
Lecture I—Bài giảng I
If it were possible to place ourselves in thought at a centre in space from which we might see the course of evolution, from which we might study the history of our chain of worlds, I think that looking outwards on these evolving groups and this evolving humanity, we might figure the whole in a picture. | Nếu có thể tự đặt mình trong tư tưởng tại một trung tâm trong không gian, từ đó chúng ta có thể nhìn thấy tiến trình tiến hoá, từ đó có thể khảo cứu lịch sử của dãy thế giới của chúng ta, thì tôi nghĩ rằng, khi phóng mắt ra ngoài quan sát những nhóm đang tiến hoá và nhân loại đang tiến hoá này, chúng ta có thể hình dung toàn thể thành một bức họa. |
I see a great mountain standing in space, with a road that winds around it, round and round, until the summit is reached. The turns on this road are seven in number. On each turn, I see seven stations where pilgrims stay for a while, and within these stations, they have to climb round and round.¹ As we trace the road upwards along this spiral track, we see how it ends at the summit of the mountain. It leads to a mighty Temple, a Temple as of white marble, radiant, which stands there shining out against the ethereal blue. That Temple is the goal of the pilgrimage, and they who are in it have finished their course—finished it so far as that mountain is concerned—and remain there only for the help of those who still are climbing. | Tôi thấy một ngọn núi vĩ đại đứng giữa không gian, với một con đường uốn quanh nó, vòng nọ nối vòng kia, cho đến khi lên tới đỉnh. Những khúc quanh trên con đường này có số là bảy. Trên mỗi khúc quanh, tôi thấy bảy trạm dừng nơi các lữ khách trú lại một thời gian, và ngay trong các trạm ấy, họ cũng phải leo vòng quanh.¹ Khi lần theo con đường đi lên dọc theo lối đi xoắn ốc này, ta thấy nó kết thúc ở đỉnh núi. Con đường dẫn tới một Đền Thờ hùng vĩ, như bằng cẩm thạch trắng, rạng chiếu, đứng đó sáng lóa trên nền lam sắc thanh khiết. Đền Thờ ấy là đích đến của cuộc hành hương, và những ai ở trong đó đã hoàn tất hành trình của mình—hoàn tất xét theo ngọn núi ấy mà nói—và chỉ còn lưu lại để trợ giúp những người vẫn đang tiếp tục leo. |
If we look more closely at the Temple, if we try to see how it is built, we shall see in its midst a Holy of Holies. Round about the centre are Courts, four in number, ringing the Holy of Holies as concentric circles. These are all within the Temple. A wall divides each Court from its neighbours, and to pass from Court to Court, the wayfarer must go through a gateway. There is but one in each encircling wall, so all who would reach the centre must pass through these four gateways, one by one. Outside the Temple, there is yet another enclosure—the Outer Court—and that Court has in it many more than are seen within the Temple itself. | Nếu ta nhìn kỹ hơn Đền Thờ, cố gắng thấy nó được kiến tạo ra sao, ta sẽ thấy giữa trung tâm có một Nơi Cực Thánh. Bao quanh trung tâm là các Sân, bốn sân, vòng lấy Nơi Cực Thánh như những vòng tròn đồng tâm. Tất cả đều nằm trong Đền Thờ. Một bức tường ngăn cách mỗi Sân với sân bên cạnh, và để đi từ Sân này sang Sân kia, người lữ hành phải đi qua một cổng. Mỗi bức tường bao chỉ có một cổng, nên ai muốn đến trung tâm đều phải lần lượt đi qua bốn cổng ấy. Bên ngoài Đền Thờ, lại có một khuôn viên nữa—Sân Ngoài—và Sân ấy chứa nhiều người hơn rất nhiều so với bên trong Đền Thờ. |
Looking at the Temple, the Courts, and the mountain road that winds below, we see this picture of human evolution, the track along which the race is treading, and the Temple that is its goal. Along that road stands a vast mass of human beings, climbing indeed, but climbing so slowly, rising step by step. Sometimes it seems as though for every step forward there is a step backward. Though the trend of the whole mass is upwards, it mounts so slowly that the pace is scarcely perceptible. This aeonian evolution of the race seems so slow, weary, and painful that one wonders how the pilgrims have the heart to climb so long. | Khi nhìn Đền Thờ, các Sân, và con đường núi uốn lượn phía dưới, chúng ta thấy bức tranh về sự tiến hoá của nhân loại, lối mòn mà nhân loại đang bước đi, và Đền Thờ là cứu cánh của nó. Trên con đường ấy đứng một khối người mênh mông, quả là đang leo, nhưng leo rất chậm, lên từng bậc một. Có lúc dường như cứ mỗi bước tiến lại có một bước lùi. Tuy khuynh hướng của cả khối là đi lên, nhưng họ lên chậm đến nỗi nhịp bước hầu như khó nhận thấy. Sự tiến hoá thiên thu của nhân loại xem ra chậm chạp, mỏi mệt và đớn đau đến mức người ta phải tự hỏi làm sao các lữ khách còn đủ can đảm để leo lâu đến thế. |
Tracing it round and round the mountain, millions of years pass. Following a single pilgrim takes millions of years, and while he treads it, an endless succession of lives seems to pass, all spent in climbing upwards. We weary even in watching these vast multitudes who climb so slowly, who tread round after round as they mount this spiral pathway. Watching them, we ask ourselves: Why is it that they climb so slowly? How is it that these millions of men take so long a journey? Why are they ever striving upwards to this Temple that stands at the top? | Lần theo đường vòng quanh núi, hàng triệu năm trôi qua. Theo chân một lữ khách đơn lẻ cũng mất hàng triệu năm, và trong khi y đi, một chuỗi bất tận các đời sống dường như trôi qua, tất cả đều tiêu vào việc leo lên. Chúng ta cũng mỏi mệt ngay cả khi chỉ ngắm nhìn những đám đông khổng lồ này leo chậm như thế, đi vòng hết vòng này sang vòng khác khi họ vượt con đường xoắn ốc này. Nhìn họ, chúng ta tự hỏi: Vì sao họ leo chậm thế? Làm sao mà hàng triệu người lại đi một đoạn đường dài đến vậy? Vì sao họ cứ mãi hướng lên Đền Thờ sừng sững nơi đỉnh cao kia? |
Looking at them, it seems they travel so slowly because they see not their goal and understand not the direction in which they are travelling. As we watch one or another on the pathway, we see that they are always straying aside, attracted hither and thither, with no purpose in their going. They walk not straight onwards as though intent on business, but wander like children running after a blossom here and chasing a butterfly there. So all the time seems to be wasted, and but little progress is made when the night falls upon them and the day’s march is over. | Nhìn họ, có vẻ họ đi chậm vì không thấy đích và chẳng hiểu hướng mình đang đi. Khi quan sát từng người trên lối mòn, ta thấy họ cứ rẽ ngang rẽ dọc, bị lôi cuốn chỗ này chỗ kia, chẳng có mục đích trong bước đi. Họ không đi thẳng như người bận sự, mà lang thang như trẻ nhỏ đuổi theo một đóa hoa ở đây, một con bướm ở kia. Thế là thời gian cứ bị phung phí, và khi đêm buông xuống, chặng đường ngày ấy khép lại mà tiến bộ ít ỏi. |
It does not seem as though even progress in intellect, slow as that also is, made the pace very much more rapid. When we look at those whose intellect is scarcely developed, they seem after each day of life to sink to sleep almost on the place they occupied the day before. And when we glance over those who are more highly evolved intellectually, they too are travelling very, very slowly and seem to make small progress in each day of life. Looking thus at them, our hearts grow weary with the climbing, and we wonder that they do not raise their eyes and understand the direction in which their path is taking them. | Có vẻ như ngay cả tiến bộ về trí năng—vốn cũng chậm—cũng không khiến nhịp bước nhanh hơn bao nhiêu. Khi nhìn những người có trí năng hầu như chưa phát triển, trông họ sau mỗi ngày đời lại chìm vào giấc ngủ gần như ngay chỗ ngày hôm trước họ đứng. Và khi nhìn qua những người trí tuệ phát triển cao hơn, họ cũng đi rất, rất chậm và dường như chỉ nhích được đôi chút trong mỗi ngày đời. Nhìn họ như thế, chúng ta cũng mỏi lòng vì cuộc leo, và lấy làm lạ sao họ chẳng ngước mắt lên để hiểu hướng đi của lối mòn dưới chân. |
Now, that Outer Court that some of the climbers in front are reaching seems not only to be gained by the path that winds round and round the hill so often. For as we look at it, we see that from many points in this spiral pathway the Outer Court may be reached. There are briefer ways that go straight up its side, paths that may be climbed if a traveller’s heart be brave and his limbs be strong. | Nay, Sân Ngoài mà một số người leo trước đang tới dường như không chỉ đạt được bằng con đường quanh co trùng điệp ấy. Vì khi nhìn kỹ, ta thấy từ nhiều điểm trên lối đi xoắn ốc này có thể rẽ tới Sân Ngoài. Có những lối ngắn hơn đi thẳng lên sườn núi, những đường mòn có thể leo nếu lòng người lữ hành dũng cảm và chân tay rắn rỏi. |
Trying to see how men find their way more swiftly than their fellows, we seem to gather that the first step is taken off this long spiral road when some Soul, who has been travelling for millenniums perhaps, recognises for the first time a purpose in the journey and catches for a moment a gleam from the Temple on the summit. For that White Temple sends rays of light over the mountain side. Now and then, a traveller raises his eyes from the flowers and the pebbles on the path, and the gleam seems to catch his glance. He looks upward at the Temple, and for a moment he sees it. After that first momentary glimpse, he is never again quite as he was before. | Tìm cách hiểu làm sao con người tìm đường nhanh hơn đồng loại, ta dường như rút ra rằng bước đầu tiên để rời con đường xoắn ốc dài vô tận ấy là khi một Linh hồn, có lẽ đã đi suốt hàng thiên niên kỷ, lần đầu tiên nhận ra mục đích của cuộc hành trình và trong khoảnh khắc bắt được một tia lóe từ Đền Thờ trên đỉnh. Vì Đền Thờ Trắng ấy phóng những tia sáng trải khắp sườn núi. Thỉnh thoảng, một lữ khách ngẩng mắt khỏi hoa lá và sỏi đá trên đường, và ánh lóe ấy chạm vào cái nhìn của y. Y ngước lên nhìn Đền Thờ, và trong khoảnh khắc y thấy nó. Sau cái nhìn thoáng qua ban đầu ấy, y không bao giờ còn như trước nữa. |
For a moment, he has recognised a goal and an ending. He has seen the summit towards which he is climbing and the pathway, steep but so much shorter, that leads directly up the hillside beyond which the Temple gleams. In that moment of understanding, he sees that instead of climbing round and round full seven times—for the path winds upon itself as well as round the hill, and each spiral has seven turns within itself—there is a directer way. When the Soul has caught these glimpses of its goal and of the directer pathway, it understands that the pathway has a name: “Service.” | Trong một sát na, y nhận ra có một đích và một kết thúc. Y đã thấy đỉnh núi mà mình đang leo tới và một lối mòn—dốc nhưng ngắn hơn nhiều—dẫn thẳng lên sườn đồi bên kia nơi Đền Thờ ẩn hiện. Trong khoảnh khắc thấu hiểu ấy, y thấy rằng thay vì phải leo vòng quanh trọn bảy lần—vì đường vừa cuộn quanh chính nó vừa vòng quanh ngọn đồi, và mỗi vòng xoắn lại có bảy khúc quanh—thì có một lối trực chỉ hơn. Khi Linh hồn đã bắt được những thoáng nhìn về cứu cánh của mình và về lối đi trực chỉ hơn, nó hiểu rằng lối ấy có một tên: “Phụng sự.” |
Those who enter on that shorter pathway must enter it through a gate on which “Service of Man” is shining in golden letters. The Soul understands that before it can reach even the Outer Court, it must pass through that gateway and realise that life is meant for service, not for self-seeking. The only way to climb upwards more swiftly is to climb for the sake of those who are lagging, in order that from the Temple more effective help may be sent down. | Những ai bước lên lối ngắn hơn đó phải vào qua một cổng mà trên đó dòng chữ vàng “Phụng sự Nhân loại” đang toả sáng. Linh hồn hiểu rằng trước khi có thể đến được cả Sân Ngoài, nó phải đi qua cổng ấy và nhận ra rằng đời sống được dành cho phụng sự, không phải cho tìm cầu cái tôi. Con đường leo lên nhanh hơn duy nhất là leo vì những người còn chậm bước, để từ Đền Thờ có thể gửi xuống sự trợ giúp hữu hiệu hơn. |
As I said, it is only the flash of a moment, a glimpse that comes and vanishes again, for the eye has only been caught by one of these rays of light. There are so many attractive objects scattered along this winding path that the Soul’s glance is easily drawn towards them again. But inasmuch as it has once seen the light, there is the possibility of seeing it again more easily. When once the goal of achievement and the duty of service have had even this passing imaginative realisation, there remains a desire to tread that shorter pathway. | Như tôi đã nói, đó chỉ là một tia chớp trong khoảnh khắc, một cái nhìn đến rồi vụt tắt, vì mắt chỉ mới bắt được một trong những tia sáng ấy. Có quá nhiều vật hấp dẫn dọc theo con đường quanh co này khiến cái nhìn của Linh hồn dễ bị kéo trở lại. Nhưng bởi một lần đã thấy ánh sáng, khả năng bắt gặp nó lần nữa trở nên dễ hơn. Khi mục tiêu thành tựu và bổn phận phụng sự đã có được dù chỉ là một nhận thức thoáng qua bằng sức tưởng tượng, thì ước muốn bước trên lối ngắn hơn sẽ còn lại. |
After that first vision, gleams come from time to time. On day after day of this long climbing, the gleam returns to the Soul, each glimpse perhaps brighter than the last. We see that these Souls begin to climb with more steadfastness than their fellows. Although they are still winding their way round the hill, they begin to practise what we recognise as virtues and give themselves more persistently to what we recognise as religion. | Sau thị kiến đầu tiên ấy, những tia lóe lại đến theo thời gian. Ngày này qua ngày khác của cuộc leo dài dằng dặc, ánh lóe trở lại với Linh hồn, mỗi lần thoáng thấy có lẽ sáng hơn lần trước. Ta thấy những Linh hồn này bắt đầu leo với sự kiên định hơn đồng loại. Dẫu họ vẫn còn đang uốn lượn quanh sườn núi, họ bắt đầu thực hành những điều chúng ta nhận biết là các đức hạnh và chuyên tâm hơn vào điều chúng ta nhận biết là tôn giáo. |
So these Souls become marked out a little from their fellows by their diligence and heedfulness, and they go to the front of this endless multitude. They travel more swiftly because there is more purpose in their travelling. They begin, though very imperfectly, to walk with a definite aim and to try to live with a definite purpose. And although they scarcely yet recognise what that purpose will be in the end, they are no longer roaming aimlessly from side to side. They are now climbing steadily up the winding pathway, and each day sees them climb a little faster. | Thế là những Linh hồn này có chút nổi bật so với đồng loại bởi sự chuyên cần và cẩn trọng, và họ tiến lên phía trước của đoàn người vô tận. Họ đi nhanh hơn vì có nhiều mục đích hơn trong bước đi. Họ bắt đầu, tuy còn rất bất toàn, bước đi với một mục tiêu xác định và cố gắng sống với một chủ đích minh bạch. Và tuy họ hầu như chưa nhận ra mục đích ấy cuối cùng sẽ là gì, họ không còn lang thang vô định từ phía này sang phía khác. Giờ đây họ đang leo đều đặn trên con đường quanh co, và mỗi ngày thấy họ leo nhanh thêm đôi chút. |
They are distinctly ahead of the multitudes in spirituality of life, in the practice of virtue, and in the growing desire to be of service to their fellow-men. They are travelling more swiftly towards the summit, though still on the winding road. They are beginning to try to train themselves in definite ways and to help their neighbours. As they make their way forward, they are always reaching out helping hands to those around them. | Họ vượt trội một cách rõ rệt so với đám đông về đời sống tinh thần, trong việc thực hành đức hạnh, và trong khát vọng lớn dần muốn phụng sự đồng loại. Họ đang đi nhanh hơn về phía đỉnh, dù vẫn còn ở trên con đường quanh co. Họ bắt đầu cố gắng tự rèn luyện theo những cách xác định và giúp đỡ những người xung quanh. Khi tiến bước, họ luôn vươn tay ra giúp đỡ những người kề cận. |
Presently, with those they are thus loving and serving, they are met by a form that is beautiful, though at first somewhat stern in aspect, which speaks to them and tells them something of a shorter way. We know that the form which comes to meet them is Knowledge, and that Knowledge is beginning to whisper to them something of the conditions of a swifter progress. Religion, which has been helping them in the practice of virtue, is the sister of this Knowledge. The Service of Man is sister to it also, and the three together begin to take charge of the Soul. | Rồi, cùng với những người họ yêu thương và phụng sự như vậy, họ gặp một hình bóng đẹp đẽ, tuy thoạt đầu có vẻ nghiêm nghị, đến nói với họ và chỉ cho họ đôi điều về một lối ngắn hơn. Chúng ta biết hình bóng đến nghênh đón họ ấy là Tri thức, và Tri thức bắt đầu thì thầm với họ đôi điều về những điều kiện của một tiến trình nhanh hơn. Tôn giáo, vốn đã giúp họ trong việc thực hành đức hạnh, là chị em của Tri thức này. Phụng sự Nhân loại cũng là chị em của nó, và cả ba cùng bắt đầu đảm trách Linh hồn. |
At last, a brighter dawning comes, and a fuller recognition. You hear this Soul beginning to make definite to itself the purpose of its climbing. It begins not only to dream of a future but to make that dream more definite. You find it recognising service as the law of life. Now, with deliberate intention, a promise to help in the progress of the race breathes softly forth from the lips of the Soul. That is the first vow the Soul makes: to give itself sometime to the service of the race. It is a vow not yet of full purpose, but still with the promise of purpose hidden within it. | Sau cùng, một bình minh rực rỡ hơn đến, và một sự nhận ra đầy đủ hơn. Các bạn nghe Linh hồn này bắt đầu xác quyết cho chính mình mục đích của cuộc leo. Nó bắt đầu không chỉ mơ về một tương lai mà còn làm cho giấc mơ ấy trở nên xác định hơn. Các bạn thấy nó nhận ra phụng sự là luật của đời sống. Giờ đây, với chủ ý minh định, một lời hứa trợ giúp sự tiến bộ của nhân loại thốt ra dịu dàng từ môi Linh hồn. Đó là lời nguyện đầu tiên Linh hồn lập: hiến mình một ngày kia cho việc phụng sự nhân loại. Đó chưa phải là lời nguyện của mục đích trọn vẹn, nhưng đã hàm chứa trong đó lời hứa về mục đích. |
It has been written in a Scripture that one of the great Ones who trod the shorter road, one who climbed the steeper path so swiftly that He left behind all His race and stood alone in the forefront, the first fruits, the promise of humanity—it is said of Him, Who in later ages was known as the Buddha, that “He perfected His vow, Kalpa after Kalpa.” The achievement that was to crown His life had to begin with the promise of service. It is that vow of the Soul which links it to the great Ones that have gone before, that makes the link that draws it to the probationary path, the path that leads it into and across the Outer Court, up to the very gateway of the Temple itself. | Đã có lời chép trong một Kinh điển rằng một trong những Đấng vĩ đại đã bước trên lối tắt, một Đấng leo lối dốc nhanh đến nỗi Ngài bỏ lại phía sau toàn thể giống dân của Ngài và đứng một mình nơi tiền tuyến, hoa quả đầu mùa, lời hứa của nhân loại—người ta nói về Ngài, Đấng về sau được biết là Đức Phật, rằng “Ngài đã viên mãn lời nguyện của mình, Kalpa này qua Kalpa khác.” Thành tựu sẽ đội vương miện cho đời Ngài phải khởi đầu bằng lời hứa phụng sự. Chính lời nguyện của Linh hồn ấy gắn nó với các Đấng Cao Cả đã đi trước, tạo nên mối dây liên kết kéo nó vào Con Đường Dự Bị, con đường đưa nó vào và băng qua Sân Ngoài, đến tận cửa ngõ của chính Đền Thờ. |
At last, after many lives of striving, growing purer and nobler and wiser, the Soul makes a distinct and clear speaking forth of a will that has now grown strong. When that will announces itself as a clear and definite purpose—no longer the whisper that aspires, but the word that commands—then that resolute will strikes at the gateway which leads to the Outer Court. It strikes with a knocking which none may deny, for it has in it the strength of a Soul determined to achieve and that has learned enough to understand the vastness of the task it undertakes. | Sau rốt, qua nhiều đời nỗ lực, càng lúc càng thanh khiết, cao quý và khôn ngoan hơn, Linh hồn cất lên một lời nói rành rọt và minh bạch của một ý chí nay đã trưởng thành. Khi ý chí ấy tự tuyên ngôn như một mục đích rõ rệt—không còn là lời thì thầm khát vọng, mà là mệnh lệnh—thì ý chí kiên định ấy gõ vào cánh cổng dẫn vào Sân Ngoài. Nó gõ bằng một nhịp đập mà không ai có thể khước từ, vì trong đó có sức mạnh của một Linh hồn quyết chí thành tựu và đã học đủ để hiểu sự mênh mông của công việc nó đảm đương. |
That Soul, now standing at the outer gateway, knows what it is striving to accomplish. It realises the vastness of the difficulty that lies in front. For it means nothing less than this: that it is going to come out of its race, which is to be climbing round and round for endless millenniums, still passing from globe to globe. This brave Soul means to climb that same mountain in but a few human lives. It means to take the path step by step, breasting the hill at its steepest, the path that will lead it right upwards into the very Holy of Holies. It means to do within a few lives what the race will take myriads of lives to accomplish. | Linh hồn ấy, giờ đây đứng trước cổng ngoài, biết mình đang cố sức làm nên điều gì. Nó nhận ra sự bao la của trở ngại ở phía trước. Vì điều đó có nghĩa không gì khác hơn thế này: rằng nó sắp bước ra khỏi nòi giống của mình, nòi giống sẽ còn leo vòng quanh bất tận qua hàng vạn thiên niên kỷ, vẫn đi từ bầu hành tinh này sang bầu hành tinh khác. Linh hồn quả cảm này muốn leo cùng ngọn núi ấy chỉ trong vài kiếp người. Nó muốn đi con đường từng bước, xông vào chỗ dốc nhất của sườn đồi, lối mòn sẽ đưa nó thẳng lên tận Nơi Cực Thánh. Nó muốn làm trong vài kiếp điều mà nhân loại phải mất muôn vàn kiếp mới thành. |
This is a task so mighty that the brain might almost reel at its difficulty. A task so great that one would almost say the Soul that undertakes it had begun to realise its own divinity and the omnipotence which lies enshrined within itself. To do in a few lives what the race as a whole is going to do, not only in the races that lie in front, but in the rounds that also lie in the future—to do that is surely a task worthy of a God. The accomplishment means that the divine power is perfecting itself within the human form. | Ấy là một nhiệm vụ hùng vĩ đến mức bộ não hầu như choáng váng trước độ khó của nó. Một công việc quá lớn lao đến nỗi người ta gần như nói rằng Linh hồn đảm nhận nó đã bắt đầu nhận ra thiên tính riêng và quyền năng toàn năng vốn ẩn tàng trong chính nó. Làm trong ít kiếp điều mà toàn thể nhân loại sẽ làm, không chỉ trong các chủng tộc còn ở phía trước, mà cả trong những cuộc tuần hoàn còn nằm trong tương lai—làm được điều đó hẳn là công việc xứng đáng với một Đấng Thần. Thành tựu ấy có nghĩa là quyền năng thiêng liêng đang tự làm trọn trong hình tướng con người. |
So the Soul knocks at the gateway, and the door swings open to let it through. It passes into the Outer Court. Through that Court it has to go, traversing it step by step until it reaches the first of the gateways that lead into the Temple itself. This is the first of those four gateways, every one of which is one of the great Initiations. Beyond the first of which no Soul may tread that has not embraced the Eternal for evermore and given up its interest in mere transitory things. For when once a Soul has passed through the gateway of the Temple, it goeth out no more. It has chosen its lot for all the millenniums to come. | Thế là Linh hồn gõ cổng, và cánh cửa mở ra cho nó đi qua. Nó bước vào Sân Ngoài. Qua Sân ấy nó phải đi, băng qua từng bước cho đến khi đến cổng thứ nhất dẫn vào chính Đền Thờ. Đây là cổng đầu tiên trong bốn cổng, mà mỗi cổng là một cuộc Điểm đạo vĩ đại. Không một Linh hồn nào có thể đi xa hơn cổng thứ nhất nếu chưa ôm lấy Điều Vĩnh cửu đến muôn đời và từ bỏ mối quan tâm đối với những điều phù du chóng qua. Vì một khi Linh hồn đã đi qua cổng của Đền Thờ, nó sẽ không còn đi ra nữa. Nó đã chọn phần của mình cho mọi thiên niên kỷ sắp tới. |
Within the Temple itself, the first great Initiation lies. But the Soul whose progress we are tracing is as yet only going to prepare itself in this Outer Court, in order that in lives to come it may be able to ascend the seven steps to the first gateway and await permission to pass over the threshold. | Ngay trong Đền Thờ, lần điểm đạo thứ nhất an vị. Nhưng Linh hồn mà ta đang theo dõi lúc này mới chỉ chuẩn bị trong Sân Ngoài, để trong những đời sắp tới nó có thể bước lên bảy bậc thang đến cổng thứ nhất và chờ được phép vượt qua ngưỡng cửa. |
What then shall be its work in the Outer Court? How shall it lead its lives therein, in order that it may become worthy to knock at the Temple gate? That is the subject that lies in front of us. I am going to try to put it before you, if I may speak but to one or two to whom the speaking may appeal. For well I know, brothers and sisters mine, in depicting this Outer Court, that I may say much that may seem unattractive, much that may seem even repellent. | Vậy, công việc của nó trong Sân Ngoài là gì? Nó sẽ sống những đời sống tại đó ra sao để xứng đáng gõ vào cổng Đền Thờ? Ấy là đề tài trước mắt chúng ta. Tôi sẽ cố gắng trình bày với các bạn, nếu tôi có thể nói chỉ cho một hai người mà lời nói có thể chạm tới. Vì tôi biết rõ, các huynh đệ trai gái của tôi ơi, khi phác họa Sân Ngoài này, rằng tôi có thể nói nhiều điều có vẻ không hấp dẫn, thậm chí có phần gây phản cảm. |
Hard enough is it to find the way to the Outer Court. Difficult enough is it to practise religion and all the virtues which make the human Soul fit even to knock at its gateway. They who enter into that Court have made great progress in their past. It may be that to some, the life led therein may scarce seem attractive—to some who have not yet definitely recognised the aim and the end of life. For, mind you, none are in the Outer Court save those who have definitely vowed themselves to service. Those who have given everything and have asked for nothing in return save the privilege of serving. Those who have definitely recognised the transitory nature of earthly things and have turned their backs on the flowery paths, resolutely determined to climb straight upwards, no matter what the cost. There is to be struggle, and much of it, in this Outer Court, for much has to be done in a brief space of time. | Tìm được đường vào Sân Ngoài đã đủ gian nan. Thực hành tôn giáo và mọi đức hạnh khiến Linh hồn con người đủ tư cách để gõ cổng của nó đã đủ khó. Những ai bước vào Sân ấy đã tiến bộ lớn lao trong quá khứ. Có thể với một số người, đời sống ở đó hầu như không hấp dẫn—với những ai chưa nhận ra một cách dứt khoát mục tiêu và cùng đích của đời sống. Xin nhớ, không ai ở trong Sân Ngoài trừ những người đã dứt khoát thệ nguyện phụng sự. Những người đã dâng hiến tất cả và chẳng đòi gì đáp lại ngoài đặc ân được phụng sự. Những người đã rành rẽ nhận ra bản chất phù du của sự vật trần gian và đã quay lưng với những lối mòn đầy hoa, quyết chí leo thẳng lên trên, bất kể giá nào. Sẽ có chiến đấu, và rất nhiều, trong Sân Ngoài này, vì phải làm rất nhiều trong một khoảng thời gian ngắn ngủi. |
The divisions of this work that I have made are arbitrary. They are not steps across the Court, for each of these divisions has to be taken at one and the same time. It is a simultaneous training and is not divided into stages as I have had to divide it for clearness of explanation. I have called these divisions “Purification,” “Thought Control,” the “Building of Character,” “Spiritual Alchemy,” and “On the Threshold.” These divisions do not mean that each is to be taken separately, because all these things have to be done at one and the same time. The Soul that is spending its lives in the Outer Court is busy with all this work. It is these tasks that it must partially, at least, have learned to accomplish, ere it dare stand at the Temple gate itself. | Những phân mục của công việc mà tôi nêu ra là do tôi tạm chia. Chúng không phải là các bậc thang băng qua Sân, vì mỗi phân mục trong đó phải được đảm đương đồng thời. Ấy là một sự rèn luyện đồng thời, không chia thành các chặng như tôi buộc phải chia ra để giải thích cho rõ. Tôi gọi các phân mục ấy là “Thanh lọc,” “Chế ngự tư tưởng,” “Lập hạnh,” “Luyện kim tinh thần,” và “Trên Ngưỡng Cửa.” Các phân mục này không có nghĩa là mỗi phần được làm riêng rẽ, vì tất cả phải được thực hiện cùng lúc. Linh hồn đang sống những đời của mình trong Sân Ngoài bận rộn với tất cả công việc này. Ít nhất, đó là những nhiệm vụ nó phải phần nào học được cách hoàn thành, trước khi dám đứng ngay cổng Đền Thờ. |
If I take them now one by one, it is in order that we may understand them the better. But we must also understand throughout that it is not perfect accomplishment of any one of them that the Soul must have achieved ere it may reach the gateway of the first Initiation. It must have only partially accomplished them. It must be striving with some success, understanding its work and doing it with diligence. When the work is perfectly accomplished, it will be in the Holy of Holies itself. | Nếu giờ tôi lần lượt nêu ra từng mục, là để chúng ta hiểu chúng rõ hơn. Nhưng suốt dọc, ta cũng phải hiểu rằng Linh hồn không cần phải hoàn tất trọn vẹn bất cứ mục nào trước khi có thể đến cổng của lần điểm đạo thứ nhất. Nó chỉ cần hoàn thành phần nào. Nó phải đang nỗ lực với một mức thành công nhất định, hiểu công việc của mình và làm với chuyên tâm. Khi công việc được hoàn tất trọn vẹn, ắt là ở ngay Nơi Cực Thánh. |
Purification then is to be part of its work: self-purification, the purification of the lower nature, until every part of it vibrates perfectly in harmony with the higher. Everything that belongs to the temporary part of man, to that which we call the personality, must be made pure. The personality does not contain the permanent individual but is only the assemblage of qualities that the individual gathers round it in the course of each of its many lives. All the outer qualities and attributes around the Soul, all these garments in which it clothes itself, all that it takes up as it comes back to incarnation, all that it builds during incarnation—out of this, it extracts the essence to transfuse into its own growing and eternal Self. | Vậy, Thanh lọc sẽ là một phần công việc: tự thanh lọc, thanh lọc bản tính thấp, cho đến khi mọi phần của nó rung lên hoà điệu hoàn toàn với phần cao. Tất cả những gì thuộc về phần tạm bợ của con người, tức phần mà chúng ta gọi là phàm ngã, đều phải được làm cho trong sạch. Phàm ngã không chứa đựng cá thể trường tồn mà chỉ là tập hợp các phẩm tính mà cá thể gom quanh mình trong tiến trình của mỗi một trong nhiều đời sống. Tất cả phẩm tính và thuộc tính ở vòng ngoài quanh Linh hồn, tất cả những áo quần mà nó khoác vào, mọi thứ nó nhận lấy khi trở lại lâm phàm, mọi thứ nó xây trong lúc lâm phàm—từ đó, nó trích lấy tinh hoa để truyền vào Tự Ngã đang lớn lên và vĩnh cửu của mình. |
A phrase that very well symbolises the position of the Soul at this moment is “allegiance to the Higher Self,” a useful expression used lately by Mr. Sinnett. It means the deliberate decision that all that is temporary and belongs to the lower personality shall be cast aside. Each life in this lower world shall be devoted to the single purpose of gathering useful material, which shall then be handed on to the Higher One. The lower self, realising it is one with the greater Self above it, determines that its whole life shall be spent in that service. The life’s purpose is merely the gathering of material to be taken back to the Higher, who is the essence of itself, and who shall thus build up the ever-growing individuality. | Một cụm từ rất khớp để tượng trưng cho vị thế của Linh hồn lúc này là “tận trung với Chân ngã,” một cách nói hữu ích gần đây được Ông Sinnett dùng. Nó có nghĩa quyết định có ý thức rằng mọi điều tạm bợ thuộc phàm ngã thấp đều phải được gạt bỏ. Mỗi đời sống dưới cõi thấp này sẽ được hiến cho một mục đích duy nhất là thu góp vật liệu hữu ích, rồi chuyển giao cho Đấng Cao Hơn. Cái tôi thấp, nhận ra nó là một với Đại Ngã ở trên, quyết định hiến trọn đời sống mình cho sự phụng sự ấy. Mục đích của đời sống chỉ là thu lượm vật liệu để mang về cho Đấng Cao Hơn, Đấng vốn là tinh yếu của chính nó, và như thế sẽ xây dựng nên cá tính trường tồn đang tăng trưởng. |
This “allegiance to the Higher Self” means the recognition of this service by the lower. It is the living of the lower no longer for itself but for the purpose of serving that which endures. So all the life in the Outer Court is to be this life of definite allegiance, and all the work done is for the sake of that greater One, who is now realised as the true Self. | Cái gọi là “tận trung với Chân ngã” này nghĩa là sự thừa nhận sự phụng sự ấy bởi phần thấp. Tức là sống phần thấp không còn vì chính nó nữa mà vì mục đích phụng sự cái bền lâu. Vậy mọi đời sống trong Sân Ngoài sẽ là một đời sống tận trung xác quyết, và mọi công việc làm đều vì Đấng Lớn Hơn ấy, nay được nhận ra là Chân Ngã thật sự. |
In this work, that which is sometimes spoken of in the great Scriptures as a preliminary step is one that I am imagining as now lying behind the Soul. You may remember reading in one of the greatest of the Upanishads that if a man would find the Soul, the first thing to do is to “cease from evil ways.” I am presuming the Soul has done that ere it entered the Outer Court. For those who enter it are no longer subject to the commonest temptations of earth-life. They have grown beyond those. When they come into the incarnation which is to see them within the Outer Court, they will at least have turned from evil ways. | Trong công việc này, điều đôi khi được nói đến trong các Kinh điển vĩ đại như một bước sơ bộ là điều mà tôi hình dung là đã nằm phía sau Linh hồn. Các bạn hẳn nhớ đã đọc trong một trong những Áo Nghĩa Thư vĩ đại rằng nếu con người muốn tìm Linh hồn, điều đầu tiên phải làm là “đoạn ác hạnh.” Tôi giả định Linh hồn đã làm điều đó trước khi bước vào Sân Ngoài. Vì những ai vào đó không còn bị lệ thuộc vào những cám dỗ tầm thường nhất của đời sống trần gian. Họ đã vượt khỏi chúng. Khi họ đến với kiếp lâm phàm vốn sẽ thấy mình trong Sân Ngoài, ít nhất họ đã quay lưng với các nẻo ác hạnh. |
If ever they are found in such ways at all, it will be by a sudden slip immediately retrieved. They will have been born into the world with a conscience which refuses to let them go wrong when the right is seen. And though the conscience might have sometimes blundered in its choice, still it would be keenly desirous to choose rightly. The lower self would not deliberately go against this voice. Anyone who deliberately goes against the voice of conscience has not entered into this Outer Court at all. The Souls that have entered therein have at least chosen to strive after the right. They would come into this world with that much of their climbing behind them and with a deliberate will to do the highest that they see. | Nếu họ còn bị bắt gặp trong những nẻo ấy, thì đó cũng chỉ là một trượt ngã bất chợt rồi được sửa ngay. Họ sẽ sinh ra đời với một lương tâm không cho phép họ làm điều sai khi đã thấy điều đúng. Và tuy lương tâm có khi lầm lạc trong sự chọn lựa, nó vẫn khao khát mãnh liệt chọn điều phải. Cái tôi thấp sẽ không cố ý đi ngược lại tiếng nói ấy. Ai cố ý đi ngược tiếng nói lương tâm thì chưa hề bước vào Sân Ngoài này. Những Linh hồn đã vào đó ít nhất đã chọn phấn đấu vì điều phải. Họ đến với đời này với chừng ấy bước leo sau lưng và với một ý chí quả quyết làm điều cao nhất mà họ thấy. |
They now will have to deal with subtler temptations, not with the grosser temptations of the outside world, but with the subtler and keener temptations that come to the Soul when it has to live so swiftly through its lives. For indeed it has no time to waste in paltering with temptations, in slowly building virtue. It must climb onwards and upwards ever. It will find intellectual temptations all round it—temptations to intellectual ambition, to intellectual pride, to be proud of what it has gathered. | Giờ đây họ sẽ phải đối diện với những cám dỗ tinh vi hơn, không còn là các cám dỗ thô lậu của thế giới bên ngoài, mà là những cám dỗ tinh tế và sắc bén hơn đến với Linh hồn khi nó phải sống đời mình quá đỗi mau lẹ. Vì thật sự nó không có thời gian lãng phí để cò kè với cám dỗ hay chậm rãi xây đức. Nó phải luôn luôn đi lên. Nó sẽ thấy mọi phía bao quanh đầy cám dỗ mang tính trí tuệ—cám dỗ bởi tham vọng trí tuệ, bởi kiêu mạn trí tuệ, bởi niềm kiêu hãnh về điều nó đã tích lũy. |
Not only will it feel this strong grip of ambition, this grasping pride that would build a wall between itself and those below it, but it will also have a desire for knowledge for itself. A desire for knowledge that it may gain and hold rather as against the world than for it. This temptation veils itself as love of knowledge for its own sake, and love of truth for its own sake. Oftentimes the Soul finds that this supposed aspiring love is often only the desire to be separated from its fellows, to have what they do not share. | Không chỉ nó sẽ cảm thấy sức nắm mạnh mẽ của tham vọng ấy, niềm kiêu hãnh nắm giữ muốn dựng một bức tường giữa nó với những ai ở dưới, mà nó còn có ước muốn tri thức vì chính tri thức. Một ước muốn tri thức để nó có thể chiếm lĩnh và nắm giữ tri thức như là chống lại thế gian hơn là vì thế gian. Cám dỗ này che mình như tình yêu tri thức vì chính tri thức, và tình yêu chân lý vì chính chân lý. Nhiều khi Linh hồn nhận ra rằng cái gọi là tình yêu hướng thượng ấy thường chỉ là ước muốn tách biệt khỏi đồng loại, sở hữu cái mà họ không có. |
This separateness is one of the great dangers of the growing Soul: the pride in separateness and the desire to be separated. The desire to grow and learn and achieve in order that it may possess. This is one of the temptations that will touch it even when it has passed through the gateway of the Outer Court. For the Soul will see knowledge within its grasp and will desire to hold it; will see power within its grasp and will desire to have it. Not only for the sake of service, but also partly because these make itself the greater. | Tính biệt lập này là một trong những nguy cơ lớn của Linh hồn đang trưởng thành: sự kiêu hãnh trong tính biệt lập và ước muốn tách biệt. Ước muốn tăng trưởng, học hỏi và thành tựu để sở hữu. Ấy là một trong những cám dỗ sẽ chạm đến nó ngay cả khi nó đã bước qua cổng Sân Ngoài. Vì Linh hồn sẽ thấy tri thức nằm trong tầm tay và muốn nắm giữ nó; thấy quyền lực trong tầm tay và muốn có nó. Không chỉ vì phụng sự, mà phần nào còn vì những điều ấy làm cho chính nó trở nên lớn hơn. |
Presently it begins to understand that if it would ever traverse the Outer Court and reach the gateway shining ahead, it must get rid of all this intellectual ambition, pride, and desire for knowledge held for itself. It must get rid of everything that makes it separate from its brother Souls. Then it will begin to purify its intellectual nature. It will begin to scrutinise the motives which impel it to effort and action. It will begin carefully to look at itself in the light that shines from the Temple, illuminating this Outer Court with rays of spiritual Life. In that light, every shadow seems darker, and the very things that look bright in the lower world are seen to be shadows. | Rồi thì nó bắt đầu hiểu rằng nếu muốn băng qua Sân Ngoài và chạm tới cổng sáng lấp lánh ở phía trước, nó phải vứt bỏ hết mọi tham vọng trí tuệ, kiêu mạn và ước muốn tri thức vì chính mình. Nó phải loại bỏ mọi thứ làm nó tách biệt khỏi các Linh hồn huynh đệ. Lúc đó nó sẽ bắt đầu thanh lọc bản tính trí tuệ. Nó sẽ bắt đầu xét nét các động cơ thôi thúc nó nỗ lực và hành động. Nó sẽ bắt đầu nhìn kỹ chính mình dưới ánh sáng chiếu từ Đền Thờ, soi rạng Sân Ngoài này bằng những tia của Sự Sống tinh thần. Trong ánh sáng ấy, mỗi cái bóng càng thêm đậm, và ngay những điều trông sáng ở cõi thấp lại thấy là bóng tối. |
Then the Soul will realise that this desire-nature, which mixes itself with the intellectual, has to be purified from every touch of the personal self. It will deliberately begin this work of purification, consciously and steadfastly setting itself to purge out everything which strives to take for the personality and everything which makes it separate from those below it as well as from Those above. For the Soul learns—and it is one of the lessons of the Outer Court—that there is only one way which these doors swing open: by the breaking down of the walls that separate it from its fellows below. Then the walls that separate it from those in front disappear. For that gate will only open to him who desires passage as he breaks down the walls of his own nature and is willing to share with all that which he achieves. | Khi ấy Linh hồn sẽ nhận ra rằng bản tính ham muốn, vốn xen lẫn với trí năng, phải được thanh lọc khỏi mọi chạm đụng của cái tôi cá nhân. Nó sẽ cố ý khởi sự công việc thanh lọc này, kiên định và có ý thức, tự đặt mình vào việc tẩy trừ mọi thứ đang tìm lấy về cho phàm ngã và mọi thứ làm nó biệt lập khỏi những ai ở dưới cũng như khỏi Những Đấng ở trên. Vì Linh hồn học được—và đó là một bài học của Sân Ngoài—rằng chỉ có một cách làm cho các cánh cửa kia mở ra: bằng cách phá vỡ những bức tường ngăn nó với những đồng loại ở dưới. Bấy giờ các bức tường ngăn nó với những ai ở phía trước sẽ biến mất. Vì cánh cổng chỉ mở cho kẻ khát vượt qua khi y phá vỡ những bức tường của chính bản tính mình và sẵn lòng chia sẻ với tất cả những gì y đạt được. |
Thus, he begins this work of purifying the desire-nature. He takes this lower self in hand to purge out everything which is personal. How shall he purify himself? He does not want to destroy, for what he has gathered is experience, and experience has been built into faculty and transmuted into power. He now needs all these powers. He wants to take them on with him, but to take them purified instead of foul. How then shall he purify them? | Thế là y bắt đầu công việc thanh lọc bản tính ham muốn. Y nắm lấy phàm ngã thấp để tẩy trừ mọi thứ mang tính cá nhân. Y sẽ thanh lọc mình ra sao? Y không muốn hủy diệt, vì những gì y đã tích lũy là kinh nghiệm, và kinh nghiệm đã được xây vào năng lực và chuyển hoá thành quyền năng. Giờ đây y cần tất cả những quyền năng ấy. Y muốn mang chúng theo, nhưng mang theo trong sạch thay vì uế tạp. Vậy y sẽ thanh lọc chúng thế nào? |
It would be so much easier to destroy. It would need so much less patience to kill some of these qualities. He feels as if he could strike at them and slay them. But it is not thus that he can enter into the Temple. For he must take there, as his sacrifice to be offered on the very threshold, everything that he has gathered in his past. He must not go in thither empty-handed. So he dares not destroy; he must perform the harder work of purification. He must keep the essence of all the qualities, while he strikes away from them everything that is personal. All the lessons he has learnt of virtue and of vice are the experiences he has gathered. He must take the essence of every quality with him, but he must take them as pure gold to the altar, with no dross mingled. | Hủy diệt thì sẽ dễ hơn nhiều. Sẽ cần ít nhẫn nại hơn nhiều để giết đi vài phẩm tính. Y cảm thấy như thể có thể vung tay đánh gục chúng. Nhưng không phải thế mà y có thể bước vào Đền Thờ. Vì y phải mang đến đó, như của lễ dâng ngay trên ngưỡng cửa, tất cả những gì y đã gom nhặt trong quá khứ. Y không được vào đó tay không. Vậy nên y không dám phá hủy; y phải làm công việc khó hơn là thanh lọc. Y phải giữ tinh chất của mọi phẩm tính, đồng thời chặt bỏ khỏi chúng mọi thứ mang tính cá nhân. Mọi bài học y đã học từ đức hạnh và cả từ lỗi lầm đều là kinh nghiệm y đã thu lượm. Y phải mang tinh chất của mỗi phẩm tính theo mình, nhưng phải mang chúng như vàng ròng dâng lên bàn thờ, không pha lẫn cặn bã. |
Let us take one or two of these qualities to see clearly what purification means. If we understand it for one or two, then we can work it out for the rest. | Chúng ta hãy lấy một hai phẩm tính để thấy rõ thanh lọc nghĩa là gì. Nếu hiểu điều đó với một hai phẩm tính, ta có thể tự mình áp dụng cho phần còn lại. |
Let me take first a mighty force in every human being, which he develops in the low stages of his growth: the quality that in its lowest stage we know as anger, or wrath. It is that tremendous power by which he fights his way through the world. An undisciplined energy, destructive because it is undisciplined. The man, ere he entered the Outer Court, has somewhat changed that energy. He has changed it into a virtue: noble indignation, passion against injustice, hatred of all that was wrong and base and cruel. And it did good service in the outer world. | Hãy lấy trước hết một mãnh lực hùng hậu trong mọi con người, thứ mà y phát triển trong những giai đoạn thấp của trưởng thành: phẩm tính mà ở mức thấp nhất chúng ta gọi là giận dữ, hay thịnh nộ. Ấy là sức mạnh ghê gớm nhờ đó y mở lối vượt qua thế gian. Một năng lượng vô kỷ luật, phá hoại vì thiếu kỷ luật. Người ấy, trước khi bước vào Sân Ngoài, đã phần nào chuyển hóa năng lượng ấy. Y đã biến nó thành một đức hạnh: phẫn nghĩa cao quý, đam mê chống lại bất công, căm ghét mọi điều sai trái, hèn hạ và tàn bạo. Và nó đã phục vụ tốt nơi thế giới bên ngoài. |
For this man had been working for the world, practising this virtue. When he saw cruelty done upon the weak, his passion broke forth. When an injustice was wrought by a tyrant, he rose up in indignation. He had learned to purify it from much of the dross. The anger he had in his earlier lives was for himself. He was wrathful when injured. He struck back when struck. But he had long ago conquered that mere brute wrath. He had learned to be angry less because he himself was injured than because someone else was wronged. When he saw some cruel creature trampling on a helpless one, he sprang forward to rescue. In that way, he had used the higher anger to conquer the lower. He had learned to be no longer angry for himself, but angry only for those whom he desired to help. | Vì con người này đã làm việc cho thế gian, thực hành đức hạnh đó. Khi thấy điều tàn bạo giáng xuống kẻ yếu, ngọn nhiệt tình của y bùng dậy. Khi một bạo chúa làm điều bất công, y vùng lên trong phẫn nộ. Y đã học gạn lọc khỏi nó nhiều cặn bã. Cơn giận y từng có trong những đời trước là vì chính mình. Y nổi giận khi bị xúc phạm. Y đánh trả khi bị đánh. Nhưng từ lâu y đã chế phục cơn thịnh nộ thú tính ấy. Y đã học không còn giận vì bản thân mà chỉ nổi giận khi ai khác bị làm điều sai. Khi thấy một kẻ hung tàn giày xéo một kẻ bất lực, y lao lên giải cứu. Bằng cách đó, y dùng cơn giận cao hơn để trị cơn giận thấp hơn. Y đã học không còn giận cho mình, mà chỉ giận thay cho những người y muốn trợ giúp. |
He was a man who had long recognised service as duty, and one of his ways of service was by striking down oppressors. This anger of his blazed up hotly against all forms of wrong. But within that calmer atmosphere of the Court of the Temple, illuminated by the rays of absolute compassion, there is no place for anger of any sort. For the aspirant has now to learn that those who do the wrong are also his brothers, and that they suffer more in their wrongdoing than do their fellow-men. He has to learn that this noble indignation is not the characteristic of the Soul striving onwards towards the Divine. For the Divine Life loves all the children that It sends into the world. | Y là người đã từ lâu nhận ra phụng sự là bổn phận, và một trong những cách phụng sự của y là đập tan bọn áp bức. Cơn giận này của y bùng lên dữ dội chống lại mọi dạng sai trái. Nhưng trong bầu khí nhẹ nhàng hơn của Sân Đền Thờ, được chiếu rọi bởi những tia từ bi tuyệt đối, thì không có chỗ cho bất kỳ dạng giận dữ nào. Vì người chí nguyện giờ phải học rằng những kẻ làm điều sai cũng là anh em của mình, và họ còn đau khổ hơn trong hành vi sai trái của họ so với đồng loại của họ. Y phải học rằng phẫn nghĩa cao quý không phải là đặc tính của Linh hồn đang hướng thượng về phía Thiêng liêng. Vì Sự Sống thiêng liêng yêu thương tất cả những đứa con mà Nó phóng ra thế gian. |
The Love of the Divine that emanated all has nothing outside Itself. The Life that is Divine is the core of everything that exists. God is present in the heart of the evil-doer as well as in the heart of the saint. Within the Outer Court, the Divine must be recognised, no matter how thick are the veils that hide it. Therefore, this noble indignation is to be purified until it is changed into an energy that leaves nothing outside its helpful range. It must become an energy that is absolutely pure, that goes out to help the tyrant as well as the slave. For the Saviours of men choose not whom They will serve. Their service knows no limitations. That which once was anger has to become, by purification, protection for the weak, impersonal opposition to strong evil-doing, and perfect justice to all. | Tình Thương của Đấng Thiêng liêng, Đấng đã xuất lộ muôn loài, không có gì ở bên ngoài Chính Ngài. Sự Sống Thiêng liêng là lõi tâm của mọi hiện hữu. Thượng đế hiện diện trong tim của kẻ làm điều ác cũng như trong tim của vị thánh. Trong Sân Ngoài, phải nhận ra Đấng Thiêng liêng, bất kể các màn che có dày đến đâu. Bởi thế, phẫn nghĩa cao quý này cần được thanh lọc cho đến khi nó biến thành một năng lượng không để bất cứ gì ngoài tầm tay giúp đỡ của mình. Nó phải trở thành một năng lượng tuyệt đối tinh khiết, vươn ra để trợ giúp cả bạo chúa lẫn nô lệ. Vì các Đấng Cứu Rỗi của nhân loại không chọn xem Các Ngài sẽ phục vụ ai. Sự phụng sự của Các Ngài không hề có giới hạn. Điều từng là cơn giận phải trở thành, qua thanh lọc, che chở kẻ yếu, chống đối vô ngã trước hành vi ác mạnh mẽ, và công chính tuyệt đối với mọi người. |
And so again as he does with anger, he must do with love. Love that began in its lowest and poorest form, perhaps in forms that were foul and vile, that only knew the goings outward to another. As the Soul has been growing upwards, love has changed its character, become nobler, less selfish, less personal. It has attached itself to the higher elements in the beloved instead of to the outer casing. The love that was sensual has become moralised and purified. It must be made still purer when the candidate has come within the Outer Court. He must carry in with him love, but it is love that must have begun to lose its exclusiveness. It must keep its fire ever burning more warmly, but the warmth must spread out further and further. That means that the love shall be a love that in going out to others shall always seek to serve them rather than to serve itself. It shall always seek how much it may give rather than how much it may take. And so, a love that will be becoming gradually Divine, going out according to the measure of the need rather than according to the richness of the return. | Và rồi, cũng như đối với giận dữ, y phải làm như thế với tình thương. Tình thương bắt đầu ở dạng thấp hèn nhất và nghèo nàn nhất, có khi dưới những hình thức nhơ bẩn, chỉ biết hướng ra bên ngoài về phía kẻ khác. Khi Linh hồn dần đi lên, tình thương đổi tính, trở nên cao quý hơn, bớt ích kỷ, bớt cá nhân. Nó gắn mình với những yếu tố cao hơn nơi người được yêu thay vì với vỏ bọc bên ngoài. Tình yêu từng là xác dục đã trở nên đạo đức hóa và thanh sạch. Nó phải được làm cho thanh sạch hơn nữa khi ứng viên đã bước vào Sân Ngoài. Y phải mang theo mình tình thương, nhưng đó phải là tình thương đã bắt đầu mất dần tính độc chiếm. Nó phải giữ lửa luôn cháy ấm hơn, nhưng hơi ấm ấy phải lan rộng ra xa hơn và xa hơn. Điều đó có nghĩa là tình thương, khi hướng ra người khác, sẽ luôn tìm cách phục vụ họ hơn là phục vụ chính mình. Nó sẽ luôn tìm xem có thể cho đi bao nhiêu hơn là nhận về bao nhiêu. Và như thế, một tình thương dần trở nên Thiêng liêng, tuôn ra theo tầm mức của nhu cầu hơn là theo độ phong phú của đền đáp. |
As the Soul is thus striving after purification, it will have certain tests. When it is at work using its energy to accomplish some service, it will bring to that service the Ithuriel spear of the absence of personality and will see what starts up in answer. If it finds that when it is doing service, the “I” is subtly mingled with the energy; if it finds that it looks less for the success of the working than for the success of the operator; if it finds that when it fails in its own working but sees that work accomplished by another, there is something of disappointment mingling in its delight; then it knows that the personality is still lingering. If it were what it ought to be, it would care only for the triumph of the service, not for having itself contributed to the triumph. | Khi Linh hồn nỗ lực thanh lọc như thế, nó sẽ có những phép thử. Khi nó làm việc, vận dụng năng lượng để hoàn thành một sự phụng sự nào đó, nó sẽ mang đến cho công việc ấy ngọn giáo Ithuriel của sự vắng bóng phàm ngã và nhìn xem điều gì bật lên đáp lại. Nếu nó nhận ra rằng khi đang phụng sự, “cái tôi” vẫn len lỏi tinh vi trong năng lượng; nếu nó thấy mình trông đợi thành công của người thao tác hơn là thành công của công việc; nếu nó thấy rằng khi nó thất bại trong chính phần việc của mình nhưng nhìn thấy công việc được người khác hoàn tất, có điều gì đó của thất vọng pha vào niềm hoan hỷ; thì nó biết phàm ngã vẫn còn vương. Nếu nó đúng là điều cần phải là, nó sẽ chỉ bận tâm đến thắng lợi của sự phụng sự, chứ không phải việc chính mình đã góp phần vào thắng lợi ấy. |
If it finds that in personal failure there is still a sting of disappointment, something of discouragement which clouds its peace, then it realises that in that sting and in that cloud there is still a part of the personality that needs to be destroyed. It sets to work to get rid of that weakness. | Nếu nó thấy rằng trong thất bại cá nhân vẫn còn mũi nhọn của thất vọng, có điều gì của nản chí phủ bóng bình an, thì nó nhận ra rằng trong mũi nhọn và làn mây ấy vẫn còn một phần của phàm ngã cần phải tiêu trừ. Nó liền bắt tay trừ khử yếu mềm ấy. |
And if it finds, when measuring its love, that there is a little chill, a feeling of disappointment, when that which it has loved remains indifferent to its giving; if it finds that the outward flowing of its love is inclined to shrink backward because those to whom it gives answer not back with love in return; then, again, this Soul knows that in this also there is a subtle lingering of the personality. It knows that it is still working for something for itself and is not finding its highest joy in the mere glory of the giving. Then, again, it sets to work to purify away that lingering part of the personality, until the love flows out, never asking whether aught comes back to it. For it knows in truth that the need for love is greatest where there is no answer of love, and those Souls have the greatest need to receive who themselves at present give nothing. | Và nếu khi đo lường tình thương của mình, nó thấy có chút se lạnh, một cảm giác thất vọng, khi đối tượng từng được yêu vẫn dửng dưng với sự cho đi của nó; nếu nó thấy dòng tuôn chảy ra ngoài của tình thương có khuynh hướng co rút lại bởi những người nhận không đáp trả bằng tình thương; thì lần nữa, Linh hồn này biết rằng ngay trong đó vẫn còn sự phảng phất tinh vi của phàm ngã. Nó biết rằng nó vẫn đang tìm điều gì đó cho riêng mình và chưa tìm thấy niềm vui cao nhất trong chính vinh quang của sự cho đi. Rồi, một lần nữa, nó lo thanh lọc, gạn bỏ phần phàm ngã còn vương, cho đến khi tình thương tuôn chảy mà không bao giờ hỏi có điều gì trở lại với mình hay không. Vì nó biết thật rằng nơi nào không có đáp lại của tình thương thì nhu cầu được yêu lại càng lớn, và những Linh hồn hiện chưa cho gì là những người cần nhận lãnh nhiều nhất. |
In this way, the Soul deliberately labours for growth. It works at itself, purifying always the lower nature with unceasing effort. For ever it is comparing itself not with those who are below it but with Those who are above it. It is ever raising its eyes towards Those who have achieved. It can never for a moment rest until it sees itself ever coming nearer to its goal, until there is less opposition within itself to the passing through it of the light of the Holy Ones. | Như thế, Linh hồn cố ý lao động cho sự tăng trưởng. Nó làm việc với chính mình, không ngừng thanh lọc bản tính thấp. Nó luôn luôn so chiếu mình không phải với những ai ở dưới mà với Những Đấng ở trên. Nó luôn ngước mắt hướng về Những Đấng đã thành tựu. Nó không thể nghỉ một thoáng cho đến khi thấy mình càng lúc càng gần đích, cho đến khi có ít chướng ngại hơn trong chính mình đối với việc ánh sáng của các Đấng Thánh rọi xuyên qua. |
Within this Outer Court, the temptations of men are by their virtues, not by their vices. Subtle temptations assail their nature that appear like angels of light. Ever the temptation comes to these Souls by that which is greatest and noblest in them. It is their virtues which are taken and turned into temptations, for they have grown beyond the point where vice could touch them. That is why they learn to be so hard upon themselves, so ceaseless in the demands they make. They know full well by their own slipping that those virtues that are difficult in the lower world become easy within the Outer Court, and that these are then stolen by the enemy to be turned into temptations. | Trong Sân Ngoài này, những cám dỗ của con người đến bằng các đức hạnh của họ, không phải bởi tật xấu. Những cám dỗ tinh vi tấn công bản tánh họ trong dáng vẻ như những thiên sứ của ánh sáng. Cám dỗ đến với các Linh hồn này bằng chính điều cao quý nhất nơi họ. Các đức hạnh của họ bị lấy lên và biến thành cám dỗ, vì họ đã vượt khỏi chỗ tật xấu có thể chạm vào. Bởi vậy, họ học được cách nghiêm khắc với chính mình, không ngừng đòi hỏi nơi bản thân. Họ hiểu rất rõ từ những lần trượt ngã của mình rằng những đức hạnh từng khó nơi cõi thấp trở nên dễ trong Sân Ngoài, và rồi chúng bị kẻ đối nghịch đánh cắp để biến thành cám dỗ. |
Therefore, they learn that the only safety is in living within the light of the Higher Self. They realise that they dare not stand at the Gate of the Temple until that Light shines out radiantly within them. For how shall they dare to pass into a Light to which everything light here is but as shadow? A Light at which no impure eyes can look for its dazzling quality? How shall they dare to go within the Temple, where the Eyes of the Master shall rest upon them, and they shall stand, the Soul naked, in His presence? How shall they dare to stand there, if within the heart there be still one stain of imperfection? | Vì thế, họ học rằng an toàn duy nhất là sống trong ánh sáng của Chân ngã. Họ nhận ra rằng họ không dám đứng nơi Cổng Đền cho đến khi Ánh Sáng ấy rực rỡ chiếu ra trong họ. Vì làm sao dám bước vào một Ánh Sáng mà mọi ánh sáng ở đây chỉ là bóng? Một Ánh Sáng mà không đôi mắt ô uế nào dám nhìn, vì nó chói lòa? Làm sao họ dám vào trong Đền Thờ, nơi Đôi Mắt của Chân sư sẽ dừng lại trên họ, và họ sẽ đứng đó, Linh hồn trần trụi, trước Sự Hiện Diện của Ngài? Làm sao họ dám đứng nơi ấy, nếu trong tâm vẫn còn một vết ố của bất toàn? |
Therefore, in this Outer Court, things that are painful in the world outside become as joy, and the suffering that purifies is the most welcome of friends. Therefore, the pattern of all Yogis, He Who is said to be Himself the Great Yogi, stands ever in the burning-ground, and flames play ever round His presence. For in the hearts of those in the Outer Court, there are still hidden places into which the light has not yet pierced. The final purification ere they enter the Temple comes from these living flames of the Lord Himself, and they burn up all that lurks unseen. | Cho nên, trong Sân Ngoài này, những điều đớn đau ở thế giới bên ngoài lại trở nên niềm vui, và nỗi khổ thanh lọc là người bạn đáng hoan nghênh nhất. Bởi thế, khuôn mẫu của mọi Yogi, Đấng được nói là chính Ngài là Đại Yogi, luôn đứng nơi vùng đất cháy, và lửa bốc vờn quanh Sự Hiện Diện của Ngài. Vì trong tim của những người ở Sân Ngoài vẫn còn các nơi bí ẩn mà ánh sáng chưa thấu đến. Sự thanh lọc sau chót trước khi họ bước vào Đền đến từ những ngọn lửa sống động của chính Chúa Tể, và chúng thiêu rụi mọi điều ẩn nấp chưa lộ. |
He has given himself to his Lord and he keeps nothing back. In that mighty burning ground, which stands before the gateway of the Temple, is the blazing fire through which all must pass. It is beyond the fire and in it that the figure of the Great Yogi is seen, from Whom those flames come forth. It is from Him, the Great Guru, that comes this final purification of the disciple. Then he enters within the gateway that shuts him out for ever from all the interests of the lower world, save that of service. He is separated from all human desires save as he works for the redemption of Humanity. There remains nothing on earth able to attract him, because he has seen the Face of his Lord, and before that, all other lights grow dim. | Y đã hiến mình cho Chúa của y và không giữ lại gì. Trên vùng đất cháy hùng vĩ ấy, ngay trước cổng Đền Thờ, là ngọn lửa bừng bừng mà mọi người đều phải đi qua. Ở bên kia ngọn lửa và ngay trong lửa ấy, hiện ra Hình Tượng của Đấng Đại Yogi, từ Ngài những ngọn lửa ấy tuôn ra. Chính từ Ngài, Đấng Đại Đạo Sư, đến sự thanh lọc sau chót của người đệ tử. Rồi y bước vào cổng, cánh cổng khép y lại vĩnh viễn khỏi mọi mối quan tâm của thế gian thấp, trừ sự phụng sự. Y tách khỏi mọi ham muốn nhân sinh, trừ khi y làm việc cho sự cứu chuộc của Nhân loại. Không còn gì trên đất có thể quyến dụ y, vì y đã thấy Tôn Nhan của Chúa mình, và trước Ánh Sáng ấy, mọi ánh sáng khác đều lu mờ. |