The Inner Life I – Chương 1 – CÁC ĐẤNG CAO CẢ

THE GREAT ONESCÁC ĐẤNG CAO CẢ

STUDENTS OF OCCULTISM—even those who have been students for many years—sometimes seem to fail to realise the Masters as They truly are. I have often found people thinking of Them as some kind of angels or devas, or, at any rate, as so far removed from us by Their greatness that it is scarcely possible for us to derive much help from Them. Their greatness is indisputable, and from that point of view the gulf between Them and ourselves may well seem incalculable in its extent; and yet from another point of view They are very close to us, so that Their sympathy and help are very near and very real. That our thought on the subject may be clear, let us first of all try to define exactly what we mean by the term “Master.”NHỮNG ĐẠO SINH CỦA HUYỀN BÍ HỌC—dẫu đã là đạo sinh nhiều năm—đôi khi dường như vẫn chưa thấu triệt các Chân sư như Các Ngài thực sự là. Tôi thường thấy người ta nghĩ về Các Ngài như một loại thiên sứ hay thiên thần, hoặc ít nhất là xa cách chúng ta đến mức bởi sự vĩ đại của Các Ngài mà chúng ta khó lòng thụ hưởng được nhiều trợ giúp từ Các Ngài. Sự vĩ đại của Các Ngài là điều không thể tranh cãi, và từ quan điểm ấy, vực ngăn giữa Các Ngài và chúng ta có thể có vẻ không sao lường hết; vậy mà từ một quan điểm khác, Các Ngài lại rất gần chúng ta, đến nỗi sự cảm thông và trợ giúp của Các Ngài rất kề cận và rất hiện thực. Để tư tưởng của chúng ta về chủ đề này có thể minh bạch, trước hết chúng ta hãy thử xác định chính xác chúng ta muốn nói gì bằng từ “Chân sư”.
We mean by it always one who is a member of the Great White Brotherhood—a member at such a level that He is able to take pupils. Now the Great White Brotherhood is an organization unlike any other in the world, and for that reason it has often been misunderstood. It has sometimes been described as the Himalayan or the Tibetan Brotherhood, and the idea has been conveyed of a body of Indian ascetics residing together in a monastery in some inaccessible mountain fastness. Perhaps this has risen largely from the knowledge of the facts that the two Brothers principally concerned in the foundation and work of the Theosophical Society happen at the moment to be living in Tibet, and to be wearing Indian bodies. To comprehend the facts of the case it may be better to approach its consideration from another point of view.Chúng ta luôn dùng từ ấy để chỉ một vị là thành viên của Huynh đệ Đoàn Chánh đạo—một thành viên ở một cấp độ khiến Ngài có thể thu nhận môn đồ. Nay Huynh đệ Đoàn Chánh đạo là một tổ chức không giống bất cứ tổ chức nào khác trên thế giới, và vì lý do đó nó thường bị hiểu lầm. Đôi khi nó được mô tả là Huynh đệ ở Hi-mã-lạp Sơn hay Tây Tạng, và người ta đã tạo ra ý niệm về một đoàn khổ hạnh Ấn Độ sống chung trong một tu viện giữa chốn sơn cùng thủy tận. Có lẽ điều này phần lớn xuất phát từ thực tế là hai Vị chủ yếu liên can đến việc sáng lập và hoạt động của Hội Thông Thiên Học hiện vào lúc này đang sống ở Tây Tạng, và đang mang những thể xác Ấn Độ. Để thấu đạt thực sự, có lẽ tốt hơn nên tiếp cận vấn đề từ một góc nhìn khác.
Most of our students are familiar with the thought of the four stages of the Path of Holiness, and are aware that a man who has passed through them and attained to the level of the Asekha has achieved the task set before humanity during this chain-period, and is consequently free from the necessity of reincarnation on this planet or on any other. Before him then open seven ways among which he must choose. Most of them take him away from this earth into wider spheres of activity, probably connected with the solar system as a whole, so that the great majority of those members of our humanity who had already reached this goal have passed entirely out of our ken.Phần đông các đạo sinh của chúng ta quen thuộc với ý tưởng về bốn giai đoạn của Thánh Đạo, và biết rằng một người đã đi qua chúng và đạt đến cấp độ Asekha là đã hoàn tất công phu được đặt ra trước nhân loại trong giai kỳ Dãy này, và vì vậy thoát khỏi sự cần thiết phải tái sinh trên hành tinh này hay trên bất cứ hành tinh nào khác. Khi ấy trước mặt y mở ra bảy con đường để chọn lựa. Phần lớn những con đường ấy đưa y rời khỏi trái đất vào những không gian hoạt động bao la hơn, có lẽ liên quan đến toàn thể hệ mặt trời, đến nỗi đại đa số những thành viên của nhân loại chúng ta đã đạt đến mục tiêu này đã hoàn toàn vượt khỏi tầm biết của chúng ta.
The limited number who are still working directly for us may be divided into two classes—those who retain physical bodies, and those who do not. The latter are frequently spoken of under the name of Nirmanakayas. They hold themselves suspended as it were between this world and nirvana, and They devote the whole of Their time and energy to the generation of spiritual force for the benefit of mankind. This force They pour into what may be described as a reservoir, upon which the Masters and their pupils can draw for the assistance of Their work with humanity. The Nirmanakaya, because He remains to this extent in touch with the lower planes, has been called ` a candidate for woe,’ but that is misleading. What is meant is that He has not the joy of the higher work, or of the nirvanic levels. He has chosen to remain upon lower planes in order to help those who still suffer. It is quite true that to came back from the higher life into this world is like going down from the fresh air and glorious sunlight into a dark and evil-smelling dungeon; but the man who does this to help some one out of that dungeon is not miserable and wretched while there, but full of the joy of helping, notwithstanding the greatness of the contrast and the terrible feeling of bondage and compression. Indeed, a man who refused such an opportunity of giving aid when it came to him would certainly feel far more woe afterwards, in the shape of remorse. When we have once really seen the spiritual misery of the world, and the condition of those who need such help, we can never again be careless or indifferent about it, as are those who have not seen.Số ít còn lại vẫn làm việc trực tiếp cho chúng ta có thể chia thành hai nhóm—những vị giữ lại thể xác, và những vị không. Nhóm sau thường được gọi là các Nirmanakaya. Các Ngài giữ mình như treo lơ lửng giữa thế giới này và niết-bàn, và tận hiến toàn bộ thời gian cùng năng lực của mình cho sự phát sinh lực tinh thần vì lợi ích của nhân loại. Nguồn lực ấy Các Ngài rót vào cái có thể gọi là một hồ chứa, mà từ đó các Chân sư và môn đồ của Các Ngài có thể thâu dụng để trợ giúp công tác với nhân loại. Nirmanakaya, bởi vì Ngài vẫn đến mức độ ấy còn chạm với các cõi thấp, đã từng được gọi là ‘một người tự nguyện chịu khổ’, nhưng như thế là gây hiểu lầm. Ý muốn nói rằng Ngài không có niềm hoan hỷ của công việc cao siêu hơn, hay của các cấp độ niết-bàn. Ngài đã chọn ở lại các cõi thấp hơn để giúp những kẻ còn đang chịu khổ. Quả thật, trở lại từ đời sống cao siêu xuống thế giới này giống như đi xuống từ không khí trong lành và ánh dương huy hoàng vào một ngục tối hôi hám; nhưng người làm điều ấy để cứu ai đó ra khỏi ngục thì không hề khổ sở khi ở đó, mà tràn đầy niềm vui trợ giúp, bất chấp sự tương phản quá lớn và cảm thức kinh khủng về trói buộc và nén chặt. Thật vậy, một người khước từ cơ hội trợ giúp như thế khi nó đến với mình ắt hẳn sẽ cảm thấy nỗi khổ còn lớn hơn về sau, dưới dạng hối hận. Khi một lần chúng ta thực sự thấy được nỗi khốn cùng tinh thần của thế gian, và tình trạng của những kẻ cần sự giúp đỡ như thế, chúng ta không bao giờ còn có thể thờ ơ hay lãnh đạm như những người chưa thấy.
Fortunately those of us who have seen and realized this have ever at our command a means whereby we can quite really and definitely help. Tiny though our efforts may be as compared with the splendid outpouring of force of the Nirmanakaya, we also can add our little drops to the great store of force in that reservoir. Every outpouring of affection or devotion produces a double result—one upon the being to whom it is sent, and another upon ourselves, who sent it forth. But if the devotion or affection be utterly without the slightest thought of self, it brings in its train a third result also. Ordinary affection or devotion, even of a high kind, moves in a closed curve, however large that curve may be, and the result of it comes back upon the sender. But the devotion or affection of the truly unselfish man moves in an open curve, and though some of its affects inevitably react upon the sender, the grandest and noblest part of its force ascends to the LOGOS Himself, and the response, the magnificent response of benediction which instantly pours forth from Him, falls into that reservoir for the helping of mankind. So that it is within the power of every one of us, even the weakest and the poorest, to help the world in this most beautiful manner. It is this adding to the reservoir of spiritual force which is really the truth that lies et the back of the Catholic idea of works of supererogation.May mắn thay, những ai trong chúng ta đã thấy và thấu triệt điều này luôn có trong tay một phương tiện để thực sự và dứt khoát trợ giúp. Dẫu nỗ lực của chúng ta nhỏ bé so với sự tuôn đổ uy nghi của lực của Nirmanakaya, chúng ta cũng có thể thêm những giọt nhỏ của mình vào kho lực vĩ đại trong hồ chứa ấy. Mọi tuôn đổ của tình thương hay sùng kính đều sinh ra hai kết quả—một là trên hữu thể mà nó được gửi đến, và một là trên chính chúng ta, những người phát ra nó. Nhưng nếu tâm sùng kính hay tình thương hoàn toàn không vương một mảy may tư kỷ, nó mang theo một kết quả thứ ba nữa. Tình thương hay sùng kính thông thường, dù ở bậc cao, vẫn chuyển động trong một đường cong khép kín, dẫu đường cong ấy có lớn đến mấy đi nữa, và kết quả của nó quay trở lại nơi người phát. Nhưng tình thương hay sùng kính của người thực sự vô ngã thì chuyển động theo một đường cong mở, và tuy một phần ảnh hưởng của nó tất yếu phản hồi nơi người phát, phần oai hùng và cao cả nhất của nguồn lực ấy thăng lên chính Thượng đế, và sự đáp ứng—sự đáp ứng kỳ vĩ của phúc lành—lập tức tuôn đổ từ Ngài, rơi vào hồ chứa ấy để trợ giúp nhân loại. Thế nên trong quyền của mỗi người chúng ta, ngay cả kẻ yếu đuối và nghèo hèn nhất, là có thể trợ giúp thế gian theo cách tuyệt đẹp này. Việc thêm vào hồ chứa lực tinh thần ấy thực ra là chân lý nằm phía sau quan niệm Công giáo về những việc thiện dư trội.
The still more limited number of adepts who retain physical bodies remain in even closer touch with us, in order to fill certain offices, and to do certain work necessary for our evolution; and it is to the latter that the names of the Great White Brotherhood and the Occult Hierarchy have sometimes been given. They are, then, a very small number of highly advanced men belonging not to any one nation, but to the world as a whole. On the physical plane They do not live together, though They are of course in continual communication on higher planes. Since They are beyond the necessity of rebirth, when one body wears out They can choose another wherever it may be most convenient for the work They wish to do, so that we need not attach any special importance to the nationality of the bodies which They happen to be wearing at any particular time. Just now, several of those bodies are Indian, one is Tibetan, one is Chinese, two at least are English, one is Italian, one Hungarian, and one Syrian, while one was born in the island of Cyprus. As I have said, the nationality of these bodies is not a matter of importance, but I mention these in order to show that it would be a mistake to think of the ruling Hierarchy as belonging exclusively to one race.Số ít hơn nữa các chân sư giữ lại thể xác thì lưu lại trong mối tiếp xúc còn gần gũi hơn với chúng ta, để đảm nhận những chức vụ nhất định, và làm những công việc thiết yếu cho tiến hóa của chúng ta; và chính với những vị này mà đôi khi người ta gọi là Huynh đệ Đoàn Chánh đạo Vĩ đại và Thánh Đoàn Huyền bí. Các Ngài, như vậy, là một số lượng rất nhỏ những vị đã tiến cao thuộc về không phải một quốc gia nào, mà thuộc về toàn nhân loại. Trên cõi hồng trần, Các Ngài không sống chung, dẫu dĩ nhiên luôn tương thông trên các cõi cao. Vì Các Ngài đã vượt khỏi nhu cầu tái sinh, khi một thân xác hao mòn, Các Ngài có thể chọn thân xác khác ở bất cứ đâu thuận tiện nhất cho công việc Các Ngài muốn làm, nên chúng ta không cần gán tầm quan trọng đặc biệt nào cho quốc tịch của những thân xác mà Các Ngài ngẫu thời đang mang. Hiện nay, vài thân xác trong số đó là Ấn Độ, một là Tây Tạng, một là Trung Hoa, ít nhất hai là Anh, một là Ý, một là Hung, và một là Syria, trong khi một vị sinh ở đảo Síp. Như tôi đã nói, quốc tịch của những thân thể ấy không quan trọng, nhưng tôi nêu ra để cho thấy rằng sẽ là sai lầm nếu nghĩ Thánh Đoàn cầm quyền thuộc riêng về một chủng tộc nào.
Reverence restrains us from saying much of the great Head of this Hierarchy, in Whose hands is the fate of the continents, in Whose name all initiations are given. He is one of the very few now remaining upon earth of the Lords of the Flame, the Children of the Fire-mist, the great beings who came down from Venus nearly eighteen million years ago to help and to lead the evolution of humanity on our chain. These Great Ones did not take bodies from our then entirely undeveloped humanity, but made for themselves bodies in appearance resembling ours by the force of Their will, a kind of permanent materialization. At that period, and for long after it, no members of our humanity were sufficiently developed to fill any of the higher offices in this Hierarchy, and consequently we needed and received this help from without. Gradually, as humanity has evolved, it has become more and more able to provide for itself, and the great Lords of the Flame have been set free to go to the help of yet other evolutions. But one of Them still holds this, the highest office of all—the position of the KING Who guides and controls all evolution taking place upon this planet—not only that of humanity and of the animal, vegetable, mineral and elemental kingdoms below it, but also of the great non-human kingdoms of the nature-spirits and the devas, some of which rise so far above itLòng tôn kính ngăn chúng tôi nói nhiều về vị Đại Nguyên Thủ của Thánh Đoàn này, trong Tay Ngài là vận mệnh các châu lục, nhân Danh Ngài mà mọi cuộc điểm đạo đều được ban. Ngài là một trong số rất hiếm hoi hiện còn lưu lại trên trần thế thuộc các Chúa Tể của Lửa, những Con của Sương Lửa, các Đấng vĩ đại đã giáng lâm từ Kim Tinh gần mười tám triệu năm trước để trợ giúp và dẫn dắt tiến hóa của nhân loại trên Dãy của chúng ta. Các Đấng Cao Cả ấy đã không thọ nhận các thân xác từ nhân loại chúng ta vốn lúc bấy giờ hoàn toàn chưa phát triển, mà đã tự tạo cho mình những thân xác có hình trạng giống như chúng ta bằng quyền năng của Ý Chí, một dạng hiện hình thường hằng. Vào thời kỳ đó, và còn rất lâu về sau, không một thành viên nào của nhân loại chúng ta đủ phát triển để đảm nhiệm bất cứ chức vụ thượng cấp nào trong Thánh Đoàn này, và vì vậy chúng ta đã cần và đã nhận được sự trợ giúp từ bên ngoài. Dần dần, khi nhân loại tiến hóa, nó trở nên ngày càng có khả năng tự cung cấp cho mình, và các vị Đại Chúa của Lửa đã được giải phóng để đi trợ giúp những tiến hóa khác nữa. Nhưng một Vị vẫn đang đảm nhiệm, chức vị cao nhất trong tất cả—địa vị của Đức Chúa Tể Thế Giới, Đấng hướng dẫn và điều ngự mọi tiến hóa diễn ra trên hành tinh này—không chỉ của nhân loại và các giới thú vật, thực vật, khoáng vật và hành khí phía dưới, mà còn của những giới phi-nhân loại vĩ đại là các tinh linh thiên nhiên và các thiên thần, trong đó có những bậc thăng lên rất xa vượt trên nhân loại.
Under Him are various Heads of Departments, the broad outlines of whose work are more within our comprehension than His. Though the details are far beyond us, we can form some slight idea of what must be the manifold responsibilities and activities of the Manu of a Root-race; and perhaps we can to some extent image to ourselves the duties of Him who is Minister of Religion in this world-kingdom—who sends forth religion after religion, suiting each to the needs of a particular type of people and to the period of the world’s history in which it is launched, sometimes deputing one of His subordinates to found it, sometimes even incarnating Himself for that purpose, as He may see fit. This Minister of Religion is often called in the East the Bodhisattva—one who is about to become a BUDDHA. The previous holder of that high office was He whom we call the Lord Gautama BUDDHA. The attainment of “Buddhahood is not simply the gaining of enlightenment; it is also the taking of a great and definite initiation, and the man who has taken that step cannot again incarnate upon earth, but hands over His work to His successor, and usually passes away altogether from any connection with earth.Dưới Ngài là các Vị Chủ Sự của những Bộ Phận khác nhau, với những nét lớn trong công việc của Các Ngài thì chúng ta có thể hiểu đôi phần hơn so với công việc của Ngài. Dẫu các chi tiết vượt khỏi tầm chúng ta, ta có thể phác cho mình chút ý niệm về muôn vàn trách nhiệm và hoạt động của một vị Manu của một Giống dân gốc; và có lẽ phần nào hình dung được bổn phận của Đấng đảm trách Bộ Tôn giáo trong Vương quốc thế giới này—Đấng phái đi hết tôn giáo này đến tôn giáo khác, tùy cơ ứng hợp với nhu cầu của một kiểu người nhất định và với thời kỳ lịch sử của thế giới khi nó được khởi động, đôi khi ủy thác cho một thuộc hạ sáng lập, đôi khi thậm chí chính Ngài lâm phàm vì mục đích ấy, khi thấy thích đáng. Vị Bộ trưởng Tôn giáo này ở phương Đông thường được gọi là Bồ Tát—Đấng sắp thành Phật. Người tiền nhiệm của chức vị cao cả ấy là Đấng mà chúng ta gọi là Đức Phật Gautama. Sự đạt đến Phật quả không đơn thuần là đạt giác ngộ; nó cũng là lãnh thụ một cuộc điểm đạo vĩ đại và xác định, và một người đã thọ bước ấy không thể còn tái lâm trên trái đất nữa, mà trao lại công việc của Ngài cho vị kế nhiệm, và thường sẽ rời khỏi mọi liên hệ với trần gian.
The Lord Gautama, however, still remains to a certain extent within touch of the world, in order that He may still be able to help it. Once in each year He still shows Himself to the brotherhood of adepts, and pours down His blessing upon them, to be passed through them to the world at large; and He may still be reached in certain ways by those who know how. Mrs. Besant has told us, in some of her recent writings, how He incarnated over and over again as the great teacher of the earlier sub-races of the Aryan race, how he was Hermes—the founder of the Egyptian Mysteries—also the first and greatest Zoroaster, the original founder of the worship of the sun and fire, and again He was Orpheus, the founder of the Greek Mysteries. Those mentioned of course were not His only births, for in the course of our researches into the past we have seen Him as founder of other religions than these.Tuy vậy, Đức Gautama vẫn đến mức độ nào đó lưu lại tiếp xúc với thế gian, để còn có thể trợ giúp nó. Mỗi năm một lần, Ngài vẫn hiển lộ cho Huynh đệ các chân sư và rót xuống phúc lành của Ngài cho các Ngài, để qua các Ngài truyền xuống cho toàn thế giới; và Ngài vẫn có thể được thấu đạt bằng những cách nhất định bởi những ai biết cách. Bà Besant đã kể cho chúng ta, trong vài trước tác gần đây của Bà, rằng Ngài đã tái sinh hết lần này đến lần khác như vị Huấn sư vĩ đại của các chủng phụ thời kỳ đầu của giống Arya, rằng Ngài là Hermes—đấng sáng lập các Huyền Môn Ai Cập—cũng là vị Zoroaster đầu tiên và vĩ đại nhất, người sáng lập nguyên thủy việc thờ phụng mặt trời và lửa, và rồi nữa Ngài là Orpheus, người khai lập các Huyền Môn Hy Lạp. Những sinh kiếp kể trên, dĩ nhiên, không phải là những lần duy nhất, vì trong quá trình khảo cứu quá khứ chúng tôi đã thấy Ngài là người sáng lập những tôn giáo khác nữa ngoài những tôn giáo ấy.
The statement made in some of the earlier Theosophical works that He was reborn as Shankaracharya is an error, for from an occult point of view the two great teachers were on entirely different lines. There was, however, a certain reason at the back of the statement in the fact that some of the vehicles prepared by one of them were also utilized by the other, as Madame Blavatsky has explained in the third volume of The Secret Doctrine.Lời tuyên bố trong vài tác phẩm Thông Thiên Học thời kỳ đầu rằng Ngài tái sinh thành Shankaracharya là một sai lầm, vì xét từ quan điểm huyền bí, hai vị đại sư ấy đi trên các tuyến đường hoàn toàn khác nhau. Tuy vậy vẫn có một lý do nào đó phía sau lời tuyên bố ấy ở chỗ vài hiện thể được một vị chuẩn bị đã được vị kia sử dụng, như Bà Blavatsky đã giải thích trong tập ba của Giáo Lý Bí Nhiệm.
The deep reverence and the strong affection felt for the Lord Gautama all over the East are due to two facts. One of these is that He was the first of our humanity to attain to the stupendous height of Buddhahood, and so He may be very truly described as the first fruits and the leader of our race. (All previous BUDDHAS had belonged to other humanities, which had matured upon earlier chains.) The second fact is that for the sake of hastening the progress of humanity, He took upon Himself certain additional labours of the most stupendous character, the nature of which it is impossible to comprehend. It is stated that when the time came at which it was expected that humanity would be able to provide for itself some one who was ready to fill this important office, no one could be found who was fully capable of doing so. But few of our earthly race had then reached the higher stages of adeptship, and the foremost of these were two friends and brothers whose development was equal. These two were the mighty Egos now known to us as the Lord Gautama and the Lord Maitreya, and in His great love for mankind the former at once volunteered to make the tremendous additional exertion necessary to qualify Him to do the work required, while His friend and brother decided to follow Him as the next holder of that office thousands of years later.Lòng tôn kính sâu xa và tình mến yêu mạnh mẽ dành cho Đức Gautama khắp phương Đông xuất phát từ hai sự kiện. Một là Ngài là vị đầu tiên trong nhân loại chúng ta đạt đến tầm cao lẫm liệt của Phật quả, nên Ngài rất đích thực là hoa quả đầu mùa và là vị thủ lĩnh của chủng tộc chúng ta. (Mọi Đức Phật trước đó đều thuộc về những nhân loại khác, vốn đã thành thục trên những Dãy trước.) Sự kiện thứ hai là vì muốn thúc đẩy nhanh tiến trình của nhân loại, Ngài đã tự gánh lấy những lao nhọc bổ sung có tầm mức siêu phàm, với bản chất không thể lĩnh hội nổi. Người ta nói rằng khi thời điểm đến—khi đáng lẽ nhân loại có thể tự mình cung ứng một ai đó sẵn sàng đảm lấy chức vị trọng yếu này—thì không ai được tìm thấy là hoàn toàn có khả năng làm vậy. Chỉ có ít người thuộc chủng tộc địa cầu chúng ta khi ấy đạt đến các giai đoạn thượng thừa của chân sư quả, và những người đứng đầu trong số ấy là hai bằng hữu, hai huynh đệ có mức phát triển ngang bằng. Hai vị ấy chính là những Đại Ngã vĩ đại mà nay chúng ta biết là Đức Gautama và Đức Maitreya, và với đại ái đối với nhân loại, vị thứ nhất lập tức tự nguyện dấn thân nỗ lực bổ sung phi thường để đủ tư cách làm công việc được yêu cầu, trong khi bằng hữu và huynh đệ của Ngài quyết định theo sau làm vị đương nhiệm kế tiếp của chức vị ấy sau hàng ngàn năm.
In those far-off times it was the Lord Gautama who ruled the world of religion and education; but now He has yielded that high office to the Lord Maitreya, whom western people call the Christ—who took the body of the disciple Jesus during the last three years of its life on the physical plane; and those who know tell us that it will not be long before He descends among us once again, to found another faith. Anyone whose mind is broad enough to grasp this magnificent conception of the splendid reality of things will see instantly how worse than futile it is to set up in one’s mind one religion as in opposition to another, to try to convert any person from one to another, or to compare depreciatingly the founder of one with the founder of another. In the last case indeed it is especially ridiculous, because the two founders are either two pupils of the same school, or two incarnations of the same person, and so are entirely in accord as to principles, though They may for the time be putting forward different aspects of the truth to suit the needs of those to whom They speak. The teaching is always fundamentally the same, though its presentation may vary widely. The Lord Maitreya had taken various births before He came into the office which He now holds, but even in these earlier days He seems always to have been a teacher or high-priest.Trong những thời xa xưa ấy, chính Đức Gautama quản trị thế giới tôn giáo và giáo dục; nhưng nay Ngài đã nhường chức vị cao ấy cho Đức Maitreya, mà người phương Tây gọi là Đức Christ—Đấng đã mượn xác của vị môn đệ Jesus trong ba năm cuối đời trên cõi hồng trần; và những ai biết thì nói với chúng ta rằng chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ lại giáng lâm giữa chúng ta, để khai sáng một tôn giáo nữa. Ai có tâm trí đủ rộng để lĩnh hội khái niệm kỳ vĩ về thực tại huy hoàng của sự việc này sẽ lập tức thấy thừa vô ích biết bao khi dựng lên trong tâm mình một tôn giáo đối chọi với tôn giáo khác, cố chuyển một người từ tôn giáo này sang tôn giáo khác, hoặc so sánh hạ thấp vị sáng lập này trước vị sáng lập kia. Trong trường hợp sau, quả thật là nực cười, vì hai vị sáng lập hoặc là hai môn đồ của cùng một trường, hoặc là hai lần hóa thân của cùng một vị, nên hoàn toàn đồng nhất về những nguyên tắc, dẫu tạm thời Các Ngài có thể phơi bày những phương diện khác nhau của chân lý để hợp với nhu cầu của những người được dạy. Giáo huấn luôn căn bản như nhau, dẫu cách trình bày có thể khác nhau rất xa. Đức Maitreya đã thọ nhiều kiếp trước khi Ngài đảm nhận chức vị hiện nay, nhưng ngay cả trong những ngày sớm hơn ấy, dường như Ngài luôn là một Huấn sư hay một Đại Tư tế.
It is now generally known that the two Masters who have been most intimately concerned with the foundation and the work of the Theosophical Society have taken respectively the offices of temporal and spiritual leader of the new sixth root-race, which is to come into existence in seven hundred years’ time. The Manu, or temporal leader, is practically an autocratic monarch who arranges everything connected with the physical-plane life of the new race, and endeavours in every way to make it as perfect an expression as possible of the idea which the LOGOS has set before Him for realization. The spiritual teacher will be in charge of all the various aspects of religion in the new race, and also of the education of its children. It is clear that one of the main objects of the foundation of the Theosophical Society was that these two Masters might gather round Them a number of men who would be intelligent and willing co-operators in this mighty work. Round Them will be grouped others who are now Their pupils, but will by that time have attained the level of adeptship.Giờ đây đã được biết rộng rãi rằng hai Vị Chân sư liên hệ mật thiết nhất với việc sáng lập và hoạt động của Hội Thông Thiên Học đã lần lượt đảm nhận chức vị lãnh đạo thế quyền và lãnh đạo tinh thần của giống dân gốc thứ sáu mới, giống dân sẽ xuất hiện trong bảy trăm năm nữa. Vị Manu, tức nhà lãnh đạo thế quyền, thực chất là một quân chủ chuyên chế, Đấng sắp đặt tất cả mọi điều liên quan đến đời sống trên cõi hồng trần của giống dân mới, và cố gắng bằng mọi cách làm cho nó trở thành một biểu hiện hoàn hảo nhất có thể của Ý Niệm mà Thượng đế đã đặt ra trước Ngài để thể hiện. Vị Huấn sư tinh thần sẽ đảm trách mọi phương diện khác nhau của tôn giáo trong giống dân mới, và cả việc giáo dục con trẻ của nó. Hiển nhiên một trong những mục tiêu chủ yếu của việc sáng lập Hội Thông Thiên Học là để hai Vị Chân sư này có thể quy tụ quanh Các Ngài một số người sẽ là những cộng tác viên thông tuệ và thiện chí trong công việc vĩ đại này. Chung quanh Các Ngài sẽ là những vị khác hiện là môn đồ của Các Ngài, nhưng đến khi đó sẽ đạt đến cấp chân sư.
We may then set before ourselves as a goal the privilege of being chosen to serve Them in this wonderful work for the world which lies before Them. There will be ample opportunity for the display of all possible varieties of talent, for the work will be of the most varied character. Some of us will no doubt be attracted to one side of it and some to the other, largely according to the predominance of our affection for one or other of its great Leaders. It has often been said that the characteristic of one is power, and of the other love and compassion, and this is perfectly true, though, if it is not rightly understood, it may very easily prove misleading. One of the Masters concerned has been a ruler in many incarnations, and was so even in the earlier part of this one, and unquestionably royal power shows forth in His every gesture and in the very look of His eyes, just as surely as the face of His brother adept beams ever with overflowing love and compassion. They are of different rays or types, having risen to Their present level along different lines, and this fact cannot but show itself; yet we should mistake sadly if we thought of the first as in any degree less loving and compassionate than His brother, or of the second as lacking anything of the power possessed by the first. Other Masters also will be engaged in this work, and it may well be that some of us may have made our link through one of Them.Vậy chúng ta có thể đặt trước mắt mình như một mục tiêu: đặc ân được chọn để phụng sự Các Ngài trong công cuộc kỳ diệu cho thế gian đang chờ Các Ngài phía trước. Sẽ có cơ hội phong phú để triển lộ mọi kiểu tài năng có thể có, vì công việc sẽ mang tính đa dạng nhất. Một số chúng ta hẳn sẽ bị hấp dẫn về phía này hay phía kia của công việc ấy, phần nhiều tùy theo sự thiên trọng của tình cảm chúng ta đối với một trong hai Vị Lãnh Đạo vĩ đại đó. Người ta thường nói rằng đặc trưng của một Vị là quyền năng, của Vị kia là tình thương và bi mẫn, và điều này hoàn toàn đúng, dẫu nếu không được hiểu đúng, nó rất dễ trở thành đánh lừa. Một trong hai Vị Chân sư liên hệ đã từng là một vị quân vương trong nhiều kiếp, và thậm chí trong phần đầu của kiếp này cũng vậy, và quyền uy vương giả quả nhiên hiển lộ trong từng cử chỉ của Ngài và ngay trong cái nhìn của đôi mắt Ngài, cũng chắc như gương mặt của vị huynh đệ chân sư của Ngài luôn tỏa ánh yêu thương và bi mẫn dào dạt. Các Ngài thuộc những cung hay kiểu khác nhau, đã thăng lên đến cấp độ hiện nay theo những đường lối khác nhau, và thực tế này không thể không biểu lộ; tuy thế, chúng ta sẽ lầm to nếu nghĩ vị thứ nhất phần nào kém yêu thương và bi mẫn hơn vị thứ hai, hoặc vị thứ hai thiếu điều gì trong quyền năng so với vị thứ nhất. Những Vị Chân sư khác cũng sẽ tham dự vào công việc này, và rất có thể một số chúng ta đã kết nối qua một trong Các Ngài.
It is probable that even the Masters who are by name best known to you are not so real, not so clear, not so well-defined to you as They are to those of us who have had the privilege of meeting Them face to face and seeing Them constantly in the course of our work. Yet you should endeavour by reading and thinking of Them to gain this realization, so that the Masters shall become to you not vague ideals but living men—men exactly as we are, though so enormously more advanced in every respect. They are men most emphatically, but men without failings, and so to us They seem like gods on account of the power, love and compassion radiating from Them. It is most significant that, in spite of the awe necessarily produced by the sense of this tremendous power, in Their presence one never feels in the least afraid or embarrassed, but always uplifted.Có lẽ ngay cả những Vị Chân sư mà quý vị biết tên nhiều nhất cũng chưa hiện thực, chưa rõ ràng, chưa sắc nét đối với quý vị như Các Ngài hiện thực đối với những ai trong chúng tôi đã có đặc ân diện kiến và thường xuyên gặp gỡ Các Ngài trong công tác. Tuy nhiên, quý vị nên nỗ lực, bằng việc đọc và tư duy về Các Ngài, để đạt đến sự thể ngộ ấy, hầu các Chân sư đối với quý vị không còn là những lý tưởng mơ hồ mà là những con người đang sống—những người giống như chúng ta, tuy vượt trội vô bờ bến trên mọi phương diện. Các Ngài quả là người, nhấn mạnh hết sức là người, nhưng là người không còn khiếm khuyết, nên đối với chúng ta Các Ngài như những vị thần vì quyền năng, tình thương và bi mẫn toả chiếu từ Các Ngài. Điều hết sức có ý nghĩa là, mặc dù niềm kính sợ tất yếu phát sinh bởi cảm thức về quyền năng ghê gớm ấy, nhưng khi hiện diện trước Các Ngài, người ta chưa từng cảm thấy e ngại hay lúng túng chút nào, mà luôn được nâng tâm hồn.
The man who stands before one of Them cannot but feel the deepest humility, because of the greatness of the contrast between himself and the Master. Yet with all this humility he yet feels a firm confidence in himself, for since the Master, who is also man, has achieved, that achievement is clearly possible even for him. In His presence everything seems possible and even easy, and one looks back with wonder on the troubles of yesterday, unable now to comprehend why they should have caused agitation or dismay. Now at least, the man feels, there can never again be trouble, since he has seen the right proportion of things. Now he will never again forget that, however dark the clouds may be, the sun is ever shining behind them. The vibrations of the Masters are so strong that only those qualities in you which harmonize with them are called out, so that you will feel the uttermost confidence and love, and the desire to be always in His presence. It is not that you forget that you have undesirable qualities in you, but you feel that now you can conquer them, and you do not in the least mind His knowing all about them, because you are so certain that He understands perfectly, and to understand all is to pardon all.Người đứng trước một Vị Chân sư không thể không cảm niềm khiêm cung sâu thẳm, vì sự tương phản quá lớn giữa bản thân mình và Chân sư. Tuy vậy, cùng với sự khiêm cung ấy, y vẫn cảm thấy một niềm tự tín vững vàng, bởi lẽ khi Chân sư—cũng là người—đã thành tựu, thì thành tựu ấy rõ ràng cũng khả hữu ngay cho y. Trong sự hiện diện của Ngài, mọi điều dường như khả hữu và thậm chí dễ dàng, và người ta ngoái nhìn lại những phiền não của ngày hôm qua với kinh ngạc, không còn hiểu vì sao chúng từng gây xao động hay hoang mang. Tối thiểu là bây giờ, người ấy cảm thấy, không thể còn có phiền não nữa, vì y đã thấy được tỉ lệ đúng của mọi sự. Nay y sẽ không bao giờ quên rằng, dẫu mây đen có dày đặc thế nào, mặt trời vẫn luôn tỏa sáng phía sau. Những rung động của các Chân sư mạnh đến nỗi chỉ những phẩm tính trong bạn hòa điệu với chúng mới được đánh thức, khiến bạn cảm nhận sự tự tin và tình thương vô hạn, và ước muốn được luôn ở trong sự hiện diện của Ngài. Không phải bạn quên mình còn có những phẩm tính không đáng mong muốn, nhưng bạn cảm thấy rằng giờ đây bạn có thể chế ngự chúng, và bạn chẳng hề bận tâm việc Ngài biết hết về chúng, bởi bạn chắc chắn rằng Ngài thấu hiểu hoàn toàn, mà hiểu tất cả là tha thứ tất cả.
It may perhaps help us to realize the human side of our Masters if we remember that many of Them in comparatively recent times have been known as historical characters. The Master K. H., for example, appeared in Europe as the philosopher Pythagoras. Before that He was the Egyptian priest Sarthon, and on yet another occasion chief-priest of a temple at Agade, in Asia Minor, where He was killed in a general massacre of the inhabitants by a host of invading barbarians who swooped down upon them from the hills. On that occasion He took immediately the body of a Greek fisherman, which had been drowned in his attempt to escape, and in that body the Master journeyed on to Persia, where he rendered great assistance to the last of the Zoroasters in the founding of the modern form of the Mazdayaznian religion. Later He was the flamen of the Temple of Jupiter in Rome, and later still Nagarjuna, the great Buddhist teacher. We have found Him many times in our researches into the past lives of some members of our group, but almost always as a priest or teacher.Có lẽ điều này sẽ giúp chúng ta thấu hiểu phương diện con người của các Chân sư: nhớ rằng nhiều Vị trong Các Ngài thời tương đối gần đây đã được biết đến như các nhân vật lịch sử. Chẳng hạn, Chân sư K. H. đã hiện diện ở Âu Châu như triết gia Pythagoras. Trước đó Ngài là vị tư tế Ai Cập Sarthon, và trong một lần khác là Đại Tư tế của một đền thờ ở Agade, Tiểu Á, nơi Ngài bị sát hại trong một cuộc tàn sát chung dân cư bởi một đạo quân man di tràn xuống từ núi. Lần ấy Ngài lập tức nhập vào thân xác của một ngư phủ Hy Lạp, người đã chết đuối khi cố chạy trốn, và trong thân xác đó Chân sư đã đi sang Ba Tư, nơi Ngài trợ giúp lớn lao cho vị Zoroaster cuối cùng trong việc sáng lập hình thái hiện đại của tôn giáo Mazdayazna. Về sau, Ngài là tế quan của Đền Jupiter ở La Mã, và trễ hơn nữa là Nāgārjuna, vị đại luận sư Phật giáo. Chúng tôi đã gặp Ngài nhiều lần trong quá trình khảo cứu các tiền kiếp của vài thành viên nhóm chúng tôi, nhưng hầu như luôn trong vai trò tư tế hay huấn sư.
Again, in these researches into the remote past we have frequently found the disciple Jesus, who in Palestine had the privilege of yielding up His body to the Christ. As a result of that act He received the incarnation of Apollonius of Tyana, and in the eleventh century He appeared in India as the teacher Ramanujacharya, who revived the devotional element in Hinduism, and raised it to so high a level.Cũng vậy, trong những khảo cứu về quá khứ xa xôi, chúng tôi thường thấy vị môn đệ Jesus—Đấng ở Palestine đã có đặc ân hiến thân xác mình cho Đức Christ. Nhờ hành động ấy, Ngài thọ lần hóa thân là Apollonius xứ Tyana, và vào thế kỷ XI Ngài xuất hiện ở Ấn Độ như vị đạo sư Rāmānujacharya, người phục hưng yếu tố sùng tín trong Ấn giáo và nâng nó lên một tầm cao.
No doubt some of you have heard a good deal about other Masters besides the two who principally take charge of Theosophical work. Another Master, for example, dictated for us Light on the Path and The Idyll of the White Lotus, while yet another has taken charge of a great deal of the work in Europe, and has written for us some of the most splendid works in the whole realm of literary activity. Then the one who was once the disciple Jesus stands ready especially to guide the various activities of the Christian Churches. Yet another looks especially after the work here in India.Hẳn một số quý vị đã nghe nhiều về những Chân sư khác ngoài hai Vị đặc biệt phò trợ công việc Thông Thiên Học. Một Chân sư, chẳng hạn, đã giảng cho chúng ta Ánh sáng trên Đường ĐạoKhúc Hoan Ca của Hoa Sen Trắng, trong khi một Vị khác đảm trách phần lớn công việc ở châu Âu, và đã viết cho chúng ta vài tác phẩm lẫm liệt nhất trong toàn cõi hoạt động văn chương. Rồi vị từng là môn đệ Jesus thì sẵn sàng đặc biệt dẫn dắt các hoạt động khác nhau của các Giáo hội Kitô giáo. Một Vị nữa đặc biệt chăm lo công việc nơi đây, ở Ấn Độ.
Thus it may be seen that the evolution of the world is by no means left to itself, to get along as best it may, as people so often rashly suppose; on the contrary, it is being directed. For this Hierarchy of adepts is actually managing it, as far as it is possible to manage it while leaving its inhabitants their own free-will. The members of the Brotherhood, through Their agents, are constantly trying to work with the important people of the world, putting advice and suggestions into their minds, endeavouring to move them onwards towards the great future of Universal Brotherhood when war shall have disappeared. But we must remember that the karma of all the people concerned has to be considered and respected. It would no doubt be easy to force the world along at a far more rapid rate, but that would not be for the real advantage of the people concerned. The Master K. H. once said in a letter which I received from Him: “Of course I could easily tell you exactly what to do, and of course you would do it, but then the karma of the act would be mine and not yours, and you would gain only the karma of prompt obedience.”Như vậy có thể thấy rằng tiến hóa của thế gian không hề bị bỏ mặc, tự bươn bả thế nào thì bươn bả, như người ta hay hồ đồ tưởng vậy; trái lại, nó đang được điều khiển. Vì Thánh Đoàn các chân sư trên thực tế đang quản trị nó—trong chừng mực có thể quản trị được trong khi vẫn để các cư dân có tự do ý chí của mình. Các thành viên của Huynh đệ Đoàn, qua các tác nhân, luôn cố gắng tác động với những nhân vật quan trọng của thế giới, gieo lời khuyên và gợi ý vào tâm trí họ, nỗ lực thúc đẩy họ hướng tới tương lai vĩ đại của Tình Huynh Đệ Đại Đồng, khi chiến tranh sẽ biến mất. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng nghiệp quả của tất cả những người liên can đều cần được xét đến và tôn trọng. Dĩ nhiên, hẳn là dễ ép thế giới tiến nhanh hơn nhiều, nhưng như vậy sẽ không đem lại lợi ích thực sự cho những người liên can. Chân sư K. H. đã từng nói trong một bức thư Ngài gửi cho tôi: “Dĩ nhiên, Ta có thể dễ dàng bảo con chính xác phải làm gì, và dĩ nhiên con sẽ làm, nhưng bấy giờ nghiệp quả của hành vi sẽ là của Ta chứ không phải của con, và con chỉ gặt nghiệp quả của sự tuân phục lập tức mà thôi.”
Men have to learn to be not merely intelligent servants; they have to learn to be co-workers, because they themselves will have the same work to do some day, and if they are to be fit for greater responsibilities in the future they must be willing to take up the smaller responsibilities now. Sometimes, it is true, a really great opportunity or responsibility of worldwide importance comes to one of us, but that may perhaps be once in many hundreds of lives. When it comes we shall take it or miss it, according as we have or have not been in the habit of taking the smaller opportunities of daily life, so that we have got into the habit of doing the right thing, and shall do it automatically at the critical moment. Our opportunities of doing good or harm are usually but small as regards the world as a whole; but when we have learnt invariably and automatically to choose the right in these smaller matters, the Great Brotherhood will feel it safe to trust us in larger matters.Con người phải học không chỉ để làm những kẻ phục vụ thông minh; họ phải học để trở thành cộng tác viên, vì chính họ rồi đây cũng sẽ đảm nhiệm cùng công việc ấy, và nếu họ muốn xứng hợp với trách nhiệm lớn lao hơn trong tương lai, họ phải sẵn lòng gánh lấy những trách nhiệm nhỏ hơn ngay bây giờ. Đôi khi, đúng là một cơ hội hay trách nhiệm thực sự lớn lao mang tầm vóc thế giới đến với một người trong chúng ta, nhưng có lẽ điều đó chỉ một lần trong nhiều trăm kiếp. Khi nó đến, chúng ta sẽ nắm lấy hay bỏ lỡ, tùy theo việc chúng ta có hay không có thói quen chộp lấy những cơ hội nhỏ bé của đời sống thường ngày—đến mức chúng ta đã thành thói quen làm điều đúng, và sẽ làm nó một cách tự động tại thời khắc quyết định. Cơ hội làm điều thiện hay điều hại của chúng ta nói chung là nhỏ nhoi đối với toàn thế giới; nhưng khi chúng ta đã học được cách luôn luôn và tự động chọn điều đúng trong những chuyện nhỏ như thế, Huynh đệ Đoàn Vĩ Đại sẽ cảm thấy an tâm giao phó cho chúng ta những việc lớn hơn.
It is indeed well that we should try to understand these Great Ones, not as a mere matter of curiosity and interest, but in order that we may realise Them as They are, and comprehend that They are men just as we are, varying among Themselves just as we vary, although at so much higher a level. Wisdom, power and love are present in all of Them equally, yet They are by no means all alike. They are individuals just as we are. They are at the top of the ladder of humanity, but let us not forget that we are somewhere on its lower rungs, and that one day we also shall reach Their level and stand where They stand.Thật vậy, điều tốt là chúng ta nên cố gắng hiểu biết các Đấng Cao Cả này; không phải vì tò mò hay hứng thú, mà để chúng ta thể nhận Các Ngài như Các Ngài đang là, và hiểu rằng Các Ngài là những con người như chúng ta, cũng đa dạng giữa nhau như chúng ta đa dạng, dẫu ở một cấp độ cao hơn rất nhiều. Minh triết, quyền năng và tình thương hiện diện ngang nhau nơi tất cả Các Ngài, vậy mà Các Ngài không hề như nhau cả thảy. Các Ngài là những cá thể, cũng như chúng ta. Các Ngài đứng trên đỉnh thang nhân loại, nhưng chớ quên rằng chúng ta đang ở đâu đó trên những nấc thấp hơn, và một ngày kia chúng ta cũng sẽ đạt đến cấp độ của Các Ngài và đứng nơi Các Ngài đang đứng.
One important fact about Them is Their all-round development. If we examine ourselves we shall be sure to find that we are to some extent disproportionate in our development—one-sided in certain respects. Some of us are full of scientific faculty and intellectual development, but sadly lacking in devotion and compassion; others are full of whole-souled devotion, but defective on the intellectual side. A Master is perfect along both these lines, as may easily be seen when we think of the splendid intellect of Pythagoras along with the love and compassion of the Master K. H.Một sự kiện quan trọng về Các Ngài là sự phát triển toàn diện. Nếu xét mình, chúng ta chắc chắn sẽ thấy mình phần nào còn bất cân xứng trong phát triển—thiên lệch ở vài phương diện. Có người đầy năng lực khoa học và phát triển trí tuệ, nhưng lại thiếu hụt buồn bã về sùng kính và bi mẫn; kẻ khác thì tràn đầy sùng kính chí thành, nhưng khiếm khuyết ở mặt trí tuệ. Một Chân sư thì hoàn hảo trên cả hai đường, như có thể dễ dàng thấy khi nghĩ về trí tuệ lẫm liệt của Pythagoras song hành với tình thương và bi mẫn của Chân sư K. H.
We must not misunderstand Their wonderful knowledge. In order to attain the level of adeptship They must have cast off among others the fetter of avidya or ignorance, and it is often said that to cast off ignorance one must attain all-knowledge. Yet we know from personal acquaintance with Them that this is not so in the mere literal sense; for example, there are Masters who do not know all languages, others who are not artists and musicians, and so on. I think that what is really meant by casting off the fetter of ignorance is the acquisition of a power by which They can at any moment command any knowledge upon any subject which They happen to require. They certainly have not all facts stored within Their physical brains but equally certainly They can very quickly obtain any knowledge of which They have need. As to the question of languages, for example, if a Master wishes to write a letter in a language which He does not know, He very frequently employs the brain of a pupil who is acquainted with that language, throwing the ideas into that pupil’s brain, and then employing the words in which He sees them clothe themselves. If a man speaks to Them in a language which They do not understand, They can instantly grasp on the mental plane the thought that lies behind the incomprehensible words.Chúng ta chớ hiểu sai về tri thức kỳ diệu của Các Ngài. Để đạt đến cấp độ chân sư, Các Ngài ắt đã rũ bỏ trong số những xiềng xích khác cái ách avidya hay vô minh, và người ta thường nói rằng muốn rũ bỏ vô minh thì phải đạt đến toàn tri. Tuy nhiên, chúng ta biết từ sự giao tiếp trực tiếp với Các Ngài rằng điều này không đúng theo nghĩa đen; chẳng hạn, có những Chân sư không biết tất cả các ngôn ngữ, những vị khác không phải là nghệ sĩ hay nhạc sĩ, v.v. Tôi nghĩ điều thực sự được hàm ý bởi việc rũ bỏ cái ách vô minh là đắc đắc một năng lực nhờ đó Các Ngài có thể vào bất cứ lúc nào triệu tập bất cứ tri thức nào về bất cứ chủ đề nào mà Các Ngài cần. Chắc chắn Các Ngài không lưu trữ mọi dữ kiện trong bộ não thể xác của mình, nhưng cũng chắc chắn rằng Các Ngài có thể rất nhanh chóng đạt được bất cứ tri thức nào cần thiết. Như về chuyện ngôn ngữ, chẳng hạn, nếu một Chân sư muốn viết một bức thư bằng một ngôn ngữ Ngài không thạo, Ngài thường dùng bộ não của một đệ tử quen ngôn ngữ đó, phóng những ý tưởng vào não người đệ tử, rồi dùng những từ ngữ mà Ngài thấy chúng được khoác lên. Nếu ai đó nói với Các Ngài bằng một ngôn ngữ Các Ngài không hiểu, Các Ngài có thể lập tức nắm bắt trên cõi trí điều tư tưởng nằm phía sau những từ ngữ bất khả tri ấy.
It is often asked whether an ordinary man who met a Master on the physical plane would instantly recognize Him as such. I do not see any reason why he should. He would certainly find the Adept impressive, noble, dignified, holy and serene. He could hardly fail to recognize that he was in the presence of a remarkable man; but to know certainly that that man was an adept it would be necessary to see His causal body, which of course the ordinary man could not do. In that causal body the development would show by its greatly increased size, and by a special arrangement of the colours, which would differ for each of the seven great types. But all this would be quite out of the reach of the ordinary man whom we are postulating.Người ta thường hỏi liệu một người bình thường gặp một Chân sư trên cõi hồng trần có lập tức nhận ra Ngài là Chân sư không. Tôi không thấy có lý do nào khiến y phải nhận ra. Hẳn y sẽ thấy vị Chân sư gây ấn tượng mạnh, cao quý, trang nghiêm, thánh thiện và trầm tĩnh. Y khó lòng không nhận ra rằng mình đang ở trước sự hiện diện của một người phi thường; nhưng để biết chắc chắn rằng người ấy là một Chân sư, cần phải thấy được thể nguyên nhân của Ngài, điều mà dĩ nhiên người bình thường không thể. Trong thể nguyên nhân ấy, sự phát triển sẽ hiển lộ ở kích thước gia tăng vượt bậc, và bởi một sự sắp xếp đặc thù của các màu sắc, điều sẽ khác nhau với mỗi trong bảy kiểu loại lớn. Nhưng tất cả những điều ấy hoàn toàn vượt khỏi tầm người bình thường mà ta đang giả định.
Adepts have no definite external peculiarities by which They may be recognized, though there is a great calmness and benevolence common to Them all; Their faces are stamped always with a joyous serenity, the peace which passeth all understanding. Most of Them are distinctly handsome men, because Their physical bodies are perfect, for They live in an absolutely hygienic way, and above all They never worry about anything. In the case of most of us there is still a great deal of karma of various kinds to be worked out and among other things this modifies the appearance of our physical bodies. In Their case all karma is long ago exhausted, and consequently the physical body is a perfect expression on the physical plane of the Augoeides or glorified body of the Ego. Not only therefore is the body of a Master usually splendidly handsome, but also any new body that He may take in a subsequent incarnation will be an almost exact reproduction of the old one, because there is nothing to modify it.Các Chân sư không có những đặc điểm ngoại mạo cố định nào để nhờ đó có thể nhận ra Các Ngài, dẫu có một sự bình thản và nhân ái lớn lao chung nơi tất cả Các Ngài; gương mặt của Các Ngài luôn in dấu một sự an nhiên hân hoan—sự bình an vượt quá mọi sự hiểu biết. Phần nhiều Các Ngài đều là những người đẹp đẽ rõ rệt, vì thân xác của Các Ngài là hoàn hảo, bởi Các Ngài sống theo một lối sống tuyệt đối hợp vệ sinh, và trên hết là Các Ngài không bao giờ lo lắng điều gì. Trong trường hợp phần nhiều chúng ta, vẫn còn rất nhiều loại nghiệp phải trải, và trong số những điều khác, điều đó biến đổi diện mạo của thân xác hồng trần chúng ta. Còn nơi Các Ngài, mọi nghiệp đã lâu lắm rồi vơi sạch, và vì vậy thân xác hồng trần là một biểu hiện hoàn hảo trên cõi hồng trần của Augoeides, hay thân vinh quang của Chân ngã. Do đó, không chỉ thân xác của một Chân sư thường uy nghi tuyệt đẹp, mà bất cứ thân mới nào Ngài thọ trong một lần hóa sinh về sau cũng sẽ gần như là một bản sao hầu như y hệt thân cũ, vì không còn gì để biến đổi nó.
Another remarkable fact is that They are able to preserve Their physical bodies very much longer than we can—owing no doubt to the perfect health and absence of worry which we have already mentioned. Almost all of the Masters whom we know appear as men in the prime of life, yet in many cases there is testimony to prove that Their physical bodies must have long passed the ordinary age of man. I have heard Madame Blavatsky say that her Master as He appears now does not look a day older than when she first saw Him in her childhood sixty years before. In one case only, that of a Master who has recently attained adeptship in the body which He is still wearing, there is a certain ruggedness in the face; which is doubtless the result of some remainder of past karma brought over into this incarnation, but I think we may feel sure that when He chooses to take another body that characteristic will not persist.Một sự kiện đáng chú ý khác là Các Ngài có thể bảo tồn thân xác hồng trần của mình lâu hơn chúng ta rất nhiều—ắt hẳn do sức khỏe hoàn hảo và sự vắng mặt hoàn toàn của lo âu như chúng ta đã nói. Hầu như tất cả các Chân sư mà chúng tôi biết đều hiện ra như những người ở độ tráng niên, tuy trong nhiều trường hợp có bằng cứ chứng tỏ rằng thân xác hồng trần của Các Ngài hẳn đã vượt xa tuổi thọ thông thường của người đời. Tôi đã nghe Bà Blavatsky nói rằng vị Thầy của Bà, như Ngài hiện nay, không trông già hơn một ngày so với khi Bà lần đầu gặp Ngài thời thơ ấu sáu mươi năm trước. Chỉ trong một trường hợp—một Chân sư mới đây đạt chân sư quả trong chính thân xác mà Ngài còn đang mang—có một vài nét gồ ghề trên gương mặt; điều này chắc hẳn là kết quả của vài dư nghiệp quá khứ còn mang theo vào hóa kiếp này, nhưng tôi nghĩ chúng ta có thể yên tâm rằng khi Ngài chọn thọ một thân khác, đặc điểm ấy sẽ không còn.
Probably They are more silent than most men; busy people have not much time for casual talk, and They are out of all proportion the busiest people in the world. Their pupil Madame Blavatsky was the most brilliant conversationalist that I have ever met, but she never made talk for the sake of making it. So with Them; a Master never speaks without a definite object in view, and His object is always to encourage, to help or to warn. He speaks always gently and with the greatest kindness, though He often betrays a very keen sense of humour; yet the humour itself is always of the kindly order, and is used never to wound, but always to lighten the troubles of the way, or to soften some necessary rebuke. Certainly a man who has no sense of humour would not be likely to make much progress in occult matters.Có lẽ Các Ngài ít nói hơn phần nhiều người khác; người bận rộn không có nhiều thời gian cho chuyện trò xã giao, và Các Ngài là những người bận rộn nhất đời—một cách chênh lệch áp đảo. Môn đồ của Các Ngài, Bà Blavatsky, là người đối thoại chói sáng nhất mà tôi từng gặp, nhưng Bà chưa từng nói chỉ vì muốn nói. Với Các Ngài cũng vậy; một Chân sư không bao giờ nói mà không có mục đích xác định, và mục đích của Ngài luôn là khích lệ, trợ giúp hoặc cảnh tỉnh. Ngài luôn nói bằng giọng ôn hòa với lòng từ ái lớn lao, tuy Ngài thường bộc lộ một cảm quan u mặc rất tinh tế; nhưng chính tiếng cười ấy cũng luôn đầy nhân hậu, và chưa từng dùng để làm tổn thương, mà luôn để làm nhẹ gánh đường đời, hoặc để làm mềm một lời quở trách cần thiết. Chắc chắn một người không có óc hài hước thì khó lòng tiến bộ nhiều trong các vấn đề huyền bí.
The number of adepts who retain physical bodies in order to help the evolution of the world is but small—perhaps some fifty or sixty in all. But it must be remembered that the great majority of these do not take pupils, as They are engaged in quite other work. Madame Blavatsky employed the term adept very loosely, for in one place she actually speaks of adepts who have been initiated, and adepts who have not been initiated. In all later writings we have reserved the word “initiate” for those who have passed at least the first of the four great stages upon the Path of Holiness, and the word adept we have restricted to those who have attained the Asekha level, and so have finished the evolution required of them in this chain of worlds. The consciousness of the Asekha rests normally upon the nirvanic or atmic plane while his physical body is awake. But out of the number who have already attained adeptship only the very small proportion above-mentioned retain physical bodies, and remain in touch with the earth in order to help it; and out of this a still smaller proportion are willing under certain conditions to accept men as pupils or apprentices; and it is to these last (the smallest number) only that we give the name of Masters. Yet few though They be Their office is of incalculable importance, since without Their aid it would be impossible for man to enter the portals of initiation.Con số các chân sư giữ lại thể xác để trợ giúp tiến hóa của thế gian là ít ỏi—có lẽ vào khoảng năm mươi hay sáu mươi tất cả. Nhưng cần nhớ rằng đại đa số trong Các Ngài không thu nhận môn đồ, vì Các Ngài bận với những công việc rất khác. Bà Blavatsky đã dùng thuật ngữ chân sư (adept) khá lỏng, vì ở một chỗ Bà thậm chí nói về những chân sư đã được điểm đạo và những chân sư chưa được điểm đạo. Trong tất cả các trước tác về sau, chúng tôi dành từ “điểm đạo đồ” cho những ai đã vượt ít nhất giai đoạn đầu trong bốn giai đoạn lớn trên Thánh Đạo, và từ chân sư (adept) chúng tôi hạn chỉ cho những ai đã đạt đến cấp Asekha, và như vậy đã hoàn tất tiến hóa được yêu cầu của họ trong chuỗi thế giới này. Tâm thức của một vị Asekha an trú một cách bình thường trên cõi Niết Bàn hay atma trong khi thân xác hồng trần còn thức. Nhưng trong số những vị đã đạt chân sư quả thì chỉ một tỷ phần rất nhỏ như vừa nêu mới giữ lại thể xác và lưu lại liên hệ với trái đất để trợ giúp nó; và trong số này lại là một tỷ phần nhỏ hơn nữa sẵn lòng, với những điều kiện nhất định, tiếp nhận con người làm môn đồ hay tập sinh; và chỉ với những vị sau cùng này (số ít nhất) chúng tôi mới gọi là các Chân sư. Dẫu ít ỏi như vậy, chức vụ của Các Ngài có tầm trọng đại khó lường, vì nếu không có trợ giúp của Các Ngài thì con người không thể bước vào các cửa điểm đạo.

THE WORK OF THE CHRIST—CÔNG TÁC CỦA ĐỨC CHRIST

You ask about the Great One whom we call the Christ, the Lord Maitreya, and about His work in the past and in the future. The subject is a wide one—one also about which it is somewhat difficult for us to speak with freedom, on account of the restrictions with which we are hedged round. Possibly the suggestion may be of use to you that there is what we may call a department of the inner government of the world which is devoted to religious instruction—the founding and inspiring of religions, and so on. It is the Christ who is in charge of that department; sometimes He Himself appears on earth to found a great religion and sometimes He entrusts such work to one of His more advanced assistants. We must regard Him as exercising a kind of steady pressure from behind all the time, so that the power employed will flow as though automatically into every channel anywhere and of any sort which is open to its passage; so that He is working simultaneously through every religion, and utilizing all that is good in the way of devotion and self-sacrifice in each.Bạn hỏi về Đấng Vĩ Đại mà chúng ta gọi là Đức Christ, Đức Maitreya, và về công tác của Ngài trong quá khứ và tương lai. Chủ đề này thật rộng—và cũng là điều mà chúng tôi hơi khó nói một cách tự do vì những giới hạn vây quanh. Có lẽ một gợi ý sẽ có ích cho bạn là: có cái mà chúng ta có thể gọi là một ban trong nội chính hành tinh, chuyên về giáo huấn tôn giáo—sáng lập và linh hứng các tôn giáo, v.v. Chính Đức Christ đảm trách ban ấy; đôi khi Chính Ngài thị hiện trên trần để khai sáng một tôn giáo lớn, và đôi khi Ngài trao phó công việc như thế cho một vị phụ tá cao cấp hơn. Chúng ta phải xem Ngài như đang thực thi một áp lực đều đặn từ hậu trường mọi thời, để năng lực được vận dụng sẽ chảy hầu như tự động vào mọi kênh bất cứ nơi đâu và bất cứ loại nào mở ra cho nó; để rồi Ngài làm việc đồng thời qua mọi tôn giáo, và tận dụng tất cả những gì là thiện trong tinh thần sùng tín và hy sinh của mỗi tôn giáo.
The fact that these religions may be wasting their strength in abusing one another upon the physical plane is of course lamentable, but it does not make much difference to the fact that whatever is good in each of them is being simultaneously utilized from behind by the same great Power. This is true of course of all movements in the world; every ounce of the good in them is being used as a channel, while the evil in them is in each case just so much regrettable waste of force which might have been utilized if the people had been more sensible. The section in The Secret Doctrine entitled The Mystery of Buddha gives a good deal of information as to the relations between the Heads of this department of Religion, and it may give some useful hints as to the Christ also. This is a subject of paramount interest to the members of our Society, since one of our Masters has a specially close relation with that department.Sự kiện các tôn giáo ấy có thể đang phung phí sức lực trong việc mạ lị lẫn nhau trên cõi hồng trần dĩ nhiên là đáng buồn, nhưng nó không làm thay đổi mấy đối với sự kiện rằng bất cứ điều thiện nào trong mỗi tôn giáo đều đang được đồng thời vận dụng từ hậu trường bởi cùng một Nguồn Lực vĩ đại. Điều này dĩ nhiên cũng đúng với mọi phong trào trên đời; mỗi chút điều thiện trong chúng đều đang được dùng làm kênh dẫn, trong khi điều ác trong chúng trong mỗi trường hợp chỉ là một sự lãng phí đáng tiếc những lực có thể đã được dùng nếu người ta sáng suốt hơn. Phần trong Giáo Lý Bí Nhiệm mang tựa Bí Nhiệm của Đức Phật cung cấp khá nhiều thông tin về mối liên hệ giữa những Vị Lãnh Đạo của Ban Tôn giáo, và nó có thể gợi ra vài chỉ dẫn hữu ích về Đức Christ nữa. Đây là một chủ đề có mối quan tâm tối thượng đối với các hội viên của Hội chúng ta, vì một Vị Chân sư của chúng ta có mối liên hệ đặc biệt gần gũi với ban ấy.
As to the approaching advent of the Christ and the work which He has to do, you cannot do better than read Mrs. Besant’s book on The Changing World. The time of His advent is not far distant, and the very body which He will take is even already born among us.Về cuộc giáng lâm sắp tới của Đức Christ và công tác Ngài phải làm, bạn không thể làm gì tốt hơn là đọc cuốn sách của Bà Besant, Thế Giới Đang Biến Đổi. Thời điểm Ngài giáng lâm không còn xa, và chính thân xác mà Ngài sẽ thọ dụng thậm chí đã sinh ra giữa chúng ta.
All this was decided many thousands of years ago—some of it decided apparently in minute details, though it would seem that there is a good deal of flexibility with regard to other points. The utter certainty with which these Great Ones lay Their plans many thousands of years ahead is one of the most wonderful features of this stupendous work that They do. Sometimes it is open to those of us who have been able to develop the faculties of the higher planes to be allowed a glimpse of Their mighty schemes, to witness the lifting of a tiny corner of the veil which shrouds the future. Sometimes also we have glimpsed Their plans in another way, for in looking back into the records of the distant past we have found Them making prophecies, the fulfilment of which is even now passing before our eyes.Tất cả điều này đã được quyết định từ hàng ngàn năm trước—một phần được định dường như đến từng chi tiết nhỏ, dẫu có vẻ cũng có khá nhiều tính linh hoạt đối với những điểm khác. Sự chắc chắn tuyệt đối mà các Đấng Cao Cả này hoạch định công cuộc của Các Ngài trước hàng ngàn năm là một trong những nét kỳ vĩ nhất của công trình siêu phàm mà Các Ngài thi hành. Đôi khi với những ai trong chúng tôi đã phát triển được các năng lực của các cõi cao, có khi được phép lóe nhìn qua những đề án hùng tráng của Các Ngài, được chứng kiến việc hé mở một góc nhỏ của bức màn che phủ tương lai. Đôi khi nữa chúng tôi bắt gặp những đề án của Các Ngài bằng một cách khác, vì khi nhìn lùi vào những ký lục của quá vãng xa xưa, chúng tôi đã thấy Các Ngài đưa ra những lời tiên tri, và sự ứng nghiệm của chúng nay đang diễn ra trước mắt chúng ta.
I know of nothing more stirring, more absorbingly interesting, than such a glimpse. The splendour, the colossal magnitude, of Their plans takes away one’s breath, yet even more impressive is the calm dignity, the utter certainty, of it all. Not individuals only, but even nations are the pieces in this game; but neither nation nor individual is compelled to play any given part. The opportunity to play that part is given to it or to him; if he or it will not take it there is invariably an under-study ready to step in and fill the gap. But, whoever may be the instrument, this one thing at least is utterly certain, that the intended end will be achieved; through whose agency this will be done matters very much to the agent but nothing at all to the total progress of the world. Nineteen hundred years ago Appollonius of Tyana was sent out by the Brotherhood upon a mission, one feature of which was that he was to found, in various countries, certain magnetic centres. Objects of the nature of talismans were given to him, which he was to bury at these chosen spots, in order that the force which they radiated might prepare these places to be the centres of great events in the future. Some of those centres have already been utilized, but some have not, and all these latter are to be employed in the immediate future in connection with the work of the coming Christ. So that much of the detail of His work was already definitely planned nearly two thousand years ago, and arrangements even on the physical plane were being made to prepare for it. When once we realize this utter certainty, doubt and hesitation, anxiety and worry, all fade away and we gain a perfect peace and content, and the most absolute confidence in the Powers who are governing the world.Tôi không biết có điều gì gây kích động, cuốn hút hơn một thoáng nhìn như thế. Sự huy hoàng, bề thế khổng lồ của Kế hoạch của Các Ngài khiến người ta phải nín thở, nhưng còn ấn tượng hơn là phong thái trang nghiêm bình thản, sự xác quyết tuyệt đối của tất cả mọi việc. Không chỉ các cá nhân, mà ngay cả các quốc gia cũng là những quân cờ trong ván cờ này; nhưng không quốc gia nào hay cá nhân nào bị ép buộc phải đóng một vai diễn đã định sẵn. Cơ hội để đảm nhận vai ấy được trao cho nó hoặc cho y; nếu y hay nó không nắm lấy thì luôn luôn có một người thay thế sẵn sàng bước vào để lấp chỗ trống. Nhưng, bất kể công cụ là ai, ít nhất có một điều hoàn toàn chắc chắn, rằng mục đích đã định sẽ được hoàn thành; việc điều đó được thực hiện thông qua cơ quan nào là điều rất quan trọng đối với chính tác nhân, nhưng tuyệt nhiên không ảnh hưởng gì đến tiến trình tổng thể của thế giới. Mười chín trăm năm trước, Appollonius xứ Tyana được Huynh đệ Đoàn Chánh đạo phái đi thi hành một sứ mạng, trong đó có một phần việc là lập nên, ở nhiều xứ sở, những trung tâm từ lực nhất định. Người ta trao cho ông những vật thể thuộc loại bùa ấn để ông chôn chúng tại các địa điểm đã chọn, hầu cho lực mà chúng phát xạ có thể chuẩn bị những nơi ấy trở thành trung tâm của các sự kiện lớn trong tương lai. Một số trung tâm ấy đã được sử dụng rồi, nhưng một số thì chưa, và tất cả những trung tâm sau này sẽ được dùng trong tương lai gần, liên hệ đến công việc của Đức Christ đang đến. Như vậy, nhiều chi tiết trong Công tác của Ngài đã được hoạch định dứt khoát cách đây gần hai nghìn năm, và ngay cả những sắp đặt trên cõi hồng trần cũng đã được tiến hành để chuẩn bị cho việc ấy. Khi một lần chúng ta thấu triệt sự xác quyết tuyệt đối này, thì hoài nghi và do dự, sầu muộn và lo lắng đều phai tắt, và chúng ta đạt được một an bình và mãn nguyện toàn bích, cùng một niềm tin tuyệt đối vào các Quyền Lực đang cai quản thế giới.

THE WORK OF THE MASTERS—THE WORK OF THE MASTERS

The work of the Masters on Their own planes is not easy for us to comprehend, though we can readily see that Their activity must be tremendous. The number of adepts still retaining physical bodies is but small, and yet in Their hands is the care of all the evolutions which are taking place on this globe. As far as humanity is concerned They seem to divide the world into parishes, but Their parishes are continents, and an adept is appointed to look after each. The Theosophical Society appears to be rather of the nature of a mission sent out from Headquarters, so that those who take part in its activities are working not for any particular parish or any particular form of religion, but for humanity as a whole; and it is upon humanity as a whole, or at least upon humanity in the mass, that the Masters chiefly act. They have a department which devotes itself to endeavouring to influence in the right direction the important people of the world—to affect kings and statesmen in the direction of peace, to impress more liberal ideas upon great preachers and teachers, to uplift the conceptions of artists, so that through them the whole world may be made a little happier and a little better.Công tác của các Chân sư trên các cõi của Các Ngài không dễ để chúng ta lĩnh hội, dù chúng ta có thể thấy ngay rằng hoạt động của Các Ngài hẳn là vĩ đại khôn lường. Số lượng các chân sư còn giữ xác phàm chỉ là ít ỏi, vậy mà trong tay Các Ngài là sự chăm nom tất cả các tiến hóa đang diễn ra trên quả địa cầu này. Xét riêng về nhân loại, xem ra Các Ngài chia thế giới thành những giáo khu, nhưng giáo khu của Các Ngài là các lục địa, và một chân sư được chỉ định trông nom mỗi lục địa. Hội Thông Thiên Học dường như thuộc về loại một sứ vụ được phái đi từ Tổng Hành Dinh, để những ai tham gia vào hoạt động của Hội làm việc không vì bất kỳ giáo khu nào hay bất kỳ hình thức tôn giáo đặc thù nào, mà vì toàn thể nhân loại; và chính trên nhân loại như một toàn thể, hay ít ra trên nhân loại như một khối, mà các Chân sư chủ yếu tác động. Các Ngài có một phân bộ chuyên dốc sức ảnh hưởng đúng hướng lên những nhân vật quan trọng của thế giới—tác động các quân vương và quốc vụ khanh theo chiều hòa bình, gieo vào các nhà giảng đạo và huấn sư lớn những tư tưởng phóng khoáng hơn, nâng cao quan niệm của nghệ sĩ, để qua họ cả thế giới có thể trở nên hạnh phúc hơn một chút và tốt đẹp hơn một chút.
But the working of such departments as these is mainly entrusted to Their pupils, They themselves dealing rather with the egos in their causal bodies; They devote themselves to pouring spiritual influence upon them—raying out upon them as the sunlight radiates upon the flowers, and thereby evoking from them all that is noblest and best in them, and so promoting their growth. Many people are sometimes conscious of helpful influences of this description, but are quite unable to trace them to their source. The causal body of the average man has as yet almost no consciousness of anything external to itself on its own plane. It is very much in the condition of the chicken within the egg, which is entirely unconscious of the source of the heat which nevertheless stimulates its growth. When any person reaches the stage where he breaks through his shell, and becomes capable of some sort of response, the whole process takes on a different form, and is enormously quickened. Even the group-souls of animals on the lower part of the mental plane are greatly affected and assisted by such influence, for like sunlight the force floods the entire plane and affects to some extent everything which is within its radius. In pouring out this force the Masters frequently take advantage of special occasions and of places where there is some strong magnetic centre. Where some holy man has lived and died, or where some relics of such a person create a suitable atmosphere, They take advantage of such conditions and cause Their own force to radiate along the channels which are already prepared. When some vast assemblage of pilgrims comes together in a receptive attitude, again They take advantage of the occasion by pouring Their forces out upon the people through the channels by means of which they have been taught to expect help and blessing.Nhưng việc vận hành các phân bộ như thế phần lớn được giao phó cho các đệ tử của Các Ngài, còn chính Các Ngài thì làm việc nhiều hơn với các chân ngã trong những thể nguyên nhân; Các Ngài dốc đổ ảnh hưởng tinh thần lên họ—chiếu rọi lên họ như ánh dương quang rọi trên hoa, nhờ đó khơi dậy nơi họ tất cả những gì cao quý và tốt đẹp nhất, qua đó thúc đẩy sự trưởng thành của họ. Nhiều người đôi lúc ý thức được những ảnh hưởng trợ lực như vậy, nhưng hoàn toàn không thể lần ra nguồn xuất phát. Thể nguyên nhân của người trung bình hiện vẫn hầu như chưa có tâm thức về bất cứ điều gì bên ngoài chính nó trên cõi riêng của nó. Nó rất giống tình trạng của chú gà con trong trứng, hoàn toàn không hay biết nguồn nhiệt đang kích thích sự sinh trưởng của nó là từ đâu. Khi một người đạt tới giai đoạn phá vỡ vỏ trứng của mình, và có khả năng nào đó để đáp ứng, toàn bộ tiến trình sẽ mang một hình thức khác hẳn, và được tăng tốc vô cùng lớn. Ngay cả các hồn nhóm của loài vật ở phần hạ của cõi trí cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và được trợ giúp bởi ảnh hưởng như vậy, vì cũng như ánh dương, lực ấy tràn ngập toàn cõi và ít nhiều tác động lên mọi thứ trong tầm ảnh hưởng của nó. Khi tuôn đổ lực này, các Chân sư thường tận dụng các dịp đặc biệt và những nơi có trung tâm từ lực mạnh. Nơi nào có một bậc thánh sống và viên tịch, hoặc nơi nào di tích của vị ấy tạo ra một bầu không khí thích hợp, Các Ngài nắm lấy những điều kiện ấy và khiến lực của chính Các Ngài toả ra dọc theo những kênh đã được chuẩn bị sẵn. Khi một đoàn hành hương lớn tụ hội trong tâm thế lĩnh thọ, một lần nữa Các Ngài tận dụng cơ hội bằng cách dốc đổ lực của Các Ngài lên mọi người qua các kênh mà theo đó họ đã được dạy để mong đợi sự trợ giúp và ân phúc.
It is owing to assistance of this nature given to us from above that humanity has progressed even to its present position. We are still in the fourth round, which should naturally be devoted to the development of desire and emotion, and yet we are already engaged in the unfolding of the intellect, which is to be the special characteristic of the fifth round. That this is so is due to the immense stimulus given to our evolution by the descent of the Lords of the Flame from Venus, and by the work of the adepts who have preserved for us that influence and steadily sacrificed Themselves in order that we might make the better progress.Nhờ sự trợ giúp như thế được ban xuống cho chúng ta từ bên trên mà nhân loại đã tiến đến được vị trí hiện tại. Chúng ta vẫn còn ở trong vòng tuần hoàn thứ tư, vốn lẽ tự nhiên nên dành cho sự phát triển dục vọng và cảm xúc, vậy mà chúng ta đã và đang dấn thân vào sự khai mở của trí tuệ, thứ sẽ là đặc trưng riêng của vòng tuần hoàn thứ năm. Sự kiện này là do kích thích to lớn dành cho tiến hóa của chúng ta bởi sự giáng lâm của các Chúa Tể của Lửa từ Sao Kim, và bởi công tác của các chân sư đã gìn giữ ảnh hưởng ấy cho chúng ta và bền bỉ hy sinh Chính Mình để chúng ta có thể tiến bộ tốt đẹp hơn.
Those who understand anything of this work, and most especially those of us who have been privileged to see the Masters doing it, would never for a moment think of interrupting Them in such altruistic labour as this by propounding any personal requests. The vast importance of the work which They are doing, and the enormous amount of it, make it obviously impossible that They should take up personal work with individuals. In the cases where such work has to be done it is always delegated to pupils or performed by means of elementals and nature-spirits. Therefore it becomes emphatically the duty of the student to fit himself to do some of this lower work, for the very good reason that if he does not do so, the work will for the present be left undone, since it would be obviously impossible for the Masters to turn aside from Their far greater work for the whole world to attend to individual cases. The work of the invisible helpers on the astral plane would simply not be done unless there were pupils at the stage where that is the best work that they can do; for so soon as they pass beyond that stage and can do higher work, the higher work will certainly be given to them.Những ai hiểu được đôi chút về công việc này, và nhất là những ai trong chúng ta đã có diễm phúc thấy các Chân sư đang thực hiện nó, sẽ không bao giờ dù chỉ trong giây lát nghĩ đến việc làm gián đoạn Các Ngài trong công trình vị tha như thế bằng cách đưa ra những yêu cầu cá nhân. Tầm quan trọng lớn lao của công việc Các Ngài đang làm, cùng khối lượng khổng lồ của nó, hiển nhiên khiến cho việc Các Ngài đảm đương công tác cá nhân với từng người là điều không thể. Trong những trường hợp cần làm công việc như thế, nó luôn được ủy nhiệm cho các đệ tử hoặc được thực hiện bằng các tinh linh hành khí và các tinh linh thiên nhiên. Do đó, trách nhiệm của đạo sinh là phải tự rèn mình để đảm đương một phần công việc thấp ấy, vì một lẽ rất chính đáng: nếu y không làm, thì công việc ấy trước mắt sẽ bị bỏ dở, bởi rõ ràng là các Chân sư không thể rẽ ngang khỏi công trình vĩ đại cho toàn thế giới để xử lý các trường hợp cá nhân. Công tác của những người trợ giúp vô hình trên cõi cảm dục đơn giản sẽ không được thực hiện nếu không có các đệ tử ở giai đoạn mà đó là công việc tốt nhất họ có thể làm; bởi ngay khi họ vượt qua giai đoạn ấy và có thể làm việc cao hơn, thì chắc chắn sẽ giao việc cao hơn cho họ.
People sometimes ask why the Masters so often work through imperfect instruments; the answer is obviously because They have not time to do the work themselves, and They must therefore employ such instruments as They have, or the work will not be done at all. Take for example the writing of books for the helping of humanity. It is obvious that the Masters could do this very far better than any of Their pupils can, and by doing it They could entirely avoid any possibility of erroneous or imperfect statements. But They have absolutely no time to devote to such work, and therefore if it were not done by pupils it would remain undone. Besides, if the Masters did it They would take away the opportunity of making good karma from those who can do it—certainly not as well as They, but yet after all well enough for the use of those who know so very much less.Người ta đôi khi hỏi vì sao các Chân sư thường làm việc qua những khí cụ bất toàn; câu trả lời hiển nhiên là vì Các Ngài không có thời gian để tự mình làm công việc ấy, nên phải sử dụng những khí cụ đang có, nếu không thì công việc sẽ không được làm chút nào. Hãy lấy thí dụ việc biên soạn sách để trợ giúp nhân loại. Rõ ràng các Chân sư có thể làm điều đó tốt hơn rất xa so với bất kỳ đệ tử nào của Các Ngài, và bằng cách tự làm, Các Ngài có thể hoàn toàn tránh mọi khả năng xảy ra những phát biểu sai lạc hay bất toàn. Nhưng Các Ngài hoàn toàn không có thời gian dành cho công việc như vậy, thế nên nếu không được các đệ tử thực hiện, thì nó sẽ bị bỏ ngỏ. Hơn nữa, nếu các Chân sư tự mình làm, Các Ngài sẽ tước mất cơ hội tạo thiện nghiệp của những ai có thể làm—chắc chắn là không thể sánh bằng Các Ngài, nhưng dẫu sao vẫn đủ tốt cho nhu cầu của những người còn biết ít hơn rất nhiều.
We must remember that every Master has at His command only a certain amount of force which, enormous as it seems to us, is still a limited quantity, and it is His duty to employ this force to the best possible advantage for the helping of humanity. Therefore it would, if we may say so without irreverence, be absolutely wrong for Him to waste that force upon anything lower than the very highest that it can reach, or to spend upon individual cases, however deserving, that which can be so much better employed for the welfare of all.Chúng ta phải nhớ rằng mỗi Chân sư chỉ có trong quyền năng của Ngài một lượng lực nhất định, dù đối với chúng ta tưởng như vô biên, thì vẫn là hữu hạn, và nhiệm vụ của Ngài là sử dụng lượng lực ấy sao cho lợi lạc nhất có thể cho việc trợ giúp nhân loại. Do đó, nếu được phép nói mà không bất kính, thì hoàn toàn sai trái nếu Ngài phung phí lực ấy vào bất cứ điều gì thấp hơn cái rất cao mà nó có thể vươn tới, hoặc tiêu dùng cho các trường hợp cá nhân, dù đáng công đến mấy, cái mà có thể được sử dụng tốt hơn nhiều cho phúc lợi của toàn thể.

MASTERS AND PUPILS—MASTERS AND PUPILS

It has already been said that out of the comparatively small number of adepts who retain Their physical bodies and fill the offices connected with the administration of the world under the Great Hierarchy, there is a still smaller number who accept pupils, and to whom therefore we give the name of Masters. Let us see then what it means to be a pupil of one of these Masters, what is expected of one who aspires to this position and what is the work which he has to do.Đã nói rằng trong số tương đối ít ỏi các chân sư giữ xác phàm và đảm đương các chức vụ liên quan đến việc quản trị thế giới dưới quyền Đại Thánh Đoàn, lại có một số còn ít hơn nữa nhận đệ tử, và vì vậy chúng ta gọi Các Ngài là các Chân sư. Vậy hãy xem việc trở thành đệ tử của một trong những Chân sư ấy có nghĩa là gì, người chí nguyện vị trí này được trông đợi điều gì và công việc y phải làm là gì.
First let us have it clearly in our minds that the Masters have absolutely dedicated themselves to the service of humanity, and that They are utterly absorbed in the work to the entire exclusion of every other consideration. In speaking to you on this subject before, I have mentioned that a Master has only a certain definite amount of force to expend, and that though the amount of that force seems to us almost incalculable, He is nevertheless exceedingly careful to use every ounce of it to the best possible advantage. Obviously to take in hand and instruct a pupil will make some demand upon His time and upon this store of energy, and since He regards everything from the standpoint of its use in regard to the promotion of evolution He will not expend this time and energy upon any man unless He can see that it is a good investment.Trước hết, chúng ta phải nắm rõ trong tâm trí rằng các Chân sư đã tuyệt đối hiến dâng Chính Mình cho việc phụng sự nhân loại, và Các Ngài hoàn toàn chìm đắm trong công việc đến mức loại trừ trọn vẹn mọi cân nhắc khác. Khi trước tôi có nói về đề tài này, tôi đã đề cập rằng một Chân sư chỉ có một lượng lực nhất định để phân phối, và dẫu lượng lực ấy đối với chúng ta dường như gần như không thể tính đếm, Ngài vẫn hết sức cẩn trọng dùng từng giọt của nó sao cho lợi lạc nhất. Hiển nhiên, nhận và huấn luyện một đệ tử sẽ đòi hỏi một phần thời giờ và dự trữ năng lượng của Ngài, và bởi Ngài nhìn mọi việc từ quan điểm ích dụng đối với sự xúc tiến tiến hóa, Ngài sẽ không tiêu dùng thời giờ và năng lượng đó cho bất kỳ người nào trừ phi Ngài thấy đó là một khoản đầu tư tốt.
He will take a man as a pupil; or perhaps we should rather say as an apprentice, when He sees that the amount of time and strength spent in training him will produce more result eventually than any other way of expending the same amount—but not otherwise For example, a man might have many qualifications which would make him useful as an assistant, but at the same time some one great fault which would be a constant obstacle in his way, which would nullify much of the good that he might otherwise do. No Master would accept such a man as a pupil; but he might say to him: “Go to work and conquer that special fault of yours, and when you have succeeded I will take you as my assistant, and will train you further.”Ngài sẽ nhận một người làm đệ tử; hay có lẽ đúng hơn nên nói là làm một người học việc, khi Ngài thấy rằng lượng thời giờ và sức lực bỏ ra để đào luyện y rốt cuộc sẽ sinh ra nhiều kết quả hơn bất kỳ cách sử dụng nào khác của cùng lượng ấy—nhưng nếu không như thế thì sẽ không. Thí dụ, một người có thể có nhiều tư chất khiến y hữu dụng như phụ tá, nhưng đồng thời lại có một lỗi lớn nào đó sẽ liên tục cản trở đường tiến của y, khiến vô hiệu hóa phần lớn điều lành mà lẽ ra y có thể làm. Không một Chân sư nào nhận một người như thế làm đệ tử; nhưng Ngài có thể nói với y: “Hãy bắt tay vào việc và chinh phục cho được cái lỗi đặc thù của anh, và khi anh thành công, Ta sẽ nhận anh làm phụ tá, và sẽ đào luyện anh thêm nữa.”
So many of our earnest students are full of the most benevolent and altruistic feeling, and, knowing themselves to be in this way very different from the majority of mankind, they sometimes say to themselves, “I am so deeply anxious to work for humanity; why will not the Master take me in hand and train me?”Rất nhiều đạo sinh sốt sắng của chúng ta tràn đầy tình cảm nhân ái và vị tha nhất, tự biết mình theo phương diện này rất khác với đại đa số nhân loại, đôi khi tự nhủ: “Tôi khát khao làm việc cho nhân loại đến thế; vì sao Chân sư không nắm tay tôi và huấn luyện tôi?”
Let us face the facts boldly. The Master will not train you because you are still full of all sorts of minor imperfections. It is quite true, as you no doubt feel within yourselves, that your benevolence, your kindliness, your earnest wish to be helpful, are far greater things on the credit side of the account than are all these small faults on the debit side. But try to realize that there are thousands of people in the world who are benevolent and well-meaning, and that you differ from them only in the fact that you happen to have a little more knowledge, and so you are able to direct your benevolence into more definitely useful channels than those others. If these were all the qualifications required for discipleship, each Master might have thousands of pupils, and His whole time would be taken up in endeavouring to bring into shape those few thousands of people, with all their petty little faults on the astral and physical planes, and in the meantime the Master’s splendid work with the egos on the higher levels would have to be entirely neglected.Chúng ta hãy can đảm đối diện sự thật. Chân sư sẽ không huấn luyện bạn vì bạn vẫn còn đầy dẫy đủ loại khiếm khuyết nhỏ nhặt. Quả đúng, như bạn chắc chắn cảm thấy trong lòng, rằng lòng nhân ái, sự tử tế, và ý chí nhiệt thành muốn hữu ích của bạn là những điều lớn lao hơn nhiều ở phía có công so với tất cả những lỗi nhỏ ở phía mắc nợ. Nhưng hãy thử hiểu rằng trên thế giới này có hàng ngàn người nhân ái và thiện chí, và bạn khác họ chỉ ở chỗ bạn tình cờ có được chút tri thức nhiều hơn, nên bạn có thể hướng lòng nhân ái của mình vào những kênh rõ rệt hữu ích hơn so với những người kia. Nếu đó là tất cả những tư cách cần có cho địa vị đệ tử, thì mỗi Chân sư có thể sẽ có hàng ngàn đệ tử, và toàn bộ thời giờ của Ngài sẽ bị cuốn vào nỗ lực uốn nắn những vài ngàn người ấy, cùng với hết thảy những lỗi vặt vãnh của họ trên hai cõi cảm dục và hồng trần, trong khi đó công trình huy hoàng của Chân sư với các chân ngã ở những trình độ cao hơn sẽ phải bị xao lãng hoàn toàn.
First of all then, to be a pupil of a Master means that one must look upon life as the Master looks upon it, solely from the point of view of what is best for the progress of the world. The pupil must be prepared absolutely to forget himself, to sink his personality entirely, and he must understand that this is not a mere poetical figure or a fashion of speech, but that it means just exactly what it saysthat he must have no personal desires whatsoever, and must be willing to order the whole of his life according to the work that he has to do. How many of us are there who are wholeheartedly willing to take even this first step towards accepted discipleship?Trước hết, trở thành đệ tử của một Chân sư có nghĩa là phải nhìn đời như Chân sư nhìn, chỉ và chỉ từ quan điểm điều gì là tốt nhất cho sự tiến triển của thế giới. Người đệ tử phải sẵn sàng tuyệt đối quên mình, nhận chìm phàm ngã của mình hoàn toàn, và y phải hiểu rằng đây không phải là một ẩn dụ thi vị hay một lối nói, mà là có nghĩa đúng như lời ấy rằng y không được có bất cứ dục vọng cá nhân nào, và phải sẵn lòng sắp đặt cả đời mình theo công việc mà y phải làm. Có bao nhiêu người trong chúng ta thực tâm sẵn sàng bước ngay cả bước đầu tiên này hướng đến địa vị đệ tử được chấp nhận?
Think what it means to become a disciple. When any man offers himself for such a position the Master will at once say whether or not He considers him fit to enter upon the stage of the probationary pupil. If the candidate appears to be reasonably near the possession of the necessary qualifications the Master may take him upon probation, which means that he will remain for a period of some years under very close observation. Seven years is the average time of this probation, but it may be indefinitely lengthened if the candidate should prove unsatisfactory, or on the other hand it may be much shortened if it is seen that he has really taken himself in hand. I have known it to be extended to thirty years; I have known it to be reduced to five years, and even to three, and in one quite exceptional case it was only five months. During this period of probation the pupil is not in any sense in any kind of direct communication with the Master; he is little likely to hear or to see anything of Him. Nor as a general rule are any special trials or difficulties put in his way; he is simply carefully watched in his attitude towards all the little daily troubles of life. For convenience of observation the Master makes what is called a “living image” of each such probationary pupil—that is to say, an exact duplicate of the man’s astral and mental bodies. This image He keeps in a place where He can easily reach it, and He places it in magnetic rapport with the man himself, so that every modification of thought or of feeling in the man’s own vehicles is faithfully reproduced in the image. These images are examined daily by the Master, who in this way obtains with the least possible trouble a perfectly accurate record of his prospective pupil’s thoughts and feelings, and from this He is able to decide when He can take him into the far closer relationship of the second stage—that of the accepted pupil.Hãy nghĩ xem trở thành một đệ tử có nghĩa gì. Khi một người tự nguyện dâng mình cho vị trí như thế, Chân sư sẽ lập tức nói liệu Ngài có xem y xứng đáng để bước vào giai đoạn đệ tử dự bị hay không. Nếu ứng viên có vẻ đã khá gần với việc sở hữu những tư cách cần thiết, Chân sư có thể nhận y vào hàng dự bị, nghĩa là y sẽ trong một thời kỳ vài năm chịu sự quan sát rất sát sao. Bảy năm là thời gian trung bình của kỳ dự bị này, nhưng nó có thể kéo dài vô hạn nếu ứng viên tỏ ra không đạt yêu cầu, hoặc ngược lại có thể rút ngắn rất nhiều nếu thấy y thực sự tự chấn chỉnh. Tôi từng biết có trường hợp kéo dài đến ba mươi năm; có trường hợp rút còn năm năm, thậm chí ba, và trong một trường hợp thật đặc biệt thì chỉ có năm tháng. Trong thời kỳ dự bị này, người đệ tử không hề, theo bất cứ nghĩa nào, ở trong một loại liên lạc trực tiếp nào với Chân sư; y khó lòng nghe hay thấy gì về Ngài. Và theo lệ thường cũng không đặt để những thử thách đặc thù hay khó khăn nào trên đường y; y chỉ đơn giản bị theo dõi kỹ lưỡng trong thái độ đối với mọi phiền toái nhỏ nhặt thường nhật của đời sống. Để tiện cho việc quan sát, Chân sư làm cái gọi là một “hình ảnh sống” của mỗi đệ tử dự bị như thế—nghĩa là một bản sao y hệt các thể cảm dục và thể trí của người ấy. Ngài giữ “hình ảnh” này ở một nơi Ngài có thể thuận tiện tiếp cận, và Ngài đặt nó vào sự tương thông từ lực với chính người ấy, đến mức mọi biến đổi của tư tưởng hay cảm xúc trong các thể của người ấy đều được phản ảnh trung thực trong hình ảnh. Những hình ảnh này được Chân sư xem xét hằng ngày, nhờ đó Ngài thu được một cách với ít công sức nhất một nội bạ chính xác tuyệt đối về tư tưởng và cảm xúc của người đệ tử tiềm năng, và từ đó Ngài có thể quyết định khi nào Ngài có thể đưa y vào mối liên hệ gần gũi hơn rất nhiều của giai đoạn thứ hai—tức là đệ tử được chấp nhận.
Remember that the Master is a channel for the distribution of the forces of the LOGOS, and not indeed a mere unconscious channel but a keenly intelligent co-operator; and He is this because He is himself consciously a part of the Logos. Just in the same way at a lower level the accepted pupil is a channel of the forces of the Master, but he, too, must be not an unconscious channel but an intelligent co-operator, and in order to be this he must also become virtually part of the consciousness of the Master.Hãy nhớ rằng Chân sư là một kênh để phân phối các lực của Thượng đế, mà không phải là một kênh vô thức, mà là một cộng tác viên sáng suốt; và Ngài có thể như vậy là vì chính Ngài tự ý thức là một phần của Thượng đế. Tương tự như thế ở cấp thấp hơn, đệ tử được chấp nhận là một kênh của các lực của Chân sư, nhưng y cũng không phải là một kênh vô thức mà là một cộng tác viên thông tuệ, và để được như vậy y cũng phải hầu như trở thành một phần của tâm thức của Chân sư.
An accepted pupil is taken into his Master’s consciousness to so great an extent that whatever he sees or hears is within the knowledge of his Master—not that the Master necessarily sees or hears it at the same moment (though that often happens) but that it lies within the Master’s memory exactly as it does within the memory of the pupil. Whatever the pupil feels or thinks is within the astral and mental bodies of his Master. When we realize all that this means, we see very clearly why it would be utterly impossible for the Master to accept any pupil until the pupil’s thoughts and feelings were such as the Master would wish to harbour within himself.Một đệ tử được chấp nhận được thu nạp vào trong tâm thức của Chân sư đến mức những gì y thấy hoặc nghe đều nằm trong tri thức của Chân sư—không hẳn là Chân sư đồng thời thấy hay nghe điều ấy (dù điều đó thường xảy ra) mà là điều ấy nằm trong ký ức của Chân sư đúng y như nó nằm trong ký ức của đệ tử. Bất cứ điều gì đệ tử cảm hay nghĩ đều nằm trong các thể cảm dục và trí tuệ của Chân sư. Khi chúng ta hiểu hết ý nghĩa của điều này, chúng ta thấy rất rõ vì sao hoàn toàn không thể để một Chân sư chấp nhận bất kỳ đệ tử nào cho đến khi tư tưởng và cảm xúc của đệ tử là những điều mà Chân sư sẵn lòng dung chứa trong chính Ngài.
It unfortunately sometimes happens that there comes into the mind of the pupil some thought which is not fit to be harboured by the Master, and as soon as the Master feels that, He at once erects a barrier and shuts off from himself that vibration, but to do this diverts His attention for a moment from His other work, and takes a certain amount of energy. Once more we see clearly that it would be impossible for a Master to take into such a relation with himself one who often indulged in thoughts unfit for the Master’s mind; to have to be continually or even frequently turned aside from His work in order to shut off undesirable thoughts or feelings would clearly be a quite intolerable tax upon the Master’s time and strength.Đáng tiếc là đôi khi có nảy sinh trong tâm trí đệ tử một tư tưởng nào đó không xứng để Chân sư dung chứa, và ngay khi Chân sư cảm thấy điều ấy, Ngài lập tức dựng lên một hàng rào và tự mình loại bỏ rung động ấy, nhưng để làm vậy, Ngài phải tạm thời rời sự chú ý khỏi các công việc khác của Ngài, và tiêu phí một phần năng lượng. Một lần nữa chúng ta thấy rõ ràng rằng hoàn toàn bất khả để một Chân sư đưa vào một liên hệ như vậy với chính Ngài một người hay buông thả trong những tư tưởng bất xứng với Tâm trí của Ngài; việc phải thường xuyên, hay thậm chí thường thường, bị buộc rời công việc của Ngài để loại bỏ những tư tưởng hay cảm xúc không mong muốn rõ ràng sẽ là một gánh nặng không thể chịu nổi lên thời giờ và sức lực của Chân sư.
It is not because of any lack of compassion or patience that a Master could not take such a man; it is simply that it would not be a good use either of His time or His energy, and to make the best possible use of both of them is His simple duty. If a man feels himself worthy to be accepted as a pupil, and wonders why this privilege has not already been extended to him, let him watch himself closely for even a single day, and ask himself whether during that day there has been in him any single thought or feeling which would have been unworthy of the Master. Remember that not only definitely evil or unkind thoughts are unworthy of Him, but also trifling thoughts, critical thoughts, irritated thoughts—above all, thoughts of self. Who of us is sufficient for these things?Không phải vì thiếu lòng từ bi hay nhẫn nại mà Chân sư không thể nhận một người như vậy; chỉ là vì đó sẽ không phải là sử dụng tốt thời giờ hay năng lượng của Ngài, và sử dụng cả hai một cách tốt nhất là nhiệm vụ đơn sơ của Ngài. Nếu một người tự thấy mình xứng đáng được chấp nhận làm đệ tử, và thắc mắc vì sao đặc ân này chưa được ban cho mình, thì hãy tự quan sát thật sát trong chỉ một ngày thôi, và tự hỏi trong ngày ấy có bất cứ một tư tưởng hay cảm xúc nào nơi mình là điều sẽ không xứng đáng với Chân sư hay không. Hãy nhớ rằng không chỉ những tư tưởng chắc chắn ác ý hay bất nhân là bất xứng với Ngài, mà cả những ý nghĩ vụn vặt, những ý nghĩ chỉ trích, những ý nghĩ bực bội—nhất là những ý nghĩ tự ngã. Ai trong chúng ta đủ sức cho những điều này?
The effect which the Master seeks to produce by this wonderfully close association is the harmonizing and attuning of the pupil’s vehicles—the same result which an Indian teacher tries to gain by keeping his disciples always in the neighborhood physically. Whatever may be the special kind of exercises of the special course of study prescribed, in all cases the principal effect upon the pupil is that produced not by either exercises or study, but by being constantly in the presence of the teacher. The various vehicles of the pupil are vibrating at their accustomed rates—probably each of them at various rates, due to the constant presence of passing emotions and wandering thoughts of all kinds. The first and most difficult task of the pupil is to reduce all this chaos to order—to eliminate the host of minor interests, and control the wandering thoughts, and this must be achieved by a steady pressure of the will exercised upon all his vehicles through a long period of years.Hiệu quả mà Chân sư tìm cách tạo ra bằng mối liên hệ mật thiết kỳ diệu này là sự điều hoà và chỉnh âm các hiện thể của đệ tử—kết quả tương tự như điều mà một đạo sư Ấn Độ tìm cách đạt tới bằng việc giữ các môn đồ luôn ở cận kề về thể xác. Dù có thể có những loại bài tập đặc thù hay khóa học đặc thù nào được quy định, thì trong mọi trường hợp, ảnh hưởng chủ yếu đổ lên đệ tử không phải do bài tập hay học tập, mà là nhờ thường xuyên ở trong sự hiện diện của vị thầy. Các hiện thể khác nhau của đệ tử rung động theo các nhịp quen thuộc—có lẽ là mỗi thể rung theo nhiều nhịp điệu khác nhau, do sự hiện diện không ngừng của các xúc cảm thoáng qua và các tư tưởng lang thang đủ loại. Nhiệm vụ đầu tiên và khó khăn nhất của đệ tử là đưa tất cả tình trạng hỗn độn này vào trật tự—loại bỏ vô số mối quan tâm nhỏ nhặt, kiểm soát các tư tưởng lang thang, và điều này phải đạt được bằng một áp lực vững chắc của ý chí tác động lên tất cả các hiện thể của y trong một thời kỳ dài nhiều năm.
While he still lives in the world the difficulty of this undertaking is multiplied a hundredfold by the ceaseless pressure of disturbing waves of thought and emotion, which give him no moment of rest, no opportunity to collect his forces in order to make a real effort. This is why in India the man who wishes to live the higher life retires to the jungle—why, in all countries and in all ages, there have been men willing to adopt the contemplative life of the hermit. The hermit at least has breathing-space, has rest from the endless conflict, so that he can find time to think coherently. He has little to hinder him in his struggle, and the calm influences of nature are even to a certain extent helpful.Khi còn sống giữa đời, khó khăn của công việc này tăng lên gấp trăm lần vì áp lực không ngừng của những làn sóng tư tưởng và cảm xúc quấy nhiễu, không cho y một khoảnh khắc nghỉ, không cho y cơ hội gom tụ lực để thực hiện một nỗ lực thật sự. Bởi vậy ở Ấn Độ, người muốn sống đời cao thượng sẽ lui vào rừng—và vì thế, ở mọi quốc gia và mọi thời đại, đã có những người sẵn lòng chọn đời chiêm ngưỡng của ẩn sĩ. Ít ra thì ẩn sĩ có khoảng thở, có sự nghỉ ngơi khỏi cuộc xung đột bất tận, để y có thể có thời gian mà tư duy mạch lạc. Y ít gặp vật cản trong cuộc đấu tranh của mình, và những ảnh hưởng tĩnh tại của thiên nhiên thậm chí ở một mức độ nào đó còn trợ duyên.
But the man who lives perpetually in the presence of one already upon the Path has a still greater advantage. Such a teacher has by the hypothesis already calmed his vehicles and accustomed them to vibrate at a few carefully selected rates instead of in a hundred promiscuous frenzies. These few rates of vibration are very strong and steady, and day and night, whether he is sleeping or waking, they are playing unceasingly upon the vehicles of the pupil, and gradually raising him to his teacher’s key. Nothing but time and close association will produce this effect; and even then not with every one, but only with those capable of being attuned. Many teachers require to see a reasonable proportion of this result before they will impart their special methods of occult development; in other words, before teaching a pupil something which may easily do him much harm if wrongfully used, they wish to be certain by ocular demonstration that he is a man of the type to which this instruction is appropriate, and is sufficiently amenable to their influence to be held in the right way by it when the strain comes. A thousand times greater are the advantages gained by those whom the Master selects—who thus have the opportunity of such close and intimate contact with Him.Nhưng người sống liên tục trong sự hiện diện của một vị đã ở trên Thánh Đạo lại có ưu thế còn lớn hơn. Một vị thầy như vậy, theo giả định, đã làm lắng các hiện thể của mình và tập cho chúng rung theo một vài tần số được chọn kỹ thay vì hàng trăm cơn loạn động bừa bãi. Vài tần số rung động này rất mạnh và ổn định, và ngày cũng như đêm, dù ngủ hay thức, chúng không ngừng chơi trên các hiện thể của đệ tử, và dần dần nâng y lên cung âm của vị thầy. Không gì ngoài thời gian và sự cận kề mật thiết mới sản sinh ra hiệu quả này; và ngay cả khi đó cũng không phải với mọi người, mà chỉ với những ai có khả năng được hoà điệu. Nhiều vị thầy đòi hỏi phải thấy một tỷ lệ hợp lý của kết quả này trước khi truyền dạy các phương pháp phát triển huyền môn đặc biệt của mình; nói cách khác, trước khi dạy cho một đệ tử điều gì đó có thể dễ dàng gây hại lớn nếu dùng sai, họ muốn chắc chắn bằng chứng nghiệm bằng mắt thấy rằng y thuộc loại người thích hợp để tiếp thụ chỉ giáo ấy, và đủ dễ cảm hoá bởi ảnh hưởng của họ để được giữ đúng hướng khi cơn căng thẳng kéo đến. Lợi lạc thu hoạch được cho những ai được Chân sư chọn—những người có cơ hội tiếp xúc gần gũi và thân mật như thế với Ngài—thì lợi lạc ấy lớn hơn gấp nghìn lần.
This then is what is meant by being an accepted pupil of the Master—that the man becomes a kind of outpost of that Master’s consciousness, so that the strength of the Great Ones may be poured out through him, and the world may be definitely the better for his presence in it. The pupil is so closely in touch with the Master’s thought that he can at any time see what that thought is upon any given subject, and in that way he is often saved from error. The Master can at any moment send a thought through that pupil either in the form of a suggestion or a message. If, for example, the pupil is writing a letter or giving a lecture, the Master is subconsciously aware of that fact, and may at any moment throw into the mind of the pupil a sentence to be included in that letter or a useful illustration for that lecture. In earlier stages the pupil is often unconscious of this, and supposes these ideas to have arisen spontaneously in his own mind, but he very soon learns to recognize the thought of the Master. Indeed, it is eminently necessary that he should learn to recognize it, because there are many other entities on the astral and mental planes who are very ready in the most friendly way and with the best intentions to make similar suggestions, and it is assuredly well that the pupil should learn to distinguish from whom they come.Đây chính là ý nghĩa của việc trở thành đệ tử được chấp nhận của Chân sư—rằng người ấy trở thành một kiểu tiền đồn của tâm thức vị Chân sư ấy, để sức mạnh của các Đấng Cao Cả có thể được tuôn đổ qua y, và thế giới thực sự được tốt hơn nhờ sự hiện diện của y trong đó. Đệ tử nối kết mật thiết đến mức y có thể bất cứ lúc nào thấy được tư tưởng của Chân sư về bất kỳ đề tài nào, và theo cách đó, y thường được cứu khỏi sai lầm. Chân sư có thể vào bất cứ lúc nào gửi một tư tưởng xuyên qua đệ tử ấy, hoặc dưới hình thức một gợi ý, hoặc một thông điệp. Thí dụ, nếu đệ tử đang viết thư hay đang thuyết giảng, Chân sư sẽ ở tầng tiềm thức nhận biết điều ấy, và có thể bất cứ lúc nào đưa vào thể trí của đệ tử một câu để đưa vào bức thư ấy hay một minh họa hữu ích cho bài giảng ấy. Ở giai đoạn sớm hơn, đệ tử thường không ý thức điều này, và ngỡ rằng những ý tưởng ấy khởi sinh tự phát trong tâm trí của chính mình, nhưng y rất sớm học được cách nhận ra tư tưởng của Chân sư. Quả thật, y rất cần phải học cách nhận ra nó, bởi có nhiều thực thể khác trên cõi cảm dục và cõi trí rất sẵn lòng, bằng một cung cách hữu hảo và với thiện chí tốt đẹp nhất, đưa ra những gợi ý tương tự, và dĩ nhiên là đáng để người đệ tử học cách phân biệt chúng đến từ ai.
We must not, however, confuse such use by a Master of his pupil’s body with the mediumship which we have so often characterized as objectionable. For example, there have been some occasions on which one or other of our Masters has spoken through our President, and it has been stated that on such occasions sometimes her very voice and manner and even her features have been changed. But it must be remembered that in all such cases she has retained the fullest consciousness and has known exactly who was speaking and why. That is a condition so different from what is ordinarily understood by mediumship that it would be quite unfair to call it by the same name. There can be no objection to such use of a pupil’s body, but it is only in the case of a very few pupils that the Masters have ever done this.Tuy nhiên, chúng ta không nên lẫn lộn việc một Chân sư sử dụng thân thể của đệ tử với lối đồng cốt mà chúng ta đã nhiều lần đánh giá là bất cập. Thí dụ, đã có những dịp một trong hai vị Chân sư của chúng ta nói qua trung gian Nữ Hội Trưởng của chúng ta, và người ta nói rằng đôi khi trong những dịp như vậy, ngay cả giọng nói, phong thái và thậm chí cả diện mạo của Bà dường như đã thay đổi. Nhưng cần nhớ rằng trong tất cả những trường hợp đó Bà vẫn giữ trọn vẹn tâm thức và biết rõ ai đang nói và vì sao. Đó là một điều kiện khác hẳn với những gì thường được hiểu bởi đồng cốt, đến mức hoàn toàn không công bằng nếu gọi nó bằng cùng một tên. Không có gì đáng phản đối việc sử dụng thân thể của đệ tử như vậy, nhưng chỉ trong trường hợp rất ít đệ tử mà các Chân sư từng làm điều này.
When it happens, the President’s consciousness is just as fully active in her physical brain as ever, but instead of directing her organs of speech herself she listens while the Master makes use of them. He formulates the sentences in His own brain and then transfers them to hers. While this is being done she can use her own brain-power, as it were passively, to listen, to understand, and to admire; but I conceive that it would hardly be possible for her at absolutely the same moment to compose a sentence upon some quite different subject. I suppose that the highest form of spiritualistic control may more or less approximate to this, but probably very rarely, and hardly ever completely.Khi điều ấy xảy ra, tâm thức của Nữ Hội Trưởng vẫn hoạt động đầy đủ trong bộ não xác phàm của Bà như thường, nhưng thay vì tự mình điều khiển cơ quan phát âm, Bà lắng nghe trong khi Chân sư sử dụng chúng. Ngài cấu trúc câu văn trong não của Ngài rồi chuyển nó sang não của Bà. Trong khi điều này đang diễn ra, Bà có thể dùng năng lực não bộ của chính mình, như ở thế thụ động, để lắng nghe, để hiểu và để chiêm ngưỡng; nhưng tôi cho rằng gần như không thể, ở chính khoảnh khắc ấy, Bà lại có thể soạn một câu văn về một đề tài hoàn toàn khác. Tôi cho rằng hình thức cao nhất của sự nhập xác trong Thần linh học có thể ít nhiều tiệm cận điều này, nhưng có lẽ rất hiếm, và hầu như không bao giờ trọn vẹn.
The influence of a Master is so powerful that it may well shine through to almost any extent, and any one of the audience who is really impressible might be conscious of His presence even to the extent of seeing His features or hearing His voice, instead of those of His pupil. It is not very probable that any actual physical change takes place, such as would be visible to non-sensitive spectators. In spiritualism I have indeed seen cases in which the medium’s voice and manner, and even his very features, were actually physically entirely changed, but that always means a complete suppression of his ego by the entity speaking through him, and this would be quite foreign to the system of training adopted by our Masters.Ảnh hưởng của một Chân sư mạnh mẽ đến nỗi nó có thể chiếu sáng xuyên qua gần như đến bất kỳ mức độ nào, và bất cứ ai trong thính chúng thật sự dễ cảm ứng cũng có thể ý thức sự hiện diện của Ngài, thậm chí đến mức thấy dung nhan của Ngài hoặc nghe tiếng của Ngài thay vì của đệ tử Ngài. Khả năng cao là không có bất cứ thay đổi xác phàm thực sự nào diễn ra, như thể có thể thấy bằng mắt thường đối với những người không nhạy cảm. Trong Thần linh học, tôi quả thật đã thấy những trường hợp giọng nói và phong thái của đồng tử, thậm chí ngay cả diện mạo của y, thực tế đã bị thay đổi hoàn toàn về mặt thể chất, nhưng điều đó luôn có nghĩa là sự áp chế hoàn toàn chân ngã của đồng tử bởi thực thể đang nói qua y, và điều này hoàn toàn xa lạ với hệ thống huấn luyện mà các Chân sư của chúng ta áp dụng.
There is yet a third stage of even more intimate union, when the pupil becomes what is called the “son” of the Master. This is accorded only after the Master has had considerable experience of the man as an accepted pupil, when He is quite certain that nothing can arise in the mind or astral body of the pupil which will ever need to be shut off. For that is perhaps the principal difference which can be readily explained on the physical plane between the position of the accepted disciple and of the “son”—that the accepted disciple, though truly a part of the Master’s consciousness, can still be shut off when it seems desirable, whereas the “son” is drawn into a union so close and so sacred that even the power of the Master cannot undo what has been done to the extent of separating these consciousnesses even for a moment.Còn có một giai đoạn thứ ba của mối hiệp thông còn mật thiết hơn nữa, khi đệ tử trở thành cái gọi là “con” của Chân sư. Điều này chỉ được ban cho sau khi Chân sư đã có đủ kinh nghiệm về người ấy như một đệ tử được chấp nhận, khi Ngài hoàn toàn chắc chắn rằng sẽ không bao giờ có gì nảy sinh trong tâm trí hay thể cảm dục của đệ tử mà cần bị loại bỏ. Bởi đó có lẽ là sự khác biệt chủ yếu có thể giải thích một cách dễ hiểu trên cõi hồng trần giữa vị trí của một đệ tử được chấp nhận và của một “người con”—rằng đệ tử được chấp nhận, dù thật sự là một phần của tâm thức Chân sư, vẫn có thể bị cách ly khi xét thấy thích đáng, trong khi “người con” được thu nạp vào một mối liên hợp khắng khít và thiêng liêng đến mức ngay cả quyền năng của Chân sư cũng không thể hoàn nguyên điều đã thực hiện theo kiểu tách biệt hai tâm thức ấy dù chỉ trong một khoảnh khắc.
These then are the three stages of the relation of a pupil to his Master; first, the probationary period, during which he is not in any real sense a pupil at all; second, the period of accepted discipleship; third, the period of “sonship”. It must be clearly understood that these relations have nothing whatever to do with initiations or steps on the Path, which belong to an entirely different category, and are tokens of the man’s relation not to his Master but to the Great White Brotherhood and to its august Head. One may find a not inapt symbol of these respective relationships in the position in which an undergraduate stands with regard to the head of his college and to the university as a whole. The university as such requires the man to pass certain examinations, and the precise methods in which he prepares himself for this, are, comparatively speaking, matters of indifference to it. It is the university, and not the head of the college, that arranges the examination and confers the various degrees; the work of the head of the college is simply to see that the candidate is duly prepared. In the process of such preparation he may, as a private gentleman, enter into whatever social or other relations he may think proper with his pupil; but all that is not the business of the university.Như vậy, có ba giai đoạn trong mối quan hệ của một đệ tử với Chân sư của y; thứ nhất, thời kỳ dự bị, trong đó y, theo bất kỳ nghĩa thực sự nào, vẫn chưa là đệ tử; thứ hai, thời kỳ đệ tử được chấp nhận; thứ ba, thời kỳ “làm con”. Cần hiểu rõ rằng những mối liên hệ này hoàn toàn không liên quan gì đến các lần điểm đạo hay các bước trên Thánh Đạo, vốn thuộc một phạm trù hoàn toàn khác, và là dấu hiệu về mối liên hệ của người ấy không phải với Chân sư của mình mà là với Huynh đệ Đoàn Chánh đạo và với Đấng Chủ Tể tôn nghiêm của Huynh đệ Đoàn. Ta có thể tìm thấy một biểu tượng khá thích hợp cho những mối liên hệ tương ứng này trong vị trí của một sinh viên đại học đối với viện trưởng của trường và đối với đại học như một tổng thể. Đại học, như một cơ chế, đòi hỏi người ấy vượt qua những kỳ khảo thí nhất định, và các phương pháp chính xác mà y tự chuẩn bị cho việc này thì, so sánh mà nói, là những điều không mấy quan trọng đối với nó. Chính đại học, chứ không phải viện trưởng, sắp đặt kỳ thi và ban các học vị; công việc của viện trưởng chỉ đơn giản là bảo đảm ứng viên được chuẩn bị chỉnh tề. Trong tiến trình chuẩn bị như vậy, với tư cách một người tư, ông có thể thiết lập những mối quan hệ xã hội hay khác nữa mà ông thấy thích hợp với đệ tử của mình; nhưng tất cả những điều đó không thuộc phạm vi của đại học.
Just in the same way the Great White Brotherhood has nothing to do with the relations between the Master and His pupil; that is a matter solely for the private consideration of the Master himself. Whenever the Master considers that the pupil is fit for the first initiation, He gives notice of that fact and presents him for it, and the Brotherhood asks only whether he is ready for the initiation, and not what is the relationship between him and any Master. At the same time it is true that a candidate for initiation must be proposed and seconded by two of the higher members of the Brotherhood—that is to say, by two who have reached the level of adeptship; and it is certain that the Master would not propose a man for the tests of initiation unless He had with regard to him the certainty of his fitness, which could only come from such close identification with his consciousness as that of which I have already spoken.Tương tự như thế, Huynh đệ Đoàn Chánh đạo không can dự gì đến mối quan hệ giữa Chân sư và đệ tử của Ngài; đó là điều chỉ thuộc sự cân nhắc riêng của chính Chân sư. Mỗi khi Chân sư xét thấy đệ tử đã thích đáng cho lần điểm đạo thứ nhất, Ngài thông báo sự kiện ấy và giới thiệu y dự điểm đạo, và Huynh đệ Đoàn chỉ hỏi rằng liệu y đã sẵn sàng cho lần điểm đạo hay chưa, chứ không phải mối liên hệ giữa y với bất kỳ Chân sư nào là gì. Cùng lúc đó, đúng là một ứng viên điểm đạo phải được đề cử và bảo trợ bởi hai vị thượng huynh của Huynh đệ Đoàn—nghĩa là hai vị đã đạt trình độ chân sư; và chắc chắn Chân sư sẽ không đề cử một người cho các thử thách điểm đạo trừ phi Ngài có sự chắc chắn về tư cách của y, điều chỉ có thể có được từ sự đồng nhất mật thiết với tâm thức y như điều mà tôi đã nói.
When a student hears all this there naturally arises in his mind the question, “How can I become the pupil of a Master? What can I do that will attract His attention?” As a matter of fact it is quite unnecessary that we should try to attract His attention, for the Masters are ever watching for those whom They can help to be of use to Them in the great work which They have to do, and we need not have the slightest fear that we shall be overlooked.Khi một môn sinh nghe tất cả điều này, tự nhiên trong tâm y sẽ dấy lên câu hỏi: “Làm sao tôi có thể trở thành đệ tử của một Chân sư? Tôi có thể làm gì để thu hút sự chú ý của Ngài?” Thực ra hoàn toàn không cần chúng ta cố gắng thu hút sự chú ý của Ngài, vì các Chân sư luôn theo dõi để tìm những người mà Các Ngài có thể giúp để hữu ích cho Các Ngài trong đại công tác mà Các Ngài phải làm, và chúng ta không cần chút e ngại rằng mình sẽ bị bỏ sót.
I remember very well an incident of the early days of my own connection with the Great Ones a quarter of a century ago. I met on the physical plane a man of great enthusiasm and of the most saintly character, one who believed thoroughly in the existence of the Masters, and devoted his life to the one object of qualifying himself for Their service. He seemed to me a man in every way so entirely suitable for discipleship, so obviously better than myself in many ways, that I could not understand how it was that he was not already accepted; and so, being young in the work and ignorant, one day when a good opportunity offered itself I very humbly and as it were apologetically mentioned his name to the Master with the suggestion that he might perhaps prove a good instrument. A smile of kindly amusement broke out upon the Master’s face, as He said:Tôi còn nhớ rất rõ một biến cố trong những ngày đầu của mối liên hệ riêng tôi với Các Đấng Cao Cả cách đây một phần tư thế kỷ. Tôi đã gặp trên cõi trần một người đầy nhiệt huyết và có phẩm hạnh thánh thiện nhất, một người tin tưởng hoàn toàn vào sự hiện hữu của các Chân sư, và hiến dâng đời mình cho một mục tiêu duy nhất là tự rèn luyện để xứng đáng phụng sự dưới chân Các Ngài. Ông có vẻ là một người trên mọi phương diện thích hợp hoàn toàn với địa vị đệ tử, hiển nhiên ở nhiều phương diện còn tốt hơn chính tôi, đến mức tôi không thể hiểu vì sao ông chưa được chấp nhận; vậy nên, vì còn non trẻ trong công tác và thiếu hiểu biết, một ngày kia khi có dịp tốt, tôi đã rất khiêm nhường và như thể mang chút áy náy, nêu tên ông với Chân sư cùng gợi ý rằng có lẽ ông sẽ là một khí cụ tốt. Một nụ cười hoan hỉ nhân ái nở trên gương mặt Chân sư, khi Ngài nói:
“Ah, you need not fear that your friend is being overlooked; no one can ever be overlooked; but in this case there still remains a certain karma to be worked out, which makes it impossible at the moment to accept your suggestion. Soon your friend will pass away from the physical plane, and soon he will return to it again, and then the expiation will be complete and what you desire for him will have become possible.”“À, anh khỏi phải e rằng bạn anh bị bỏ sót; không ai bao giờ có thể bị bỏ sót; nhưng trong trường hợp này vẫn còn một nghiệp phải được xúc tiến, điều ấy khiến không thể, vào lúc này, chấp thuận đề nghị của anh. Chẳng bao lâu nữa bạn anh sẽ rời cõi trần, và chẳng bao lâu nữa ông sẽ trở lại đó, rồi thì sự chuộc trả sẽ trọn vẹn và điều anh mong mỏi cho ông sẽ trở thành khả hữu.”
And then, with the gentle kindness which is always so prominent a characteristic in Him, He blended my consciousness with His in an even more intimate manner, and raised it to a plane far higher than I could then reach, and from that elevation He showed me how the Masters look out upon the world. The whole earth lay before us with all its millions of souls, undeveloped most of them, and therefore inconspicuous; but wherever amidst all that mighty multitude there was one who was approaching even at a great distance the point at which definite use could be made of him, he stood out among the rest just as the flame of a light-house stands out in the darkness of the night.Rồi, với lòng nhân ái hiền hoà vốn luôn là đặc sắc nổi bật nơi Ngài, Ngài kết hợp tâm thức của tôi với Tâm thức của Ngài còn mật thiết hơn nữa, và nâng nó lên một cõi cao xa hơn nhiều so với nơi tôi bấy giờ có thể với tới, và từ đỉnh cao ấy Ngài cho tôi thấy cách các Chân sư nhìn ra thế giới. Toàn cõi đất nằm trước chúng tôi với tất cả hàng triệu triệu linh hồn, đa phần còn bất phát triển, cho nên mờ nhạt; nhưng bất cứ nơi đâu giữa quần chúng hùng hậu ấy có một người đang tiến gần, dù còn rất xa, đến điểm mà có thể dụng được y một cách dứt khoát, thì y nổi bật giữa phần còn lại y như ngọn hải đăng nổi bật trong đêm tối.
“Now you see,” said the Master, “how utterly impossible it would be that any one should be overlooked who is even within measurable distance of the possibility of acceptance as a probationer.”“Giờ anh đã thấy,” Chân sư nói, “rằng tuyệt đối bất khả có chuyện bất kỳ ai bị bỏ sót nếu người ấy dù chỉ ở trong khoảng cách có thể đo đếm được của khả tính được chấp nhận làm dự bị.”
We can do nothing on our side but steadily work at the improvement of our own character and endeavour in every possible way, by the study of Theosophical works, by self-development, and by the unselfishness of our devotion to the interests of others, to fit ourselves for the honour which we desire, having within our minds the utter certainty that as soon as we are ready the acceptance will assuredly come. We can do nothing but fit ourselves, and we have the certainty that as soon as we are ready we shall be accepted, because we know how great is the need of helpers. But until we can be utilized economically—until, that is to say, the force spent upon us will bring forth, through our action, more result than it would if spent in any other way, it would be a violation of duty on the part of the Master to draw us into close relations with Him.Về phần mình, chúng ta chỉ có thể kiên trì làm việc cải thiện Tính cách của chính mình và nỗ lực bằng mọi cách có thể, qua việc học hỏi các tác phẩm Thông Thiên Học, qua tự phát triển, và qua lòng vị tha trong sự tận hiến cho lợi ích của người khác, để tự chuẩn bị cho vinh dự mà chúng ta mong cầu, giữ trong tâm một sự xác quyết tuyệt đối rằng ngay khi chúng ta sẵn sàng thì sự tiếp nhận ắt hẳn sẽ đến. Chúng ta chỉ có thể tự trang bị, và chúng ta có sự xác quyết rằng ngay khi chúng ta sẵn sàng chúng ta sẽ được chấp nhận, bởi chúng ta biết nhu cầu về những người trợ giúp là lớn lao đến nhường nào. Nhưng cho đến khi chúng ta có thể được sử dụng một cách hiệu quả—nghĩa là, cho đến khi lực bỏ vào chúng ta sẽ, qua hành động của chúng ta, mang lại kết quả nhiều hơn so với việc lực ấy được dùng theo bất kỳ cách nào khác, thì sẽ là vi phạm bổn phận đối với Chân sư nếu Ngài kéo chúng ta vào mối liên hệ mật thiết với Ngài.
We may be quite sure that there are in reality no exceptions to this rule, even though we may sometimes think that we have seen some. A man may become a probationary pupil of the Master while he has still some obvious faults, but we may be very sure that in such a case there are good qualities under the surface which far more than counterbalance the superficial evils. Another thing that must be remembered is that, like the rest of us, the Great Masters of Wisdom have a long line of lives behind Them, and in those lives, like others, They have made certain karmic ties, and so sometimes it happens that a particular individual has a claim on Them for some service rendered long ago in the remote past. In the lines of past lives which we have examined we sometimes come across instances of such a karmic link.Chúng ta có thể hoàn toàn chắc chắn rằng thực tế không có ngoại lệ nào đối với quy luật này, dù đôi khi chúng ta có nghĩ rằng mình đã thấy một vài ngoại lệ. Một người có thể trở thành đệ tử dự bị của Chân sư khi y vẫn còn vài lỗi lầm hiển nhiên, nhưng chúng ta có thể tuyệt đối chắc rằng trong những trường hợp như thế có những phẩm tính tốt đẹp dưới bề mặt vốn vượt xa mức bù đắp các điều xấu hời hợt. Một điều khác cần nhớ là, giống như chúng ta, các Đại Chân sư Minh Triết cũng có một chuỗi dài các kiếp sống phía sau Các Ngài, và trong các kiếp ấy, như người khác, Các Ngài đã tạo lập một số mối dây nghiệp, vậy nên đôi khi xảy ra việc một cá nhân nào đó có một đòi hỏi nghiệp đối với Các Ngài vì một sự phục vụ đã trao lâu xa trong quá khứ. Trong các chuỗi tiền kiếp mà chúng tôi đã khảo sát, đôi khi chúng tôi bắt gặp những trường hợp về một mối liên kết nghiệp như thế.
One well-known case is that of a certain member who, when a powerful noble in Egypt six thousand years ago, used his influence with the authorities of one of the great temples to introduce into it as a favoured student a young man who displayed the keenest interest in occult matters. That young student took up occultism with the greatest eagerness and made the most astonishing progress in it, so that in every life thereafter he continued the studies begun in ancient Khem. Between then and now that young student has attained adeptship, and thus passed on far in advance of the friend who then introduced him to the temple. In the work which He has had to do in these later days He needed some one to put before the world certain truths which had to be published, because the time for such unfoldment was fully ripe. He looked round for an instrument whom He could use, and He found His old friend and helper of six thousand years ago in a position in which it was possible to employ him in this work. At once He remembered His ancient debt and repaid it by giving to His friend this wonderful privilege of being the channel of the truth to the world.Một trường hợp nổi tiếng là của một hội viên nọ, khi còn là một đại quý tộc quyền thế ở Ai Cập sáu nghìn năm trước, đã dùng ảnh hưởng của mình với giới chức của một trong những đại đền để giới thiệu vào đó, như một môn sinh ưu đãi, một chàng thanh niên biểu lộ mối quan tâm mãnh liệt đối với các điều huyền bí. Chàng môn sinh trẻ ấy đã tiếp nhận Huyền bí học với lòng hăm hở lớn lao và đạt những tiến bộ kinh ngạc, đến mức trong mỗi đời sau đó chàng tiếp tục các nghiên cứu đã khởi sự ở cổ Khem. Từ khi ấy đến nay, chàng môn sinh trẻ ấy đã đạt địa vị chân sư, và do đó đi xa vượt trước người bạn đã từng đưa chàng vào đền khi xưa. Trong công việc mà Ngài phải làm ở những ngày sau này, Ngài cần một người trình bày cho thế gian một số chân lý cần được công bố, vì thời giờ cho sự khai mở như thế đã hoàn toàn chín muồi. Ngài nhìn quanh tìm một khí cụ mà Ngài có thể sử dụng, và Ngài thấy người bạn cũ, vị đã giúp mình sáu nghìn năm trước, đang ở vị trí có thể được sử dụng cho công tác này. Lập tức Ngài nhớ lại món nợ xưa và hoàn trả nó bằng cách ban cho bạn mình đặc quyền kỳ diệu được làm kênh chuyển chân lý đến thế gian.
Such cases indeed are fairly numerous. We all know how at a period still far earlier one of the founders of the Theosophical Society saved the life of the other, who was at that time the eldest son of Him who is now the Master and teacher of both, and thus established a karmic claim which has drawn those three into close relationship ever since. Again, on another occasion in the remote past our President saved the life of her present teacher when there was a conspiracy to assassinate Him; and in yet another instance one who has but just passed the portals of initiation saved the life of the Bodhisattva, the great Lord Maitreya himself.Những trường hợp như vậy thật ra không hiếm. Chúng ta đều biết rằng ở một thời kỳ còn xa hơn nữa, một trong những vị sáng lập Hội Thông Thiên Học đã cứu mạng vị kia, người lúc đó là trưởng nam của Đấng mà nay là Chân sư và là vị thầy của cả hai, và như vậy đã thiết lập một đòi hỏi nghiệp đã buộc ba vị ấy vào mối liên hệ thân thiết cho đến tận bây giờ. Lại nữa, vào một dịp khác trong quá khứ xa xôi, Nữ Hội Trưởng của chúng ta đã cứu mạng vị thầy hiện tại của Bà khi có một âm mưu ám sát Ngài; và thêm một trường hợp nữa, một người vừa mới vượt qua thềm điểm đạo đã cứu mạng Đức Bồ Tát, Đức Chúa Tể vĩ đại Maitreya tự thân.
Now all these are unquestionably karmic links, and they constitute debts which will be fully repaid. So it may happen to any of us that in some past life we have come into touch with One who is now a Master, or done Him some slight service, and if so, that may well prove to have been the commencement of an association which will ripen into discipleship on our side. It frequently happens that people are drawn together by a strong common interest in occultism, and in later lives, when some of these have out-distanced the others, those who were once friends and fellow-students often fall naturally into the relation of teacher and pupil.Những điều này chắc chắn là các mối dây nghiệp, và chúng cấu thành những món nợ sẽ được hoàn trả đầy đủ. Vậy nên có thể xảy ra cho bất cứ ai trong chúng ta là trong một kiếp sống quá khứ nào đó, ta đã chạm đến Một Vị mà nay là một Chân sư, hoặc đã làm cho Ngài một chút công lao, và nếu vậy, điều đó rất có thể đã là khởi điểm của một mối liên hệ sẽ chín muồi thành địa vị đệ tử về phía chúng ta. Thường xảy ra việc người ta được lôi cuốn lại gần nhau bởi một mối quan tâm chung mạnh mẽ về Huyền bí học, và trong những kiếp sau, khi vài người trong họ đã vượt trước những người khác, những ai đã từng là bạn và bạn học thường tự nhiên rơi vào mối quan hệ thầy và trò.
No doubt a man may attract Their attention in many ways; he may bring himself to the portals of the Path by association with those in advance of him, by the force of sheer hard thinking, by devotion, or by earnest endeavour in good works; but all these are after all merely so many divisions of the one Way, because they all of them mean that he is making himself fit for one or other department of the work that is to be done. And so when by any of these methods he reaches a certain level, he inevitably attracts the attention of the Masters of the Wisdom and comes in some way into connection with Them, though probably not upon the physical plane. The Master’s usual plan is that he is brought into connection with one or other of Their more prominent pupils, and this is very much the safest way, since it is impossible for any ordinary person to assure himself of the good faith of astral communications.Không nghi ngờ gì, một người có thể thu hút sự chú ý của Các Ngài theo nhiều cách; y có thể tự đưa mình đến thềm Thánh Đạo nhờ kết giao với những người đi trước, nhờ sức mạnh của tư duy miệt mài, nhờ lòng sùng mộ, hoặc nhờ nỗ lực chuyên tâm trong công quả; nhưng tất cả những điều này rốt cuộc chỉ là các phân hệ của một Con Đường, vì tất cả đều có nghĩa là y đang tự làm mình thích hợp cho một hay một phân bộ nào đó của công tác sẽ được thực hiện. Và vì thế khi bằng bất kỳ phương pháp nào trong số ấy y đạt đến một trình độ nhất định, y tất yếu sẽ thu hút sự chú ý của các Chân sư Minh Triết và bằng cách nào đó sẽ bước vào mối liên hệ với Các Ngài, dù có lẽ không phải trên cõi hồng trần. Kế hoạch thông thường của Chân sư là khiến y được đưa vào mối liên hệ với một hay vị đệ tử nổi bật nào đó của Các Ngài, và đây là cách an toàn hơn nhiều, vì bất khả đối với người bình thường để tự mình đảm bảo về thiện chí của các thông tin cảm dục.
Unless a man has had very wide experience in connection with mediumship, he would find it very difficult to realize how many quite ordinary people there are upon the astral plane who are burning with the desire to pose as great world-teachers. They are generally quite honest in their intentions, and really think that they have teaching to give which will save the world. Now that they are dead they have fully realized the worthlessness of mere worldly objects, and they feel (quite rightly) that if they could only impress upon mankind in general the ideas which they have now acquired, the whole world would immediately become a very different place. They are also fully persuaded that they have only to publish their discoveries upon the physical plane in order at once to convince everybody of their inherent reasonableness, and so they select some impressionable lady and tell her that they have chosen her out of all the world to be the medium of a magnificent revelation.Trừ phi một người có kinh nghiệm rất rộng về đồng cốt, y sẽ thấy khó mà hình dung có nhiều người bình thường trên cõi cảm dục đang cháy bỏng khao khát đóng vai những bậc đại giáo chủ thế gian đến thế nào. Họ thường hoàn toàn thành thật trong ý hướng, và thực sự nghĩ rằng họ có những giáo huấn có thể cứu thế giới. Giờ đây khi đã qua đời, họ hoàn toàn nhận ra sự vô giá trị của những mục tiêu trần thế đơn thuần, và họ cảm thấy (hoàn toàn đúng) rằng nếu họ có thể in ấn lên nhân loại nói chung những ý tưởng mà họ hiện thâu đắc, thì cả thế giới sẽ lập tức trở thành một nơi rất khác. Họ cũng tin chắc rằng họ chỉ cần công bố những khám phá của họ trên cõi hồng trần là lập tức thuyết phục được mọi người về tính hợp lý nội tại của chúng, và vì thế họ chọn một phu nhân dễ cảm ứng nào đó và nói với bà rằng họ đã chọn bà trong toàn thế giới để làm đồng tử cho một sự mặc khải huy hoàng.
Now it is rather flattering to the average person to be told that he or she is the sole medium in all the world for some mighty entity, the only channel for some exclusive and transcendent teaching; and even though the communicating entity should disclaim any special greatness (which he usually does not) this is put down to praiseworthy modesty on his part, and he is described as at least an archangel, even if not a still more direct manifestation of the Deity. What such a communicating entity forgets is that when he was alive on the physical plane other people were making similar communications through various mediums, and that then he never paid the slightest attention to them, nor was in any way affected by what they said, and so he does not realise that precisely as he, when immersed in the affairs of this world, declined to be moved by those very communications, so will all the world now go on contentedly with its own business and pay no attention to him.Giờ, đối với người trung bình, thật là hãnh diện khi được bảo rằng ông hay bà là đồng tử duy nhất trong cả thế giới cho một thực thể hùng mạnh nào đó, là kênh duy nhất cho một giáo huấn độc nhất và siêu việt; và dẫu thực thể giao tiếp có từ chối nhận bất kỳ sự vĩ đại đặc biệt nào (mà thường là không), thì điều này cũng được cho là sự khiêm cung đáng khen nơi y, và y sẽ được mô tả là ít nhất một đại thiên thần, nếu không là một biểu hiện trực tiếp hơn nữa của Thượng đế. Điều mà thực thể giao tiếp như vậy quên mất là khi y còn sống nơi cõi hồng trần, những người khác cũng đang đưa ra những thông điệp tương tự qua nhiều đồng tử khác nhau, và khi ấy y chẳng hề mảy may chú ý đến họ, cũng không hề bị ảnh hưởng bởi những điều họ nói, và vì thế y không nhận ra rằng, chính như y, khi còn chìm đắm trong công việc thế gian, đã không chịu động tâm bởi những thông điệp kia, thì giờ đây cả thế giới cũng sẽ an nhiên tiếp tục công việc riêng của nó và chẳng buồn chú ý đến y.
Often such entities assume distinguished names from what may almost be called a pardonable motive, for they know human nature well enough to be aware that if John Smith or Thomas Brown comes back from the dead and enunciates a certain doctrine it will have very little chance of acceptance, no matter how excellent and how entirely true it may be; whereas the same words uttered by George Washington, Julius Caesar or the Archangel Michael would be at least respectfully considered and very probably blindly accepted.Thường khi những thực thể như thế mượn những tên tuổi lẫy lừng với một động cơ gần như có thể tha thứ, vì họ hiểu bản tính con người đủ để biết rằng nếu John Smith hay Thomas Brown trở về từ cõi chết và công bố một giáo lý nào đó thì giáo lý ấy sẽ có rất ít cơ may được chấp nhận, bất kể nó có tuyệt hảo và hoàn toàn chân thật đến đâu; trong khi những lời y như vậy, nếu được George Washington, Julius Caesar hoặc Tổng Lãnh Thiên Thần Michael thuyết ra, thì chí ít cũng sẽ được cung kính cân nhắc và rất có thể được chấp nhận một cách mù quáng.
Any man functioning on the astral plane has a certain amount of insight into the thoughts and feelings of those with whom he is dealing, and therefore it is not wonderful that when such people come into contact with the Theosophists, and see their minds to be full of reverence for the Masters of Wisdom, they should sometimes personate those very Masters of Wisdom in order to command more ready acceptance for whatever ideas they wish to promulgate. Also it must not be forgotten that there are those who bear no good will to our Masters, and desire to do Them any injury which lies within their power. They cannot of course harm Them directly, and therefore they sometimes try to do so through the pupils whom They love. One of the easiest ways in which they can produce difficulties is by assuming the form of the Master who is so strongly revered by their victim, and in many cases such an imitation is quite perfect, so far as the physical appearance is concerned, except that it always seems to me that they can never quite get the right expression into the eyes. One who has developed the sight of the higher planes cannot be thus deluded, as it is quite impossible for any of these entities to imitate the causal body of the Master.Bất kỳ ai hoạt dụng trên cõi cảm dục đều có một mức độ thấu triệt nhất định đối với tư tưởng và cảm xúc của những người mà mình đang tương giao, vì vậy không có gì lạ khi những người như vậy, khi tiếp xúc với các nhà Thông Thiên Học, và thấy tâm trí họ chan chứa lòng tôn kính các Chân sư Minh Triết, đôi khi lại đóng vai chính những vị Chân sư Minh Triết ấy để giành sự tiếp nhận sẵn lòng hơn cho bất kỳ ý tưởng nào họ muốn truyền bá. Cũng đừng quên rằng có những kẻ không thiện chí với các Chân sư của chúng ta, và muốn làm bất cứ tổn hại nào cho Các Ngài trong phạm vi quyền năng của họ. Họ dĩ nhiên không thể gây hại trực tiếp cho Các Ngài, nên đôi khi họ cố làm thế qua các đệ tử mà Các Ngài yêu thương. Một trong những cách dễ nhất để họ tạo ra khó khăn là giả dạng thành vị Chân sư mà nạn nhân của họ hết lòng tôn kính, và trong nhiều trường hợp, sự mô phỏng như vậy hoàn hảo đến mức, xét về diện mạo thể chất, theo tôi dường như họ không bao giờ có thể đưa đúng thần sắc vào đôi mắt. Người đã phát triển nhãn thông ở các cõi cao hơn thì không thể bị đánh lừa như thế, vì hoàn toàn bất khả đối với bất kỳ thực thể nào trong số đó bắt chước được thể nguyên nhân của một Vị Chân sư.
Most assuredly we shall do well to heed diligently the wise precept in The Voice of the Silence, “Seek not thy Guru in those mayavic regions.” Accept no teaching from some self-appointed preceptor on the astral plane, but receive all communications and advice which come thence precisely as you would receive similar advice or remarks made by a stranger on the physical plane. Take them for what they are worth, and accept the advice or reject it as your own conscience dictates, without paying attention to its alleged source. Seek rather for teaching which satisfies the intellect, and apply the test of intellect and conscience to any claims which are put forward.Chúng ta chắc chắn sẽ khôn ngoan nếu chăm chú nghe theo lời huấn thị sáng suốt trong Tiếng Nói của Im Lặng, “Đừng tìm vị Guru của ngươi trong những cõi mayavic ấy.” Đừng chấp nhận bất cứ giáo huấn nào từ một “thầy” tự phong trên cõi cảm dục, mà hãy tiếp nhận mọi thông tri và lời khuyên đến từ đó y như bạn sẽ tiếp nhận các lời khuyên hay lời nhận xét tương tự do một người lạ nói trên cõi hồng trần. Hãy xem chúng đáng giá đến đâu thì nhận đến đó, và chấp nhận hay bác bỏ lời khuyên theo tiếng gọi của lương tri bạn, không cần quan tâm đến nguồn gốc được gán cho nó. Thà tìm kiếm giáo huấn thỏa mãn thể trí, và áp dụng phép thử của thể trí và lương tri đối với bất cứ lời tuyên bố nào được đưa ra.
Let it never be forgotten that ours are not the only lines. The two Masters who are most intimately associated with the work of the Theosophical Society represent two different rays or methods of teaching; but there are others besides these. All schools of the higher teaching give a preliminary training to purify the character, but the particular teachings given and practices recommended differ according to the type of the teacher. But all teachers who belong to the Great White Lodge insist upon the attainment of the highest only by means of the Path of Holiness, and the quenching of desire by conquering it and not by gratifying it.Đừng bao giờ quên rằng đường hướng của chúng ta không phải là những lối duy nhất. Hai vị Chân sư gắn bó mật thiết nhất với công việc của Hội Thông Thiên Học đại diện cho hai cung khác nhau hoặc hai phương pháp giáo huấn khác nhau; nhưng ngoài hai vị ấy còn có những vị khác. Tất cả các trường phái giáo huấn cao hơn đều có sự huấn luyện sơ bộ để thanh lọc Tính cách, nhưng các giáo lý riêng biệt được ban ra và các pháp môn được khuyến nghị sẽ khác nhau tuỳ theo loại hình của vị huấn sư. Tuy vậy, tất cả các vị huấn sư thuộc về Thánh đoàn đều nhấn mạnh rằng chỉ có thể đạt đến điều cao cả nhất bằng Con Đường Thánh Đức, và dập tắt dục vọng bằng cách chinh phục nó chứ không phải thỏa mãn nó.
The pupil will be employed by his Master in many different ways. Some are set to take up the lines of work indicated in the book Invisible Helpers; others are employed specifically in assisting the Masters personally in some piece of work which They happen to have undertaken; some are set astrally to deliver lectures to audiences of less developed souls, or to help and teach others who are free temporarily during sleep, or are permanently after death denizens of the astral world. When a pupil falls asleep at night he usually reports himself to his Master, and he is then told if there is any definite piece of work which he can do. If there happens to be nothing special he will take up his usual nocturnal work, whatever that may be. Every invisible helper acquires a number of regular cases or patients who are put under his charge just exactly as are those of a doctor on the physical plane; and whenever there is no unusual work for him to do he simply goes on his ordinary rounds, visits these cases and does his best for them. So that he has always plenty of work of this kind to fill up his time when he is not especially needed, as for some sudden catastrophe which throws out a large number of souls simultaneously into the astral plane in a condition of terror. Most of such training in astral work as the pupils needs is usually given by one of the older pupils of the Master.Đệ tử sẽ được Chân sư của y sử dụng theo nhiều cách khác nhau. Một số được giao theo đuổi những đường hướng công tác đã gợi ra trong sách Những Người Trợ Giúp Vô Hình;  những người khác được giao việc trợ giúp đích thân các Chân sư trong một phần việc nào đó mà Các Ngài đương đảm nhiệm; một số khác được bố trí hoạt động trên cõi cảm dục để diễn thuyết cho những thính chúng là các linh hồn kém phát triển hơn, hoặc để trợ giúp và giáo hóa những người tạm thời được tự do trong khi ngủ, hoặc những cư dân thường trực của cõi cảm dục sau khi chết. Khi đệ tử chìm vào giấc ngủ ban đêm, y thường trình diện với Chân sư của y, và khi ấy nếu có một công việc xác định nào y có thể làm, y sẽ được chỉ bảo. Nếu không có việc đặc biệt, y sẽ tiếp tục công việc ban đêm thường lệ của mình, bất luận đó là gì. Mỗi người trợ giúp vô hình đều có một số ca hoặc “bệnh nhân” thường xuyên được giao phó cho y, y chăm sóc họ chính xác như một bác sĩ ở cõi hồng trần chăm sóc các bệnh nhân của mình; và bất cứ khi nào không có việc khác thường cho y làm, y đơn giản tiếp tục vòng công tác thường nhật, thăm viếng các ca ấy và làm hết sức mình cho họ. Vì thế y luôn có rất nhiều công việc loại này để lấp đầy thời giờ khi y không được cần đến đặc biệt, chẳng hạn như khi xảy ra một tai hoạ đột ngột khiến một số đông linh hồn đồng thời bị hất ra cõi cảm dục trong trạng thái kinh hoàng. Phần lớn việc huấn luyện loại này trong công tác cảm dục mà các đệ tử cần đến thường do một trong các đệ tử kỳ cựu của Chân sư đảm nhiệm.
If it is necessary that the pupil should undertake any special system of psychic development on the physical plane, the Master will indicate it to him either directly or through one of His recognized pupils. What is prescribed in this way differs according to the character and need of the pupil, and it is usually best for us to wait until we are definitely told before attempting any practices of this kind. Even when we are told of them it is best that we should keep them to ourselves, and not discuss them with others, as it is more than probable that they would be unsuited to anyone else. Here in India among the hosts of minor teachers each man has his own methods, the difference depending partly on the different schools of philosophy to which they belong, and partly upon their different ways of looking at the same thing. But whatever their methods are, they usually keep them very secret in order to avoid the responsibility of their being wrongly used.Nếu cần đệ tử phải đảm nhận một hệ thống đặc biệt về phát triển thông linh trên cõi hồng trần, Chân sư sẽ chỉ định cho y—hoặc trực tiếp, hoặc thông qua một trong các đệ tử được Ngài thừa nhận. Những điều được chỉ định theo cách này thay đổi tùy theo Tính cách và nhu cầu của từng đệ tử, và thông thường tốt nhất là chúng ta nên đợi cho đến khi được chỉ thị rõ ràng trước khi thử qua bất cứ pháp môn nào thuộc loại ấy. Ngay cả khi đã được chỉ dạy, tốt nhất là chúng ta hãy giữ riêng cho mình, đừng đem ra bàn luận với người khác, bởi lẽ rất có khả năng chúng không hợp với bất cứ ai khác. Ở Ấn Độ này, giữa vô số vị huấn sư bậc nhỏ, mỗi người đều có phương pháp riêng của mình, sự sai khác phần nào tuỳ thuộc vào các trường phái triết học khác nhau mà họ thuộc về, phần khác do cách họ nhìn cùng một sự việc theo những cách khác nhau. Nhưng bất kể phương pháp của họ là gì, họ thường giữ bí truyền rất kỹ, để tránh phải gánh trách nhiệm nếu bị sử dụng sai lạc.
The harm that may be done by the indiscriminate publication of any of these half-physical systems has been very clearly exemplified in America, where a book by an Indian teacher has obtained a large circulation. This teacher guardedly mentioned certain practices, prefacing his teaching with a carefully expressed warning as to the necessity of preparation by the training of character. But nevertheless what he has written has caused a great deal of suffering, because people have uniformly disregarded his warning as to training and have recklessly tried to carry out the practices which he described. In a tour a few years ago in that country I met quite a number of people who through attempting to follow his directions had made themselves physical wrecks. Some had become insane, some were subject to fits, and others had fallen under the spell of various obsessing entities. In order that such practices as these may be attempted with safety it is absolutely necessary that they be undertaken (as they always are undertaken in India) in the actual presence of a teacher who watches the results and at once interferes when he sees that anything is going wrong. Indeed, in this country it is usual for the pupil to remain in physical proximity to his teacher, because here people understand what I mentioned some time ago—that the first and greatest work which a teacher has to do is to attune the aura of the pupil to his own—to annul the effect of the ordinary disturbed conditions which prevail in the world, to show him how to abandon all that and to live in a world of absolute calm. One of our own Masters said in one of the earlier letters, “Come out of your world into ours,” and this of course refers not to a place but to a condition of mind.Tác hại có thể do việc phổ biến bừa bãi những hệ thống nửa hồng trần như thế đã được minh hoạ rất rõ ràng ở Mỹ, nơi một cuốn sách của một vị thầy Ấn Độ đã được phát hành rộng rãi. Vị thầy này dè dặt nêu ra vài pháp môn, mở đầu giáo huấn bằng một lời cảnh báo được diễn đạt cẩn trọng về sự cần thiết của sự chuẩn bị thông qua việc rèn luyện Tính cách. Thế nhưng những gì ông viết đã gây ra nhiều đau khổ, bởi vì người ta hầu như đồng loạt phớt lờ lời cảnh báo về việc rèn luyện và liều lĩnh cố gắng thực hành những điều ông mô tả. Trong một chuyến du hành vài năm trước ở xứ ấy, tôi đã gặp không ít người vì cố làm theo chỉ dẫn của ông mà tự biến mình thành những kẻ tàn phế thể xác. Có người trở nên loạn trí, có người bị các cơn co giật, và có người rơi vào ảnh hưởng của các thực thể ám nhập khác nhau. Để những pháp môn như vậy có thể được thực hành một cách an toàn, điều hoàn toàn cần thiết là phải tiến hành (như ở Ấn Độ vẫn luôn tiến hành) dưới sự hiện diện trực tiếp của một vị thầy, người theo dõi kết quả và lập tức can thiệp khi thấy có điều gì đi sai lệch. Quả thật, ở xứ này, đệ tử thường lưu lại gần gũi vị thầy về mặt thể xác, bởi vì ở đây người ta hiểu điều tôi đã nhắc đến trước kia—rằng công việc đầu tiên và lớn lao nhất mà một vị thầy phải làm là hòa điều hào quang của đệ tử với hào quang của mình—để triệt tiêu ảnh hưởng của các điều kiện rối loạn thông thường đang bao trùm thế gian, chỉ cho y cách từ bỏ tất cả những điều ấy và sống trong một thế giới an tĩnh tuyệt đối. Một trong các Chân sư của chúng ta đã nói trong một bức thư trước đây: “Hãy rời thế giới của các ngươi để bước vào thế giới của Chúng Ta,” và dĩ nhiên điều này không ám chỉ một nơi chốn mà là một trạng thái của thể trí.
Remember that everyone who meditates upon the Master makes a definite link with Him, which shows itself to clairvoyant vision as a kind of line of light. The Master always subconsciously feels the impinging of such a line, and sends out along it in response a steady stream of magnetism which continues to play long after the meditation is over. The regular practice of such meditation and concentration is of the utmost help to the aspirant, and the regularity is one of the most important factors in producing the result. It should be undertaken daily at the same hour, and we should steadily persevere with it, even though no obvious effect may be produced. When no effect appears we must be especially careful to avoid depression, because depression makes it more difficult for a Master’s influence to act upon us, and it also shows that we are thinking more of ourselves than of the Master.Hãy nhớ rằng bất cứ ai tham thiền hướng về Chân sư đều kết lập một mối liên kết rõ rệt với Ngài, điều này hiện ra với cái nhìn thông nhãn như một thứ đường sáng. Chân sư luôn cảm một cách vô thức sự chạm tới của đường sáng ấy, và để đáp ứng, Ngài phóng xuất dọc theo đó một dòng từ điện đều đặn, dòng này tiếp tục tác động rất lâu sau khi buổi tham thiền đã kết thúc. Việc thực hành đều đặn như vậy—tham thiền và tập trung—trợ lực tối đa cho người chí nguyện, và tính đều đặn là một trong những yếu tố quan trọng nhất để tạo nên kết quả. Nó nên được tiến hành mỗi ngày vào cùng một giờ, và chúng ta phải bền bỉ kiên trì với nó, cho dù không có hiệu quả hiển nhiên nào xuất lộ. Khi không thấy hiệu quả, chúng ta phải đặc biệt cẩn trọng tránh nỗi chán nản, bởi vì chán nản khiến ảnh hưởng của Chân sư khó tác động lên chúng ta hơn, và nó cũng cho thấy chúng ta đang nghĩ về bản thân mình nhiều hơn là về Chân sư.

THE PATH OF PROGRESS—CON ĐƯỜNG TIẾN BỘ

When we state the great truth that all evolution came forth from the Divine, and that we ourselves are but sparks of the divine flame and one day to be reunited to it, people often ask us two not unnatural questions. First they say, “Why should the divine Being have sent us forth, since after all we are part of Him, and so were divine from the beginning? Why in fact did the LOGOS manifest Himself in matter at all, seeing that He was perfect and glorious and all-wise in the beginning? Secondly, if we emanate from the divine Spirit, why were we sent forth into wickedness, and how can man, coming forth from so pure a source, enter into such degradation as we constantly see around us?” Since these questions recur so often, it is worth while for us to consider how they may be answered.Khi chúng ta tuyên xưng chân lý vĩ đại rằng mọi tiến hoá đều phát xuất từ Đấng Thiêng Liêng, và rằng chính chúng ta chỉ là những tia lửa của ngọn lửa thiêng và một ngày kia sẽ hợp nhất trở lại với ngọn lửa ấy, người ta thường nêu lên hai câu hỏi không phải là vô lý. Trước hết, họ nói: “Tại sao Đấng Thiêng Liêng lại phóng xuất chúng ta đi, khi rốt cuộc chúng ta là một phần của Ngài, nên chúng ta vốn đã thiêng liêng ngay từ đầu? Vì sao thực vậy mà Thái dương Thượng đế lại tự hiện lộ trong chất liệu, trong khi Ngài đã hoàn hảo, vinh quang và toàn trí ngay từ thuở ban sơ?” Thứ đến, “Nếu chúng ta xuất lộ từ Tinh thần thiêng liêng, tại sao chúng ta lại bị gửi vào chốn tà ác, và làm sao con người, khởi sinh từ một nguồn thuần khiết như thế, lại có thể rơi vào trụy lạc đến mức như chúng ta thường thấy quanh mình?” Vì những câu hỏi này thường lặp lại, thật đáng để chúng ta suy xét cách đáp lời chúng.
Why the LOGOS manifested Himself is scarcely our business. It is enough for us to know that He has chosen to do so, that we are part of His scheme, and that it is therefore our duty to try to understand that scheme so far as we can; and to adapt ourselves to it. But if there be any who desire to speculate upon this mystery, perhaps no better suggestion can be found for them than that which was given by the Gnostic Doctors:Vì sao Thái dương Thượng đế tự hiện lộ thì hầu như không phải là việc của chúng ta. Biết rằng Ngài đã chọn làm như vậy, rằng chúng ta là một phần trong Thiên Cơ của Ngài, và vì thế bổn phận của chúng ta là cố gắng thấu hiểu Thiên Cơ ấy trong chừng mực có thể, rồi điều chỉnh bản thân theo đó—như vậy là đủ. Nhưng nếu có ai ước muốn suy tưởng về nhiệm mầu này, có lẽ không gợi ý nào thích đáng hơn gợi ý do các Giáo phụ Ngộ đạo đưa ra:
“God is Love, but Love itself cannot be perfect unless it has those upon whom it can be lavished and by whom it can be returned. Therefore He put forth of Himself into matter, and He limited His glory, in order that through this natural and slow process of evolution we might come into being; and we in turn according to His will are to develop until we reach even His own level, and then the very Love of God itself will become more perfect, because it will then be lavished on those, His own children, who will fully understand and return it, and so His great scheme will be realised and His Will will be done”.“Thượng đế là Tình thương, nhưng chính Tình thương không thể toàn bích nếu không có những kẻ để được tuôn đổ Tình thương lên, và những kẻ có thể đáp lại Tình thương ấy. Vậy nên Ngài đã tự phóng xuất mình vào trong chất liệu, và Ngài tự giới hạn vinh quang của Ngài, để qua tiến trình tự nhiên và chậm rãi của tiến hoá, chúng ta có thể thành hữu. Rồi đến lượt chúng ta—theo Ý muốn của Ngài—sẽ phát triển cho đến khi đạt ngang tầm của chính Ngài, và khi ấy chính Tình thương của Thượng đế sẽ trở nên toàn bích hơn, bởi vì Tình thương ấy sẽ được tuôn đổ lên những người con của Ngài, những kẻ sẽ hoàn toàn thấu hiểu và đáp lại Tình thương ấy, và như vậy đại đồ của Ngài sẽ được thực hiện và Ý Chí của Ngài sẽ thành tựu.”
As to the further consideration why the emanation should have taken place in this particular way, that again is not our affair, for we are concerned only with the facts of evolution, not the reasons for it; yet there seems little difficulty in at least indicating the lines along which an answer may be found. It is quite true that man is an emanation from the substance of the Divine, but it must be remembered that the substance, when it issues forth, is undifferentiated, and from our point of view unconscious; that is, it has within it rather the potentiality of consciousness than anything to which we are in the habit of applying that term.Còn như vì sao sự xuất lộ lại diễn ra theo cách đặc biệt này, điều ấy một lần nữa không phải là việc của chúng ta, bởi chúng ta chỉ liên hệ với những sự kiện của tiến hoá, chứ không phải các lý do của nó; tuy vậy dường như không khó để ít nhất chỉ ra được những đường hướng dọc theo đó có thể tìm thấy câu trả lời. Hoàn toàn đúng rằng con người là một xuất lộ từ bản thể của Đấng Thiêng Liêng, nhưng cần nhớ rằng bản thể ấy, khi phóng xuất, còn chưa biến phân, và từ quan điểm của chúng ta là bất thức; nghĩa là, trong nó ẩn chứa tiềm năng của tâm thức hơn là bất cứ điều gì mà chúng ta quen gọi bằng danh xưng đó.
In its descent into matter it is simply gathering round it the matter of the different planes through which it passes, and it is not until, having reached the lowest point of its evolution in the mineral kingdom, it turns upwards and begins its return to the level whence it came, that it commences to develop that we call consciousness at all. It is for that reason that man began first of all to unfold his consciousness on the physical plane, and it is only after fully attaining that that he begins to be conscious upon the astral and mental planes in turn.Trong cuộc giáng hạ vào chất liệu, nó đơn giản thu góp quanh mình chất liệu của các cõi khác nhau mà nó đi qua; và chỉ đến khi đã chạm điểm thấp nhất của tiến hoá nơi giới kim thạch, rồi quay lên và khởi sự trở về cấp độ từ đó nó đã đến, thì nó mới bắt đầu phát triển cái mà chúng ta gọi là tâm thức. Vì vậy mà con người trước hết khởi đầu khai mở tâm thức trên cõi hồng trần, và chỉ sau khi đạt trọn vẹn điều ấy, y mới lần lượt trở nên có tâm thức trên cõi cảm dục và cõi trí.
No doubt God might have made man perfect and obedient to the law by one act of His will, but is it not obvious that such a man would have been a mere automaton—that the will working in him would have been God’s will, not his own? What the LOGOS desired was to call into existence, from His own substance, those who should be like unto Him in power and glory, absolutely free to choose and yet absolutely certain to choose the right and not the wrong, because in addition to perfect power they would have perfect knowledge and perfect love.Không nghi ngờ gì, Thượng đế có thể đã làm cho con người trở nên hoàn hảo và vâng phục Định luật chỉ bằng một tác động duy nhất của Ý Chí Ngài; nhưng hẳn hiển nhiên rằng một con người như thế chỉ là một cái máy—ý chí hoạt động trong y sẽ là Ý Chí của Thượng đế, chứ không phải của chính y. Điều Thái dương Thượng đế mong muốn là triệu hồi vào hiện hữu—từ chính bản thể của Ngài—những kẻ sẽ giống như Ngài về năng lực và vinh quang, tuyệt đối tự do chọn lựa, nhưng đồng thời tuyệt đối chắc chắn chọn điều đúng thay vì điều sai, bởi vì ngoài năng lực trọn vẹn, họ còn có tri thức trọn vẹn và tình thương trọn vẹn.
It is not easy to imagine any other way in which this result could be achieved but that which has been adopted—the plan of leaving man free and therefore capable of making mistakes. From those mistakes he learns and gains experience, and although in such a scheme as this it is inevitable that there should be evil, and therefore sorrow and suffering, yet when the part these play as factors in man’s evolution is properly understood we shall see that the Chinese proverb is true which tells us that evil is but the dark shadow of good. Most emphatically it is true that, however black the clouds may look from below, those clouds are by their very nature transient, and above and behind them all the mighty sun, which will at last dissipate them, is always shining, so that the old saying is justified that all things, even the most unlikely-looking, are in reality working together for good.Khó mà hình dung một con đường nào khác có thể đạt được kết quả ấy ngoài con đường đã được chọn—kế hoạch để con người được tự do, và bởi thế có khả năng phạm sai lầm. Từ những sai lầm ấy y học hỏi và tích luỹ kinh nghiệm, và mặc dù trong một đề cương như thế tất yếu phải có điều ác, và do đó có sầu khổ và đau đớn, nhưng khi hiểu đúng vai trò mà chúng đóng như những yếu tố trong tiến hoá của con người, chúng ta sẽ thấy câu ngạn ngữ Trung Hoa là chân thực khi nói rằng điều ác chỉ là bóng tối của điều thiện. Nhấn mạnh rằng, dẫu mây đen từ bên dưới có trông u ám đến đâu, thì do bản tính chúng vốn phù du; phía trên và phía sau chúng, mặt trời vĩ đại cuối cùng sẽ làm tan biến tất cả, vẫn luôn toả chiếu. Vì vậy câu cổ ngữ là có cơ sở khi nói rằng tất cả mọi sự, kể cả những điều trông rất khó tin, rốt cuộc đều cùng phối hợp đem lại điều lành.
This much at least all who have made any real progress know for themselves as an absolute certainty; while they cannot hope to prove it to those who have not as yet had the experience, at least they can bear testimony to it with no uncertain voice, and that testimony is surely not without its value for souls who are still struggling towards the light.Tối thiểu thì tất cả những ai đã có chút tiến bộ thực sự đều tự biết điều này như một xác tín tuyệt đối; dẫu họ không thể hy vọng chứng minh nó cho những ai chưa có kinh nghiệm, thì họ ít nhất có thể làm chứng cho điều ấy bằng một tiếng nói không chút hồ nghi, và chứng từ đó hẳn không phải vô ích đối với những linh hồn còn đang vật lộn hướng về ánh sáng.
As to the second question, we may fairly point out that it assumes too much. It is not true to say that we are sent forth into wickedness and degradation. In fact, strictly speaking, we are not sent forth at all. What happens is something quite different. The LOGOS pours forth into manifestation the stream of force which we may describe as part of Himself or of His vesture. This stream contains in potentiality the vast hosts of monads, each of which, when fully developed, may itself become a LOGOS. But for such development it is necessary that it should manifest itself through matter of various grades, that the individuality should very slowly and gradually be built up, and then that certain latent qualities should be brought out. This is the process of evolution, and all the great laws of the universe are arranged to facilitate this process. In its earlier stages the manifestation of the monad is entirely controlled by these laws, not having yet developed any sort of individuality or soul of its own.Về câu hỏi thứ hai, chúng ta có thể công bằng mà chỉ ra rằng nó giả định quá nhiều. Nói rằng chúng ta bị phóng gửi vào chốn tà ác và trụy lạc là không đúng. Thực ra, chính xác mà nói, chúng ta  không hề bị phóng gửi đi. Điều xảy ra là một chuyện hoàn toàn khác. Thái dương Thượng đế tuôn đổ vào sự biểu lộ một dòng lực mà chúng ta có thể mô tả như là một phần của chính Ngài hoặc của y phục Ngài. Dòng này hàm tàng trong tiềm năng vô số chân thần, mỗi chân thần, khi phát triển viên mãn, có thể tự mình trở thành một Thái dương Thượng đế. Nhưng để có sự phát triển như thế, tất yếu nó phải biểu lộ qua chất liệu của các cấp bậc khác nhau, để cá tính riêng biệt được xây dựng rất chậm và rất từ từ, rồi sau đó những phẩm chất tiềm ẩn nhất định được khơi dậy. Đó là tiến trình của tiến hoá, và mọi định luật vĩ đại của vũ trụ đều được an bài để trợ giúp tiến trình ấy. Ở các giai đoạn ban đầu, sự biểu hiện của chân thần hoàn toàn được các định luật này chi phối, vì nó chưa phát triển bất kỳ dạng nào của cá tính hay linh hồn của chính nó.
But there comes a stage in which individuality is attained, and will is beginning to be developed. The plan of the LOGOS is to allow a man a certain amount of freedom (at first a very small amount) in the use of this dawning will, and naturally enough by the law of averages this primitive individual uses his will about as often wrongly as rightly, although he has almost always teachers belonging to earlier evolutions, who tell him the way, in which he should walk. When he uses his will wrongly, (that is to say, in a direction opposed to the current of evolution) the mechanical working of nature’s laws brings suffering as the result of such action. Since this happens over and over again, the primitive ego at last learns by experience that he must obey the wiser teaching given to him, and as soon as the determination to do so has become actually a part of himself a wider field of freedom of action opens before him.Nhưng sẽ đến một giai đoạn trong đó cá tính riêng biệt được xác lập, và ý chí khởi sự được phát triển. Kế hoạch của Thái dương Thượng đế là cho phép con người một mức độ tự do nào đó (ban đầu là rất nhỏ) trong việc sử dụng ý chí vừa nhen lên này; và theo lẽ thường, cá nhân sơ khai ấy dùng ý chí của mình sai lầm cũng nhiều như đúng đắn, dẫu y hầu như luôn có các vị thầy thuộc những tiến hoá trước dạy cho y con đường mà y nên đi. Khi y dùng ý chí sai lạc (nghĩa là theo hướng đối nghịch với dòng tiến hoá), sự vận hành cơ giới của các định luật thiên nhiên mang đến đau khổ như hệ quả của hành động như thế. Bởi điều này lặp đi lặp lại nhiều lần, chân ngã sơ khai rốt cuộc học qua kinh nghiệm rằng y phải tuân theo lời dạy khôn ngoan hơn đã được truyền cho mình; và ngay khi quyết tâm ấy thực sự trở thành một phần của chính y, một trường tự do hành động rộng lớn hơn mở ra trước mặt.
In this new field in turn he is sure to act wrongly sometimes as well as rightly, so that the same process is repeated again and again, always involving suffering where mistakes have been made. Whatever of “wickedness and degradation” may exist is always the result of the action of men who have used their freewill wrongly, and are in process of learning how to use it rightly, and as soon as that lesson shall have been universally learned all these evil effects will pass away. It is therefore obvious that whatever of evil exists in the world is entirely the doing of its inhabitants, and is in its nature temporary. However terrible and deeply rooted it may seem to us, it cannot possibly be permanent, for it is of the essence of things that it must pass away when its causes are removed. For its existence while it lasts we must blame, not the great First Cause, but ourselves, because we are failing to carry out His plan.Trong lĩnh vực mới này, đến lượt mình, y chắc chắn đôi khi hành động sai cũng như đúng, để rồi cùng một tiến trình lặp lại hết lần này đến lần khác, luôn mang theo đau khổ ở nơi có sai lầm. Bất cứ cái gọi là “tà ác và trụy lạc” nào nếu có mặt, thì luôn là kết quả của hành động của con người—những kẻ đã sử dụng tự do ý chí một cách sai lầm và đang trong quá trình học cách sử dụng nó đúng đắn; và ngay khi bài học ấy được học một cách phổ quát, mọi hậu quả xấu ấy sẽ tiêu tan. Hiển nhiên rằng bất cứ điều ác nào tồn tại trong thế giới đều hoàn toàn do chính cư dân của nó gây ra, và do bản tính của nó chỉ là tạm thời. Dù có vẻ đáng sợ và ăn sâu đến đâu đối với chúng ta, nó không thể vĩnh cửu, vì theo bản chất của sự vật, nó phải tiêu mất khi các nguyên nhân của nó được cất bỏ. Trong thời gian nó còn tồn tại, chúng ta phải tự trách mình—chứ không phải trách Đệ Nhất Nguyên Nhân—bởi vì chúng ta đã thất bại trong việc thực thi Thiên Cơ của Ngài.
We often exhort people to follow the higher course rather than the lower, but I think that the truth is that man always follows the highest about which he is really certain. The difficulty is that in so many cases the higher teaching seems vague and unreal to many people, and so although they profess to believe it, and really think that they do believe it, when it comes to the point of action they find it too vague to trust their lives to it.Chúng ta thường khuyên người ta theo đường cao thượng hơn là thấp hèn; nhưng tôi cho rằng sự thật là con người luôn theo đuổi điều cao nhất mà y thực sự chắc chắn. Khó khăn là ở chỗ, trong quá nhiều trường hợp, giáo huấn cao hơn có vẻ mơ hồ và thiếu thực tại đối với nhiều người; vì thế, dù họ xưng là tin, và thật sự nghĩ rằng họ tin, thì khi đến lúc hành động, họ thấy điều ấy quá mơ hồ để có thể đặt đời mình vào đó.
For example, many people who think themselves religious are yet to be found seeking position and wealth. That attitude would be entirely reasonable if they were materialists and if they did not pretend to believe in anything higher; but when we find a religious man devoted to the pursuit of worldly objects there is clearly something wrong, something illogical. The fact is that he does not really believe in his religion; he is not thoroughly convinced of its truth, for if he were he could not be following after other things. He is following that about which he is really sure; he is quite certain, without the slightest mental reservation, about the desirability of money and power. He knows that he wants these things, and he thinks he knows that if he gets them they will make him happy. Therefore he devotes all his energy and time to their acquisition, and we must remember that in doing that he is at least developing will and perseverance.Thí dụ, nhiều người tự cho là mộ đạo vẫn mải tìm địa vị và của cải. Thái độ ấy sẽ hoàn toàn hợp lý nếu họ là kẻ duy vật và không giả vờ tin vào bất cứ điều gì cao hơn; nhưng khi thấy một người mộ đạo dốc lòng theo đuổi đối tượng thế tục, rõ ràng có điều gì đó sai lệch, thiếu lô-gic. Sự thật là y không thực sự tin tôn giáo của mình; y chưa thâm tín lẽ thật ấy, vì nếu có, y đã không thể chạy theo những thứ khác. Y đang theo đuổi điều mà về nó y thực sự chắc chắn; y hoàn toàn chắc, không chút ngờ vực, về sự đáng mong muốn của tiền tài và quyền lực. Y biết rằng y muốn những thứ ấy, và y tưởng rằng nếu đạt được, chúng sẽ khiến y hạnh phúc. Do đó y dốc hết nghị lực và thời giờ để thủ đắc chúng; và chúng ta cần nhớ rằng, làm như vậy, y ít nhất đang phát triển ý chí và đức kiên trì.
Now if you can in any way manage to make him as sure of the value of the higher things as he is now about the value of pounds, shillings and pence, he will at once turn that will and that perseverance to the service of the higher development, and he will seek after realities with just the same intensity that he is now devoting to the pursuit of shadows. This is precisely what the study of Theosophy will do for him. A man who thoroughly understands Theosophy knows that he is here for a certain purpose, and that it is most emphatically his business to devote himself entirely to the working out of that purpose. He realizes thoroughly that there are things worth doing and aims worth pursuing, and he devotes himself to them with the same avidity which he previously displayed in following the acquisition of money or position.Giờ nếu bằng cách nào đó bạn có thể làm cho y chắc chắn về giá trị của những điều cao thượng như y hiện chắc chắn về giá trị của bảng, shilling và pence, y sẽ lập tức chuyển ý chí và đức kiên trì ấy vào việc phục vụ cho sự phát triển cao hơn, và y sẽ tìm kiếm các thực tại với chính cường độ mà hiện nay y đang dốc vào cuộc truy đuổi những bóng hình. Đây chính là điều mà việc học Thông Thiên Học sẽ làm cho y. Một người thấu hiểu Thông Thiên Học biết rằng y hiện diện nơi đây vì một mục đích nhất định, và rằng điều đặc biệt thuộc về y là phải tự hiến trọn vẹn cho việc hiện thực hoá mục đích ấy. Y thấu triệt rằng có những việc đáng làm và những mục tiêu đáng theo đuổi, và y dốc mình vào chúng với cùng sự háo hức mà trước đây y thể hiện trong việc chạy theo tiền bạc hay địa vị.
But in order to do this it is not sufficient merely to be vaguely interested, merely to read a few books. The man must really believe it, must be thoroughly and utterly convinced of its truth. Now the only way in which this utter conviction can come to a man is by means of realizing some part of it, however small, for himself and at first-hand. Without going so far as that, of course, a man may be intellectually convinced of the truth of the doctrine, and may see that nothing else is logically possible; but there are very few of us who have the strength to act upon such a logical conviction about things entirely beyond our ken; for most of us it is really necessary that at least some small portion of the doctrine, some sample of it, as it were, should be definitely seen and known.Nhưng để làm được điều này, không đủ để chỉ quan tâm một cách mơ hồ, hay chỉ đọc vài cuốn sách. Con người phải thực sự tin, phải hoàn toàn và triệt để được xác tín về chân lý ấy. Mà sự xác tín triệt để này chỉ có thể đến với con người bằng cách tự mình thể nghiệm, dù chỉ một phần rất nhỏ, và trực tiếp. Không đi xa đến mức đó, một người dĩ nhiên vẫn có thể được xác tín về mặt trí năng đối với chân lý của giáo lý, và có thể thấy rằng không còn gì khác hợp lô-gic hơn; nhưng chỉ có rất ít người trong chúng ta đủ sức mạnh để hành động phù hợp với một xác tín lô-gic về những điều hoàn toàn vượt ngoài tầm hiểu biết; đối với đa số chúng ta, thật sự cần thiết là ít nhất một phần nhỏ của giáo lý—một “mẫu” của nó, như thế—phải được nhìn thấy và biết một cách xác thực.
We who were the earlier students felt all this just as keenly as do the students of to-day, and when in those early days of twenty-five or twenty-seven years ago we asked Madame Blavatsky whether it was in any way possible that we could verify any of these things for ourselves she at once replied in the affirmative. She told us that if we chose to take the trouble to develop the requisite faculties we might unquestionably experience for ourselves the truth of a great deal of the teaching. She warned us that the way was long and arduous, and that no one could tell beforehand how long it would take for a man to tread it. But on the other hand she consoled us by saying that the end was absolutely certain, and that it was impossible that any man who started to reach it should fail to attain, though in many cases such attainment might lie, not in this life, but in some other in the future.Chúng tôi—những môn sinh thuở trước—cũng cảm nhận tất cả điều này mạnh mẽ như các môn sinh ngày nay, và khi trong những ngày đầu cách đây hai mươi lăm hay hai mươi bảy năm, chúng tôi hỏi Bà Blavatsky liệu có thể bằng cách nào đó tự mình kiểm chứng một vài điều này chăng, Bà lập tức trả lời khẳng định. Bà nói với chúng tôi rằng nếu chúng tôi chịu khó phát triển những năng lực cần thiết, chúng tôi hẳn nhiên có thể tự mình thể nghiệm chân lý của nhiều phần trong giáo huấn. Bà cảnh báo chúng tôi rằng con đường thì dài và gian nan, và không ai có thể biết trước một người sẽ cần bao lâu để bước trọn nó. Nhưng mặt khác, Bà an ủi chúng tôi rằng cái đích thì hoàn toàn chắc chắn, và không thể có chuyện ai đã khởi hành mà lại không tới đích, dẫu trong nhiều trường hợp, sự đạt đến ấy có thể không thuộc về đời này, mà thuộc về một đời nào khác trong tương lai.
This was encouraging in one way, and yet somewhat daunting in another way; but at any rate a certain number of us took her at her word and threw ourselves heart and soul into the endeavour to live the life which was prescribed for us, and to do the work that lay before us. The degrees of our success were very varied, but of all of those who made this effort and persevered with it I think I may say that there was not one who did not obtain some result—enough at any rate to show him that what he had been told was true, and that if the progress which he made was smaller than he had hoped, the fault lay clearly with himself and not with the teachers.Điều này theo một nghĩa nào đó thì khích lệ, nhưng theo nghĩa khác thì cũng có phần khiến chùn bước; tuy vậy, dù sao đi nữa, một số nhất định trong chúng tôi đã tin lời Bà và dốc cả tâm lực vào nỗ lực sống đời sống đã được chỉ dạy cho chúng tôi, và làm phần việc đặt trước mặt. Mức độ thành công của chúng tôi rất khác nhau, nhưng trong số tất cả những người đã nỗ lực và kiên trì ấy, tôi nghĩ có thể nói rằng không một ai là không đạt được điều gì—ít nhất cũng đủ để cho y thấy rằng những điều y được dạy là chân thực, và rằng nếu sự tiến bộ y đạt được ít hơn y kỳ vọng, thì lỗi rõ ràng ở chính y chứ không phải ở các vị thầy.
There were those among us, however, who succeeded in verifying for ourselves a large number of the statements made by the Masters—first of all only in a small way, with regard to ourselves, our vehicles, our possibilities, and with regard to the astral life which immediately surrounds us. Then later on by long continued and more strenuous effort we developed the faculties of the mental body, and began for the first time really to understand what had been written for us about the life of the heaven-world. All this at first we had hopelessly misunderstood, because with the faculties then at our disposal we were actually incapable of comprehending it. By a strenuous further effort we reached the faculties of the causal body, and then the world of comparative realities began really to open before us.Tuy nhiên, ở giữa chúng tôi có những người đã thành công trong việc tự mình kiểm chứng một số lượng lớn các mệnh đề do các Chân sư truyền dạy—trước hết, ở mức độ nhỏ, liên hệ đến chính chúng tôi, các hiện thể của chúng tôi, các khả năng của chúng tôi, và liên hệ đến đời sống cảm dục ngay chung quanh. Rồi về sau, nhờ nỗ lực lâu dài và mãnh liệt hơn, chúng tôi phát triển được các năng lực của thể trí, và lần đầu tiên thực sự hiểu những gì đã được viết cho chúng tôi về đời sống của cõi thượng thiên. Tất cả điều này ban đầu chúng tôi đã hiểu lầm đến tuyệt vọng, bởi vì với những năng lực đang có khi ấy, chúng tôi thực sự bất lực trong việc lãnh hội. Bằng một nỗ lực ráo riết hơn nữa, chúng tôi vươn tới các năng lực của thể nguyên nhân, và rồi thế giới của các thực tại tương đối mới thật sự mở ra trước mắt.
We were able then to read the records of the part, and to see from them with absolute certainty how the great scheme of the LOGOS is slowly unfolding itself and working itself out by means of successive births under the guidance of the great laws of evolution and cause and effect. We could see clearly then that we were unquestionably ourselves a part of this great scheme, and therefore it followed that it was alike our duty, our advantage, our privilege, to throw ourselves into scheme and co-operate intelligently in its fulfillment. There was then no doubt for us about the fact of the great evolution and the future of humanity, for it was clear to us that we had risen through the lower Kingdoms, and we could see many stages both below us and above us; all the various stages of human life arranged themselves for us as steps upon a ladder; we could see these steps stretching up and down from the point which we ourselves occupied, and there were being upon every rung of that ladder, beings who were clearly engaged in climbing it.Khi ấy chúng tôi có thể đọc các ghi chép của quá khứ, và từ đó thấy với xác tín tuyệt đối cách đại đồ của Thái dương Thượng đế đang từ từ khai unfold và tự vận hành qua các lần tái sinh tiếp nối, dưới sự hướng dẫn của các Định luật vĩ đại của tiến hoá và nhân quả. Chúng tôi thấy rõ rằng chính chúng tôi không nghi ngờ gì nữa là một phần của đại đồ ấy; vì thế, tất yếu suy ra rằng đó là bổn phận, là lợi ích, là đặc ân của chúng tôi—tự hiến thân vào đại đồ ấy và cộng tác một cách thông tuệ trong sự thành tựu của nó. Khi ấy đối với chúng tôi, không còn nghi ngờ gì về thực tại của đại tiến hoá và tương lai của nhân loại, bởi lẽ rõ ràng chúng tôi đã từ các giới thấp vươn lên; chúng tôi có thể thấy nhiều nấc thang ở cả dưới và trên mình; mọi giai đoạn khác nhau của đời sống nhân loại hiện ra đối với chúng tôi như những bậc thang; chúng tôi thấy những bậc thang ấy trải dài lên và xuống từ vị trí mà chính chúng tôi đang đứng, và có các chúng sinh trên mỗi bậc của chiếc thang ấy, rõ ràng đang chuyên chú trèo lên.
The Masters who seemed to us to stand at its summit assured us that They were men like ourselves, and that They had passed through the stage where we were now standing; between us and Them there was no break in the continuity, for every step of the ladder was occupied, and we ourselves watched the progress of some of those higher than we from one of these steps to another. When through custom the wonderful light of the higher planes grew less dazzling to us, we were able to see that even beyond the stupendous level occupied by the Masters there arose still greater heights. Above Them stood Manus, Christs, Buddhas, Lipika, great Devas, Dhyan Chohans, and many others of whom we can know nothing except that They exist, and that They, even at Their ineffable elevation, form part of the same mighty chain.Các Chân sư, những Đấng đối với chúng tôi dường như đứng trên đỉnh thang, đảm bảo với chúng tôi rằng Các Ngài cũng là những con người như chúng tôi, và rằng Các Ngài đã đi qua giai đoạn nơi chúng tôi hiện đang đứng; giữa chúng tôi và Các Ngài không hề đứt đoạn, vì mọi bậc thang đều có người đứng, và chính chúng tôi đã từng chứng kiến một vài vị cao hơn chúng tôi tiến từ bậc này sang bậc khác. Khi vì đã quen, ánh sáng kỳ diệu của các cõi cao bớt chói lòa đối với chúng tôi, chúng tôi có thể thấy rằng ngay ở bên trên cấp độ hùng vĩ nơi Các Chân sư cư trú, vẫn còn những đỉnh cao hơn nữa. Trên Các Ngài là các vị Manu, các Đức Christ, các Đức Phật, các Lipika, các đại Thiên thần, các Dhyan Chohan, và nhiều Đấng khác nữa mà chúng ta không thể biết gì ngoài sự hiện hữu của Các Ngài, và rằng chính Các Ngài, dù ở cảnh giới bất khả tư nghị của mình, cũng là một phần trong cùng một chuỗi vĩ đại.
The whole of the past lies before us; we know the halting-places on the road, and the side-paths that branch off from it, and therefore we are justified in our confidence that where these great ones now stand we also shall one day stand. Seeing and understanding the inevitableness of our destiny, we also realize that it will be quite useless to endeavour to resist it. Progress is the law marked out for us. In progress only is our happiness and our safety. As regards the progress that lies before us in this particular chain of worlds the great majority of us are by no means yet what is technically called “safe” or “saved.” We reach that desirable position only when we have become members of the Great Brotherhood which lasts from eternity to eternity, by passing the first of the great initiations, that of the Sotapatti or Srotapanna, the man who enters upon the stream.Toàn bộ quá khứ nằm mở ra trước mắt chúng tôi; chúng tôi biết các chặng dừng trên đường, và các lối rẽ tách ra từ đó, và vì vậy chúng tôi có đầy đủ lý do để tin chắc rằng nơi các Đấng Vĩ Đại hiện đứng, một ngày kia chúng tôi cũng sẽ đứng. Thấy và hiểu tính tất yếu của định mệnh mình, chúng tôi cũng nhận ra rằng chống cưỡng lại là hoàn toàn vô ích. Tiến bộ là định luật được vạch cho chúng ta. Chỉ trong tiến bộ mới có hạnh phúc và an toàn của chúng ta. Xét về tiến bộ còn nằm trước mặt chúng ta trong chuỗi thế giới đặc thù này, đa số chúng ta tuyệt nhiên chưa đạt đến điều mà theo thuật ngữ chuyên môn gọi là “an toàn” hay “được cứu rỗi”. Chúng ta chỉ đạt được vị thế đáng ước mong ấy khi trở thành thành viên của Đại Huynh đệ Đoàn tồn tại từ vĩnh cửu đến vĩnh cửu, bằng cách vượt qua lần đầu trong các đại điểm đạo—Sotapatti hay Srotapanna—người nhập lưu.
To have taken that step is to have achieved the most important result, to have passed the most critical point in the whole of human evolution. For in the course of that evolution three points stand out beyond all others. The first is the entrance upon humanity, the attainment of individuality, the gaining of a causal body, the becoming a definite and apparently separate ego. To gain this individuality was the aim of the animal evolution, and its development serves a very definite purpose. The object is to make a strong individual centre, through which eventually the force of the LOGOS can be poured out. When this centre is first formed it is only a baby ego, still but weak and uncertain; in order that it may become strong and definite it has to be fenced round by the intense selfishness of the savage. For many lives a strong wall of selfishness has to be maintained, in order that within it the centre may grow more and more definite.Bước được bước ấy là đạt thành quả quan trọng nhất, vượt qua điểm then chốt nhất của toàn bộ tiến hoá nhân loại. Trong tiến trình tiến hoá đó, có ba điểm nổi bật trội hẳn lên trên tất cả. Điểm thứ nhất là nhập nhân loại, đạt cá tính riêng biệt, có được thể nguyên nhân, trở thành một chân ngã rõ rệt và dường như riêng rẽ. Đạt cá tính này là mục tiêu của tiến hoá thú vật, và sự phát triển ấy phục vụ một mục đích hết sức xác định. Mục đích là kiến lập một trung tâm cá thể mạnh mẽ, qua đó rốt cuộc năng lực của Thái dương Thượng đế có thể được tuôn đổ. Khi trung tâm này mới được hình thành, nó chỉ là một chân ngã bé nhỏ, hãy còn yếu ớt và chưa chắn chắn; để nó trở nên mạnh và xác định, nó phải được vây bọc bởi tính vị kỷ mãnh liệt của kẻ man dã. Trong nhiều đời, một bức tường vị kỷ dày đặc phải được duy trì, để bên trong nó, trung tâm ấy có thể ngày càng trở nên rõ rệt hơn.
We may regard this selfishness as a kind of scaffolding, which is absolutely necessary for the erection of the building, but must be destroyed as soon as the building is completed, in order that it may be able to subserve the purpose for which it was erected. The scaffolding is unbeautiful, and if it were left after the building is finished it would make it uninhabitable, and yet without it the building could not have been achieved. The object of the creation of the centre is that through it the force of the LOGOs should radiate out upon the world, and such radiation would be quite impossible if the selfishness persisted, and yet without that selfishness a strong centre could never have been made. We see therefore that this most unlovely of qualities has its place in evolution. Now for us its work is over, and we ought to have got rid of it. But it is useless to be angry with the ordinary man for his selfishness, since it simply means that what was in the savage a necessary virtue is still persisting into the civilized condition. In point of fact the selfish man is an anachronism, a survival of prehistoric savagery. He is hopelessly behind the times.Chúng ta có thể coi tính vị kỷ này như một kiểu giàn giáo, hoàn toàn cần thiết cho việc dựng nên toà nhà, nhưng phải được dỡ bỏ ngay khi toà nhà hoàn tất, để nó có thể phụng sự mục đích vì đó mà nó được dựng lên. Giàn giáo không đẹp mắt, và nếu để lại sau khi toà nhà đã hoàn thành, nó sẽ khiến toà nhà không thể ở được; thế nhưng, không có nó, toà nhà đã chẳng thể được xây dựng. Mục đích của việc kiến lập trung tâm là để qua đó năng lực của Thái dương Thượng đế tuôn chiếu ra thế gian; và sự tuôn chiếu như vậy hoàn toàn bất khả nếu tính vị kỷ còn tồn tại; tuy nhiên, không có tính vị kỷ ấy, một trung tâm mạnh mẽ đã chẳng thể được tạo thành. Do đó, chúng ta thấy rằng phẩm chất kém đẹp đẽ nhất này cũng có chỗ đứng trong tiến hoá. Nay đối với chúng ta, công việc của nó đã xong, và chúng ta đáng lẽ đã phải loại bỏ nó. Nhưng nổi giận với người bình phàm vì tính vị kỷ của họ là vô ích, vì điều ấy đơn giản có nghĩa là điều từng là một đức tính cần thiết với kẻ man dã vẫn còn kéo dài vào tình trạng văn minh. Thực tế, kẻ vị kỷ là một lạc thời tố, một tàn dư của tính dã man tiền sử. Hắn tuyệt vọng lạc hậu so với thời đại.
How then is such a man to make himself unselfish, to bring himself abreast of the advancing current of evolution? The methods adopted by nature to secure this end are many and various, but they are all fundamentally one. For what is necessary is that the man shall realize the unity of all. And often he does this by gradually enlarging the self of which he thinks. Instead of thinking of himself as the unit he begins to regard the family as the unit for which he is working, and within its limits he gradually becomes unselfish. Presently he expands his ideas to include the tribe or clan to which he belongs, and he learns to be unselfish within its limits, while still absolutely selfish and even predatory to all who are outside it, whom he usually regards as natural enemies. Later on in his history he extends his ideas so as to include, in certain respects at least, the nation to which he belongs.Vậy người như thế phải làm sao để khiến mình vô tư, để theo kịp dòng tiến triển của tiến hoá? Các phương thức thiên nhiên dùng để đạt mục tiêu này thật nhiều và đa dạng, nhưng về cơ bản đều là một. Điều cần thiết là con người phải nhận ra sự nhất thể của vạn hữu. Và y thường làm điều này bằng cách dần mở rộng cái “tôi” mà y nghĩ đến. Thay vì nghĩ về mình như một đơn vị, y bắt đầu xem gia đình như đơn vị mà mình làm việc vì nó; và trong giới hạn ấy, y dần trở nên vô tư. Liền đó, y mở rộng quan niệm để bao gồm bộ tộc hoặc thị tộc mà y thuộc về, và y học cách vô tư trong phạm vi của nó, trong khi vẫn hoàn toàn vị kỷ và thậm chí ưa xâm lấn đối với tất cả những ai ở bên ngoài, những kẻ mà y thường coi là kẻ thù tự nhiên. Lâu hơn nữa trong lịch sử của mình, y mở rộng quan niệm để bao gồm, chí ít trong vài phương diện, quốc gia mà y thuộc về.
It is somewhere in the course of that stage of transition that the majority of humanity stand at the present moment. In almost all minor matters the ordinary man is still fighting for his family against the interests of all other families, but in a few wider matters he recognizes that his interests are identical with those of those other families, and so in those matters he develops what he calls patriotism and national feeling; but even in those matters he is still absolutely selfish as regards all those other families who happen to speak different languages and to be born in different climes. At some time in the future the average man will extend his ideas of self to include the whole of humanity, and then at last we may say that he has become by slow degrees unselfish.Vào một giai đoạn chuyển tiếp nào đó tương tự như vậy mà đa số nhân loại đang đứng vào lúc hiện nay. Trong hầu như mọi việc nhỏ, người thường vẫn còn chiến đấu cho gia đình mình chống lại quyền lợi của mọi gia đình khác; nhưng trong một vài việc rộng lớn hơn, y nhận ra rằng quyền lợi của y đồng nhất với quyền lợi của các gia đình khác ấy, và vì vậy trong những việc ấy, y phát triển điều y gọi là chủ nghĩa ái quốc và tình cảm dân tộc; nhưng ngay cả trong những việc ấy, y vẫn hoàn toàn vị kỷ đối với tất cả những gia đình khác nói ngôn ngữ khác và sinh ra ở các xứ sở khác. Tới một lúc nào đó trong tương lai, người trung bình sẽ mở rộng quan niệm về cái “tôi” của mình để bao gồm toàn thể nhân loại; và rồi cuối cùng, chúng ta có thể nói rằng y đã dần dần trở nên vô tư.
While he is thus learning to take a wider view of his relation to others, he is also learning something with regard to himself. First he realizes that he is not his physical body, later that he is not his feelings, and further on still that he is not even his mind. This brings him eventually to the realization that he is the ego or soul, and still later on he realizes that even that ego is only apparently separate, and that there is in reality but one transcendant unity.Trong khi học cách có một cái nhìn rộng hơn về quan hệ của mình với người khác, y cũng đang học một điều gì đó liên quan đến chính mình. Thoạt đầu, y nhận ra rằng y không phải là thể xác; sau đó, y nhận ra rằng y không phải là cảm xúc; và xa hơn nữa, rằng y thậm chí không phải là trí. Điều này rốt cuộc đưa y đến nhận thức rằng y là chân ngã hay linh hồn; và lâu dần hơn nữa, y nhận ra rằng ngay cả chân ngã ấy cũng chỉ là riêng rẽ một cách bề ngoài, và rằng trong thực tại chỉ có một Nhất thể siêu việt.
Thus the man treads the weary round of the seven hundred and seventy-seven incarnations, a time of slow and painful progress and of harrowing uncertainty, but at last after all those struggles the uncertainty ends with that plunge into the stream that makes the man safe forever, and so that is the second and still more important point in his evolution. But before he can take this step the man must have learned consciously to co-operate with nature, he must definitely have taken his own evolution in hand. The knowledge of the unity which makes him unselfish also makes him desire to be useful, for it gives him an incentive to study and to perfect himself—a reason for his actions and a criterion by which he can judge the feelings and thoughts within him, and also the value of all with which he comes into contact.Như thế, con người đi vòng mệt mỏi qua bảy trăm bảy mươi bảy lần lâm phàm—một thời kỳ tiến bộ chậm chạp, đau đớn và bất trắc dằn vặt—nhưng cuối cùng, sau tất cả những vật lộn ấy, sự bất trắc chấm dứt bằng cú “nhập lưu” khiến con người vĩnh viễn an ổn; và đó là điểm thứ hai, còn quan trọng hơn nữa, trong tiến hoá của y. Nhưng trước khi có thể bước sang chặng này, con người phải học cách cộng tác một cách có ý thức với thiên nhiên, phải dứt khoát tự nắm lấy tiến hoá của chính mình. Tri thức về Nhất thể khiến y vô tư cũng khiến y ước muốn hữu ích, bởi nó ban cho y một động lực để học hỏi, để hoàn thiện bản thân—một lý do cho các hành động của y, một tiêu chuẩn để y có thể phán đoán các cảm xúc và tư tưởng trong y, và cả giá trị của tất cả những gì y tiếp xúc.
How then must he begin this work of perfecting himself? Obviously he must first pull up the weeds, that is to say he must eliminate one by one the undesirable qualities which he finds in himself; then he must seek the good qualities and cultivate them. He must definitely set himself to practise helpfulness, even although at first he may be very clumsy in the unaccustomed work. The formation of character is very slow and tedious for him, for there are many forces arrayed against his efforts, forces which he himself has made in the past. He has for many years been yielding himself to the sway of certain undesirable qualities, and so they have gained a great momentum.Vậy y phải khởi sự công cuộc hoàn thiện bản thân như thế nào? Rõ ràng trước hết y phải nhổ sạch cỏ dại—nghĩa là loại bỏ từng điều một các phẩm chất bất thiện mà y nhận thấy nơi mình; rồi y phải tìm các phẩm chất tốt và vun trồng chúng. Y phải dứt khoát tập luyện đức hữu ích, dù lúc đầu có thể rất vụng về trong công việc chưa quen. Việc lập hạnh đối với y diễn ra rất chậm và mệt nhọc, bởi có nhiều lực lượng giàn trận chống lại nỗ lực của y—những lực lượng do chính y tạo ra trong quá khứ. Suốt nhiều năm y đã buông mình theo quyền lực của một số phẩm chất bất thiện, và vì thế chúng đã tích luỹ được một đà rất lớn.
Take the case of such a vice as irritability, for example. He has in the past been in the habit of yielding himself to outbursts of anger, and every such outburst makes it more difficult for him to control himself on the next occasion; so a strong habit has been set up, a vast amount of energy moving in that direction has been accumulated. This is stored up, not in the ego as an inherent quality, but in the permanent astral atom; and when he realizes the inadvisability of anger and sets himself against it he has to meet this store of force which he himself has generated during many past lives. Naturally he finds his task a difficult one, and he meets with many failures and discouragements; but the important thing for him to bear in mind is that however many times he may fail, victory is absolutely a scientific certainty, if only he will persevere.Hãy lấy ví dụ như tật dễ cáu kỉnh. Trước đây y quen buông mình theo những cơn bừng bừng giận dữ, và mỗi cơn như thế lại khiến y khó tự chủ hơn vào lần sau; thế là một thói quen mạnh mẽ đã hình thành, một lượng lớn năng lượng chuyển động theo chiều hướng ấy đã được tích lũy. Năng lượng này không được cất chứa trong chân ngã như một phẩm chất cố hữu, mà ở trong Nguyên tử trường tồn của thể cảm dục; và khi y nhận ra sự bất lợi của cơn giận rồi quyết chí chống lại nó, y phải đối mặt với kho lực do chính y tích chứa suốt nhiều đời. Tự nhiên y thấy nhiệm vụ của mình thật khó, và gặp nhiều thất bại, nản lòng; nhưng điều quan trọng y phải ghi nhớ là, bất kể thất bại bao nhiêu lần, chiến thắng tuyệt đối là một tất yếu theo khoa học, miễn là y kiên trì.
However great the amount of force may be which he has stored up, it must be a finite amount, and every effort which he makes against it reduces it by just so much. But on his side there is a force which is infinite; if only his will is strong enough he can go on, if necessary through many lives, steadily renewing the force for good with which he combats the evil, and behind him in that effort is the infinite force of the LOGOS Himself, because that evolution is in accordance with His will. Until the man grasps the idea of unity he has no adequate motive for undertaking the hard and distasteful work of character-building, but when he has seen the necessity of this, the reason for trying is just as valid even though he has failed a thousand times as it was in the beginning. No number of failures can daunt the man who understands the scheme, just because he knows that however great the struggle may be the forces of infinity are on his side, and therefore in the end he cannot fail.Dẫu lượng lực mà y đã tích trữ có lớn đến đâu, nó nhất quyết vẫn là hữu hạn; và mỗi nỗ lực y làm để chống lại nó đều làm giảm nó đúng bằng chừng ấy. Còn về phía y, có một năng lực là vô hạn; nếu ý chí y đủ mạnh, y có thể tiếp tục, nếu cần thì qua nhiều đời, bền bỉ bổ sung lực thiện để đối chọi với ác lực; và hậu thuẫn sau y trong nỗ lực ấy là năng lực vô hạn của chính Thái dương Thượng đế, bởi vì tiến hoá đó phù hợp với Ý Chí của Ngài. Cho đến khi con người nắm lấy ý niệm về Nhất thể, y không có động cơ thích đáng để dấn mình vào công việc gian nan và khó ưa của việc lập hạnh; nhưng một khi y đã thấy nhu cầu của điều này, thì lý do để cố gắng vẫn nguyên giá trị, dẫu y đã thất bại đến cả nghìn lần như lúc ban đầu. Không số lần thất bại nào có thể làm nản lòng người hiểu Thiên Cơ, đơn giản vì y biết rằng, dẫu chiến đấu có gay go đến đâu, các lực lượng của vô hạn đang đứng về phía y, và vì thế cuối cùng y không thể thất bại.
To be certain of remembering this purpose of his from life to life he should raise his consciousness to the ego; but during the stages when he is as yet incapable of this he will nevertheless impress that purpose upon the permanent atoms, and so it will be carried over with them from life to life. If the ego can be reached, the man will be born with the knowledge inherent in him; if he can only impress the permanent atoms, the knowledge will not actually be born with him as part of his stock-in-trade, but the moment that it comes before him in any form in his next incarnation he will immediately recognize its truth, seize upon it, and act accordingly. This steady practice of virtue and this persistent increase of knowledge will certainly lead him to the gate of the probationary path, and through that to the great initiation of which we have spoken.Để chắc chắn ghi nhớ mục đích ấy từ đời này qua đời khác, y nên nâng tâm thức của mình lên đến chân ngã; nhưng trong những giai đoạn khi y chưa thể làm điều đó, y vẫn có thể in khắc mục đích ấy vào các nguyên tử trường tồn, để nó được mang theo với chúng từ đời này sang đời khác. Nếu có thể chạm đến chân ngã, con người sẽ sinh ra với tri thức như một phần cố hữu trong y; nếu y chỉ có thể in khắc vào các nguyên tử trường tồn, tri thức ấy sẽ không thực sự sinh cùng với y như một phần trong vốn liếng sẵn có; nhưng ngay khoảnh khắc tri thức ấy hiện ra trước y dưới bất cứ dạng nào trong kiếp sống kế tiếp, y sẽ lập tức nhận ra chân lý của nó, nắm lấy nó, và hành động theo đó. Sự thực hành đức hạnh một cách bền bỉ và việc gia tăng tri thức một cách liên tục sẽ chắc chắn dẫn y đến cửa của Con Đường Dự Bị, và qua đó đến đại điểm đạo mà chúng ta đã nói.
After that initiation the third point is sure to follow—the gaining of the further shore of that stream, in the attainment of adeptship, when the man leaves the merely human evolution and enters upon that which is superhuman. We are told that after a man has entered upon the stream it takes him an average of seven incarnations to reach the fourth step, that of the arhat, the noble, the venerable, the perfect. That period is more often lengthened than shortened, and the lives are usually taken without an intervening stage in the heaven-world. Ordinarily it is only men of this stage who are able thus to dispense with or renounce the life of the heaven-world.Sau điểm đạo ấy, điểm thứ ba chắc chắn sẽ theo sau—việc đạt bờ bên kia của dòng lưu, tức thành tựu địa vị chân sư, khi con người rời khỏi tiến hoá thuần nhân loại và bước vào tiến hoá siêu nhân loại. Người ta được dạy rằng, sau khi con người đã nhập lưu, y cần trung bình bảy lần lâm phàm để đạt đến bước thứ tư—A-la-hán—bậc cao quý, khả kính, viên mãn. Khoảng thời gian này thường dài thêm hơn là rút ngắn, và những kiếp sống ấy thường được đảm nhận mà không qua giai đoạn nghỉ ở cõi thượng thiên. Thông thường, chỉ những ai ở giai đoạn này mới có thể như thế—có thể miễn hoặc từ bỏ đời sống cõi thượng thiên.
At the same time those who are so happy as to be chosen to take part in the noble task for which the great Masters are preparing us, that of working under the Manu in charge of the development of the sixth root-race, will certainly need many successive incarnations without any intervening periods of celestial rest. The possibility of this is however conditioned by the rule that a man must have experienced celestial consciousness before he can renounce the heaven-life; and furthermore it is not in the least merely a question of voluntarily renouncing a reward, but of being sufficiently advanced to dispense for a time with that part of evolution which for the majority comes most usually in the heaven-life.Đồng thời, những ai hạnh phúc được chọn tham dự vào công việc cao quý mà các Đại Chân sư đang chuẩn bị cho chúng ta—đó là làm việc dưới quyền vị Manu phụ trách việc phát triển Giống dân gốc thứ sáu—ắt hẳn sẽ cần nhiều kiếp liên tiếp không có các khoảng nghỉ thiên giới ở giữa. Tuy nhiên, khả năng này còn chịu điều kiện bởi quy luật rằng con người phải kinh nghiệm tâm thức thượng thiên trước khi có thể từ bỏ đời sống thiên giới; hơn nữa, điều này hoàn toàn không chỉ là tự nguyện từ bỏ một phần thưởng, mà là việc đủ tiến bộ để tạm thời miễn qua phần của tiến hoá vốn đối với đa số thường diễn ra trong đời sống thiên giới.
When he stands upon the step of arhatship half his path from the first initiation to adeptship may be said to have been trodden, for he has then cast off five of the ten great fetters which hold men back from nirvana. Before him lies the task of casting off the remaining five, and for that also an average of seven incarnations is allowed, but it must be understood that this average is in no sense a rule, for many men take much longer than this, whereas others with greater determination and perseverance move through these initiations in very much less time. A case has been known in which, by beginning very early in life, and by working very hard, a man has been able to take all four of the great initiations in one incarnation, but this is excessively rare, and not one in ten thousand candidates could do it.Khi y đứng trên nấc A-la-hán, có thể nói rằng nửa chặng đường từ lần điểm đạo thứ nhất đến địa vị chân sư đã được đi qua, vì khi ấy y đã cởi bỏ năm trong mười xiềng xích lớn trói buộc con người khỏi niết-bàn. Trước mặt y là nhiệm vụ cởi bỏ năm xiềng còn lại; và cho việc này cũng cho phép trung bình bảy kiếp, nhưng cần hiểu rằng con số trung bình này không phải là quy luật, vì nhiều người mất thời gian lâu hơn nhiều, trong khi những người khác, với quyết tâm và kiên trì lớn hơn, đi qua các lần điểm đạo ấy trong thời gian ngắn hơn rất nhiều. Có trường hợp được biết đến, trong đó, bằng cách khởi sự rất sớm trong đời và làm việc rất miệt mài, một người đã có thể vượt qua cả bốn đại điểm đạo trong một kiếp, nhưng điều này cực kỳ hiếm hoi, và không một trong mười nghìn ứng viên có thể làm được.
It will be remembered that to stand at the level of the arhat involves the power fully to use the buddhic vehicle, and it will also be remembered that when a man raises himself into his buddhic body the causal body vanishes, and he is under no compulsion whatever ever to re-form it. Clearly therefore the seven lives which remain to him before he reaches the level of adeptship need not involve a descent to the physical plane at all, and therefore they may not be what we ordinarily mean by incarnations. Nevertheless in the great majority of cases they are taken upon the physical plane, because the man has work to do upon that plane for the Great Brotherhood.Cần nhớ rằng đứng ở cấp độ A-la-hán bao hàm năng lực sử dụng trọn vẹn hiện thể Bồ đề; và cũng cần nhớ rằng khi một người nâng mình lên hiện thể Bồ đề, thể nguyên nhân tiêu biến, và y hoàn toàn không bị cưỡng bách phải tái tạo nó. Rõ ràng vì vậy bảy đời còn lại trước khi y đạt địa vị chân sư không nhất thiết đòi hỏi phải giáng hạ vào cõi hồng trần, và do đó chúng có thể không phải là điều mà thông thường chúng ta gọi là các lần lâm phàm. Tuy nhiên, trong đại đa số trường hợp, chúng vẫn được đảm nhận nơi cõi hồng trần, bởi vì con người có công tác phải làm trên cõi ấy cho Đại Huynh đệ Đoàn.
The candidate spends these fourteen lives in passing through the different stages of the Path of Holiness, and in acquiring all the qualifications which are described in detail in the concluding chapters of Invisible Helpers. One who becomes a disciple of one of our Masters takes always, not the path to selfish liberation—the mere balancing of good and evil karma and the vanishing of all desire, so that the man is no longer forced back into rebirth—but the path of renunciation in which, having seen the scheme of the LOGOS, the man throws himself into it and lives only to promote the advancement of his fellow-men.Ứng viên trải qua mười bốn kiếp ấy để vượt qua các giai đoạn khác nhau của Con Đường Thánh Đức, và để thành tựu mọi phẩm tính được mô tả chi tiết trong các chương kết của Những Người Trợ Giúp Vô Hình. Người trở thành đệ tử của một trong các Chân sư của chúng ta luôn chọn, không phải con đường giải thoát vị kỷ—chỉ cân bằng nghiệp quả thiện-ác và diệt mất toàn bộ dục vọng, khiến con người không còn bị bắt buộc tái sinh—mà là Con Đường Từ Bỏ, trong đó, sau khi đã thấy được đại đồ của Thái dương Thượng đế, con người hiến mình vào đó và sống chỉ để thúc đẩy sự tiến bộ của đồng loại.
This has been called “The Path of Woe” because of the constant self-sacrifice which it involves, but in truth this title is somewhat of a misnomer, because although it is true that there is suffering, it is always a suffering of the lower and not of the higher, and if the man should avoid such suffering by supineness or idleness, and leave undone the work which he might have done, there would assuredly be much greater suffering for him at a far higher level, in the shape of remorse. Such suffering as is inevitable in this path arises from the fact that the student is striving to do here and now in the fourth round what will be natural and easy in the seventh round. All our vehicles then will be much more developed, and even the very material of which they are built will be in an entirely different condition, because the physical atom will then have all its seven spirillae active instead of only four of them. Therefore to force our present undeveloped vehicles to do work which will be comparatively easy for those which in millions of years will be fully developed, involves a great deal of strain, and this strain is necessarily productive of a certain amount of suffering.Con đường này đã được gọi là “Con Đường Bi Sầu” vì sự tự hy sinh liên tục mà nó đòi hỏi; nhưng thật ra danh xưng ấy có phần không thật xác, vì dẫu có khổ đau, đó luôn là khổ đau của phần thấp chứ không phải của phần cao; và nếu con người lẩn tránh khổ đau ấy bằng sự nhu nhược hay biếng nhác, bỏ qua công việc lẽ ra mình có thể làm, thì sẽ chắc chắn có một nỗi khổ còn lớn hơn đối với y ở một cấp độ cao hơn—dưới hình thức ăn năn hối hận. Mọi khổ đau tất yếu trong con đường này phát sinh từ sự thật rằng người học đạo đang cố gắng làm ngay bây giờ, trong cuộc tuần hoàn thứ tư, những điều sẽ là tự nhiên và dễ dàng trong cuộc tuần hoàn thứ bảy. Khi ấy các hiện thể của chúng ta sẽ phát triển hơn nhiều, và ngay cả chất liệu cấu thành chúng cũng ở trong một tình trạng hoàn toàn khác, bởi vì nguyên tử hồng trần khi đó sẽ có đủ cả bảy xoắn tuyến hoạt hoá, thay vì chỉ có bốn như bây giờ. Do đó, bắt ép các hiện thể hiện tại còn chưa phát triển của chúng ta phải làm công việc sẽ tương đối dễ dàng đối với các hiện thể sẽ hoàn toàn phát triển trong hàng triệu năm tới, tất nhiên hàm ý một mức độ căng thẳng lớn lao, và căng thẳng này tất yếu sản sinh một lượng khổ đau nhất định.
It is analogous to the suffering and privation which is cheerfully undergone by an athlete when he puts himself in training. If he wishes to compete in some great race or trial of strength, he must make his physical body do more than it would naturally do, and deny it many things which it greatly likes, the absence of which unquestionably causes it considerable discomfort, and perhaps even somewhat of positive suffering. Yet for the purpose which he has in view the athlete quite cheerfully undergoes this; indeed if, for the sake of avoiding these comparatively slight temporary discomforts, he should put aside the opportunity of taking part in the race or contest, it is quite likely that afterwards when he saw his comrades passing onward to victory he would feel a remorse for that self-indulgence, which would involve keener suffering on a higher plane. The analogy holds good in reference to the efforts necessary to progress along the path of renunciation; the man who fell aside from that path because of its difficulties and hardships would undoubtedly suffer far more in the long run from remorse when he saw those of his fellow-creatures going unhelped whom he might have aided, when he saw misery among them which he knew that he might have relieved if he had been less self-indulgent.Điều này tương tự như nỗi khổ và sự thiếu thốn mà một lực sĩ vui lòng chịu đựng khi y tự rèn luyện. Nếu y muốn tranh tài trong một cuộc đua lớn hay một phép thử sức mạnh, y phải bắt cơ thể làm nhiều hơn điều nó tự nhiên muốn, và từ khước cho nó nhiều thứ nó rất ưa thích, sự vắng mặt của chúng chắc chắn gây cho cơ thể nhiều khó chịu, thậm chí có thể là khổ đau thật sự. Thế nhưng vì mục đích y đã đặt ra, lực sĩ hoàn toàn vui lòng chịu đựng; thật vậy, nếu chỉ để tránh các bất tiện tạm thời khá nhẹ ấy mà y gạt bỏ cơ hội tham dự cuộc đua hay cuộc thi, rất có thể sau này khi thấy bằng hữu của mình tiến tới chiến thắng, y sẽ cảm thấy hối hận vì sự nuông chiều bản thân, một nỗi buồn chắc chắn còn gay gắt hơn ở một bình diện cao hơn. Sự tương tự này đúng khi nói về những nỗ lực cần thiết để tiến bước trên Con Đường Từ Bỏ; người rơi khỏi con đường ấy vì những khó khăn và gian khổ của nó chắc chắn về lâu dài sẽ chịu khổ hơn nhiều bởi ăn năn, khi y thấy những đồng loại mình vẫn không được trợ giúp—những người mà y lẽ ra đã có thể trợ giúp; khi y thấy giữa họ có khốn khổ mà y biết rằng y đã có thể làm vơi đi nếu y bớt vị kỷ.
There is never any pain to the Self, but only to these lower vehicles, when they are being prematurely adapted. A good analogy may be taken from the growth of crabs and other crustaceans. These creatures have their bones outside for protection, in the form of a shell, while our bones are inside, in the form of a skeleton. A fatal objection to the crustacean scheme is that when the creature grows it has to burst the shell and then wait for another one to grow, which must be both a painful and inconvenient process. So in the process of our growth do we make about ourselves shells of thought, as though we were mental crustaceans. Presently the shell becomes too small, and then we make a long series of efforts to crowd the new growth inside it and make it do somehow; but in the end this always proves impossible, and we have painfully to burst it. This however is inevitable, so chafe not at karma and at nature’s changeless laws, for you made the shell yourself in the past, and now you yourself must break it. But if you did not go to the inconvenience of breaking it, you would suffer far more in the unsatisfied feeling that no progress had been made.Không bao giờ có nỗi đau cho Chân Ngã, mà chỉ có cho các hiện thể thấp, khi chúng bị điều chỉnh sớm hơn thời. Một tương tự tốt có thể lấy từ sự tăng trưởng của cua và các loài giáp xác khác. Những sinh vật này có xương ở ngoài để bảo vệ—dưới dạng một cái mai—trong khi xương của chúng ta ở bên trong—dưới dạng một bộ xương. Một nhược điểm chí tử của sơ đồ giáp xác là khi sinh vật lớn lên, nó phải làm nứt cái mai và rồi đợi một cái khác mọc ra, một quá trình hẳn là vừa đau đớn vừa bất tiện. Cũng vậy, trong tiến trình tăng trưởng của chúng ta, chúng ta tạo quanh mình những cái “mai” tư tưởng, như thể chúng ta là những “giáp xác” về mặt trí. Dần dần cái mai trở nên quá chật, và rồi chúng ta thực hiện một chuỗi nỗ lực dài để nhét sự tăng trưởng mới vào trong đó và bằng cách nào đó bắt nó phải chịu đựng; nhưng rốt cuộc điều đó luôn chứng tỏ là bất khả, và chúng ta buộc phải đau đớn bẻ gãy nó. Tuy vậy điều này là không thể tránh; vì thế đừng bực bội với nghiệp quả và các định luật bất biến của thiên nhiên, bởi chính bạn đã tạo cái mai trong quá khứ, và bây giờ chính bạn phải phá nó. Nhưng nếu bạn không chịu gánh lấy sự bất tiện của việc phá vỡ nó, bạn sẽ khổ đau nhiều hơn nữa trong cảm giác bất toại rằng chẳng có tiến bộ nào đã được thực hiện.
Many people are afraid of change, especially of a change of faith, and this arises not only from inherited prejudice, but also from actual fear of doubt—fear that if one once lets go one may be unable to find mental anchorage anywhere. Many a man is quite unable to make rational defence of his belief, or to answer the problems which inevitably arise in connection with it, and yet he is afraid to let it go. Sooner or later he will have to let go, though the widening out of his faith is sure to be accompanied by pain. Truly there would be no suffering for us if we never broke our shells, but then on the other hand there would be no progress.Nhiều người sợ thay đổi, nhất là thay đổi đức tin; nỗi sợ này phát sinh không chỉ từ định kiến thừa hưởng, mà còn từ nỗi sợ nghi ngờ—nỗi sợ rằng nếu một khi buông tay, người ta có thể không tìm được chỗ neo đậu cho tâm trí ở đâu nữa. Không ít người hoàn toàn không thể biện hộ hợp lý cho niềm tin của mình, hoặc trả lời những vấn đề tất yếu nảy sinh liên quan đến nó, nhưng họ vẫn sợ buông bỏ. Sớm hay muộn, họ sẽ phải buông bỏ, dẫu rằng sự mở rộng đức tin của họ chắc chắn sẽ đi kèm với đau đớn. Quả thật, sẽ chẳng có khổ đau nào cho chúng ta nếu chúng ta không bao giờ phá vỡ các cái mai; nhưng ngược lại, cũng sẽ chẳng có tiến bộ.
The life of the disciple is full of joy—never doubt it an instant. But it is not a life of ease. The work which he has to do is very hard, the struggle is a very real one. To compress into a few short lives the evolution of millions of years—the evolution for which the ordinary process of nature allows three rounds and a half—is not a mere holiday task. Our President has written: “Disciples are the crucibles of nature, wherein compounds that are mischievous are dissociated and are recombined into compounds that promote the general good.”Đời sống của đệ tử tràn đầy hoan lạc—đừng nghi ngờ điều này dù chỉ một thoáng. Nhưng đó không phải là đời sống dễ dãi. Công việc y phải làm thật sự rất khó, cuộc chiến thật sự rất thực. Nén lại trong vài kiếp ngắn ngủi sự tiến hoá của hàng triệu năm—sự tiến hoá mà tiến trình tự nhiên thông thường dành cho ba cuộc tuần hoàn rưỡi—không phải là một cuộc du xuân. Vị Chủ Tịch của chúng ta đã viết: “Các đệ tử là những lò luyện của thiên nhiên, nơi mà những hợp chất nguy hại được phân giải và tái kết hợp thành những hợp chất thúc đẩy lợi ích chung.”
It is not necessary for any one to become such a crucible; perhaps it would be nearer the fact to say that to become one is a distinction eagerly sought after; nearer still to say that when once a man has seen the great sacrifice of the LOGOS there is no other possibility for him but to throw himself into it—to do his tiny best to share in it and to help it at whatever cost to his lower nature. And this is no child’s play; it does indeed involve often a terrible strain. But an earnest student will be able to realize that a man may so love his work, and may be so full of joy in it, that outside of it there can be no pleasure worth considering, even though that work may tax almost beyond bearing every faculty and every vehicle—physical, astral or mental—which he possesses.Không cần thiết cho bất kỳ ai phải trở thành một chiếc lò luyện như thế; có lẽ gần sự thật hơn nếu nói rằng trở thành như thế là một vinh dự được khao khát; và còn gần hơn nữa khi nói rằng một khi con người đã thấy đại hiến tế của Thượng đế thì y không còn khả năng nào khác ngoài việc ném mình vào trong đó—làm phần việc nhỏ bé nhất của mình để chia phần và trợ giúp cho hiến tế ấy, dù phải trả giá thế nào đối với bản tánh thấp của mình. Và đây không phải trò trẻ con; quả thật nó thường kéo theo một căng thẳng khủng khiếp. Nhưng một đạo sinh nghiêm cẩn sẽ có thể nhận ra rằng một người có thể yêu công việc của mình đến thế, và tràn đầy hoan lạc trong đó đến độ bên ngoài nó không còn thú vui nào đáng kể, dù công việc ấy có thể đòi hỏi gần như quá sức chịu đựng mọi năng lực và mọi hiện thể—hồng trần, cảm dục hay trí tuệ—mà y sở hữu.
It must be remembered that when humanity in general has this work to do and this evolution to accomplish, it will be far better fitted for the effort than is the man who is trying now to take a shorter and steeper road. Many of his difficulties are due to the fact that he is attempting with a set of fourth-round bodies to achieve the result for the attainment of which nature will prepare her less adventurous children by supplying them in the course of the ages with the splendid vehicles of the seventh round. Of course even to gain those glorified vehicles these weaker souls will have to do the same work; but when it is spread over thousands of incarnations it naturally looks less formidable.Cần nhớ rằng khi toàn thể nhân loại đến lúc phải làm công việc này và hoàn tất tiến hoá này, nhân loại sẽ thích hợp cho nỗ lực ấy hơn nhiều so với người hiện nay đang cố gắng chọn con đường ngắn hơn mà dốc hơn. Nhiều khó khăn của y là do y đang toan đạt kết quả bằng một bộ hiện thể thuộc cuộc tuần hoàn thứ tư, trong khi thiên nhiên sẽ chuẩn bị cho những đứa con ít mạo hiểm hơn của mình bằng cách, qua dòng thời đại, cung ứng cho họ những hiện thể rực rỡ của cuộc tuần hoàn thứ bảy. Dĩ nhiên, ngay cả để có được các hiện thể được vinh quang hoá ấy, những linh hồn yếu hơn này cũng vẫn phải làm cùng một công việc; nhưng khi nó trải rộng qua hàng ngàn lần lâm phàm thì tự nhiên nó có vẻ ít đáng sợ hơn.
Yet beyond and above all his struggle the pupil has ever an abiding joy, a peace and serenity that nothing on earth can disturb. If he had not, he would indeed be a faithless servant of his Master, for he would be allowing the temporary strain on the vehicles to overbear his perception of the Self within; he would be identifying himself with the lower instead of with the higher.Tuy vậy, vượt lên trên mọi cuộc tranh đấu của mình, người môn sinh luôn có một niềm hoan lạc thường trụ, một bình an và sự tĩnh lặng không gì trên trần thế có thể khuấy động. Nếu y không có điều đó, hẳn y là kẻ đầy tớ bất trung của Chân sư của mình, vì y đã để cho sự căng thẳng tạm thời áp bức các hiện thể lấn át tri kiến về Chân Ngã bên trong; y đã đồng hoá với phần thấp thay vì với phần cao.
There is therefore a certain element of. the ridiculous in describing this Path as one of woe, when it is clearly evident that there would be much greater woe for the candidate if this Path were not taken. Indeed, to the man who is really doing his duty true sorrow is unknown: “Never doth any who worketh righteousness, O beloved, tread the path of woe.” (Bhagavad-Gita, vi.)Vì thế, việc mô tả Thánh Đạo này như một con đường khổ luỵ có phần khôi hài, khi rõ ràng là ứng sinh sẽ chịu khổ lớn hơn nhiều nếu không bước lên Thánh Đạo này. Quả thật, với người thực sự làm tròn bổn phận, nỗi sầu chân thật là điều không biết đến: “Không hề có ai làm điều công chính, hỡi người thương mến, lại bước trên con đường khổ.” (Bhagavad-Gita, vi.)
This is as regards the inner life of the disciple, but if one is to consider the treatment which he is likely to receive on the physical plane, the name of the path of woe is by no means inappropriate, at least if he has to do any sort of public work in which he tries to help the world. Ruysbroek, the Flemish mystic of the fourteenth century, writes of those who enter upon the Path: “Sometimes these unhappy ones are deprived of the good things of earth, of their friends and relations, and are deserted by all creatures; their holiness is mistrusted and despised, men put a bad construction all the works of their life, and they are rejected disdained by all those who surround them; and sometimes they are afflicted with divers diseases.” Remember, too, how Madame Blavatsky writes: “Where do we find in history that ` Messenger’ grand or humble, an Initiate or Neophyte, who, when he was made the bearer of some hitherto concealed truth or truths, was not crucified and rent to shreds by the ` dogs’ of envy, malice and ignorance? Such is the terrible Occult law; and he who does not feel in himself the heart of a lion to scorn the savage barking, and the soul of a dove to forgive the poor ignorant fools, let him give up the Sacred Science.” (The Secret Doctrine, iii.)Điều này là xét về đời sống nội tâm của người đệ tử, nhưng nếu xét đến cách đối đãi mà y có khả năng nhận lãnh trên cõi hồng trần, thì danh xưng “con đường khổ” cũng không phải là không thích đáng, nhất là nếu y phải làm bất cứ loại công việc công khai nào để cố gắng giúp đỡ thế gian. Ruysbroek, nhà thần bí xứ Flemish thế kỷ mười bốn, viết về những ai bước vào Thánh Đạo: “Đôi khi những kẻ bất hạnh này bị tước mất các điều tốt đẹp của trần gian, xa lìa bạn bè và thân quyến, và bị mọi sinh linh bỏ rơi; sự thánh thiện của họ bị ngờ vực và khinh chê, người đời xuyên tạc ác ý mọi việc trong cuộc sống của họ, và họ bị phủ nhận, bị khinh miệt bởi hết thảy những kẻ vây quanh; và đôi khi họ bị nhiều chứng bệnh khác nhau hành hạ.” Cũng hãy nhớ Bà Blavatsky đã viết: “Trong lịch sử, chúng ta tìm đâu ra một ‘Sứ giả’ — cao sang hay khiêm hạ, một Điểm đạo đồ hay một người sơ cơ — khi được trao phó gánh vác một chân lý hay những chân lý bấy lâu bị che khuất, mà lại không bị ‘lũ chó’ của ghen ghét, ác tâm và ngu muội đóng đinh và xâu xé? Ấy là Định luật huyền bí khủng khiếp; và ai không cảm thấy trong mình trái tim sư tử để khinh lũ gầm gào dữ tợn, và linh hồn bồ câu để tha thứ cho những kẻ ngu muội đáng thương kia, thì thôi chớ nên bước vào Khoa học Thiêng Liêng.” ( Giáo Lý Bí Nhiệm, iii.)
The way in which the world usually treats a new truth is first to ridicule it, then to grow angry about it, and then to adopt it and pretend that it has always held that view. In the meantime the first exponent of the new truth has probably been put to death or died of a broken heart.Cách thế gian thường đối xử với một chân lý mới là trước hết chế nhạo nó, rồi giận dữ vì nó, và sau đó thu nhận nó, rồi giả vờ rằng nó xưa nay vẫn giữ quan điểm ấy. Trong khi đó, người trình bày đầu tiên của chân lý mới rất có thể đã bị giết hoặc chết vì tan vỡ trái tim.
It is in the course of the training on this Path that the consciousness of the candidate passes through the three halls mentioned in The Voice of the Silence. This term is used there to indicate the three lower planes. The first, that of ignorance, is the physical plane, upon which we are born to live and die, and it is very truly described as a Hall of Ignorance, for all that we know in it is the merest outside of things. The second, the Hall of learning, is the astral plane, which is very truly the place of probationary learning, for when the astral centres are opened we see so much more of everything than we do on the physical plane that at first it seems to us that we must indeed be seeing the whole, though further development soon shows us that this is not so.Trong quá trình huấn luyện trên Thánh Đạo này, tâm thức của ứng sinh đi qua ba “phòng” được nói đến trong Tiếng Nói của Im Lặng. Từ này ở đó dùng để chỉ ba cõi thấp. Cõi thứ nhất, cõi của vô minh, là cõi hồng trần, nơi chúng ta sinh ra để sống và chết, và được mô tả rất đúng là Phòng Vô Minh, vì tất cả những gì ta biết trong đó chỉ là bề ngoài nông cạn của sự vật. Cõi thứ hai, Phòng Học tập, là cõi cảm dục, vốn đúng là nơi học hỏi trong giai đoạn dự bị; vì khi các trung tâm cảm dục được khai mở, chúng ta thấy nhiều hơn về mọi thứ so với trên cõi hồng trần, đến nỗi thoạt đầu dường như ta hẳn đã thấy trọn vẹn, dù phát triển tiếp theo sớm cho thấy điều đó không phải vậy.
But The Voice of the Silence warns us that beneath each flower in this region, however beautiful it may be, lies coiled the serpent of desire—that lower desire, which the aspirant must stifle in order that he may develop in its place the higher desire which we call aspiration. In the case of affection, for example, the lower, the selfish, the grasping affection must be altogether transcended, but the high, pure, and unselfish affection can never be transcended, since that is a characteristic of the LOGOS Himself, and a necessary qualification for progress upon the Path. What men should cast aside is such love as thinks always “How much love can I gain? How much does so and so love me? Does he love me as he loves some one else?” The love which we need is that which forgets itself altogether, and seeks only the occasion to pour itself out at the feet of the loved one.Nhưng Tiếng Nói của Im Lặng cảnh báo chúng ta rằng dưới mỗi đoá hoa trong khu vực này, dẫu đẹp đến đâu, đều có cuộn mình con rắn của dục vọng—tức dục vọng thấp, mà người chí nguyện phải dập tắt để phát triển thay vào đó khát vọng cao hơn, điều chúng ta gọi là chí nguyện. Lấy ví dụ về tình cảm, thì thứ tình cảm thấp, ích kỷ, chiếm hữu phải được hoàn toàn vượt qua, còn tình cảm cao, tinh ròng và vô kỷ thì không bao giờ có thể bị vượt qua, vì ấy là một đặc trưng của chính Thượng đế, và là một tư cách tất yếu cho sự tiến bộ trên Thánh Đạo. Con người nên vứt bỏ thứ tình yêu luôn nghĩ: “Ta có thể chiếm được bao nhiêu tình yêu? Người này thương ta bao nhiêu? Y có thương ta như thương ai khác chăng?” Tình yêu mà chúng ta cần là tình yêu quên mình hoàn toàn, chỉ tìm cơ hội để tuôn đổ chính mình dưới chân người mình thương.
The astral plane is often called the world of illusion, yet it is at least one stage, and a very long stage, nearer to the truth of things than what we see on the physical plane. It often happens that men are easily deluded upon the astral plane, because they are as yet much in the position of babies there, new-born infants with no sense of distance and no developed capacity for locomotion. We must not forget that in the normal course of things people very slowly awaken to the realities of the astral plane, just as a baby awakens to the realities of the physical plane. But those of us who are deliberately and, as it were, prematurely entering upon the Path are developing such knowledge abnormally, and are consequently more liable to error.Cõi cảm dục thường được gọi là thế giới của ảo tưởng, dẫu ít nhất nó cũng là một chặng—và là một chặng rất dài—gần với chân tướng của sự vật hơn những gì ta thấy trên cõi hồng trần. Người ta thường dễ bị mê lầm ở cõi cảm dục, vì họ còn ở vị thế như những đứa trẻ sơ sinh nơi ấy—những ấu nhi mới sinh, chưa có cảm thức về khoảng cách và chưa phát triển năng lực vận động. Chúng ta đừng quên rằng theo tiến trình bình thường, con người rất chậm rãi thức tỉnh với các thực tại của cõi cảm dục, y như một hài nhi thức tỉnh với các thực tại của cõi hồng trần. Nhưng những ai cố ý và, như có thể nói, sớm trước thời bước vào Thánh Đạo, thì phát triển loại tri thức này một cách bất thường, và do đó dễ sai lầm hơn.
Danger and injury might easily come in the course of our experiments but for the fact that all pupils who under proper training are endeavouring to open these faculties are assisted and guided by those who are already accustomed to the plane. That is the reason for the various tests which are always applied to one who wishes to become a worker on the higher planes; that is why also all sorts of horrible sights are shown to the neophyte, in order that he may understand them and become accustomed to them. If this were not done, and if he came across such a thing suddenly, he might receive a shock which would drive him back into his physical body, and this would not only prevent his doing any useful work, but might also be a positive danger to that body. Where the neophyte is deluded on the astral plane it is his own fault, and not that of the plane, because error is due only to his unfamiliarity with the surroundings.Nguy hiểm và tổn hại có thể dễ dàng xảy đến trong quá trình thử nghiệm của chúng ta nếu không vì lẽ là tất cả môn sinh, những người đang nỗ lực khai mở các năng lực này dưới sự huấn luyện đúng đắn, đều được những vị đã quen thuộc cõi giới ấy trợ giúp và dẫn dắt. Đó là lý do của nhiều thử thách luôn được áp dụng với người muốn trở thành một người làm việc trên các cõi cao; cũng là lý do vì sao đủ loại cảnh tượng kinh khiếp được cho người sơ cơ trông thấy, để y hiểu và quen với chúng. Nếu điều này không được thực hiện, và nếu y bất ngờ chạm trán một sự việc như thế, y có thể nhận một chấn động đẩy y trở lại thể xác; điều này không chỉ ngăn y làm bất kỳ công việc hữu ích nào mà còn có thể gây nguy hiểm thực sự cho thể xác ấy. Khi người sơ cơ bị mê lầm trên cõi cảm dục, đó là lỗi của chính y, chứ không phải lỗi của cõi giới, vì sai lầm chỉ do y chưa quen với hoàn cảnh chung quanh.
The third hall is the mental plane—the Hall of Wisdom. As soon as a man is free from attachment to astral things he can pass beyond the probationary stage of his learning, and begin to acquire knowledge which is real and definite. Beyond that in turn lies the imperishable world of the buddhic plane, in which for the first time the man learns the true unity of all that to the lower vision seems to be separate.Phòng thứ ba là cõi trí—Phòng Minh triết. Ngay khi con người thoát khỏi sự chấp trước vào các sự vật cảm dục, y có thể vượt khỏi giai đoạn dự bị của học hỏi, và bắt đầu thu đạt tri thức chân thực và xác định. Vượt lên trên đó nữa là thế giới bất hoại của cõi Bồ đề, nơi lần đầu tiên con người học được chân nhất thể của tất cả những gì dưới nhãn quan thấp dường như là biệt lập.
It has been said, “Thou canst not travel on the Path before thou hast become that Path itself.” As long as it is but a Path to us, and we are following it according to directions received, or because we have seen it and chosen it with the intellect only, we have not truly entered it at all. This is only a stage, leading on to the condition when you have become yourself the Law and the Path, and you fulfil its requirements, instinctively doing the right merely because it is the right, and because it is inconceivable that you could do anything else. Then only you have become the Path.Người ta đã nói: “Ngươi không thể du hành trên Thánh Đạo trước khi chính ngươi đã trở thành Thánh Đạo ấy.” Bao lâu nó vẫn chỉ là một Con Đường đối với chúng ta, và chúng ta theo nó theo chỉ dẫn đã nhận, hoặc vì chúng ta đã thấy nó và chọn nó chỉ bằng trí năng, thì chúng ta vẫn chưa thật sự nhập đạo. Đó chỉ là một giai đoạn, đưa đến tình trạng bạn tự chính mình trở thành Định luật và Thánh Đạo, và bạn làm trọn các đòi hỏi của nó, một cách tự nhiên làm điều đúng chỉ vì đó là điều đúng, và vì không thể nghĩ rằng bạn có thể làm điều gì khác. Lúc ấy bạn mới thật sự trở thành Thánh Đạo.
A man cannot climb if he does not try; though if he does not climb it is true that he will not fall far. The strong man often makes serious errors; but the very force which enables him to make them also enables him to make great progress when he turns his energies in the right direction. Rapid progress affects the whole organism and is a great strain upon it, and this inevitably finds out whatever weak spots there are in the man. The plans of the Hierarchy will be carried out whatever we may or may not do, for we are but as pawns in the mighty game which is being played; but if we are intelligent pawns, and are willing to co-operate, it gives much less trouble to the authorities, and incidentally to ourselves.Con người không thể trèo nếu không thử; tuy nếu y không trèo thì đúng là y sẽ không rơi xa. Người mạnh mẽ thường phạm những lỗi lầm nghiêm trọng; nhưng chính sức mạnh cho phép y phạm lỗi cũng cho phép y tiến bộ lớn lao khi y chuyển năng lực theo đúng hướng. Tiến bộ nhanh tác động toàn thể cơ cấu và là một gánh nặng lớn cho nó, và điều này tất yếu bộc lộ mọi chỗ yếu nào có trong con người. Các kế hoạch của Thánh Đoàn sẽ được thực hiện bất kể chúng ta có làm hay không làm, vì chúng ta chỉ như những quân tốt trong ván cờ vĩ đại đang diễn ra; nhưng nếu chúng ta là những quân tốt thông minh, sẵn lòng hợp tác, thì sẽ bớt gây phiền toái cho các vị hữu trách, và đồng thời cho chính mình.
And what will be the end of it all? The attainment of perfection. Yet even that is only relatively and not absolutely the end, for when we have reached in fullest consciousness the LOGOS of our system and have unified our consciousness with His, there still remains the further Path which leads us to union with still higher Powers. A great authority has told us that at the end of one of the stages of evolution far beyond adeptship the perfect man will be a decad, having a body upon each of the sub-planes of the lowest cosmic plane, the triple LOGOS outside of time and space constituting his Self, and thus completing the ten. But this consummation can only be reached when the man has power to create a body for himself upon each of these planes.Và rốt cuộc tất cả sẽ đi đến đâu? Đến sự đạt tới toàn thiện. Tuy vậy, ngay cả thế cũng chỉ là kết thúc tương đối chứ không tuyệt đối, vì khi chúng ta đã đạt Thượng đế của hệ thống chúng ta trong tâm thức viên mãn, và đã hợp nhất tâm thức của mình với Ngài, thì vẫn còn Con Đường nữa dẫn chúng ta đến hợp nhất với các Quyền Lực còn cao hơn. Một bậc thẩm quyền lớn đã cho biết rằng vào cuối một trong các giai đoạn tiến hóa xa vượt cấp bậc chân sư, con người toàn hảo sẽ là một hữu thể thập phân, có một hiện thể trên mỗi cõi phụ của cõi vũ trụ thấp nhất, với Thượng đế Tam phân ở ngoài thời gian và không gian cấu thành Chân Ngã của y, và như thế thành đủ mười. Nhưng sự viên mãn này chỉ có thể đạt được khi con người có quyền năng tạo cho mình một hiện thể trên mỗi cõi trong các cõi ấy.
We have been led to understand that of the total number of egos which are engaged in this evolution about one-fifth will fully succeed—that is to say will succeed in attaining the asekha level before the end of the seventh round. Another fifth will by that time, have gained the arhat level, and about an equal number will be on the lower stages of the Path, while a number roughly stated as the remaining two-fifths will have dropped out of this evolution altogether at the critical period at the middle of the fifth round.Chúng ta được hiểu rằng trong tổng số các chân ngã đang tham dự tiến hoá này, khoảng một phần năm sẽ thành công trọn vẹn—tức là sẽ đạt đến trình độ asekha trước khi kết thúc cuộc tuần hoàn thứ bảy. Một phần năm khác đến lúc ấy sẽ đạt trình độ arhat, và một con số xấp xỉ như thế sẽ ở các nấc thấp hơn của Thánh Đạo, trong khi một số lượng đại thể là hai phần năm còn lại sẽ rơi khỏi tiến hoá này hoàn toàn vào thời kỳ then chốt ở giữa cuộc tuần hoàn thứ năm.
All those who have not fully attained the goal, and completed their evolution, will have to resume it upon the next chain of globes, and even those who are the failures of the fifth round will be successes in the next chain. In the same way it is not improbable that some of those who are adepts and Masters now may have been among the failures of the moon-chain—that is to say that They belonged to the humanity of that chain, but were somewhat backward upon it, and so dropped out there, and came on in the fore-front of this later evolution, exactly as a boy who failed to pass an examination one year would be likely to be among the first of his class when he tries the same examination again twelve months later.Tất cả những ai chưa đạt trọn mục tiêu và hoàn tất tiến hoá của mình sẽ phải tiếp tục nó trên Dãy kế tiếp các bầu hành tinh, và ngay cả những kẻ thất bại của cuộc tuần hoàn thứ năm rồi cũng sẽ là những người thành công trong Dãy kế tiếp. Tương tự, không loại trừ khả năng rằng một vài vị đã là chân sư và các Chân sư hiện nay có thể đã ở trong số những kẻ thất bại của Dãy Mặt Trăng—tức là Các Ngài thuộc về nhân loại của dãy ấy, nhưng có phần lạc hậu ở đó, nên đã rớt lại tại đó, rồi tiến lên hàng tiền phong trong cuộc tiến hoá muộn hơn này—hệt như một cậu học trò trượt kỳ thi năm nay rất có thể sẽ đứng đầu lớp khi thi lại cùng kỳ thi ấy mười hai tháng sau.
Remember that we are now only just past the middle of an evolutionary period, and that is why so very few people comparatively have as yet attained adeptship, just as very few boys in a class would be already fit to pass the final examination of the year after only six months of study. In precisely the same way very few animals are as yet attaining individuality, for the animal who attains individuality is as far in advance of his fellows as is the human being who attains adeptship in advance of the average man. Both are doing at the middle point of evolution what they are expected to be able to do only at the end of it. Those who achieve only at the normal time, at the end of the seventh round, will approach their goal so gradually that there will be little or no struggle.Hãy nhớ rằng hiện nay chúng ta chỉ vừa mới vượt qua điểm giữa của một chu kỳ tiến hoá, và đó là lý do vì sao so sánh thì có rất ít người đạt tới địa vị chân sư cho đến nay—cũng như rất ít học sinh trong một lớp đủ sức vượt kỳ thi cuối năm chỉ sau sáu tháng học. Tương tự, hiện vẫn rất ít loài vật đạt tới biệt ngã hoá, vì con vật đạt tới biệt ngã hoá thì vượt xa đồng loại cũng như con người đạt đến địa vị chân sư vượt xa người trung bình. Cả hai đang làm ở điểm giữa của tiến hoá điều mà người ta chỉ kỳ vọng làm được vào cuối kỳ. Những ai chỉ đạt vào thời hạn bình thường, tức vào cuối cuộc tuần hoàn thứ bảy, sẽ tiếp cận mục tiêu một cách tiệm tiến đến mức hầu như không có, hoặc không có, tranh đấu.
Undoubtedly to attain in that way is very far easier for the candidate. But that method has the tremendous drawback that the man who attains by it will not have been able to give any help to others, but will on the contrary have required assistance himself. I remember from the days of my childhood a Christian hymn which gave this idea very beautifully. It described how a certain soul went to heaven and enjoyed its bliss, and wandered about there very happily for a time, but at last he noticed that the crown which he wore differed much in splendor from many of the others, and for a long time he wondered why this was so. At last he met the Christ Himself and mustered up courage to ask Him the reason of this peculiarity; and the answer given ran thus:Hiển nhiên là đạt theo lối ấy thì dễ dàng hơn rất nhiều cho ứng sinh. Nhưng phương pháp ấy có một nhược điểm to lớn là người đạt được theo cách đó sẽ không thể giúp đỡ ai khác, trái lại, bản thân y còn cần được trợ giúp. Tôi nhớ từ thời thơ ấu một thánh ca Cơ Đốc rất diễn đạt ý tưởng này một cách mỹ lệ. Bài ca kể một linh hồn nọ lên thiên đàng và hưởng phúc lạc, dạo bước ở đó hạnh phúc một thời gian, nhưng rồi sau cùng y nhận ra chiếc mão miện y đội khác biệt nhiều về độ rực rỡ so với của nhiều người khác, và y băn khoăn lâu dài vì sao như thế. Sau cùng y gặp chính Đức Christ và gom đủ can đảm để thỉnh hỏi Ngài nguyên do của điều đặc biệt này; và câu trả lời như sau:
I know thou hast believed on Me,Ta biết ngươi đã tin nơi Ta,
And Life through Me is thine;Và Sự Sống nhờ Ta là của ngươi;
But where are all those glorious gemsNhưng đâu là những ngọc báu huy hoàng
That in thy crown should shine?Đáng lẽ toả chiếu trong mão miện ngươi?
Thou seest yonder glorious throngNgươi thấy kia đoàn vinh hiển
With stars on every brow,Với ngôi sao trên mỗi vầng trán,
For every soul they led to MeVì mỗi linh hồn họ dẫn về Ta,
They wear a jewel now.Họ đội thêm một bảo châu sáng.
“They that are wise shall shine as the brightness of the firmament, but they that turn many to righteousness as the stars for ever and ever.”“Những kẻ khôn ngoan sẽ sáng rực như bầu trời, còn những ai đưa nhiều người về đường công chính sẽ chiếu như các vì sao muôn đời muôn kiếp.”
When we are struggling onwards ourselves we can help others, and we should do all that we can in this direction, not because of the result to ourselves (though that is inevitable) but for the sake of helping the world. The man who drifts with the stream has to be carried along, but when he begins to swim himself he sets free the force that would otherwise have been spent in helping him. That can then be used for the helping of others, quite independently of what he himself may do in that line.Khi chính chúng ta đang tự mình phấn đấu tiến lên, chúng ta có thể giúp đỡ người khác, và chúng ta nên làm hết sức có thể theo hướng ấy—không phải vì kết quả cho chính mình (dù điều đó là tất yếu) mà vì lợi ích của việc trợ giúp thế gian. Người trôi theo dòng phải được chở đi; nhưng khi y bắt đầu tự bơi, y giải phóng lực đáng lẽ dùng để đẩy y, để lực ấy có thể được sử dụng cho việc trợ giúp người khác, hoàn toàn độc lập với những gì chính y có thể làm theo chiều hướng ấy.
Adeptship sets the man free from the necessity of rebirth, and its achievement also involves the liberation of forces for the aid of others. The man who seeks liberation only for himself may balance his karma perfectly and may kill out desire, so that the law of karma will not longer compel him to rebirth. But though he thus avoids the action of the law of karma he does not escape from the law of evolution. It may be long before he comes under the influence of that law, because by the hypothesis a man who has already at this stage set himself free from all desire must be considerably in advance of the average. There will however inevitably come a time when the slow and steady advance of the law of evolution will overtake him, and then its resistless pressure will force him out of his selfish bliss into rebirth once more, and so he will find himself again upon the wheel from which he had hoped to escape.Địa vị chân sư giải phóng con người khỏi sự cần thiết phải tái sinh, và việc đạt được nó cũng đồng thời phóng thích các mãnh lực để trợ giúp tha nhân. Người chỉ tìm giải thoát cho riêng mình có thể cân bằng nghiệp quả hoàn toàn và có thể giết chết dục vọng, để định luật nghiệp quả không còn buộc y phải tái sinh nữa. Nhưng dù y tránh được tác động của định luật nghiệp quả, y cũng không thoát khỏi định luật tiến hoá. Có thể lâu lắm y mới rơi vào ảnh hưởng của định luật ấy, vì theo giả định, một người đã ở giai đoạn này mà tự giải thoát khỏi mọi dục vọng ắt đã vượt xa người trung bình. Tuy vậy, tất yếu sẽ đến lúc tiến trình chậm rãi và vững chắc của định luật tiến hoá bắt kịp y, và rồi sức ép không gì cưỡng nổi của nó sẽ đẩy y ra khỏi an lạc vị kỷ trở lại tái sinh một lần nữa, và như thế y lại thấy mình trên bánh xe luân hồi mà y từng hy vọng thoát khỏi.
It has often been asked how the secrets revealed at initiation are protected from those who are able to read thoughts. There is not the slightest danger that any of these secrets will ever be disclosed in this manner, for at the same time that the secret is told to the initiate the means by which he can guard it is also explained to him. If it could be possible that an initiate could ever be so false as to think of betraying what has been confided to him, even then there would be no danger, for he is in such close touch with the Brotherhood of which he is a part that they would at once know of his foul intention, and before he could speak the treacherous words he would have forgotten utterly that there was anything to betray. There is nothing that is in any way terrible about these secrets, except that the power which goes with them might well be terrible if wrongly used. Initiates always know one another, much in the same way as free-masons do; and, just as with the latter, any initiate could hide his status from those below him, but not from those above him.Người ta thường hỏi làm sao các bí nhiệm được tiết lộ trong lễ điểm đạo lại được bảo vệ khỏi những ai có khả năng đọc tư tưởng. Hoàn toàn không có một chút nguy cơ nào rằng bất kỳ bí nhiệm nào sẽ bị tiết lộ theo cách này, vì cùng lúc bí nhiệm được nói cho điểm đạo đồ, phương tiện để y có thể gìn giữ nó cũng được giải thích cho y. Nếu giả như có thể có chuyện một điểm đạo đồ bội tín đến mức khởi tâm phản bội điều đã được giao phó, thì ngay cả khi ấy cũng không có nguy cơ nào, vì y ở trong mối liên hệ gần gũi đến thế với Huynh đệ Đoàn mà y là thành viên, đến nỗi Các Ngài lập tức biết ý đồ đen tối của y, và trước khi y kịp thốt ra lời phản trắc, y đã quên sạch rằng có điều gì để phản bội. Không có gì đáng sợ trong các bí nhiệm này cả, ngoại trừ quyền năng đi kèm với chúng có thể thực sự đáng sợ nếu bị dùng sai. Các điểm đạo đồ luôn nhận ra nhau, phần nào giống như những người hội Tam Điểm; và, cũng như với hội viên Tam Điểm, bất kỳ điểm đạo đồ nào cũng có thể ẩn giấu địa vị của mình trước những người dưới y, nhưng không thể ẩn giấu trước những người trên y.
However sorely the Brotherhood may be in need of helpers no man can receive initiation until his character is developed to a stage when he is ready for it, and in exactly the same way if a man has raised himself to the level of initiation there is no power which can withhold it from him. It may very often happen, however, that a man is ready in every respect, save for a lack of some one quality; and that lack may hold him back for a very long time, which would probably mean that by the time he acquired the missing quality he would in all other respects be developed in advance of the requirements. So it must not be supposed that all initiates standing upon the same level are invariably equal in all respects. What the world calls a great man is not necessarily developed all round and fit for initiation. Anything in the nature of favouritism or neglect is utterly inconceivable. In this matter no man can give to another that which he has not earned, nor can any man withhold the due recognition of development won.Dẫu Huynh đệ Đoàn có đang rất thiếu người trợ giúp đến đâu, thì cũng không ai có thể thọ điểm đạo trước khi tính cách của người ấy phát triển đến mức sẵn sàng; và cũng đúng như thế, nếu một người đã tự nâng mình lên ngang tầm của điểm đạo, thì không có quyền lực nào có thể trì hoãn điều đó nơi y. Tuy nhiên, rất thường xảy ra trường hợp một người đã sẵn sàng về mọi phương diện, trừ thiếu một phẩm chất nào đó; và sự thiếu ấy có thể giữ y lại rất lâu, điều này có thể có nghĩa rằng đến khi y đạt được phẩm chất còn thiếu, y sẽ, về mọi phương diện khác, phát triển vượt trước yêu cầu. Vì vậy, chớ nên cho rằng mọi điểm đạo đồ đứng cùng một cấp đều tất yếu bình đẳng về mọi phương diện. Cái mà thế gian gọi là vĩ nhân không tất phải phát triển toàn diện và thích hợp cho lễ điểm đạo. Bất kỳ điều gì mang tính thiên vị hay bỏ sót đều hoàn toàn không thể tưởng tượng. Trong việc này, không ai có thể ban cho kẻ khác điều y chưa tự xứng đáng, cũng không ai có thể khước từ sự công nhận xứng hợp đối với mức phát triển đã đạt được.

THE ANCIENT MYSTERIES—CÁC HUYỀN MÔN CỔ XƯA

What I can tell you with regard to the ancient mysteries is not derived from any special study of old manuscripts, or of the history of this subject. It happened to me in another life to be born in ancient Greece, and to become initiated there into some of the mysteries. Now a man who was initiated in this way in Greece gave a pledge not to reveal what he had seen, and this pledge is binding, even though it was given in a former incarnation; but Those who stood behind those mysteries have since thought fit to give out to the world much of what was then taught only under the vow of secrecy, and so They have relieved us from our promise as far as those teachings go. Therefore I break no pledge when I tell you something about the instructions which were given in those ancient mysteries. Other subjects were taught, however, which I am not at liberty to name, because they have not yet been made public by the Great Ones.Những gì tôi có thể nói với bạn về các huyền môn cổ xưa không được rút ra từ bất kỳ nghiên cứu đặc biệt nào về các bản thảo cổ hay lịch sử của đề tài này. Ở một kiếp khác, tôi đã sinh ra tại Hy Lạp cổ và được điểm đạo vào một số huyền môn tại đó. Nay, một người được điểm đạo theo cách ấy ở Hy Lạp phải lập nguyện không tiết lộ những gì mình đã thấy, và lời nguyện ấy vẫn ràng buộc, dù nó được thốt ra trong một kiếp trước; nhưng Những Vị đứng sau các huyền môn ấy từ đó đã xét thấy thích hợp để ban cho thế gian nhiều điều mà khi xưa chỉ được dạy dưới lời thệ giữ bí mật, và như thế Các Ngài đã giải trừ lời hứa của chúng tôi đối với phần những giáo huấn ấy. Do đó, tôi không phá vỡ lời thệ nào khi nói cho bạn nghe đôi điều về các chỉ dẫn đã được ban trong những huyền môn cổ xưa ấy. Tuy nhiên, có những môn khác cũng được dạy, mà tôi không có quyền nêu tên, vì chúng vẫn chưa được Các Đấng Cao Cả công bố ra công chúng.
In the first place, I should like to ask you to notice that all peoples and all religions have had their mysteries, including the Christian religion. I have often heard people say that in the Christian religion, at least, nothing was hidden: that everything was open for the study of the poor and the unlearned. Any one who says that does not know the history of the Christian Church. Now, indeed, everything the Church knows is given out, but that is only because it has forgotten the mysteries which it used to keep hidden. If you study the earliest history of the Church, you will find that old writers speak very distinctly of the mysteries, which were taught only to those who were full members of the Church. There were many points on which nothing was said to those who were only “katechoumenoi,” who had just entered the Church, but were still candidates for full membership.Trước hết, tôi muốn mời bạn lưu ý rằng mọi dân tộc và mọi tôn giáo đều có các huyền môn của mình, kể cả tôn giáo Cơ Đốc. Tôi thường nghe người ta nói rằng ít nhất trong tôn giáo Cơ Đốc chẳng có gì bị che giấu: mọi điều đều mở ra cho người nghèo và kẻ thất học học hỏi. Ai nói thế hẳn không biết lịch sử của Giáo hội Cơ Đốc. Nay thì quả thật mọi điều Giáo hội biết đều được ban ra, nhưng chỉ vì Giáo hội đã quên các huyền môn mà trước kia Giáo hội từng giữ kín. Nếu bạn nghiên cứu lịch sử sớm nhất của Giáo hội, bạn sẽ thấy các trước tác xưa nói rất minh bạch về các huyền môn, vốn chỉ được truyền dạy cho những ai là phần tử trọn vẹn của Giáo hội. Có nhiều điểm hoàn toàn không nói cho những người chỉ là “katechoumenoi”, những người vừa mới vào Giáo hội nhưng vẫn còn là ứng viên cho tư cách hội viên trọn vẹn.
Traces of this we can find still earlier, for you will remember that it is said in the Gospels that the Christ made known to His disciples many things which He gave to the multitude only in parables.Dấu vết của điều này ta còn thấy sớm hơn nữa, vì bạn sẽ nhớ trong các Sách Phúc Âm nói rằng Đức Christ đã tỏ cho các đệ tử của Ngài nhiều điều mà Ngài chỉ giảng cho quần chúng qua các ẩn dụ.
But one of the reasons of the failure of the Christian Church to control her more intellectual sons, as she should have done, is the fact that she has forgotten and lost the supernatural and philosophical mysteries which were the basis of her dogma. To see something of this hidden side of her teachings you have only to read the works of the great Gnostic writers. Then you will find that when we take this side as the inner doctrine for the scholars, and the present form of the Christian religion as the outer doctrine for the illiterate, we get in the two combined a perfect expression of the ancient Wisdom. But to take either of these teachings by itself, and to condemn the other as heresy, gives us only a one-sided view. So every religion has instruction for those who do not get beyond its outer form, but has always also higher instruction for those who penetrate to the inner.Một trong những nguyên nhân vì sao Giáo hội Cơ Đốc thất bại trong việc kiểm soát những người con trí thức hơn của mình, như Giáo hội lẽ ra phải làm, là vì Giáo hội đã quên và đánh mất những huyền môn siêu nhiên và triết lý vốn là nền tảng của tín điều. Để thấy đôi điều của mặt ẩn tàng trong các giáo huấn của Giáo hội, bạn chỉ cần đọc các trước tác của những nhà Ngộ giáo vĩ đại. Khi đó bạn sẽ thấy rằng, khi chúng ta lấy mặt này làm nội điển dành cho học giả, và lấy hình thức hiện nay của tôn giáo Cơ Đốc làm ngoại điển dành cho người thất học, thì hai thứ ấy hợp lại cho ta một biểu đạt hoàn hảo của Minh Triết Ngàn Đời. Nhưng nếu chỉ lấy riêng một trong hai giáo huấn ấy và lên án điều kia là tà thuyết, chúng ta chỉ có cái nhìn phiến diện. Vì vậy, mọi tôn giáo đều có giáo huấn dành cho những ai không vượt khỏi hình thức bên ngoài của nó, nhưng cũng luôn có giáo huấn cao hơn dành cho những ai xuyên đến nội tâm.
However, when we speak of the ancient mysteries, we generally mean those which were connected with the great religion of ancient Greece. Only a few books exist on this subject. There is a book of Iamblichus, who was himself initiated into the mysteries, and there is a book written by a countryman of mine, Thomas Taylor, a Platonist, and also one by a Frenchman, Monsieur P. Foucart. Although they are very interesting, you will find that they give but little real information. Much that we think we know about the mysteries (I mean from an external point of view) comes to us through the writings of their exponents.Tuy nhiên, khi nói về các huyền môn cổ xưa, ta thường có ý nói những huyền môn gắn với tôn giáo vĩ đại của Hy Lạp cổ. Chỉ có vài cuốn sách tồn tại về đề tài này. Có một cuốn của Iamblichus, chính ông là người được điểm đạo vào các huyền môn, và có một cuốn do một đồng hương của tôi, Thomas Taylor, một nhà Platon học, soạn, và một cuốn khác của một học giả Pháp, ông P. Foucart. Dẫu chúng rất thú vị, bạn sẽ thấy rằng chúng cung cấp rất ít thông tin thực sự. Nhiều điều chúng ta nghĩ là biết về các huyền môn (ý tôi là từ quan điểm bên ngoài) đến với chúng ta qua trước tác của những người trình bày chúng.
The Christian Church has had the habit—probably justifiable from her point of view—of destroying all books which stood for teachings other than her own, and we must not forget that almost all of our knowledge with regard to early Christian times comes to us through the hands of the monks of the middle ages. They were practically the only educated people of that time, and it was they who copied all the manuscripts. They had very pronounced opinions about what was useful and what was not; so very naturally only that part survived which agreed with their views, this being reported with emphasis, while anything of opposite character was discarded. Above all, the greater part of the knowledge which is accessible to the general world about the mysteries is found in the works of the Church Fathers, who were opposed to them. Without wishing to accuse the Fathers of having purposely misrepresented, we may certainly conclude that they tried to put forward their own view in the best and strongest light. Even at the present day if you wished to know the whole truth concerning the doctrine of some Protestant sect, you would not go to Catholic priests for information; nor, if you wanted good and just explanations concerning Catholicism, would you go to the Salvation Army to get them.Giáo hội Cơ Đốc có thói quen—có lẽ là chính đáng từ quan điểm của Giáo hội—huỷ diệt mọi sách vở đứng về các giáo huấn khác với giáo huấn của mình; và chúng ta đừng quên rằng gần như mọi tri thức của chúng ta về thời kỳ Cơ Đốc sơ khai đều đến qua tay các tu sĩ thời trung cổ. Họ hầu như là những người có học duy nhất thời ấy, và chính họ sao chép tất cả các bản thảo. Họ có quan điểm rất dứt khoát về cái gì hữu ích và cái gì không; nên một cách rất tự nhiên chỉ phần nào phù hợp với quan điểm của họ là tồn tại, được thuật lại với nhấn mạnh, trong khi bất cứ điều gì đối nghịch đều bị loại bỏ. Trên hết, phần lớn tri thức khả dụng đối với thế giới phổ thông về các huyền môn được tìm thấy trong các tác phẩm của các Giáo Phụ, những người đối nghịch với chúng. Không muốn cáo buộc các Giáo Phụ cố tình xuyên tạc, chúng ta vẫn có thể kết luận rằng các ngài đã cố trình bày quan điểm của mình theo ánh sáng tốt đẹp và mạnh mẽ nhất. Ngay cả ngày nay, nếu bạn muốn biết trọn vẹn chân lý về giáo lý của một phái Tin Lành nào đó, bạn sẽ không đi hỏi các linh mục Công giáo; cũng như nếu bạn muốn những giải thích tốt đẹp và công bằng về Công giáo, bạn sẽ không đến Hội Salvation Army để lấy chúng.
In regard to the mysteries we are in a similar situation, only much worse, because of the many and bitter disputes between the followers of the old religion and its mysteries and the Fathers of the Christian Church. Therefore we may accept only with considerable reserve and with great prudence what the Fathers say in regard to this subject. For example, you will find that they often maintain that the ancient mysteries contain much that is indecent and immoral.Về các huyền môn, chúng ta lâm vào tình cảnh tương tự, chỉ tệ hơn nhiều, vì những tranh chấp gay gắt và kéo dài giữa những người theo tôn giáo cũ cùng các huyền môn của nó với các Giáo Phụ của Giáo hội Cơ Đốc. Bởi vậy, ta chỉ có thể tiếp nhận với sự dè dặt đáng kể và thận trọng lớn lao những gì các Giáo Phụ nói về đề tài này. Chẳng hạn, bạn sẽ thấy các ngài thường quả quyết rằng trong các huyền môn cổ có nhiều điều tục tĩu và vô luân.
Because I have carefully searched clairvoyantly through the mysteries of Greece, and in a former incarnation was myself an initiate of them, I can say with perfect certainty that there is not even a shadow of truth in those statements. There did exist certain mysteries with which were festivities and a form of Bacchus-worship, which degenerated later on into something very objectionable; but this was only in later times, and those mysteries belonged to quite another branch. They were not in the least related to the mysteries of Eleusis, but were only an imitation of them on a small scale, entirely exoteric.Vì tôi đã khảo sát một cách thông nhãn kỹ lưỡng các huyền môn Hy Lạp, và trong một tiền kiếp chính tôi từng là một người được điểm đạo trong đó, tôi có thể nói với sự xác quyết hoàn toàn rằng không hề có chút bóng mờ của chân lý nào trong những lời cáo buộc ấy. Quả có tồn tại một số huyền môn gắn với các cuộc lễ và một hình thức thờ thần Bacchus, về sau sa đọa thành điều rất phản cảm; nhưng đó chỉ là ở thời sau, và những huyền môn ấy thuộc một nhánh hoàn toàn khác. Chúng chẳng liên quan gì đến các huyền môn Eleusis, mà chỉ là sự bắt chước chúng ở quy mô nhỏ, hoàn toàn ngoại môn.
I have, this evening, to treat a very extensive subject in a short time. I must try to give you a rough sketch of what those Greek mysteries were and what was taught to the initiates.Tối nay, tôi phải đề cập một chủ đề rất rộng lớn trong một thời gian ngắn. Tôi sẽ cố phác thảo cho bạn thấy các huyền môn Hy Lạp ấy là gì và điều gì được dạy cho những người điểm đạo.
The fact will be known to you that two divisions are always mentioned: the lesser and the greater mysteries. Everybody knew that those existed, and the number of persons who were initiated was indeed quite a large proportion of the whole population. I think you may read in exoteric books of thirty thousand initiates gathering at one time, and this also shows that the fact that a man was initiated need not be kept secret, but that the outer world knew him as belonging to this numerous class. I mean that, although certain teachings given in the mysteries were always kept secret, the whole Greek and Roman world knew that the greater and lesser mysteries existed, and more or less who belonged to each of them.Bạn hẳn biết rằng luôn có nói đến hai phân hệ: các huyền môn tiểu và các huyền môn đại. Ai nấy đều biết chúng tồn tại, và số người được điểm đạo thực sự chiếm một tỷ lệ khá lớn trong toàn dân. Tôi nghĩ bạn có thể đọc trong các sách ngoại môn rằng có đến ba mươi ngàn người được điểm đạo tụ hội cùng lúc, và điều này cũng cho thấy rằng việc một người được điểm đạo không nhất thiết phải giữ kín, mà thế giới bên ngoài biết y thuộc về một tầng lớp đông đảo như thế. Ý tôi là, tuy các giáo huấn nhất định được ban trong huyền môn luôn được giữ bí mật, nhưng toàn thế giới Hy Lạp và La Mã đều biết rằng có các huyền môn đại và tiểu, và đại khái ai thuộc về mỗi hệ.
But behind those two degrees, the existence of which was generally known, there were all the time the real secret mysteries; and the existence of the third degree, as one might call it, was unknown to the public. If one thinks of the conditions of that time one can readily understand the reason for this. Most of the Roman Emperors, for example, knew of the existence of the lesser and greater mysteries, and insisted upon being initiated. Now we know very well from history that many of the Roman Emperors were hardly of the character to be allowed to play a leading role in a religious body. But, all the same, it would have been very difficult for the leaders of the mysteries to refuse entrance to an Emperor of Rome. As was once said, one cannot argue with the master of thirty legions. The emperors would certainly have killed anyone who stood in the way of anything they wished. Thus it was desirable that the existence of the third degree should not be known, and nobody knew that there was such a degree before he was deemed, by those who could judge, worthy to be admitted to it.Nhưng ẩn sau hai bậc công khai ấy, luôn luôn có những huyền môn bí mật thật sự; và sự tồn tại của bậc thứ ba, nếu có thể gọi như vậy, hoàn toàn không được công chúng biết đến. Nếu nghĩ đến điều kiện thời ấy, ta dễ dàng hiểu lý do. Chẳng hạn, hầu hết các Hoàng đế La Mã biết sự tồn tại của huyền môn tiểu và đại, và nằng nặc đòi được điểm đạo. Nay, chúng ta biết rất rõ từ lịch sử rằng nhiều Hoàng đế La Mã khó mà có phẩm cách để cho phép họ đóng vai trò lãnh đạo trong một đoàn thể tôn giáo. Nhưng, dẫu vậy, với các lãnh đạo huyền môn, thật rất khó để từ chối cho một Hoàng đế La Mã nhập môn. Như có người từng nói, không thể tranh luận với chủ soái của ba mươi quân đoàn. Các hoàng đế chắc chắn sẽ giết bất kỳ ai dám cản trở điều họ muốn. Vì vậy, điều đáng mong là sự tồn tại của bậc thứ ba không bị biết tới, và chẳng ai biết có bậc này cho đến khi y được những người có thẩm quyền xét thấy xứng đáng được thâu nhận.
The teachings of this third degree were never given to the public and never will be. But in the common mysteries, lesser and greater, are many things which can be told. In the first place, then, we were taught certain pithy sayings, or apophthegms, and if I quote you some of those you will understand the nature of the teaching. One of the best known was “Death is life, and life is death.” This shows us that the higher life on the other side of death was well known. Another saying was “He who seeks realities in this life shall also seek realities after death; and he who seeks unrealities in this life shall also seek unrealities after death.” A great principle of their teaching was that the soul had descended from the higher spheres to the material. The principles of reincarnation were also contained in their instruction. You will remember that this did not appear in the external doctrine of the religions either of Greece or of Rome—that is to say, it was not taught publicly and in so many words—but you will find that this idea of the descent of the soul into matter is imparted in classic mythology. You will remember the myth of Proserpina, who was carried to the under-world while picking the flower of the narcissus.Giáo huấn của bậc thứ ba này không bao giờ được truyền cho công chúng và sẽ không bao giờ như thế. Nhưng trong các huyền môn phổ thông, đại và tiểu, có nhiều điều có thể nói ra. Trước hết, chúng tôi được dạy một số cách ngôn súc tích, và nếu tôi trích vài câu, bạn sẽ hiểu tính chất của giáo huấn. Một trong những câu nổi tiếng nhất là: “Chết là sống, và sống là chết.” Điều ấy cho thấy đời sống cao hơn bên kia cái chết đã được biết rõ. Một câu khác: “Ai tìm cái chân thực trong đời này cũng sẽ tìm cái chân thực sau khi chết; và ai tìm cái hư huyễn trong đời này cũng sẽ tìm cái hư huyễn sau khi chết.” Một nguyên lý lớn của giáo huấn là linh hồn đã từ các cõi cao giáng xuống cõi vật chất. Nguyên lý tái sinh cũng nằm trong chỉ dẫn của họ. Bạn sẽ nhớ điều này không xuất hiện trong giáo lý ngoại môn của tôn giáo Hy Lạp hay La Mã—nghĩa là, nó không được dạy công khai và minh ngôn—nhưng bạn sẽ thấy ý niệm về sự giáng lâm của linh hồn vào vật chất được truyền qua thần thoại cổ điển. Bạn sẽ nhớ thần thoại về Proserpina, người bị kéo xuống âm phủ trong khi đang hái hoa thuỷ tiên.
Let us recall the myth of Narcissus. He was a youth of great beauty who fell in love with his own image reflected in the water, and was therefore changed into a flower and bound to earth. You need not have studied much Theosophy to see what that means. We learn in The Secret Doctrine how the Ego looks down upon the waters of the astral plane and the lower world, how it reflects itself in the personality, how it identifies itself with the personality and, falling in love with its image, is bound to earth. So Proserpina, while picking the narcissus, is dragged away to the under-world, and afterwards passes half her life under the earth and half on the earth; that is, as you will see, half in a material body and half out of it.Hãy gợi lại thần thoại về Narcissus. Chàng là một thiếu niên kiều mỵ, si mê chính bóng mình phản chiếu trong nước, và vì thế bị biến thành một bông hoa và bị buộc chặt với đất. Bạn không cần học nhiều Thông Thiên Học để hiểu điều đó nghĩa là gì. Chúng ta học trong Giáo Lý Bí Nhiệm rằng chân ngã nhìn xuống “những làn nước” của cõi cảm dục và cõi thấp, phản chiếu chính mình trong phàm ngã, đồng hoá với phàm ngã và, phải lòng hình ảnh của mình, bị trói buộc vào đất. Vậy nên Proserpina, trong khi hái hoa thuỷ tiên, bị kéo xuống âm phủ, và sau đó sống nửa đời dưới lòng đất và nửa đời trên mặt đất; tức là, như bạn thấy, nửa đời trong một thể vật chất và nửa đời ngoài nó.
In the same way, there are numbers of other myths of which it is very interesting to hear the Theosophical explanation. For example, in this old mystery-teaching the minotaur was held to signify the lower nature in man—the personality which is half man and half animal. This was eventually slain by Theseus, who typifies the higher self or the individuality, which has been gradually growing and gathering strength until at last it can wield the sword of its Divine Father, the Spirit. Guided through the labyrinth of illusion which constitutes these lower planes by the thread of occult knowledge given him by Ariadne (who represents intuition) the higher self is enabled to slay the lower, and to escape safely from the web of illusion; yet there still remains for him the danger that, developing intellectual pride, he may neglect intuition, even as Theseus neglected Ariadne, and so fail for this time to realize his highest possibilities.Tương tự, có vô số thần thoại khác mà nghe giải thích theo Thông Thiên Học thì rất thú vị. Chẳng hạn, trong giáo huấn huyền môn xưa, Minotaur được xem là tượng trưng cho bản tánh thấp trong con người—phàm ngã, thứ nửa người nửa thú. Cuối cùng nó bị Theseus sát hại, người tượng trưng cho chân ngã hay cá thể tính, vốn đã dần lớn lên và tập hợp sức mạnh cho đến khi rốt cuộc có thể vung gươm của Người Cha Thiêng Liêng là Chân Thần. Được dẫn dắt xuyên qua mê cung của ảo tưởng tạo thành các cõi thấp này bằng sợi chỉ tri thức huyền bí do Ariadne (đại diện cho trực giác) trao tặng, chân ngã có thể giết phần thấp và thoát ra an toàn khỏi lưới ảo tưởng; tuy vậy, vẫn còn hiểm hoạ rằng, phát triển kiêu mạn trí năng, y có thể coi thường trực giác, như Theseus đã bỏ quên Ariadne, và vì thế lần này thất bại trong việc hiện thực hoá các khả năng cao nhất của mình.
In ancient Greece the lesser mysteries were especially celebrated in a little place called Agrae, and the initiates were called “mystae.” Perhaps you know that their official dress, the token of their dignity, was the skin of a fawn, which in the old symbology represented the astral body.Ở Hy Lạp cổ, các huyền môn tiểu cử hành đặc biệt tại một nơi nhỏ gọi là Agrae, và những người nhập môn được gọi là “mystae”. Có lẽ bạn biết rằng lễ phục chính thức của họ, dấu hiệu của phẩm vị, là da của một con hoẵng, vốn theo biểu tượng cổ đại tượng trưng cho thể cảm dục.
Its spotted appearance was thought to be emblematic of the many colours in an ordinary astral body. The reason why this was considered a fitting dress for those initiated into the lesser mysteries was because the principal teachings given in them concerned the astral plane. Those who were admitted learned what the astral life of man would be after death.Vẻ lốm đốm của nó được xem là tiêu biểu cho nhiều màu sắc trong một thể cảm dục thông thường. Lý do nó được coi là lễ phục thích hợp cho những người được điểm đạo vào huyền môn tiểu là vì giáo huấn chủ yếu được ban trong đó liên quan đến cõi cảm dục. Những ai được thâu nhận sẽ học đời sống cảm dục của con người sau khi chết sẽ như thế nào.
Much time was spent in making clear by example as well as by teaching what would be the effect in the astral world of a certain mode of life on earth. In the first place they taught by illustrations, on an extensive scale by representations in the temples, by a kind of play or drama in which was shown what, in the astral world, would be the condition of a man who had been, let us say, avaricious or full of sensual desires. In the old days of the mysteries, when the leaders were adepts or pupils of adepts, these representations were something like materializations. That is to say, the teacher, whoever he was, produced them by his own power out of astral or etheric matter, and created a real image for his pupils. But as time advanced, and later teachers were unable to bring about this phenomenon, they tried to represent these teachings in other ways—in some cases by what we should call acting. Members of the priesthood took the roles of different persons, while in other cases puppets were moved by machinery.Nhiều thời gian được dùng để làm sáng tỏ, bằng minh hoạ cũng như bằng lời dạy, những hệ quả trên cõi cảm dục của một lối sống nào đó ở trần gian. Trước hết, họ dạy bằng các minh hoạ quy mô lớn qua những trình bày trong đền, bằng một thứ kịch hay diễn xướng, trong đó cho thấy trên cõi cảm dục tình trạng của một người đã, giả như, tham lam hay đầy dục vọng xác thịt sẽ ra sao. Thuở xưa của các huyền môn, khi những vị lãnh đạo là các chân sư hay môn sinh của các chân sư, các trình bày ấy giống như những hiện hình. Nghĩa là, vị giáo sư, bất kể là ai, tạo ra chúng bằng quyền năng riêng của mình từ chất liệu cảm dục hay dĩ thái, và tạo nên một hình ảnh thật cho học trò. Nhưng theo thời gian, các bậc giáo sư về sau không còn có thể làm nên hiện tượng ấy nữa, họ cố trình bày giáo huấn bằng những cách khác—trong vài trường hợp là bằng thứ mà chúng ta gọi là diễn kịch. Các thành viên của giới tư tế đóng vai những nhân vật khác nhau, trong khi ở những trường hợp khác người ta dùng máy móc để chuyển động các con rối.
In addition to the teaching concerning the astral plane, instructions were also given in the same way as to the system of world-evolution. Among other things, pupils were taught how our solar system and its different parts came into existence. You can easily see how that could be represented, first by materialized nebulae and globes, and how, when this materialization was no longer possible, the arrangement of different globes could be made clear by the use of what we now call an orrery—that is, a model of the solar system.Ngoài giáo huấn về cõi cảm dục, còn có chỉ dẫn theo cùng cách như thế về hệ thống tiến hoá thế giới. Trong số những điều khác, học trò được dạy cách hệ mặt trời của chúng ta và các phần khác nhau của nó hình thành. Bạn dễ dàng thấy điều đó có thể được trình bày thế nào, ban đầu bằng cách hiện hình các tinh vân và các bầu, và khi việc hiện hình không còn khả hữu, thì sắp đặt các bầu khác nhau có thể được làm rõ bằng việc dùng cái mà nay chúng ta gọi là một mô hình hệ mặt trời.
One of the most important things connected with the mysteries was that they explained the outer religion of the people in quite another way than that given to the general public. If you know anything about the religion of ancient Greece, you will understand that there were many things which badly needed some inner explanation, for certainly their religion does not appear to be very elevated or very reasonable when looked at from the ordinary standpoint. It seems to have been the object that all the stories which made up the outer teaching, many of which seem very extraordinary, should be learnt by the people and retained in their minds—just a few simple, clear conceptions, and nothing more. But all earnestminded people joined the mysteries, and learnt there the real meaning of the stories, which gave the whole thing quite another aspect.Một trong những điều quan trọng nhất gắn với các huyền môn là chúng giải thích tôn giáo ngoại tại của quần chúng theo một cách hoàn toàn khác với cách được ban cho công chúng. Nếu bạn biết đôi điều về tôn giáo của Hy Lạp cổ, bạn sẽ hiểu rằng có nhiều điều rất cần một chú giải nội tâm, vì chắc chắn tôn giáo của họ không có vẻ cao thượng hay hợp lý khi nhìn theo quan điểm thông thường. Có vẻ như chủ đích là tất cả những câu chuyện cấu thành giáo huấn ngoại môn—nhiều câu chuyện trong đó có vẻ hết sức lạ lùng—sẽ được người dân học và ghi nhớ—chỉ một vài khái niệm đơn giản, rõ ràng, và không hơn. Nhưng tất cả những người có tâm chí thành đều gia nhập các huyền môn, và học ở đó ý nghĩa thật của những câu chuyện, điều làm cho toàn bộ vấn đề mang một diện mạo hoàn toàn khác.
Let me give you an idea of what I mean, by two or three very simple and short examples. I told you that, for the most part, the aim of those lesser mysteries was to inform the pupils about the effects on the astral plane of a certain mode of life here on earth. You probably know the myth of Tantalus. He was a man condemned to suffer in hell eternal thirst, while water surrounded him on all sides, but receded from his lips as soon as he tried to drink. The meaning of this is not difficult to see, when once we know what the astral life is. Every one who leaves this world of ours full of sensual desires of any kind—as, for example, a drunkard, or some one who has given himself up to sensual living in the ordinary meaning of the word—such a man finds himself on the astral plane in the position of Tantalus.Để bạn hiểu ý tôi, xin nêu hai ba ví dụ ngắn và đơn giản. Tôi đã nói rằng, phần lớn, mục đích của huyền môn tiểu là thông tri cho học trò về các hệ quả trên cõi cảm dục của một lối sống nào đó ở trần gian. Bạn hẳn biết thần thoại Tantalus. Ông là người bị kết án chịu khát muôn đời nơi địa ngục, trong khi nước vây quanh mọi phía, nhưng lùi xa khỏi môi ông ngay khi ông toan uống. Ý nghĩa điều này không khó thấy, một khi chúng ta biết đời sống cảm dục là gì. Bất kỳ ai rời thế gian này vẫn đầy dục vọng xác thịt—như, chẳng hạn, một kẻ nghiện rượu, hay ai đó đã phó mặc mình cho đời sống dục lạc theo nghĩa thường của từ ấy—thì người ấy ở trên cõi cảm dục sẽ ở vào vị thế của Tantalus.
He has built up for himself this terrible desire which governs his whole being. You know how powerful the desire can be in the case of a drunkard; it conquers his feelings of honor, his love of his family, and all the better inclinations of his character. He will take money from his wife and children, will even take their clothes to sell them and obtain money to drink.Y đã tự dựng nên trong mình dục vọng khủng khiếp này, điều thống trị toàn thể hữu thể của y. Bạn biết dục vọng có thể mạnh mẽ thế nào trong trường hợp kẻ nghiện rượu; nó chinh phục cảm thức danh dự của y, tình yêu gia đình của y, và mọi khuynh hướng tốt đẹp nơi tính cách của y. Y sẽ lấy tiền của vợ con, thậm chí mang cả áo quần của họ đi bán để lấy tiền uống rượu.
Remember that when a man dies he does not change at all. His desire is still as powerful as ever. But it is impossible to gratify it, because his physical body, through which only he could drink, is gone. There you have your Tantalus, as you see, full of that terrible desire, always finding that the gratification recedes as soon as he thinks he has it.Hãy nhớ rằng khi một người chết, y không hề thay đổi. Dục vọng của y vẫn mạnh như trước. Nhưng không thể thoả mãn nó, vì thể xác qua đó y mới có thể uống đã không còn. Ở đó bạn có Tantalus, như bạn thấy, đầy dục vọng khủng khiếp ấy, luôn phát hiện thoả mãn lùi xa ngay khi y tưởng đã nắm được.
Recall also the story of Tityus, the man who was tied to a rock, his liver being gnawed by vultures, and growing again as fast as it was eaten. There you have an illustration of the effect of yielding to desire: an image of the man who is always tortured by remorse for sins committed on earth.Cũng hãy nhớ câu chuyện về Tityus, người bị trói vào tảng đá, gan bị kền kền mổ xé, và cứ mọc lại nhanh bằng tốc độ nó bị ăn. Ở đó bạn có một minh hoạ về hệ quả của sự buông mình theo dục vọng: hình ảnh của kẻ luôn bị dày vò bởi ăn năn vì tội lỗi phạm trên trần.
As perhaps a higher example of the same we can take the story of Sisyphus. You know how he was condemned always to roll a stone up a hill, and how, when he reached the top, the stone would always roll down again. That is the condition of an ambitious man after death, a man who has spent his life in making plans for selfish ends, for attaining glory or honor. In his case also death brings no change. He goes on making plans just as he did during life. He works out his plans, he executes them, as he thinks, till the point of culmination, and then he suddenly perceives that he has no longer a physical body, and that all was but a dream. Then be begins again and again, till he has learnt at last that these desires are useless and that ambition must be killed. So Sisyphus goes on uselessly rolling the stone up the hill, till at last he learns not to roll it any more. To have learnt that is to have conquered that desire, and he will come back in his next life without it; without the desire, but of course not without the weakness of character which made that desire possible.Và như một ví dụ cao hơn có thể lấy câu chuyện Sisyphus. Bạn biết ông bị kết án luôn lăn một hòn đá lên đồi, và khi vừa lên tới đỉnh, hòn đá lại lăn xuống. Đó là tình trạng của một người đầy tham vọng sau khi chết, một người đã dùng cả đời để lập kế hoạch cho những mục tiêu vị kỷ, để đạt vinh quang hay danh dự. Trong trường hợp của y, cái chết cũng không mang lại đổi thay. Y tiếp tục vạch kế hoạch như khi còn sống. Y soạn kế hoạch, thi hành chúng, theo y nghĩ, cho đến điểm đỉnh cao, rồi bỗng nhiên nhận ra rằng y không còn thể xác, và tất cả chỉ là một giấc mộng. Rồi y bắt đầu lại, hết lần này đến lần khác, cho đến khi y học được rằng các dục vọng này vô ích và tham vọng phải bị tiêu diệt. Vậy nên Sisyphus cứ vô ích lăn đá lên đồi, cho đến khi cuối cùng y học được là đừng lăn nó nữa. Học được điều đó tức là đã chinh phục được dục vọng ấy, và y sẽ trở lại trong kiếp tới không còn nó nữa; không còn dục vọng,  nhưng dĩ nhiên không phải không còn sự yếu kém trong tính cách vốn làm cho dục vọng ấy có thể nảy sinh.
So you see that conditions that seem terrible are but the effects in the other world of a wrong life here on earth. That is nature’s method of turning wrong into good. Man does suffer, but what he suffers is only the effect of his own action and nothing else; it is not punishment inflicted upon him from outside, but entirely of his own making. And that is not all. The suffering he has to bear is the only means by which his qualities can be directed in the right way for his evolution and progress in another life. This was a point much emphasized in the teaching of the mysteries.Vậy bạn thấy những tình cảnh có vẻ khủng khiếp thực ra chỉ là các hệ quả ở thế giới bên kia của một cuộc sống sai lệch ở trần gian. Đó là phương pháp của thiên nhiên để chuyển sai thành đúng. Con người có chịu khổ, nhưng điều y chịu chỉ là quả của chính hành động y và không gì khác; nó không phải là hình phạt giáng từ bên ngoài, mà hoàn toàn do y tự tạo. Và không chỉ thế. Nỗi khổ y phải chịu là phương tiện duy nhất qua đó các phẩm tính của y được định hướng đúng đắn cho tiến hoá và tiến bộ của y trong một kiếp khác. Điều này là một điểm được nhấn mạnh nhiều trong giáo huấn của các huyền môn.
Now in regard to the greater mysteries. Those were celebrated principally in the great temple of Eleusis, not far from Athens. The initiates were named “epoptai,” that is, “they whose eyes are opened.” Their emblem was the golden fleece of Jason which is the symbol of the mind-body; for the yellow colour in the human aura indicates the intelligence, as every clairvoyant knows. In this degree of initiation the teachings of the former degree were continued. In the first, as you remember, were taught the effects in the astral world of various ways of living. In the greater mysteries the pupil was shown what would be the effect in the heaven-world of a certain line of life, study and aspiration on earth. The whole history of the evolution of the world and of man, in its deeper aspect, was expounded in the greater mysteries. The same method or representation as in the other case was used here; although it was much more difficult to represent on the physical plane what belonged to the mental.Giờ nói về huyền môn đại. Những huyền môn này được cử hành chủ yếu tại ngôi đền lớn ở Eleusis, không xa Athens. Những người được điểm đạo gọi là “epoptai”, nghĩa là “những người có đôi mắt đã mở”. Biểu tượng của họ là bộ lông cừu vàng của Jason, tượng trưng cho thể trí; vì màu vàng trong hào quang con người biểu thị trí tuệ, như mọi nhà thông nhãn đều biết. Trong bậc điểm đạo này, các giáo huấn của bậc trước được tiếp tục. Ở bậc thứ nhất, như bạn nhớ, người ta được dạy các hệ quả trên cõi cảm dục của những cách sống khác nhau. Trong huyền môn đại, học trò được chỉ cho thấy hệ quả ở cõi thượng thiên của một đường hướng sống, học tập và chí nguyện trên trần. Toàn bộ lịch sử tiến hoá của thế giới và của con người, trong viễn tượng sâu xa hơn, được giảng giải trong huyền môn đại. Phương pháp trình bày cũng giống như trong trường hợp kia; dù khó khăn hơn nhiều khi phải trình bày trên cõi hồng trần những gì thuộc về cõi trí.
In each of these divisions of the mysteries, the lesser and the greater, there was an inner school which taught practical development to those who were seen to be ready for it. In the lesser mysteries theoretical knowledge about the astral plane was given, but the teachers carefully watched their pupils, and when they noticed one of whose character they felt sure, who showed that he was capable of psychic development, they invited him into the inner circle in which instruction was given as to the method of using the astral body and consciously functioning in it. When such a man passed on to the greater mysteries he received not only the ordinary teaching about the conditions of the mental plane, but also private instruction as to the development of the mental body as a vehicle.Trong mỗi phân hệ của các huyền môn, đại và tiểu, đều có một nội học truyền dạy phát triển thực hành cho những ai được thấy là đã sẵn sàng. Trong huyền môn tiểu, tri thức lý thuyết về cõi cảm dục được ban, nhưng các thầy chăm chú quan sát học trò, và khi nhận thấy có người mà họ tin chắc về tính cách, cho thấy y có khả năng phát triển tâm thông, họ mời y vào nội đồ, nơi có chỉ dẫn về phương pháp sử dụng thể cảm dục và hoạt động có ý thức trong đó. Khi một người như thế tiến vào huyền môn đại, y không chỉ nhận giáo huấn thông thường về các điều kiện của cõi trí, mà còn nhận chỉ dẫn riêng về việc phát triển thể trí như một vận cụ.
Those who were thus received, not only into the recognized stages of the mysteries but into their inner schools, were also taught at the end of their course that all of this was in truth but exoteric—that all which they had learnt, incalculable as had been its value, was really only a preparation for the true mysteries of initiation which would lead them to the feet of the Masters of Wisdom, and admit them to the Great Brotherhood which rules the world.Những ai như thế được thâu nhận, không chỉ vào các giai đoạn thừa nhận của huyền môn mà còn vào các nội học của chúng, cũng được dạy ở cuối khoá rằng tất cả những điều này thực ra chỉ là ngoại môn—rằng mọi điều họ đã học, dẫu giá trị vô lượng, thực ra chỉ là sự chuẩn bị cho các huyền môn chân chính của điểm đạo, những điều sẽ dẫn họ đến dưới chân các Chân sư Minh triết, và đưa họ vào Đại Huynh đệ Đoàn đang cai quản thế gian.
I may explain still further the meaning of some of those symbols which were used in connection with the mysteries. First, we will take what was called the thyrsus—that is, a staff with a pine-cone on its top. In India the same symbol is found, but instead of the staff a stick of bamboo with seven knots is used. In some modifications of the mysteries, a hollow iron rod, said to contain fire, was used instead of the thyrsus. Here again it is not difficult for the student of occultism to see the meaning. The staff or the stick with seven knots represents the spinal cord, with its seven centres, of which we read in the Hindu books. The hidden fire is the serpent-fire, kundalini, of which you may read in The Secret Doctrine. But the thyrsus was not only a symbol; it was also an object of practical use. It was a very strong magnetic instrument, used by initiates to free the astral body from the physical when they passed in full consciousness to this higher life. The priest who had magnetized it laid it against the spinal cord of the candidate and gave him in that way some of his own magnetism, to help him in that difficult life and in the efforts which lay before him. In connection with these mysteries, a certain set of objects called the toys of Bacchus are spoken of. When you go over those lists of the toys of Bacchus you will find them very remarkable.Tôi có thể giải thích thêm nữa về ý nghĩa của một số biểu tượng được dùng trong liên hệ với các bí nhiệm. Trước hết, chúng ta sẽ xét cái được gọi là thyrsus—tức là một cây trượng có gắn quả thông ở đầu. Ở Ấn Độ có cùng biểu tượng ấy, nhưng thay vì cây trượng là một gậy tre có bảy đốt. Trong một số biến thể của các bí nhiệm, người ta dùng một ống sắt rỗng, được nói là chứa lửa, thay cho thyrsus. Ở đây, đối với đạo sinh huyền bí học, không khó thấy ý nghĩa. Cây trượng hoặc cây gậy có bảy đốt tượng trưng cho tủy sống với bảy trung tâm, như ta đọc trong các sách Ấn giáo. Ngọn lửa ẩn tàng là lửa xà kundalini, mà bạn có thể đọc trong Giáo Lý Bí Nhiệm.  Nhưng thyrsus không chỉ là một biểu tượng; nó còn là một vật dụng thực hành. Đó là một khí cụ từ tính rất mạnh, do các điểm đạo đồ dùng để giải phóng thể cảm dục khỏi thể xác khi các vị chuyển sang đời sống cao hơn này trong sự tỉnh biết trọn vẹn. Vị tư tế đã từ hóa nó áp vào tủy sống của ứng viên và theo cách ấy truyền cho y một phần từ điện của chính mình, giúp y trong đời sống khó khăn đó và trong những nỗ lực đang chờ phía trước. Liên hệ với các bí nhiệm này, người ta còn nói đến một bộ vật dụng nhất định gọi là đồ chơi của Bacchus. Khi bạn xem qua danh sách các đồ chơi của Bacchus, bạn sẽ thấy chúng thật đáng kinh ngạc.
Whilst the child Bacchus (the LOGOS) plays with his toys he is seized by the Titans and torn to pieces. Later these pieces are put together and built into a whole. You will understand that this, however clumsy it may seem to us, is without doubt an allegory, which represents the descending of the One to become the many, and the re-union of the many in the One, through suffering and sacrifice. What, then, are the toys of the child Bacchus when he falls into matter and becomes the many? In the first place we find him playing with dice. Those dice are not common dice, but the five platonic solids; a set of five regular figures, the only regular polygons possible in geometry. They are given in a fixed series, and this series agrees with the different planes of the solar system. Each of them indicates, not the form of the atoms of the different planes, but the lines along which the power works which surrounds those atoms. These polygons are the tetrahedron, the cube, the octohedron, the dodecahedron, and the icosahedron. If we put the point at one end and the sphere at the other we get a set of seven figures, corresponding to the number of planes of our solar system.Trong khi Bacchus hài nhi (Ngôi Lời) chơi với đồ chơi của mình, Ngài bị các Titan bắt lấy và xé ra từng mảnh. Sau đó, những mảnh ấy được ráp lại và xây dựng thành một toàn thể. Bạn sẽ hiểu rằng, dẫu có vẻ vụng về với chúng ta, đây chắc chắn là một ẩn dụ, biểu thị sự giáng hạ của Đấng Duy Nhất để trở thành cái nhiều, và sự tái hợp của cái nhiều trong Đấng Duy Nhất, qua khổ đau và hiến tế. Vậy đồ chơi của Bacchus hài nhi là gì khi Ngài rơi vào vật chất và trở thành cái nhiều? Trước hết, chúng ta thấy Ngài chơi xúc xắc. Những xúc xắc ấy không phải loại thường, mà là năm khối đa diện Platôn; một bộ gồm năm hình đều, là những đa diện đều duy nhất có thể có trong hình học. Chúng được sắp theo một chuỗi cố định, và chuỗi này tương ứng với các cõi khác nhau của hệ mặt trời. Mỗi hình trong đó chỉ ra, không phải hình dạng của các nguyên tử thuộc các cõi khác nhau, mà là những đường dọc theo đó mãnh lực bao quanh các nguyên tử ấy vận hành. Các đa diện ấy là: tứ diện, lập phương, bát diện, mười hai mặt đều và hai mươi mặt đều. Nếu ta đặt điểm ở một đầu và hình cầu ở đầu kia, ta được một bộ bảy hình, tương ứng với số cõi của hệ mặt trời chúng ta.
You know that in some of the older schools of philosophy it was said: “No one can enter who does not know mathematics.” What do you think is meant by that? Not what we now call mathematics, but the mathematics which embraced the knowledge of the higher planes, of their mutual relations and the way in which the whole is built by the will of God. Plato said, “God geometrizes,” and it is perfectly true. Those forms are not conceptions of the human brain; they are truths of the higher planes. We have formed the habit of studying the books of Euclid, but we study them now for themselves, and not as a guide to something higher. The old philosophers pondered upon them because they led to the understanding of the true science of life. We have lost sight of the true teaching, and grasp in many cases only the lifeless form.Bạn biết rằng trong một số trường phái triết học cổ xưa có câu: “Không ai được vào nếu không biết toán học.” Với câu ấy, theo bạn, người ta muốn nói gì? Không phải thứ mà ngày nay chúng ta gọi là toán học, mà là thứ toán học bao gồm tri thức về các cõi cao, về tương quan hỗ tương của chúng và về cách toàn thể được kiến tạo bởi Ý Chí của Thượng đế. Platon nói: “Thượng đế kiến tạo theo hình học,” và điều đó hoàn toàn đúng. Những hình ấy không phải là sản phẩm của bộ óc nhân loại; chúng là các chân lý của các cõi cao. Chúng ta đã quen học các sách của Euclid, nhưng nay ta học chúng vì chính chúng, chứ không xem như cẩm nang dẫn lên điều cao hơn. Các triết gia xưa suy ngẫm về chúng vì chúng đưa đến sự thấu hiểu chân khoa học về sự sống. Chúng ta đã đánh mất tầm nhìn về giáo huấn chân thực, và trong nhiều trường hợp chỉ nắm lấy hình thức vô sinh khí.
Another toy with which Bacchus played was a top, the symbol of the whirling atom of which you will find a picture in Occult Chemistry. He also plays with a ball which represents the earth, that particular part of the planetary chain to which the thought of the LOGOS is specially directed at the moment. Also he plays with a mirror. The mirror has always been a symbol of astral light, in which the archetypal ideas are reflected and then materialized. So you see that each of those toys indicates an essential part in the evolution of a solar system.Một món đồ chơi khác mà Bacchus dùng là con cù—biểu tượng của nguyên tử quay, mà bạn sẽ thấy hình vẽ trong Hóa Học Huyền Bí.  Ngài cũng chơi với một quả cầu tượng trưng cho Địa cầu, phần đặc thù của Dãy Hành tinh mà vào lúc ấy tư tưởng của Thái dương Thượng đế đặc biệt hướng đến. Ngài cũng chơi với một chiếc gương. Gương xưa nay là biểu tượng của ánh sáng cảm dục, trong đó các ý tưởng nguyên mẫu được phản chiếu rồi hiện hình. Như vậy bạn thấy, mỗi đồ chơi ấy chỉ ra một bộ phận thiết yếu trong tiến trình tiến hóa của một hệ mặt trời.
A few words may be said about the way in which people were prepared for the study of those mysteries by the different schools; for instance, the Pythagorean school, to which I belonged. In the Pythagorean schools, the pupils were divided into three classes. The first was called that of the akoustikoi or hearers. This means that they were learners, but it is also true that one of the rules was that they were to keep absolutely silent for two years.Có thể nói đôi lời về cách các trường phái khác nhau chuẩn bị con người học các bí nhiệm ấy; thí dụ như trường Pythagoras, nơi tôi đã thuộc về. Trong các trường Pythagoras, học chúng được phân thành ba hạng. Hạng thứ nhất gọi là akoustikoi hay thính giả. Điều này nghĩa là họ là những người học, nhưng cũng đúng là một trong các quy luật buộc họ phải giữ im lặng tuyệt đối trong hai năm.
I think this rule would be regarded as a serious drawback by many who join our Society at the present time, but in those olden times a great many people, not only men but women too, submitted to this stipulation. The rule had also another meaning, but it is a fact that during two years the members of the first class were compelled to keep silence. The other meaning was that during all the time, however long, that a man stayed in this class of the akoustikoi, he might not give out any teaching, but continued to learn. I have wished that we had some such arrangement in the Theosophical Society, for it sometimes happens that members who do not yet know much themselves want to teach others, and the teaching is not always recognizable as Theosophy.Tôi nghĩ rằng quy luật này sẽ bị nhiều người gia nhập Hội của chúng ta ngày nay xem là một trở ngại nghiêm trọng, nhưng vào thời xưa, rất nhiều người—không chỉ nam mà cả nữ—đã chấp nhận điều khoản ấy. Quy luật ấy còn có một ý nghĩa khác nữa, nhưng sự thật là trong hai năm, các thành viên của hạng thứ nhất bị buộc phải giữ im lặng. Ý nghĩa khác là trong suốt thời gian, bất kể bao lâu, mà một người còn ở hạng akoustikoi, y không được truyền dạy bất kỳ giáo huấn nào, mà tiếp tục học. Tôi đã từng mong chúng ta cũng có một sắp đặt tương tự trong Hội Thông Thiên Học, vì đôi khi xảy ra việc những hội viên chưa biết nhiều đã muốn dạy người khác, và giáo huấn ấy không phải lúc nào cũng nhận ra được là Thông Thiên Học.
The second class of Pythagoreans was called that of the mathematikoi. They passed their time in studying geometry, numbers and music. They brought these different subjects into relation to one another and worked out the relations between colour and sound, which are very remarkable.Hạng thứ hai của Pythagore gọi là mathematikoi. Họ dành thời gian học hình học, số học và âm nhạc. Họ liên hệ các môn khác nhau này với nhau và khai triển những tương quan giữa màu sắc và âm thanh, vốn rất đáng kinh ngạc.
Let us take an example, which shows how our world is a coherent whole and how we can take from different parts which do not seem to have any connection whatever, and bring them into relation with each other. I just spoke about the five platonic polygons. Every one who knows anything about music knows that there is a fixed proportion between the length of the strings which produce certain tones. You know that you can tune a piano according to a certain system of fifths, and you can express the relation of the different tones to one another by the number of vibrations of each tone; so you can express an harmonious chord in mathematical numbers. This was first discovered simply by experiment; later the mathematicians found out what the proportions should be, and again by experiment they were found to be exact. But the peculiarity is that the set of numbers which produces an harmonious chord have the same relation to one another as that which exists between certain parts of these platonic solids. I believe that this point was worked out some time ago in an article in the Theosophical Review by one of the English cathedral organists.Chúng ta hãy lấy một ví dụ, cho thấy thế giới của chúng ta là một toàn thể mạch lạc và cho thấy chúng ta có thể lấy từ những phần tưởng như chẳng liên hệ gì, rồi nối chúng lại với nhau. Tôi vừa nói về năm đa diện Platôn. Ai biết đôi điều về âm nhạc đều biết có một tỉ lệ cố định giữa độ dài của những dây tạo ra các cao độ nhất định. Bạn biết có thể lên dây đàn piano theo một hệ thống quãng năm nào đó, và bạn có thể biểu thị tương quan các âm với nhau bằng số dao động của từng âm; do đó bạn có thể biểu diễn một hợp âm hòa điệu bằng các con số toán học. Điều này ban đầu được phát hiện đơn thuần bằng thí nghiệm; sau đó các nhà toán học tìm ra các tỉ lệ cần có, và lại bằng thí nghiệm người ta xác nhận chúng là chính xác. Nhưng điều đặc biệt là bộ số tạo ra một hợp âm hòa điệu lại có tương quan với nhau y hệt như tương quan tồn tại giữa những phần nhất định của các khối đa diện Platôn này. Tôi tin rằng điểm này đã từng được khai triển cách đây một thời gian trong một bài trên Tạp chí Thông Thiên Học  do một nghệ sĩ đàn ống của nhà thờ chính tòa Anh quốc viết.
It is very remarkable that our scale, so different from the old Greek scale, which consisted of five tones, can still be deduced from the proportion of those five platonic figures, which were studied some thousands of years ago in Greece. One is apt to think that there cannot be much relation between mathematics and music, but you see that they are both parts of one great whole.Điều thật đáng chú ý là thang âm của chúng ta—dù khác hẳn thang âm Hy Lạp cổ, vốn gồm năm âm—vẫn có thể được suy xuất từ các tỉ lệ của năm đa diện Platôn ấy, những hình đã được khảo cứu cách đây hàng ngàn năm tại Hy Lạp. Người ta dễ ngỡ rằng giữa toán học và âm nhạc không có bao lăm liên hệ, nhưng bạn thấy đấy, cả hai đều là những phần của một toàn thể vĩ đại.
The third class of the Pythagorean school was formed of the physikoi—those who studied physics, the inner connection between phenomena, world-building and metaphysics. They learnt the truth about man and nature and, as far as they could learn it, about Him who made both.Hạng thứ ba của trường Pythagoras là physikoi —những người học vật lý, mối liên hệ nội tại giữa các hiện tượng, công cuộc kiến tạo thế giới và siêu hình học. Họ học chân lý về con người và thiên nhiên, và trong mức có thể, về Đấng đã tạo nên cả hai.
There is still one point in the mysteries which we should not forget to consider—the life of the disciples. A life of perfect purity was strictly required. It is a remarkable coincidence that the life in the Pythagorean school is divided into five periods, almost similar to the five steps of the preparatory path of the Hindus, as described by me in Invisible Helpers, and by Mrs. Besant in The Path of Discipleship. Almost all the forms and symbols of the present Christian religion are derived from the Egyptian mysteries. All the symbolism, for example, that is related to the Latin cross, and to the descent and sacrifice of the LOGOS, is taken from the Egyptian mysteries. I have written about this in The Christian Creed.Còn một điểm nữa trong các bí nhiệm mà chúng ta không nên quên bàn đến—đời sống của các đệ tử. Một đời sống thanh tịnh hoàn toàn được đòi hỏi nghiêm ngặt. Thật là một sự trùng hợp đáng chú ý khi đời sống trong trường Pythagoras được chia thành năm thời kỳ, gần như tương tự năm bước của Con Đường Dự Bị của người Ấn, như tôi đã mô tả trong Những Trợ Giúp Vô Hình,  và như Bà Besant trong Con Đường Đệ Tử.  Hầu như tất cả các hình thức và biểu tượng của tôn giáo Cơ Đốc hiện nay đều bắt nguồn từ các bí nhiệm Ai Cập. Chẳng hạn toàn bộ biểu tượng liên quan đến thập giá La-tinh, và đến sự giáng lâm cùng hiến tế của Ngôi Lời, đều được lấy từ các bí nhiệm Ai Cập. Tôi đã viết về điều này trong Tín Điều Kitô giáo.
Though the mysteries of Greece and Rome, of Egypt and Chaldaea, are long ago defunct, the world has never been left without avenues of approach to the inner shrine. Even in the gross darkness of the middle ages the Rosicrucians and some other secret societies were ready to teach the truth to those who were ready to learn; and now in these modern days of hurry and materialism the Theosophical Society still upholds the banner of true knowledge, and acts as a gateway by means of which those who are really in earnest may reach the feet of the Masters of the Wisdom. We have our grades in the Esoteric Section, just as the mysteries had; and behind us, as behind them, stand always the officials of the Great White Brotherhood, who keep in their hands the key to the true initiations.Dẫu các bí nhiệm của Hy Lạp và La Mã, của Ai Cập và Chaldea đã tiêu vong từ lâu, thế giới chưa bao giờ bị bỏ mặc không có những lối ngả tiến vào nội điện. Ngay giữa bóng tối thô nặng của thời trung cổ, Huynh đệ Hoa Hồng Thập Tự và một vài hội kín khác vẫn sẵn sàng dạy chân lý cho những ai sẵn lòng học; và nay, giữa thời hiện đại vội vã và duy vật này, Hội Thông Thiên Học vẫn giương cao ngọn cờ chân tri, và làm cổng vào nhờ đó những ai thực sự chí thành có thể đến dưới chân các Chân sư của Minh triết. Chúng ta có các cấp bậc trong Ban Nội Môn, cũng như các bí nhiệm đã có; và phía sau chúng ta, như phía sau họ, luôn luôn có các vị chức sự của Huynh đệ Đoàn Chánh đạo, những vị giữ trong tay chìa khóa của các cuộc điểm đạo chân chính.
You must also remember that many things given in those old days only under the seal of secrecy are now made public, and through our Society are given to the world. Many of the greatest and noblest characters of history have passed years in study and work to try to find what is now given us so easily and simply in a few books. Of us is perfectly true what is said in the Bible: “Many prophets and kings have desired to see those things which ye see, and have not seen them; and to hear those things which ye hear, and have not heard them.” (Luke, x.) Because this honour is reserved for us and this opportunity is given us, it seems to me that a great responsibility rests upon us, and that we should try to be worthy of the gift. It is good karma which allows this possibility to open before us. If we let it pass, we shall not deserve to have another offered us for thousands of years. If you knew, as I know, with what difficulties we had to contend in former days to learn all those things which are laid before us now, perhaps you would appreciate more the opportunity offered you. Let us try to make use of it to the utmost of our power, and show ourselves worthy of the privilege given us by Theosophy.Bạn cũng phải nhớ rằng nhiều điều thuở xưa chỉ được ban truyền dưới ấn bí mật, thì nay đã được công khai, và thông qua Hội của chúng ta được trao cho thế giới. Nhiều nhân vật vĩ đại và cao quý nhất trong lịch sử đã trải qua nhiều năm học hỏi và làm việc để cố tìm ra những gì nay được trao cho chúng ta thật dễ dàng và giản dị trong một vài cuốn sách. Điều nói trong Kinh Thánh hoàn toàn đúng với chúng ta: “Nhiều nhà tiên tri và các vua chúa đã ao ước thấy những điều mà các ngươi thấy mà không được thấy; và nghe những điều các ngươi nghe mà không được nghe.” (Lu-ca,  x.) Bởi vinh dự này được dành cho chúng ta và cơ hội này được ban cho chúng ta, theo tôi dường như một trách nhiệm lớn đặt lên chúng ta, và chúng ta nên cố xứng đáng với ân huệ ấy. Đó là nghiệp quả lành cho phép khả năng này mở ra trước mắt chúng ta. Nếu chúng ta để nó trôi qua, chúng ta sẽ không xứng đáng để được trao một cơ hội khác trong hàng ngàn năm. Nếu bạn biết, như tôi biết, chúng tôi đã phải đối đầu những khó khăn nào trong những ngày trước kia để học tất cả những điều nay được bày ra trước chúng ta, có lẽ bạn sẽ trân trọng hơn cơ hội được trao. Chúng ta hãy cố gắng tận dụng nó hết mức có thể, và tỏ ra mình xứng đáng với đặc ân mà Thông Thiên Học đã ban.


Leave a Comment

Scroll to Top