Lecture V—Bài Giảng V
To-night we stand before the Gates of Gold, those Gates that every man may open. Those Gates which, once passed, admit a man into that great Temple from which he who enters goeth out no more. We are to try to-night to realise something of the state of the aspirant approaching the threshold, hoping soon to pass into the Temple, to join the ranks of those set apart for the service of the world. | Đêm nay chúng ta đứng trước Những Cổng Vàng, những Cổng mà mỗi người đều có thể mở. Những Cổng mà, một khi đã vượt qua, mở vào đại Đền—từ đó ai vào rồi thì không còn đi ra nữa. Đêm nay, chúng ta sẽ cố gắng thấu hiểu đôi điều về trạng thái của người chí nguyện đang đến gần ngưỡng cửa, hy vọng sớm vượt vào Đền, để nhập hàng ngũ những người được biệt lập cho công cuộc phụng sự thế gian. |
Looking over the dwellers in this Outer Court, in which we have spent the last four lectures, there is one characteristic common to everyone there: earnestness. They have a definite purpose. They clearly understand their aspiration. This seems to be the most salient characteristic. | Nhìn khắp những người cư ngụ ở Ngoại Viện, nơi chúng ta đã dành bốn buổi thuyết giảng vừa qua, có một đặc tính chung cho mọi người ở đó: tính chí thành. Họ có một mục đích rõ rệt. Họ thấu suốt chí nguyện của mình. Dường như đây là đặc điểm nổi bật nhất. |
Those familiar with sacred literature will remember how much stress is laid on this quality of earnestness. If you look at some ancient Indian books, you will find that heedlessness is marked as one of the most dangerous failings, while earnestness is one of the most valuable attainments. Every one who has reached this stage has passed beyond the bounds of creed, realising that all religions teach the same great truths and seek the same goal. It is not surprising that Scriptures from different faiths, coming from the same great Brotherhood of Teachers, note the same characteristics. | Những ai quen thuộc với thánh điển sẽ nhớ rằng các kinh điển nhấn mạnh biết bao vào phẩm chất chí thành này. Nếu bạn đọc những sách cổ Ấn Độ, bạn sẽ thấy rằng phóng dật được ghi là một trong những lỗi lầm nguy hiểm nhất, trong khi chí thành là một trong những thành tựu quý báu nhất. Mỗi người đã đạt đến giai đoạn này đều đã vượt ngoài biên giới giáo phái, nhận ra rằng mọi tôn giáo dạy cùng những chân lý vĩ đại và tìm cùng một cứu cánh. Không lạ gì khi Kinh Thánh từ các tôn giáo khác nhau, xuất phát từ cùng một Đại Huynh đệ Đoàn các Huấn Sư, đều ghi nhận cùng những đặc tính. |
As clearly, perhaps, as anywhere else, you will find this quality worked out in the second chapter of the Dhammapada. It says there: | Có lẽ rõ ràng, như bất kỳ nơi nào khác, bạn sẽ thấy phẩm chất này được triển khai trong chương thứ hai của Kinh Pháp Cú . Ở đó nói: |
If an earnest person has roused himself, if he is not forgetful, if his deeds are pure, if he acts with consideration, if he restrains himself, and lives according to law, then his glory will increase. | Nếu một người chí thành đã tự thúc tỉnh, nếu y không phóng dật, nếu hành vi của y thanh tịnh, nếu y hành động có suy xét, nếu y tự chế, và sống thuận theo định luật, thì vinh quang của y sẽ tăng trưởng. |
By rousing himself, by earnestness, by restraint and control, the wise man may make for himself an island which no flood can overwhelm. | Nhờ tự thúc tỉnh, nhờ chí thành, nhờ tự kiềm và chế ngự, người trí có thể làm cho mình một hòn đảo mà không lũ nào có thể ngập tràn. |
Fools follow after vanity, men of evil wisdom. The wise man keeps earnestness as his best jewel. | Kẻ ngu đuổi theo phù hoa, hạng trí khôn tà. Người trí giữ chí thành như bảo châu quý nhất. |
Follow not after vanity, nor after the enjoyment of love and lust! He who is earnest and meditative obtains ample joy. | Đừng đuổi theo phù hoa, cũng đừng theo sự hưởng thụ ái dục! Ai chí thành và tham thiền thì được hoan lạc dồi dào. |
When the learned man drives away vanity by earnestness, he, the wise, climbing the terraced heights of wisdom, looks down upon the fools; serene he looks upon the toiling crowd, as one that stands on a mountain looks down upon them that stand upon the plain. | Khi người học biết xua phù hoa bằng chí thành, y, người trí, leo lên những tầng bậc của minh triết, nhìn xuống kẻ ngu; an tĩnh y nhìn đám đông lao nhọc, như người đứng trên núi nhìn người đứng dưới đồng bằng. |
Earnest among the thoughtless, awake among the sleepers, the wise man advances like a racer, leaving behind the hack. | Chí thành giữa đám lơ đễnh, tỉnh thức giữa kẻ đang ngủ, người trí tiến lên như kỵ mã vượt xa con ngựa còm. |
By earnestness did Maghavan rise to the lordship of the Gods. People praise earnestness; thoughtlessness is always blamed. | Nhờ chí thành mà Maghavan đã lên ngôi chúa của chư Thiên. Người ta tán dương chí thành; phóng dật thì luôn bị chê trách. |
A Bhikshu who delights in earnestness, who looks with fear on thoughtlessness, moves about like fire, burning all his fetters, small or large. | Một vị Tỳ-kheo vui thích trong chí thành, nhìn phóng dật với sợ hãi, đi lại như lửa, thiêu tan mọi xiềng xích, lớn hay nhỏ. |
In looking back over the work we have been tracing, you may see how earnestness underlies the whole purification of nature, control of thoughts, building of character, and transmutation of lower qualities. The whole work presupposes the earnest nature that has recognised its object and is seeking its goal. | Khi nhìn lại công việc chúng ta đã truy nguyên, bạn sẽ thấy chí thành là nền tảng của toàn bộ sự thanh lọc bản tính, sự kiểm soát tư tưởng, lập hạnh và chuyển hoá các phẩm chất thấp. Toàn bộ công cuộc tiền giả định một bản chất chí thành đã nhận biết mục đích và đang tìm kiếm cứu cánh. |
This, then, may be taken as the common characteristic of all who are in the Outer Court. It is worth noting that this characteristic shows itself in a salient way to those whose eyes are opened. You know that a person’s character may be read in what is called the aura. You may remember that in dealing with the evolution of man, I suggested that in early days, the Soul is an indefinite thing, like a wreath of mist with no clear outline. | Vậy, điều này có thể được xem là đặc tính chung của mọi người trong Ngoại Viện. Đáng chú ý rằng đặc tính này bộc lộ rõ nét trước mắt những ai có nhãn lực khai mở. Bạn biết rằng tính cách của một người có thể được đọc trong cái gọi là hào quang. Bạn có thể nhớ rằng khi luận về tiến hoá của con người, tôi từng gợi ý rằng thời kỳ đầu, Linh hồn là một điều mơ hồ, như một vòng sương chẳng có đường nét rõ. |
Now, as the Soul progresses, this mist-wreath assumes a more definite form, and the aura takes a correspondingly definite shape. Instead of ending vaguely, it will take a clear outline. The more the individuality is formed, the more definite this outline becomes. If you were looking at people in the Outer Court, this would be a visible characteristic: people whose auras are well defined. This clearness of marking is the outer sign of the inward definiteness the Soul is assuming. | Nay, khi Linh hồn tiến bộ, vòng sương ấy mang một hình thể rõ rệt hơn, và hào quang có hình thể tương ứng rõ rệt. Thay vì kết thúc mơ hồ, nó sẽ mang một đường viền rõ. Cá tính càng được hình thành, đường viền này càng rõ. Nếu bạn quan sát những người trong Ngoại Viện, đây sẽ là một đặc điểm có thể nhìn thấy: những người có hào quang được định hình rõ. Sự rành mạch này là dấu hiệu bên ngoài của tính dứt khoát bên trong mà Linh hồn đang mang lấy. |
I am saying this so you may understand that the condition of the Soul marks itself as it advances. It is not a thing where mistake can arise. The position of the Soul is not given by arbitrary favour or chance. It is a clear and definite condition, showing qualities achieved and powers gained. These are marked out clearly, visible to any observer with sight beyond the physical. The quality of earnestness results in developing individuality and giving this clear definiteness to the aura. | Tôi nói điều này để bạn hiểu rằng tình trạng của Linh hồn tự nó ghi dấu khi nó tiến bước. Ấy không phải điều có thể nhầm lẫn. Địa vị của Linh hồn không được ban bởi ân sủng võ đoán hay tình cờ. Đó là một tình trạng rõ rệt, minh bạch, phô bày những phẩm tính đã đạt và những quyền năng đã thâu. Chúng được ghi nét rõ ràng, khả kiến đối với bất kỳ người quan sát nào có nhãn lực vượt ngoài hồng trần. Phẩm chất chí thành đưa đến việc phát triển cá tính và đem lại cho hào quang sự rành mạch minh bạch này. |
While the aspirants are in the Outer Court, it has been said in that wonderful treatise, Light on the Path, that the initiations are those of life. They are not the clear, definite Initiations that come later, within the Temple. They are constant initiations that come in the candidate’s daily life. In a very real sense, life may be said to be the great Initiator. All the ordeals through which the candidate passes prove his strength and develop his faculties. | Khi các người chí nguyện còn ở Ngoại Viện, đã có nói trong trước tác kỳ diệu Ánh sáng trên Đường Đạo rằng những cuộc điểm đạo là của đời sống. Chúng không phải những cuộc Điểm đạo rõ rệt, minh định đến sau, bên trong Đền. Chúng là những cuộc điểm đạo liên tục diễn ra trong đời sống hàng ngày của ứng viên. Theo một nghĩa rất thực, đời sống có thể được gọi là Đấng Điểm đạo vĩ đại. Tất cả những thử luyện mà ứng viên vượt qua chứng nghiệm sức mạnh của y và phát triển các năng năng của y. |
If you turn to that same treatise, you will find certain conditions laid down which are said to be written in every ante-chamber of any Lodge of a real Brotherhood. These rules are mystical but intelligible, though difficulties may arise by taking words too literally. Those four great truths are: | Nếu bạn giở cùng trước tác ấy, bạn sẽ thấy một số điều kiện được nêu rằng người ta nói chúng được ghi trong mọi tiền thất của bất kỳ Hội quán nào của một Huynh đệ Đoàn chân thực. Những quy luật này mang tính huyền nhiệm nhưng có thể thấu hiểu, dù khó khăn có thể nảy sinh khi chấp văn tự quá sát. Bốn chân lý vĩ đại ấy là: |
Before the eyes can see, they must be incapable of tears. | Trước khi đôi mắt có thể thấy, chúng phải trở nên bất năng với lệ. |
Before the ear can hear, it must have lost its sensitiveness. | Trước khi đôi tai có thể nghe, chúng phải đánh mất tính nhạy cảm. |
Before the voice can speak in the presence of the Masters, it must have lost the power to wound. | Trước khi giọng nói có thể cất lên trước mặt các Chân sư, nó phải đánh mất quyền năng gây thương tổn. |
Before the soul can stand in the presence of the Masters, its feet must be washed in the blood of the heart. | Trước khi linh hồn có thể đứng trong sự hiện diện của các Chân sư, chân nó phải được rửa trong máu của trái tim. |
The same writer who gave Light on the Path later explained these truths in certain comments, which deserve careful study. It is said that the meaning of the first phrase, “Before the eyes can see, they must be incapable of tears,” is that the Soul must pass from the life of sensation into the life of knowledge. It must pass beyond where it is constantly shaken by vehement vibrations from the senses. The eyes are the windows of the Soul, and they may be blurred by the moisture of life, the effects of vivid sensations of pleasure or pain. This causes a mist on the windows of the Soul, so it cannot see clearly. | Vị tác giả đã ban Ánh sáng trên Đường Đạo về sau có giải minh các chân lý này trong vài chú giải, đáng được khảo cứu kỹ lưỡng. Người ta nói ý nghĩa của câu đầu, “Trước khi đôi mắt có thể thấy, chúng phải trở nên bất năng với lệ,” là Linh hồn phải vượt từ đời sống của cảm giác sang đời sống của tri thức. Nó phải vượt khỏi nơi mà nó liên tục bị chao đảo bởi những rung động mãnh liệt từ các giác quan. Đôi mắt là cửa sổ của Linh hồn, và chúng có thể bị mờ đi bởi ẩm ướt của đời sống, là các hiệu ứng của những cảm giác khoái lạc hay đau đớn sống động. Điều này gây nên một màn sương trên cửa sổ của Linh hồn, khiến nó không thể thấy rõ. |
The mist comes from the outer world, from the personality, not from the Soul. It is represented by tears, the symbol of violent emotion. Until the eyes have grown incapable of such tears, until the windows are clear and the light of knowledge comes through, it is impossible that the eyes of the Soul shall really see. Not that the disciple will lose his sensitiveness, but that nothing from without will be able to throw him off balance. He will both suffer and enjoy more keenly than other men, but neither will shake him in his purpose. This knowledge is the understanding of the permanent and the incapacity of the transitory to veil the vision of the Soul. | Màn sương đến từ thế giới bên ngoài, từ phàm ngã, không phải từ Linh hồn. Nó được tượng trưng bằng lệ, biểu tượng của xúc động mãnh liệt. Cho đến khi đôi mắt đã trở nên bất năng với những lệ như thế, cho đến khi cửa sổ được trong và ánh sáng của tri thức xuyên qua, thì không thể nào đôi mắt của Linh hồn thật sự thấy. Không phải vì đệ tử sẽ đánh mất tính nhạy cảm, mà vì không có gì từ bên ngoài có thể làm y mất thăng bằng. Y sẽ vừa chịu khổ vừa thọ vui sâu hơn người thường, nhưng không điều gì làm lung lay chí hướng của y. Tri thức này là sự thấu hiểu điều thường hằng và sự bất năng của cái phù du trong việc che mờ thị kiến của Linh hồn. |
And so with the second truth: “Before the ear can hear, it must have lost its sensitiveness”. It must have reached the place of silence. The reason is that though the voice of the Masters is always sounding, men’s ears do not hear it while filled with the sounds of outer life. It is not that the Master does not speak, but that the sounds around the disciple are so loud that this sweeter harmony cannot penetrate. Therefore, silence for a time must come. The disciple must reach a place of silence so the true sound may be heard. | Và tương tự với chân lý thứ hai: “Trước khi tai có thể nghe, chúng phải đánh mất tính nhạy cảm”. Chúng phải đạt đến nơi của im lặng. Lý do là tuy tiếng nói của các Chân sư vẫn luôn vang vọng, đôi tai của con người không nghe được khi còn đầy những âm thanh của ngoại giới. Không phải vì Chân sư không nói, mà vì những âm thanh quanh đệ tử quá lớn đến nỗi hòa điệu êm dịu hơn này không thể xuyên thấu. Bởi vậy, phải có một thời kỳ im lặng. Đệ tử phải đạt đến một nơi im lặng để âm thanh chân thực có thể được nghe. |
Here the same writer speaks of the difficulty when first the silence is felt. Accustomed as we are to sounds around us, silence comes with a sense of nothingness, like entering an abyss with no footing. A sense of absolute loneliness, as though everything has given way. Though the Master Himself is there, holding the disciple’s hand, the disciple feels as though his hand were empty. He seems poised alone in space. | Ở đây, vị tác giả ấy có nói đến khó khăn khi cảm được im lặng lần đầu. Đã quen với các âm thanh quanh mình, khi im lặng đến, có cảm thức về hư vô, như thể bước vào một vực thẳm không điểm tựa. Một cảm thức cô độc tuyệt đối, như thể mọi thứ đều sụp đổ. Tuy Chính Chân sư ở đó, nắm tay đệ tử, đệ tử vẫn cảm như bàn tay mình trống rỗng. Y như lơ lửng một mình trong không gian. |
In that moment of silence, everything seems to have stopped. It is across that silence that the voice sounds from the other side. The voice, once heard in the silence, is heard for evermore amidst all sounds. Once heard, the ear will respond to it for evermore. These two Truths must be experienced before the real Golden Gate can be touched. | Trong khoảnh khắc im lặng ấy, mọi sự dường như dừng lại. Chính băng qua im lặng đó mà tiếng nói vang lên từ bờ bên kia. Tiếng nói, một khi đã được nghe trong im lặng, sẽ được nghe mãi mãi giữa mọi âm thanh. Một khi đã nghe, đôi tai sẽ đáp ứng với nó mãi mãi. Hai Chân lý này phải được thể nghiệm trước khi có thể chạm đến Cổng Vàng thật sự. |
The other two Truths seem to belong rather to the life within the Temple, though written in the ante-chamber. Much is written there to be worked out on the other side, for the guidance of the aspirant. The power of speaking in the presence of the Masters and standing upright before Them are only realised, in their fulness, on the other side. The first germs may begin to show on this side of the Golden Gate. | Hai Chân lý kia dường như thuộc về đời sống bên trong Đền hơn, dẫu được ghi ở tiền thất. Có nhiều điều được ghi ở đó để được triển khai ở bờ bên kia, làm kim chỉ nam cho người chí nguyện. Quyền năng cất tiếng nói trước mặt các Chân sư và đứng thẳng trước Các Ngài chỉ được thực chứng trong toàn vẹn của nó ở bờ bên kia. Những mầm mống đầu tiên có thể bắt đầu hiển lộ ở phía bên này của Cổng Vàng. |
This power of speaking in the presence of the Master is the appeal to the great Power at the head of the Ray to which the aspirant belongs. It echoes upwards, then downwards to the disciple, and from him outward. It consists in his appeal for knowledge, and the answer is the power to speak the knowledge he receives. The only condition is that he shall also speak to others, becoming a link in the great chain joining the Highest to the lowest. He may not receive unless he is willing to impart. This power of speech is not outer speech, but speech from Soul to Soul, telling the way to those who seek it. | Quyền năng cất tiếng nói trước Chân sư là lời khẩn thỉnh dâng lên Quyền Lực vĩ đại đứng đầu Cung mà người chí nguyện thuộc về. Nó vang vọng lên trên, rồi vọng xuống đệ tử, và từ y dội ra ngoài. Nó là lời khẩn cầu tri thức, và câu đáp là quyền năng ngôn thuyết tri kiến y nhận được. Điều kiện duy nhất là y cũng phải nói với tha nhân, trở thành một mắt xích trong dây xích vĩ đại nối Cao Nhất với thấp nhất. Y không được phép thọ nhận nếu không sẵn lòng truyền đạt. Quyền năng ngôn thuyết này không phải là lời nói bên ngoài, mà là lời nói từ Linh hồn đến Linh hồn, chỉ đường cho những ai đang tìm kiếm. |
Then comes that last Truth: none may stand in the Masters’ presence save those whose feet are washed in the blood of the heart. This is explained to mean that just as tears stand for the moisture of life from vivid sensation, the blood of the heart stands for life itself. It means he no longer claims his life for himself but is willing to pour it out so all the world may share. Inasmuch as life is the most precious thing a man has, that is what he gives ere he may stand in the presence of Those who have given all. He holds his life for the good of the race, for serving humanity. Only when he gives all that is his may he stand in Their presence. | Rồi đến Chân lý cuối cùng: không ai có thể đứng trong sự hiện diện của các Chân sư ngoại trừ những người có đôi chân được rửa trong máu của trái tim. Điều này được giải thích là: cũng như lệ tượng trưng cho ẩm ướt của đời sống do cảm giác sống động, thì máu của trái tim tượng trưng cho chính sự sống. Điều đó có nghĩa là y không còn nhận lấy sự sống làm của riêng, mà sẵn lòng tuôn đổ nó để toàn thế giới cùng chia sẻ. Vì sự sống là điều quý báu nhất của con người, ấy là điều y phải trao dâng trước khi y có thể đứng trong sự hiện diện của Những Đấng đã cho đi tất cả. Y giữ sự sống của mình vì lợi ích của giống nòi, để phụng sự nhân loại. Chỉ khi y dâng tất cả những gì là của y, y mới có thể đứng trong Sự Hiện Diện của Các Ngài. |
You see why I say these two last Truths seem to apply within the Temple. For that absolute sacrifice of all life is the achievement of the very highest who stand on the threshold of Adeptship. It is one of the last triumphs of the Arhat. But the knowledge that such is the truth is a help in guiding the life. Therefore, I presume it is written in the ante-chamber, although none there may hope to attain it perfectly. | Bạn thấy vì sao tôi nói hai Chân lý cuối dường như áp dụng bên trong Đền. Bởi sự hy sinh trọn vẹn của toàn bộ sự sống là thành tựu của những bậc rất cao đứng bên ngưỡng của chân sư quả. Ấy là một trong những khải hoàn cuối của bậc A-la-hán. Nhưng tri thức rằng chân lý là như vậy lại giúp ích trong việc chỉ đạo đời sống. Vì vậy, tôi đoán nó được ghi ở tiền thất, dẫu không ai ở đó hy vọng đạt đến một cách toàn hảo. |
Taking these stages, we begin to realise what they will be who are ready to stand at the Gate. Still with much imperfection, still with much to do, still with four great stages to pass through ere they reach the lofty position of the Ade-pt. They are people of definite purpose, character, and purified lives; of extinguished passions, self-controlled character, and a longing desire for service. | Nắm lấy các giai đoạn này, chúng ta bắt đầu nhận ra họ sẽ là ai—những người sẵn sàng đứng bên Cổng. Dẫu còn nhiều khiếm khuyết, dẫu còn nhiều việc phải làm, dẫu còn bốn chặng lớn phải băng qua trước khi đạt địa vị cao vời của chân sư. Họ là những người có mục đích rõ rệt, có tính cách và đời sống thanh lọc; đã dập tắt dục vọng, có tính tự chủ, và khát vọng mãnh liệt được phụng sự. |
Dare we stand on the threshold itself, glancing forward for a moment, to realise more clearly what lies in front? Let our eyes rest on the four Paths, or stages of the one Path, that lie within the Temple, each with its Portal, each Portal one of the great Initiations. The first is that which is often described as the Initiation taken by him who “enters on the stream”. It marks a definite step, the passage over the threshold into the Temple, from which no one ever goes forth again. He goes not forth, for he is ever in the Temple even when serving in the world. | Chúng ta có dám đứng ngay trên ngưỡng, liếc nhìn về phía trước một thoáng, để nhận rõ hơn điều nằm ở trước mặt? Hãy để mắt chúng ta nghỉ trên bốn Con Đường, hay bốn giai đoạn của một Con Đường, nằm bên trong Đền, mỗi giai đoạn có một Cổng, mỗi Cổng là một cuộc Điểm đạo vĩ đại. Thứ nhất là điều thường được mô tả như cuộc Điểm đạo của người “nhập lưu”. Nó đánh dấu một bước đi rõ rệt, bước vượt qua ngưỡng vào Đền, nơi từ đó không ai còn đi ra nữa. Y không đi ra, vì y luôn ở trong Đền ngay cả khi phụng sự giữa đời. |
That entering of the stream is a definite step. It is said in exoteric books that there may be seven lives, often after seven lives, that lie in front of the candidate. In a note of The Voice of the Silence, it is said it is very rare that a Chela entering the stream reaches the goal in the same life. Generally, there are seven lives through which he must pass. But these phrases must not be taken too definitely; for the lives are stages of progress more often than human lives. They are said to be passed without break in self-consciousness. | Sự nhập lưu ấy là một bước đi rõ rệt. Trong các sách ngoại môn nói rằng có thể còn bảy đời, thường là sau bảy đời, nằm ở phía trước ứng viên. Trong một chú của Tiếng Nói của Im Lặng , có nói rằng đệ tử khi mới nhập lưu rất hiếm khi đạt đến cứu cánh ngay trong cùng một đời. Nói chung, có bảy đời mà y phải đi qua. Nhưng những lời này không nên chấp quá minh văn; bởi “đời” thường là những chặng tiến bộ hơn là những đời người. Người ta nói chúng được vượt qua không có gián đoạn trong tự-tự thức. |
Beyond that first is another Portal, another Initiation. As these lives are lived, certain past weaknesses are cast off forever. No longer now the incomplete labours of the Outer Court. Here each work undertaken is perfectly achieved. In each of these stages, certain definite fetters are cast aside as the disciple advances towards perfection. | Vượt qua Cổng thứ nhất là một Cổng nữa, một cuộc Điểm đạo nữa. Khi những “đời” này được sống, những yếu kém quá khứ nào đó bị vất bỏ vĩnh viễn. Không còn nữa những công việc dở dang kiểu Ngoại Viện. Ở đây, mỗi công việc được đảm đương đều được hoàn tất hoàn hảo. Trong mỗi giai đoạn này, những xiềng xích nhất định bị cởi bỏ khi đệ tử tiến gần đến sự toàn thiện. |
Of the second Initiation, it is said that he who passes it shall receive birth but once more. Only once more must he necessarily return ere his compulsory rounds of births and deaths are over. He may return many times to voluntary reincarnation, but that will be of his own free will in service. | Về cuộc Điểm đạo thứ hai, có nói rằng ai vượt qua sẽ còn thọ sinh một lần nữa mà thôi. Chỉ còn một lần trở lại nữa y bắt buộc phải có trước khi những vòng sinh tử cưỡng bách chấm dứt. Y có thể trở lại nhiều lần trong các cuộc tái sinh tự nguyện, nhưng ấy sẽ là theo ý chí tự do của y trong phụng sự. |
As he passes through that stage and reaches the third Portal, the third great Initiation, he becomes one who receives birth no more. For in that very birth, he shall pass through the fourth stage which takes him to the threshold of Nirvana. There can be no law that binds the Soul, for every fetter is broken. The fourth stage is that of the Arhat, where the last remaining fetters are utterly thrown aside. | Khi y vượt qua giai đoạn ấy và đến Cổng thứ ba, cuộc Điểm đạo thứ ba, y trở nên người không còn thọ sinh nữa. Bởi ngay trong đời sinh ấy, y sẽ vượt qua giai đoạn thứ tư đưa y đến tận ngưỡng của Niết Bàn. Khi đó không còn định luật nào buộc Linh hồn nữa, vì mọi xiềng xích đều đã gãy. Giai đoạn thứ tư là giai đoạn của A-la-hán, nơi những xiềng xích còn lại bị ném bỏ tận tuyệt. |
Can we trace these last stages, these four steps of Initiation? Can we realise what work makes the passing of these Gateways possible? We have seen the candidate is by no means perfect. We see in published books that still there are ten fetters of human weakness to be cast off. I do not take them in detail now, but they may be stated. Let us ask ourselves why the demands are so rigid before the threshold is crossed. | Chúng ta có thể lần theo những giai đoạn cuối này, bốn bước Điểm đạo này chăng? Chúng ta có thể nhận ra công việc nào làm cho việc vượt qua các Cổng này khả hữu chăng? Chúng ta đã thấy ứng viên hoàn toàn chưa phải toàn hảo. Chúng ta thấy trong các sách đã xuất bản rằng vẫn còn mười xiềng xích yếu đuối của con người phải được cắt đứt. Tôi không nêu chi tiết lúc này, nhưng có thể liệt kê. Hãy tự hỏi vì sao các đòi hỏi lại nghiêm ngặt đến thế trước khi ngưỡng được vượt qua. |
It is easy to see that the conditions we have studied must be partly fulfilled. Every step on the other side places greater powers in his grasp. His eyes will be open; he will be able to do and live in a way impossible on this side. The seeing, hearing, and doing will make him a man different from those around him, holding powers they do not share. He is to move amongst them, yet be partly not of them. | Dễ thấy rằng những điều kiện chúng ta đã khảo sát phải phần nào được thành tựu. Mỗi bước ở bờ bên kia đặt những quyền năng lớn hơn vào tay y. Mắt y sẽ mở; y sẽ có thể làm và sống theo một cách không thể ở bờ bên này. Sự thấy, sự nghe, và sự làm sẽ khiến y là một con người khác biệt với những người quanh mình, nắm giữ những quyền năng mà họ không có. Y sẽ sống giữa họ, nhưng phần nào không thuộc về họ. |
If that be so, it is needful to demand that he shall be somewhat different from them ere these powers are placed in his grasp. Suppose he had the weaknesses so common in the world: easily irritated, thrown off balance, with a temper not well under control, compassion not deep, with little tolerance and patience. What would be the result of admitting such a man beyond the threshold and allowing these superhuman powers within his grasp? | Nếu đúng như vậy, thì cần thiết phải đòi hỏi rằng y phải khác họ phần nào trước khi những quyền năng này được đặt vào tay y. Giả như y mang những yếu đuối vốn rất phổ biến trong đời: dễ bực dọc, dễ mất quân bình, tính khí không được kềm thúc, lòng bi mẫn không sâu, bao dung và nhẫn nại ít ỏi. Kết cuộc sẽ là gì nếu cho một con người như thế bước qua ngưỡng cửa và để những quyền năng siêu nhân đó ở trong tầm tay y? |
Would there not be the certainty that these small faults would bring catastrophic results? That if he were angry, these fresh powers—the strength of his will, the power of his thought—would make him a danger to his fellow-men? Supposing he were not tolerant, had not learned to sympathise with the weaknesses he had conquered. What would be his position among men when he could see their thoughts, read their failings, when characters were no longer veiled to him? Surely it would not be right that such a power—and it is one of the lowest on the Path—should be placed in the hands of anyone who has not learned by his own struggles to sympathise with the weakest. | Há lại không có điều chắc chắn rằng những lỗi nhỏ ấy sẽ mang đến hậu quả thảm khốc sao? Rằng nếu y giận dữ, thì những quyền năng mới mẻ này—sức mạnh của ý chí y, uy lực của tư tưởng y—sẽ khiến y trở thành mối nguy cho đồng loại? Giả như y không bao dung, chưa học được cảm thông với những yếu hèn mà y đã chiến thắng. Vị thế của y giữa loài người sẽ ra sao khi y có thể thấy được tư tưởng của họ, đọc ra những chỗ khiếm khuyết của họ, khi Tính cách không còn bị che khuất trước mắt y? Chắc chắn là không thể đúng khi đặt một quyền năng như thế—và đó lại là một trong những quyền năng thấp nhất trên Thánh Đạo—vào tay kẻ chưa tự mình phấn đấu để cảm thông với người yếu nhất. |
Right and just is it that the demand should be rigid ere the aspirant be permitted to step across the threshold. That there should be comparatively little left of these ordinary faults of men ere he steps within that mighty Temple, where there is room only for the helpers, servants, and lovers of mankind. | Hoàn toàn phải lẽ và công bằng khi đòi hỏi thật nghiêm trước khi người chí nguyện được phép bước qua ngưỡng cửa. Rằng trước khi y bước vào Đền Thờ hùng vĩ ấy—nơi chỉ có chỗ cho những người trợ giúp, kẻ phụng sự và những người yêu thương nhân loại—thì phần còn lại của những lỗi tầm thường của loài người phải còn rất ít. |
The task he has to do is also so gigantic that he must have made fair progress ere he puts his hand to it. To get rid of every trace of human weakness, to gain all knowledge that can be gained within our system, to develop the powers which place all that knowledge within reach at will. For that and nothing less is the position of the Adept. The Adept is the “one who has no more to learn.” Adeptship is but the last step on this Path within the Temple, to be trodden in so brief a time—a task so gigantic that were it not that men have done it, it would seem impossible. | Công việc y phải làm cũng đồ sộ đến nỗi y nhất thiết đã phải tiến triển đáng kể trước khi đặt tay vào đó. Loại trừ mọi dấu vết của yếu hèn nhân loại, thu thâu tất cả tri thức có thể thu thâu trong hệ thống của chúng ta, khai triển những quyền năng đặt mọi tri thức ấy trong tầm vươn tới theo ý chí. Bởi đó—và không kém hơn—là địa vị của Chân sư. Chân sư là “vị không còn gì để học.” Địa vị chân sư chỉ là bước sau cùng trên Thánh Đạo ở trong Đền Thờ, phải được bước qua trong một thời gian ngắn ngủi—một công việc đồ sộ đến mức, nếu không phải đã có người làm được, hẳn sẽ tưởng như bất khả. |
What would be this short span of lives for such progress from the first Initiation to the sublime height of the perfected Adepts, the flower of Humanity? Since nothing less is the task within the Temple, no wonder that before the threshold is crossed, there is much to do. No wonder the foundation to support so mighty a building must be made strong and firm. | Khoảng đời ngắn ngủi nào có thể đủ cho một tiến bộ như thế, từ lần điểm đạo thứ nhất đến tột đỉnh cao vời của những vị Chân sư viên mãn, đóa hoa của Nhân loại? Vì bên trong Đền Thờ, nhiệm vụ không kém hơn thế, nên chẳng lạ gì trước khi ngưỡng cửa được vượt qua, còn biết bao việc phải làm. Chẳng lạ gì nền móng đỡ một tòa nhà hùng vĩ đến thế phải được xây cho thật mạnh và chắc. |
Remember, when the eyes are opened, the greatness of the task seems more than when they were closed. To him who has begun to tread the Path, the Path must seem far higher and longer than it can look to those on this side of the Gate. For he must see more clearly Those who are beyond and measure the distance that separates him from Them. In the light of that perfect glory, how dull must seem his own achievement. How poor and weak everything he can do in the light of Their perfect strength. How measureless his ignorance in the light of Their perfect knowledge. And only four steps upon the Path, only such a brief tale of lives in which it must be accomplished. | Hãy nhớ, khi đôi mắt được mở ra, sự vĩ đại của công việc dường như còn lớn hơn khi mắt còn nhắm. Với người đã bắt đầu dấn bước trên Thánh Đạo, Thánh Đạo hẳn phải hiện ra cao hơn và dài hơn so với cái nhìn của kẻ còn đứng bên này Cổng. Vì y phải thấy rõ hơn Các Ngài ở bên kia và đo được khoảng cách phân cách y với Các Ngài. Trong ánh sáng của vinh quang toàn bích ấy, những gì y đạt được của riêng mình dường như thật nhạt nhòa. Mọi điều y có thể làm ra dường như thật nghèo nàn và yếu ớt dưới ánh sáng của Sức mạnh viên mãn của Các Ngài. Sự vô minh của y dường như vô lượng so với Tri thức toàn bích của Các Ngài. Và chỉ có bốn bước trên Thánh Đạo, chỉ một câu chuyện ngắn ngủi những kiếp sống để hoàn tất điều ấy. |
But the conditions will be so different. There must lie the possibility of achievement. There lies the strength of the feeling that the men who have done it passed into a state of life so different that what would seem impossible here becomes possible there. For although we may not wholly realise all the conditions on the other side, there are some it seems possible to think of. | Nhưng các điều kiện sẽ khác hẳn. Ở đó hẳn có tiềm năng của thành tựu. Ở đó có sức mạnh của cảm thức rằng những người đã làm được điều đó đã đi vào một trạng thái sống khác đến mức những gì ở đây tưởng như bất khả thì ở đó trở nên khả hữu. Vì tuy chúng ta chưa thể thấu triệt trọn vẹn mọi điều kiện bên kia, vẫn có đôi điều dường như có thể nghĩ đến. |
First, in this change of conditions, there is the fact that the men who are there understand. Much lies in that word. You remember the words I stopped short of last week, quoting the cry of triumph from the lips of the Buddha, when He proclaimed the end of bondage and the finding of liberty. How that cry to those in the outer world, telling them the cause of sorrow, spoke also of the ceasing of sorrow, and that lay in understanding reality. | Trước hết, trong sự thay đổi điều kiện này, có sự kiện rằng những con người ở đó thì thấu hiểu. Nhiều điều nằm trong chữ ấy. Các bạn còn nhớ những lời tôi dừng lại tuần rồi, trích tiếng kêu khải hoàn từ đôi môi của Đức Phật, khi Ngài tuyên xưng sự chấm dứt của trói buộc và sự tìm ra tự do. Rằng tiếng kêu ấy, gửi đến những ai ở thế giới bên ngoài, cho họ biết nguyên nhân của sầu khổ, cũng đã nói về sự chấm dứt sầu khổ, và điều ấy nằm trong sự thấu hiểu thực tại. |
Ho! ye who suffer! know | Hỡi những ai khổ đau! hãy biết |
Ye suffer from yourselves. None else compels, | Các người khổ vì chính mình. Chẳng ai khác cưỡng bách, |
None other holds you that ye live and die. | Chẳng ai khác trói buộc để các người sống rồi chết. |
The man who has crossed the threshold knows that to be very truth. Men suffer from themselves; they are not bound. In understanding that, the whole world must change to his vision. Once we understand that all these troubles grow from the world’s ignorance, that men suffer because they do not know they pass from life to life, that they make so little of life because they do not know—when once the understanding comes, the whole world changes its aspect. Looking back over the world with all its sorrows, he knows there is an end to sorrow, and with the ceasing of ignorance shall come the end of pain. Thus, the heartbreak of it is removed. | Người đã vượt qua ngưỡng cửa biết đó là chân lý rành rành. Người ta khổ vì chính mình; họ không bị trói buộc. Khi thấu hiểu điều ấy, cả thế gian phải đổi khác trong cái nhìn của y. Một khi chúng ta hiểu rằng mọi khốn khó này mọc lên từ vô minh của thế gian, rằng người ta khổ vì họ không biết mình đi từ đời này sang đời khác, rằng họ xem nhẹ đời sống vì họ không biết—một khi sự thấu hiểu đến, cả thế gian đổi khác diện mạo. Nhìn ngược lại thế giới với tất cả sầu khổ của nó, y biết rằng sầu khổ có tận cùng, và khi vô minh chấm dứt thì nỗi đau sẽ kết liễu. Thế là nỗi đoạn trường của nó được dời đi. |
That is not the only change of condition. One of the vast gains in crossing that threshold will be gaining a consciousness that shall not again be broken, over which death shall not have power, over which birth can no longer draw the sponge of oblivion. His consciousness for the lives in front is to be continuous and unbroken, self-consciousness gained not again to be lost. It never can be wholly lost when once it has begun, but it does not translate itself into the lower consciousness in the lives on the worldly side of the Temple. In the lives on the further side, the self-consciousness is an unbroken knowledge. That Soul can look before and after and feel strong in the knowledge of the immortal Self. | Đó không phải là thay đổi duy nhất của điều kiện. Một trong những thành tựu mênh mông khi vượt qua ngưỡng cửa là đạt được một tâm thức không còn bị gián đoạn nữa, mà tử thần không còn quyền lực trên đó, mà sinh nở không còn có thể lau đi bằng miếng bọt biển của lãng quên. Tâm thức của y cho những kiếp ở phía trước sẽ liên tục và không gián đoạn, tự thức đã đạt được sẽ không còn đánh mất nữa. Nó không bao giờ có thể mất hẳn một khi đã khởi sinh, nhưng nó không tự chuyển dịch xuống tâm thức thấp trong những kiếp sống ở phía thế gian của Đền Thờ. Trong những kiếp ở bờ bên kia, tự thức là một tri thức không gián đoạn. Linh hồn ấy có thể nhìn trước và nhìn sau, và cảm thấy mạnh mẽ trong tri kiến về Chân Ngã bất tử. |
See how that will change all life. For what are two of the great sorrows of life? Separation and death. Separation made by space, when thousands of miles may separate friend from friend. Separation made by the change of condition when the veil of death has fallen. But separation and death exist not for him who has crossed the threshold as they existed before. To some extent, he may feel them, but they cannot really cloud his life or break his consciousness. It is only while he is in the body that the separation exists for him. He may be out of the body at will and go where space and time no longer hold him. Right out of his life are struck these two great sufferings. No friend can again be lost, no death can again take from his side those knit to him in the bond of life. | Hãy xem điều ấy sẽ đổi thay cả đời sống như thế nào. Bởi hai trong những nỗi khổ lớn của đời là gì? Biệt ly và chết. Biệt ly do không gian, khi hàng nghìn dặm có thể chia cắt bạn với bạn. Biệt ly do đổi thay điều kiện khi màn tử vong buông xuống. Nhưng biệt ly và chết không còn tồn tại với y như trước kia khi y đã vượt ngưỡng cửa. Ở mức độ nào đó, y vẫn có thể cảm nó, nhưng chúng không thể thực sự phủ mây đời y hay làm gián đoạn tâm thức y. Chỉ trong khi y ở trong thân thì sự biệt ly mới tồn tại với y. Y có thể ra khỏi thân theo ý muốn và đi đến nơi không gian và thời gian không còn chi phối y nữa. Hai nỗi khổ lớn này bị đánh bật khỏi đời y. Không một người bạn nào còn có thể bị mất nữa, không một cái chết nào còn có thể cất khỏi bên y những ai đã kết chặt với y trong mối dây của Sự sống. |
Nor is that all of this enormous change. Not only has he this unbroken consciousness, but he knows that in these lives in front, he will not slip back. Not again shall he come into the world unconscious, to waste half a life not knowing what he seeks. He will return with knowledge, return for progress. It will be his own fault now if progress be slackened. | Và đó vẫn chưa phải là tất cả của cuộc chuyển biến to lớn này. Không những y có tâm thức không gián đoạn ấy, y còn biết rằng trong những kiếp trước mặt, y sẽ không trượt lùi nữa. Y sẽ không trở lại thế gian trong tình trạng vô thức, để hoang phí nửa đời người vì không biết mình tìm gì. Y sẽ trở lại với tri thức, trở lại để tiến bộ. Giờ đây, nếu tiến bộ bị chậm lại, thì đó là lỗi của chính y. |
And then again, his conditions will be changed by the new companionship into which he enters, where there are no clouds, no doubts, no suspicions. Companionship above all the mists of earth. In crossing into the Temple, he has come within sight of the great Teachers, within the vision of the Masters. In the possibility of such lofty companionship, all life is changed for him. He will have touched the permanent, and the transitory cannot again shake him. His feet are forevermore upon the rock, and the waves will not wash him away. | Và thêm nữa, điều kiện của y sẽ đổi thay bởi tình bằng hữu mới mà y bước vào, nơi không còn mây mù, không nghi hoặc, không ngờ vực. Tình bằng hữu ở trên tất cả sương mù của cõi trần. Khi bước vào Đền Thờ, y đã đến trong tầm nhìn của các Huấn Sư Vĩ Đại, trong tầm thị kiến của các Chân sư. Với khả thể của tình bằng hữu cao vời như thế, toàn bộ đời sống đổi khác đối với y. Y sẽ đã chạm vào cái thường hằng, và cái tạm bợ không thể lay chuyển y nữa. Chân y vĩnh viễn đứng trên đá tảng, và sóng không thể cuốn trôi y đi. |
So on this other side, mighty as is the task, the conditions are so different that it seems less impossible. We begin to understand why it has been achieved. We begin to realise that with such changes, such a Path may still be trodden. These steps up the mountain side, though they seem to raise the Soul so high, may be taken with comparative swiftness under such different conditions. | Vì thế, ở bờ bên kia này, tuy công việc thật hùng vĩ, nhưng các điều kiện khác hẳn đến nỗi dường như ít bất khả hơn. Chúng ta bắt đầu hiểu vì sao điều đó đã được thành tựu. Chúng ta bắt đầu nhận ra rằng với những đổi thay như thế, một Thánh Đạo như vậy vẫn có thể được bước đi. Những bậc thang trên sườn núi này, tuy dường như nâng Linh hồn lên rất cao, vẫn có thể được bước với sự mau lẹ tương đối dưới những điều kiện khác như thế. |
These stages to be trodden, these steps to be taken, these fetters to be cast off—as we look at them, we see the last phases of human weakness disappearing, and the Soul shines out strong, calm, and pure. The delusion of the lower self is falling away, and all men are seen as one with the true Self. Doubt is vanishing, replaced by knowledge. As the Soul learns the reality of things, doubt becomes impossible. | Những giai đoạn phải bước qua, những nấc thang phải vượt, những xiềng xích phải cởi bỏ—khi chúng ta nhìn vào chúng, chúng ta thấy những pha sau chót của yếu hèn nhân loại đang biến mất, và Linh hồn tỏa sáng mạnh mẽ, điềm tĩnh và tinh khiết. Ảo tưởng của phàm ngã đang rơi rụng, và mọi người đều được thấy là một với Chân Ngã chân thực. Nghi hoặc đang tan biến, nhường chỗ cho tri thức. Khi Linh hồn học được thực tại của các sự vật, nghi hoặc trở thành bất khả. |
All dependence on the outer that is transitory will also slip away. In this vivid contact with realities, outer things must take their due proportion. It will learn how little the outer matters, how all things that divide men are mere shadows. All differences of religions, all efficacy of ceremonies, are illusive walls between the Souls of men. These shadowy fetters will slip from the Soul that is learning. | Mọi nương tựa vào cái bên ngoài vốn tạm bợ cũng sẽ trượt khỏi. Trong sự tiếp xúc sinh động với các thực tại này, những điều bên ngoài phải trở về đúng tỉ lệ của chúng. Linh hồn sẽ học được bên ngoài nhỏ nhoi dường nào, rằng mọi điều phân chia con người chỉ là bóng mờ. Mọi dị biệt giữa các tôn giáo, mọi hiệu lực của các nghi lễ, đều là những bức tường hư huyễn ngăn cách các Linh hồn của nhân loại. Những xiềng xích như bóng ấy sẽ trượt khỏi Linh hồn đang học hỏi. |
The powers of the Soul will be unfolding: vision and hearing, the gaining of knowledge yet undreamed of. The whole Soul receptive, no longer limited by the senses. Knowledge flowing in from every side, a process of continually increasing life. | Các quyền năng của Linh hồn sẽ khai mở: thị kiến và thính giác, đắc được những tri thức còn chưa từng mơ tới. Toàn thể Linh hồn trở nên thụ cảm, không còn bị giới hạn bởi các giác quan. Tri thức tuôn chảy vào từ mọi phía, một tiến trình của Sự sống không ngừng gia tăng. |
Then still further on, we faintly see the Soul getting rid of those etherealised shadows of desire that still cling to it. As we reach the last of the Initiations, that which makes a man an Arhat, we find it all but impossible to understand what fetters there can be, what blemishes in a state so exalted. Truly it is written that the path of the Arhat “is difficult to understand, like that of birds in the air.” For like them, he seems to leave no footprints, to wing his way untouched in that high atmosphere. | Rồi xa hơn nữa, chúng ta mơ hồ thấy Linh hồn trút bỏ những bóng mờ đã được tinh luyện của dục vọng còn bám víu vào nó. Khi chúng ta chạm đến lần điểm đạo sau cùng, điều làm cho một người thành A-la-hán, chúng ta thấy hầu như bất khả để hiểu còn có những xiềng xích nào, những tỳ vết nào trong một trạng thái cao siêu đến thế. Quả thật có chép rằng con đường của A-la-hán “khó hiểu như lối đi của chim giữa không trung.” Bởi như chúng, y dường như không để lại dấu chân, tung cánh đi không bị chạm đến trong bầu không khí cao ấy. |
From that region comes a sense of peace unshaken. For we are told that nothing can move him, nothing can shake him. He stands unassailable by any storm of earth, in a peace that nothing may ruffle. Those who know the state have written of it, and in words which must be weak, have said something of the characteristics of one like that: | Từ cảnh vực đó vọng về một cảm giác an bình bất lay chuyển. Vì chúng ta được dạy rằng không gì có thể làm y chuyển động, không gì có thể làm y lay. Y đứng vững, không gì công phá được trước mọi cơn bão của trần thế, trong một an bình chẳng gì khuấy động. Những vị biết trạng thái ấy đã viết về nó, và bằng những lời hẳn là yếu, đã nói đôi điều về phẩm tính của một bậc như thế: |
Tolerant like the earth, like Indra’s bolt; he is like a lake without mud; no new births are in store for him. His thought is quiet, quiet are his word and deed, when he has obtained freedom by true knowledge, when he has thus become a quiet man. | Khoan dung như đất, vững như lôi chùy của Indra; y như hồ nước không bùn; không còn những lần sinh mới chờ đợi y. Tư tưởng y lặng, lời và việc y lặng, khi y đạt được tự do nhờ chân tri, khi ấy y đã trở thành người tịch tĩnh. |
From that quiet, there comes a sense of peace, serenity, unruffled calm. And we understand why of such a one it should be written: | Từ sự tịch tĩnh đó, phát sinh một cảm thức bình an, tĩnh lặng, ung dung bất động. Và chúng ta hiểu vì sao về một bậc như thế lại phải viết rằng: |
There is no suffering for him who has finished his journey, and abandoned grief, who has freed himself on all sides, and thrown off all fetters. | Không còn khổ đau cho vị đã kết thúc cuộc hành trình, đã bỏ lại sầu muộn, đã tự giải thoát mọi bề, và đã ném bỏ mọi xiềng xích. |
Such is the Arhat who stands at the summit of the Path. Such is the one who has but one step more to take. Such is the goal and the Path which all may tread. Such is the ending of the struggle, and the ending is perfect peace.¹¹ | Đó là bậc A-la-hán đứng trên đỉnh cao của Thánh Đạo. Ấy là bậc chỉ còn một bước nữa để bước. Ấy là cứu cánh và Thánh Đạo mà tất cả đều có thể bước. Ấy là đoạn cuối của cuộc tranh đấu, và đoạn cuối ấy là an bình tuyệt hảo.¹¹ |
In tracing the steps of the preliminary Path, have I seemed sometimes to speak too hardly, to paint the Path with colours too dark? If so, the fault is mine, not the Path’s. For though there be difficulty and struggle and suffering, it is true for all those who enter the Outer Court that they would not for aught that earth can give tread backwards. And for those who have passed the threshold, is there aught earth could give that would make them even glance backwards? | Khi lần theo những bước của Thánh Đạo dự bị, có khi nào tôi dường như đã nói quá nghiêm khắc, tô màu Thánh Đạo bằng những sắc quá u tối? Nếu có, thì lỗi là ở tôi, không phải ở Thánh Đạo. Vì dẫu có khó khăn, tranh đấu và khổ đau, thì điều này là chân thật đối với tất cả những ai bước vào Ngoại Viện: họ sẽ không vì bất cứ điều gì trần thế có thể ban cho mà bước lùi trở lại. Và đối với những ai đã vượt qua ngưỡng cửa, có điều gì trần thế có thể ban cho khiến họ thậm chí ngoảnh nhìn lại chăng? |
For this Path which stretches onward is a Path of which the pains are better than earth’s joys, and the sufferings more glorious than earth’s fruitions. If you could press into a human life every joy the lower earth could give; if you could crowd it with pleasure, and give the power to enjoy without ceasing; if you could bring all that men know of the joys of the senses and intellect, with no touch of pain; then beside the steps on the Path, that life would be sordid and dull, its harmonies discords. | Bởi Thánh Đạo tiếp nối này là một Thánh Đạo mà trong đó nỗi đau còn tốt đẹp hơn những niềm vui của thế gian, và những chịu đựng còn vinh diệu hơn những thành quả trần gian. Nếu các bạn có thể nén vào một đời người mọi hoan lạc mà cõi thấp này có thể ban; nếu có thể lấp đầy nó bằng khoái lạc, và ban quyền năng hưởng thụ không ngừng nghỉ; nếu có thể mang đến tất cả những gì con người biết về các lạc thú của giác quan và trí tuệ, không chút chạm vào đau đớn; thì, đặt bên cạnh những bậc thang trên Thánh Đạo, đời sống ấy sẽ tầm thường và nhạt nhẽo, các hòa điệu của nó thành những nghịch âm. |
For on this Path, each step taken is a step taken forever. Each pain suffered is welcome because of the lesson it gives. The Path grows brighter as ignorance lessens, more peaceful as weakness vanishes, serener as the vibrations of earth have less power to disturb. What it is in its ending, Those only can tell who have ended. What it is at its goal, Those only may know who stand there. | Vì trên Thánh Đạo này, mỗi bước được bước là một bước vĩnh viễn. Mỗi nỗi đau chịu đựng đều được đón chào vì bài học nó trao. Thánh Đạo sáng hơn khi vô minh vơi bớt, an hòa hơn khi yếu hèn tiêu tán, tịch nhiên hơn khi các rung động của trần gian càng ít quyền lực khuấy động. Nó là gì ở đoạn cuối, chỉ Những Vị đã kết thúc mới có thể nói. Nó là gì ở cứu cánh, chỉ Những Vị đang đứng đó mới có thể biết. |
But even those treading its earlier stages know its sorrow is joy compared to the joy of earth. The smallest of its flowers is worth every jewel earth could give. One gleam of the Light that shines always upon it makes all earth’s sunshine but darkness. They who tread it know the peace that passeth understanding, the joy that earthly sorrow can never take away, the rest that is on the rock that no earthquake may shiver, the place within the Temple where forever there is bliss. | Nhưng ngay cả những người đang bước ở các giai đoạn đầu cũng biết nỗi buồn của nó là niềm vui nếu so với niềm vui của trần gian. Đóa hoa nhỏ nhất của nó còn đáng giá hơn mọi châu báu trần gian có thể ban. Chỉ một tia của Ánh sáng luôn chiếu trên đó cũng khiến mọi nắng của trần gian trở thành bóng tối. Những ai bước đi trên đó biết sự bình an vượt ngoài sự hiểu biết, niềm hoan lạc mà sầu não trần gian không bao giờ có thể đoạt mất, sự an nghỉ ở trên tảng đá mà không một cơn địa chấn nào có thể làm rung chuyển, nơi bên trong Đền Thờ, nơi phúc lạc còn mãi. |
THE END | HẾT |