Preface to the Third Edition—Lời Tựa cho Ấn Bản Lần Thứ Ba
[
The Third Edition of Tapestry of the Gods, Volumes I and II has been improved in a number of significant ways. Great care has been expended upon appearance and formatting which the publishers anticipate will result in greater ease of use for the reader. In addition, for the first time since its publication in 1988, each volume of Tapestry of the Gods is provided with a comprehensive index. Tapestry is frequently used as a research tool by students of the Seven Rays. The indices will naturally facilitate their researches. Finally, we are pleased to include in Volume II the new version of the Personal Identity Profile, PIP II, prepared by Michael Robbins and Rick Good after years of research and careful examination of the data acquired through the use of PIP I. We trust that PIP II will usefully enhance the degree of accuracy attainable in the difficult problem of ray determination. | Ấn bản thứ ba của Tấm Thảm của Thượng đế, Tập I và II đã được cải thiện theo nhiều phương diện quan trọng. Rất chú tâm đã được dành cho hình thức và định dạng, mà nhà xuất bản kỳ vọng sẽ giúp độc giả sử dụng dễ dàng hơn. Ngoài ra, lần đầu tiên kể từ khi xuất bản năm 1988, mỗi tập của Tấm Thảm của Thượng đế đều có mục lục tra cứu toàn diện. Tấm Thảm thường được các môn sinh của Bảy Cung dùng như một công cụ nghiên cứu. Các bảng tra tất nhiên sẽ tạo thuận lợi cho công cuộc khảo cứu của họ. Sau cùng, chúng tôi hân hạnh đưa vào Tập II phiên bản mới của Hồ sơ Nhận dạng Cá nhân, PIP II, do Michael Robbins và Rick Good chuẩn bị sau nhiều năm nghiên cứu và khảo xét kỹ lưỡng dữ liệu thu được từ việc sử dụng PIP I. Chúng tôi tin rằng PIP II sẽ hữu ích trong việc nâng cao mức độ chính xác có thể đạt được nơi bài toán khó về xác định cung. |
Since the publication of Tapestry in 1988 it has been used extensively in North and South America, Mexico, Australia, New Zealand, Russia, India and throughout Europe by serious students of the Seven Rays. We are pleased to be able to offer the Third Edition in the hope that knowledge of this vital Science of Esoteric Energies may continue to grow and find a useful application in the task of improving the life of humanity. | Kể từ khi Tấm Thảm xuất bản năm 1988, tác phẩm đã được sử dụng rộng rãi tại Bắc và Nam Mỹ, Mexico, Úc, New Zealand, Nga, Ấn Độ và khắp châu Âu bởi những môn sinh nghiêm túc của Bảy Cung. Chúng tôi hân hạnh giới thiệu Ấn bản thứ ba với hy vọng rằng tri thức về Khoa học sinh động này của các Năng lượng Nội môn sẽ tiếp tục tăng trưởng và tìm được ứng dụng hữu ích trong công cuộc cải thiện đời sống nhân loại. |
The University of the Seven Rays Publishing House | Nhà xuất bản Đại học Bảy Cung |
Preface to the EPUB Edition—Lời tựa cho Ấn bản EPUB
The EPUB Edition of Tapestry of the Gods, Volumes I and II has removed the index as the reader can use the search tool. The search tool will assist students of the Seven Rays in their research. The PIP II is now online at PIPIIonline.com. | Ấn bản EPUB của Tấm Thảm của Thượng đế, Tập I và II đã bỏ phần chỉ mục vì độc giả có thể dùng công cụ tìm kiếm. Công cụ tìm kiếm sẽ hỗ trợ các môn sinh của Bảy Cung trong nghiên cứu của họ. PIP II hiện có trực tuyến tại . |
Please visit the following sites for more writings by Michael Robbins: makara.us and sevenray.net and visit Morya Federation at moryafederation.net or on Facebook for information about online esoteric education. | Vui lòng ghé thăm các trang sau để đọc thêm trước tác của Michael Robbins: và , và ghé Morya Federation tại hoặc trên Facebook để biết thông tin về giáo dục nội môn trực tuyến. |
The University of the Seven Rays Publishing House | Nhà xuất bản Đại học Bảy Cung |
Acknowledgments—Lời cảm tạ
With heartfelt gratitude I wish to extend my deep appreciation to the following individuals who, directly or indirectly, made the appearance of Tapestry of the Gods possible: | Với lòng biết ơn chân thành, tôi xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc đến những cá nhân sau đây, những người, trực tiếp hoặc gián tiếp, đã làm cho sự xuất hiện của Tấm Thảm của Thượng đế trở nên khả hữu: |
To my two staunch colleagues and co-founders of the University of the Seven Rays, who, through constant encouragement, tireless labor, many sacrifices and great patience, upheld me throughout the creative process. | Gửi hai cộng sự kiên định và đồng sáng lập Đại học Bảy Cung, những người, qua sự khích lệ không ngừng, lao động không mệt mỏi, nhiều hy sinh và sự nhẫn nại lớn lao, đã nâng đỡ tôi suốt tiến trình sáng tác. |
To Robert and Sharon Maver, whose unfailing generosity made it possible for me to initiate and sustain the project. | Gửi Robert và Sharon Maver, với lòng hào phóng không hề suy giảm, đã giúp tôi khởi động và duy trì dự án. |
To Carolyn and Robert Borel for graciously undertaking the arduous task of the initial proofreading and commentary. | Gửi Carolyn và Robert Borel vì đã ân cần đảm đương công việc nhọc nhằn của việc hiệu đính sơ khởi và bình chú. |
To Carolyn Maver, Robert Maver, Marilyn Mueller, Grace Peuler and Peter Peuler for their meticulous attention to the text and their many helpful suggestions. | Gửi Carolyn Maver, Robert Maver, Marilyn Mueller, Grace Peuler và Peter Peuler vì sự chăm chút tỉ mỉ đối với bản văn và nhiều đề nghị hữu ích của họ. |
To all Board Members of the University of the Seven Rays, for their continuous subjective support and material assistance. | Gửi toàn thể Thành viên Hội đồng Quản trị của Đại học Bảy Cung, vì sự hỗ trợ nội tâm liên tục và trợ giúp vật chất. |
To Iris Spelling for designing the book’s cover and jacket. | Gửi Iris Spelling vì đã thiết kế bìa và áo bìa của sách. |
To Cliff Ribaudo who was there at the beginning with his generous assistance. | Gửi Cliff Ribaudo, người đã có mặt ngay từ đầu với sự trợ giúp rộng rãi. |
To Jerry and Bobbi Salem for their constant generosity. We are also greatly indebted to Jerry for his patient readiness to lead us through the jungle of computer commands. | Gửi Jerry và Bobbi Salem vì lòng hào phóng không ngừng. Chúng tôi cũng rất biết ơn Jerry vì sự sẵn sàng kiên nhẫn dẫn dắt chúng tôi qua “rừng rậm” các lệnh máy tính. |
To Robert Gerard for the warmth of heart with which he shared his wisdom and his profound knowledge of esoteric psychology. | Gửi Robert Gerard vì tấm lòng ấm áp với đó Ngài đã chia sẻ minh triết và tri thức thâm sâu của mình về Tâm Lý Học Nội Môn. |
To Keith Bailey, for his unfailing readiness to plumb with me the profundities of esotericism, and the science of the seven rays. | Gửi Keith Bailey, vì sự sẵn lòng không hề suy giảm trong việc cùng tôi dò sâu vào những thâm áo của huyền bí học và khoa học bảy cung. |
To Stephen Pugh, whose knowledge of the science of esoteric astrology and the seven rays never ceases to illumine. | Gửi Stephen Pugh, người có tri thức về khoa Chiêm Tinh Học Nội Môn và bảy cung chưa bao giờ ngừng soi sáng. |
To the Arcane School, and my former co-workers at the Lucis Trust, for providing me with invaluable experiences in discipleship training. | Gửi Trường Arcane, và các bạn đồng sự trước đây của tôi tại Lucis Trust, vì đã đem đến cho tôi những trải nghiệm vô giá trong việc huấn luyện địa vị đệ tử. |
To Kurt Abraham for opening the door wide to a fuller and more meaningful study of the rays. | Gửi Kurt Abraham vì đã mở toang cánh cửa bước vào một học trình phong phú và đầy ý nghĩa hơn về các cung. |
To all members of the original Seven Rays Study Group whose years of intelligent, penetrating discussion and research laid the academic foundation for this project. | Gửi tất cả thành viên của Nhóm Nghiên cứu Bảy Cung nguyên thủy, những người có nhiều năm thảo luận và nghiên cứu thông tuệ, sắc bén đã đặt nền tảng học thuật cho dự án này. |
To all those who cooperated so closely, steadily and selflessly in the conceptualization and computerization of the Personal Identity Profile—especially, Carol Smith, Rick Good, and William Carlson. | Gửi tất cả những ai đã hợp tác mật thiết, bền bỉ và vô ngã trong việc hình thành ý niệm và tin học hoá Hồ sơ Nhận dạng Cá nhân—đặc biệt, Carol Smith, Rick Good, và William Carlson. |
To my loving and long-suffering wife, Rita, and my children, Brennon, Heidi, and Matthew, who for one and a half years (with tolerance and remarkable good cheer) lived through my unrelenting obsession with my word processor. I’m sure it seemed much longer! | Gửi người vợ yêu thương và kiên chịu của tôi, Rita, và các con tôi, Brennon, Heidi, và Matthew, những người đã (trong một năm rưỡi, với bao dung và tâm thái phấn chấn đáng kinh ngạc) sống cùng nỗi ám ảnh không ngơi của tôi với chiếc máy xử lý văn bản. Chắc hẳn cảm thấy còn lâu hơn thế! |
And finally, to my teacher, Andrew McIver, whose Identification with the One Life changed my life forever. | Và sau cùng, gửi thầy tôi, Andrew McIver, người có Sự Đồng Nhất với Sự sống Duy Nhất đã đổi thay đời tôi mãi mãi. |
Author’s Acknowledgments to the Third Edition of Tapestry of the Gods, Vols. I and II—Lời cảm tạ của Tác giả cho
Ấn bản thứ ba của Tấm Thảm của Thượng đế, Tập I và II
To Dr. Daniele Vecchio and Dr. Daniel Krummenacher for their persistent, dedicated interest in and generous support for this project. | Gửi Tiến sĩ Daniele Vecchio và Tiến sĩ Daniel Krummenacher vì mối quan tâm bền bỉ, dâng hiến và sự hỗ trợ hào phóng dành cho dự án này. |
To Vicktorya Stone for diligently undertaking the mammoth task of correcting and proofing the entire text. | Gửi Vicktorya Stone vì đã chuyên cần đảm nhiệm công việc khổng lồ là sửa chữa và hiệu đính toàn bộ bản văn. |
To Carole Beckham for her many useful suggestions and expert supervision. | Gửi Carole Beckham vì nhiều đề nghị hữu ích và sự giám sát điêu luyện. |
To Mary Ann Casalino for her steadfast encouragement for all my writing projects. | Gửi Mary Ann Casalino vì sự khích lệ kiên định dành cho mọi dự án viết lách của tôi. |
To Sheldon Hughes for his skillful and ‘peaceable’ coordination of the many interdependent facets of this project. | Gửi Sheldon Hughes vì sự điều phối khéo léo và “hòa hiệp” của anh đối với nhiều phương diện phụ thuộc lẫn nhau của dự án. |
To Dr. Annie Muller for her unfailing friendship and her ceaseless subjective and objective support. | Gửi Tiến sĩ Annie Muller vì tình bạn không hề phai và sự hỗ trợ chủ quan và khách quan không ngơi. |
To Richard Haeger for the jacket cover design which so beautifully captures the grandeur of the cosmic origin of the Seven Rays. | Gửi Richard Haeger vì thiết kế áo bìa đã diễn đạt thật đẹp vẻ hùng vĩ của cội nguồn vũ trụ của Bảy Cung. |
To Rick Good for his expert, tireless and selfless work over many years on the Tapestry Series and in relation to the PIP Project. | Gửi Rick Good vì công việc chuyên nghiệp, bền bỉ và vô ngã qua nhiều năm đối với bộ Tấm Thảm và liên quan đến Dự án PIP. |
And, in general, to the entire Board of Trustees of the University of the Seven Rays (and especially the Publication Committee) for the ongoing labor expended to ensure the publication of the Third Edition. | Và, nói chung, gửi toàn thể Hội đồng Tín thác của Đại học Bảy Cung (đặc biệt là Ủy ban Xuất bản) vì công lao bền bỉ đã bỏ ra để bảo đảm việc xuất bản Ấn bản thứ ba. |
With gratitude, | Với lòng biết ơn, |
Michael D. Robbins, Ph.D. | Michael D. Robbins, Ph.D. |
President, University of the Seven Rays | Chủ tịch, Đại học Bảy Cung |
Tapestry of the Gods | Tấm Thảm của Thượng đế |
Volume II | Tập II |
Introductory Thoughts—Những tư tưởng dẫn nhập
The Purpose of Tapestry of the Gods | Mục đích của Tấm Thảm của Thượng đế |
Tapestry of the Gods was written to help students of the Ageless Wisdom discover and express their true, spiritual identity. The profound science of esoteric psychology has one great and simple message of ultimate value for all who aspire to live a soul-infused life: | Tấm Thảm của Thượng đế được viết để giúp các môn sinh của Minh Triết Ngàn Đời khám phá và biểu lộ căn tính tinh thần chân thật của mình. Khoa học thâm áo của Tâm Lý Học Nội Môn có một thông điệp lớn lao và giản dị, mang giá trị tối hậu cho tất cả những ai nguyện sống đời phàm ngã được linh hồn thấm nhuần: |
BE WHO YOU ARE | HÃY LÀ CHÍNH BẠN |
Format forTapestry of the Gods | Khuôn dạng của Tấm Thảm của Thượng đế |
Volumes I and II—Tập I và II
The first two volumes of Tapestry of the Gods are divided into seven sections, and are intended to offer students both a theoretical and practical approach to the science of the seven rays. | Hai tập đầu của Tấm Thảm của Thượng đế được chia thành bảy phần, nhằm cung cấp cho môn sinh cả cách tiếp cận lý thuyết lẫn thực hành đối với khoa học bảy cung. |
Volume I (Sections I -IV) The Seven Rays: An Esoteric Key to Understanding Human Nature | Tập I (Phần I -IV) Bảy Cung: Chiếc Chìa khóa Nội môn để Thấu hiểu Bản tính Con người |
Section I | Phần I |
Section I examines the seven rays in a general and somewhat philosophical manner but, specifically with respect to their effect upon human thought, feeling and action—i.e., human behavior. Some of the most important positive and negative qualities for each ray are listed; then each of these qualities is analyzed so that students may more fully understand why a particular quality is related to a particular ray. | Phần I khảo sát bảy cung theo một cách khái quát và phần nào mang tính triết học, nhưng chuyên biệt là về ảnh hưởng của chúng lên tư tưởng, cảm xúc và hành động của con người—tức là hành vi con người. Một số phẩm tính tích cực và tiêu cực quan trọng nhất cho mỗi cung được liệt kê; rồi từng phẩm tính này được phân tích để môn sinh có thể hiểu rõ hơn vì sao một phẩm tính nào đó lại liên hệ với một cung cụ thể. |
After this introductory exploration of ray influence, a hypothesis of “ray types” is presented. Each ray is divided into two types (A and B), and the justification for doing so is examined. It is anticipated that Section I will offer students a broad, general, and thought-provoking perspective on the influence of the seven rays upon human living. | Sau phần khai mở về ảnh hưởng của các cung, một giả thuyết về “các kiểu cung” được trình bày. Mỗi cung được chia thành hai kiểu (A và B), và lý do cho việc phân chia ấy được khảo xét. Dự liệu rằng Phần I sẽ đem đến cho môn sinh một viễn kiến rộng, khái quát và gợi suy về ảnh hưởng của bảy cung lên đời sống con người. |
Section II | Phần II |
Section II offers a close analysis of contrasts and similarities between the seven rays, taken two at a time. Twenty-one combinations are analyzed, irrespective of any placement within the human energy system (i.e., the rays are analyzed without specific reference to the vehicles or fields of the human energy system [soul, personality, mind, emotions, and body]). Twenty one tabulations of contrasts are presented, and following each tabulation, a searching analysis of the salient differences and similarities which distinguish each combination. | Phần II cống hiến một phân tích cận kề về những tương phản và tương đồng giữa bảy cung, mỗi lần lấy hai. Hai mươi mốt tổ hợp được phân tích, bất kể bất kỳ vị trí nào trong hệ thống năng lượng con người (tức là các cung được phân tích mà không tham chiếu cụ thể đến các hiện thể hay các trường của hệ thống năng lượng con người [linh hồn, phàm ngã, thể trí, cảm xúc và thân xác]). Hai mươi mốt bảng đối chiếu tương phản được trình bày, và sau mỗi bảng là một sự phân tích truy vấn về các dị biệt và tương đồng nổi bật vốn phân biệt từng tổ hợp. |
The purpose of Section II is clarification. One of the major problems in ray analysis is simply the difficulty of telling one ray from another. Any pair of rays have many points of distinction, and a number of points in common. If these points can be clarified, the ray analyst will fall into confusion far less frequently. Ray analysts and esoteric psychologists must learn to think through the problem of ray relationships. The thoroughgoing approach utilized in Section II is intended to help them in the process. | Mục đích của Phần II là minh giải. Một trong những vấn đề lớn trong phân tích cung đơn giản là sự khó khăn khi phân biệt cung này với cung khác. Mọi cặp cung đều có nhiều điểm khác biệt, và một số điểm tương đồng. Nếu các điểm này được làm sáng tỏ, nhà phân tích cung sẽ ít rơi vào hoang mang hơn nhiều. Các nhà phân tích cung và các nhà tâm lý học nội môn phải học cách suy tư thấu đáo bài toán về các mối quan hệ giữa các cung. Cách tiếp cận triệt để được vận dụng trong Phần II nhằm giúp họ trong tiến trình ấy. |
Section III | Phần III |
Section III offers a close and, hopefully, practical examination of the human energy system. Students of esotericism have actively thought and spoken about the rays for more than sixty years, but there has not been a great deal of progress in the field of ray analysis, or in the application of ray theory to psychotherapeutics. One of the reasons for this may be an insufficient understanding of the nature and function of the five fields of the human energy system: the soul field, the personality field, the mental field, the emotional field, and the etheric-physical field. How do these various fields work? What do they actually do? | Phần III cống hiến một khảo sát cận kề và, hy vọng, hữu dụng, về hệ thống năng lượng con người. Các môn sinh huyền bí học đã tích cực suy tư và đàm luận về các cung hơn sáu mươi năm qua, nhưng chưa có nhiều tiến bộ trong lĩnh vực phân tích cung, hay trong việc áp dụng lý thuyết cung vào trị liệu tâm lý. Một trong những nguyên nhân có thể là do chưa hiểu đủ về bản chất và chức năng của năm trường trong hệ thống năng lượng con người: trường linh hồn, trường phàm ngã, trường trí tuệ, trường cảm xúc, và trường dĩ thái–hồng trần. Các trường khác nhau này vận hành ra sao? Chúng thực sự làm gì? |
Section III does not offer a technical analysis, such as might be found in a textbook on anatomy and physiology, but it does attempt a commonsense approach to the nature and functions of each of these five fields. Certainly, it is quite impossible to understand how a ray functions when it qualifies one of the five fields, if the field itself is inadequately understood. It is anticipated that Section III will offer some simple concepts to make the human energy system more comprehensible, and the differentiated functions of each vehicle or field far more recognizable. | Phần III không đưa ra một phân tích kỹ thuật như trong giáo trình giải phẫu và sinh lý học, nhưng cố gắng trình bày một cách tiếp cận theo lẽ thường về bản chất và chức năng của từng trường trong năm trường ấy. Chắc chắn là hoàn toàn không thể hiểu một cung vận hành thế nào khi nó định tính một trong năm trường, nếu bản thân trường đó bị hiểu lầm hoặc chưa thấu hiểu. Dự liệu rằng Phần III sẽ đưa ra vài khái niệm giản dị để làm cho hệ thống năng lượng con người dễ nắm bắt hơn, và chức năng biệt loại của mỗi hiện thể hay trường trở nên dễ nhận diện hơn nhiều. |
Section IV | Phần IV |
Section IV offers a complete analysis of the manner in which every ray affects every field of the human energy system. The only fields not discussed are the Triadic and Monadic fields, about which very little is known. Many of the combinations discussed are improbable (at least in terms of our present knowledge), but the analysis proceeds upon the assumption that it is (at least theoretically) possible for any of the seven rays to condition any of the five fields (and even the ‘ultimate field’—the Monadic field). It must be said at the outset, that much of what is presented is purely speculative, and based upon reasoning rather than direct observation. Nevertheless, a beginning is made. The ideas presented await experimental, rational or intuitive confirmation or rejection. The author hopes that serious attention will be given to devising accurate methods of proving or disproving his speculations. Achieving real accuracy in ray-assessment is a priority for all who hope to make esoteric psychology a really useful tool in humanity’s spiritual evolution. | Phần IV cống hiến một phân tích trọn vẹn về cách thức mỗi cung ảnh hưởng đến mọi trường trong hệ thống năng lượng con người. Chỉ có các trường Tam Nguyên và Chân Thần là không được bàn đến, vì chúng ta biết rất ít về chúng. Nhiều tổ hợp được thảo luận là không có khả năng cao (ít nhất xét theo tri thức hiện tại của chúng ta), nhưng phân tích tiến hành dựa trên giả định rằng (ít nhất về mặt lý thuyết) bất kỳ trong bảy cung đều có thể định điều kiện bất kỳ trong năm trường (và thậm chí cả ‘trường tối hậu’—trường Chân Thần). Cần nói ngay từ đầu rằng nhiều điều được trình bày là hoàn toàn suy đoán, dựa trên lý luận hơn là quan sát trực tiếp. Dẫu vậy, một khởi đầu đã được thực hiện. Những ý tưởng được trình bày chờ đợi sự xác nhận hay bác bỏ bằng thực nghiệm, lý tính hoặc trực giác. Tác giả hy vọng rằng sẽ có sự chú tâm nghiêm cẩn dành cho việc đề ra những phương pháp chính xác để chứng minh hoặc phủ định các giả thuyết của mình. Đạt đến độ chính xác thực sự trong thẩm định cung là ưu tiên đối với tất cả những ai hy vọng làm cho Tâm Lý Học Nội Môn trở thành một công cụ thực sự hữu ích trong tiến hóa tinh thần của nhân loại. |
Volume II (Sections V -VII)
Psychospiritual Transformation and the Seven Rays—Tập II (Phần V -VII)
Chuyển hoá Tâm–Tinh thần và Bảy Cung
Section V | Phần V |
Section V offers an attempt to elucidate the process of soul/personality integration. The Tibetan has given us priceless information regarding this integration process, but he has left it to us to work out the details. Section V examines and analyzes each of the 42 usual combinations of soul and personality rays with respect to various phases of the integration process. | Phần V là một nỗ lực nhằm minh giải tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã. Chân sư Tây Tạng đã ban cho chúng ta những thông tin vô giá về tiến trình tích hợp này, nhưng Ngài để cho chúng ta tự khai triển chi tiết. Phần V khảo sát và phân tích từng trong số 42 tổ hợp thường gặp của cung linh hồn và cung phàm ngã, xét theo các giai đoạn khác nhau của tiến trình tích hợp. |
The seven combinations of identical soul and personality rays are discussed, but not analyzed exhaustively. The interaction between soul and personality is examined 1) before the spiritual phase of evolution, 2) during the stage of conflict between the soul and personality rays, 3) from the perspective of the consciousness focused primarily within the soul, 4) from the perspective of the consciousness focused primarily within the personality, 5) in relation to their potential ideal expression, 6) with respect to the two integration formulae keyed to the rays in question, and 7) in relation to vocational aptitudes correlated to the two rays under discussion. Finally (8), there is presented a list of contemporary or historical (and sometimes, fictional or mythological) individuals who (in the opinion of the author) seem to embody the rays under discussion. | Bảy tổ hợp mà cung linh hồn và cung phàm ngã đồng nhất được thảo luận, nhưng không phân tích cạn cùng. Sự tương tác giữa linh hồn và phàm ngã được khảo xét 1) trước giai đoạn tinh thần của tiến hóa, 2) trong giai đoạn xung đột giữa cung linh hồn và cung phàm ngã, 3) từ viễn tượng của tâm thức chủ yếu tập trung trong linh hồn, 4) từ viễn tượng của tâm thức chủ yếu tập trung trong phàm ngã, 5) liên hệ đến biểu lộ lý tưởng tiềm tàng của chúng, 6) xét theo hai công thức tích hợp được gắn với các cung đang bàn, và 7) liên hệ đến các năng khiếu nghề nghiệp tương ứng với hai cung đang được thảo luận. Sau cùng (8), trình bày danh sách các nhân vật đương đại hoặc lịch sử (và đôi khi, hư cấu hoặc thần thoại) mà (theo ý kiến của tác giả) dường như thể hiện các cung đang bàn. |
The very thorough treatment of the subject in Section V should be of value to those students who wish to explore the process of soul/personality integration in depth. While identifying rays accurately is of the utmost importance, it is even more important to know how they affect the spiritual evolution of the human being. Section V explores such dynamics from a number of perspectives, and should give students, researchers and therapists much food for thought. | Sự xử lý hết sức kỹ lưỡng trong Phần V hẳn sẽ hữu ích cho những môn sinh muốn khai khảo sâu tiến trình tích hợp linh hồn/phàm ngã. Dù việc xác định cung chính xác cực kỳ quan trọng, điều còn quan trọng hơn là biết chúng tác động thế nào đến tiến hóa tinh thần của con người. Phần V khảo sát những động thái như vậy từ nhiều viễn tượng, và hẳn sẽ đem lại cho các môn sinh, nhà nghiên cứu và nhà trị liệu nhiều điều đáng suy ngẫm. |
Section VI | Phần VI |
The five-fold ray chart is the focus of attention in Section VI. Many practical considerations faced by the ray analyst are discussed in detail, and numerous concrete examples of ray chart analysis are offered. The first part of Section VI gives students the opportunity to work with abstract exercises in ray analysis. Seven different ray charts are presented, and possible methods of interpretation are discussed. There is no one correct approach to interpreting these seven, and students are encouraged to ‘flex their interpretive muscles.’ Part two presents character sketches of three hypothetical people. The author pre-selected a certain ray configuration for each, but that configuration is not revealed—at first. Students are given an opportunity to draw their own conclusions, and compare them to the author’s analysis and reasoning. | Biểu đồ cung ngũ phân là trọng tâm trong Phần VI. Nhiều cân nhắc thực tiễn mà nhà phân tích cung gặp phải được bàn luận chi tiết, và nhiều ví dụ cụ thể về phân tích biểu đồ cung được cống hiến. Phần đầu của Phần VI cho môn sinh cơ hội làm việc với các bài tập trừu tượng trong phân tích cung. Bảy biểu đồ cung khác nhau được trình bày, và các phương pháp diễn giải khả dĩ được thảo luận. Không có một cách tiếp cận duy nhất đúng để diễn giải bảy biểu đồ này, và môn sinh được khuyến khích “vận dụng linh hoạt cơ bắp diễn giải” của mình. Phần hai trình bày phác thảo tính cách của ba nhân vật giả định. Tác giả đã chọn trước một cấu hình cung nhất định cho mỗi người, nhưng cấu hình đó chưa được tiết lộ—ban đầu. Môn sinh có cơ hội tự rút ra kết luận, rồi so sánh với phân tích và lập luận của tác giả. |
The final part of Section VI is an in-depth ray analysis of seven well-known historical figures, each (presumably) with a different soul ray. The seven are: Francis Bacon, Annie Besant, Albert Einstein, Joan of Arc, Michelangelo, Louis Pasteur, and Albert Schweitzer. Again, students are free to determine their own ray configurations for these individuals, and the practice of doing so will sharpen interpretive (and intuitive) ability. | Phần cuối của Phần VI là một phân tích cung sâu về bảy nhân vật lịch sử nổi tiếng, mỗi người (giả định) thuộc một cung linh hồn khác nhau. Bảy nhân vật là: Francis Bacon, Annie Besant, Albert Einstein, Jeanne d’Arc, Michelangelo, Louis Pasteur, và Albert Schweitzer. Một lần nữa, môn sinh được tự do xác định cấu hình cung của riêng mình cho các nhân vật này, và việc thực hành như vậy sẽ mài giũa năng lực diễn giải (và trực giác). |
Section VII | Phần VII |
Section VII includes six appendices and a glossary. Appendix I includes some important references and tabulations from the Tibetan’s books. Appendices II and III are astrological in nature, and look forward to Volumes III and IV of Tapestry of the Gods, which will present a thorough discussion of the theoretical and practical issues of esoteric astrology. However, since it is virtually impossible to separate the science of the seven rays and the science of esoteric astrology, many students will find Section VII (especially Appendices II and III) extremely useful as they seek to achieve a full understanding of the material presented in Volumes I and II. It has been necessary to refer to esoteric astrology on numerous occasions throughout the text, and Section VII will assist in the interpretation of such references (especially for those who may not be familiar with either orthodox or esoteric astrology). | Phần VII gồm sáu phụ lục và một bảng thuật ngữ. Phụ lục I bao gồm một số tham chiếu và bảng biểu quan trọng từ các sách của Chân sư Tây Tạng. Phụ lục II và III mang tính chiêm tinh, và hướng tới Tập III và IV của Tấm Thảm của Thượng đế, vốn sẽ trình bày một thảo luận thấu triệt về các vấn đề lý thuyết và thực hành của Chiêm Tinh Học Nội Môn. Tuy nhiên, vì hầu như không thể tách rời khoa học bảy cung và Chiêm Tinh Học Nội Môn, nhiều môn sinh sẽ thấy Phần VII (đặc biệt Phụ lục II và III) cực kỳ hữu ích khi họ tìm cách thấu hiểu trọn vẹn tài liệu được trình bày trong Tập I và II. Trong suốt bản văn, nhiều lần bắt buộc phải tham chiếu đến Chiêm Tinh Học Nội Môn, và Phần VII sẽ hỗ trợ việc diễn giải các tham chiếu như vậy (nhất là đối với những ai có thể chưa quen với cả chiêm tinh chính tông lẫn chiêm tinh nội môn). |
Appendix IV offers a brief discussion of the Personal Identity Profile (P.I.P. #1), a personality inventory devised to indicate the relative ray strengths in the individual energy system. The full Profile is available online at http://www.pipiionline.com in various languages so that students of the rays may study the construction of such a psychometric instrument in the light of what they may have learned from studying the text of Tapestry. | Phụ lục IV trình bày ngắn gọn về Hồ sơ Nhận dạng Cá nhân (P.I.P. #1), một bảng kiểm kê phàm ngã được thiết kế để chỉ ra tương quan sức mạnh cung trong hệ thống năng lượng cá nhân. Toàn bộ Hồ sơ hiện có trực tuyến tại http://www.pipiionline.com bằng nhiều ngôn ngữ để các môn sinh của các cung có thể khảo cứu cấu trúc của một công cụ trắc nghiệm tâm lý như thế dưới ánh sáng những gì họ đã học được khi nghiên cứu bản văn của Tấm Thảm. |
Appendix V contains “Search for the Soul Ray”—a meditation designed to assist students to achieve success in the often arduous task of determining their soul ray. Appendix VI offers a list of books and periodicals which are important reading for sincere students of esoteric psychology, the seven rays and esoteric astrology. Finally, a glossary of frequently used esoteric, occult and psychospiritual terms is included. | Phụ lục V chứa “Tìm Kiếm Cung Linh Hồn”—một bài tham thiền nhằm trợ giúp môn sinh đạt thành công trong công việc thường gian nan là xác định cung linh hồn của mình. Phụ lục VI liệt kê các sách và tạp chí vốn là những tài liệu quan trọng đối với các môn sinh chân thành của Tâm Lý Học Nội Môn, bảy cung và Chiêm Tinh Học Nội Môn. Sau cùng, có kèm một bảng thuật ngữ các thuật ngữ nội môn, huyền bí học và tâm–tinh thần thường dùng. |
The Tapestry of the GodsSeries | Bộ sách Tấm Thảm của Thượng đế Series |
Volumes I and II | Tập I và II |
Tapestry of the Gods will appear in ten volumes. Volume I and II are given entirely to a thorough examination of the psychological implications of the science of the seven rays. Of course, there are many planetary, solar-systemic, and cosmological aspects to ray science quite beyond the scope of human psychology (and also, quite beyond the author’s understanding)! | Tấm Thảm của Thượng đế sẽ xuất hiện trong mười tập. Tập I và II dành trọn cho một khảo cứu thấu suốt về các hàm ý tâm lý của khoa học bảy cung. Dĩ nhiên, có nhiều phương diện hành tinh, hệ mặt trời và vũ trụ của khoa học cung vượt quá phạm vi của tâm lý học con người (và cũng vượt quá sự hiểu biết của tác giả)! |
It seemed wise to begin with the human being, and attempt to understand the seven rays in human terms, and to apply them to human problems—especially the problems of Self-knowledge and spiritual growth. Humanity is in desperate need of Self-knowledge (i.e., knowledge of the soul and its relation to the personality). This knowledge depends upon an understanding of the seven rays. When knowledge of the rays is more widely disseminated, thinking men and women will be in a position to make rapid progress upon the Spiritual Path. | Có vẻ khôn ngoan khi khởi đầu từ con người, cố gắng hiểu bảy cung bằng các phạm trù con người, và áp dụng chúng vào các vấn đề của con người—đặc biệt là vấn đề Tự tri và trưởng dưỡng tinh thần. Nhân loại đang rất cần Tự tri (tức là tri kiến về linh hồn và mối liên hệ của linh hồn với phàm ngã). Tri kiến này tùy thuộc vào sự thấu hiểu bảy cung. Khi tri thức về các cung được phổ biến rộng rãi hơn, những người nam và nữ có tư duy sẽ có vị thế để tiến bộ nhanh chóng trên Thánh Đạo. |
Volumes III and IV | Tập III và IV |
Volumes III and IV, on the subject of esoteric astrology, will be at once simpler and more complex: they will be simpler, because the constellations and planets are quite definite and localized sources of energetic influence, and their positions in the astrological chart can be mathematically determined. It is possible for an individual to have his horoscope erected accurately, provided the exact time and place of birth are known. There is no question regarding what astrological influences were at work at the time of birth; astronomical tables reveal the influences exactly. | Tập III và IV, về chủ đề Chiêm Tinh Học Nội Môn, vừa đơn giản hơn vừa phức tạp hơn: chúng đơn giản hơn, vì các chòm sao và hành tinh là những nguồn ảnh hưởng năng lượng khá xác định và khu trú, và vị trí của chúng trong lá số chiêm tinh có thể được xác định bằng toán học. Một cá nhân có thể lập lá số chiêm tinh chính xác, miễn là biết đúng giờ và nơi sinh. Không có nghi vấn gì về những ảnh hưởng chiêm tinh đã hiện hữu vào thời điểm sinh; các bảng thiên văn cho thấy các ảnh hưởng ấy một cách chính xác. |
Of course, this is not the case in relation to the ray chart (i.e., the chart giving the rays of the soul, personality, mind, emotions, and etheric-physical body), the determination of which is an altogether less definite matter. However, the subject of esoteric astrology is more complex because there are many more variables (and hence many more combinations) to contend with. Whereas, there are only seven rays, there are twelve constellations, at least twelve planets (discovered and undiscovered—in fact, there are many more) which must be considered, twelve houses of the horoscope, and many geometric relations between planets (i.e., planetary aspects) which must be examined. | Dĩ nhiên, điều này không đúng khi xét đến biểu đồ cung (tức là biểu đồ nêu các cung của linh hồn, phàm ngã, thể trí, cảm xúc và thể dĩ thái–hồng trần), việc xác định biểu đồ này là chuyện ít xác quyết hơn nhiều. Tuy vậy, chủ đề Chiêm Tinh Học Nội Môn lại phức tạp hơn vì có nhiều biến số hơn (và do đó nhiều tổ hợp hơn) phải xử lý. Trong khi chỉ có bảy cung, thì có mười hai chòm sao, ít nhất mười hai hành tinh (đã được và chưa được khám phá—thực ra còn nhiều hơn thế) cần được cân nhắc, mười hai nhà trong lá số chiêm tinh, và nhiều quan hệ hình học giữa các hành tinh (tức là các góc chiêm tinh) cần được khảo xét. |
The realm of astrology introduces us to what might be called the “web of cosmic energies” and it is an intricate web! Nevertheless, the volumes on astrology, too, will be written primarily from the perspective of esoteric psychology, and the many energies and their combinations will be explored with respect to the spiritual growth of the individual. | Lĩnh vực chiêm tinh đưa chúng ta vào cái có thể gọi là “mạng lưới các năng lượng vũ trụ” và đó là một mạng lưới hết sức tinh vi! Dẫu vậy, các tập về chiêm tinh cũng sẽ được viết chủ yếu từ viễn tượng của Tâm Lý Học Nội Môn, và nhiều năng lượng cùng các tổ hợp của chúng sẽ được khảo sát trong mối liên hệ với sự trưởng dưỡng tinh thần của cá nhân. |
Since most readers of Volumes III and IV will be familiar with Volumes I and II, information pertaining to the science of the seven rays will form a necessary and extensive part of the development of the subject of esoteric astrology. | Vì đa số độc giả của Tập III và IV sẽ quen thuộc với Tập I và II, thông tin liên quan đến khoa học bảy cung sẽ tạo nên một phần tất yếu và phong phú trong sự triển khai chủ đề Chiêm Tinh Học Nội Môn. |
Volume V | Tập V |
Volume V will be entirely practical, and designed as a handbook for the practicing esoteric psychologist/astrologer. Case histories will be offered, and astro-rayological theory will be illustrated in direct application to the lives of those who are in various stages of the processes of psychological transformation and of spiritual unfoldment. The many ways in which rayological and astrological knowledge can enhance the quality of that transformation and unfoldment will be thoroughly discussed. | Tập V hoàn toàn thực dụng, và được biên soạn như một sổ tay cho nhà tâm lý học/chiêm tinh gia nội môn hành nghề. Các bệnh án sẽ được trình bày, và lý thuyết chiêm tinh–cung học sẽ được minh hoạ qua việc áp dụng trực tiếp vào đời sống của những người đang ở các giai đoạn khác nhau của các tiến trình chuyển hoá tâm lý và khai mở tinh thần. Nhiều cách thức mà tri thức về cung học và chiêm tinh có thể nâng cao chất lượng của sự chuyển hóa và khai mở đó sẽ được thảo luận thấu đáo. |
Expanded Plan for the Tapestry Series – 1995 | Kế hoạch Mở rộng cho Bộ Tấm Thảm – 1995 |
Since the Tapestry of the Gods Series was first conceived in 1986, the scope of the work intended has been gradually expanded. The following descriptions offer a prospectus for the Series as presently conceived. | Kể từ khi Bộ Tấm Thảm của Thượng đế được khởi ý năm 1986, phạm vi công trình dự kiến đã dần được mở rộng. Những mô tả sau đây đem đến một bản lược thuyết cho Bộ sách như hiện đang được hình dung. |
Volume VI Astro-Rayological Musical Rituals for the Aquarian Age | Tập VI Nghi lễ Âm nhạc Chiêm tinh–Cung học cho Kỷ nguyên Bảo Bình |
Since 1990 Michael Robbins has been writing, composing and (with his fellow students) performing musical ritual-dramas based upon the history and evolution of the soul in each of the twelve signs of the zodiac. These quasi-operatic, oratorical, meditative, ceremonial compositions offer participants the opportunity to engage aesthetically with the ray, zodiacal and planetary energies. The result is an immediate and arresting experience of the subtle energies called rays, signs and planets. | Từ năm 1990 Michael Robbins đã viết, sáng tác và (cùng các môn sinh) trình diễn những vũ kịch–nghi lễ âm nhạc dựa trên lịch sử và tiến hóa của linh hồn trong mỗi cung của mười hai dấu hiệu hoàng đạo. Những sáng tác bán–nhạc kịch, diễn xướng, tham thiền, nghi lễ này đem đến cho người tham dự cơ hội giao cảm thẩm mỹ với các năng lượng của cung, hoàng đạo và hành tinh. Kết quả là một trải nghiệm trực tiếp và gây ấn tượng mạnh về những năng lượng vi tế gọi là cung, dấu hiệu và hành tinh. |
Each such composition is called a “Solar Fire Ritual”. In addition a frequently performed “Ray Lords Ritual” has been composed. As well, a Ritual on the Five Initiations is anticipated. In all, the number of musical/vocal/dramatic works is intended to be fourteen. Several Rituals have thus far been orchestrated on synthesizer by the composer Harold Moses and it is anticipated that all fourteen Rituals will eventually be so. | Mỗi sáng tác như vậy được gọi là một “Nghi lễ Lửa Thái dương”. Ngoài ra còn có một “Nghi lễ các Đấng Chúa Tể Cung” thường được trình diễn. Đồng thời, một Nghi lễ về Năm Cuộc Điểm Đạo cũng được dự liệu. Tổng cộng, số tác phẩm âm nhạc/thanh nhạc/kịch tính dự kiến là mười bốn. Cho đến nay, một số Nghi lễ đã được nhạc sĩ Harold Moses phối khí trên nhạc cụ tổng hợp, và dự liệu rằng cả mười bốn Nghi lễ cuối cùng cũng sẽ được phối như vậy. |
Performance copies and tapes of the orchestrated ritual music will be separately available for each Ritual. Such separate editions will be useful for individuals and groups who wish to perform the various Solar Fire Rituals. As well, however, it is intended that Volume VI of Tapestry of the Gods contain the texts of all fourteen Rituals, with a collection of all music available with the volume. Volume VI will be of use to serious students of rituals to be used in connection with the development of the New World Religion. | Ấn bản trình diễn và băng ghi nhạc nghi lễ đã phối khí sẽ có sẵn riêng cho từng Nghi lễ. Những ấn bản riêng như thế sẽ hữu ích cho cá nhân và nhóm muốn cử hành các Nghi lễ Lửa Thái dương khác nhau. Đồng thời, dự định rằng Tập VI của Tấm Thảm của Thượng đế sẽ chứa toàn văn của cả mười bốn Nghi lễ, với một tuyển tập toàn bộ âm nhạc đi kèm tập sách. Tập VI sẽ hữu ích cho các môn sinh nghiêm túc về nghi lễ, được sử dụng trong mối liên hệ với sự phát triển của Tôn giáo Thế giới Mới. |
Volume VII The Infinitization of Selfhood | Tập VII Sự Vô Hạn hóa Tự tính |
Volume VII of Tapestry of the Gods (completed in 1997) is highly philosophical in nature and is written along the lines of the Third and First Ray. The treatise explores exhaustively the nature of Reality and Identity, attempting to take Vedantic Philosophy to its logical and surprisingly radical conclusions. Volume VII, exploring as it does the logical inevitability of paradox, will be of profound interest for all those who wish to take thought “to the limit” in the pursuit of that which is unborn, undying, and limitless. The teaching of the Sage Sankaracharya (whom many in India consider to be an ‘incarnation’ of Shiva) has been the inspiration for this book. | Tập VII của Tấm Thảm của Thượng đế (hoàn tất năm 1997) mang tính triết học sâu sắc và được viết theo đường lối của Cung ba và Cung một. Luận thư này khảo sát tận tường bản tính của Thực Tại và Đồng Nhất, tìm cách đưa Triết học Vedanta đến những kết luận lôgic và đáng ngạc nhiên là triệt để. Tập VII, khi khảo sát tính tất yếu lôgic của nghịch lý, sẽ là mối quan tâm thâm hậu cho tất cả những ai muốn đẩy tư tưởng “đến tận cùng” trong cuộc truy tầm cái vốn không sinh, không diệt và vô hạn. Giáo huấn của Bậc Hiền triết Sankaracharya (mà nhiều người ở Ấn Độ xem là ‘hóa thân’ của Shiva) là nguồn cảm hứng cho quyển sách này. |
Volumes VIII, IX and X. Questions and Answers in Philosophical Occultism | Tập VIII, IX và X. Hỏi và Đáp trong Huyền bí học Triết học |
In teaching the University of the Seven Rays Ph.D.E. courses, Michael Robbins has combed certain of the Tibetan’s and H.P.B.’s books meticulously, formulating thousands of penetrating questions pertaining to the wealth of esoteric information contained within. Students of books such a The Secret Doctrine, A Treatise on Cosmic Fire, The Rays and the Initiations, and Esoteric Astrology have thought that it would be useful for Dr. Robbins to present in written form answers to some of the many questions which his students and fellow group members have had to ‘endure’. Thus, it is anticipated that the final Volumes of the Tapestry Series will be given to a meticulous, comprehensive and closely related consideration of the thousands of subjects brought forward by the Tibetan and H.P.B. in these, their most ‘weighty’ books. Publication of these volumes will most likely occur early in the Twenty-First Century. | Trong quá trình giảng dạy các khóa Ph.D.E. của Đại học Bảy Cung, Michael Robbins đã xuyên đọc và khảo cứu tỉ mỉ một số sách của Chân sư Tây Tạng và H.P.B., hình thành hàng ngàn câu hỏi sắc bén liên quan đến kho tàng thông tin nội môn chứa đựng trong đó. Các môn sinh của những sách như Giáo Lý Bí Nhiệm, Luận về Lửa Vũ Trụ, The Rays and the Initiations, và Chiêm Tinh Học Nội Môn cho rằng sẽ hữu ích nếu Tiến sĩ Robbins trình bày bằng văn bản các câu trả lời cho một số lượng trong nhiều câu hỏi mà các môn sinh và các bạn đồng nhóm của ông đã phải “chịu đựng”. Vì thế, dự liệu rằng các Tập cuối của Bộ Tấm Thảm sẽ dành cho một sự xem xét tỉ mỉ, toàn diện và có liên hệ chặt chẽ đối với hàng ngàn chủ đề được Chân sư Tây Tạng và H.P.B. nêu lên trong những trước tác “nặng ký” nhất của Các Ngài. Việc xuất bản những tập này rất có khả năng diễn ra vào đầu Thế kỷ Hai Mươi Mốt. |
How To Use This Book—Cách Sử Dụng Quyển Sách Này
There are a number of reasons why Tapestry of the Gods should be studied systematically rather than read casually and selectively. Granted—the idea that there are seven rays conditioning all units of life upon our planet and within our solar system is, essentially, a simple idea. It is also true that the essential qualities of the seven rays are not really difficult to understand. Further, on the archetypal level, the seven rays are quite easy to distinguish, and confusion is not a problem. However, in order to produce that complex, multifaceted manifestation called the human being, a number of rays must come together, and it is in their weaving and blending that the archetypal clarity and ease of differentiation begins to disappear. | Có nhiều lý do vì sao Tấm Thảm của Thượng đế nên được học một cách hệ thống thay vì đọc tuỳ hứng và chọn lọc. Công nhận—ý niệm rằng có bảy cung định điều kiện cho mọi đơn vị sự sống trên hành tinh chúng ta và trong hệ mặt trời của chúng ta, về căn bản, là một ý niệm giản dị. Cũng đúng rằng những phẩm tính cốt yếu của bảy cung thực ra không khó hiểu. Hơn nữa, trên bình diện nguyên mẫu, bảy cung khá dễ phân biệt, và hoang mang không phải là vấn đề. Tuy nhiên, để tạo nên biểu hiện phức hợp, đa diện gọi là con người, nhiều cung phải hội tụ, và chính trong sự đan dệt và hòa trộn của chúng mà sự minh bạch nguyên mẫu và sự dễ phân biệt bắt đầu phai mờ. |
At first estimation, the task of determining a fivefold ray chart (even a sixfold one) may not seem very formidable. When students are first exposed to the seven ray paradigm, they may expect to discover their ray structures with rapidity. The more they begin to investigate the subject, however, the more subtleties and ambiguities begin to appear. What at first seemed obvious becomes subject to many qualifications and reservations. With increased sophistication a period of uncertainty often supervenes, and it may take the earnest inquirer years before a firm and unshakable intuitive conviction confirming a particular ray structure dawns upon the illumined mind. For this reason, Tapestry of the Gods should be studied as a whole and not simply used in a piecemeal manner. | Ở ấn tượng ban đầu, nhiệm vụ xác định một biểu đồ cung ngũ phân (thậm chí lục phân) có vẻ không quá ghê gớm. Khi môn sinh lần đầu tiếp cận mô hình bảy cung, họ có thể kỳ vọng sẽ khám phá cấu trúc cung của mình một cách nhanh chóng. Thế nhưng, càng bắt tay khảo sát chủ đề này, càng nhiều tinh tế và mơ hồ hiện ra. Điều lúc đầu dường như hiển nhiên trở nên lệ thuộc vào nhiều điều kiện bổ sung và dè dặt. Với mức tinh luyện tăng dần, thường xảy ra một giai đoạn bất định, và người truy tầm thành tâm có thể cần nhiều năm trước khi một xác tín trực giác vững vàng và bất lay chuyển xác nhận một cấu trúc cung cụ thể bừng nở trong thể trí được soi sáng. Vì lẽ đó, Tấm Thảm của Thượng đế nên được học như một chỉnh thể chứ không chỉ được sử dụng một cách chắp vá. |
A great many people are primarily interested in themselves. There is nothing essentially wrong in such an orientation; self-knowledge is absolutely indispensable, and the Delphic Injunction, “Man Know Thyself” must be fulfilled before the human being can become an illumined server of the Divine Plan. It is, however, quite impossible to know oneself in a vacuum! The individual who is also vitally interested in the quality and character of other individuals is the individual who is truly equipped to see himself. This means that the best way for us to understand our own rays is to understand the rays of those with whom our lot is cast; we must understand ourselves in context. | Rất nhiều người chủ yếu quan tâm đến chính mình. Hướng chú tâm như vậy, tự thân, không có gì sai trái; tự tri là điều hoàn toàn không thể thiếu, và Huấn thị Delphi, “Hỡi người, hãy tự biết mình” phải được ứng nghiệm trước khi con người có thể trở thành một người phụng sự được soi sáng cho Thiên Cơ. Tuy nhiên, hoàn toàn không thể tự biết mình trong khoảng trống! Cá nhân nào cũng hết sức quan tâm đến phẩm tính và Tính cách của những cá nhân khác, chính cá nhân ấy mới thật sự được trang bị để nhìn thấy chính mình. Điều này có nghĩa cách tốt nhất để chúng ta thấu hiểu các cung của chính mình là thấu hiểu các cung của những người mà số phận chúng ta gắn bó; chúng ta phải hiểu chính mình trong bối cảnh. |
The implications are obvious: the science of the seven rays must be studied in a large and general way before the ray structures of particular individuals can be expected to emerge with clarity. Tapestry of the Gods is designed with this progression in mind. Volume I offers a fairly comprehensive exploration of the seven rays in relation to human psychology. The rays are treated individually and in relation to each other. Every ray is examined in relation to every vehicle of the human energy system. | Hàm ý là rõ ràng: khoa học về bảy cung phải được học theo một cách rộng và tổng quát trước khi có thể kỳ vọng cấu trúc cung của từng cá nhân nổi lộ rõ ràng. Tấm Thảm của Thượng đế được soạn với tiến trình này trong tâm trí. Tập I trình bày khá bao quát về bảy cung trong tương quan với tâm lý con người. Các cung được khảo sát riêng lẻ và trong mối liên hệ lẫn nhau. Mỗi cung đều được xem xét trong tương quan với mỗi hiện thể của hệ thống năng lượng con người. |
A close and careful reading of this material is definitely advisable before venturing into Volume II. It is, however, very probable that Volume II will be of greater interest to many students than Volume I, because in Volume II the 42 (more precisely 49) soul/personality ray combinations are carefully explored. Without bothering to read Volume I, some students may be tempted to dive into Volume II in the eager attempt to “find themselves.” This would be a mistake. The search for their ray structures (and the ray structures of others they seek to understand) will be far more successful if proper attention is given to the explanations and analyses found in the first volume. | Rất nên đọc kỹ và cẩn thận tài liệu này trước khi dấn bước vào Tập II. Tuy nhiên, rất có khả năng Tập II sẽ hấp dẫn nhiều đạo sinh hơn Tập I, vì ở Tập II, 42 (chính xác hơn là 49) tổ hợp cung linh hồn/phàm ngã được khảo sát cẩn thận. Không cần bận tâm đọc Tập I, một số đạo sinh có thể bị cám dỗ lao ngay vào Tập II với nỗ lực háo hức để “tìm ra bản thân”. Như vậy là sai lầm. Việc tìm kiếm cấu trúc cung của họ (và cấu trúc cung của những người họ muốn thấu hiểu) sẽ thành công hơn rất nhiều nếu dành sự chú tâm đúng mức cho các giải thích và phân tích trong tập thứ nhất. |
At this point, I would like to offer a few simple suggestions to students who hope to gain the maximum benefit from the first two volumes of Tapestry of the Gods. | Tại điểm này, tôi muốn đưa ra vài gợi ý đơn giản cho các đạo sinh hy vọng gặt hái lợi ích tối đa từ hai tập đầu của Tấm Thảm của Thượng đế. |
1. Read Volume I first. | 1. Hãy đọc Tập I trước. |
2. As you read, think of yourself and others you know well. Begin hypothetically to determine their qualities, but do not jump to conclusions. Reserve judgment. Do not hesitate to write liberally in the margins. | 2. Khi đọc, hãy nghĩ về chính bạn và những người bạn biết rõ. Hãy bắt đầu giả định để xác định phẩm tính của họ, nhưng đừng vội kết luận. Hãy hoãn phán đoán. Và đừng ngần ngại viết thoải mái ở lề sách. |
3. When doubts regarding ray structure arise, use the tabulations of contrasts found in Volume I, Section II, and Volume II, Section V. At length your decision will be best if made on the basis of intuition, but in preparation, check lists of ray qualities are advisable. If, for instance, when thinking of an individual, you check off 20 qualities which correlate with ray five, and only three or four qualities correlating with ray three, ray five is much more likely to be present than ray five. Of course, it must be remembered, that we all have all the rays. It is simply a matter of emphasis in any one life. | 3. Khi nảy sinh nghi ngờ về cấu trúc cung, hãy dùng các bảng đối chiếu tìm thấy trong Tập I, Phần II, và Tập II, Phần V. Cuối cùng, quyết định của bạn sẽ tốt nhất nếu được đưa ra trên nền tảng trực giác, nhưng để chuẩn bị, các bảng kiểm phẩm tính cung là điều đáng khuyến nghị. Nếu, chẳng hạn, khi nghĩ về một cá nhân, bạn đánh dấu 20 phẩm tính tương liên với cung năm, và chỉ ba hay bốn phẩm tính tương liên với cung ba, thì cung năm có khả năng hiện diện cao hơn cung ba. Dĩ nhiên, cần nhớ rằng, chúng ta tất cả đều có đủ mọi cung. Đó chỉ là vấn đề nhấn mạnh trong bất kỳ một đời sống nào. |
4. As you work your way through the book, propose a number of tentative ray charts for yourself (and others). Using your reasoning faculties seek to justify or refute the legitimacy of the various charts you propose. You may not have a fifth or a third ray mind, but it is good to subject your possible choices to “sweet reason.” In the end, the intuitive apprehension of a first or fourth ray mind may come closer to the mark, but before trusting so-called intuitive realizations too completely, think the matter through. | 4. Khi bạn lần bước qua quyển sách, hãy đề xuất một số biểu đồ cung sơ bộ cho chính bạn (và cho người khác). Sử dụng các năng lực lý trí của bạn để tìm cách biện minh hoặc bác bỏ tính hợp lệ của các biểu đồ mà bạn đề xuất. Có thể bạn không có một thể trí cung năm hay cung ba, nhưng việc đặt những chọn lựa khả dĩ của bạn dưới sự “lý trí sáng suốt” là điều tốt. Rốt cuộc, sự lãnh hội trực giác của một thể trí cung một hay cung bốn có thể đi gần hơn đến đích, nhưng trước khi tin tưởng quá hoàn toàn vào những lĩnh hội được gọi là trực giác, hãy suy xét thấu đáo vấn đề. |
5. When you work with Volume II, seek to identify both as a soul and as a personality. When identified as a soul, look at your personality and try to determine what you see. In Section V there are many paragraphs that describe the task of a soul qualified by a particular ray when faced with a particular kind of personality. Does your soul-illumined vision of your personality match any of the descriptive paragraphs? Conversely, seek also to identify as a personality, and try to determine how you experience the voice of the soul. What is its quality? What is your particular manner of accepting or rejecting this voice? In each division of Section V there is a paragraph dealing with this matter. Determine which (if any) seem to pertain to you. | 5. Khi làm việc với Tập II, hãy cố gắng đồng hoá với cả như là một linh hồn lẫn như là một phàm ngã. Khi đồng hoá như là một linh hồn, hãy nhìn vào phàm ngã của bạn và cố xác định bạn thấy gì. Trong Phần V có nhiều đoạn mô tả nhiệm vụ của một linh hồn được một cung đặc thù định tính khi đối diện với một loại phàm ngã đặc thù. Thị kiến phàm ngã được linh hồn soi sáng của bạn có khớp với bất kỳ đoạn mô tả nào không? Theo chiều ngược lại, cũng hãy cố gắng đồng hoá như là một phàm ngã, và thử xác định bạn trải nghiệm tiếng nói của linh hồn như thế nào. Phẩm tính của tiếng nói ấy là gì? Cách thức riêng của bạn trong việc chấp nhận hay khước từ tiếng nói này là gì? Trong mỗi tiểu mục của Phần V đều có một đoạn bàn về vấn đề này. Hãy xác định đoạn nào (nếu có) dường như áp vào bạn. |
6. When you begin to develop some clearer ideas regarding your soul and personality ray, focus on the paragraphs which describe the ideal combination of the two rays. Which such paragraphs appeal to you most? With which do you resonate? Which paragraph (or paragraphs) seem to describe the productive union of your foremost ray qualities (your soul and personality ray)? You can be experimental here: if the section describing the ideal qualities of various soul/personality ray combinations seems incomplete in some respect, use your imagination to invent other ideal combinations. It must be realized that simply knowing your soul and personality ray (however valuable) is not enough. You must know how to use those energies in the best possible way. Often, through the use of the creative imagination, optimum methods for expressing your ray qualities can be discovered. Eventually you can combine all five rays in your ray chart (as well as your Sun, Moon and Rising Sign) to create an eightfold ‘energy-picture’ of your nature. From this eightfold picture you can determine what might be called your ‘best composite image’—i.e., the optimum way of fusing and blending all your major ray and astrological energies. | 6. Khi bạn bắt đầu phát triển một vài ý niệm sáng tỏ hơn về cung linh hồn và cung phàm ngã của mình, hãy tập trung vào những đoạn mô tả tổ hợp lý tưởng của hai cung ấy. Những đoạn nào như vậy hấp dẫn bạn nhất? Bạn đồng điệu với đoạn nào? Đoạn (hay các đoạn) nào dường như miêu tả sự giao hòa hiệu quả của các phẩm tính cung ưu trội của bạn (cung linh hồn và cung phàm ngã)? Ở đây bạn có thể thử nghiệm: nếu phần mô tả các phẩm tính lý tưởng của nhiều tổ hợp cung linh hồn/phàm ngã khác nhau có vẻ chưa trọn vẹn ở một khía cạnh nào đó, hãy dùng trí tưởng tượng để sáng tạo thêm những tổ hợp lý tưởng khác. Cần nhận ra rằng chỉ biết cung linh hồn và cung phàm ngã của bạn (dù quý giá đến đâu) là chưa đủ. Bạn phải biết cách dùng những năng lượng ấy theo cách tốt nhất có thể. Thường thì, thông qua Sự tưởng tượng sáng tạo, có thể khám phá các phương pháp tối ưu để biểu đạt các phẩm tính cung của bạn. Rốt rồi, bạn có thể kết hợp cả năm cung trong biểu đồ cung của mình (cũng như Mặt Trời, Mặt Trăng và Cung Mọc) để tạo ra một “bức tranh năng lượng” bát phân về bản tánh bạn. Từ bức tranh bát phân này, bạn có thể xác định cái gọi là “hình ảnh tổng hợp tốt nhất” của mình — tức cách tối ưu để dung hợp và hòa trộn tất cả các năng lượng cung và chiêm tinh học chủ yếu của bạn. |
7. Once you feel quite certain of your soul and personality rays, it becomes important to understand how to integrate them more fully. Such an integration continues (according to the Tibetan) even after the third initiation. Section V is filled with paragraphs describing the various integration formulae for each of the soul/personality ray combinations. Experiment working with these formulae. Apply them to your life situations. Observe your life, and determine where they should be applied. Monitor yourself and determine where you have succeeded in applying them, and where you have failed. Your particular dual formula can be used throughout your life, and as you gain practice in its use, your skillful application will grow. | 7. Một khi bạn cảm thấy khá chắc chắn về cung linh hồn và cung phàm ngã của mình, việc hiểu cách tích hợp chúng sâu hơn sẽ trở nên quan trọng. Sự tích hợp như vậy vẫn tiếp diễn (theo Chân sư Tây Tạng) ngay cả sau lần điểm đạo thứ ba. Phần V đầy ắp các đoạn mô tả những công thức tích hợp khác nhau cho từng tổ hợp cung linh hồn/phàm ngã. Hãy thử nghiệm làm việc với các công thức này. Áp dụng chúng vào những tình huống đời sống của bạn. Quan sát đời sống của bạn, và xác định nơi nào chúng nên được áp dụng. Giám sát chính mình và xác định nơi bạn đã thành công khi áp dụng chúng, và nơi bạn đã thất bại. Công thức kép đặc thù của bạn có thể được dùng suốt đời, và khi bạn thuần thục trong việc sử dụng nó, sự vận dụng khéo léo của bạn sẽ lớn dần. |
8. When you come to Section VI, which deals specifically with how to approach the analysis of a ray chart, study the examples carefully. After doing so, begin to propose various ray charts in the abstract and make a game of interpreting them (perhaps with friends). This will provide you with a needed fluency in the ‘language of the rays,’ and will enhance your power of combination and your ability to blend ray qualities. It is also an enjoyable and illuminating pastime to make up brief character sketches and attempt to analyze them in terms of the seven rays, as I did in Section VI. Multiple interpretations are, of course, possible, but this only serves to make such exercises more intriguing. | 8. Khi đến Phần VI, phần đề cập cụ thể đến cách tiếp cận phân tích một biểu đồ cung, hãy học kỹ các ví dụ. Sau đó, bắt đầu đề xuất nhiều biểu đồ cung một cách trừu tượng và biến việc diễn giải chúng thành một trò chơi (có thể cùng bạn bè). Điều này sẽ mang lại cho bạn một sự lưu loát cần thiết trong “ngôn ngữ của các cung”, và sẽ tăng cường năng lực phối hợp cùng khả năng hòa trộn các phẩm tính cung. Đồng thời, cũng thú vị và hữu ích khi đặt ra những chân dung tính cách ngắn và thử phân tích chúng theo bảy cung, như tôi đã làm ở Phần VI. Dĩ nhiên có thể có nhiều diễn giải, nhưng điều này chỉ càng khiến các bài tập như thế thêm phần hấp dẫn. |
9. One of the most important exercises to sharpen your identification and understanding of the rays is to focus upon well-known contemporary, historical, fictional or mythological figures. I did this throughout Section V and, especially, in the last part of Section VI. After reading the seven biographical ray analyses in Section VI carefully, see if you agree or disagree with the analyses offered. If you disagree, ask yourself why? Can you give good reasons for your disagreement? Or perhaps you agree in part and disagree in part. In any case, support your opinions with reasons. After you have worked with and through the seven analyses, and considered the lives of some of the individuals briefly mentioned in relation to every soul/personality combination in Section V, begin to examine the lives of individuals whom you find particularly interesting. Undertake your own extensive ray analyses, and wrestle with the task of creating plausible ray charts for them. | 9. Một trong những bài tập quan trọng nhất để mài sắc khả năng đồng hoá và hiểu biết về các cung là tập trung vào những nhân vật đương thời nổi tiếng, lịch sử, hư cấu hoặc thần thoại. Tôi đã làm điều này xuyên suốt Phần V và, đặc biệt, trong phần cuối của Phần VI. Sau khi đọc kỹ bảy phân tích cung mang tính tiểu sử ở Phần VI, hãy xem bạn đồng ý hay phản đối với các phân tích được nêu. Nếu bạn phản đối, hãy tự hỏi vì sao? Bạn có thể đưa ra những lý do xác đáng cho sự phản đối của mình không? Hoặc có lẽ bạn đồng ý một phần và không đồng ý một phần. Dù thế nào, hãy nâng đỡ quan điểm của mình bằng các lý do. Sau khi bạn đã làm việc với và thông qua bảy phân tích đó, và đã cân nhắc cuộc đời của một số cá nhân được nhắc thoáng qua liên quan đến mọi tổ hợp linh hồn/phàm ngã trong Phần V, hãy bắt đầu khảo sát đời sống của những cá nhân mà bạn thấy đặc biệt thú vị. Hãy tự mình tiến hành các phân tích cung sâu rộng, và vật lộn với nhiệm vụ kiến tạo những biểu đồ cung hợp lý cho họ. |
10. Realize that this book is incomplete and is bound to include a number of errors, for human understanding of esoteric psychology and the science of the seven rays is only beginning. It will take the dedicated and intelligent effort of many thinkers to clarify that understanding. Can you suggest ways and means of improving the study of the rays? Can you find errors where they exist and offer suggestions for their correction? Please bring all errors (and all suggestions for improving present methods of studying the rays) to the attention of the University of the Seven Rays Publishing House. | 10. Hãy nhận biết rằng cuốn sách này chưa hoàn chỉnh và chắc chắn chứa một số sai sót, vì sự hiểu biết của con người về tâm lý học huyền môn và khoa học bảy cung chỉ mới khởi đầu. Sẽ cần nỗ lực tận tụy và thông tuệ của nhiều nhà tư tưởng để làm sáng tỏ sự hiểu biết ấy. Bạn có thể gợi ý phương cách cải thiện việc học về các cung không? Bạn có thể phát hiện các sai sót khi chúng hiện diện và đề xuất phương án sửa chữa không? Xin chuyển mọi sai sót (và mọi đề nghị nhằm cải thiện các phương pháp hiện tại trong việc học các cung) đến Nhà Xuất Bản Đại Học Bảy Cung. |
The science of the seven rays is in its infancy. The majority of us cannot yet see a ray, nor can we measure a ray objectively; yet the time must soon come when we can do both. It is the task of all serious students to learn what presently can be learned about this fascinating science; to apply in service what has been learned; and to discover valid ways of extending that learning. This book is a small part of a great effort being undertaken by a number of serious students of esoteric psychology and the seven rays. Hopefully, it will convey some measure of light. I strongly encourage all students of esoteric psychology to dedicate their soul-illumined minds and loving hearts to the elucidation of the science of the seven rays. Struggling and bewildered humanity needs this science. | Khoa học bảy cung còn đang ở thời kỳ phôi thai. Phần đông chúng ta hiện chưa thể nhìn thấy một cung, cũng chưa thể đo lường một cung một cách khách quan; thế nhưng thời điểm mà chúng ta có thể làm cả hai việc ấy hẳn sẽ sớm đến. Nhiệm vụ của mọi đạo sinh nghiêm túc là học những gì hiện có thể học về khoa học hấp dẫn này; áp dụng trong phụng sự những gì đã học; và khám phá những cách thức hợp lệ để mở rộng sự học ấy. Cuốn sách này là một phần nhỏ của nỗ lực lớn đang được tiến hành bởi nhiều đạo sinh nghiêm cẩn của tâm lý học huyền môn và bảy cung. Hy vọng, nó sẽ chuyển tải được đôi phần ánh sáng. Tôi tha thiết khuyến khích mọi đạo sinh của tâm lý học huyền môn hãy dâng hiến các thể trí được linh hồn soi sáng và trái tim chan chứa tình thương cho việc minh giải khoa học bảy cung. Nhân loại đang vật lộn và bối rối cần khoa học này. |
Note: It is strongly recommended that students of Tapestry of the Gods take the Personal Identity Profile II found online at http://www.pipiionline.com. The PIP can be an excellent means of indicating ray strengths and inclinations, and can be of real assistance as one seeks to determine one’s ray chart. | Ghi chú: Rất khuyến nghị các đạo sinh của Tấm Thảm của Thượng đế làm Hồ sơ Nhận dạng Cá nhân II (Personal Identity Profile II) tìm thấy trực tuyến tại http://www.pipiionline.com. PIP có thể là một phương tiện tuyệt vời để chỉ thị sức mạnh và khuynh hướng cung, và thật sự hữu ích khi người học tìm cách xác định biểu đồ cung của mình. |
Tapestry of the Gods Volume II | Tấm Thảm của Thượng đế Tập II |
Section V, The Seven Rays and the Dynamics of Soul/Personality Integration—
Phần V, Bảy Cung và Động học của Sự Tích Hợp Linh Hồn/Phàm ngã
The Integration of Soul and Personality | Sự Tích Hợp Linh hồn và Phàm ngã |
One of the major purposes of esoteric psychology is to facilitate the union of soul and personality. This union leads eventually to the transfiguration of the personality. Although the general psychospiritual procedures for bringing about this union are identical for every human being, there are significant individual differences depending upon the condition of an individual’s energy system, and the types of rayological and astrological energies which qualify it. | Một trong những mục đích chính của tâm lý học huyền môn là hỗ trợ sự hợp nhất của linh hồn và phàm ngã. Sự hợp nhất này rốt cuộc dẫn đến cuộc Biến hình của phàm ngã. Dẫu những thủ tục tâm lý–tinh thần chung để đem lại sự hợp nhất này là đồng nhất cho mọi con người, vẫn có những dị biệt cá nhân đáng kể tùy theo tình trạng của hệ thống năng lượng của mỗi cá nhân, và theo các loại năng lượng thuộc cung và chiêm tinh học đang định tính hệ thống ấy. |
In his Esoteric Psychology, Vol. II, the Tibetan has presented a number of “Techniques of Integration” found in the Old Commentary. These techniques describe the procedure to be followed by those whose soul or personality is upon one or other of the seven rays as they attempt, first, to integrate their personality and then, coordinate soul and personality. | Trong Tâm Lý Học Nội Môn, Tập II, Chân sư Tây Tạng đã trình bày một số “Kỹ Thuật Tích Hợp” trích từ Cổ Luận. Các kỹ thuật này mô tả quy trình cần được những ai có cung linh hồn hoặc cung phàm ngã thuộc một trong bảy cung áp dụng khi họ nỗ lực, trước hết, tích hợp phàm ngã của mình và sau đó, phối kết linh hồn và phàm ngã. |
The techniques or formulas for integration are definitely ray techniques. The question may arise as to whether these techniques are to be used according to the ray of the soul or the ray of the personality. There is some ambiguity surrounding this question, and the best answer may be that the techniques or formulas are applicable in relation to both the ray of the personality and the ray of the soul. | Các kỹ thuật hay công thức tích hợp này đích thực là những kỹ thuật theo cung. Có thể nảy sinh câu hỏi liệu các kỹ thuật này được dùng theo cung của linh hồn hay theo cung của phàm ngã. Có đôi phần mơ hồ quanh câu hỏi này, và câu trả lời tốt nhất có lẽ là các kỹ thuật hay công thức đều có thể áp dụng liên quan đến cả hai cung của phàm ngã và cung của linh hồn. |
In the following paragraphs are statements which contribute to the sense of ambiguity: | Những đoạn sau đây là các phát biểu góp phần tạo nên cảm giác mơ hồ: |
Statements supporting the idea that it is the ray of the soul to which the aspirant must refer when applying the Techniques of Integration: | Những phát biểu ủng hộ quan điểm rằng đó là cung của linh hồn mà người chí nguyện phải tham chiếu khi áp dụng các Kỹ Thuật Tích Hợp: |
It is the ray of the ego or soul, slumbering in the early stages within the form, which occultly applies these modes of integration. The soul is essentially the integrative factor, and this shows in the early and unconscious stages as the coherent power of the life principle to hold the forms together in incarnation. In the later and conscious stages, it shows its power by applying these methods of control and unification to the personality. They are not applied, nor can the man avail himself of them, until such time as he is an integrated personality. Esoteric Psychology, Vol. II, p. 346. | Chính cung của chân ngã hay linh hồn, ngủ yên trong những giai đoạn đầu trong hình tướng, vốn huyền bí áp dụng những phương thức tích hợp này. Linh hồn, xét về bản chất, là yếu tố tích hợp, và điều này bộc lộ trong những giai đoạn đầu tiên và vô thức như quyền năng kết dính của nguyên khí sự sống để giữ các hình tướng cùng nhau trong khi lâm phàm. Trong những giai đoạn sau và có ý thức, linh hồn biểu lộ quyền năng của mình bằng cách áp dụng các phương pháp kiểm soát và hợp nhất này lên phàm ngã. Chúng không được áp dụng, và con người cũng không thể tự mình dùng chúng, cho đến khi y là một phàm ngã tích hợp. Tâm Lý Học Nội Môn, Tập II, tr. 346. |
…the integration with which we shall primarily deal as we study the seven Techniques of Integration is that of the personality as it integrates into the whole of which it is a part, through service to the race and to the Plan. Bear in mind that these ray techniques are imposed by the soul upon the personality after it has been somewhat integrated into a functioning unity and is, therefore, becoming slightly responsive to the soul, the directing Intelligence. Ibid., p. 351. | …sự tích hợp mà chúng ta sẽ chủ yếu đề cập khi nghiên cứu bảy Kỹ Thuật Tích Hợp là sự tích hợp của phàm ngã khi phàm ngã hòa nhập vào cái toàn thể mà nó là một bộ phận, thông qua phụng sự cho nhân loại và cho Thiên Cơ. Hãy ghi nhớ rằng các kỹ thuật theo cung này được linh hồn áp đặt lên phàm ngã sau khi nó đã phần nào được tích hợp thành một đơn vị vận hành và, do đó, đang trở nên ít nhiều đáp ứng với linh hồn, Trí Tuệ chỉ đạo. Sách đã dẫn, tr. 351. |
Further hints that the Techniques of Integration, indeed, refer to the soul ray can be found in the section of Esoteric Psychology, Vol. II dealing with the particular Technique which applies to those upon the first ray. Throughout this three page section (pp. 351-354), there is conveyed a sense of how the first ray individual evolves over the course of a number of lives. Obviously, it is the true individual, the individualized Ego, who thus evolves—all the while working under the influence of one particular ray. The personality, though it may retain the same ray over the course of several lives, frequently changes rays from life to life, just as it frequently changes astrological influences. | Những gợi ý thêm rằng các Kỹ Thuật Tích Hợp, quả vậy, ám chỉ đến cung linh hồn có thể được tìm thấy trong phần của Tâm Lý Học Nội Môn, Tập II bàn về Kỹ Thuật dành cho những ai ở trên cung một. Xuyên suốt phần dài ba trang này (tr. 351–354), thấm đượm cảm thức về cách một người cung một tiến hóa qua nhiều kiếp. Rõ ràng, đó là chính cá thể chân thực, tức Chân ngã được biệt ngã hóa, đang tiến hóa — trong suốt thời gian làm việc dưới ảnh hưởng của một cung đặc thù. Phàm ngã, tuy có thể giữ cùng một cung qua vài kiếp, lại thường đổi cung từ kiếp này sang kiếp khác, cũng như thường đổi các ảnh hưởng chiêm tinh. |
The Tibetan, it seems, frequently uses ambiguity as an occult “blind,” forcing the reader to think in a fluid, nonrigid manner. Although it is remotely possible to interpret the following sentence (referring to a section of the Old Commentary) as a description of a technique to be used by a first ray personality, it is difficult to refuse the implication that the Tibetan is referring to a first ray soul when he speaks of “the man upon the first ray:” | Có vẻ Chân sư Tây Tạng thường chủ ý dùng sự mơ hồ như một “bức màn” huyền môn, buộc người đọc phải tư duy linh hoạt, phi cứng nhắc. Dẫu có khả năng diễn giải câu sau đây (tham chiếu một đoạn trong Cổ Luận) như mô tả một kỹ thuật để một phàm ngã cung một sử dụng, nhưng rất khó phủ nhận hàm ý rằng Ngài đang nói về một linh hồn cung một khi Ngài đề cập đến “người ở trên cung một”: |
Such is the pattern of thought and the process of the life of the man upon the first ray who is seeking first of all to control his personality and then to dominate his environment. | Đó là mô thức tư tưởng và tiến trình của đời sống của người ở trên cung một, kẻ đang tìm trước hết là kiểm soát phàm ngã mình và rồi thống lĩnh hoàn cảnh chung quanh. |
Note the feeling of the passage of an extended period of time which permeates the following description of the “man upon the first ray…” | Hãy lưu ý cảm giác về sự trôi qua của một khoảng thời gian kéo dài thấm đẫm đoạn mô tả “người ở trên cung một…” sau đây: |
At first, his motive is that of selfish, separative achievement, and then comes failure to be satisfied. A higher achievement then takes place as a result of the service of the Plan, until the time eventually comes when the first ray man can be trusted to be God’s Destroying Angel—the Angel who brings life through destruction of the form. Ibid., p. 352. | Lúc đầu, động cơ của y là thành tựu ích kỷ, phân ly, và rồi đến sự bất mãn. Một thành tựu cao hơn sau đó diễn ra như kết quả của sự phụng sự cho Thiên Cơ, cho đến khi rốt cuộc đến lúc người cung một có thể được tin cậy để trở thành Thiên Thần Hủy Diệt của Thượng đế — Vị Thiên Thần đem sự sống đến qua sự phá hủy hình tướng. Sách đã dẫn, tr. 352. |
The word “eventually” is key. The process of changing from selfish destructiveness to beneficent destructiveness in cooperation with the Divine Plan surely cannot develop over the course of merely one life! Its seems clear that we are dealing with the progress of a first ray soul who will be found using, at one time or another, each of the seven possible types of personality ray. | Từ “rốt cuộc” là chìa khóa. Quá trình chuyển đổi từ phá hoại vị kỷ sang phá hoại lợi sinh trong hợp tác với Thiên Cơ chắc chắn không thể phát triển chỉ trong một kiếp! Xem ra rõ ràng chúng ta đang đề cập đến tiến trình của một linh hồn cung một, kẻ sẽ được thấy là sử dụng, vào lúc này hay lúc khác, mỗi loại trong bảy kiểu cung phàm ngã khả hữu. |
In the sentence immediately following the previous reference to “Destroying Angels,” the Tibetan gives us an example of the way he keeps the use of terms fluid in order to provoke thought. He states: “Such integrated personalities are frequently ruthless at first, selfish, ambitious…etc.” Why now refer to the “man upon the first ray” as an integrated personality when all that has gone before implies the gradual evolution of a first ray soul? Perhaps it is because the Tibetan often uses terms interchangeably in order to show things in relationship. He uses terms like “person” or “individual” to refer to a personality, a soul, or even a Monad. There are also passages in which the terms “egos” and “monadic types” seem to be used interchangeably as on pp. 211-212 of Esoteric Psychology, Vol. II. | Ngay trong câu kế tiếp sau tham chiếu trước đó đến “Thiên Thần Hủy Diệt”, Chân sư Tây Tạng đưa ra một ví dụ về cách Ngài giữ cho việc dùng thuật ngữ linh hoạt nhằm khơi gợi tư duy. Ngài viết: “Những phàm ngã được tích hợp như vậy thường tàn nhẫn lúc đầu, ích kỷ, tham vọng… v.v.”. Vì sao giờ đây gọi “người ở trên cung một” là phàm ngã tích hợp khi mọi điều đã nêu trước đó đều hàm ý sự tiến hóa tiệm tiến của một linh hồn cung một? Có lẽ vì Chân sư Tây Tạng thường dùng các thuật ngữ thay thế lẫn nhau để biểu thị các sự vật trong mối tương hệ. Ngài dùng các từ như “người” hay “cá nhân” để chỉ một phàm ngã, một linh hồn, thậm chí một Chân thần. Cũng có những đoạn trong đó các thuật ngữ “các chân ngã” và “các loại hình chân thần” dường như được dùng thay thế cho nhau như ở tr. 211–212 của Tâm Lý Học Nội Môn, Tập II. |
The reason for this may well lie in the theory of emanation. Simply considered, the Monad emanates the ego (spelled sometimes as “Ego”) or the soul, and the soul emanates the personality. Many intricate technicalities notwithstanding, these three are all one thing in different aspects, and the Tibetan does not want us to forget this fact. A personality is really a soul ‘in disguise,’ so to speak, just as personality and soul are really an extension of the Monad. What we refer to as the personality, is essentially the soul, or even more essentially, the Monad. The Tibetan is at pains to remind us (Ibid., p. 358) that the personality ray is always a subray of the egoic ray, and thus, essentially, the personality has no real existence independent from the soul which emanated it. | Lý do cho điều này có thể nằm trong học thuyết xuất lộ. Nói giản dị, Chân thần xuất lộ chân ngã (đôi khi được viết hoa là “Chân Ngã”) hay linh hồn, và linh hồn xuất lộ phàm ngã. Bất chấp nhiều tinh tế kỹ thuật, ba thực thể này đều là một trong những phương diện khác nhau, và Chân sư Tây Tạng không muốn chúng ta quên sự thật đó. Phàm ngã, thật ra, là linh hồn ‘giả trang’, cũng như phàm ngã và linh hồn thật ra là sự mở rộng của Chân thần. Điều chúng ta gọi là phàm ngã, về bản chất, là linh hồn, hay thậm chí, bản chất hơn, là Chân thần. Chân sư Tây Tạng nhắc chúng ta (Sách đã dẫn, tr. 358) rằng cung phàm ngã luôn là cung phụ của cung chân ngã, và vì vậy, về bản chất, phàm ngã không có thực tại độc lập nào tách khỏi linh hồn đã xuất lộ nó. |
Thus, it is legitimate to call a personality a soul, just as it is legitimate to call an ego a Monad. The reverse also seems to be true, as when he refers to those with first ray or fifth ray Monads as first ray or fifth ray people! (Initiation Human and Solar, p. 187, and A Treatise on Cosmic Fire, pp. 577-579.) The Tibetan’s method of writing and “blinding” is an example of the second ray faculty of “Inclusive Reason,” which involves, according to the Tibetan, “a very high point of synthetic comprehension,” and which “produces the inherent divine capacity which enables the detail of the sensed Whole to be grasped in meticulous entirety. | Bởi thế, gọi phàm ngã là linh hồn là hợp lẽ, cũng như gọi chân ngã là Chân thần là hợp lẽ. Điều ngược lại cũng có vẻ đúng, như khi Ngài gọi những người có Chân thần cung một hoặc cung năm là người cung một hoặc cung năm! (Điểm đạo và Thái Dương Hệ, tr. 187, và Luận về Lửa Vũ Trụ, tr. 577–579.) Phương pháp viết và “che mờ” của Chân sư Tây Tạng là một ví dụ về năng lực cung hai là “lý trí bao gồm”, vốn bao hàm, theo lời Ngài, “một điểm rất cao của sự thấu triệt tổng hợp”, và “sinh ra khả năng thiêng liêng nội tại cho phép nắm bắt chi li toàn bộ chi tiết của Cái Toàn Thể đã được cảm nhận.” |
In addition to the many statements which present the first ray quality in such a light that it appears to relate to a fundamental (and not a peripheral) aspect of the human being (hence, to the soul and not to the personality), there is one commanding piece of evidence which should prove that the seven Techniques of Integration do, indeed, refer to the soul ray, even if not exclusively so. In Esoteric Psychology, Vol. II, p. 353, D.K. describes the crisis experienced by the first ray man who “cannot remain satisfied with the gaining of power in the personality sense and in a material world.” He seeks to walk with others, to regain feeling and to become inclusive. As the light breaks in upon his situation, “the first thing which is revealed to him is the devastating sight of that which he has destroyed.” He is subjected to what is called “the light which shocks,” and he seeks to “rebuild that which he has destroyed.” | Ngoài nhiều phát biểu trình bày phẩm tính cung một theo cách khiến nó dường như liên hệ đến một phương diện căn để (chứ không ngoại biên) của con người (do đó, liên hệ đến linh hồn chứ không phải phàm ngã), còn có một bằng chứng thuyết phục cho thấy bảy Kỹ Thuật Tích Hợp quả thật ám chỉ cung linh hồn, dẫu không hẳn chỉ giới hạn ở đó. Trong Tâm Lý Học Nội Môn, Tập II, tr. 353, Chân sư DK mô tả cơn khủng hoảng mà người cung một trải qua khi “không thể còn thỏa mãn với việc đạt quyền lực theo nghĩa phàm ngã và trong một thế giới vật chất.” Y tìm cách cùng bước đi với người khác, lấy lại cảm năng và trở nên bao gồm. Khi ánh sáng rọi vào hoàn cảnh của y, “điều đầu tiên được mặc khải cho y là cảnh tượng tàn khốc về những gì y đã phá hủy.” Y phải chịu cái gọi là “ánh sáng gây chấn động”, và y tìm cách “tái kiến tạo cái mà y đã phá hủy.” |
There next follows a most fascinating paragraph which begins with the sentence: | Tiếp theo là một đoạn cực kỳ thú vị, mở đầu bằng câu: |
It is interesting to note that when this stage is reached (the stage of rebuilding as the first ray man understands it), he will usually pass through four incarnations… | Điều đáng chú ý là khi giai đoạn này được đạt tới (giai đoạn tái kiến tạo như người cung một hiểu nó), y thường sẽ trải qua bốn lần lâm phàm… |
The personality ray for the first of these four incarnations is not given, but it is suggested that during the second incarnation the personality ray may be the third or the seventh; that for the third incarnation the personality will be the second; and that during the fourth life “he can function safely through a first ray personality [emphasis MDR] without losing his spiritual balance…” There can be no doubt then, that during this entire section on the integration of the personality, it is the ray of the soul which is, primarily, being discussed. | Cung phàm ngã cho kiếp thứ nhất trong bốn kiếp đó không được nêu, nhưng có gợi ý rằng trong kiếp thứ hai cung phàm ngã có thể là cung ba hoặc cung bảy; rằng trong kiếp thứ ba cung phàm ngã sẽ là cung hai; và rằng trong kiếp thứ tư “y có thể vận hành một cách an toàn thông qua một phàm ngã cung một [nhấn mạnh bởi MDR] mà không đánh mất quân bình tinh thần…” Như vậy, không còn nghi ngờ rằng trong toàn bộ phần này về sự tích hợp phàm ngã, chủ yếu đang được bàn đến là cung của linh hồn. |
Some ambiguity, however, does remain, for there are hints and statements which make it seem that the Techniques of Integration can also be applied to the ray of the personality. | Tuy nhiên, vẫn còn một ít mơ hồ, vì có những ám chỉ và phát biểu khiến dường như các Kỹ Thuật Tích Hợp cũng có thể được áp dụng cho cung của phàm ngã. |
Statements or hints supporting the idea that it is the ray of the personality to which the aspirant must refer when considering the Techniques of Integration. | Những phát biểu hay gợi ý ủng hộ quan điểm rằng đó là cung của phàm ngã mà người chí nguyện phải tham chiếu khi cân nhắc các Kỹ Thuật Tích Hợp. |
First of all, the Techniques of Integration appear in a section of Esoteric Psychology, Vol. II given to a study of “The Ray of Personality.” “The Egoic Ray” was treated in the immediately preceding section of some 253 pages. (This fact, however, must not be weighed too heavily because the Technique of Fusion, by means of which soul and personality are fused and blended into one smoothly functioning spiritual organism, and which is obviously keyed to the ray of the soul, is also found just a few pages later within the section on the Ray of Personality.) | Trước hết, các Kỹ Thuật Tích Hợp xuất hiện trong một phần của Tâm Lý Học Nội Môn, Tập II dành cho việc khảo cứu “Cung Phàm ngã.” “Cung Chân ngã” đã được trình bày trong phần ngay trước đó dài khoảng 253 trang. (Tuy nhiên, sự kiện này không nên được coi quá nặng vì Kỹ Thuật Dung Hợp, nhờ đó linh hồn và phàm ngã được dung hợp và hòa trộn thành một cơ thể tinh thần vận hành nhịp nhàng, và điều hiển nhiên là được then khóa theo cung linh hồn, cũng được tìm thấy chỉ vài trang sau, trong phần về Cung Phàm ngã.) |
The most convincing case for believing that the Techniques of Integration refer partially (if not exclusively) to the personality ray appears in the following paragraph which succeeds the presentation of four “formulas” which summarize in a single word the Technique of Integration for each ray: | Lập luận thuyết phục nhất cho niềm tin rằng các Kỹ Thuật Tích Hợp phần nào (nếu không phải chủ yếu) tham chiếu đến cung phàm ngã xuất hiện trong đoạn văn sau, đoạn kế ngay sau khi trình bày bốn “công thức” tóm gọn bằng một từ Kỹ Thuật Tích Hợp cho mỗi cung: |
As we brood on these words and on the remaining three which are indicated hereafter, we shall bring clearly into our consciousness the keynote for the disciples of the world at this time who are in a position to discover that their personalities or their souls [emphasis, MDR] are on some one or another of these rays. Ibid., p. 368. | Khi chúng ta trầm tư về những từ này và về ba từ còn lại được nêu sau đây, chúng ta sẽ đưa lên rõ ràng vào tâm thức mình chủ âm dành cho các đệ tử của thế giới trong thời điểm này — những người ở vị trí có thể khám phá ra rằng phàm ngã của họ hoặc linh hồn của họ [nhấn mạnh của MDR] thuộc một trong các cung nào đó. Sách đã dẫn, tr. 368. |
By including both the words “personalities” and “souls,” the Tibetan seems to be saying that the integration formulas have a dual application. Experience in attempting to apply these formulas to the lives of individuals demonstrates that the proposed dual application does stand to reason. | Bằng việc bao gồm cả hai từ “phàm ngã” và “linh hồn”, Chân sư Tây Tạng dường như nói rằng các công thức tích hợp có ứng dụng kép. Kinh nghiệm khi nỗ lực áp dụng các công thức này vào đời sống cá nhân cho thấy đề xuất về ứng dụng kép là hợp lẽ. |
The words in the following quotation, suggest that these formulas and techniques can be and are used in relation to the personality ray, though D.K. states the drawbacks of such use in no uncertain terms. When one reads between the lines it again seems clear that these formulas refer fundamentally to the soul ray even though they may be applied upon the level of the personality. Applying them strictly to the level of personality, however, seems to have its dangers: | Những lời trong trích đoạn sau gợi ý rằng các công thức và kỹ thuật này có thể và đang được dùng liên quan đến cung phàm ngã, dù Chân sư DK đã nêu những nhược điểm của cách dùng như vậy một cách rất rõ ràng. Khi đọc giữa các dòng, lại một lần nữa dường như rõ là những công thức này về căn để ám chỉ đến cung linh hồn, dẫu chúng có thể được áp dụng ở cấp độ phàm ngã. Tuy nhiên, việc áp dụng chúng hoàn toàn ở cấp phàm ngã dường như có những nguy cơ của nó: |
The use of these words by those who are not pledged disciples in connection with their personality rays and personality expression might be definitely undesirable. The third ray personality, emphasising [sic] stillness, for instance, might find himself descending into the sloughs of lethargy; the first ray personality, seeking to develop inclusiveness might go to extremes, deeming himself a centre of inclusiveness. These are Words of Power, when used by a disciple, and must be employed in the light of the soul or may have a striking harmful effect. | Việc sử dụng những từ này bởi những người không phải là các đệ tử đã thệ nguyện, trong liên hệ với các cung phàm ngã và sự biểu lộ phàm ngã của họ, có thể là điều thật sự không mong muốn. Phàm ngã cung ba, nhấn mạnh vào tĩnh lặng, chẳng hạn, có thể thấy mình đang trượt vào vũng lầy của trì độn; phàm ngã cung một, tìm cách phát triển tính bao gồm, có thể đi đến cực đoan, coi mình là một trung tâm bao gồm. Đây là những Quyền năng từ khi được một đệ tử sử dụng, và phải được vận dụng dưới ánh sáng của linh hồn, nếu không có thể tạo ra hiệu ứng tai hại rõ rệt. |
In light of the ambiguity, and even though the soul ray must be given the “lion’s share” when using these techniques, it would seem wise to learn how these formulae might be effectively applied in relation to both the soul and personality (and their respective rays) in order to 1) bring about the integration of the personality, 2) its growing alignment with the soul, 3) the gradual blending of the two, and 4) their eventual fusion. | Trong bối cảnh mơ hồ như vậy, và dẫu cung linh hồn phải được ưu tiên “phần sư tử” khi dùng những kỹ thuật này, có lẽ là khôn ngoan khi học xem các công thức ấy có thể được áp dụng hiệu quả như thế nào trong liên hệ với cả linh hồn và phàm ngã (và các cung tương ứng của chúng) để 1) mang lại sự tích hợp của phàm ngã, 2) sự chỉnh hợp ngày một tăng của phàm ngã với linh hồn, 3) sự hòa trộn dần dần của cả hai, và 4) sự dung hợp cuối cùng của chúng. |
Important Realizations—Những Nhận Biết Quan Trọng
Before discussing the problems of integration to be faced by those who have any of the 49 possible combinations of soul and personality rays (seven such combinations being highly unlikely until a very advanced stage of evolution is achieved—if then), it would be well to clarify certain matters. First and foremost: the soul ray does not manifest only upon the level of the soul or Ego. Even in the early stages of evolution, long before the individual human being can be called, in any sense, soul-infused, the soul is manifesting through the lower man. The tabulations on pp. 39-43 of Esoteric Psychology, Vol. II, which apply to both the early and later stages of soul manifestation, demonstrate that rather negative, personality-related manifestations of ray energy do occur as a result of ray energy emanating from the soul. This is not to say that ray energy emanated from the soul can, itself, be considered negative in any way. Rather, the soul’s ray is appropriated or, rather, misappropriated by the individual personality fields and later by the integrated personality field itself. | Trước khi bàn về các vấn đề tích hợp mà những ai có bất kỳ trong 49 tổ hợp khả hữu của cung linh hồn và cung phàm ngã phải đối diện (bảy tổ hợp trong số đó rất khó xảy ra cho đến một giai đoạn tiến hóa rất cao — nếu khi ấy), sẽ là điều tốt nếu làm sáng tỏ đôi điều. Trước hết và trên hết: cung linh hồn không chỉ biểu lộ trên cấp độ của linh hồn hay Chân ngã. Ngay trong những giai đoạn sớm của tiến hóa, lâu trước khi con người có thể được gọi, theo bất kỳ nghĩa nào, là được linh hồn thấm nhuần, thì linh hồn đã đang biểu lộ xuyên qua phàm nhân. Các bảng ở tr. 39–43 của Tâm Lý Học Nội Môn, Tập II, vốn áp dụng cho cả giai đoạn sớm và giai đoạn sau của sự biểu lộ của linh hồn, cho thấy rằng những biểu hiện khá tiêu cực và liên hệ phàm ngã của năng lượng cung thực sự có thể xảy ra như là kết quả của năng lượng cung xuất phát từ linh hồn. Điều này không có nghĩa năng lượng cung phát ra từ linh hồn, tự thân, có thể được xem là tiêu cực theo bất kỳ cách nào. Đúng hơn, cung của linh hồn bị chiếm dụng, hay nói đúng hơn, bị chiếm dụng sai bởi các trường phàm ngã cá nhân và về sau bởi chính trường phàm ngã đã được tích hợp. |
What this means, in utterly simplistic terms, is that the soul ray energy is not “good” while the energy of the personality ray is “bad.” Those with a soul upon a given ray do, indeed, have personality glamors relating to that ray, because the personality misuses (limits or distorts) the energy of the soul ray and (especially in the pre-spiritual phases of evolution) turns it to personality ends. The soul and its ray energy, however, are fundamental, and this means that the personality will always carry the coloration of the soul ray no matter what may be the temporary ray of that personality in a particular incarnation. Therefore, certain negative traits, apparently associated with the personality, do, indeed, derive from misappropriated soul ray energy and will, therefore, serve as a clue as to which may be the ray of the soul. | Nói theo lối cực kỳ giản dị, năng lượng cung linh hồn không phải là “tốt” còn năng lượng cung phàm ngã là “xấu.” Những ai có linh hồn đặt trên một cung nào đó, thực vậy, sẽ có các ảo cảm phàm ngã liên hệ với cung ấy, bởi vì phàm ngã lạm dụng (giới hạn hay làm méo mó) năng lượng của cung linh hồn và (đặc biệt trong các giai đoạn tiền tinh thần của tiến hóa) chuyển nó phục vụ các mục đích phàm ngã. Tuy nhiên, linh hồn và năng lượng cung của nó là căn để, và điều này có nghĩa là phàm ngã sẽ luôn mang màu sắc của cung linh hồn bất kể cung tạm thời của phàm ngã ấy trong một kiếp cụ thể là gì. Bởi vậy, vài đặc điểm tiêu cực, có vẻ như gắn với phàm ngã, thực ra phát sinh từ năng lượng cung linh hồn bị chiếm dụng sai và do đó sẽ là manh mối về cung của linh hồn. |
Of course, the actual ray of the personality will also be the cause of various personality traits and glamors. Actually, the rays of each of the personality vehicles will contribute to the quality (and, potentially, to the glamors) of the personality. Interestingly it is possible for an individual (at different times) to demonstrate the positive traits related to the personality ray and negative traits related to the soul ray—and vice versa, which is the more usual expectation. | Dĩ nhiên, cung thực của phàm ngã cũng sẽ gây nên nhiều đặc điểm phàm ngã và ảo cảm. Thực tế, các cung của mỗi hiện thể phàm ngã đều góp phần vào phẩm tính (và, có tiềm năng, vào các ảo cảm) của phàm ngã. Thú vị là một cá nhân (vào những thời điểm khác nhau) có thể biểu lộ các phẩm tính tích cực liên quan đến cung phàm ngã và các phẩm tính tiêu cực liên quan đến cung linh hồn — và ngược lại, vốn là điều thường được mong đợi. |
As the soul seeks to integrate the personality and bring the energy qualities of the personality vehicles into harmony with its own ray quality, the soul has to contend not only with the ray tendencies of the personality and its vehicles, but with the negative personality reflection of its very own ray qualities. In fact, the seven one-word formulae, each to be used with one of the seven Techniques of Integration, address the correction of selfishly misused soul ray energy even more, perhaps, than they do the correction of the abuses of the personality ray of the current incarnation. | Khi linh hồn tìm cách tích hợp phàm ngã và đưa các phẩm tính năng lượng của các hiện thể phàm ngã vào hòa điệu với phẩm tính cung của chính nó, linh hồn phải đương đầu không chỉ với các khuynh hướng theo cung của phàm ngã và các hiện thể của nó, mà còn với phản ảnh phàm ngã tiêu cực của chính các phẩm tính cung của linh hồn. Thực tế, bảy công thức một từ, mỗi công thức gắn với một trong bảy Kỹ Thuật Tích Hợp, còn nhắm hiệu chỉnh năng lượng cung linh hồn bị lạm dụng vì vị kỷ nhiều hơn, có lẽ, so với hiệu chỉnh những lạm dụng của cung phàm ngã trong kiếp hiện tại. |
We must remember that each personality (no matter what its ray) will demonstrate the qualities and (until a very high stage of evolution is reached) the prominent glamors of its soul ray energy. It is these glamors, especially, which must be rectified if the personality is to become aligned, coordinated and integrated with the soul. A personality may, of course, become powerfully integrated within its own “ring-pass-not” through the selfish use of its own ray and of the appropriated soul-ray energy, but in this type of integration there will be no appreciable blending, fusing or integrating of the personality and its vehicles with the soul. In short, unless the formulae are used, personality integration in the spiritual sense, will not occur. | Chúng ta phải nhớ rằng mỗi phàm ngã (bất kể cung của nó là gì) sẽ biểu lộ các phẩm tính và (cho đến khi đạt đến một giai đoạn tiến hóa rất cao) những ảo cảm nổi trội của năng lượng cung linh hồn của nó. Chính những ảo cảm này, đặc biệt, phải được điều chỉnh nếu phàm ngã muốn được chỉnh hợp, phối kết và tích hợp với linh hồn. Một phàm ngã dĩ nhiên có thể trở nên được tích hợp mạnh mẽ trong “vòng-giới-hạn” của riêng mình nhờ lối sử dụng vị kỷ cung riêng và năng lượng cung linh hồn bị chiếm dụng, nhưng trong kiểu tích hợp này sẽ không có sự hòa trộn, dung hợp hay tích hợp đáng kể nào của phàm ngã và các hiện thể của nó với linh hồn. Tóm lại, nếu không sử dụng các công thức, sự tích hợp phàm ngã theo nghĩa tinh thần sẽ không xảy ra. |
For instance, suppose the soul ray is the second ray and the personality is the first. The personality will demonstrate not only the usual willful first ray glamors, but some of the fear, weakness and over-attachment of the second ray. In order for there to be 1) a true alignment of the personality with the soul, 2) a subsequent coordination and interplay between them, and, finally, 3) an integration of the personality into the life of the soul, the second ray formula of Centralization must be used. This is because the personality, though sometimes proud and isolated because of its first ray nature, will be permeated by second ray traits because the personality is, essentially, an emanation of a second ray soul. Once there is a detachment from the nonessentials and from the many personality ties (stimulated by the personality’s appropriation of the soul’s second ray energy of attachment), and also the achievement of a relatively detached centralization, then the soul and personality can be aligned, coordinated, and an increasing integration and fusion will develop between them. | Chẳng hạn, giả sử cung linh hồn là cung hai và phàm ngã là cung một. Phàm ngã sẽ biểu lộ không chỉ các ảo cảm ý chí thường thấy của cung một, mà còn một số sợ hãi, yếu đuối và quá gắn chấp của cung hai. Để có được 1) một sự chỉnh hợp chân chính của phàm ngã với linh hồn, 2) sự phối kết và tác động qua lại kế tiếp giữa chúng, và cuối cùng, 3) sự tích hợp của phàm ngã vào đời sống của linh hồn, công thức cung hai là Trung tâm hóa phải được sử dụng. Đó là bởi vì phàm ngã, tuy đôi khi kiêu hãnh và biệt lập do bản tánh cung một của nó, sẽ bị thấm nhuần bởi các đặc tính cung hai vì phàm ngã, về bản chất, là sự xuất lộ của một linh hồn cung hai. Một khi có sự tách rời khỏi những điều không cốt yếu và khỏi nhiều mối ràng buộc phàm ngã (được kích hoạt bởi việc phàm ngã chiếm dụng năng lượng gắn chấp cung hai của linh hồn), và cũng đạt được một sự trung tâm hóa tương đối tách rời, thì linh hồn và phàm ngã có thể được chỉnh hợp, phối kết, và một sự tích hợp và dung hợp ngày một tăng sẽ phát triển giữa chúng. |
Of course, it would be possible for such a personality to create a selfish, self-centered form of integration (strictly of the personality) without using the Technique of Integration and its formula Centralization. In such a case it would pride itself (first ray) upon its many attachments and ties (second ray), and might live a life of many social and interpersonal satisfactions divorced from a conscious appreciation of the true purpose of the soul. This however, is not the state of personality integration (in its highest sense) and, in any case, is only temporary, for the dissatisfactions arising from the misuse of soul energy will usually lead to rectification. | Dĩ nhiên, một phàm ngã như vậy hoàn toàn có thể tạo ra một hình thức tích hợp ích kỷ, tập trung vào bản thân (thuần túy thuộc về phàm ngã) mà không dùng Kỹ Thuật Tích Hợp và công thức của nó Trung tâm hóa. Trong trường hợp đó, nó sẽ tự hào (cung một) về vô số sự gắn chấp và dây mơ rễ má (cung hai), và có thể sống một đời đầy những thỏa mãn xã hội và tương giao nhưng tách rời khỏi sự cảm thấu có ý thức về mục đích chân thật của linh hồn. Tuy nhiên, đó không phải là trạng thái tích hợp phàm ngã (theo nghĩa cao nhất) và, dù sao đi nữa, cũng chỉ là tạm thời, vì những bất mãn phát sinh từ việc lạm dụng năng lượng linh hồn thường sẽ dẫn đến sự chỉnh đốn. |
It is important to realize that the term “personality” is defined by the Tibetan in a number of ways, the last of which is very broad and gives the intelligent student much food for thought: | Điều quan trọng là nhận ra rằng thuật ngữ “phàm ngã” được Chân sư Tây Tạng định nghĩa theo nhiều cách; định nghĩa cuối cùng trong số đó rất bao quát và đem lại cho đạo sinh thông minh nhiều điều đáng suy ngẫm: |
A man can be regarded as a personality in truth when the form aspect and the soul nature are at-one. | Một người có thể được xem là một phàm ngã đúng nghĩa khi phương diện hình tướng và bản tính linh hồn hợp nhất. |
This definition seems to suggest that only after the Integration Formula has been used, the personality is aligned with the soul, and soul-personality integration (not just personality integration itself) is proceeding, can a person be thought of as a truly integrated personality—or, indeed, even as a personality in the fullest sense of the word. | Định nghĩa này có vẻ gợi ý rằng chỉ sau khi Công Thức Tích Hợp đã được sử dụng, phàm ngã được chỉnh hợp với linh hồn, và sự tích hợp linh hồn-phàm ngã (không chỉ riêng sự tích hợp phàm ngã tự thân) đang tiến hành, thì người ta mới có thể được xem như một phàm ngã thật sự tích hợp—hay, thực vậy, ngay cả như một phàm ngã theo nghĩa đầy đủ nhất của từ này. |
The Dynamics of Soul-Personality Integration—Những Động Lực của Sự Tích Hợp Linh Hồn-Phàm Ngã
One of the most important themes of esoteric psychology is the union (yoga) of one of the major “pairs of opposites”—soul and personality. The Tibetan has described this process in general (cf., pp. 342-343) and in greater detail for those whose soul is found upon any one of the seven rays. | Một trong những chủ đề quan trọng nhất của Tâm Lý Học Nội Môn là sự hợp nhất (yoga) của một trong các “cặp đối nghịch” chính—linh hồn và phàm ngã. Chân sư Tây Tạng đã mô tả tiến trình này một cách tổng quát (x. tr. 342-343) và chi tiết hơn đối với những ai có linh hồn thuộc một trong bảy cung. |
The possibility of integrating the personality and, then, of expressing the soul through the integrated personality does not even arise until more than halfway through the long cycle of evolution. The ordinary progress of evolution during which the human being has identified his consciousness with one personality vehicle after another (first the physical body, then the emotions and finally the mind) is superseded by a desire for Self-awareness. There has been a great reorientation during which the individual “leaves behind the hitherto desirable and aspires to that which has not hitherto been seen.” | Khả năng tích hợp phàm ngã và, rồi, biểu lộ linh hồn qua phàm ngã đã được tích hợp, thậm chí chưa hề nảy sinh cho đến khi đã đi quá nửa chu kỳ dài của tiến hóa. Tiến trình tiến hóa thông thường, trong đó con người đã đồng hóa tâm thức mình với hết thảy các vận cụ của phàm ngã (đầu tiên là thể xác, rồi đến cảm xúc và cuối cùng là trí), được thay thế bởi một khát vọng nhận biết về Tự Ngã. Đã diễn ra một cuộc tái định hướng lớn, trong đó cá nhân “bỏ lại những gì trước nay đáng mơ ước và hướng đến điều trước nay chưa hề được thấy.” |
It is at this point of unfoldment, when the human being is subject to a “process of evolution wherein ‘divine attraction’ supersedes the attraction of the three worlds,” that a knowledge of the rays and their interaction becomes especially valuable. By the time this reorientation and change of values has taken place, the individual is either an advanced human being or a spiritual aspirant. | Chính tại điểm khai mở này, khi con người đang chịu một “tiến trình tiến hóa trong đó ‘sức hút thiêng liêng’ thay thế sức hút của ba cõi”, thì tri thức về các cung và sự tương tác của chúng trở nên đặc biệt hữu ích. Khi sự tái định hướng và thay đổi các giá trị này đã diễn ra, cá nhân hoặc là một con người tiên tiến hoặc là một người chí nguyện. |
This stage of evolution spans a period of development beginning with the uncomfortable realization that there exists a lack of control between the divine and human aspects of the man, and ending with the complete fusion of the soul ray and the personality ray—the consciously achieved blending of soul and personality into one united energy field. | Giai đoạn tiến hóa này bao trùm một khoảng phát triển bắt đầu bằng nhận thức khó chịu rằng có một sự thiếu kiểm soát giữa các phương diện thiêng liêng và nhân loại nơi con người, và kết thúc bằng sự dung hợp trọn vẹn của cung linh hồn và cung phàm ngã—sự hòa trộn được thực hiện có ý thức giữa linh hồn và phàm ngã thành một trường năng lượng hợp nhất. |
For the purposes of our approach, which is focusing upon certain stages of psychospiritual development which are of importance to aspirants and disciples, we will be considering soul and personality interactions during each of the following phases: | Cho mục đích của cách tiếp cận của chúng ta, vốn tập trung vào những giai đoạn nhất định của phát triển tâm lý-tinh thần quan trọng đối với người chí nguyện và đệ tử, chúng ta sẽ xem xét các tương tác giữa linh hồn và phàm ngã trong mỗi giai đoạn sau đây: |
Phases of Focus in the Process of Integrating Soul and Personality Considered with Respect to the Seven Rays—
Các Giai Đoạn Tập Trung trong Tiến Trình Tích Hợp Linh Hồn và Phàm Ngã Xét Theo Bảy Cung
1. The pre-spiritual phase of soul-personality interaction: this is the stage of selfish personality integration during which the personality pursues its own concerns exclusively. While it does not respond to the spiritual motivations and promptings of the soul, the personality does appropriate soul and soul ray energy for its own use. The result is a selfish personality demonstration, qualified by the energy of the personality ray, and reinforced by the misappropriated energy of the soul and its ray. | 1. Giai đoạn tiền-tinh thần của tương tác linh hồn-phàm ngã: đây là giai đoạn tích hợp phàm ngã ích kỷ, trong đó phàm ngã theo đuổi các mối bận tâm của riêng nó một cách độc quyền. Dù không đáp ứng các động cơ và lời thúc giục tinh thần của linh hồn, phàm ngã vẫn chiếm dụng năng lượng của linh hồn và của cung linh hồn cho việc riêng. Hệ quả là một biểu hiện phàm ngã ích kỷ, được định sắc bởi năng lượng của cung phàm ngã và được gia cường bởi năng lượng bị chiếm dụng của linh hồn và cung của nó. |
2. The phase of conflict based on a growing sense of duality: the individual is an advanced human being or an aspirant. A degree of personality integration has occurred. The mind is developed to the point where the individual can function successfully in the world under the direction of the personality ray. There is, however, the aspiration for a different kind of life more in line with the quality of the soul ray. The individual recognizes the presence of the soul ray mostly by the dissatisfaction he feels when engaged in pursuits related only to the personality ray and the rays of the personality vehicles. There ensues a constant warfare between the impulses of the personality ray and that of the ‘intruding’ soul ray. The conflict at first is unresolved and the situation remains unsettled. This phase marks the beginning of a gradual transference of the center of life interest. | 2. Giai đoạn xung đột dựa trên cảm thức nhị nguyên tăng trưởng: đương sự là một con người tiên tiến hoặc một người chí nguyện. Một mức độ tích hợp phàm ngã đã diễn ra. Thể trí được phát triển đến mức đương sự có thể hoạt động thành công trong thế gian dưới sự chỉ đạo của cung phàm ngã. Tuy nhiên, xuất hiện khát vọng về một kiểu sống khác, hợp với phẩm tính của cung linh hồn hơn. Đương sự nhận ra sự hiện diện của cung linh hồn chủ yếu qua nỗi bất mãn khi đeo đuổi những gì chỉ liên quan đến cung phàm ngã và các cung của những hiện thể phàm ngã. Từ đó diễn ra một cuộc chiến miên tục giữa các xung lực của cung phàm ngã và của cung linh hồn “xâm nhập.” Xung đột lúc đầu chưa được giải quyết và tình thế vẫn bất ổn. Giai đoạn này đánh dấu khởi đầu của sự chuyển dịch dần dần tâm điểm quan tâm sống. |
3. The phase of gradual correction, adjustment, accommodation and harmonization: these adjustments are made by the aspirant or disciple who, standing midway between soul and personality, has become the detached observer, and seeks to make the personality a fit instrument for cooperation with the energy of the soul and thus, with the Divine Plan. Through the use of the appropriate Integration Formula, alignment and revelation have occurred and the aspirant or disciple comprehends the task ahead. | 3. Giai đoạn sửa sai, điều chỉnh, thích ứng và hòa hợp dần dần: những điều chỉnh này được thực hiện bởi người chí nguyện hay đệ tử, kẻ đứng ở giữa linh hồn và phàm ngã, đã trở thành người quan sát tách rời, và tìm cách biến phàm ngã thành một khí cụ thích hợp để hợp tác với năng lượng của linh hồn và như thế, với Thiên Cơ. Qua việc sử dụng Công Thức Tích Hợp tương ứng, sự chỉnh hợp và sự mặc khải đã diễn ra và người chí nguyện hay đệ tử thấu triệt nhiệm vụ phía trước. |
4. The phase of subordination: the personality is gradually subordinated to the requirements of the Self and begins to work in unison with that Self. | 4. Giai đoạn đặt dưới/quy phục: phàm ngã dần dần được đặt dưới các đòi hỏi của Chân Ngã và bắt đầu làm việc hòa hợp với Chân Ngã đó. |
5. The phase of gradual unification and interplay: a gradual integration of the personality into the life of the soul proceeds, and a gradual blending of the soul ray and personality ray into one united energy field. The personality ray is becoming a subray of the soul ray. The Technique of Fusion can be applied. | 5. Giai đoạn hợp nhất và tương tác dần dần: diễn ra sự tích hợp dần dần của phàm ngã vào đời sống của linh hồn, và sự pha trộn dần dần của cung linh hồn và cung phàm ngã thành một trường năng lượng hợp nhất. Cung phàm ngã đang trở thành một cung phụ của cung linh hồn. Kỹ Thuật Dung Hợp có thể được áp dụng. |
6. The phase of fusion: the transfiguration of the personality is in process. The personality is soul-infused; the personality is becoming, in the true sense of the word, the soul in manifestation. | 6. Giai đoạn dung hợp: sự biến hình của phàm ngã đang diễn tiến. Phàm ngã được linh hồn thấm nhuần; phàm ngã đang trở thành, theo nghĩa chân chính của từ này, linh hồn trong sự hiển lộ. |
Throughout this section of the book we will deal with 49 (but more specifically, 42) combinations of soul and personality rays, as these combinations function during the progressive stages of soul-personality integration. | Xuyên suốt phần này của sách, chúng ta sẽ đề cập đến 49 (nhưng cụ thể hơn, 42) tổ hợp của các cung linh hồn và cung phàm ngã, khi các tổ hợp này vận hành trong những giai đoạn tiến triển của sự tích hợp linh hồn-phàm ngã. |
Integration Formulae as They Apply to both the Soul Ray and the Personality Ray—
Các Công Thức Tích Hợp như Chúng Áp Dụng cho cả Cung Linh Hồn và Cung Phàm Ngã
Let us again emphasize that aspirants and disciples are concerned with two kinds of personality integration: the first is the integration of the personality per se, and within itself; the second is the integration of the already integrated personality with the soul. This second stage should, perhaps, always be referred to as soul-personality integration. However, when D.K. gives formulae for the integration of the personality, these formulae apply to the second kind of personality integration, soul-personality integration. | Một lần nữa cần nhấn mạnh rằng người chí nguyện và đệ tử quan tâm đến hai loại tích hợp phàm ngã: loại thứ nhất là sự tích hợp của phàm ngã tự thân, và trong chính nó; loại thứ hai là sự tích hợp của phàm ngã đã tích hợp sẵn với linh hồn. Giai đoạn thứ hai này có lẽ, nên luôn được gọi là sự tích hợp linh hồn-phàm ngã. Tuy nhiên, khi Chân sư DK đưa ra các công thức dành cho sự tích hợp phàm ngã, thì những công thức này áp dụng cho loại tích hợp phàm ngã thứ hai, tức sự tích hợp linh hồn-phàm ngã. |
It is important and interesting to realize that strictly personal integration (the first type) is brought about not so much by the use of the Integration Formulae, as by qualities which are, virtually, the opposite of these one-word Integration Formulae! It is because a person is already demonstrating too much of his ray quality that the Integration Formula (which emphasizes qualities which are an ‘antidote’ to that ray quality) must be employed. | Điều quan trọng và thú vị là nhận ra rằng sự tích hợp thuần túy mang tính cá nhân (loại thứ nhất) không phải được tạo nên chủ yếu nhờ dùng các Công Thức Tích Hợp, mà nhờ những phẩm tính hầu như là đối nghịch với các Công Thức Tích Hợp một-từ này! Chính vì một người đã biểu lộ quá nhiều phẩm tính cung của y nên Công Thức Tích Hợp (nhấn mạnh những phẩm tính như một ‘giải dược’ đối với phẩm tính cung đó) cần phải được vận dụng. |
The Integration Formulae are not to be applied in the earlier stages of personality integration. It is only after a degree of strictly personal integration has been achieved, that these Formulae can be applied successfully. The earlier phase of strictly personal integration is brought about by the strong and straightforward emphasis of the individual’s ray qualities (overemphasis of which it is the purpose of the appropriate Integration Formula to moderate or correct). | Các Công Thức Tích Hợp không được áp dụng trong những giai đoạn ban đầu của sự tích hợp phàm ngã. Chỉ sau khi một mức độ tích hợp thuần túy cá nhân đã đạt được, thì các Công Thức này mới có thể được áp dụng thành công. Giai đoạn sớm hơn của sự tích hợp thuần túy cá nhân được tạo nên bởi sự nhấn mạnh mạnh mẽ và trực chỉ vào các phẩm tính cung của cá nhân (việc nhấn quá-độ này chính là điều mà Công Thức Tích Hợp tương ứng nhằm điều hòa hay hiệu chỉnh). |
The main point to be remembered here, is that the seven Integration Formulae do not apply in the early stages of personality integration—the stages during which the personality is becoming a well-coordinated, efficient, though selfish, organism. They apply only when the time has come to relate the personality directly to the soul. | Điểm chủ yếu cần ghi nhớ ở đây là bảy Công Thức Tích Hợp không áp dụng trong những giai đoạn đầu của sự tích hợp phàm ngã—những giai đoạn trong đó phàm ngã đang trở thành một cơ cấu phối hợp tốt, hữu hiệu, tuy nhiên ích kỷ. Chúng chỉ áp dụng khi thời điểm đã đến để liên hệ phàm ngã trực tiếp với linh hồn. |
Before discussing the numerous combinations of soul and personality rays from the point of view of soul-personality integration, it seems a good idea to discuss briefly the seven Formulae derived from the seven Techniques of Integration. Once a fairly advanced stage of evolution has been reached, each of these formulae can be effective when applied by the disciple in relation to either his soul or personality ray (though the greatest emphasis should almost always be given to applying the appropriate formula in relation to the soul ray). In fact, it would be advisable for each individual engaged in promoting a more complete and harmonious soul-personality interplay to understand and utilize two formulae—one for his personality ray and one for his soul ray. | Trước khi bàn về nhiều tổ hợp cung linh hồn và cung phàm ngã dưới góc độ sự tích hợp linh hồn-phàm ngã, có lẽ nên bàn ngắn gọn về bảy Công Thức rút ra từ bảy Kỹ Thuật Tích Hợp. Một khi đã đạt đến một giai đoạn tiến hóa khá cao, mỗi công thức này đều có thể hữu hiệu khi được đệ tử áp dụng liên quan đến hoặc cung linh hồn hoặc cung phàm ngã của y (dẫu nhấn mạnh lớn nhất hầu như luôn nên đặt vào việc áp dụng công thức thích hợp liên quan đến cung linh hồn). Thực vậy, sẽ là điều nên làm cho mỗi người đang dấn thân thúc đẩy sự tương tác linh hồn-phàm ngã ngày càng trọn vẹn và hài hòa, hiểu và sử dụng hai công thức—một cho cung phàm ngã và một cho cung linh hồn của mình. |
In any case, it is important to realize, that the use of the formulae represents a change in the usual direction of evolution and an alteration in technique. Prior to the time of their application, the integration of the personality was proceeding in a manner thoroughly consistent with the usual ‘energy tendencies’ of both the soul and personality rays (for both the soul ray and personality ray energies are involved in personality integration). | Dù thế nào, điều quan trọng cần nhận ra là việc sử dụng các công thức biểu thị một sự thay đổi trong hướng đi thông thường của tiến hóa và một sự biến đổi về kỹ thuật. Trước thời điểm áp dụng chúng, sự tích hợp của phàm ngã vẫn tiến hành theo cách hoàn toàn phù hợp với các ‘xu thế năng lượng’ thông thường của cả cung linh hồn lẫn cung phàm ngã (bởi cả năng lượng cung linh hồn và cung phàm ngã đều dính dự vào sự tích hợp phàm ngã). |
For instance, let us suppose that the first ray of Will or Power is either the soul ray or the personality ray. Prior to the stage of evolution in which conscious soul-personality integration begins (i.e., prior to the stage in which use of the appropriate Integration Formula is indicated), the individual will probably use will and assertiveness (often selfishly) to gain self-control and to achieve effectiveness in the world. Self-control and effectiveness are strong indicators of what is usually recognized as an integrated personality. This phase occurs before the love aspect of the soul is potently engaged, for the personality, itself, corresponds to the intelligence or activity aspect of divinity (just as the soul corresponds to the love aspect), and the first phases of personality integration necessitate a strong mental polarization. | Chẳng hạn, giả sử cung một của Ý chí hay Quyền năng là cung của linh hồn hoặc của phàm ngã. Trước giai đoạn tiến hóa trong đó sự tích hợp linh hồn-phàm ngã có ý thức bắt đầu (tức trước giai đoạn trong đó việc sử dụng Công Thức Tích Hợp tương ứng được chỉ thị), đương sự rất có thể sẽ dùng ý chí và tính quyết đoán (thường là ích kỷ) để đạt tự chủ và hiệu quả trong thế gian. Tự chủ và hiệu quả là những chỉ dấu mạnh về những gì thường được công nhận là một phàm ngã tích hợp. Giai đoạn này xảy ra trước khi phương diện bác ái của linh hồn được huy động mạnh mẽ, bởi phàm ngã, tự thân, tương ứng với phương diện thông tuệ hay hoạt động của thiên tính (cũng như linh hồn tương ứng với phương diện bác ái), và những giai đoạn đầu của sự tích hợp phàm ngã đòi hỏi một sự phân cực trí tuệ mạnh. |
When this first phase of personality integration is complete, we will have a powerful, dominating, self-centered and very integrated and coherent life demonstration, achieved through the unmodified use of first ray energy. At this point, a reversal in procedure must take place. Certain forms of strenuous, assertive, willful activity (characteristic of the first ray) must be discontinued, and a more quiet, receptive attitude (characteristic of the second aspect of divinity) must be developed before the second phase of personality integration (which is really the integration of personality with the soul) can occur. Up to this point, the first ray individual has no doubt utilized the first ray qualities of rebuff and exclusiveness to mobilize and integrate his forces. But—and this is the point—such customary first ray methods are not at all like the first ray Integration Formula which calls for Inclusion, (a quality far more characteristic of the second ray than the first). | Khi giai đoạn đầu của sự tích hợp phàm ngã này hoàn tất, chúng ta sẽ có một biểu hiện đời sống đầy sức mạnh, thống trị, tập trung vào bản thân và rất tích hợp, chặt chẽ, đạt được nhờ việc sử dụng không điều chỉnh năng lượng cung một. Tại điểm này, cần có một sự đảo chiều trong phương thức. Một số dạng hoạt động gắng gượng, quyết đoán, ý chí (đặc trưng của cung một) phải được chấm dứt, và một thái độ tĩnh lặng, tiếp nhận hơn (đặc trưng của phương diện thứ hai của thiên tính) phải được phát triển trước khi giai đoạn thứ hai của sự tích hợp phàm ngã (thực ra là sự tích hợp của phàm ngã với linh hồn) có thể xảy ra. Cho đến lúc này, người cung một hẳn đã tận dụng các phẩm tính cung một như sự khước từ và tính loại trừ để tập hợp và tích hợp các lực của mình. Nhưng—và đây là điểm mấu chốt—những phương pháp quen thuộc của cung một như thế hoàn toàn không giống với Công Thức Tích Hợp cung một, vốn đòi hỏi Bao gồm (một phẩm tính đặc trưng cho cung hai hơn là cung một). |
Thus, as a general rule, when personality integration has proceeded as far as it can using the usual methods directly expressive of the ray energy of the soul or personality, then the appropriate Integration Formula must be called in. It is this Formula which introduces a balancing aspect of energy which lifts the integration process out of the phase of strictly personal integration, into a more spiritual, soul-related phase of activity. The contrast between each Formula and the usual trend of ray expression can be seen in each case. In some cases the contrast is extremely obvious; in one or two, it is more subtle, and requires interpretation. The principle, however, holds good. | Như vậy, theo quy tắc chung, khi sự tích hợp phàm ngã đã tiến xa hết mức có thể bằng các phương pháp thông thường trực tiếp biểu lộ năng lượng cung của linh hồn hay của phàm ngã, thì cần mời gọi Công Thức Tích Hợp tương ứng. Chính Công Thức này đưa vào một phương diện năng lượng quân bình nâng tiến trình tích hợp ra khỏi giai đoạn tích hợp thuần túy cá nhân, bước vào một giai đoạn hoạt động tinh thần, liên hệ với linh hồn hơn. Sự tương phản giữa mỗi Công Thức và xu hướng biểu lộ cung thông thường có thể thấy trong từng trường hợp. Có trường hợp tương phản cực kỳ rõ ràng; có một hai trường hợp tinh tế hơn và đòi hỏi diễn giải. Tuy nhiên, nguyên tắc vẫn đứng vững. |
The Relation Between the Seven Techniques of Integration
and the Seven Integration Formulae
Mối Liên Hệ giữa Bảy Kỹ Thuật Tích Hợp
và Bảy Công Thức Tích Hợp
The seven Techniques of Integration are marvelously evocative paragraphs translated by the Tibetan from the Old Commentary. They are very comprehensive, and extend from the period of what we are calling strictly personal integration to the later phase of soul-personality integration. These paragraphs (with the exception of those for ray one) include both the usual ray approaches to integration and the modified approaches, characterized by the one-word Integration Formulae. | Bảy Kỹ Thuật Tích Hợp là những đoạn văn khơi gợi kỳ diệu được Chân sư Tây Tạng dịch từ Cổ Luận. Chúng bao quát rộng, trải từ giai đoạn mà chúng ta đang gọi là sự tích hợp thuần túy cá nhân đến giai đoạn muộn hơn của sự tích hợp linh hồn-phàm ngã. Những đoạn văn này (trừ đoạn dành cho cung một) bao gồm cả tiếp cận thông thường của cung đối với sự tích hợp và các tiếp cận điều chỉnh, được đặc trưng bởi các Công Thức Tích Hợp một-từ. |
The first paragraph of each Technique illustrates what we consider the usual approach to energy expression for the soul or personality upon that particular ray. This usual approach can be positive or negative. When negative, a disintegrative personality condition will be found to exist. When positive, a strictly personal kind of integration can be developed. This paragraph, in fact, usually depicts a situation needing correction. The ray energy, as it has been used up to that point, can bring the individual no further, and, in fact, in some cases, has caused severe problems. | Đoạn đầu tiên của mỗi Kỹ Thuật minh họa điều chúng tôi xem là tiếp cận thông thường đối với sự biểu lộ năng lượng cho linh hồn hay phàm ngã ở cung đó. Tiếp cận thông thường này có thể là tích cực hay tiêu cực. Khi tiêu cực, một tình trạng phàm ngã phân rã sẽ hiện hữu. Khi tích cực, có thể phát triển một kiểu tích hợp thuần túy cá nhân. Thực vậy, đoạn này thường phác họa một tình huống cần hiệu chỉnh. Năng lượng cung, như đã được sử dụng cho đến điểm đó, không thể đưa cá nhân tiến xa hơn, và trên thực tế, trong vài trường hợp, đã gây ra những vấn đề nghiêm trọng. |
The paragraphs which follow deal with the extrication from those problems, and the method needed to move beyond strictly personal integration (Personal Psychosynthesis) and bring soul and personality into greater rapport. The one-word Integration Formulae are derived from the final paragraphs in each Integration Technique. Thus, the one-word Integration Formula for any particular ray does not embrace the entire Technique of Integration for that particular ray. The Technique is larger, historical, more encompassing, and shows the progress of the individual over time. The Formula is remedial, and offers condensed advice on correcting and balancing the glamors of a particular ray, in order to make the integration of soul and personality possible. | Những đoạn tiếp theo bàn về sự thoát gỡ khỏi các vấn đề đó, và phương pháp cần thiết để vượt khỏi sự tích hợp thuần túy cá nhân (“Tổng hợp Tâm lý Cá Nhân”) và đưa linh hồn với phàm ngã vào mối hòa điệu lớn hơn. Các Công Thức Tích Hợp một-từ được rút ra từ những đoạn cuối của mỗi Kỹ Thuật Tích Hợp. Như vậy, Công Thức Tích Hợp một-từ cho bất kỳ cung nào không bao trùm toàn bộ Kỹ Thuật Tích Hợp của cung ấy. Kỹ Thuật thì rộng lớn hơn, mang tính lịch sử, bao quát hơn, và trình bày sự tiến bộ của cá nhân theo thời gian. Công Thức mang tính cứu chữa, và cống hiến lời khuyên cô đọng về việc hiệu chỉnh và quân bình các ảo cảm của một cung nhất định, để làm cho sự tích hợp của linh hồn và phàm ngã trở nên khả hữu. |
Note: It must always be remembered that, no matter what may be the ray of the personality, it is always a subray of the soul ray, just as the personality is always an emanated aspect of its originating source, the soul (as the soul is of the Monad). From this point of view, the personality will always (to a greater or lesser extent) carry some of the same ray qualities as the soul ray, and to these will be added the qualities characteristic of the personality ray of the present incarnation. There is no way to keep these fields of the human energy system completely compartmentalized; always there will be interplay and interdependence, and the ‘greater’ (in this case the soul) always puts the stamp of its quality upon the ‘lesser’ (in this case, the personality). Obviously, this model can be continued ‘vertically’ with respect to the Monad and the soul, but given the stage of evolution of the majority of aspirants and disciples in the world, it is sufficient (because, for the time being, practical) to consider the soul ray (and not the Monadic ray) as the most significant quality in the human energy system. | Lưu ý: Luôn phải ghi nhớ rằng, bất kể cung của phàm ngã là gì, nó luôn là một cung phụ của cung linh hồn, cũng như phàm ngã luôn là một phương diện được xuất lộ từ nguồn gốc của nó là linh hồn (như linh hồn là của Chân thần). Từ điểm nhìn này, phàm ngã luôn (ở mức độ này hay mức độ khác) mang một phần các phẩm tính cung giống như cung linh hồn, và vào đó sẽ được cộng thêm các phẩm tính đặc trưng của cung phàm ngã trong kiếp hiện tại. Không có cách nào để giữ cho các trường này trong hệ năng lượng con người hoàn toàn ngăn khoang; luôn sẽ có sự tương tác và tương thuộc, và cái ‘lớn hơn’ (trong trường hợp này là linh hồn) luôn đóng dấu phẩm tính của mình lên cái ‘nhỏ hơn’ (trong trường hợp này là phàm ngã). Hiển nhiên, mô hình này có thể tiếp tục ‘theo trục dọc’ đối với Chân thần và linh hồn, nhưng xét đến điểm tiến hóa của đa số người chí nguyện và đệ tử trên thế giới, chỉ cần (vì trước mắt, mang tính thực hành) xem cung linh hồn (chứ không phải cung chân thần) là phẩm tính quan yếu nhất trong hệ năng lượng con người. |
It must be reemphasized that both the soul ray and personality ray will be involved in the process of strictly personal integration, or “Personal Psychosynthesis,” as it is called. However important it may be in the overall development of the individual, Personal Psychosynthesis is characterized by a necessary selfishness, and precedes the stage of a higher, more selfless integration—“Spiritual Psychosynthesis.” During strictly personal integration both the personality ray and the soul ray will be, relatively speaking, materially focused, and the results of the successful completion of this stage will be a relatively strong, independent and efficient personality, able to “find its own place” within the three worlds of human evolution. During Spiritual Psychosynthesis (the integration of soul and personality), the soul ray as well as the personality ray will rise above a rather material focus, and will begin to focus more transpersonally. This is the beginning of the conscious spiritualization of the personality and its ray. | Cần được tái nhấn mạnh rằng cả cung linh hồn và cung phàm ngã đều dính dự vào tiến trình tích hợp thuần túy cá nhân, hay cái gọi là “Tổng hợp Tâm lý Cá Nhân.” Dẫu điều này quan trọng thế nào trong tổng thể phát triển của cá nhân, Tổng hợp Tâm lý Cá Nhân được đặc trưng bởi một tính ích kỷ tất yếu, và đi trước giai đoạn tích hợp cao hơn, vị tha hơn—“Tổng hợp Tâm lý Tinh Thần.” Trong giai đoạn tích hợp thuần túy cá nhân, cả cung phàm ngã lẫn cung linh hồn, nói tương đối, sẽ tập trung theo hướng vật chất, và kết quả của việc hoàn tất thành công giai đoạn này sẽ là một phàm ngã tương đối mạnh, độc lập và hữu hiệu, có khả năng “tìm vị trí riêng của nó” trong ba cõi tiến hóa của nhân loại. Trong giai đoạn Tổng hợp Tâm lý Tinh Thần (sự tích hợp của linh hồn và phàm ngã), cả cung linh hồn lẫn cung phàm ngã sẽ vượt trên một trọng tâm khá vật chất, và bắt đầu hướng đến một trọng tâm siêu cá nhân hơn. Đây là khởi điểm của tiến trình tinh thần hóa có ý thức phàm ngã và cung của nó. |
It is difficult to say which ray, soul or personality, may be more influential during the earlier phase of personality integration. In many ways, the influence of the personality ray may be more obvious, but the quality of the soul ray is all-pervasive, for its influence persists incarnation after incarnation. There is, it should be realized, a progressive integration of the personality, life after life, no matter what the ray of the personality may be; this process of progressive integration taking place over a number of lives (though partially conditioned by the particular personality ray that is temporarily holding sway in any particular incarnation) is always conditioned by the quality of the soul ray. | Khó có thể nói cung nào, linh hồn hay phàm ngã, có ảnh hưởng lớn hơn trong giai đoạn sớm của sự tích hợp phàm ngã. Ở nhiều phương diện, ảnh hưởng của cung phàm ngã có vẻ hiển lộ rõ ràng hơn, nhưng phẩm tính của cung linh hồn thì thấm khắp, vì ảnh hưởng của nó tồn tại qua kiếp này sang kiếp khác. Cần hiểu rằng có một sự tích hợp tiến triển của phàm ngã, hết kiếp này qua kiếp khác, bất kể cung của phàm ngã là gì; tiến trình tích hợp tiến triển này, diễn ra qua nhiều đời (tuy phần nào được điều kiện hóa bởi cung phàm ngã cụ thể đang tạm thời chi phối trong một kiếp nhất định) thì luôn luôn được điều kiện hóa bởi phẩm tính của cung linh hồn. |
During the stage of Spiritual Psychosynthesis (“the path of the higher integration” when soul and personality are actively blending), the ray of the soul is preeminent, and the Integration Formula, keyed to the soul ray, comes into its full usefulness. | Trong giai đoạn Tổng hợp Tâm lý Tinh Thần (“con đường của sự tích hợp cao hơn” khi linh hồn và phàm ngã đang hòa trộn một cách tích cực), cung của linh hồn giữ vai trò ưu thắng, và Công Thức Tích Hợp, được hiệu chỉnh theo cung linh hồn, phát huy trọn vẹn công dụng. |
Contrasts Between the Strictly Personal and the Spiritual Phases of the Integration Process | Những Tương Phản giữa Giai Đoạn Thuần Túy Cá Nhân và Giai Đoạn Tinh Thần của Tiến Trình Tích Hợp |
(For a refresher upon the methods of strictly personal integration, please refer to Section IV, Vol. I, under the discussion of the positive aspects of the personality ray.) | (Để ôn lại các phương pháp tích hợp thuần túy cá nhân, xin tham khảo Phần IV, Tập I, trong phần bàn về các phương diện tích cực của cung phàm ngã.) |
Integration Dynamics for the Energy System with a Prominent First Ray | Động Lực Tích Hợp cho Hệ Năng Lượng có Cung Một Nổi Trội |
Method of strictly personal integration: integration through the assertion of the will. | Phương pháp tích hợp thuần túy cá nhân: tích hợp thông qua việc khẳng định ý chí. |
Method of soul-personality integration: application of the first ray Integration Formula—Inclusion. | Phương pháp tích hợp linh hồn-phàm ngã: áp dụng Công Thức Tích Hợp cung một—Bao gồm. |
Having (through force of will, assertiveness, discipline and control) carried the process of integrating the personality (per se) as far as possible, there arises within the consciousness of the first ray individual a sensed need for Inclusion. The soul is, essentially, love. Though the personality may, indeed, have integrated, having successfully used the power of the first ray to do so, too many gaps and cleavages exist between it and its environment. The individual is isolated and insufficiently related in love to his fellow human beings. Additionally, soul consciousness is group consciousness, but due to an overemphasis of ray one qualities, the individual stands alone, isolated from meaningful group participation, and, therefore, less powerful. | Sau khi (bằng sức mạnh ý chí, tính quyết đoán, kỷ luật và kiểm soát) đã đưa tiến trình tích hợp phàm ngã (tự thân) đi xa hết mức có thể, trong tâm thức của người cung một khởi sinh một nhu cầu được cảm nhận về Bao gồm. Linh hồn, tự thân, là tình thương. Dù phàm ngã có thể quả thật đã tích hợp, nhờ sử dụng thành công quyền năng của cung một, thì vẫn còn quá nhiều hố ngăn và vết nứt giữa nó và môi trường. Đương sự cô lập và thiếu sự liên hệ bằng tình thương với đồng nhân. Hơn nữa, tâm thức linh hồn là tâm thức nhóm, nhưng do nhấn quá-độ các phẩm tính cung một, đương sự đứng một mình, tách biệt khỏi sự tham dự nhóm có ý nghĩa, và vì thế, kém quyền lực hơn. |
The soul qualities of love and inclusiveness (Inclusion) must be appropriated and expressed. The theme of Inclusion will, when properly understood and used, relate the individual more intimately and receptively to his soul, and to others. He begins to realize that he “cannot stand and walk alone.” | Các phẩm tính linh hồn về tình thương và tính bao gồm (Bao gồm) phải được chiếm hữu và biểu lộ. Chủ đề Bao gồm, khi được hiểu và sử dụng đúng, sẽ nối kết cá nhân mật thiết và tiếp nhận hơn với linh hồn của mình, và với tha nhân. Y bắt đầu nhận ra rằng y “không thể đứng và đi một mình.” |
Through the use of Inclusion (in many respects a second ray quality) the first ray individual comes into closer rapport with his own love nature (through the accelerating unfoldment of the love petals of the egoic lotus). Thus, a significant barrier to increasing soul-personality coordination and integration is dissolved, for the soul cannot fully infuse a loveless personality. | Nhờ sử dụng Bao gồm (về nhiều mặt là một phẩm tính cung hai), người cung một đi vào hòa điệu sâu hơn với bản tính yêu thương của chính mình (thông qua sự khai mở gia tốc các cánh hoa Bác Ái của Hoa Sen Chân Ngã). Như vậy, một chướng ngại đáng kể đối với việc gia tăng phối hợp và tích hợp linh hồn-phàm ngã được hóa giải, vì linh hồn không thể thấm nhuần trọn vẹn một phàm ngã thiếu tình thương. |
Note: In every kind of soul-personality relationship, the soul is the creator of balanced fulfillment. The appropriate Integration Formula supplies to the personality a soul quality which had been missing due to the overemphasis within the personality of other qualities. Without this missing quality supplied by the utilization of the Integration Formula, true rapport between soul and personality could not be achieved and brought to fulfillment. | Lưu ý: Trong mọi kiểu liên hệ linh hồn-phàm ngã, linh hồn là kẻ kiến tạo sự viên mãn quân bình. Công Thức Tích Hợp thích hợp cung cấp cho phàm ngã một phẩm tính của linh hồn vốn đã thiếu vắng do sự nhấn quá-độ những phẩm tính khác trong phàm ngã. Nếu không có phẩm tính còn thiếu này, được cung cấp qua việc vận dụng Công Thức Tích Hợp, thì mối hòa điệu chân chính giữa linh hồn và phàm ngã không thể đạt được và đưa đến viên mãn. |
Integration Dynamics for the Energy System with a Prominent Second Ray | Động Lực Tích Hợp cho Hệ Năng Lượng có Cung Hai Nổi Trội |
Method of strictly personal integration: integration through the attractiveness of love. | Phương pháp tích hợp thuần túy cá nhân: tích hợp thông qua sức hấp dẫn của tình thương. |
Method of soul-personality integration: application of the second ray Integration Formula—Centralization. | Phương pháp tích hợp linh hồn-phàm ngã: áp dụng Công Thức Tích Hợp cung hai—Trung tâm hóa. |
Having (through love, magnetic attraction, and a gentle process of fusing and unification) carried the process of integrating the personality (per se) as far as possible, there arises within the consciousness of the second ray individual a sensed need for Centralization. The soul is not only essential love, but essential will as well; though the soul loves profoundly, it is with a detached and not an attached form of love. | Sau khi (bằng tình thương, sức hút từ tính, và tiến trình nhẹ nhàng của sự dung hợp và hợp nhất) đã đưa tiến trình tích hợp phàm ngã (tự thân) đi xa hết mức có thể, trong tâm thức của người cung hai khởi sinh một nhu cầu được cảm nhận về Trung tâm hóa. Linh hồn không chỉ là tình thương bản thể, mà còn là ý chí bản thể; dẫu linh hồn yêu thương sâu xa, tình yêu đó là tình yêu tách rời chứ không bám chấp. |
Though, shortly before the need for centralization is felt, the personality has probably achieved a good deal of coordination, and may even be rather well-integrated (because the personally centered individual has successfully applied the usual qualities of the second ray to produce physical plane effectiveness), there are still too many personal attachments or adhesions between the personality and its environment. The individual is clinging to many nonessentials from which detachment and release must be achieved if the soul is to exert a greater influence in the life. The life is cluttered with unnecessary ties, and, consequently, the sense of divine identity is often obscured. Centralization (in many respects a first ray quality) helps the second ray individual sever unnecessary ties, and detach from irrelevant attachments. Centralization, in fact, is an archetypal soul quality (pertaining not just to second ray souls, but to souls on all the rays), for though the soul extends itself into the lower worlds, yet it remains established and centered in its own identity. | Dù ngay trước khi nhu cầu trung tâm hóa được cảm nhận, phàm ngã có lẽ đã đạt được khá nhiều phối hợp, và thậm chí tương đối tích hợp (bởi vì cá nhân lấy phàm ngã làm trung tâm đã áp dụng thành công những phẩm chất quen thuộc của cung hai để tạo hiệu quả trên cõi vật chất), thì vẫn còn quá nhiều sự gắn bó hay dính kết giữa phàm ngã và môi trường. Đương sự đang níu giữ nhiều điều không thiết yếu mà khỏi đó y phải tách rời và được giải phóng nếu linh hồn muốn tác động mạnh hơn trong đời sống. Đời sống bị bừa bộn bởi các dây ràng không cần thiết, và do đó, cảm thức về căn tính thiêng liêng thường bị che khuất. Trung tâm hóa (về nhiều phương diện là một phẩm tính cung một) giúp người cung hai cắt bỏ các dây ràng không cần thiết, và tách rời khỏi các gắn bó không liên quan. Thực vậy, Trung tâm hóa là một phẩm tính nguyên mẫu của linh hồn (không chỉ thuộc riêng các linh hồn cung hai, mà thuộc linh hồn trên mọi cung), vì tuy linh hồn phóng mình vào các cõi thấp, nhưng vẫn luôn an trụ và tập trung nơi trung tâm trong căn tính của chính nó. |
Additionally, when the many personality demands engendered by excessive attachments are reduced, the personality consciousness achieves the freedom to focus more attentively upon the soul, which is the center of love. The consciousness becomes “centered”—centered in love—and thus, soul-personality coordination and integration are facilitated. The increasingly soul-inspired personality can then participate in its daily activities without a consuming involvement in debilitating personal attachments; such attachments throw the consciousness ‘off-center’, drain energy, and obscure the sense of being a soul. | Thêm nữa, khi nhiều đòi hỏi của phàm ngã do bám chấp quá mức tạo ra được giảm thiểu, tâm thức của phàm ngã đạt tự do để tập chú vào linh hồn, vốn là trung tâm của tình thương. Tâm thức trở nên “trung tâm”—trung tâm nơi tình thương—và như thế, sự phối hợp và tích hợp linh hồn-phàm ngã được tạo thuận. Phàm ngã ngày càng được linh hồn truyền hứng khi ấy có thể tham dự vào các hoạt động hằng ngày mà không bị dính mắc tiêu hao vào các gắn bó cá nhân làm suy kiệt; các gắn bó như vậy làm tâm thức “lệch tâm,” rút cạn năng lượng, và che mờ cảm thức mình là linh hồn. |
Through the use of the formula Centralization, the second ray individual comes into increasing rapport with his own strength of soul (note the first ray overtones of this phrase). Thus, significant barriers to soul-personality coordination and integration are thus relinquished, for the soul cannot fully express through a personality which forgets its true origins by clinging too closely to external things of lesser value—including the outer forms of people. | Qua việc sử dụng công thức Trung tâm hóa, người cung hai đi vào hòa điệu ngày càng tăng với sức mạnh của linh hồn nơi chính mình (lưu ý sắc thái cung một trong cụm từ này). Như vậy, các chướng ngại đáng kể đối với sự phối hợp và tích hợp linh hồn-phàm ngã được buông bỏ, vì linh hồn không thể biểu lộ trọn vẹn qua một phàm ngã quên mất nguồn cội chân thật của nó do bám quá chặt vào những sự vật bên ngoài có giá trị thấp hơn—kể cả các hình tướng bên ngoài của con người. |
Integration Dynamics for the Energy System with a Prominent Third Ray | Động Lực Tích Hợp cho Hệ Năng Lượng có Cung Ba Nổi Trội |
Method of strictly personal integration: integration through intelligent adaptability, skillful manipulation and great mobility. | Phương pháp tích hợp thuần túy cá nhân: tích hợp thông qua thích ứng thông tuệ, thao tác khéo léo và tính cơ động lớn. |
Method of soul-personality integration: application of the third ray Integration Formula—Stillness. | Phương pháp tích hợp linh hồn-phàm ngã: áp dụng Công Thức Tích Hợp cung ba—Tĩnh lặng. |
Having (through intelligent adaptability and mobility, as well as skill in the art of weaving together the energies of thought and act) carried the process of integrating the personality (per se) as far as possible, there arises within the consciousness of the third ray individual a sensed need for Stillness. Though the soul seeks action within the three lower worlds (the three lower planes), that action must always be guided by clear vision which depends upon Stillness. | Sau khi (bằng thích ứng thông tuệ và cơ động, cũng như bằng nghệ thuật dệt nên các năng lượng của tư tưởng và hành động) đã đưa tiến trình tích hợp phàm ngã (tự thân) đi xa hết mức có thể, trong tâm thức của người cung ba khởi sinh một nhu cầu được cảm nhận về Tĩnh lặng. Dẫu linh hồn tìm kiếm hành động trong ba cõi thấp (ba cõi), thì hành động đó phải luôn được dẫn dắt bởi tầm nhìn rõ ràng—điều vốn phụ thuộc vào Tĩnh lặng. |
Though shortly before the need for Stillness is felt, the personality has probably achieved a good deal of coordination, and may even be rather well integrated (because the personally centered individual has successfully applied the usual qualities of the third ray to produce physical plane effectiveness), there is still too much poorly-directed or extraneous thought and activity on the level of personality. The individual is too busy with nonessentials, no matter how well (from the worldly point of view) he may seem to perform them. Excessive thought and excessive activity mean that the voice of the soul cannot be heard, that the Plan cannot be clearly envisioned, and that much energy, which should be creating patterns in line with God’s Will, is spent creating designs which are merely personal. | Dù ngay trước khi nhu cầu Tĩnh lặng được cảm nhận, phàm ngã có lẽ đã đạt được khá nhiều phối hợp, và thậm chí tương đối tích hợp (bởi vì cá nhân lấy phàm ngã làm trung tâm đã áp dụng thành công những phẩm chất quen thuộc của cung ba để tạo hiệu quả trên cõi vật chất), thì vẫn còn quá nhiều tư tưởng và hoạt động thừa thãi hoặc định hướng kém ở cấp độ phàm ngã. Đương sự quá bận rộn với những điều không thiết yếu, bất kể từ quan điểm thế tục y có vẻ thực hiện chúng tốt đến đâu. Tư tưởng quá độ và hoạt động quá độ đồng nghĩa với việc tiếng nói của linh hồn không thể được nghe, Thiên Cơ không thể được thấy rõ, và nhiều năng lượng lẽ ra phải tạo nên các mô thức phù hợp với Ý Chí của Thượng Đế lại bị tiêu phí để tạo những đường nét thuần túy cá nhân. |
Stillness (in many ways a second ray quality) helps the third ray individual see what he is actually doing. The third ray worker, like the worker upon the sixth ray, is very often likely to work blindly, intoxicated by the love of activity, whether mental, physical or both. However, spiritual vision, as the soul sees it, is absolutely crucial if there is to be an increasing coordination and integration between the personality and the soul. | Tĩnh lặng (về nhiều mặt là phẩm tính cung hai) giúp người cung ba thấy y đang thực sự làm gì. Người làm việc cung ba, giống như người cung sáu, thường rất dễ làm việc trong mù lòa, say sưa vì yêu hoạt động—dù là hoạt động trí tuệ, thể chất hay cả hai. Tuy nhiên, thị kiến tinh thần, như linh hồn thấy, là tuyệt đối tối yếu nếu muốn có sự phối hợp và tích hợp ngày càng tăng giữa phàm ngã và linh hồn. |
Those upon the third ray are in great need of the ancient maxim: “Be still and know that I am God.” The increasingly soul-inspired personality can then participate in daily activities without being thwarted by misguided activities which render spiritual intentions futile. Through the use of the Integration Formula, Stillness, the third ray individual comes into increasing rapport with that aspect of the divine “blueprint” which it is the intention of his soul to manifest. Thus, a significant barrier to the increase of soul-personality integration is removed, for the soul cannot fully express through a personality which preoccupies itself with personally motivated motion at the expense of soul-intended action. | Những ai thuộc cung ba rất cần châm ngôn cổ: “Hãy tĩnh lặng và biết rằng Ta là Thượng đế.” Phàm ngã ngày càng được linh hồn truyền hứng khi ấy có thể tham dự vào các hoạt động hằng ngày mà không bị phá hỏng bởi những hành động sai hướng khiến ý định tinh thần trở nên vô hiệu. Thông qua việc sử dụng Công Thức Tích Hợp Tĩnh lặng, người cung ba đi vào hòa điệu ngày càng tăng với phương diện “bản thiết kế” thiêng liêng mà linh hồn y định biểu hiện. Như vậy, một chướng ngại đáng kể đối với việc gia tăng tích hợp linh hồn-phàm ngã được loại bỏ, vì linh hồn không thể biểu lộ trọn vẹn qua một phàm ngã mải mê với chuyển động mang động cơ cá nhân đến mức hy sinh hành động do linh hồn chủ định. |
Integration Dynamics for the Energy System with a Prominent Fourth Ray | Động Lực Tích Hợp cho Hệ Năng Lượng có Cung Bốn Nổi Trội |
Method of strictly personal integration: integration through shuttle-like mediation which resolves conflict into harmony. | Phương pháp tích hợp thuần túy cá nhân: tích hợp thông qua sự trung giới kiểu con thoi, vốn giải quyết xung đột thành hòa hợp. |
Method of soul-personality integration: application of the fourth ray Integration Formula—Steadfastness. | Phương pháp tích hợp linh hồn-phàm ngã: áp dụng Công Thức Tích Hợp cung bốn—Kiên định. |
Having (through a fluid and flexible adjustment to conflicting demands, and through mediation and harmonization) carried the process of integrating the personality (per se) as far as possible, there arises within the consciousness of the fourth ray individual a sensed need for Steadfastness. Though the soul seeks to bridge and harmonize all differences within the lower three worlds, that soul always maintains a point of centered balance, and “steadfast stands.” This the personality must also learn to do. | Sau khi (bằng sự điều chỉnh linh hoạt và lưu động đối với những đòi hỏi xung đột, và thông qua trung giới và hòa hợp) đã đưa tiến trình tích hợp phàm ngã (tự thân) đi xa hết mức có thể, trong tâm thức của người cung bốn khởi sinh một nhu cầu được cảm nhận về Kiên định. Dù linh hồn tìm cách bắc cầu và hòa hợp mọi sai khác trong ba cõi thấp, linh hồn ấy luôn duy trì một điểm quân bình trung tâm và “đứng vững không rời.” Phàm ngã cũng phải học điều này. |
Although shortly before the need for Steadfastness is felt, the personality has probably achieved a good deal of coordination and may even be rather well integrated (because the personally centered individual has successfully applied the usual qualities of the fourth ray to achieve physical plane effectiveness), there is still too much vacillation between the pairs of opposites, too much pliability, unpredictability and compromise. The fourth ray individual is still the victim of the warring forces—either within his own nature, or within the environment he seeks to harmonize. Excessive identification, with now one side of a struggle, and now the other, renders his position continually unbalanced, unstable and unpredictable. The soul, which seeks for “Two [to] Merge with One,” cannot properly function through such a fluctuating medium. | Dẫu ngay trước khi nhu cầu Kiên định được cảm nhận, phàm ngã có lẽ đã đạt được khá nhiều phối hợp và thậm chí tương đối tích hợp (bởi vì cá nhân lấy phàm ngã làm trung tâm đã áp dụng thành công những phẩm chất quen thuộc của cung bốn để đạt hiệu quả trên cõi vật chất), thì vẫn còn quá nhiều dao động giữa các cặp đối nghịch, quá nhiều tính mềm dẻo, khó lường và thỏa hiệp. Người cung bốn vẫn là nạn nhân của các lực đang giao chiến—hoặc trong chính bản tính của y, hoặc trong môi trường mà y tìm cách hòa hợp. Sự đồng hóa quá mức, lúc thì với một phía của cuộc đấu tranh, lúc lại với phía kia, khiến vị thế của y liên tục mất quân bình, bất ổn và khó lường. Linh hồn, vốn tìm cách để “Hai [để] Hợp Nhất thành Một,” không thể vận hành đúng đắn qua một môi thể thay đổi không ngừng như thế. |
Steadfastness (in many ways a first ray quality) helps the fourth ray individual hold a balanced center, and refrain from tilting, with disconcerting regularity, towards either side of the struggle which he is seeking to harmonize and pacify. The steadfast, central position will bring what has been called a “win-win” resolution to each of the many battles between the pairs of opposites which the fourth ray individual must face. The increasingly soul-inspired personality can then participate in daily activities without falling victim to erratic mood swings or distressing alternations between conflicting perspectives. | Kiên định (về nhiều phương diện là một phẩm tính cung một) giúp người cung bốn giữ một trung tâm quân bình, và tránh nghiêng ngả, với nhịp điệu gây bất an, về bất kỳ phía nào của cuộc đấu tranh mà y đang tìm cách hòa hợp và làm yên. Vị thế trung tâm kiên định sẽ mang lại điều được gọi là một lời giải “đôi bên cùng thắng” cho mỗi cuộc chiến giữa các cặp đối nghịch mà người cung bốn phải đối diện. Phàm ngã ngày càng được linh hồn truyền hứng khi ấy có thể tham dự vào các hoạt động hằng ngày mà không còn sa làm nạn nhân của những dao động khí sắc thất thường hay những thay đổi gây khổ sở giữa các quan điểm xung đột. |
Through the use of the Integration Formula, Steadfastness, the fourth ray individual comes into increasing rapport with the balanced and perfected beauty which the soul intends to manifest. Thus, a significant obstacle to the increase of soul-personality integration is thus neutralized, for the soul cannot fully express through a personality which is constantly divided against itself, and which cannot simultaneously include the opposites which are necessary for the creation of a pattern of divine beauty. | Qua việc sử dụng Công Thức Tích Hợp Kiên định, người cung bốn đi vào hòa điệu ngày càng tăng với vẻ đẹp quân bình và hoàn thiện mà linh hồn dự định biểu hiện. Như vậy, một chướng ngại đáng kể đối với sự gia tăng tích hợp linh hồn-phàm ngã được hóa giải, vì linh hồn không thể biểu lộ trọn vẹn qua một phàm ngã liên tục tự phân đôi chống lại chính mình, và không thể đồng thời bao gồm các đối cực vốn cần thiết cho việc tạo thành một mô thức của vẻ đẹp thiêng liêng. |
Integration Dynamics for the Energy System with a Prominent Fifth Ray | Động Lực Tích Hợp cho Hệ Năng Lượng có Cung Năm Nổi Trội |
Method of strictly personal integration: integration through observation, analysis, cautious experimentation and the measured application of knowledge. | Phương pháp tích hợp thuần túy cá nhân: tích hợp thông qua quan sát, phân tích, thực nghiệm thận trọng và ứng dụng tri thức có chừng mực. |
Method of soul-personality integration: application of the fifth ray Integration Formula—Detachment. | Phương pháp tích hợp linh hồn-phàm ngã: áp dụng Công thức Tích Hợp của cung năm—Sự tách rời. |
Having (through a precise analysis of the personality vehicles, and a regulated, measured application of specific knowledge) carried the process of integrating the personality (per se) as far as possible, there arises within the consciousness of the fifth ray individual the sensed need for Detachment (from intense preoccupation with the form nature). Though the soul seeks to know all aspects of form, and to shed the light of knowledge within the three worlds of human evolution (wherein form is at its densest), still, the soul maintains the attitude of the detached Knower, never forgetting the distinction between the Knower, the field of knowledge, and the act of knowing which relates them. This basic discrimination must constantly be brought to the attention of the fifth ray individual. | Sau khi (thông qua một phân tích chính xác về các hiện thể của phàm ngã, và sự áp dụng điều hòa, có chừng mực của tri thức chuyên biệt) đã đưa tiến trình tích hợp phàm ngã (tự thân nó) tới mức tối đa có thể, trong tâm thức của người cung năm khởi sinh nhu cầu được cảm nhận về Sự tách rời (khỏi sự bận tâm mãnh liệt với bản chất hình tướng). Dù linh hồn tìm cách biết mọi khía cạnh của hình tướng, và chiếu ánh sáng của tri thức vào trong ba cõi của tiến hoá nhân loại (nơi hình tướng ở mức đậm đặc nhất), linh hồn vẫn duy trì thái độ của Thức giả tách rời, không bao giờ quên sự phân biệt giữa Thức giả, trường của tri thức, và hành vi biết vốn nối kết chúng. Sự phân biện căn bản này phải thường xuyên được đưa vào sự lưu tâm của người cung năm. |
Although shortly before the need for Detachment is felt, the personality itself has probably already achieved a good deal of coordination and may even be rather well integrated (because the personally centered individual has successfully applied the usual qualities of the fifth ray to achieve physical plane effectiveness), there is still too much preoccupation with knowledge of the form to the exclusion of recognizing the Knower behind the form. Excessive investigation of that which is presented to the senses (whether the sense be subtle or refined) causes the fifth ray individual to lose sight of the subjective synthesis which lies behind the multiplicity of form distinctions. The soul, which ever seeks to project its presence as the Knower into the world of the lower mind and brain consciousness, cannot succeed when the personal consciousness so thoroughly ignores it—forgetting that the soul is the spiritual source of personal consciousness. | Mặc dù ngay trước khi nhu cầu về Sự tách rời được cảm nhận, bản thân phàm ngã có lẽ đã đạt được khá nhiều điều hòa và thậm chí có thể khá được tích hợp (vì người tập trung-vào-phàm-ngã đã áp dụng thành công các phẩm tính thường thấy của cung năm để đạt hiệu quả trên cõi hồng trần), vẫn còn có quá nhiều bận tâm với tri thức về hình tướng đến mức loại trừ việc nhận ra Thức giả phía sau hình tướng. Việc khảo cứu quá mức những gì được trình hiện cho các giác quan (dù giác quan ấy là vi tế hay tinh luyện) khiến người cung năm đánh mất tầm nhìn về tổng hợp chủ quan nằm phía sau sự đa tạp của các phân biệt hình tướng. Linh hồn, vốn luôn tìm cách phóng chiếu sự hiện diện của mình như là Thức giả vào thế giới của hạ trí và tâm thức bộ não, không thể thành công khi tâm thức phàm ngã lại triệt để phớt lờ nó—quên rằng linh hồn là nguồn tinh thần của tâm thức phàm ngã. |
Detachment (in this case, very much a first ray quality) helps the fifth ray individual to terminate his all-absorbing examination of multiplicity, and begin to recognize that completely abstracted, subjective identity which is the true reality behind the near infinitude of objective data. The attitude of the detached “Self-remembering” Observer, allows the fifth ray individual to simultaneously entertain in consciousness both the worlds of being and of becoming. The increasingly soul-inspired personality can then participate in daily activities without becoming, literally, so engrossed in form that it fails to remember the Knower behind the known. | Sự tách rời (trong trường hợp này, rất mang phẩm tính cung một) giúp người cung năm chấm dứt lối khảo sát bao trùm hết thảy về tính đa tạp, và bắt đầu nhận ra bản thể chủ quan, hoàn toàn trừu xuất, vốn là thực tại chân thật nằm sau gần như vô lượng các dữ kiện khách quan. Thái độ của Vị Quan Sát “Tự Ngã-tự-nhớ-mình” trong trạng thái tách rời, cho phép người cung năm đồng thời dung chứa trong tâm thức cả hai thế giới của Bản Thể và của Đang Trở Thành. Phàm ngã ngày càng được linh hồn gợi hứng khi ấy có thể tham dự các hoạt động thường nhật mà không trở nên, theo nghĩa đen, quá mải mê trong hình tướng đến nỗi quên mất Thức giả phía sau cái được biết. |
Through the use of the Integration Formula, Detachment, the fifth ray individual comes into increasing rapport with the One who forever stands behind and within all multiplicity, and Who intends to manifest His conscious oneness within the field of the personal consciousness. Thus a significant obstacle to the expression of soul-personality integration is dispelled, for the soul cannot express fully through a personality which doubts the soul’s very existence, and which is so preoccupied with the complexity of form that it is blind to the simplicity of spirit. | Thông qua việc sử dụng Công thức Tích Hợp, Sự tách rời, người cung năm đi vào sự hòa hợp ngày càng tăng với Đấng hằng đứng phía sau và ở trong mọi đa tạp, và Ngài dự định biểu lộ sự nhất thể có ý thức của Ngài trong trường tâm thức của phàm ngã. Như vậy, một chướng ngại đáng kể đối với sự biểu lộ của tích hợp linh hồn-phàm ngã được tiêu tán, vì linh hồn không thể biểu lộ trọn vẹn qua một phàm ngã hoài nghi chính sự hiện hữu của linh hồn, và quá bận tâm với tính phức hợp của hình tướng đến nỗi mù lòa trước sự giản dị của tinh thần. |
Integration Dynamics for the Energy System with a Prominent Sixth Ray | Động học Tích hợp cho Hệ Năng lượng với Cung sáu Nổi trội |
Method of strictly personal integration: integration by the marshaling of personality forces through ardent desire, militant pursuit and one-pointed focusing. | Phương pháp tích hợp thuần phàm ngã: tích hợp bằng việc huy động các lực của phàm ngã thông qua dục vọng nồng cháy, theo đuổi mang tính chiến đấu và tập trung nhất tâm. |
Method of soul-personality integration: application of the sixth ray Integration Formula—not given. | Phương pháp tích hợp linh hồn-phàm ngã: áp dụng Công thức Tích Hợp của cung sáu—không được nêu. |
Note: Although the Tibetan apparently intended to give one word integration formulae for rays six and seven also, He did not do so. Nevertheless, He gave enough within the discussion of the sixth and seventh ray integration processes to offer guidance in the choice of probable integration formulae for these two rays. | Ghi chú: Dù có vẻ như Chân sư Tây Tạng dự định cũng nêu các công thức tích hợp một từ cho cung sáu và bảy, Ngài đã không làm vậy. Tuy nhiên, trong phần bàn về các tiến trình tích hợp của cung sáu và bảy, Ngài đã đưa ra đủ gợi ý để giúp định hướng việc lựa chọn các công thức tích hợp có khả năng nhất cho hai cung này. |
Sixth ray Integration Formula: Not given in single-word form, although the Technique of Integration from the Old Commentary is fully elaborated, as it is for all other rays. | Công thức Tích Hợp của cung sáu: Không được nêu dưới dạng một từ duy nhất, mặc dù Kỹ Thuật Tích Hợp trích từ Cổ Luận đã được triển khai đầy đủ, như đối với tất cả các cung khác. |
Proposed phrase to embody the sixth ray Integration Formula: Peaceful standing still at the center. | Cụm từ đề xuất để hàm chứa Công thức Tích Hợp của cung sáu: Đứng yên thanh bình ở trung tâm. |
(Perhaps, if a one-word Integration Formula for the sixth ray were to be given, it would be—Restraint.) | (Có lẽ, nếu một Công thức Tích Hợp một từ cho cung sáu được nêu ra, thì đó sẽ là—Tiết chế.) |
Having (through one-pointed focusing, militant discipline and unswerving pursuit of that which is desired) carried the process of integrating the personality (per se) as far as possible, there arises within the consciousness of the sixth ray individual the sensed need for a peaceful standing still at the center. | Sau khi (thông qua sự tập trung nhất tâm, kỷ luật mang tính chiến đấu và sự theo đuổi không lay chuyển những gì được ước muốn) đã đưa tiến trình tích hợp phàm ngã (tự thân nó) tới mức tối đa có thể, trong tâm thức của người cung sáu khởi sinh nhu cầu được cảm nhận về một trạng thái đứng yên thanh bình ở trung tâm. |
DESIRE is the great motivating impulse within our solar system (and beyond), and though soul consciousness within the three lower worlds does grow through the pursuit of ever more refined desires leading to lofty aspirations, it is the soul (representing the One SELF) which is, even though often unrealized, the object of all desire (especially during the strictly human phase of evolution). When the individual ‘stands’ within a state of soul consciousness he realizes that “the Kingdom of God is within.” This realization is something which the personally-focused individual, when influenced strongly by the sixth ray, is likely to forget in his almost frantically active and passionate pursuit of the lesser values which lie upon the periphery of reality. | DỤC VỌNG là xung lực thúc đẩy vĩ đại trong hệ mặt trời của chúng ta (và vượt ngoài), và tuy tâm thức linh hồn trong ba cõi thấp tăng trưởng thông qua sự theo đuổi những dục vọng ngày càng tinh luyện dẫn đến các khát vọng cao thượng, thì chính linh hồn (đại diện cho Đấng Tự Ngã Duy Nhất) mới là—dù thường không được nhận ra—đối tượng của mọi dục vọng (đặc biệt trong giai đoạn thuần nhân loại của tiến hoá). Khi cá nhân “đứng” trong trạng thái tâm thức linh hồn, y nhận ra rằng “Thiên Giới ở bên trong.” Sự nhận ra này là điều mà người tập trung-phàm ngã, khi bị ảnh hưởng mạnh bởi cung sáu, rất có thể quên mất trong sự theo đuổi gần như cuống cuồng, đầy đam mê những giá trị thứ yếu nằm trên vành ngoài của thực tại. |
Although shortly before the need for a peaceful standing still at the center is felt, the personality, itself, has probably already achieved a good deal of coordination, and may even be rather well-integrated (because the personally-centered individual has successfully applied the usual qualities of the sixth ray to achieve physical plane effectiveness), still, there is far too much rushing forth in pursuit of those things which excite a momentary enthusiasm, but which are not of lasting value or “on target” as far as the vision of the soul is concerned. Investing oneself in a series of misdirected, one-pointed dedications only consumes strength and leads to a sense of futility. | Mặc dù ngay trước khi nhu cầu về trạng thái đứng yên thanh bình ở trung tâm được cảm nhận, bản thân phàm ngã có lẽ đã đạt được khá nhiều điều hòa, và thậm chí có thể khá được tích hợp (vì người tập trung-vào-phàm-ngã đã áp dụng thành công các phẩm tính thường thấy của cung sáu để đạt hiệu quả trên cõi hồng trần), vẫn còn có quá nhiều lao ra theo đuổi những điều khơi dậy nhiệt huyết nhất thời, nhưng không có giá trị bền lâu hay “đúng đích” xét theo tầm nhìn của linh hồn. Đổ dồn bản thân vào một loạt dâng hiến nhất tâm nhưng sai hướng chỉ làm tiêu hao sinh lực và dẫn tới cảm giác vô ích. |
Until real alignment with the soul is achieved, nothing the individual may follow leads to lasting satisfaction; once, however, alignment with the soul is achieved, it is realized that the only thing worth pursuing is the Pursuer—the soul. Excessive and blind pursuit, in fact, leads away from discovery of the goal—the discovery of the true Self, which is always at the center. The use of either the phrase—peaceful standing still at the center (which conveys the second ray quality of peaceful stillness and the first ray quality of centeredness), or, more emphatically, the use of the one-word Formula, Restraint, helps the sixth ray individual see and evaluate truly, and refrain from the intemperate pursuit of, and attachment to, those things which the soul does not desire. The increasingly soul-inspired personality can then participate in daily activities without rushing away from the established center of soul identity—without forgetting the Self | Cho đến khi đạt được sự chỉnh hợp thực sự với linh hồn, thì không điều gì y theo đuổi có thể mang lại sự mãn nguyện bền lâu; tuy nhiên, một khi sự chỉnh hợp với linh hồn được đạt, y nhận ra rằng điều duy nhất đáng theo đuổi là chính Kẻ Theo Đuổi—linh hồn. Sự theo đuổi quá mức và mù quáng, thực ra, dẫn ra xa khỏi việc khám phá mục tiêu—sự khám phá Tự Ngã chân thật, vốn luôn ở trung tâm. Việc sử dụng hoặc cụm từ—đứng yên thanh bình ở trung tâm (hàm chứa phẩm tính cung hai của sự tĩnh lặng an hòa và phẩm tính cung một của tính trung tâm), hoặc, nhấn mạnh hơn, việc sử dụng Công thức một từ, Tiết chế, giúp người cung sáu nhìn và đánh giá cho đúng, và kiêng tránh việc theo đuổi thiếu tiết độ, cũng như bám chấp vào những điều linh hồn không ước muốn. Phàm ngã ngày càng được linh hồn gợi hứng khi ấy có thể tham dự các hoạt động thường nhật mà không lao rời khỏi trung tâm bản sắc linh hồn đã thiết lập—mà không quên Tự Ngã. |
Through the use of the Integration Formula, the sixth ray individual comes into deepening rapport with the soul—the One who always envisions that which is of highest value. Thus inspired, his quests no longer lead to inevitable disappointment. A significant deterrent to the expression of soul-personality integration is rendered unattractive, for the soul cannot express itself fully through a personality which (in hot pursuit of the relatively worthless), mistakes the part for the whole, and the not-Self for the Self. | Thông qua việc sử dụng Công thức Tích Hợp, người cung sáu đi vào sự hòa hợp sâu dần với linh hồn—Đấng luôn hình dung những gì có giá trị tối thượng. Nhờ vậy, các cuộc kiếm tìm của y không còn dẫn đến thất vọng tất yếu. Một yếu tố ngăn trở đáng kể đối với sự biểu lộ của tích hợp linh hồn-phàm ngã trở nên không còn hấp dẫn, vì linh hồn không thể biểu lộ trọn vẹn qua một phàm ngã (trong sự hối hả theo đuổi cái tương đối vô giá trị) lầm phần là toàn thể, và lầm phi-Ngã là Tự Ngã. |
Integration Dynamics for the Energy System with a Prominent Seventh Ray | Động học Tích hợp cho Hệ Năng lượng với Cung bảy Nổi trội |
Method of strictly personal integration: integration through planned organization, regulation of all personality energies, and a constructively creative approach to all personality activities. | Phương pháp tích hợp thuần phàm ngã: tích hợp thông qua tổ chức có kế hoạch, điều hòa mọi năng lượng của phàm ngã, và một cách tiếp cận mang tính sáng tạo xây dựng đối với mọi hoạt động của phàm ngã. |
Method of soul-personality integration: application of the seventh ray Integration Formula—not given. | Phương pháp tích hợp linh hồn-phàm ngã: áp dụng Công thức Tích Hợp của cung bảy—không được nêu. |
Seventh ray Integration Formula: Not given in single-word form, although the Technique of Integration from the Old Commentary is fully elaborated, as it is for all other rays. | Công thức Tích Hợp của cung bảy: Không được nêu dưới dạng một từ duy nhất, mặc dù Kỹ Thuật Tích Hợp trích từ Cổ Luận đã được triển khai đầy đủ, như đối với tất cả các cung khác. |
Proposed phrase to embody the seventh ray Integration Formula: Stand and suffer within the pentagram, oriented towards the East, attentively awaiting the light which illuminates the Plan. | Cụm từ đề xuất để hàm chứa Công thức Tích Hợp của cung bảy: Hãy đứng vững và chịu đựng trong ngôi sao năm cánh, hướng về phương Đông, chăm chú chờ đợi ánh sáng soi tỏ Thiên Cơ. |
(Perhaps, if a one-word Integration Formula for the seventh ray were to be given, it would be Orientation.) | (Có lẽ, nếu một Công thức Tích Hợp một từ cho cung bảy được nêu ra, thì đó sẽ là Định hướng.) |
Having (through the power to efficiently organize, plan, regulate, create and construct) carried the process of integrating the personality (per se) as far as possible, there arises within the consciousness of the seventh ray individual a sensed need which can only be fulfilled by a willingness to stand and suffer within the pentagram, oriented towards the East, attentively awaiting the light which illuminates the Plan. | Sau khi (nhờ năng lực tổ chức, lập kế hoạch, điều phối, sáng tạo và kiến tạo một cách hiệu quả) đã đưa tiến trình tích hợp phàm ngã (tự thân nó) tới mức tối đa có thể, trong tâm thức của người cung bảy khởi sinh một nhu cầu được cảm nhận mà chỉ có thể được thỏa mãn bằng sự sẵn lòng đứng vững và chịu đựng trong ngôi sao năm cánh, hướng về phương Đông, chăm chú chờ đợi ánh sáng soi tỏ Thiên Cơ. |
Organizing and arranging the life of the physical plane, and creatively constructing designs in the world of matter are, indeed, important soul intentions, but this kind of creative patterning must always be performed in line with the Plan. Aligning creativity and organizational power with the Divine Plan is something which the personally-focused individual, when influenced strongly by the seventh ray, is likely to forget to do in his enthusiasm for witnessing the emergence and manifestation of the many forms he loves to create. | Việc tổ chức và sắp xếp đời sống nơi cõi hồng trần, và kiến tạo sáng tạo các thiết kế trong thế giới vật chất, quả là những ý định của linh hồn, nhưng kiểu định hình sáng tạo này luôn luôn phải được thực hiện phù hợp với Thiên Cơ. Việc chỉnh hợp năng lực sáng tạo và quyền năng tổ chức với Thiên Cơ là điều mà người tập trung-phàm ngã, khi bị ảnh hưởng mạnh bởi cung bảy, rất có thể quên làm trong niềm hứng khởi khi chứng kiến sự hình thành và biểu lộ của muôn hình tướng mà y ưa kiến tạo. |
Although shortly before the need to “stand and suffer, attentively oriented to the Plan” makes itself felt, the personality has, probably, already achieved a good deal of coordination, and may even be rather well-integrated (because the personally-centered individual has successfully applied the usual qualities of the seventh ray to achieve physical plane effectiveness), there is still too much magical or ritualistic manipulation of forces for the sake of purely personal ends and designs. Constructions which are not in line with the Divine Pattern do nothing lasting to decrease the chaos which the seventh ray individual deeply detests. Those upon the seventh ray cannot resist building, but until they build in line with the Plan, their constructions will merely form part of the impedimenta which must be cleared if the Divine Design is to be manifested. Excessive, misguided creation and construction only suffocate the light within dense enclosures of form. | Mặc dù ngay trước khi nhu cầu “đứng vững và chịu đựng, chăm chú hướng về Thiên Cơ” tự thân được cảm nhận, phàm ngã có lẽ đã đạt được khá nhiều điều hòa, và thậm chí có thể khá được tích hợp (vì người tập trung-vào-phàm-ngã đã áp dụng thành công các phẩm tính thường thấy của cung bảy để đạt hiệu quả trên cõi hồng trần), vẫn còn có quá nhiều thao túng mang tính huyền thuật hay nghi lễ các mãnh lực nhằm các mục đích và thiết kế thuần cá nhân. Những kiến tạo không phù hợp với Mẫu Hình Thiêng Liêng chẳng làm được điều gì bền lâu để giảm bớt tình trạng hỗn loạn mà người cung bảy vô cùng chán ghét. Những ai thuộc cung bảy không thể cưỡng lại việc xây dựng, nhưng cho đến khi họ xây dựng phù hợp với Thiên Cơ, thì các kiến tạo của họ sẽ chỉ góp phần vào đống chướng ngại phải được dọn sạch nếu Mẫu Hình Thiêng Liêng muốn được biểu lộ. Sáng tạo và kiến tạo quá độ, sai hướng, chỉ bóp nghẹt ánh sáng bên trong những bọc vây dày đặc của hình tướng. |
The use of the Integration formula—stand and suffer within the pentagram, oriented towards the East, attentively awaiting the light which illuminates the Plan (which seems to convey the qualities of the second ray, and a little of the first), helps the seventh ray individual build truly and in conformity to the divine “blueprints”. The increasingly soul-inspired personality can then participate in daily activities without manifesting ideas and ideals of lesser worth; he brings into form only that which the soul intends. | Việc sử dụng Công thức Tích Hợp—đứng vững và chịu đựng trong ngôi sao năm cánh, hướng về phương Đông, chăm chú chờ đợi ánh sáng soi tỏ Thiên Cơ (có vẻ hàm chứa các phẩm tính của cung hai, và một phần nhỏ của cung một), giúp người cung bảy xây dựng một cách chân thật và phù hợp với các “bản thiết kế” thiêng liêng. Phàm ngã ngày càng được linh hồn gợi hứng khi ấy có thể tham dự các hoạt động thường nhật mà không biểu lộ các ý tưởng và lý tưởng kém giá trị; y chỉ đưa vào hình tướng những gì linh hồn dự định. |
Through the use of the Integration Formula (shortened as Orientation), the seventh ray individual comes into deepening rapport with the soul—the “Master Builder”—the One Who sees in its entirety that part of the Divine Pattern that it is responsible for materializing through the personality. Thus a significant impediment to the expression of soul-personality integration is removed, for the soul cannot express itself fully through a personality which does not care whether the manifestation of its own designs mar or enhance the manifestation of the Greater Design, of which all individually executed designs are intended to be a tiny part. | Thông qua việc sử dụng Công thức Tích Hợp (rút gọn là Định hướng), người cung bảy đi vào sự hòa hợp sâu dần với linh hồn—“Đấng Đại Kiến Tạo”—Đấng Thấy trọn vẹn phần của Mẫu Hình Thiêng Liêng mà Ngài chịu trách nhiệm làm cho hiện hình qua phàm ngã. Như vậy, một chướng ngại đáng kể đối với sự biểu lộ của tích hợp linh hồn-phàm ngã được loại bỏ, vì linh hồn không thể biểu lộ trọn vẹn qua một phàm ngã không bận tâm liệu sự biểu lộ các thiết kế riêng của mình có làm tổn hại hay làm tăng vẻ cho sự biểu lộ của Thiết Kế Vĩ Đại hơn, mà mọi thiết kế được thực thi riêng rẽ đều được dự liệu chỉ là một phần nhỏ bé. |
Concluding Notes—Lời kết
It is interesting to note, when analyzing the ray content of the Integration Formulas, that each carries the quality of the first or second ray, or a combination of the two. The first and second rays, representing as they do the basic duality found in all manifestation, in certain respects, include all the other rays. A great many adjustments necessary for a more healthy psychospiritual functioning (functioning which is in alignment with the soul) can be understood as a need for either more or less first or second ray energy. | Điều đáng chú ý là, khi phân tích nội hàm cung của các Công thức Tích Hợp, mỗi công thức đều mang phẩm tính của cung một hoặc cung hai, hoặc là sự kết hợp của cả hai. Cung một và cung hai, vì đại diện cho nhị nguyên tính căn bản được tìm thấy trong mọi biểu lộ, nên ở một số phương diện, bao gồm tất cả các cung còn lại. Rất nhiều điều chỉnh cần thiết cho một sự vận hành tâm-thần lành mạnh hơn (một sự vận hành được chỉnh hợp với linh hồn) có thể được hiểu như nhu cầu tăng hoặc giảm năng lượng cung một hoặc cung hai. |
It should also be noted that in every case, the Integration Formula calls for a cessation from a certain kind of activity and a subsequent attitude of quiet receptivity. This pattern points to the contrast between the second and third aspects of divinity—the consciousness aspect and activity aspect, respectively. Alignment, coordination and integration with the consciousness aspect requires a disengagement from blind and blinding activity of the unregulated third aspect of Divinity, correlated with the personality, as the consciousness aspect is with the soul. | Cũng cần lưu ý rằng trong mọi trường hợp, Công thức Tích Hợp kêu gọi sự đình chỉ một kiểu hoạt động nào đó và sau đó là một thái độ tiếp nhận tĩnh lặng. Mẫu thức này chỉ ra sự tương phản giữa phương diện thứ hai và phương diện thứ ba của Thiêng Liêng—tương ứng là Phương diện tâm thức và Phương diện hoạt động. Sự chỉnh hợp, điều hòa và tích hợp với Phương diện tâm thức đòi hỏi sự thoát ly khỏi các hoạt động mù quáng và làm mù của phương diện thứ ba của Thiêng Liêng chưa được điều hòa, vốn tương quan với phàm ngã, cũng như Phương diện tâm thức tương quan với linh hồn. |