To C. D. P. [505-530]
Giới thiệu:
CDP là Alice Ortiz, người Mỹ, sinh ngày 4/10/876, giờ sinh được cô Elana Dramchini hiệu chỉnh là 9:26:30, sinh tại Greenville, Delaware. Với giờ sinh đó, Bà có Mặt trời Bạch Dương, dấu hiệu mọc Cự Giải. Cấu trúc cung của bà khá đặc biệt, bao gồm 3 cung sáu (thể xác, cảm dục, phàm ngã), cấu trúc cung đó cộng với dấu hiệu mọc Cự Giải khiến bà:
“Em không có loại ảo cảm đặc biệt nào cả, bởi vì em đang sống trong cả một đại dương ảo cảm”.
Công thức của bà Can đảm (Courage), Tách Rời (Detachment), Tình thương thuần Khiết (Pure Love). Đọc những thư của Chân sư chúng ta sẽ hiểu tại sao Chân sư đưa đức tính Can đảm thành yếu tố quan trọng nhất, kế đến là Tách Rời (Detachment). Sự bám chấp vào các mối liên hệ phàm ngã là cái trói buộc Bà nhiều nhất, cộng với sự sợ hãi, không phải sợ hãi cho bản thân mà là sự sợ hãi những bất trắc cho những thân thương:
“Em không còn đắm chìm sâu trong sương mù ảo cảm, dù em vẫn bị kìm hãm bởi nỗi sợ hãi—không phải nỗi sợ cho bản thân mà là những nỗi sợ không đáng có đối với những người em yêu thương. Do đó, em không thể nhìn thấy họ, những vấn đề họ đối mặt, hay con đường định mệnh riêng của họ một cách rõ ràng; điều này, như em có thể phỏng đoán, ngăn cản em mang đến sự trợ giúp tinh thần cho họ một cách tốt nhất có thể”.
Bà là đệ tử trong nhóm Những Nhà Viễn Cảm, những đệ tử tương đối cao cấp, bao gồm Alice Bailey, Foster Bailey, FCD… Riêng Bà, trong một thư cho biết Bà đang được chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ hai. Qua thư Chân sư gởi cho Bà, chúng ta sẽ học được rất nhiều điều bổ ích, đặc biệt là trong vấn đề ảo cảm, sự bám chấp, tình thương có bản chất phàm ngã. Dưới đây là một số trích dẫn quan trọng nhất:
“Ảo cảm là kẻ thù mạnh mẽ của tất cả những ai đi trên Con đường Đệ tử. Toàn bộ thế giới đều chịu ảnh hưởng của ảo cảm, như em đã biết, nhưng khi một người trở thành đệ tử, họ tiếp xúc với quá nhiều mãnh lực (đặc biệt là trong giai đoạn đầu khi họ không biết cách kiểm soát nó) đến nỗi họ thu hút, củng cố và áp đặt lên bản thân nhiều ảo tưởng hơn của thế giới so với bình thường. Trải nghiệm này của người đệ tử, em không ngoại lệ, vì em là đệ tử đang được huấn luyện chính thức. Các đệ tử sống trên các cấp độ trí tuệ ít bị ảo cảm hơn những người có sự phân cực thuần túy về mặt cảm xúc. Do đó, một trong những điều đầu tiên chúng tôi muốn dạy tất cả các em là làm việc, sống và suy nghĩ thoát khỏi cõi cảm dục.”
“Tất nhiên, ảo cảm là một thứ tinh tế đến mức nó luôn che đậy sự thật. Nó mạnh mẽ bởi vì nó tìm thấy điểm vào trong tâm thức của đệ tử thông qua những trạng thái tâm trí và những thói quen suy nghĩ rất quen thuộc đến mức sự xuất hiện của chúng là tự động và tạo thành một biểu hiện gần như vô thức. Đối với đệ tử trung bình, có ba thái độ chính của tâm trí và cảm xúc khiến người đó dễ bị ảo cảm:
1. Tự thương hại. Tất cả các đệ tử đều dễ mắc phải điều này. Cuộc sống của họ vốn đã khó khăn và họ nhạy cảm hơn người bình thường. Họ cũng liên tục bị thử thách và kiểm tra theo hướng này. Tự thương hại là một mãnh lực mạnh mẽ và lừa dối; nó phóng đại mọi tình trạng và cô lập một người ở trung tâm cuộc sống của chính họ và những tình huống kịch tính được gợi lên trong suy nghĩ của họ. Nó cho phép hai loại ảo cảm xâm nhập: Đầu tiên, ảo cảm về sự huấn luyện đặc biệt, trong đó đệ tử đánh giá cao tầm quan trọng của mình so với sự thử thách áp dụng và phản ứng của họ đối với nó…
Thứ hai là ảo cảm do sự ích kỷ sâu sắc đến mức đệ tử bị cô lập trong một đám mây suy nghĩ của riêng mình khiến ánh sáng của linh hồn bị che khuất; y nhìn mọi thứ không đúng tỷ lệ và ảo cảm về sự cô lập trong rắc rối của y, và đôi khi một định kiến về sự đàn áp giáng xuống y….
2. Tinh thần hay chỉ trích. Điều này gây ra nhiều trạng thái ảo cảm hơn bất kỳ yếu tố nào khác; ở đây, ai có thể nói mình miễn nhiễm?… Huynh đệ của tôi, yếu tố này cho phép nhiều ảo cảm hơn lan vào cuộc sống của đệ tử và cuộc sống của em nhiều hơn là em có thể nhận ra. Do đó, em thường xuyên không thấy được người khác như bản chất của họ, bởi vì em nhìn họ qua ảo cảm được tạo ra bởi sự chỉ trích. Những gì được nói ra thành lời trở thành một hình tư tưởng, gắn liền với người khơi gợi nó và sau đó người kia không bao giờ được nhìn nhận ngoại trừ qua tấm màn của ảo cảm này. Hậu quả là một lần nữa, những điểm yếu được tìm kiếm sẽ được tìm thấy và cái tôi thực sự sẽ bị che khuất khỏi tầm mắt của em…
3. Sự nghi ngờ. Điểm yếu độc hại nhất trong tất cả các điểm yếu chính là loại ảo cảm này; nó thường là thứ sai lệch nhất và—ngay cả khi có cơ sở vững chắc—vẫn có khả năng đầu độc gốc rễ của hiện hữu, bóp méo mọi thái độ đối với cuộc sống và đưa trí tưởng tượng sáng tạo vào hoạt động như một người hầu đầy quyền năng của nó. Sự nghi ngờ luôn nói dối, nhưng nó dối trá với sự thật hiển nhiên đến mức nó dường như đúng đắn và hợp lý…
Một chi tiết đặc biệt khác đối với CDP là Chân sư dạy bà xây dựng một Khu vườn trên cõi cảm dục, như một nơi Bà có thể đến để “ẩn náo” khi những hình tư tưởng cổ xưa nổi dậy:
“Khi những vấn đề của em ập tới, khi em bị lôi kéo bởi những kiểu suy nghĩ cũ mà em biết là sai trái nhưng hiện vẫn có sức ảnh hưởng đến em một cách đều đặn, lúc đó hãy rút lui về khu vườn của mình và làm việc ở đó một lúc. Với thời gian, việc ẩn náu trong khu vườn bí mật sẽ trở thành phản ứng tức thì khi em gặp khó khăn, nhưng cũng chỉ nên ở đó một thời gian ngắn thôi. Điều này sẽ giúp em phá vỡ quyền năng của những hình tư tưởng lỗi thời”.
Bà xây dựng khu vườn qua nhiều năm, và nó trở thành một “khu vườn thật” trên nội giới, nơi các đệ tử khác có thể đến và nghỉ ngơi, những người tìm đến Bà để có sự trợ giúp, và ngay cả Chân sư cũng tiếp xúc Bà trong khu vườn đó:
“Trong nhiều năm, huynh đệ của tôi, tôi thường xuyên đề cập đến khu vườn xinh đẹp của em. Đầu tiên, tôi phải hướng dẫn em để tạo ra nó; tiếp đến, tôi dạy em cách làm cho nó hoàn hảo rồi cách sử dụng nó. Tôi cũng đã dạy em cách cung hiến nó, biến nó thành một thánh điện, kết nối nó trong trí của em với ý tưởng về sự phụng sự. Những gì được tạo ra và sử dụng như vậy, đều tồn tại. Hôm nay, tôi muốn nói với em rằng trên các cõi bên trong, khu vườn của em đang phụng sự nhóm đệ tử của tôi và những người khác—với số lượng nhiều hơn em nghĩ. Đó là nơi hội tụ cho nhiều người và là nơi ẩn náu cho một số khác. Hãy suy ngẫm về điều này và tiếp tục nhiệm vụ làm đẹp khu vườn của em. Hãy luôn nhớ rằng, những ai tìm đến vẻ đẹp của nó không chỉ đến vì khu vườn mà còn đến để liên lạc với em, người mà ở phía nội tâm, thực ra rất khác với những gì em hình dung về bản thân trong kiếp sống thể xác”.
Hi vọng các bức thư này sẽ là nguồn cảm hứng bổ ích cho các bạn trên con đường tu tập, vì như Thầy Hiệu trưởng đã giải thích trong Định Luật Đẩy Lùi của Cung một, Khu vườn mang ý tưởng biểu tượng rất lớn với người cung một, cũng như tất cả các cung khác. Bà Helena Roerich cũng có viết hai quyển sách nhỏ “Lá trong Vườn của Chân sư Morya” dưới cảm hứng của Chân sư Morya.
*****
Can đảm, Tách Rời, Tình thương thuần khiết
Alice Ortiz
II-VI-5-6-6
10/4/1876, Hoa Kỳ
********
Courage, Dispassion, Pure Love
Alice Ortiz
II-VI-5-6-6
4/10/1876, USA
November 1931—Tháng 11 năm 1931
To you, my brother, |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
I have but little to say—not because you do not merit much but because you know the work that must be done and I have but to look on in silence to see eventual achievement. Overcome fear, my brother; kill out suspicion and those vile children of fear—nervousness, foreboding, worry and that instant jumping to conclusions which are dire and full of disaster. Achieve that inner poise which faces all that comes in the light of the Eternal. You are immersed so oft in the terror of the moment (yes, terror is the word I wish to [505] use) that the astral turmoil permits not the clear light of truth and of knowledge to shine in. Both are yours. You are wise and experienced in many ways. Sympathy, understanding, loyalty to the cause of occult truth and steadfast endeavour (plus selfless thought) are yours and these qualities are recognised. How else your inclusion in this group of mine? But much hindrance comes through fear. |
Tôi chẳng có nhiều điều cần nói với em, không phải vì em không xứng đáng mà bởi em đã biết công việc phải làm, và tôi chỉ cần quan sát trong tĩnh lặng để thấy thành tựu cuối cùng. Hãy vượt qua nỗi sợ hãi của mình, em thân mến; hãy loại trừ sự nghi ngờ và những đứa con hèn hạ của nỗi sợ—sự lo lắng, dự báo xấu, phiền muộn và thói vội vàng kết luận dẫn đến bi kịch cùng thảm họa. Hãy đạt đến trạng thái bình tâm bên trong vốn đối mặt với những gì xảy đến dưới ánh sáng của Vĩnh Cửu. Em thường xuyên chìm đắm trong cơn kinh hoàng của khoảnh khắc (đúng vậy, kinh hoàng chính là từ tôi muốn dùng) đến nỗi đến nỗi sự hỗn loạn cảm dục không cho phép ánh sáng trong trẻo của chân lý và tri thức chiếu rọi vào [505] . Em sở hữu cả hai điều đó. Em vốn là người khôn ngoan cùng nhiều trải nghiệm. Sự cảm thông, thấu hiểu, lòng trung thành với sự nghiệp huyền linh học, nỗ lực không ngừng (cùng ý nghĩ vị tha) là những phẩm chất của em và chúng được công nhận. Nếu không có những thứ đó, làm sao em có thể là thành viên trong nhóm dưới sự hướng dẫn của tôi? Nhưng biết bao nhiêu trở ngại lại phát sinh từ nỗi sợ. |
Etheric weakness also exists and I suggest to you that in your meditation work you imagine to yourself the pouring in of divine energy (which is a creative function, my brother) and that you send it on a mission to the etheric counterpart of the spleen. Find out from a diagram where the spleen is located; visualise not the physiological organ but the etheric area surrounding it and picture it as bathed in pure golden prana. This should prove an exercise of value to you. Long experience in meditation should enable you to do this with facility…. |
Em cũng gặp phải những yếu đuối về thể dĩ thái, và tôi đề nghị trong lúc tham thiền, em hãy tưởng tượng dòng chảy tràn vào của năng lượng thiêng liêng (một hoạt động sáng tạo, hỡi huynh đệ) và truyền nó vào đối phần dĩ thái của lá lách. Hãy tìm trong hình vẽ xem lá lách nằm ở đâu; không cần hình dung cơ quan sinh lý, mà là vùng năng lượng dĩ thái bao quanh nó và hãy tưởng tượng vùng đó tắm mình trong prana vàng kim. Đây sẽ là một bài tập thực hành có giá trị với em. Kinh nghiệm tham thiền lâu năm sẽ cho phép em thực hiện điều này dễ dàng…. |
Be the sannyasin for the remainder of your life and in detachment seek to serve the Plan. Ponder on this last sentence, because for you it holds the secret of release. |
Hãy trở thành một sannyasin trong quãng đời còn lại của em, và trong sự tách rời, hãy tìm cách phụng sự Thiên Cơ. Suy ngẫm thật kỹ câu vừa rồi, bởi vì với em, nó nắm giữ bí mật của giải thoát. |
June 1933—Tháng 6 năm 1933
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
I have for you today a word of cheer. Part of your life trouble has been that not only have the physical and the etheric bodies been too loosely combined, tending, therefore, to a devitalised condition; the integration between your mental body and your emotional or astral body has also been very poor. Lately, you have changed that condition and your mind and your astral body are now integrated. Reflect on what this means, my brother. It means that no longer will your astral body (which walks in the veil of illusion) be the dominant and deciding factor in your experience—as has hitherto been the case—but that your mind nature will come increasingly into control and become the transmitter of illumination as you hold steadily upon your way. You have to make the realisation of an hour, the habit of a lifetime. As you know, nothing matters but the soul. Nothing counts in the long run but service. Take your mind away from all your personality problems and the problems of those with whom you have chosen to walk, in this [506] incarnation, the path of life. Trust their souls. Make and keep contact with them, via their souls, refusing to be glamoured by their personalities. Note, as the months slip by, what will happen as you hold this attitude of soul attentiveness. |
Hôm nay, tôi muốn gửi tới em một lời khích lệ. Một phần khó khăn trong cuộc sống của em là thể vật lý và thể dĩ thái không kết nối chặt chẽ, dẫn đến tình trạng thiếu sức sống. Sự tích hợp giữa thể trí và thể cảm xúc của em cũng rất kém. Gần đây, em đã thay đổi tình trạng đó và thể trí cùng thể cảm dục của em giờ đã được tích hợp. Hãy suy ngẫm về ý nghĩa của điều này, hỡi huynh đệ. Có nghĩa là thể cảm dục của em (cái mang trong nó lớp màn ảo tưởng) sẽ không còn là yếu tố chi phối và quyết định trải nghiệm của em nữa, như trước đây nó đã từng, mà bản chất tâm trí của em càng ngày càng có quyền kiểm soát hơn, trở thành phương tiện truyền đạt ánh sáng khi em vững vàng tiến trên con đường của mình. Quan trọng là em phải biến nhận thức đến trong một khoảnh khắc trở thành thói quen của cả cuộc đời. Như em đã biết, chẳng có gì quan trọng ngoài linh hồn. Rốt cuộc, chỉ có phụng sự mới đáng kể. Hãy gạt bỏ những vấn đề thuộc về phàm ngã của mình, cũng như những vấn đề của những người em đã chọn đồng hành cùng trên đường đời trong kiếp sống này [506]. Hãy tin tưởng linh hồn của họ. Giao tiếp và duy trì kết nối với họ thông qua linh hồn, từ chối không để bị quyến rũ bởi phàm ngã của họ. Hãy ghi nhận những điều sẽ xảy ra khi em duy trì thái độ chú tâm vào linh hồn trong quãng thời gian tới. |
Know you not that as you add your soul force to theirs (ignoring the form aspect) that you can galvanise those souls into increased spiritual activity? But, my brother, as you note these happenings, be not tempted to aid. Leave the personalities to their own wise, pure and loving souls. Rest back in the simplicity of this thought and for the next few months cease from wrestling and be content with the path that your soul has chosen you should follow. |
Em không biết rằng khi bổ sung năng lượng linh hồn của em vào năng lượng của họ (không quan tâm đến khía cạnh hình tướng) thì có thể thúc đẩy các linh hồn họ gia tăng hoạt động tinh thần hay sao? Nhưng, hỡi huynh đệ, khi em nhận thấy những điều này, đừng bị cám dỗ muốn trợ giúp. Hãy để các phàm ngã hòa hợp với linh hồn khôn ngoan, thanh khiết và tràn đầy tình thương của chính họ. An tĩnh trong sự giản đơn của ý nghĩ này, và trong vài tháng tiếp theo, hãy ngừng vật lộn, hãy hài lòng với con đường mà linh hồn đã chọn cho em. |
Refrain from breathing exercises for they ever give you discomfort, and a haunting sense of failure. Each morning for five or ten minutes work with the art of visualisation—a creative art. Visualise to yourself a garden in disorder that you are restoring to order and beauty. Rearrange that garden and fill it with flowers, with the song of birds and with what you have visioned to yourself as the garden of your dreams. See two things happen: there must be restoration of the garden and its growth in beauty. Let your imagination guide you day by day into the steady work of restoration, remembering the goal of this exercise is to focus your attention in the region of the ajna centre, of the pituitary body. There learn the power to organise. When your problems descend upon you, when you are swept by an ancient habit of thought that you know to be wrong but which has as yet a rhythmic power over you, then retire into your garden and work there for a short while. In time, make your retreat into the secret garden an instantaneous reaction when distressed and stay not there for a long time. It will aid you to break the power of ancient thoughtforms. |
Hãy ngưng các bài tập thở vì chúng luôn khiến em khó chịu, mang lại cảm giác thất bại ám ảnh. Mỗi sáng, trong khoảng năm hoặc mười phút, hãy thực hành nghệ thuật hình dung—một nghệ thuật sáng tạo. Hãy hình dung một khu vườn đang hỗn loạn mà em đang khôi phục lại trật tự và vẻ đẹp cho nó. Tái sắp xếp khu vườn đó, tô điểm với muôn loài hoa, tiếng hót véo von của chim chóc, tất cả những gì em hình dung cho khu vườn mơ ước của mình. Hãy quan sát hai điều xảy ra: một là việc khôi phục khu vườn, và hai là vẻ đẹp của nó ngày một tăng trưởng. Để sự tưởng tượng dẫn dắt em mỗi ngày trên con đường đều đặn của sự khôi phục, luôn nhớ mục tiêu của bài tập này là tập trung sự chú ý vào vùng trung tâm ajna, nơi có tuyến tùng. Khi đó, em sẽ học được năng lực tổ chức. Khi những vấn đề của em ập tới, khi em bị lôi kéo bởi những kiểu suy nghĩ cũ mà em biết là sai trái nhưng hiện vẫn có sức ảnh hưởng đến em một cách đều đặn, lúc đó hãy rút lui về khu vườn của mình và làm việc ở đó một lúc. Với thời gian, việc ẩn náu trong khu vườn bí mật sẽ trở thành phản ứng tức thì khi em gặp khó khăn, nhưng cũng chỉ nên ở đó một thời gian ngắn thôi. Điều này sẽ giúp em phá vỡ quyền năng của những hình tư tưởng lỗi thời. |
You ask: What is my gift to the group? I answer: The gift of a pure and unselfish spirit and a rare capacity to give. No greater gift can be yours—the driving urge to give selflessly with no motive but that of a pure and loving spirit. For you, I have these words which are your own to use: |
Em hỏi rằng: Món quà của tôi dành cho nhóm là gì? Tôi sẽ trả lời: Món quà về tinh thần thuần khiết, vị tha, và một khả năng trao tặng hiếm có. Không gì quý giá hơn điều đó—một sự thôi thúc mạnh mẽ mang đến sự trao tặng một cách vô tư, không động cơ nào khác ngoài tình thương và tinh thần trong sáng. Tôi gửi em những lời này để em sử dụng: |
“Let the pure light of reason and understanding dispel the fogs in which I long have walked. Let the mists disappear [507] and let the clouds of care disperse within the radiant light of the sun which shineth ever in the fog. That sun is found within my mind. Within that sun, I stand.” |
“Cầu xin ánh sáng thuần khiết của lý trí và hiểu biết đánh tan những lớp sương mù mà lâu nay tôi vẫn bước đi trong đó. Hãy để làn sương tan biến [507], hãy để những đám mây phiền muộn tan tác trong ánh sáng rạng ngời của mặt trời, thứ luôn chiếu sáng trong sương mù. Mặt trời ấy nằm ngay trong tâm trí tôi. Tôi đứng vững trong ánh mặt trời.” |
June 1934—Tháng 6 năm 1934
BROTHER OF MINE: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
You are facing up to your crisis and to your final test of fitness for accepted discipleship. There is little that I can say to you except that, with understanding, I watch and wait. This is not the time for further words, for it is the time in which you must take action. You say to yourself time and time again: “If there were some one thing I could do to break the prison of thought in which I find myself, how easy it would be and how quickly I would do it.” But, my brother, there is just such a simple thing and yet, until you do it you cannot walk in the light. Also, until you do it (as this is a group endeavour) you hold back this group of co-disciples from fuller revelation and service. The simple rule is: Talk less and love more. |
Em đang đối mặt với khủng hoảng của mình và bài kiểm tra cuối cùng về sự phù hợp để trở thành một đệ tử được chấp nhận. Tôi chẳng có nhiều điều để nói với em, ngoài việc tôi đang quan sát và chờ đợi với sự thấu hiểu. Đây không phải là lúc cho những lời nói suông, mà là lúc em phải hành động. Em luôn thầm nhủ với bản thân rằng: ‘Nếu có một việc gì đó tôi có thể làm để phá vỡ nhà tù tư tưởng mà mình bị giam cầm, thì dễ dàng biết bao, ngay lập tức tôi sẽ làm nó’. Nhưng hỡi huynh đệ, việc đó thật đơn giản, nhưng đến khi nào em làm được thì mới có thể bước đi trong ánh sáng. Và cho đến khi em làm được (vì đây là nỗ lực của cả nhóm), em vẫn đang kìm hãm nhóm đệ tử này tiến tới những mặc khải và phụng sự đầy đủ hơn. Nguyên tắc thật đơn giản: Nói ít và yêu thương nhiều hơn. |
I have no special exercise to give you. I have told D.R.A. to stand by you with deepened love but to talk no more to you about your problem. The reason for his silence and mine is that you now enter the stage of the solution of your problem wherein you must stand exoterically alone and fight the battle on the outer plane to its conclusion by yourself. But on the inner plane, there is a drawing closer to you of those who care and can help. |
Tôi không có thêm bài tập đặc biệt nào khác cho em. Tôi đã dặn D.R.A. ở bên cạnh em với tình thương sâu sắc hơn, nhưng không nói thêm gì với em về vấn đề của em. Lý do cho sự im lặng của em ấy và của tôi là bởi bây giờ em đang bước vào giai đoạn giải quyết vấn đề của chính mình, nơi em phải độc lập về mặt ngoại môn và tự mình chiến đấu trận chiến này trên cõi ngoại giới cho đến cùng. Nhưng trên nội giới, những ai yêu thương và có khả năng giúp đỡ em đang hướng sự quan tâm lớn hơn về phía em. |
Will you understand me when I say that symbolically and psychologically your fight must be fought out in your garden? Will you comprehend me when I tell you that only love can free you? Not love of yourself or a freeing of yourself through desperation over your own unhappiness; not love of those you so easily love but the very love of your soul must be called in and, therefore, soul contact is your solution, persisted in steadily throughout each day. |
Liệu em có hiểu tôi không khi tôi nói rằng về mặt biểu tượng và tâm lý, cuộc chiến của em phải được diễn ra trong khu vườn? Liệu em có thấu hiểu tôi khi tôi nói rằng chỉ tình thương mới có thể giải phóng em? Không phải tình thương cho bản thân hay sự giải thoát cho mình khỏi nỗi tuyệt vọng về bất hạnh của chính em; không phải tình thương dành cho những người em dễ dàng trao sự thương mến, mà chính tình thương của linh hồn em phải được kêu gọi. Vì vậy, tiếp xúc với linh hồn chính là giải pháp của em, hãy giữ vững nỗ lực đó mỗi ngày. |
Meditate therefore upon love. Say to yourself each hour—if you can develop that time consciousness— I must love. Only one request do I make to you, my brother, and that is one that may puzzle you. Sit still every day without fail for one hour, [508] refusing to interrupt that hour’s silence and stillness. Simply relax, rest, read and think happily but let nothing, except real emergency (no wild and unconditioned fear, no suspicion or urge to investigate) permit you to break into the rhythm of that period. Sit still, not tense, but quiet and relaxed. It is but a small thing to request but if you conform to this requirement, the results may be more potent than you think. It is an hour for thinking love; for pondering upon the source of disinterested, detached soul love. Study along these lines, if you like, but sit still. Love and quietness, not resentment and restlessness, are your immediate task and in the achieving of these two things you will solve your problem and liberate yourself. |
Do đó, hãy tham thiền về tình thương. Mỗi giờ, nếu em rèn luyện được ý thức về thời gian, hãy tự nhủ với bản thân rằng—Tôi phải yêu thương. Huynh đệ của tôi, tôi chỉ có một yêu cầu dành cho em, và điều này có thể sẽ làm em bối rối. Hãy ngồi tĩnh lặng một giờ mỗi ngày, không bỏ ngày nào, [508] từ chối làm gián đoạn sự yên tĩnh và tĩnh lặng đó. Đơn giản chỉ hãy thư giãn, nghỉ ngơi, đọc sách và suy nghĩ an lạc, nhưng không để bất cứ điều gì ngắt nhịp của khoảng thời gian đó, trừ những tình huống khẩn cấp thật sự (không phải nỗi sợ hãi hoang dại không kiểm soát, không phải sự nghi ngờ hay sự ham muốn điều tra tìm hiểu). Hãy ngồi yên, không căng thẳng, mà nhẹ nhàng và thư giãn. Đây chỉ là yêu cầu nhỏ, nhưng nếu em đáp ứng được nó, kết quả có thể mạnh mẽ hơn em tưởng. Đây là một giờ để nghĩ về tình thương; để nghiền ngẫm về nguồn gốc của tình thương thiêng liêng, vị tha và tách rời. Nếu em thích, hãy nghiên cứu theo hướng này, nhưng nhớ ngồi yên. Yêu thương và tĩnh lặng, không oán giận, bất an, đó là nhiệm vụ trước mắt của em, và qua việc đạt được hai điều này, em sẽ giải quyết vấn đề của mình và giải phóng bản thân. |
Silence, serenity and loving service to all, without exception and without thought of self—these should be the keynotes of your life during the coming months. Restlessness and resentment, self-pity and suspicion are your present problems. Substitute love for these and all will be well. You evoke love in many. This means that you have the gift of love. Use that power to love and break your chains in order to serve with freedom and to go forward in my group of disciples to greater usefulness. I stand by. |
Tĩnh lặng, bình tâm và phụng sự yêu thương tất cả không có ngoại lệ và không suy nghĩ về bản thân—đó nên là chủ âm trong cuộc sống của em những tháng tới. Bất an và oán giận, tự thương hại và nghi ngờ là những vấn đề tồn tại trong em hiện nay. Hãy thay thế những thứ đó bằng tình thương, rồi tất cả sẽ tốt đẹp. Em đã khơi dậy tình thương nơi nhiều người. Điều này có nghĩa là em có món quà của tình thương. Hãy sử dụng sức mạnh đó để yêu thương và phá vỡ những xiềng xích trói buộc mình, để tự do phụng sự và cùng nhóm đệ tử của tôi tiến tới sự hữu ích to lớn hơn. Tôi luôn bên cạnh em. |
January 1935—Tháng 1 năm 1935
MY BROTHER OF OLD: |
HUYNH ĐỆ NGÀY XƯA CỦA TÔI: |
My message to you this year is the one with which I ended my last communication to you: I stand by. |
Thông điệp của tôi gửi đến em năm nay vẫn giống với lời kết trong lần giao tiếp trước: Tôi luôn bên cạnh em. |
When I last said it to you, I was under no illusion as to the extent of your problem or of the weakness of the agonised equipment which you brought to its solution. The outcome of your struggle a year ago was very problematical. It is not so now. The ancient habits of thought and the quick submerging by the old rhythms are still possible; you are oft profoundly discouraged by the cropping up of the hydra of resentment and of suspicion with its many heads. Yet much progress has been made and your astral body is really quieter. This you know yourself. You are finding it easier to swing into other interests. The periods of submergence in the old lines of thought do not last so long and your understanding is growing. |
Lần trước tôi nói điều này, tôi không hề ảo tưởng về mức độ khó khăn trong vấn đề của em hay sự yếu đuối của những công cụ dày vò mà em sử dụng cho giải pháp của nó. Cách đây một năm, kết quả cho cuộc đấu tranh của em vẫn còn rất khó đoán. Nhưng bây giờ thì không còn như vậy. Những thói quen tư duy cũ, sự chìm khuất nhanh chóng trước những nhịp điệu xưa kia vẫn còn có thể diễn ra; em thường nản lòng sâu sắc khi sự oán giận và nghi ngờ trồi lên như những cái đầu con rắn nhiều đầu hydra. Thế nhưng, nhiều tiến bộ đã đạt được và thể cảm dục của em thực sự đã tĩnh lặng hơn. Em tự biết điều này. Em cũng nhận thấy rằng chuyển hướng chú ý sang những khía cạnh khác trong cuộc sống đã trở nên dễ dàng hơn. Những lần bị nhấn chìm trong lối tư duy cũ không kéo dài lâu nữa và sự hiểu biết của em đang tăng thêm. [509] |
The fight is not yet over but by May, 1936, you should have reached a point where the sense of inner freedom will be so strong that you will realise that the things which affect the personality and which come from the point of development and from the lack of control of the personalities with which you are associated will fail to exert any real power over you. You will be fast attaining the attitude of the Observer, of the one who looks on—knowing himself to be the controlling soul. |
Cuộc chiến vẫn chưa kết thúc nhưng đến tháng 5 năm 1936, em sẽ đạt được một điểm mà ở đó cảm giác tự do nội tâm sẽ mạnh mẽ đến nỗi em sẽ nhận ra rằng những gì tác động đến phàm ngã có nguồn gốc từ điểm tiến hóa và từ sự thiếu kiểm soát của những phàm ngã mà em gắn kết, sẽ thất bại trong việc tác động bất cứ quyền năng thực sự nào lên em. Em sẽ nhanh chóng đạt được thái độ của Người Quan Sát, của người nhìn vào—người tự biết mình là linh hồn điều khiển. |
Will you, my brother, take the various personal instructions I have given you during the past years and—on some quiet day—read them through uninterruptedly and at one sitting? You will, in this way, get a picture of your spiritual problem (and of my effort to help you solve it) that will be constructively useful. You will discover also that there has been real growth on your part. Your problem is not this or that circumstance in your life. It is not concerned with the activity of this or that person. It is not tied up with your family life, your financial circumstances or your health. These are but the staging around which you struggle for liberation. These are but the opportunities offered by your soul which, when rightly used, will set you upon the Path of Initiation. Yes, that is what I said, my brother—upon the Path of Initiation and not upon the Path of Discipleship. You are already upon the latter path. You know well within yourself that if you could achieve detachment and if you could arrive at a stable, focussed mind that the whole of life would simplify for you. Initiation is simplification. |
Hỡi huynh đệ của tôi, liệu em có thể tập hợp những hướng dẫn cá nhân khác nhau mà tôi đã dành cho em những năm qua, và vào một ngày yên tĩnh, đọc chúng liên tục và từ đầu đến cuối chỉ trong một lần không? Qua cách này, em sẽ hình thành được một bức tranh về vấn đề tinh thần của em (cùng với nỗ lực của tôi để giúp em giải quyết nó) và đây sẽ là hình ảnh có tính xây dựng, hữu ích. Em cũng sẽ nhận ra rằng bản thân đã có sự phát triển thực sự. Vấn đề của em không phải là tình huống này hay tình huống khác trong đời em. Vấn đề cũng không liên quan đến các hoạt động của người này hay người khác. Nó không bị trói buộc bởi cuộc sống gia đình, hoàn cảnh tài chính hay sức khỏe của em. Tất cả những điều đó chỉ là khung cảnh mà qua đó em đấu tranh để giải phóng. Đó chỉ là những cơ hội được linh hồn em trao cho, nếu được sử dụng đúng đắn, sẽ đưa em vào Con đường Điểm Đạo. Đúng vậy, đó là những gì tôi nói, huynh đệ của tôi—vào Con đường Điểm Đạo chứ không phải Con đường Đệ Tử. Em đã đặt chân lên con đường thứ hai rồi. Em hoàn toàn hiểu rằng nếu em có thể đạt tới sự tách rời, nếu em có thể đạt tới trạng thái tâm trí tập trung vững vàng thì toàn bộ cuộc sống sẽ giản đơn hơn với em. Điểm Đạo chính là sự giản đơn hóa. |
You are rich in the real love of many people. Your physical plane circumstances, viewed in the light of the present world problem, are good. Your health problem is rooted in your astral condition. By overcoming the glamour in which you walk, you would find yourself so free and so useful that you would look back with amazement upon your past life of illusion and self-induced misery. Your personal problem is far from unique. What has constituted the main difficulty has been based on the fact that you are a disciple. The glamour and the illusion which a disciple can evoke is far more potent than that of the average person. Your mind, as a result of the glamour, may be ever restless and shifting, but the glamour is the result of potent emotional thinking and of a prolonged attentiveness [510] to the circumstances of your physical plane life. The same attentiveness and potency of thought, directed away from your circumstances and to the things of the soul, will free you. |
Em được nhiều người yêu thương với tình thương chân thật. Hoàn cảnh trên cõi trần của em, dưới ánh sáng của vấn đề thế giới hiện tại, nhìn chung là tốt. Vấn đề sức khỏe của em bắt nguồn từ tình trạng của thể cảm dục. Bằng cách vượt qua ảo cảm đang giăng bủa, em sẽ tìm thấy tự do và sự hữu ích đến một mức độ kinh ngạc khi nhìn lại cuộc đời khổ đau và ảo tưởng tự tạo trước kia của mình. Vấn đề cá nhân của em không hề đặc biệt. Điều gây ra khó khăn lớn nhất xuất phát từ sự thật rằng em là một đệ tử. Ảo cảm và ảo tưởng mà đệ tử khơi gợi ra có sức mạnh hơn nhiều so với người bình thường. Thể trí em, do hậu quả của ảo cảm, có thể vẫn không ngừng bồn chồn và xao động, nhưng ảo cảm lại là kết quả của cách suy nghĩ giàu cảm xúc mạnh mẽ, của sự lưu tâm kéo dài [510] vào những hoàn cảnh ở cuộc sống trần tục của em. Sự chú tâm như vậy, với sức mạnh của tư duy như vậy, nếu được hướng ra khỏi những hoàn cảnh và đến những điều thuộc về linh hồn, sẽ giải phóng em. |
Do you still work in your garden, my brother? Would you be willing to work in it another year? May I (who have looked on for years at your struggle and who today feel certain of your victory) make another suggestion to you? Build in your garden an ivory tower and from the summit of that tower survey your life each day. Build it until the time of the Full Moon of May and then at the time of the Wesak Festival and for the three days of that Festival live in your tower and there abide. In moments also of distress or of imminent failure mount to your tower and steadfast stand. The tower is only symbolic but, if you grasp the essential underlying meaning, you will literally slip out of the glamour as you mount your tower and pass into the clear light of day. There is oft a mist in your garden, but on the top of the tower there is sunlight, space and air. There I can meet with you, if you rightly build and learn the method of ascent. (A description of this garden will be found at the end of this disciple’s instructions. A.A.B.) |
Em vẫn làm việc trong khu vườn của mình chứ, hỡi huynh đệ của tôi? Liệu em có sẵn lòng tiếp tục làm việc ở đó trong một năm nữa? Tôi (người đã quan sát cuộc đấu tranh của em bấy lâu và hôm nay cảm nhận chắc chắn về chiến thắng của em) có thể đưa ra thêm một gợi ý không? Hãy xây trong khu vườn của em một tháp ngà, và mỗi ngày, em hãy quan sát cuộc sống mình từ đỉnh tháp. Hãy xây dựng nó cho đến trăng tròn tháng 5, rồi vào thời điểm lễ Wesak và trong ba ngày của lễ hội đó, hãy sống trong tòa tháp của em, ở đó và kiên định. Tòa tháp chỉ là biểu tượng, nhưng nếu em nắm bắt được ý nghĩa sâu xa, em thực sự sẽ thoát ra khỏi ảo cảm khi bước vào tháp, hòa mình vào ánh sáng ban ngày. Đôi khi có sương mù trong khu vườn, nhưng ở đỉnh tháp luôn có nắng, không gian và gió. Ở nơi đó tôi có thể gặp em, nếu em xây dựng đúng cách và học được cách bước lên. (Mô tả về khu vườn này sẽ được đưa ra cuối phần hướng dẫn cho đệ tử này. A.A.B). |
Be more strict in the keeping of your quiet hour. Build then your tower of ivory and may the light of your soul pour upon you and flood your life; may you realise the uses of joy and of caring nothing about the separated self and may the blessing of your Master rest upon you. |
Hãy nghiêm túc hơn trong việc duy trì giờ phút tĩnh lặng của mình. Khi đó xây tòa tháp ngà, và cầu mong ánh sáng của linh hồn em tuôn đổ lên em, ngập tràn cuộc sống em; cầu mong em nhận ra công dụng của niềm vui cũng như sự an nhiên không quan tâm về cái tôi tách biệt. Cầu mong sự ban phước lành từ Chân sư của em sẽ an trú lên em. |
July 1935—Tháng 7 năm 1935
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
If I were to ask you to measure your success or failure during the past twelve months, do you know for yourself what your measurement would be? Would you say: Real success with occasional brief relapses through old habits of thought not yet completely transcended? Your success is real and there is much more light in your aura. |
Nếu tôi hỏi em đánh giá sự thành công hay thất bại của em trong mười hai tháng qua, em sẽ biết cách đo lường nó như thế nào không? Liệu em có thể nói: Thành công thực sự với những lần tái phát ngắn hạn qua những thói quen suy nghĩ cũ chưa hoàn toàn vượt qua? Thành công của em là có thật và có nhiều ánh sáng hơn trong hào quang của em. |
One of the things which I seek to take up with you in this instruction is the subject of glamour. Glamour is the powerful enemy of all who tread the Path of Discipleship. The whole world is subject to glamour, as well you know, but when a man becomes a disciple, he contacts so much force (especially in the [511] early stages when he does not know how to handle it) that he attracts, consolidates and precipitates upon himself far more of the world illusion than would otherwise be the case. To this experience of the disciple, you are no exception, being a disciple in definite training. Disciples who live on mental levels are freer from glamour than are those whose polarisation is more purely emotional. Therefore, one of the first things we seek to teach all of you is to work, live and think in freedom from the astral plane. Perhaps the best way to help you, my brother, and any of your co-disciples who may be interested in the teaching which I give you personally, is to cite to you the conditions in daily life which lead to a state of glamour. Then you can make your own application and see where those conditions are to be found in daily life. When found, then glamour is an inevitable result. When recognised, however, they can be handled and the glamour will then disappear. |
Một trong những điều mà tôi muốn đề cập đến trong hướng dẫn này là chủ đề về ảo cảm. Ảo cảm là kẻ thù mạnh mẽ của tất cả những ai đi trên Con đường Đệ tử. Toàn bộ thế giới đều chịu ảnh hưởng của ảo cảm, như em đã biết, nhưng khi một người trở thành đệ tử, họ tiếp xúc với quá nhiều mãnh lực (đặc biệt là trong giai đoạn đầu [511] khi họ không biết cách kiểm soát nó) đến nỗi họ thu hút, củng cố và áp đặt lên bản thân nhiều ảo tưởng hơn của thế giới so với bình thường. Trải nghiệm này của người đệ tử, em không ngoại lệ, vì em là đệ tử đang được huấn luyện chính thức. Các đệ tử sống trên các cấp độ trí tuệ ít bị ảo cảm hơn những người có sự phân cực thuần túy về mặt cảm xúc. Do đó, một trong những điều đầu tiên chúng tôi muốn dạy tất cả các em là làm việc, sống và suy nghĩ thoát khỏi cõi cảm dục. Có lẽ cách tốt nhất để giúp đỡ em, huynh đệ của tôi, và bất kỳ người bạn đồng môn nào quan tâm đến lời dạy mà tôi dành riêng cho em, là chỉ ra cho em những điều kiện trong cuộc sống hàng ngày dẫn đến trạng thái ảo cảm. Sau đó, em có thể áp dụng chúng vào cuộc sống của chính mình và xem những điều kiện đó có thể tìm thấy ở đâu trong cuộc sống hàng ngày. Khi được tìm thấy, thì ảo cảm là một kết quả không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, khi được nhận ra, chúng có thể được xử lý và ảo cảm sẽ biến mất. |
Glamour is, of course, such a subtle thing that it ever masquerades as truth. It is powerful because it finds its point of entry into a disciple’s consciousness through those states of mind and those habits of thought which are so familiar that their appearance is automatic and constitutes an almost unconscious manifestation. There are (for the average disciple) three main attitudes of mind and of feeling which predispose him to being glamoured: |
Tất nhiên, ảo cảm là một thứ tinh tế đến mức nó luôn che đậy sự thật. Nó mạnh mẽ bởi vì nó tìm thấy điểm vào trong tâm thức của đệ tử thông qua những trạng thái tâm trí và những thói quen suy nghĩ rất quen thuộc đến mức sự xuất hiện của chúng là tự động và tạo thành một biểu hiện gần như vô thức. Đối với đệ tử trung bình, có ba thái độ chính của tâm trí và cảm xúc khiến người đó dễ bị ảo cảm: |
1. Self-pity. To this all disciples are prone. Their lives are necessarily difficult and they are more sensitive than the average. They are also being constantly tried and tested in this particular direction. Self-pity is a powerful and deluding force; it exaggerates every condition and isolates a person in the centre of his own life and the dramatic situations evoked in his own thoughts. It permits two kinds of glamour to enter: First of all, the glamour of special training wherein the disciple over-estimates his importance in ratio to the testing applied and his reaction to it. This is not one of your failings. Your sane humility is a great asset, provided you do not give way to self-depreciation. The second is the glamour produced by such a deep self-interest that the disciple is isolated in a cloud of his own thoughts so that the light of his soul is shut out; he sees things in wrong proportion and the glamour of his isolation [512] in his trouble, and sometimes a fixed idea of persecution descends upon him. Here again you are not guilty. Others in my group of disciples are more prone to this failing than you are. |
1. Tự thương hại. Tất cả các đệ tử đều dễ mắc phải điều này. Cuộc sống của họ vốn đã khó khăn và họ nhạy cảm hơn người bình thường. Họ cũng liên tục bị thử thách và kiểm tra theo hướng này. Tự thương hại là một mãnh lực mạnh mẽ và lừa dối; nó phóng đại mọi tình trạng và cô lập một người ở trung tâm cuộc sống của chính họ và những tình huống kịch tính được gợi lên trong suy nghĩ của họ. Nó cho phép hai loại ảo cảm xâm nhập: Đầu tiên, ảo cảm về sự huấn luyện đặc biệt, trong đó đệ tử đánh giá cao tầm quan trọng của mình so với sự thử thách áp dụng và phản ứng của họ đối với nó. Đây không phải là một trong những thất bại của em. Lòng khiêm tốn sáng suốt của em là một tài sản lớn, miễn là em không tự ti. Thứ hai là ảo cảm do sự ích kỷ sâu sắc đến mức đệ tử bị cô lập trong một đám mây suy nghĩ của riêng mình khiến ánh sáng của linh hồn bị che khuất; y nhìn mọi thứ không đúng tỷ lệ và ảo cảm về sự cô lập [512] trong rắc rối của y, và đôi khi một định kiến về sự đàn áp giáng xuống y. Ở đây, một lần nữa em không mắc phải. Những người khác trong nhóm đệ tử của tôi dễ mắc phải thất bại này hơn em. |
2. A spirit of criticism. This induces more states of glamour than any other one factor; and here, who shall say he is immune? When harmlessness and kindness in thought and word are practised and automatically become a part of a disciple’s daily life expression, then glamour will end. My brother, this one factor lets in more glamour into a disciple’s life and into your life than you can realise. Consequently, you frequently fail to see people as they really are, for you see them through the illusion induced by criticism of them. That which is voiced in words becomes a thoughtform, attached to its invoking agent and then the person is never seen except through the veil of this glamour. Consequently again, the weaknesses which are looked for are found and the real self is hidden from your eyes. You can check the accuracy of the above statement in a couple of days by a careful noting of the theme of all your conversations in the circle of your daily life. Are you discussing reality or a temporary failure in a divine expression? Is your reaction to people in general kindly or critical? Are you prone to see the good and ignore the weaknesses and errors? Is there an immediate interest evoked in you by the relation of some wrong action or mistake, or do you lock up your knowledge of peoples’ faults in the secret of your heart, loving your brother more because of his frailty and refusing to pass comment or to criticise him even to yourself? I commend these questions to you and to all in my group of disciples. Right here for you—as for so many—lies the usual point of entry for glamour and until this opening is sealed, you will not be free from personal glamour. |
2. Tinh thần hay chỉ trích. Điều này gây ra nhiều trạng thái ảo cảm hơn bất kỳ yếu tố nào khác; ở đây, ai có thể nói mình miễn nhiễm? Khi sự vô hại và lòng tốt trong suy nghĩ và lời nói được thực hành, tự động trở thành một phần trong cách thể hiện cuộc sống hàng ngày của đệ tử, thì ảo cảm sẽ chấm dứt. Huynh đệ của tôi, yếu tố này cho phép nhiều ảo cảm hơn lan vào cuộc sống của đệ tử và cuộc sống của em nhiều hơn là em có thể nhận ra. Do đó, em thường xuyên không thấy được người khác như bản chất của họ, bởi vì em nhìn họ qua ảo cảm được tạo ra bởi sự chỉ trích. Những gì được nói ra thành lời trở thành một hình tư tưởng, gắn liền với người khơi gợi nó và sau đó người kia không bao giờ được nhìn nhận ngoại trừ qua tấm màn của ảo cảm này. Hậu quả là một lần nữa, những điểm yếu được tìm kiếm sẽ được tìm thấy và cái tôi thực sự sẽ bị che khuất khỏi tầm mắt của em. Em có thể kiểm tra tính chính xác của tuyên bố trên trong vài ngày bằng cách cẩn thận chú ý đến chủ đề của tất cả các cuộc trò chuyện của em trong vòng tròn cuộc sống hàng ngày. Em đang thảo luận về hiện thực hay một thất bại tạm thời trong sự biểu lộ thiêng liêng? Phản ứng của em đối với mọi người nói chung có tử tế hay chỉ trích? Em có xu hướng nhìn thấy điều tốt và bỏ qua những điểm yếu và sai lầm? Có phải khi có ai đó kể về một hành động sai trái hay lỗi lầm, em lập tức bị thu hút không, hay em giữ kiến thức về những lỗi lầm của người khác trong bí mật của trái tim mình, yêu thương huynh đệ của em nhiều hơn vì sự yếu đuối của người đó và từ chối bình luận hoặc chỉ trích họ ngay cả với bản thân em? Tôi giao những câu hỏi này cho em và cho tất cả trong nhóm đệ tử của tôi. Chính tại đây, đối với em cũng như nhiều người khác, là điểm xâm nhập thông thường khiến ảo cảm xuất hiện, và chừng nào lối vào này chưa được niêm phong, em sẽ không được thoát khỏi ảo cảm cá nhân. |
3. Suspicion. The most poisonous of all weaknesses is this glamour; it is usually the most false and—even when well founded—is still capable of poisoning the very roots of being, of distorting all attitudes to life and of bringing into activity the creative imagination as its potent servant. Suspicion ever lies, but lies with such apparent truth that it seems only correct [513] and reasonable. This tendency you have fought for long, and a good measure of success is attending your efforts. Give not way to suspicion; but be careful not to cast it away from you into the hidden depths of yourself, whence again it must inevitably raise its head. End its power in your life by doing three things: |
3. Sự nghi ngờ. Điểm yếu độc hại nhất trong tất cả các điểm yếu chính là loại ảo cảm này; nó thường là thứ sai lệch nhất và—ngay cả khi có cơ sở vững chắc—vẫn có khả năng đầu độc gốc rễ của hiện hữu, bóp méo mọi thái độ đối với cuộc sống và đưa trí tưởng tượng sáng tạo vào hoạt động như một người hầu đầy quyền năng của nó. Sự nghi ngờ luôn nói dối, nhưng nó dối trá với sự thật hiển nhiên đến mức nó dường như đúng đắn và hợp lý [513]. Em đã chiến đấu với xu hướng này trong một thời gian dài và đạt được một mức độ thành công đáng kể. Đừng nhượng bộ trước sự nghi ngờ này; nhưng hãy cẩn thận không vứt bỏ nó ra khỏi em vào những chiều sâu ẩn giấu của bản thân, nơi mà chắc chắn nó sẽ lại ngóc đầu dậy. Hãy chấm dứt quyền lực của nó trong cuộc đời em bằng cách thực hiện ba điều sau: |
a. By assuming more definitely the attitude of the Onlooker, who sees all people and happenings through the light of love and from the angle of the eternal values. |
a. Bằng cách nhất quyết đảm nhận thái độ của Người Quan Sát: người nhìn tất cả mọi người và mọi sự việc xảy ra qua ánh sáng của tình thương và từ góc độ của các giá trị vĩnh cửu. |
b. By leaving everybody free to live their own lives and to shoulder their own responsibilities, knowing that they are souls and are being led towards the light. Simply give them love and understanding. |
b. Bằng cách để cho mọi người tự do sống cuộc sống của riêng họ và gánh vác trách nhiệm của chính họ, biết rằng họ là những linh hồn và đang được dẫn dắt về phía ánh sáng. Chỉ đơn giản trao cho họ tình thương và sự hiểu biết. |
c. By the fullness of your own life of service which leaves you no time for the moments and hours of suspicion which blight so many lives. |
c. Bằng cách sống một cuộc đời phụng sự viên mãn đến mức không còn thời gian cho những khoảnh khắc và giờ phút nghi ngờ vẫn làm héo mòn rất nhiều cuộc đời. |
These three things, if persisted in and practised, will do more to release you from glamour than any other one thing. |
Ba điều này, nếu được kiên trì và thực hành, sẽ giúp em giải thoát khỏi ảo cảm nhiều hơn bất cứ điều gì khác. |
The fact, brother of mine, that I can thus write to you indicates the measure of your achievement. Two years ago, you might have recognised theoretically the truth of what I say. Now you not only recognise it but have in the past and will in the future deal with the problem in a practical manner. For a while it will be an hour by hour and day by day fight; but the power of your soul is adequate to bring release, and the love of this group of disciples is sufficient to carry you through…. |
Huynh đệ của tôi, sự kiện tôi có thể viết cho em như thế này cho thấy mức độ thành tựu của em. Hai năm trước, em có thể đã nhận ra về mặt lý thuyết tính xác thực của những gì tôi nói. Bây giờ em không chỉ nhận ra nó mà còn đã và sẽ giải quyết vấn đề này một cách thiết thực. Trong một thời gian, đây sẽ là một cuộc chiến từng giờ từng ngày; nhưng sức mạnh của linh hồn em đủ để mang lại sự giải thoát, và tình yêu thương của nhóm đệ tử này đủ để giúp em vượt qua…. |
As to your garden, my brother, I would ask you to enter into it early each Sunday morning. See your garden sleeping in the darkness of the dawn—no real light, no sound or movement and no life apparent. It remains just dreaming and colourless. Enter your tower and climb to the summit and then release the light which is in you; this will be to the garden of your soul what the sun is to the gardens of the world. Watch the rays of light pouring out over the garden, awakening it to colour and beauty, arousing it to movement and life, and calling forth the song of the birds and the hum of the bees and evoking it to a responsive loveliness. There I may meet you when the clouds of glamour roll away. Ponder on the symbolism [514] hidden in this garden and work steadily for the next few months from this centre of love and light. |
Về khu vườn của em, huynh đệ của tôi, tôi muốn yêu cầu em bước vào đó vào sáng sớm mỗi Chủ nhật. Hãy ngắm khu vườn của em đang ngủ trong bóng tối của bình minh—không có ánh sáng thực, không có âm thanh hay chuyển động và không có dấu hiệu của sự sống. Nó chỉ đơn giản là nằm đó, mơ mộng và không có màu sắc. Hãy bước vào tòa tháp của em, trèo lên đỉnh và sau đó giải phóng ánh sáng ở bên trong em; điều này đối với khu vườn của linh hồn em cũng giống như mặt trời đối với các khu vườn của thế giới. Hãy ngắm những tia sáng tuôn tràn khắp khu vườn, đánh thức nó dậy với sắc màu và vẻ đẹp, khuấy động nó chuyển mình vào cuộc sống, làm vang lên tiếng chim hót và tiếng ong bay, gợi lên cái vẻ đẹp dịu dàng đáp lại. Tôi có thể gặp em ở đó khi những đám mây ảo cảm tan đi. Hãy suy ngẫm về tính biểu tượng [514] ẩn giấu trong khu vườn này và làm việc đều đặn trong vài tháng tới từ trung tâm của tình thương và ánh sáng này. |
January 1936—Tháng 1 năm 1936
MY BROTHER AND MY FRIEND: |
HUYNH ĐỆ VÀ NGƯỜI BẠN CỦA TÔI: |
The same instructions, the same objective and the same necessity to cultivate the spirit of liberating love will suffice to occupy you during the next few months. |
Những hướng dẫn, mục tiêu, và sự cần thiết vun đắp tinh thần của tình thương giải phóng vẫn sẽ là hành trang của em trong những tháng tới. |
You are now entering a period of crisis. Forget not that I have told you this and warned you to meet all circumstances in the light of that knowledge. The crisis (which may focus itself in some aspect of your personality) must be regarded by you as an indication of a strenuous effort on the part of your soul to bring about a large measure of liberation before the May Full Moon. Your soul is mobilising its forces in order to effect this release and so enable you to profit by the precipitating spiritual inflow. When such a determination exists on the plane of soul experience, there is an inevitable reaction on the plane of daily life. For this you must be prepared and so be ready to profit from it. Your strength is far greater than you realise because you have never yet drawn fully upon the resources of your soul. This you will have to do to gain the release for which you long. |
Em đang bước vào một giai đoạn khủng hoảng. Đừng quên rằng tôi đã nói với em điều này và cảnh báo em phải đối mặt với mọi tình huống trong ánh sáng của hiểu biết đó. Cuộc khủng hoảng (có thể tập trung vào một khía cạnh nào đó trong phàm ngã của em) phải được em xem như một dấu hiệu cho thấy nỗ lực mạnh mẽ từ linh hồn em để mang lại sự giải phóng lớn lao trước Lễ Trăng Tròn tháng Năm. Linh hồn của em đang huy động tất cả mãnh lực để tạo ra sự giải phóng này, cũng như giúp em được hưởng lợi từ dòng chảy tinh thần đang tràn đến. Khi một quyết tâm như vậy tồn tại trên cõi trải nghiệm của linh hồn, một phản ứng không thể tránh khỏi sẽ xảy ra trên cõi trần. Hãy chuẩn bị tinh thần cho điều này và sẵn sàng hưởng lợi từ đó. Sức mạnh của em lớn hơn em nghĩ rất nhiều vì em chưa bao giờ khai thác hết các nguồnmãnh lực của linh hồn mình. Đây là điều em sẽ phải thực hiện để đạt được sự giải thoát mà em khao khát. |
I tell you also assuredly that—for you—the cultivation of harmlessness is the guarantee of a constructive outcome to your crisis this coming spring. In my last instruction I urged you to eliminate self-pity and this would then produce a harmless handling of the personality. The elimination of criticism will render you harmless where others are concerned and the refusal to be suspicious will dispel your particular glamour, which amounts almost to hallucination. So you see, my brother, that I am only re-emphasising my earlier teaching to you. Of its value, I know you are assured and in voicing the expression of your need, I am only voicing your own deepest wish. |
Tôi cũng nói với em chắc chắn rằng—đối với em—sự phát triển phẩm chất vô tổn hại chính là chìa khóa cho một kết quả mang tính xây dựng trước cuộc khủng hoảng vào mùa xuân sắp tới. Trong hướng dẫn trước đó, tôi đã nhắc nhở em loại bỏ sự tự thương hại và điều này sẽ dẫn đến một cách thức xử lý vô tổn hại các vấn đề liên quan đến phàm ngã. Việc loại bỏ sự chỉ trích sẽ khiến em không gây tổn hại đến người khác, và sự từ chối nghi ngờ sẽ xua tan loại ảo tưởng đặc biệt đang ảnh hưởng đến em, vốn gần như là ảo giác (hallucinations). Vì vậy, huynh đệ của tôi, em có thể thấy rằng tôi chỉ đang nhấn mạnh lại những lời chỉ dạy trước đó dành cho em. Tôi biết em đã hoàn toàn hiểu giá trị của những lời đó, và khi nói lên nhu cầu của em, tôi cũng chỉ lên tiếng về nguyện vọng sâu sắc nhất của chính em mà thôi. |
From May 1934 to May 1935 you made very real progress and your inner spiritual strength was notably augmented. The past six months have marked an interlude wherein there has been a great deal of fluctuation. You have been more subject [515] to external impression and less focussed as a soul on the subtler planes. There has been no marked gain. Such interludes are inevitable; there is no cause for depression, provided they do not continue, once you are aware of their existence. Now the sun is again moving northward and there comes for you renewed opportunity and the possibility of a powerful period of release from your lower nature and from the claims which hold you so potently. My prime message to you is (and I give it with the earnest wish that you will understand to what specific factor I refer): Let go. Drop that which you hold. Stand free at any cost, relinquishing that which holds you back. |
Từ tháng 5 năm 1934 đến tháng 5 năm 1935, em đã tiến bộ rất nhiều và sức mạnh tinh thần bên trong của em đã tăng lên đáng kể. Sáu tháng vừa qua đánh dấu một khoảng thời gian tạm nghỉ, khi mà có rất nhiều dao động. Em có khuynh hướng chịu ảnh hưởng từ các tác động bên ngoài [515] và ít tập trung hơn vào cõi vi tế trong vai trò một linh hồn. Không có sự tiến bộ rõ rệt nào. Những khoảng nghỉ như vậy là không thể tránh khỏi; không có lý do gì để chán nản, miễn là chúng không kéo dài một khi em đã nhận thức được sự tồn tại của chúng. Mặt trời lại đang di chuyển về phía bắc và cơ hội mới lại đến với em, cùng với khả năng cho một giai đoạn giải thoát mạnh mẽ khỏi bản chất thấp kém của mình và những xiềng xích đang gò bó em quá chặt. Thông điệp chính của tôi dành cho em là (và tôi truyền đạt thông điệp này kèm theo lời chúc chân thành mong em hiểu yếu tố cụ thể mà tôi đang đề cập): Buông bỏ. Thả rơi những gì em đang giữ. Hãy đứng tự do bằng mọi giá, từ bỏ những gì đang kìm hãm em. |
During the next six months take the following words and thoughts as seed thoughts in meditation: |
Trong sáu tháng tới, hãy lấy những từ và suy nghĩ sau đây làm hạt giống cho sự tham thiền của em: |
1st month— Detachment from that which holds the Self in chains. |
Tháng thứ 1— Thoát ly khỏi những gì đang giam cầm Chân ngã. |
2nd month— Release of the imprisoned Self for service. |
Tháng thứ 2— Giải phóng Chân ngã bị giam cầm để phụng sự. |
3rd month— The burning ground whereon pure gold is seen. |
Tháng thứ 3— Vùng đất cháy, nơi mà vàng ròng được hé lộ. |
4th month— Liberation of the inner light, and then the treading of the Lighted Way. |
Tháng thứ 4— Sự giải phóng ánh sáng bên trong, và sau đó bước lên Con đường Ánh sáng. |
5th month— Radiance which evokes the light in others. |
Tháng thứ 5— Sự chói rạng làm thức tỉnh ánh sáng trong những người khác. |
6th month— Sacrifice which reveals the glory of the Self. |
Tháng thứ 6— Sự hy sinh phơi bày vinh quang của Chân ngã. |
Be of good courage, my brother, and fear not. Fear itself creates a glamour and the glamour hides the light. Love freely those you love. |
Hãy can đảm lên, huynh đệ của tôi, và đừng sợ hãi. Bản thân nỗi sợ đã tạo ra một loại ảo cảm, và loại ảo cảm đó che khuất ánh sáng. Hãy yêu thương thoải mái những ai em yêu mến. |
June 1936—Tháng 6 năm 1936
BROTHER OF MINE: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
There is little that I need to do or can do. Until “the sun moves northward,” your work is difficult and yet of so simple a nature (when put into words) that perhaps you may not regard it as of adequate importance. Yet I tell you with love and not a little concern that upon your achievement much rests—both to yourself and to the group. It might be of value if I touched here upon a question which oft arises in the minds of disciples working together in group formation and in a Master’s Ashram. Just how far does the progress or non-progress of any individual disciple help or hinder the group of disciples? Because of the [516] innate sincerity of the true disciple, the next question that arises is: Which do I do—help or hinder? Let me answer this last question in connection with you. You do not hinder. Your gentle nature and your loving unselfish attitude militate powerfully against what you yourself are inwardly recognising—a slowly growing spirit of criticism. You are deeply loved by your fellow disciples and the gentleness of your vibration—with its persistent note of service and of love—have an unconscious “holding” effect even upon those disciples in my group whom you do not personally know. I ask you to remember this. But you could help more definitely and consciously if you could free yourself from ties and begin to function in your home and in all your relationships as a true sannyasin. This I earlier pointed out to you. I called you definitely to the Path of the Sannyasin. But you are still only playing around the fringe of that idea. For you, it is a symbol of a detachment which you erroneously feel you cannot achieve. You under-rate yourself, my brother. You have a persistence which is undaunted and which has guided you from your early days until now. This persistence is the hall mark of the pledged disciple. Will you remember this? You have never wavered in your search for light and for a field in which to serve your soul and to evidence your devotion to humanity and to the Great Ones Who guide the destiny of the race of men—and Whom you truly love. |
Những điều tôi cần hoặc có thể làm cho em lúc này không nhiều. Cho đến khi “mặt trời di chuyển về phía bắc”, công việc của em sẽ khó khăn nhưng vẫn rất đơn giản (khi nói ra thành lời), thậm chí đơn giản đến mức em có thể không cảm nhận hết tầm quan trọng của nó. Tuy nhiên, tôi cần nói với em một cách đầy quan tâm và lo lắng rằng thành tựu của em sẽ đóng vai trò quan trọng—cả với bản thân em và với cả nhóm. Có lẽ sẽ hữu ích nếu tôi đề cập đến một câu hỏi thường xuất hiện trong tâm trí của các đệ tử cùng làm việc trong sự hình thành của nhóm và tại Ashram của một Chân sư. Sự tiến bộ hay không tiến bộ của bất kỳ đệ tử nào ảnh hưởng thế nào, tốt hay xấu, đến nhóm đệ tử nói chung? Bởi vì sự chân thành bẩm sinh [516] của người đệ tử chân chính, câu hỏi tiếp theo xuất hiện là: Tôi sẽ làm gì—giúp đỡ hay gây trở ngại? Hãy để tôi trả lời câu hỏi cuối cùng này trong mối liên hệ đến em. Em không phải là một trở ngại. Bản chất dịu dàng cùng với thái độ vị tha, hết lòng yêu thương của em tạo nên tác động mạnh mẽ chống lại điều mà chính em đang nhận ra trong nội tâm—một tinh thần hay chỉ trích âm ỉ lớn dần. Các bạn đồng môn yêu mến em sâu sắc, và sự nhẹ nhàng trong nguồn năng lượng của em—luôn giữ vững sự phụng sự và tình yêu thương—có tác dụng “níu giữ” ngay cả với những đệ tử trong nhóm của tôi mà em không quen biết cá nhân. Tôi mong em luôn ghi nhớ điều này. Tuy nhiên, em có thể giúp đỡ hữu hiệu và ý thức hơn nếu em có thể giải phóng bản thân khỏi những ràng buộc, bắt đầu vận hành cuộc sống tại gia và trong mọi mối quan hệ của em như một sannyasin chân chính. Tôi đã chỉ ra điều này cho em trước đó. Tôi rõ ràng kêu gọi em bước lên Con đường Sannyasin. Nhưng có lẽ em vẫn còn mông lung về ý tưởng này. Đối với em, đó là biểu tượng của sự tách rời mà em nhầm tưởng rằng em không thể đạt được. Em đang đánh giá thấp bản thân mình, huynh đệ của tôi. Em có một sự kiên trì không gì lay chuyển, thứ đã dẫn dắt em từ ngày đầu tiên cho đến tận bây giờ. Sự kiên trì này là dấu ấn của một đệ tử đã thệ nguyện. Em có ghi nhớ điều này không? Em chưa bao giờ dao động trong cuộc tìm kiếm ánh sáng và một lĩnh vực để phụng sự linh hồn của em, và để thể hiện lòng tận tụy của em đối với nhân loại cũng như các Đấng vĩ đại, những người dẫn dắt vận mệnh của nhân loại—và là Đấng mà em chân thành kính yêu. |
You have also an inner recognition of truth and of the Plan which is far greater than you suspect and which we tested out years ago. You have steadily held to the Path and to the work which we sought to have done, and have aided where you could and have stood loyally by those who have sought to do our work. The same undaunted persistence demonstrates thus and will continue to do so. What then lacks? Undoubtedly something lacks and you would be the first to say so. |
Em cũng có một nhận thức nội tại về chân lý và Thiên Cơ lớn lao hơn nhiều so với em nghi ngờ, và điều mà chúng tôi đã thử thách trong em nhiều năm trước. Em đã kiên định vững vàng trên Con đường và với công việc mà chúng tôi hướng cho em đảm nhận, và đã hỗ trợ ở bất cứ nơi nào em có thể, trung thành sát cánh cùng những ai làm việc cho chúng tôi. Cùng một ý chí kiên trì ấy vẫn được thể hiện và sẽ tiếp tục như vậy. Vậy thì còn thiếu gì nữa? Không nghi ngờ gì, vẫn còn thiếu một điều gì đó, mà em sẽ là người đầu tiên lên tiếng xác nhận. |
What lacks is something most simple to state and most difficult to express. This lack almost constitutes your Waterloo[LK1] , to use a current phrase. It is simply the failure to be detached. You tie yourself to those you love and oft the clinging hands of love can hinder progress—not only our own but also that of those we love. Do you realise that? As you live and love those in your immediate environment, do you ever ask yourself the [517] question: Am I strengthening them as souls to handle life and serve? |
Điều còn thiếu thật ra rất đơn giản khi nói ra nhưng cực kỳ khó để diễn đạt. Sự thiếu sót này hầu như tạo thành trận chiến Waterloo của em, nếu tôi sử dụng một cụm từ hiện đại. Nó đơn giản chỉ là sự thất bại trong việc duy trì trạng thái tách rời. Em cột chặt bản thân vào những người em yêu thương, và những bàn tay bám víu của tình yêu thương đó có thể cản trở tiến bộ—không chỉ của em, mà cả của chính những người chúng tôi yêu mến. Em có nhận ra điều đó không? Khi em sống và yêu thương những người ở gần bên em, em có bao giờ tự hỏi bản thân [517] câu hỏi sau: Mình có đang tiếp thêm sức mạnh cho họ, với tư cách họ là các linh hồn, để có thể ứng phó với cuộc sống và phụng sự? |
Again, you tie yourself to certain people by thoughtforms of depression and of suspicion. Do you not, my brother? More than you think are their number. These are, however, less hindering to your progress than your absorption in those you love, because they are well known to you and you are consistently struggling with them. It is your love, your clinging possessive love for those you have gathered close around you in the karmic process of life, that hinders your loving them in the strong, true way…. I ask you to love more truly. Your strength and detachment have never yet been used. I ask you not to cease from loving but I ask you to love as a soul and less as a personality. As you read this, your inner truthful nature will respond. Your problem, let me repeat, is detachment. You are beginning to learn it. What makes your lesson doubly hard is the lack of a major activity and a dynamic interest which would engross your full attention. This, however, is your problem to be solved in some way, if you, as a soul, can take hold of your personality in a new and vital manner. |
Thêm nữa, em tự ràng buộc mình với những người nhất định thông qua các hình tư tưởng của sự chán nản và nghi ngờ. Đúng không, huynh đệ của tôi? Số lượng những hình tư tưởng này nhiều hơn em tưởng. Tuy nhiên, chúng ít cản trở sự tiến bộ của em hơn là sự đắm chìm của em trong những người em yêu, bởi vì em hiểu rõ về họ và đang không ngừng đấu tranh loại bỏ họ. Chính là tình thương của em, tình thương sở hữu, bám víu dành cho những người em đã gom lại xung quanh mình trong quá trình nhân quả của cuộc sống, đang cản trở em yêu họ một cách mạnh mẽ và chân chính…. Tôi yêu cầu em hãy yêu thương chân thật hơn. Sức mạnh và sự tách rời của em chưa bao giờ được sử dụng. Tôi không mong em ngừng yêu thương mà mong em yêu thương như một linh hồn, giảm bớt sự yêu thương như một phàm ngã. Đọc đến đây, bản chất chân thật bên trong em sẽ lên tiếng. Vấn đề của em, cho tôi nhắc lại, là sự tách rời. Em đang bắt đầu học hỏi điều đó. Điều khiến bài học của em càng thêm khó khăn gấp bội là sự thiếu vắng một hoạt động chính và một mối quan tâm sôi nổi, thứ cần chiếm trọn sự chú ý của em. Tuy nhiên, đây chính là vấn đề của em cần phải tìm cách giải quyết, nếu em, với vai trò một linh hồn, có thể nắm quyền kiểm soát phàm ngã của mình một cách mới mẻ và đầy sức sống. |
I can but give you a word and one hint: Let not your physical body dictate to you. Physical disability is the refuge sometimes of those who feel that their lives do not provide them with that which they desire, or it is the refuge of those who feel that they have failed upon the Way. |
Tôi chỉ có thể cho em một lời và gợi ý: Đừng để cơ thể vật chất sai khiến em. Cơ thể tàn tật đôi khi là nơi ẩn náu của những người cảm thấy cuộc sống không cung cấp cho họ điều họ mong muốn, hoặc đó là nơi ẩn náu của những người cảm thấy họ đã thất bại trên Con đường. |
You have not failed, my brother. I repeat this to you: You have not failed, and I know whereof I speak. Those of us who function with full vision on the inner side of life see the equipment and the karma, the struggle and the destiny in a way that is not possible to you. But I do say to you that the remaining years of your life can be a gradual drifting into a comparative uselessness—the uselessness of a fruitless old age—or they can climax the career of a free soul, whose wisdom, service and selfless love can be the means of bringing inspiration to many souls throughout the world. You can now— if you so choose —capitalise upon the garnered fruits of a life of constant orientation towards the light and demonstrate the wisdom which comes from having been the onlooker, the student and the servant for so long. Will you not become more actively the participator [518] and the active cooperator? One thing only can prevent this—not ill health or circumstances—but a failure to be detached. Will you follow each day (not necessarily at night) a review upon detachment and will you do it conscientiously in the holy and silent place which we call your garden? My love and blessing rest upon you, my brother. This is a thing I say but seldom. |
Em chưa hề thất bại, hỡi huynh đệ của tôi. Tôi nhắc lại với em: Em không hề thất bại, và tôi biết chắc những gì tôi đang nói. Những người chúng tôi, những người hoạt động với tầm nhìn trọn vẹn ở cõi bên trong, có thể thấy được trang bị và nghiệp quả, sự đấu tranh và định mệnh theo cách mà em không thể. Tuy nhiên, tôi khẳng định với em rằng những năm còn lại của cuộc đời em có thể sẽ là một quá trình trôi dạt dần về sự vô dụng tương đối—sự vô dụng của tuổi già không mang lại thành quả—hoặc những năm này có thể đưa sự nghiệp của một linh hồn tự do lên đến đỉnh cao, mà sự thông thái, phụng sự, và tình thương vị tha của y có thể trở thành suối nguồn cảm hứng cho nhiều linh hồn trên khắp thế giới. Lúc này em có thể—nếu em chọn như vậy—thu được thành quả từ một cuộc sống không ngừng định hướng về phía ánh sáng, và biểu hiện sự thông thái đến từ việc đã dành rất lâu với vai trò người quan sát, người học hỏi, và người phụng sự. Liệu em sẽ không trở nên tích cực hơn với vai trò người tham gia [518] và người hợp tác chủ động? Chỉ một điều duy nhất có thể ngăn cản điều này—không phải sức khỏe yếu hay hoàn cảnh khó khăn—mà là sự thất bại trong việc duy trì trạng thái tách rời. Liệu mỗi ngày em có dành thời gian (không nhất thiết phải vào ban đêm) để xem xét kỹ càng về sự tách rời, và em sẽ thực hành nó một cách tận tâm trong nơi yên tĩnh và linh thiêng mà chúng ta gọi là khu vườn của em? Tình yêu thương và sự chúc phúc của tôi luôn ở bên em, huynh đệ của tôi. Đây là điều tôi hiếm khi nói. |
January 1937—Tháng 1 năm 1937
MY BROTHER AND MY FRIEND: |
HUYNH ĐỆ VÀ NGƯỜI BẠN CỦA TÔI: |
For you (as for R.S.U.) I have at this time a word of commendation and a word of reproof. It is a reproof of so gentle a nature that you will not mind. You have done much to dissipate glamour in your life this past two years, more than perhaps you realise. We, who look at all of you from the inner side, can symbolically gauge this fact more easily than you because (as we seek out a soul) we are in a position to note what is occultly called “the depth of his immersion.” You are now more easily “discovered and disclosed” to the watching eyes of all of us and this is due entirely to your own effort and to the growing potency of this group of disciples. You are not so deeply immersed in the fogs of glamour though you are still held back by fear—not fear for yourself but needless fears for those you love. You do not, therefore, see them, the problems which they face, or their individual paths of destiny with clarity; this, as you may well surmise, prevents your being as spiritually useful to them as you might be. The usefulness of disciples to those who are linked karmically to them and for whom they feel—rightly or wrongly—a sense of responsibility shifts from stage to stage with growth. One’s physical care for one’s loved ones may and must persist in some measure, though a mother’s care for a child cannot persist into adult years. There may be a responsibility which one chooses to shoulder (again rightly or wrongly), but it must not offset or undermine any responsibility which it should be theirs to shoulder. One’s mental assistance should be always available but it should not be given when one’s mind is bewildered by the fogs of questioning and doubt or when there is a spirit of criticism. One’s spiritual responsibility is, curiously enough, usually the last to be recognised; [519] and action taken on that recognition is equally slow. Yet, in the last analysis, it is by far the most important, for one’s spiritual influence can be lasting and can carry with it releasing power to those we love, whereas the other responsibilities—being those of personality relationships—always carry with them glamour and that which is not of the kingdom of the spirit. |
Với em (cũng như R.S.U.) lần này, tôi dành cho em một lời khen ngợi và một lời khiển trách. Lời khiển trách này nhẹ nhàng đến mức em sẽ không cảm thấy phiền lòng. Trong hai năm qua, em đã làm được nhiều điều để xua tan ảo cảm trong cuộc sống của mình, nhiều hơn cả những gì em có thể nhận ra. Chúng tôi, những người quan sát tất cả các em từ cõi bên trong, có thể đánh giá thực tế này một cách tượng trưng dễ dàng hơn em, bởi vì (khi tìm kiếm một linh hồn) chúng tôi đang ở một vị trí thuận lợi để ghi nhận điều được gọi một cách huyền bí là “độ sâu của sự chìm đắm.” Hiện tại, em dễ dàng được “phát hiện và bộc lộ” hơn trước mắt quan sát của tất cả chúng tôi, và điều này hoàn toàn là nhờ vào nỗ lực của chính em và sức mạnh đang tăng trưởng của nhóm đệ tử này. Em không còn đắm chìm sâu trong sương mù ảo cảm, dù em vẫn bị kìm hãm bởi nỗi sợ hãi—không phải nỗi sợ cho bản thân mà là những nỗi sợ không đáng có đối với những người em yêu thương. Do đó, em không thể nhìn thấy họ, những vấn đề họ đối mặt, hay con đường định mệnh riêng của họ một cách rõ ràng; điều này, như em có thể phỏng đoán, ngăn cản em mang đến sự trợ giúp tinh thần cho họ một cách tốt nhất có thể. Sự hữu ích của các đệ tử đối với những người gắn kết với họ bởi nghiệp quả, và những ai khơi gợi trong họ—một cách đúng đắn hoặc sai lầm—cảm giác trách nhiệm, thay đổi không ngừng theo từng giai đoạn trưởng thành. Việc chăm sóc về mặt thể chất cho những người thân yêu có thể và cần phải được duy trì ở một mức độ nào đó, mặc dù tình yêu thương của một người mẹ dành cho con mình không thể kéo dài đến khi đứa trẻ trưởng thành. Có thể tồn tại một trách nhiệm mà người ta chọn gánh vác (một lần nữa, đúng hoặc sai), nhưng nó không được phép hóa giải hoặc hủy hoại bất kỳ trách nhiệm nào thuộc về bản thân người kia phải đảm đương. Sự trợ giúp về mặt trí tuệ của người đệ tử cần luôn sẵn có, nhưng không nên được đưa ra khi tâm trí y đang hoang mang bởi sương mù của sự đặt câu hỏi và nghi ngờ, hoặc khi có sự hiện hữu của tinh thần chỉ trích. Khá thú vị là, trách nhiệm tinh thần của một người thường là điều cuối cùng được nhận thức; [519] và hành động dựa trên sự nhận thức đó thì lại càng chậm chạp. Tuy nhiên, xét đến cùng, đây là điều quan trọng nhất, bởi vì ảnh hưởng tinh thần của một người có thể lâu bền và mang theo sức mạnh giải thoát cho những người chúng ta yêu thương, trong khi các trách nhiệm khác—những trách nhiệm thuộc về mối quan hệ phàm ngã—luôn mang theo ảo cảm và những gì không thuộc về giới tinh thần. |
For the remaining years of your life lay the emphasis upon your spiritual responsibilities and your spiritual effect upon all you contact, or with whom your lot is cast. Work ever along the line of soul contact, leading to soul release and to the soul activity of those you love, and e’en of those you may not love! Thus you will begin to work on and from spiritual levels and your potency as a worker will silently increase. This will in no way negate your right usefulness on planes other and lower than the spiritual. |
Trong những năm còn lại của cuộc đời, hãy nhấn mạnh vào trách nhiệm tinh thần và ảnh hưởng tinh thần của em đối với tất cả những ai em tiếp xúc, hoặc những người có số phận giao kết với em. Luôn làm việc theo đường hướng tiếp cận với linh hồn, dẫn đến sự giải phóng linh hồn và hoạt động linh hồn của những người em yêu thương, và kể cả những người em không yêu thương! Bằng cách này, em sẽ bắt đầu làm việc ở các cõi tinh thần và từ các cõi tinh thần, sức mạnh của em với vai trò một người phụng sự sẽ tăng trưởng một cách âm thầm. Điều này sẽ không phủ nhận sự hữu ích đúng đắn của em trên những cõi khác, những cõi thấp hơn cõi tinh thần. |
You are learning fast, my brother, and can break through to a deepened and more realised knowledge if you can train yourself in detachment from personality activity with its unwise speech or silences, its criticisms or its bolstering of that which is undesirable in others and its moments of agonised indecision, based on a fear which—in your case—is ever that of and for the personality aspect. This is apt to sweep you into unwise action or words, and prevent your following of the light and the service which appear so clearly to your vision in your high moments. Is this not so, my brother? But this is all that I have of the nature of reproof and it is tempered by a just need of recognition for true past achievement and for your unfaltering aspiration and steadfast service. |
Em đang học hỏi nhanh chóng, huynh đệ của tôi, và có thể đạt đến một tri thức sâu sắc hơn, được nhận thức trọn vẹn hơn nếu em có thể rèn luyện bản thân trong sự tách rời khỏi những hoạt động của phàm ngã, với những lời nói hoặc sự im lặng thiếu khôn ngoan của nó, những chỉ trích hoặc sự củng cố những điều không mong muốn ở người khác, cũng như những khoảnh khắc của sự lưỡng lự đau đớn, bắt nguồn từ nỗi sợ hãi mà—trong trường hợp của em—luôn là nỗi sợ của và vì khía cạnh phàm ngã. Thói quen này rất dễ đẩy em vào hành động và lời nói thiếu khôn ngoan, và ngăn cản em đi theo ánh sáng và sự phụng sự vốn xuất hiện quá rõ ràng trước mắt em trong những khoảnh khắc cao cả. Có đúng vậy không, huynh đệ của tôi? Nhưng đây là tất cả những gì tôi có cho phần khiển trách, và nó được làm dịu đi bởi nhu cầu đúng đắn trong việc ghi nhận những thành tựu trong quá khứ, cùng khát vọng vững vàng và sự phụng sự kiên định của em. |
For you the group meditation is peculiarly suited and useful; it brings the strength to you that is needed and serves to clear both your vision and your path. Adhere, therefore, to it with closeness and attention…. And, my brother, follow the occult exercises indicated and return again to your garden which still can be found—serene and fair—within the world of thought. The summit of its tower pierces the world of souls and, when you mount the steps which lead there, you will find yourself in the realm of clear vision, wide wisdom and universal love. |
Tham thiền nhóm đặc biệt phù hợp và hữu ích đối với em; nó mang lại sức mạnh cần thiết cho em, đồng thời giúp khai thông cả tầm nhìn và con đường của em. Do đó, hãy duy trì nó với sự chú tâm và cẩn trọng…. Và, huynh đệ của tôi, hãy thực hành các bài tập huyền linh đã được chỉ dẫn, và quay trở lại với khu vườn, nơi vẫn có thể được tìm thấy tĩnh lặng và tươi đẹp—trong thế giới của tư tưởng. Đỉnh ngọn tháp vươn xuyên qua thế giới linh hồn, và khi em bước lên những bậc thang dẫn lên đó, em sẽ tìm thấy mình ở cõi của tầm nhìn trong suốt, trí tuệ rộng lớn, và tình yêu thương bao la. |
Stand with steadfastness during this coming year and stand detached. Let not the lesser voices crowd out the voice of your [520] soul or my voice. Keep the channel clear. This is my final word to you: Keep the channel clear. If you will do this, then the decisions of moment which may come your way will be faced in the light of the soul and clear, prompt action supervene with good results. The advice which you may be called upon to give will not then be based on fear or any weakness of personality love but will carry the triumphant note of the soul who knows. Break through, my brother, from the trammels of the past and be the true sannyasin, desiring nothing for the separated self, and carrying that true selflessness—which you have ever evidenced—to the heights of full surrender. |
Hãy đứng vững vàng trong năm tới và đứng trong trạng thái tách rời. Đừng để những tiếng nói tầm thường lấn át đi tiếng nói của linh hồn em [520] hay tiếng nói của tôi. Giữ cho kênh liên lạc này luôn thông suốt. Đây là lời cuối cùng của tôi dành cho em: Giữ kênh liên lạc thông suốt. Nếu em làm được điều này, thì những quyết định quan trọng mà em có thể sẽ gặp phải trên đường đời sẽ được thực hiện dưới ánh sáng của linh hồn, và hành động rõ ràng, kịp thời sẽ xuất hiện, mang theo những kết quả tốt đẹp. Lời khuyên mà em có thể được kêu gọi để đưa ra sẽ không còn dựa trên nỗi sợ hãi hay bất kỳ yếu đuối nào của tình thương phàm ngã, mà sẽ mang theo âm hưởng chiến thắng của linh hồn hiểu biết. Huynh đệ của tôi ơi, hãy thoát ra khỏi những ràng buộc của quá khứ và trở thành một sannyasin chân chính, không mong cầu gì cho cái tôi tách biệt, mang theo sự vị tha thực sự—mà em đã luôn thể hiện—lên đỉnh cao của sự đầu hàng toàn vẹn. |
July 1937—Tháng 7 năm 1937
MY BROTHER AND FAITHFUL FRIEND: |
HUYNH ĐỆ VÀ NGƯỜI BẠN TRUNG THÀNH CỦA TÔI: |
How can I put your problem to you so clearly that you will accept the stated facts and live by them? In no way, except by giving you information, suggesting to you that you act upon it and wait for the results, acting with the intelligence which outstandingly is yours and the persistence you have shown throughout this life. |
Làm sao tôi có thể diễn đạt vấn đề của em một cách rõ ràng nhất để em chấp nhận sự thật đã được nói ra và sống theo đó? Không cách nào khác, ngoài việc cung cấp thông tin cho em, đề nghị em hành động theo đó và chờ đợi kết quả, hành động với sự thông minh nổi bật vốn là của em và sự kiên trì em đã thể hiện trong suốt cuộc đời này. |
Your mental body is on the fifth ray and, therefore, you have an intensely analytical mind. I would, however, remind you that you are analytical but not discriminating. Ponder on this distinction. |
Thể trí của em thuộc cung năm, và do đó, em có một thể trí phân tích cực kỳ mạnh mẽ. Tuy nhiên, tôi muốn nhắc em rằng em có khả năng phân tích nhưng chưa có khả năng phân biện. Hãy suy ngẫm về sự khác biệt này. |
Your astral body is governed by the sixth ray and is as yet largely subservient to the will of the personality. This leads you to devote yourself to your personality surroundings and to the conditions which karmically you have evoked. |
Thể cảm xúc của em bị chi phối bởi cung sáu và phần lớn vẫn còn bị khuất phục bởi ý chí của phàm ngã. Điều này khiến em cống hiến bản thân cho môi trường xung quanh mình, và cho những hoàn cảnh mà chính em đã khơi gợi về mặt nghiệp quả. |
Your physical body is also on the sixth ray which makes it—and, therefore, your brain—predominantly the servant of your astral body but it also makes you intuitive or astral-buddhic. Therefore, I would have you note that, in your case, there is an exception to the usual rule controlling the physical body, for very few physical bodies are on the sixth ray, as is yours. |
Thể xác của em cũng thuộc cung sáu, điều này khiến cho nó—và từ đó là bộ não của em—trở thành đầy tớ chủ yếu cho thể cảm xúc, nhưng nó cũng làm cho em trở nên có trực giác và có tâm thức cảm dục-bồ đề. Do đó, tôi muốn em lưu ý rằng, trong trường hợp của em, có một ngoại lệ đối với quy luật thông thường chi phối thể xác, bởi vì rất ít thể xác thuộc cung sáu, như của em. |
1. The soul ray—the second Ray of Love-Wisdom. |
1. Cung linh hồn—Cung hai của Bác Ái – Minh Triết. |
2. The personality ray—the sixth Ray of Devotion. |
2. Cung phàm ngã—Cung sáu của Sùng tín. |
3. The ray of the mind—the fifth Ray of Concrete Science. [521] |
3. Cung trí tuệ—Cung năm của Khoa học cụ thể. [521] |
4. The ray of the astral body—the sixth Ray of Devotion. |
4. Cung cảm xúc—Cung sáu của Sùng tín |
5. The ray of the physical body—the sixth Ray of Devotion. |
5. Cung thể xác—Cung sáu của Sùng tín. |
It will be clear to you, therefore, that much of your problem can be summed up by the recognition of the relation existing between the personality, the astral body and the physical body. The physical body and the astral body are, therefore, automatically the servants of the personality. Yet the relation between the sixth and the second rays is so close that the problem of your soul is not insuperable in this life. |
Do đó, sẽ rõ ràng với em rằng phần lớn vấn đề có thể được tóm tắt bằng việc nhận ra mối quan hệ tồn tại giữa phàm ngã, thể cảm xúc và thể xác. Vì vậy, thể xác và thể cảm xúc tự động trở thành đầy tớ của phàm ngã. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa cung sáu và cung hai gần gũi đến mức vấn đề của linh hồn em không phải là điều không thể vượt qua trong kiếp sống này. |
January 1938—Tháng 1 năm 1938
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
The past few months have seen the working out of much inner tension. This has materialised upon the physical plane as a sense of real fatigue and has climaxed in a period of illness. But—when inner causes have spent themselves in physical effects—there then follows a period of liberation and of adjustment. My word for you is, therefore: Let not the inner tension resume its sway. You might at this point rightly ask: How shall I prevent this happening? By remembering, my brother, that though the environing conditions may remain relatively the same, you yourself are not the same. You have arrived at a new measure of detached freedom and to this freedom you now must hold. The dominant note which should rule your life during the next few months is to stand steadily in spiritual realisation. This will necessarily involve a close watchfulness over the personality. You will have to see that old thoughtforms of fear and of worry do not resume their ancient sway and that old emotional reactions are not permitted to take form. Note how I have worded this injunction. |
Vài tháng vừa qua đã chứng kiến sự giải tỏa rất nhiều căng thẳng bên trong. Điều này đã hiện thực hóa trên cõi trần dưới dạng cảm giác mệt mỏi thực sự và lên đến đỉnh điểm trong một giai đoạn bệnh tật. Nhưng—khi các nguyên nhân nội tâm đã cạn kiệt trong những hiệu ứng vật lý—sau đó sẽ tự khắc đến một giai đoạn giải phóng và điều chỉnh. Vì vậy, lời nhắn nhủ của tôi cho em là: Đừng để căng thẳng nội tâm lấy lại sự thống trị. Lúc này, em có quyền đặt câu hỏi: Làm sao tôi ngăn cản điều này xảy ra? Hỡi huynh đệ của tôi, bằng cách ghi nhớ rằng dù các điều kiện xung quanh có thể tương đối như cũ, chính bản thân em không còn như xưa. Em đã đạt được một mức độ tự do mới mẻ của sự tách rời, và đây là sự tự do mà bây giờ em phải nắm giữ. Chủ âm nên chi phối cuộc sống của em trong một vài tháng tới là đứng vững trong nhận thức tinh thần. Điều này buộc em phải giám sát chặt chẽ phàm ngã. Em sẽ phải để ý rằng các hình tư tưởng cũ về nỗi sợ hãi và lo âu không giành lại được quyền kiểm soát như xưa, và rằng các phản ứng cảm xúc cũ không được phép hình thành. Hãy để ý cách tôi diễn đạt mệnh lệnh này. |
Stand as the soul and (as a constant habit of life) develop the attitude of recognising your own divinity in daily expression. A close watchfulness over the first faint tendency to swing into the old rhythm will be necessary, coupled with a sane and immediate handling of old forms of weakness. For you the word, “substitution,” may prove of real help, enabling you to substitute a fresh and vital interest in the place of the old emerging ideas; and to substitute a definite physical plane [522] activity in the place of emotional crisis; and to discipline your lower life into ways of joy and of happy activity. Joy would prove for you a major healing factor. |
Hãy đứng vững như linh hồn và (như một thói quen bền vững trong cuộc sống) phát triển thái độ thừa nhận thiên tính của chính em trong biểu hiện hằng ngày. Em sẽ cần sự cảnh giác chặt chẽ đối với khuynh hướng mong manh đầu tiên muốn lao vào nhịp điệu cũ, kết hợp với sự xử lý tỉnh táo và tức thời trước các dạng yếu đuối cũ. Đối với em, từ ngữ “thay thế” có thể hữu ích thực sự, cho phép em thay thế một mối quan tâm mới mẻ và đầy sức sống vào vị trí của các ý tưởng cũ đang nổi lên; và thay thế một hoạt động thực tế [522] trên cõi trần vào vị trí của cơn khủng hoảng cảm xúc; đồng thời điều chỉnh cuộc sống hạ đẳng của em đi vào con đường vui vẻ và hoạt động tích cực. Sự vui vẻ sẽ chứng tỏ là một yếu tố chữa lành chủ yếu cho em. |
For years, my brother, I have referred frequently to your garden of beauty. First of all, I had to lead you to create it; later I taught you to perfect it and then to use it. I taught you also how to dedicate it and to turn it into a shrine of consecration and connect it in your mind with the thought of service. That which is thus created and used, exists. Today I would like to tell you that on the inner planes your garden is of service to my group of disciples and to others—in larger numbers than you think. It is a place of gathering for many and a place of refuge for a few. Ponder on this and continue your task of beautifying it. Remember ever, that those who seek its loveliness come not only for the garden but also come in order to contact you who, upon the inner side, appears other than you fancy yourself to be in physical incarnation. |
Trong nhiều năm, huynh đệ của tôi, tôi thường xuyên đề cập đến khu vườn xinh đẹp của em. Đầu tiên, tôi phải hướng dẫn em để tạo ra nó; tiếp đến, tôi dạy em cách làm cho nó hoàn hảo rồi cách sử dụng nó. Tôi cũng đã dạy em cách cung hiến nó, biến nó thành một thánh điện, kết nối nó trong trí của em với ý tưởng về sự phụng sự. Những gì được tạo ra và sử dụng như vậy, đều tồn tại. Hôm nay, tôi muốn nói với em rằng trên các cõi bên trong, khu vườn của em đang phụng sự nhóm đệ tử của tôi và những người khác—với số lượng nhiều hơn em nghĩ. Đó là nơi hội tụ cho nhiều người và là nơi ẩn náu cho một số khác. Hãy suy ngẫm về điều này và tiếp tục nhiệm vụ làm đẹp khu vườn của em. Hãy luôn nhớ rằng, những ai tìm đến vẻ đẹp của nó không chỉ đến vì khu vườn mà còn đến để liên lạc với em, người mà ở phía nội tâm, thực ra rất khác với những gì em hình dung về bản thân trong kiếp sống thể xác. |
Now there remains for you to make for others a garden of your life upon the physical plane. Much you have learned during the past years and though old rhythms and thought habits often draw you back outside your garden of peace, you find your way there again with greater speed. You do not wander quite so often into the mazes of worry and into the foggy lowlands of glamour. |
Bây giờ, điều để em thực hiện là tạo ra cho những người khác một khu vườn từ chính cuộc sống của mình trên cõi trần. Em đã học hỏi được nhiều trong những năm qua, và dù các nhịp điệu và thói quen tư duy cũ thường kéo em ra khỏi khu vườn bình an, em lại tìm đường quay trở về đó với tốc độ nhanh hơn. Em không còn thường xuyên lạc lối vào mê cung lo lắng và các vùng đất thấp đầy sương mù ảo cảm. |
See to it that during the next nine months you preserve an attitude of spiritual indifference or of divine carelessness and emotional detachment. Upon these three words—particularly the first two—I would beg you earnestly to ponder. Stand in your garden but when there comes the urge to venture forth upon an errand of concern, of anxiety or to satisfy suspicion, treat it with indifference and care not what may eventuate. Naught can occur that can really shatter your achieved balance. Know this. |
Hãy đảm bảo rằng trong chín tháng tới, em duy trì một thái độ điềm nhiên tinh thần hay sự vô tâm thiêng liêng cùng sự tách rời cảm xúc. Tôi tha thiết xin em suy ngẫm thật nghiêm túc về ba từ này—đặc biệt là hai từ đầu tiên. Hãy đứng vững trong khu vườn của em, nhưng khi nỗi thôi thúc muốn dấn thân vào một việc khiến em lo lắng, bất an, hay muốn thỏa mãn nghi ngờ xuất hiện, hãy đối xử với nó bằng sự điềm nhiên và không bận tâm đến kết quả có thể xảy ra. Không điều gì có thể xảy đến để thực sự làm vỡ tan sự quân bình em đã đạt được. Hãy hiểu điều này. |
Stand as a centre of strength to all you meet and cast not my suggestion aside because your personality rejects the possibility of achievement. Upon the inner planes you have achieved; upon the outer plane today see that that achievement is also demonstrated. From the place wherein your physical plane life is lived, let there go forth that which can heal and [523] bless. Nothing can stop this blessing; it speeds forth upon the wings of detachment and from a heart that has no care for itself; it goes upon its mission because you have learned to trust the souls of those with whom your lot is cast…. |
Hãy đứng vững như một trung tâm sức mạnh cho tất cả những ai em gặp, và đừng gạt bỏ đề nghị của tôi sang một bên bởi vì phàm ngã của em chối bỏ khả năng thành tựu này. Ở các cõi bên trong, em đã đạt được thành tựu; hôm nay, trên cõi trần gian, hãy đảm bảo rằng thành tựu đó cũng được thể hiện. Từ nơi cuộc sống trên cõi trần của em đang diễn ra, hãy để cho những năng lượng chữa lành và ban phước [523] được tuôn chảy. Không gì có thể ngăn cản sự ban phước này; nó sẽ phóng đi nhanh chóng trên đôi cánh của sự tách rời, và từ một trái tim không còn quan tâm đến bản thân; nó thực hiện sứ mệnh của mình bởi vì em đã học cách tin tưởng vào linh hồn của những người mà em gắn kết số phận…. |
I will give you the following eight sentences as seed thoughts for your meditation and would ask you to ponder them with care during the next eight months: |
Tôi sẽ cho em tám câu sau đây như những hạt giống tư tưởng để em tham thiền, và tôi yêu cầu em suy ngẫm kỹ lưỡng về chúng trong tám tháng tới: |
1st month—Upon my tower I stand and naught can reach me here. Thus to the work which comes my way I dedicate myself. |
Tháng 1—Trên ngọn tháp của tôi, tôi đứng vững và chẳng gì có thể chạm tới tôi nơi đây. Tôi tự hiến mình cho công việc đến với tôi. |
2nd month—Only my soul can reach the point of strength whereon I stand and to my soul that way is always open. To the task my soul assigns, I dedicate myself. |
Tháng 2—Chỉ có linh hồn tôi mới có thể chạm đến điểm sức mạnh nơi tôi đang đứng, và con đường đó luôn rộng mở cho linh hồn tôi. Tôi tự hiến mình cho nhiệm vụ được linh hồn giao phó. |
3rd month—From the high point I oft come down and walk the ways of life and beauty with my brothers. To the task of helping them I dedicate myself. |
Tháng 3—Từ điểm cao vời, tôi thường xuyên bước xuống để cùng với các huynh đệ đi trên những con đường của đời sống và vẻ đẹp. Tôi tự hiến mình cho nhiệm vụ giúp đỡ họ. |
4th month—The radiance of love I seek to shower on all I meet and to this life of radiant love, I dedicate myself. |
Tháng 4—Tôi tìm cách tuôn đổ ánh sáng rạng ngời của tình thương lên tất cả những ai tôi gặp và tôi hiến dâng bản thân cho cuộc sống với tình thương rạng ngời này. |
5th month—With carelessness divine, I face my daily life, knowing that all is well. To the aid of those I serve, the Masters of the Way, I dedicate myself. |
Tháng 5—Với sự vô tâm thiêng liêng, tôi đối mặt với cuộc sống hằng ngày của mình, biết rằng mọi sự đều ổn thỏa. Tôi hiến dâng bản thân để hỗ trợ những người tôi phụng sự, các Chân sư của Thánh đạo. |
6th month—With true divine indifference I shoulder every load that comes my way, for naught can touch my soul. To manifest this confidence, I dedicate myself. |
Tháng 6—Với sự điềm nhiên thiêng liêng chân chính, tôi gánh vác mọi trách nhiệm đến với mình, bởi vì không gì có thể chạm đến linh hồn tôi. Tôi hiến dâng bản thân để biểu lộ sự tự tin này. |
7th month—Those who are given to me to love, upon the ways of life, I love and serve. I gaze upon them free from fear. To strengthen them within their souls, I dedicate myself. |
Tháng 7—Những người được trao cho tôi để yêu thương, trên những con đường của đời sống, tôi yêu thương và phụng sự. Tôi nhìn họ với đôi mắt không sợ hãi. Tôi hiến dâng bản thân để tiếp thêm sức mạnh cho họ trong linh hồn họ. |
8th month—Upon my tower, in the high place of vision, now I stand and from that point I live and love and work. To this high destiny I dedicate myself. |
Tháng 8—Trên tháp đài của mình, ở nơi cao vời của tầm nhìn, giờ đây tôi đứng vững và từ điểm đó, tôi sống, yêu thương, và làm việc. Tôi hiến dâng bản thân cho định mệnh cao cả này. |
If you can grasp the reality of the service and the usefulness of the service that you can render, you will have made much progress when next I instruct you. [524] |
Nếu em có thể nắm bắt được tính chân thực của sự phụng sự và tính hữu dụng của sự phụng sự mà em có thể mang lại, em sẽ đạt được tiến bộ lớn khi tôi hướng dẫn em lần sau. [524] |
January 1939—Tháng 1 năm 1939
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
You have made real progress. That is the first thing I wish to say to you. A little more clear thinking and acceptance of the facts which you know about yourself will set you free. Your problem is difficult. It is not based upon the difficulties of your life, for your life problem is not at all unusual—though you have given unusual attention to it. It is based upon the fact that you have a sixth ray personality, a sixth ray astral body and a sixth ray physical body. This constitutes a terrific combination of forces, but you assumed the responsibility of handling these forces in order to break the sixth ray hold which that type of energy has had on you for three lives in sequence. You have reached the age of sixty (or is it a little more, my brother?) and have not yet broken it. Therefore, your soul purpose has not yet been fulfilled. The differences between your attitude now and your attitude thirty years ago is that then you did not realise what it was all about and now you do. Then you had, in reality, no responsibility for you did not know the nature of the task to be done. But, through soul contact, you do know now what the problem is and your responsibility to do something definite is, consequently, heavy. The glamour of ties and relationships has held you for years. The personality umbilical cord still links you to your children and it should have been severed (and rightly severed) several years ago. It would have been of real benefit both to you and to them. This, you know well when the glamour of the responsibilities of motherhood is not upon you. You have to realise now that you have no such responsibility. |
Em đã đạt được tiến bộ thực sự. Đó là điều đầu tiên tôi muốn nói với em. Một chút suy nghĩ sáng suốt hơn nữa và việc chấp nhận những sự thật em biết về bản thân sẽ giúp em được giải phóng. Vấn đề của em rất khó. Nó không bắt nguồn từ những khó khăn trong cuộc sống, bởi vấn đề cuộc đời em không có gì khác thường—dù em đã dành sự quan tâm đặc biệt cho nó. Nó bắt nguồn từ sự thật rằng em có phàm ngã thuộc cung sáu, thể cảm xúc thuộc cung sáu, và thể xác thuộc cung sáu. Điều này tạo thành một sự kết hợp vô cùng mạnh mẽ của các mãnh lực, nhưng em đã đảm nhận trách nhiệm kiểm soát những mãnh lực này nhằm phá vỡ sự kiềm giữ của cung sáu, sự kiềm giữ mà loại năng lượng đó đã áp đặt lên em trong ba kiếp liên tiếp. Em đã đến tuổi sáu mươi (hay nhiều hơn một chút, huynh đệ của tôi?) và vẫn chưa phá vỡ được nó. Do đó, mục đích của linh hồn em vẫn chưa được thực hiện. Sự khác biệt giữa thái độ của em hiện tại và thái độ của em ba mươi năm trước là khi đó em không nhận ra toàn bộ vấn đề và bây giờ thì em đã nhận ra. Khi đó, trên thực tế, em không có trách nhiệm gì bởi vì em không biết bản chất của công việc cần phải thực hiện. Nhưng, thông qua sự tiếp xúc với linh hồn, bây giờ em đã biết vấn đề là gì và trách nhiệm của em trong việc thực hiện một điều gì đó cụ thể, do đó, trở nên nặng nề. Ảo cảm về những ràng buộc và mối quan hệ đã giữ chân em trong nhiều năm. Dây rốn phàm ngã vẫn kết nối em với con cái và đáng lẽ nó đã phải được cắt đứt (và cắt đứt một cách đúng đắn) nhiều năm trước. Điều đó sẽ mang lại lợi ích thực sự cho cả em và chúng. Điều này em hoàn toàn biết rõ khi ảo cảm về những trách nhiệm của tình mẫu tử không còn áp chế em. Giờ đây em cần nhận ra mình không hề có trách nhiệm đó. |
Forgive me for my plain speaking, my brother, but I seek to see you free before the time of passing over into the “clear cold light” comes to you. I know whereof you are capable. You are not using the power of your second ray soul which can love and sever at the same time; which can convey the deepest love, subjectively and protectingly, and yet—on the outer plane—can set people free. Let me repeat again: You have no responsibility for your children and never have had since they reached maturity and the right to live their own lives. You have earned the right to your own soul’s freedom and expression. [525] Will you take it now and free yourself, or will you muddle through the remainder of this incarnation and, in another life, have to face the identical problem of family relationships and financial responsibility? As yet, you have solved nothing but you have made progress and your eyes are open. Only fear, plus the deliberate refusal to take the strong and right steps, holds you back from a full participation in the service of humanity and in my work…. |
Hãy tha thứ cho tôi vì đã nói thẳng, huynh đệ của tôi, nhưng tôi mong muốn được thấy em giải thoát trước khi thời điểm em đi vào “ánh sáng lạnh và trong” đến với em. Tôi biết về năng lực của em. Em đang không sử dụng sức mạnh của linh hồn cung hai, nó có thể vừa yêu thương vừa cắt đứt cùng một lúc; nó có thể truyền tải tình thương sâu sắc nhất, một cách chủ quan và đầy chở che, nhưng—ở cõi trần—vẫn có thể giải phóng mọi người. Để tôi nhắc lại: Em không có trách nhiệm đối với con cái và chưa bao giờ có từ khi chúng trưởng thành và có quyền sống cuộc đời của riêng chúng. Em đã giành được quyền tự do và thể hiện linh hồn của mình. [525] Bây giờ em có nhận lấy nó và giải phóng bản thân, hay sẽ tiếp tục loay hoay trong phần còn lại của kiếp sống này, để rồi trong kiếp sau phải đối mặt với cùng một vấn đề về quan hệ gia đình và trách nhiệm tài chính? Cho đến nay, em vẫn chưa giải quyết được gì cả, tuy nhiên em đã đạt được tiến bộ và đôi mắt em đã mở ra. Chỉ có nỗi sợ hãi, cộng thêm sự cố tình từ chối thực hiện những bước đi mạnh mẽ và đúng đắn, đang ngăn cản em tham gia trọn vẹn vào công việc phụng sự nhân loại và công việc của tôi…. |
You have so much to give. I refer not here to money though that too must be included in the life offering of a disciple, at this time of world stress, I refer to greater and deeper gifts which you possess and are apt to refuse to recognise—a loving heart, a mind enriched by years of study and lives of service, and by a loyalty and a gift for friendship which is rare, indeed, to find. |
Em có rất nhiều thứ để cho đi. Ở đây tôi không ám chỉ tiền bạc, dù tiền bạc cũng phải được bao gồm trong sự dâng hiến cuộc sống của một đệ tử, trong thời điểm căng thẳng của thế giới hiện nay. Tôi muốn nói đến những món quà lớn lao và sâu sắc hơn mà em sở hữu và có xu hướng không nhận ra—một trái tim nhân hậu, một trí tuệ được làm giàu bởi nhiều năm học tập và những kiếp sống phụng sự, và cũng như bởi lòng trung thành và món quà dành cho tình bạn, điều thực sự hiếm có. |
Your soul contact is established and this is a fact upon which you can count. Devitalisation of your physical life is due to the cramping to which you have subjected yourself and your pronounced, inner, subjective withdrawal to the mental and astral worlds. You do not express the reality which you are, upon the physical plane. The thoughtforms which surround you drain you of vital force and yet, physically speaking, you have no organic trouble or disease. These thoughtforms sap your vitality and are definitely destructive—to yourself and to others. Of these thoughtforms there are three…. |
Sự tiếp xúc với linh hồn của em đã được thiết lập và đây là một sự thật mà em có thể dựa vào. Sự suy yếu cuộc sống thể chất của em là do tình trạng gò bó mà em đã tự áp đặt lên mình, cùng sự rút lui chủ quan, nội tâm sâu sắc vào các cõi trí và cõi cảm dục. Em không thể hiện bản chất thật sự của mình trên cõi trần. Các hình tư tưởng bao quanh em đang rút cạn sinh lực của em, ấy vậy mà xét về thể chất, em không có bệnh tật hay vấn đề về cơ quan nào cả. Các hình tư tưởng này đang làm hao mòn sức sống của em và chúng có tính hủy hoại rõ ràng—đối với bản thân em và những người khác. Có ba loại hình tư tưởng như vậy…. |
I am giving you a special exercise. Go into your garden twice a week and meet me there. Discover first of all the point within the garden which I have magnetised. At that spot within your garden, talk your problems aloud to me, pausing at intervals and listening for my replies or the replies of your soul. We shall speak when the silence of the outer life and of the personality has been achieved. Keep nothing back but talk aloud to me. Do this with a listening and attentive ear and, by the May Full Moon, you may find that we may have talked the matter out, the glamour may have dissipated, the thoughtforms be destroyed and the path shine clear before your eyes. |
Tôi giao cho em một bài tập đặc biệt. Hãy đi vào khu vườn của em hai lần một tuần và gặp tôi ở đó. Trước hết, hãy khám phá ra điểm bên trong khu vườn mà tôi đã từ hóa. Tại nơi đó, hãy nói thành tiếng với tôi về những vấn đề của em, dừng lại nghỉ sau mỗi đoạn nói, và lắng nghe những câu trả lời của tôi hoặc những câu trả lời của linh hồn em. Chúng ta sẽ nói chuyện khi sự tĩnh lặng của cuộc sống bên ngoài và của phàm ngã được thiết lập. Đừng che giấu điều gì mà hãy nói thành tiếng với tôi. Hãy thực hiện việc này với đôi tai biết lắng nghe và chú tâm, và đến Trăng Tròn tháng Năm, em có thể phát hiện ra rằng chúng ta đã nói chuyện thấu đáo, ảo cảm có thể tan biến, các hình tư tưởng có thể bị phá hủy, và con đường có thể hiện ra sáng rõ trước mắt em. |
May the rest and peace of consecration be yours, and my blessing rests upon you. It is not in appreciation of you that I take this time with you. Ancient karmic ties with me, your [526] Elder Brother, and the deep love which D.R.S. unchangingly bears for you are reasons adequate to me. Besides—my love is yours. We are on the same soul ray. |
Cầu mong sự an nghỉ và bình an của sự hiến dâng sẽ ở cùng em, cùng với lời chúc phúc của tôi. Không phải để cảm ơn em mà tôi đã dành thời gian này với em. Những mối liên kết duyên nghiệp cổ xưa giữa em và tôi, huynh trưởng của em, cùng tình yêu thương sâu sắc không đổi mà D.R.S. dành cho em là những lý do đủ thuyết phục đối với tôi. Bên cạnh đó—tình yêu thương của tôi thuộc về em. Chúng ta cùng chung cung linh hồn. [526] |
January 1940—Tháng 1 năm 1940
MY BROTHER: |
HUYNH ĐỆ CỦA TÔI: |
You have no particular glamour, for you live in a perfect sea of glamour. Hence the difficulty of your problem, for had you (for instance) one major glamour, as has D.E.I., it would be (for one of your devotion and mental capacity) a relatively easy thing to break down, and so walk in the light. But you have surrounded yourself with a myriad glamours of no great importance but, in their aggregate, they tend to make you walk continuously in a fog. You have the capacity to walk constantly in the light. Your glamours come to you from two sources. Your reactions to all life’s happenings and to your environment are those of a superficial fluidity; it is not basic or fundamental, for your life purpose is undeflectable (is there such a word, my brother?) and your life tendency is firmly and unchangeably oriented. But in dealing with circumstance and people, you are pre-occupied with the effect this may have upon you and with your failure to handle them as should a disciple. Your inferiority complex keeps you in a state of glamour and is purely a personality reaction. As a soul, you are strong in knowledge; as a soul, you love all beings; as a soul, there are no circumstances which you cannot handle; as a soul, you can dominate dynamically your environment. But the glamour of inferiority (which is the result of numerous little glamours) controls your life expression on the physical plane, plus the second glamour of physical disability. Upon that, I will not enlarge beyond pointing out that pre-occupation with the work you could do for us, carried down from the mental level of awareness (where you always truly live in spite of many excursions on to the astral plane!) to the physical plane would release you physically. |
Em không có loại ảo cảm đặc biệt nào cả, bởi vì em đang sống trong cả một đại dương ảo cảm. Do đó, vấn đề của em trở nên khó khăn; bởi vì nếu em chỉ có một ảo cảm chủ yếu (chẳng hạn như D.E.I. đang có), thì (đối với với một người có sự tận tụy và trí năng như em) việc phá vỡ nó sẽ là điều tương đối dễ dàng, để rồi bước đi trong ánh sáng. Nhưng em đã bao quanh mình bằng vô số ảo cảm không có tầm quan trọng lớn, tuy nhiên, tổng hợp lại, chúng khiến em liên tục bước đi trong sương mù. Em có năng lực để bước đi kiên trì trong ánh sáng. Ảo cảm đến với em từ hai nguồn. Phản ứng của em trước mọi biến cố trong cuộc sống và đối với môi trường xung quanh đều mang tính chất thay đổi hời hợt; chúng không có tính cơ bản hay căn cốt, bởi vì mục đích sống của em là không thể lệch hướng (huynh đệ của tôi, liệu có một từ undeflectable nào như vậy hay không?) và khuynh hướng cuộc sống của em được định hướng chắc chắn và không thể thay đổi. Nhưng khi đối phó với hoàn cảnh sống và mọi người, em bị ám ảnh bởi việc điều này có thể ảnh hưởng đến mình như thế nào và bởi sự thất bại của mình trong việc xử lý chúng như một đệ tử cần làm. Sự tự ti đang giữ em trong trạng thái ảo cảm và nó hoàn toàn là một phản ứng của phàm ngã. Là một linh hồn, em mạnh mẽ trong tri thức; là một linh hồn, em yêu thương mọi loài chúng sinh; là một linh hồn, không có hoàn cảnh nào em không thể xử lý được; là một linh hồn, em có thể chi phối môi trường quanh mình một cách năng động. Nhưng ảo cảm về sự tự ti (kết quả của nhiều ảo cảm nhỏ khác) đang kiểm soát sự thể hiện cuộc sống của em trên cõi trần, cùng với ảo cảm về sự khuyết tật về thể chất. Tôi không tiếp tục phân tích về điểm thứ hai này, chỉ nhấn mạnh rằng sự bận tâm với công việc em có thể làm cho chúng tôi, nếu được kéo từ cõi trí tuệ của nhận thức (nơi em luôn thực sự sống, bất kể những chuyến tham quan nhiều lần vào cõi cảm xúc) xuống cõi trần, có thể giải phóng em về thể chất. |
I ask you not to work as does A.A.B. who chooses with deliberation to work in our “suicide band” (as it has been laughingly called by one of M.’s group of disciples) but I would ask you to cease from the glamour of inferiority and [527] pre-occupation with details which keep you always devitalised. Enter into the joy and strength of non-frustrated service. I will know better what to say to you when I note what conclusions you come to in this connection, prior to May. |
Tôi không yêu cầu em làm việc như A.A.B., người đang lựa chọn một cách có chủ tâm để làm việc trong “đội quân cảm tử” của chúng tôi (như đã được một trong các đệ tử trong nhóm của Chân sư M. gọi tên một cách vui vẻ), nhưng tôi mong em chấm dứt ảo cảm về sự tự ti, [527] và nỗi ám ảnh với những chi tiết khiến em liên tục bị cạn kiệt sinh lực. Hãy bước vào niềm vui và sức mạnh của sự phụng sự không bị thất bại. Tôi sẽ biết tốt hơn nên nói gì với em khi tôi nhận ra em đi đến kết luận nào trong vấn đề này trước tháng Năm. |
August 1940—Tháng 8 năm 1940
I have for you the briefest message, my brother. You are today in a condition of physical distress and you, at the same time, are emerging out of a life crisis into greater surety, light, knowledge and usefulness. You have naught to do now but relinquish all anxiety and rest back upon those realities which life has convinced you exist. Of certain things you are unalterably sure—of love, courage and the soul. Use not the mind just now but simply be and let the love of all who know you, which, my brother, includes mine, flow through you; permit the courage of your soul to strengthen you. This courage is not a fighting courage or any sort of struggle to be what is called “brave.” It is the courage of sure knowledge, held steadily and unquestioning in the midst of difficulty and discomfort. |
Chỉ một thông điệp ngắn gọn cho em, huynh đệ của tôi. Hôm nay em đang ở trong trạng thái đau khổ về thể chất, đồng thời đang thoát ra khỏi một cuộc khủng hoảng cuộc sống, tiến bước vào sự chắc chắn, ánh sáng, tri thức, và tính hữu dụng cao hơn. Giờ đây em không cần phải làm gì ngoài việc xua tan mọi lo âu và nghỉ ngơi dựa vào những thực tại mà cuộc sống đã khiến em tin rằng chúng tồn tại. Có một số điều mà em chắc chắn không gì có thể thay đổi được—đó là tình yêu thương, sự dũng cảm, và linh hồn. Lúc này đừng sử dụng thể trí mà đơn giản chỉ tồn tại và để cho tình yêu thương của tất cả những người biết em, trong đó bao gồm tình thương của tôi, chảy qua em; hãy để sự dũng cảm của linh hồn tiếp thêm sức mạnh cho em. Sự dũng cảm này không phải là lòng dũng cảm chiến đấu hay bất kỳ dạng tranh đấu nào để trở thành cái được gọi là “dũng cảm”. Đây là lòng dũng cảm của tri thức chắc chắn, được giữ vững và không nghi ngờ trong khó khăn và sự không thỏa mái. |
One thought only will I give you to repeat whene’er you are discouraged, tired or weak: |
Tôi sẽ chỉ đưa cho em một ý tưởng duy nhất để niệm đọc mỗi khi em nản chí, mệt mỏi, hay yếu đuối: |
“ At the centre of all love I stand and naught can touch me here and from that centre I shall go forth to love and serve.” |
“Tại tâm điểm của toàn thể tình yêu thương, tôi đứng vững và chẳng gì có thể chạm đến tôi nơi đây, từ tâm điểm đó, tôi sẽ tiến bước để yêu thương và phụng sự” |
NOTE: Four months later this disciple went forth “to love and serve” on the inner side of life. Though out of the physical body, she is active in the Tibetan’s Ashram. |
GHI CHÚ: Bốn tháng sau, đệ tử này tiến bước “để yêu thương và phụng sự” ở phía bên kia bức màn cuộc sống. Mặc dù đã rời khỏi thể xác, bà đang hoạt động tích cực trong Ashram của Chân Sư Tây Tạng. |
MY GARDEN |
KHU VƯỜN CỦA TÔI |
By C. D. P. |
Viết bởi C.D.P. |
In the Himalayan Mountains, I seemed to see a high and fair plateau. A winding road leads up to it from the valley beneath. Mountains look down upon the plateau from the east and west, lower mountains to the north, and a steep slope to the south, with the path to the valley. [528] |
Trên dãy Hy Mã Lạp Sơn, tôi dường như nhìn thấy một cao nguyên rộng lớn và xinh đẹp. Một con đường ngoằn ngoèo dẫn từ thung lũng bên dưới lên cao nguyên. Các ngọn núi trông xuống cao nguyên từ hướng đông và hướng tây, những ngọn núi thấp hơn nằm ở hướng bắc, và một sườn dốc đứng về phía nam, là con đường dẫn đến thung lũng. [528] |
This beautiful land in the high, bright air, has been made into a garden with walls—oriental walls—fourteen feet high, with, in each corner, a Chinese-looking little minaret. A stream runs the entire length of this garden, from east to west; it comes in and goes out of the garden through arches in the walls, where there are iron grilles. Above these grilled arches, supported upon short stone beams projecting from the wall, are two narrow, stone-and-wood Chinese-curved bridges, backing on the wall, and with a latticed hand-rail on the side towards the stream. The gate to this garden is in the middle of the north wall—one of the long sides—the garden being more long than square. When one approaches the gate from outside, one sees written over it the words Peace, Rest, Service. It is an arched gate set into the thickness of the wall. A bell-rope leads to a bell hung in the arch. There is also a light, which shines at dusk, on the three words. |
Mảnh đất tuyệt đẹp này, trong không khí trong lành và cao vút, đã được biến thành khu vườn có những bức tường—những bức tường theo phong cách phương Đông—cao bốn mét (14 inches), với bốn góc là bốn chòi nhỏ trông giống phong cách Trung Hoa. Một dòng suối chảy dọc theo chiều dài của khu vườn, từ đông sang tây; nó chảy vào và chảy ra khu vườn qua những vòm cổng vòng cung trong tường, nơi có các song chắn bằng sắt. Phía trên các vòm cổng được gia cố bởi các song sắt này là hai cây cầu cong hẹp, làm bằng đá và gỗ, kiểu Trung Hoa, có lưng tựa vào tường, và một lan can bằng gỗ dạng lưới chắn ở phía hướng về dòng suối. Cánh cổng vào khu vườn nằm ở chính giữa bức tường phía bắc—một trong những bề mặt dài—bởi vì khu vườn dài hơn là vuông. Khi tiến gần cổng từ phía bên ngoài, ta nhìn thấy khắc phía trên cổng dòng chữ Bình an, Nghỉ ngơi, Phụng sự. Cổng được tạo thành một vòm hình cung, xây sâu vào trong bề dày của tường. Một sợi dây chuông nối đến chiếc chuông được treo trong vòm cổng. Cũng có một ngọn đèn, sáng lên vào lúc chạng vạng, chiếu sáng ba chữ khắc phía trên cổng. |
On being admitted, one steps inside, onto a path in the green lawn which slopes a very little towards the stream. Twenty feet down this path, on either side of it, is a flowering apple tree, the branches touching. A border of red peonies extends east and west from the apple tree, for about fifteen feet, ending, each in a red rose bush, a most fragrant rose. The path continues down the slightly sloping green lawn to the stream, which is about fifteen feet wide, and has rocks and ferns, depths and shallows. Butterflies and birds fly over it, and stepping-stones cross it at this place. |
Bước vào bên trong, chúng ta dạo trên con đường rải cỏ cắt ngắn, xanh mướt, thoai thoải dốc xuống theo hướng dòng suối. Hai mươi bước chân xuống con đường, ở hai bên đó là hai cây táo ra hoa, các cành cây chạm vào nhau. Một luống hoa mẫu đơn đỏ trải dài từ đông sang tây, bắt đầu dưới gốc táo và kéo dài khoảng hơn năm mét, kết thúc ở mỗi đầu bằng một bụi hồng thơm ngát. Con đường tiếp tục dốc xuống bãi cỏ xanh đến dòng suối, rộng khoảng hơn năm mét, với những tảng đá và thảm dương xỉ, có chỗ nông chỗ sâu. Bướm lượn và chim hót bay lượn trên đó, và có những viên đá dẹt làm bậc thang để đi qua suối ở nơi này. |
The stepping-stones over the stream lead to a path which wanders towards a pagoda of Chinese design, large, and with open sides. A circular table of some Indian wood is in the centre of the pagoda—and upon it a statue of Buddha faces the entrance. Before the Buddha is a carved wooden bowl lined with silver and containing water, on which floats a single white lotus. |
Các viên đá dẹt bắc qua suối dẫn đến một con đường uốn lượn về phía một ngôi chùa được thiết kế theo phong cách Trung Hoa, to lớn, với những mặt hở. Một chiếc bàn tròn bằng gỗ có xuất xứ từ Ấn Độ đặt ở chính giữa ngôi chùa—trên đó là một bức tượng Phật nhìn ra lối vào. Trước tượng Phật là một cái bát gỗ được lót bạc bên trong, chứa nước, trên đó nổi một đóa sen trắng. |
There are brackets in the open sides of the pagoda, containing sweet-smelling flowers, mignonette and heliotrope. There is a circular seat around the wall, and rugs of some eastern grass on the floor. On either side of the entrance there are panels with shelves, containing scrolls and occult manuscripts for reference. Just outside are four beautiful spruce trees, two [529] on each side of the doorway, and firs and pines continue to the back of the pagoda, and go down the entire length of the long south walk, forming a plantation about twenty-five feet wide, including native mountain trees, and our dogwood and small oaks. There is a path through this plantation, which is full of ferns, rocks and wood flowers. Between two rocks is a spring. It is a place of repose and peace for those who love the woods. Although one cannot see the lawn, one can come out on it when one wishes, over the pine-needles and moss, leaving behind the cool shade, and the birds and shy, small creatures—who sometimes follow—and then one sees, a few feet away, midway between the woods and the stream, a long flower border set right in the lawn, and containing every flower one ever loved! They are of every colour and every fragrance, except that red is not predominant, because of the red peonies and rose bushes across the stream. |
Ở các mặt hở của ngôi chùa, có những giá treo đặt những lọ hoa tỏa hương thơm ngát như hoa mignonette và hoa vòi voi (heliotrope). Quanh tường là một dãy ngồi hình tròn, và trên sàn được lót những tấm thảm làm từ cỏ phương Đông. Bên hai phía cửa ra vào là hai tấm bảng có kệ, chứa đựng các cuộn kinh và các bản viết tay bí truyền để tham khảo. Ngay phía bên ngoài là bốn cây tùng bách tuyệt đẹp, có hai cây [529] ở mỗi bên cửa ra vào. Cây tùng tiếp tục mọc phía sau chùa, và kéo dài suốt chiều dọc của con đường dài ở phía nam, tạo thành một vạt cây rộng khoảng bảy, tám mét, bao gồm các loài cây bản địa của núi, cây chó rừng (dogwood) của chúng ta, và những cây sồi nhỏ. Có một đường mòn xuyên qua vạt cây này, nơi đầy dương xỉ, đá, và hoa rừng. Giữa hai tảng đá là một con suối. Đây là nơi tĩnh lặng và bình yên cho những ai yêu thích rừng cây. Dù không thể nhìn thấy bãi cỏ, người ta có thể bước ra bãi cỏ bất cứ khi nào, băng qua lớp kim thông (pine-needles ) và rêu, bỏ lại phía sau bóng mát, tiếng chim hót, và những sinh vật nhỏ bé nhút nhát—đôi khi cũng đi theo sau—rồi cách đó vài bước chân, giữa rừng cây và dòng suối, nhìn thấy một luống hoa dài nằm giữa bãi cỏ, và ở đó có đủ mọi loài hoa mà người ta từng yêu quý! Chúng đủ màu đủ hương, trừ màu đỏ không chiếm ưu thế bởi vì ở bờ bên kia dòng suối đã có hoa mẫu đơn đỏ và bụi hoa hồng. |
Towards the western end of the lawn, a little beyond where the flower border ends, a lone oak tree seems to have marched out on the grass for a Druidic purpose of its own, a shapely young tree, taller than those in the wood. There is a bench beneath it. |
Hướng về cuối phía tây của bãi cỏ, một chút xa hơn nơi cuối luống hoa, một cây sồi đơn độc dường như đã rời hàng ngũ bước ra nền cỏ vì một mục đích Druidic nào đó, một cây non khỏe mạnh, cao hơn những cây khác trong vạt rừng. Có một chiếc ghế dài đặt dưới gốc sồi. |
Not far off, between the oak tree and the stream, there is a lotus pool, embedded in boulders and large flat rocks, like some of the rocks along the stream’s edge and in the woods. |
Không xa đó, giữa cây sồi và dòng suối, có một ao sen được bao quanh bởi những tảng đá và những phiến đá phẳng lớn, giống như những tảng đá dọc theo bờ suối và trong rừng. |
The lotus pool is kept replenished by water piped from the spring in the woods. Seated on these rocks one looks over and down about a foot or two, and sees these beautiful lotuses of different colours. |
Ao sen luôn được tiếp nước từ con suối trong rừng thông qua một đường ống. Ngồi trên những tảng đá này, nhìn xuống và sâu hơn khoảng nửa mét, ta có thể thấy những đóa sen tuyệt đẹp với nhiều màu sắc khác nhau. |
But the two ends of the garden are the real beauty spots—the eastern end, on both banks of the stream, being a mass of roses, beds branching out from the stream in the form of wings, going as far up as the narrow, hidden path along the eastern wall, so that one, standing on the curved stone bridge (at either end of which are feathery clumps of waving pampas grasses), looks down on seraphs’ wings of glorious roses, shaded from faintest rose to golden yellow. At the western end of the garden the seraphs’ wings are of lilies, from the purple of the iris to the radiant white of the Madonna lily. The shrubbery at the ends of the western bridge are “yellow bush” and lilacs. A fine [530] green vine runs all over the wall here, where, at the other end, it is rambling roses. These seraph-wing rose and lily beds, though large, do not extend into the corners of the two ends of the garden; trees are there, spruce, pine and Japanese yews; more plentiful in the southwest corner, as they form the beginning of the woods. In the northwest corner there are three tall yews, only—and the same in the corner to the northeast. The southeast corner is filled by the pagoda, with the woods behind it and the spruce trees to right and left, in front. Across the stream from the pagoda, in the middle of the lawn (the eastern line of the peonies and the red rose bush not being very far away), is a circular stone seat, called the Disciples’ Seat. It has a small willow tree and two short copper beeches behind it, and has an English box bush at either end. In front of it is a natural rock, of chair shape and height, where the Master sits to talk to the Disciples. |
Nhưng hai nơi xa nhất trong khu vườn mới thực sự là những điểm đẹp—bờ phía đông, ở hai bên dòng suối, là một thảm hoa hồng dày đặc; những luống hoa trải rộng từ dòng suối ra bên ngoài hình cánh chim, kéo dài cho đến con đường nhỏ hẹp ẩn giấu dọc theo bức tường phía đông. Nhờ vậy, khi đứng trên cây cầu đá cong (ở mỗi điểm xa nhất là những bụi cỏ pampas cao vút đang vẫy gọi), và nhìn xuống thì thấy như những đôi cánh thiên thần seraph trải đầy hoa hồng rực rỡ với màu sắc trải từ hồng nhạt đến vàng rực. Còn điểm xa nhất phía tây của khu vườn, những đôi cánh thiên thần ấy lại được kết từ hoa loa kèn, từ màu tím của hoa diên vĩ cho đến màu trắng rạng rỡ của hoa huệ. Những bụi cây ở điểm xa nhất phía tây của cây cầu là “bụi cây vàng” và hoa tử đinh hương. Một loại dây leo nhỏ [530] màu xanh chạy dọc theo bức tường phía này, trong khi ở phía bên kia, đó là các loại hoa hồng dây. Những luống hoa hồng và hoa loa kèn hình đôi cánh thiên thần, dù rộng lớn, cũng không kéo dài đến các góc ở hai điểm xa nhất của khu vườn. Nơi đó có các loài cây khác như tùng, thông, và yew Nhật Bản; chúng mọc dày đặc hơn ở góc tây nam, đánh dấu sự bắt đầu của vạt rừng. Ở góc tây bắc chỉ có ba cây yew cao lớn,—và ở góc đông bắc cũng vậy. Góc đông nam tràn ngập ngôi chùa, phía sau là vạt rừng với những cây tùng ở hai bên trái và phải, phía trước. Bờ bên kia dòng suối so với ngôi chùa, ở giữa bãi cỏ (đường phía đông của những cây hoa mẫu đơn và bụi hoa hồng đỏ không xa lắm), là một chiếc ghế tròn bằng đá, được gọi là Ghế của Các Đệ Tử. Phía sau chiếc ghế là một cây liễu nhỏ và hai cây beech đỏ thẫm thấp bé, với một bụi hoàng dương ở mỗi bên. Phía trước chiếc ghế là một tảng đá tự nhiên, có dạng và chiều cao như một chiếc ghế, nơi Chân sư ngồi nói chuyện với các Đệ tử. |
When one stands on the path and looks towards the entrance gate, one sees fruit trees, en espalier on the wall to the right, peaches and nectarines—and on the wall to the left, vines of white and of purple grapes. A narrow path runs the length of the wall. To the left on the lawn is a rustic, moss-covered well-house, enclosed by bushes of sweet shrub and white lilac, behind and at the sides, certain small, shade-loving flowers, a very few lilies-of-the-valley, here and there a fern. |
Khi đứng trên con đường mòn và hướng mắt về phía cổng ra vào, nhìn thấy những loại cây ăn trái uốn trên giàn dọc theo tường bên phải, đào và xuân đào—còn theo tường bên trái là những giàn nho với cả hai loại nho trắng và nho tím. Một con đường hẹp chạy dọc theo bức tường. Bên trái, trên bãi cỏ, là một giếng nước mộc mạc phủ đầy rêu, bao quanh bởi những bụi cây sweet shrub và tử đinh hương trắng, phía sau và ở hai bên là những loài hoa nhỏ ưa bóng râm, có rất ít hoa huệ thung lũng, xen lẫn đâu đó là những đám dương xỉ. |
There is a small, gravelled space in the front of the well—it contains a rustic table, where the grapes and fruit are brought to be arranged in flat baskets, to be sent down the mountain, by donkeys, in care of those who have the right to be admitted to the garden, to the ill and weary in the town below. (Old Aleck, a saintly old gardener, these many years dead, may be one who helps with this work. I do not know!) The well water is very cold—a bucket is always ready for the descent. I believe this water has the property of giving one greater vision. It is pure joy to offer it to the thirsty and weary, and each day, among the souls arriving, there is a different well-keeper, always one who has had a glimpse of the vision. |
Có một khoảng đất nhỏ rải sỏi phía trước giếng nước—nơi đặt một chiếc bàn mộc mạc, nho và hoa quả được mang đến đây để sắp xếp trong những chiếc giỏ dẹt, rồi được đưa xuống núi bằng những chú lừa, do những người có quyền vào khu vườn chăm sóc, để gửi đến những người ốm đau và mệt mỏi ở thị trấn bên dưới. (Ông già Aleck, một người làm vườn hiền lành đáng kính, đã qua đời từ nhiều năm trước, có thể là một trong những người giúp đỡ công việc này. Tôi không rõ!) Nước giếng rất lạnh—một chiếc xô luôn sẵn sàng để múc nước. Tôi tin rằng nước này có thuộc tính mang đến tầm nhìn rộng mở hơn. Được mang nó đến cho những ai khát nước và mệt mỏi quả là niềm vui tinh khôi, và mỗi ngày, trong số các linh hồn đến nơi đây, có một người canh giữ giếng nước khác nhau, luôn luôn là người đã từng có một cái nhìn thoáng qua về tầm nhìn mở rộng. |
I believe this is the picture of my garden! |
Tôi tin rằng đây là bức tranh về khu vườn của tôi! |
As you can see, it is a magical garden, for all the flowers bloom all the time, [531] and of course there are many in that long flower border that I have not mentioned, only to say that all the flowers one ever loved were there—but I have planted dahlias, for childhood memory, canterbury bells, pinks, phlox, small chrysanthemums, platycondon, evening primrose—still memory!—sweet geranium, lavender, lemon verbena, sweet alyssum, old-fashioned roses, day lilies, tiger lilies (in spite of my rose and lily beds to the east and west!) and in the stream is growing mint, near the western exit, and other water-loving herbs. But I think every brother who enters this garden sees his own favourite flowers—I want to think so. |
Như bạn có thể thấy, đây là một khu vườn kỳ diệu, vì mọi loài hoa đều nở suốt năm, [531]và dĩ nhiên trong cái luống hoa dài đó còn rất nhiều loài khác mà tôi chưa đề cập đến, chỉ có thể nói rằng tất cả những bông hoa mà tôi từng yêu quý đều có mặt ở đây—nhưng riêng tôi đã trồng hoa thược dược, vì ký ức tuổi thơ, hoa chuông Canterbury, hoa cẩm chướng, hoa phăng, hoa cúc nhỏ, hoa platycodon, hoa anh thảo buổi tối—vẫn là một điều gợi nhớ trong quá khứ!—cây phong lữ thảo, oải hương, cỏ chanh, cây lưu ly hương thơm, hoa hồng cổ, hoa hiên, hoa huệ tây (bất kể luống hoa hồng và luống hoa huệ ở phía đông và phía tây!). Mọc trong dòng suối, gần lối ra phía tây, là bạc hà và một số cây thảo dược ưa nước khác. Nhưng tôi nghĩ rằng mỗi huynh đệ của tôi bước vào khu vườn này đều nhìn thấy những bông hoa yêu thích của riêng mình—tôi muốn nghĩ như vậy. |