theo nghĩa điều trị, thì phương pháp ấy được gọi là thanh lọc. Phản ứng giải toả cảm xúcthanh lọc thường được dùng như những từ đồng nghĩa. — Trích từ Từ điển Tâm thần học , Ấn bản thứ tư, của Leland E. Hinsie, M.D. và Robert Jean Campbell, M.D.; Oxford University Press, London.

In esoteric psychology, this process is incorporated in the unfolding techniques of psychosynthesis. The ancients well knew the importance of catharsis … Madame Blavatsky said again and again that the moment a person begins to tread the Path in all earnestness and sincerity of motive, then there begins to surface into the consciousness, all that is good and all that is karmically evil. And, in full consciousness, the student, assisted in advance through the disciplines he has practised must meet the challenges thus presented. The sum total of these elements of the repressed and the undesirable, is called the ‘Dweller on the Threshold’.*

Trong tâm lý học huyền bí, tiến trình này được tích hợp trong các kỹ thuật khai mở của tổng hợp tâm lý (psychosynthesis). Người xưa vốn hiểu rõ tầm quan trọng của sự tịnh hoá… Bà Blavatsky đã nhiều lần nhấn mạnh rằng ngay khoảnh khắc một người bắt đầu bước đi trên Con Đường với tất cả sự nghiêm túc và chân thành trong động cơ, thì ngay lúc ấy tất cả những gì tốt lành và tất cả những gì xấu xa về mặt nghiệp quả đều bắt đầu nổi lên trên bề mặt tâm thức. Và, trong trạng thái tâm thức đầy đủ, đạo sinh—đã được chuẩn bị trước nhờ các kỷ luật y từng rèn luyện—phải đối diện với những thách thức như thế. Tổng thể của những yếu tố bị dồn nén và không mong muốn này được gọi là “Kẻ Chận Ngõ”.

* See The Techniques of Astral Projection and Meditation, The Theory and Practice by the Author

*Xem The Techniques of Astral Projection and Meditation, The Theory and Practice của Tác giả.

The Pupil also confronts this entity, the dweller, increasingly in his dream life. Hence the need for a recording of dream experiences in the spiritual diary. The slow attrition of the dweller leads to increasing clarity of dream content as it imprints more adequately the Soul’s purpose on the brain. In the very first stages of meditation the dweller intrudes and is dealt with under the arduous disciplines of controlling the mind:

Đệ tử cũng ngày càng đối mặt với thực thể này, Kẻ Chận Ngõ, trong đời sống chiêm bao của mình. Do đó mới có nhu cầu ghi chép các trải nghiệm chiêm bao trong nhật ký tinh thần. Sự bào mòn chậm rãi của Kẻ Chận Ngõ dẫn đến độ sáng tỏ ngày càng tăng của nội dung chiêm bao, vì nó in hằn mục đích của Linh hồn lên bộ não một cách đầy đủ hơn. Ngay trong những giai đoạn rất sớm của tham thiền, Kẻ Chận Ngõ xâm nhập và được xử trí dưới các kỷ luật nặng nề về khắc chế thể trí:

‘The mind is the slayer of the real… Go slay the slayer’.

“Cái Trí là kẻ giết chết sự Thật… Hãy giết kẻ sát hại.”

The destruction of the dweller helps the Pupil to distinguish the real from the unreal, to polish the lens of inner perception so that Truth, Beauty and Goodness are progressively unveiled.

Sự hủy diệt Kẻ Chận Ngõ giúp Đệ tử phân biệt cái thật với cái không thật, đánh bóng thấu kính tri giác nội tâm để Chân, Mỹ và Thiện dần được khai mở.

With his increased sensitivity, with his greater strength and with purpose and direction clearly imprinted on his mind, the pupil accepts the challenge presented not only by the surfacing memories and experiences of this life but even those of previous lives, which together have formed his present dweller on the threshold of the consciousness at this early stage of Pupilage. The dweller is a loathsome entity; its components are astral matter of the lowest orders. It preys on the pupil, drawing its substance from him during times of fear, horror, worry and any other form of negative thinking during which the astral body not yet integrated haemorrhages. The dweller forms a negative vortex in a force field of which the pupil is the positive and donating pole. The dispatch of this entity comes when it is deliberately confronted and recognised for what it is. The flow of auric energies towards it ceases and from sheer strangulation of its energy supply, it flags and withers. But it is an entity and will fight back for its survival taking every opportunity to highlight any negative scene or emotion with its presence and it usually comes when the pupil is shifting his focus from the outer world to the inner. It is finally replaced with the birth and steady growth of the ‘Angel of the Shining Presence’, representing structures in Atma, Buddhi and Manas which are steadily being built into the aura through the assiduous efforts of the pupil in meditation and through his services to mankind and his devotion to the study of the occult classics such as this present volume. This is the battleground for the would-be initiate. It involves the replacement of old codes of conduct, preconceived and established ideas that have tyrannised the mind of the aspirant from his earliest years and which have been consolidated by his religion and his education. The individual’s dweller is part of the gigantic dweller on the threshold in the awareness of ‘Mankind’. He draws from the collective phobias, idiosyncrasies and thought-forms of mankind. In destroying his own dweller, he performs an act of service to mankind for in so-doing he has also reduced the potency of that huge planetary entity anchored to the lowest planes of the astral world. This dweller is part of the collective unconscious described by Carl Jung.

Với độ nhạy cảm tăng trưởng, với sức mạnh lớn hơn và khi mục đích cùng phương hướng được in ấn rõ ràng trên thể trí, đệ tử chấp nhận thách thức không chỉ do các ký ức và trải nghiệm của kiếp này đang trồi lên đem đến, mà cả của những kiếp trước , vốn cùng nhau đã tạo thành Kẻ Chận Ngõ hiện tại nơi ngưỡng tâm thức của y trong giai đoạn đầu của Địa vị Đệ tử. Kẻ Chận Ngõ là một thực thể đáng ghê tởm; các cấu phần của nó là chất liệu cảm dục thuộc những bậc thấp nhất. Nó ký sinh lên đệ tử, thu rút chất liệu của nó từ y trong những thời khắc sợ hãi, kinh hoàng, lo âu và mọi dạng tư duy tiêu cực khác, trong đó thể cảm dục vốn chưa tích hợp bị “xuất huyết”. Kẻ Chận Ngõ hình thành một xoáy lực âm trong một trường lực mà đệ tử là cực dương, cực cấp dưỡng. Sự trừ khử thực thể này xảy ra khi nó được cố ý đối diện và được nhận ra đúng như nó là. Luồng năng lượng hào quang hướng về nó chấm dứt và, vì bị siết nguồn cung năng lượng, nó suy tàn và héo rũ. Nhưng nó là một thực thể và sẽ chống trả để sinh tồn, chộp mọi cơ hội tô đậm bất kỳ cảnh tượng hay cảm xúc tiêu cực nào bằng sự hiện diện của nó, và nó thường đến khi đệ tử đang chuyển trục chú tâm từ ngoại giới vào nội giới. Sau cùng, nó được thay thế bằng sự khai sinh và tăng trưởng ổn định của “Thiên Thần của Hiện Diện Chói Ngời”, đại diện cho các cấu trúc trong Atma, Bồ đề và Manas, vốn đang được xây đắp đều đặn vào hào quang qua nỗ lực miệt mài của đệ tử trong tham thiền, qua sự phụng sự nhân loại và lòng tận hiến của y đối với việc nghiên cứu các kinh điển huyền bí như chính tập sách này. Đây là chiến địa cho người đang mong thành điểm đạo đồ. Nó liên quan đến việc thay thế những bộ quy tắc ứng xử cũ, những ý niệm định kiến và cố kết đã chuyên chế thể trí của người chí nguyện từ thuở ấu thời và được củng cố bởi tôn giáo lẫn giáo dục của y. Kẻ Chận Ngõ riêng của mỗi cá nhân là một phần của Kẻ Chận Ngõ khổng lồ nơi nhận thức của “Nhân loại”. Nó rút lực từ các ám sợ, tính khí dị thường và các hình tư tưởng tập thể của nhân loại . Khi hủy diệt Kẻ Chận Ngõ riêng mình, người ấy thực hiện một hành động phụng sự nhân loại, vì làm như vậy y cũng làm giảm công lực của thực thể hành tinh khổng lồ kia đang bám neo vào những cõi thấp nhất của cõi cảm dục. Kẻ Chận Ngõ này là một phần của vô thức tập thể như Carl Jung đã mô tả.

What processes or techniques may assist in the bringing into consciousness a confrontation with the personal dweller? In other words, is it possible to choose the time and place for that confrontation so that it can be made when the pupil is strong and ready for it? It should not be when he is depressed; it should not be when he is anaemic or recovering from influenza. These and other vicissitudes would reduce his chance of success. It will, however, always come when he is under stress, for in stress, as we have observed elsewhere, growth occurs and, so long as it does not lead into distress, stress is highly recommendable as a constant feature of the pupil’s life.

Những tiến trình hay kỹ thuật nào có thể trợ giúp việc đưa vào tâm thức sự đối diện với Kẻ Chận Ngõ cá nhân? Nói cách khác, có thể chọn thời điểm và nơi chốn cho cuộc đối đầu ấy sao cho nó diễn ra khi đệ tử đang mạnh và sẵn sàng cho nó không? Không nên khi y đang trầm uất; không nên khi y đang thiếu máu hay vừa hồi phục sau cúm. Những hoàn cảnh thăng trầm khác cũng sẽ làm giảm cơ hội thành công của y. Tuy nhiên, nó vẫn luôn đến khi y đang bị áp lực, bởi trong áp lực, như chúng ta đã quan sát ở nơi khác, sự tăng trưởng xảy ra, và chừng nào nó không dẫn đến khốn bấn , thì áp lực rất đáng khuyến nghị như một đặc điểm thường hằng trong đời sống của đệ tử.

Abstinence is one of the many esoteric disciplines which force confrontation with the dweller. Abstinence is, by definition, the act or practice of voluntarily refraining from the use of something or from some activity or even habit. In psycho-analysis it is used extensively, especially in its sexual connotation. In the psychology of Pupilage or Self-Realisation, it is left to the individual to undertake if he feels capable of sustaining the extra stress implied by its practise. In the last, it is practised voluntarily, whereas in psychiatry it may be the result of a variety of conditions in which the voluntary aspect plays no part. It maybe an abstinence imposed on the patient by impotence, depression, anorexia nervosa, or through fear of disease, guilt or self- blame.

“Tiết dục” là một trong nhiều kỷ luật nội môn buộc đệ tử phải đối đầu với Kẻ Chận Ngõ. Theo định nghĩa, tiết dục là hành vi hay việc thực hành tự nguyện kiêng dùng một thứ gì đó, hay kiêng một hoạt động hoặc thậm chí một thói quen nào đó. Trong phân tâm học, nó được dùng rộng rãi, đặc biệt trong hàm nghĩa tình dục. Trong tâm lý của Địa vị Đệ tử hay Tự thực chứng, việc ấy được để cho cá nhân tự đảm đương nếu y thấy mình có thể duy trì sức ép gia tăng hàm ẩn trong thực hành đó. Sau hết, nó được thực hành một cách tự nguyện, trong khi trong tâm thần học, nó có thể là kết quả của nhiều tình trạng trong đó phương diện tự nguyện không đóng vai trò nào. Đó có thể là một sự kiêng khem bị áp đặt lên bệnh nhân bởi bất lực, trầm uất, chán ăn tâm thần, hoặc vì sợ bệnh, cảm thức tội lỗi hay tự trách.

In pupilage, abstinence is relative. There is no great achievement in being abstinent when it was always a fact of everyday life before pupilage of the individual began. Whereas abstinence in someone who has been used to having sexual expression each day is something of an achievement. In. fact, the main disciplines of pupilage are based upon the assumption that the student or pupil has led a normal, or even average existence until his advent of treading the Path.

Trong địa vị đệ tử, tiết dục là tương đối. Không có thành tựu lớn lao nào trong việc tiết dục nếu nó vốn đã là một thực tế hằng ngày từ trước khi cá nhân bước vào địa vị đệ tử. Trong khi tiết dục nơi một người vốn quen với biểu lộ tình dục mỗi ngày thì quả là một thành tựu. Thực ra, các kỷ luật chủ yếu của địa vị đệ tử đặt nền trên giả định rằng môn sinh đã sống một cuộc đời bình thường, thậm chí trung bình, cho đến khi y khởi sự bước trên Thánh Đạo.

The truly great victory is won by him who has been involved heavily in this sort of activity and makes strides towards disengagement from it. Someone who has reduced his sexual activities to a controlled minimum may have achieved a far greater degree of abstinence than another who has won total abstinence from a very infrequent sexual activity where impotence, depression etc., have been factors or where continence has been the way of life.

Chiến thắng thật sự vĩ đại thuộc về người đã từng sa lầy sâu vào loại hoạt động này và nay tiến bộ từng bước trong việc tháo gỡ khỏi nó. Người đã giảm hoạt động tình dục của mình xuống mức tối thiểu được kiểm soát có thể đạt được một độ tiết dục lớn hơn xa so với người khác tuy giành được “toàn tiết”, nhưng xuất phát từ một hoạt động tình dục rất hiếm hoi, nơi bất lực, trầm uất, v.v., là những yếu tố, hoặc nơi tiết chế vốn là lối sống.

The degree of abstinence must always remain a voluntary decision in Self-Realisation and, indeed, the reasons for being abstinent change as the pupil makes progress. We are concerned here with that stage of pupilage in which the student is shaping up to his dweller. Abstinence, for him, is a way of bringing to the surface, the many factors of good and evil in his life that have been ensconced in the fabric of his dweller and which exist outside his normal non-disciplined awareness. He may voluntarily enhance the surfacing process by practising abstinence from sex, from alcohol, from meat-eating or in any other way that will shift the congealed and sedimented layers of the dweller so that they can surface into his awareness and be dealt with, once and for all.

Mức độ tiết dục trong Tự Thực Chứng phải luôn là một quyết định tự nguyện và, thực vậy, những lý do để tiết dục sẽ thay đổi khi đệ tử tiến bộ. Ở đây, chúng ta quan tâm đến giai đoạn địa vị đệ tử trong đó môn sinh đang “dàn quân” đối mặt Kẻ Chận Ngõ của mình. Tiết dục, đối với y, là một cách đưa lên bề mặt nhiều yếu tố thiện và ác trong đời y đã từng ẩn náu trong kết cấu của Kẻ Chận Ngõ và tồn tại ngoài phạm vi chú tâm thường nhật không kỷ luật của y. Y có thể tự nguyện tăng cường tiến trình trồi lộ này bằng cách thực hành tiết dục khỏi tình dục, khỏi rượu, khỏi ăn thịt, hoặc theo bất cứ cách nào có thể làm dịch chuyển những lớp kết đặc và lắng đọng của Kẻ Chận Ngõ để chúng nổi lên ý thức và được giải quyết dứt điểm.

That his anxieties will be accentuated in the process is inevitable. But in the insecurity and even in the instability of the personality crisis that follows his particular abstinence, the opportunity for spiritual therapy increases. The stern attitude of the church towards sexual licence, especially within its own ranks, the isolation of the monk, his separation from his opposite number, the vows sworn, were all part of the process of creating conditions of stress that produce spiritual change. The theme was taken up in the art forms of the church and we still bear this heritage today in the narrow attitudes entrenched in education and in the puritanism of the churches.

Việc lo âu của y bị gia trọng trong tiến trình này là điều không tránh được. Nhưng chính trong sự bất an, thậm chí trong sự bất ổn của khủng hoảng phàm ngã theo sau việc tiết dục của y, cơ hội cho trị liệu tinh thần tăng lên. Thái độ nghiêm khắc của Giáo hội đối với tình dục phóng túng, nhất là trong nội bộ của mình, sự cô lập của tu sĩ, sự tách rời khỏi bản ngã đối nghịch, những lời khấn thệ — tất cả đều là một phần của tiến trình tạo ra các điều kiện áp lực dẫn đến thay đổi tinh thần. Chủ đề ấy được tiếp nhận trong các hình thức nghệ thuật của Giáo hội, và hôm nay chúng ta vẫn còn mang di sản đó trong các thái độ hẹp hòi hằn sâu trong giáo dục và trong tính thanh giáo của các nhà thờ.

Somewhat paralleling the effects of abstinence may be observed in brainwashing.* In esoteric life, the aspirant must brainwash himself—i.e. the personality vehicle—to a point of crisis in order to become more susceptible to the imprinting of his own soul. In the monastic life, the monk emulates the procedure in order to become similarly responsive to the doctrines of Mother Church.

Có thể quan sát những hiệu ứng phần nào song song với tiết dục trong “tẩy não”.* Trong đời sống nội môn, người chí nguyện phải tự tẩy não mình — tức là tẩy não vận cụ phàm ngã — đến một điểm khủng hoảng để trở nên dễ cảm hơn với ấn in của chính linh hồn mình. Trong đời sống tu viện, tu sĩ mô phỏng tiến trình này để trở nên tương tự như vậy trước các giáo điều của Mẹ Giáo hội.

* See Meditation, The Theory and Practice by the author.

* Xem Meditation, The Theory and Practice của tác giả.

Now, while the pupil may cheerfully impose abstinence on himself or accept it as part of the disciplines suggested by the Teacher, he has no right to impose it on others unless this also implies a Teacher-Pupil relationship. The implications of this are obvious. Whilst with some tact and considerable compassion, a marriage partner may be persuaded to release him from his conjugal obligations, it would hardly be fair to expect co-operation both during remissions and exacerbations of sexual expression. For the marriage partner, who might not yet even be on the Path, this could be more than flesh and blood could stand. Thus, the factor of dharma must always be considered before abstinence in varying degrees, is plunged into. For this reason and no doubt many others, the path of the initiate has, in past ages, usually been through the adoption of celibacy. A celibate is a non-married person, from Latin, ‘coelebs’—unmarried, who may, or may not, be entirely chaste, i.e. sexually abstinent.

Nay, trong khi đệ tử có thể vui vẻ tự áp đặt tiết dục lên mình hoặc chấp nhận nó như một phần của các kỷ luật do Huấn sư đề nghị, y không có quyền áp đặt nó lên người khác trừ phi điều ấy cũng hàm ý một mối quan hệ Thầy–Trò. Hệ quả của điều này là hiển nhiên. Dẫu với sự khéo léo và rất nhiều từ tâm, người bạn đời có thể được thuyết phục để phóng thích y khỏi các bổn phận phu thê, nhưng khó mà công bằng nếu kỳ vọng sự hợp tác cả trong những lúc thuyên giảm lẫn những đợt bột phát của biểu lộ tình dục. Đối với người bạn đời — người có thể còn chưa bước lên Thánh Đạo — điều đó có thể vượt quá sức chịu đựng của xác phàm và huyết nhục. Bởi vậy, yếu tố “dharma” phải luôn được cân nhắc trước khi lao vào tiết dục ở những mức độ khác nhau. Vì lý do này và chắc chắn vì nhiều lý do khác nữa, con đường của điểm đạo đồ, trong các thời đại trước, thường là qua việc chấp nhận sống độc thân. “Người độc thân” là người không lập gia đình, từ Latin “coelebs” — độc thân, có thể hoặc không thể hoàn toàn thanh khiết, tức là tiết dục về phương diện tình dục.

It is also implied in the esoteric disciplines that there are cycles and phases during which aspirations should be encouraged and very real steps on the path of spiritual ascent be made. The period of Lent, a remnant of what was once an esoteric observance of Christianity, in which fasting and penitence are practised, bears testimony to such cycles. The pupil must learn for himself, from his Soul, when such periods of assault on the Kingdom of Heaven should be undertaken. Abreaction leading to a catharsis, even if only in terms of a few score of Hail Mary’s can form an integral part of the preparatory period of self-conditioning. Catharsis makes the pupil more susceptible to spiritual impacts. The process of confession attempts the same. The personality that emerges from these ordeals should be more spiritualised and the vibrations of its consciousness raised to a higher level. This is psychosynthesis.

Các kỷ luật nội môn cũng hàm ý rằng có những chu kỳ và những pha trong đó nên khuyến khích hoài bão và thực hiện những bước tiến rất thực trên con đường thăng thượng tinh thần. Mùa Chay, tàn tích của một thời từng là một thực hành nội môn của Ki-tô giáo — trong đó ăn chay và sám hối được thực hành — là bằng chứng về những chu kỳ như thế. Đệ tử phải tự học, từ Linh hồn của mình, khi nào nên tiến hành những thời kỳ “xung phong” vào Nước Trời. Phản ứng tháo ức dẫn đến một sự thanh lọc, dù chỉ dưới dạng vài chục câu Kính Mừng Maria, có thể tạo thành một phần tích hợp của giai đoạn chuẩn bị tự điều kiện hóa. Thanh lọc làm cho đệ tử dễ cảm hơn trước các ấn động tinh thần. Tiến trình xưng tội cũng nhằm mục đích đó. Phàm ngã bước ra khỏi những thử luyện này nên trở nên được tinh thần hóa nhiều hơn và các rung động của tâm thức nó được nâng lên một mức cao hơn. Đó là Tổng hợp Tâm lý.

Between such ascents the pupil must be prepared to accept cycles of spiritual aridity and lack of progress in which the personality stabilises itself once more as a preparation towards another cycle of renewed effort.

Giữa những đợt thăng tiến như vậy, đệ tử phải sẵn sàng chấp nhận các chu kỳ khô hạn tinh thần và thiếu tiến bộ, trong đó phàm ngã tự ổn định trở lại như là sự chuẩn bị cho một chu kỳ nỗ lực mới.

In psycho-analysis, abstinence assists in the accentuation of the crisis which will produce the catharsis. After the catharsis, the activities, interests, pleasures and indulgences are once more permitted so that the energies which have been focused in the anxieties, phobias, etc., are drained away and the personality is relieved of its neurosis.

Trong phân tâm học, tiết dục giúp gia tăng cường độ khủng hoảng sẽ tạo nên thanh lọc. Sau thanh lọc, các hoạt động, sở thích, thú vui và hưởng thụ lại được cho phép, nhờ đó các năng lượng từng bị dồn vào lo âu, ám sợ, v.v., được tháo dẫn và phàm ngã được giải thoát khỏi chứng loạn thần kinh.

In treading the Path to self-knowledge, the restoration of these diversions into lascivious living are not encouraged. Everything becomes part of ‘The Work’, as it was described by Ouspensky. The Work must go on … the work of freeing oneself, e.g. from the dweller, of equipping oneself, of serving mankind. Relaxation is recommended but this should take the form of light, enjoyable and creative tasks, such as painting, gardening and even house-chores. There should never ever be any need for exercise to be prescribed apart from that incorporated in ‘The Work’. Sport, jogging, long walks, etc., are merely evidence of the aspirant’s inability, at that stage, to express himself fully in ‘The Work’. After the Third Initiation only, the Will of God has any meaning to the student and every action, small or large, reflects some aspect of that work. Lack of expression of the soul’s purpose is unknown at that level of initiation.

Trên lộ trình tiến đến tự tri, việc khôi phục các sự tiêu sái trở lại nếp sống dâm dật không được khuyến khích. Mọi thứ trở thành một phần của “Công Việc”, như Ouspensky đã gọi. Công Việc phải tiếp tục… công việc tự giải phóng, thí dụ khỏi Kẻ Chận Ngõ; công việc tự trang bị; công việc phụng sự nhân loại. Nghỉ ngơi được khuyến nghị, nhưng nên là các việc nhẹ nhàng, thú vị và sáng tạo như hội họa, làm vườn, thậm chí việc nhà. Không bao giờ nên cần kê đơn vận động, ngoài phần đã được tích hợp trong “Công Việc”. Thể thao, chạy bộ, đi bộ đường dài, v.v., chỉ là bằng chứng cho thấy ở giai đoạn đó, người chí nguyện chưa thể tự biểu lộ trọn vẹn trong “Công Việc”. Chỉ sau lần điểm đạo thứ ba , “Ý Chí của Thượng Đế” mới có bất kỳ ý nghĩa nào đối với môn sinh, và mọi hành động, nhỏ hay lớn, đều phản chiếu một phương diện nào đó của công việc ấy. Sự thiếu vắng biểu lộ mục đích của linh hồn là điều không hề có ở mức điểm đạo đó.

Until then, the student orients himself to closer and closer expressions of the Higher Self’s/Soul’s intent. Rarely, the co-operation of a partner can be gained so that by mutual assistance, abstinence and its rewards are won but this is an extremely rare phenomenon. Usually, one partner will be merely co-operating in abstinence in order to preserve the association rather than out of sincere spiritual motives and sometimes the partner may even be unaware of this insincerity. This is why, with all esoteric disciplines, right motive should always play a paramount part.

Cho đến lúc ấy, môn sinh tự hướng mình tới những biểu lộ ngày càng gần hơn với ý định của Chân Ngã/Linh hồn. Hiếm hoi lắm mới giành được sự cộng tác của một người bạn đời để nhờ hỗ tương mà cùng đạt được tiết dục và hoa trái của nó, nhưng đây là hiện tượng cực kỳ hiếm. Thông thường, một bên sẽ chỉ hợp tác tiết dục nhằm duy trì mối liên hệ hơn là vì động cơ tinh thần chân thành, và đôi khi người bạn đời còn chưa biết đến sự bất thành tín này. Vì thế, đối với mọi kỷ luật nội môn, động cơ đúng đắn phải luôn giữ vai trò tối thượng.

Signs of Spiritual Immaturity—Các Dấu Hiệu của Sự Non Trẻ Tinh Thần

(a) When the aspirant cannot deny himself a sensory experience which gives him pleasure or acquires him a material possession though he is well aware such indulgence can lead to attachments and negation of spiritual growth. He has yet to learn to be poor in attachments irrespective of whether they make him wealthier or not. The man, rich in attachments, cannot, with such impediments, enter the Kingdom of Heaven ‘through the eye of a needle’. He must become poor in those things that aggrandise his personality. He must strip himself bare of racial prejudice, class consciousness, of petty hates, loves, habits and creeds.

(a) Khi người chí nguyện không thể tự từ khước một trải nghiệm giác quan đem lại lạc thú cho y hoặc đem lại cho y một vật sở hữu vật chất, dù y biết rõ sự buông thả như vậy có thể dẫn đến các ràng buộc và sự phủ định tăng trưởng tinh thần. Y còn phải học cách trở nên nghèo trong các ràng buộc, bất kể chúng làm y giàu có hơn hay không. Người giàu ràng buộc, với những chướng ngại như thế, không thể “chui qua lỗ kim” để vào Nước Trời. Y phải trở nên nghèo đi trong những thứ phồng to phàm ngã của y. Y phải tự lột trần khỏi định kiến chủng tộc, cảm thức giai cấp, những ghét thương nhỏ mọn, tập quán và tín điều.

(b) When there is a lack of consideration for others on the Path and inability to share his newly won spiritual blessings with his fellow-men. Such aspirants who become egocentric, encapsulated and separative, selfishly seek personal unfoldment without any sense of guilt and are dangerously at risk of becoming engrossed in the lower psychic powers or Siddhis. These ‘powers’ are a dangerous temptation and can become an obstacle on the Path for the spiritually immature. Thus, obsession with astral projection, for example, can hold up growth into spiritual maturity.

(b) Khi thiếu quan tâm đến những người khác trên Thánh Đạo và không có khả năng chia sẻ những phước lành tinh thần mới giành được với đồng loại. Những người chí nguyện trở nên “phàm ngã trung tâm”, khép kín và phân ly, ích kỷ tìm kiếm sự khai mở cá nhân mà chẳng chút hổ thẹn, đang ở trong rủi ro nguy hiểm bị say đắm vào các thần thông thấp, tức các Siddhi. Những “quyền năng” này là cám dỗ hiểm nghèo và có thể trở thành chướng ngại trên Thánh Đạo đối với người non trẻ tinh thần. Do đó, ám ảnh với du hành cảm dục (astral projection), chẳng hạn, có thể cầm giữ sự tăng trưởng vào chín chắn tinh thần.

(c) Failure to succeed in an esoteric discipline is no crime in itself and may merely be a problem residing in the Ray complement, but such inadequacy in the spiritually immature can lead to hostile attitudes being adopted towards the esoteric discipline concerned, and a ‘sour grapes’ attitude towards others who are more successful at that discipline. ‘I can’t meditate … meditation is unimportant … those who meditate are muddle-minded mystics’.

(c) Thất bại trong một kỷ luật nội môn không phải là tội lỗi tự thân và có thể chỉ là một vấn đề thuộc bộ phối Cung, nhưng sự bất cập như thế nơi người non trẻ tinh thần có thể dẫn đến các thái độ thù nghịch đối với kỷ luật nội môn liên hệ, và một thái độ “nho xanh” đối với những người khác thành công hơn ở kỷ luật ấy. “Tôi không thể tham thiền… tham thiền không quan trọng… những người tham thiền là các nhà thần bí lú lẫn.”

(d) Failure to recognise limitations in oneself or in the environment and to adjust to such limitations. Those with strong Love Rays have difficulty in studying or in completing arduous tasks. Those with powerful Will Rays often lack intuition and compassion. Spiritual immaturity brings incapacity or unwillingness to recognise both their limitations and/or their potentials. A man who does not know himself is a man who cannot change himself and, in time, does not want to change himself.

(d) Không nhận ra những giới hạn nơi chính mình hoặc trong môi trường và không điều chỉnh theo những giới hạn ấy. Những người có Cung Tình thương mạnh thường khó học hành hoặc khó hoàn tất các công việc nhọc nhằn. Những người có Cung Ý chí mạnh thường thiếu trực giác và từ bi. Sự non trẻ tinh thần đem đến sự bất lực hay bất chí nhận ra cả giới hạn lẫn tiềm năng của mình. Một người không biết mình là người không thể thay đổi mình và, theo thời gian, không còn muốn thay đổi mình.

It is so much easier to spot limitations in others than in ourselves. The immature pupil has not yet learnt to make a self-appraisal from an utterly detached viewpoint, and one from a higher plane, rather than that of the level of his personality.

Dễ biết bao khi phát hiện giới hạn nơi kẻ khác hơn là nơi chính mình. Đệ tử non trẻ chưa học biết tự lượng giá bản thân từ một điểm nhìn hoàn toàn ly thân, và từ một cảnh giới cao hơn, chứ không phải ở cấp độ phàm ngã của y.

(e) Constant distraction from true spirituality, i.e., by definition, ‘the energy derived from effort put into the lifting of the consciousness of those about you’, through being caught up by every little breeze that brings a new lecturer or psychic into town. The endless ‘readings’, searches for phenomena and other bemusements divert the pupil from the more urgent business of focus of the mind, emotional serenity, study of the classical teachings of Ancient Wisdom, etc. Inability to discriminate between true teachers of the Wisdom and charlatans brings companionships of a low order and spiritual delinquency, i.e. misdemeanour’s among pupils or the spiritually adolescent.

(e) Bị xao lãng liên tục khỏi chân tinh thần, tức là , theo định nghĩa, “năng lượng phát sinh từ nỗ lực nhằm nâng cao tâm thức của những người chung quanh bạn”, do bị cuốn theo mọi cơn gió con mọn mang một diễn giả mới hay một nhà ngoại cảm mới vào thị trấn. Những “bói toán” bất tận, những cuộc săn đuổi hiện tượng và các trò làm xao lãng khác khiến đệ tử lệch khỏi công việc bức thiết hơn là tập trung thể trí, quân bình cảm xúc, học hỏi giáo lý kinh điển của Minh Triết Cổ, v.v. Bất năng phân biện giữa các bậc chân sư của Minh Triết và phường lang băm mang đến những bạn đồng hành hạ cấp và tình trạng lệch chuẩn tinh thần, tức những hành vi sai phạm nơi các đệ tử — những thiếu niên tinh thần.

(f) Lack of spiritual staying power. Discouragement with results of meditation and other esoteric disciplines is frequent. The immature student must learn not to judge by results but to act out of right motive and leave results to karma. The gain of spiritual staying power is the fundamental purpose of the monad’s enmeshment with matter and its subsequent disengagement from it. This is a long process calling on all that is noblest in a man’s nature … courage, patience, tolerance and humility. The ‘seven deadly sins’ of Catholicism were not stressed idly and of them pride is always the most common in the spiritually immature.

(f) Thiếu “độ bền” tinh thần. Thường nản chí vì kết quả của tham thiền và các kỷ luật nội môn khác. Đạo sinh non trẻ phải học đừng phán đoán dựa vào kết quả mà hãy hành động từ động cơ đúng, còn kết quả phó mặc cho nghiệp quả. Việc tích lũy độ bền tinh thần là mục đích nền tảng của sự chân thần dấn thân vào chất liệu và rồi thoát ra khỏi nó. Đây là một tiến trình dài, đòi hỏi tất cả những gì cao quý nhất trong bản tính con người… can đảm, nhẫn nại, khoan dung và khiêm hạ. “Bảy mối tội đầu” của Công giáo không phải được nhấn mạnh một cách nhàn rỗi, và trong số ấy, kiêu căng luôn là tội thường gặp nhất nơi người non trẻ tinh thần.

(g) Occult Obedience is often lacking. History has recorded many examples of occult obedience by high degree initiates. One outstanding example was Moses in whom malleability and occult obedience to the Word of God, ‘the injunctions of the Race-Manu’ were prerequisites to his leadership of the Israelites when he took them into the Chosen Land. His position was invidious; his responsibilities to his people enormous. He was seldom given reasons, logical, or intuitive, for the steps he was instructed to take. But as an initiate of high degree,—at least higher than the third degree—he was reacting to the Monad’s, ‘Not my will, but Thy will be done, O Lord’. It was then merely necessary for him to obey, and to find the ways and means of implementing his Master’s instructions. The promised Land was then assured. Similarly with Socrates. All his life he had responded to his daemon, his inner voice, the voice of his Higher Self his Soul. Even when the choice between life and death had to be made, between accepting the death sentence of the Athenians or the opportunity to flee into exile, Socrates followed, unquestioningly the admonition of his daemon and chose the hemlock. He was not, at that stage, to know that his death would lead to rebirth almost immediately through his subsequent overshadowing of his young and beloved pupil, Plato. In the early stages of pupilage such challenges to obey are frequently presented though their full import is not at the time, obvious.

(g) Thường thiếu “Vâng phục Huyền môn”. Lịch sử đã ghi nhiều thí dụ về vâng phục huyền môn nơi các điểm đạo đồ cấp cao. Một ví dụ nổi bật là Moses, nơi ông, tính dễ uốn và sự vâng phục huyền môn đối với Linh từ của Thượng đế — “những huấn lệnh của Đấng Manu của giống dân gốc” — là những điều kiện tiên quyết cho vai trò lãnh đạo dân Israel vào Đất Hứa. Vị trí của ông thật khó xử; trách nhiệm đối với dân tộc ông là to lớn. Ông hiếm khi được ban các lý do, dù lý trí hay trực giác, cho những bước ông được chỉ thị phải đi. Nhưng với tư cách một điểm đạo đồ cấp cao — ít nhất là cao hơn lần điểm đạo thứ ba — ông đang phản ứng với Chân thần: “Không phải ý muốn của con, mà Ý muốn của Ngài được nên, lạy Chúa.” Khi ấy điều cần thiết duy nhất đối với ông là vâng phục và tìm ra phương tiện cùng cách thức để thi hành các chỉ thị của Vị Thầy mình. Đất Hứa như vậy là điều được bảo đảm. Tương tự với Socrates. Suốt đời, ông đã đáp ứng với vị “daemon” của mình, tiếng nói nội tâm, tiếng nói của Chân Ngã — Linh hồn của ông. Ngay khi phải chọn giữa sống và chết, giữa chấp nhận án tử của người Athen hay cơ hội trốn đi lưu vong, Socrates đã không chút do dự theo lời khuyên của “daemon” và chọn uống thuốc độc cần độc. Ở giai đoạn ấy, ông chưa hề biết rằng cái chết của mình sẽ dẫn tới một sự “tái sinh” gần như tức thì qua việc ông sau đó phủ bóng lên người môn sinh trẻ và yêu dấu của mình, Plato. Trong những giai đoạn đầu của địa vị đệ tử, những thách thức để vâng phục thường xuyên được đặt ra, dù hệ quả đầy đủ của chúng lúc bấy giờ chưa hiển lộ.

Seven long and arduous years in the study of Medicine, at a time in life when most men have packed away their textbooks, brought the writer the stamp of academic approval, and the opportunity to become licensed to practise medicine with his fellow students along the line of orthodoxy. But seeking the approval of his Master at that time, he was told ‘not’ to register but to act independently in the field of esoteric or alternative Medicine. It was a bitter pill which thrust him into an academic wilderness but there never entered his mind for one minute any thought of disobeying. Nor has he ever had any cause, subsequently, to doubt the wisdom of the advice given him by that august Being.

Bảy năm dài đằng đẵng, nặng nhọc trong học y khoa — vào một thời điểm của đời người khi đa số đàn ông đã cất sách vở vào rương — đã đem đến cho người viết dấu ấn tán đồng của học giới và cơ hội được cấp phép hành nghề Y cùng với bạn đồng khóa trên tuyến chính thống. Nhưng khi tìm cầu sự chấp thuận của Chân sư mình lúc bấy giờ, ông được bảo “đừng” đăng ký, mà hãy hành động độc lập trong lĩnh vực y khoa nội môn hay thay thế. Đó là một viên thuốc đắng, ném ông vào một vùng hoang mạc học thuật, nhưng không một phút giây nào trong trí ông nảy sinh ý nghĩ bất tuân. Và về sau, ông cũng chưa bao giờ có cớ để hoài nghi sự minh triết của lời khuyên do Vị Tôn Nghiêm kia ban cho ông.

(h) The inability to sit in silence. This is not only a sign of spiritual immaturity but one which shows that the pupil has not yet learned to meditate effectively:

(h) Không có khả năng ngồi yên trong im lặng. Đây không chỉ là một dấu hiệu của sự non trẻ tinh thần mà còn cho thấy đệ tử chưa học được cách tham thiền hiệu quả:

‘If you can’t meditate, at least learn to sit in silence!’

“Nếu anh chưa thể tham thiền, thì ít nhất hãy học ngồi yên trong im lặng!”

Why should this be? It is because the Higher Self disseminates in silence and not in the midst of mental clutter. The Higher Self anchors itself in the personality, secures its grasp of the lower triad and its vehicles during meditation or in silence. Meditation provides the silent period of gestation in which the Higher Self prepares to emerge from its reveries. ‘Silence is Golden’, and the nature of the Soul’s radiance is golden. In ancient days, men always dug for buried treasure in complete silence. To speak before the chest was revealed was regarded as bad luck and very bad form; it broke the spell. Man on the Path is the same. When he seeks for the greatest and the deepest treasures, he is at his most silent. The chatterbox is never a meditator. Pythagoras, the former life of the Master K.H., always imposed long periods of silence on His pupils. ‘Be still and know that I am God’.

Vì sao thế? Bởi vì Chân Ngã lan tỏa trong tịch lặng, chứ không giữa mớ lộn xộn của tư tưởng. Chân Ngã neo mình vào phàm ngã, củng cố sự nắm bắt tam hạ thể và các vận cụ của nó trong tham thiền hoặc trong tịch lặng. Tham thiền cung cấp thời kỳ tịch lặng của sự “thai nghén” trong đó Chân Ngã chuẩn bị bước ra khỏi cõi miên tưởng của mình. “Im lặng là vàng”, và màu sắc của hào quang Linh hồn là vàng. Ngày xưa, người ta luôn đào tìm kho báu chôn giấu trong tịch lặng tuyệt đối. Nói trước khi chiếc rương lộ ra bị coi là xui xẻo và vô cùng bất nhã; nó phá vỡ bùa chú. Con người trên Thánh Đạo cũng thế. Khi y tìm kiếm những kho tàng lớn lao và sâu thẳm nhất, y ở trong im lặng nhất của mình. Kẻ lắm lời không bao giờ là người tham thiền. Pythagoras — tiền kiếp của Chân sư K.H. — luôn áp đặt những thời kỳ dài im lặng lên đệ tử của Ngài. “Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Thượng đế.”

00049.jpeg

The Manipulation of Time and Space—Sự Vận Dụng Thời Gian và Không Gian

The aspirant inevitably has to face problems of time and space. Whereas the dimension of time is never quite adequately coped with until after the Third Initiation, the problem of its manipulation presents almost as soon as the pupil is aware that he is ‘on the Path.’ At first, he works a little harder at his mundane activities to make time available for his esoteric matters. Later, he finds that he is struggling to make time available for his exoteric affairs.

Người chí nguyện tất yếu phải đối diện với các vấn đề của thời gian và không gian. Trong khi chiều thời gian chẳng bao giờ được xử trí đủ đầy cho đến sau lần điểm đạo thứ ba , thì vấn đề vận dụng nó lại xuất hiện gần như ngay khi đệ tử ý thức được rằng mình đang “trên Thánh Đạo.” Thoạt tiên, y làm việc chăm hơn đôi chút trong các hoạt động thế tục để dành thời gian cho các việc nội môn. Về sau, y thấy mình đang vật lộn để dành thời gian cho các việc ngoại môn.

These present him with the very necessary tensions and conflicts that are indigenous to the territories on the frontier of the mind. His awareness of inner space is extended and he finds that time spent in the inner worlds is extensive. If he were to deal with the massive extensions in his consciousness in terms of the finite dimensions of time imposed upon him by the physical brain, he would never manage. But there comes into play at this critical period, the various head chakras. Most relevant of these, with regard to the better comprehension of time and space is Sahasrara, the Head Centre. We have already seen, elsewhere, that the body has clocks, that these are set by neuro-hormonal tissue. The synchronisation of these clocks with daily activities and the completion of body rhythms imposed on them are a very necessary part of remaining healthy or of adjusting robust health of the pre-pupilage era to the sensitive health of the post era. The three glands in the head and neck region concerned especially with cycles and rhythms, are the pineal, the pituitary and the carotid. Each of these are directly related to their appropriate head centres:

Những điều này đem đến cho y các căng thẳng và xung đột cần thiết vốn là bản địa của những lãnh thổ nơi biên cương của thể trí. Nhận biết của y về không gian nội tại được mở rộng và y nhận ra rằng thời gian dành cho các cõi nội là rất nhiều. Nếu y phải xử trí những sự mở rộng đồ sộ trong tâm thức mình bằng các chiều kích hữu hạn của thời gian do bộ não hồng trần áp đặt, y sẽ chẳng bao giờ xoay xở nổi. Nhưng ở thời điểm then chốt này, các luân xa đầu khác nhau đi vào hoạt động. Liên hệ nhất trong số đó, về phương diện thấu hiểu tốt hơn thời gian và không gian, là Sahasrara, Trung Tâm Đầu. Ở nơi khác, chúng ta đã thấy rằng thân thể có các “đồng hồ”, rằng chúng được “điều chỉnh” bởi mô thần kinh – nội tiết. Việc đồng bộ hóa những chiếc đồng hồ này với các hoạt động hàng ngày và việc hoàn tất các nhịp điệu của thân thể áp đặt lên chúng là phần rất cần thiết để duy trì sức khoẻ, hoặc để điều chỉnh sức khoẻ tráng kiện của thời trước địa vị đệ tử sang sức khoẻ nhạy cảm của thời sau. Ba tuyến ở vùng đầu và cổ liên hệ đặc biệt với các chu kỳ và nhịp điệu là tùng quả, tuyến yên và thể cảnh. Mỗi tuyến tương ứng trực tiếp với một trung tâm đầu thích hợp:

Pineal … Sahasrara

Tùng quả … Sahasrara

Pituitary … Ajna

Tuyến yên … Ajna

Carotid … Alta Major

Thể cảnh … Alta Major

Increasingly, the aspirant adjusts himself to cycles and rhythms. There are not only diurnal and circadian rhythms but those related to the Full Moon when the Planetary Logos goes into meditation. There are the greater cycles related to the planets, those concerned with triangular alignments of the zodiacal constellations, those associated with the forward motion of the solar system, some concerned with the greater cycle of the zodiac, others with the opening of petals in the egoic lotus. The disciplines of pupilage, carefully enforced in the life of the aspirant will deal with these progressively and efficiently. Meditation, energising the interplay of ramifying nadis, outgrowths of the head centres, will adjust, modify, disseminate and energise the alerted neurones of the brain, especially those which have previously formed part of the ‘silent areas’ of the cerebral cortex.

Ngày càng hơn, người chí nguyện tự điều chỉnh mình theo các chu kỳ và nhịp điệu. Không chỉ có các nhịp điệu ngày – đêm và “circadian”, mà còn có những nhịp liên hệ với Trăng Tròn khi Hành Tinh Thượng đế đi vào tham thiền. Có những chu kỳ lớn hơn liên đới đến các hành tinh; những chu kỳ liên đới đến các chỉnh hợp tam giác của những chòm sao hoàng đạo; những chu kỳ gắn với chuyển động tiến của hệ mặt trời; một số thì liên quan đến đại chu kỳ hoàng đạo; số khác liên quan đến sự mở các cánh của Hoa Sen Chân Ngã. Những kỷ luật của địa vị đệ tử, nếu được áp dụng cẩn trọng trong đời sống người chí nguyện, sẽ lần lượt và hữu hiệu xử trí những điều này. Tham thiền, bằng cách năng động hóa sự tương tác của những nadi phân nhánh — vươn ra từ các trung tâm đầu — sẽ điều chỉnh, cải biến, phân phối và tiếp sinh lực cho các nơron đã được cảnh tỉnh của bộ não, nhất là những nơron vốn thuộc về các “vùng im lặng” của vỏ não.

The gregarious predisposition of Man to form closer and more complex communities fortifies the collective unconscious of humanity and provides the delicate substratum of enmeshing patterns of response in which the embryonic human personalities thrive. But, as the pupil begins to confront his Dweller, an inevitable accompaniment of beginning to tread the Path, his disenchantment with the collective unconscious which forms part of the Dweller of the Threshold of Humanity, also begins. The agoraphobia of the young souls has no appeal for him. He pines for increasing privacy and opportunities to metamorphose. The meditative way of life appeals increasingly. New values, new codes of conduct, an urge to respond to natural law, rather than man-made laws, sweeps him. The aspirant is refreshed. He is conscious of the degrading effects which intimate association with humanity’s ‘hoi polloi’ brings via auric input and yet is aware that he must work with all men towards a new age of enlightenment. It is only through meditation that he can make this adjustment to apparently contradicting circumstances. He secures ‘a room of his own’* which permits him ‘breathing space’; the words are chosen with care. Effectively constructed, the room-of-one’s own can be extended into a minor kingdom, an ivory tower to which he can retreat for refreshment of vibration and psychosynthesis of consciousness. He should be careful that it does not become his prison or an opportunity for his own encapsulation (see Meditation, The Theory and Practice by the author).

Khuynh hướng bầy đàn của Con người, muốn kết tập thành các cộng đồng ngày càng gần và phức hợp, củng cố vô thức tập thể của nhân loại và cung cấp tầng nền tinh tế của các mô thức đan xen phản ứng, trong đó các phàm ngã phôi thai của con người nảy nở. Nhưng khi đệ tử bắt đầu đối mặt Kẻ Chận Ngõ của mình — một hệ quả tất yếu của việc khởi sự bước trên Thánh Đạo — thì sự vỡ mộng của y với vô thức tập thể, vốn là một phần của Kẻ Chận Ngõ nơi ngưỡng cửa của Nhân loại, cũng bắt đầu. “Quảng sợ” của các linh hồn non trẻ chẳng còn hấp dẫn với y. Y khao khát sự riêng tư lớn hơn và các cơ hội để hóa thân đổi dạng. Đời sống tham thiền ngày càng hấp dẫn. Những giá trị mới, các quy tắc ứng xử mới, một thôi thúc đáp ứng Định luật Tự nhiên hơn là các luật do con người đặt ra, trào dâng trong y. Người chí nguyện được “làm mới”. Y ý thức về các tác động làm suy đồi vốn do việc giao du mật thiết với “đám đông” của nhân loại mang đến qua đầu vào hào quang, và đồng thời nhận biết rằng y vẫn phải làm việc với mọi người để hướng tới một kỷ nguyên mới của soi sáng. Chỉ qua tham thiền y mới có thể thực hiện sự điều chỉnh này giữa những hoàn cảnh dường như mâu thuẫn. Y thu xếp “một căn phòng riêng của mình”* cho phép y có “không gian thở”; những từ ngữ được chọn lựa cẩn thận. Nếu kiến tạo hữu hiệu, “căn-phòng-riêng” có thể được mở rộng thành một “tiểu vương quốc”, một tháp ngà để y có thể lui về mà phục hồi rung lực và tổng hợp tâm thức. Y nên cẩn thận để nó không trở thành nhà tù của mình hay cơ hội cho sự tự khép kín (xem Tham Thiền, Lý thuyết và Thực hành của tác giả).

We understand now why the pupil seeks seclusion without isolation, learns to serve mankind without loss of vibration, seeks nirvana without loss of identity. Most vertebrates will herd together or space out their territories according to recognised social rules. The definition of their social rules is instinctual and via their morphogenic fields rather than through heredity. In the pupil himself, his manipulation of the territory of inner space and its ‘time’ with increasing effectiveness, is intuitional and stems from the plane of Buddhi. The withdrawal into meditational periods and the tapping of energy sources depends on the release from the hegemony of the senses and the tyranny of the brain. The adept or Master of the Wisdom learns to live in territories that are spaced out in accordance with planetary needs and these territories lie around a focal point of energy related to its particular Ray quality which wells into planetary consciousness from other dimensions. These points of constantly regenerated energy are known as ‘Ashrams’ and they are chakras in that body of consciousness which we call Humanity. One such centre, based in the environs of London and operating through the First Ray of Will and Power is ‘ensouled’ by the Being, a nirmanakaya, who was Plato.

Giờ đây, ta hiểu vì sao đệ tử tìm sự ẩn dật mà không cô lập, học cách phụng sự nhân loại mà không đánh mất rung lực, tìm niết-bàn mà không đánh mất căn cước. Hầu hết các loài có xương sống đều sẽ tụ bầy hoặc giãn cách lãnh thổ của mình theo các quy tắc xã hội được công nhận. Định nghĩa các quy tắc xã hội của chúng có tính bản năng và qua các trường hình thái hơn là qua di truyền. Nơi chính đệ tử, sự vận dụng lãnh thổ của không gian nội tại và “thời gian” của nó với hiệu quả ngày càng tăng có tính chất trực giác và bắt nguồn từ cõi Bồ đề. Việc lui về vào các thời kỳ tham thiền và sự chạm đến các nguồn năng lượng tùy thuộc vào việc được giải phóng khỏi ách thống trị của giác quan và sự chuyên quyền của bộ não. Vị chân sư hay Bậc Thầy của Minh triết học tập sống trong những lãnh thổ được giãn cách phù hợp với các nhu cầu hành tinh, và những lãnh thổ ấy quy tụ quanh một điểm hội tụ năng lượng liên hệ với phẩm tính Cung đặc thù của nó, điểm mà từ các chiều không gian khác tuôn chảy vào tâm thức hành tinh. Những điểm năng lượng được tái sinh liên tục như thế được gọi là “Ashram”, và chúng là các luân xa trong thân thể tâm thức mà chúng ta gọi là Nhân loại. Một trung tâm như vậy, trú bản trong vùng phụ cận London và vận hành qua Cung Một của Ý chí và Quyền năng, được “phú linh” bởi một Đấng — một nirmanakaya — vốn là Plato.

00025.jpeg

00027.jpeg

Each disciple, in his ‘room-of-one’s own’ should function, himself, in the same way as an ashramic sub-centre within the greater centre—or collective centre centre) which is the ashram proper. His territory is his own ring-pass-not. The susceptibility of the pupil to contamination of his aura by his ‘younger brothers’ increases with spiritual unfoldment. Masters just cannot live amongst us for any length of time under normal conditions like someone who is a next-door-neighbour. Indeed, They must make special preparation before they can work amongst men even if it is only for a short period. They remain in as much seclusion as They can secure, venturing forth only in some emergency or as part of some important project.

Mỗi đệ tử, trong “căn-phòng-riêng” của mình, nên vận dụng chính mình theo cùng một cung cách như một tiểu trung tâm ashramic nằm trong đại trung tâm — hay trung tâm tập thể (trung tâm) — là ashram đích thực. Lãnh thổ của y là vòng-giới-hạn của riêng y. Tính dễ cảm của đệ tử đối với sự nhiễm bẩn hào quang bởi “các huynh đệ trẻ hơn” tăng lên khi sự khai mở tinh thần tiến triển. Các Chân sư không thể sống giữa chúng ta lâu dài trong những điều kiện bình thường như một người hàng xóm nhà kề. Quả vậy, Các Ngài phải có chuẩn bị đặc biệt trước khi có thể làm việc giữa loài người, dù chỉ trong một thời gian ngắn. Các Ngài ở trong ẩn dật nhiều nhất có thể, chỉ xuất hiện khi có khẩn sự hoặc như một phần của một dự án quan trọng nào đó.

Diseases peculiar to the esoteric student are often ameliorated by semi-isolation and exacerbated by constant contact with the masses. Some forms of cancer are stimulated by persistent exposure to masses of people. The incidence of cancer in actors, illustrates this. Also, these cancers can be very long developing as in lung cancer from the effects of smoking. The latter may take twenty years to reach full expression but it will be found in the years ahead that the rapidity of development will be related, in many instances, to the continuous auric influences of the surrounding population. This is why the selection of those working in an ashramic group must be carefully vetted apropos Ray complements, the karma of the individual, and the degree of his psychosynthesis.

Những bệnh lý đặc thù của đạo sinh nội môn thường được cải thiện bởi bán cô lập và bị làm trầm trọng bởi sự tiếp xúc thường trực với quần chúng. Một số dạng ung thư bị kích thích bởi việc phơi mở dai dẳng trước đám đông. Tỷ lệ ung thư nơi giới diễn viên minh họa điều này. Đồng thời, những ung thư này có thể phát triển rất lâu như ung thư phổi do hút thuốc. Tác hại sau có thể cần hai mươi năm để biểu lộ đầy đủ, nhưng người ta sẽ thấy trong những năm tới rằng tốc độ phát triển sẽ tương quan, trong nhiều trường hợp, với ảnh hưởng hào quang liên tục của quần cư chung quanh. Bởi vậy, việc tuyển chọn những người làm việc trong một nhóm ashramic phải được sàng lọc cẩn trọng, liên quan đến bộ phối Cung, nghiệp quả của cá nhân và mức độ Tổng hợp Tâm lý của y.

The word ‘gregarious’ comes from the Latin word grex meaning a flock and the tendency of men to flock together. Out of this ‘flocking’ arises much of the aggressive nature of Man. It arises in two ways. Overcrowding of animals produces aggressiveness. In Man, this shows as the ‘spirit of competition,’ separativeness—in personality—and the opposite of goodwill. Secondly, men tend to identify themselves with a group, with a tribe or a nation. In esoteric psychology we tend to link this quality to the Ray of Devotion and Idealism. Out of its worst features arises the tendency to hurt, or to ignore all other groups out of a loyalty to his own group. There is hardly an individual who has not got this, the Sixth Ray, prominent in his make-up at some stage of his life. It is no coincidence that the Christians looked upon themselves as a flock and their leader as the shepherd of the flock. They are, in this case the classical example of dogma and separativeness. Wilhelm Busch wrote in verse: ‘If this or that displeases me, “Away with it” is my decree!’

Chữ “gregarious” bắt nguồn từ tiếng Latin “grex”, nghĩa là “bầy đàn”, và chỉ khuynh hướng của con người tụ bầy. Từ sự “tụ bầy” này nảy sinh phần lớn bản tính hiếu chiến của Con người. Nó phát sinh theo hai cách. Sự quá tải quần cư nơi động vật tạo nên tính hung hăng. Nơi Con người, điều này biểu lộ như “tinh thần tranh đua”, tính phân ly — trong phàm ngã — và đối nghịch với thiện chí. Thứ đến, con người có xu hướng đồng nhất mình với một nhóm, một bộ lạc hay một quốc gia. Trong tâm lý học nội môn, chúng ta liên kết phẩm tính này với Cung Sùng tín và Lý tưởng. Từ những đặc tính tệ hại nhất của nó nảy sinh xu hướng làm tổn thương, hoặc bỏ qua mọi nhóm khác vì trung thành với nhóm của mình. Hầu như không có cá nhân nào mà Cung Sáu này lại không nổi trội trong cấu tạo của y ở một giai đoạn nào đó trong đời. Không phải ngẫu nhiên mà các Ki-tô hữu tự xem mình như một đàn chiên và người lãnh đạo của họ là người chăn chiên. Trong trường hợp này, họ là ví dụ kinh điển của giáo điều và tính phân ly. Wilhelm Busch đã viết thơ: “Nếu cái này hay cái kia khiến ta khó chịu, ‘Hãy bỏ nó đi’ — ta phán như thế!”

Seen as a whole, humanity adopts the same attitude towards other kingdoms of nature. If a dog attacks a human being, it is always destroyed without any investigation of whether the human might have invited the attack. The Romans caused the Mediterranean area to be deforested and the Sahara Desert thus extended beyond its original limits; the destruction of the buffalo of North America and the conversion of much of its grazing grounds into a dustbowl and the British destruction of wildlife on the steppes of East Africa in order to serve the abortive and grandiose ‘groundnuts scheme’* are some examples that come to mind.

Khi nhìn như một tổng thể, nhân loại cũng tỏ cùng một thái độ đối với các giới khác của thiên nhiên. Nếu một con chó tấn công một con người, nó luôn bị tiêu diệt mà không hề điều tra xem liệu con người đó có thể đã gây cớ cho cuộc tấn công hay không. Người La Mã đã khiến vùng Địa Trung Hải bị chặt trụi rừng và sa mạc Sahara vì thế mở rộng vượt quá ranh giới nguyên thủy của nó; việc hủy diệt đàn trâu rừng ở Bắc Mỹ và biến phần lớn đồng cỏ của chúng thành “bát bụi” khô cằn, cùng với việc người Anh hủy diệt sinh giới hoang dã trên các thảo nguyên Đông Phi để phục vụ cho “đề án đậu phộng” hoành tráng nhưng sớm đổ vỡ là vài ví dụ hiện lên trong tâm trí.

 *‘The Dilemma of Social Man’, Science Journal, October 1969.

*‘Thế Lưỡng Nan của Con Người Xã hội’, Tạp chí Khoa học , Tháng Mười 1969.

The psychology of Pupilage is greatly concerned with the transformation of aggressive and separative Sixth Ray qualities into their higher and more spiritual counterparts. The element of competition transmuted, becomes altruistic egotism. The admonition: ‘Kill out ambition, but live like one ambitious’* becomes meaningful.

Tâm lý học về Địa vị Môn sinh đặc biệt quan tâm đến sự chuyển hóa các phẩm tính gây hấn và phân ly của Cung Sáu thành những đối phần cao hơn và mang tính tinh thần hơn của chúng. Yếu tố cạnh tranh, khi được chuyển hóa, trở thành “tự ngã vị tha”. Lời khuyên: “Diệt trừ tham vọng, nhưng sống như người còn mãi khát vọng” trở nên thấm nghĩa.

*The Voice of the Silence by H. P .Blavatsky.

*Tiếng Nói của Im Lặng của Bà H. P. Blavatsky.

The attention given to isolation whether as a mere preliminary to meditation or to the meditative way of life, will well reward the efforts. We have noted already that the Higher Self disseminates in silence. The auric qualities of the pupil have little chance to sound their own, singular note if there are constant intrusions and adulterations from without. The aura must become mirror-like, a reflection of soul-intent, a radiator of Truth, Beauty and Goodness. It is only in this spaced territory that realisations of the eternal nature and order of things can be truly understood. An aura that is impure, is an organism functioning at below par. It is in such discreet regions of the spiritual chrysalis that the mysteries of time and space are plumbed, that organs of inner perception may grow. It is the acid-test of emotional control, this ability to withdraw. The poem The Lady of Shalott, by Alfred, Lord Tennyson, describes the process. The neophyte, here the Lady of Shalott, has sworn a period of withdrawal. She is permitted no outside contact as she works at her loom; the symbol of space and time, isolated in her castle. The Lady is permitted to see the outside world, or the inner, only through her mirror, aura. The test comes when a knight of chivalry rides by on the tow-path to Camelot. His image in the mirror distracts her and she steals a glance at him directly. The mirror is shattered, the loom disrupted and the spell is broken. Later, the Lady drowns in the waters, of her emotions, seeking Camelot, the Fifth Kingdom, downstream.

Sự chú tâm dành cho cô lập—dù chỉ như một bước chuẩn bị cho tham thiền hay như một nếp sống tham thiền—sẽ xứng công tu tập. Chúng ta đã ghi nhận rằng Chân ngã truyền lưu trong im lặng. Những phẩm tính hào quang của môn sinh khó có cơ hội xướng lên cung bậc riêng, độc nhất của mình nếu bị xâm nhập và pha tạp liên miên từ bên ngoài. Hào quang phải trở nên như gương, phản chiếu ý hướng của linh hồn, tỏa chiếu Chân, Thiện, Mỹ. Chỉ trong cõi không gian thênh thang ấy, những nhận thức về bản tính và trật tự vĩnh cửu của sự vật mới thật sự được thấu lĩnh. Một hào quang không thanh tịnh là một cơ quan đang vận hành dưới mức chuẩn. Chính trong những miền kín đáo của chiếc kén tinh thần ấy, các mầu nhiệm của thời gian và không gian được dò tận đáy, và những khí quan của tri giác nội tâm có thể trưởng thành. Năng lực thoái lui này là phép thử gắt gao nhất về làm chủ cảm xúc. Bài thơ Thiếu phụ xứ Shalott của Alfred, Lord Tennyson mô tả tiến trình ấy. Vị tân học giả—ở đây là Thiếu phụ xứ Shalott—đã thệ nguyện một thời kỳ ẩn thoái. Nàng không được phép có tiếp xúc nào với bên ngoài khi dệt khung cửi—biểu tượng của không gian và thời gian—trong tòa lâu đài cô lập của mình. Thiếu phụ chỉ được phép nhìn thế giới bên ngoài, hay nội giới, qua tấm gương—tức hào quang—của nàng. Phép thử đến khi một hiệp sĩ trượng nghĩa phi ngựa dọc theo đường kéo thuyền hướng về Camelot. Hình bóng chàng trong gương làm nàng xao lãng và nàng lén đưa mắt nhìn thẳng. Gương vỡ tan, khung cửi đứt đoạn và bùa chú tiêu tan. Sau đó, Thiếu phụ chết đuối trong làn nước—những cảm xúc của nàng—trên đường tìm Camelot, Giới Thứ Năm, xuôi dòng hạ lưu.

From the bank and from the river

Từ bờ sông và từ lòng sông

He flashed into the crystal mirror,

Chàng lóa lên trong gương pha lê,

Tirra lirra, by the river

“Tirra lirra”, bên bờ sông ấy

Sang Sir Lancelot

Ngài Lancelot cất tiếng ca.

Out flew the web and floated wide;

Tấm lưới bay tung và trôi rộng;

The mirror cracked from side to side;

Gương nứt rạn từ cạnh này sang cạnh khác;

“The curse is come upon me”, cried

“Lời nguyền đã giáng lên ta rồi”, nàng kêu,

The Lady of Shalott’.

Thiếu phụ xứ Shalott.

— Alfred, Lord Tennyson

— Alfred, Lord Tennyson

00029.jpeg
—[hình]

I had myself known many periods of being alone and of loneliness, especially during the war years. Some of these periods were enforced by circumstances; others were chosen by me between tank battles when the urge to identify myself with something inward had become intense. Poetry had always stirred me emotionally and stimulated me mentally towards creative acts. The reciting of certain appropriate poems should be used by the disciple to assist him in establishing the habit of withdrawal. An example of such verse is that of Masefield’s great poem, Sea Fever which for me was somehow palliative after being cooped up in a few cubic feet of iron for many hours. Forty years later, I still used it to refresh me after the stifling atmosphere of the rooms I lectured in.

Bản thân tôi từng trải qua nhiều thời kỳ chỉ có một mình và cô đơn, nhất là suốt những năm chiến tranh. Một số thời đoạn ấy do hoàn cảnh cưỡng bức; những đoạn khác do tôi tự chọn giữa các trận chiến xa tăng, khi thôi thúc đồng hóa mình với điều gì đó sâu kín bên trong trở nên mãnh liệt. Thi ca luôn khuấy động tôi về mặt cảm xúc và kích thích tôi về mặt trí tuệ hướng đến các hành vi sáng tạo. Việc ngâm đọc vài bài thơ thích hợp nên được người đệ tử sử dụng để giúp y thiết lập thói quen thoái lui. Một ví dụ như thế là bài thơ lớn Cơn say biển của Masefield, vốn đối với tôi có tác dụng xoa dịu phần nào sau những giờ bị nhốt chật trong vài mét khối sắt. Bốn mươi năm sau, tôi vẫn dùng nó để làm tươi tâm trí sau bầu không khí ngột ngạt của các căn phòng nơi tôi thuyết giảng.

‘I must down to the seas again, to the lonely seas and the sky,

“Tôi lại phải xuôi ra biển nữa, về những biển vắng và bầu trời,

and all I ask is a tall ship and a star to steer her by,

và điều tôi xin chỉ là một con thuyền cao và một vì sao để lái nàng theo,

And the wheel’s kick and the wind’s song and the white sails shaking,

Và cú hất của bánh lái, khúc hát của gió cùng những cánh buồm trắng đang rung,

and a grey mist on the sea’s face and grey dawn breaking.

và màn sương xám trên mặt biển và hừng đông xám đang hé.

I must down to the seas again, for the call of the running tide

Tôi lại phải xuôi ra biển nữa, vì tiếng gọi của thủy triều đang dâng

Is a wild call and a clear call that may not be denied;

Là một tiếng gọi hoang dã và minh bạch không thể chối từ;

And all I ask is a windy day with the white clouds flying,

Và điều tôi xin là một ngày gió lớn với mây trắng bay lồng lộng,

And the flung spray and the blown spume, and the sea-gulls crying.

Và lớp bọt tung và bọt gió quất, và tiếng chim hải âu kêu.

I must down to the seas again to the vagrant gypsy life,

Tôi lại phải xuôi ra biển nữa, về đời gypsy phiêu bạt,

To the gull’s way and the whale’s way where the wind’s like

Theo lối chim hải âu và lối cá nhà táng, nơi ngọn gió như

a whetted knife;

lưỡi dao vừa được mài bén;

and all I ask is a merry yarn from a laughing fellow-rover,

và điều tôi xin là một chuyện kể rộn ràng từ người bạn đường biết cười,

And quiet sleep and a sweet dream when the long trek’s over’.

Và giấc ngủ êm, mộng đẹp ngọt ngào khi cuộc trường chinh đã khép.”

Sea Fever by John Masefield.

Cơn say biển của John Masefield.

The secluded tree-houses of my youth, the desert dugouts of World War II, long walks along lonely beaches and the periods of study that reached far into the nights in my student days, prepared me for the Path. A year after my illumination which was in May 1951, I went into retreat for a period of three years. I found that isolation in the wilds of Philipi, a hundred square miles of sand dunes and vleis* on the tip of the Cape Peninsula in South Africa.

Những căn nhà cây ẩn dật thuở thiếu thời, các hầm trú sa mạc thời Thế chiến II, những chuyến tản bộ dài dọc các bờ biển vắng và những giai đoạn học tập miệt mài đến tận khuya trong thời sinh viên đã chuẩn bị tôi cho Thánh Đạo. Một năm sau kỳ soi sáng của tôi—vào tháng Năm 1951—tôi vào ẩn tu suốt ba năm. Tôi tìm thấy cô lập nơi hoang dã ở Philipi, vùng rộng một trăm dặm vuông với đồi cát và các vũng nước theo mùa ở chóp Bán đảo mũi Hảo Vọng tại Nam Phi.

*A place where water lies in rainy seasons.

*Một nơi nước đọng vào các mùa mưa.

There, I tuned into nature as a preliminary to attuning myself to the Master . There, ‘I felt the Earth move,’ as Hemingway put it; there, my etheric body became one with the winds and there I was made to learn compassion and turned the weeds of my personality into the orchids of the Higher Self. There, in complete isolation, I discovered a love of healing and a respect for astrology; I also found I could and should teach Ancient Wisdom. There, I learned that intellect was not sufficient, that it could take me to the door but that Love-Wisdom was needed to open it.

Ở đó, tôi hòa điệu với thiên nhiên như bước dạo đầu để hòa điệu với Chân sư. Ở đó, “tôi cảm thấy Trái Đất chuyển động,” như Ông Hemingway nói; ở đó, thể dĩ thái của tôi hòa thành một với gió; và ở đó, tôi được dạy lòng từ bi, chuyển hóa cỏ dại của phàm ngã thành phong lan của Chân ngã. Ở đó, trong cô lập hoàn toàn, tôi khám phá tình yêu đối với trị liệu và lòng kính trọng đối với chiêm tinh học; tôi cũng nhận ra rằng tôi có thể và nên giảng dạy Minh Triết Ngàn Đời. Ở đó, tôi học rằng trí năng là chưa đủ: nó có thể đưa tôi đến ngưỡng cửa nhưng cần Bác Ái – Minh Triết để mở được cánh cửa ấy.

In the profound silence of retreat, I learnt to discriminate between the noises of the blood rushing through the carotid arteries and the gentle pulsations of the causal body. I learnt to mask out tinnitus and to hearken to the ‘voice of the silence’, to withdraw the senses and to turn inwards into esolepsy. There I met with light that cast no shadows and found that time could be manipulated.

Trong tịch mặc sâu thẳm của ẩn tu, tôi học phân biệt giữa tiếng huyết mạch dồn qua các động mạch cảnh và những nhịp đập êm ái của thể nguyên nhân. Tôi học cách lọc nhiễu tiếng ù tai và lắng nghe “tiếng nói của im lặng”, thu liễm các giác quan và quay vào trong, vào trạng thái nội tri. Ở đó, tôi gặp ánh sáng không hề đổ bóng và nhận ra thời gian có thể được uyển chuyển thao tác.

When the eyes are shut and the attention drawn inwards, the brain’s electrical patterns change from beta rhythms into alpha and when the spaces between the alpha waves are at their widest, they may herald the onset of extra-sensory perception. I learnt to hear my brain waves. The alpha waves sounded like the fluttering of dove’s wings and when that fluttering slowed to almost a halt, then time seemed to change. In those periods of time-lag I learnt more, in what must have been a matter of a few seconds than I had learnt in a year of solid study at university.

Khi đôi mắt khép lại và sự chú tâm quy hướng vào trong, các mẫu điện thế của bộ não chuyển từ nhịp beta sang alpha; và khi khoảng cách giữa các làn sóng alpha mở rộng nhất, chúng có thể báo hiệu sự khởi phát của tri giác siêu cảm. Tôi học cách nghe làn sóng não của mình. Sóng alpha nghe như tiếng cánh bồ câu vỗ phấp phới, và khi nhịp phấp phới ấy chậm dần gần như dừng hẳn, thời gian dường như đổi khác. Trong những khoảng trễ thời gian ấy, tôi học được nhiều điều—chỉ trong vài giây, hẳn vậy—nhiều hơn cả một năm học đều đặn ở đại học.

Dharma and Duty—Dharma và Bổn phận

By analogy with the growing child, humanity itself must also learn to undertake responsibilities, to meet the demands of the Lords of Karma and to cooperate with Divine Law. Fortunately, the child does not grow into an adult overnight. His nervous system must finish growing, his emotions must be controlled and the processes of thinking coordinated. At first, the infant has no control over his environment. Later he learns to participate in it, and ultimately, to share in the controlling of it. All this involves long processes of learning, assimilating, self-disciplining and experimentation on a basis of trial and error etc.

Theo phép tương đồng với một đứa trẻ đang lớn, chính nhân loại cũng phải học đảm đương trách nhiệm, đáp ứng những đòi hỏi của các Đấng Chúa Tể Nghiệp quả và hợp tác với Định luật thiêng liêng. May thay, đứa trẻ không trở thành người lớn chỉ sau một đêm. Hệ thần kinh của nó phải phát triển xong, cảm xúc phải được kiểm soát và các tiến trình tư duy phải được điều hợp. Ban đầu, hài nhi không thể làm chủ hoàn cảnh của mình. Sau đó, nó học tham dự vào đó, và sau cùng, cùng chia sẻ việc làm chủ nó. Tất cả bao hàm tiến trình dài lâu của học tập, đồng hóa, tự kỷ luật và thử nghiệm trên nền tảng thử-sai v.v.

Humanity has had to pass through similar stages of synthesis in which Man had little control over the Gunas. The Gunas are three qualities of material manifestation, i.e. Prakriti. These are Rhythm, Activity and Inertia.

Nhân loại đã phải đi qua những giai đoạn hợp nhất tương tự, trong đó Con Người hầu như không làm chủ được các guna. Guna là ba phẩm tính của sự biểu lộ vật chất, tức Prakriti. Đó là Nhịp điệu, Hoạt động và Trì trệ.

Slowly mankind assumes responsibility for the environment and for his own actions. He develops a sense of duty, duty to the family, then duty to the community, and even duty to the nation or state. The greater duty does not excuse him from the lesser. Better to do your own duty, though imperfect, than to attempt the higher dharma of another. If you are careless about this matter and its results, then you will come back again and again to learn the lessons of life through reincarnation. Now we begin to see how essential it is for the young pupil not to become enmeshed in circumstances that mean he must spend the rest of his days resolving them.

Chậm rãi, loài người đảm trách trách nhiệm đối với môi trường và đối với hành vi của chính mình. Con người phát triển ý thức bổn phận: bổn phận với gia đình, rồi bổn phận với cộng đồng, và ngay cả bổn phận với quốc gia hay nhà nước. Bổn phận lớn hơn không miễn trừ y khỏi bổn phận nhỏ hơn. Làm bổn phận của chính mình, dẫu chưa trọn vẹn, vẫn tốt hơn là cố gắng gánh lấy dharma cao hơn của kẻ khác. Nếu y cẩu thả trong việc này và các hệ quả của nó, y sẽ trở lại hết lần này đến lần khác để học các bài học của đời qua luân hồi. Giờ đây chúng ta bắt đầu thấy điều tối yếu: môn sinh trẻ chớ để mình mắc kẹt trong những hoàn cảnh khiến y phải tiêu phí phần đời còn lại để tháo gỡ chúng.

If the domestic scene is something that the pupil must go through and he feels that he must not miss the opportunity for it, then he should get on with it, should adopt the life of the householder and do it well rather than spend the rest of his days pining for it. By the time his children are able to stand on their own feet, he would find himself still young enough to serve the Masters, unburdened by the desire for homely comforts and unencumbered with domestic duties. If he has already become involved in such dharma before treading the Path, he should know that the Soul chose the life for him and that there is something in that dharma essential to his future work on the Path. He should meet his current obligations and be certain not to become involved in any further enmeshment. Some people cannot live without involvements. They feel insecure if they are not surrounded with business or family commitments.

Nếu cảnh đời gia thất là điều môn sinh cần trải qua và y cảm thấy mình không nên bỏ lỡ cơ hội ấy, thì y nên tiến hành, nên chấp nhận đời sống gia chủ và làm cho tốt thay vì tiêu tán phần đời còn lại để ngậm ngùi tiếc nhớ. Đến khi con cái đã có thể tự đứng vững, y sẽ thấy mình vẫn còn đủ trẻ để phụng sự các Chân sư, không còn bị ám ảnh bởi khát vọng tiện nghi gia đình và không còn bị ràng rịt với bổn phận gia thất. Nếu y đã vướng vào thứ dharma như thế trước khi bước lên Thánh Đạo, y nên biết rằng Linh hồn đã chọn đời sống ấy cho y, và trong thứ dharma đó có điều gì thiết yếu cho công việc tương lai của y trên Thánh Đạo. Y nên chu toàn những nghĩa vụ hiện tại của mình và nhất quyết không để sa vào bất kỳ mắc kẹt nào khác nữa. Có những người không thể sống nếu thiếu các ràng buộc. Họ cảm thấy bất an nếu không vây quanh bởi những cam kết công việc hay gia đình.

I once had a dear friend, a lady in late middle age. Her youngest child was a daughter of seventeen years. Seeing how heavily involved our group was at the time, she drew me aside and said that as soon as her children were fully grown, she would assist the group more than she now could. Five years later, revisiting her home town, I met her in the street. I said to her, ‘Now at last you must be free to give your time to “The Work!” ‘ Her face fell. ‘Yes’, she said, ‘but you must wait a little while longer. My daughter is having a baby and I must be with her’. She was so anxious to be involved in family affairs that she didn’t even want her daughter to have her own babies! She was assuming a dharma that did not exist. Man is born free and everywhere he loves to live in chains. Now, I know that many women will find this anecdote harsh on their own attitudes and yes, the author is a man and can’t possibly understand what a mother feels when her daughter is going to have a baby, but as a doctor, I have delivered my fair share of them. As a student of karma and reincarnation for the last forty years, I also know something of the forces at play beyond the level of everyday events. I would say that if the person cannot see that her daughter deserves the karmic rewards of having her own baby, then she is definitely not ready for the Path. In this particular instance, important planetary work was waived on an irrelevance. It was no joy to find, some years later, the mother abandoned in an old-people’s home, her opportunity missed to reduce her own karmic debt through serving in a group.

Tôi từng có một người bạn thân, một phụ nữ ở tuổi trung niên muộn. Đứa con út của Bà là cô con gái mười bảy tuổi. Nhìn thấy nhóm chúng tôi khi đó đang bận bịu đến mức nào, Bà kéo tôi ra một bên và nói rằng, ngay khi các con của Bà đã trưởng thành, Bà sẽ trợ giúp nhóm nhiều hơn so với hiện thời. Năm năm sau, khi về thăm thị trấn của Bà, tôi gặp Bà trên phố. Tôi nói: “Giờ hẳn là cuối cùng Bà đã tự do để dành thời gian cho ‘Công Việc!’” Mặt Bà sầm xuống. “Đúng thế,” Bà nói, “nhưng anh phải đợi thêm chút nữa. Con gái tôi sắp sinh và tôi phải ở bên cháu.” Bà nôn nóng muốn can dự vào việc gia đình đến mức còn chẳng muốn con gái tự sinh con của chính mình! Bà đang ôm lấy một thứ dharma vốn không hề có. Con người sinh ra vốn tự do, và khắp nơi y lại muốn sống trong xiềng xích. Tôi biết rằng nhiều phụ nữ sẽ thấy giai thoại này thiên lệch với thái độ của chính họ; và vâng, tác giả là một người đàn ông, không thể thấu cảm cặn kẽ điều một người mẹ cảm thấy khi con gái sắp sinh; nhưng với tư cách bác sĩ, tôi đã đỡ không ít ca sinh nở. Là một đạo sinh của nghiệp quả và luân hồi suốt bốn mươi năm qua, tôi cũng hiểu phần nào những lực đang tác động vượt trên bình diện các biến cố thường nhật. Tôi sẽ nói rằng nếu người mẹ không thấy con gái mình xứng đáng nhận những quả nghiệp của việc tự mình sinh con, thì người mẹ ấy chắc chắn chưa sẵn sàng cho Thánh Đạo. Trong trường hợp cụ thể này, một công việc hành tinh quan trọng đã bị gác lại vì điều không liên hệ. Thật buồn khi sau vài năm, thấy người mẹ bị bỏ rơi trong viện dưỡng lão, đánh mất cơ hội làm vơi nợ nghiệp của chính mình bằng việc phụng sự trong một nhóm.

We should not forget. that even whilst involved in duty we can take significant action on the Path. This is karma yoga, the yoga of action and the performance of duty. Annie Besant knew what dharma was and met it dutifully despite her heavy involvement in the political and social problems of India:

Chúng ta không nên quên rằng ngay cả khi bận rộn với bổn phận, chúng ta vẫn có thể có những hành động đáng kể trên Thánh Đạo. Đó là karma-yoga, yoga của hành động và của việc chu toàn bổn phận. Bà Annie Besant hiểu dharma là gì và đã chu toàn nó một cách tận tâm dù Bà dấn thân sâu sắc vào các vấn đề chính trị và xã hội của Ấn Độ:

‘Take again love. You may have that in the lower brutal form, the animal passion between the sexes of the very lowest and the poorest kind, which cares nothing for the character of the one for whom the attachment is felt, which cares nothing for the beauty of the mental and of the moral nature; it cares only for the physical beauty, the physical attraction and the physical pleasure. There is passion in its lowest form. Self is sought and only self. That is purified by the man who follows Karma-Yoga into love which sacrifices itself for the one who is loved; he performs family duties, he takes care of wife and child and does his very best for them at the sacrifice of his own inclinations, of his own leisure and his own gratification; he works in order that the family wants may be supplied; in him love no longer seeks only its own pleasure but seeks to help those who are beloved, and to take on itself the evil that threatens them in order that they may be sheltered and spared and guarded; by following Karma-Yoga he purifies his love of its selfish elements, and that which was an animal passion for the other sex, becomes the love of the husband, of the father, of the elder brother, of the relative, who fulfils his duty, working for the sake of the loved and in order that their lives might be fairer and happier. And then comes the last stage, when the love that is purified from self, goes out to all. Not only in the narrow circle of the home does it work, but it sees in everyone whom it meets a person who is to be helped, sees a brother to be fed in every starving man, sees a sister to be protected in every woman who is left forlorn. Finding anyone who is lonely, a man thus purified becomes father and brother and helper to that one, not because he loves personally but because he loves ideally, and because he seeks to give for love’s sake and not even for the gratification of being loved in return. The highest love, the love that grows out of Karma-Yoga asks nothing back in return for what it gives; it seeks no gratitude; it asks for no recognition; it is willing to work unknown; nay, it is more glad to work unknown and unrecognised than to work in a way that brings recognition and that brings praise. And the ultimate purification of love is where that love becomes absolutely divine, where it gives because it is its nature to spread happiness, where it asks nothing for itself but seeks only that others should be glad. And so again with greed and covetousness. Men seek to gain in order that they may have power; they strive to gain in order that they may be lifted up. They purify that first form of greed; and they begin to desire gain that the family may be better off, that the family may be beyond suffering and want and starvation; thus they grow less selfish than before. Then they go further. They desire power in order to use it for good, that they may spread it to do good over a wider area than the family, that they may serve in a wider field than the home; and at last, as in the case with. love, they learn to give without any return. They learn to desire knowledge and power not that they might hold it but that they might give it, not that they might enjoy it but only in order that it might be spread. And in this way, selfishness is burned up.’

“Hãy lại xét đến tình thương. Anh có thể có nó dưới dạng thấp hèn, cái dục tính thú vật giữa hai phái ở dạng thấp kém nhất và nghèo nàn nhất, chẳng hề để ý đến Tính cách của người mà mình gắn bó, chẳng hề quan tâm đến vẻ đẹp của bản tính trí và đức; nó chỉ bận tâm đến vẻ đẹp thể xác, hấp lực thể xác và khoái thú thể xác. Ấy là dục vọng trong dạng thấp nhất. Cái Tôi được kiếm tìm, và chỉ là cái Tôi. Điều đó được tịnh hóa bởi người theo Karma-Yoga, để trở thành tình yêu hi sinh cho người mình yêu; người ấy chu toàn bổn phận gia đình, chăm sóc vợ con và làm điều tốt nhất cho họ bằng cái giá phải hy sinh thiên hướng của chính mình, thời giờ nhàn rỗi của chính mình và sự thỏa mãn của chính mình; y lao động để gia đình được thỏa các nhu cầu; nơi y, tình thương không còn chỉ đi tìm khoái lạc riêng nữa mà tìm cách giúp đỡ những người mình yêu, và tự mình gánh lấy điều dữ đe dọa họ để họ được che chở, được miễn trừ và được bảo toàn; bằng việc theo Karma-Yoga, y tịnh hóa tình thương khỏi các yếu tố vị kỷ của nó, và cái vốn chỉ là dục tính thú vật đối với phái kia trở thành tình yêu của người chồng, của người cha, của người anh, của thân quyến, người chu toàn bổn phận, làm việc vì những người mình yêu và để đời họ trở nên đẹp đẽ hơn và hạnh phúc hơn. Rồi đến giai đoạn cuối, khi tình yêu được tịnh hóa khỏi cái tôi, nó tỏa ra cho tất cả. Không chỉ trong vòng tròn hẹp của gia đình nó mới hoạt dụng, mà nó thấy trong mọi người nó gặp một người cần được giúp đỡ, thấy một người huynh đệ cần được nuôi dưỡng trong mỗi người đang đói, thấy một người chị em cần được che chở trong mỗi phụ nữ bị bỏ rơi bơ vơ. Khi gặp một ai đó cô độc, một người như thế—đã được tịnh hóa—trở thành cha, thành anh, thành người trợ giúp cho người ấy, không phải vì y yêu riêng tư, mà vì y yêu theo lý tưởng, và bởi y tìm cách hiến tặng vì tình yêu chứ chẳng phải vì khoái cảm được yêu đáp lại. Tình yêu cao nhất, tình yêu lớn lên từ Karma-Yoga, không đòi lại điều gì để đổi lấy những gì nó trao; nó không tìm lòng biết ơn; nó không đòi sự ghi nhận; nó sẵn lòng làm việc trong vô danh; đúng hơn, nó còn hoan hỉ hơn khi được làm việc trong vô danh và không được ghi nhận, hơn là làm theo cách mang đến sự ghi nhận và những lời khen. Và sự tịnh hóa tối hậu của tình yêu là khi tình yêu ấy trở nên hoàn toàn thiêng liêng, khi nó hiến tặng vì bản tính của nó là gieo rắc hạnh phúc, khi nó không đòi hỏi gì cho riêng mình mà chỉ mong những người khác được vui. Và cũng thế với lòng tham và sự hám lợi. Con người tìm cách thu gom để có quyền lực; họ phấn đấu để được cất nhắc. Họ tịnh hóa dạng đầu tiên của lòng tham ấy; và họ bắt đầu khao khát lợi lộc để gia đình được khá hơn, để gia đình vượt khỏi đau khổ, thiếu thốn và đói khát; như vậy, họ bớt vị kỷ hơn trước. Rồi họ đi xa hơn. Họ khao khát quyền lực để sử dụng cho điều thiện, để có thể rải truyền điều thiện trên một bình diện rộng hơn gia đình, để có thể phụng sự trong một cánh đồng rộng hơn mái nhà; và cuối cùng, như trong trường hợp của tình yêu, họ học cách hiến tặng mà không mong nhận lại điều gì. Họ học khao khát tri thức và quyền lực không phải để giữ lấy, mà để trao đi; không phải để hưởng thụ, mà chỉ để nó được phổ truyền. Và theo cách ấy, tính vị kỷ bị thiêu rụi.”

Dharma is not necessarily decided for you by man-made laws but it certainly is related to natural laws and I have treated of the difference elsewhere in these pages. Frequently there is bondage, perhaps related to a youth-marriage which is childless and which does not hold water in terms of dharma. Sometimes there is loyalty to a business organisation, or to a country whose principles lie outside the realm of right motive or natural law. Where there are questionable or unethical circumstances then the pupil must appeal to his higher nature in meditation for guidance as to the validity of the dharma. Certainly no Master encourages the irresponsible severing of a ‘Pupil’ from his dharmic commitments.

Dharma không nhất thiết do các luật do con người đặt ra quyết định cho anh, nhưng chắc chắn có liên đới với các định luật tự nhiên và tôi đã bàn đến sự khác biệt ấy ở chỗ khác trong những trang này. Nhiều khi có sự trói buộc, có thể liên quan đến một cuộc hôn nhân tảo hôn không con và không đứng vững về mặt dharma. Đôi khi có sự trung thành với một tổ chức kinh doanh, hoặc với một quốc gia có các nguyên tắc nằm ngoài phạm vi của động cơ đúng đắn hoặc định luật tự nhiên. Khi có những hoàn cảnh khả nghi hay phi đạo đức, môn sinh phải kêu cầu bản tính cao của mình trong tham thiền để được dẫn dắt về tính chính đáng của thứ dharma ấy. Chắc chắn không một Chân sư nào khuyến khích việc cắt đứt vô trách nhiệm một “Môn sinh” khỏi các cam kết thuộc dharma của y.

There are two essentials required of the disciple before he can be given work of the most important kind by the Master:

Có hai điều thiết yếu được đòi hỏi nơi người đệ tử trước khi y có thể được Chân sư giao cho công việc ở mức quan trọng nhất:

(i) The pupil must be free and (ii) he must be equipped.

(i) Môn sinh phải tự do và (ii) y phải được trang bị.

Masters do not stand in queues for the affection of the pupil. They wait patiently for him to resolve his dharma, to become absolutely free to serve. They also, from Their ashrams encourage the pupil to equip himself, spiritually, physically, mentally and emotionally for the work They have set aside for him. English mysticism is filled with allusions to these two requirements. Probably the most famous is the half-historical and half-mythical references to King Arthur and his sword Excalibur. These are thinly veiled symbols of a Master and His instrument, the Pupil. Excalibur was originally embedded in a stone and only Arthur could free it. The pupil is, at first, embedded in his circumstances, dharmic and karmic and indeed, few can be extracted from such attachments to perform a life of service. Eventually the time comes when, with some assistance and direction from the Master, the pupil alters his way of life significantly enough for the Master to make the final effort of extracting him from his circumstances into a life of service to the Plan and to Humanity. Even then, free as the pupil is, he must yet sharpen himself like the two-bladed Excalibur for use both in the inner and outer worlds, the world of materialism and the astral jungles that first confront the novitiate.

Các Chân sư không đứng xếp hàng để mong mỏi được môn sinh yêu mến. Các Ngài kiên nhẫn chờ y giải quyết xong dharma của mình, trở nên tuyệt đối tự do để phụng sự. Đồng thời, từ các huyền viện của Các Ngài, Các Ngài khích lệ môn sinh tự trang bị cho mình—về tinh thần, thể xác, trí tuệ và cảm xúc—cho công việc Các Ngài đã dành sẵn cho y. Thần bí học Anh tràn đầy những ám dụ về hai yêu cầu này. Có lẽ nổi tiếng nhất là các ám chỉ nửa lịch sử, nửa huyền thoại về Vua Arthur và thanh gươm Excalibur. Đây là những biểu tượng được che đậy mỏng manh về một Chân sư và khí cụ của Ngài—môn sinh. Excalibur vốn bị cắm trong tảng đá và chỉ Arthur mới rút được nó. Ban đầu, môn sinh bị cắm trong hoàn cảnh của y—về dharma và nghiệp quả—và quả thật, ít ai có thể được “rút” ra khỏi những gắn chấp ấy để thực hiện đời phụng sự. Rốt cục, thời điểm đến khi, với một ít trợ lực và chỉ giáo từ Chân sư, môn sinh đủ thay đổi cách sống của mình—đủ sâu sắc—để Chân sư có thể thực hiện nỗ lực sau cùng nhổ y khỏi hoàn cảnh vào một đời phụng sự Thiên Cơ và phục vụ Nhân loại. Dẫu khi ấy môn sinh đã tự do, y vẫn phải tự mài sắc mình như thanh gươm hai lưỡi Excalibur để sử dụng cả ở nội giới lẫn ngoại giới—thế giới của duy vật và những khu rừng rậm cảm dục đầu tiên chực chờ trước mặt người mới nhập đạo.

When he is both free and equipped—psychologically, materially and spiritually—the Master is able to put him on probation and let him share in some portion of the Plan. Usually, the very difficulties placed in the pupil’s path provide him with just the experiences needed for the spiritual work he has chosen to do in this life. Extracting himself from involvements, releasing himself from concretised attitudes, resolving his dharma, creating good karma, maintaining malleability, etc., may be hard tasks for anyone but they are ones which free and equip as no others can.

Khi y vừa tự do vừa được trang bị—về tâm lý, vật chất và tinh thần—Chân sư có thể đặt y vào giai đoạn dự bị và để y chia phần trong một phần của Thiên Cơ. Thông thường, chính những khó khăn đặt trước chân môn sinh lại cung cấp cho y những kinh nghiệm đúng mức cần thiết cho công việc tinh thần mà y đã chọn làm trong kiếp này. Tự kéo mình ra khỏi các dính mắc, giải phóng mình khỏi các thái độ bị đông cứng, giải quyết dharma của mình, tạo nên nghiệp lành, duy trì tính linh hoạt, v.v. , có thể là những nhiệm vụ khó nhọc cho bất kỳ ai, nhưng chính chúng là những gì giải phóng và trang bị y như không gì khác có thể.

Chronic Absence of Will—Tình trạng Thiếu Ý chí Mạn tính

The urge of the Soul to incarnate is part of the Will-to-Be of that infinitely greater Being, the planetary Logos. Life in a physical body is, for the soul, a karmic necessity, a necessity which is met cyclically. The monad gains, through the Soul’s involvement in a physical form, spiritual staying power. Staying power implies sustained will and determination. —

Xung lực của Linh hồn hướng đến nhập thể là một phần của Ý Chí-Tồn Tại của Đấng Vĩ Đại vô lượng, Hành Tinh Thượng đế. Đối với linh hồn, đời sống trong một thể xác là một tất yếu nghiệp quả, một tất yếu được đáp ứng một cách chu kỳ. Chân thần gặt hái—thông qua sự can dự của Linh hồn vào một hình tướng hồng trần—năng lực trụ vững tinh thần. Năng lực trụ vững hàm ý ý chí bền bỉ và quyết tâm.

After a long period of rest, the Soul presses downwards into the mental, astral and physico-etheric planes, stimulating first its permanent atoms on those planes and then, attracting through them, the materials out of which its sheaths of matter will be constructed.

Sau một khoảng nghỉ dài, Linh hồn ép xuống các cõi trí, cảm dục và hồng trần–dĩ thái, trước hết kích thích các Nguyên tử trường tồn trên những cõi ấy, rồi qua chúng, thu hút các chất liệu để cấu tạo nên các vỏ chất của mình.

The urge to incarnate is repeatedly satisfied as personality after personality is assumed and discarded. All the time, the soul garners qualities from these experiences which, in terms of their atmic, buddhic and manasic qualities will bring staying power to the overshadowing monad. It is not so much through the incarnating process that this spiritual staying power is gained but rather in the process of extraction or of disengagement from the lower triad of bodies that the quality is won. When the cycle ends the soul goes into a state of withdrawal, brooding over its experiences, consolidating them and resting in preparation for the resurgence that follows.

Xung lực nhập thể được thỏa mãn lặp đi lặp lại khi hết phàm ngã này đến phàm ngã khác được khoác lấy rồi lại cởi bỏ. Trong suốt thời gian đó, linh hồn gạn lọc các phẩm tính từ những kinh nghiệm ấy mà—về phương diện atma, Bồ đề và manas của chúng—sẽ mang năng lực trụ vững về tinh thần cho Chân thần phủ bóng. Không phải quá trình nhập thể mang lại năng lực trụ vững tinh thần này cho bằng quá trình “rút ra” hay “thoát ly” khỏi hạ tam nguyên của các thể mà phẩm tính ấy được thủ đắc. Khi chu kỳ khép lại, linh hồn đi vào trạng thái thoái lui, ấp ủ các kinh nghiệm, hợp nhất chúng và nghỉ ngơi để chuẩn bị cho đợt trỗi dậy tiếp theo.

This oscillation, both ways, into and out of involvement in material form may be seen as a sine wave with the downward thrust of the curve depicting the increasing potency of the urge to incarnate. The upward movement of each curve would, correspondingly, depict the waning of the expression of the will-to-be. Thus all men reflect outwardly, in their behaviour, something of these Soul-urges. Generally, incarnations assumed in the downward sweep are ones in which Will Rays predominate in the personalities. In the trough or nadir of the sine wave, there are lives in which there is a balance between the complement of Love and those of Will Rays. In the upward sweep of the curve, Love Rays predominate in the personalities assumed. A life in which there is ‘abulia,’ an absence of will-power is generally experienced at the summit of this curve immediately prior to the soul’s withdrawal into a long period of pralaya.

Sự dao động—cả hai chiều—vào và ra khỏi sự can dự trong hình tướng vật chất có thể được thấy như một làn sóng sin, với cú chúc xuống của đường cong biểu thị sức mạnh tăng dần của xung lực nhập thể. Phần cong đi lên tương ứng biểu thị sự suy giảm biểu lộ của ý-chí-tồn-tại. Vì thế, mọi người đều phản chiếu ra bên ngoài, trong hành vi của mình, điều gì đó từ các xung lực của Linh hồn. Nói chung, những kiếp đảm nhiệm trong pha đi xuống là những kiếp mà các Cung của Ý Chí chi phối phàm ngã. Ở đáy sóng—điểm thấp nhất—là những đời có sự quân bình giữa thành tố Bác Ái và các Cung của Ý Chí. Trên đà đi lên của đường cong, các Cung của Bác Ái chi phối phàm ngã được khoác lấy. Một đời có “abulia”—vắng ý chí—thường được trải nghiệm ở đỉnh sóng ngay trước khi linh hồn thoái lui vào một kỳ Giai kỳ qui nguyên kéo dài.

We write here, of pralaya, in the sense of the soul being out of manifestation but it includes, in fact, the period spent in devachan, represented by the crest of the waves. Devachan is not the heaven world which is associated with the Earth. In those who possess perfectly normal physical bodies and in whom karma is not particularly malevolent or active, there is a life of inactivity. This would show not only as lack of interest in a career, marriage, ambition etc., but it can demonstrate more diffusely in lack of any sort of drive. Thoughts may enter the mind but they lose the name of action. It is almost as if the incarnee is in a state of shock. There is desire to contact the environment but a paralysis of action.

Ở đây, chúng ta nói về Giai kỳ qui nguyên theo nghĩa linh hồn lìa khỏi biểu lộ, nhưng thực ra nó bao gồm cả khoảng thời gian ở Devachan, được biểu trưng bằng các đỉnh sóng. Devachan không phải là cõi thiên của Trái Đất. Ở những kẻ có thể xác hoàn toàn bình thường và nơi đó nghiệp quả không quá ác liệt hay năng động, có thể có một đời sống bất hoạt. Điều này không chỉ hiện ra như thiếu hứng thú với sự nghiệp, hôn nhân, hoài bão v.v. mà còn có thể biểu lộ tản mạn hơn dưới dạng thiếu vắng bất kỳ xung động thúc đẩy nào. Tư tưởng có thể đi vào tâm trí nhưng đánh mất tên gọi hành động. Gần như người nhập thế đang ở trạng thái choáng. Có khao khát tiếp xúc môi trường nhưng hành động tê liệt.

Whilst it is certain that schizophrenia has a genetic background to it, in that stress cannot be endured to any great extent through physical disabilities endowed by a dominant gene, many sufferers of the condition would escape outward signs of the disease if it were not for the fact that the incarnation has almost reached the crest of the withdrawal part of the sine wave. Here, the lack of Will energies, especially those of atma—which have a special affinity for the physical body and particularly for the brain mechanism itself—allows the vehicles of consciousness to become too loosely connected. The energies of the personality are too facile. They quickly energise any thought form, and so, distract with it, the awareness of the schizophrenic into elements of the unreal. The will-to-be is not strong; the bodies are loosely combined and the splitting of personality is easy.

Mặc dù chắc chắn tâm thần phân liệt có nền tảng di truyền—nơi đó căng thẳng không thể chịu đựng được nhiều do các khiếm khuyết thể chất do một gen trội—nhiều người mắc chứng này hẳn đã thoát được biểu hiện ra ngoài của bệnh nếu không vì lý do là kiếp sống hiện tại gần như đã đến đỉnh của nửa chu kỳ thoái lui của làn sóng sin. Ở đây, sự thiếu vắng các năng lượng Ý Chí—đặc biệt là của atma, vốn có mối thân ứng đặc biệt với thể xác và nhất là với cơ cấu não bộ—khiến các vận cụ của tâm thức kết nối quá lỏng lẻo. Những năng lượng của phàm ngã quá dễ dãi: chúng nhanh chóng làm sinh động bất kỳ hình tư tưởng nào, và như thế lôi kéo sự chú tâm của người phân liệt vào các yếu tố phi thực. Ý-chí-tồn-tại không mạnh; các thể phối kết lỏng lẻo và sự phân rã của phàm ngã trở nên dễ dàng.

In the early years of of life ‘on the Path’, the tendency to withdraw all interest from the tangible, the so-called world of reality, grows apace and unless the personality is carefully disciplined along the lines of classical esoteric instruction, instability may result. ‘Keeping both feet on the ground’ is good advice to all pupils but most especially to those who suffer from ‘hypobulia’, the diminishment of the will-to-be.

Trong những năm đầu của đời sống “trên Thánh Đạo”, khuynh hướng rút hết hứng thú khỏi cái hữu hình—cái gọi là thế giới “hiện thực”—tăng nhanh; và nếu phàm ngã không được rèn kỷ luật cẩn trọng theo đường hướng giáo huấn nội môn cổ điển, có thể dẫn đến bất ổn. “Giữ cả hai chân trên mặt đất” là lời khuyên tốt cho mọi môn sinh, nhưng nhất là cho những ai mắc chứng “hypobulia”, tức suy giảm ý-chí-tồn-tại.

The Diagram below shows, by method of a sine wave, a series of lives for average man. For him, each life is separated by approximately 700 to 1100 years* depending on whether it is a life predominantly on the Will Rays or one on the Love Rays. Arrows pointing downwards represent the former and those directed upwards represent the latter. The heaven world occupies the space between lives but after a series of lives there would be a period in devachan shown in the crests above the diagram’s horizontal line that demarcates pralaya from manifestation in a physical body.

Sơ đồ dưới đây minh họa—bằng phương pháp đường sóng sin—một chuỗi đời sống của người trung bình. Đối với y, mỗi đời cách nhau khoảng từ 700 đến 1100 năm*, tùy thuộc đó là một kiếp chủ yếu thuộc các Cung của Ý Chí hay một kiếp thuộc các Cung của Bác Ái. Mũi tên chỉ xuống biểu thị nhóm thứ nhất và mũi tên chỉ lên biểu thị nhóm thứ hai. Cõi thiên nằm trong khoảng giữa các đời; nhưng sau một chuỗi đời sẽ có một thời kỳ ở Devachan, được thể hiện ở những đỉnh sóng trên đường ngang của sơ đồ—đường phân định Giai kỳ qui nguyên với sự biểu lộ trong một thể xác.

*These two figures have been greatly reduced from their traditional estimates shown here, due to the rapid rise of population in the world.

*Hai con số này đã được giảm mạnh so với các ước tính truyền thống được nêu ở đây, do sự gia tăng dân số nhanh chóng trên thế giới.

00009.jpeg
—[hình]

It is appropriate here to consider the nature of devachan as described in The Mahatma Letters to A. P. Sinnet:

Thật thích hợp ở đây khi xét bản tính của Devachan như được mô tả trong Các Bức Thư của Chân sư gửi A. P. Sinnett :

‘The Devachan, or land of ‘Sukhavati,’ is allegorically described by our Lord Buddha himself. What he said may be found in the Shan-Mun-Yik-Tung. Says Tathagata:-

“Devachan, hay miền ‘Sukhavati’, đã được chính Đức Phật của chúng ta mô tả bằng lối ẩn dụ. Những gì Ngài nói có thể tìm thấy trong Shan-Mun-Yik-Tung. Đức Như Lai phán:—

“Many thousand myriads of systems of worlds beyond this—ours—there is a region of Bliss called Sukhavati … This region is encircled with seven rows of railings, seven rows of vast curtains, seven rows of waving trees; this holy abode of Arahats is governed by the Tathagatas—Dyhan Chohans—and is possessed by the Buddhisatwas. It hath seven precious lakes, in the midst of which flow crystaline waters having “seven and one 2 properties, or distinctive qualities – 7 principles emanating from the One—This, O Sariputra is the “Devachan”. Its divine Udumbara flower casts a root in the shadow of every earth, and blossoms for all those who reach it. Those born in the precious region are truly felicitous, there are no more griefs or sorrows in that cycle for them … Myriads of spirits—Lha—resort there for rest and then return to their own regions. Again, O Sariputtam in that land of joy many who are born in that are Avaivartyas … “ etc.

‘Hàng nghìn muôn hệ thống thế giới vượt ngoài thế giới này—của chúng ta—có một miền Cực Lạc gọi là Sukhavati … Miền này được bao quanh bởi bảy hàng lan can, bảy hàng trướng màn mênh mông, bảy hàng cây xao động; nơi an trú thánh thiện của các A-la-hán này do chư Tathagata—các Dhyan Chohan—quản trị và là nơi sở hữu của các Bồ tát. Ở đó có bảy hồ báu, giữa các hồ ấy chảy những làn nước pha lê có ‘bảy và một 2 thuộc tính, hay các phẩm tính phân biệt—bảy nguyên lý xuất lộ từ Đơn Nhất—Đây, này Xá Lợi Phất, là “Devachan”. Hoa Ưu đàm thiêng liêng của nó gieo rễ trong bóng mát của mọi địa cầu, và nở cho tất cả những ai đạt đến nó. Những kẻ sinh vào miền quý báu đó thật sự hạnh phúc; không còn sầu não hay khổ đau nào nữa trong chu kỳ ấy cho họ … Hàng muôn vạn linh thể—Lha—đến đó để nghỉ ngơi rồi lại trở về miền riêng của họ. Lại nữa, này Xá Lợi Phất, trong miền vui sướng ấy, nhiều người sinh vào đó là các Avaivartya … ‘ v.v.

‘Certainly the new Ego, once it is reborn, retains for a certain time, proportionate to its Earth-life, a complete recollection of his life on Earth. But it can never return on Earth, from the Devachan, nor has the latter, even omitting all anthropomorphic ideas of God, any resemblance to the paradise or heaven of any religion, and it is H. P. B.‘s literary fancy that suggested to her the wonderful comparison.

“Chắc chắn tân Ngã, một khi được tái sinh, sẽ giữ lại trong một thời gian—tương ứng với đời sống trần gian của y—trí nhớ hoàn toàn về kiếp sống trên Địa cầu. Nhưng y không thể trở lại Địa cầu từ Devachan, và nơi sau, ngay cả nếu bỏ qua mọi ý tưởng nhân hình về Thượng đế, cũng chẳng có điểm tương đồng nào với thiên đường hay cõi trời của bất kỳ tôn giáo nào; và chính trí tưởng tượng văn chương của Bà H. P. B. đã gợi ý cho Bà phép so sánh tuyệt diệu ấy.

Now the question of importance is who goes to Heaven, or Devachan? Is this condition only attained by the few who are very good, or by the many who are not very bad, after the lapse in their case of a longer unconscious incubation or gestation?’

“Giờ câu hỏi quan trọng là: ai đi về Thiên đường, hay Devachan? Trạng thái này chỉ đạt được bởi số ít rất thiện, hay bởi số đông không quá ác, sau khi—trong trường hợp của họ—trải qua một giai đoạn ủ thai vô thức dài hơn?”

The diagram below shows the changes that occur in the Laws governing reincarnation with regard to the Pupil and the Initiate. A long period in Devachan heralds a run of lives which are in quick succession. The pupil has been given a share of the Plan. He uses both Will and Love Rays to execute it and returns again and again until the cycle of manifestation ends with a pralaya and a return to Devachan or to the climax of initiation and Masterdom.

Sơ đồ dưới cho thấy những thay đổi xảy ra trong các Định luật chi phối luân hồi liên quan tới Môn sinh và Điểm đạo đồ. Một thời kỳ dài ở Devachan báo hiệu một chuỗi kiếp đến nhanh liên tiếp. Môn sinh đã được chia phần Thiên Cơ. Y sử dụng cả các Cung của Ý Chí lẫn của Bác Ái để thi hành nó và quay lại hết lần này đến lần khác cho đến khi chu kỳ biểu lộ kết thúc trong một Giai kỳ qui nguyên và trở về Devachan, hoặc đi đến cực điểm của điểm đạo và đạt địa vị Chân sư.

00017.jpeg
—[hình]

’Who goes to Devachan?’ The personal Ego of course, but beatified, purified, holy. Every Ego, the combination of the sixth and seventh principles, which, after the period of unconscious gestation is reborn into the Devachan, is of necessity as innocent and pure as a new-born babe. The fact of his being reborn at all, shows the preponderance of good over evil in his old personality. And while the karma—of evil—steps aside for the time being to follow him to his future earth-reincarnation, he brings along with him but the Karma of his good deeds, words and thoughts, into this Devachan. ‘Bad’ is a relative term for us, as you were told more than once before, and the Law of Retribution, is the only law that never errs. Hence, all those who have not slipped down into the mire of unredeemable sin and bestiality, go to the Devachan. They will have to pay for their sins, voluntary and involuntary, later on. Meanwhile they are rewarded; receive the effects of the causes produced by them.

“Ai đi về Devachan?” Dĩ nhiên là Phàm ngã, nhưng đã được phong thánh, được tịnh hóa, trở nên thánh thiện. Mọi Ngã—tổ hợp của nguyên khí thứ sáu và thứ bảy—sau thời kỳ ủ thai vô thức được tái sinh vào Devachan—ắt hẳn trong trắng và tinh tuyền như một trẻ sơ sinh. Việc y được tái sinh—tự thân điều đó—cho thấy thiện thắng hơn ác trong phàm ngã cũ của y. Và trong khi nghiệp—của ác—tạm lui sang một bên để dõi theo y đến lần tái sinh trần gian sau này, y mang theo vào Devachan chỉ Nghiệp của những hành động, ngôn từ và tư tưởng thiện lành của y. ‘Ác’ là một thuật ngữ tương đối đối với chúng tôi, như anh đã được nói không chỉ một lần trước đây; và Định luật Báo Ứng là định luật duy nhất không bao giờ sai chạy. Vậy nên, tất cả những ai chưa trượt xuống bùn lầy của tội không thể chuộc và thú tính thì sẽ đi vào Devachan. Họ sẽ phải trả giá cho những tội lỗi—cố ý và vô tình—về sau. Còn lúc này, họ được thưởng—đón nhận các hiệu ứng của những nhân do chính họ tạo tác.

‘Of course it is a state, one, so to say, of intense selfishness, during which an Ego reaps the reward of his unselfishness on earth. He is completely engrossed in the bliss of all his personal earthly affections, preferences and thoughts, and gathers in the fruits of his meritorious actions. No pain, no grief nor even the shadow of a sorrow comes to darken the bright horizon of his unalloyed happiness: for, it is a state of perpetual Maya … Since the conscious perception of one’s personality on earth is but an evanescent dream, that sense will be equally that of a dream in the Devachan … only a hundredfold intensified. So much so, indeed, that the happy Ego is unable to see through the veil, the evils, sorrows and woes to which those it loved on earth may be subjected. It lives in that sweet dream with its loved ones … whether gone before, or yet remaining on earth; it has them near itself, as happy, as blissful and as innocent as the disembodied dreamer himself; and yet, apart from rare visions, the denizens of our gross planet feel it not. It is in this, during such a condition of complete Maya that the Souls or astral Egos of pure, loving sensitives, labouring under the same illusion, think their loved ones come down to them on earth, while it is their own Spirits that are raised towards those in Devachan. Many of the subjective spiritual communications, most of them when the sensitives are pure-minded, are real; but it is most difficult for the uninitiated medium to fix in his mind the true and correct pictures of what he sees and hears. Some of the phenomena called psychography—though more rarely—are also real. The spirit of the sensitive getting odylised, so to say, by the aura of the Spirit in the Devachan, becomes for a few minutes that departed personality, and writes in the handwriting of the latter, in his language and in his thoughts as they were during his lifetime. The two spirits become blended in one, and, the preponderance of one over the other during such phenomena determines the preponderance of personality in the characteristics exhibited in such writings, and trance speaking. What you call rapport is in plain fact an identity of molecular vibration between the astral part of the incarnate medium and the astral part of the discarnate personality. As in music, two different sounds may be in accord and separately distinguishable and this harmony or discord depends on the synchronous vibrations and complementary periods; so there is rapport between medium and ‘control’ when their astral molecules move in accord. And the question as to whether the communication shall reflect more of the one idiosyncrasy, or the other, is determined by the relative intensity of the two sets of vibrations in the compound wave of Akasha. The less identical the vibratory impulses the more mediumistic and less spiritual will be the message. So then, measure your medium’s moral state by that of the alleged controlling Intelligence, and your tests of genuineness leave nothing to be desired.

“Dĩ nhiên, đó là một trạng thái—có thể nói là—của lòng vị kỷ mãnh liệt, trong đó một Ngã gặt hái phần thưởng cho lòng vô kỷ của y khi ở thế gian. Y hoàn toàn bị cuốn vào phúc lạc của mọi ái luyến, ưu ái và tư tưởng trần gian của riêng y, và thu hoạch các hoa trái của những hành động công đức. Không nỗi đau, không sầu não, thậm chí không một chiếc bóng của buồn thương đến làm tối đường chân trời rạng rỡ của hạnh phúc không pha tạp: bởi, đó là một trạng thái của Maya thường hằng … Vì tri giác có ý thức về cái nhân cách trần thế chỉ là một giấc mộng phù du, nên cảm thức ấy cũng sẽ là một giấc mộng ở Devachan … chỉ là được tăng bội gấp trăm lần. Đến nỗi, Ngã hạnh phúc ấy không thể nhìn xuyên bức màn để thấy những khổ lụy, sầu não và tai ương mà những kẻ y yêu nơi trần gian có thể đang gánh chịu. Y sống trong giấc mộng ngọt ngào ấy với những người thân yêu … dù họ đã ra đi trước, hay còn ở lại trần gian; y giữ họ kề cận, hạnh phúc, phúc lạc và trong trắng như chính hồn mơ lìa xác ấy; vậy mà, trừ vài linh ảnh hiếm hoi, cư dân của trái đất thô trọc này không cảm được điều ấy. Chính trong trạng thái hoàn toàn Maya này mà Linh hồn hay Phàm ngã vía của những người nhạy cảm trong sạch, khi cũng bị cuốn theo ảo tưởng tương tự, tưởng rằng người thân yêu của họ từ trời xuống thăm mình, trong khi thực tế là Linh của họ được nâng lên hướng về những người ở Devachan. Nhiều sự giao cảm tinh thần mang tính chủ quan—đa phần trong số đó là thật khi những người nhạy cảm giữ tâm hồn trong sạch—nhưng vô cùng khó cho đồng tử chưa nhập môn có thể cố định trong tâm trí mình những bức tranh chân thực và đúng đắn về những gì y thấy và nghe. Một vài hiện tượng gọi là bút cơ—dù hiếm hơn—cũng là thật. Linh của người nhạy cảm—có thể nói—bị thấm nhuần bởi hào quang của Linh ở Devachan, trở thành—trong vài phút—chính nhân cách đã khuất ấy, và viết bằng nét chữ của người kia, bằng ngôn ngữ và tư tưởng như khi còn sinh tiền. Hai linh thể hòa thành một, và sự trội hơn của một bên so với bên kia trong những hiện tượng như thế sẽ quyết định sự trội hơn của nhân cách tương ứng nơi các đặc trưng biểu lộ trong những bài viết và lời nói xuất thần. Điều các anh gọi là “rapports” trên thực tế là sự đồng nhất của rung động phân tử giữa phần vía của đồng tử đang nhập thế và phần vía của nhân cách ly trần. Như trong âm nhạc, hai âm khác nhau có thể hòa hợp và vẫn phân biệt riêng rẽ; và sự hòa hay nghịch tùy thuộc các rung động đồng bộ và chu kỳ bổ sung; thì cũng vậy, có sự hòa hợp giữa đồng tử và “vị kiểm soát” khi các phân tử vía của họ chuyển động hài hòa. Và câu hỏi liệu thông điệp sẽ phản ánh cá tính của người nào nhiều hơn—bên này hay bên kia—được quyết định bởi cường độ tương đối của hai tập hợp rung động trong làn sóng tổng hợp của Akasha. Các xung động rung động càng kém đồng nhất thì thông điệp càng nặng tính đồng tử và càng ít tính tinh thần. Vậy thì, hãy đo lường trạng thái đạo đức của đồng tử bằng trạng thái của Trí tuệ kiểm soát được cho là đang điều khiển, và rồi các phép thử về tính chân thực của các anh sẽ không còn gì để mong mỏi hơn.

‘There are great varieties in the Devachanic states. As many varieties of bliss as there are on earth, there are shades of perception and of capability to appreciate such reward. It is an ideated paradise, in each case of the Ego’s own making, and by him filled with the scenery, crowded with the incidents, and thronged with the people he would expect to find in such a sphere of compensative bliss. And it is that variety which guides the temporary personal Ego into the current which will lead him to be reborn in a lower or higher condition in the next world of causes. Everything is so harmoniously adjusted in nature—especially in the subjective world, that no mistake can be committed by the Tathagatas, or Dhyan Chohans, who guide the impulses.

“Có những dị biệt lớn trong các trạng thái Devachan. Nhiều bậc phúc lạc như có trên trần thế, thì cũng có nhiều sắc thái tri nhận và năng lực thưởng thức phần thưởng như vậy ở đó. Nó là một thiên đường do tư tưởng kiến trúc nên, trong mỗi trường hợp, bởi chính Ngã cá nhân, và được y lấp đầy bằng phong cảnh, nhồi kín các biến cố, chen chúc những người mà y mong đợi sẽ gặp trong một cõi phúc đền bù như thế. Và chính dị biệt ấy dẫn dắt Phàm ngã tạm thời vào dòng chảy sẽ đưa y tái sinh vào điều kiện thấp hơn hay cao hơn trong “thế giới của các nhân” kế tiếp. Mọi sự được điều hợp hài hòa đến thế trong thiên nhiên—nhất là trong thế giới chủ quan—đến mức không thể có sai lầm nào do các Tathagata, hay các Dhyan Chohan, những Đấng hướng dẫn các xung lực, gây ra.

‘On the face of the idea, a purely spiritual state would only be enjoyable to the entities highly spiritualised in this life. But there are myriads of very good people—morally—who are not spiritualised at all. How can they be fitted to pass, with their recollections of this life from a material to a spiritual condition of existence?

“Xét trên bề mặt ý niệm, một trạng thái thuần túy tinh thần chỉ có thể hoan dụng đối với những thực thể đạt mức tinh thần hóa cao trong đời này. Nhưng có muôn vàn người rất tốt—về mặt đạo đức—mà lại không hề được tinh thần hóa. Làm sao họ có thể thích nghi để chuyển, cùng với ký ức đời này, từ một điều kiện tồn tại vật chất sang một điều kiện tồn tại tinh thần?

‘It is a spiritual condition only as contrasted with our own grossly ‘material condition’, and, as already stated, it is such degrees of spirituality that constitute and determine the great varieties of conditions within the limits of Devachan. A mother from a savage tribe is not less happy than a mother from a regal palace, with her lost child in her arms; and although as actual Egos, children prematurely dying before the perfection of their septenary Entity, do not find their way to Devachan, yet all the same, the mother’s loving fancy finds her children there, without one missing that her heart yearns for. Say—it is but a dream, but after all what is objective life itself but a panorama of vivid unrealities? The pleasures realised by a Red Indian in his happy hunting grounds in that Land of Dreams is not less intense than the ecstasy by a connoisseur who passes aeons in the rapt delight of listening to divine Symphonies by imaginary angelic choirs and orchestras. As it is no fault of the former, being born a savage with an instinct to kill—though it caused the death of many an innocent animal—why, if with it at all, he was a loving father, son, husband, why should he not also enjoy his share of the reward? The case would be quite different if the same cruel acts had been done by an educated and civilised person, from a mere love of sport. The savage in being reborn would simply take a a low place in the scale, by reason of his imperfect moral development; while the karma of the other would be tainted with moral delinquency …

“Đó là một điều kiện tinh thần chỉ trong tương phản với điều kiện ‘vật chất một cách thô thiển’ của chúng ta, và, như đã nói, chính các mức độ tinh thần ấy tạo ra và xác định các dị biệt lớn trong phạm vi Devachan. Một người mẹ từ một bộ lạc dã man không kém hạnh phúc hơn một người mẹ nơi cung điện nhà vua, khi được ôm đứa con đã mất của mình; và mặc dù với tư cách là các Ngã đích thực, những đứa trẻ chết sớm trước khi bảy phần ngã của chúng được viên mãn thì không tìm được đường vào Devachan, nhưng tâm tưởng yêu thương của người mẹ vẫn gặp thấy các con nơi ấy, không thiếu một đứa nào mà trái tim Bà tưởng nhớ. Hãy cho rằng—đó chỉ là một giấc mơ, nhưng suy cho cùng, đời sống khách quan là gì nếu không phải là một tấm toàn cảnh của những ảo tượng sống động? Những khoái lạc mà một thổ dân da đỏ cảm nhận trong miền săn bắn hạnh phúc của mình ở Miền Đất của Mộng không kém mãnh liệt hơn niềm xuất thần của một nhà sành điệu, người trải qua các kiếp trong khoái cảm ngây ngất khi lắng nghe những Bản giao hưởng thần diệu do các ca đoàn và dàn nhạc thiên sứ tưởng tượng hòa tấu. Vì không phải lỗi của người thứ nhất—khi sinh ra là man di với bản năng sát hại—dẫu điều đó đã cướp đi mạng sống của biết bao sinh vật vô tội—nhưng nếu, đồng thời, y là người cha yêu thương, người con hiếu thảo, người chồng thắm tình, thì tại sao y lại không được hưởng phần thưởng của mình? Trường hợp sẽ hoàn toàn khác nếu những hành động tàn nhẫn như thế được thực hiện bởi một người có học và văn minh, chỉ vì sở thích săn bắn. Người mọi rợ, khi tái sinh, chỉ đơn giản chiếm một vị trí thấp trong thang bậc, do sự phát triển đạo đức chưa hoàn thiện; trong khi nghiệp của người kia sẽ bị nhiễm ô bởi sự lầm lỗi đạo đức …”

‘Everyone but that ego which, attracted by its gross magnetism, falls into the current that will draw it into the planet of Death—the mental as well as physical satellite of our earth—is fitted to pass into a relative spiritual condition adjusted to his previous condition in life and mode of thought. To my knowledge and recollection H.P.B. explained to Mr. Hulme that man’s sixth principle, as something purely spiritual could not exist, or have conscious being in the Devachan, unless it assimilated some of the more abstract and pure of the mental attributes of the fifth principle or animal Soul, its manas (mind) and memory. When man dies, his second and third principles die with him; the lower triad disappears, and the fourth, fifth and sixth principles form the surviving Quaternary. Thenceforth it is a death struggle between the Upper and Lower dualities. If the upper wins, the sixth, having attracted to itself the quintessence of Good from the fifth, its nobler affections, its saintly, though they be earthly, aspirations, and the most spiritualised portions of its mind, follows (picture) its divine elder—the 7th—into the Gestation State; and the fifth and fourth remain in association as an empty shell—the expression is quite correct—to roam in the earth’s atmosphere, with half the personal memory gone, and the more brutal instinct fully alive for a certain period—an Elementary, in short. This is the angel guide of the average medium. If, on the other hand, it is the Upper Duality which is defeated, then it is the fifth principle that assimilates all that there may be left of personal recollection of and perceptions of its personal individuality in the sixth. But, with all this additional stock, it will not remain in Kama-Loka, the World of Desire or our Earth atmosphere. In a very short time, like a straw floating within the attraction of the vortices and pits of the Maelstrom, it is caught up and drawn into the great whirlpool of human Egos; while the sixth and seventh, now a purely spiritual, individual Monad, with nothing left in it of the late personality, having no regular ‘gestation’ period to pass through—since there is no purified personal Ego to be reborn—after a more or less prolonged period of unconscious Rest in the boundless Space, will find itself reborn in another personality on the next planet. When arrives the period of Full Individual Consciousness, which precedes that of Absolute Consciousness in the Pari-Nirvana, this lost personal life becomes a torn-out page in the great Book of Lives, without even a disconnected word left to mark its absence. The purified monad will neither perceive nor remember it in the series of its past rebirths, which it would had it gone to the World of Forms—rupa-loka—and its retrospective glance will not perceive even the slightest sign to indicate that it had been.

‘Mọi người, trừ cái chân ngã kia vốn — bị sức hút thô trọc của nó lôi cuốn — rơi vào dòng lưu sẽ kéo nó vào hành tinh của Tử Thần — vệ tinh thể trí cũng như vệ tinh thể xác của địa cầu chúng ta — đều thích hợp để đi vào một tình trạng tinh thần tương đối, được điều chỉnh cho tương ứng với tình trạng trước kia trong đời và lối tư duy của y. Theo hiểu biết và ký ức của tôi, Bà H.P.B. đã giải thích cho Ông Hulme rằng nguyên khí thứ sáu của con người, là một cái gì đó thuần tinh thần, không thể tồn tại hay có sự hiện hữu có ý thức trong Devachan, trừ khi nó đồng hoá được một phần những thuộc tính trí tuệ trừu tượng và tinh khiết hơn của nguyên khí thứ năm hay Linh hồn thú, tức manas (thể trí) và ký ức của nó. Khi con người chết, nguyên khí thứ hai và thứ ba chết theo; phàm ngã tam phân biến mất, và nguyên khí thứ tư, thứ năm và thứ sáu hợp thành Bộ Tứ còn lại. Từ đó trở đi là một cuộc đấu tranh sinh tử giữa hai nhị nguyên Thượng và Hạ. Nếu bên Thượng thắng, thì nguyên khí thứ sáu — sau khi đã thu hút về mình tinh hoa Thiện từ nguyên khí thứ năm, tức những tình cảm cao quý của nó, những khát vọng thánh thiện, dù còn mang sắc thái trần thế, và những phần được tinh thần hoá cao nhất của thể trí — sẽ theo (hãy hình dung) bậc anh cả thần linh của nó — nguyên khí thứ 7 — vào Trạng thái Thai dưỡng; còn nguyên khí thứ năm và thứ tư ở lại kết hợp với nhau như một cái vỏ rỗng — diễn đạt như vậy là hoàn toàn đúng — lang thang trong khí quyển của Trái Đất, mất đi một nửa ký ức cá nhân, trong khi bản năng hung bạo vẫn hoàn toàn sống động trong một thời gian nhất định — nói ngắn gọn, một sinh linh sơ cấp. Đây là ‘thiên thần’ hướng dẫn của hạng đồng tử trung bình. Còn nếu trái lại, bên Thượng bị đánh bại, thì lúc ấy nguyên khí thứ năm đồng hoá hết thảy những gì có thể còn lại của hồi ức cá nhân và những tri nhận về cá tính riêng của nó trong nguyên khí thứ sáu. Nhưng, với tất cả số ‘tài sản’ bổ sung ấy, nó cũng sẽ không ở lại Kama-Loka, Thế giới Dục vọng hay bầu khí quyển của Trái Đất chúng ta. Chẳng bao lâu, như một cọng rơm trôi trong sức hút của những xoáy nước và hố sâu của Maelstrom, nó bị cuốn lên và kéo vào cơn lốc vĩ đại của các Chân ngã con người; trong khi nguyên khí thứ sáu và thứ bảy — giờ đây là một chân thần thuần túy tinh thần, cá biệt, không còn gì của phàm ngã vừa qua — không phải trải qua một thời kỳ ‘thai dưỡng’ quy củ nào, vì không có phàm ngã đã được thanh lọc để tái sinh — sau một thời kỳ nghỉ ngơi vô thức dài ngắn tuỳ theo trong Không gian vô biên, sẽ thấy mình tái sinh trong một phàm ngã khác trên hành tinh kế tiếp. Khi đến thời kỳ Tâm thức Cá thể Đầy đủ, vốn đi trước thời kỳ Tâm thức Tuyệt đối trong Pari-Nirvana, thì đời phàm ngã đã mất kia trở thành một trang bị xé khỏi Đại Sách của Các Đời, không còn một chữ rời rạc nào để đánh dấu sự vắng mặt của nó. Chân thần đã được thanh lọc sẽ không nhận biết cũng không ghi nhớ nó trong chuỗi các lần tái sinh trước đó, như hẳn đã có nếu nó đi vào Thế giới của các Hình tướng — rupa-loka — và cái nhìn hồi cố của nó sẽ không thấy một dấu vết nhỏ nhất nào cho thấy rằng nó từng hiện hữu.

‘The light of Samma-Sambuddh, “ … that light which shines beyond our mortal ken The light of all the lives in all the worlds”, throws no ray upon that personal life in the series of lives forgone. To the credit of mankind, I must say, that such an utter obliteration of an existence from the tablets of Universal Being does not occur often enough to make a great percentage. In fact, like the much mentioned ‘congenital idiot’ such a thing is a ‘lusus naturae,’ an exception, not the rule.

‘Ánh sáng của Samma-Sambuddh, “ … ánh sáng vượt ngoài hiểu biết phàm nhân của chúng ta, ánh sáng của muôn sự sống trong muôn thế giới”, không chiếu một tia nào lên đời phàm ngã đó trong chuỗi các đời đã qua. Phải ghi công cho nhân loại rằng một sự xoá sổ hoàn toàn một hiện hữu khỏi các tấm bảng của Hữu Thể Phổ Quát không xảy ra đủ thường xuyên để thành một tỷ lệ đáng kể. Thật vậy, như trường hợp ‘kẻ đần bẩm sinh’ thường được nhắc tới, đó là một ‘dị bẩm của tự nhiên’, một ngoại lệ, không phải là quy luật.

‘The period of gestation between Death and Devachan has hitherto been conceived by me at all events as very long. Now it is said to be in some cases only a few days, in no cases—it is implied—more than a few years. This seems plainly stated, but I ask if it can be explicitly confirmed because it is point on which so much turns.

‘Thời kỳ thai dưỡng giữa Chết và Devachan cho đến nay — ít nhất theo quan niệm của tôi — là rất dài. Nay lại nói rằng trong một số trường hợp chỉ vài ngày, và hàm ý rằng không trường hợp nào quá vài năm. Điều này có vẻ được nói rất rõ, nhưng tôi xin xác nhận minh nhiên, vì đây là một điểm mà rất nhiều điều tuỳ thuộc vào.

Another fine example of the habitual disorder in which H.P.B.‘s mental furniture is kept. She talks of Bardo and does not even say to her readers what it means! As in her writing room, confusion is ten times confounded, so in her mind are crowded ideas piled in such a chaos that when she wants to express them, the tail peeps out before the head. Bardo has nothing to do with the duration of time in the case you are referring to. Bardo is the period between death and rebirth and may last from a few years to a kalpa. It is divided into three sub-periods … (1) when the Ego, delivered of its mortal coil, enters into Kama-Loka (the abode of Elementaries); (2) when it enters into its Gestation State; (3) when it is reborn in the Rupa-Loka of Devachan. Sub-period (1) may last a few minutes to a number of years, the phrase a few years becoming puzzling and utterly worthless without a more complete explanation; Sub-Period (2) is very long, as you say, longer sometimes than you may even imagine, yet proportional to the Ego’s spiritual stamina; Sub-Period (3) lasts according to the good Karma, after which the monad is again reincarnated. The Agama Satra saying: ‘In all these Rupa-Lokas, the Devas (Spirits) are equally subjected to birth, decay, old age and death’, means only that an ego is born thither, then begins fading out and finally ‘dies’, i.e. falls into that unconscious condition which precedes rebirth; and ends the Sloka with these words: “As the Devas emerge from these heavens, they enter the lower world again,” i.e., they leave a world of bliss to be reborn in a world of causes.

Một ví dụ sáng sủa nữa về tình trạng lộn xộn thường trực trong ‘đồ đạc trí óc’ của Bà H.P.B. Bà nói về Bardo mà không thèm cho độc giả biết nó là gì! Như trong phòng viết của Bà, nơi mà sự hỗn độn bị chồng chất lên gấp mười, thì trong tâm trí Bà cũng chen chúc những ý tưởng chất đống trong một mớ hỗn mang đến nỗi khi muốn diễn đạt, cái đuôi ló ra trước cái đầu. Bardo chẳng liên hệ gì tới độ dài của thời gian trong trường hợp ông đang nhắc đến. Bardo là giai đoạn giữa chết và tái sinh, có thể kéo dài từ vài năm cho đến một kalpa. Nó được chia thành ba tiểu kỳ … (1) khi Chân ngã, vừa trút bỏ xác phàm, đi vào Kama-Loka (nơi cư trú của các sinh linh sơ cấp); (2) khi nó đi vào Trạng thái Thai dưỡng; (3) khi nó tái sinh trong Rupa-Loka của Devachan. Tiểu kỳ (1) có thể kéo dài vài phút cho đến nhiều năm — cụm từ ‘vài năm’ trở nên khó hiểu và hoàn toàn vô ích nếu không có giải thích đầy đủ hơn; Tiểu kỳ (2) rất dài, như ông nói, đôi khi còn dài hơn cả điều ông có thể tưởng tượng, nhưng tỷ lệ thuận với nghị lực tinh thần của Chân ngã; Tiểu kỳ (3) kéo dài tuỳ theo thiện nghiệp (karma tốt), sau đó chân thần lại tái sinh. Lời dạy của Kinh Agama: ‘Trong tất cả các Rupa-Loka này, các Thiên thần (các Linh thể) đều đồng chịu sinh, diệt, già và chết’ chỉ có nghĩa là một chân ngã sinh vào đó, rồi bắt đầu phai mờ và cuối cùng ‘chết’, tức là rơi vào trạng thái vô thức đi trước tái sinh; và kết thúc bài kệ bằng những lời: “Khi các Thiên thần rời khỏi những cõi trời này, họ lại bước vào thế giới thấp hơn,” tức là , họ rời một thế giới phúc lạc để tái sinh vào một thế giới của các nguyên nhân.

‘In that case, and assuming that Devachan is not solely the heritage of adepts and persons almost as elevated, there is a condition of existence tantamount to Heaven actually going on, from which the Life of Earth may be watched by an immense number of those who have gone before! And for how long? Does this state of spiritual beatitude endure for years? for decades? for centuries?

‘Trong trường hợp đó, và giả định rằng Devachan không chỉ là di sản của các bậc chân sư và những người gần như cao siêu như thế, thì có một tình trạng hiện hữu tương đương với Thiên đường đang thật sự diễn ra, từ đó đời sống Trần gian có thể được dõi theo bởi một số lượng khổng lồ những người đã đi trước! Và trong bao lâu? Tình trạng hỉ lạc tinh thần ấy kéo dài bao nhiêu năm? bao nhiêu thập kỷ? bao nhiêu thế kỷ?

‘Most emphatically ‘the Devachan is not solely the heritage of adepts’, and most decidedly there is a ‘heaven’—if you must use this astro-geographical term—for ‘an immense number who have gone before’. But life on earth can be watched by none of these, for reasons of the Law of Bliss plus Maya, already given.

‘Khẳng định nhất: ‘Devachan không chỉ là di sản của các bậc chân sư’, và chắc chắn có một ‘thiên đường’ — nếu ông nhất quyết dùng thuật ngữ thiên văn-địa lý này — cho ‘một số lượng khổng lồ những người đã đi trước’. Nhưng đời sống trên trần gian không thể được ai trong số họ dõi theo, vì những lý do thuộc Định luật Phúc lạc cộng với Maya đã nêu rồi.

‘For years, decades, centuries and milleniums, often-times multiplied by something more … it all depends on the duration of Karma. Fill with oil Den’s little cup, and a city reservoir with water, and lighting both see which burns the longer. The Ego is the wick and Karma the oil, the difference in the quality of the latter—in the cup and in the reservoir—suggesting to you the great difference in the duration of various Karmas. Every effect must be proportionate to the cause. And, as man’s terms of incarnate existence bear but a small proportion to his periods of internatal existence in the manvantaric cycle, so the good thoughts, words, and deeds of anyone of these ‘live’ on a globe are causative of effects, the working out of which requires far more time than the evolution of the causes occupied. Therefore, when you read in the Jats and other fabulous stories of the Buddhist Scriptures that this or the other good action was rewarded by Kalpas of several figures of bliss, do not smile at the absurd exaggeration, but bear in mind what I have said. From a small seed, you know, sprung a tree whose life endures now for 22 centuries; I mean the Anuradha-pura Bo tree.’

‘Trong nhiều năm, nhiều thập kỷ, nhiều thế kỷ và nhiều thiên niên kỷ, thường khi còn nhân lên bởi một cái gì nữa … tất cả tuỳ thuộc vào độ dài của Karma. Hãy đổ dầu đầy cái chén nhỏ của Den, và đổ nước đầy một hồ chứa của thành phố, rồi châm lửa cả hai xem cái nào cháy lâu hơn. Chân ngã là tim đèn còn Karma là dầu; sự khác nhau về ‘chất lượng dầu’ — trong chén và trong hồ — gợi cho ông thấy sự khác biệt lớn lao về độ dài của các Karma khác nhau. Mọi hiệu quả đều phải tương xứng với nguyên nhân. Và, vì những nhiệm kỳ lâm phàm của con người chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ so với những giai đoạn sống giữa các lần sinh trong chu kỳ manvantara, nên các tư tưởng, lời nói và hành động tốt của bất kỳ người nào trong số những ‘người sống’ trên một bầu hành tinh sẽ gây nên các hiệu quả, mà việc triển khai chúng đòi hỏi nhiều thời gian hơn nhiều so với thời gian phát triển các nguyên nhân. Do đó, khi ông đọc trong Jats và các truyện ‘hoang đường’ khác của Kinh điển Phật giáo rằng hành động tốt này hoặc kia được thưởng bằng những kalpa của những con số an lạc, đừng mỉm cười trước điều có vẻ phóng đại lố bịch, mà hãy ghi nhớ điều tôi vừa nói. Từ một hạt giống nhỏ, như ông biết, đã mọc lên một cây có đời sống nay đã kéo dài 22 thế kỷ; tôi muốn nói tới cây Bồ-đề Anuradha-pura.’

Metempsychosis —Chuyển kiếp

The psychology of Pupilage in the Esoteric Tradition, is meaningless without the proposition of metempsychosis* which draws the sharp division between the psychology associated with gnosticism and that of Christianity. The belief that Christianity was the first to teach the existence of the soul is common and it is part of the glamour and maya generated by Mother Church. Six hundred years before Christ, Plato, and before him, Pythagoras spoke of the human soul and of the journey through many lives which it must take before perfection in terms of Truth, Beauty and Goodness could be achieved. The Christian Church took over the first proposition but dropped the concept of metempsychosis. Pythagoras almost certainly learnt something of the soul and its mechanisms from his initiations in Egypt, or if not there, then from oriental sources. —

Tâm lý học của Địa vị Môn sinh trong Truyền thống Nội môn là vô nghĩa nếu không có mệnh đề về chuyển kiếp, vốn kẻ nên ranh giới sắc bén giữa tâm lý học gắn với Huyền tri giáo và tâm lý học của Kitô giáo. Niềm tin rằng Kitô giáo là tôn giáo đầu tiên dạy về sự tồn tại của linh hồn là điều phổ biến và là một phần của ảo cảm và ảo lực do Mẹ Giáo hội tạo ra. Sáu trăm năm trước Đức Christ, Plato, và trước Ông, Pythagoras đã nói về linh hồn con người và về cuộc hành trình qua nhiều đời mà nó phải trải qua trước khi đạt được sự hoàn thiện theo nghĩa Chân, Thiện, Mỹ. Giáo hội Kitô giáo tiếp thu mệnh đề thứ nhất nhưng loại bỏ khái niệm chuyển kiếp. Pythagoras gần như chắc chắn đã học được điều gì đó về linh hồn và các cơ chế của nó từ các cuộc điểm đạo ở Ai Cập, hoặc nếu không phải ở đó thì từ các nguồn phương Đông.

*’Among the synonyms used for reincarnation are palingenesis, transmigration, pre-existence, and metempsychosis. The Greek equivalent, palingenesis, is from palin, back or again, and genesis, origin or production. The word transmigration has been so frequently misused to suggest the birth of humans into animal forms, a complete reversal of the natural evolutionary processes, that it is hardly satisfactory for general use. Some churchmen make a limited use of pre-existence and do not relate it to reincarnation. According to Dean Inge, metempsychosis … from metem, change and psyche, soul … is an incorrect expression, “since it is the bodies, not the souls, that are changed at rebirth”. However, if we equate ‘change’ with ‘growth’, the term ‘metempsychosis’ can meaningfully be used to indicate the evolution of the soul through a process of rebirth’. Quoted from Reincarnation, by Joseph Head and S.L.Cranston, Causeway Books, New York.

*‘Trong số các từ đồng nghĩa dùng cho tái sinh có tân sinh, luân chuyển, tiền hữu, và chuyển kiếp. Từ tương đương trong tiếng Hy Lạp, tân sinh, bắt nguồn từ palin , trở lại hay một lần nữa, và genesis, khởi nguyên hay sản sinh. Từ luân chuyển đã bị lạm dụng quá thường xuyên đến mức gợi ý việc con người sinh vào các dạng thú vật — một sự đảo ngược hoàn toàn các tiến trình tiến hoá tự nhiên — nên hầu như không thỏa đáng để dùng phổ thông. Một số giáo sĩ có dùng hạn chế khái niệm tiền hữu và không liên hệ nó với tái sinh. Theo Dean Inge, chuyển kiếp … từ metem , thay đổi và psyche , linh hồn … là một diễn đạt không chính xác, “vì chính các thân thể, chứ không phải các linh hồn, mới bị thay đổi khi tái sinh”. Tuy nhiên, nếu chúng ta đồng nhất ‘thay đổi’ với ‘tăng trưởng’, thì thuật ngữ ‘chuyển kiếp’ có thể được dùng một cách có ý nghĩa để chỉ sự tiến hoá của linh hồn thông qua tiến trình tái sinh’. Trích từ Tái sinh , của Joseph Head và S.L.Cranston, Causeway Books, New York.

A philosophy and psychology which account for only a fragment of human experience is worthless. Immense periods of time exist between incarnations which vary from a matter of hours up to many kalpas during which human nature and its behaviour may undergo considerable changes. These changes are accounted for in the traditions of Ancient Wisdom and are extremely relevant in the psychology of esotericism and are prerequisites to initiation at the hands of the Planetary Lords. How else can one account for the passive suffering, the persistence and the efforts of an aspirant, were this not true? The very emergence of the aspirant out of the vast ranks of humanity to stand with the ‘few’ is a tortured process which would be pointless and even laughable unless it were seen within the context of reincarnation for:

Một triết học và một tâm lý học chỉ giải thích được một mảnh vụn của kinh nghiệm nhân sinh là vô giá trị. Những khoảng thời gian mênh mông tồn tại giữa các lần lâm phàm, biến thiên từ vài giờ cho đến nhiều kalpa, trong đó bản tính con người và cách ứng xử của nó có thể trải qua những thay đổi đáng kể. Những thay đổi này được ghi nhận trong truyền thống Minh Triết Cổ và cực kỳ thích đáng trong tâm lý học huyền bí học, đồng thời là những điều kiện tiên quyết cho sự điểm đạo dưới tay các Đấng Chúa Tể Hành tinh. Nếu không như thế, làm sao có thể lý giải được nỗi chịu đựng thụ động, sự kiên định và nỗ lực của một người chí nguyện? Chính việc người chí nguyện xuất hiện ra khỏi đám đông mênh mông của nhân loại để đứng vào hàng ngũ ‘ít ỏi’ kia là một tiến trình khốc liệt, vốn sẽ vô nghĩa, thậm chí đáng cười, nếu không được thấy trong bối cảnh của tái sinh, bởi vì:

‘The soul of man is immortal, and its future is the future of a thing whose growth and splendour has no limit’.

‘Linh hồn con người là bất tử, và tương lai của nó là tương lai của một cái gì đó mà sự tăng trưởng và huy hoàng không có giới hạn’.

The numbers of Esoteric Pupils in the world, irrespective of their approach to reality will increase significantly only when more information about the periods between lives is clarified and becomes more easily available. With the perennial expression of Ancient Wisdom in language appropriate to the day, this is happening right now. Knowledge concerning laws governing reincarnation is being progressively released. Discussions on the nature of the ‘egoic lotus’ and the mechanisms of its permanent atoms are helping to provide the concept of a continuity of consciousness persisting within the framework of the inner Self, between lives. The new astrology* with its esoteric rulership underwrites the laws governing metempsychosis and teaches its students how to cooperate with those laws in order to be released from the Wheel of Rebirth.

Số lượng các Môn sinh Nội môn trên thế giới, bất kể con đường tiếp cận thực tại của họ là gì, sẽ chỉ gia tăng đáng kể khi có thêm nhiều thông tin về những giai đoạn giữa các đời được làm sáng tỏ và trở nên dễ tiếp cận hơn. Với việc Minh Triết Ngàn Đời thường hằng được biểu đạt bằng ngôn ngữ thích hợp với thời đại, điều này đang diễn ra ngay lúc này. Tri thức về các định luật cai quản tái sinh đang được công bố dần dần. Những thảo luận về bản chất của ‘Hoa Sen Chân Ngã’ và cơ chế của các Nguyên tử Trường tồn của nó đang góp phần đưa ra khái niệm về một sự liên tục của tâm thức, bền vững trong khuôn khổ của Tự ngã bên trong, giữa các đời. Nền chiêm tinh mới* với hệ chủ tinh nội môn xác nhận các định luật cai quản chuyển kiếp và dạy cho các môn sinh của nó biết cách hợp tác với những định luật ấy để được giải thoát khỏi Bánh Xe Tái Sinh.

 *See Esoteric Astrology, Volumes I-XI, by Douglas Baker, and also Baker’s Dictionary of Astrology for the Twenty-first Century.

*Xem , Tập I–XI, của Douglas Baker, và cũng .

Where is Devachan? Until now, the answer could only be given to those who have understood the significance of developing the capacity to manipulate time and space. There are barriers in human consciousness which will always conceal, from the uninitiate, the nature of the devachanic planes, but with each age the numbers of initiates increases and with the acknowledgement of science that there really are subtle fields of substance (dark matter) unresponsive to the electromagnetic spectrum and beyond time/space concepts, the barriers will become more penetrable.

Devachan ở đâu? Cho đến nay, câu trả lời chỉ có thể dành cho những ai đã thấu hiểu ý nghĩa của việc phát triển năng lực thao tác với thời gian và không gian. Có những bức màn trong tâm thức con người sẽ luôn che giấu, đối với người chưa được điểm đạo, bản chất của các cõi devachan, nhưng với mỗi thời đại, số người được điểm đạo tăng lên, và với việc khoa học thừa nhận rằng thật sự có những trường năng vi tế (vật chất tối) không đáp ứng với phổ điện từ và vượt ngoài các khái niệm thời-gian/không-gian, những bức màn đó sẽ trở nên dễ xuyên thấu hơn.

The mysteries concerning the whole range of experiences entered into by beings between incarnations is linked to the subject of Rounds and Chains and their appropriate global relationships. For instance, in the Earth Chain, itself but a fragment of a larger complex, there are three globes in the process of formation. These, globes E, F and G, exist in etheric, astral and mental matter. They are already sites for some deva and human entities who are the natural inhabitants of the Earth Chain at this time but who have not the need for physical vehicles for the expression of their qualities. How are these globes created? The vortex of energy which is the attractive force around which their integration is proceeding comes from causal levels under the impetus of the Will-to-Be of the Chain Logos. What feeds the appropriate material into these vortices so that the globes materialise? It is mainly the etheric, astral and mental materials generated by Globe D of the Earth Chain, i.e. our Earth itself. The globes E, F and G, are, in a sense, the offspring of Globe D. They vampirise their mother and draw from her, and earlier globes, the matter of their substance continuously. This means that, at this very moment, the thoughts and feelings, as well as actions, of the humanity of Earth are contributing to the nature of these three globes. It helps the pupil to understand why he must be careful about how he thinks or feels and acts … hence the disciplines of pupilage, because only the most progressive, in terms of spirituality, on Globe D contribute to the construction of Globes E, F and G. It is spiritually incumbent on humanity, from its intelligentsia upwards, to guard its thought, feelings and actions because it is from these that habitations for humanity and lesser kingdoms, not requiring physical bodies are being fashioned in substances that are etheric, astral and mental. This needs pondering on and meditation. Now, whilst these globes provide possible bases for forms between incarnations, they will also be the main site of unfoldment for our chain when Globe D, our Earth, goes into obscuration (between Rounds) in the aeons ahead.

Các huyền nhiệm về toàn bộ phổ kinh nghiệm mà các hữu thể trải qua giữa các lần lâm phàm gắn liền với chủ đề Các Cuộc tuần hoàn và Các Dãy cùng những quan hệ toàn cầu tương ứng của chúng. Thí dụ, trong Dãy Địa Cầu, bản thân nó chỉ là một mảnh của một phức hợp lớn hơn, có ba bầu hành tinh đang trong tiến trình hình thành. Đó là các bầu E, F và G, tồn tại trong chất liệu dĩ thái, cảm dục và trí tuệ. Chúng đã là nơi nương trú cho một số các hữu thể deva và nhân loại, vốn là cư dân tự nhiên của Dãy Địa Cầu vào thời điểm này nhưng không cần các vận cụ thể xác để biểu hiện phẩm tính của họ. Những bầu này được tạo nên bằng cách nào? Vòng xoáy năng lượng, là lực hấp dẫn quanh đó tiến trình tích hợp của chúng đang diễn tiến, xuất phát từ các cấp độ nhân thể dưới động lực của Ý Chí-Tồn Tại của Thượng đế của Dãy. Cái gì nạp vật liệu thích hợp vào các xoáy này để các bầu hiện hình? Chủ yếu là các chất liệu dĩ thái, cảm dục và trí tuệ do Bầu D của Dãy Địa Cầu tạo ra, tức là chính Trái Đất chúng ta. Các bầu E, F và G theo một nghĩa nào đó là ‘con’ của Bầu D. Chúng ‘hút’ mẹ và rút từ mẹ chúng, và từ các bầu trước đó, chất liệu cấu thành bản thể của chúng một cách liên tục. Điều này có nghĩa là, ngay lúc này đây, các tư tưởng và cảm xúc, cũng như hành động, của nhân loại Địa Cầu đang góp phần vào bản chất của ba bầu này. Điều đó giúp môn sinh hiểu vì sao y phải cẩn trọng với cách nghĩ, cách cảm và cách hành xử của mình … do đó mới có các kỷ luật của môn sinh, vì chỉ những ai tiến bộ nhất, xét theo phương diện tinh thần, trên Bầu D mới góp phần kiến tạo các Bầu E, F và G. Trên phương diện tinh thần, nhân loại — từ giới trí thức trở lên — có bổn phận canh giữ tư tưởng, cảm xúc và hành động của mình, bởi chính từ đó mà những nơi cư trú cho nhân loại và các giới thấp hơn, không cần đến thân xác, đang được tạo tác bằng các chất liệu dĩ thái, cảm dục và trí tuệ. Điều này cần được nghiền ngẫm và tham thiền. Nay, trong khi các bầu này cung cấp những nền tảng khả dĩ cho các hình tướng giữa các lần lâm phàm, chúng cũng sẽ là địa bàn khai mở chính cho dãy của chúng ta khi Bầu D, Trái Đất của chúng ta, đi vào thời kỳ ám độn (giữa các Cuộc tuần hoàn) trong những thiên kỷ phía trước.

00037.jpeg

Also, where there is a short span of existence between lives and where there is no particularly advanced spirituality involved, the Earth itself, provides, in its various sheaths and planes, other than physically, domains for etheric, astral and mental beings. These interpenetrate each other and extend far out into space. The subject has been dealt with more fully and by illustration in my book Anthropogeny: The Esoteric History of Man’s origin.

Ngoài ra, khi khoảng cách giữa các đời ngắn và không có phẩm tính tinh thần đặc biệt cao, chính Địa Cầu, trong các thể và cõi khác nhau của nó, ngoại trừ thể xác, cũng cung cấp các miền cho những hữu thể dĩ thái, cảm dục và trí tuệ. Những miền này thấu nhập lẫn nhau và vươn xa ra ngoài không gian. Chủ đề này đã được bàn chi tiết hơn và có minh hoạ trong cuốn sách của tôi

Our concern here, however is with Devachan which, as we have already noted, is not the heaven world related to the upper divisions of the astral plane of the Earth. It cannot be part of the Earth Chain because its highest globes, i.e. A and F, are not composed of spiritual matter. Devachan exists in terms of the planes of Atma, Buddhi and Manas and is virtually formless. The description of Devachan given above is symbolic obviously. The various walls that enclose it are references to the seven Rounds of the life-wave of a Logos. The lakes and pools point to the seven vortices of a chain, etc. Devachan exists only for the advanced of humanity, those with capacities to express Atma, Buddhi and Manas in any sort of continuity. It must, for these various reasons, lie outside of our Chain and within, but not part of, the seven globes of another chain. Hence its remoteness. Which chain? When man understands the secret of the Nirmanakayas,* of the Divine Rebels, that question can be answered.

Tuy nhiên, điều chúng ta quan tâm ở đây là Devachan, điều mà như đã ghi nhận, không phải là cõi thiên liên hệ đến các phân khu thượng của cõi cảm dục của Địa Cầu. Nó không thể là một phần của Dãy Địa Cầu vì những bầu cao nhất của dãy này, tức A và F, không được cấu thành bởi chất liệu tinh thần. Devachan tồn tại theo phương diện các cõi Atma, Bồ đề và Manas và hầu như vô tướng. Mô tả về Devachan nêu trên dĩ nhiên là mang tính biểu tượng. Các bức tường khác nhau bao bọc nó ám chỉ bảy Cuộc tuần hoàn của làn sóng sinh mệnh của một Thượng đế. Các hồ và ao chỉ về bảy xoáy của một dãy, v.v. Devachan chỉ tồn tại cho thành phần tiến bộ trong nhân loại, những người có năng lực biểu hiện Atma, Bồ đề và Manas với bất kỳ mức độ liên tục nào. Vì những lý do đó, nó phải nằm ngoài Dãy của chúng ta và ở trong — nhưng không thuộc về — bảy bầu của một dãy khác. Do đó mà nó xa xôi. Dãy nào? Khi con người hiểu được bí mật của các Nirmanakaya,* của các Vị Thần Nổi Loạn Thiêng Liêng, câu hỏi đó có thể được trả lời.

 *Nirmanakaya: In Theosophy the term is used for one, who having perfected his evolution, dispenses with the physical body, and devotes himself to the spiritual welfare of man. At the completion of our human evolution seven Paths open out for our choice. It is possible that an Adept who has attained this stage may pass out of contact with our humanity. He returns to the One Life, and no longer can the pains and sufferings of humanity affect him. There are those, however, who renounce this bliss. It is by remaining in the Nirmanakaya vehicle that they are able still to have knowledge of humanity. There are three bodies at this stage of development which the Adept has woven for himself. They are called Nirmanakaya, Sambhogakaya, and Dharmakaya. To attain the Dharmakaya robe is equivalent to passing beyond the sphere of knowledge of the lower planes. The term Nirmanakaya is also used to describe an Adept who remains for the helping of the world.

* Nirmanakaya: Trong Thông Thiên Học, thuật ngữ này dùng để chỉ một vị, sau khi đã hoàn tất tiến hoá của mình, từ bỏ thể xác, và hiến mình cho phúc lợi tinh thần của nhân loại. Khi hoàn tất tiến hoá nhân loại của chúng ta, bảy Con Đường mở ra cho sự lựa chọn của chúng ta. Có khả năng một vị Chân sư đạt đến giai đoạn này có thể rời khỏi liên hệ với nhân loại chúng ta. Ngài trở về Sự Sống Duy Nhất, và những đau khổ của nhân loại không còn tác động đến Ngài nữa. Tuy nhiên, có những vị từ bỏ phúc lạc ấy. Chính nhờ ở lại trong vận cụ Nirmanakaya mà các Ngài vẫn có thể tri nhận về nhân loại. Ở giai đoạn phát triển này có ba thân mà vị Chân sư đã tự dệt nên cho chính mình. Chúng được gọi là Nirmanakaya, Sambhogakaya và Dharmakaya. Đạt đến y phục Dharmakaya đồng nghĩa với việc vượt ra ngoài phạm vi tri thức của các cõi thấp. Thuật ngữ Nirmanakaya cũng được dùng để mô tả một vị Chân sư lưu lại vì sự trợ giúp thế gian.

Man shows his concern for death and afterlife in material ways which are ineffectual and irrelevant. He prepares for old-age that precedes death by elaborate devices in insurance, pension schemes, etc. Funeral costs are anticipated and possibly other forms of insulation against any eventuality that might stand in the way of his making an appropriate exit from the Earth scene. But no provision is made for the events immediately after death. In earlier times at least, man attempted to secure some sort of advantage after death through the purchase of indulgences, through the provision of food in the tomb of incarceration, etc. But today, outside of bequests to the church, even this sham is falling away. The obsession with things physical, with anything that will divert the senses, sport, television, travel, bingo, alcohol is so intense that there is never any time to ponder the mysteries of after-death. If someone was told, perchance, that he was to visit Outer Mongolia in three weeks time, he would immediately take suitable steps to discover what circumstances exist there. He would need to know whether a visa was required for his visit, whether there were banking facilities in Outer Mongolia that he could use, what sort of food people ate there, what the best hotel was, etc., etc. But man, every man is making for a much more certain goal than Mongolia, and that is death,

Con người bày tỏ mối quan tâm của mình đối với cái chết và hậu vận bằng những cách thế vật chất vốn vô hiệu và không thích đáng. Người ta chuẩn bị cho tuổi già đi trước cái chết bằng những thiết bị rườm rà như bảo hiểm, kế hoạch hưu trí, v.v . Chi phí tang lễ được liệu trước và có thể là những dạng ‘cách nhiệt’ khác chống lại mọi sự cố có thể cản trở việc y rời sân khấu Địa Cầu một cách ‘đúng điệu’. Nhưng chẳng có sự chuẩn bị nào cho các sự kiện ngay sau khi chết. Ít nhất trong thời xưa, con người đã cố gắng đạt một số lợi thế nào đó sau khi chết bằng cách mua ‘ơn xá tội’, chuẩn bị thức ăn trong mộ giam hãm, v.v. Nhưng ngày nay, ngoài việc để lại di tặng cho nhà thờ, ngay cả trò lừa này cũng đang phai tàn. Ám ảnh về các sự vật thể xác, về bất cứ thứ gì có thể làm xao lãng các giác quan — thể thao, truyền hình, du lịch, trò xổ số, rượu chè — mãnh liệt đến nỗi chẳng bao giờ còn thời gian để nghiền ngẫm những huyền bí của hậu tử. Nếu có ai đó được báo, tình cờ, rằng y sẽ đến Mông Cổ Ngoại trong ba tuần nữa, y sẽ lập tức có những bước thích hợp để tìm hiểu các hoàn cảnh ở đó. Y cần biết có cần thị thực cho chuyến đi không, Mông Cổ Ngoại có những cơ sở ngân hàng nào y có thể dùng, người ta ăn loại thức ăn gì ở đó, khách sạn nào tốt nhất, v.v., v.v. Thế nhưng con người, mọi người đều đang hướng tới một đích còn chắc chắn hơn Mông Cổ, đó là cái chết,

‘The undiscovered country from whose bourn No traveller returns … ‘

‘Xứ sở chưa ai biết đến, từ bờ cõi ấy Chẳng lữ khách nào quay trở lại … ‘

He is going to a land further in distance than Outer Mongolia, to a land where laws exist but which are little known here on Earth, where methods of gaining comfort, security and sustenance are questionable. And yet, for this certain journey, he makes absolutely no provision … makes no attempt to find who governs there, what laws pertain, whether the population is hostile or receptive, or what he can rely on.

Y sắp đi đến một xứ sở xa hơn Mông Cổ Ngoại, một xứ sở có luật lệ tồn tại mà nơi đây hầu như chẳng ai biết, nơi phương cách đạt được an ủi, an toàn và dưỡng nuôi là điều đáng ngờ. Thế mà, cho cuộc hành trình chắc chắn này, y hoàn toàn không chuẩn bị … chẳng buồn tìm xem ai cai quản nơi đó, luật lệ nào hiện hành, dân cư ở đó là thù nghịch hay tiếp nhận, và y có thể trông cậy vào điều gì.

The truth is, that for most people in this world, the existence of the human soul is no longer considered a reality. The churches no longer believe it: nor do its congregations. Everywhere in the west, there is an egotism that stops abruptly with the last breath. Christianity has done her work well. She has preached the existence of heaven so that everyone wants to go there but no one wants to die; instead, there is a massive fear of death, a sure indication of the concretisation of human thinking. If death really is the gateway to heaven, it should be welcomed when it comes. But the moment of dying signals outbursts of grief and great displays of mourning, fortunately not now so ponderous and expensive as those that characterised the Victorian era. If someone is going to heaven, why mourn his parting? Those who don’t are called callous and indifferent instead of enlightened. Contradiction stamps both the arrival of man and his departure from the planet. Born in sin,bastard,‘the cabbage patch, … these greet the child when he is born, the dogma and creed that has been bestowed on the change of state as the human soul incarnates. Death, Hell, Purgatory, and Damned, accompany its departure. And millions live by such nonsense, and are intimidated by it to such art extent that the subject of Death, really the most wide-reaching in all the world is spurned and vilified. Of it W.R. Alger wrote:

Sự thật là, với đa số người trên thế giới, sự tồn tại của linh hồn con người không còn được xem là một thực tại nữa. Các nhà thờ không còn tin; giáo dân của họ cũng vậy. Khắp phương Tây, có một thứ vị kỷ dừng lại đột ngột ở hơi thở cuối cùng. Kitô giáo đã làm tốt ‘công việc’ của bà. Bà đã rao giảng về thiên đường đến nỗi ai cũng muốn đến đó nhưng chẳng ai muốn chết; thay vì vậy, là nỗi sợ chết khổng lồ — một chỉ dấu chắc chắn của sự đông cứng trong tư duy con người. Nếu cái chết thực sự là cánh cửa dẫn vào thiên đường, nó phải được hoan nghênh khi nó đến. Nhưng khoảnh khắc lâm chung lại báo hiệu những bộc phát bi ai và các màn tang chế phô trương — may thay, nay không còn nặng nề và tốn kém như thời Victoria. Nếu ai đó đang ‘lên thiên đường’, sao lại than khóc lúc chia tay? Những người không than khóc thì bị gọi là vô cảm và dửng dưng, thay vì là sáng suốt. Dấu ấn của mâu thuẫn đóng lên cả sự đến lẫn sự rời đi của con người khỏi hành tinh. Sinh ra trong tội, con hoang, ‘vườn bắp cải, … những thứ ấy nghênh đón đứa trẻ khi nó chào đời — giáo điều và tín điều được ban phát cho thời khắc đổi trạng thái khi linh hồn con người nhập thể. Cái chết, Địa ngục, Luyện ngục và Bị Đày đọa hộ tống cuộc ra đi của nó. Và hàng triệu người sống bằng những điều vô nghĩa như thế, bị nó khuất phục đến mức chủ đề Cái Chết — thật ra là chủ đề có tầm bao quát nhất trên đời — bị khinh miệt và bôi nhọ. Về nó, W.R. Alger đã viết:

‘No other doctrine has exerted so extensive, controlling, and permanent an influence on mankind as that of metempsychosis … the notion that when the soul leaves the body it is born anew in another body, its rank, character, circumstances, and experience in each successive existence depending on its qualities, deeds and attainments in its preceding lives’.

‘Không có giáo lý nào đã gây ảnh hưởng rộng rãi, chi phối và lâu bền như giáo lý về chuyển kiếp … quan niệm rằng khi linh hồn rời thân xác, nó lại được sinh ra trong một thân xác khác, đẳng cấp, tính cách, hoàn cảnh và kinh nghiệm trong mỗi hiện hữu kế tiếp của nó phụ thuộc vào phẩm tính, hành động và thành tựu của nó trong các đời trước’.

—Reincarnation, by Joseph Head and S.L. Cranston, Causeway Books, New York.

—Tái sinh , của Joseph Head và S.L. Cranston, Causeway Books, New York.

Fortunately, more than half the world’s population accept the fact of metempsychosis and demonstrate the fact by their attitudes towards death and the afterlife. The onus is always on the Pupil of The Ancient Wisdom to show outwardly his truer understanding of death and he should not contribute a single quantum of his emotional energies in grief for the passing of someone, even if it is a dear friend. Shock is another matter. One cannot avoid the feeling of shock with the sudden passing of someone from the world scene even though you have not known the person intimately. We all remember the sudden deaths of world figures like Rajiv Ghandi, Louis Mountbatten and President Kennedy and where we were when the news came through or who brought it. This kind of shock can come even when the news is good, like your neighbour winning a draw or on a sweep. At the very worst, the shock should not have to be more than a few moments pause before the reality of what has happened is assessed and the proper perspective adopted. Even if a very dear friend is involved, the pupil should be able to tread the delicate path between compassion for those bereaved and that of encouraging their grief. It is a true test which is seldom passed, this capacity to demonstrate emotional discipline in such a way as to be welcomed by the pupils’s own soul.

May mắn thay, hơn một nửa dân số thế giới chấp nhận sự thật về chuyển kiếp và cho thấy điều đó qua thái độ của họ đối với cái chết và hậu vận. Gánh nặng trách nhiệm luôn đặt lên Môn sinh của Minh Triết Cổ để bộc lộ ra bên ngoài sự thấu hiểu đúng hơn của y về cái chết, và y không nên góp một chút năng lượng cảm xúc nào vào nỗi bi thương trước sự ra đi của một ai, dù đó là một người bạn quý. Sốc là chuyện khác. Không ai tránh được cảm giác chấn động khi bất ngờ ai đó rời khỏi vũ đài thế gian, dù bạn không thân quen người ấy. Chúng ta đều nhớ những cái chết đột ngột của các nhân vật thế giới như Rajiv Gandhi, Louis Mountbatten và Tổng thống Kennedy, và nhớ ta đang ở đâu khi tin ấy truyền đến hay ai đã báo tin. Loại ‘sốc’ này cũng có thể đến ngay cả khi tin lành, như việc người hàng xóm trúng giải rút thăm. Tệ nhất là cơn sốc cũng không nên kéo dài hơn một vài khoảnh khắc ngưng lại trước khi điều đã xảy ra được đánh giá đúng thực và một viễn kiến thích đáng được tiếp nhận. Dù là một người bạn rất thân cũng vậy, môn sinh phải có thể bước đi trên con đường tế nhị giữa lòng bi mẫn với những người đang chịu tang và việc khuyến khích nỗi bi thương của họ. Đây là một trắc nghiệm thật sự và hiếm khi được vượt qua, đó là năng lực biểu lộ kỷ luật cảm xúc sao cho được chính linh hồn của môn sinh hoan nghênh.

The desperate urge of the Disciple to know the purpose of his own Soul, inevitably draws him into seeking the nature of his previous lives in the hope that these might reveal qualities of expression common to them all. To know that you have been a successful doctor—at the humanitarian level—indicates a capacity to succeed in the same profession in this life. But more than that can be revealed if a whole series of lives is known. Not only do certain capacities stand out but incapacities are revealed as well. To know what he is not suited to from the point of view of ray temperament is most helpful to the pupil. It helps to make a list of your aims in this life and then to eliminate from it fields of expression that are completely outside the trend indicated by the previous lives. The elimination of dead-ends, blind alleys, and englamoured projects from the list frees the disciple for the more important work that he now knows can be encompassed with his current ray equipment.

Nỗi thôi thúc khẩn thiết của người Đệ tử muốn biết mục đích của chính Linh hồn mình tất yếu dẫn y đến việc truy cầu bản chất của các đời trước với hy vọng rằng những đời đó có thể hé lộ những phẩm tính biểu lộ chung cho tất cả. Biết rằng bạn từng là một lương y thành công — ở cấp độ nhân ái — cho thấy một năng lực thành công trong cùng nghề nghiệp ở đời này. Nhưng có thể hé lộ nhiều hơn thế nếu cả một chuỗi đời được biết đến. Không chỉ những năng lực nổi bật được hiển lộ mà cả những bất năng cũng được phơi bày. Biết mình không thích hợp với điều gì từ góc nhìn khí chất cung đặc biệt hữu ích cho môn sinh. Hãy lập một danh sách các mục tiêu của bạn trong đời này, rồi loại bỏ khỏi đó những lĩnh vực biểu hiện hoàn toàn nằm ngoài xu hướng đã được chỉ ra bởi các đời trước. Việc loại trừ những ngõ cụt, những hẻm mù, và những dự án bị ảo cảm phủ bóng khỏi danh sách sẽ giải phóng đệ tử cho những công việc quan trọng hơn mà y giờ đã biết là có thể bao quát được với ‘thiết bị cung’ hiện tại của mình.

Who will provide adequate knowledge of previous lives? There is only one certain method of obtaining the correct information. Gaining it from clairvoyants is far too hazardous a procedure. There are many scurrilous individuals living off the gullible with their so-called life-readings. They are safe from detection in their fraud or their self-delusions. No one can say yea or nay to them. They can utter—as they often do—the purest drivel without fear of contradiction from Hawaii to Harlem. In the end, it is the esoteric student who must find this information either in meditation or through the offices of a Master of the Wisdom. The Masters do not advance such private information merely to satisfy the curiosity of the aspirant; nor do They pry into previous lives except where this is requested of them and where the pupil is eligible for such information. Usually it is given only to assist the pupil to overcome some problems which stand in the way of his spiritual unfoldment or to enable him to become a fitter person to serve mankind. If those previous lives have been insignificant from a historical point of view, there will be little value in imparting the information. It would be of very little help to the pupil to be told that he was a Hindu landowner named Naidoo in the sixteenth century or that he was an English fisherman named John Brown in the seventeenth century. If a prominent life is given, then it is possible for the pupil to look up references or to comb biographical material and study the character of that life and use the knowledge gained for his own correction or adjustment of his intentions, attitudes and habits. This is one reason why criticism levelled at reincarnationists that their lives all seemed to have been famous is unjustified.

Ai sẽ cung cấp tri thức đầy đủ về các đời trước? Chỉ có một phương pháp chắc chắn để thu được thông tin đúng. Tìm nó từ các nhà thông nhãn là một cách quá mạo hiểm. Có nhiều hạng người bỉ ổi sống bám vào những kẻ cả tin bằng ‘những bài đọc đời sống’ tự xưng. Họ an toàn khỏi việc bị phát giác trong trò lừa đảo hay ảo tưởng tự thân. Không ai có thể nói vâng hay không với họ. Họ có thể phun ra — như họ thường làm — những điều vô nghĩa tinh ròng mà không sợ bị phản bác từ Hawaii tới Harlem. Sau cùng, chính đạo sinh huyền môn phải tìm thông tin này hoặc trong tham thiền hoặc thông qua sự trợ giúp của một Chân sư Minh triết. Các Chân sư không đưa ra những thông tin riêng tư như vậy chỉ để thoả mãn tính tò mò của người chí nguyện; Các Ngài cũng không ‘dò xét’ các đời trước trừ khi điều này được yêu cầu và khi môn sinh đủ điều kiện để nhận thông tin như vậy. Thông thường, nó chỉ được ban ra nhằm hỗ trợ môn sinh vượt qua một số vấn đề cản trở sự khai mở tinh thần của y, hoặc để giúp y trở nên thích hợp hơn cho việc phụng sự nhân loại. Nếu các đời trước ấy vô danh xét theo quan điểm lịch sử, sẽ ít giá trị khi truyền đạt thông tin. Sẽ rất ít hữu ích cho môn sinh nếu chỉ được bảo rằng y là một địa chủ Ấn Độ tên Naidoo vào thế kỷ 16, hoặc một ngư phủ Anh tên John Brown vào thế kỷ 17. Nếu một đời nổi bật được nêu, thì môn sinh có thể tra cứu tài liệu hoặc lần theo tư liệu tiểu sử, khảo sát tính cách của đời ấy và sử dụng tri thức thu được để tự điều chỉnh hay chỉnh sửa ý hướng, thái độ và thói quen của mình. Đây là một lý do vì sao lời chỉ trích nhắm vào những người tin tái sinh — rằng những đời của họ dường như đều nổi tiếng — là không công bằng.

Of course there are many absurdities associated with the searches for previous lives. The author has, on several occasions, been at gatherings where there have been two claimants at least to the role of Queen Nefertiti! And then there is the matter of Soul-mates. It has always surprised him that the divorce rate amongst Soul-mates has been so high! Then there have been many claimants to St. Francis of Assisi and this is not surprising. This was, in fact, the previous life of the Master K.H. and many pupils who have served Him in previous lives are still keenly attuned to His vibrations and, no doubt, pick up impressions of that life through this attunement with Him. It all goes to emphasize the importance of the necessity to differentiate the real from the unreal.

Dĩ nhiên có nhiều điều ngớ ngẩn gắn với việc truy tìm các đời trước. Tác giả đã, vào vài dịp, có mặt ở những buổi hội họp nơi có ít nhất hai người tự nhận là Nữ hoàng Nefertiti! Rồi lại còn chuyện Bạn-linh-hồn. Ông luôn ngạc nhiên vì tỷ lệ ly hôn giữa các Bạn-linh-hồn lại cao đến thế! Rồi có nhiều người tự nhận là Thánh Phanxicô Assisi — điều này không đáng ngạc nhiên. Đó, trên thực tế, là đời trước của Chân sư K.H., và nhiều môn sinh đã phụng sự Ngài trong các đời trước vẫn còn cộng hưởng nhạy bén với rung động của Ngài và không nghi ngờ gì, bắt được những ấn tượng về đời sống đó thông qua sự đồng điệu với Ngài. Tất cả đều nhấn mạnh tầm quan trọng của sự cần thiết phải phân biệt cái thực với cái hư.

Karmic Factors—Các Yếu Tố Nghiệp

A survey of previous lives quickly brings home the lessons of karma:

Một cuộc khảo sát các đời trước nhanh chóng đem lại những bài học về nghiệp quả:

‘In the Hindu view, spirit no more depends on the body it inhabits than body depends on clothes that it wears or the house it lives in. When we outgrow a suit or find our house too cramped, we exchange these for roomier ones that offer our bodies freer play. Souls do the same … The mechanism that ties these new acquisitions together is the law of karma …’

‘Theo quan niệm Ấn giáo, tinh thần không lệ thuộc vào thân xác mà nó cư trú hơn là thân xác lệ thuộc vào y phục nó mặc hay căn nhà nó ở. Khi chúng ta lớn hơn một bộ y phục hay thấy căn nhà quá chật chội, chúng ta đổi lấy những cái rộng rãi hơn, cho phép thân thể ta cử động tự do hơn. Linh hồn cũng làm như vậy … Cơ chế nối kết những ‘vật sở hữu’ mới này lại với nhau là định luật nghiệp …’

The Religions of Man, by Professor Huston Smith, Massachusetts Institute of Technology.

Các Tôn giáo của Con Người , của Giáo sư Huston Smith, Học viện Công nghệ Massachusetts.

The pupil is most careful about setting in motion karma-enducing factors in his life which must be dealt with in lives to come. At the same time, he is aware that all action, good or evil, is karma-enducing. This applies even to his acts of service to mankind but he realises that personal karma is rapidly lessened and instead, opportunities arise for him to work off the karma of entities greater than himself. There is the karma of mankind and that of the planet itself, both of which are intimately related to pain and suffering. He learns that his suffering has meaning and purpose and though he may not have earned it as an individual, he has, as part of the greater being, to share the responsibilities of the ‘One in Whom he lives and moves and has his being’. The Westerner is increasingly aware of his responsibilities, karmic or otherwise. The word ‘Karma’ is used increasingly in the language and is heard frequently now on radio and television:

Môn sinh hết sức cẩn trọng trong việc khởi động những yếu tố gây nghiệp trong đời mình, những thứ sẽ phải xử lý trong các đời tới. Đồng thời, y ý thức rằng mọi hành động, thiện hay ác, đều gây nghiệp. Điều này áp dụng ngay cả cho những hành vi phụng sự nhân loại của y, nhưng y nhận ra rằng nghiệp riêng giảm nhanh chóng và thay vào đó, phát sinh những cơ hội để y gánh vác nghiệp của những hữu thể lớn hơn chính mình. Có nghiệp của nhân loại và nghiệp của chính hành tinh, cả hai đều liên hệ mật thiết với đau đớn và khổ não. Y học được rằng nỗi khổ của mình có ý nghĩa và mục đích, và dù y có thể không ‘tạo’ ra nó như một cá nhân, y — như một phần của Hữu thể lớn hơn — phải chia sẻ trách nhiệm của ‘Đấng mà trong Ngài y sống, chuyển động và hiện hữu’. Người Tây phương ngày càng ý thức trách nhiệm của mình, nghiệp hoặc phi nghiệp. Từ ‘Nghiệp’ được dùng ngày càng nhiều trong ngôn ngữ và hiện được nghe thường xuyên trên đài phát thanh và truyền hình:

‘Karma means, roughly, the moral law of cause and effect. Science has alerted the Western world to the importance of causal relationships in the physical world. Every physical event, we are inclined to believe, has its cause, and every cause will have its determinate effects. India extends this concept of universal causation to include man’s moral and spiritual life as well. To some extent the West has also. “As a man sows, so shall he reap” or again, “Sow a thought and reap an act, sow an act and reap a habit, sow a habit and reap a character, sow a character and reap a destiny” … these are the ways the West has made the same point. The difference is that India tightens up and extends its concept of moral law to see it as absolutely binding and brooking no exceptions. The present condition of each individual’s interior life … how happy he is, how confused or serene, how much he can see … is an exact product of what he has wanted and got in the past; and equally, his present thoughts and decisions are determining his future states. Each act he directs upon the world has its equal and opposite reaction on himself. Each thought and deed delivers an unseen chisel blow towards the sculpturing of his destiny.

‘Nghiệp có nghĩa, đại khái, là định luật đạo đức của nhân-quả. Khoa học đã cảnh tỉnh thế giới Tây phương về tầm quan trọng của các quan hệ nhân quả trong thế giới vật lý. Chúng ta có khuynh hướng tin rằng mọi biến cố vật lý đều có nguyên nhân của nó, và mọi nguyên nhân sẽ có những hiệu quả tất định. Ấn Độ mở rộng khái niệm nhân quả phổ quát này để bao gồm cả đời sống đạo đức và tinh thần của con người. Đến một mức độ nào đó, phương Tây cũng vậy. “Gieo nhân nào gặt quả nấy” hoặc nữa, “Gieo một tư tưởng gặt một hành vi, gieo một hành vi gặt một thói quen, gieo một thói quen gặt một tính cách, gieo một tính cách gặt một định mệnh” … đó là những cách phương Tây đã nói cùng một điều. Khác biệt là Ấn Độ siết chặt và mở rộng khái niệm định luật đạo đức để nhìn nó như một quy luật tuyệt đối ràng buộc và không dung thứ ngoại lệ. Tình trạng hiện tại của đời sống nội tâm của mỗi cá nhân … y hạnh phúc đến mức nào, bối rối hay an tĩnh ra sao, thấy được bao nhiêu … là sản phẩm chính xác của những gì y từng mong muốn và đạt được trong quá khứ; và cũng vậy, những tư tưởng và quyết định hiện tại của y đang quyết định những trạng thái tương lai. Mỗi hành động y hướng vào thế giới đều có phản ứng ngang bằng và ngược chiều lên chính y. Mỗi tư tưởng và hành động đều giáng một nhát đục vô hình lên bức tượng định mệnh của y.

‘This idea of karma and the completely moral universe it implies … commits the Hindu who understands it to complete (his own) personal responsibility … Most persons are unwilling to admit this. They prefer, as the psychologists would say, to project to, to locate the source of their difficulties outside themselves … This, say the Hindus, is simply immature …

‘Quan niệm này về nghiệp và vũ trụ hoàn toàn đạo đức mà nó hàm ý … buộc người Ấn Độ nào hiểu nó phải hoàn toàn chịu trách nhiệm cá nhân … Hầu hết người ta không sẵn lòng thừa nhận điều này. Theo cách nói của các nhà tâm lý học, họ thích phóng chiếu, thích định vị nguồn gốc những khó khăn của mình ở bên ngoài bản thân … Điều này, người Ấn Độ nói, đơn giản là chưa trưởng thành …

Because karma implies a lawful world, it has often been interpreted as fatalism. However often the Hindus may have succumbed to this interpretation, it is untrue to the doctrine itself. Karma decrees that every decision must have its determinate consequences, but the decisions themselves are, in the last analysis, freely arrived at. Or, to approach the matter from the other direction, the consequences of a man’s past decisions condition his present lot, as a card player finds himself dealt a particular hand; but is left free to play that hand in a number of ways. This means that the career of a Soul as it threads its course through innumerable human bodies is guided by its choices … We live in a world in which there is no chance or accident; the words are simply covers for ignorance.

Bởi vì nghiệp hàm ý một thế giới có luật lệ, nó thường bị diễn giải là định mệnh chủ nghĩa. Tuy nhiên, dù người Ấn Độ có thể thường xuyên sa vào cách hiểu này đến đâu, thì đó vẫn là điều không trung thực với giáo lý tự thân. Nghiệp quy định rằng mọi quyết định phải có những hậu quả tất định, nhưng các quyết định tự chúng, xét đến cùng, được đưa ra một cách tự do. Hoặc, tiếp cận từ hướng khác, hậu quả của các quyết định quá khứ của một người quy định cảnh ngộ hiện tại của y, như người đánh bài nhận một tụ bài nhất định; nhưng y vẫn tự do chơi tụ bài ấy theo nhiều cách. Điều này có nghĩa là sự nghiệp của một Linh hồn khi nó luồn lách qua vô số thân người được dẫn dắt bởi những lựa chọn của nó … Chúng ta sống trong một thế giới không có cơ may hay ngẫu biến; những từ ấy đơn giản chỉ che đậy cho sự vô minh.’

ibid

—sđd

Aware of his several incarnations in Rome, the writer was in some trepidation about the karmic implications of them. The Master Robert Browning was able to give His assistance. The violent physical karma of Rome was worked out through my own participation in World War II, in which I was severely wounded on two occasions. The remaining karma has been put to good effect in this life. I was able to apply it to my work in North America. I adopted, on His advice, tactics similar to those the Romans had used. In my tours of North America, I assisted in the forming of many esoteric groups, always being careful not to dominate them and to encourage local esotericists to lead them.

Ý thức về nhiều lần lâm phàm của mình ở La Mã, người viết đã có phần e ngại về các hệ quả nghiệp của chúng. Chân sư Robert Browning đã có thể ban sự trợ giúp. Nghiệp thân xác bạo liệt của La Mã đã được giải toả qua sự tham chiến của chính tôi trong Thế chiến II, trong đó tôi bị thương nặng hai lần. Phần nghiệp còn lại đã được vận dụng hữu hiệu trong đời này. Tôi đã có thể áp dụng nó cho công việc của mình ở Bắc Mỹ. Theo lời khuyên của Ngài, tôi áp dụng những chiến thuật tương tự như người La Mã từng dùng. Trong các chuyến du hóa Bắc Mỹ, tôi đã trợ giúp thành lập nhiều nhóm huyền môn, luôn cẩn trọng không thống trị họ và khuyến khích các nhà huyền bí học địa phương lãnh đạo họ.

Whenever they needed energising or regrouping or strengthening I would be sure to take them into my round of visits on the next tour. In this way, a central driving force could be structured without being hampered by too many demands from dependent colonies. The local governor was expected to rule. Occasionally, because of various circumstances, he had to be replaced, but the mistake was never made of clinging personally to leadership of any local group.

Mỗi khi họ cần tiếp sinh lực hay tái phối trí hoặc tăng cường, tôi bảo đảm đưa họ vào lịch trình thăm viếng trong chuyến du hóa kế tiếp. Bằng cách này, một lực trung tâm điều động có thể được cấu trúc mà không bị cản trở bởi quá nhiều đòi hỏi từ các ‘thuộc địa’ lệ thuộc. Vị thống đốc địa phương được kỳ vọng sẽ cai quản. Đôi khi, vì nhiều hoàn cảnh, ông ta phải được thay thế, nhưng sai lầm không bao giờ là níu giữ cá nhân việc lãnh đạo bất kỳ nhóm địa phương nào.

This is merely a personal example of how to use knowledge of one’s karma effectively in the service of mankind and, in such circumstances, the Masters are anxious to make knowledge of previous lives available to such a pupil. It also implies that the work of that disciple must be important enough for a Master to intervene. Once a leader is energised in this way, there is rarely any endeavour to work around that leader but rather through him. In this sense, the pupil has to win his spurs proving time and again that he can be relied on, that through his courage and persistence he can be given a share of the Hierarchy’s work. When the various trials have proved him competent and spiritually trustworthy, then the Master’s attention may be switched from old, worn-out, concretised or entrenched groups to the bright new knight in shining armour.

Đây chỉ là một ví dụ cá nhân về cách sử dụng tri thức về nghiệp của chính mình một cách hiệu quả trong phụng sự nhân loại, và trong những hoàn cảnh như thế, các Chân sư rất mong mỏi làm cho môn sinh như vậy biết về các đời trước. Nó cũng hàm ý rằng công việc của đệ tử ấy phải đủ quan trọng để một Chân sư can thiệp. Một khi một người lãnh đạo được tiếp sinh lực theo cách này, hiếm khi có nỗ lực nào nhằm làm việc ‘vòng qua’ vị lãnh đạo đó, mà đúng hơn là thông qua y. Theo nghĩa này, môn sinh phải ‘đoạt cương tước hầu’, chứng minh hết lần này đến lần khác rằng y đáng tin cậy, rằng qua dũng khí và kiên định, y có thể được giao một phần công việc của Thánh Đoàn. Khi các trắc nghiệm khác nhau đã chứng tỏ y có năng lực và đáng tin cậy về tinh thần, thì sự chú ý của Chân sư có thể chuyển khỏi những nhóm cũ kỹ, xơ cứng, bị cụ thể hoá hay bám rễ, để hướng đến ‘chàng kỵ sĩ mới’ sáng loáng giáp trụ.

That we inherit the body and the circumstances we deserve is stressed again and again in the Wisdom of the Ages and in the observations of reincarnationists:

Rằng chúng ta thừa hưởng thân xác và hoàn cảnh xứng đáng với mình được nhấn mạnh lặp đi lặp lại trong Minh Triết Ngàn Đời và trong những quan sát của những người tin tái sinh:

‘King Solomon speaks: Now I was a child by nature, and a good soul fell to my lot. Nay, rather, being good, I came into a body undefiled’. The Wisdom of Solomon 8:19-20.

‘Vua Solomon nói: Nay ta là một đứa trẻ theo bản tánh, và một linh hồn tốt lành đã thuộc về phần của ta. Không, đúng hơn, vì là người tốt lành, ta đã vào một thân xác không ô uế’. Sách Khôn ngoan của Solomon 8:19–20.

There are exceptions to this rule, of course. If the wide spectrum of human souls were arranged in such a way that the youngest were placed to the left and the oldest—most spiritually advanced—were placed to the right, then suitable bodies are rarely available for the extremes of that spectrum. Thus, it is truthfully said, that there are Buddhas galore awaiting suitable bodies to reincarnate in and with environments appropriate to them. Many highly spiritual beings find their way into bodies and circumstances neither suited to the Soul’s purpose or commensurate with their degree of development and some of these form that group which we call super-gifted children and they are dealt with later. Similarly, those from the left end of the hypothetical spectrum find their way, sometimes, into bodies that are too spiritual and environments that are too organised for their degree of unfoldment, and delinquency may result.

Dĩ nhiên có những ngoại lệ đối với quy luật này. Nếu phổ rộng của các linh hồn nhân loại được sắp xếp sao cho những linh hồn non trẻ nhất đặt ở phía trái và những linh hồn già dặn nhất — tiến bộ nhất về tinh thần — đặt ở phía phải, thì những thân xác thích hợp hiếm khi sẵn có cho hai đầu mút của phổ ấy. Vì vậy, người ta nói rất đúng rằng có vô số chư Phật đang chờ những thân xác thích đáng để tái sinh, cùng với những môi trường phù hợp với các Ngài. Nhiều hữu thể rất cao cả về tinh thần đi vào những thân xác và hoàn cảnh không thích hợp với mục đích của Linh hồn, hoặc không tương xứng với mức độ phát triển của họ; một số trong đó tạo thành nhóm mà chúng ta gọi là những đứa trẻ siêu tài, sẽ được đề cập sau. Tương tự, những kẻ thuộc phía trái của phổ giả định kia đôi khi lọt vào những thân xác quá ‘tinh thần’ và những môi trường quá tổ chức so với mức khai mở của họ, và kết quả có thể là sự lầm lạc.

Social Assimilation —Sự Hoà nhập Xã hội

To be truly effective as a Pupil, there must be a real contribution by him to the climate of thought and the cultural heritage of his territory. This serves the purpose of expressing his urges to serve mankind and assists in the process of unfolding his Alta Major chakra. This chakra rotates sagittally within the neck. The axis of its wheel lies between the two carotid bodies located in the bifurcations of the carotid arteries. —

Để thực sự hữu hiệu như một Môn sinh, y phải có một đóng góp thực sự vào khí hậu tư tưởng và di sản văn hóa của vùng đất mình. Điều này phục vụ mục đích biểu lộ những thôi thúc phụng sự nhân loại của y và trợ giúp tiến trình khai mở luân xa alta major của y. Luân xa này quay trong chiều dọc trước-sau ở trong cổ. Trục của bánh xe nằm giữa hai thể cảnh, định vị ở chỗ chia đôi của các động mạch cảnh.

Just as a fusion of immigrants or of members of a minority group into the national culture leads to social assimilation, there should also be, at a deeper level, spiritual assimilation.

Cũng như sự hoà trộn của người nhập cư hay thành viên các nhóm thiểu số vào văn hoá quốc gia dẫn đến sự hoà nhập xã hội, thì ở tầng sâu hơn, cũng cần có sự hoà nhập tinh thần.

One of the main arguments against the most oriental types of yoga is that the effect of them on the pupil produces such eccentricity of life style that assimilation into the culture becomes impossible and the pupil’s contribution in that direction is negated. Science will discover in the centuries ahead that there are biological processes underlying social assimilation, that mental, emotional and etheric emanations both from the minority group and the national one pave the way for such blending and that ultimately this works through broadly to physical levels where the characteristics thus acquired are transmitted, but not necessarily genetically.

Một trong những luận điểm chính chống lại các loại yoga đậm chất Đông phương nhất là tác động của chúng lên môn sinh tạo ra một lối sống lập dị đến mức việc hoà nhập vào văn hoá trở nên bất khả, và do đó đóng góp của môn sinh theo hướng ấy bị vô hiệu. Khoa học sẽ khám phá trong các thế kỷ tới rằng có những tiến trình sinh học nằm dưới hiện tượng hoà nhập xã hội; rằng các phát xạ trí tuệ, cảm xúc và dĩ thái từ cả nhóm thiểu số lẫn cộng đồng quốc gia trải đường cho sự hoà trộn như thế; và rằng rốt cuộc điều này tác động rộng ra đến các cấp độ thể xác, nơi những đặc tính thu nhận được được truyền lưu, nhưng không nhất thiết theo di truyền.

The effect of a pupil on his environment is even more profound. His refined, disciplined and one-pointed attitudes have a much more powerful effect than those of average man.

Ảnh hưởng của một môn sinh lên môi trường của y còn thâm sâu hơn nhiều. Những thái độ tinh luyện, có kỷ luật và nhất tâm của y có hiệu lực mạnh hơn rất nhiều so với thái độ của người bình thường.

Where there is a group working in this way, the effects on the culture of the territory concerned can be devastating and rapid. This will become even more so in the New Age, now upon us, where the energies of Aquarius focus best through groups and those of Jupiter—esoteric ruler of Aquarius—provide expansiveness especially in areas which are less Piscean and not oriented entirely towards Christian dogma. There is nothing more aesthetically attractive and capable of engaging empathy than a Hindu holy-man in his saffron robes or a Zulu woman in her tribal beads and clay-pack hairstyle. But where a westerner sets out to ape the holy-man or a Zulu to copy the westerner we get only incongruities that are never aesthetic and rarely assimilable.

Nơi nào có một nhóm làm việc theo cách này, tác động lên văn hóa của vùng liên hệ có thể dữ dội và mau lẹ. Điều này sẽ còn mạnh hơn nữa trong Kỷ Nguyên Mới, vốn đã đến với chúng ta, nơi các năng lượng của Bảo Bình phát huy tốt nhất qua các nhóm, và năng lượng của Sao Mộc—chủ tinh huyền môn của Bảo Bình—mang lại sự mở rộng, nhất là ở những miền bớt tính Song Ngư và không hoàn toàn thiên về tín điều Kitô giáo. Không gì hấp dẫn về mặt mỹ cảm và có khả năng khơi dậy đồng cảm cho bằng một đạo sĩ Ấn giáo trong tấm áo nghệ tây, hay một phụ nữ Zulu với chuỗi hạt bộ tộc và kiểu tóc phết bùn. Nhưng khi một người phương Tây nhất quyết bắt chước đạo sĩ, hay một người Zulu cố bắt chước người phương Tây, thì chúng ta chỉ nhận được những điều không ăn nhập, chẳng bao giờ là mỹ cảm và hiếm khi đồng hóa nổi.

Much as one appreciates the sincerity behind the western kids who shave their heads, dress in saffron and sing in chorus on street corners about a pantheistic deity, it is a sorry sight even for those with a background of esoteric training. Far from bringing assimilation, it is producing a sensitisation and even antagonism towards oriental mysticism.

Dẫu người ta có trân trọng chân tình nơi những bạn trẻ phương Tây cạo đầu, khoác áo nghệ tây và đứng ở các góc phố hát đồng ca về một vị Thượng đế phiếm thần, thì đó vẫn là một cảnh ngậm ngùi ngay cả với những ai có nền huấn luyện huyền bí. Thay vì đem lại sự đồng hóa, nó đang gây nên mẫn cảm hóa và thậm chí đối kháng với thần bí học phương Đông.

Annulment—Hủy giải

This is a mental mechanism which can be invoked by the pupil who has trained his will to deal with events, people or things which are unpleasant to him, directly or through memory of them. He decides that these cause him such painful emotions that it is easier to dismiss them, by an act of will from his consciousness than to face them and deal with them at an emotional level. Thus in the case of a pupil forced to spend long periods away from his home, he might, by an act of will shut out memory of loved ones until his return. This should only be done when adequate provision is made for them so that his annulment is not confused with lack of necessary concern or with a deliberate evasion of his dharmic responsibilities.

Đây là một cơ chế trí tuệ mà đệ tử có thể khởi động khi y đã rèn luyện ý chí để đề cập đến những biến cố, con người hay sự vật gây khó chịu cho y, trực tiếp hoặc qua ký ức về chúng. Y quyết định rằng những thứ ấy gây cho y những cảm xúc quá đau đớn đến nỗi dễ hơn là loại bỏ chúng khỏi tâm thức bằng một hành vi ý chí, còn hơn là đối diện và giải quyết chúng ở bình diện cảm xúc. Như vậy, trong trường hợp một đệ tử bị buộc phải xa nhà lâu ngày, y có thể, bằng một hành vi ý chí, gạt bỏ ký ức về người thân cho đến khi trở về. Điều này chỉ nên làm khi đã chu cấp thỏa đáng cho họ, để sự hủy giải của y không bị lẫn với sự thiếu quan tâm cần thiết hay với việc cố tình né tránh các trách nhiệm dharma của mình.

Or there might be, for instance, someone hostile to his work, whom he proceeds to ignore rather than spend energy in fruitless worrying or brooding over his antagonist. He merely renders the offending person, event or thing, or memory of it, non-existent.

Hoặc, thí dụ, có thể có ai đó thù nghịch với công việc của y, và y chọn cách phớt lờ hơn là tốn năng lượng lo âu vô ích hoặc ủ ê nghĩ mãi về đối phương. Y chỉ đơn giản khiến cho người, sự kiện hay sự vật gây xúc phạm, hoặc ký ức về nó, trở thành phi hiện hữu.

This should not be confused with repression which is of an entirely different nature. In repression, painful experiences are pushed down into the unconscious, after which they may surface as dreams or even in symptoms of a psychiatric disorder.

Việc này không nên lẫn với sự dồn nén, vốn có bản chất hoàn toàn khác. Trong dồn nén, những trải nghiệm đau đớn bị đẩy xuống vô thức, sau đó có thể trồi lên dưới dạng giấc mơ hoặc thậm chí thành các triệu chứng rối loạn tâm thần.

The more integrated the personality, the more successful will the pupil likely to be. He undertakes an act of voluntary amnesia in which he annuls specific events or ideas. Nothing else is included except these events. At no time has he lost the ability to recollect them. He merely refuses, by an act of will, to allow them to take up his attention in any way. Energy follows thought, and where no thought of these unpleasant factors occurs, no energy is wasted. The rules of Pupilage concerning harmlessness are thus not broken by indulging in harmful thoughts and actions in reciprocation.

Phàm ngã càng được tích hợp, đệ tử càng có nhiều khả năng thành công. Y tiến hành một hành vi quên tự nguyện trong đó y hủy giải những biến cố hoặc ý niệm xác định. Không có gì khác được bao gồm ngoài các biến cố ấy. Không lúc nào y đánh mất khả năng hồi tưởng về chúng. Y chỉ đơn giản từ chối, bằng một hành vi ý chí, không để chúng chiếm dụng sự chú ý của y theo bất cứ cách nào. Năng lượng theo sau tư tưởng, và nơi nào không có tư tưởng về các yếu tố khó chịu này, nơi đó không có năng lượng bị lãng phí. Các quy luật của địa vị đệ tử liên quan đến tính vô tổn hại vì thế không bị phá vỡ bởi sự buông thả vào các tư tưởng và hành động gây hại để trả đũa.

The pupil’s actions in annulling should not be confused with hysterical amnesia which is an emotional method of dealing with such matters. In treating hypertension when the unpleasant episodes are acting as stressor factors, annulment of these will remove the stimulus.

Hành vi hủy giải của đệ tử không nên bị lẫn với chứng quên loạn do cảm xúc, vốn là một phương pháp cảm dục để xử lý những việc như thế. Khi trị tăng huyết áp mà những biến cố khó chịu đang đóng vai trò tác nhân gây căng thẳng, hủy giải những biến cố đó sẽ loại bỏ kích thích.

Vrittis: Playthings of the Mind.

Vrittis: Trò chơi của thể trí.

On the Path of Pupilage, one must never cease from maintaining a determined vigilance so that the real can be increasingly separated from the unreal. Consciousness is an ever-changing pattern, a kaleidoscope that reflects endlessly the shifting forms that thrive on sensory input. Pupilage On The Path, in its early stages adds to the confusion of images flowing into the consciousness because there are now inflows that stem from deeper or inward sources. Every idea or mental representation is accompanied by a feeling-tone added to it from the astral plane, of which the so-called instincts are a part. In turn, these instincts are psychic representatives of the four basic drives that draw the Monad into ever-closing proximity and enmeshment with material form. We call the four drives, in their totality, Desire. (See diagram ‘The Aetiology Of Vrittis’ below).

Trên Con Đường Đệ Tử, người ta không bao giờ được lơi lỏng sự cảnh giác kiên định để cái thực có thể ngày càng được tách biệt khỏi cái phi thực. Tâm thức là một mô hình luôn biến dịch, một kính vạn hoa phản chiếu vô tận những hình tướng đổi thay phồn sinh nhờ đầu vào giác quan. Địa vị đệ tử trên Con Đường, ở giai đoạn đầu, còn làm tăng thêm sự rối loạn của các hình ảnh tuôn vào tâm thức vì lúc này đã có những dòng triều nhập lưu bắt nguồn từ các nguồn sâu hơn, hướng nội hơn. Mỗi ý niệm hay biểu trưng trí tuệ đều đi kèm một âm sắc cảm xúc được thêm vào từ cõi cảm dục, nơi cái gọi là các bản năng là một phần. Đến lượt mình, các bản năng này là những đại diện thông linh của bốn xung lực căn bản kéo Chân Thần vào sự cận kề ngày càng khít và mắc lưới với hình tướng vật chất. Chúng ta gọi tổng thể bốn xung lực này là Dục vọng . (Xem sơ đồ ‘Căn nguyên của các Vrittis’ bên dưới).

Thus, we see our thoughts constantly being tinged with emotional tones which we call ‘affect’. The clearest thinker, and it is usually a pupil with a strong bias towards the Fifth Ray of Concrete Knowledge, operates best with least affect. So too, do some schizophrenics!

Vì vậy, chúng ta thấy tư tưởng của mình liên tục bị nhiễm sắc thái cảm xúc mà chúng ta gọi là ‘cảm sắc’. Người tư duy minh bạch nhất, và thường đó là một đệ tử có thiên hướng mạnh về Cung năm của Tri thức Cụ thể, vận hành tốt nhất với ít cảm sắc nhất. Và một vài người tâm phân liệt cũng vậy!

When we withdraw our senses from contact with the outer world whether in preparation for sleep or for meditation, the feeling tone accompanying the thoughts becomes detached and tends to energise mental representations of the dweller-on-the-threshold. On the other hand, the mental ideas and images, now freed of the cohesiveness of astral matter, fragment and reassemble taking shapes which are closer in likeness to the environmental forms experienced in the waking consciousness of the period immediately preceding the sleep or meditation. In the twilight state that precedes sleep or meditation, these are called vrittis. They are emphatically unreal. They often mislead the inexperienced into believing they are communications from the gods, psychic experiences, extra-sensory perceptions. Nothing could be further from the truth. They merely herald the fact that the consciousness is beginning to cloud and that, shortly, the aspirant will be either asleep or entering the initial stages of what could lead to true meditation, i.e. ‘withdrawal of the senses’.

Khi chúng ta rút các giác quan khỏi tiếp xúc với ngoại giới, dù để chuẩn bị cho giấc ngủ hay cho tham thiền, âm sắc cảm xúc đi kèm tư tưởng trở nên tách rời và có khuynh hướng tiếp sinh lực cho các biểu trưng trí tuệ của Kẻ Chận Ngõ. Mặt khác, các ý niệm và hình ảnh trí tuệ, giờ đây được giải phóng khỏi tính cố kết của chất liệu cảm dục, vỡ vụn và tái kết hợp, mang những dạng gần giống hơn với các hình tướng môi trường đã trải nghiệm trong tâm thức tỉnh thức ở giai đoạn ngay trước giấc ngủ hay tham thiền. Trong trạng thái hoàng hôn dẫn vào ngủ hay tham thiền, các hiện tượng này được gọi là vrittis. Chúng dứt khoát là phi thực . Chúng thường đánh lạc hướng người chưa từng trải, khiến họ tin rằng đó là những truyền thông từ chư thần, là các kinh nghiệm thông linh, là tri giác siêu cảm. Sự thật không gì xa hơn điều đó. Chúng chỉ báo hiệu rằng tâm thức bắt đầu vẩn đục và rằng, chẳng mấy chốc, người chí nguyện sẽ hoặc ngủ, hoặc bước vào các giai đoạn đầu tiên có thể dẫn tới tham thiền đích thực, tức là ‘thu nhiếp các giác quan’.

Thus, in states of withdrawal, and these should be frequent in the life of the disciple, mental activity appears in the dream and twilight states as sensory images. Kretschener spoke of these as agglutination images:

Do đó, trong các trạng thái thu nhiếp—và điều này nên thường xuyên hiện diện trong đời sống của đệ tử—hoạt động trí tuệ xuất hiện trong mộng và trong trạng thái hoàng hôn như các hình ảnh cảm quan. Kretschener nói về chúng như những hình ảnh kết tụ:

‘What was thought of during the day as words, at night passes before us in dreams, in a visible series of images. These images sometimes maintain a scenic arrangement, but, with deeper clouding of consciousness, they fall to pieces into fragments of pictures which apparently go on without rules or regulations, and, under the influence of affects, again conglomerate into peculiar image groups, the image agglutinations. The faces of several persona, several objects of similar emotional value, in the dreams are seen as one, and are conglomerated into unity; this we call with Freud : condensation‘. Hysteria by E. Kretschener, Nervous and Mental Disease Publishing Co., 1926.

‘Những gì ban ngày được nghĩ bằng lời, đêm đến đi qua trước chúng ta trong mộng, thành một chuỗi hình ảnh có thể nhìn thấy. Những hình ảnh này đôi khi giữ được bố cục sân khấu, nhưng khi tâm thức vẩn đục sâu hơn, chúng vỡ ra thành những mảnh bức tranh dường như tiếp diễn không theo quy luật nào, và, dưới ảnh hưởng của các cảm sắc, lại kết tụ thành những nhóm hình ảnh kỳ lạ, những kết tụ hình ảnh . Mặt của vài người, vài đối tượng có giá trị cảm xúc tương tự, trong mộng được thấy như một, và được kết tụ lại thành một hợp nhất; điều này, theo Freud, chúng ta gọi là: ngưng kết ‘. Hysteria của E. Kretschener, Nervous and Mental Disease Publishing Co., 1926.

This leads us to the question of dreams. There is an attitude current in esoteric circles that all dreams are reflections of the truth. The disciple has to learn that in many instances they are not and that it takes years to learn to separate the real from the unreal in dream experience. The matter is complicated by the fact that as the pupil integrates his personality, its various elements become more independent, more energised and more vociferous!

Điều này dẫn chúng ta đến vấn đề giấc mơ. Có một thái độ đang lưu hành trong các giới huyền môn cho rằng mọi giấc mơ đều là phản chiếu của sự thật. Đệ tử phải học rằng trong nhiều trường hợp không phải thế, và rằng cần nhiều năm để học tách cái thực khỏi cái phi thực trong kinh nghiệm mộng. Vấn đề càng phức tạp bởi thực tế là khi đệ tử tích hợp phàm ngã của mình, các yếu tố khác nhau của nó trở nên độc lập hơn, được tiếp sinh lực mạnh hơn và ‘ồn ào’ hơn!

Each little ‘I’ becomes so powerful that it adds its voice and opinions to the dream content, attracting to itself images and symbols vibrating to its own separate note. Certainly the Soul, or the Master Himself may tune into the dream-life of the aspirant and manipulate images in order to impress some communication on to the brain cortex.

Mỗi cái ‘Tôi’ nhỏ trở nên mạnh đến mức nó thêm tiếng nói và ý kiến của nó vào nội dung giấc mơ, hút về mình các hình ảnh và biểu tượng rung điệu với âm điệu riêng biệt của nó. Chắc chắn Linh hồn, hay chính vị Chân sư, có thể điều âm vào đời sống mộng của người chí nguyện và thao tác các hình ảnh để ghi ấn một thông tri nào đó lên vỏ não.

It is only when the pupil has first accomplished personality integration and added it to the elimination of ego i.e., personality ego, that these satellite personalities fall away from the dream-life and the art of dreaming true becomes one of the pupil’s newly-won accomplishments as part of the inevitable task of equipping himself. The intervention of a higher, spiritual element in this process which stems from the inner Self, is termed in the author’s own school of instruction as ‘overlording’ and has been added to the diagram below.

Chỉ khi đệ tử trước hết đã hoàn tất việc tích hợp phàm ngã và thêm vào đó sự loại trừ ngã chấp tức phàm ngã, thì những ‘tiểu nhân cách’ vệ tinh ấy mới rơi khỏi đời sống mộng, và nghệ thuật mộng chân thật trở thành một trong những thành tựu mới đạt của đệ tử như một phần của nhiệm vụ tất yếu là tự trang bị mình. Sự can thiệp của một yếu tố tinh thần cao hơn trong tiến trình này, bắt nguồn từ Tự Ngã nội tại, được gọi trong trường phái giáo huấn của tác giả là ‘overlording’ và đã được thêm vào sơ đồ bên dưới.

00035.jpeg

Natural Law —Định luật Tự nhiên

The pupil learns that things transient tend towards the unreal where as that which is eternal and non-transient is, of course, part of the real. He learns to contemplate the level sun, at dawn and at dusk, at the equinox and at the eclipse. He stands ever in awe at the starry firmament and notes the passage of seven giant head centres, the Plough or Great Bear, in their rotation about the ever-constant Polaris. He is comforted by the presence of Sirius and the knowledge that his spiritual destiny lies in drawing closer to its radiance and all that that symbolises. He cooperates with cycles and rhythms and recognises that Law rules the universe. —

Đệ tử học rằng những sự việc phù du có khuynh hướng hướng về cõi phi thực, trong khi cái vĩnh cửu và phi phù du dĩ nhiên thuộc phần của cái thực. Y học chiêm ngưỡng mặt trời ngang tầm, lúc bình minh và hoàng hôn, vào điểm phân và lúc nguyệt thực. Y luôn đứng trong niềm kính úy trước vòm trời đầy sao và ghi nhận sự tuần hành của bảy ‘trung tâm đầu’ khổng lồ, chòm Cái Cày hay Đại Hùng Tinh, trong vòng quay quanh Bắc Cực Tinh bất biến. Y được an ủi bởi sự hiện diện của Sirius và tri thức rằng định mệnh tinh thần của mình nằm ở việc tiến gần hơn tới quang huy của nó và tất cả những gì điều ấy biểu trưng. Y cộng tác với các chu kỳ và nhịp điệu và nhận biết rằng Định luật cai quản vũ trụ.

It is inevitable that conflict arises where the Divine Law seems to oppose the laws made by man, by transient nations or fleeting civilisations. Doubts arise, loyalties are undermined, questions point to the unanswerable:

Không tránh khỏi xung đột khởi sinh nơi Định luật Thiêng Liêng dường như đối kháng với các luật do con người đặt ra, bởi các quốc gia phù du hay những nền văn minh mau tàn. Nghi hoặc nảy sinh, trung thành bị xói mòn, câu hỏi chỉ về phía điều bất khả đáp:

For Men begin to pass their nature’s bound

Vì người ta bắt đầu vượt khỏi ranh giới bản tính mình

And find new hopes and cares which fast supplant

Và tìm thấy những hy vọng và bận tâm mới mau chóng thay thế

Their proper joys and griefs; they grow too great

Niềm vui và nỗi buồn riêng của họ; họ trở nên quá lớn

For narrow creeds of right and wrong, which fade

Cho những tín điều hẹp hòi về đúng và sai, những thứ phai tàn

before the unmeasured thirst for good; while peace

trước cơn khát vô biên hướng thiện; trong khi an bình

Rises within them ever more and more.

Mọc lên trong họ ngày một nhiều hơn nữa.

Such men are even now upon the earth,

Những con người như thế hiện đang có mặt trên trần gian,

Serene amid the half-formed creatures round.

An nhiên giữa các sinh thể mới nửa phần thành hình.

—Robert Browning, Paracelsus.

—Robert Browning, Paracelsus .

00039.jpeg

Learning from the postulates of ancient wisdom, that he is part of a greater being, in Whom he lives and moves and has his own being, makes it incumbent on the pupil to adjust his life away from the artificial towards the greater Life and to its laws:

Học theo các tiên đề của minh triết cổ, rằng y là một phần của một Đấng vĩ đại hơn, trong Đấng Ấy y sống, chuyển động và có chính sự hiện hữu của mình, khiến đệ tử buộc phải điều chỉnh đời sống xa rời điều nhân tạo để hướng về Sự sống lớn lao hơn và các định luật của nó:

‘Those who do not shrink from the natural, nor wallow in the artificial; they are near to perfection.’—Chuang Tzu, translator Giles, By George Allen and Unwin.

‘Những ai không lùi xa điều tự nhiên, cũng không đắm mình trong điều nhân tạo; họ gần với sự hoàn hảo.’—Chuang Tzu, dịch giả Giles, Nhà xuất bản George Allen and Unwin.

This does not mean that the esotericist is given free licence to abuse the laws of his land. He has to ‘render unto Caesar that which is Caesar’s’. He is a Son of Sacrifice and must live in society in order to serve mankind. The resolution of these matters reforms him, endows him with virtue, the refinement of character that entitles him to become an accepted pupil:

Điều này không có nghĩa là nhà huyền bí học được tự do lạm dụng luật lệ của xứ sở mình. Y phải ‘trả cho Caesar những gì thuộc về Caesar’. Y là một Con của Hy sinh và phải sống trong xã hội để phụng sự nhân loại. Sự hóa giải những điều này cải tạo y, ban cho y đức hạnh, sự tinh luyện của tính cách, điều xứng đáng cho y trở thành một đệ tử được thu nhận:

The natural abides within, the artificial without. Virtue abides in the natural.’ Ibid.

‘Tự nhiên ở trong, nhân tạo ở ngoài. Đức hạnh ở trong tự nhiên.’ Như trên .

The analogy of the cartwheel is of help here. Where the rim—the outer man—presses on the ground there is darkness and pressure and their are laws pertaining to the containing of that pressure. Where the rim is uppermost, there is release and exposure to light. Where the brake binds on the rim, there are friction and heat. But there is a place where all is balanced, a place of ultimate power out of which the resolution of all matters affecting the rim is resolved. This is the hub of the wheel, the inner place, equidistant from all points of the rim. Here, matters pertaining to the parts of the wheel are related to the carriage itself, to the Greater Being and its drives.

Phép loại suy về bánh xe càng hữu ích ở đây. Nơi vành bánh—con người bên ngoài—tì trên mặt đất có bóng tối và áp lực, và có những luật lệ liên quan đến việc kiềm giữ áp lực ấy. Nơi vành ở phía trên, có sự giải tỏa và phơi mở ra ánh sáng. Nơi má phanh ghì vào vành, có ma sát và nhiệt. Nhưng có một nơi mà mọi sự đều cân bằng, một nơi của quyền năng tối hậu, từ đó việc hóa giải mọi vấn đề liên hệ đến vành bánh được giải quyết. Đó là trục bánh, nơi nội tại, cách đều mọi điểm trên vành. Ở đây, các vấn đề liên hệ các bộ phận của bánh được quy chiếu về chính cỗ xe, về Đấng Lớn Lao hơn và các động lực của Nó.

In pupilage we must concern ourselves with Natural Law to become part of the whole. This concern with the whole includes the lower kingdoms of nature which are also part of that whole. Increase of responsibility is synonymous with increase of spirituality:

Trong địa vị đệ tử, chúng ta phải quan tâm tới Định luật Tự nhiên để trở thành một phần của toàn thể. Sự quan tâm đến toàn thể này bao gồm cả các giới thấp của thiên nhiên, vốn cũng là phần của toàn thể ấy. Tăng trách nhiệm đồng nghĩa với tăng tính tinh thần:

‘We must obey the laws of the earth if we wish to know the truths of the spirit’.—India & China, by Radhakrishnan.

‘Chúng ta phải tuân theo các luật của đất nếu chúng ta muốn biết những sự thật của tinh thần’.— India & China , của Radhakrishnan.

We cannot point to other men and say what is good for them is good for us—‘What’s good for the goose is good for the gander.’ The infant is not the adolescent. The adolescent is not the adult. The esoteric pupil is not an average man. Robust health will suit the latter but sensitive health is more appropriate for the former. The two are seldom found and seldom equated.

Chúng ta không thể chỉ vào người khác và nói điều gì tốt cho họ thì cũng tốt cho chúng ta—‘Cái gì tốt cho ngỗng cái cũng tốt cho ngỗng đực.’ Trẻ hài nhi không phải là thiếu niên. Thiếu niên không phải là người trưởng thành. Đệ tử huyền môn không phải là người trung bình. Sức khỏe lực lưỡng sẽ hợp với người sau, nhưng sức khỏe mẫn cảm lại thích hợp hơn cho người trước. Hai điều ấy hiếm khi cùng có và hiếm khi được đồng sánh.

‘If a man sleeps in a damp place, he will have a pain in his loins and half his body will be as if it were dead; but will it be so for an eel? If he is at the top of a tree he will be frightened and all of a tremble; but will it be so with the monkey? Among these three, who will know the right way of habitation?’ ‘Chang Tzu’, translator Fung Yu-lan, published by the Shanghai Commercial Press, 1933.

‘Nếu một người ngủ ở chỗ ẩm, y sẽ đau ngang hông và nửa thân như chết; nhưng điều đó có đúng với lươn chăng? Nếu y ở ngọn cây, y sẽ sợ hãi và run rẩy; nhưng điều đó có đúng với khỉ chăng? Trong ba trường hợp này, ai sẽ biết con đường trú ngụ đúng đắn?’ ‘Chang Tzu’, dịch giả Fung Yu-lan, Nhà xuất bản Shanghai Commercial Press, 1933.

Only natural law can provide the answer to man treading the Path of Self-Knowledge. The disciplines he should be practising lead him to comprehension of that Law. Through them he lives longer and more creatively. He becomes eligible for the energies that are available, not only to average man but to those in quality and quantity, pertaining to the Greater Being.

Chỉ có định luật tự nhiên mới có thể đưa ra lời giải cho con người đang bước trên Con Đường Tự Tri. Những kỷ luật y nên thực hành dẫn y đến sự lĩnh hội Định luật ấy. Nhờ chúng, y sống lâu hơn và sáng tạo hơn. Y trở nên xứng đáng để đón nhận những năng lượng sẵn có, không chỉ cho người trung bình mà còn những năng lượng về phẩm và lượng thuộc về Đấng Lớn Lao hơn.

How does natural law differ from laws made by society? Karl Popper says, ‘A law of nature is “descriptive”, whereas a law made by society is “prescriptive.” And there is a world of difference indicated by that comparison. Man-made laws prescribe what we may do, and what we may not do, irrespective as to whether the prescription conforms to the laws of nature or nature’s intent. Natural laws tell us what happens under certain conditions; water freezes at zero degrees centigrade and boils at 100 degrees. The body operates at 98.4 degrees F. These laws cannot be broken without consequences. They, or their implications reach out into society. For instance, boys are maturing at earlier and earlier ages because of better nutrition, health, living conditions, etc. The human male is at his most potent at the age of eighteen or nineteen. But society does not encourage marriage until a later age when the effects of being employed begin to bear fruit. The boy goes through a period of being unable to express himself, sexually (and, therefore emotionally) at the very time when nature has equipped him with maximum potency. Again, men and women are living longer and retiring earlier. Our grandchildren will probably live to an average age of 120 years. They will also probably retire by the age of fifty. This means a retirement of something like 70 years! What problems might arise out of this condition must remain the subject of conjecture. With marital laws as they are, there will have to be some massive changes in the way mankind occupies itself when not working. Men do not live as long as women. The gap is widening; longevity is increasing. The missing factors can only be discovered if natural law is more carefully examined.

Định luật tự nhiên khác gì với luật do xã hội đặt ra? Karl Popper nói, ‘Định luật của tự nhiên là “mô tả”, trong khi luật do xã hội đặt ra là “quy định.” Và có cả một thế giới khác biệt hàm ý trong sự so sánh ấy. Luật của con người quy định chúng ta được làm gì, không được làm gì, bất kể sự quy định đó có phù hợp với các định luật của tự nhiên hay ý định của tự nhiên hay không. Định luật tự nhiên nói cho chúng ta biết điều gì xảy ra dưới những điều kiện nhất định; nước đông đặc ở 0 độ C và sôi ở 100 độ. Thân thể vận hành ở 98,4 độ F. Những định luật này không thể bị vi phạm mà không có hậu quả. Chúng, hoặc những hàm ý của chúng, vươn ra xã hội. Thí dụ, các thiếu niên nam đang trưởng thành sớm hơn vì dinh dưỡng, sức khỏe, điều kiện sống tốt hơn, v.v. Nam giới đạt độ sung mãn nhất vào tuổi mười tám, mười chín. Nhưng xã hội lại không khuyến khích việc kết hôn cho đến tuổi muộn hơn khi hiệu ứng của việc làm bắt đầu kết trái. Chàng trai đi qua một giai đoạn không thể tự biểu lộ về tình dục (và do đó về cảm xúc) đúng vào lúc tự nhiên trang bị cho y sức mạnh tối đa. Lại nữa, những người nam và nữ đang sống lâu hơn và nghỉ hưu sớm hơn. Cháu chắt chúng ta có lẽ sẽ sống đến tuổi thọ trung bình 120 năm. Họ cũng có lẽ sẽ nghỉ hưu ở tuổi năm mươi. Điều này có nghĩa là nghỉ hưu chừng 70 năm! Những vấn đề có thể phát sinh từ điều kiện này phải còn là đối tượng để suy đoán. Với các luật hôn nhân như hiện tại, sẽ phải có những thay đổi lớn lao trong cách nhân loại tự chiếm dụng thời gian khi không làm việc. Nam giới không sống thọ bằng nữ giới. Khoảng cách đang nới rộng; tuổi thọ đang tăng. Những yếu tố còn thiếu chỉ có thể được phát hiện nếu định luật tự nhiên được khảo sát kỹ lưỡng hơn.

Law implies a law-maker hence the concept of Nature’s laws being the word of God. The esoteric pupil, and later the Initiate, learn to use the natural laws, i.e., to act on the Word of God. ‘In the beginning was the Word, etc., etc.’ Natural law does not bend to any science, religion, art or philosophy. It IS. In ancient days the Temples of Initiation were created out of reverence for these Laws and temples like Stonehenge and Karnak were oriented to the rising and setting sun to show due deference to natural Laws and to guide the masses into cooperation with them.

Định luật hàm ý một Đấng lập luật, do đó nảy sinh khái niệm rằng các định luật của Tự nhiên là Lời của Thượng đế. Đệ tử huyền bí học, và về sau là vị Điểm đạo đồ, học cách sử dụng các định luật tự nhiên, tức là hành động theo Linh từ của Thượng đế. ‘Khởi thủy đã có Linh từ, v.v ., v.v .’ Định luật tự nhiên không khuất phục bất cứ khoa học, tôn giáo, nghệ thuật hay triết học nào. Nó LÀ. Trong thời cổ, các Đền Điểm đạo được kiến tạo vì lòng tôn kính các Định luật này, và những đền như Stonehenge và Karnak được hướng thẳng theo mặt trời mọc và lặn để tỏ sự kính nghiêm đối với các Định luật tự nhiên và dẫn dắt quần chúng hợp tác với chúng.


SECTION TWO

The Psychology of the Supergifted

00041.jpeg

Who are the Supergifted ? —Ai là những Người Siêu tài năng ?

It is extremely rare for the Path of Pupilage to be trod from an early age. Apart from a sprinkling of royal children and here and there the sons and daughters of high priests, no one else was considered except perhaps—like Moses—the child of a court favourite, adopted or otherwise. This was not because there were no other candidates. Even today, doting parents with esoteric backgrounds are extremely prone to viewing their children as potential material for pupilage irrespective of whether the material is worthwhile (Don’t put your daughter on the stage Mrs. Worthington) or whether their children want to tread the Path—Krishnamurti—or even are concerned with being esoterically motivated at all. —

Hết sức hiếm hoi khi Con Đường Đệ Tử được bước đi ngay từ thuở thiếu thời. Ngoài một số ít ỏi hoàng tử hoàng nữ và đây đó là con trai con gái của các đại tư tế, không ai khác được xem xét, trừ phi—như Moses—là con của một sủng thần trong triều, nhận nuôi hay không. Điều này không phải vì không có ứng viên nào khác. Ngay hôm nay, những bậc cha mẹ mê con và có nền tảng huyền môn vẫn rất dễ xem con cái mình là chất liệu tiềm năng cho địa vị đệ tử, bất chấp chất liệu ấy có đáng giá hay không (‘Đừng đưa con gái bà lên sân khấu, bà Worthington’), hay con cái họ có muốn bước đi trên Thánh Đạo—Krishnamurti—hay thậm chí có quan tâm đến việc được thúc đẩy một cách huyền môn hay không.

It is a fact that nature scatters her pearls in unpredictable ways and it is just not true to say that the Soul chooses or is able to choose an esoteric family to house its physical vehicle. Where the choice can be made, the soul more frequently selects circumstances that are likely to test and to temper the lower triad in its incarnation. Thus, some of our Planetary Scheme’s most precious pearls become cast into, and often lost in, the mud of material existence. These pearls are the Supergifted children. The subject concerns the pupil esoteric science intensely. Firstly, he may have elements of giftedness in himself or it may exist in his own children and can learn much of importance from studying the psychology of those who are supremely gifted. Secondly, it is the duty of the pupil to watch for, or even seek out these precious souls and to assist them in ways which are described herein.

Thực tế là tự nhiên rải những viên ngọc của mình theo những cách khó đoán, và hoàn toàn không đúng khi nói rằng Linh hồn lựa chọn hay có thể lựa chọn một gia đình huyền môn để chứa đựng vận cụ vật chất của nó. Nơi nào có thể chọn, linh hồn thường chọn những hoàn cảnh có khả năng thử thách và tôi luyện phàm ngã tam phân trong lần lâm phàm. Vì thế, một số viên ngọc quý nhất của Hệ Hành Tinh chúng ta bị ném vào, và thường đánh mất mình trong, bùn lầy của đời sống vật chất. Những viên ngọc ấy là các thiếu nhi Siêu tài năng. Đề tài này đặc biệt quan hệ sâu xa với đệ tử khoa học huyền môn. Thứ nhất, y có thể có các yếu tố tài năng trong chính mình hoặc trong con cái mình, và có thể học được nhiều điều quan trọng từ việc nghiên cứu tâm lý của những người siêu tài năng. Thứ hai, bổn phận của đệ tử là lưu tâm, thậm chí tìm kiếm những linh hồn quý báu này và trợ giúp họ theo những cách sẽ được mô tả tại đây.

Who are they? A clear concept of the spectrum of souls, illustrated below, is essential. About 63,000 million souls, are seeking expression in a physical body on our planetary chain. The age of each soul varies and this implies two things. Firstly, an old soul means a soul that has had numerous incarnations and this may or may not imply a corresponding growth in spirituality. A young soul would be the opposite of this. Secondly, the souls would be scattered along a sort of spectrum, the bands of which would indicate the soul age. At one end there would be clustered the young souls; in the middle, those averagely developed would be concentrated and towards the distal end again, there would be those of great age and spirituality. The latter would, when housed in physical vehicles, be the supergifted.

Họ là ai? Một khái niệm minh bạch về quang phổ các linh hồn, được minh họa dưới đây, là điều cốt yếu. Khoảng 63.000 triệu linh hồn đang tìm cách biểu lộ trong một thể xác trên dãy hành tinh của chúng ta. Tuổi của mỗi linh hồn khác nhau và điều này hàm ý hai điều. Thứ nhất, một linh hồn già là một linh hồn đã có nhiều lần lâm phàm, và điều này có thể hoặc không nhất thiết hàm ý một tăng trưởng tương ứng về tinh thần. Một linh hồn trẻ thì ngược lại. Thứ hai, các linh hồn sẽ phân tán dọc theo một dạng quang phổ, trong đó các dải biểu thị tuổi của linh hồn. Ở một đầu sẽ tụ lại các linh hồn trẻ; ở giữa, những linh hồn phát triển trung bình sẽ tập trung; và về phía đầu xa lại nữa, sẽ là những linh hồn rất già và rất tinh thần. Khi được chứa trong các vận cụ vật chất, nhóm sau cùng sẽ là những người siêu tài năng.

00045.jpeg

At both ends of the spectrum, there is intense pressure, compared to elsewhere. For various reasons, which do not concern us here, there are excessive numbers of both highly developed and minimally developed souls. To aggravate matters further, the opposite is the case with regard to availability of physical vehicles, despite the spurt in population growth on the Earth over the last two thousand years. The two conditions are depicted in our diagram. The availability of physical bodies is shown as an ellipsoid whereas the reservoir of souls is shown as a bi-concavity. One of the many end-results of these cosmic factors, is that many, but not all, highly advanced souls are being pressured into physical bodies and environments which are unsuitable. The incarnation is appropriate to the degree of spiritual unfoldment of the trapped soul. The latter are the ‘pearls lost in the mud of matter’. Unless a tremendous effort is made, the lotus of the soul cannot surface through the mud of its circumstances to express its glories on the surface of the waters of that life. Given some assistance by those who understand, many such supergifted beings can assert their latent qualities. The assistance most required by them is not to have matters made so easy for them that there is no stress at all. Stress, as we shall later find, is an absolute necessity to spiritual growth, but it is equally necessary that the circumstances of the life be smoothed so that the personality of such a rare being has a chance to round itself out. The rounding out and psychosynthesis of such a personality leads to a more rapid and fuller expression of the soul’s gifts. This theme is emphasised again in the passages which follow. The earlier that supergiftedness can be detected the more likely the success of nurturing its hidden splendour.

Ở cả hai đầu của quang phổ, áp lực mãnh liệt hơn so với các chỗ khác. Vì nhiều lý do, không bàn ở đây, có số lượng quá mức cả các linh hồn phát triển cao lẫn các linh hồn phát triển tối thiểu. Để làm mọi sự trầm trọng hơn, điều ngược lại lại xảy ra liên quan đến sự sẵn có của các vận cụ vật chất, mặc dù dân số Trái Đất tăng vọt trong hai ngàn năm qua. Hai điều kiện này được phác trong sơ đồ của chúng ta. Sự sẵn có của các thể xác được biểu diễn như một hình elip, trong khi hồ chứa linh hồn được biểu diễn như một lồi lõm hai phía. Một trong nhiều hậu quả chung cuộc của những yếu tố vũ trụ này là nhiều—nhưng không phải tất cả—linh hồn rất tiến hóa đang bị ép nhập vào những thể xác và môi trường không thích đáng. Sự lâm phàm không tương xứng với mức độ khai mở tinh thần của linh hồn bị cầm giữ. Đây là những ‘viên ngọc đánh mất trong bùn của vật chất’. Trừ phi có một nỗ lực phi thường, đóa sen của linh hồn không thể trồi qua bùn lầy hoàn cảnh để phô bày huy hoàng trên bề mặt nước của kiếp sống ấy. Được sự trợ giúp ít nhiều từ những ai hiểu biết, nhiều hữu thể siêu tài năng như vậy có thể xác lập các phẩm tính tiềm tàng của mình. Sự trợ giúp cần nhất không phải là làm cho mọi thứ quá dễ dàng đến độ không còn chút căng thẳng nào. Căng thẳng, như chúng ta sẽ thấy sau, là điều tuyệt đối tất yếu cho sự tăng trưởng tinh thần, nhưng cũng cần thiết không kém là làm mượt mà các hoàn cảnh của đời sống để phàm ngã của một hữu thể hiếm có như vậy có cơ hội tự viên mãn. Sự viên mãn và tổng hợp tâm lý của một phàm ngã như thế dẫn đến một biểu lộ mau lẹ và trọn vẹn hơn các ân tứ của linh hồn. Chủ đề này lại được nhấn mạnh trong các đoạn sau. Càng phát hiện sớm tính siêu tài năng, xác suất vun bồi được tráng lệ ẩn tàng càng cao.

In this age, when no democratic government may lift a finger, except under the closest scrutiny of its free press and its paid opposition at home, and the watchful eyes of a hundred nations abroad, democracy, as an institution becomes highly unstable and therefore weak unless there is inspired leadership at the very top. France’s shaky governments since World War II up until De Gaule, were an example of this, reaching the greatest heights under the inspired leadership of a man gifted in courage to a remarkable degree whilst plumbing the greatest depths of instability and corruption when gifted leadership is not present.

Trong thời đại này, khi không một chính quyền dân chủ nào có thể động đậy dù chỉ một ngón tay, nếu không dưới sự giám sát chặt chẽ của báo chí tự do và phe đối lập được trả lương ở trong nước, và con mắt dõi theo của cả trăm quốc gia ở ngoài, thì dân chủ, như một định chế, trở nên rất bất ổn và vì vậy yếu kém, trừ phi có một lãnh đạo được cảm hứng ở thượng tầng. Những chính phủ chao đảo của nước Pháp kể từ sau Thế chiến II cho đến thời De Gaule là một thí dụ, đạt đỉnh cao nhất dưới sự lãnh đạo đầy cảm hứng của một con người tài năng về dũng khí ở mức phi thường trong khi chạm đáy sâu nhất của bất ổn và tham nhũng khi vắng bóng lãnh đạo tài năng.

The survival of democracy depends in great measure therefore, upon our ability to bring forward and into flower, those amongst us who are supergifted. The urgency of this is emphasised at present by the incoming energies of the Sign of Aquarius which ever favours expansion and goodwill so long as the democratic leadership in enlightened.

Sự tồn tại của dân chủ vì thế tùy thuộc rất nhiều vào khả năng của chúng ta trong việc đưa những người siêu tài năng giữa chúng ta bước ra và nở hoa. Tính cấp bách của điều này hiện được nhấn mạnh bởi dòng năng lượng đang đến của Dấu hiệu Bảo Bình, vốn luôn ưu đãi sự mở rộng và thiện chí miễn là giới lãnh đạo dân chủ được khai minh.

The necessity for recognising and assisting supergifted children is so obvious that it is astonishing what little has been done in both our own age and in previous ones towards this end.

Nhu cầu nhận diện và trợ giúp trẻ em siêu tài năng hiển nhiên đến mức đáng kinh ngạc là đã có quá ít điều được thực hiện trong cả thời đại của chúng ta lẫn các thời trước nhằm đạt mục đích này.

We should remember that supergiftedness is the end result of all humans concluding their journey through the veil of material enmeshment. The last series of lives before the soul becomes fully expressed as a Master of the Wisdom are generally brilliant and accomplishing but completely dedicated to the service of humanity. Where these lives fall short of such achievement, it is usually the result of circumstances which have just been described, where a supergifted child has been forced into circumstances hostile to soul-expression. An example of this last run of lives is illustrated here: The soul, in pralaya, spent a long period in devachan and then emerged, under the driving force of the Will-to-Be (of the Logos) for its final series of incarnations. Having had resurgences of expression in Egypt and oriental vehicles, the effort is now thrown into western civilisations. A life as a law-giver (Lycurgus) gives place to one in which law and system are introduced into Medicine on the island of Cos. Then, in the life that follows, the elements of mental hygiene, so essential as a forerunner to the modern scientific method, are introduced by Socrates and continued, without any recess in Plato. A life in circumstances hostile to soul-expression aborts in Rome about 60 B.C. Under Celsus, the healing arts reach new heights … etc., etc. Whereas the frequent earlier lives in the many races and sub-races may be seen, in the biology of spiritual development as the unfoldment of leaves on the great stem of soul growth, the final run is concerned with the most expressive parts of the delicate organism of the soul. These are the petals of the egoic lotus which exist only embryonically or as a mere bud in the young soul. The opening of the petals is of supreme importance in the psychology of pupilage.

Chúng ta nên nhớ rằng siêu tài năng là kết quả sau cùng của mọi con người hoàn tất cuộc hành trình xuyên qua bức màn mắc lưới vật chất. Chuỗi đời cuối cùng trước khi linh hồn được biểu lộ trọn vẹn như một Chân sư Minh triết thường lộng lẫy và thành tựu, nhưng hoàn toàn hiến dâng cho việc phụng sự nhân loại. Nơi những đời này không đạt tới thành tựu như vậy, thường là do các hoàn cảnh vừa được mô tả, nơi một đứa trẻ siêu tài năng bị ép vào những điều kiện thù nghịch với sự biểu lộ của linh hồn. Một thí dụ về chuỗi đời sau cùng được phác ở đây: Linh hồn, trong Giai kỳ qui nguyên, trải qua một thời gian dài trong devachan, rồi hiển lộ trở lại, dưới xung lực của Ý Chí-Hiện Hữu (của Thượng đế), để bước vào chuỗi lâm phàm cuối. Sau khi có những hồi trỗi dậy biểu lộ tại Ai Cập và trong các vận cụ phương Đông, nỗ lực giờ đây chuyển sang các nền văn minh phương Tây. Một đời làm người lập pháp (Lycurgus) nhường chỗ cho một đời đưa luật và hệ thống vào Y học trên đảo Cos. Rồi, trong đời kế tiếp, các yếu tố vệ sinh tinh thần, tuyệt đối thiết yếu như tiền đề cho phương pháp khoa học hiện đại, được đề xuất bởi Socrates và tiếp nối, không gián đoạn, nơi Plato. Một đời trong hoàn cảnh thù nghịch với sự biểu lộ của linh hồn bị hư hỏng ở La Mã khoảng năm 60 TCN. Dưới thời Celsus, nghệ thuật trị liệu đạt tới tầm cao mới … v.v ., v.v . Trong khi những đời sống sớm hơn, thường xuyên hơn trong các chủng và chủng phụ, có thể được nhìn thấy, trong sinh học của phát triển tinh thần, như là sự khai nở của những chiếc lá trên đại thân của sự tăng trưởng linh hồn, thì chuỗi sau cùng liên hệ đến những phần biểu lộ nhất của cơ thể tinh tế là linh hồn. Đó là những cánh hoa của Hoa Sen Chân Ngã, vốn chỉ tồn tại ở dạng phôi thai hoặc mới là nụ trong linh hồn trẻ. Sự khai mở của các cánh hoa có tầm quan trọng tối thượng trong tâm lý học của địa vị đệ tử.

All supergifted children have a high degree of soul-development and contact, but for these qualities they have, until lately, have more often been looked upon as pathological rather than the most precious flowers of our race. Very little has been written about them. Sometimes, they and their problems have been described in books along with the treatment of handicapped children! In one book, Special Education, the Handicapped and the Gifted, of 513 pages only 13 referred to the Gifted.

Mọi đứa trẻ siêu tài năng đều có mức phát triển linh hồn và tiếp xúc linh hồn cao, nhưng chính vì những phẩm tính này mà cho đến gần đây chúng thường bị nhìn như bệnh lý hơn là những bông hoa quý nhất của chủng tộc chúng ta. Rất ít điều được viết về chúng. Đôi khi chúng và các vấn đề của chúng được mô tả trong những cuốn sách cùng với việc điều trị trẻ khuyết tật! Trong một cuốn sách, Special Education, the Handicapped and the Gifted , trong 513 trang chỉ có 13 trang nói về Trẻ Tài năng.

At the outset, we should distinguish between the gifted child and the supergifted. The former represent about ten per cent of the population. In general, their qualities, their problems and their recognition are understood and catered for. Some research work has been done into their peculiar characteristics. In education, there exists for them, scholarships, some special schools and special instruction. In a country like England, such children are given every opportunity to reach and surmount university level.

Ngay từ đầu, chúng ta nên phân biệt giữa đứa trẻ tài năng và đứa trẻ siêu tài năng. Nhóm trước chiếm khoảng mười phần trăm dân số. Nói chung, các phẩm tính, các vấn đề và việc nhận diện chúng được hiểu và có sự đáp ứng. Một ít nghiên cứu đã được thực hiện về các đặc trưng đặc thù của chúng. Trong giáo dục, đã có học bổng, một vài trường chuyên và giảng dạy riêng. Ở một xứ như Anh, những đứa trẻ như vậy được trao mọi cơ hội để đạt tới và vượt qua bậc đại học.

But there is a second, much smaller group and these are the supergifted—they may include the Gifted, but not necessarily so. They may appear to be a contradiction in terms. The Gifted however, are selected mainly on their I.Q. rating, whereas the Supergifted need not necessarily have outstanding rating in I.Q. This apparent anomaly arises through the fact that I.Q. tests do not take into account creativity in their assessment whereas creativity is the quality par excellence in the Supergifted.

Nhưng có một nhóm thứ hai, nhỏ hơn nhiều, chính là những người siêu tài năng—họ có thể bao gồm nhóm Tài năng, nhưng không nhất thiết. Họ có vẻ là một nghịch đề. Nhóm Tài năng thường được tuyển chọn chủ yếu dựa trên chỉ số I.Q., trong khi nhóm Siêu tài năng không nhất thiết có chỉ số I.Q. nổi bật. Sự bất thường bề ngoài này phát sinh do các trắc nghiệm I.Q. không tính đến tính sáng tạo trong đánh giá, trong khi sáng tạo lại là phẩm tính trội vượt nơi những người Siêu tài năng.

In the opinion of Dr. Paul Torrance, one of America’s foremost authorities on creativity and intelligence:

Theo ý kiến của Tiến sĩ Paul Torrance, một trong những nhà thẩm quyền hàng đầu của Hoa Kỳ về sáng tạo và trí thông minh:

‘I.Q. tests do not measure creativity … By depending on them we miss a high proportion of our most creative youngsters … It is true that outstanding creativity is seldom found amongst children of below average I.Q. But our research shows above 115 or 120 I.Q. scores have little or no bearing on creativity. Creative giftedness may be found anywhere along the scale except, possibly at the bottom. The child with the so-called genius I.Q. of 180 is in reality no more likely to make outstanding creative achievements than a child with a slightly above average I.Q. around 120’.

‘Các trắc nghiệm I.Q. không đo lường sáng tạo … Dựa vào chúng, chúng ta bỏ lỡ một tỷ lệ cao những bạn trẻ sáng tạo nhất của mình … Đúng là sáng tạo xuất chúng hiếm khi tìm thấy nơi những đứa trẻ có I.Q. dưới trung bình. Nhưng nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các điểm số I.Q. trên 115 hoặc 120 hầu như không liên quan gì đến sáng tạo. Tài năng sáng tạo có thể được tìm thấy ở bất cứ đâu trên thang đo, trừ có lẽ ở đáy. Đứa trẻ có I.Q. gọi là thiên tài 180 kỳ thực không có khả năng tạo ra các thành tựu sáng tạo xuất sắc nhiều hơn đứa trẻ có I.Q. hơi trên trung bình khoảng 120.’

The Supergifted represent one tenth of one per cent of the population or about one in a thousand. They are far more difficult to recognise than the merely Gifted, who in general, can be assessed by I.Q. and other simple tests. The I.Q. of the Gifted is above 135. The I.Q. of the Supergifted is not a pointer to their capacities except in rare instances when the mental body is highly developed and synchronised with the soul. I.Q. does not measure emotional development. It doesn’t measure drive and initiative. It doesn’t measure temperament or talent. It doesn’t point to leadership. In fact, the best leaders do not often score more than 135.

Những người Siêu tài năng chiếm một phần nghìn dân số, tức khoảng một trong một nghìn. Họ khó nhận diện hơn nhiều so với nhóm chỉ Tài năng, vốn nhìn chung có thể được đánh giá bằng I.Q. và các trắc nghiệm đơn giản khác. I.Q. của người Tài năng là trên 135. I.Q. của người Siêu tài năng không phải là chỉ dấu năng lực của họ, trừ những trường hợp hiếm hoi khi thể trí được phát triển cao và được đồng bộ với linh hồn. I.Q. không đo lường phát triển cảm xúc. Nó không đo lường xung lực và sáng kiến. Nó không đo tánh khí hay tài năng. Nó không chỉ ra khả năng lãnh đạo. Thực tế, những nhà lãnh đạo xuất sắc thường không đạt điểm quá 135.

In education, we have not yet learnt to measure the degree of a child’s capacity for emotional discipline, as being distinct from emotional capacity. We have not yet learnt to measure the degree of a child’s love nature. Both of these are often powerful in the Supergifted. At this stage we should attempt to define the Supergifted.

Trong giáo dục, chúng ta vẫn chưa học cách đo mức độ năng lực kỷ luật cảm xúc của một đứa trẻ, như một thứ khác biệt với năng lực cảm xúc. Chúng ta vẫn chưa học cách đo mức độ bản chất yêu thương của một đứa trẻ. Cả hai điều này thường rất mạnh nơi người Siêu tài năng. Ở giai đoạn này, chúng ta nên thử định nghĩa người Siêu tài năng.

Definition of Supergifted Individuals

Định nghĩa về Những Cá Nhân Siêu tài năng

The Supergifted are those rare individuals who manifest powerfully, one or more specific qualities which have not arisen solely through the interplay of the individual’s environment and hereditary equipment but also from a third, little-understood factor which is spiritual in essence and inward in nature. This third factor is to be found within the boundaries of what some would term the ‘soul’ and is also involved with the recent ‘morphogenic fields’, described by Rupert Sheldrake in his book, The Presence of the Past (Publisher, Fontana).

Những người Siêu tài năng là những cá nhân hiếm hoi biểu lộ mạnh mẽ một hay nhiều phẩm tính đặc thù, những phẩm tính không chỉ nảy sinh đơn thuần qua sự tương tác giữa môi trường của cá nhân và di sản di truyền của họ, mà còn từ một yếu tố thứ ba , ít được hiểu biết, vốn có bản chất tinh thần và nội tại. Yếu tố thứ ba này được tìm thấy trong phạm vi của điều mà một số người gọi là ‘linh hồn’ và cũng liên hệ với những ‘trường tạo dạng’ gần đây, do Rupert Sheldrake mô tả trong cuốn The Presence of the Past (Nhà xuất bản Fontana).

The Third Factor

Yếu Tố Thứ Ba

We are all well aware that current psychological attitudes assess two main factors in the building of the human personality. These are the Hereditary Equipment (H) and the Environment (E) into which the child is thrust at birth. Thus, as the child grows his

Chúng ta đều biết rằng các quan niệm tâm lý học hiện thời đánh giá hai yếu tố chính trong việc kiến tạo phàm ngã con người. Đó là Di sản Di truyền (H) và Môi trường (E) mà vào đó đứa trẻ được ném vào ngay khi sinh ra. Như vậy, khi đứa trẻ lớn lên, phàm ngã của nó là:

Personality = H x E.

Phàm ngã = H x E.

But Freud and Jung, and more recently Assagioli, Frankl and Maslow, have stressed a Third factor. Some call it spiritual development (S); others call it soul rapport … or spiritual influence. The esoteric sciences regard this Third Factor as paramount in reaching even the vaguest understanding of man’s true nature and what makes him tick. No personality can be stable without all three factors present. They form a triangle of energy which makes up the true personality:

Nhưng Freud và Jung, và gần đây hơn là Assagioli, Frankl và Maslow, đã nhấn mạnh một Yếu tố thứ ba. Có người gọi đó là phát triển tinh thần (S); có người gọi là giao cảm với linh hồn … hay ảnh hưởng tinh thần. Các khoa học huyền bí xem Yếu Tố Thứ Ba này là tối thượng để đạt đến dù chỉ là sự hiểu biết mơ hồ về chân tánh của con người và điều vận hành con người. Không một phàm ngã nào có thể ổn định nếu thiếu một trong ba yếu tố. Chúng tạo thành một tam giác năng lượng làm nên phàm ngã chân thực:

Personality = H x E x S.

Phàm ngã = H x E x S.

It is because of the existence of this third influencing factor, highly accentuated in some one or more aspect in the Supergifted, that we stress the inequality of man on the scale of evolution without in any way denying the Brotherhood of Man or reneging on our duties towards those less evolved. But this acts both ways and we have an equally important duty to succour the Supergifted who have high accentuation of soul influence as compared to his less evolved brothers. In average man, S is only one-twentieth manifest. In the Supergifted, S may be 500/0 manifest. In the classical concept of the perfected Adept or Master, nearing the end of the evolutionary Path, the Third Factor, S, is fully demonstrated within that personality. It is not our task here to consider the detailed nature of the inner energies of the Third Factor but rather to seek out the Supergifted and to help them. It is sufficient to say that the Soul is the repository for awareness of all previous experiences gained over many lives. It is in the overshadowing Soul that we find the explanation for the fantastic qualities of supergiftedness.

Chính vì sự tồn tại của yếu tố ảnh hưởng thứ ba này, được nhấn mạnh cao ở một hay nhiều phương diện nơi người Siêu tài năng, mà chúng ta nhấn mạnh đến sự bất bình đẳng của con người trên thang tiến hóa—mà không hề phủ nhận Tình Huynh Đệ của Nhân loại hay chối bỏ bổn phận của chúng ta với những người kém tiến hóa hơn. Nhưng điều này cũng hoạt động hai chiều và chúng ta có một bổn phận quan trọng không kém là nâng đỡ người Siêu tài năng, nơi đó ảnh hưởng của linh hồn được nhấn mạnh cao, so với các huynh đệ kém tiến hóa của họ. Nơi người trung bình, S chỉ biểu lộ một phần hai mươi. Nơi người Siêu tài năng, S có thể biểu lộ đến 500/0. Trong khái niệm cổ điển về một bậc Chân sư hay bậc Thầy đã viên mãn, đang gần cuối Thánh Đạo tiến hóa, Yếu Tố Thứ Ba, S, được chứng hiện trọn vẹn trong phàm ngã ấy. Nhiệm vụ của chúng ta ở đây không phải là xem xét chi tiết bản tánh của các năng lượng nội tại thuộc Yếu Tố Thứ Ba, mà là tìm kiếm người Siêu tài năng và giúp đỡ họ. Chỉ cần nói rằng Linh hồn là nơi tàng chứa tri nhận về mọi kinh nghiệm trước đây thu thập qua nhiều đời. Chính nơi Linh hồn phủ bóng mà chúng ta tìm thấy lời giải thích cho những phẩm tính kỳ vĩ của tính siêu tài năng.

Historic Examples

Ví Dụ Lịch Sử

History has not always shown our disregard for the supergifted child. Twenty four centuries ago Plato pleaded for identification of the specially gifted and for their training which would prepare them as guardians of his famous Republic. Ultimately, he envisaged a world governed by initiates, by highly integrated beings, who in their youth would have undergone the most careful preparation, education and most rigorous tests to bring out their peculiar and particular gifts. He too realised the dangers implicit in democracy and the democratic process.

Lịch sử không phải lúc nào cũng cho thấy sự thờ ơ của chúng ta đối với đứa trẻ siêu tài năng. Hai mươi bốn thế kỷ trước, Plato đã kêu gọi nhận diện người đặc biệt tài năng và huấn luyện họ để chuẩn bị cho thiên chức người bảo hộ Cộng hòa trứ danh của ông. Sau cùng, ông hình dung một thế giới được cai trị bởi các điểm đạo đồ, những hữu thể tích hợp cao, những người hồi trẻ đã trải qua sự chuẩn bị, giáo dục và khảo nghiệm nghiêm nhặt nhất để đưa ra ánh sáng các ân tứ riêng biệt và đặc thù của họ. Ông cũng nhận ra những nguy cơ hàm ẩn trong dân chủ và tiến trình dân chủ.

In the days of earlier Greece when the Delphic religion had flourished, there had been some attempt at selecting and isolating certain children, gifted in a specialised way. Astrology was employed, among other techniques to help in their selection. In the instance of Delphi, selection was made for children who had the inherent super-normal capacity for intuitive insight. Children born in Cancer, especially with those who had Cancer rising and more especially girls, were set aside at the outset and brought up apart from other children. All their utterances from earliest childhood were noted, and they were never ridiculed or inhibited in this respect. It was from these children supergifted with intuition, that a selection was made to assist in the interpretation of the Delphic Oracle. Fumes from natural gases, mainly carbon dioxide, welled up from the earth near the temple and these were used to help induce the necessary underlying physiological conditions for the intuitive outpourings of the young aspirants.

Trong buổi đầu của Hy Lạp, khi tôn giáo Delphi còn hưng thịnh, đã có vài nỗ lực chọn lọc và biệt đãi một số trẻ em tài năng theo cách chuyên biệt. Chiêm tinh học đã được sử dụng, cùng với các kỹ thuật khác, để hỗ trợ việc tuyển chọn. Trong trường hợp Delphi, sự chọn lựa hướng đến những đứa trẻ có sẵn năng lực siêu thường bẩm sinh về trực giác thấu triệt. Trẻ sinh vào Cự Giải, nhất là những em có Cự Giải mọc, và đặc biệt là các bé gái, được biệt để ngay từ đầu và được nuôi dạy tách biệt khỏi các trẻ khác. Mọi lời các em thốt ra từ thời thơ ấu đều được ghi chú; các em không bao giờ bị giễu cợt hay bị kềm hãm trong phương diện này. Chính từ những đứa trẻ được siêu tài năng bằng trực giác ấy mà một lớp được tuyển chọn để trợ giúp việc diễn giải Sấm ngôn Delphi. Hơi khí từ các khí tự nhiên, chủ yếu là dioxit carbon, trào lên từ lòng đất gần đền, và chúng được dùng để giúp gây nên các điều kiện sinh lý nền tảng cần thiết cho dòng tuôn trực giác của các người chí nguyện trẻ.

In the Sixteenth Century, in the Middle East, one Mohammedan ruler at least, selected the fairest, strongest and most intelligent youth to train as leaders and his efforts were well-rewarded.

Vào thế kỷ XVI, ở Trung Đông, đã có ít nhất một vị quân vương Hồi giáo tuyển chọn những thanh niên đẹp nhất, khỏe nhất, thông minh nhất để rèn luyện thành lãnh đạo, và nỗ lực của ông đã được đền đáp xứng đáng.

Though perhaps not entirely relevant here, it might be worthwhile mentioning the age-old process of selecting warriors born in Aries with Scorpio rising for special and hazardous enterprises, the two Signs indicating the supergifts of unbridled energy and unrelenting courage respectively. The subtler and more meritorious qualities of the supergifted may also be indicated in the natal chart especially if the techniques of Esoteric Astrology are used as well as those of mundane astrology.

Dù có lẽ không hoàn toàn thích đáng ở đây, cũng đáng nhắc đến tiến trình cổ xưa chọn các chiến binh sinh vào Bạch Dương với Hổ Cáp mọc cho những sứ mệnh đặc biệt và hiểm nguy, hai Dấu hiệu này biểu chỉ các siêu ân tứ của năng lượng không gò bó và dũng khí bất thoái. Những phẩm tính vi tế hơn và đáng giá hơn của người siêu tài năng cũng có thể được chỉ thị trong lá số sinh, nhất là nếu các kỹ thuật của Chiêm Tinh Học Nội Môn được sử dụng cùng với chiêm tinh thế tục.

The Renaissance and the Reformation saw esteem placed upon superior intellect but although this continued down to the Industrial Revolution, very little was done about special consideration for the Supergifted because of the absurd belief in the equality of man … a belief that has no support in its foundations apart from ethics, in any kingdom of nature. No one today denies the famous principles of Equality, Fraternity and Liberty, except the ignorant. These must continue to guide all right human relationships but, at the same time, it is ridiculous to aver that ‘All men are born equal’ … Men are not born equal … they differ enormously in physical prowess, in spiritual development and in social status.

Thời Phục Hưng và Cải Chánh đặt trọng giá lên trí tuệ ưu việt, nhưng dù điều này kéo dài xuống tận Cách mạng Công nghiệp, rất ít điều đã được làm về việc dành sự quan tâm đặc biệt cho người Siêu tài năng vì niềm tin ngây ngô vào sự bình đẳng của con người … một niềm tin, ngoài khía cạnh đạo đức, không có điểm tựa nào trong bất cứ giới nào của thiên nhiên. Ngày nay chẳng ai phủ nhận những nguyên tắc danh tiếng về Bình đẳng, Bác ái và Tự do, trừ kẻ vô minh. Những nguyên tắc này phải tiếp tục dẫn dắt mọi mối quan hệ nhân loại đúng đắn, nhưng đồng thời, thật khôi hài khi quả quyết rằng ‘Mọi người sinh ra đều bình đẳng’ … Con người không sinh ra bình đẳng … họ khác nhau ghê gớm về sức vóc thể xác, về phát triển tinh thần và về địa vị xã hội.

‘There are supergifted individuals among farm labourers and workmen, in borstal and regular prisons. One of the best of black & white films, Birdman of Alcatraz was based on the true story of a murderer who had spent almost a half century in American penitentiaries and had the makings of a first class scientist. With all the makeshift means afforded by the prison, he succeeded in raising birds, whose habits and diseases he studied scientifically, in the process making discoveries acclaimed by ornithologists. Had this man of Alcatraz been recognised in childhood as supergifted and suitably educated, in all likelihood we should today have one less prisoner-for-life and one more high-grade scientist.’—The Problem of the Supergifted, by Gabriello Cirinei.

‘Có những cá nhân siêu tài năng giữa phu nông và thợ thuyền, trong các trại borstal và nhà tù thường. Một trong những phim đen trắng hay nhất, Birdman of Alcatraz , được xây dựng từ câu chuyện có thật về một tử tội đã trải gần nửa thế kỷ trong các nhà tù Mỹ và có tố chất của một nhà khoa học hạng nhất. Với tất cả những phương tiện chắp vá mà nhà tù có thể cung ứng, ông đã gây nuôi chim, nghiên cứu thói quen và bệnh tật của chúng một cách khoa học, qua đó thực hiện những khám phá được các nhà điểu học ca ngợi. Nếu người đàn ông ở Alcatraz này được nhận ra từ thuở ấu thơ là siêu tài năng và được giáo dục thích đáng, rất có khả năng hôm nay chúng ta đã có một tù nhân-chung-thân ít đi và một nhà khoa học cao cấp nhiều thêm.’— Vấn đề của những Người Siêu tài năng , của Gabriello Cirinei.

There is, for every mortal, one supreme being that is his very own, his daemon, his inner or Higher Self, his higher nature, his own Soul. We are so structured by our materialist world to think only in terms of three dimensions that we would automatically assume our higher Selves to be radiant, Moses-like images of our lower natures. That would be emulating what has been regarded as the most mortal of sins by the majority of religions, the erection of an idol to worship. It was the Higher Self of the great chemist Kekule that displayed the nature of the benzene molecule to him while he was in deep reverie. It was the Higher Self of Darwin and of Wallace which simultaneously revealed the concept of the origin of species to both men, though they knew naught of each other at the personality level.

Với mỗi phàm nhân, có một Đấng tối thượng riêng của y, thiên thần hộ mệnh của y, Tự Ngã cao hơn của y, bản tính cao hơn của y, chính Linh hồn của y. Chúng ta bị cơ cấu bởi thế giới duy vật đến nỗi chỉ quen nghĩ theo ba chiều, và vì vậy mặc nhiên cho rằng Tự Ngã cao hơn của chúng ta là hình ảnh rực sáng, như Moses, của bản tánh thấp của chúng ta. Đó sẽ là việc mô phỏng điều đã bị đa số tôn giáo coi là tội trọng nhất: dựng tượng mà thờ. Chính Tự Ngã cao hơn của nhà hóa học vĩ đại Kekule đã hiển thị cho ông bản tánh của phân tử benzene khi ông đang trong cơn mộng tưởng sâu. Chính Tự Ngã cao hơn của Darwin và của Wallace đã đồng thời mặc khải cho cả hai người khái niệm về nguồn gốc các loài, dù ở bình diện phàm ngã họ chẳng hề biết gì về nhau.

And there was Elias Howe. He struggled with an apparently insoluble problem in his development of a sewing machine. Then he had a dream in which symbolic spears suggested to him the idea of putting the eye at the bottom of the needle instead of at the top.

Và còn Elias Howe. Ông vật lộn với một vấn đề tưởng như vô nghiệm trong quá trình phát triển máy khâu. Rồi ông mơ một giấc mơ trong đó những cây giáo tượng trưng gợi ý cho ông ý tưởng đặt lỗ xỏ chỉ ở phía dưới của kim thay vì ở trên đầu kim.

An IBM inventor, Luther Woodrum, said that he often dreams about mathematics as a series of images, and he credits many of his most valuable ideas to dreams:

Một nhà phát minh của IBM, Luther Woodrum, nói rằng Ông thường mơ về toán học như một chuỗi hình ảnh, và Ông ghi công nhiều ý tưởng quý giá nhất của mình cho những giấc mơ:

‘In 1962 I was working on a program … I’d spent a lot of time on the project but couldn’t quite figure out how to optimize the program by relocating the instructions. One night, after supper, I took a nap. With the problem on my mind, I began dreaming about the program … with the mathematics of it seen as a group of images. To my surprise the structures began relocating themselves’.—The Brain Revolution’ by Marilyn Ferguson.

‘Năm 1962 tôi đang làm một chương trình … Tôi đã dành rất nhiều thời gian cho dự án nhưng không sao hình dung được cách tối ưu chương trình bằng cách di chuyển các lệnh. Một đêm, sau bữa tối, tôi chợp mắt. Với vấn đề còn vương trong đầu, tôi bắt đầu mơ về chương trình … với phần toán học của nó được thấy như một nhóm hình ảnh. Đến nỗi ngạc nhiên, các cấu trúc bắt đầu tự di chuyển.’— The Brain Revolution’ của Marilyn Ferguson.

Henry Schliemann, by sheer business ability, made himself a millionaire whilst still in his twenties. He then forsook business for archaeology. He was convinced he was the reincarnation of a man who had lived in the city of Troy, and he was determined to find the city and excavate it. After travelling to Turkey, he chose a certain spot to excavate. Every archaeologist of note scoffed. ‘Why’, they pointed out, ‘that’s nowhere near Troy. It’s miles away’. But Schliemann kept stubbornly digging and to the chagrin of his rivals, he unearthed the ancient city, salvaged much treasure and gained a wealth of information.

Henry Schliemann, chỉ bằng năng lực thương trường thuần túy, đã trở thành triệu phú khi vẫn còn ở độ tuổi đôi mươi. Rồi Ông từ bỏ thương trường để đến với khảo cổ. Ông tin chắc mình là sự tái sinh của một người từng sống ở thành Troy, và Ông quyết tâm tìm ra thành phố ấy và khai quật nó. Sau khi sang Thổ Nhĩ Kỳ, Ông chọn một điểm nhất định để đào bới. Mọi nhà khảo cổ có tiếng đều chế giễu. ‘Sao lại thế’, họ chỉ ra, ‘chỗ đó chẳng gần Troy chút nào. Cách hàng dặm.’ Nhưng Schliemann cứ bướng bỉnh đào tiếp và, khiến các đối thủ bực bội, Ông đã khai quật được thành phố cổ, thu hồi nhiều kho báu và thu nhận một kho tàng thông tin.

The author was trained in paediatrics by the great English authority on the subject, Professor R.S. Illingworth of the University of Sheffield. His insight into the needs of children was astounding. His understanding of their special problems, associated with their existential nature was no less impressive. He was never deterred by the backwardness of a child or by its precocity. The development of a child was, as he saw it, a delicate process which might be delayed or encouraged by the perceiving paediatrician. Ten years of first-hand experience in the teaching of children in the East-end of London served to confirm for the author what had been taught him by this erudite man, himself a father of three children:

Tác giả được đào luyện về nhi khoa bởi nhà uyên bác hàng đầu nước Anh về lĩnh vực này, Giáo sư R.S. Illingworth của Đại học Sheffield. Sự thấu triệt của Ông về các nhu cầu của trẻ em thật kinh ngạc. Sự hiểu biết của Ông về các vấn đề đặc thù của trẻ, gắn với bản tính hiện sinh của chúng, cũng ấn tượng không kém. Ông chưa bao giờ nản chí bởi sự chậm tiến của một đứa trẻ hay bởi sự phát triển sớm của nó. Sự phát triển của trẻ, như Ông thấy, là một tiến trình tinh tế, có thể bị trì hoãn hoặc được khuyến khích bởi vị bác sĩ nhi khoa biết cảm nhận. Mười năm kinh nghiệm trực tiếp dạy trẻ em ở Khu Đông London đã giúp tác giả xác tín những gì Ông được dạy bởi người học vấn uyên thâm này, chính Ông cũng là cha của ba đứa con:

‘Biographies reveal that innumerable eminent men were considered in childhood to be merely average or below average in intelligence and school performance. Pasteur was only a mediocre pupil. He was a conscientious boy who studied hard, but learnt slowly. James Watt excelled neither in lessons nor games, and was considered to be dull and inept. Edison was always at the bottom of his class, and his teacher said that his mind was “addled”. John Hunter at Kilbride was said to be impenetrable to everything in the way of book-learning. Oliver Goldsmith was described by his teacher as “a stupid heavy blockhead; little better than a fool, whom everybody made fun of.” Napoleon left school forty-second in place. The general opinion about Clive was that he was a dunce. Thomas Chatterton at five was sent home from school as a confirmed dullard. Isaac Newton at Grantham was extremely inattentive and was for a time bottom of his class.

‘Tiểu sử cho thấy vô số người kiệt xuất bị xem thuở ấu thơ chỉ là người có trí tuệ và thành tích học đường ở mức trung bình hoặc dưới trung bình. Pasteur chỉ là một học trò trung bình. Ông là một cậu bé tận tâm, học hành chăm chỉ, nhưng tiếp thu chậm. James Watt chẳng trội ở bài vở lẫn trò chơi, và bị coi là đần độn và vụng về. Edison luôn đứng chót lớp, và thầy giáo nói rằng đầu óc của Ông “lú lẫn”. John Hunter ở Kilbride bị nói là không gì từ sách vở có thể xuyên thấu vào đầu. Oliver Goldsmith bị thầy giáo mô tả là “một kẻ đần nặng nề; chẳng hơn gì một thằng ngốc, bị mọi người đem ra làm trò cười.” Napoleon rời trường với vị trí thứ bốn mươi hai. Ý kiến chung về Clive là Ông là một thằng đần. Thomas Chatterton năm tuổi bị cho về nhà như một kẻ đần đã được xác nhận. Isaac Newton ở Grantham vô cùng lơ đễnh và đã có thời gian đứng chót lớp.

‘Sheridan “by common consent of both parent and preceptor was pronounced to be a most impenetrable dunce”. Charles Darwin wrote, “I was considered by all my masters and by my father as a very ordinary boy, rather below the common standard in intellect”. Leo Tolstoy was considered to be both uninterested and unable to learn. Anthony Trollope was moved from Harrow because of poor work. Thackeray was described as “less than mediocre” at Charterhouse. He was sent down from Cambridge without a degree. Children destined to be famous were viewed with disapproval not only by their teachers but by their parents. Charles Darwin was told by his father, “You will be a disgrace to yourself and all your family”. The Duke of Wellington was regarded as the dunce of his family. Edison was described by his father as “just stupid.” When Sigmund Freud was just seven, his father said, “That boy will never amount to anything” ‘—The Normal School Child, by R.S. Illingworth (William Heinemann Medical Books).

‘Sheridan “theo sự đồng thuận của cả cha mẹ lẫn thầy dạy đã bị tuyên là một kẻ đần độn không gì xuyên thấu”. Charles Darwin viết, “Tất cả các thầy và cả cha tôi đều xem tôi là một cậu bé rất bình thường, thậm chí dưới chuẩn trí tuệ thông thường”. Leo Tolstoy bị coi là vừa không hứng thú vừa bất lực trong việc học. Anthony Trollope bị chuyển khỏi Harrow vì học kém. Thackeray bị mô tả là “dưới mức trung bình” ở Charterhouse. Ông bị đuổi khỏi Cambridge mà không có bằng. Những đứa trẻ định sẵn sẽ nổi danh không chỉ bị thầy cô mà cả cha mẹ nhìn bằng con mắt bất bình. Charles Darwin bị cha nói, “Con sẽ là nỗi ô nhục của chính con và cả gia đình”. Công tước Wellington bị xem là kẻ đần của gia đình. Edison bị chính cha mình mô tả là “chỉ là một thằng ngu.” Khi Sigmund Freud mới bảy tuổi, cha Ông nói, “Thằng bé đó sẽ chẳng ra trò trống gì cả” ‘— The Normal School Child , của R.S. Illingworth (William Heinemann Medical Books).

Precocious Children

Những đứa trẻ phát triển sớm

Stalin as a child had an outstandingly good memory. It is said he learnt his lessons without effort. Goebbels also had a remarkable memory as a schoolboy and was top of the form. Lord McCauley, who was probably one of the world’s greatest geniuses, had a remarkable memory. He had no interest in toys after the age of three. Coleridge could read chapters from the Bible at three. Dean Swift could read any chapter of the Bible when he was two. Samuel Johnson could read easily at three. John Stuart Mill knew Greek at three. At six he could read Aesop and Lucian. Whittier had a precocious memory. At seven he could recite entire chapters of the Bible by heart, and his father made him demonstrate this at Quaker meetings.

Stalin khi còn nhỏ có trí nhớ xuất sắc. Người ta nói Ông học bài mà không cần gắng sức. Goebbels cũng có trí nhớ lạ thường thời đi học và đứng đầu lớp. Lord McCauley, có lẽ là một trong những thiên tài vĩ đại nhất thế giới, có trí nhớ đặc biệt. Ông không còn hứng thú với đồ chơi sau ba tuổi. Coleridge có thể đọc các chương trong Kinh Thánh lúc ba tuổi. Dean Swift có thể đọc bất kỳ chương nào của Kinh Thánh khi Ông hai tuổi. Samuel Johnson đọc trôi chảy lúc ba tuổi. John Stuart Mill biết tiếng Hy Lạp lúc ba tuổi. Lên sáu, Ông có thể đọc Aesop và Lucian. Whittier có trí nhớ phát triển sớm. Bảy tuổi, Ông có thể đọc thuộc lòng cả chương Kinh Thánh, và cha Ông bắt Ông trình diễn điều đó trong các buổi họp của Phái Quaker.

00032.jpeg
—[hình]

‘Amongst remarkable legendary geniuses were Christian Heinecken and Jeanne Cardiac, who were contemporaries. The former was born in Lubeck in 1721. It is said that before he was one, he could recite stories and verses. At fourteen months he knew the whole Bible; at two-and-a-half he was conversant with ancient history, geography and anatomy, knew 800 Latin words and learnt 150 new ones each week. He could read German, Latin and French. When three, he could add, subtract, and multiply. He knew 220 songs, 80 psalms, 1,500 verses and sentences of Latin writers. He gave a demonstration before the King of Denmark. He died at four years and four months. Jeanne Cardiac was born in France in 1719. It was said she could repeat the alphabet at three months. At three she could read Latin, and at four could translate it into English or French. She died at seven.’—Ibid.

‘Trong số những thiên tài truyền kỳ đáng chú ý có Christian Heinecken và Jeanne Cardiac, hai người cùng thời. Người trước sinh ở Lubeck năm 1721. Người ta nói rằng trước khi tròn một tuổi, cậu đã có thể kể chuyện và đọc thơ. Mười bốn tháng tuổi cậu biết toàn bộ Kinh Thánh; hai tuổi rưỡi cậu thông thạo lịch sử cổ đại, địa lý và giải phẫu, biết 800 từ tiếng Latin và học 150 từ mới mỗi tuần. Cậu có thể đọc tiếng Đức, Latin và Pháp. Lên ba, cậu có thể cộng, trừ, và nhân. Cậu biết 220 bài hát, 80 thánh vịnh, 1.500 câu thơ và câu văn của các tác giả Latin. Cậu đã biểu diễn trước Nhà Vua Đan Mạch. Cậu mất lúc bốn tuổi bốn tháng. Jeanne Cardiac sinh tại Pháp năm 1719. Người ta nói cô có thể đọc lại bảng chữ cái lúc ba tháng. Lên ba cô có thể đọc tiếng Latin, và lên bốn có thể dịch nó sang tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Cô mất lúc bảy tuổi.’— Sđd. .

Education of the Supergifted—Giáo dục trẻ siêu năng khiếu

From the viewpoint of the pupil, supergifted children are on the Path and should be afforded assistance at any and every stage of their development whether they are aware of the presence of the disciple or not. This calls for extreme care so that no one in the supergifted child’s surroundings is offended by the pupil’s intervention. —

Từ quan điểm của đạo sinh, trẻ siêu năng khiếu đang ở trên Thánh Đạo và nên được trợ giúp ở mọi giai đoạn phát triển của các em, dù các em có ý thức về sự hiện diện của đệ tử hay không. Điều này đòi hỏi sự cẩn trọng cao độ để không ai trong môi trường sống của trẻ siêu năng khiếu bị xúc phạm bởi sự can thiệp của môn sinh.

There are several reasons for the recent interest in supergifted children. Firstly, there has been a resurgence of the occult sciences, the teachings of Ancient Wisdom and those who study them inevitably search for such children, if not in their own families then at least in those of their immediate surroundings. It has been stated by The Tibetan that there are large numbers of potential Buddhas awaiting incarnation.

Có vài lý do cho sự quan tâm gần đây đối với trẻ siêu năng khiếu. Trước hết, có một làn sóng hồi sinh của các khoa học huyền bí, các giáo lý Minh Triết Ngàn Đời và những người học chúng tất yếu sẽ tìm kiếm những đứa trẻ như vậy, nếu không trong chính gia đình họ thì ít nhất là trong những gia đình chung quanh họ. Chân sư Tây Tạng đã nêu rằng có một số lượng lớn các vị Phật tiềm năng đang chờ đầu thai.

Two more reasons may be dealt with here:

Có thể đề cập ở đây thêm hai lý do:

‘As far as the United States is concerned, there was no disguising the salutary shock administered by the first Russian Sputnik. American public opinion, rudely aroused from the illusions of security and undisputed superiority over the people of other nations, which it had cherished for so long, clamoured for mobilisation of all the resources, material and human, of that great country. This led to an intensification of interest in gifted children, particularly those endowed with outstanding scientific aptitudes.

‘Về phần Hoa Kỳ, không thể che giấu được cú sốc có lợi cho sức khỏe tinh thần do vệ tinh Sputnik đầu tiên của Nga gây ra. Dư luận Mỹ, bị đánh thức thô bạo khỏi ảo tưởng về an ninh và sự vượt trội không tranh cãi đối với các dân tộc khác, vốn họ ấp ủ bấy lâu, đã kêu gọi huy động mọi nguồn lực, vật chất lẫn nhân lực, của đất nước vĩ đại ấy. Điều này dẫn đến việc gia tăng quan tâm đến trẻ có năng khiếu, đặc biệt là những em được phú bẩm các thiên hướng khoa học nổi trội.

‘But there exists a more widespread and deep-seated cause; it is the general evolving tendency towards the democratisation of the school and the increasingly lively and apprehensive perception of the dangers that accompany it. In the educational sphere, quantity and quality are not antithetic in idea. There is no contradiction in the need to extend the benefits of education to all the young and the obligation to provide each one of them, including the highly gifted, with the best possible education. But human powers are limited, and too much attention focussed on the quantitative approach, as has happened in recent decades, inevitably conduces to the neglect of the qualitative. Thus it happens that today the State school tends to become a levelling establishment, and thus a school of lowered standards. It is natural that those who are sacrificed to uniformity in such a school should be the brightest, the young whose innate capacities have largely triumphed over the short-comings of their education to make them technicians, organisers, professional men and, at still higher levels, the artists, scientists, creative thinkers and spiritual leaders of the world of tomorrow. It will be readily appreciated that the whole of society is the loser by the sacrifice of human resources. Hence the cry of alarm and the reaction.—Gabriello Cirinei.

‘Nhưng còn có một nguyên nhân rộng khắp và ăn sâu hơn; đó là xu thế tiến hóa chung hướng đến dân chủ hóa nhà trường và sự cảm nhận ngày càng sống động, đầy lo âu về các nguy cơ đi kèm. Trong lĩnh vực giáo dục, số lượng và chất lượng không đối nghịch về mặt ý niệm. Không có mâu thuẫn nào giữa nhu cầu mở rộng lợi ích giáo dục cho toàn bộ thanh thiếu niên và nghĩa vụ cung cấp cho từng em, kể cả em có năng khiếu cao, nền giáo dục tốt nhất có thể. Nhưng năng lực con người hữu hạn, và quá chú trọng đến phương diện định lượng, như đã xảy ra trong các thập kỷ gần đây, tất yếu dẫn đến xem nhẹ phương diện định tính. Thế là hôm nay trường công lập có xu hướng trở thành một thiết chế san bằng, và do đó là một ngôi trường của những chuẩn mực bị hạ thấp. Tự nhiên là những người bị hy sinh cho sự đồng dạng trong một ngôi trường như thế lại chính là những người sáng dạ nhất, những thanh niên mà năng lực bẩm sinh đã phần lớn vượt thắng sự thiếu sót của nền giáo dục để làm họ thành kỹ thuật viên, nhà tổ chức, người chuyên nghiệp và, ở các bậc cao hơn nữa, thành nghệ sĩ, nhà khoa học, nhà tư duy sáng tạo và các lãnh đạo tinh thần của thế giới ngày mai. Dễ hiểu rằng toàn xã hội là bên thua thiệt bởi sự hy sinh các nguồn lực con người. Thế nên mới có tiếng kêu báo động và phản ứng.—Gabriello Cirinei.

Fallible as I.Q. ratings are, concerned as they are with the supergifted or creative child, they also fail to point out leadership in those less gifted. In the world as it is, the most rounded-out personalities are grouped between 125 and 150. The best leaders often between 115 and 135.

Dù các chỉ số I.Q. có sai lầm đến đâu, khi bàn đến trẻ siêu năng khiếu hoặc sáng tạo, chúng cũng không chỉ ra được tố chất lãnh đạo ở những em kém năng khiếu hơn. Trong thế giới như hiện tại, những phàm ngã tròn đầy nhất nằm trong khoảng từ 125 đến 150. Những người lãnh đạo giỏi nhất thường ở khoảng 115 đến 135.

It is with some of these factors in mind that we face the problem of educating the supergifted.

Với vài yếu tố này trong tâm, chúng ta đối diện vấn đề giáo dục trẻ siêu năng khiếu.

In considering the titanic problem of caring for the supergifted, it would be wise to remember the two types of Roberto Assagioli, for they provide the key to the matter:

Khi cân nhắc bài toán khổng lồ là chăm lo cho trẻ siêu năng khiếu, sẽ khôn ngoan nếu nhớ đến hai loại của Roberto Assagioli, vì chúng cung cấp chìa khóa của vấn đề:

Type One: who are gifted in a general or multiple way. The problem here is to lead the child to an awareness of which of his many gifts is the most advisable to develop. The child may be diverted from this end by considerations of prestige, financial reward or self-gratification.

Loại Một : những em có tài năng theo cách tổng quát hoặc đa năng. Vấn đề ở đây là dẫn dắt trẻ đến nhận biết đâu là tặng ân nên phát triển nhất trong nhiều tặng ân của mình. Trẻ có thể bị xao lãng khỏi mục tiêu này bởi các cân nhắc về uy tín, phần thưởng tài chính hoặc tự thỏa mãn.

Type Two: who are super-gifted in a single or specialised way. Here, the problem is to develop the personality vehicles into a rounded-out, unit capable of carrying the burdens imposed upon it by the indwelling consciousness, gifted as it is in one specific talent.

Loại Hai : những em siêu năng khiếu theo cách đơn nhất hoặc chuyên biệt. Ở đây, vấn đề là phát triển các vận cụ phàm ngã thành một đơn vị tròn đầy, có khả năng gánh vác những gánh nặng do tâm thức nội tại—với một tài năng đặc thù—đặt lên.

Background

Bối cảnh

The supergifted should be given a background of rich culture and wide experience bearing always in mind though that a child, any child, is entitled to his youth. Both school and home may tend to overdo the enriched programme idea forgetting that the child has the right to live normally through each stage of his development. Travel is an essential factor and it is no wonder that in Astrology travel and higher studies are grouped in the same house for they are indispensable to each other if the rounding out of the personality is to progress with mental and cultural development. The truth in this statement is to be seen in the inordinate interest which the supergifted have in encyclopaedia, travel journals and the strong desire they have to keep diaries. The keeping of a diary should be especially encouraged for it is a discipline which cultivates lucid thought and action. Later, it prepares the way for even closer contact with the soul as seen in the maxim which Laertes receives from his father Polonius (Hamlet by William Shakespeare):

Trẻ siêu năng khiếu nên được trao một bối cảnh văn hóa phong phú và trải nghiệm rộng rãi, luôn ghi nhớ rằng một đứa trẻ, bất kỳ đứa trẻ nào, có quyền được sống tuổi thơ. Cả nhà trường lẫn gia đình có thể dễ sa đà vào ý tưởng “chương trình làm giàu”, quên rằng trẻ có quyền sống bình thường qua từng giai đoạn phát triển của mình. Du hành là một yếu tố thiết yếu, và không có gì lạ khi trong Chiêm Tinh Học, du hành và học vấn cao được nhóm chung trong cùng một nhà, vì chúng không thể thiếu nhau nếu tiến trình hoàn thiện phàm ngã phải đi đôi với phát triển trí tuệ và văn hóa. Chân lý của khẳng định này thấy rõ trong sự quan tâm quá mức của trẻ siêu năng khiếu đối với bách khoa thư, các nhật ký du hành và khát vọng mãnh liệt muốn ghi nhật ký. Việc giữ nhật ký nên được khuyến khích đặc biệt vì đó là một kỷ luật nuôi dưỡng tư duy và hành động minh bạch. Về sau, nó chuẩn bị con đường cho sự tiếp xúc gần hơn nữa với linh hồn như thấy trong châm ngôn mà Laertes nhận từ cha mình là Polonius ( Hamlet của William Shakespeare):

‘This above all: to thine own self be true … ‘

‘Trên hết thảy: hãy trung thực với chính mình … ‘

Therefore, the teaching of biography to the supergifted is inevitably fruitful along with the history of civilisation. In the latter, the inculcation of this instruction and the study of epic poetry such as Paradise Lost and Beowulf, etc., stimulates an early interest in the problems of humanity in which the supergifted one will later participate. The study of foreign languages is also here important remembering once more the correlation of the sign Gemini—which rules the learning of languages—and the Ninth House. In fact, Gemini is often powerfully aspected in the charts of supergifted children.

Bởi vậy, dạy tiểu sử đối với trẻ siêu năng khiếu tất yếu kết trái, cùng với lịch sử văn minh. Trong nội dung sau, việc thấm nhuần giáo huấn này và học thơ ca sử thi như Paradise LostBeowulf , v.v., khơi dậy mối quan tâm sớm đối với những vấn đề của nhân loại mà người siêu năng khiếu về sau sẽ tham dự. Việc học ngoại ngữ ở đây cũng quan trọng, một lần nữa nhớ mối tương quan của dấu hiệu Song Tử—vốn cai quản việc học ngôn ngữ—với Nhà số Chín. Thực tế, Song Tử thường được các góc độ mạnh trong lá số của trẻ siêu năng khiếu.

The aim is therefore, to provide a rich background onto which the child can engrave his gift. This is achieved, not necessarily by spending enormous sums on travel and schooling but rather through the careful direction of the child’s attention to all that is going on about him. Art, in particular, is a useful amplifier for this technique. True art disciplines the emotions whether it be on stage, canvas or television or in marble or poetry.

Mục tiêu, vì vậy, là cung cấp một bối nền phong phú để đứa trẻ có thể khắc ghi tài năng của mình lên đó. Điều này đạt được, không nhất thiết bằng cách chi những khoản khổng lồ cho du hành và trường lớp, mà bằng việc dẫn dắt cẩn thận sự chú ý của trẻ đến mọi điều đang diễn ra chung quanh. Nghệ thuật, đặc biệt, là một bộ khuếch đại hữu ích cho kỹ thuật này. Nghệ thuật đích thực kỷ luật cảm xúc, dù là trên sân khấu, trên toan vẽ hay màn ảnh, trong đá cẩm thạch hay thi ca.

Gabriello Cirinei pointed out that the supergifted were themselves dissipaters of their own talents:

Gabriello Cirinei đã chỉ ra rằng chính trẻ siêu năng khiếu cũng là kẻ làm tiêu tan tài năng của mình:

‘But the wastage of talent, it should be noted, occurs in other ways and for purely psychological reasons. Many gifted and supergifted children have character defects which no one has ever attempted to correct by appropriate educational methods. For instance, sometimes they lack ambition. They are without sufficient incentive to make the effort which the exploitation of their potential gifts requires. History offers a number of cases of this type. Liszt was a lazy composer. Meagre as was his output, however, it contains passages of such beauty as to warrant the supposition that his creative genius could have given us a great deal more of the same quality. Rossini was at the same time both lazy and a gourmand. To get him to work on the Barber of Seville, his publisher took advantage of his weakness for food to counteract his inertia. He locked him in a room and day after day, passed him his meals through a window, but only after having first received a certain number of pages of the immortal score. The poet Coleridge, was deficient of will-power, was aware of it and suffered acutely from the knowledge. Notwithstanding the lustre of his actual contributions to English poetry, those who knew him intimately were convinced that his production fell far short of what his genius promised’. Supergiftedness always includes the urge of the virginal soul to be creative. The quality of the gift is almost always expressed in service to mankind. Each is a waterbearer to the spiritually thirsty.

‘Nhưng sự lãng phí tài năng, cần lưu ý, còn xảy ra theo những cách khác và vì những lý do thuần tâm lý. Nhiều trẻ có năng khiếu và siêu năng khiếu có những khiếm khuyết về tính cách mà chưa ai từng cố gắng sửa chữa bằng các phương pháp giáo dục thích hợp. Chẳng hạn, đôi khi các em thiếu hoài bão. Các em không đủ động lực để nỗ lực tương xứng với việc khai thác các tặng ân tiềm tàng. Lịch sử cung cấp không ít trường hợp như thế. Liszt là một nhà soạn nhạc lười biếng. Tuy tác phẩm của Ông ít ỏi, nhưng chứa những đoạn đẹp đến mức cho phép giả định rằng thiên tài sáng tạo của Ông có thể đã cho chúng ta nhiều nữa với cùng phẩm chất ấy. Rossini vừa lười vừa sành ăn. Để buộc Ông làm việc với vở Người Thợ Cạo Thành Seville, nhà xuất bản đã lợi dụng điểm yếu mê ăn để đối trị sự ì ạch của Ông. Ông bị khóa trong một căn phòng và ngày này qua ngày khác, người ta chuyền bữa ăn qua cửa sổ, nhưng chỉ sau khi đã nhận được một số trang của bản tổng phổ bất hủ. Nhà thơ Coleridge thiếu nghị lực, tự biết điều đó và đau khổ sâu sắc vì sự tự tri ấy. Dẫu cho hào quang từ những đóng góp thực sự của Ông cho thi ca Anh, những người thân biết Ông đều tin rằng sản lượng của Ông ít hơn xa so với những gì thiên tài hứa hẹn’. Tính siêu năng khiếu luôn bao hàm xung lực của linh hồn trinh nguyên muốn sáng tạo. Phẩm chất của tài năng hầu như luôn được biểu lộ trong phụng sự nhân loại. Mỗi người là một người gánh nước cho những kẻ khát tinh thần.

‘Jean Frene, a French peasant with unusual intelligence, was able to continue his studies because the draft authorities, ignoring all regulations, obtained permission from the French Defence Ministry for him to be temporarily exempted from military service and entrusted to a group of able teachers for the continuation of his studies. The reason why his exceptional gifts were in danger of being wasted were psychological rather than economic. Had it not been for the action of the draft board in revealing his potentialities to himself as well as to others, he would have remained on the land, a contented, calm, and well-balanced youngster. However, he was minus the ambition, the restlessness, the divine discontent that spur other supergifted individuals to make the most of their gifts. His teachers tell us that he learns with prodigious ease, but at least, up till now, he has needed constant stimulation. It seems that the most effective stimulus is an appeal to his spirit of challenge. An easy problem will often draw from him an absent-minded response, perhaps even an erroneous solution, because it has failed to arouse his interest. But face him with something really taxing and he will devour its difficulties.

‘Jean Frene, một nông dân Pháp có trí tuệ khác thường, có thể tiếp tục việc học vì cơ quan tuyển quân, bỏ qua mọi quy định, đã xin phép Bộ Quốc phòng Pháp tạm thời miễn nghĩa vụ quân sự cho anh và giao anh cho một nhóm thầy giỏi để tiếp tục học. Lý do khiến các tặng ân đặc biệt của anh có nguy cơ bị lãng phí là tâm lý hơn là kinh tế. Nếu không nhờ hành động của hội đồng tuyển quân làm hiển lộ tiềm năng của anh cho chính anh cũng như cho người khác, anh đã vẫn ở lại đồng ruộng, một chàng trai hài lòng, điềm tĩnh và cân bằng. Tuy nhiên, anh thiếu hoài bão, thiếu bồn chồn, thiếu nỗi bất mãn thiêng liêng thúc đẩy những người siêu năng khiếu khác tận dụng tài năng. Thầy của anh kể rằng anh học với sự dễ dàng phi thường, nhưng chí ít cho đến nay, anh luôn cần kích thích thường xuyên. Có vẻ như kích thích hiệu quả nhất là đánh thức tinh thần thách thức của anh. Một bài toán dễ thường chỉ kéo ra từ anh một phản ứng lơ đãng, thậm chí một lời giải sai, bởi nó không đủ sức khơi dậy hứng thú. Nhưng hãy đối diện anh với điều gì thực sự gay go và anh sẽ “nuốt chửng” các khó khăn của nó.

‘Another cause of the dissipation of talent is the qualitatively undifferentiated school. It is criminal to crush the spirit of clever children, specially the brilliant, by teaching them in a mass school, when their exceptional qualities and the equally pronounced deficiencies that are often an accompaniment, cry out for a highly individualistic, almost existential education. The distressing experience of Einstein at his secondary school provide a well-known example of this kind of misfit. He was a thoroughbred colt put between the shafts of a farm-cart and judged a mediocre performer. He was rescued from the risk of a permanent aversion to learning by a remarkably percipient uncle, who, sensing his tremendous possibilities, privately initiated him into science and gave him a taste for it. But not all the supergifted are blessed with intelligent uncles disposed to interest themselves in promising nephews.

‘Một nguyên nhân khác của sự tiêu tán tài năng là ngôi trường không phân định theo chất lượng. Thật là tội lỗi khi nghiền nát tinh thần của trẻ thông minh, đặc biệt là trẻ xuất chúng, bằng cách dạy chúng trong một trường đại chúng, khi mà các phẩm chất ngoại hạng của chúng—và những khiếm khuyết cũng nổi bật thường đi kèm—đang kêu gọi một nền giáo dục rất cá nhân hóa, gần như hiện sinh. Trải nghiệm đáng buồn của Einstein ở trung học là một ví dụ nổi tiếng về sự khập khiễng kiểu này. Ông là một con tuấn mã bị đóng vào càng một cỗ xe thồ và bị đánh giá là một kẻ biểu diễn tầm thường. Ông được cứu khỏi nguy cơ chán ghét học tập vĩnh viễn bởi một người chú vô cùng tinh tế, người cảm nhận những khả năng ghê gớm của Ông, đã riêng dạy Ông khoa học và làm Ông say mê nó. Nhưng không phải mọi người siêu năng khiếu đều được chúc phúc với những ông chú thông minh sẵn lòng quan tâm đến các cháu có triển vọng.

‘Finally, it must not be overlooked that there exists a worse possibility than the mere wastage of talent, and that is its perversion. An improper education in the family and the school can transform a supergifted child into a socially dangerous individual, a far greater menace in such a case than the ordinary delinquent. History provides numerous examples of this lamentable phenomenon, some of very recent occurrence.

‘Cuối cùng, không nên bỏ qua khả năng còn tệ hơn sự lãng phí tài năng đơn thuần, đó là sự lệch lạc của nó. Một nền giáo dục không thích đáng trong gia đình và nhà trường có thể biến đứa trẻ siêu năng khiếu thành một cá thể nguy hiểm về mặt xã hội, trong trường hợp như thế còn là mối đe dọa lớn hơn kẻ phạm pháp tầm thường. Lịch sử cung cấp vô số ví dụ về hiện tượng đáng buồn này, có trường hợp rất gần đây.

The question arises of what sort of school we can provide for them, seeing that the mass school cannot satisfy their needs. The problem presents difficulties that command careful consideration. Various solutions suggest themselves:

Câu hỏi đặt ra là chúng ta có thể cung cấp cho các em dạng nhà trường nào, khi mà trường đại chúng không thể đáp ứng nhu cầu của các em. Vấn đề đặt ra những khó khăn đòi hỏi phải cân nhắc thận trọng. Nhiều giải pháp gợi ý chính nó:

(1) Enrichment of the curriculum by means of special after-school programmes and cultural clubs designed to meet the same purpose.

(1) Làm giàu chương trình học bằng các chương trình ngoại khóa đặc biệt và các câu lạc bộ văn hóa được thiết kế để đáp ứng cùng mục đích.

(2) Organisation of special classes within the normal programme of each school.

(2) Tổ chức các lớp đặc biệt trong khuôn khổ chương trình bình thường của mỗi trường.

(3) Establishment of special schools or educational centres.

(3) Thành lập các trường hoặc trung tâm giáo dục đặc biệt.

The first, the easiest to put into practice, has been applied for many years in some cities of the United States and more recently tried out in several other countries. The administration of the I.A.R.D. scheme in Milan, for example, selected 111 intellectually gifted boys and girls by test methods and organised, for their benefit, clubs for the promotion of culture and intended to provide them with latitude and means to cultivate their particular bents, scientific, technical or artistic, as the case may be.

Giải pháp thứ nhất, dễ triển khai nhất, đã được áp dụng nhiều năm ở một số thành phố của Hoa Kỳ và gần đây được thử nghiệm ở vài quốc gia khác. Ban điều hành đề án I.A.R.D. ở Milan, chẳng hạn, đã chọn 111 em trai và gái có năng lực trí tuệ qua các phương pháp trắc nghiệm và tổ chức, vì lợi ích của các em, những câu lạc bộ nhằm cổ vũ văn hóa và cung cấp cho các em bầu không khí và phương tiện để nuôi dưỡng khuynh hướng đặc thù của mình, khoa học, kỹ thuật hay nghệ thuật, tùy trường hợp.

‘This represents the best procedure in the present circumstances and so far as children with somewhat higher than normal intelligence are concerned; but inadequate for the really supergifted. The latter not only require a broader and richer teaching than the ordinary school is capable of giving them, but they stand in need of a qualitatively differentiated education. It is this which points to the necessity for the other two solutions … special classes and special schools … and thus to a school system devised to take account of the qualitative disparities between pupils and not only of their vocational orientations.

‘Đây là thủ pháp tốt nhất trong hoàn cảnh hiện tại và đối với trẻ có trí tuệ chỉ hơi trên mức bình thường; nhưng lại không đủ đối với những em thực sự siêu năng khiếu. Những em này không chỉ cần một nền dạy học rộng và phong phú hơn năng lực của trường thường có thể cung cấp, mà còn cần một nền giáo dục được phân định về chất lượng. Chính điều này chỉ ra sự cần thiết của hai giải pháp còn lại … các lớp đặc biệt và trường đặc biệt … và như thế là một hệ thống học đường được thiết kế để tính đến những chênh lệch về chất lượng giữa học sinh chứ không chỉ định hướng nghề nghiệp của họ.

‘Nowadays, competent opinion inclines to the view that vocational differentiation in the school should not begin too early, and in any case, not before the fourteenth year. So far so good. But differentiation according to the qualitative level of pupils should commence from the earliest years, as far back as elementary school. Let there be no confusion between the two fundamentals … what is studied … and how one studies. We must not say, for instance, ‘The less intelligent will make hospital attendants and the more intelligent will become doctors’, or ‘The less intelligent will make elementary-school teachers, and the more intelligent, high-school teachers and university lecturers’. For, as we well know, there can be nurses of genius like Florence Nightingale and teachers of genius like Pestalozzi.

‘Ngày nay, ý kiến chuyên môn có xu hướng cho rằng phân hóa hướng nghiệp trong nhà trường không nên bắt đầu quá sớm, và dù sao cũng không trước năm thứ mười bốn. Thế thì tốt. Nhưng phân định theo trình độ chất lượng của học sinh nên khởi sự từ những năm đầu, ngay từ tiểu học. Chớ lẫn lộn giữa hai nền tảng … học cái gì … và học như thế nào. Chúng ta không nên nói, chẳng hạn, “Người kém thông minh sẽ làm điều dưỡng và người thông minh hơn sẽ làm bác sĩ”, hoặc “Người kém thông minh sẽ làm giáo viên tiểu học, và người thông minh hơn sẽ thành giáo viên trung học và giảng viên đại học”. Vì như chúng ta biết, có thể có những y tá thiên tài như Florence Nightingale và những nhà giáo thiên tài như Pestalozzi.

Again, we must not argue, ‘Let the more intelligent study Latin and the less intelligent not’. The ranks of the supergifted include the non-verbal types who are hopeless at languages. The famous Wright brothers, who invented the first aeroplane to fly, were evidence of this; they were equally celebrated for their inability to string a dozen words together. One of the brothers, who had to respond to a toast in his honour, extricated himself by remarking: ‘Gentlemen, the parrot is the only bird that can talk and he is a very poor flyer’.

Thêm nữa, chúng ta cũng không nên lập luận, “Để người thông minh hơn học Latin còn người kém hơn thì không.” Hàng ngũ siêu năng khiếu bao gồm cả kiểu không thiên về ngôn từ, những người rất yếu ở ngôn ngữ. Hai anh em nhà Wright, những người phát minh chiếc máy bay đầu tiên bay được, là bằng chứng cho điều này; họ cũng nổi tiếng vì không thể ghép nổi một chục từ lại với nhau. Một trong hai anh em, khi phải đáp từ một lời chúc tụng dành cho mình, đã thoát khỏi tình thế bằng cách nói: “Thưa các ngài, con vẹt là loài chim duy nhất có thể nói, và nó là một tay bay rất tệ”.

Problems of the Supergifted —Những vấn đề của trẻ siêu năng khiếu

There are frequent examples of boys who develop a strong or super-physical body and who sometimes have to be held in check by the parents or other authorities through the tendency to bully or throw their weight around. But it is not often realised that a super-intelligent child can just as easily become a bully on the intellectual level. In the over-emphasis of his intellectual power he is more often than not encouraged by authority. This often occurs in the supergifted who, lacking in physique or emotional maturity exercise their mental powers excessively to compensate thus, very often becoming unpopular and themselves the targets for physical bullying.

Không hiếm khi gặp những cậu bé phát triển thể xác mạnh mẽ hoặc sức vóc vượt trội và đôi khi phải bị cha mẹ hoặc các thẩm quyền kiềm chế vì xu hướng bắt nạt hoặc ỷ thế hiếp người. Nhưng người ta ít nhận ra rằng một đứa trẻ siêu thông minh cũng có thể dễ dàng trở thành kẻ bắt nạt trên bình diện trí tuệ. Trong việc nhấn quá mức năng lực trí tuệ của mình, em thường được thẩm quyền khuyến khích. Điều này thường xảy ra ở trẻ siêu năng khiếu, những em vì thiếu thể lực hoặc thiếu trưởng thành cảm xúc nên vận dụng quá mức quyền năng trí tuệ để bù trừ, do đó thường trở nên không được ưa chuộng và bản thân trở thành mục tiêu cho sự bắt nạt về thể chất.

This is, perhaps, the basis for the biggest problem affecting the supergifted … that one or other of the personality vehicles is unable to keep up with that one which is over-developed or developed beyond normal standards. An example of this is the child, supergifted intellectually, who was given a book on skating by his father. When accompanying his father on the ice for the first time, he was unable to execute the ‘figure-of-eight’ about which he had read. In a fury of despair at his incapacity for the exercise, he crawled around on the ice making the figure-of-eight. —

Đây có lẽ là nền tảng của vấn đề lớn nhất ảnh hưởng đến trẻ siêu năng khiếu … rằng một hay một số vận cụ phàm ngã nào đó không sao theo kịp vận cụ vốn phát triển quá mức hoặc vượt chuẩn bình thường. Thí dụ điển hình là đứa trẻ siêu năng khiếu về trí tuệ, được cha tặng một cuốn sách dạy trượt băng. Lần đầu theo cha ra băng, em không thể thực hiện “hình số tám” mà em đã đọc. Trong cơn tuyệt vọng tức tối trước sự bất lực của mình, em đã bò trườn trên băng để vẽ hình số tám.

The adjustment to his environment of a six-year-old with a mind of eleven is one of the most difficult of social adjustments anywhere. If the supergifted one fails in his attempt, he seldom has anyone to appeal to for advice because he knows he will not be understood. He must then turn to himself and force through the adjustments on himself. These will enable him to go on living in the world, but by outward standards, he will be considered abnormal and peculiar, even perverted.

Sự điều chỉnh với môi trường xung quanh của một đứa trẻ sáu tuổi có cái trí mười một tuổi là một trong những điều chỉnh xã hội khó khăn nhất ở bất kỳ đâu. Nếu người siêu năng khiếu thất bại trong nỗ lực này, em hiếm khi có ai để cầu viện xin lời khuyên vì biết mình sẽ không được thấu hiểu. Khi đó, em buộc phải quay vào chính mình và cưỡng bức các điều chỉnh lên bản thân. Những điều chỉnh này giúp em tiếp tục sống trong đời, nhưng theo tiêu chuẩn bên ngoài, em sẽ bị coi là bất thường và kỳ quặc, thậm chí là lệch lạc.

Thus, for instance, in his relationships with his companions, the child is small enough physically to match them but too large in mind. He therefore seeks companions with larger minds but they have physical bodies too large for him to adapt to in playtime and sport. The persistent companionship of larger boys who will ‘thump him’ if he beats them too often with his wit, will tend to make him negativistic and passive in outlook, a disastrous situation for a child on the threshold of puberty.

Chẳng hạn, trong quan hệ với bạn đồng lứa, đứa trẻ đủ nhỏ về thể xác để tương xứng với chúng nhưng lại quá lớn trong tâm trí. Em bèn tìm bạn có tâm trí lớn hơn nhưng họ lại có thân xác quá lớn để em thích nghi trong lúc chơi và thể thao. Sự bầu bạn thường xuyên với những cậu lớn hơn—những người sẽ ‘nện em’ nếu em dùng trí tuệ châm chọc họ quá nhiều—sẽ có xu hướng khiến em mang não trạng phủ định và thụ động, một tình huống tai hại cho một đứa trẻ đang ở ngưỡng dậy thì.

A supergifted child may often be capable of leadership amongst a group that is of his own degree of development but unless special circumstances exist he is seldom able to lead in a group of averagely developed companions. He resents this, knowing that he is mentally superior to the group leader.

Một đứa trẻ siêu năng khiếu thường có khả năng lãnh đạo trong một nhóm ngang tầm phát triển của mình, nhưng trừ khi có hoàn cảnh đặc biệt, em hiếm khi có thể dẫn dắt trong một nhóm bạn phát triển ở mức trung bình. Em bực bội vì điều đó, biết rằng mình vượt trội về trí tuệ so với người đứng đầu nhóm.

From this last situation we often find the supergifted antagonistic to authority, rebellious and soured. Too often they have recognised the intellectual weaknesses of others in positions of authority.

Từ tình huống sau cùng này, chúng ta thường thấy trẻ siêu năng khiếu chống đối thẩm quyền, phản kháng và trở nên chua chát. Quá thường xuyên, các em đã nhận ra các yếu kém trí tuệ của những người ở vị trí thẩm quyền.

They then lose respect for all authority. They desperately need the advice and guidance of someone equally gifted but older, but they seldom get it. This makes their position almost unique in our society and it accentuates their loneliness and all the qualities and vices which that condition can evoke. Their main problems are:

Rồi các em mất lòng tôn kính đối với mọi thẩm quyền. Các em khao khát lời khuyên và dẫn dắt từ ai đó đồng tài nhưng lớn tuổi hơn, nhưng hiếm khi nhận được. Điều này khiến vị thế của các em gần như độc nhất trong xã hội và làm tăng cảm giác cô đơn cùng tất cả những phẩm tính và tật xấu mà tình trạng ấy có thể khơi dậy. Các vấn đề chính của các em là:

1. To suffer fools gladly.

1. Hòa nhẫn với kẻ dở.

2. To find enough hard, interesting work at school.

2. Tìm được đủ công việc khó và thú vị ở trường.

3. To keep from being negativistic to those in authority on all levels … companions, artists, teachers, priests, etc.

3. Tránh trở nên phủ định đối với những người có thẩm quyền ở mọi cấp … bạn bè, nghệ sĩ, thầy cô, linh mục, v.v.

4. To keep from becoming hermits when the environment proves too hostile or lacking in understanding of his problems.

4. Tránh trở thành ẩn sĩ khi môi trường tỏ ra quá thù nghịch hoặc thiếu sự thấu hiểu các vấn đề của em.

5. To avoid habits of extreme trickery, especially on mental levels, sophistry and the desire to deceive and to expose his companions.

5. Tránh thói quen xảo trá quá mức, đặc biệt trên bình diện trí tuệ, ngụy biện và ham muốn lừa dối cũng như bêu xấu bạn bè.

The early correction of their special problems in a compassionate and existential manner can save them from disastrous deviations in which their extraordinary creativeness can be so easily diverted into misuses that far exceed the capacities of the less gifted:

Việc sửa sai sớm những vấn đề đặc thù của các em theo một cung cách từ bi và hiện sinh có thể cứu họ khỏi những lệch hướng tai hại, trong đó sức sáng tạo phi thường của họ rất dễ bị chuyển hướng sang các lạm dụng vượt xa năng lực của người kém năng khiếu:

‘But if that flower with base infection meet,

‘Nhưng nếu bông ấy nhiễm ô thấp hèn,

The basest weed outbraves his dignity:

Cỏ dại hèn mọn cũng vượt phẩm giá nó:

For sweetest things turn sourest by their deeds;

Vật ngọt nhất hóa chua vì hành động;

Lilies that fester smell far worse than weeds’.

Huệ khi ươn thối còn hôi hơn cỏ dại’.

Sonnet 94 (Shakespeare).

Sonnet 94 (Shakespeare).

Because a supergifted child is sometimes able to finish his work long before his classmates, this is no excuse for loading him with more of the same quality of tasks as his fellows receive. He should be given the same amount of work but of a higher nature. The previously accepted custom of accelerating such a child by permitting him to jump one or two standards into a higher form has its dangers. The child inevitably finds himself in a form in which he is physically years behind his classmates and the problems stressed earlier soon arise.

Vì một đứa trẻ siêu năng khiếu đôi khi có thể hoàn thành bài vở trước bạn cùng lớp rất lâu, điều này không phải là lý do để chất thêm cho em nhiều công việc cùng loại như các bạn. Em nên được giao cùng khối lượng công việc nhưng thuộc phẩm chất cao hơn. Tập tục trước đây cho tăng tốc em bằng cách cho phép nhảy qua một hay hai lớp vào khối cao hơn có những nguy cơ riêng. Trẻ tất yếu thấy mình rơi vào một lớp mà ở đó về thể xác em thua các bạn những vài năm, và các vấn đề đã nhấn mạnh trước đó liền nảy sinh.

M.B. suffered under this process. He started school two years before the accepted entrance age because he appeared ‘big for his age’. Three years later, when in a class in which boys were averaged two years his senior, he again forged ahead, so much so, that he was invited to jump his next standard. His mother was, of course, flattered by this suggestion and permitted it. The child then found himself in a class in which the boys were three years older than he. He now lost the comfort of intellectual superiority and was confronted by even greater physical differences than before. He found that his classmates were playing for the school first and second eleven and fifteen, cricket and rugby teams, whereas he was in games that were as far behind these as three or four years in which none of his own classmates participated. He quite understandably turned away from sport and was never quite able to go back to it when he needed it for relaxation in later years. He could never wrestle and tumble with his fellows because of disparity in size and was often confronted with situations and conversations involving his class friends which were unhealthy or too precocious for him but not for them, again because of age disparity.

M.B. đã chịu đựng hậu quả của tiến trình này. Em nhập học sớm hai năm so với tuổi vào học chuẩn vì trông “to con so với tuổi”. Ba năm sau, khi ở trong lớp mà các bạn trung bình lớn hơn em hai tuổi, em lại vượt lên, đến mức được mời nhảy lớp kế tiếp. Mẹ em, dĩ nhiên, được tâng bốc bởi đề nghị này và chấp thuận. Đứa trẻ bấy giờ thấy mình ở trong một lớp mà các bạn lớn hơn em ba tuổi. Em giờ mất đi sự an ủi của ưu thế trí tuệ và đối mặt với những chênh lệch thể xác còn lớn hơn trước. Em thấy bạn cùng lớp đang chơi cho đội nhất và đội nhì mười một người (cricket) và mười lăm người (bóng bầu dục) của trường, trong khi em chỉ chơi những môn còn cách đó ba bốn năm—những môn mà chẳng bạn nào của lớp em tham dự. Hoàn toàn dễ hiểu khi em quay lưng với thể thao và về sau không sao trở lại khi cần nó để thư giãn. Em không bao giờ có thể vật lộn và lăn xả với bạn bè vì chênh lệch thể hình và thường đối mặt với những tình huống và câu chuyện liên quan đến bạn cùng lớp vốn không lành mạnh hoặc quá sớm đối với em nhưng lại không đối với họ, một lần nữa vì chênh lệch tuổi tác.

Early Recognition of the Supergifted —Nhận diện sớm trẻ siêu năng khiếu

The Two Specific Types —Hai dạng đặc thù

Roberto Assagioli enumerated two types of supergifted:

Roberto Assagioli đã liệt kê hai dạng siêu năng khiếu:

1. Those who are gifted in a general or multiple way, that is, who demonstrate a marked superiority over the average in all or in several fields. They are usually healthy, strong and sure of themselves … The choice of which of their various talents should receive special training, so that they may avoid indecision, delays and wasteful scattering of energies, is one direction in which they need special help and guidance.

1. Những em có tài năng theo cách tổng quát hoặc đa năng, nghĩa là biểu lộ sự vượt trội rõ rệt so với mức trung bình trong tất cả hoặc trong vài lĩnh vực. Các em thường khỏe mạnh, vững vàng và tự tin … Lựa chọn tài năng nào trong số các tài năng cần được đào luyện đặc biệt để tránh do dự, chậm trễ và phân tán lãng phí năng lượng là hướng mà các em cần được trợ giúp và dẫn dắt đặc biệt.

2. The second group is different and presents difficult education problems. It comprises those possessing a specific gift so exceptional as to border upon or enter the field of genius, but having side by side with serious deficiencies or lack of balance in other aspects of their personalities.

2. Nhóm thứ hai khác hẳn và đặt ra những vấn đề giáo dục khó khăn. Nhóm này bao gồm những em có tài năng đặc thù đến mức tiệm cận hoặc bước vào cõi thiên tài, nhưng đi kèm với đó là những khiếm khuyết nghiêm trọng hoặc thiếu cân bằng ở các phương diện khác của phàm ngã.

In this latter group, we find young people who have artistic, literary, musical and in some cases mathematical abilities, but are hyper-sensitive, overemotional and over-imaginative. They are often physically weak or clumsy, impractical and absent-minded. They are thus generally neither understood nor appreciated by parents or teachers, and are apt to be the target of the ridicule and antagonism of their fellow students. Such lack of understanding and appreciation, and the consequent ineptitude in dealing with these young people, are the cause of much suffering, despondency and despair; or of revolt in many cases, and in others even of deviations or perversions. Among the many well-known instances of this kind we may mention Baudelaire, Verlaine, Strinberg and Kafka.

Trong nhóm sau này, chúng ta gặp những người trẻ có năng lực nghệ thuật, văn chương, âm nhạc và trong vài trường hợp là toán học, nhưng lại quá nhạy cảm, quá cảm xúc và quá giàu tưởng tượng. Các em thường yếu đuối hoặc vụng về về thể chất, thiếu thực tế và hay đãng trí. Vì thế, các em thường không được cha mẹ hay thầy cô thấu hiểu hoặc đánh giá đúng, và dễ trở thành mục tiêu của sự nhạo báng và đối nghịch từ bạn học. Sự thiếu thấu hiểu và đánh giá, cùng với sự vụng về trong cách xử trí những người trẻ này, là nguyên nhân của nhiều khổ đau, chán nản và tuyệt vọng; hoặc dẫn đến phản kháng trong nhiều trường hợp, và trong những trường hợp khác thậm chí là những lệch đường hoặc lệch lạc. Trong số nhiều trường hợp điển hình được biết đến, có thể kể Baudelaire, Verlaine, Strindberg và Kafka.

When we think of the supergifted, our minds automatically leap to the most perfect example we know of, the child genius of Wolfgang Amadeus Mozart. A notice in a German newspaper of 1763 describes the most universal genius of music the world has ever known as follows:

Khi nghĩ về người siêu năng khiếu, tâm trí chúng ta tự động nhảy đến ví dụ hoàn hảo nhất mà ta biết, thần đồng Wolfgang Amadeus Mozart. Một thông báo trên một tờ báo Đức năm 1763 mô tả thiên tài âm nhạc phổ quát nhất mà thế giới từng biết như sau:

‘Positively the last concert! … The boy, not yet seven, will perform on the harpsichord, play a concert for violin, and accompany symphonies on the clavier, the keyboard being covered with a cloth, as easily as if he could see the keys. He will name all the notes sounded at a distance, singly or in chords, and improvise on the harpsichord and organ as long as desired. Tickets 1/2 taler’.

‘Chắc chắn là buổi hòa nhạc cuối cùng! … Cậu bé, chưa tròn bảy tuổi, sẽ diễn tấu trên đàn clavecin, chơi một bản concerto cho vĩ cầm, và đệm giao hưởng trên đàn phím, với bàn phím được phủ bằng một tấm vải, nhẹ nhàng như thể cậu nhìn thấy các phím. Cậu sẽ gọi tên tất cả các nốt vang lên từ xa, đơn âm hoặc hợp âm, và ứng tấu trên đàn clavecin và đàn organ lâu bao nhiêu tùy ý. Vé 1/2 taler’.

Mozart was born with absolute pitch, infallible rhythm, and natural comprehension of harmony. At the age of four, the child began to learn to play the clavier—a forerunner of the modern piano—and at five picked up a violin, and, reading at sight, staggered through six trios with his father and a friend. As a child, he read and wrote music before he could do the same as well with his A.B.C. At fifteen he was the author of fourteen symphonies and six short operas.

Mozart sinh ra với cao độ tuyệt đối, tiết tấu không sai chạy và một tư chất hiểu hòa âm tự nhiên. Lên bốn, cậu bắt đầu học đàn phím—tiền thân của đàn piano hiện đại—và lên năm, cậu nhặt cây vĩ cầm lên, đọc-liền-đàn và khổ sở đi qua sáu bản trio cùng cha và một người bạn. Thuở nhỏ, cậu đọc và viết nhạc trước khi có thể làm tốt tương tự với bảng chữ cái. Lên mười lăm, cậu đã là tác giả của mười bốn bản giao hưởng và sáu vở opera ngắn.

Recognition of the Supergifted

Nhận diện trẻ siêu năng khiếu

Such precocious development as Mozart’s in one or in several traits, is an early sign of the supergifts. There is on record a boy who wrote an ABC of electricity at eight. The I.Q. in this instance was over 200. A girl of two was heard to compose alternative tunes to her nursery rhymes. Dickens wrote tragedy at seven. At six, Goethe, the famous student of the esoteric and exoteric sciences, on the death of so many in the Lisbon earthquake was heard to say … ‘It was not so bad after all … God knows the immortal soul can suffer no harm through fate’. It was the same Goethe, who at fourteen, had sat enthralled at the glittering notes of the six-year-old Mozart.

Sự phát triển sớm như của Mozart trong một hay vài phẩm chất là dấu hiệu sớm của các tài năng. Có ghi chép về một cậu bé viết một cuốn ABC về điện học lúc tám tuổi. I.Q. trong trường hợp này trên 200. Một bé gái hai tuổi được nghe thấy tự sáng tác các giai điệu thay thế cho bài hát ru của mình. Dickens viết bi kịch lúc bảy tuổi. Lên sáu, Goethe, nhà nghiên cứu lừng danh về các khoa học nội môn và ngoại môn, khi nghe nói nhiều người chết trong trận động đất Lisbon đã nói … ‘Cũng chưa đến nỗi nào … Thượng đế biết linh hồn bất tử không thể bị số phận làm tổn hại’. Cũng chính Goethe ấy, mười bốn tuổi, đã ngồi ngây ngất trước những nốt nhạc lấp lánh của Mozart sáu tuổi.

Another supergifted child known to me personally, the same M.B. mentioned earlier, used to sit, at the age of four-and-a-half and copy a map of the world. Within a few months he could reproduce any part of it from memory.

Một trẻ siêu năng khiếu khác mà tôi biết cá nhân, cũng là M.B. đã nhắc trước đó, khi bốn tuổi rưỡi ngồi chép một tấm bản đồ thế giới. Chỉ vài tháng sau, em có thể tái hiện bất kỳ phần nào của nó từ trí nhớ.

The precocity of the supergifted is often centred around matters of origin and destiny … Where do we come from? .. Why are we here? .. Where do we go to after death? The problems of good and evil often concern them. They are very easily affected by moral problems … a little boy of six in America wept after reading how the North taxed the South after the civil war.

Tính phát triển sớm của người siêu năng khiếu thường xoay quanh các vấn đề về nguồn gốc và định mệnh … Chúng ta đến từ đâu? .. Vì sao chúng ta ở đây? .. Chúng ta đi về đâu sau cái chết? Các vấn đề thiện và ác thường làm các em bận tâm. Các em rất dễ bị tác động bởi những vấn đề đạo đức … một cậu bé sáu tuổi ở Mỹ đã khóc sau khi đọc chuyện miền Bắc đánh thuế miền Nam sau nội chiến.

They hate the mundane and will do anything to avoid it, sidetracking with questions whenever they can. They also see gaps in information and take note of exceptions to rules or are quick to point out contradictions. A father tells of reciting nursery rhymes to his inquisitive four-year-old … ‘You try something simple and straight-forward like Tom, Tom, the Piper’s Son. Right away he starts interrupting: “Was Tom about my age? If Tom was my age, how did he carry a pig?”’ The teacher of the supergifted must realise the child suffers untold agonies if his questions go unanswered or if he is discouraged from questioning. Another aspect of their precocity is their inability to hold their tongues. It is hard for them to sit quietly when their ideals are at stake. What is more, they resent any suggestion that they are insincere in their ideals no matter how high they fly.

Các em ghét sự tầm thường và sẽ làm mọi điều để tránh nó, lảng sang đặt câu hỏi bất cứ khi nào có thể. Các em cũng nhìn thấy lỗ hổng trong thông tin và lưu ý đến những ngoại lệ đối với quy tắc hoặc nhanh nhạy chỉ ra mâu thuẫn. Một người cha kể về việc đọc các đồng dao cho đứa con bốn tuổi hay thắc mắc của mình … ‘Anh thử thứ gì đó đơn giản và thẳng như Tom, Tom, the Piper’s Son. Lập tức thằng bé bắt đầu ngắt lời: “Tom bằng tuổi con không? Nếu Tom bằng tuổi con, sao nó vác nổi một con heo?”’ Thầy cô dạy trẻ siêu năng khiếu phải hiểu rằng đứa trẻ chịu đựng những khổ đau không thể nói thành lời nếu câu hỏi của em không được đáp hoặc nếu em bị ngăn không cho hỏi. Một khía cạnh khác của tính phát triển sớm là sự không thể “ngậm miệng” của các em. Các em khó mà ngồi yên khi lý tưởng của mình bị đụng chạm. Hơn nữa, các em bực bội trước bất kỳ gợi ý nào cho rằng các em không thành thật với lý tưởng của mình, dù lý tưởng ấy có bay cao đến đâu.

Not all precociousness in the supergifted is so well marked. The closest observations and uses of one’s own intuitive and esoteric qualities must be called upon to recognise the same in the supergifted child.

Không phải mọi biểu hiện phát triển sớm ở người siêu năng khiếu đều dễ nhận ra. Cần đến những quan sát tinh tế nhất và việc vận dụng trực giác cùng phẩm tính nội môn của chính mình để nhận ra điều ấy nơi một đứa trẻ siêu năng khiếu.

One very notable characteristic of theirs is their ability to play with a single toy for hours on end, deriving endless joy from the weaving of their own imaginations about the toy, providing it with background and altering situations. The opposite of this holds good for the backward child or for the young soul in a body too advanced for its spiritual development. It may then become the object of possession.

Một đặc điểm rất đáng kể của các em là khả năng chơi với một món đồ chơi duy nhất trong hàng giờ liền, rút được niềm vui bất tận từ việc dệt nên tưởng tượng của riêng mình quanh món đồ, cung cấp bối cảnh và thay đổi tình huống. Điều ngược lại đúng với đứa trẻ chậm tiến hoặc một linh hồn non trẻ trong một thân xác quá vượt trước sự phát triển tinh thần của nó. Khi ấy, thân xác có thể trở thành đối tượng của sự chiếm hữu.

When playing with other children, they tend to act as running commentators supplying background and situations for the game as they do with their toys. H.P. Blavatsky often had her playmates in tears and hysterics through her vivid playtime creations and flights of imagination. M.B., sent to boarding school at an early age, would regale boys twice his age with long fairy stories after lights out often earning thereby their protection and sympathy. In supplying background to an otherwise dull playtime, they tend to organise games into some complex pattern often with a high climax in view and they themselves playing a leading role in the fantasy. This may, on occasions, be the result of a soul-rapport presenting memories of previous lives built around the climaxes which accompany initiation remembering that all supergifted children are most certainly on the Path of initiation, repeating steps taken in previous lives, in the present life.

Khi chơi với những đứa trẻ khác, các em có xu hướng đóng vai người bình luận chạy song song, cung cấp bối cảnh và tình huống cho trò chơi như các em làm với đồ chơi. Bà H.P. Blavatsky thường làm bạn chơi của Bà bật khóc và hoảng loạn bởi những sáng tạo lúc chơi và những chuyến bay tưởng tượng sống động. M.B., được gửi đến trường nội trú từ rất sớm, thường kể cho các cậu lớn gấp đôi tuổi mình những câu chuyện cổ tích dài sau giờ tắt đèn, nhờ đó thường giành được sự che chở và cảm thông của họ. Khi cung cấp bối cảnh cho một giờ vui chơi vốn tẻ nhạt, các em có xu hướng tổ chức trò chơi thành một mô thức phức tạp, thường nhằm đến một cao trào lớn và bản thân các em đóng vai trò dẫn dắt trong cõi mộng đó. Đôi khi, điều này có thể là kết quả của một giao cảm linh hồn, trình hiện ký ức các đời trước được xây quanh các cao trào đi kèm với điểm đạo, nhớ rằng mọi trẻ siêu năng khiếu hầu như chắc chắn đang ở trên Con Đường Điểm Đạo, lặp lại những bước đã đi trong các đời trước, vào chính đời này.

It is easy to see how they are often misunderstood and disliked for their ‘fads and fancies’. They especially love competitive games and very complicated ones at that. These give them opportunities to express their unusual gifts. It is no wonder that they make excellent actors quite often, for acting and children occupy the same house in astrology, i.e. the Fifth.

Dễ hiểu vì sao các em thường bị hiểu lầm và không được ưa vì “những thói tật và sở thích kỳ cục”. Các em đặc biệt yêu thích các trò thi đua—và là những trò cực kỳ phức tạp. Chúng cho các em cơ hội biểu lộ những tài năng khác thường. Không có gì lạ khi các em thường là diễn viên xuất sắc, vì diễn xuất và trẻ em cùng ở chung một nhà trong chiêm tinh, tức Nhà số Năm.

There are, of course, always the exceptions to precociousness among them. Under the first of Assagioli’s groupings, Winston Churchill is a good example. As a boy he showed very few qualities that are valued at school. In fact, he appeared to be a little backward by ordinary ratings.

Dĩ nhiên, giữa họ luôn có ngoại lệ đối với tính phát triển sớm. Dưới phân nhóm thứ nhất của Assagioli, Winston Churchill là một ví dụ tốt. Thuở nhỏ, Ông tỏ ra rất ít phẩm chất được nhà trường coi trọng. Thực ra, theo thang đánh giá thông thường, Ông có vẻ hơi chậm.

Albert Einstein falls into the second group of the supergifted and yet he didn’t speak properly until he was nine. In general though, the ability to read and write comes early, most supergifted children being able to read before the age of four. Perhaps the most outstanding quality by which we may recognise supergifted children is in their preparedness to shoulder responsibility. This is, in fact, the criterion of recognition of spiritual development in the adult as well. No other quality points so assuredly to the age of the soul than this one, both in the child and the adult. M.B. often received a sound thrashing for his efforts to arouse and organise opposition against bullies at his school. It is not because they want necessarily to lead, but rather that they cannot sit still in the face of inefficiency, injustice or ignorance, depending on which arouses them.

Albert Einstein thuộc nhóm thứ hai của siêu năng khiếu, vậy mà Ông không nói năng cho ra trò đến tận chín tuổi. Tuy nhiên, nói chung, khả năng đọc và viết đến sớm, đa số trẻ siêu năng khiếu có thể đọc trước bốn tuổi. Có lẽ phẩm chất nổi bật nhất để nhận biết trẻ siêu năng khiếu là sự sẵn sàng gánh vác trách nhiệm . Thực vậy, đây cũng là tiêu chí nhận diện sự phát triển tinh thần nơi người trưởng thành. Không có phẩm chất nào chỉ ra chắc chắn tuổi đời của linh hồn như phẩm chất này, cả ở trẻ em lẫn người lớn. M.B. thường lãnh những trận đòn đau vì nỗ lực khơi dậy và tổ chức sự phản kháng chống lại bọn bắt nạt ở trường. Không phải vì các em nhất thiết muốn lãnh đạo, mà đúng hơn là các em không thể ngồi yên trước sự kém hiệu quả, bất công hoặc vô minh—tùy điều gì khơi dậy các em.

This responsibility which the supergifted assumes, becomes, in adulthood, an overwhelming desire to serve mankind though this may be the last thought in his mind at the conscious level. It is very often taken to the point of martyrdom. They, the supergifted very often cannot see the logic, or the emotional advantages in the responsible stand they take for some cause which is often a lost one or very obscure or pre-evolutional … in fact precocious. And yet they make their stand, sometimes against the most overwhelming odds, deriving their strength and persistence from their tThird Factor, the inner Self and they denude their ‘space within’ to fertilise the space without. With the help of this inner compulsive element they are able to work alone and for long periods despite their oft-times frail physiques.

Trách nhiệm mà người siêu tài năng đảm nhận trở thành, khi trưởng thành, một ước muốn mãnh liệt muốn phụng sự nhân loại, dù ở tầng ý thức đây có thể là ý nghĩ sau rốt trong tâm y. Điều này rất thường được đẩy đến mức tử đạo. Những người siêu tài năng thường không nhìn thấy lý lẽ hay lợi ích cảm xúc trong lập trường trách nhiệm mà họ đứng ra vì một lý tưởng nào đó, vốn thường là vô vọng, rất mơ hồ hoặc tiền-tiến hoá … thực ra là quá sớm. Thế nhưng họ vẫn trụ vững lập trường, đôi khi đối đầu với những bất lợi ngập trời, rút sức mạnh và bền chí từ Y ếu Tố Thứ Ba, tức Tự Ngã bên trong, và họ lột trần “không gian nội tại” của mình để bồi dưỡng không gian bên ngoài. Với trợ lực của yếu tố cưỡng bách bên trong này, họ có thể làm việc một mình và trong thời gian dài, mặc cho thân xác nhiều khi mảnh mai yếu ớt.

Curiosity is often overwhelming in the supergifted. They are forever searching for new meanings in the apparently mundane, or the not obvious obsesses them to the distraction of their parents who invariably want them to be normal, happy and well-adjusted kids. But, as the same Dr. Torrance points out, happiness and good mental health consists primarily of using one’s capacities to the full. The supergifted are no exception though their single or multiple capacities may be enormous. And so, as babies, they are forever investigating, shaking, twisting and turning inside out, various objects coming into their possession. This inevitably produces many great poets for poetry is the use of a word to express, or suppress, many words … and pigment, the use of a symbol or painted sign, to do the same. This endows them with the gift of improvisation such as described—musically—in young Mozart. One young supergifted described eternity as ‘a clock without hands’.

Tò mò thường là áp đảo nơi người siêu tài năng. Họ mãi mãi đi tìm những ý nghĩa mới trong điều tưởng như tầm thường, hoặc những điều không hiển nhiên ám ảnh họ đến mức làm cha mẹ họ phát cáu—những người luôn muốn con mình “bình thường”, hạnh phúc và “hoà nhập tốt”. Nhưng, như bác sĩ Torrance cũng nêu, hạnh phúc và sức khoẻ tâm thần tốt trước hết là việc sử dụng trọn vẹn các năng lực của chính mình. Người siêu tài năng không ngoại lệ, dù năng lực đơn hay đa của họ có thể là khổng lồ. Thế nên, ngay từ khi còn bé, họ không ngừng điều tra, lắc, vặn, lật trái lật phải những vật thể rơi vào tay mình. Điều này tất yếu sinh ra nhiều đại thi sĩ, vì thi ca là dùng một chữ để biểu đạt, hay nén lại, nhiều chữ … và hội hoạ, dùng một biểu tượng hay dấu vẽ, để làm điều tương tự. Điều đó ban cho họ ân tứ ứng tác như đã được mô tả—về âm nhạc—ở Mozart thời niên thiếu. Một em siêu tài năng đã mô tả vĩnh cửu là “một chiếc đồng hồ không kim”.

Malleability and flexibility are the indispensable equipment of the supergifted though they recognise it not. These have been won from previous lives on the Path of Initiation. Presented with a problem that challenges their individual gift, they will alter themselves in mind, emotion and (if needs be) sometimes in body to overcome obstacles. Without this capacity to be constantly receptive to change, they would never be able to react to the instress of the Third Factor. It may show outwardly as super-sensitivity, often as mediumship. The havoc that the inward changes may wreak on the physical sheath may be extensive especially if it is unprepared by what is known as meditation and the other esoteric disciplines which purify the body.

Khả uốnlinh hoạt là khí cụ không thể thiếu của người siêu tài năng, dù họ không tự nhận ra. Những phẩm tính này đã được chinh phục từ các tiền kiếp trên Con Đường Điểm Đạo. Khi đối diện một vấn đề thách thức ân tứ riêng của mình, họ sẽ tự biến đổi nơi trí, nơi cảm và (nếu cần) đôi khi cả nơi thân để vượt chướng ngại. Không có năng lực thường trực tiếp thu đổi thay này, họ sẽ chẳng bao giờ đáp ứng nổi lực nội tại của Yếu Tố Thứ Ba. Bên ngoài, điều đó có thể hiện ra như siêu mẫn cảm, nhiều khi như năng lực đồng tử. Những biến đổi bên trong có thể tàn phá vỏ thể xác rất nhiều, nhất là nếu thể xác chưa được chuẩn bị bằng cái gọi là tham thiền và các kỷ luật huyền môn khác nhằm thanh luyện thân thể.

There are few indications that the supergifted are suicide-prone or that they lean towards insanity or that they even marry less often. These deviations may arise as the result of an unsuitable environment that frustrates their attempts at self-expression. In contrast to their strangely complex gifts, they are often relaxed by the simplest pleasures. M.B. as a child of five, followed the growth of his tomato plants and beans with such delight that he was often up long before dawn to watch their astonishing progress. It is fortunate that his understanding mother passed over lightly his successful sowing of her flower beds with several dozen pumpkin seeds!

Ít có dấu hiệu cho thấy người siêu tài năng có khuynh hướng tự sát, hay thiên về điên loạn, hay thậm chí là kết hôn ít hơn. Những sai lệch này có thể phát sinh do môi trường không thích hợp làm thất bại nỗ lực tự biểu đạt của họ. Trái ngược với các ân tứ lạ lùng phức tạp, họ thường được thư giãn bởi những niềm vui giản dị nhất. M.B., khi mới năm tuổi, theo dõi sự lớn lên của cây cà chua và đậu của mình với niềm hân hoan đến mức em thường dậy từ lâu trước rạng đông để nhìn ngắm tiến triển kinh ngạc của chúng. Thật may là người mẹ hiểu biết của em đã bỏ qua nhẹ nhàng việc em đã “gieo thành công” mấy bồn hoa của bà bằng vài chục hạt bí đỏ!

It is not surprising that the supergifted are often ‘left’ politically or for at least some period in their lives. They are often crusading from the earliest age. M.B. at the age of eight was surreptitiously diverting food from his mother’s pantry to feed class mates less fortunate than himself and at one stage maintained a vagrant waif in food and clothes in his home-made tree-house.

Không có gì ngạc nhiên khi người siêu tài năng thường “nghiêng trái” về chính trị, ít nhất là trong một giai đoạn nào đó của đời họ. Họ thường khởi xướng “thập tự chinh” ngay từ rất sớm. M.B. lúc tám tuổi đã lén chuyển thức ăn từ tủ chạn của mẹ để nuôi các bạn học kém may mắn hơn mình, và có thời em còn chu cấp đồ ăn, quần áo cho một đứa trẻ lang thang vô gia cư trong ngôi nhà cây do em tự làm.

From the beginning, the child should be encouraged to enjoy his own company and be given every opportunity to find retreat, at first in his own room and later within himself. The supergifted must be encouraged to share but never expect him to share everything. He must be able to ‘call his soul his own,’ for they vibrate at wavelengths their teachers will never know and at all stages they must have ‘a room of one’s own.’ But by no means should they be allowed to become hermits or cranks through not mixing with children their own age. One cannot always provide them with playmates who are equal in intellect as well as in size and it is therefore so important that at least once a year the supergifted should meet each other in summer-schools and the suchlike. Here would exist the opportunity for comparing notes, for self-expression on a level otherwise obtainable only in solitude. Here would exist the opportunity for him to express himself to his peers.

Ngay từ đầu, cần khuyến khích đứa trẻ biết tận hưởng sự đồng hành với chính mình và cho em mọi cơ hội để tìm nơi trú ẩn, trước hết trong căn phòng riêng, rồi sau đó là bên trong chính mình. Người siêu tài năng phải được khích lệ chia sẻ, nhưng đừng bao giờ mong em chia sẻ mọi thứ. Em phải có thể “gọi linh hồn là của riêng mình”, vì các em rung động ở những bước sóng mà thầy cô sẽ chẳng bao giờ biết, và ở mọi giai đoạn, các em phải có “một căn phòng của riêng mình”. Nhưng tuyệt đối không được để các em trở thành ẩn sĩ hay lập dị vì không giao du với bạn bè đồng trang lứa. Không phải lúc nào cũng có thể thu xếp cho các em bạn chơi ngang trí tuệ cũng như tầm vóc, vì vậy điều hết sức quan trọng là ít nhất mỗi năm một lần, những người siêu tài năng nên gặp nhau tại các trường hè và những sinh hoạt tương tự. Ở đây sẽ có cơ hội để so sánh, trao đổi kinh nghiệm, để tự biểu đạt trên một bình diện mà nếu không thì chỉ có thể có trong cô tịch. Ở đây sẽ có cơ hội để em tự thể hiện trước bạn bè đồng lứa.

Some Esoteric Factors and the Supergifted

Một vài Yếu Tố Huyền Môn và Người Siêu tài năng

Since the year 1920, there has been a steady increase in the numbers of highly developed souls taking physical bodies. These supergifted children are to help with the special work of reorganising, rebuilding and reshaping the New Age. A very special effort led by five adepts will be made in the last decade of this century and in the first two of the next, to restore the Mysteries or at least part of them. This is the basic aim behind the concept of the Coming Christ, and the externalisation of the Hierarchy of the planet Earth. In this respect, the supergifted are the precious stones in the crown of the Coming Avatar.

Kể từ năm 1920, số lượng các linh hồn phát triển cao thọ thân xác đã tăng đều. Những đứa trẻ siêu tài năng này sẽ giúp thực hiện công việc đặc biệt là tổ chức lại, xây dựng lại và định hình lại Kỷ Nguyên Mới. Một nỗ lực hết sức đặc biệt, do năm chân sư dẫn dắt, sẽ được thực hiện trong thập niên cuối của thế kỷ này và hai thập niên đầu của thế kỷ tới, nhằm phục hưng các Bí Nhiệm, hoặc ít nhất một phần của chúng. Đây là mục tiêu cơ bản ẩn sau khái niệm về Đấng Christ Đang Đến, và Sự Hiển Lộ của Thánh đoàn của hành tinh Trái Đất. Ở phương diện này, những người siêu tài năng là các viên ngọc quý trên vương miện của Đấng Hoá Thân Đang Đến.

00034.jpeg

The responsibilities implicit in this statement for Discipleship in all esoteric fields as well as religious, are wide and profound. It is the duty of everyone who is aware of these underlying factors to locate these incarnating arhats and initiates and to see that they are given the opportunities which will enable them ultimately to perform the special work they have to do and for which their gifts have been prepared through many lives. No stone should be left unturned to discover them and when discovered to sustain them with the best education and environment which will allow them the utmost Self-expression.

Những trách nhiệm hàm ẩn trong tuyên bố này đối với địa vị đệ tử trong mọi lĩnh vực huyền bí cũng như tôn giáo là rộng và thâm sâu. Bổn phận của mọi người ý thức được các yếu tố nền tảng này là định vị các A‑la‑hán và các điểm đạo đồ đang lâm phàm và bảo đảm rằng họ được trao những cơ hội sẽ cho phép họ rốt cuộc thực hiện công việc đặc biệt mà họ phải làm và mà vì đó, các ân tứ của họ đã được chuẩn bị qua nhiều kiếp. Không được bỏ qua bất cứ nỗ lực nào để tìm ra họ, và khi đã tìm ra, phải nâng đỡ họ bằng nền giáo dục và môi trường tốt nhất, cho phép họ tự biểu đạt tối đa.

What is more, these children must be located early in life. Recently, the University of Minnesota conducted a research on more than 15,000 boys and girls from the ages of four to eleven. Their findings show that most children start life with a valuable creative spark and that most of them have it knocked out of them by the time they are nine. They also find that this is not because parents and teachers deliberately crush creativity but that they fail to recognise It. In the supergifted this is highly accentuated.

Hơn nữa, cần tìm ra những đứa trẻ này từ rất sớm trong đời. Gần đây, Đại học Minnesota đã tiến hành một nghiên cứu trên hơn 15.000 bé trai và bé gái từ bốn đến mười một tuổi. Các phát hiện cho thấy hầu hết trẻ em khởi đời với một tia sáng sáng tạo quý báu, và phần lớn các em bị đánh bật tia sáng ấy ra khỏi mình khi lên chín. Họ cũng phát hiện điều này không phải vì cha mẹ và thầy cô cố ý đè bẹp tính sáng tạo, mà là vì họ không nhận ra Nó . Ở người siêu tài năng, điều này càng nổi bật.

The duties and responsibilities thus imposed upon the parents of the supergifted are therefore enormous and for those who are aware of such children without necessarily being related.

Bổn phận và trách nhiệm như vậy đặt lên cha mẹ của người siêu tài năng vì thế là vô cùng to lớn cũng đặt lên những ai nhận biết về các em như vậy dù không nhất thiết có liên hệ ruột thịt.

The importance of recognising the supergifted at an early age is not only difficult, and made more so because of general ignorance on the question but is heightened by the fact that only in very special circumstances does a highly developed soul choose a home which is benign, affluent and influential. Many an outside observer to esotericism has noted that the most prominent esotericists, at least among the men, come from the humblest homes. Perhaps this is emphasised in the biblical narrative of Jesus’ birth in a stable. Whatever the home circumstances, the early life is desperately important. The Catholic Church does not say without good cause ‘Give me your child for the first five years and the world can have him after that’ The Master D.K. once said that if he were given young men to train, when their minds were still open and not yet crystallised, He would bring them to the feet of adepthood before their lives ended.

Tầm quan trọng của việc nhận diện người siêu tài năng từ sớm không chỉ là điều khó khăn—và càng khó hơn bởi sự thiếu hiểu biết phổ biến về vấn đề—mà còn tăng thêm vì thực tế là chỉ trong những hoàn cảnh rất đặc biệt, một linh hồn phát triển cao mới chọn một mái nhà hiền hòa, sung túc và có ảnh hưởng. Nhiều người quan sát bên ngoài đối với huyền môn đã ghi nhận rằng các nhà bí truyền học nổi bật nhất, ít nhất là trong số nam giới, đến từ những mái nhà khiêm hạ nhất. Có lẽ điều này được nhấn mạnh trong tường thuật Kinh Thánh về việc Đức Jesus chào đời trong một chuồng súc vật. Dù hoàn cảnh gia đình thế nào, thời thơ ấu vẫn vô cùng hệ trọng. Giáo hội Công giáo không phải vô cớ mà nói: “Hãy trao tôi đứa trẻ trong năm năm đầu, còn lại thế giới muốn có nó thì cứ lấy.” Chân sư DK từng nói rằng nếu Ngài được trao các chàng trai để đào luyện, khi trí của họ còn rộng mở và chưa kết tinh, Ngài sẽ đưa họ đến ngưỡng chân sư trước khi đời họ khép lại.

This re-iterates the fact that the early life of someone who is to become a Master, should be a harmonious one and in the hands of those sensitive to the requirements of the supergifted. Any early scarring of such a life through excess of tragedy, cruelty, etc., might jeopardise the success of surviving the final stages of initiation.

Điều này nhắc lại rằng thuở đầu đời của một người sẽ trở thành một Vị Thầy phải là một thời kỳ hài hòa và được đặt trong tay những ai nhạy bén với các nhu cầu của người siêu tài năng. Bất cứ vết sẹo sớm nào trên đời sống như vậy do quá nhiều bi kịch, tàn bạo, v.v. có thể làm nguy cơ hóa thất bại trong việc vượt qua các giai đoạn cuối của điểm đạo.

Don’t forget that for many long centuries the supergifted or advanced souls have been occupying Eastern bodies and Eastern ways are more harmonious and conducive to the sensitive unfoldment of childhood than in the West, especially at this time as any English boy traditionally attending boarding school will hasten to assure you. Advanced souls have great difficulty in grasping and retaining the physical bodies present on the planet at this time. This makes them prone to special diseases. Hence the generally delicate physical vehicles occupied traditionally by the saints. It is said that Buddhas ‘galore’ are waiting for suitable vehicles.

Chớ quên rằng qua nhiều thế kỷ dài, các linh hồn siêu tài năng hay linh hồn tiến bộ đã thọ thân ở phương Đông, và nếp sống Đông phương hài hòa hơn, thuận giúp hơn cho sự khai mở nhạy cảm thời thơ ấu so với phương Tây—nhất là lúc này, như bất kỳ một cậu bé người Anh học nội trú truyền thống nào cũng sẽ vội vã đảm bảo với bạn. Các linh hồn tiến bộ gặp khó khăn lớn trong việc nắm giữ và duy trì các thể xác hiện diện trên hành tinh vào thời điểm này. Điều đó khiến họ dễ mắc các bệnh đặc biệt. Bởi vậy mà nói chung các vận cụ thể xác vốn do các thánh nhân thọ dụng thường mong manh. Người ta nói vô số “các vị Phật” đang đợi những vận cụ thích hợp.

H. P. Blavatsky was a sixth Rounder in a fourth Round body. In the same way, Swedenborg, Plato and Paracelsus were fifth Rounders. They were Divine Rebels who sacrificed their own advancement on an inner Round, to descend into vehicles in an outer Round in order to help humanity by giving its civilisations spiritual impetus.

Bà H. P. Blavatsky là một người thuộc Cuộc Tuần Hoàn thứ sáu trong một thân xác của Cuộc Tuần Hoàn thứ tư. Tương tự, Swedenborg, Plato và Paracelsus là những người thuộc Cuộc Tuần Hoàn thứ năm. Họ là những Kẻ Nổi Loạn Thiêng Liêng, đã hi sinh sự tiến bộ của riêng mình trên một Cuộc Tuần Hoàn nội, để giáng vào các vận cụ nơi một Cuộc Tuần Hoàn ngoại nhằm trợ giúp nhân loại bằng cách ban cho các nền văn minh một xung lực tinh thần.

Schools for the Supergifted—Các Trường dành cho Người Siêu tài năng

Teachers of the Supergifted. —Giáo viên của Người Siêu tài năng.

Teachers are often more of a hindrance than a help to supergifted children. The teacher should be prepared to adapt himself to his pupil and to discover for himself what psychological type he belongs to. He should then adapt his technique accordingly. At the same time he should recognise the dynamics of his pupil’s nature, realising that there are cycles and rhythms in everyone. These are accentuated in the supergifted child. In the handling of them, more than in any others, an understanding of their Rays would help. Special attention to Will, Imagination and Spirituality is needed. —

Giáo viên thường gây trở ngại hơn là trợ giúp trẻ siêu tài năng. Giáo viên nên sẵn sàng thích nghi mình với môn sinh và tự khám phá em thuộc loại hình tâm lý nào; sau đó điều chỉnh kỹ thuật cho phù hợp. Đồng thời, thầy nên nhận ra động lực trong bản chất của học trò, hiểu rằng ai cũng có chu kỳ và nhịp điệu. Những điều này càng nổi bật ở đứa trẻ siêu tài năng. Trong cách xử lý các em, hơn ai hết, sự hiểu biết về các Cung sẽ giúp ích. Cần chú tâm đặc biệt đến Ý Chí, Sự tưởng tượngTinh thần .

Supergifted children don’t have to have supergifted teachers but they should be teachers who understand what is involved. To teach a musical genius, as Assagioli rightly points out, you don’t have to be a genius in music yourself. In fact, genius doesn’t imply, by any means, an ability to teach. What is more important is that the teachers should establish the right relationship with his pupil bearing in mind the factors involved.

Trẻ siêu tài năng không nhất thiết phải có thầy cô siêu tài năng, nhưng thầy cô phải là những người hiểu điều gì đang dính líu. Dạy một thiên tài âm nhạc, như Assagioli nhấn mạnh, bạn không cần tự mình là thiên tài âm nhạc. Thực vậy, thiên tài không hề mặc nhiên đồng nghĩa với khả năng giảng dạy. Quan trọng hơn là thầy cô phải kiến lập mối tương giao đúng đắn với học trò, ghi nhớ các yếu tố liên hệ.

The most important qualities that a teacher of superior children should have are:

Những phẩm chất quan trọng nhất mà một giáo viên của trẻ ưu tú cần có là:

1. The capacity to stimulate his pupil into achievement.

1. Năng lực kích hoạt học trò vươn tới thành tựu.

2. The capacity to with old damning and damaging criticism, and the capacity to temper all with loving understanding or compassion.

2. Năng lực kìm giữ những phê bình kết tội và gây tổn hại, và năng lực điều hoà mọi sự bằng thấu hiểu thương yêu hay từ bi.

3. The capacity to direct the pupil’s attention and energies towards his life’s expression. This would include the preparatory work of developing him in fields of expression in which he was backward, e.g., gymnastics, sport, elocution, and also of leading him to think in terms of continuing his studies into university.

3. Năng lực hướng sự chú ý và năng lượng của học trò vào biểu đạt của đời em. Điều này bao gồm công việc chuẩn bị phát triển em ở những lĩnh vực biểu đạt mà em còn yếu, thí dụ: thể dục, thể thao, luyện ngôn, và cũng bao gồm việc dẫn dắt em nghĩ theo hướng tiếp tục học lên đại học.

The teacher should, in fact, look for the possible weaknesses which might later be responsible for the child’s personality failing to bear the weight of demands placed upon it by the expression of the supergifts or plain gifts. These weaknesses could then be anticipated and dealt with as early as possible, long before they became fixed or habitual. The actual gift should be the least of the teacher’s worries. Given a healthy framework of suitable physical, emotional and mental equipment, the gift will shine forth ‘though hell should bar the way.’ Because the supergift stems from the inner Self, inculcation of the Wisdom of the Ages and all that it implies, should form part of the subjective factors of the supergifted one’s instruction. This, with careful encouragement of the remembrance of dreams should be sufficient in the child’s years before manhood. The advice given by Assagioli under the heading of ‘Psychosynthesis’ is most suitable for the nurturing of the supergifted.

Thực ra, thầy nên tìm các yếu điểm tiềm ẩn có thể về sau làm cho phàm ngã của đứa trẻ không chịu nổi sức nặng những đòi hỏi do biểu hiện của các siêu tài năng hay tài năng thường đặt lên. Khi đó, những yếu điểm này có thể được dự liệu và xử lý càng sớm càng tốt, từ lâu trước khi chúng trở thành cố định hay thói quen. Chính “ân tứ” nên là nỗi bận tâm ít nhất của thầy cô. Một khi có khuôn khổ lành mạnh của các trang bị thể xác, cảm xúc và trí tuệ thích hợp, thì ân tứ sẽ toả sáng “dẫu địa ngục có chắn lối”. Vì siêu tài năng bắt nguồn từ Tự Ngã bên trong, nên việc hàm dưỡng Minh Triết Ngàn Đời và tất cả những gì nó hàm ý nên là một phần của các yếu tố chủ thể trong việc giáo dưỡng người siêu tài năng. Cùng với đó, việc khích lệ cẩn trọng khả năng ghi nhớ các giấc mơ là đủ cho những năm tháng trước khi bước vào tuổi trưởng thành. Lời khuyên của Assagioli dưới nhan đề “Psychosynthesis” là rất thích hợp để dưỡng nuôi người siêu tài năng.

There has been little success at setting up suitable schools for supergifted children. Noble attempts have been made but these have usually settled around the efforts to assist some one individual at a time. Dr. Roberto Assagioli, author of two important works that are basically esoteric*, worked untiringly, both in Italy and Switzerland in this direction.

Đã có ít thành công trong việc lập những trường thích hợp cho trẻ siêu tài năng. Nhiều nỗ lực cao đẹp đã được thực hiện nhưng thường xoay quanh việc trợ giúp một cá nhân tại một thời điểm. Bác sĩ Roberto Assagioli, tác giả của hai tác phẩm quan trọng có nền tảng là huyền bí*, đã làm việc không mệt mỏi, cả ở Ý và Thuỵ Sĩ, theo hướng này.

*The Act of Will, and Psychosynthesis by Roberto Assagioli.

*The Act of Will, và Psychosynthesis, của Roberto Assagioli.

My own work came somewhat later with these youngsters and occupied many years. At this time, however, the author does not foresee any large school created for them until such time that the subject is better understood and the educational world alerted regarding them. Sifting for them is like panning for gold and there are so few miners equipped for that purpose.

Công tác của chính tôi đến muộn hơn đôi chút với những bạn trẻ này và đã chiếm nhiều năm tháng. Tuy nhiên, hiện thời, tác giả không tiên liệu sẽ có một trường lớn nào được lập cho các em, cho tới khi đề tài này được hiểu rõ hơn và giới giáo dục được cảnh báo về các em. “Đãi” các em ra giống nhưi đãi cát tìm vàng, và có quá ít “thợ mỏ” được trang bị cho mục đích đó.

In the few years of my own searching, I must have had contact with several thousand children. Of these, hardly more than ten were selected by me for special attention. To these, I added, from time to time, others—not gifted—in order to ‘leaven the bread.’ Eventually, all ten were ‘screened’ by the English Master, Who reduced the number, for various reasons, to six. Alas, at this time, the number is again reduced, to four. These are beginning to display their special gifts.

Trong vài năm tìm kiếm của riêng mình, tôi hẳn đã tiếp xúc với vài nghìn trẻ em. Trong số đó, tôi chỉ chọn chưa tới mười em để lưu tâm đặc biệt. Theo thời gian, tôi thêm vào nhóm này vài em khác—không có tài năng—nhằm “làm dậy men ổ bánh”. Sau cùng, cả mười em được “rọi soi” bởi Vị Chân sư người Anh, Ngài đã thu gọn số em, vì nhiều lý do, xuống còn sáu. Tiếc thay, lúc này con số lại giảm xuống còn bốn. Các em đang bắt đầu bộc lộ những ân tứ đặc biệt của mình.

Certainly, in these, it has been possible to achieve the rounding out of personality and strengthening of character so very necessary as the infra-structure to greater things. Some have been taken from circumstances wherein a good education would have been impossible and guided towards professional expertise. Others, not academic have been given opportunity to travel and presented with experiences that have broadened their outlook and laid solid foundations for the later expression of spiritual gifts. Parents have had to be dealt with in the most tactful manner. The gifted have had to be shielded from public attention. On no occasion was any child told that he or she was supergifted. Always, it was arranged so that they mixed with their non-gifted peers and none was made to think that he or she was more singular or favoured than another.

Chắc chắn là, nơi những em này, đã có thể đạt tới việc làm cho phàm ngã trở nên đầy đặn và củng cố Tính cách—vốn hết sức cần thiết như cơ cấu nền cho những điều lớn lao hơn. Có em đã được đưa ra khỏi hoàn cảnh mà ở đó một nền giáo dục tốt là bất khả và được hướng dẫn đến trình độ chuyên môn. Những em khác, không thiên về học thuật, đã được tạo cơ hội du lịch và trao cho các trải nghiệm mở rộng nhãn quan và đặt nền vững chắc cho biểu hiện về sau của các ân tứ tinh thần. Cha mẹ đã phải được xử lý với cách thức tế nhị nhất. Những em có tài năng đã phải được che chở khỏi sự chú ý của công chúng. Chưa hề có lần nào một em nào được nói rằng em là người siêu tài năng. Luôn luôn, đã dàn xếp để các em hoà nhập với bạn cùng trang lứa không có tài năng, và không em nào bị làm cho nghĩ rằng mình “đặc biệt” hay được ưu ái hơn người khác.

It is the author’s opinion, after all these years of participation and observation that a ‘community’ is better than a special school and that the leader of the community should himself have been a supergifted child of the first of the two types laid down by Assagioli.-

Theo quan điểm của tác giả, sau nhiều năm dự phần và quan sát, một “cộng đồng” tốt hơn là một trường chuyên biệt, và người lãnh đạo cộng đồng ấy bản thân nên từng là một đứa trẻ siêu tài năng thuộc loại thứ nhất trong hai loại do Assagioli nêu ra.-

‘Those who are gifted in a general or multiple way …’

“Những ai có tài năng theo cách chung hay đa diện …”

It is his opinion that Socrates himself was experimenting with such a community and that the government of the Republic by a group of initiates, as suggested by Plato was as the result of observations arising from within this community.

Tác giả cho rằng chính Socrates đã từng thực nghiệm với một cộng đồng như vậy, và việc chính thể của Cộng Hoà do một nhóm điểm đạo đồ cầm quyền như Plato đề nghị là kết quả của các quan sát phát sinh từ trong cộng đồng ấy.

Conclusion

Kết luận

The supergifted are the greatest of our hidden resources. They are the potential innovators and creators of tomorrow and they should be sought after and developed in the interest of the Age ahead. This may be achieved by:

Những người siêu tài năng là nguồn lực ẩn giấu vĩ đại nhất của chúng ta. Họ là những nhà đổi mới và sáng tạo tiềm tàng của ngày mai, và họ cần được kiếm tìm và bồi dưỡng vì lợi ích của Thời Đại phía trước. Điều này có thể đạt được bằng cách:

1. Alerting public opinion, parents and schools to look for them.

1. Cảnh tỉnh dư luận, cha mẹ và nhà trường để tìm kiếm họ.

2. Helping them once they are found.

2. Giúp đỡ họ khi đã tìm ra.

3. Serving them once they are able to express their gifts.

3. Phụng sự họ khi họ đã có thể biểu đạt các ân tứ của mình.


SECTION THREE

The Psychology of Stress

00036.jpeg

Development of the Stress mechanism —Sự hình thành cơ chế Căng thẳng

Each chakra, in successive order, from the base of the spine upwards, has been the target of stress. The very act of Man materialising on the Earth’s surface some 70 million years ago produced intense interaction with the environmental conditions of that time. These included, of course, a rapidly forming oxygenated film of atmosphere which held in suspension heavier and heavier concentrations of prana and a gravity that was reaching towards its maximum. There were also, at that time, great variations in temperature on the Earth’s surface with accompanying oscillations in humidity. It was then that Man’s primary stress mechanisms began to form. These were integrated about the Base-of-the-Spine Chakra and its corresponding endocrine glands, those seated above the kidney which we now call the ‘suprarenals.’ –

Mỗi luân xa, theo thứ tự nối tiếp từ đáy cột sống trở lên, đã từng là đích ngắm của căng thẳng. Chính hành vi Nhân loại hiện hình trên bề mặt Trái Đất cách đây chừng 70 triệu năm đã tạo ra sự tương tác dữ dội với các điều kiện môi trường thời ấy. Những điều này, dĩ nhiên, bao gồm một lớp màng khí quyển đang nhanh chóng ôxy hoá, giữ lơ lửng những nồng độ prana ngày càng đậm và một trọng lực đang tiến tới mức tối đa. Cũng vào thời đó, trên bề mặt Trái Đất tồn tại những biến thiên lớn về nhiệt độ kèm theo những dao động về độ ẩm. Lúc ấy, các cơ chế căng thẳng sơ nguyên của Con người bắt đầu được hình thành. Chúng được tích hợp quanh Luân xa Đáy Cột Sống và các tuyến nội tiết tương ứng, tức các tuyến ngự phía trên thận mà nay ta gọi là “tuyến thượng thận”.

Their hormones assisted Man to face up to invasion of the physical body by viruses and bacteria thriving on the animal kingdom at that time. It was not so much the mechanisms of inflammatory response that were required at this stage. These had already been set in motion by the sympathetic nervous system, which, in turn was but a reflection of the etherico-astral matrix whose physical expression, in those days, was the sympathetic nervous system’s cords and the medullary part of the suprarenal glands. Inflammatory response was one of Man’s first responses to the ‘not-self’ and it was exceptionally violent. It protected the early physical shadow as best it could by rushing prana-laden oxygen to the site of affliction. This response was often over-emphasised so that it was as frequently the cause of death as was the invasion of tissue itself.

Các hormone của chúng trợ giúp Con người đối mặt với sự xâm nhập của thể xác bởi các virus và vi khuẩn đang phồn thịnh trong giới động vật khi ấy. Không phải các cơ chế đáp ứng viêm nhiễm là điều cần có ở giai đoạn này—chúng đã được khởi động bởi hệ thần kinh giao cảm, vốn, đến lượt nó, chỉ là một phản ảnh của ma trận dĩ thái-cảm dục mà biểu hiện thể xác, thời bấy giờ, là các dây của hệ thần kinh giao cảm và phần tuỷ của tuyến thượng thận. Đáp ứng viêm là một trong những đáp ứng đầu tiên của Con người với “phi-ngã”, và nó dữ dội một cách khác thường. Nó bảo vệ bóng thể xác ban sơ tốt nhất có thể bằng cách dồn ôxy giàu prana đến vị trí nhiễm thương. Đáp ứng này thường bị cường điệu hoá đến mức nó gây tử vong thường không kém chính sự xâm nhập của tác nhân gây hại vào mô.

The cortex of the suprarenals became the sight of ANTI-inflammatory responses which damped down the excessive reactions of the primitive physical structures to bacterial invasion. That which stimulated these anti-inflammatory responses of the suprarenal cortex was stress and tension so that it would be true to observe that the ability to lift the body into a state of stress was a great advance in human development. This advance was maintained, refined and made increasingly specific to various stressor factors by successive opening of the chakras.

Vỏ tuyến thượng thận trở thành nơi khởi phát các đáp ứng CHỐNG viêm, nhằm dập tắt các phản ứng quá mức của cấu trúc thể xác nguyên thuỷ trước sự xâm nhập của vi khuẩn. Điều kích hoạt các đáp ứng chống viêm của vỏ thượng thận chính là căng thẳng và khẩn trương, đến nỗi có thể nói rằng khả năng nâng thân thể vào một trạng thái căng thẳng là một bước tiến lớn trong phát triển nhân loại. Bước tiến này được duy trì, tinh luyện và ngày càng đặc thù hoá đối với các yếu tố gây căng thẳng khác nhau nhờ sự khai mở nối tiếp các luân xa.

The first true men began to function on the continent of Mu and this Lemurian root race, had, as its target the opening of the sacral chakra. A necessary preliminary to this advance was the separation of the sexes. The pituitary action, supported by the suprarenal cortex and through hormonal secretions of both, helped in this differentiation. The stress and tension which we now regard as a natural part of courtship and mating had to be experienced by Man for long ages before its rewards were won in the development of heterosexuality and the variety of forms which ensued as the sexes separated distinctly and procreation by methods other than budding and via the ‘sweat born’ occurred.*

Những con người chân chính đầu tiên bắt đầu hoạt động trên lục địa Mu, và giống dân gốc Lemuria nhắm vào việc khai mở luân xa xương cùng. Một chuẩn bị tất yếu cho bước tiến này là sự phân ly giới tính. Hoạt động tuyến yên, được vỏ thượng thận hỗ trợ, và qua sự bài tiết hormone của cả hai, đã giúp tạo nên sự biệt hoá này. Sự căng thẳng và khẩn trương mà nay ta xem là phần tự nhiên của tỏ tình và giao phối đã phải được Con người trải nghiệm qua những thời kỳ rất dài trước khi phần thưởng của nó được gặt hái trong sự phát triển dị tính, và đa dạng các hình thức nảy sinh khi giới tính phân hoá rõ rệt và sự sinh sản bằng những phương thức khác ngoài nảy chồi và qua “loài sinh bởi mồ hôi” xuất hiện.*

* See Anthropogeny, by the author.

* Xem , của tác giả.

This long period of confrontation with stress is still reflected in adolescence and the transition of the child into the adult, out of puberty into maturity. It is also basically reflected in the homosexuality and ambivalence that arises so frequently in adolescence as this period reflects the adolescent phase of humanity. Appropriate hormones were elaborated by the gonads and the pituitary to bring about this these important and teleological features in Man’s physical body. He became not only capable of reproducing a replica of himself through the effects of stress, tension and friction but the path was laid, at the same time, that led him to the possibility of becoming creative, again through stress, at higher levels, i.e. emotionally, and mentally when the opening of the Solar Plexus and the Throat chakras accelerated the matter further. A whole new Root Race, based on the continent of Atlantis developed the capacity for emotional stress and its aesthetic rewards. The new stress called forth the need for more energy to sustain it. The control of sugar-release into the blood, a process left hitherto almost entirely to the suprarenal medulla was now regulated by the endocrine gland that became associated with the Solar Plexus chakra, i.e. the pancreas. The secretion of sugar, stimulated by adrenalin—the hormone of the suprarenal medulla—released under the stress and tension evoked by fear and aggression, was now counterbalanced by insulin from the pancreas which helped the organs to store the sugar so that it could be released as the body required it.

Quãng dài đối mặt với căng thẳng này vẫn còn phản chiếu trong tuổi thiếu niên và sự chuyển tiếp của đứa trẻ thành người trưởng thành, từ dậy thì vào chín chắn. Nó cũng cơ bản phản chiếu trong khuynh hướng đồng tính và lưỡng nghiêng thường nổi lên ở tuổi thiếu niên, khi giai đoạn này phản ánh pha thiếu niên của nhân loại. Các hormone thích đáng được tuyến sinh dục và tuyến yên phát triển để mang lại những đặc tính quan trọng và mang tính mục đích luận này nơi thân thể Con người. Con người không những có khả năng tái tạo một bản sao của chính mình qua tác dụng của căng thẳng, khẩn trương và ma sát, mà đồng thời con đường cũng được mở ra đưa y đến khả thể trở nên sáng tạo, lại cũng qua căng thẳng, ở các mức cao hơn , tức cảm xúc và trí tuệ, khi việc khai mở các luân xa Tùng Thái Dương và Cổ Họng đẩy nhanh tiến trình. Cả một Giống Dân Gốc mới, đặt trên lục địa Atlantis, đã phát triển năng lực chịu đựng căng thẳng cảm xúc và các phần thưởng thẩm mỹ của nó. Kiểu căng thẳng mới này đòi hỏi thêm năng lượng để duy trì. Kiểm soát việc phóng thích đường vào máu, một tiến trình trước đó hầu như hoàn toàn do phần tuỷ của thượng thận đảm nhiệm, nay được điều hoà bởi tuyến nội tiết gắn với luân xa Tùng Thái Dương, tức tuyến tuỵ. Sự tiết đường, được kích hoạt bởi adrenalin—hormone của phần tuỷ thượng thận—được phóng thích dưới căng thẳng và khẩn trương do sợ hãi và công kích gợi lên, nay được đối trọng bởi insulin từ tuyến tuỵ, giúp các cơ quan dự trữ đường để giải phóng khi cơ thể cần.

Emotional control had to be won and the Atlantean civilisation provided just the conditions that taught Man emotional discipline. That process is not yet completed but already the factor of stress is being lifted to mental levels and the present Root Race, the Fifth, is in the process of opening the Throat chakra of Man, the centre of his active-intelligence. The endocrine gland related to the Throat chakra is the thyroid. Beyond this lies a field in Man’s unfoldment which is for the very few. This takes the stress into the realms of Higher Manas, or abstract thought. The creative forces released when this kind of stress is adequately channelled, takes Man into a higher kingdom, the Kingdom of Soul. It is this part of Man’s endeavour which constitutes Pupilage.

Kiểm soát cảm xúc đã phải được chinh phục và nền văn minh Atlantis đã cung cấp những điều kiện dạy Con người kỷ luật cảm xúc. Tiến trình đó vẫn chưa hoàn tất, nhưng nhân tố căng thẳng đã được nâng lên các mức trí tuệ, và Giống Dân Gốc hiện tại, Giống Dân Gốc thứ Năm, đang trong tiến trình khai mở luân xa Cổ Họng của Con người, trung tâm của trí tuệ hoạt động. Tuyến nội tiết gắn với luân xa Cổ Họng là tuyến giáp. Bên kia đó là một lĩnh vực trong khai mở của Con người chỉ dành cho rất ít người: nó đưa căng thẳng vào cõi Thượng trí, tức tư duy trừu tượng. Các lực sáng tạo được giải phóng khi kiểu căng thẳng này được dẫn lưu đúng đắn sẽ đưa Con người vào một giới cao hơn, Giới của Linh hồn. Chính phần nỗ lực này của Con người cấu thành giai đoạn môn sinh.

What emerges here is that, for the pupil, the correct attitude towards stress, as a contributing factor to spiritual evolution rather than a pestilence, is important.

Điều nổi lên ở đây là, đối với môn sinh, thái độ đúng đắn đối với căng thẳng—như một nhân tố đóng góp cho tiến hoá tinh thần hơn là một tai dịch—là điều trọng yếu.

It can easily be deduced from this progressive unfoldment of Man that the techniques for spiritual growth will, in some measure have to change from time to time. The yoga of ancient Lemuria is not suited to the vehicles of today. Emphasis has changed from physical integration, to emotional integration and from the latter into mental integration and this has necessitated new interpretations of yoga from age to age. Currently, there is a change required for conditions as they now exist in the west for the Fifth subrace of the Fifth Root Race.

Có thể dễ dàng suy ra từ sự khai mở tuần tiến của Con người rằng các kỹ thuật phát triển tinh thần, ở một mức độ nào đó, sẽ phải thay đổi theo thời gian. Yoga của Lemuria cổ xưa không thích hợp với các vận cụ ngày nay. Trọng tâm đã chuyển từ tích hợp thể xác, sang tích hợp cảm xúc, và từ đó vào tích hợp trí tuệ; điều này đã đòi hỏi những diễn giải mới về yoga theo từng thời đại. Hiện tại, cần có một đổi thay cho các điều kiện như đang tồn tại ở phương Tây cho giống dân phụ thứ năm của Giống Dân Gốc thứ năm.

Eastern authorities on subjects like Zen and other aspects of Buddhism are apparently disconcerted by the mushrooming of Zen and allied topics in the west. They warn that, taken out of their context, the disciplines of these ancient spiritual sciences and religions like meditation, fasting, Kung-Fu, etc., are poison to the west. It is certainly true that mantras, invocations, meditation, tantra, etc., once had their roots in religion and were designed to evoke mystical experience as part of the religious processing. The question may then be asked, ‘Is it dangerous to do these things outside of their religious context?’ Yoga literally means ‘yoked with God.’ If one practises yoga, Hatha or otherwise, without being God-oriented, is it dangerous? The answer given here should be carefully considered by any Man-on-the-Path for it has deep implications. The frivolous use of self-knowledge, whether through yoga, meditation or religion, leads to frivolous results! They are results which usually affect the outer shells of Man. The supposed gifts won by superficial psychic practices are pseudo-gifts … lower siddhis that create a sort of miasma or fuzz that distracts the personality from its soul purpose. This is the main danger, and the more unstable the personality that experiments with yoga and meditation, the more certain the fuzz will disseminate. For Disciples, two points therefore arise:

Những bậc thẩm quyền Đông phương về các đề tài như Thiền (Zen) và các khía cạnh khác của Phật giáo xem chừng bối rối trước sự “mọc nấm” của Thiền và các đề tài liên đới ở phương Tây. Họ cảnh báo rằng, nếu bị lấy ra khỏi bối cảnh của mình, thì các kỷ luật của những khoa học tinh thần cổ xưa và tôn giáo như tham thiền, chay tịnh, Kung-Fu, v.v ., sẽ là “độc dược” đối với phương Tây. Quả đúng là mantram, khẩn cầu, tham thiền, tantra, v.v ., từng có cội rễ trong tôn giáo và được thiết kế để khơi dậy kinh nghiệm thần bí như một phần của tiến trình tôn giáo. Vậy thì có thể hỏi: “Có nguy hiểm không khi làm các điều ấy ngoài bối cảnh tôn giáo?” Yoga theo nghĩa đen là “được nối với Thượng đế”. Nếu người ta thực hành yoga, Hatha hay loại nào khác, mà không hướng về Thượng đế, liệu có nguy hiểm không? Câu trả lời đưa ra ở đây cần được bất kỳ Người Trên Đường Đạo nào cân nhắc cẩn trọng vì nó hàm những hệ quả sâu xa. Việc sử dụng hiểu biết về tự ngã một cách khinh suất—dù qua yoga, tham thiền hay tôn giáo—sẽ dẫn tới những kết quả khinh suất! Đó là những kết quả thường chỉ tác động đến các vỏ ngoài của Con người. Những ân tứ tưởng như có được nhờ các thực hành thông linh hời hợt là các giả-ân-tứ … những siddhi thấp tạo ra một thứ sương mù hoặc nhiễu mờ đánh lạc hướng phàm ngã khỏi mục đích của linh hồn. Đây là nguy cơ chính, và phàm ngã càng bất ổn mà đem yoga và tham thiền ra thử nghiệm, thì sương mù càng chắc chắn lan toả. Do đó, đối với các Đệ tử, nảy sinh hai điểm:

1. The urgent need for integration of personality, and

1. Nhu cầu cấp bách tích hợp phàm ngã, và

2. The penetration of the Self in depth for the gaining of Self-knowledge.

2. Sự thâm nhập vào Tự Ngã một cách sâu xa để đạt hiểu biết về Tự Ngã.

We can penetrate to knowledge of the Self either by adopting techniques taught by these oriental systems which possess the keys, becoming virtually, in the process, Buddhist monks or Hindu acolytes, or, as an alternative, we can follow the leads given to us by westerners, who themselves have trod the Path and have left behind them records of their efforts for westerners to assimilate. Disciples like Blavatsky, Steiner, Besant, Bailey, Swedenborg and Gurdjieff left vast and erudite works behind them, testimonies of their own struggles towards the Masters and Their Light. They all had many factors common to their teachings which the author would regard as classical approaches to the Wisdom of the Ages. They all reiterated that the Path should become a way of life, that hard work was part of the Way, that men should not attempt that way unless they were prepared to make great sacrifices, to lead the meditative way of life, and to study the occult classics in depth:

Chúng ta có thể thâm nhập tri thức về Tự Ngã hoặc bằng cách tiếp nhận các kỹ thuật mà những hệ thống Đông phương này dạy—vốn nắm giữ các chìa khoá—và trong tiến trình đó gần như trở thành các tăng sĩ Phật giáo hay các tu sinh Ấn giáo; hoặc, như một phương án khác, chúng ta có thể đi theo các “manh mối” do những người Tây phương, những người tự mình đã đi trên Đường Đạo, để lại, với các ghi chép về nỗ lực của họ cho người Tây phương lĩnh hội. Các đệ tử như Blavatsky, Steiner, Besant, Bailey, Swedenborg và Gurdjieff đã để lại những trước tác mênh mông, uyên bác—chứng tích về những phấn đấu của chính họ tiến về các Chân sư và Ánh sáng của Các Ngài. Tất cả họ đều có nhiều điểm chung trong giáo huấn, mà tác giả xem là những cách tiếp cận kinh điển đến Minh Triết Ngàn Đời. Tất cả đều nhắc lại rằng Đường Đạo phải trở thành một nếp sống; rằng lao động khó nhọc là một phần của Đường; rằng con người không nên toan bước vào nẻo ấy nếu không sẵn sàng hi sinh lớn lao; rằng phải sống đời sống tham thiền; và phải học các kinh điển huyền bí một cách thâm sâu:

‘Drink deep, or taste not the Pierian spring, A little knowledge is a dangerous thing.’

“Hãy uống cho sâu, chớ chỉ nhấp nguồn Pieria, Một chút hiểu biết là điều nguy hiểm.”

There is nothing more loathsome than to see a westerner aping the superficial paraphernalia of an eastern religion … the dress, the bowing, the incense, the special diets and all the other impedimenta that help to confuse the true issues or hide the real from the unreal.*

Không gì đáng chán hơn khi thấy một người Tây phương bắt chước bề ngoài nông cạn của một tôn giáo Đông phương … y phục, cúi lạy, hương trầm, các chế độ ăn kiêng đặc biệt và tất cả các thứ phụ tùng khác chỉ làm rối mờ vấn đề chân thật hay che lấp cái thực dưới cái hư.*

* See section on ‘Social Assimilation.

* Xem phần “Hội Nhập Xã Hội”.

Discipleship began with the first yoga practised on this planet about fifteen million years ago, a spiritual science brought from the inner Round. Yoga does not belong to east or west, to this religion or that. It antecedes all religion and thrives wherever a man seeks his God … seeks to know himself … seeks the answers to four great questions that have plagued him since time immemorial:

Địa vị đệ tử khởi đầu với yoga đầu tiên được thực hành trên hành tinh này cách đây chừng mười lăm triệu năm, một khoa học tinh thần được mang đến từ Cuộc Tuần Hoàn nội. Yoga không thuộc về Đông hay Tây, cũng không thuộc về tôn giáo này hay tôn giáo kia. Nó tiền nhiệm mọi tôn giáo và hưng thịnh ở bất cứ nơi đâu con người tìm kiếm Thượng đế của mình … tìm biết chính mình … tìm câu trả lời cho bốn câu hỏi lớn vốn đã dày vò y từ thuở vô thuỷ:

Who are we?

Chúng ta là ai?

Where do we come from?

Chúng ta đến từ đâu?

Why are we here?

Tại sao chúng ta hiện diện ở đây?

Where do we go to from here?

Từ đây chúng ta đi về đâu?

These questions are eternal. They remain unanswered by contemporary science or philosophy and always will until there are significant attempts made towards achieving a holistic view of Man.

Những câu hỏi ấy là vĩnh cửu. Chúng vẫn chưa được khoa học hay triết học đương thời trả lời và sẽ luôn như vậy cho đến khi có những nỗ lực đáng kể nhằm đạt đến một cái nhìn toàn thể về Con người.

Man is not an object or thing. He is, as Carl Jung said, a self-creating subject … and the Gnostics maintained he is a ‘god in the making.’ The Third Factor in Man, his inner Self, is not just a many-splendoured-thing: it is opalescent, ever changing its qualities and hues as the Seven Rays play upon it, within its morphogenic field of subtle (dark) matter.

Con người không phải là một đối tượng hay một “vật”. Con người, như Carl Jung nói, là một chủ thể tự kiến tạo … và các nhà Ngộ giáo cho rằng y là một “vị thần đang hình thành”. Yếu Tố Thứ Ba trong Con người, tức Tự Ngã bên trong, không chỉ là một “điều muôn huy hoàng”: nó óng ánh ngọc trai, không ngừng đổi phẩm tính và sắc độ khi Bảy Cung chiếu rọi lên nó, trong trường hình thái của chất tinh tế (tối) của nó.

What does change, is Man’s consciousness, from life to life and from age to age … from a savage Lemurian to an emotional Atlantean, from the purposeful thinker, to the ponderer in abstract thought, from the instinctual consciousness, through the intellectual to the intuitional. And, of course, his approach to God changes with his consciousness. For each change of Man’s consciousness there have been fashioned appropriate sciences for the gaining of spiritual union … Hatha yoga, Bhakti, Raja, Karma … the list is endless, as the sub races themselves. But each race had to find its way and was assisted by initiates taking bodily form in those races.

Điều thực sự đổi thay là tâm thức Con người, từ đời này sang đời khác, từ thời đại này sang thời đại khác … từ người Lemuria hoang sơ thành người Atlantis cảm xúc, từ người tư duy có mục đích thành người trầm tư trong trí trừu tượng, từ tâm thức bản năng, qua trí năng đến trực tuệ. Và, dĩ nhiên, cách y tiếp cận Thượng đế thay đổi theo tâm thức của y. Với mỗi đổi thay trong tâm thức Con người, đã có các khoa học thích hợp được đúc tạo để đạt hợp nhất tinh thần … Hatha yoga, Bhakti, Raja, Karma … danh sách kéo dài như chính các giống dân phụ. Nhưng mỗi giống dân đều phải tự tìm đường của mình và được trợ giúp bởi các điểm đạo đồ thọ thân trong các giống dân ấy.

A critical stage in human conciousness has been reached at this moment with the incredibly rapid growth of the Anglo-Saxon subrace. Certainly, for the rootrace as a whole, there remains the target of opening the throat chakra, through the practice of active intelligent will in everyday life. But, in the west, this stage is being superseded by disciples progressively drawing their attention into the centre between the eyebrows. Here, Ajna, receives her energies from lower centres. Active intelligence, made one-pointed, and turned inwardly, arouses the chakra between the eyes. But in that same square-inch of Sacred territory there is receptivity also to energies from the heart chakra as never before. Thus, both Will and Love Rays are meeting, sometimes conjointly, in those who represent the spiritual spearhead of humanity. What is the yoga technique for such individuals? It is not simply the Raja yoga that has stood the initial elements of the root race in good stead. Times have changed, stimuli have changed, physical bodies have changed. What must we do to achieve union in the circumstances of our completely unique environment which we call western civilisation? How must we act in the face of our own idiosyncrasies of race, culture, time and place? Must we use eastern methods? Should we seek a completely new way? Or should we adapt to old ways? … ‘Old wine in new bottles’ as H.P. Blavatsky called it.

Một giai đoạn then chốt trong tâm thức nhân loại đã được đạt tới vào lúc này với sự tăng trưởng cực nhanh của giống dân phụ Anglo-Saxon. Chắc chắn, đối với Giống Dân Gốc nói chung, vẫn còn mục tiêu khai mở luân xa Cổ Họng, qua sự thực hành ý chí hoạt động trí tuệ trong đời sống hằng ngày. Nhưng, ở phương Tây, giai đoạn này đang bị vượt qua khi các đệ tử tuần tự gom sự chú ý vào trung tâm giữa hai chân mày. Tại đây, Ajna tiếp nhận các năng lượng từ các trung tâm thấp. Trí tuệ hoạt động, được làm cho nhất tâm và xoay vào nội tâm, sẽ khơi dậy luân xa giữa hai mắt. Nhưng cũng ngay tại “tấc đất thiêng” ấy, có sự tiếp nhận các năng lượng từ luân xa tim như chưa từng có. Như vậy, cả Cung Ý Chí và Cung Bác Ái đang gặp nhau, đôi khi cùng lúc, nơi những ai đại diện cho mũi nhọn tinh thần của nhân loại. Kỹ thuật yoga nào dành cho những người như vậy? Không còn đơn thuần là Raja yoga vốn đã phục vụ tốt cho các yếu tố sơ khởi của Giống Dân Gốc này. Thời đã đổi, kích thích đã đổi, thể xác đã đổi. Chúng ta phải làm gì để đạt hợp nhất trong hoàn cảnh môi trường hoàn toàn độc đáo mà ta gọi là văn minh Tây phương? Chúng ta phải hành xử thế nào trước những đặc tánh riêng của giống dân, văn hoá, thời gian và nơi chốn của chúng ta ? Chúng ta có nên dùng các phương pháp Đông phương? Chúng ta có nên tìm một lối hoàn toàn mới? Hay chúng ta nên ứng dụng các lối xưa? … “Rượu cũ trong bình mới” như Bà H.P. Blavatsky nói.

First of all, we must ask ourselves, what is so different or special in our circumstances to warrant such a change … ?

Trước hết, chúng ta phải tự hỏi: có gì khác biệt hay đặc biệt trong hoàn cảnh của chúng ta đến mức đòi hỏi một thay đổi như thế …?

Now, in the west, we have observed with some sadness that yoga has not always produced the splendid results in itinerant yogis, Hindu, Buddhist or otherwise that its much-vaunted teachings have espoused. The latter have claimed to make a man whole, complete and integrated. But do they? Too often there is very little evidence in the outer personality of any capacity to deal with conditions as they exist in the west. Nobody living a responsible life in the west, wishes to be made so saintly that he no longer dares to drive a car or has to be led around by a aspirant or succumbs to every feminine wile or to be inwardly ablaze whilst outwardly totally incompetent. This is just not our way. We ask to be able to serve mankind outwardly as well as inwardly, to function fully as members of our subrace and to urge it on, with our own endeavours, towards its glorious destiny. What Is our way, is dependent upon what our circumstances are and what the purpose is of our inner Selves.

Giờ đây, ở phương Tây, chúng ta đã quan sát—với ít nhiều buồn bã—rằng yoga không phải lúc nào cũng đem lại những kết quả rực rỡ nơi các du tăng yogi, Ấn giáo, Phật giáo hay khác, như những tuyên xưng được ca ngợi hết lời. Họ từng khẳng định sẽ làm cho con người trở nên nguyên vẹn, trọn đủ, tích hợp. Nhưng có đúng vậy không? Quá thường khi, có rất ít dấu hiệu ở phàm ngã bên ngoài về bất kỳ năng lực nào để đối phó với điều kiện như chúng tồn tại ở phương Tây. Không ai sống đời có trách nhiệm ở phương Tây lại muốn trở nên thánh thiện đến mức không dám lái xe, hay phải được một người chí nguyện dắt đi, hay succumb trước mọi “mỹ kế” nữ giới, hay bừng cháy nội tâm nhưng ở ngoài thì hoàn toàn bất lực. Đó đơn giản không phải lối của chúng ta. Chúng ta mong có thể phụng sự nhân loại ở bên ngoài cũng như bên trong, hiện hoạt trọn vẹn như những thành viên của giống dân phụ chúng ta và, bằng nỗ lực riêng, thúc đẩy nó tiến về định mệnh huy hoàng của mình. Lối của chúng ta tuỳ thuộc vào hoàn cảnh của chúng ta là gì và mục đích của các Tự Ngã bên trong của chúng ta ra sao.

What is the factor common to all of us in our way of life as it now stands? It is is one that is not present in any comparable manner in the way of life of the Hindu or Tibetan or in other orientals for whom their own Yogas were evolved? In leading up to the answer to this question, what has been said here, may have seemed to contain the elements of separativeness. Far from it! Separativeness is part of illusion and the author is trying here to dispel some of the mass illusion which is hemming in the lives of many earnest aspirants in the western world and he has had years of first-hand experience associated with more than a hundred esoteric groups in that hemisphere.

Yếu tố gì là chung cho tất cả chúng ta trong lối sống hiện nay? Đó là một yếu tố không hiện diện theo một cách có thể so sánh nơi lối sống của người Ấn hay người Tây Tạng hay các dân phương Đông khác, vì họ mà những Yoga riêng đã được khai triển? Dẫn tới câu trả lời cho câu hỏi này, những điều đã nói ở đây có thể có vẻ hàm chứa yếu tố phân ly. Hoàn toàn không! Tính phân ly là một phần của ảo tưởng, và tác giả đang cố gắng ở đây để xua tan một số ảo tưởng tập thể đang vây bủa đời sống của nhiều người chí nguyện chân thành ở thế giới Tây phương; và tác giả đã có nhiều năm kinh nghiệm trực tiếp gắn với hơn một trăm nhóm huyền môn ở bán cầu ấy.

The Aetiology of Stress—Căn nguyên của Căng thẳng

The factor that distinguishes the society in which we live, from others, is that of Stress. The stress imposed upon us by our way of life, its competitiveness reinforced by both church and school, its standard of living, its codes of conduct, its ethics, its laws, all contribute to a situation in which we are subjected to sustained, unremittant stress. After World War II, most of us fondly believed it would be merely a matter of time before the stress which was mounted by that mighty operation would be alleviated, but it wasn’t. Then we blamed the Iron Curtain and the population increase, and the unequal distribution of wealth, etc., etc., for our stress. —

Nhân tố phân biệt xã hội chúng ta đang sống với các xã hội khác chính là Căng thẳng . Căng thẳng do lối sống của chúng ta áp đặt—tính cạnh tranh của nó được cả nhà thờ lẫn nhà trường tăng cường, tiêu chuẩn sống của nó, các chuẩn tắc ứng xử, đạo lý, pháp luật của nó—tất cả góp phần tạo ra một tình huống mà trong đó chúng ta bị đặt dưới sự căng thẳng kéo dài, không ngơi nghỉ. Sau Thế Chiến II, phần lớn chúng ta đã tin tưởng rằng chỉ là vấn đề thời gian trước khi căng thẳng do chiến dịch vĩ đại ấy tạo nên sẽ giảm bớt—nhưng không phải vậy. Rồi chúng ta đổ lỗi cho Bức Màn Sắt, cho gia tăng dân số, cho phân phối tài sản bất bình đẳng, v.v., v.v ., về căng thẳng của mình.

Now we have to face up to the bitter fact that stress is here to stay. It is part of our way of life. More than this, it is a challenge present to the Fifth Subrace as a whole. Somehow or other we must deal with this factor, existing as it does on all five levels, viz., the physical, astral, mental, personality and spiritual. We must live out our lives and still find in them the opportunities to express Truth, Beauty and Goodness and, more than anything for Man-On-The-Path, to establish ways and means of obtaining union with the Supreme Being. This is the real challenge presented to the leaders of the esoteric world today, to point the way, through a new Yoga, that will lead us, despite our very special circumstances, to the Feet of the Master.

Giờ đây, chúng ta phải đối diện sự thật đắng chát rằng căng thẳng là thứ “ở lại mãi”. Nó là một phần lối sống của chúng ta. Hơn thế nữa, nó là một thách thức hiện diện trước toàn bộ giống dân phụ thứ Năm. Bằng cách này hay cách khác, chúng ta phải xử lý nhân tố này, vốn tồn tại trên cả năm bình diện, tức hồng trần, cảm dục, trí tuệ, phàm ngã và tinh thần. Chúng ta phải sống trọn đời mình và vẫn tìm được trong đó các cơ hội để biểu đạt Chân, Thiện, Mỹ, và—trên hết đối với Người Trên Đường Đạo—thiết lập những đường hướng và phương tiện để đạt hợp nhất với Đấng Tối Cao. Đây là thách đố thật sự đặt ra cho các vị lãnh đạo thế giới huyền môn ngày nay: chỉ đường, qua một Yoga mới, sẽ dẫn chúng ta, bất chấp hoàn cảnh hết sức đặc thù của mình, đến Dưới Chân Thầy.

It is often said that the Buddhist monk must sit under a tolling bell to do his meditation. The bell that tolls for man in the west is Stress. Maybe it is part of the karma of lives of leisure as ruling classes in the slave-riddled Greek and Roman states of the ancient world. Who knows? But this is the condition prevailing and it must be mastered. We have to live with it even if we have to come back ten times into a physical vehicle whose only response is, at first, to produce a series of new diseases originating in stress. Stress is a characteristic of our subrace and we must adapt to it and and evolve a Yoga for it. It must be a yoga that doesn’t permit sanctuary for long periods of time in some hidden cave. The only cave we have is ‘a room of one’s own’. There’s to be no sitting in endless padmasana but the soliloquising atmosphere of crouching on the front seat of a motor vehicle in endless hours of traffic jams. Not for us to spend six hours in breathing exercises each day, but the breathing from the forced, additional effort we must make to serve others in the community besides ourselves.

Người ta thường nói một vị tăng Phật giáo phải ngồi tham thiền dưới tiếng chuông ngân. Chiếc chuông ngân cho người Tây phương chính là Căng thẳng. Có lẽ đó là một phần nghiệp quả của những kiếp nhàn hạ từng là giai cấp thống trị trong các nhà nước Hy-La đầy nô lệ cổ xưa. Ai mà biết? Nhưng đây là điều kiện đang ngự trị, và phải được chế ngự. Chúng ta phải sống cùng nó, dẫu chúng ta có phải trở lại mười lần vào một thể xác mà đáp ứng duy nhất, thoạt tiên, là tạo ra một loạt bệnh mới khởi phát từ căng thẳng. Căng thẳng là một đặc trưng của giống dân phụ chúng ta và chúng ta phải thích nghi với nó và phát triển một Yoga dành cho nó. Đó phải là một yoga không cho phép ẩn cư lâu ngày trong hang động kín đáo nào; hang duy nhất của chúng ta là “một căn phòng của riêng mình”. Không dành cho chúng ta việc ngồi bất tận tư thế kiết già, mà là bầu không khí độc thoại của việc ngồi chồm hỗm trên ghế trước của một chiếc xe, giữa vô tận giờ kẹt xe. Không phải dành cho chúng ta chuyện dành sáu giờ mỗi ngày luyện thở, mà là hơi thở gia tăng bị cưỡng bách bởi nỗ lực thêm chúng ta phải làm để phụng sự cộng đồng, ngoài bản thân mình.

The new yoga must be effective, for the brief periods we can give to it. The yoga must be working while we working while we work, while we labour at our Dharma, at healing, at teaching, at renovating, at being what we are, but more inclusively. The yoga must be acting on us whilst we are in action Serving mankind, or studying the ancient and classical teachings of Ancient Wisdom, or in the half-hour we snatch from the jaws of our time-consuming occupations.

Yoga mới phải hữu hiệu trong những khoảng ngắn ngủi ta có thể dành cho nó. Yoga phải vận hành trong khi chúng ta vận hành—trong khi chúng ta làm việc, khi lao động làm Dharma của mình, khi chữa lành, giảng dạy, tái thiết, khi là chính mình, nhưng bao gồm hơn. Yoga phải tác động lên chúng ta khi chúng ta đang hành động—khi phụng sự nhân loại, hay khi học các giáo huấn cổ điển của Minh Triết Cổ, hoặc trong nửa giờ chúng ta giật được khỏi hàm của những công việc ngốn thời gian.

It is patent now that the first task is to arrive at a precise definition of what is meant by stress and then the appropriate means may be derived for dealing with it.

Rõ ràng là trước hết cần đạt một định nghĩa chính xác về ý nghĩa của “căng thẳng”, rồi sau đó mới có thể suy ra các phương tiện thích hợp để xử lý nó.

Man has always lived with stress and yet we know very little about its mechanisms and manifestations. When Dr. Hans Seyle wrote his monumental work on the subject,* there were few, even among the medical world, who understood it. He dedicated the book to those who are not afraid to enjoy the stress of a full life, nor too naïve to think they can do so without intellectual effort. Seyle has shown clearly the physical efforts of stress and merit points to what has recently become a tenable position, that stress has great merits for those who deal with it, a tenet which has always formed part of the ancient wisdom, as we shall see.

Con người đã luôn sống cùng căng thẳng, vậy mà chúng ta biết rất ít về các cơ chế và biểu hiện của nó. Khi bác sĩ Hans Seyle viết công trình đồ sộ về đề tài này*, ngay cả trong giới y khoa cũng có rất ít người hiểu. Ông đã đề tặng cuốn sách cho “những ai không sợ tận hưởng căng thẳng của một đời sống đầy đặn, và cũng không quá ngây thơ để nghĩ rằng có thể làm vậy mà không cần nỗ lực trí tuệ.” Seyle đã chỉ rõ các tác động thể chất của căng thẳng và công trạng của nó, qua đó chỉ về một lập trường trở nên có thể bảo vệ gần đây: rằng căng thẳng có công đức lớn cho những ai biết xử lý nó—một tín điều vốn luôn là một phần của Minh Triết Ngàn Đời, như chúng ta sẽ thấy.

People do strange things when they are under stress. A young woman was threatening suicide from a 110 feet feet up. She was long in making her mind up. The crowd below became restless under the unbearable tension. The woman looked down at them appealingly. The crowd began to shout, ‘go ahead, jump!’ Later while she was being lowered, bottles and stones were thrown at her … the crowd had ‘wanted’ her to jump! It is no wonder the aspirant is taught to practise harmlessness until it is entrenched within his actions. Subjected to the inevitable stress of Discipleship, relapses into harmfulness whether in thought, word or deed, even under the burden of stress, cannot be forgiven. If a normal population could resort to such actions as described above, what pathological effects might not work themselves through to physical manifestation as disease must give us pause to think.

Con người làm những điều kỳ quặc khi họ ở dưới sức ép. Một cô gái trẻ đe doạ tự vẫn từ độ cao 110 feet. Cô đã do dự rất lâu mới quyết định. Đám đông bên dưới trở nên bồn chồn trước sự căng thẳng không thể chịu nổi. Cô gái nhìn xuống họ một cách khẩn khoản. Đám đông bắt đầu la hét, “cứ việc, nhảy đi!” Sau đó, khi cô đang được đưa xuống, người ta ném chai và đá vào cô … đám đông đã “muốn” cô nhảy! Không có gì lạ khi người chí nguyện được dạy thực hành vô tổn hại cho đến khi điều đó ăn sâu vào hành động của y. Khi phải hứng chịu sức ép tất yếu của Địa vị đệ tử, sự tái phạm vào tổn hại, dù trong tư tưởng, lời nói hay hành vi, ngay cả dưới gánh nặng căng thẳng, cũng không thể dung thứ. Nếu một cộng đồng bình thường có thể sa vào những hành vi như mô tả bên trên, thì những hiệu ứng bệnh lý nào có thể tự vận hành đi đến biểu hiện thể xác thành bệnh tật hẳn phải khiến chúng ta dừng lại để suy nghĩ.

In the same sort of way, animals will frolic together but when one is accidently hurt and yelps, or is run over, the other will often attack it savagely. Occultly, we know that manifestations of fear emit an aura that can be sensed by wild animals who are unable to resist the reflex action of attacking the victim.

Tương tự như thế, thú vật có thể nô đùa với nhau nhưng khi một con bị thương do tai nạn và kêu la, hoặc bị cán qua, thì con khác thường sẽ tấn công nó một cách tàn bạo. Theo huyền môn, chúng ta biết rằng những biểu hiện của sợ hãi phát ra một hào quang mà thú hoang cảm nhận được và chúng không cưỡng lại nổi phản xạ tấn công nạn nhân.

Both examples above, however, are not stress as Seyle sees it. They are examples of what might occur when stress cannot be endured and turned into Distress. At the physical level, stress may be described as wear and tear on the physical body.** To this, the occultist would add that there are many bodies, other than the physical body and there is wear and tear there as well. The esoteric student would prefer to call the changes produced, the natural effects of maintaining the Inner Self in contact with the environment. Each of man’s bodies is in a state of dynamic equilibrium with the others … and equilibrium that is constantly threatened by changes in the outer and inner environments. *The Stress Of Life, by Hans Seyle, McGraw-Hill paperbacks.** Ibid.

Tuy nhiên, cả hai ví dụ trên không phải là “stress” theo cách Seyle nhìn. Chúng là những thí dụ về điều có thể xảy ra khi sức ép không được chịu đựng nổi và bị chuyển thành “khổ áp” (Distress). Ở bình diện thể xác, có thể mô tả “stress” như sự hao mòn của thể xác.** Với điều này, nhà huyền bí học sẽ bổ sung rằng có nhiều thể khác ngoài thể xác và cũng có hao mòn ở đó nữa. Đạo sinh nội môn sẽ thích gọi những thay đổi được tạo ra là các hệ quả tự nhiên của việc duy trì Tự Ngã bên trong tiếp xúc với môi trường. Mỗi thể của con người ở trong trạng thái quân bình động với những thể khác … một quân bình luôn bị đe doạ bởi các biến đổi trong môi trường bên ngoài và bên trong. * Sức Căng Thẳng của Đời Sống , tác giả Hans Seyle, bản bìa mềm của McGraw-Hill.** Sđd. .

We are never, at any level, without some stress. Even during sleep, the body processes need to be maintained, and indeed, there may be far more stress on the astral body during sleep than in the waking state. In conditions of smog, the stress placed upon the etheric body becomes almost intolerable no matter how healthy the person. Why should there be stressful activity in any of the vehicles at all? The basic initiating process arises at the Soul level. The urge of the inner Self to express itself, drives it, in the first place, to seek a vehicle of expression under the logoic urge of the will-to-be.

Chúng ta không bao giờ, ở bất kỳ cấp độ nào, sống mà không có một mức độ stress nào đó. Ngay cả trong giấc ngủ, các tiến trình của thân thể vẫn cần được duy trì; và thật vậy, có thể có nhiều sức ép trên thể cảm dục trong lúc ngủ hơn là khi thức. Trong những điều kiện có khói mù, sức ép đặt lên thể dĩ thái trở nên gần như không thể chịu nổi, bất kể người ấy khỏe mạnh đến đâu. Tại sao lại có hoạt động căng thẳng trong bất kỳ vận cụ nào? Tiến trình khởi phát căn bản nảy sinh ở cấp độ Linh hồn. Xung lực của Tự Ngã bên trong muốn tự biểu lộ, trước hết, thúc đẩy nó tìm một vận cụ biểu lộ dưới xung lực logoic của Ý Chí-hiện hữu.

If this were not so, Man would be content to be taken hither and thither by the breezes of his desires, thus avoiding much of the stress he otherwise intercepts. The aetiology of stress, for the most part, therefore lies in the the urge of the Soul to express itself in terms of Truth, Beauty and Goodness.

Nếu không như vậy, Con Người sẽ hài lòng để mặc cho làn gió của dục vọng đưa đi đây đó, nhờ đó tránh được nhiều sức ép mà bằng không y phải hứng chịu. Do đó, phần lớn căn nguyên của stress nằm ở xung lực của Linh hồn muốn tự biểu lộ theo các chuẩn mực của Chân, Mỹ và Thiện.

00040.jpeg

These urges are best expressed through the appropriate Rays. At this time, the great majority of Souls are expressed through the Second Ray of Love-Wisdom. A further twenty percent are expressing themselves through the First Ray of Will and Power. These divine urges are modified tremendously as they filter down through the planes and vehicles into the brain of a savage man and less so in the spiritually oriented until, in the high degree Initiate, Arhat or Saint, the Soul is almost untainted or clouded by the desires and lower mental vibrations, such Ray energies being now accepted into centres above the diaphragm and mainly in the head. The resulting stress produced in attempting to express the Soul’s urges is resolved, mainly, in the physical body, by rest and sleep, through the replacement of materials lost or worn out and via the elimination of waste materials accumulated through the resulting wear and tear. The endocrine system, working slowly, and the nervous system, working more rapidly, monitor the rate of restoration. Hormonal cycles ensure that repair, renewal and rebuilding of the bodily constitution proceeds smoothly, permitting the currents of energy within the etheric body to have free play.

Những xung lực này được biểu lộ tốt nhất qua các Cung thích hợp. Ở thời điểm này, đại đa số các Linh hồn tự biểu lộ qua Cung hai của Bác Ái – Minh Triết. Thêm khoảng hai mươi phần trăm nữa tự biểu lộ qua Cung một của Ý chí và Quyền năng. Những xung lực thiêng liêng này bị biến cải ghê gớm khi chúng lọc xuống qua các cõi và các vận cụ vào bộ não của người còn hoang dã, và ít hơn ở người có định hướng tinh thần, cho đến khi, nơi vị điểm đạo đồ cao cấp, A-la-hán hay Thánh nhân, Linh hồn hầu như không bị nhuốm hay bị mây mù bởi các dục vọng và các rung động hạ trí, vì các năng lượng Cung như vậy nay được tiếp nhận vào các trung tâm trên cơ hoành và chủ yếu ở vùng đầu. Sức ép nảy sinh do nỗ lực biểu lộ các xung lực của Linh hồn được hoá giải, chủ yếu, ở thể xác, bằng nghỉ ngơi và giấc ngủ, thông qua thay thế các vật chất bị mất hay mòn rách và qua bài tiết các chất thải tích tụ do hao mòn kết quả. Hệ nội tiết, vận hành chậm hơn, và hệ thần kinh, vận hành nhanh hơn, giám sát tốc độ phục hồi. Các chu kỳ hoóc-môn bảo đảm rằng việc sửa chữa, đổi mới và tái thiết cơ cấu thân thể diễn tiến êm thuận, cho phép các dòng năng lượng trong thể dĩ thái vận hành tự do.

In this way the individual meets the stress, maintains good health and is rewarded by the accomplishments obtained during that stress, accomplishments which, hopefully, are a part of the purpose of the inner Self.

Bằng cách này cá nhân đối diện sức ép, duy trì sức khỏe tốt và được đền đáp bằng những thành tựu đạt được trong thời kỳ sức ép đó, những thành tựu, hy vọng rằng, là một phần của mục đích của Tự Ngã bên trong.

In this manner, the stress of living as a Pupil on The Path, is resolved, whilst all the time, the capacity to accept and resolve more and more stress is enhanced so that even greater ‘Labours Of Hercules’ may be undertaken, thus leading to the Gates Of Initiation. The net result of this expression is a movement of energies from below the diaphragm to chakras above the diaphragm The flows are from one chakra to its alter ego:

Theo cách ấy, sức ép của đời sống như một Môn sinh trên Thánh Đạo được hoá giải, trong khi năng lực chấp nhận và hoá giải ngày càng nhiều sức ép được tăng cường, đến nỗi những “Lao Nhọc của Hercules” lớn hơn nữa có thể được đảm đương, nhờ vậy dẫn đến các Cửa Điểm Đạo. Kết quả ròng của sự biểu lộ này là một sự chuyển dịch năng lượng từ dưới cơ hoành lên các luân xa trên cơ hoành. Các dòng chảy là từ một luân xa đến đối phần của nó:

Base of the spine to Crown Chakra

Đáy cột sống đến Luân xa Đỉnh đầu

Solar Plexus to Heart Chakra,

Tùng thái dương đến Luân xa Tim,

Sacral to Throat Chakra.

Xương cùng đến Luân xa Họng.

This process can be accentuated and speeded up in the science of tantra yoga. With energies concentrating increasingly in the head region, spirituality is enhanced and Truth, Beauty and Goodness are expressed, not only on their appropriate inner planes of atma-buddhi-rnanas, but now on the lower planes in the personality bodies of the saint or arhat who is fast becoming a Master of the Wisdom.

Tiến trình này có thể được nhấn mạnh và tăng tốc trong khoa học tantra yoga. Khi các năng lượng ngày càng tập trung ở vùng đầu, tính tinh thần được nâng cao và Chân, Mỹ, Thiện được biểu lộ, không chỉ trên các cõi nội tại tương ứng của atma–Bồ đề–manas, mà nay còn trên các cõi thấp trong các thể phàm ngã của vị thánh hay A-la-hán, người đang nhanh chóng trở thành một Chân sư của Minh Triết.

Problems arise when stress is Not resolved.

Vấn đề nảy sinh khi sức ép không được hoá giải.

The personality vehicles may not be restored to equilibrium, for various reasons. The individual slips into a state of Dis-stress which, if unresolved, may lead on to dis-ease. The various disorders that arise out of this disharmony between the soul and its vehicles are dealt with in the second part of my work on esoteric healing.* It has been mentioned several times here that pupilage imposes heavy and stress-producing burdens. But it has also been stated that pupilage implies a code of disciplines to be practised relentlessly in order to ensure the safety and well-being of the would-be initiate. These disciplines produce many effects and amongst these is an input of energy into the auric fields of the lower triad that assists in their rapid and sustained regeneration in the face of increase of stress. Hans Selye points out that, as far as is known scientifically, there are no other ways of adapting ourselves to the energy demands of stress than through the equipment endowed man genetically. If we have a ‘good constitution’ we can find the energy to adapt to large amounts of stress. If we have a poor constitution we cannot take much stress. Selye writes:

Các vận cụ của phàm ngã có thể không được phục hồi về trạng thái quân bình, vì nhiều lý do. Cá nhân tuột vào trạng thái “khổ áp” (Dis-stress), và nếu không được hoá giải, có thể dẫn đến “bệnh-tật” (dis-ease). Những rối loạn khác nhau phát sinh từ sự bất hoà này giữa linh hồn và các vận cụ của nó được bàn đến trong phần hai của công trình về trị liệu huyền môn của tôi.* Cũng đã được nhắc nhiều lần ở đây rằng tư cách môn sinh áp đặt những gánh nặng nặng nề và sinh stress. Nhưng cũng đã nói rằng làm môn sinh hàm ý một bộ kỷ luật cần được thực hành không ngơi nghỉ để bảo đảm sự an toàn và an lạc cho người mong cầu điểm đạo. Những kỷ luật này tạo ra nhiều hiệu ứng và trong số đó là một sự đưa năng lượng vào các trường hào quang của bộ ba thấp, điều này trợ giúp cho sự tái sinh nhanh chóng và bền bỉ của chúng trước sự gia tăng sức ép. Hans Selye chỉ ra rằng, theo hiểu biết khoa học, không có các cách nào khác để thích nghi với những đòi hỏi năng lượng của stress ngoài thiết bị mà con người được phú bẩm về mặt di truyền. Nếu chúng ta có một “thể chất tốt” chúng ta có thể tìm được năng lượng để thích nghi với một lượng lớn stress. Nếu thể chất kém, chúng ta không chịu đựng được nhiều stress. Selye viết:

‘We have no objective proof that additional deposits of adaptational energy can be made beyond that inherited from our parents.’

“Chúng ta không có bằng chứng khách quan nào rằng có thể đặt để thêm những khoản dự trữ năng lượng thích nghi vượt quá phần được thừa hưởng từ cha mẹ của chúng ta.”

With due respect, the pupil knows very well that he has on tap, through the science of meditation, vast reservoirs of energy to sustain him through periods of stress arising from the services which he renders mankind. This ‘Fire of the Gods’ not only sustains him in his work but it alchemises him, changing him spiritually from the lack-lustre of a non-expressive personality into the radiance of a saint, fully expressive of his soul’s purpose. This energy stems from the first subplane of the seven major planes described in great detail in my earlier works.** Its prana-like energies bring almost instant respite from stress symptoms. At a deeper level they replenish the energy reservoirs of the chakras in a process which emulates that natural mechanism (but really a form of deep meditation) which we call sleep.

Với tất cả sự kính trọng, môn sinh biết rất rõ rằng y có sẵn, thông qua khoa học tham thiền, những hồ chứa năng lượng mênh mông để nâng đỡ y qua các giai đoạn sức ép nảy sinh từ những phụng sự mà y cống hiến cho nhân loại. “Lửa của chư Thần” này không chỉ nâng đỡ y trong công việc mà còn luyện kim y, chuyển hoá y về mặt tinh thần từ sự xỉn mờ của một phàm ngã không biểu lộ thành hào quang của một vị thánh, biểu lộ trọn vẹn mục đích của linh hồn y. Năng lượng này bắt nguồn từ cõi phụ thứ nhất của bảy cõi chính được mô tả rất chi tiết trong các trước tác trước đây của tôi.** Những năng lượng kiểu prana này đem lại gần như tức thì sự tạm nguôi của các triệu chứng stress. Ở một mức sâu hơn, chúng bổ sung các hồ chứa năng lượng của các luân xa trong một tiến trình mô phỏng cơ chế tự nhiên (nhưng thực ra là một hình thức tham thiền sâu) mà chúng ta gọi là giấc ngủ.

*See, Esoteric Healing, Part Two, by the author. ** The Jewel in the Lotus.

*Xem, , của tác giả. ** .

The Purpose of Stress —Mục Đích của Stress

When we understand the purpose of stress, we are soon able to answer the kind of questions put earlier:—

Khi chúng ta hiểu mục đích của stress, chúng ta sớm có thể trả lời kiểu câu hỏi đặt ra trước đó:

Who are we? —

Chúng ta là ai?

Why are we here?

Tại sao chúng ta ở đây?

Why do we have to suffer pain?

Tại sao chúng ta phải chịu đau khổ?

In my book, The Jewel in the Lotus, the nature of the human monad was dealt with in some detail* but the most esoteric explanation of the function of the monad was not given there. It has been reserved for this work.

Trong cuốn sách của tôi, Viên Ngọc trong Hoa Sen , bản chất của chân thần con người đã được bàn khá chi tiết* nhưng lời giải thích huyền linh nhất về chức năng của chân thần đã không được đưa ra ở đó. Nó được dành cho trước tác này.

Each member of the human kingdom bears within himself a spark of the divine. Together, these form the great Flame Divine. What then, the pupil may ask, is this structure which exists on its own monadic plane, that is a real part of the Solar Logos’ consciousness, that permits fragments of itself to become incarcerated in form? The Flame Divine is a force centre, a chakra in the body of a great cosmic Being. We call that stupendous Entity ‘The One About Whom Naught May Be Said.’ In Him, our solar system, at its etheric level, forms the etheric Heart Chakra. The collective unit known as the Flame Divine exists on the highest planes interpenetrating that Heart Chakra of which it is a very definite component.

Mỗi thành viên của giới nhân loại mang trong mình một tia lửa thiêng. Cùng nhau, chúng tạo nên ngọn Lửa Thiêng Liêng vĩ đại. Vậy thì, môn sinh có thể hỏi, cấu trúc nào hiện hữu trên chính cõi chân thần của nó, vốn là một phần thực sự của tâm thức Thái dương Thượng đế, lại cho phép các mảnh của chính nó bị cầm tù trong hình tướng? Lửa Thiêng Liêng là một trung tâm lực, một luân xa trong thân thể của một Đấng vũ trụ vĩ đại. Chúng ta gọi Vị Hữu Thể siêu phàm đó là “Đấng Bất Khả Tư Nghị.” Trong Ngài, hệ mặt trời của chúng ta, ở cấp dĩ thái, cấu thành Luân xa Tim bằng dĩ thái. Đơn vị tập thể được biết dưới danh xưng Lửa Thiêng Liêng hiện hữu trên những cõi cao nhất xuyên thấu Luân xa Tim ấy, mà nó là một thành phần rất xác định.

* ‘THE HIDDEN SIGNIFICANCE OF THE MONADS: The Monads reside in, and are the substance of, the various chakras of the Solar Logos, according to the Ray of the Monad, Second Ray Monads are part of the Heart chakra of the Logos, Third Ray Monads, and the author is one of these, are part of the Throat Chakra of that celestial Being, Krishnamurti has also a Monad on the Third Ray, His ‘occult’ name of Alcyone, a star in the Pleiades, indicates this, First Ray Monads are related to His Head Chakra and their numbers indicate the extent to which this center is enlivened in the Solar Logos as compared with the other two, The Ray of the Monad may change in the intervening period between its putting out its mechanisms for interaction with the lower planes so that a weary traveller, a prodigal son, returning to the Father’s house may re-enter it by a different ‘door’ to the one from which he left it. The disciplines of Yoga, at all levels, human, solar and cosmic, concern the transfer of energies of one chakra to its higher counterpart or ‘alter ego’, Thus, in Man, the energy of the solar plexus chakra is transferred to his heart chakra. At solar levels, it is through the interaction of Monads with the substance of the five lower planes that their own qualities are enhanced and, what is far more important, the chakra of which they are a part, becomes thus ‘radioactive’ and there is energy transfer of it to higher chakras in His body if not the actual movement of the Monads, This factor lies behind the whole purpose of a manifesting solar system and proceeds also at the level of an atom, a man and a planet. It is through the action of the Monads, in ways we shall presently consider, that the planets originally form and lives expressing the intent of the corresponding planetary Logoi are formed, The Monads are unable because of their high spiritual vibrations, to manifest below the Monadic plane and must, therefore, develop mechanisms by which some of their consciousness, at anyone time, can reach into the levels of the five lower planes, They achieve this through each creating an ego or soul directly and, indirectly, they fashion a lower triad, or personality to contact the three lowest planes of the five. But as these mechanisms become more and more immersed in material substance, the spiritual power of the Monad, to control its mechanisms and their environment is reduced considerably.

* “Ý nghĩa ẩn tàng của các Chân thần: Các Chân thần cư trú trong, và là bản chất của, các luân xa khác nhau của Thái dương Thượng đế, tuỳ theo Cung của Chân thần. Các Chân thần Cung hai là một phần của Luân xa Tim của Thượng đế; các Chân thần Cung ba (và tác giả là một trong số này) là một phần của Luân xa Họng của Đấng Thiên Không ấy; Krishnamurti cũng có một Chân thần thuộc Cung ba, ‘tên huyền bí’ của Ngài là Alcyone, một ngôi sao trong chòm Pleiades, cho thấy điều này. Các Chân thần Cung một liên hệ với Luân xa Đầu của Ngài và con số của họ chỉ ra mức độ mà trung tâm này được sinh động hoá trong Thái dương Thượng đế so với hai trung tâm kia. Cung của Chân thần có thể thay đổi trong quãng thời gian giữa lúc nó cho phóng xuất các cơ cấu để tương tác với các cõi thấp hơn, đến nỗi một lữ khách mỏi mệt, một đứa con hoang đàng, khi trở về nhà Cha có thể đi vào bằng một ‘cửa’ khác với cửa mà y đã rời khỏi. Các kỷ luật của Yoga, trên mọi cấp, nhân loại, Thái dương và vũ trụ, liên quan đến sự chuyển năng lượng của một luân xa sang đối phần cao hơn hay ‘đối ngã’ của nó. Như vậy, nơi Con Người, năng lượng của luân xa tùng thái dương được chuyển lên luân xa tim. Ở cấp Thái dương, chính thông qua sự tương tác của các Chân thần với chất liệu của năm cõi thấp mà những phẩm tính riêng của chúng được tăng cường và, điều còn quan trọng hơn nhiều, luân xa mà chúng là một phần trở nên ‘phóng xạ’ và có sự chuyển năng lượng của nó sang các luân xa cao hơn trong thân Ngài, nếu không nói đến sự di chuyển thực sự của các Chân thần. Nhân tố này nằm sau toàn bộ mục đích của một hệ mặt trời đang biểu lộ và cũng diễn tiến ở cấp độ của một nguyên tử, một con người và một hành tinh. Chính thông qua hành động của các Chân thần, theo những cách chúng ta sẽ xét ngay đây, mà các hành tinh ban đầu hình thành và các sự sống biểu lộ ý chí của các Hành Tinh Thượng đế tương ứng được hình thành. Các Chân thần, bởi vì rung động tinh thần rất cao của mình, không thể biểu lộ dưới cõi Chân thần và do đó phải phát triển các cơ cấu nhờ đó một phần tâm thức của chúng, tại bất kỳ thời điểm nào, có thể vươn vào các cấp độ của năm cõi thấp. Chúng đạt được điều này bằng cách mỗi vị tạo ra trực tiếp một chân ngã hay linh hồn, và gián tiếp nắn đúc một bộ ba thấp, hay phàm ngã để tiếp xúc với ba cõi thấp trong năm cõi ấy. Nhưng khi những cơ cấu này ngày càng chìm đắm vào chất liệu vật chất, quyền năng tinh thần của Chân thần để kiểm soát các cơ cấu của nó và môi trường của chúng bị giảm đi đáng kể.

‘Rays of Monad, Soul and Personality. The Monad creates thus, a vehicle called the soul, for expressing its spiritual intent on the planes of Atma, Buddhi and Manas, But its mechanism for elevating that matter of the three lowest planes and garnering qualities from that process, is a long and complicated affair that might occupy a billion years and the use of many planetary systems.

‘Các Cung của Chân thần, Linh hồn và Phàm ngã . Chân thần như thế tạo ra một vận cụ gọi là linh hồn để biểu lộ ý hướng tinh thần của mình trên các cõi Atma, Bồ đề và Manas. Nhưng cơ cấu của nó để nâng cao chất liệu của ba cõi thấp nhất và thu hoạch các phẩm tính từ tiến trình ấy là một việc dài và phức tạp có thể chiếm đến một tỉ năm và dùng đến nhiều hệ hành tinh.

‘The Monads. Now we must look for the driving force and purpose behind all this activity in the body of the Solar Logos and this brings us inevitably to a consideration of the Monad. The Monad is a fragment of Him, a Spark of the Divine:

‘Các Chân thần. Nay chúng ta phải tìm động lực thúc đẩy và mục đích đằng sau tất cả hoạt động này trong thân thể của Thái dương Thượng đế và điều này tất yếu đưa chúng ta đến cân nhắc Chân thần. Chân thần là một mảnh của Ngài, một Tia lửa Thiêng Liêng:

“Lift thy head, O Lanoo; dost thou see one, or countless lights above thee, burning in the dark midnight sky?”

“Hãy ngẩng đầu lên, hỡi Lanoo; con thấy một hay vô số ánh sáng trên đầu con, bừng cháy trong bầu trời đêm tăm tối?”

“I sense one flame, O Gurudeva; I see countless undetached sparks shining in it.”

“Con cảm nhận một ngọn lửa, hỡi Gurudeva; con thấy vô số tia lửa chưa tách rời toả sáng trong đó.”

‘Monads are units of consciousness which are undetachable from the Logos, and yet, like Him, they must change and evolve and express their potential. Because they are part of Him, and are Him, they reside always on that plane where He is found, on the Plane of Adi. They are Sons of God and they reside always in the ‘Bosom of the Father’, But like all beings of our universe, He must grow in consciousness, must manifest the powers latent within Him, must embrace awareness of and control of all planes and combinations of the matter of His body, our solar system, and through that control, respond to all vibrations in the universe, To achieve this growth in His awareness, the Monads, human and otherwise, are dedicated, The Monad as it exists on the plane of Adi cannot descend into the five planes of matter previously described. They can and do manifest part of themselves, a trinity of their qualities in the plane of the Monad or Monadic Plane.

‘Các Chân thần là những đơn vị tâm thức không thể tách rời khỏi Thượng đế, nhưng đồng thời, như Ngài, chúng phải thay đổi và tiến hoá và biểu lộ tiềm năng của mình. Bởi vì chúng là một phần của Ngài, và là Ngài, chúng luôn cư trú trên cõi mà Ngài được tìm thấy, tức cõi Adi. Chúng là Các Con của Thượng đế và chúng luôn cư trú trong “Lòng của Cha”. Nhưng như tất cả các Hữu thể trong vũ trụ chúng ta, Ngài phải lớn lên trong tâm thức, phải biểu lộ những quyền năng tiềm ẩn trong Ngài, phải ôm trọn sự nhận biết và sự kiểm soát mọi cõi và mọi phối kết của chất liệu thân thể Ngài là hệ mặt trời của chúng ta, và qua sự kiểm soát đó, đáp ứng với mọi rung động trong vũ trụ. Để đạt được sự lớn lên này trong nhận biết của Ngài, các Chân thần, nhân loại và những loại khác, được dâng hiến. Chân thần như nó hiện hữu trên cõi Adi không thể giáng xuống năm cõi vật chất đã nói. Chúng có thể và thực sự biểu lộ một phần của chính mình, một bộ ba phẩm tính của chúng trên cõi của Chân thần hay cõi Monadic.

‘This triplicity had emphasis on WILL, WISDOM and ACTIVITY, This is why the Monad is symbolised by a triangle, The combinations of these three qualities make seven and the Monads are found in groups with qualities that correspond to those of the Seven Rays. They are receptive to the energies of the Seven Rays, In general, at this time, human Monads concerned with the substance of the Earth scheme are on the first three, or Major Rays, About 63,000 million Monads are expressing themselves on the various planes concerned with the Earth and the unfoldment of its planetary Logos. The Rays of these Monads are as follows:

‘Bộ ba này nhấn mạnh Ý Chí, Minh Triết và Hoạt Động. Đó là lý do Chân thần được biểu tượng bởi một tam giác. Sự phối hợp của ba phẩm tính này tạo thành bảy và các Chân thần được thấy trong những nhóm có phẩm tính tương ứng với Bảy Cung. Chúng tiếp nhận các năng lượng của Bảy Cung. Nói chung, vào lúc này, các Chân thần nhân loại liên quan đến chất liệu của hệ Trái Đất ở trên ba Cung đầu, hay các Cung Chính. Khoảng 63.000 triệu Chân thần đang tự biểu lộ trên các cõi khác nhau liên quan đến Trái Đất và sự khai mở của Hành Tinh Thượng đế của nó. Các Cung của những Chân thần này như sau:

Ray One of Will and Power: approximately 3,000 million,

Cung Một của Ý chí và Quyền năng: xấp xỉ 3.000 triệu,

Ray Two of Love-Wisdom: approximately 30,000 million,

Cung Hai của Bác Ái – Minh Triết: xấp xỉ 30.000 triệu,

Ray Three of Active Intelligence: approximately 30,000 million.

Cung Ba của Hoạt Động Thông Tuệ: xấp xỉ 30.000 triệu.

‘We know that only 4,000 million of these Monads are expressing themselves in actual physical bodies at this time, The remainder are spread out on the various planes intermediate to the physical and the monadic planes, The function of the Monad is primarily to gain experience of the five lower planes and to convert that experience into faculties, or, to add, as it were, qualities to itself, which is already perfect. This would not appear to be so contradictory if we likened the Monad to a Grecian urn, The urn may be perfect and yet be enhanced by the addition of some design, The Monad because of its perfection cannot penetrate the lower planes and must use special mechanisms to do so, Ultimately the two mechanisms fashioned emerge as the soul and human personality.’

‘Chúng ta biết rằng chỉ 4.000 triệu trong số những Chân thần này đang tự biểu lộ trong các thể xác vật lý vào thời điểm này. Phần còn lại được rải trên các cõi khác nhau nằm giữa cõi hồng trần và cõi Chân thần. Chức năng của Chân thần chủ yếu là thu thập kinh nghiệm về năm cõi thấp và chuyển đổi kinh nghiệm đó thành năng lực, hay nói cách khác, như thể, thêm các phẩm tính vào chính nó, vốn đã hoàn hảo. Điều này sẽ không có vẻ mâu thuẫn nếu chúng ta ví Chân thần với một chiếc bình Hy Lạp. Chiếc bình có thể hoàn hảo mà vẫn được tăng vẻ đẹp nhờ việc thêm hoạ tiết. Chân thần vì sự hoàn hảo của nó không thể thâm nhập các cõi thấp và phải dùng các cơ cấu đặc thù để làm vậy. Cuối cùng hai cơ cấu được nắn đúc hiện ra như linh hồn và phàm ngã con người.”

* Extract from The Jewel in the Lotus by the Author.

* Trích từ của tác giả.

In that same Being, the great system of Sirius is also a chakra. It is the alter ego of the Heart Chakra which is Ajna. Now, as we have already noted, in Man, the energies of the Heart Chakra are directed to the Ajna Chakra. ‘As above, so below’ and as in Man so in the greater Being. Man is a solar system in miniature, said Paracelsus and implied that the greater is the macrocosm of the smaller. We are able to infer that, in the course of the spiritual unfoldment of The One About Whom Naught May Be Said, there will be a transfer of the essences of His Heart Chakra to His Ajna Chakra, i.e. from the chakra which is our solar system to the chakra Sirius which is His Ajna Centre. Thus, human monads will ultimately centre their attention on Sirius. This is further corroborated by the known fact that as a man takes the Fifth initiation which makes him a Master of the Wisdom, he automatically takes the First initiation in the lodge of Masters on Sirius. It is through initiation that transfer from one cosmic chakra to its alter ego is thus achieved.

Trong cùng Vị Hữu Thể ấy, hệ thống vĩ đại Sirius cũng là một luân xa. Nó là đối phần của Luân xa Tim, tức ajna. Nay, như chúng ta đã lưu ý, nơi Con Người, năng lượng của Luân xa Tim được hướng đến Luân xa ajna. “Trên sao, dưới vậy” và như nơi Con Người thì nơi Đại Hữu Thể cũng thế. Paracelsus nói Con Người là một hệ mặt trời thu nhỏ và ngụ ý rằng cái lớn hơn là đại thiên địa của cái nhỏ hơn. Chúng ta có thể suy ra rằng, trong tiến trình khai mở tinh thần của Đấng Bất Khả Tư Nghị, sẽ có một sự chuyển dịch tinh tuý của Luân xa Tim của Ngài sang Luân xa Ajna của Ngài, tức là từ luân xa vốn là hệ mặt trời của chúng ta sang luân xa Sirius vốn là Trung tâm Ajna của Ngài. Như vậy, các chân thần nhân loại rốt cuộc sẽ tập trung chú ý vào Sirius. Điều này càng được xác nhận bởi sự kiện đã biết rằng khi một người thọ lần điểm đạo thứ năm, khiến y trở thành một Chân sư của Minh Triết, y tự động thọ lần điểm đạo thứ nhất trong hội các Chân sư ở Sirius. Chính qua điểm đạo mà sự chuyển giao từ một luân xa vũ trụ sang đối phần của nó được thực hiện như vậy.

This lies in the future for every human monad. But why must the monad enter part of itself into the seven planes of matter, take on a physical body and pass through that vale of sorrow which marks the slow but progressive extraction of essence from form, detachment from the Wheel of Rebirth until the matter is completed?

Điều này nằm ở tương lai cho mọi chân thần nhân loại. Nhưng tại sao chân thần phải đưa một phần của mình vào bảy cõi chất liệu, khoác lấy một thể xác và đi qua thung lũng sầu nơi được đánh dấu bằng sự chiết xuất chậm rãi nhưng tiến bộ tinh tuý khỏi hình tướng, sự tách rời khỏi Bánh xe Luân hồi cho đến khi công việc hoàn tất?

Again, we can find the solution in the microcosm which is Man. In him there are chakras which must yet be awakened, aroused, integrated with other chakras and made radiative and donative of their energy. This is true of all chakras of all organisms from a gemstone up to a logos.

Một lần nữa, chúng ta có thể tìm lời giải ở tiểu thiên địa là Con Người. Nơi y có những luân xa mà vẫn còn phải được đánh thức, khơi dậy, tích hợp với các luân xa khác và làm cho rực toả và ban hiến năng lượng của chúng. Điều này đúng với mọi luân xa của mọi sinh thể từ một viên ngọc đến một vị Thượng đế.

How does a chakra become radiant and donative of its energies to its higher chakra or alter ego? It must first react with its immediate environment and then with nearby chakras. That great vortex of energy which we call the Flame Divine is in the process of its own arousal. It must interact with ITS environment, must become radiant and spiritually radioactive before it can transfer its essence, sparks of the divine, the monads of our system, to Sirius.

Một luân xa làm sao trở nên rực toả và ban hiến năng lượng của nó cho luân xa cao hơn hay đối phần? Trước hết nó phải phản ứng với môi trường trực tiếp, rồi với các luân xa ở gần. Vòng xoáy năng lượng vĩ đại mà chúng ta gọi là Lửa Thiêng Liêng đang ở trong tiến trình tự khơi dậy của chính nó. Nó phải tương tác với MÔI TRƯỜNG của mình, phải trở nên rực toả và phóng xạ tinh thần trước khi có thể chuyển giao tinh tuý của nó, những tia lửa thiêng, tức các chân thần của hệ chúng ta, đến Sirius.

00042.jpeg

What does this cosmic sequence mean to the needs of the individual human monads? They are Sons of Necessity. They need spiritual staying power before such an event can be carried through successfully. They are spiritual in essence but lack the staying power for the transfer to be accomplished. How can they satisfy this urgent need? There is only one known and certain way which is THE WAY OF THE MONAD. It requires the monads to become involved in the Seven Planes of substance about them. They must progressively enmesh themselves in the forms and activities of these planes and then, when completely engaged in the densest planes of substance, right down to the physical, they must extract themselves from their engulfment and, at the same time, extract the essence of their experiences gained from the whole manoeuvre.

Trình tự vũ trụ này có nghĩa gì đối với nhu cầu của các chân thần nhân loại cá thể? Họ là Các Con của Tất Yếu. Họ cần sức bền tinh thần trước khi một sự kiện như vậy có thể được thực hiện thành công. Họ có bản chất tinh thần nhưng thiếu sức bền để sự chuyển giao được hoàn tất. Họ có thể thoả mãn nhu cầu cấp bách này bằng cách nào? Chỉ có một con đường đã biết và chắc chắn, đó là CON ĐƯỜNG CỦA CHÂN THẦN. Nó đòi hỏi các chân thần phải dấn dự vào Bảy Cõi chất liệu quanh mình. Họ phải từng bước tự bao bọc mình trong các hình tướng và hoạt động của những cõi này và rồi, khi hoàn toàn bị cuốn vào các cõi đậm đặc nhất của chất liệu, ngay đến cõi hồng trần, họ phải tự trút mình ra khỏi sự bao phủ ấy và đồng thời chiết xuất tinh tuý của những kinh nghiệm họ thu được từ toàn bộ thao tác.

And so, fully aware at the outset of the hazardous and desperately arduous journey ahead, the monad begins to construct its upper and lower triads to act as mechanisms for its own enmeshment in the six planes. The process is described in detail in the first book of this series, The Jewel in the Lotus, When absolute involvement is achieved, the monad begins to call back what is its own. The call of the Father in Heaven (the monad) is eventually heard by the disciple. He is filled with divine unrest and like the prodigal son, finally turns—inwardly—for home, sacrificing all and obeying the mounting urges within him for union (yoga).

Thế là, hoàn toàn ý thức ngay từ đầu về hành trình hiểm nguy và khắc nghiệt đến tuyệt vọng ở phía trước, chân thần bắt đầu kiến tạo tam nguyên trên và tam nguyên dưới để như những cơ cấu cho chính sự bao bọc của mình vào sáu cõi. Tiến trình này được mô tả chi tiết trong cuốn thứ nhất của bộ này, Viên Ngọc trong Hoa Sen . Khi mức độ nhập cuộc tuyệt đối đạt được, chân thần bắt đầu triệu hồi lại cái thuộc về mình. Tiếng gọi của Cha Trên Trời (chân thần) rốt cuộc được đệ tử nghe thấy. Y tràn đầy bất an thiêng liêng và như đứa con hoang đàng, cuối cùng quay—vào bên trong—trở về nhà, hiến dâng tất cả và vâng theo những xung lực ngày càng dâng cao trong y hướng về hợp nhất (yoga).

This stage of extraction is reached about the time of the Third initiation when the disciple first heeds the call of the monad. We begin to understand now that the circumstances of our own lives are what they are in order to provide us with just the sort of experience needed by the monad to develop spiritual staying power. Our wealth, our tribulations, our family circumstances, our poor health, … all are either leading a man into further enmeshment or are helping him to withdraw from it. The will and the compassion, the power to think abstractly, the comprehension and the love-wisdom have to be exercised e.g. love, wisely applied and wisdom lovingly applied, in our struggles to extract ourselves from the material world. These experiences are what the monad needs and This, is where stress plays its part.

Giai đoạn chiết xuất này được đạt đến vào khoảng lần điểm đạo thứ ba khi đệ tử lần đầu tiên nghe tiếng gọi của chân thần. Lúc này chúng ta bắt đầu hiểu rằng hoàn cảnh đời sống của chính chúng ta là như thế để cung ứng cho chúng ta đúng loại kinh nghiệm mà chân thần cần để phát triển sức bền tinh thần. Sự giàu có của chúng ta, những truân chuyên của chúng ta, hoàn cảnh gia đình của chúng ta, sức khoẻ kém của chúng ta, … tất cả hoặc đang dẫn một người vào sự bao bọc sâu hơn, hoặc đang giúp y rút ra khỏi đó. Ý chí và lòng từ bi, năng lực tư duy trừu tượng, sự thấu lĩnh và Bác Ái – Minh Triết phải được vận dụng, thí dụ như tình thương được vận dụng một cách khôn ngoan và minh triết được vận dụng đầy tình thương, trong những phấn đấu của chúng ta để trút mình ra khỏi thế giới vật chất. Những kinh nghiệm này là điều chân thần cần và Chính ở đây, stress đóng vai trò của nó.

Three forces draw the pupil back to union with the Divine Flame. These are registered firstly as the soul’s yearning for Truth, Beauty and Goodness by expressing them in the pupil’s way of life. Secondly, and before the Third Initiation, the monad exercises strong magnetic attraction registered as divine unrest and the desire to withdraw from the material world. After the Third Initiation, the will to achieve synthesis through utter sacrifice, dominates the life of the pupil.

Ba lực kéo môn sinh trở về hợp nhất với Lửa Thiêng Liêng. Trước hết, chúng được ghi nhận như nỗi khao khát của linh hồn đối với Chân, Mỹ, Thiện bằng cách biểu lộ chúng trong lối sống của môn sinh. Thứ hai, và trước lần điểm đạo thứ ba, chân thần vận dụng hấp lực từ tính mạnh mẽ, được ghi nhận như bất an thiêng liêng và ước muốn rút khỏi thế giới vật chất. Sau lần điểm đạo thứ ba, ý chí đạt đến hợp nhất thông qua hiến dâng trọn vẹn, chi phối đời sống của môn sinh.

The Third initiation cannot be taken without an integrated personality, and so, for most disciples, the renovation and reconstruction of the personality around a higher point of consciousness than hitherto enjoyed is the prime task, This is called ‘psychosynthesis’. Integration of personality forms the main focus of attention in Section Four of this treatise.

Lần điểm đạo thứ ba không thể thọ nếu không có một phàm ngã tích hợp, vậy nên, với hầu hết các đệ tử, việc tu chỉnh và tái kiến thiết phàm ngã quanh một điểm tâm thức cao hơn mức trước đó hưởng thụ là nhiệm vụ chủ yếu. Điều này được gọi là “tâm lý-tổng hợp” (psychosynthesis). Sự tích hợp phàm ngã là trọng tâm chú ý chính trong Phần Bốn của luận thư này.

00044.jpeg

The personality is the house in which the soul dwells. In each life, a new house is constructed more and more to the liking of the soul who would radiate Truth, Beauty and Goodness throughout its home:

Phàm ngã là ngôi nhà nơi linh hồn an trú. Trong mỗi đời, một ngôi nhà mới được kiến tạo ngày càng hợp nhãn linh hồn, Đấng muốn toả rạng Chân, Mỹ, Thiện khắp ngôi nhà của mình:

The Lord let the house of a brute to the soul of a man

Chúa cho linh hồn một người mượn căn nhà của một con thú

And the man said ‘Am I your debtor?’

Và người ấy nói “Con là kẻ mang ơn Ngài chăng?”

The Lord said, ‘Not yet; but make it as clean as you can

Chúa phán, “Chưa; nhưng hãy làm nó sạch nhất có thể

And then I’ll let you a better’.

Rồi Ta sẽ cho con mượn một căn tốt hơn.”

Stress is therefore not only a natural feature of daily life in the western world, but it is the inevitable ‘side-effect’ of the urge to express the inner Self. Stress produces definite points of tension in the subtler bodies paving the way for their rapid growth. An examination of the bud of any flower will demonstrate the tension that mounts before unfoldment of the petals. The unfoldment of the petals of the inner Self is no different. Tension, crisis and their resolution are the cyclic mechanisms of growth.

Vì thế stress không chỉ là một đặc điểm tự nhiên của đời sống thường nhật ở thế giới phương Tây, mà còn là “tác dụng phụ” tất yếu của xung lực biểu lộ Tự Ngã bên trong. Stress tạo ra những điểm nhất tâm rõ rệt trong các thể vi tế, mở đường cho sự tăng trưởng nhanh chóng của chúng. Quan sát nụ của bất kỳ bông hoa nào sẽ cho thấy sức căng tăng lên trước khi cánh hoa khai mở. Sự khai mở các cánh của Tự Ngã bên trong cũng không khác. Căng thẳng, khủng hoảng và sự hoá giải chúng là các cơ chế chu kỳ của tăng trưởng.

The Fruits of Stress—Hoa Trái của Stress

It is taught in esoteric science that there is always an inner side to the manifestation of a phenomenon. Some call this the noumenon. There is a hid den fire that is masked by every visible fire. There is an inner counterpart to the glucose molecule and that is the ‘vitality globule’*, The former is the basis of nutrition and sustains through metabolic energy the gross physical body. The vitality globule releases pranic energy to the etheric matrix through the mechanism of breathing. Even Christianity has its esoteric factors in its uses of ritual and stained glass windows. The same is true of Buddhism as anyone who has read Sinnet’s book Esoteric Buddhism would confirm. —

Huyền học dạy rằng luôn có một mặt nội tại cho sự biểu lộ của một hiện tượng. Có người gọi đó là bản thể. Có một ngọn lửa ẩn tàng được che khuất bởi mọi ngọn lửa hữu hình. Có một đối phần nội tại cho phân tử glucose và đó là “Sinh khí cầu”*, Cái trước là nền tảng của dinh dưỡng và nâng đỡ thể xác thô thông qua năng lượng chuyển hoá. Sinh khí cầu phóng thích năng lượng prana vào khung nền dĩ thái thông qua cơ chế hô hấp. Ngay cả Kitô giáo cũng có những yếu tố nội môn của nó trong việc sử dụng nghi lễ và cửa sổ kính màu. Điều tương tự cũng đúng với Phật giáo như bất kỳ ai đã đọc cuốn Phật giáo Huyền bí của Sinnet đều có thể xác nhận.

* ‘Meditation, The Theory and Practice, by the author.*

“Tham thiền, Lý thuyết và Thực hành”, của tác giả.

We have already considered the importance of spiritual staying power to the monad. Is there any evidence that this quality is being progressively synthesised by the outer shells of the monad? Hans Selye called the capacity of the physical body to maintain itself in homeostasis just this …‘staying power.’

Chúng ta đã xem xét tầm quan trọng của sức bền tinh thần đối với chân thần. Có bằng chứng nào cho thấy phẩm tính này đang được tổng hợp một cách tiến bộ bởi những lớp vỏ bên ngoài của chân thần không? Hans Selye gọi năng lực của thể xác duy trì mình trong cân bằng nội môi chính là … “sức bền.”

The staying power of an athlete is important. Whether he is a boxer or a long distance runner, he must keep himself fit. Fitness means co-ordination of nerves with muscles and muscles with muscles. It means increasing and maintaining the flow of blood to all the organs but especially the muscles, remembering that blood carries oxygen and that oxygen is the bearer of prana, the life force. No mountaineer attempts the cliff-face without due preparation and much hard work, He requires muscles strengthened into steel-like qualities; he needs to develop his consciousness to withstand vertigo and fear of heights. The pupil must also withstand the attractive forces that are associated with spiritual heights and also the courage to cling on to the cliff-face, to maintain his foothold on the mountain of Initiation when the whole hillside seems to be crumbling beneath his feet. Such staying power can quickly bring about integration of personality, an outer sign that the pupil is really prepared for the mountain of major Initiations.

Sức bền của một vận động viên là quan trọng. Dù là võ sĩ quyền anh hay vận động viên chạy đường dài, y phải giữ cho mình luôn sung sức. Sung sức nghĩa là phối hợp thần kinh với cơ bắp và cơ này với cơ khác. Nó có nghĩa là tăng và duy trì dòng chảy của máu đến mọi cơ quan nhưng nhất là các cơ, nhớ rằng máu mang oxy và oxy là kẻ mang prana, sinh lực. Không người leo núi nào mạo hiểm lên vách đá mà không chuẩn bị chu đáo và khổ luyện nhiều. Y cần những bắp thịt được rèn thành phẩm chất như thép; y cần phát triển tâm thức để chịu đựng chóng mặt và sợ độ cao. Môn sinh cũng phải chịu đựng những lực hấp dẫn gắn liền với các cao độ tinh thần và cũng cần can đảm bám trụ vách đá, giữ vững chỗ đứng trên ngọn núi Điểm đạo khi cả sườn đồi dường như đang sụp đổ dưới chân. Sức bền như thế có thể nhanh chóng mang lại sự tích hợp phàm ngã, một dấu hiệu bên ngoài cho thấy môn sinh thực sự sẵn sàng cho ngọn núi của các Lần Điểm đạo trọng đại.

Hans Selye was once asked a question that has a direct bearing on our subject here, Having the reputation of knowing most about the effects of stress on the cells of the body, he was asked to compare such cells to mankind and to suggest what factors in a man’s life might help him most to adapt himself to stress, to deal with it and not only to survive but to thrive in the process. His answer was that man should practise ‘altruistic egotism’. He had observed that when cells worked in cooperation with each other, almost ‘thinking’ of other cell groups in their concern, and yet maintained their own strength and resourcefulness, they did best in stress situations.

Hans Selye từng được hỏi một câu hỏi có liên hệ trực tiếp với chủ đề của chúng ta ở đây. Mang danh tiếng là người biết nhiều nhất về các hiệu ứng của stress trên các tế bào của cơ thể, ông được yêu cầu so sánh các tế bào như nhân loại và gợi ý những nhân tố nào trong đời sống một người có thể giúp y nhất để thích nghi với stress, xử lý nó và không chỉ sống sót mà còn phát triển trong tiến trình đó. Câu trả lời của ông là con người nên thực hành “ích kỷ vị tha”. Ông quan sát rằng khi các tế bào làm việc trong hợp tác với nhau, gần như “nghĩ” đến các nhóm tế bào khác trong mối quan tâm của mình, và đồng thời duy trì sức mạnh và tính tháo vát của chính chúng, chúng đạt kết quả tốt nhất trong các tình huống stress.

There is a lesson for disciples here, all of whom should be aware of the great Pillar of Ancient Wisdom that asserts ‘All men live within the body of a greater Being.’ * This postulate should be examined carefully and the full significance of ‘altruistic egotism’ will become apparent. Altruism, the regard for others as a principle of action, means esoterically, recognition of the greater Entity in Whom we live and move and have our being. Cooperation with Him and all parts of Him which include Man and all the other kingdoms of nature. This means the observing of Natural Law.**

Có một bài học cho các đệ tử ở đây, tất cả đều nên biết đến đại Trụ Cột của Minh Triết Cổ rằng “Mọi người đều sống trong thân thể của một Đấng Vĩ Đại hơn.” * Tiền đề này cần được khảo sát cẩn thận và thâm nghĩa đầy đủ của “ích kỷ vị tha” sẽ trở nên hiển hiện. Vị tha, sự quan tâm đến người khác như một nguyên tắc hành động, theo nghĩa huyền môn, là sự nhận biết Vị Hữu Thể vĩ đại trong Đó chúng ta sống, chuyển động và hiện hữu. Hợp tác với Ngài và mọi phần của Ngài, bao gồm Con Người và mọi giới khác của thiên nhiên. Điều này có nghĩa là tuân thủ Định luật Tự nhiên.**

* Postulate Two, Section I, The Jewel in the Lotus by the author.

* Tiền đề Hai, Phần I, Viên Ngọc trong Hoa Sen của tác giả.

** See the Section One ‘Natural Law’

** Xem Phần Một “Định luật Tự nhiên”

The more we work with Natural Law, the more we recognise that we are part of the Logos … the greater our degree of union with Him, the greater our integration with His body. It is then that His life and His consciousness flood us increasingly, which is by definition the substance of Initiation at every stage. In this way, spiritual staying power suffuses our lives. It shows as increased Will-to-Be without an alienating ego. The words of The Voice of the Silence become more meaningful:

Càng làm việc với Định luật Tự nhiên, chúng ta càng nhận ra rằng chúng ta là một phần của Thượng đế … mức độ hợp nhất của chúng ta với Ngài càng lớn, sự tích hợp của chúng ta vào thân thể Ngài càng cao. Khi ấy, Sự sống và Tâm thức của Ngài tràn ngập chúng ta ngày càng nhiều, mà theo định nghĩa, là bản chất của Điểm đạo ở mọi giai đoạn. Bằng cách này, sức bền tinh thần thấm nhuần đời sống chúng ta. Nó biểu lộ như Ý Chí-hiện hữu tăng lên mà không kèm theo cái ngã xa cách. Lời của Tiếng Nói của Im Lặng trở nên ý nghĩa hơn:

 ‘Kill out ambition, but live like one ambitious.’

“Hãy diệt trừ tham vọng, nhưng sống như một người đầy tham vọng.”

Personal ambition becomes transmuted into desire to serve the Plan, and to help mankind to do the same. Yet the energies which are found in the ambitious are no less present here. They are, in fact, more emphasised but the ambition is no longer personal … ‘Not my will, but THY WILL be done’.

Tham vọng cá nhân được chuyển hoá thành khát vọng phụng sự Thiên Cơ, và giúp nhân loại làm điều tương tự. Tuy nhiên những năng lượng tìm thấy nơi người đầy tham vọng không hề thiếu vắng ở đây. Thực ra, chúng được nhấn mạnh hơn, nhưng tham vọng không còn là cá nhân nữa … “Không theo ý con, nhưng Ý CHÚA được nên.”

These steps, taken, lead the disciple progressively to the feet of the Master. They bring into his aura, energies that transform his way of life, giving him the capacities to realise the powers latent within him, as they are within every man. These energies make of the pupil a many splendoured thing. They give the Initiate the power to adapt; the same energies which reaching down as far as the physical body, mainly via the vagus nerve, adapt the pupil to stress and feed the powers of resistance to those forces which would upset homeostasis in the normal individual.

Những bước này, khi được thực hiện, đưa đệ tử tiến dần đến dưới chân Chân sư. Chúng đem vào hào quang y những năng lượng chuyển hoá lối sống của y, ban cho y năng lực để hiện thực hoá các quyền năng tiềm ẩn trong y, như chúng tiềm ẩn trong mọi người. Những năng lượng này làm cho môn sinh trở thành một hữu thể rực rỡ nhiều vẻ. Chúng ban cho điểm đạo đồ sức mạnh thích nghi; cũng chính những năng lượng này, khi vươn xuống đến thể xác, chủ yếu qua dây thần kinh lang thang, giúp môn sinh thích nghi với stress và nuôi dưỡng năng lực kháng cự với những lực sẽ làm xáo trộn cân bằng nội môi nơi người bình thường.

They enable a Socrates to stand barefooted for hours in the snow and ice, in deep contemplation and communion with his daemon, and a Xenophon, leader of the immortal ten thousand Greeks to bring them, out of certain death in Asia Minor, back to the safety of their homeland by his magnificent examples of courage and endurance.* The pages of history abound with such examples of altruistic egotism. The egotism, we have today in abundance, shows up certainly in our competitive way of life.

Chúng cho phép một Socrates đứng chân trần hàng giờ trong tuyết và băng, trong sự chiêm ngưỡng sâu và hiệp thông với linh thần của mình; và một Xenophon, thủ lĩnh đội mười nghìn người Hy Lạp bất tử, đưa họ từ chỗ gần như chắc chắn tử vong ở Tiểu Á trở về an toàn quê hương nhờ những gương mẫu tuyệt vời về can đảm và nhẫn nại của ông.* Những trang sử tràn ngập những thí dụ như thế về “ích kỷ vị tha”. Cái “ích kỷ” chúng ta có ngày nay dư thừa, chắc chắn bộc lộ trong lối sống cạnh tranh của chúng ta.

* Click on this link to listen to a lecture by the author on ‘Courage and Cowardice.’

*

The altruism is growing. The egotism has always been there and the blending of both to the point of stress will pave the way for the new yoga. It’s target? The rounding out of the personality, its integration and its dedication to the inner Self as an instrument of service to mankind.

Tính vị tha đang lớn dần. Yếu tố vị kỷ thì xưa nay vẫn có, và sự pha trộn cả hai đến điểm của sức ép sẽ mở đường cho môn yoga mới. Mục tiêu của nó? Làm viên mãn phàm ngã, tích hợp nó và hiến dâng nó cho Tự Ngã bên trong như một khí cụ phụng sự nhân loại.

There are many known examples of superhuman forces intervening during moments of extreme stress. Herculean powers have enabled trapped men to hurl aside crushing burdens; mothers have rescued children from savages or wild animals; men have won races almost in physiological coma. If danger calls down the forces of courage then surely stress induces malleability and receptivity without which growth is impossible.

Có nhiều ví dụ đã biết về những lực siêu nhân can dự trong những khoảnh khắc căng thẳng tột độ. Sức mạnh Hercule đã cho phép người bị kẹt hất văng những gánh nặng nghiền nát; các bà mẹ cứu con khỏi bọn man rợ hay thú dữ; con người thắng cuộc đua khi gần như hôn mê về sinh lý. Nếu nguy hiểm triệu hồi các lực can đảm thì chắc chắn stress cảm hoá nên tính mềm dẻo và khả năng tiếp thụ, thiếu chúng thì không thể tăng trưởng.

The drawing below illustrates Roger Bannister’s supreme courage and effort in1954 in being the first man to run a mile in less than four minutes.

Hình vẽ dưới đây minh hoạ lòng can đảm và nỗ lực siêu việt của Roger Bannister vào năm 1954 khi ông là người đầu tiên chạy một dặm trong thời gian dưới bốn phút.

00046.jpeg

The new yoga must be a blending of the objective and the subjective ways of life, giving tribute to both. The soul has not been placed in an objective world in order to ignore it. It has been placed there in order to raise the lower kingdoms in consciousness without becoming attached to them in the process.

Môn yoga mới phải là sự pha trộn giữa phương thức khách quan và chủ quan của đời sống, tôn vinh cả hai. Linh hồn không được đặt vào một thế giới khách thể để rồi phớt lờ nó. Nó được đặt ở đó để nâng cao các giới thấp hơn trong tâm thức mà không bị dính mắc vào chúng trong tiến trình ấy.

The earlier Yogas were evolved in ages that had never scientifically observed and experimented with the objective world. The new way relies not so much on any inner organs of thought and faith but on the detached, impersonal and objective observation of, and experimentation with, the world of the phenomenal. It does not rely on the infallibility of the senses and the brain to comprehend and register the nature of outward things. And this way, the way of Aristotle and Bacon has achieved not insignificant results:

Các Yoga thời trước được phát triển trong những thời đại chưa từng quan sát và thực nghiệm khoa học với thế giới khách thể. Con đường mới không dựa nhiều vào các cơ quan nội tại của tư tưởng và đức tin mà dựa vào sự quan sát và thực nghiệm khách quan, vô tư và tách bạch với thế giới hiện tượng. Nó không dựa vào tính vô ngộ của các giác quan và bộ não để thấu hiểu và ghi nhận bản chất của sự vật bên ngoài. Và con đường ấy, con đường của Aristotle và Bacon, đã đạt được những kết quả không nhỏ:

‘It has lengthened life; it has mitigated pain; it has extinguished diseases; it has increased the fertility of the soil; it has given new securities to the mariner; it has furnished new arms to the warrior; it has spanned great rivers and estuaries with bridges; it has guided the thunderbolt from heaven to earth; it has lighted up the night with the splendour of the day; it has extended the range of human vision; it has multiplied the power of the human muscles; it has accelerated motion; it has annihilated distance; it has facilitated intercourse, correspondence, all friendly offices, all despatch of business; it has enabled man to descend to the depths of the sea, to soar into the air, to penetrate securely into the noxious recesses of the earth, to traverse the land in cars that whirl along without horses and the ocean in ships which run ten knots an hour against the wind. These are but a part of its fruits, and of its first fruits. For it is a philosophy which never rests, which has never attained, which is never perfect. Its law is progress. A point which yesterday was invisible is its goal today, and will be its starting-post tomorrow.’

“Nó đã kéo dài đời sống; nó đã giảm nhẹ đau đớn; nó đã dập tắt bệnh tật; nó đã gia tăng độ màu mỡ của đất; nó đã ban cho người đi biển những bảo đảm mới; nó đã trang bị cho chiến binh những vũ khí mới; nó đã bắc những nhịp cầu qua các con sông và cửa sông lớn; nó đã dẫn tia sét từ trời xuống đất; nó đã thắp sáng đêm tối với rực rỡ của ban ngày; nó đã mở rộng tầm nhìn của con người; nó đã nhân lên sức mạnh của cơ bắp con người; nó đã làm tăng tốc vận động; nó đã xoá bỏ khoảng cách; nó đã tạo điều kiện cho giao tiếp, thư từ, mọi thiện chí, mọi công việc được chuyển nhanh; nó đã cho phép con người lặn xuống đáy biển, bay lên không trung, thâm nhập an toàn vào những hang hốc độc hại của lòng đất, đi khắp đất liền trên những cỗ xe lao vùn vụt không cần ngựa kéo và vượt đại dương trên những con tàu chạy mười hải lý một giờ ngược gió. Đó chỉ là một phần trong các hoa trái của nó, và là những hoa trái đầu mùa. Bởi đó là một triết học không bao giờ dừng lại, chưa bao giờ đạt đích, chưa bao giờ hoàn hảo. Định luật của nó là tiến bộ. Một điểm mà hôm qua còn vô hình nay là mục tiêu, và ngày mai sẽ là điểm xuất phát.”

— Macaulay in his essay on Bacon.

— Macaulay trong bài tiểu luận về Bacon.

The same way has produced a study of the brain and its mechanisms, has evolved biofeedback Medicine, Kirlian photography, and has already superseded them. Its qualities should not be rejected out of hand, The middle way has always been the path for the disciple and there is a way that can be trod and it should lie between both the exoteric and the esoteric, symbolised truly by the caduceus

Cùng con đường đó đã sản sinh việc khảo cứu bộ não và các cơ chế của nó, đã phát triển Y học phản hồi sinh học, nhiếp ảnh Kirlian, và nay đã vượt qua cả chúng. Những phẩm tính của nó không nên bị bác bỏ một cách hồ đồ. Trung đạo xưa nay vẫn là con đường cho đệ tử và có một con đường có thể bước đi, nó nên nằm giữa cả ngoại môn và nội môn, được biểu trưng đúng đắn bởi trượng caduceus


SECTION FOUR

The Unconscious and the Superconscious

z

Z

STATES OF AWARENESS—CÁC TRẠNG THÁI NHẬN BIẾT

In the early days, the ancients were as much fascinated by events generated within the skull as mystics and psychiatrists are today. They were certain that in some inexplicable way the cranium contained a world within its confines and that Man, the dreamer, entered this world and experienced very real events that were related to what he had experienced outwardly. This belief seemed emphasised by the contours of the brain which were representative of the then known world. The Fissure of Rolando coincided with the Mediterranean Sea and the pre-central and post-central gyri were seen to occupy the place of Greece and Rome, the former being related to sensitivity and the latter to action (see Esoteric Anatomy by the author).-

Vào thời xa xưa, người cổ đại bị hấp dẫn bởi những biến cố phát sinh bên trong hộp sọ không kém gì các nhà thần bí và nhà tâm thần học ngày nay. Họ tin chắc rằng theo một cách không thể giải thích, hộp sọ chứa đựng một thế giới trong giới hạn của nó và rằng Con Người, kẻ mộng mơ, bước vào thế giới ấy và trải nghiệm những biến cố rất thật, có liên hệ với những gì y trải qua ở bên ngoài. Niềm tin này dường như được nhấn mạnh bởi những đường nét của bộ não vốn được xem là đại diện cho thế giới khi ấy đã biết. Khe Rolando trùng với Địa Trung Hải và các hồi trước-trung-tâm và sau-trung-tâm được thấy chiếm vị trí của Hy Lạp và La Mã, cái trước liên hệ với nhạy cảm và cái sau với hành động (xem của tác giả).—

The ancients always valued the dream life, Indeed, a careful study of both the teachings of the East and the West will reveal that the waking consciousness was even viewed as part of the dream life in that the unenlightened were regarded as half-asleep. Most of mankind sleeps, nearly all of them heavily, some fitfully. Only sixty, a precious sixty, are said to be wide awake. To Them, the hierarchy of the planet, the inner Self is an absolute reality which they demonstrate in their consciousness and in their actions. For the masses, the awakening from that sleep is through the slow process of evolution through many weary lives. For the few, it can come rapidly by the severest disciplines, suffering and sacrifice.

Người xưa luôn coi trọng đời sống chiêm bao. Thật vậy, một nghiên cứu cẩn thận cả giáo lý Đông lẫn Tây sẽ cho thấy rằng tâm thức thức tỉnh thậm chí còn được xem như một phần của đời sống chiêm bao, bởi người chưa giác ngộ được xem là nửa say ngủ. Phần lớn nhân loại ngủ, hầu như tất cả đều ngủ sâu, một số ít chập chờn. Chỉ có sáu mươi người, một con số quý giá là sáu mươi, được nói là hoàn toàn tỉnh thức. Với Các Ngài, Thánh đoàn của hành tinh, Tự Ngã bên trong là một thực tại tuyệt đối mà Các Ngài biểu lộ trong tâm thức và trong hành động của mình. Với số đông, sự thức tỉnh khỏi giấc ngủ đó diễn ra qua tiến trình tiến hoá chậm chạp qua nhiều kiếp đời mỏi mòn. Với số ít, nó có thể đến nhanh chóng bằng những kỷ luật nghiêm khắc nhất, chịu khổ và hy sinh.

To them, it will come in progressively rapid stages called ‘initiations,’ the initiations into the mysteries of the soul under the guidance of the sixty Adepts from Whom, the techniques are learnt. Thus, St. Paul when still a Roman centurion on the way to Damascus was initiated, blinded by the light supernal of the next Kingdom, the Kingdom of Soul. Thereafter, he besought all men (who slept):

Với họ, nó sẽ đến theo những giai đoạn tiến nhanh dần gọi là “các lần điểm đạo,” những lần điểm đạo vào các huyền nhiệm của linh hồn dưới sự hướng dẫn của sáu mươi Chân sư, từ Các Ngài các kỹ thuật được học. Thế nên, Thánh Phaolô khi còn là một viên bách phu trưởng La Mã trên đường đến Damascus đã được điểm đạo, bị làm mù bởi ánh sáng siêu việt của Giới kế tiếp, Giới của Linh hồn. Từ đó, ông khẩn cầu mọi người (đang ngủ):

 ‘Awake thou that sleepest and arise from the dead, and . Christ shall give thee light’.

“Hỡi ngươi đang ngủ, hãy thức dậy và trỗi dậy từ cõi chết, và Đức Christ sẽ ban cho ngươi ánh sáng.”

This is the real meaning of the Resurrection of the Dead. Not that the tombs of the dead will open and corpses will come to life, but that we, the sleeping or dead—to the soul—or living dead shall awaken to the true nature of our inner being, to the existence of our inner vehicles and thence to an understanding of how to control them and so to evolve in consciousness which is, by definition, spirituality. The sum total of all these vehicles is the Temple of the Lord and it is to be found incomplete, a pyramid without its capstone, within everyone of us.

Đây là ý nghĩa thực sự của Sự Phục Sinh của Kẻ Chết. Không phải là mồ mả của người chết sẽ mở ra và các xác thân sống dậy, mà là chúng ta, những kẻ đang ngủ hay đã chết — đối với linh hồn — hay những kẻ sống mà như chết, sẽ thức tỉnh trước bản tính chân thật của nội ngã, trước sự hiện hữu của các vận cụ nội tại của mình và từ đó thấu hiểu cách điều khiển chúng, nhờ vậy mà tiến hoá trong tâm thức, vốn theo định nghĩa là tính tinh thần. Tổng hòa của tất cả các vận cụ ấy là Đền Thờ của Chúa, và nó được thấy là chưa hoàn chỉnh, như một kim tự tháp thiếu viên đá đỉnh chóp, ở trong mỗi người chúng ta.

Awareness of this inner Reality is what is known as spiritual consciousness and symbols of it are found in the esoteric teachings of all great religions, In Christianity, Christ, the Christ Within was its symbol. As Paul says of that inner nature, veiled or esoteric, occult or mystical:

Nhận biết Hiện Thực nội tại này là điều được gọi là tâm thức tinh thần, và các biểu tượng của nó được tìm thấy trong mọi giáo huấn nội môn của các tôn giáo lớn. Trong Ki-tô giáo, Đức Christ, Đấng Christ Bên Trong là biểu tượng của nó. Như Phao-lô nói về bản tính nội tại ấy, vốn được che màn hay nội truyền, huyền linh hay thần bí:

‘Which is Christ within You, the hope of glory’.

“Ấy là Đấng Christ ở trong các ngươi, niềm hy vọng vinh quang”.

The path to that inner glory is difficult, and the purpose of all religion should be to assist the neophyte on his way. Too often, religion does anything but this. That it is a difficult way and that it is a path of free choice is made clear in the Sermon on the Mount:

Con đường đi đến vinh quang nội tại ấy là khó nhọc, và mục đích của mọi tôn giáo lẽ ra phải là trợ giúp người sơ cơ trên lộ trình của y. Quá thường khi, tôn giáo lại làm điều gì khác chứ không phải điều này. Rằng đó là một con đường khó và là một lối đi của tự do chọn lựa, điều này được nói rõ trong Bài Giảng Trên Núi:

‘Enter ye at the strait gate: for wide is the gate, and broad the way, that leadeth to destruction, and many there be that go in thereat: because strait is the gate, and narrow is the way, which leadeth unto life, and few there be that find it’.

“Hãy vào cửa hẹp; vì cửa rộng và đường khoảng khoát dẫn đến sự hư mất, và có nhiều kẻ đi vào đó; vì cửa hẹp và đường chật dẫn đến sự sống, nhưng kẻ kiếm được thì ít”.

In one of my World War II diaries, written when I was but eighteen, are copied the famous words:

Trong một quyển nhật ký Thế chiến II của tôi, viết khi tôi mới mười tám tuổi, có chép những lời nổi tiếng:

‘It matters not how strait the gate,

“Dẫu cửa hẹp mặc lòng,

how charged with punishment the scroll,

cuộn sổ dẫu đè nặng hình phạt,

I am the master of my fate,

ta vẫn là chủ nhân của số phận ta,

I am the captain of my soul’.

ta là thuyền trưởng của linh hồn ta”.

It took five long years of hard and bitter suffering in which my physical body as well as my astro-mental vehicles were ripped to shreds to discover that I was not the master of my fate and, still less, the captain of my soul! And it was only when I realised that my inner Self was the captain of my personality that I had my first spiritual or mystical experience of any significance.

Phải mất năm năm dài đằng đẵng của nỗi thống khổ gay gắt và cay đắng, trong đó thân xác cũng như các hiện thể cảm-trí của tôi bị xé nát thành từng mảnh, tôi mới khám phá ra rằng tôi không phải là chủ nhân số phận mình, và càng không phải là thuyền trưởng của linh hồn mình! Và chỉ khi tôi nhận ra rằng Tự Ngã nội tại của mình là thuyền trưởng của phàm ngã, thì tôi mới có kinh nghiệm tinh thần hay huyền bí đầu tiên nào có thâm nghĩa.

All states of consciousness are of concern to the pupil. His waking state must be altered so that he becomes aware, not only of his environment but of his own position in the cosmos, just a splinter of the divine. He seeks constantly for evidence of the eternal rather than the transient. He becomes aware of the etheric body of the planet, the anima mundi of the Earth, the

Mọi trạng thái tâm thức đều là mối quan tâm của môn sinh. Tình trạng thức của y phải được chuyển đổi để y trở nên nhận biết, không chỉ về môi trường chung quanh mà còn về vị trí của chính mình trong vũ trụ, chỉ như một mảnh vụn của điều thiêng liêng. Y không ngừng tìm kiếm bằng chứng về cái vĩnh cửu hơn là cái phù du. Y trở nên nhận biết thể dĩ thái của hành tinh, linh hồn thế giới của Trái Đất,

‘ … heavenly dew, staring from every eye, glowing from every hue …’

“… sương thiên lành, nhìn ra từ mọi đôi mắt, rực sáng từ mọi sắc màu …”

The disciple is concerned with that vastly important transition period that lies between waking and sleeping, Average Man hardly notices it all. One moment he is awake and caught up with the humdrum of daily life. The next moment he is virtually unconscious in deep sleep. The pupil must learn to prolong this twilight period in which he is undertaking an act which is tantamount to withdrawing his attention from the world of the senses, a process which, attempted in full waking consciousness is extremely difficult, and yet here, in the twilight state, between waking and sleeping, he is doing the same thing. Could he but cling on to his consciousness whilst withdrawing from sensory experience, he would be creating within himself, a receptive state paralleling the earliest stages of union through yoga.

Người đệ tử quan tâm tới giai đoạn chuyển tiếp vô cùng quan trọng nằm giữa tỉnh và ngủ. Người Trung bình hầu như chẳng để ý gì đến nó. Giây phút này y còn tỉnh táo và bị cuốn vào nhịp sống tầm thường hằng ngày. Giây phút sau y hầu như vô thức trong giấc ngủ sâu. Môn sinh phải học cách kéo dài thời kỳ chạng vạng này, trong đó y đang thực hiện một hành vi tương đương với việc rút lui sự chú ý khỏi thế giới giác quan, một tiến trình mà nếu toan thử trong trạng thái tỉnh thức hoàn toàn thì cực kỳ khó, vậy mà ngay tại đây, trong trạng thái chạng vạng, giữa thức và ngủ, y đang làm đúng điều ấy. Giá như y có thể bám giữ tâm thức của mình trong khi rút khỏi kinh nghiệm giác quan, y sẽ tạo ra trong chính mình một trạng thái cảm thụ tương ứng với những giai đoạn sớm nhất của hiệp nhất qua yoga.

The same applies to the moments experienced before actually awakening in the morning. This is a most receptive period. The waking dream especially is of importance, and, in the absence of meditation, is about the only opportunity available to the higher Self to impress its vehicles with any sort of communication.

Điều tương tự cũng áp dụng cho những khoảnh khắc ngay trước lúc thật sự thức dậy vào buổi sáng. Đây là thời kỳ tiếp nhận nhất. Nhất là giấc mơ lúc sắp thức có tầm quan trọng riêng, và khi không có tham thiền, đó gần như là cơ hội duy nhất dành cho Chân Ngã để in ấn lên các vận cụ của nó bất kỳ loại thông điệp nào.

It is only in the most advanced stages of pupilage that continuity of consciousness is attained. When the thousand-petalled-lotus is aroused and is interacting with Alta-Major and Ajna, then continuous consciousness extending to 24 hours of each day is achieved, at least at the level of the physical brain.

Chỉ ở những giai đoạn cao nhất của bậc môn sinh, tính liên tục của tâm thức mới được đạt tới. Khi hoa sen ngàn cánh được khơi động và tương tác với alta major và ajna, bấy giờ tâm thức liên tục kéo dài suốt 24 giờ mỗi ngày được thành tựu, ít nhất là ở cấp độ bộ não hồng trần.

The disciple becomes quickly aware then that his inner experiences, dreams, visions and impressions are just as real a part of his awareness and of his actual existence as his outer sensations and experiences.

Người đệ tử nhanh chóng nhận ra rằng những kinh nghiệm nội tâm, chiêm bao, thị kiến và ấn tượng là phần thực có của sự tỉnh biết và của chính sự hiện hữu của y, không kém gì các tri giác và kinh nghiệm bên ngoài.

If the inner world has some reality, and there are those who will say that it is there that the ultimate reality is located, then this field of conscious experience should be understood by the pupil for what it is. He must learn what part of it must be assimilated and what part should be discarded.

Nếu thế giới nội tâm có phần hiện thực nào đó, và có người sẽ nói rằng chính ở đó thực tại tối hậu cư ngụ, thì lĩnh vực kinh nghiệm có ý thức này cần được môn sinh thấu hiểu đúng như nó là. Y phải học phần nào cần được đồng hoá và phần nào nên loại trừ.

We all dabble so freely in the obvious, the tangible and the measurable and with equal facility we ignore our inner natures, that which is hidden, subtle and immeasurable. Only circumstances arising out of the necessities of war forced the nuclear scientists to test the hypothesis of the power lying within the nucleus of the atom. It may well be that only some extreme human crisis of unimaginable proportions will force a scientific examination of the hypothesis that an energy unit, which we call the ‘Soul’ really does exist.

Chúng ta đều vầy vùng quá dễ dãi trong cái hiển nhiên, hữu hình và đo đếm được, và cũng dễ dàng như vậy mà làm ngơ bản tính nội tâm của mình, cái bị ẩn giấu, vi tế và không thể đo lường. Chỉ những hoàn cảnh phát sinh từ nhu yếu của chiến tranh mới buộc các nhà khoa học hạt nhân kiểm chứng giả thuyết về năng lực nằm trong hạt nhân của nguyên tử. Rất có thể chỉ một cơn khủng hoảng nhân loại cực độ với quy mô không thể tưởng tượng nổi mới buộc phải có một cuộc khảo sát khoa học đối với giả thuyết rằng một đơn vị năng lượng, mà chúng ta gọi là “Linh hồn”, thực sự tồn tại.

Even our greatest scientists like Einstein, seem to have paused to consider the intangible and the mystical. Isaac Newton dominated the scientific thought of his century, just as Einstein dominated that of the twentieth century. Nevertheless, both never hesitated to investigate the hidden, latent, less obvious or noumenal. Like Kepler before him, Newton was a practising astrologer and believed till his dying day that the heavens influence our lives in subtle ways. He was ever aware of Man’s limitations and of what still needed to be investigated. He once said:

Ngay cả các nhà khoa học vĩ đại nhất của chúng ta như Einstein cũng dường như đã dừng lại để suy tư về điều vô hình và huyền bí. Isaac Newton thống trị tư tưởng khoa học của thế kỷ ông như Einstein đã thống trị thế kỷ hai mươi. Tuy thế, cả hai không bao giờ do dự trong việc khảo sát cái ẩn tàng, tiềm phục, ít hiển nhiên hay bản thể tính. Giống như Kepler trước ông, Newton là một nhà chiêm tinh thực hành và tin cho đến ngày cuối đời rằng bầu trời ảnh hưởng đến cuộc đời chúng ta theo những cách vi tế. Ông luôn ý thức về những giới hạn của Con người và về những gì còn cần được khám phá. Ông từng nói:

 ‘I seem to have been only like a boy playing on the seashore and diverting myself in now-and-then finding a smooth pebble or prettier shell than ordinary whilst all the time, the ocean of Truth lay all undiscovered before me’.

“Tôi dường như chỉ như một đứa trẻ chơi đùa trên bờ biển, thỉnh thoảng tự vui vì nhặt được một viên sỏi tròn trịa hay một vỏ sò đẹp hơn thường lệ, trong khi suốt cả thời gian ấy, đại dương của Chân Lý vẫn nằm chưa hề được khám phá trước mặt tôi”.

No better analogy would describe the immense power and true nature of what some call the soul. Mystical nonsense? Then hear what Einstein had to say:

Không có ví dụ nào hay hơn để mô tả quyền năng bao la và bản tính chân thực của cái mà có người gọi là linh hồn. Nhảm huyền bí ư? Vậy hãy nghe Einstein nói gì:

‘The most beautiful and most profound emotion we can experience is the sensation of the mystical. He to whom this emotion is a stranger, who can no longer wonder and stand wrapped in awe, is as good as dead’.

“Cảm xúc đẹp đẽ nhất và thâm sâu nhất mà chúng ta có thể trải nghiệm là cảm thức về cái huyền nhiệm. Ai xa lạ với cảm thức này, không còn biết kinh ngạc và đứng lặng trong kính sợ, thì kể như đã chết”.

Or, as the great mystics say, , , .is but asleep!

Hay như các nhà thần bí vĩ đại nói, chỉ là đang ngủ !

There is much confusion among esotericists as to what elements of consciousness constitute the ‘legitimate’ field for his explorations, The earnest student aspires to the superconscious; he is taught that the subconscious must be allowed to pass increasingly beyond his ken. He is usually puzzled as to what constitutes the unconscious, and, more than anything, the nature of the collective unconscious.

Có nhiều lẫn lộn giữa các nhà bí truyền học về những thành tố của tâm thức nào cấu thành lĩnh vực “chính đáng” cho các cuộc thám sát của y. Người đạo sinh thành tâm khao khát siêu thức; y được dạy rằng tiềm thức phải ngày càng rời xa tầm tri nhận của y. Y thường bối rối về cái gì cấu thành vô thức, và hơn cả, về bản tính của vô thức tập thể .

Before Jung’s concept of the unconscious emerged, and became meaningful, the pupil was more concerned with the duality of Man. Man’s consciousness in each life begins unindividualised, a testimony to that earlier stage of his evolution going back more than 18 million years ago when the mind of Man as a race, was not yet individualised.*

Trước khi khái niệm vô thức của Jung xuất hiện và trở nên có ý nghĩa, môn sinh quan tâm nhiều hơn tới nhị nguyên tính của Con người. Tâm thức của Con người trong mỗi kiếp khởi đầu là chưa biệt ngã hóa, như một chứng tích cho giai đoạn sớm hơn trong tiến hoá của y kéo ngược hơn 18 triệu năm về trước khi thể trí của Con người như một chủng loài vẫn chưa được biệt ngã hoá.*

*See ‘The Early Root Races,’ Anthropogeny, by the author.

*Xem “Những Giống dân gốc Thời Kỳ Sớm”, Sự phát sinh nhân loại , của tác giả.

In the baby, the consciousness cannot yet differentiate between itself and its surroundings. The subject is barely separate from the object. Physiological instruments like the nervous system which enable the baby later to map out differences between subject and object have not yet matured, With the growth of the ‘me’ and the ‘my’ there emerges in the child an awareness of a separation of himself from things around him. The subject becomes increasingly aware of the object and the objective world to which it belongs, but only dimly aware that he, the subject is changing his viewpoint and position at the same time. The duality is never final and is much less of a duality for some than others. Some people hardly separate themselves from the objective world and remain extroverted all their lives constantly identifying themselves with the world of maya. Others focus their attention on the world of the subjective, for Man is a self-creating creature, treading a spiral path of awareness, matching almost his physical gropings out of childhood into adolescence and thence into physical maturity.

Ở nơi trẻ sơ sinh, tâm thức chưa thể phân biệt nó với môi trường chung quanh. Chủ thể hầu như chưa tách khỏi đối tượng. Những cơ cấu sinh lý như hệ thần kinh, vốn giúp đứa bé về sau vạch ra khác biệt giữa chủ thể và đối tượng, còn chưa trưởng thành. Cùng với sự lớn lên của cái “tôi” và cái “của tôi” thì trong đứa trẻ xuất hiện nhận biết rằng nó tách biệt với các sự vật quanh nó. Chủ thể càng lúc càng ý thức về đối tượng và về thế giới khách quan mà đối tượng thuộc về, nhưng chỉ mờ nhạt mà biết rằng chính y, chủ thể, đang đồng thời thay đổi điểm nhìn và vị trí của mình. Tính nhị nguyên không bao giờ là chung cuộc và ít nhị nguyên hơn nhiều ở nơi người này so với người khác. Có người hầu như không tách mình khỏi thế giới khách quan và suốt đời hướng ngoại, liên tục đồng hoá với thế giới ảo lực. Có người lại tập trung chú ý vào thế giới chủ quan, vì Con người là một sinh thể tự tạo, bước trên con đường xoắn ốc của nhận biết, gần như song song với những dò dẫm vật chất của y từ ấu thơ đến thiếu niên rồi đến trưởng thành về thể chất.

For some, the subjective unfoldment does not stop with this physical paedomorphosis** but goes on majestically into growing realisation of his emotional, mental and spiritual attributes. With others, usually young souls, the obsession with the objective world is never broken—and not for many incarnations—their identification with the transient, the changeable and the objective, create in themselves—could they but see it from the supremely subjective consciousness—a variously disordered object, which is the extroverted personality of average man.

Ở nơi một số người, sự khai mở chủ quan không dừng lại ở tiến trình “ấu hình” thể chất này** mà tiếp tục uy nghiêm vào sự tự nhận biết ngày càng tăng các thuộc tính cảm xúc, trí tuệ và tinh thần của y. Với những người khác, thường là linh hồn trẻ, sự đắm nhiễm vào thế giới khách quan không bao giờ bị phá vỡ — và sẽ còn như thế qua nhiều lần lâm phàm — sự đồng hoá của họ với cái phù du, biến dịch và khách quan tạo ra trong chính họ — giá như họ nhìn được từ tâm thức tối thượng chủ quan — một đối tượng rối loạn muôn vẻ, tức phàm ngã hướng ngoại của người trung bình.

** ‘Paedomorphosis’. Persistence of the the form of the larva or of other early stages of development. Either temporary, e.g. climatically delayed development; or permanent, in which case the animal must breed in juvenile form (paedogenesis, e.g. axolotl, and many other animals which as adults resemble juvenile stages of related species). Paedomorphosis may be applied to retarded development of individual structures, e.g. ostrich feathers resembling down-feathers of flying birds, The Egyptian initiates considered the masses of Egypt to be in a larva stage of development whereas the intelligentsia and the initiates themselves, could go on with their separate development into the pupal and imago stages … hence the concept of the ‘winged Pharaoh’ arising from the pupal case or sarcophagus. See also The Jewel in the Lotus by the author.

** “Ấu hình tồn sinh”. Sự tồn tại của dạng ấu trùng hay các giai đoạn đầu của phát triển. Hoặc tạm thời, ví dụ do phát triển bị chậm trễ vì khí hậu; hoặc vĩnh viễn, trong trường hợp ấy con vật phải sinh sản ở dạng non (sinh sản ấu trùng, ví dụ cá axolotl và nhiều loài khác mà ở dạng trưởng thành vẫn giống các giai đoạn non của những loài gần gũi). Ấu hình tồn sinh cũng có thể áp dụng cho sự phát triển chậm trễ của các cấu trúc riêng lẻ, ví dụ lông đà điểu giống lông tơ của các loài chim bay. Các đạo sĩ Ai Cập cổ xem quần chúng Ai Cập như đang ở giai đoạn ấu trùng của sự phát triển, trong khi giới trí thức và chính các đạo sĩ có thể tiếp tục phát triển riêng của họ vào các giai đoạn nhộng và thành trùng … do đó mới có khái niệm “Pharaon có cánh” vươn ra khỏi kén nhộng hay quan tài. Xem thêm Viên Ngọc trong Hoa sen của tác giả.

To these latter, identification with the objective world, is a way of life. Not only do they not understand the duality of subject to object, but they do not want to understand it. And the duality is real enough. Grass is undoubtedly an object out there, in the objective world. But it is quickly transformed by the various senses into electrical impulses reporting to the brain some aspects of its nature in terms of coded messages to cells in the grey matter of the cerebral cortex. There, a censor will decide whether the information received is worthy of the subject’s attention at all, and, if it is, how much and what aspects of it will be allowed through. The subject’s reception of the object ‘grass’ will depend on whether it came to him through visual apprehension or whether it was heard pronounced as ‘grass’ on radio, etc. The ultimate registration of an image of grass in his consciousness, will certainly be very different from that registered by another man. Which is more real? The outer factor which is grass, transient, ever-changing (from spring to autumn) or the inner ‘image’ that may be retained long after the grass has become extinct and used for interpretation of other grasses that come into consciousness. The objectively orientated will always favour the former and those with an inner or subjective bias will hold to the latter.

Đối với những người sau này, sự đồng hoá với thế giới khách quan là một lối sống. Không những họ không hiểu nhị nguyên của chủ thể và đối tượng, mà họ còn không muốn hiểu nó. Và nhị nguyên ấy là rất thực. Ngọn cỏ không nghi ngờ gì là một đối tượng ở ngoài kia, trong thế giới khách quan. Nhưng nó nhanh chóng bị biến đổi bởi các giác quan thành những xung điện báo về não bộ vài khía cạnh về bản tính của nó dưới dạng các thông điệp mã hoá tới các tế bào chất xám của vỏ đại não. Tại đó, một cơ quan kiểm duyệt sẽ quyết định liệu thông tin nhận được có đáng cho chủ thể chú ý hay không, và nếu có, thì bao nhiêu và những khía cạnh nào của nó sẽ được cho phép đi qua. Sự tiếp nhận của chủ thể đối với đối tượng “cỏ” sẽ tùy thuộc vào việc nó đến với y qua tri nhận thị giác hay được nghe phát âm là “cỏ” trên đài phát thanh, v.v. Sự ghi nhận sau cùng một hình ảnh về cỏ trong tâm thức y chắc chắn sẽ rất khác với sự ghi nhận ở một người khác. Cái nào là thực hơn? Yếu tố ở ngoài kia là cỏ, phù du, luôn biến hoá (từ xuân qua thu) hay “hình ảnh” nội tại có thể được lưu giữ lâu sau khi đám cỏ đã tàn lụi và được dùng để diễn giải các bãi cỏ khác hiện vào tâm thức. Người thiên về khách quan sẽ luôn thiên về cái trước, còn người có khuynh hướng nội tâm hay chủ quan sẽ nắm giữ cái sau.

Hence the duality arising out of subject and object. Then, of course, in the same world of ideas that ultimately perceives grass (as an idea) there are many ideas which need not necessarily have had a direct outer stimulus. They go on forming and reforming long after the grass is dead…and the exotericists will aver, long after death and, in fact, between lives, especially with those who have gained continuity of consciousness. Substituting a tree for the grass:

Vậy nên nảy sinh nhị nguyên từ chủ thể và đối tượng. Rồi, dĩ nhiên, trong cùng thế giới của các ý niệm — nơi rốt cuộc tri nhận được cỏ (như một ý niệm) — có nhiều ý niệm vốn không nhất thiết phải có một kích thích ngoại giới trực tiếp nào. Chúng tiếp tục hình thành và tái hình thành lâu sau khi đám cỏ đã chết … và những người ngoại môn sẽ quả quyết, là còn tiếp tục lâu sau khi chết và, thực ra, giữa các kiếp, nhất là với những ai đã đạt tính liên tục của tâm thức. Thay một cái cây vào chỗ đám cỏ:

‘If all I can know is some modification of my own interior processes, if that tree out there is only an ‘idea’ in my mind, then it logically follows that the eye that sees that tree is only ‘an idea of a eye’ and by ‘an idea of an optic nerve,’ etc., etc. We are convivially seated at the Mad Hatter’s Tea Party … — Thou Eye Among the Blind, by Arnold Freeman.

“Nếu tất cả những gì tôi có thể biết chỉ là vài biến đổi của các tiến trình nội tâm của chính mình, nếu cái cây ở ngoài kia chỉ là một ‘ý niệm’ trong trí tôi, thì suy ra một cách lôgic rằng con mắt thấy cái cây ấy chỉ là ‘một ý niệm về con mắt’, và bởi ‘một ý niệm về thần kinh thị giác’, v.v., v.v. Chúng ta đang vui vẻ ngồi trong Bữa Trà của Gã Đội Mũ Điên …” — Hỡi Con Mắt giữa Kẻ Mù , của Arnold Freeman.

The objective world has its place, as important in the long road taken by the monad as that of the subjective world. The former acts as a target for the expression of desires, drives which must be exhausted before detachment is achieved and the treading of the Path through the subjective worlds is permitted.

Thế giới khách quan có chỗ đứng của nó, quan trọng trên lộ trình dài mà chân thần đi qua không kém gì thế giới chủ quan. Cái trước hoạt động như một bia đỡ cho sự biểu lộ của các dục vọng, các xung lực phải được tiêu trừ trước khi đạt tới sự tách rời và việc bước trên Thánh Đạo xuyên qua các thế giới chủ quan được cho phép.

The diagram below of the Spiral of Consciousness illuminates the matter somewhat. In the initiate, the spiral finally ends after passing up the spine and entering the sacred square inch between the brows where lies Ajna, the Brow Chakra, the last spiral of all. Perfection lies beyond.

Sơ đồ dưới đây của Xoắn Ốc Tâm Thức phần nào soi sáng vấn đề. Ở nơi điểm đạo đồ, vòng xoắn cuối cùng kết thúc sau khi đi lên theo cột sống và tiến vào “tấc vuông thiêng liêng” giữa hai chân mày, nơi có ajna, Luân xa Trán — vòng xoắn cuối cùng của tất cả. Sự toàn thiện nằm ở phía bên kia.

00006.jpeg

The collective unconscious is part of the subjective world. Of it Jung wrote:

Vô thức tập thể là một phần của thế giới chủ quan. Về nó, Jung đã viết:

‘Just as the human body shows a common anatomy over and above all racial differences, so too, does the psyche possess a common substratum. I have called the latter the collective unconscious. As a common human heritage it transcends all differences of culture and consciousness and does not consist merely of contents capable of becoming conscious, but in latent dispositions towards identical reactions. Thus the fact of the collective unconscious is simply the psychic expression of identity of brain structure irrespective of all racial differences. By its means can be explained the analogy, going even as far as identity, between various myth-themes and symbols, and the possibility of human understanding in general. The various lines of psychic development start from one common stock whose roots reach back into the past. Here too lies the psychological parallelism with animals.

“Cũng như thân thể con người biểu lộ một giải phẫu chung vượt lên trên tất cả dị biệt chủng tộc, thì tâm thể cũng sở hữu một nền tảng chung. Tôi gọi cái sau là vô thức tập thể. Như một di sản chung của nhân loại, nó vượt khỏi mọi khác biệt về văn hoá và tâm thức, và không chỉ gồm những nội dung có khả năng trở thành ý thức, mà còn là những thiên hướng tiềm phục hướng tới những phản ứng giống nhau. Vậy nên, thực tại của vô thức tập thể đơn giản là biểu hiện tâm lý của sự đồng nhất trong cấu trúc não bộ bất kể mọi khác biệt chủng tộc. Nhờ nó, có thể giải thích được tính tương đồng, thậm chí đến mức đồng nhất, giữa các chủ đề và biểu tượng huyền thoại khác nhau, và cũng nhờ nó mà có khả năng hiểu biết lẫn nhau nói chung giữa con người. Các tuyến phát triển tâm lý khác nhau đều khởi đi từ một gốc chung, mà rễ bám sâu vào quá khứ. Ở đây cũng nằm sự song hành tâm lý với loài vật.

‘Taken purely psychologically, it means that we have common instincts of ideation (imagination), and of action. All conscious imagination and action have grown up out of these unconscious prototypes, and remain bound up with them. Especially is this the case when consciousness has not attained any high degree of clarity, that is, when, in all its functions, it is more dependent on the instincts than on the conscious will, more governed by affect than by rational judgement. This condition ensures a primitive health of the psyche, which, however, immediately becomes lack of adaptiveness as soon as there arise circumstances that call for a higher moral effort. Instincts suffice only for a nature which, on the whole, remains on one level. ‘

“Nếu xét thuần túy về mặt tâm lý, điều đó có nghĩa là chúng ta có những bản năng chung về tư tưởng (sự tưởng tượng) và hành động. Mọi tưởng tượng và hành động có ý thức đều đã lớn lên từ những nguyên mẫu vô thức này, và vẫn còn gắn chặt với chúng. Điều này đặc biệt đúng khi tâm thức chưa đạt đến một cấp độ sáng tỏ cao, tức là khi, trong mọi chức năng của nó, nó còn lệ thuộc nhiều hơn vào các bản năng hơn là vào ý chí có ý thức, chịu chi phối bởi xúc cảm nhiều hơn là bởi phán đoán lý tính. Tình trạng này đảm bảo một sức khỏe nguyên thủy cho tâm thể, vốn, tuy vậy, lập tức trở thành thiếu thích nghi ngay khi phát sinh những hoàn cảnh đòi hỏi một nỗ lực đạo đức cao hơn.

‘An individual who is guided more by unconscious choice than by the conscious one, tends therefore towards outspoken psychic conservatism. This is the reason the primitive does not change in the course of thousands of years, and it is also the cause of his fearing everything strange and unusual. Were he less conservative, it might lead to maladaptation, and thus to the greatest of psychic dangers, namely a kind of neurosis. A higher and wider consciousness which only comes by means of assimilating the unfamiliar, tends towards autonomy, towards revolution against the old gods who are nothing other than those powerful, unconscious, primordial images which, up to this time, have held consciousness in thrall.’

“Một cá nhân được dẫn dắt bởi những chọn lựa vô thức nhiều hơn là có ý thức, vì vậy có khuynh hướng đi tới một bảo thủ tâm lý lộ liễu. Đây là lý do vì sao người nguyên thuỷ không thay đổi qua hàng ngàn năm, và cũng là nguyên nhân khiến họ sợ mọi điều lạ và bất thường. Nếu họ bớt bảo thủ, điều đó có thể dẫn đến sự kém thích nghi, và như vậy đến mối nguy tâm lý lớn nhất, tức một dạng loạn thần kinh nào đó. Một tâm thức cao rộng hơn, vốn chỉ đến nhờ việc đồng hoá cái xa lạ, có khuynh hướng hướng tới tính tự trị, hướng tới sự nổi dậy chống lại các thần cũ, là những gì chẳng qua là các hình ảnh nguyên sơ, vô thức, hùng mạnh vốn cho đến nay đã giam hãm tâm thức”.

The Esoteric View

Cái nhìn Nội môn

For a great period of Man’s history he existed as an astral entity. Anthropogenesis reveals this to be many hundreds of millions of years. The formation of his physico-etheric mechanism was much more recent. With the functioning of a physical brain, consciousness became more concerned with the objective, physical realm. The attention he gave to his astral environment, which had been his concern for so many centuries, was now more tenuous. He had less and less access to it and lost the organs of psychic perception which had enabled him to give his attention to the astral world. In this is the origin of the teachings concerning the ‘fall’ of Man.

Trong một giai đoạn dài của lịch sử Con người, y tồn tại như một thực thể cảm dục. Sự phát sinh nhân loại cho thấy điều này kéo dài nhiều trăm triệu năm. Sự hình thành bộ máy hồng trần-dĩ thái của y thì gần đây hơn nhiều. Với sự hoạt động của bộ não thể chất, tâm thức trở nên quan tâm hơn tới cõi khách quan, vật chất. Sự chú ý mà y dành cho môi trường cảm dục của mình — vốn từng là mối quan tâm qua bao thế kỷ — nay trở nên lỏng lẻo hơn. Y càng lúc càng ít tiếp cận được nó và đánh mất các cơ quan tri giác thông linh từng cho phép y chú tâm tới thế giới cảm dục. Ở đây là nguồn gốc của giáo lý về “sự sa ngã” của Con người.

The Garden of Eden was the hyperborean continent lived in by earliest Man, who at that time was using a purely etheric body as his outer casing. That continent, as the name suggests, lay to the north, rarely spilling further south than what we now call, in geographical terms, the Tropic of Cancer, though it is unwise to relate the hyperborean region to any land masses for they were very different in those times.

Vườn Eden là lục địa Hyperborea mà Con người thuở sơ khai cư trú, khi ấy y dùng một thể thuần dĩ thái làm vỏ ngoài. Lục địa ấy, như tên gọi gợi ý, nằm ở phương bắc, hiếm khi tràn xuống phương nam quá cái mà hiện nay chúng ta gọi — theo thuật ngữ địa lý — là Chí tuyến Bắc, dù thật không khôn ngoan khi quy vùng Hyperborea vào bất kỳ khối lục địa nào, vì thời ấy các lục địa rất khác bây giờ.

For many glorious millennia, Man was able to reach to the upper subplanes of the etheric, astral and mental sheaths of globes that still interpenetrate our Earth globe. Thus, Man co-mingled with divine entities who used those subtle sheaths of our globe as part of their own higher round of evolution wherein they did not need gross material forms.

Trong nhiều thiên kỷ huy hoàng, Con người có thể vươn đến các cõi phụ thượng của các bao thể dĩ thái, cảm dục và trí tuệ của những bầu hành tinh vẫn còn xuyên nhiễm bầu Địa Cầu của chúng ta. Như thế, Con người đã đồng giao với các thực thể thiêng liêng dùng những bao thể vi tế ấy của bầu hành tinh như một phần trong vòng tiến hoá cao hơn của chính họ, nơi họ không cần đến các hình thể vật chất thô trược.

But as the form of divine Man grossened, he progressively lost contact with the celestial regions and their inhabitants for his path on Earth was still downwards on the involutionary arc. This was the ‘Fall.’ The relevance of it to the subject of consciousness now becomes clear.* These early astro-mental experiences, tinged so strongly with the energies related to those planes lie deep within the human race’s memory. They were once part of a common experience shared by all men. Parts of it are divine, in the sense that there remain archetypal patterns of energy of the quality of higher manas or abstract thought and there are also energies which are on lower planes other than those of Manas, Buddhi and Atma.

Nhưng khi hình tướng của Con Người thiêng liêng trở nên ngày càng thô nặng, y dần dần mất liên lạc với các cõi thiên không và cư dân của chúng, vì con đường của y trên Địa Cầu vẫn còn đi xuống theo cung giáng hạ tiến hoá. Đó là “Sự Sa ngã”. Liên hệ của nó với đề tài tâm thức giờ đây trở nên rõ ràng.* Những kinh nghiệm cảm-trí thuở xa xưa này, nhuốm đậm các năng lượng thuộc về những cõi ấy, nằm sâu trong ký ức của nhân loại. Chúng từng là một phần của kinh nghiệm chung nơi mọi người. Có phần là thiêng liêng, theo nghĩa rằng vẫn còn các mô thức nguyên mẫu của năng lượng mang phẩm tính của thượng trí hay tư tưởng trừu tượng; và cũng có các năng lượng thuộc những cõi thấp hơn, khác với các cõi của Manas, Bồ đề và Atma.

* The student would find it profitable to refer to Anthropogeny, by the author, a short work on Man’s origin.

* Đạo sinh sẽ thấy hữu ích khi tham khảo Sự phát sinh nhân loại của tác giả, một trước tác ngắn về nguồn gốc Con người.

In certain circumstances, these energy patterns, both the upper and the lower, surface into Man’s consciousness and provide him with instinctual reactions to appropriate stimuli. So long has Man been separated from them that the symbols through which they express themselves in his consciousness often seem far removed from their energy content. Together, they form what Jung called the ‘collective unconscious’ and which Rupert Sheldrake is beginning to describe as ‘morphogenic fields’. Jung studied alchemical texts along philological lines, as if they were in an unknown language, and in so doing he discovered that:

Trong những hoàn cảnh nhất định, các mô thức năng lượng này — cả thượng lẫn hạ — nổi lên trong tâm thức Con người và cung cấp cho y các phản ứng theo bản năng trước những kích thích tương hợp. Con người đã bị tách xa chúng quá lâu đến nỗi các biểu tượng qua đó chúng biểu lộ trong tâm thức y thường có vẻ xa vời với năng lượng nội dung của chúng. Cùng với nhau, chúng tạo nên điều mà Jung gọi là “vô thức tập thể” và điều mà Rupert Sheldrake bắt đầu mô tả như “các trường hình thái sinh”. Jung đã khảo cứu các văn bản giả kim theo đường hướng ngữ văn, như thể đó là một ngôn ngữ chưa biết, và khi làm thế, ông khám phá rằng:

‘The experiences of the alchemists were in a sense, my experience, and their world was my world …. I had stumbled on the historical counterpart of my psychology of the unconscious. The possibility of a comparison with alchemy, and the uninterrupted intellectual chain back to Gnosticism, gave substance to my psychology’.—Memories, Dreams and Reflections, by Carl Jung.

“Các kinh nghiệm của các nhà giả kim theo một nghĩa nào đó cũng là kinh nghiệm của tôi, và thế giới của họ là thế giới của tôi … Tôi đã chạm vào đối phần lịch sử của nền tâm lý vô thức của mình. Khả năng so sánh với giả kim, và chuỗi trí tuệ không đứt đoạn kéo về đến thuyết Ngộ đạo, đã trao cho nền tâm lý học của tôi chất liệu.” — Hồi ức, Giấc mơ và Suy tưởng , của Carl Jung.

Alchemy provides the key to Jung’s concept of the collective unconscious—unconscious fantasies are universal and can appear in any age and more or less in any form. At the same time, the Wisdom of the Ages, an integral part of gnosticism, as the author interprets it, distinguishes a collective superconscious from the collective unconscious in that those symbols that are energised from planes higher than the fourth sub-plane of the mental, i.e. the manasic, buddhic and atmic are part of the former. They are on the evolutionary arc towards which Man is only now beginning to grope and they are sought out, identified and increasingly incorporated into the spiralling consciousness of the pupil in that psychological approach which some of Jung’s followers call the ‘individuation process’:

Giả kim thuật cung cấp chìa khóa cho khái niệm vô thức tập thể của Jung — các mộng tưởng vô thức là phổ quát và có thể xuất hiện ở bất kỳ thời đại nào và hầu như dưới bất cứ hình thức nào. Đồng thời, Minh Triết Ngàn Đời — một phần cấu thành của thuyết Ngộ đạo theo cách hiểu của tác giả — phân biệt một siêu thức tập thể với vô thức tập thể ở chỗ: những biểu tượng được tiếp năng lượng từ các cõi cao hơn cõi phụ thứ tư của cõi trí, tức là manas, bồ đề và atma, thuộc về cái trước. Chúng ở trên cung tiến hoá mà Con người hiện chỉ mới bắt đầu dò dẫm hướng tới, và chúng được tìm kiếm, nhận diện, rồi ngày càng được dung nhiếp vào tâm thức xoắn ốc của môn sinh trong cách tiếp cận tâm lý mà vài người theo Jung gọi là “tiến trình cá thể hoá”:

‘The individuation process is sometimes described as a psychological journey… a truer description would be that of a spiral. In this journey the traveller must first meet his shadow … There is no wholeness without recognition of the opposites. He will meet, too, with the archetypes of the collective unconscious, and face the danger of succumbing to their peculiar fascination. If he is fortunate he will in the end find the treasure hard to attain, the diamond body, the Golden Flower, the lapis, or whatever name or guise have been chosen to designate the archetype of wholeness, the Self.’—An Introduction to Jung’s Psychology, by Frieda Fordham.

“Tiến trình cá thể hoá đôi khi được mô tả như một cuộc hành trình tâm lý… nhưng mô tả đúng hơn là một xoắn ốc. Trong hành trình ấy, khách lữ hành trước hết phải gặp cái bóng của mình … Không có sự trọn vẹn nếu không thừa nhận các đối cực. Y cũng sẽ gặp các nguyên mẫu của vô thức tập thể, và đối diện với hiểm nguy bị cuốn hút bởi sức quyến rũ đặc thù của chúng. Nếu may mắn, rốt cuộc y sẽ tìm thấy báu vật khó đạt: thân kim cương, Kim Hoa, đá lam, hay bất cứ tên gọi hay dáng vẻ nào được chọn để chỉ nguyên mẫu của sự trọn vẹn — Tự Ngã.” — Nhập môn Tâm lý học Jung , của Frieda Fordham.

Each Lord of a Ray is an archetype. As a Ray surges into individual manifestation, elements of His nature surface as Ray qualities in all kingdoms. The almost rapid effacement of blue flowers at this time, the resurgence of hot summers in Europe and the subtle changes in human form reflect archetypal patterns of Heavenly Men surfacing on Globe D of the Earth Chain in the present moment of time. Truth, Beauty and Goodness are reflections of archetypes. The qualities embodied in a truth, sustained by time (depicted below) result from a blending of the same order of the archetypes of Oneness. Ancient myths give many examples of these high archetypes.

Mỗi Đấng Chúa Tể của một Cung là một nguyên mẫu. Khi một Cung dâng trào vào hiện thể cá nhân, các yếu tố thuộc bản tính của Ngài nổi lên như những phẩm tính Cung trong mọi giới. Sự mai một gần như nhanh chóng của hoa lam vào thời điểm này, sự trở lại của những mùa hè nóng ở châu Âu và những thay đổi vi tế trong hình thể con người phản ánh các mô thức nguyên mẫu của các Đấng Thiên Nhân đang nổi lên trên Bầu D của Dãy Địa Cầu trong khoảnh khắc hiện tại của thời gian. Chân, Thiện, Mỹ là các phản chiếu của những nguyên mẫu. Các phẩm tính hàm chứa trong một chân lý, được thời gian nâng đỡ (biểu đồ bên dưới) là kết quả của một sự hòa trộn cùng cấp bậc của các nguyên mẫu của Nhất Thể. Các thần thoại cổ xưa đưa ra nhiều thí dụ về những nguyên mẫu cao cả này.

00011.jpeg

The esoteric sciences do not consider the energies reflected from archetypes are haphazard, merely surfacing into the consciousness of organisms where they can. Whereas in primitive organisms the archetypal patterns hovering over the species guides them through instincts towards expression, survival, expansion and diversity, the more developed the species and the more specialised, or the more they tend towards individualisation, the less autonomic response is there to archetype direction.

Các khoa học nội môn không xem những năng lượng phản chiếu từ các nguyên mẫu là ngẫu hứng, chỉ đơn thuần nổi lên trong tâm thức của các sinh thể ở đâu tuỳ tiện. Trong các sinh thể nguyên thủy, các mô thức nguyên mẫu lơ lửng bên trên loài dẫn dắt chúng — qua các bản năng — hướng tới biểu lộ, sinh tồn, nới rộng và đa dạng. Loài càng phát triển và càng chuyên biệt, hay càng hướng tới biệt ngã hóa, thì phản ứng tự động đối với sự dẫn dắt của nguyên mẫu càng giảm.

Within the human kingdom this repeats itself. The archetypes permit, even encourage the most primitive, unspecialised types, only comparatively recently individualised, into paths that lead to increasing enmeshment with material factors. Putting it theosophically, the Monad, to gain spiritual staying power must first encourage its lower triad into full engagement or an involvement in a physical body that is entirely objective-directed towards the objective world.

Trong giới nhân loại, điều này tái diễn. Các nguyên mẫu cho phép, thậm chí khuyến khích những loại người nguyên sơ nhất, ít chuyên biệt nhất — mới biệt ngã hóa tương đối gần đây — đi vào các nẻo dẫn đến sự mắc kẹt ngày càng tăng vào các yếu tố vật chất. Nói theo ngôn ngữ Thông Thiên Học, để đạt sức bền tinh thần, Chân Thần trước hết phải khích lệ tam phân thấp của mình dấn thân trọn vẹn, tức tham dự vào một thể xác hoàn toàn hướng-đến-khách-quan, quay về thế giới khách quan.

All archetypal energies assist, at this stage of human unfoldment, to channel what could be described as the blind driving force of Desire. For the masses of mankind, this situation dominates today. Current psychology divides basic desire or its drives into four categories:

Tất cả các năng lượng nguyên mẫu, ở giai đoạn này của sự khai mở nhân loại, đều trợ giúp trong việc dẫn lưu cái có thể được mô tả là lực thúc mù quáng của Dục vọng. Đối với quần chúng nhân loại, tình thế ấy đang chi phối ngày nay. Tâm lý học hiện nay phân chia dục vọng cơ bản hay các xung lực của nó thành bốn loại:

(1) The desire for response

(1) Dục vọng được đáp ứng

(2) The desire for new experience

(2) Dục vọng kinh nghiệm mới

(3) The desire for recognition

(3) Dục vọng được thừa nhận

(4) The desire for security

(4) Dục vọng an ninh

Elsewhere, I have given the astrological relationships of these drives and related them to karma and the Wheel of Rebirth, to other aspects of metempsychosis, to the unfoldment of petals in the lotus of the Inner Self and to the ways in which desire is transmuted into aspiration. Man at this stage of his development is a puppet on a string. The four drives manipulate him endlessly and he dances out his days in a half-sleep state on the stage of maya. His scene and the length of his appearance are set by the qualities of his desires—birds of a feather flock together—and by the extent of his karma.

Ở nơi khác, tôi đã nêu các liên hệ chiêm tinh của những xung lực này và liên hệ chúng với nghiệp quả và Bánh xe Tái sinh, với các phương diện khác của luân hồi chuyển sinh, với sự khai mở các cánh hoa trong đóa sen của Tự Ngã Bên Trong, và với các cách thức mà dục vọng được chuyển hoá thành nguyện vọng. Con người ở giai đoạn phát triển này là một con rối trên dây. Bốn xung lực điều khiển y không ngừng, và y múa giật giây qua những ngày tháng nửa tỉnh nửa mê trên sân khấu của ảo lực. Bối cảnh của y và độ dài thời gian xuất hiện của y được ấn định bởi phẩm chất dục vọng của y — “ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” — và bởi tầm mức nghiệp quả của y.

00014.jpeg

Edward Dewey writes forcefully on how cycles of influences thrust Man into the position of a puppet:

Edward Dewey viết một cách mạnh mẽ về cách các chu kỳ ảnh hưởng xô đẩy Con người vào vị thế của một con rối:

‘Man is swiftly approaching a point in time when he will be confronted with what may be a basic secret of nature, for the evidence is mounting that we are surrounded by cyclic forces, of which, as yet, we know almost nothing. * These forces bounce us like marionettes on a string. They make us fight; they make us love. And all the while we think we are doing these things solely for rational reasons.

“Con người đang nhanh chóng tiến đến một điểm trong thời gian khi y sẽ đối mặt với điều có thể là một bí mật cơ bản của tự nhiên, vì bằng chứng đang gia tăng rằng chúng ta bị bao quanh bởi những lực chu kỳ mà đến nay ta hầu như chẳng biết gì. * Những lực này nảy chúng ta như những con rối có dây. Chúng làm chúng ta đánh nhau; chúng làm chúng ta yêu nhau. Và suốt thời gian ấy, chúng ta tưởng rằng mình làm những điều đó hoàn toàn vì các lý do hợp lý.

* (Author’s footnote) Mainly because they lie in what the esoteric teachings call ‘subtle matter’ and what science terms ‘Dark matter’, which is the present object of research of contemporary astronomers.

* (Chú thích của tác giả) Chủ yếu bởi vì chúng nằm trong cái mà các giáo huấn nội môn gọi là ‘chất vi tế’ và cái mà khoa học gọi là ‘Vật chất tối’, hiện đang là đối tượng nghiên cứu của các nhà thiên văn đương đại.

‘This is an unsettling concept. It ranks with the discovery that the Earth is not the center of the universe, that Man is not a special creature but has roots in the animal kingdom from which he developed, or that many of Man’s actions result from subconscious loves and hates of which he is ordinarily ignorant.

“Đây là một ý niệm gây xao động. Nó ngang hàng với khám phá rằng Trái Đất không phải là trung tâm vũ trụ, rằng Con người không phải là một sinh vật đặc biệt mà có nguồn gốc trong giới động vật từ đó y phát triển, hoặc rằng nhiều hành vi của Con người xuất phát từ những yêu ghét vô thức mà bình thường y không hay biết.

‘Since it is demeaning to his self-esteem, it is perfectly understandable that Man should resist any hypothesis that holds that his life and his universe vibrate in rhythms that are regular and at least partially predictable and are caused by a force or forces still unknown and possibly uncontrollable by him.

“Bởi vì điều này làm hạ thấp lòng tự tôn của y, hoàn toàn dễ hiểu khi Con người kháng cự bất kỳ giả thuyết nào cho rằng đời sống và vũ trụ của y rung động trong những nhịp điệu đều đặn và ít nhất phần nào có thể tiên đoán, và được gây nên bởi một hoặc nhiều lực vẫn chưa được biết và có thể không thể kiểm soát bởi y.

‘Nevertheless, the evidence that Man is not one step down from the angels, sublimely in command of himself and his world, continues to accumulate. He is more like a character in a Punch and Judy show, pulled this way and that by environmental forces. And he will continue to be so manipulated until he solves the mystery of these forces. Only then will he be able to cut the strings and become himself’.—Cycles: The Mysterious Forces that Trigger Events, by Edward R. Dewey, Hawthorn Books Inc., N.Y.

“Tuy vậy, bằng chứng rằng Con người không phải chỉ kém thiên thần một bậc, đường bệ chỉ huy bản thân và thế giới của mình, vẫn tiếp tục tích lũy. Y giống như một nhân vật trong vở rối Punch and Judy, bị kéo chỗ này chỗ kia bởi các lực môi trường. Và y sẽ còn tiếp tục bị thao túng như thế cho đến khi y giải quyết được bí ẩn của những lực này. Chỉ khi đó y mới có thể cắt dây và trở thành chính mình.” — Chu kỳ: Những Mãnh lực Huyền bí Kích hoạt các Biến cố , của Edward R. Dewey, Hawthorn Books Inc., N.Y.

The trained occultist always tries to see phenomena, even the phenomenon of consciousness, in terms of the energies at play, for by definition, the occultist is the one who deals with the hidden forces of nature and all disciples, even the most mystical, must deal with these energies. Ancient Wisdom has always taught that all things, animate or inanimate can be reduced to energy manifesting at various vibrations. Every object has its vibratory note. Man has his note which he must identify, purify and amplify on the Path of Discipleship, or Self Knowledge.

Nhà huyền bí học được rèn luyện luôn cố gắng nhìn hiện tượng — kể cả hiện tượng tâm thức — theo các năng lượng đang vận hành, vì theo định nghĩa, nhà huyền bí học là người đề cập đến các mãnh lực ẩn tàng của thiên nhiên, và mọi đệ tử, dù huyền nhiệm đến mấy, cũng phải đối diện với các năng lượng ấy. Minh triết cổ xưa luôn dạy rằng mọi sự — hữu sinh hay vô sinh — đều có thể quy về năng lượng biểu lộ ở các tần số rung khác nhau. Mọi vật đều có âm điệu rung động của nó. Con người có âm điệu của y, mà y phải nhận ra, thanh luyện và khuếch đại trên Con Đường Đệ Tử, tức Tự Tri.

The parts of Man have their notes too and these include the astral, etheric and mental bodies. It is science itself that is confirming the Teachings of the Ages at this time rather than the various religions, for this is the Age of Aquarius in which Man is led to Know rather than to believe. Einstein, with his famous equation, and nuclear fission, that led directly from it, and the ending of wars which proceeded out of both, have, more than any prophet, demonstrated the truth of these ancient propositions. Matter can exist as energy and energy can exist as matter. It is as simple as that.

Các phần của Con người cũng có âm điệu riêng và trong đó bao gồm các thể cảm dục, dĩ thái và trí tuệ. Chính khoa học đang xác nhận lúc này các Giáo huấn của Ngàn Đời hơn là các tôn giáo khác nhau, vì đây là Kỷ nguyên Bảo Bình, trong đó Con người được dẫn dắt để Biết hơn là để tin. Einstein, với phương trình nổi tiếng của ông, và sự phân hạch hạt nhân — phát sinh trực tiếp từ nó — và việc kết thúc các cuộc chiến đã diễn tiến từ cả hai, đã, hơn bất kỳ vị tiên tri nào, chứng minh chân lý của những mệnh đề cổ xưa này. Vật chất có thể hiện hữu như năng lượng, và năng lượng có thể hiện hữu như vật chất. Chỉ đơn giản vậy thôi.

00016.jpeg

With this in mind we can look at holistic Man with better understanding (and the pupil should always try to do just that). At one end of the spectrum of his various vehicles, we find him existing as pure energy and, at the other end, as gross material substance. His consciousness can, when he is fully awake, express itself through a whole range of vehicles from the physical body and brain at one end through the etheric, astral and mental vehicles, to the other pole of his holistic being which is constituted of spiritual energies of atma, buddhi and manas, and totally arupic i.e. without form. We symbolise atma-buddhi-manas with an upright, equilateral triangle. It is around this triad that the Inner or Higher Self integrates its lotus through many lives. This higher triad is the mechanism of the monad for coming into contact with the higher planes of manifestation. The inverted triangle is the symbol of the personality, the agglomeration of physico-etheric, astral and mental bodies.

Với điều này trong tâm, chúng ta có thể nhìn vào Con người toàn thể với sự thấu hiểu tốt hơn (và môn sinh luôn nên cố gắng làm điều đó). Ở một đầu của quang phổ các vận cụ, ta thấy y hiện hữu như năng lượng thuần tuý, còn ở đầu kia, như chất thể thô trược. Khi hoàn toàn tỉnh thức, tâm thức y có thể biểu lộ qua cả một dải vận cụ, từ thân và bộ não hồng trần ở một đầu, qua các thể dĩ thái, cảm dục và trí tuệ, đến cực kia của hiện hữu toàn thể của y vốn được cấu thành bởi các năng lượng tinh thần của atma, bồ đề và manas, hoàn toàn vô sắc, tức là không có hình tướng. Chúng ta biểu trưng atma-bồ đề-manas bằng một tam giác đều dựng đứng. Chung quanh tam nguyên cao này, Tự Ngã Bên Trong hay Chân Ngã tích hợp hoa sen của mình qua nhiều kiếp. Tam nguyên cao này là cơ chế của chân thần để tiếp xúc với các cõi biểu lộ cao hơn. Tam giác đảo ngược là biểu tượng của phàm ngã, tức khối tụ các thể hồng trần-dĩ thái, cảm dục và trí tuệ.

Consciousness may shift from one body to another or reside in all three at once but almost invariably dwells in the material end of the spectrum of bodies. This is true for the savage whereas in an advanced person there is a shift in the opposite direction into the abstract realms of atma-buddhi-manas. The reinforcement of the Sutratma that links upper and lower triads leads to the construction, wilfully in Pupilage, of the Antakarana, the ‘rainbow bridgehead’.

Tâm thức có thể chuyển từ thể này sang thể khác, hoặc cư trú đồng thời trong cả ba, nhưng hầu như luôn an trụ ở đầu vật chất của quang phổ các thể. Điều này đúng với người dã man, trong khi ở người tiên tiến có một sự chuyển dịch theo chiều ngược lại vào các cảnh giới trừu tượng của atma-bồ đề-manas. Sự gia cường sinh mệnh tuyến (Sutratma) nối tam nguyên thượng và hạ dẫn tới việc kiến tạo — một cách hữu ý trong bậc Môn sinh — antahkarana, tức “đầu mối của Cây cầu vồng”.

This link between the upper and lower Man, channels increasingly the forces of the inner Self into the aura of the personality, suffusing it with spiritual qualities. In ordinary Man, the influx of higher energies into the aura is barely operational, perhaps only some five per cent of capacity. Pupilage enlarges the Antakarana and opens the floodgate of spiritual energies which lie in that reservoir we regard as the Soul or Inner Self.

Mối nối giữa phần cao và phần thấp của con người này ngày càng dẫn lưu các lực của Tự Ngã vào hào quang của phàm ngã, thấm nhuần nó bằng các phẩm tính tinh thần. Ở nơi người thường, sự tuôn đổ của các năng lượng cao vào hào quang hầu như không hoạt động, có lẽ chỉ khoảng năm phần trăm công suất. Bậc Môn sinh mở rộng antahkarana và mở cổng lũ cho các năng lượng tinh thần vốn nằm trong hồ chứa mà chúng ta xem là Linh hồn hay Tự Ngã Bên Trong.

In the long course of its spiritual evolution, the Self will call upon many lives on Earth in which to express itself with the Rays of the upper and lower triads changing again and again. In this respect, the Higher Self acts as a sort of prism, flashing the originating energies of the monad through its mechanisms right down to the level of the physical body. At first, they assist, as archetypes, to anchor the awareness of savage Man in his objective world. Later, through their effect on the astral nature of the person, all that can be experienced in the objective world through desire, is absorbed into the personality.

Trong tiến trình dài của sự tiến hoá tinh thần, Tự Ngã sẽ kêu gọi nhiều kiếp sống trên Địa Cầu để biểu lộ mình, với các Cung của tam nguyên thượng và hạ đổi thay hết lần này đến lần khác. Ở phương diện này, Chân Ngã hoạt động như một dạng lăng kính, chiếu loé các năng lượng phát khởi từ chân thần qua các cơ chế của nó xuống tận cấp độ thể xác. Lúc ban đầu, chúng trợ giúp — như các nguyên mẫu — để neo chặt sự nhận biết của Con người dã man vào thế giới khách quan của y. Về sau, qua ảnh hưởng của chúng lên bản tính cảm dục của người ấy, tất cả những gì có thể kinh nghiệm trong thế giới khách quan nhờ dục vọng được hấp thu vào phàm ngã.

00018.jpeg

Still later, with the help of the Monadic Ray itself, there comes withdrawal from the world of form and a changing of desire into aspiration. The illustration below of the ‘Spectrum of Bodies’, shows in colour and diagrammatically the qualities of experience he must pass through on his journey of return to the monad, and the energies of the Self which must be centred in the head region embracing the nascent centres of force which we call Alta Major, Ajna and Sahasrara. At the core of each of these lie the uncut jewels of the Soul’s lotus. Many lives will be required in incarnation to bring them to their full brilliance, to release their splendour and to allow their latent powers to manifest.

Trễ hơn nữa, với sự trợ giúp của chính Cung Chân Thần, xảy ra sự rút lui khỏi thế giới hình tướng và sự chuyển đổi dục vọng thành nguyện vọng. Minh hoạ dưới đây về “Phổ của các Thể” biểu thị bằng màu sắc và đồ hình các phẩm chất kinh nghiệm mà y phải đi qua trên hành trình trở về với chân thần, và các năng lượng của Tự Ngã phải được quy tâm về vùng đầu, bao gồm các trung tâm lực đang tượng hình mà chúng ta gọi là Alta Major, Ajna và Sahasrara. Ở lõi của mỗi trung tâm này nằm những viên ngọc chưa cắt giũa của đoá sen Linh hồn. Nhiều kiếp lâm phàm sẽ cần thiết để đưa chúng đến độ rực rỡ viên mãn, phát lộ huy hoàng của chúng và cho phép các quyền năng tiềm tàng của chúng hiển lộ.

The combination of Ray energies are almost infinite as they play through Man’s bodies. Through the various components of the Mineral Kingdom only one Ray flows at a time, making the gemstone the purest (and therefore most powerful) expression of any particular Ray. Through organisms of the Plant Kingdom, two Rays manifest and through the animals of their own kingdom, three Rays. In average Man there are five functioning chakras which channel the Ray energies and these are increased in number to six in the initiate and to seven in a Master of the Wisdom. In addition, Man’s five bodies each respond to a Ray, i.e.,

Sự phối hợp các năng lượng Cung gần như vô tận khi chúng chơi qua các thể của Con người. Trong các thành phần khác nhau của Giới Khoáng, chỉ một Cung chảy qua vào một thời điểm, khiến cho đá quý trở thành biểu hiện tinh ròng nhất (và vì vậy mạnh nhất) của bất kỳ Cung nào. Trong các sinh thể của Giới Thực vật, hai Cung biểu lộ; và qua các loài của Giới Động vật, ba Cung. Ở nơi người trung bình có năm luân xa hoạt động dẫn lưu các năng lượng Cung; con số này tăng lên sáu ở nơi điểm đạo đồ và bảy ở nơi một Chân sư của Minh triết. Thêm vào đó, năm thể của Con người mỗi thể đáp ứng với một Cung, tức :

The Soul

Linh hồn

The Personality

Phàm ngã

The Mental Body

Thể Trí

The Astral Body

Thể Cảm dục

The Etherico- Physical Body.

Thể Dĩ thái – Hồng trần.

The chart below of ‘Man’s Bodies Expressing the Rays’ gives the percentages of bodies as at the period commencing 1975 and the Rays they express. (See also Esoteric Psychology by the author).

Bảng “Các Thể của Con người Biểu lộ các Cung” dưới đây đưa ra tỷ lệ phần trăm của các thể vào thời kỳ khởi đầu từ năm 1975 và các Cung mà chúng biểu hiện. (Xem thêm của tác giả .)

00020.jpeg

In earlier days, recognition of the essentially energic nature of Man was depicted in terms of the Signs of the Zodiac ruling the various body parts (and their associated chakras). Through these Signs (themselves great cosmic Entities) planets are correlated, e.g.:

Thuở trước, sự nhận biết về bản tính năng-lượng của Con người được biểu thị bằng việc các Dấu hiệu Hoàng đạo cai quản những bộ phận thân thể khác nhau (và các luân xa liên quan của chúng). Qua các Dấu hiệu này (chính chúng là những Đại Thực Thể vũ trụ), các hành tinh được liên hệ, thí dụ:

Saturn, exalted in Libra, ruler of the Throat Chakra and Thyroid Gland.

Sao Thổ, được tôn xưng ở Thiên Bình, chủ quản Luân xa Họng và tuyến giáp.

00023.jpeg

We begin to see that all is energy indeed. No less demonstrative of this fact are geometric forms. Cubes, pyramids, spheres and other symmetrical shapes, are accumulators of energy whether they are created out of marble, perspex or even out of thought substance. Ray energies build all forms, energise them and operate them. In earlier works, I have pointed to this fact again and again because of its importance. The energies accumulated within a pyramid have qualities which have been clearly recognised. The energies associated with the capstone of a pyramid, for example, have spiritualising capacities, hence the depiction of the spiritual eye at the apex of the in sign of the U.S.A. Those located in the base of the pyramid have the capacity to preserve mammalian tissue and also the sharpened edges of a metal blade. The energies of all pyramidal structures whether created in stonework or as the human axilla tend to generate or transmit the energies of the Second Ray of Love-Wisdom. Those of the cube are correlated to the Third Ray of Active Intelligence, etc. A typical shape, respected in all ages is the heart … the heart of an atom, a man, a planet, a universe. The energy quality is the same for all. This is clearly depicted in the old Rosicrucian diagram: ‘The Universe within the Human Heart’.

Chúng ta bắt đầu thấy rằng quả thật mọi sự đều là năng lượng. Không kém phần minh chứng cho thực tế này là các hình thể hình học. Lập phương, kim tự tháp, hình cầu và các dạng đối xứng khác đều là những bộ tích năng lượng, cho dù chúng được tạo bằng cẩm thạch, Perspex hay thậm chí bằng chất liệu tư tưởng . Các năng lượng Cung kiến tạo mọi hình tướng, tiếp năng lượng cho chúng và vận hành chúng. Trong các trước tác trước, tôi đã nhiều lần chỉ ra thực tế này vì tầm quan trọng của nó. Các năng lượng tích lũy trong một kim tự tháp có những phẩm tính đã được nhận biết rõ ràng. Các năng lượng liên hệ với viên đá đỉnh chóp, chẳng hạn, có năng lực tinh thần hoá; bởi vậy mới có hình tượng “con mắt tinh thần” ở đỉnh chóp trên phù hiệu của Hoa Kỳ. Các năng lượng ở nơi đế kim tự tháp có năng lực bảo tồn mô mô thú và cả mép bén của một lưỡi dao kim loại. Các năng lượng của mọi cấu trúc hình kim tự tháp, dù tạo bằng đá hay trong cấu trúc như hố nách người, có khuynh hướng sinh ra hay truyền dẫn các năng lượng của Cung Hai Bác Ái – Minh Triết. Còn các dạng lập phương thì tương liên với Cung Ba Trí tuệ Hoạt động, v.v. Một hình dạng điển hình được kính trọng qua mọi thời là trái tim … trái tim của một nguyên tử, của một người, của một hành tinh, của một vũ trụ. Phẩm tính năng lượng là như nhau cho tất cả. Điều này được mô tả rõ trong đồ hình cổ của Hội Hồng Thập Tự: “Vũ trụ trong Trái Tim Con Người”.

00007.jpeg

It is not very hard to understand therefore that very ancient patterns of thought, and of emotion, have been established by Man on this planet throughout his long history. Some are associated with images that are recognisable: others have lost such specificity. They still exist and when conditions are suitable, they surface into the spectrum of consciousness of mankind. Together, these ideas, or reservoirs of unexpressed psychic energies form a collective entity which Jung termed the collective unconscious. Within it, there are symbols of the mother and father, differing from race to race. Symbols of religions, of occupations, of that which causes fear and that which produces passion, come to us as reflections of racial and planetary consciousness. They are all energy reservoirs as surely as are the structures of a sonnet or a statuette. Out of such origins arise the valid psychic sciences like psychometry, through the practise of which, it is possible to establish something of the history of an object through the energy patterns associated or structured within it.

Do vậy, không khó để hiểu rằng các mô thức tư tưởng và cảm xúc rất cổ xưa đã được Con người thiết lập trên hành tinh này suốt chiều dài lịch sử của y. Vài mô thức liên hệ với những hình tượng có thể nhận ra; những cái khác đã mất tính đặc thù như thế. Chúng vẫn tồn tại và khi điều kiện thích hợp, chúng nổi lên vào phổ tâm thức của nhân loại. Cùng nhau, những ý niệm này — hay các hồ chứa năng lượng tâm linh chưa biểu lộ — kết thành một thực thể tập thể mà Jung gọi là vô thức tập thể. Trong đó, có các biểu tượng về mẹ và cha, khác nhau giữa các chủng tộc. Những biểu tượng của tôn giáo, nghề nghiệp, những gì gây sợ hãi và những gì tạo đam mê đến với chúng ta như các phản chiếu của tâm thức chủng tộc và hành tinh. Tất cả chúng đều là các hồ chứa năng lượng, cũng chắc thật như cấu trúc của một bài sonnet hay một pho tượng nhỏ. Từ những nguồn như vậy mà phát sinh các khoa học tâm linh xác đáng như Thuật trắc tâm, nhờ thực hành nó, có thể xác lập đôi điều về lịch sử của một đối tượng qua các mô thức năng lượng liên hệ hoặc được cấu trúc bên trong nó.

The human entity builds into his psyche, defence mechanisms which hold off, from his consciousness, unpleasant surfacings of these age-old energies. Freud and Jung both believed that Man’s consciousness has emerged from their source. Some are allowed to slide out of our awareness into the unconscious; others can be brought into the consciousness from the preconscious. There is a natural resistance normally to the bringing into consciousness of that which is unconscious. Some of the symptoms of mental and emotional disorders are associated with these energy patterns and their inability either to pass completely out of the aura of the person and instead, to press for expression in some altered shape as a symbol, or as a memory, and to produce, through this pressure, a neurosis or psychosis.

Thực thể nhân loại xây dựng vào trong tâm lý của y những cơ chế phòng vệ, vốn ngăn chặn, khỏi tâm thức của y, những sự trồi lên khó chịu của các năng lượng có niên đại từ thời xa xưa ấy. Freud và Jung đều tin rằng tâm thức của Con Người đã xuất lộ từ cội nguồn của chúng. Một số được cho trượt khỏi miền nhận biết của chúng ta vào vô thức; số khác có thể được đưa vào tâm thức từ tiền ý thức. Thông thường có một sức kháng tự nhiên đối với việc đưa cái vốn là vô thức vào trong tâm thức. Một vài triệu chứng của các rối loạn tâm trí và cảm xúc gắn liền với những mô thức năng lượng này và với sự bất lực của chúng, hoặc là đi ra hoàn toàn khỏi hào quang của người đó mà thay vào đó lại thúc bách biểu lộ dưới một hình dạng biến thể như một biểu tượng, hoặc như một ký ức, và do sức ép này, gây nên một chứng loạn thần kinh hay loạn thần.

Psycho-analysis was calculated to remove such pressures. Perhaps the attitude of Freud may be summed up in one of the metaphors that he frequently used to express his concepts:

Phân tâm học được tính toán để loại bỏ những sức ép như vậy. Có lẽ lập trường của Freud có thể được tóm tắt bằng một trong các ẩn dụ mà Ông thường dùng để diễn đạt các quan niệm của mình:

‘Human consciousness may be compared to an audience chamber and the ante-room. In the latter, the symbol of the unconscious ideas, are milling around seeking entry to the audience chamber … But at the doorway stands the Censor preventing entry of all but those of the most harmless aspect. Once in the audience room, the preconscious element may or may not engage the attention of the ego. Unconscious ideas of a kind unacceptable to the Censor may yet gain admission if they assume an adequate disguise, if the Censor is under the influence of sleep, when they pass through in dreams, or when, for instance in the psychoses, they take on unusual power and the Censor is overwhelmed.’—Clinical Psychiatry, by W. Mayer-Gross, Cassell & Co., London.

“Tâm thức con người có thể ví như một phòng yết kiến và một tiền sảnh. Ở tiền sảnh, các biểu tượng của những ý nghĩ vô thức chen chúc kiếm cách đi vào phòng yết kiến … Nhưng ở cửa ra vào đứng một Người Gác Cổng ngăn không cho vào trừ những cái có bề ngoài vô hại nhất. Một khi vào được phòng yết kiến, yếu tố tiền ý thức có thể thu hút, hoặc không thu hút, sự chú ý của cái tôi. Những ý nghĩ vô thức thuộc loại không thể chấp nhận được với Người Gác Cổng vẫn có thể giành được quyền vào nếu chúng khoác một lớp cải trang đủ khéo, nếu Người Gác Cổng ở dưới ảnh hưởng của giấc ngủ, khi ấy chúng đi qua trong mộng, hoặc khi, chẳng hạn như trong các chứng loạn thần, chúng mang lấy một quyền năng khác thường và Người Gác Cổng bị lấn át.” — Tâm thần học Lâm sàng , của W. Mayer-Gross, Cassell & Co., Luân Đôn.

Not only does the collection of unconscious energy patterns produce the consciousness of the individual but, according to Jung, the reactions of the individuals to their environment are affected by the presence of this collective unconscious.

Không chỉ là tập hợp các mô thức năng lượng vô thức tạo nên tâm thức của cá nhân mà, theo Jung, các phản ứng của từng cá nhân đối với môi trường của mình còn bị ảnh hưởng bởi sự hiện diện của vô thức tập thể này.

When we are afraid, we seek the company of others. In the dark, we tend to sing or talk loudly. Our reactions are common to most of humanity and they are dictated, to a great extent by the collective unconscious. For average man, this represents a stability which helps him in his various situations to deal with his affairs without his having to expend nervous energy and emotional effort. He is anchored to these patterns of behaviour. Problems arise later when, as a pupil, for instance, he begins to reject the old order of things and refuses to allow blind forces to govern his reactions to the new situations that present as well as to the old ones.

Khi chúng ta sợ, chúng ta tìm đến bầu bạn. Trong bóng tối, chúng ta có xu hướng hát hoặc nói to. Phản ứng của chúng ta là những phản ứng chung cho phần đông nhân loại và chúng bị chỉ huy, ở mức độ lớn, bởi vô thức tập thể. Đối với người trung bình, điều này biểu hiện một sự ổn định giúp y trong các tình huống khác nhau xử lý công việc mà không phải tiêu hao năng lượng thần kinh và nỗ lực cảm xúc. Y được neo chặt vào những mô thức hành vi này. Vấn đề nảy sinh về sau khi, như một môn sinh chẳng hạn, y bắt đầu bác bỏ trật tự cũ và từ chối để những lực mù lòa chi phối phản ứng của y trước các tình huống mới nảy sinh cũng như trước các tình huống cũ.

These same surfacing energies too easily penetrate the consciousness of the schizophrenic, colouring and dramatising every situation that confronts him. These energies hold the personality vehicles together especially where there is maximum coordination between the mental, astral and physical bodies.

Chính những năng lượng trồi lên này cũng quá dễ xuyên nhập vào tâm thức của người tâm thần phân liệt, tô màu và kịch hóa mọi tình huống đối mặt với y. Những năng lượng này giữ các hiện thể của phàm ngã liên kết với nhau, nhất là nơi có sự phối hợp tối đa giữa các thể trí, cảm dục và thể xác.

Where the thinking of esoteric science differs with current concepts of the collective unconscious is in relation to the origin, distribution and functions of subjective energy flows. It is the esoteric proposition that some of the unconscious is related to ideas that stem from the planes of atrna-buddhi-manas. Their origin is, therefore divine and reflect cosmic archetypes rather than those archetypes which are more representative of the lower-mental, astral and etheric planes. Depending on the degree of sensitivity, the spiritual standing and the karma of the person, these energies of higher origin, will enter the audience chamber. There are Two censors. The one is called the Dweller on the Threshold and this self-created entity decides which ideas will be permitted to confront the ego (personality).

Điểm khác biệt giữa tư duy của khoa học huyền bí với những quan niệm hiện hành về vô thức tập thể là ở mối liên hệ với nguồn gốc, sự phân bố và các chức năng của các dòng năng lượng chủ quan. Mệnh đề huyền bí cho rằng một phần vô thức có liên quan đến những ý tưởng bắt nguồn từ các cõi atma–Bồ đề–manas. Vì thế cội nguồn của chúng là thiêng liêng và phản chiếu các nguyên mẫu vũ trụ, hơn là những nguyên mẫu tiêu biểu hơn cho các cõi hạ trí, cảm dục và dĩ thái. Tùy theo mức độ nhạy cảm, địa vị tinh thần và nghiệp của con người, những năng lượng có nguồn gốc cao này sẽ bước vào phòng yết kiến. Có Hai người gác cổng. Một vị được gọi là Kẻ Chận Ngõ và thực thể tự tạo này quyết định những ý tưởng nào sẽ được phép đối diện với cái tôi (phàm ngã).

Then there is the Angel of the Shining Presence. This is a manifestation of the inner Self. He guards the portal of initiation. He decides the eligibility of the ego to receive inflows of ideas of divine origin, stemming from the spiritual planes of atma-buddhi-manas. These ideas reflect past lives, attributes from qualities gained in them. They represent the true source of genius and of inspiration. They channel those archetypes which are the personification of what Plato described as Truth, Beauty and Goodness. They urge the pupil up the evolutionary arc. They are just not available to the uninitiate, to the impure. Integration of personality draws the Angel of the Shining Presence to the attention of the ego in the audience chamber, a process called reorientation described in detail in Section Five of this book.

Rồi còn có Thiên Thần của Hiện Diện Chói Sáng. Đây là một hiện lộ của Chân ngã nội tại. Ngài canh giữ cổng điểm đạo. Ngài quyết định tư cách của phàm ngã để tiếp nhận các dòng tuôn tràn của ý tưởng có nguồn gốc thiêng liêng, bắt nguồn từ các cõi atma–Bồ đề–manas. Những ý tưởng này phản chiếu các tiền kiếp, các thuộc tính từ những phẩm tính đã thu hoạch trong đó. Chúng đại diện cho nguồn cội chân thực của thiên tài và của cảm hứng. Chúng dẫn lưu những nguyên mẫu vốn là nhân cách hóa của điều Plato mô tả là Chân, Mỹ và Thiện. Chúng thúc giục môn sinh đi lên cung đoạn tiến hóa. Chúng không hề sẵn có đối với kẻ chưa được điểm đạo, kẻ ô uế. Sự tích hợp phàm ngã lôi cuốn Thiên Thần của Hiện Diện Chói Sáng vào tầm chú ý của phàm ngã trong phòng yết kiến, một tiến trình gọi là tái định hướng, đã được mô tả chi tiết trong Phần Năm của quyển sách này.

The drawing below is adapted from the work of Robert Fludd, the English occultist who, some centuries ago, depicted the concept of both a collective unconscious and also a collective superconsciousness. This axis exists between the personality and the inner Self. The personality or lower self is influenced by ideas from the planes of the etherico-physical, the astral and the mental. The Higher Self is sustained by energy patterns from the planes of atma-buddhi-manas. The axis transmits sustenance, guidance and support from the archetypal worlds. Thus, instinctual responses, e.g. in moments of crisis and danger, stem from deposits of energy gained by evolving through the mineral, plant, animal and human kingdoms up until the moment of individualisation. But when pupilage begins to dominate the attention of the advanced Man, he then draws on energies derived from the higher planes. Hence the concept of a World Soul or anima mundi.

Bản vẽ dưới đây được phỏng theo công trình của Robert Fludd, nhà huyền bí học người Anh, vị vài thế kỷ trước đã mô tả khái niệm vừa vô thức tập thể vừa siêu tâm thức tập thể. Trục này tồn tại giữa phàm ngã và Chân ngã nội tại. Phàm ngã hay tự ngã thấp chịu ảnh hưởng bởi những ý tưởng từ các cõi dĩ thái–hồng trần, cảm dục và trí. Chân Ngã được duy trì bởi các mô thức năng lượng từ các cõi atma–Bồ đề–manas. Trục truyền tải dưỡng nuôi, hướng dẫn và nâng đỡ từ các thế giới nguyên mẫu. Do vậy, những đáp ứng bản năng, ví dụ . trong các khoảnh khắc khủng hoảng và nguy hiểm, bắt nguồn từ những trầm tích năng lượng đạt được qua tiến hóa xuyên suốt các giới kim thạch, thực vật, động vật và nhân loại cho đến khoảnh khắc biệt ngã hóa. Nhưng khi địa vị môn sinh bắt đầu chi phối sự chú ý của Người Tiến Bộ, y bấy giờ rút lấy các năng lượng xuất phát từ các cõi cao. Do đó có khái niệm về một Hồn thế giới hay anima mundi.

00005.jpeg

THE SUBCONSCIOUS—TIỀM THỨC

It is now easier to say what the subconscious is. In esoteric terminology this would refer to the highly personal aspects of the individual unconscious which could not possibly be related to another person! We fortunately do not note or even set in motion voluntarily many of the body’s functions such as the blinking of the eyes or peristaltic waves of the intestines. These have sunk below the level of our awareness and should remain there. In particular, functions related to the autonomic nervous system fall into this category. They are close to the surface of Man’s consciousness and, indeed, recently numerous yogis have shown the medical world that these autonomic functions can be retrieved from the subconscious through the practise of what has now become known as biofeedback medicine. Thus, factors which produce a raising of the blood pressure, normally just below the level of the patient’s conscious awareness can be recognised and negated. We can be taught to raise and lower our own blood pressures at will. —

Giờ đây sẽ dễ nói tiềm thức là gì hơn. Theo thuật ngữ huyền bí, điều này sẽ chỉ về những khía cạnh hết sức cá nhân của vô thức cá nhân vốn tuyệt đối không thể liên hệ tới một người khác! May thay, chúng ta không lưu ý, thậm chí cũng không chủ động khởi động nhiều chức năng của thân thể như chớp mắt hay các sóng nhu động của ruột. Những thứ này đã chìm xuống dưới mức nhận biết của chúng ta và nên ở lại đó. Đặc biệt, các chức năng liên quan đến hệ thần kinh tự chủ thuộc về loại này. Chúng ở gần bề mặt của tâm thức Con Người và, thực ra, gần đây nhiều đạo sĩ đã cho thế giới y khoa thấy rằng những chức năng tự chủ này có thể được kéo lên khỏi tiềm thức thông qua thực hành thứ mà nay được biết như y học phản hồi sinh học. Như vậy, các yếu tố gây tăng huyết áp, vốn thường chỉ ở ngay dưới mức nhận biết có ý thức của bệnh nhân, có thể được nhận ra và hóa giải. Chúng ta có thể được dạy để nâng và hạ huyết áp của chính mình theo ý muốn.

Whilst these practices may be used to restore health, it is extremely unwise for them to be invoked for other reasons. The Tibetan Master D.K. taught that the subconscious should never be delved into. It should be allowed to sink beyond recall to where it belongs and, in its place, higher functions, ideas and ideals should be encouraged. For the pupil the function of the sacral and solar plexus chakras should take this path. And in their stead, higher centres should be unfolded. This does not mean that anything should be repressed. It does mean that any attention given to such subconscious elements should be redirected to others which are higher in consciousness and the alter egos of the former. Generally, patterns of energy which have emanated from that part of humanity’s origin which was related to the animal evolution, either on the Moon or on the Earth, would be included in this grouping. Archetypal patterns reflecting the early associations and experiences of Divine Man form part of the collective unconscious and the collective superconscious and would, from this viewpoint, not be part of the subconscious.

Mặc dù các thực hành này có thể được dùng để phục hồi sức khỏe, cực kỳ bất trí khi khơi gọi chúng vì những lý do khác. Chân sư D.K. dạy rằng không bao giờ nên đào sâu vào tiềm thức. Nó nên được để cho chìm xuống ngoài tầm nhớ về, đúng nơi nó thuộc về, và thay vào đó, nên khuyến khích các chức năng, ý tưởng và lý tưởng cao hơn. Đối với môn sinh, chức năng của các luân xa xương cùng và tùng thái dương nên đi theo con đường này. Và thay vào chỗ của chúng, các trung tâm cao hơn nên được khai mở. Điều này không có nghĩa là nên đàn áp bất cứ điều gì. Nó có nghĩa rằng mọi sự chú ý dành cho những yếu tố tiềm thức như vậy cần được hướng lại sang những yếu tố khác cao hơn trong tâm thức và là các đối phần của những yếu tố trước. Nói chung, các mô thức năng lượng đã xuất lộ từ phần nguồn gốc của nhân loại có liên hệ với sự tiến hóa thú tính, hoặc trên Mặt Trăng hoặc trên Trái Đất, sẽ được bao gồm trong nhóm này. Các mô thức nguyên mẫu phản chiếu những liên hệ và trải nghiệm ban sơ của Con Người Thiêng Liêng cấu thành một phần của vô thức tập thể và siêu tâm thức tập thể và, từ quan điểm này, sẽ không thuộc tiềm thức.—

‘The processes which maintain the life of the body-such as the beating of the heart, the expansion and contraction of the heart, the processes of digestion, etc.,—have all fallen into a region of consciousness on which the attention is not fixed.

“Những tiến trình duy trì sự sống của thân thể—như nhịp đập của tim, sự giãn nở và co thắt của tim, các tiến trình tiêu hóa, v.v. ,—tất cả đã rơi vào một vùng của tâm thức nơi sự chú ý không được cố định.

‘The sympathetic system is a storehouse of traces left by long past events-events not belonging to our present life at all, but events that passed hundreds of centuries ago, that occurred in long past lives when the Self was abiding in savage human bodies, and even in the bodies of animals. Many a causeless terror, many a midnight panic, many a surge of furious anger, many an impulse of vindictive cruelty, many a rush of passionate revenge, is flung up from the depths of that dark sea of the subconscious which rolls within us, concealing many a wreck, many a skeleton of our past. Handed down by the astral consciousness of the time to its physical instrument for putting into action, the ever sensitive plate of the permanent atom has caught and photographed them, and has registered them in the recesses of the nervous system, life after life. The consciousness is off guard; or a strong vibration from another strikes us; or some event reproduces circumstances that start vibrations that arouse; in one way or another, the slumbering possibilities are awakened, and hurling itself up into the light of day comes the long-buried passion. There too lie the instincts which oft overpower reason, instincts that were once life-preserving efforts, or the results of experiences in which our body of the time perished, and the soul registered the result for future guidance. Instincts of love for the opposite sex, the outcome of innumerable unions. Instincts of maternal and paternal love, poured out in many generations. Instincts of self-defence, developed in countless battles. Instincts of taking undue advantage, offsprings of numberless cheatings and intrigues. And yet again there lurk there many vibrations that belong to events, and feelings, and desires and thoughts of our present life, experienced and forgotten, but lying near the surface, ready for up-call. Time would fail to enumerate the contents of this relic chamber of an immemorial past, containing old bones, fit only for the dustbin, side by side with interesting fragments of earlier days, with tools still useful for our present needs. Over the door of the relic chamber is written: Fragments of the Past. For the subconscious belongs to the Past, as the waking consciousness belongs to the Present, as the superconsciousness to the Future’.—Psychological Types, by Carl Jung.

“Hệ giao cảm là một kho chứa các vết tích để lại bởi những biến cố từ lâu xa—những biến cố không thuộc về đời sống hiện tại của chúng ta chút nào, mà là những biến cố đã xảy ra hàng trăm thế kỷ trước, đã xảy ra trong những đời sống lâu xa khi Tự Ngã còn trú trong các thân thể người hoang dã, và thậm chí trong thân thể của thú vật. Biết bao nỗi khiếp đảm vô cớ, biết bao cơn hoảng sợ đêm khuya, biết bao làn sóng giận dữ dữ dội, biết bao thôi thúc độc ác báo thù, biết bao cơn trào dâng của mối hận sôi sục, bị hất tung lên từ đáy của biển đêm tiềm thức cuộn chảy trong ta, che giấu biết bao xác đắm, biết bao bộ xương của quá khứ. Được chuyển xuống cho nhạc cụ hồng trần để thi hành bởi tâm thức cảm dục của thời đó, tấm bản mỏng luôn nhạy cảm của Nguyên tử trường tồn đã nắm bắt và chụp lại chúng, và đã ghi chúng vào những hốc sâu của hệ thần kinh, hết đời này sang đời khác. Tâm thức lơi lỏng cảnh giới; hoặc một rung động mạnh mẽ từ người khác đánh trúng ta; hoặc một biến cố nào đó tái tạo những hoàn cảnh khởi lên các rung động làm bừng dậy; bằng cách này hay cách khác, những khả năng đang ngủ bị đánh thức, và phóng mình lên ánh sáng ban ngày là đam mê chôn kín bấy lâu. Ở đó cũng nằm những bản năng thường áp đảo lý trí, những bản năng đã từng là những nỗ lực bảo tồn sự sống, hay là kết quả của những trải nghiệm trong đó thân thể của thời ấy đã diệt vong, và linh hồn ghi nhận kết quả để dẫn dắt trong tương lai. Bản năng ái luyến giới khác, hệ quả của vô số giao hiệp. Bản năng tình mẫu tử và phụ tử, tuôn đổ qua nhiều thế hệ. Bản năng tự vệ, phát triển qua vô số trận chiến. Bản năng trục lợi quá đáng, con đẻ của không biết bao trò gian trá và mưu mô. Và lại còn lẩn khuất ở đó nhiều rung động thuộc về các biến cố, cảm xúc, dục vọng và tư tưởng của đời sống hiện tại của chúng ta, đã từng trải và đã quên, nhưng nằm gần bề mặt, sẵn sàng được triệu lên. Thời gian sẽ không đủ để liệt kê những nội dung của buồng di vật của một quá khứ từ tiền sử, chứa những bộ xương cũ, chỉ đáng đổ vào thùng rác, nằm cạnh những mảnh vụn thú vị của buổi sơ thời, cùng với những công cụ vẫn còn hữu dụng cho nhu cầu hiện tại của chúng ta. Trên cánh cửa của buồng di vật có viết: Mảnh vụn của Quá khứ. Vì tiềm thức thuộc về Quá khứ, như tâm thức tỉnh thuộc về Hiện tại, như siêu tâm thức thuộc về Tương lai.” — Những Kiểu Tâm Lý , của Carl Jung.

And again:

Và nữa:

‘Another part of the subconscious in us is composed of the contents of all the consciousnesses that use our bodies as fields of evolution—atoms, molecules, cells of many grades. Some of the queer spectres and dainty figures that arise from the subconscious in us do not belong to us at all, but are the dim gropings, and foolish fears, and pretty fancies, of the units of consciousness at a lower stage of evolution than our own, that are our guests, inhabiting our body as a lodging-house. In this part of the subconscious go on the wars, waged by one set of creatures in our blood against another set, which do not—normally—enter our consciousness, save when their results appear as diseases’.—A Study in Consciousness, by Annie Besant, Theosophical Publishing House, London.

“Một phần khác của tiềm thức trong chúng ta được cấu thành bởi nội dung của tất cả các tâm thức dùng thân thể chúng ta làm cánh đồng tiến hóa—các nguyên tử, phân tử, tế bào nhiều cấp bậc. Một số những bóng ma kỳ quặc và những hình thể xinh xắn dấy lên từ tiềm thức trong ta hoàn toàn không thuộc về ta, mà là những mò mẫm mờ mịt, những sợ hãi ngớ ngẩn và những ảo tưởng duyên dáng của các đơn vị tâm thức ở giai đoạn tiến hóa thấp hơn chúng ta, là những vị khách của ta, cư trú thân thể ta như một nhà trọ. Ở phần này của tiềm thức diễn ra những cuộc chiến, do một phe sinh vật trong máu ta tiến hành chống lại một phe khác, mà—thông thường—không bước vào tâm thức của ta, trừ khi các kết quả của chúng biểu lộ thành bệnh tật.” — Nghiên cứu về Tâm thức , của Annie Besant, Nhà Xuất Bản Thông Thiên Học, Luân Đôn.

Glamour

Ảo cảm

Once the concept of the collective unconscious arid its powerful energies is fathomed, many of the problems of mankind can be seen in a new and helpful light. One of these is, of course, world glamour. The disciple is most prone to it because it radiates from the collective unconscious and treading The Path accelerates the surfacing of any factors lying at depth in the collective unconscious of the disciple. As Jung says:

Một khi khái niệm về vô thức tập thể và các năng lượng hùng mạnh của nó được thấu triệt, nhiều vấn đề của nhân loại có thể được nhìn trong một ánh sáng mới mẻ và hữu ích. Một trong những điều này, dĩ nhiên, là ảo cảm thế gian. Người đệ tử rất dễ mắc vào nó vì nó phát xạ từ vô thức tập thể và việc dấn bước trên Thánh Đạo làm gia tốc sự trồi lên của bất cứ yếu tố nào nằm sâu trong vô thức tập thể của người đệ tử. Như Jung nói:

‘The chief danger is that of succumbing to the fascinating influence of the archetypes. If we do, we come to a standstill either in a symbolic situation or in an identification with an archetypal personality’.*

“Nguy cơ chính là sa ngã trước ảnh hưởng mê hoặc của các nguyên mẫu. Nếu chúng ta làm vậy, chúng ta sẽ dừng lại, hoặc trong một tình huống biểu tượng, hoặc trong sự đồng nhất hóa với một nhân cách nguyên mẫu.”

‘…. the unconscious, when not realised, is ever at work casting a false glamour over everything; it appears to us always upon objects because everything unconscious is projected. When we understand the unconscious we strip away the false appearance from objects and this can only promote truth.’ **

“… vô thức, khi không được nhận biết, thì luôn hoạt động, phóng một lớp ảo cảm giả onto mọi sự; nó dường như luôn xuất hiện trên các đối tượng bởi vì mọi thứ vô thức đều bị phóng chiếu. Khi chúng ta thấu hiểu vô thức, chúng ta bóc tách lớp vẻ ngoài giả dối khỏi các đối tượng và điều này chỉ có thể thúc đẩy sự thật.”

* Archetypes Of The Collective Unconscious, by Carl Jung.

* Các Nguyên Mẫu của Vô Thức Tập Thể, của Carl Jung.

** Psychological Types, by Carl Jung.

** Những Kiểu Tâm Lý, của Carl Jung.

THE SIGNIFICANCE OF MYTHS —Ý NGHĨA CỦA HUYỀN THOẠI

Fellow students will have noticed how frequently myth and legend, especially the Greek, are used to illustrate or emphasise some point. Myths, like sonnets, and especially epic poems are energy accumulators to those who call on them. Like mantras, they are charged by constant repetition. The story of Oedipus, has psychiatric implications, as we well know, and these are expressive of human nature in general, at least to some extent:—

Các bạn đồng môn sẽ nhận thấy huyền thoại và truyền thuyết, đặc biệt là Hy Lạp, thường xuyên được dùng để minh họa hoặc nhấn mạnh một điểm nào đó. Huyền thoại, như sonnet, và nhất là các thiên anh hùng ca, là những bộ tích lũy năng lượng cho những ai kêu cầu chúng. Như các mantram, chúng được nạp lực bởi sự lặp lại thường hằng. Câu chuyện Oedipus có những hàm nghĩa tâm thần học, như chúng ta đều biết rõ, và chúng biểu lộ bản tính con người nói chung, ít nhất ở một mức độ nào đó:

‘Myths are the fundamental expressions of human nature. When a myth is formed and expressed in words, it is true that consciousness has shaped it, but the spirit of the myth … the creative urge it represents, the feelings it expresses and evokes, and even in a large part its subject matter…. come from the collective unconscious.’—An Introduction To Jung’s Psychology, by F. Fordham

“Huyền thoại là những biểu đạt nền tảng của bản tính con người. Khi một huyền thoại được hình thành và diễn đạt bằng lời, đúng là tâm thức đã uốn nắn nó, nhưng tinh thần của huyền thoại … xung lực sáng tạo mà nó biểu trưng, những cảm xúc nó diễn đạt và khơi dậy, và thậm chí ở mức độ lớn cả đề tài của nó… đến từ vô thức tập thể.” — Nhập môn Tâm Lý Học Jung , của F. Fordham.

With the overlapping of the consciousnesses of the nations through the great advances in communication which are so characteristic of the New Age, it is truly said that no man is an island entirely separated from all others. The fingers are joined to the hand, islands are joined to the mainland under water. The great collective unconscious ensures that no man is separated from the thoughts and feelings of others.

Với sự chồng lấn các tâm thức của các dân tộc nhờ những tiến bộ vĩ đại trong truyền thông vốn đặc trưng cho Kỷ Nguyên Mới, quả thật có thể nói rằng không ai là một hòn đảo tách rời hoàn toàn khỏi mọi người khác. Những ngón tay nối với bàn tay, các hòn đảo nối với lục địa dưới nước. Vô thức tập thể vĩ đại đảm bảo rằng không người nào bị tách lìa khỏi tư tưởng và cảm xúc của người khác.

00010.jpeg

When the myth is linked to some hero figure or god, it attracts the attention of the masses who, through their devotion, direct energies towards the pattern of the myth, giving it endless power, even to affect the lives of their descendants down through the centuries. Only to a lesser extent do the dreams, memories and aspirations of our forbears operate in the same way. We are constant heirs to them. These experiences which were common to all and repeated incessantly will tend to manifest most powerfully through the archetype for them in the collective unconscious. To what extent they will surface and in what guise, depends on the vibratory qualities of the individual they reach, and these are laid down to some extent by the permanent atoms of the appropriate vehicles and their morphogenic fields. lung himself gave an example from his own life of a dream, with its phallic content, that affected him profoundly:

Khi huyền thoại được gắn với một nhân vật anh hùng hay vị thần, nó thu hút sự chú ý của quần chúng, những người, qua lòng sùng mộ, hướng các năng lượng về mô thức của huyền thoại, trao cho nó quyền năng bất tận, thậm chí ảnh hưởng đến đời sống của con cháu họ qua nhiều thế kỷ. Chỉ ở mức độ thấp hơn, những giấc mơ, ký ức và hoài vọng của tổ tiên chúng ta mới vận hành theo cách tương tự. Chúng ta không ngừng là những kẻ thừa hưởng chúng. Những trải nghiệm từng phổ biến cho mọi người và được lặp đi lặp lại không ngừng sẽ có xu hướng biểu lộ mạnh mẽ nhất qua nguyên mẫu của chúng trong vô thức tập thể. Chúng sẽ trồi lên đến mức nào và dưới lốt nào, tùy thuộc vào các phẩm chất rung động của cá nhân mà chúng chạm đến, và những phẩm chất này phần nào do các Nguyên tử trường tồn của các vận cụ tương ứng và các trường hình thái sinh của chúng quy định. Jung chính Ông đã đưa ra một ví dụ trong đời mình về một giấc mơ, với nội dung phallic, đã ảnh hưởng tới Ông sâu sắc:

‘Myths are the direct expression of the collective unconscious. They are found in similar forms among all peoples and in all ages and when man loses the capacity for myth-making, he loses touch with the creative forces of his being.’—An Introduction To Jung’s Psychology, by F. Fordham.

“Huyền thoại là sự biểu đạt trực tiếp của vô thức tập thể. Chúng được tìm thấy dưới những hình thức tương tự giữa mọi dân tộc và mọi thời đại và khi con người đánh mất năng lực tạo huyền thoại, y mất liên hệ với các lực sáng tạo của bản thân.” — Nhập môn Tâm Lý Học Jung , của F. Fordham.

THE UNCONSCIOUS AND COSMOGENESIS—VÔ THỨC VÀ VŨ TRỤ NGUYÊN KHỞI

The masses of mankind are still emotionally polarised and are not only fashioning the archetypes of the future but are themselves susceptible to the emotional energy of the collective unconscious which, for these, surfaces most easily as emotion as well as image patterns. The consciousness of mankind is changing rapidly to one which is mentally oriented and we can only conject what change this will bring to the receptivity he possesses for the archetypal energies. It may well be that the widespread ‘sightings’ of UFOs in the past are, in great measure, related to this new sensitivity. The most direct expression of the collective unconscious is to be found when the archetypes, as primordial images, appear in dreams, unusual states of mind, or psychotic fantasies. —

Đại khối nhân loại vẫn còn phân cực cảm xúc và không chỉ đang nhào nặn các nguyên mẫu của tương lai mà bản thân còn dễ bị tác động bởi năng lượng cảm xúc của vô thức tập thể, vốn, đối với những người này, trồi lên dễ dàng nhất như xúc cảm cũng như những mô thức hình ảnh. Tâm thức của nhân loại đang nhanh chóng chuyển sang một trạng thái định hướng trí tuệ và chúng ta chỉ có thể phỏng đoán sự thay đổi này sẽ mang lại điều gì cho mức độ tiếp nhận mà y có đối với các năng lượng nguyên mẫu. Rất có thể rằng những “hiện tượng nhìn thấy” rộng khắp về các vật thể bay không xác định trong quá khứ, ở mức độ lớn, liên hệ với sự nhạy cảm mới này. Sự biểu hiện trực tiếp nhất của vô thức tập thể được tìm thấy khi các nguyên mẫu, như những hình ảnh nguyên sơ, xuất hiện trong mộng, những trạng thái tâm trí dị thường, hoặc các mộng tưởng loạn thần.

The accumulation of archetypal energies by any race leads not only to their deposit in the reservoirs of the astro-mental sheath of the planet for the use of future races, but also for their transfer to other globes, now in formation within the Earth Chain. This has been dealt with extensively in my book Anthropogeny: The Esoteric History of Man. Humanity is, therefore, sowing the seeds of her own future, as well as that of the Chain by what she is now experiencing in her own consciousness:—

Sự tích lũy các năng lượng nguyên mẫu bởi bất kỳ chủng tộc nào không chỉ dẫn đến việc chúng được ký thác vào các hồ chứa của bao thể cảm-trí của hành tinh cho việc sử dụng của các chủng tộc tương lai, mà còn cho việc chuyển giao chúng đến những bầu hành tinh khác đang hình thành trong Dãy Địa Cầu. Điều này đã được bàn luận rộng rãi trong tác phẩm của tôi. Vì thế, Nhân loại đang gieo hạt giống cho tương lai của chính mình, cũng như cho tương lai của Dãy, qua những gì nàng hiện đang trải nghiệm trong tâm thức của mình:

‘Our own globe represents Globe D of the Earth Chain of seven globes. In our Chain, Globe A exists in mental matter while Globe B is of astral substance and Globe C of etheric materials. While a Round is manifesting on a Globe, we call it a globe-period and, therefore, seven globe-periods make one Round. The total thrust of seven rounds on the seven globes of each chain, constitute forty-nine globe periods which is known as a Chain period. When each Round leaves, the Globe goes into obscuration. Life is not entirely withdrawn but remains in a stage of quiescence. Something of the effects of the Seven Globes on each other as they develop should be mentioned here. A chain forms out of materials released from the dissolution of an earlier Chain. Thus, the materials of Chain I, contribute to the formation of Chain II in any planetary scheme.

“Chính bầu hành tinh của chúng ta đại diện cho Bầu Hành Tinh D của Dãy Địa Cầu gồm bảy bầu. Trong Dãy của chúng ta, Bầu A tồn tại trong chất liệu trí tuệ trong khi Bầu B thuộc chất cảm dục và Bầu C thuộc chất liệu dĩ thái. Khi một Cuộc Tuần Hoàn biểu hiện trên một Bầu, chúng ta gọi đó là một thời kỳ-bầu và, vì vậy, bảy thời kỳ-bầu làm nên một Cuộc Tuần Hoàn. Tổng lực của bảy cuộc tuần hoàn trên bảy bầu của mỗi dãy cấu thành bốn mươi chín thời kỳ-bầu, điều này được gọi là một thời kỳ Dãy. Khi mỗi Cuộc Tuần Hoàn rời đi, Bầu đi vào tình trạng ám tàng. Sự sống không bị rút đi hoàn toàn nhưng lưu lại trong một giai đoạn tĩnh lặng. Điều gì đó về ảnh hưởng của Bảy Bầu lên nhau khi chúng phát triển cần được nhắc đến ở đây. Một dãy được hình thành từ các chất liệu được phóng thích từ sự tan rã của một Dãy trước đó. Như thế, chất liệu của Dãy I đóng góp vào sự hình thành Dãy II trong bất kỳ hệ hành tinh nào.

‘The material which makes up Globe A forms around a vortex in the time and space appropriated by the Logos of the Chain for His incarnation. This vortex is virtually a chakra in His subtlest nature created by His urge to express.

“Chất liệu tạo nên Bầu A hình thành quanh một xoáy trong thời gian và không gian được Thượng đế của Dãy chiếm dụng cho sự Nhập thế của Ngài. Xoáy này hầu như là một luân xa trong bản chất vi tế nhất của Ngài, được tạo ra bởi thôi thúc biểu lộ của Ngài.

‘Into this vortex flows two streams of life which are essential before any globe can form. The first is a host of devas of a high order bringing with them the legions of elementals that support their work. They are beings from earlier chains and planetary schemes with vast experience of form building. The second is an influx of human monads who anchor their appropriate mechanisms for experiencing the qualities of a particular globe. The latter urge-to-express in the former, supplies forms for that expression. Without the presence of Man, a globe could never take shape. No sooner does the construction of Globe A get under way than the grossest of the urges of these monads, anchored on Globe A, find their way to creating a separate vortex which is to become Globe B on a lower plane of matter. Into this vortex stream devas and human intelligences from earlier systems with experiences appropriate to the building of Globe B. Globe B also begins to vampirise Globe A which, as it reaches maturity of expression, becomes increasingly donative of its elements. Globe B acts as a child drawing energy and materials from its mother, Globe A. In similar ways, succeeding globes are formed, each vampirising the former and being vampirised by the latter. The lifewaves carried by the Rounds add to this effect.—Anthropogeny: The Esoteric History of Man’s Origin by the author.

“Vào xoáy này tuôn chảy hai dòng Sự sống, vốn là thiết yếu trước khi bất kỳ bầu nào có thể hình thành. Thứ nhất là một đoàn các thiên thần thuộc đẳng cấp cao, mang theo vô số các hành khí hỗ trợ công việc của họ. Họ là những sự sống từ các dãy và các hệ hành tinh trước, với kinh nghiệm bao la trong việc kiến tạo hình tướng. Thứ hai là một dòng tràn vào của các chân thần nhân loại, những vị neo các cơ cấu thích ứng để trải nghiệm các phẩm tính của một bầu nhất định. Thôi thúc-biểu-lộ ở nơi những vị trước cung ứng các hình thể cho sự biểu hiện ấy. Không có sự hiện diện của Con Người, một bầu không bao giờ có thể thành hình. Vừa khi việc kiến tạo Bầu A được khởi công thì những thôi thúc thô nặng nhất của các chân thần này, neo trên Bầu A, tìm cách tạo nên một xoáy riêng biệt để trở thành Bầu B trên một cõi chất liệu thấp hơn. Vào xoáy này các thiên thần và các trí năng nhân loại từ các hệ thống trước tuôn đến, với những kinh nghiệm thích ứng cho việc kiến tạo Bầu B. Bầu B cũng bắt đầu hút sinh lực của Bầu A, và khi Bầu A đạt đến sự thành thục của biểu lộ, ngày càng hiến tặng các yếu tố của mình. Bầu B hành xử như một đứa con rút năng lượng và vật liệu từ người mẹ của nó, Bầu A. Theo những cách tương tự, các bầu kế tiếp được hình thành, mỗi bầu hút sinh lực của bầu trước và lại bị bầu sau hút sinh lực. Các làn sóng sự sống do các Cuộc Tuần Hoàn mang theo càng làm tăng hiệu ứng này.” — Nhân loại Thủy Tổ: Lịch Sử Nội Môn về Nguồn Gốc Con Người của tác giả.

It becomes interesting, therefore, to speculate on the situation at the present moment with the life forces centred on our globe in its fourth round and in the Fifth Root Race of that round.

Do đó, việc suy ngẫm về tình hình ở thời điểm hiện tại trở nên thú vị, với các lực sống tập trung trên bầu của chúng ta ở cuộc tuần hoàn thứ tư và trong Giống dân gốc Thứ Năm của cuộc tuần hoàn đó.

For Jung, the unconscious is the source of consciousness and of the creative and destructive spirit of mankind. The archetypes … ‘are the hidden treasures on which mankind ever and anon has drawn and from which it has raised up its gods and demons, and all those potent and mighty thoughts without which man ceases to be man.’ Of the archetypes he also observed, ‘Not even our thought can clearly grasp them, because it never invented them.’ In discipleship we learn to go beyond thought into abstract-thought, or higher manas, and only then is it possible to comprehend their nature.

Đối với Jung, vô thức là nguồn của tâm thức và của tinh thần sáng tạo lẫn hủy hoại của nhân loại. Các nguyên mẫu … “là những kho báu ẩn giấu mà nhân loại thỉnh thoảng lại rút từ đó và từ đó đã dựng lên các thần và quỷ của mình, và tất cả những tư tưởng hùng mạnh mà nếu thiếu chúng con người sẽ thôi là con người.” Về các nguyên mẫu, ông cũng nhận xét, “Ngay cả tư tưởng của chúng ta cũng không thể nắm bắt chúng một cách minh bạch, bởi nó chưa bao giờ phát minh ra chúng.” Trong địa vị đệ tử chúng ta học đi xa hơn tư tưởng vào tư tưởng trừu tượng, hay manas cao, và chỉ khi ấy mới có thể thấu hiểu bản chất của chúng.

Great minds have wrestled with the problem of expressing archetypes. St Augustine struggled with the ‘City of God’ and Emanuel Swedenborg did the same and called his work on the matter ‘The New Jerusalem.’

Những trí tuệ vĩ đại đã vật lộn với vấn đề biểu đạt các nguyên mẫu. Thánh Âu Tinh vật lộn với “Thành của Thượng Đế” và Emanuel Swedenborg cũng làm như vậy và gọi công trình của Ông về vấn đề này là “Tân Giê-ru-sa-lem.”

The picture below: Archetypal Patterns: The New Jerusalem or Cave of The Soul (of Emmanuel Swedenborg).

Bức hình dưới đây: Các Mô Thức Nguyên Mẫu: Tân Giê-ru-sa-lem hay Hang của Linh Hồn (của Emmanuel Swedenborg).

00012.jpeg

The same archetype prompts the search for the Holy Grail, and indeed, there are many thousands, candidates for the second initiation who sense these aspirations deep within the heart region, the site of the Heart Chakra wherein lies the ‘Cave of the Soul.’

Cùng một nguyên mẫu ấy thúc đẩy cuộc tìm kiếm Chén Thánh, và thực vậy, có hàng ngàn, hàng ngàn ứng viên cho lần điểm đạo thứ hai cảm nhận những khát vọng này sâu trong vùng trái tim, nơi tọa lạc Luân xa Tim, nơi có “Hang của Linh Hồn.”

William Blake, himself a competent occultist, poet and consummate artist, felt the same all-pervading presence of the archetypal pattern for the city of the soul. In the following lines, we are able to trace the clue to its discovery:-

William Blake, tự thân là một nhà huyền bí học tài năng, thi sĩ và họa sĩ siêu quần, đã cảm nhận cùng một sự hiện diện thấm nhập của mô thức nguyên mẫu cho thành phố của linh hồn. Trong những câu thơ sau, chúng ta có thể lần theo manh mối dẫn đến sự khám phá nó:–

I give you the end of a golden string,

Ta trao ngươi đầu sợi chỉ vàng,

Only wind it into a ball,

Chỉ cần cuộn nó thành một cuộn,

It will lead you in at Heaven’s gate,

Nó sẽ dẫn ngươi vào cổng Thiên Đàng,

Built in Jerusalem’s wall.

Xây trong tường thành Giê-ru-sa-lem.

Vitruvius, a Florentine architect, was convinced that the proportions of the human body were a reflection of the divine symmetry of the universe itself. His work interested Leonardo da Vinci who wrote a canon for proportions of the human head, seeing it as an archetypal pattern of the divinity.

Vitruvius, một kiến trúc sư người Florentine, tin chắc rằng tỷ lệ của thân thể con người là phản chiếu của sự cân xứng thiêng liêng của chính vũ trụ. Công trình của Ông đã làm Leonardo da Vinci hứng thú, người đã viết một quy chuẩn về tỷ lệ của đầu người, xem đó như một mô thức nguyên mẫu của thiên tính.

Though Divinity seems so far removed, Its image in man remains as a witness before man. In no part of nature is the evidence of a supreme intelligence more conclusive than in the refinement and the symmetry of human proportions. To the chemist, the human body is a laboratory; to the jurist, the embodiment of abiding law; to the musician, a summary of all symphonies; to the mathematician, crystallised geometry; to the poet, rhythm in action; to the architect the trestle board of design; to the scientist, the unsolvable enigma; to the philosopher, the image of eternal verities; to the statesman, the pattern of the commonwealth. Is it amazing, then, that the artist should delight in portraying the ever-changing moods of man; or that the architect, consciously or unconsciously, should build man’s proportions into the structure he erects?

Dẫu Thiên Tính dường như xa vời đến vậy, Hình Ảnh của Ngài nơi con người vẫn còn như nhân chứng trước mặt người. Ở không phần nào của thiên nhiên mà bằng chứng về một trí tuệ tối thượng lại hiển nhiên hơn là ở sự tinh luyện và cân xứng của các tỷ lệ con người. Với nhà hóa học, thân thể người là một phòng thí nghiệm; với luật gia, là hiện thân của định luật bền vững; với nhạc sĩ, là bản tóm yếu mọi giao hưởng; với nhà toán, là hình học kết tinh; với thi sĩ, là nhịp điệu trong hành động; với kiến trúc sư, là bản ván khuôn của thiết kế; với nhà khoa học, là câu đố bất khả giải; với triết gia, là hình ảnh của những chân lý vĩnh cửu; với chính khách, là mô hình của cộng hòa. Thế thì có gì lạ đâu khi người nghệ sĩ thích thú khắc họa những tâm trạng biến đổi vô cùng của con người; hay kiến trúc sư, có ý thức hay vô thức, lại xây dựng các tỷ lệ của con người vào cấu trúc mà y dựng lên?

00013.jpeg

The Resolution of Opposites—Sự Hòa Giải Các Mặt Đối Lập

Jung saw the goal for mankind as being found in the individuation process, in which the opposing trends in one’s nature are reconciled:—

Jung xem mục tiêu cho nhân loại được tìm thấy trong tiến trình cá thể hóa, trong đó những xu hướng đối nghịch trong bản tính của một người được hòa giải:

‘The unconscious complements the conscious standpoint; to carry this farther, the unconscious of man contains a complementary feminine element, that of a woman, a male element. These Jung called respectively, the anima and animus.’—An Introduction to Jung’s Psychology, by F. Fordham.

—“Vô thức bổ túc cho lập trường có ý thức; tiến xa hơn, vô thức của người nam chứa một yếu tố nữ tính bổ sung, còn của người nữ là yếu tố nam tính. Jung lần lượt gọi chúng là anima và animus.” — Nhập môn Tâm Lý Học Jung , của F. Fordham.

Some might merely read this to mean a balancing out of personality urges with those that stem entirely from within. It is more than this, especially for the pupil. It is a call to personality to become integrated, to unite with that which is missing, the outer with the inner, the inner with the outer, the objective with the subjective. When the personality is thus rounded out, the connections which it once had with the collective unconscious, are severed, there is nothing left to bind it or hold it in thrall. Then, with orientation to the soul, the disciple is able to bring down the energies of the superconscious, to construct linkages with the higher worlds, to build the necessary bridgeheads with it, to fashion, as it is described in the esoteric teachings, the Rainbow Bridgehead, the Antakarana.

Một số người có thể chỉ đọc điều này như là sự cân bằng giữa những xung lực của phàm ngã với những xung lực xuất phát hoàn toàn từ bên trong. Nó còn hơn thế, nhất là đối với môn sinh. Đó là một lời kêu gọi phàm ngã trở nên tích hợp, hợp nhất với cái còn thiếu, ngoại giới với nội giới, nội giới với ngoại giới, khách quan với chủ quan. Khi phàm ngã được viên mãn như vậy, những nối kết mà nó từng có với vô thức tập thể bị cắt đứt, không còn gì trói buộc nó hay cầm giữ nó trong ách nô lệ. Khi ấy, với định hướng về linh hồn, người đệ tử có thể dẫn giáng những năng lượng của siêu tâm thức, kiến tạo những liên kết với các thế giới cao hơn, xây dựng những đầu cầu cần thiết với chúng, chế tác, như được mô tả trong các giáo huấn huyền bí, Cây Cầu Vồng, antahkarana.

The resolution of the pairs of opposites leads to the integration of personality and its orientation to the soul. The reiteration of this statement in suitably altered language each day could well form the catechism of every discipleship. The prayer of St. Francis of Assisi shows clearly that problems related to the unconscious can be resolved by action or outer expression of the opposites of the inner stressors. The prayer ends with a description of the rewards that come from the superconscious when resolution of the opposites is attained.

Sự hóa giải các cặp đối cực đưa đến sự tích hợp phàm ngã và định hướng của nó về linh hồn. Sự lặp lại tuyên ngôn này, bằng lời thích hợp biến thiên mỗi ngày, hoàn toàn có thể tạo thành bài giáo điều nhật khóa của mọi địa vị đệ tử. Lời nguyện của Thánh Phanxicô thành Assisi cho thấy rõ ràng rằng những vấn đề liên quan đến vô thức có thể được giải quyết bằng hành động hay sự biểu lộ bên ngoài của các đối cực với những tác nhân gây căng thẳng bên trong. Lời nguyện kết lại bằng mô tả những phần thưởng đến từ siêu tâm thức khi sự hòa giải các mặt đối lập được đạt thành.

00015.jpeg

The freeing of consciousness by resolution of opposites, and from the thrall of the unconscious, constitutes the inevitable path for the pupil seeking the superconscious, the Fifth Kingdom. There are risks; there are innumerable pitfalls and no pupil escapes entirely unscarred. A concentrated period of lives, which the author calls a run-in must be endured in which freedom is won, in which spiritual consolidation is achieved and preparations are made for ‘the storming of the Kingdom of Heaven’. No one escapes. The wisest prepare themselves with self-initiated disciplines for overcoming the various obstacles and for the instability that threatens when the links or anchors with the subconscious are severed. Jung describes the process:

Việc giải phóng tâm thức bằng sự hòa giải các mặt đối lập, và khỏi ách của vô thức, cấu thành con đường tất yếu cho môn sinh tìm cầu siêu tâm thức, Giới Thứ Năm. Có những rủi ro; có vô số hố bẫy và không môn sinh nào thoát khỏi hoàn toàn không sứt sẹo. Một thời kỳ tập trung của nhiều kiếp, mà tác giả gọi là thời đoạn “chạy rà”, phải được chịu đựng, trong đó tự do được đoạt lấy, trong đó sự củng cố tinh thần được thành tựu và công tác chuẩn bị được làm cho “cuộc xung phong chiếm lĩnh Thiên Giới”. Không ai thoát được. Những người khôn ngoan tự chuẩn bị cho mình bằng các kỷ luật do chính mình đề xướng để vượt qua các chướng ngại khác nhau và để đối phó với sự bất ổn đe dọa khi các mối neo hay dây neo với tiềm thức bị cắt đứt. Jung mô tả tiến trình:

‘The more powerful and independent consciousness becomes, and with it the conscious will, the more is the unconscious forced into the background. When this happens, it becomes easily possible for the conscious structures to be detached from the unconscious images. Gaining thus in freedom, they break the chains of mere instinctiveness, and finally arrive at a state that is deprived of, or contrary to instinct. Consciousness thus torn from its roots and no longer able to appeal to the authority of the primordial images, possesses a Promethean freedom, it is true, but it also partakes of the nature of a godless hybris. It soars above the earth, even above mankind, but the danger of capsizing is there, not for every individual, to be sure, but collectively for the weak members of such a society, who, again Promethean-like, are bound by the unconscious to the Caucasus. The wise Chinese would say in the words of the I Ching: “When yang has reached its greatest strength, the dark power of yin is born within its depths; night begins at midday when yang breaks up and begins to change into yin.”‘

“Càng lúc tâm thức càng trở nên hùng mạnh và độc lập, cùng với nó là ý chí có ý thức, vô thức càng bị đẩy về hậu cảnh. Khi điều này xảy ra, rất dễ có thể để các cấu trúc của ý thức tách lìa khỏi các hình ảnh vô thức. Nhờ thế mà gia tăng tự do, chúng bẻ gãy xiềng xích của tính bản năng thuần túy, và rốt cuộc đạt đến một trạng thái bị tước đoạt, hoặc trái ngược với bản năng. Tâm thức bị xé khỏi cội rễ của nó như thế và không còn có thể kêu cầu thẩm quyền của các hình ảnh nguyên sơ, quả thật sở hữu một tự do Prometheus, nhưng nó cũng dự phần vào bản chất của thói ngạo mạn vô thần. Nó bay lượn trên mặt đất, thậm chí trên cả nhân loại, nhưng nguy cơ lật nhào vẫn ở đó, không phải cho từng cá nhân, đương nhiên, mà là tập thể cho những phần tử yếu của một xã hội như vậy, những người, một lần nữa, giống Prometheus, bị vô thức trói buộc vào dãy Caucasus. Người Trung Hoa khôn ngoan sẽ nói bằng lời của Kinh Dịch: “Khi dương đạt đến cực thịnh, quyền lực u tối của âm sinh ra trong sâu thẳm của nó; đêm bắt đầu vào giữa trưa khi dương tan rã và bắt đầu chuyển thành âm.””

Jung shows that only the strong can break the anchor-holds of the collective unconscious. When this is done a condition is produced in the Promethean, in which he is receptive to new ideas. He is, as it were, brainwashed of old concepts, old patterns of activity and old idols. He is not an iconoclast, for he is ready for new ideas and new idols. It is then that the inner Self gains its real opportunity to take hold and direct its lower triad, the personality. New anchors are now established by the aspirant with the Fifth Kingdom, the hierarchy of Masters. This new realm complements the lower primordial archetypes described in Jung’s collective unconscious. It is the higher counterpart of those lower anchors which, hitherto, bound the man to primordial images. These anchors may be regarded as the strands of a psychic path, a sort of rope ladder up which, in the manner of Jacob’s ladder, the disciple must mount to enter a new kingdom.

Jung cho thấy chỉ những người mạnh mẽ mới có thể bẻ gãy những mối neo của vô thức tập thể. Khi điều này được thực hiện, một tình trạng được tạo ra nơi con người Prometheus, trong đó y trở nên dễ tiếp nhận những ý tưởng mới. Hệt như thể y được “tẩy não” khỏi các khái niệm cũ, các mô thức hoạt động cũ và những thần tượng cũ. Y không phải là một kẻ đập phá tượng thần, bởi y sẵn sàng cho những ý tưởng mới và những thần tượng mới. Chính khi đó Chân Ngã nội tại giành được cơ hội thực sự để nắm quyền và điều khiển tam phân thấp của mình, tức phàm ngã. Những mỏ neo mới bây giờ được người chí nguyện thiết lập với Giới Thứ Năm, Thánh Đoàn các Chân sư. Cõi giới mới này bổ sung cho các nguyên mẫu nguyên thủy thấp hơn được mô tả trong vô thức tập thể của Jung. Nó là đối phần cao của những mỏ neo thấp hơn đã, từ trước đến nay, trói buộc con người vào những hình ảnh nguyên sơ. Những mỏ neo này có thể được xem như các sợi của một nẻo đường tâm linh, một thứ thang dây mà, theo kiểu “cái thang của Gia-cóp”, người đệ tử phải leo lên để bước vào một giới mới.

Part of it may be described as the Antakarana of meditation, or the Rainbow Bridge between the upper and lower triads.* The link is already faintly established by the initiates of old, or, to put it into modern terminology, within its morphogenic fields which, in their turn, were evolved through the first-born of mankind, those who have fought their way into a greater measure of light than average man knows. The rope, the ladder or the thread is there, for all who would take it. We merely need to unveil it for it is hidden beneath the cobwebs of ritual and religious dogma. To mount it, we need, in the early stages, to practise traditional methods of focus and self-discipline. This is the path of initiation, and it can be hard and cruel. But its rewards are commensurate with the new vistas and the new polarisations which occur as one mounts the cliff face.

Một phần của nó có thể được mô tả là antahkarana của tham thiền, hay Cây Cầu Vồng giữa tam nguyên trên và tam phân dưới.* Liên kết này đã được thiết lập một cách mờ nhạt bởi các điểm đạo đồ thời xưa, hay, nói theo thuật ngữ hiện đại, trong các trường hình thái sinh của nó, vốn đến lượt chúng, đã được phát triển thông qua những trưởng tử của nhân loại, những người đã chiến đấu để đi vào một mức độ ánh sáng lớn hơn mức người thường biết. Sợi dây, cái thang hay sợi tuyến ở đó, cho tất cả những ai muốn nắm lấy. Chúng ta chỉ cần vén mở nó vì nó bị ẩn dưới mạng nhện của nghi lễ và giáo điều tôn giáo. Để leo lên nó, chúng ta cần, ở các giai đoạn đầu, thực hành các phương pháp truyền thống về tập trung và tự kỷ luật. Đây là Con Đường Điểm Đạo, và nó có thể khắc nghiệt và tàn nhẫn. Nhưng phần thưởng của nó tương xứng với các viễn tượng mới và các phân cực mới xảy đến khi người ta trèo lên vách đá.

* This is discussed in great detail in both of the author’s works: The Opening of the Third Eye, and Meditation, the Theory and Practice.

* Điều này được bàn luận rất chi tiết trong cả hai tác phẩm của tác giả: và

The superconscious experience of Edward Maitland, illustrates something of this process. Edward Maitland, the co-worker of Anna Kingsford, had an experience which Jung referred to in The Secret of the Golden Flower but it comes from Anna Kingsford, Her Life, Letters, Diary and Work by Edward Maitland, who discovered that during reflection on an idea, related ideas became visible, so to speak, in a long series, apparently back to their source, which to him was divine spirit. By means of concentration on the series, he made the effort to press on to their origin. This origin, the author interprets as the superconscious realm. He writes:

Trải nghiệm siêu tâm thức của Edward Maitland minh họa đôi điều về tiến trình này. Edward Maitland, cộng sự của Anna Kingsford, đã có một trải nghiệm được Jung nhắc tới trong Bí mật của Hoa Vàng nhưng nó đến từ Anna Kingsford, Đời sống, Thư từ, Nhật ký và Công trình của Edward Maitland, người khám phá rằng trong lúc trầm tư về một ý tưởng, những ý tưởng liên hệ trở nên hiển lộ, nói vậy, thành một chuỗi dài, dường như ngược về nguồn của chúng, mà với ông là Thần Linh thiêng liêng. Bằng cách tập trung vào chuỗi ấy, ông đã nỗ lực đi thẳng tới cội nguồn của chúng. Cội nguồn này, tác giả diễn giải như là cảnh giới siêu tâm thức. Ông viết:

‘I was absolutely without knowledge or expectation when I yielded to the impulse to make the attempt. I simply experimented on a faculty … being seated at my writing table the while in order to record the results as they came, and resolved to retain my hold on my outer and circumferential consciousness, no matter how far towards my inner and central consciousness I might go. For I knew not whether I should be able to regain the former if once I quitted my hold of it, or to recollect the facts of the experience. At length I achieved my object, though only by a strong effort, the tension occasioned by the endeavour to keep both extremes of the consciousness in view at once being very great’.

“Tôi hoàn toàn không có tri thức hay mong đợi nào khi tôi chiều theo xung lực làm thử nghiệm ấy. Tôi đơn giản thí nghiệm trên một năng lực … trong khi ngồi bên bàn viết để ghi lại các kết quả khi chúng đến, và quyết tâm giữ chặt lấy tâm thức ngoại vi và chu vi của mình, bất kể tôi có thể đi xa đến mức nào hướng về tâm thức nội tâm và trung tâm. Vì tôi không biết liệu nếu một khi buông tay khỏi cái trước, tôi có thể giành lại được nó hay không, hoặc có thể hồi tưởng các sự kiện của trải nghiệm hay không. Sau cùng tôi đã đạt mục tiêu của mình, dù chỉ bằng một nỗ lực mạnh mẽ, căng thẳng do cố gắng giữ cả hai cực của tâm thức cùng lúc trong tầm nhìn là rất lớn.”

‘Once well started on my quest, I found myself traversing a succession of spheres or belts … the impression produced being that of mounting a vast ladder stretching from the circumference towards the centre of a system, which was at once my own system, the solar system, and the universal system, the three systems being at once diverse and identical …. Presently, by a supreme, and by what I felt must be a final, effort … I succeeded in polarising the whole of the convergent rays of consciousness into the desired focus. And at the same instant, as if through the sudden ignition of the rays thus fused into a unity, I found myself thus confronted with a glory of unspeakable whiteness and brightness and of lustre so intense as well-nigh to beat me back …. But though feeling that I had no need to explore further, I resolved to make assurance doubly sure by piercing if I could the almost blinding lustre, and seeing what it enshrined. With a great effort I succeeded, and the glance revealed to me that which I felt must be there …. It was the dual form of the Son… the unmanifest made manifest, the unformulate formulate, the unindividuate individuate, God as the Lord, proving through His duality that God is substance as well as Force, Love as well as Will, Feminine as well as Masculine, Mother as well as Father.’—Anna Kingsford, Her Life, Letters, Diary and Work by Edward Maitland.

“Một khi đã khởi sự tốt đẹp cuộc truy tầm, tôi thấy mình đang vượt qua một chuỗi các cầu vực hay vành đai … ấn tượng tạo thành là đang leo lên một cái thang khổng lồ vươn từ chu vi hướng về trung tâm của một hệ thống, vốn đồng thời là hệ thống của chính tôi, hệ thống Thái dương, và hệ thống vũ trụ, ba hệ thống vừa khác biệt vừa đồng nhất … Rồi thì, bằng một nỗ lực tột độ, và theo cảm nhận của tôi hẳn là một nỗ lực cuối cùng … tôi đã thành công trong việc phân cực toàn bộ những tia hội tụ của tâm thức vào tiêu điểm mong muốn. Và tức khắc, như thể do sự bùng cháy đột nhiên của những tia hợp nhất thành một thể duy nhất, tôi thấy mình đối diện với một hào quang trắng ngời không thể tả và một quang lệ chói lòa đến mức hầu như đẩy tôi lùi lại … Nhưng dù cảm thấy rằng tôi không cần khám phá xa hơn, tôi quyết định phải chắc chắn gấp đôi bằng cách xuyên qua, nếu có thể, luồng quang lệ hầu như làm lóa mắt ấy, và xem nó bao hàm điều gì. Với một nỗ lực lớn, tôi đã thành công, và cái nhìn hé lộ cho tôi điều mà tôi cảm thấy chắc chắn phải ở đó … Đó là hình thể lưỡng nhất của Con—cái vô hiển trở nên hiển, cái vô hình thể trở nên hình thể, cái vô cá thể trở nên cá thể, Thượng Đế như là Chúa, chứng minh qua tính lưỡng nhất của Ngài rằng Thượng Đế là Bản thể cũng như là Lực, là Tình thương cũng như là Ý chí, là Nữ cũng như là Nam, là Mẹ cũng như là Cha.” — Anna Kingsford, Đời sống, Thư từ, Nhật ký và Công trình của Edward Maitland.

00004.jpeg

He found that God is two in one like man. Besides this he noticed a suspension of breathing. He took this Being to be the entelechy of Aristotle, and the inner Christ of the Apostle Paul, the spiritual and substantial individuality engendered within the physical and phenomenal personality, and representing, therefore, the rebirth of the man on a plane transcending the material.

Ông nhận thấy Thượng Đế là hai trong một như con người. Ngoài ra, ông để ý thấy sự đình chỉ hơi thở. Ông xem Sinh Thể này là đích thể của Aristotle, và là Chúa Kitô nội tâm của Tông đồ Phao-lô, là cá thể tinh thần và bản thể được sinh ra trong phàm ngã vật chất và hiện tượng, và bởi thế, đại diện cho sự tái sinh của con người trên một cõi vượt ngoài vật chất.

Though the ordeal of separating oneself from the anchorages that bind the disciple to his own and individual share of the unconscious, is harsh and productive of immense stress, the rewards will come. Of the individuation process Jung writes:

Dù cuộc thử thách tự tách khỏi những neo buộc trói người đệ tử với phần riêng của y trong vô thức của chính mình là khắc nghiệt và gây căng thẳng to lớn, phần thưởng sẽ đến. Về tiến trình cá thể hóa Jung viết:

‘It is as if a river that had run to waste in sluggish sidestreams and marshes suddenly found its way back to its proper bed, or as if a stone lying on a germinating seed were lifted away so that the shoot could begin its natural growth.’—The Development of Personality, by Carl Jung.

“Như thể một con sông vốn đổ lãng phí vào những nhánh bên lờ đờ và những đầm lầy, bỗng tìm lại đường trở về lòng sông thích đáng của nó, hoặc như thể một hòn đá nằm đè lên một hạt giống đang nảy mầm được nhấc đi để chồi non có thể bắt đầu tăng trưởng tự nhiên.” — Sự Phát Triển của Nhân Cách , của Carl Jung.

The disciple learns to cooperate actively with the forces of the collective unconsciousness in order to resolve problems within his own framework, to remove repressions and to open channels for the input of energies from the collective superconscious. He must not only perform these disciplines but recognise that he is being assisted by Beings Who inhabit the world of the superconscious as ordinary Man does that of the waking consciousness. They, the Masters, can do much for the pupil, but, because of the very nature of consciousness, as we have here described it, the pupil must do most of the hard work himself. There is no other way. This is especially true when energies are being directed into Sahasrara chakra, the crowning glory of Man. In the spiral of consciousness, the pupil becomes aware of other schemes of evolution, of hierarchies of life, invisible to ordinary eyes who are not only using this planet as much as we do for their own expression, but whose very nature and materials constitute the same energy reservoirs that we have been considering here.

Người đệ tử học cách hợp tác tích cực với các lực của vô thức tập thể để giải quyết các vấn đề trong khung tham chiếu của chính mình, loại bỏ những ức chế và mở các kênh cho dòng năng lượng đi vào từ siêu tâm thức tập thể. Y không chỉ phải thực hiện những kỷ luật này mà còn phải nhận ra rằng y đang được các Đấng cư ngụ trong thế giới của siêu tâm thức trợ giúp, như Con Người bình thường cư ngụ trong thế giới của tâm thức tỉnh. Các Ngài, các Chân sư, có thể làm được nhiều cho môn sinh, nhưng, vì chính bản chất của tâm thức, như chúng ta đã mô tả ở đây, môn sinh phải tự mình làm phần lớn công việc khó nhọc. Không có cách nào khác. Điều này đặc biệt đúng khi các năng lượng đang được dẫn vào luân xa sahasrara, vinh quang tối thượng của Con Người. Trên đường xoắn ốc của tâm thức, môn sinh trở nên nhận biết các hệ tiến hóa khác, các Huyền Giai của sự sống, vô hình đối với những đôi mắt bình thường, những Huyền Giai không chỉ sử dụng hành tinh này như chúng ta sử dụng cho sự biểu lộ của chính mình, mà bản chất và chất liệu của chính Các Ngài còn cấu thành những hồ chứa năng lượng mà chúng ta đang xem xét ở đây.

This means that the disciple must open his awareness to the vibrations of atrna-buddhi-manas, must learn to fashion the Antakarana out of his own spiritual substance so that the same three energies will descend into his aura. He must also practise a way of life that will ensure the flow of spiritualising energies, thus described, will become a permanent and ever-increasing feature of his nature. Pupilage is not impossible without integration of personality but the sharing of hierarchical work is restricted without it. Massive plans burden the Masters during the present time of change from one age into another and They seek help. But They will not entrust a portion of the Plan to those who have not yet been able to prove that they can manage their own emotional bodies, let alone that of the Planetary Logos!

Điều này có nghĩa là người đệ tử phải mở rộng nhận biết của y đối với những rung động của atma–Bồ đề–manas, phải học cách chế tác antahkarana từ chính chất liệu tinh thần của y để cùng những ba năng lượng ấy giáng nhập vào hào quang y. Y cũng phải thực hành một lối sống sẽ bảo đảm cho dòng chảy của các năng lượng tinh thần hóa, như được mô tả, trở nên một đặc trưng thường hằng và ngày càng gia tăng của bản tính y. Địa vị môn sinh không phải là điều bất khả nếu thiếu sự tích hợp phàm ngã nhưng việc chia sẻ công việc của Huyền Giai bị hạn chế nếu không có nó. Những kế hoạch đồ sộ đang đè nặng lên các Chân sư trong thời đoạn chuyển đổi từ một kỷ nguyên sang một kỷ nguyên khác hiện nay và Các Ngài tìm sự giúp đỡ. Nhưng Các Ngài sẽ không giao phó một phần của Thiên Cơ cho những người chưa thể chứng tỏ rằng họ có thể quản trị thân cảm xúc của chính mình, huống hồ là thân thể của Hành Tinh Thượng đế!

Which impacts from the collective unconscious are registered most strongly? Why are we not all affected alike? The answer lies in the vibratory rates of the permanent atoms of our various vehicles, by the Rays that play upon them, and the state of the person’s karma, good or evil. This is not the place to go into theosophical detail concerning the mechanisms at play. But it is interesting to observe the way in which Jung grappled with this abstruse matter:

Những tác động nào từ vô thức tập thể được ghi nhận mạnh mẽ nhất? Vì sao chúng ta không bị ảnh hưởng giống nhau? Câu trả lời nằm ở các tần suất rung động của các Nguyên tử trường tồn của các vận cụ khác nhau của chúng ta, bởi các Cung chiếu rọi trên chúng, và bởi trạng thái nghiệp của người đó, thiện hay ác. Đây không phải là nơi để đi vào chi tiết Thông Thiên Học về những cơ chế đang vận hành. Nhưng thật thú vị để quan sát cách Jung vật lộn với vấn đề thâm áo này:

‘Although our inheritance consists in physiological paths, it was nevertheless mental processes in our ancestors that traced these paths. If they came to consciousness again in the individual, they can do so only in the form of other mental processes; and although these processes can become conscious only through individual experience and consequently appear as individual acquisitions, they are nevertheless pre-existent traces which are merely ‘filled out’ by the individual experience. Probably every impressive experience is just such a break-through into an old, previously unconscious riverbed.’ —On Psychic Energy by Carl Jung.

‘Dẫu gia tài của chúng ta gồm những lối mòn sinh lý, thì chính các tiến trình trí tuệ nơi tổ tiên đã vạch nên các lối mòn ấy. Nếu chúng tái hiện trong tâm thức cá nhân, chúng chỉ có thể làm vậy dưới hình thức của những tiến trình trí tuệ khác; và tuy các tiến trình này chỉ có thể trở nên tự tri qua kinh nghiệm cá nhân và vì thế xuất hiện như những sở đắc cá nhân, chúng vẫn là những dấu vết tiền hữu, chỉ được “lấp đầy” bởi kinh nghiệm cá nhân. Có lẽ mọi kinh nghiệm gây ấn tượng mạnh đều là một cuộc phá vỡ để tràn vào lòng sông cổ xưa vốn vô thức.’ — Về Năng lượng Thông linh của Carl Jung.

SECTION FIVEIndividuation and Personality Integration

00003.jpeg

Approaching the Superconscious—Tiệm cận Siêu tâm thức

How does one approach the Superconscious? No one can be, or will be given specific instructions. The way can only be pointed out. Taking the way, coaches the pupil, brings out the latent powers which he possesses to succeed on the Path. Every step brings growth and spiritual maturation as it does to the muscular and nervous systems of a toddling child. Thus, the journey is the goal. Look not for results but devote your energies to living the life which the Path demands. There are many variables but there is only one constant and that is integration of personality. There are many pitfalls but only one abyss, and that is glamour. There are many diversions and the greatest of these is maya. There are many prerequisites but the first and last is malleability. The snares are as many as the heads of hydra but the most insidious of these is pride.

Làm sao tiệm cận Siêu tâm thức? Không ai có thể, hay sẽ được ban chỉ dẫn rành rọt. Con đường chỉ có thể được chỉ cho. Dấn bước trên đường, rèn luyện môn sinh, khơi dậy các năng lực tiềm ẩn mà y sở hữu để thành công trên Con Đường. Mỗi bước đi mang lại trưởng dưỡng và chín muồi tinh thần cũng như nó mang lại cho hệ cơ và thần kinh của một đứa trẻ chập chững. Do đó, hành trình chính là mục đích. Đừng trông đợi kết quả, mà hãy dốc năng lượng sống như đời sống mà Con Đường đòi hỏi. Có nhiều biến số nhưng chỉ có một hằng số, ấy là sự tích hợp phàm ngã. Có nhiều cạm bẫy nhưng chỉ một vực thẳm, ấy là ảo cảm. Có nhiều thứ làm xao lãng và lớn nhất trong số đó là ảo lực. Có nhiều điều kiện tiên quyết nhưng đầu tiên và sau cùng là tính dễ uốn nắn. Bẫy rập nhiều như đầu rắn chín đầu hydra, nhưng thâm hiểm nhất trong đó là kiêu mạn.

The pupil can be sure that no Soul will want to leave the Wheel of Rebirth until it has extracted every lesson that a personality can provide. Proof of a personality having reached such a stage of growth that the soul is satiated, is in its manifested integration. Complete integration of personality is the climax of many lives in which the soul has savoured of every human situation and experience, has garnered the fruits of all experience that the planet can offer.

Môn sinh có thể chắc rằng chẳng có Linh hồn nào muốn rời Bánh xe Luân Hồi cho đến khi đã chiết xuất mọi bài học mà một phàm ngã có thể cung ứng. Bằng chứng cho một phàm ngã đã đạt đến giai đoạn trưởng dưỡng khiến linh hồn no đủ chính là ở sự biểu hiện tích hợp của nó. Sự tích hợp trọn vẹn của phàm ngã là cao điểm của nhiều đời sống trong đó linh hồn đã nếm trải mọi tình huống và kinh nghiệm nhân sinh, đã gặt hái trái ngọt của mọi kinh nghiệm mà hành tinh có thể trao.

There comes then a rounding out of the last flaws in the great rotating disc which marks the aura of such a being. Come what may, the disc is undinted by any stroke of fate:

Rồi sẽ đến lúc mài giũa những vết xước cuối cùng trên chiếc đĩa quay vĩ đại vốn đánh dấu hào quang của một hữu thể như thế. Dầu thế sự có dâu bể, chiếc đĩa ấy không sứt mẻ bởi bất kỳ nhát búa nào của định mệnh:

In the fell clutch of circumstance,

Trong vuốt nanh hiểm ác của hoàn cảnh,

I have not winced, nor cried aloud;

Ta chẳng hề nao núng, chẳng kêu than;

Under the bludgeonings of chance,

Dưới những trận đòn ngẫu nạn phũ phàng,

My head is bloodied but unbowed.

Đầu ta máu chảy, nhưng không hề cúi xuống.

There is no neurosis, no psychosis and no dependence. The note of the personality is single and sustained. It is the blending of mind, emotions and the etheric energies of good health. It is only mildly soul-infused. There is nothing more for it to learn, as a personality; there are no new sensations to attract it or distract it. The mechanism is complete. It is prime and it is primed. Its charge released is unopposable.

Không có loạn thần, không có tâm bệnh, không có lệ thuộc. Chủ âm của phàm ngã là đơn nhất và ngân dài. Ấy là sự hòa quyện của trí, cảm và các sinh lực dĩ thái của sức khỏe tốt. Nó chỉ được linh hồn thấm nhuần một cách nhẹ nhàng. Không còn gì để nó học, như một phàm ngã; không còn cảm giác mới nào để hấp dẫn hay làm xao lãng nó. Bộ máy đã hoàn chỉnh. Nó ở vào độ chín, và đã được nạp. Khi điểm hỏa, lực xung của nó không gì cưỡng nổi.

Each integrated personality is, if he only knew it, on a count-down and the detonation point, if it is reached, is an explosion of awareness. I choose my words here with the utmost care. There is tension and increasing restlessness, not that which is born from the inability to solve personality issues or to reconcile environmental matters, but the divine unrest which is registered through the omnipresence of the explosive potential of imminent expansions of the inner Self. At any point the count-down may be halted by a resurgence of interest in the material world, but when spiritual matters are again taken up, the countdown continues from where it left off. This is true also of the process when it is spread over many lives. Episodes will bring an individual to a crisis point in which the count-down stage of the previous life is reached, and thereafter, everything is intensified because a new stage of the real and ultimate countdown has begun.

Mỗi phàm ngã tích hợp, nếu y biết điều đó, đang ở trong giai đoạn đếm ngược, và điểm kích nổ—nếu chạm tới—là một cuộc bùng nổ của nhận biết. Tôi cân nhắc lời mình ở đây với mức cẩn trọng tột cùng. Có một sức căng và nỗi bồn chồn gia tăng—không phải thứ sinh từ bất lực trong giải quyết các vấn đề của phàm ngã hay điều hòa những chuyện môi trường—mà là nỗi xao động thiêng liêng được ghi nhận xuyên qua tính hiện diện khắp nơi của tiềm năng bùng nổ do những mở rộng cận kề của Nội Ngã. Bất cứ lúc nào việc đếm ngược cũng có thể bị ngưng do hứng thú với thế giới vật chất trỗi dậy, nhưng khi các vấn đề tinh thần lại được cầm lên, việc đếm ngược tiếp tục từ nơi nó dang dở. Điều này cũng đúng khi tiến trình trải qua nhiều kiếp. Những biến cố sẽ đưa một cá nhân đến điểm khủng hoảng nơi đó giai đoạn đếm ngược của tiền kiếp được chạm tới, và từ đó, mọi thứ được tăng cường vì một giai đoạn mới của cuộc đếm ngược chân thật và tối hậu đã khởi sự.

Enormous numbers of businessmen already fall into this category, leaders of groups, sportsmen, teachers, and soldiers. When they are introvert, the personality Ray is usually the Second. When they are extrovert, it is most frequently the First. Most integrated personalities direct their energies to matters which are not in line with the purpose of their inner Self. Their intellects, powerful and authoritative, are no sounding-board for the intuition of their souls. This is more true of the First than of the Second Ray personalities. On the other hand, the isolation of the First Ray frequently brings its personality to heed the only advice it is prepared to take … from within. The pity of the planet at this time is that these precious integrated beings cannot be reached by the hierarchy of Masters so that their special energies can be directed into affairs that are evolutionary in terms of spirit. The examples that they can set, once they are spiritually orientated would alone make them capable of changing the planet overnight.

Một số rất lớn các nhà kinh doanh đã thuộc loại này, các lãnh đạo nhóm, vận động viên, thầy giáo, và quân nhân. Khi họ hướng nội, cung phàm ngã thường là Cung hai. Khi họ hướng ngoại, thường nhất là Cung một. Phần lớn các phàm ngã tích hợp hướng năng lượng của mình vào những việc không ăn hợp với mục đích của Nội Ngã. Trí năng của họ—mạnh mẽ và có uy—không phải là hộp cộng hưởng cho trực giác của linh hồn họ. Điều này đúng với phàm ngã Cung một hơn là Cung hai. Mặt khác, tính cô lập của Cung một thường đưa phàm ngã đến chỗ lắng nghe lời khuyên duy nhất mà nó sẵn sàng nhận … từ bên trong. Điểu đáng tiếc cho hành tinh lúc này là những hữu thể tích hợp quý báu ấy không thể được Thánh Đoàn các Chân sư tiếp cận hầu định hướng đặc thù các năng lực của họ vào những công việc mang tính thăng thượng theo phương diện tinh thần. Chỉ riêng những gương mẫu mà họ có thể nêu ra, một khi đã được định hướng tinh thần, cũng đủ khiến họ có khả năng thay đổi hành tinh chỉ sau một đêm.

The Soul’s purpose for each of them, did they but know it, incorporates the necessity for their integrated personalities, their dearest possessions to be marshalled towards expression of the inner Self. Where this is achieved the personality becomes the mirror of the soul, a Taj Mahal of tranquillity, an expressive edifice radiating Truth, Beauty and Goodness.

Mục đích của Linh hồn dành cho mỗi người trong họ—giá như họ biết—hàm chứa sự tất yếu rằng các phàm ngã tích hợp của họ, sở hữu quý giá nhất của họ, phải được tập hợp để biểu lộ Nội Ngã. Nơi nào đạt được điều này, phàm ngã trở thành tấm gương của linh hồn, một Taj Mahal của tĩnh lặng, một kiến trúc diễn đạt phát xạ Chân, Thiện, Mỹ.

00002.jpeg

The integrated personality, once soul aligned, becomes a reflector of the higher Self, a dazzling entity flashing its brilliance into the lives of all about it, as a teacher, a healer, an artist or a philosopher. That state lies way in the future for most. But it need not. The personality is the very field that is most readily available and the most important to the pupil for remoulding. Generally, it is the most neglected of the vehicles. An ego-trip should not be mistaken for a journey into integration but rather the slipping into a sidetrack for purposes of ventilating some hidden defect leading to caricaturisation rather than symmetry. So many who could achieve integration just will not fully commit themselves. They fear stress and involvement. They hide from the facts of the esoteric life and focus their attention on fragments of their nature which do not need attention at all.

Phàm ngã tích hợp, một khi đã chỉnh hợp với linh hồn, trở thành bộ phản chiếu của Chân Ngã, một thực thể chói lóa phóng chiếu quang huy vào đời sống của tất cả những ai quanh mình—như một người thầy, một người chữa lành, một nghệ sĩ hay một triết gia. Trạng thái ấy còn xa trong tương lai đối với đa số. Nhưng không nhất thiết phải như vậy. Phàm ngã chính là cánh đồng sẵn có nhất và quan trọng nhất cho môn sinh tái tạo. Nói chung, đó là vận cụ bị bỏ bê nhất. Một cuộc phô trương phàm ngã không nên bị lầm với một hành trình vào sự tích hợp, mà đúng hơn là sự trật đường rẽ tắt để xả van một khiếm khuyết ẩn, đưa đến biếm họa thay vì cân xứng. Biết bao người có thể đạt tích hợp nhưng không chịu dấn thân trọn vẹn. Họ sợ căng thẳng và dính dự. Họ trốn tránh các sự kiện của đời sống huyền bí và dồn chú tâm vào những mảnh vụn trong bản tánh vốn chẳng cần được chú ý chút nào.

History records many examples of men who have ‘heard the call of their country,’ received higher assignations or just unceremoniously but quite plainly withdrew from society. Emanuel Swedenborg left a brilliant career in science to map out the frontiers of the superconscious realms with which he was suddenly confronted. Sir Francis Bacon was another who suddenly withdrew at the height of his career. Socrates on the advice of his daemon refused exile and preferred to take the hemlock, a prelude to his taking over the body of his young pupil Plato.

Lịch sử ghi nhiều trường hợp những người đã “nghe tiếng gọi quê hương”, nhận các sứ mệnh cao cả hơn, hoặc đơn giản rút khỏi xã hội một cách không kiểu cách nhưng rất hiển nhiên. Emanuel Swedenborg rời bỏ một sự nghiệp khoa học rực rỡ để vẽ bản đồ các biên cương của những cõi siêu tâm thức bất chợt mở ra trước mặt ông. Sir Francis Bacon cũng là người đột ngột rút lui ở đỉnh cao sự nghiệp. Socrates, theo lời mách bảo của linh thần, đã từ chối lưu đày và chọn uống độc dược, như khúc dạo đầu cho việc ông tiếp quản thân xác của môn sinh trẻ Plato.

When the personality is rounded out, when the disciple is under the stress that comes with re-orientation, when divine unrest is rampant beneath the breast, then the urgent presence of the soul is felt and cannot be denied:

Khi phàm ngã đã tròn đầy, khi đệ tử đang ở dưới sức ép đến từ tái-định hướng, khi nỗi xao động thiêng liêng dậy sóng dưới lồng ngực, thì sự hiện diện khẩn thiết của linh hồn được cảm thọ và không thể chối từ:

I fled Him down the nights and down the days;

Ta chạy trốn Ngài suốt những đêm, những ngày;

I fled Him down the arches of the years;

Ta chạy trốn Ngài dọc vòm năm tháng;

I fled Him down the labyrinthine ways

Ta chạy trốn Ngài qua mê lộ đường quanh

Of my own mind, and in the midst of tears

Của chính trí ta, và giữa dòng lệ ứa

I hid from Him, and under running laughter,

Ta trốn Ngài, dưới những tiếng cười vang,

 Up vistaed hopes I sped;

Tôi phóng mình theo những hy vọng mở viễn kiến;

 And shot, precipitated,

Và lao, và rơi, ngã nhào,

Adown Titanic glooms of chasme’d fears,

Xuống những u minh khổng lồ của nỗi sợ hãi bị xẻ vực,

From those strong Feet that followed, followed after,

Khỏi Những Bước Chân mạnh mẽ bám đuổi phía sau,

 But with unhurrying chase,

Nhưng cuộc đuổi theo không vội vã,

 And unperturbed pace,

Và sải bước không xao động,

Deliberate speed, majestic instancy,

Tốc độ đĩnh đạc, thôi thúc uy nghi,

 They beat—and a Voice beat

Chúng dồn dập—và một Tiếng Nói vang

 More instant than the Feet—

Còn dồn dập hơn cả Những Bước Chân—

‘All things betray thee, who betrayest me’.

“Mọi sự đều phản bội ngươi, hỡi kẻ phản bội Ta”.

The Hound of Heaven, by Francis Thompson.

The Hound of Heaven , của Francis Thompson.

Sometimes the inner demand for sacrifice of the personality to the higher Self is so sudden that a death-wish is registered, literally. Self-immolation may occur or, in its place, the seeking out of some cause in which to be martyred. Buddhist monks have thus set themselves ablaze possibly even believing that the inner fires that they were experiencing were urgings to them to follow suit in the outer casing. Thus did Thomas a Beckett seek martyrdom.*

Đôi khi đòi hỏi nội tâm về việc hiến dâng phàm ngã cho Chân Ngã xảy đến quá đột ngột đến nỗi một ước muốn chết được ghi nhận, theo nghĩa đen. Tự thiêu có thể xảy ra, hoặc thay vào đó, là đi tìm một chính nghĩa nào đó để tự tử đạo. Các nhà sư Phật giáo đã tự đốt mình có lẽ tin rằng những ngọn lửa nội tâm họ đang nếm trải là những thôi thúc buộc họ phải làm tương tự trong chiếc vỏ bên ngoài. Thomas à Beckett cũng đã đi tìm tử đạo như thế.*

* Murder in the Cathedral, by T.S. Eliot.

* Murder in the Cathedral , của T.S. Eliot.

00021.jpeg

Weakness of personality is characterised by fragmentation. The individual is not constant in personality traits. He is ever acting out the little dramas associated with the life of each personality he assumes during the day. In schizophrenia, this is taken to the point of psychosis. On the other hand integration of personality comes when there is a strong central consciousness which is unswayed by events and does not slip into the puppet-acting out of roles which weaker subjects resort to. The integrated personality learns detachment at emotional and mental levels. He uses his personality as a master craftsman handles a fine instrument, dispassionately, though he is capable of passion; one-pointedly, though he is quite capable of spreading his attention over diverse interests. He is actually the possessor of his vehicles. He runs them, they do not run him. He is the rajah or lord of his attributes:

Sự yếu kém của phàm ngã được đặc trưng bởi tính phân mảnh. Cá nhân không bền định trong các nét tính cách phàm ngã. Y cứ diễn những vở kịch con con gắn với đời sống của từng phàm ngã mà y khoác lên suốt ngày. Trong tâm phân liệt, điều này bị đẩy đến mức loạn thần. Trái lại, tích hợp phàm ngã đến khi có một tâm thức trung tâm mạnh mẽ, không bị chao đảo bởi biến cố và không trượt vào lối diễn rối, mà những người yếu hơn thường dùng để đóng các vai. Phàm ngã tích hợp học sự tách rời ở các cấp cảm xúc và trí tuệ. Y sử dụng phàm ngã của mình như một bậc thầy thủ công xử một nhạc cụ tinh xảo—vô tư, dẫu y có khả năng nhiệt tình; nhất tâm, dẫu y thừa sức rải chú ý lên nhiều mối quan tâm đa dạng. Thực ra y là người sở hữu các vận cụ của mình. Y điều khiển chúng, chứ không phải chúng điều khiển y. Y là vị vương hay chúa tể của các thuộc tính nơi mình:

They that have power to hurt, and will do none,

Những kẻ có quyền gây thương tổn mà không hề làm,

That do not do the thing they most do show,

Những kẻ chẳng làm điều mà họ tỏ ra nhiều nhất,

Who, moving others, are themselves as stone,

Những kẻ, khiến người khác xao động, mà tự mình như đá,

Unmoved, cold, and to temptation slow;

Bất động, lạnh lùng, chậm chạp trước cám dỗ;

They rightly do inherit heaven’s graces,

Họ xứng đáng thừa hưởng ân sủng trời cao,

And husband nature’s riches from expense;

Và khéo quản giữ của cải thiên nhiên khỏi phung phí;

They are the lords and owners of their faces,

Họ là chúa tể và chủ nhân dung nhan mình,

Others, but stewards of their excellence.

Kẻ khác chỉ là quản gia cho nét đẹp nơi họ.

The summer’s flower is to the summer sweet,

Hoa mùa hạ ngọt ngào với mùa hạ,

Though to itself, it only live and die,

Dẫu với chính nó, chỉ sống rồi tàn,

But if that flower with base infection meet,

Nhưng nếu hoa kia gặp vết nhơ thấp hèn,

The basest weed outbraves his dignity:

Cỏ dại hèn hạ nhất còn dám vượt qua phẩm giá nó:

 For sweetest things turn sourest by their deeds;

Vì những gì ngọt ngào nhất có thể thành chua chát bởi hành vi;

 Lilies that fester, smell far worse than weeds.

Bách hợp nếu thối rữa, hôi còn hơn cỏ dại.

Sonnet 94, by William Shakespeare

Sonnet 94 , của William Shakespeare

The integrated personality is beginning to sense his immortality and his higher purpose. He can look down on the scene of life and observe it in perspective. Whereas in meditation he learns to say, ‘I am That’ in reference to his Higher Self, in daily life he can look down on his various activities knowing that he is more than a series of personalities adopted or discarded according to the mood and the circumstances. He can look at them and say ‘I am not That!’ In meditation we learn to identify ourselves with this Silent One, this real possessor of the vehicles of consciousness and learn to affirm with meaning ‘I am that’:

Phàm ngã tích hợp đang bắt đầu cảm nhận tính bất tử và mục đích cao hơn của mình. Y có thể nhìn xuống sân khấu đời sống và quan sát nó trong viễn tượng. Trong khi trong tham thiền y học nói “Ta là Cái Ấy” nhắm đến Chân Ngã, thì trong đời sống hằng ngày y có thể nhìn xuống các hoạt động của mình, biết rằng mình hơn hẳn một chuỗi phàm ngã được khoác vào hay bỏ ra tùy tâm trạng và hoàn cảnh. Y có thể nhìn chúng và nói “Ta không phải Cái Ấy!” Trong tham thiền, chúng ta học đồng hóa với Vị Im Lặng ấy, với vị thực sự sở hữu các vận cụ của tâm thức, và học khẳng định một cách thâm nghĩa “Ta là Cái Ấy”:

• ‘I am not just this physical body that may be, at the moment, lying in the corner in a drunken stupor. Surely, I am something more than this.’

• “Ta không chỉ là thân xác này, mà lúc này có thể đang nằm ở góc nhà trong cơn mê man vì rượu. Chắc chắn Ta là cái gì đó hơn thế.”

• ‘I am not this emotionally distraught entity fuming in a traffic jam.’

• “Ta không phải là thực thể bấn loạn cảm xúc đang bốc khói trong tắc đường.”

• ‘I am not this coldly calculating individual pouring over a microscope, in deep analysis.’

• “Ta không phải là kẻ lạnh lùng tính toán đang cặm cụi bên kính hiển vi, chìm trong phân tích.”

• ‘I am THAT within, the NUCLEUS of my being.’

• “Ta là CÁI ẤY ở bên trong, HẠT NHÂN của hữu thể Ta.”

• ‘I am the prisoner of my five senses which anchor me to the rim of my wheel and thence to the wheel of rebirth.’

• “Ta là kẻ tù của năm giác quan, những cái mỏ neo ghim Ta vào vành bánh xe của chính mình, và từ đó vào bánh xe luân hồi.”

• ‘It is they and my various personalities which say … “I am lonely” … “I am weary” … “I am sexy” … “I am hungry” … “I am unappreciated” …’

• “Chính chúng và các phàm ngã khác nhau của Ta nói … ‘Ta cô đơn’ … ‘Ta mệt mỏi’ … ‘Ta ham muốn’ … ‘Ta đói’ … ‘Ta bị xem thường’ …”

We are always identifying ourselves with these little ‘I’s,’ which lie on the rim of the wheel of consciousness. And we are too preoccupied with these diversions to be aware of the real ‘I’, the hub of the wheel. We feel naked without the little I’s and are comforted and diverted by them … There’s the ‘I’ we present to a class of school children if we are a teacher, And then there’s the very different ‘I’ that we show to the bank manager when we ask for a loan! There’s the ‘I’ we keep for our wives … and one for our children … and pets. These are the unenduring parts of our nature … They are the rim of the wheel in contact with harsh or smooth soil. Meanwhile, the hub is hidden. We are diverted by the glamour of maya, by the feathers of the peacock!

Chúng ta luôn đồng hóa mình với những cái “Ta” nhỏ bé ấy, vốn nằm trên vành bánh xe tâm thức. Và chúng ta quá bận bịu với những trò xao lãng này đến mức không kịp nhận ra “Ta” thật, cái trục bánh xe. Ta cảm thấy trần trụi nếu thiếu những cái Ta nhỏ và được chúng an ủi, làm cho lạc hướng … Có cái “Ta” ta bày ra trước một lớp học sinh nếu ta là giáo viên. Rồi lại có một cái “Ta” rất khác ta phô ra trước giám đốc ngân hàng khi đi vay! Có cái “Ta” ta dành cho vợ … cho con … và cho thú cưng. Đó là những phần không bền lâu của bản tánh ta … Chúng là vành bánh xe tiếp xúc với mặt đất sần sùi hay mịn màng. Trong khi ấy, cái trục bị che khuất. Chúng ta bị ảo cảm của ảo lực đánh lạc hướng, bởi lông công sặc sỡ!

00019.jpeg

The five initiations may be seen as graded steps on the Path to continuity of superconscious experience. They are the Jacob’s Ladder. In terms of deva essence, this path to the Fifth Kingdom represents the anchorage of a solar deva within the heart region of the neophyte and its progressive development into a radiant entity, the subjective reflection of all the disciple’s outer consciousness. Pupilage teaches the aspirant to become more deva-like for, at the fifth initiation, Man becomes both a Solar Deva as well as a super-man, an adept or Master of the Wisdom. It is through this solar entity, residing in the Heart Chakra that man reaches the Heart of the Sun. He becomes an Arhat, an initiate of the fourth degree.

Năm cuộc điểm đạo có thể được xem như những bậc thang tuần tự trên Con Đường dẫn đến tính liên tục của kinh nghiệm siêu tâm thức. Chúng là chiếc Thang của Jacob. Xét theo tinh chất thiên thần, con đường đến Giới thứ năm biểu thị sự neo đậu của một vị thiên thần Thái dương trong vùng tim của người sơ cơ và sự phát triển tiến triển của vị ấy thành một thực thể rực rỡ, phản ảnh chủ quan của mọi tâm thức bên ngoài của đệ tử. Địa vị đệ tử dạy người chí nguyện trở nên thiên-thần-hóa hơn, vì đến lần điểm đạo thứ năm, Con Người trở thành vừa là một Thiên thần Thái dương vừa là một siêu-nhân, một chân sư, một Bậc Thầy của Minh triết. Chính qua thực thể Thái dương này, cư ngụ nơi Luân xa Tim, mà con người đạt tới Trái tim của Mặt Trời. Y trở thành một A-la-hán, một điểm đạo đồ bậc bốn.

But the element of Will is disseminated by Pupilage too and this grows apace after the third initiation. ‘Not my will but Thy will be done, O Lord’, is the cry that is wrung from the Initiate on the mountaintop of Initiation, the Burning Ground. It is the energy of the monad that is now felt. It represents the forces of spiritual attraction. The soul is now almost entirely blended with the personality; the causal body is gloriously ablaze, being progressively burnt away by the spiritual fires that descend whenever the pupil reaches the summit of the mountain in his meditation or in acts of inner alignment. The monad has registered all and sets in motion its mechanisms for extracting those precious qualities which bring it spiritual staying power.

Nhưng yếu tố Ý chí cũng được Địa vị đệ tử truyền rải, và điều này tăng trưởng nhanh sau lần điểm đạo thứ ba. “Không phải ý của con, mà là Ý của Cha được nên, lạy Chúa” là tiếng kêu thét bật lên nơi vị Điểm đạo đồ trên đỉnh núi Điểm đạo, Vùng đất Cháy. Ấy là năng lượng của Chân Thần giờ đây được cảm thọ. Nó biểu thị các lực hút tinh thần. Linh hồn giờ gần như hòa quyện hoàn toàn với phàm ngã; thể nguyên nhân rực cháy vinh quang, đang bị thiêu dần bởi những ngọn lửa tinh thần giáng xuống bất kỳ khi nào môn sinh đạt đỉnh núi trong tham thiền hay trong các lần chỉnh hợp nội tâm. Chân Thần đã ghi nhận tất cả và khởi động các cơ chế của mình để trích luyện những phẩm chất quý giá mang lại cho nó sức bền tinh thần.

All these events centre on one supreme act that will change the Initiate for all time. There is felt strongly an irresistable obsession to surrender the most precious possession which the pupil has, something he has nurtured all his days, that has even been his master at times, the source of his glory, his reputation. It is something he has fashioned himself, laboriously through many lives, giving it his all. This is his integrated personality-a unified, polished instrument … his dearest possession. He offers it, irrevocably, to be used completely and without reservations by his inner Self, his Master.

Mọi biến cố này quy tụ quanh một hành vi tối thượng sẽ đổi thay vị Điểm đạo đồ mãi mãi. Có một ám lực không thể cưỡng buộc y phải hiến dâng của sở hữu quý giá nhất—điều y đã nuôi dưỡng suốt đời, đôi khi còn làm chủ y, là nguồn vinh quang, thanh danh của y. Ấy là điều y đã tự mình nhào nặn, nhọc nhằn qua nhiều kiếp, dâng cho nó tất cả. Đó là phàm ngã tích hợp của y—một khí cụ hợp nhất, bóng loáng … sở hữu yêu dấu nhất. Y dâng nó, không thể thu hồi, để được hoàn toàn sử dụng, không chút dè dặt, bởi Nội Ngã, bởi vị Thầy của y.

There is a flame within me that has stood

Có một ngọn lửa trong ta đứng vững

Unmoved, untroubled through a mist of years,

Bất động, không nao qua sương mù năm tháng,

Knowing nor love nor laughter, hope nor fears,

Không biết yêu hay cười, hy vọng hay sợ hãi,

Nor foolish throb of ill, nor wine of good.

Không nhịp dại khờ của dữ, không men rượu của lành.

I feel no shadow of the winds that brood,

Ta không cảm bóng của những luồng gió ấp ủ,

I hear no whisper of a tide that veers,

Không nghe thì thầm của một con triều đổi hướng,

I weave no thought of passion, nor of tears,

Ta không dệt tư tưởng đam mê, cũng chẳng đan sầu lệ,

Unfettered I of time, of habitude.

Ta không bị câu thúc bởi thời gian, thói quen.

I know no birth, I know no death that chills;

Ta không biết sinh, không biết tử lành buốt;

I fear no fate nor fashion, cause nor creed,

Ta chẳng sợ định mệnh hay mốt thời, nguyên do hay tín điều,

I shall outdream the slumber of the hills,

Ta sẽ mơ vượt giấc ngủ của đồi nương,

I am the bud, the flower, I the seed:

Ta là nụ, là hoa, ta là hạt giống:

For I do know that in whate’er I see

Vì ta biết rằng trong mọi điều ta thấy

I am the part and it the soul of me.

Ta là phần của nó, còn nó là linh hồn của ta.

—John Spencer Muirhead.

—John Spencer Muirhead.

In the Old Testament, this act, which every Man must ultimately perform in his own symbolic way, is described in patriarchal language in the story of Abraham who, in answer to the higher call is prepared to sacrifice his most beloved possession, his son Isaac. He takes the boy to the mountain top—of Initiation—and prepares him for sacrifice at the Lord’s insistence. He ties the boy to the altar and raises the dagger. But an angel of the Lord stays his hand. He has proved the preparedness to undertake the sacrificial act. It is enough. The Lord, or monad accepts the offering.

Trong Cựu Ước, hành vi mà mọi Con Người rốt cuộc phải thực hiện theo cách biểu tượng riêng của mình được mô tả bằng ngôn ngữ phụ hệ trong truyện Abraham, người—đáp lời gọi cao hơn—sẵn sàng hiến tế sở hữu quý yêu nhất, con trai ông là Isaac. Ông đem đứa bé lên đỉnh núi—của Điểm đạo—và sửa soạn hiến tế theo lệnh Chúa. Ông trói đứa bé lên bàn thờ và giơ dao. Nhưng một thiên thần của Chúa đã chặn tay ông. Ông đã chứng minh sự sẵn lòng thực hiện hành vi hiến tế. Như vậy là đủ. Chúa—tức Chân Thần—chấp nhận lễ dâng.

00022.jpeg

Thereafter, everything may have to be taken into the service of the Lord and used in whatever service the Father in Heaven may decide. Thus, the Will of the Monad, thenceforth dominates in all matters. Family, fortune, work, leisure, health … all are now divine property, in the possession of the Higher Self. A harsh act? No, merely the Law! The great mystery temples of Egypt, Greece, Rome and Albion (ancient Briton) were constructed in such a way to conform to Law … cosmic laws. The novitiate had those laws dramatically demonstrated to him at Stonehenge where the Sun would suddenly appear at an exact place (over the heel-stone) and time (dawn in mid-winter).

Từ đó, mọi sự có thể phải được đem vào phụng sự Chúa và sử dụng trong bất cứ công tác nào mà Cha Trên Trời quyết định. Như thế, Ý Chí của Chân Thần từ đây thống trị trong mọi sự. Gia đình, tài sản, công việc, thư nhàn, sức khỏe … tất cả giờ là sở hữu thiêng liêng, thuộc quyền sở hữu của Chân Ngã. Một hành vi khắc nghiệt ư? Không, chỉ là Định luật! Các đền bí nhiệm vĩ đại của Ai Cập, Hy Lạp, La Mã và Albion (Briton cổ) được kiến tạo để phù hợp với Định luật … các định luật vũ trụ. Người tập sự được thị phạm những định luật ấy một cách sinh động ở Stonehenge, nơi Mặt Trời bất chợt xuất hiện tại một vị trí chính xác (trên “đá gót”) và vào một thời khắc chính xác (bình minh giữa đông chí).

But the same Law also says that there will be an influx of energy, spiritual force commensurate with the sacrificial action taken. Whatever the pupil now does will be suffused with spiritual fire. His teachings, if he is to teach, are more effective as the fire beams out through his eyes. His healing, if he is to heal, works more widely and effectively than he ever knew. Every action is emphasised in its results in ways he finds impossible to explain. He realises, because of this, how important it was to purify himself, for the vilest acts as well as the most divine will now be enhanced.

Nhưng cùng Định luật cũng nói rằng sẽ có một dòng năng lượng tuôn tràn, một mãnh lực tinh thần tương xứng với hành vi hy sinh đã thực hiện. Bất cứ việc gì môn sinh giờ làm sẽ thấm nhuần hỏa quang tinh thần. Lời dạy của y, nếu y sẽ dạy, trở nên hiệu quả hơn khi lửa chiếu tỏa qua đôi mắt. Sự chữa lành của y, nếu y sẽ chữa lành, sẽ tác động rộng và hiệu hơn xưa nhiều. Mọi hành vi đều được nhấn mạnh trong kết quả theo những cách y thấy bất khả giải thích. Vì thế y nhận ra tầm trọng yếu của việc tự thanh lọc, bởi những hành vi hạ liệt nhất cũng như điều thiêng liêng nhất, từ nay, đều sẽ bị khuếch đại.

‘Lilies that fester, smell far worse than weeds.’

“Bách hợp nếu thối rữa, hôi còn hơn cỏ dại.”

This was made the theme of English mysticism …. purification, search and service, i.e. self-purification, inner search and outer service. For some, the descent from the mountain top is a reality that can barely be endured. The personality takes time to recognise that the higher-Self will always, and thenceforth, be with it. Return from samadhi to the mundane world is like donning garments weighted with lead. Perhaps the author may be forgiven for quoting his own experience after extended ecstasy very early in discipleship

Đây đã trở thành chủ đề của khuynh hướng thần bí Anh … thanh lọc, kiếm tìm và phụng sự, tức tự thanh lọc, nội cầu và ngoại sự. Với một số người, bước xuống từ đỉnh núi là một hiện thực khó mà chịu đựng được. Phàm ngã cần thời gian để nhận ra rằng Chân Ngã sẽ luôn luôn—và từ đó về sau—ở cùng nó. Trở về từ samadhi với cõi phàm như khoác lại những tấm áo dày chì. Có lẽ tác giả được thứ lỗi nếu trích trải nghiệm riêng sau một cơn ngây ngất kéo dài rất sớm trong địa vị đệ tử:

Now comes the veil of leaded loneliness

Giờ đây tới bức màn cô độc đúc chì,

False dawn, dashing dreams of eternal night.

Bình minh giả, đập tan mộng đêm vĩnh cửu.

Eyes, aware of lids, unslant; the tetanus

Mắt, chợt biết đến mi, hé nghiêng; cơn cứng

Of muscle unbinding, rotates anew

Của cơ bắp tháo gỡ, lại xoay

The unbraked wheel of man’s mortality

Bánh xe không thắng của phận người tử mệnh,

And memory, time’s widow is back

Và ký ức, người góa phụ của thời gian, trở lại,

Fretful of results. He’s causality;

Sốt sắng đòi thành tựu. Nàng là nhân quả;

She is flesh, weakness bereaved of His might.

Nàng là xác phàm, yếu ớt khi lìa bỏ Quyền Năng của Người.

Fussed by all her daughters, the senses five

Bị bầy con gái—năm giác quan—quấy rầy

Claim her constant care. Inquisitive touch

Đòi nàng săn sóc không ngơi. Xúc giác tò mò

Is foremost, goaded on by wary sight

Là chị cả, bị thị giác cảnh giác thúc giục,

Easily dazzled in multi-pleated skirt.

Dễ lóa mắt trong những nếp váy diêm dúa.

Hearing, her twin, diverse and talkative,

Thính giác—em sinh đôi—đa đoan, lắm lời,

Loud in stripes, conceals embarrassed Fragrance

Lớn tiếng khoe khoang, che giấu Hương Thơm xấu hổ

Nicknamed smell, and behind her, fickle Taste

Tên mệnh danh là khứu, và sau nàng, Vị Giác thất thường

With buttons bursting, pats a flabby waist.

Cúc áo bật tung, vỗ về eo mềm nhão.

What company to keep the endless day,

Đó là bạn đồng hành giữ ta suốt ngày dài,

Deceitful modellers of the unbaked clay!’

Những nhà nặn hình điêu ngoa trên đất sét chưa nung!

The disciple needs to be sure that he has something for the sacrifice. Whatever it is must be put together and then it must be tested. Only the best offerings are accepted on the table-top of the mountain of initiation.

Đệ tử cần chắc rằng mình có thứ gì để hiến tế. Dù là gì, nó phải được ráp lại, rồi phải được thử luyện. Chỉ những lễ phẩm hảo hạng mới được chấp nhận trên mặt bàn đỉnh núi của Điểm đạo.

Accepted pupils strongly influenced by the First Ray of Will and Power have to struggle virtually alone to achieve initiation. If they were to be accorded the assistance and encouragement given to those polarized to the Second Ray of Love-Wisdom, then there would be no struggle for them at all. And the essence of Initiation is struggle, trial and test in which the metal of the pupil’s personality must survive the mounting blows of fate as karma adjusts itself. It must respond to the mystical cajoling of the audio-visual glories of the fast-unfolding inner worlds and it must resist the enticement of siddhis like astral projection.

Các môn sinh được thu nhận chịu ảnh hưởng mạnh của Cung một—Ý chí và Quyền lực—hầu như phải tự lực mà tranh đấu để đạt Điểm đạo. Nếu họ được ban sự trợ giúp và khích lệ như dành cho những người phân cực Cung hai—Bác ái-Minh triết—thì với họ sẽ chẳng còn tranh đấu. Mà tinh túy của Điểm đạo chính là tranh đấu, thử thách và khảo nghiệm, nơi kim loại của phàm ngã môn sinh phải chịu đựng được những nhát búa ngày một nặng của định mệnh khi nghiệp quả tự điều chỉnh. Nó phải biết đáp ứng trước những vỗ về thần bí của các huy hoàng thị-thính nơi các nội giới đang mở bung nhanh chóng, và phải cưỡng nổi sự quyến rũ của các siddhi như phóng chiếu thể cảm dục.

Only the personality which is completely integrated, in which all three bodies, the physical, emotional and mental, are fully developed and completely under the control, is able to endure, nay, even survive the application of the planetary rod (of initiation) to the head centres clustered about the third ventricle of the brain, the core of the magnetic aura. Only he who has been malleable, tempered and tested in the hall of experience is ready for the hall of Initiation. Anyone less eligible would not get past even the Dweller of the Threshold let alone survive the flash of planetary fire on the Burning Ground.

Chỉ có phàm ngã hoàn toàn tích hợp, trong đó cả ba thể—hồng trần, cảm dục và trí tuệ—đều phát triển đầy đủ và hoàn toàn dưới quyền kiểm soát, mới có thể chịu đựng, hơn nữa, sống sót qua việc Thần Trượng Điểm đạo hành tinh được áp vào các trung tâm ở đầu, vốn tụ quanh não thất thứ ba nơi lõi của hào quang từ tính. Chỉ kẻ đã mềm dẻo, được tôi luyện và thử thách trong phòng kinh nghiệm mới sẵn sàng bước vào phòng Điểm đạo. Bất kỳ ai kém đủ tư cách còn chẳng qua nổi cả Kẻ Chận Ngõ, huống hồ sống sót qua tia chớp của hỏa lực hành tinh trên Vùng đất Cháy.

If you have never known the sickening thrill of a straight flush; if you have never paused, guilty, ‘in the rank sweat of an ensemened bed’; or clapped your hands to ears that would shut out the screams of scorching tank entombed men; or, true blue, have never quelled the nausea of protesting organs with gulps of C20H5; or friendless in the great alone, have never heard the winds speak, or the earth move; or hounded by some unknown force, have not plunged deep in every glittering pool and have not emerged from all of these crying ever, ‘Not this! Not this!’, then these words are not for you. The Burning Ground is not for you, not yet; not until every call of the flesh is answered; not until every material mesh has clung to you. But, when richest in experience … experience beyond your wildest dreams … and when poorest in attachment to them, then comes the Burning Ground.

Nếu anh chưa từng biết cái rùng rợn buồn nôn của một “thùng phá sảnh”; chưa từng dừng lại, tội lỗi, “trong mồ hôi hôi hám của một chiếc giường đẫm giống”; hay bịt tai muốn chặn tiếng thét của những người đàn ông bị vùi trong xe tăng cháy đỏ; hoặc, ngay thẳng, chưa từng dập tắt cơn buồn nôn của các cơ quan phản đối bằng những ngụm C20H5; hay cô độc trong đại cô tịch, chưa từng nghe gió nói, hay đất chuyển; hay bị một lực vô danh săn đuổi, chưa từng lao xuống mọi hồ nước lấp lánh và chưa từng trồi lên khỏi tất cả những điều ấy mà không kêu lên mãi, “Không phải cái này! Không phải cái này!”, thì những lời này không dành cho anh. Vùng đất Cháy không dành cho anh—chưa—không phải cho đến khi mọi tiếng gọi của xác phàm đã được đáp lại; không phải cho đến khi mọi lưới vật chất đã bám chặt lấy anh. Nhưng, khi phong phú nhất trong kinh nghiệm … những kinh nghiệm vượt ngoài mộng tưởng hoang dại nhất … và khi nghèo nhất trong luyến trước với chúng, lúc ấy Vùng đất Cháy sẽ đến.

Then Paul, three days blinded by the shaft of light; then Hiram Abiff taking the blow; then Arjuna, on the field of battle; then St. Augustine, reeling before the City of God; then Lulley confronting the cancerous breast; then Socrates drinking the hemlock; then More, facing the scaffold; then Swedenborg’s madness and Bacon’s treason; then all will have meaning. For you, the Initiate, there will be an end to your cry of ‘Not this!’ Instead, from the cliffs, of your own mind you will proclaim for Initiates to hear, ‘THIS!’ And joyfully you will tread your way back down the mountainside and take up your yoke next to your fellowman, knowing full well why you pull, what you pull, and where you pull it.

Bấy giờ Phao-lô, bị quầng sáng làm mù ba ngày; bấy giờ Hiram Abiff nhận đòn đánh; bấy giờ Arjuna trên cánh đồng trận mạc; bấy giờ Thánh Augustine, choáng ngợp trước Thành của Chúa; bấy giờ Lulley đối diện bầu vú ung thư; bấy giờ Socrates uống độc dược; bấy giờ More đối mặt đoạn đầu đài; bấy giờ cơn điên của Swedenborg và vụ phản trắc của Bacon; bấy giờ tất cả sẽ có ý nghĩa. Với anh, vị Điểm đạo đồ, tiếng kêu “Không phải cái này!” sẽ kết thúc. Thay vào đó, từ những vách đá của chính trí anh, anh sẽ hô lên cho các Điểm đạo đồ nghe: “CHÍNH CÁI NÀY!” Và hân hoan, anh sẽ rảo bước trở xuống sườn núi và vác ách của mình bên cạnh đồng loại, biết rất rõ vì sao anh kéo, anh kéo cái gì, và anh kéo về đâu.

THIS comes to everyone. It comes when it is least expected. It comes in a life chosen for the event, and thereafter it comes in every life like a divine right. It comes in that last desperate and bitter run-in of incarnations that pins us in quick succession to the Crosses of the Zodiac. It comes to us after the welter of all our experiences in many lives on Earth has brought us to our knees. Armed with the self-reliance and integration of personality, which our broad, varied and intense experiences have brought us, we can survive the Burning Ground.

ĐIỀU ẤY đến với mọi người. Nó đến khi ít ngờ nhất. Nó đến trong một đời sống được chọn cho biến cố ấy, và từ đó nó đến trong mọi đời như một đặc quyền thiêng liêng. Nó đến trong những chặng chạy nước rút tuyệt vọng và đắng đót cuối cùng của chuỗi lâm phàm, ghim chúng ta liên tiếp lên các Thập Giá của Hoàng đạo. Nó đến với ta sau khi mớ bòng bong của mọi kinh nghiệm trong nhiều kiếp sống trên Địa Cầu đã dìm ta xuống tận gối. Được trang bị bằng tự lực cánh sinh và sự tích hợp phàm ngã mà những trải nghiệm rộng, đa dạng và mãnh liệt đã ban cho ta, ta có thể vượt qua Vùng đất Cháy.

There is no other criterion but involvement in the whole gamut of experience which the material world has to offer, in some life or another; nothing, not even pure spirit can evolve without it.

Không có tiêu chí nào khác ngoài sự dấn thân vào trọn bộ gam trải nghiệm mà thế giới vật chất có thể biếu tặng—trong kiếp này hay kiếp khác; không gì, kể cả thần linh thuần khiết, có thể tiến hóa nếu thiếu nó.

One does not have to be a trained occultist to come within reach of the Burning Ground or a rambling mystic: ‘The lover, the madman and the poet are of imagination compact’. It is the crises survived that matter and not the ecclesiastical, commercial or social rank of the man.

Không cần phải là một nhà huyền bí học được đào luyện hay một nhà thần bí lãng du mới đến gần Vùng đất Cháy: “Kẻ đang yêu, kẻ điên và thi sĩ đều đúc bằng chất tưởng tượng.” Điều hệ trọng là những cơn khủng hoảng đã vượt qua, chứ không phải là phẩm trật giáo hội, địa vị thương nghiệp hay xã hội của con người ấy.

Emerson exhorted the timid to search for self-reliance in experience as a precursor for self-unfoldment. Discontent, insecurity and fear all stem from lack of experience and indicate the need for self-reliance. The world cries out for the one, who having fought against Nature, at last learns to work with her laws. There are those who offer to give up the many vices and assume the qualities of a virtuous life without ever having experienced the temptation of such vices. The result is that when they are confronted with the real thing, temptation on the physical and later on the astral, they go down like ninepins. It is easy to say that you can give up smoking, alcohol or sex when you have never been really involved in them.

Emerson khích lệ người rụt rè hãy tìm tự lực trong kinh nghiệm như tiền đề cho tự triển lộ. Bất mãn, bất an và sợ hãi đều bắt nguồn từ thiếu kinh nghiệm và chỉ ra nhu cầu tự lực. Thế giới kêu đòi người, người đã tranh chiến chống lại Tự Nhiên, rốt cuộc biết cộng tác với các định luật của Nàng. Có những kẻ đề nghị từ bỏ nhiều thói xấu và khoác lên các phẩm hạnh của đời sống đức hạnh mà chưa từng nếm trải sự cám dỗ của các thói xấu ấy. Hệ quả là khi đối mặt với điều thực—sự cám dỗ ở cõi hồng trần và sau đó ở cõi cảm dục—họ đổ sụp như những quân ki. Dễ thôi để nói rằng anh có thể bỏ thuốc lá, rượu hay tình dục khi anh chưa từng thực sự vướng vào chúng.

If you were accepted into discipleship on such a basis, the chances are that with the higher sensitivity coming from occult techniques of self-unfoldment, you would succumb to the first real temptations from these directions. It is truly said that when man treads the Path all that is ‘good’ and all that is ‘evil’ is thrown to the surface. It is much better to have faced the problems on the surface during one’s probationary discipleship than to have to face them all at once when you are deeply engaged in exploration of the inner worlds which comes with accepted discipleship.

Nếu anh được thu nhận vào địa vị đệ tử trên nền tảng như thế, nhiều phần là với độ nhạy bén cao hơn đến từ các kỹ thuật huyền môn của tự triển lộ, anh sẽ khuất phục trước những cám dỗ thật sự đầu tiên từ các hướng đó. Người ta nói rất đúng rằng khi con người bước trên Con Đường, mọi điều “thiện” và mọi điều “ác” đều bị ném lên bề mặt. Tốt hơn nhiều là đối diện các vấn đề trên bề mặt trong thời kỳ đệ tử dự bị của mình, hơn là phải đối diện tất cả cùng lúc khi anh đang dấn sâu vào việc thám hiểm các nội giới vốn đến với địa vị đệ tử được thu nhận.

Give me the hardened sinner who has fought and won his battles against the blows of fate and has yet remained malleable to the rod of initiation. Rather him than the whimpering, timorous nincompoop full of his own virtuosities afraid of truth as well as temptation, of being led astray, of death and the life hereafter. Give me someone who has fashioned his own life no matter what the result rather than he who has merely accepted what society has chosen for him.

Hãy trao tôi kẻ tội lỗi từng trải, người đã tranh đấu và thắng trong trận đòn của định mệnh nhưng vẫn còn mềm dẻo trước Thần Trượng Điểm đạo. Tôi thà nhận người ấy hơn là kẻ uốn éo rên rỉ, rụt rè, ngu si, đầy những đức hạnh của chính mình, sợ sự thật cũng như sợ cám dỗ, sợ bị dẫn lạc, sợ cái chết và cuộc sống bên kia. Hãy trao tôi người đã tự nhào nặn đời mình—bất chấp kết quả—hơn kẻ chỉ thụ động chấp nhận những gì xã hội chọn giùm.

It is of such stuff that the engineer capable of constructing the three-fold bridge of the Antakarana is made. He learns to build with atma-buddhi-manas.

Chất liệu để làm nên người kỹ sư có thể kiến tạo cây cầu tam phân của antahkarana là như thế. Y học xây bằng atma-buddhi-manas.

00024.jpeg

As Emerson put it:-

Như Emerson nói:—

‘We want men and women who shall renovate life and our social state, but we see that most natures are insolvent; cannot satisfy their own wants, have an ambition out of all proportion to their practical force, and do so lean and beg, day and night, continually. Our housekeeping is mendicant; our arts, our occupations, our marriages, our religion, we have not chosen, but society has chosen for us. We are parlour soldiers. The rugged battle of fate where strength is born, we shun.’

“Chúng ta cần những người nam và nữ sẽ làm mới đời sống và tình trạng xã hội của ta, nhưng ta thấy đa số bản tánh là phá sản; họ không thể thỏa mãn nhu cầu chính mình, nuôi những tham vọng vượt xa năng lực thực tiễn, và gầy guộc đến nỗi phải vay xin, ngày đêm, không ngừng. Việc gia quản của ta là ăn mày; nghệ thuật, nghề nghiệp, hôn nhân, tôn giáo của ta—ta không tự chọn, mà xã hội đã chọn giùm. Chúng ta là những người lính phòng khách. Trận chiến gồ ghề của định mệnh, nơi sức mạnh được sinh ra, ta đều né tránh.”

‘If our young men miscarry in their first enterprise, they lose all heart. If the young merchant fails, men say he is ruined. If the finest genius studies at one of our colleges, and is not installed in office it seems to his friends and to himself he is right in complaining the rest of his life. A sturdy lad … who in turn tries all the professions, who teams it, farms it, peddles, keeps a school, preaches, edits a newspaper, goes to congress, buys a township, and so forth, in successive years, and always, like a cat, falls on his feet, is worth a hundred of these city dolls. He has not one chance but a hundred chances.’

“Nếu chàng trai trẻ thất bại trong công cuộc đầu tiên, họ mất hết can đảm. Nếu chàng thương gia trẻ vỡ nợ, người ta bảo anh ta tiêu rồi. Nếu thiên tài lỗi lạc nhất học ở một trong các trường của ta mà không được cất nhắc vào chức vị, thì dường như đối với bạn bè và chính anh ta, anh ta có quyền phàn nàn phần đời còn lại. Một chàng trai rắn rỏi … lần lượt thử mọi nghề, lúc thì đánh xe, làm nông, buôn gánh bán bưng, mở lớp học, giảng đạo, biên tập báo, vào quốc hội, mua một khu thị trấn, v.v., qua từng năm kế tiếp, và luôn luôn, như con mèo, rơi xuống bằng chân mình, đáng giá bằng hàng trăm búp bê thành thị kia. Anh ta không có một cơ hội mà có cả trăm cơ hội.”

‘Regret calamities if you can thereby help the sufferer; if not, attend your own work, and already the evil begins to be repaired. Our sympathy is just as base. We come to them who weep foolishly, and sit down and cry for company, instead of imparting to them truth and health in rough electric shocks, putting them once more in communication with the soul. Welcome ever more to gods and men is the self-helping man. For him all doors are flung open’.

“Hãy tiếc thương tai ương nếu anh có thể nhờ đó giúp người khổ; nếu không, hãy lo công việc của mình, và cái ác đã bắt đầu được chữa. Lòng trắc ẩn của ta cũng hèn kém như thế. Ta đến với những ai khóc than dại dột, và ngồi xuống than khóc cho có bạn, thay vì truyền cho họ chân lý và sức khỏe bằng những cú điện giật thô ráp, đưa họ một lần nữa kết nối với linh hồn. Luôn luôn được chào đón—bởi chư thần và bởi người—là kẻ biết tự giúp mình. Với người ấy, mọi cánh cửa đều mở toang.”

Yea, even the door of Initiation!

Phải, ngay cả cánh cửa của Điểm đạo!

The world is full of men with the seed of genius but so very few of them have the phallus to implant their seed, or the courage born of experience to nurture it in the rough soil of the environment. Where are we to find prospective initiates who are the real guardians of the human race which Plato described in his Republic? Are they to be found only in novels like Maugham’s Razor’s Edge or in Zanoni, the novel by Bulwer Lytton, himself an Initiate? Or do we recognise them only after they are dead, like the saints of old? They are here amongst us even now. They are sometimes known to us as a Winston Churchill or a Jan Smuts, themselves both intimate friends and who, even now, work actively on the inner planes. With the eye of occult discrimination, you can pick them out, the Laurence Olivier’s, who work openly or those who slave in backwaters like Albert Schweitzer. Watch them, searching, serving, seeking, experiencing. They follow, not the self-made rules, standards and codes of men but their self-made laws, caring not for public censure or comment.

Thế giới đầy những người có hạt giống thiên tài, nhưng quá ít người có khí phách để gieo hạt của mình, hay có dũng khí sinh từ trải nghiệm để nuôi dưỡng nó trong mảnh đất sỏi đá của môi trường. Ta sẽ tìm đâu ra những Điểm đạo đồ tương lai—những người hộ vệ đích thực của nhân loại—mà Plato đã mô tả trong Cộng Hòa ? Họ chỉ có trong tiểu thuyết như Lưỡi Dao của Maugham, hay trong Zanoni , tiểu thuyết của Bulwer Lytton—chính ông là một Điểm đạo đồ? Hay ta chỉ nhận ra họ sau khi họ chết, như các thánh xưa? Họ đang ở giữa chúng ta ngay bây giờ. Đôi khi ta biết họ dưới tên một Winston Churchill hay một Jan Smuts—đôi bạn thân—và ngay cả lúc này vẫn còn hoạt động trên các cõi nội. Với con mắt phân biện huyền bí, anh có thể nhận ra họ: những Laurence Olivier, những người làm việc công khai, hay những kẻ miệt mài nơi dòng sông vắng như Albert Schweitzer. Hãy quan sát họ: kiếm tìm, phụng sự, truy cầu, trải nghiệm. Họ không theo những quy tắc, tiêu chuẩn và bộ luật do người đời tự đặt, mà theo những định luật do chính họ tự đặt, chẳng bận tâm đến lời chê trách hay bình luận của công chúng.

Some believe that the English king, Arthur was a substituted figure for the biblical Abraham, some that he was the instrument of Merlin, the English Master of that time. Others feel that Arthur symbolises the way for all who tread the Path. The truth is that Arthur was a real person in rebellion against church practices and the people saw in him a liberator who blended both temporal and holy power in leadership. Arising out of the truth and the legend surrounding him, there has been and always will be, for the English, sufficient mystical symbology in Arthur, to cater for all their needs. Arthur was said to have won his right to kingship through the implementation of an old prophesy that he who could draw a certain sword from its anchorage in heavy stone, would rule England. No knight had yet achieved this impossibility until the advent of Arthur.

Có người tin rằng vị vua Anh, Arthur là một hình tượng thay thế cho Abraham trong Kinh Thánh; người khác cho rằng ông là khí cụ của Merlin, vị Chân sư người Anh thời đó. Lại có kẻ cảm thấy Arthur biểu trưng con đường cho mọi ai dấn bước trên Thánh Đạo. Sự thật là Arthur là một con người có thực, nổi loạn chống các thực hành nhà thờ, và dân chúng thấy nơi ông một người giải phóng—kẻ hòa phối cả quyền lực thế tục lẫn thánh quyền trong lãnh đạo. Từ sự thật và huyền thoại quanh ông đã trổ sinh—và mãi sẽ còn—đối với người Anh, một lượng biểu tượng thần bí đủ cho mọi nhu cầu của họ. Người ta nói Arthur giành quyền vương đế nhờ ứng nghiệm một lời sấm cổ: ai có thể rút một thanh gươm khỏi chỗ neo của nó trong khối đá nặng sẽ cai trị nước Anh. Chưa hiệp sĩ nào làm được điều bất khả ấy cho đến khi Arthur xuất hiện.

00026.jpeg

‘And on the Twelfth day the Knights and Barons came again, but none could draw the sword out but Arthur. When they saw this, many of the barons became angry and cried out that they would never own a boy for king whose blood was not better than their own. So it was agreed to wait till Candlemas, when more knights might be there …. but at Candlemas it was the same thing, and at Easter. And when Pentecost came, the common people who were present, and saw Arthur pull out the sword cried with one voice that he was their king, and they would kill any man who said differently. Then rich and poor fell on their knees before him, and Arthur took the sword and offered it upon the altar where the archbishop stood, and the best man that was there made him knight. After that the crown was put on his head and he swore to his lords and commons that he would be a true king, and would do them justice all the days of his life.’The reigning monarch, the sword and the stone, have a very important symbology for the disciple. The monarch is the Master of the Wisdom. The sword embedded in the stone is the disciple immersed in his dharma and embedded in his attachments. The sword is two-edged. The disciple should be sharpened like the sword. He should be equipped to serve in Both worlds; in the outer world as an integrated personality and in the inner world with a thorough knowledge of esoteric laws, psychology and esoteric astrology. He must be FREE. No Master will stand in a queue awaiting the attention of a pupil. He, the adept, must come first. This does not mean that the Master encourages the shirking of the dharma, far from it. Obligations must be met; the personality must be equipped, the pupil must be freed from attachments to the collective unconscious, to the material worlds, to codes of conduct and ethics and laws that are man-made. Then he can be used by the Master and given a share of the Plan entrusted with the Hierarchy.

“Và vào Ngày thứ mười hai, các hiệp sĩ và nam tước lại đến, nhưng không ai rút được thanh gươm ra ngoài trừ Arthur. Khi thấy thế, nhiều nam tước nổi giận và kêu lên rằng họ sẽ chẳng đời nào công nhận một cậu bé làm vua nếu huyết thống của cậu không cao hơn chính họ. Vì vậy, người ta đồng ý chờ đến Lễ Dâng Chúa, khi có thể có nhiều hiệp sĩ có mặt hơn… nhưng đến Lễ Dâng Chúa cũng vẫn như vậy, và đến Lễ Phục Sinh cũng thế. Và khi Lễ Hiện Xuống đến, dân thường có mặt và thấy Arthur rút được gươm bèn đồng thanh hô rằng cậu là vua của họ, và họ sẽ giết bất kỳ ai nói khác đi. Bấy giờ kẻ giàu lẫn người nghèo đều quỳ sụp trước cậu, Arthur cầm thanh gươm dâng lên bàn thờ nơi Tổng Giám mục đứng, và người trổi vượt nhất ở đó phong cậu làm hiệp sĩ. Sau đó vương miện được đặt lên đầu cậu và cậu thề trước các bậc quý tộc cùng thường dân rằng cậu sẽ là một vị vua chân chính, và sẽ thực thi công lý cho họ suốt mọi ngày trong đời mình.” Vị quân vương đang trị vì, thanh gươm và hòn đá, mang một biểu tượng rất trọng yếu đối với người đệ tử. Vị quân vương là Chân sư của Minh Triết. Thanh gươm gắn trong đá là hình ảnh đệ tử chìm đắm trong bổn phận thiêng liêng của y và bị ghim chặt trong những chấp trước của mình. Gươm là gươm hai lưỡi. Đệ tử phải được mài sắc như gươm ấy. Y phải được trang bị để phụng sự trong Cả hai thế giới; ở thế giới bên ngoài như một Phàm ngã tích hợp và ở thế giới nội tâm với sự am tường thấu đáo các định luật huyền bí, Tâm Lý Học Nội Môn và Chiêm Tinh Học Nội Môn. Y phải TỰ DO. Không một Chân sư nào sẽ đứng xếp hàng chờ sự chú ý của một đệ tử. Ngài, vị chân sư, phải được ưu tiên trước. Điều này không có nghĩa là Chân sư cổ vũ việc lẩn tránh bổn phận thiêng liêng; hoàn toàn không phải vậy. Các nghĩa vụ phải được chu toàn; phàm ngã phải được trang bị, đệ tử phải được giải phóng khỏi các chấp trước đối với vô thức tập thể, đối với các thế giới vật chất, đối với các quy chuẩn ứng xử, nguyên tắc đạo đức và luật lệ do con người đặt ra. Khi ấy y có thể được Chân sư sử dụng và được giao phần tham dự vào Thiên Cơ được phó thác cho Thánh Đoàn.

The search for the Holy Grail, a divine goblet that constantly receives an inflow of spiritual fire is the symbolic search for a vehicle, a container, a body, a personality that is pure enough, polished enough and constructed of the finest materials worthy of such an experience as being suffused with spiritual essence. The search for the Holy Grail requires knights of the highest orders of chivalry, knights in shining armour (a symbol of purity) knights in whom the animus is nicely balanced with the anima. The great respect for women incorporated into the laws of chivalry, was symbolic of this understanding that the outer male must be balanced by the feminine within.

Công cuộc tìm kiếm Chén Thánh, chiếc cốc thiêng luôn tiếp nhận dòng tuôn đổ của lửa tinh thần, là cuộc tìm kiếm mang tính biểu tượng về một vận cụ, một bình chứa, một thể, một phàm ngã đủ tinh khiết, đủ mài dũa và được cấu tạo từ những chất liệu tinh túy nhất, xứng đáng với kinh nghiệm được thấm nhuần tinh chất tinh thần. Việc tìm kiếm Chén Thánh đòi hỏi những hiệp sĩ thuộc các đẳng bậc hiệp sĩ cao quý nhất, những hiệp sĩ trong bộ giáp sáng loáng (biểu tượng của sự tinh khiết), những hiệp sĩ nơi đó nguyên mẫu nam tính được quân bình hài hòa với nguyên mẫu nữ tính. Lòng tôn kính lớn dành cho phụ nữ, được bao hàm trong các luật lệ của tinh thần hiệp sĩ, mang ý nghĩa biểu tượng cho sự thấu hiểu này: phần nam tính bên ngoài phải được quân bình bởi nữ tính ở bên trong.

It was traditionally taught that he who saw the Holy Grail died. This is the symbolic sacrifice of the personality to the soul. It takes the disciple to the inner sanctum and confronts him with the superconscious.

Theo truyền thống người ta dạy rằng ai trông thấy Chén Thánh thì sẽ chết. Đây là sự hiến tế mang tính biểu tượng của phàm ngã cho linh hồn. Điều đó dẫn người đệ tử vào nội điện và khiến y đối diện với siêu tâm thức.

00028.jpeg

Scroll to Top