The Inner Life I – Chương 5—CHÂN NGÃ VÀ PHÀM NGÃ

FIFI SECTION—THE EGO AND THE PERSONALITY

>
There are still many of our members who do not fully understand the problem of the higher and the lower self. Nor is this wonderful; for we are repeatedly told that there is only one consciousness, and yet we often clearly feel two, so it is not remarkable that students should be uncertain as to the real relation between these two, and should wonder whether the ego is entirely dissociated from his physical body and has an existence of his own among his fellows on his own plane.Vẫn còn nhiều thành viên của chúng ta chưa thấu hiểu trọn vẹn vấn đề về tự ngã cao và tự ngã thấp. Điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên; vì chúng ta thường được dạy rằng chỉ có một tâm thức duy nhất, thế mà chúng ta lại thường cảm rõ ràng như có hai, nên không lạ khi các môn sinh hoang mang về mối liên hệ thực sự giữa hai điều ấy, và tự hỏi liệu chân ngã có hoàn toàn tách rời khỏi thể xác và có một sự hiện hữu riêng giữa những đồng bạn của y trên chính cõi của y hay không.
This problem of the lower and higher self is an old one, and it is undoubtedly difficult to realize that there is after all only one consciousness, and that the apparent difference is caused only by the limitations of the various vehicles. The whole consciousness works on its own higher mental plane, but in the case of the ordinary man only partially and vaguely as yet. So far as it is active it is always on the side of good, because it desires that which is favorable to its evolution as a soul. It puts a portion of itself down into lower matter, and that portion becomes so much more keenly and vividly conscious in that matter that it thinks and acts as though it were a separate being, forgetting its connection with that less developed yet far wider self-consciousness above. So sometimes it seems as though the fragment worked against the whole; but the man who is instructed declines to be deluded, and reaches back through the keen alert consciousness of the fragment to the true consciousness behind, which is as yet so little developed.Vấn đề phàm ngã và chân ngã này vốn cũ, và quả thật khó để nhận ra rằng rốt cuộc chỉ có một tâm thức mà thôi, và sự khác biệt bề ngoài chỉ do những giới hạn của các vận cụ khác nhau gây nên. Toàn thể tâm thức hoạt động trên cõi thượng trí của nó, nhưng đối với người thường thì cho đến nay chỉ hoạt động một phần và mơ hồ. Trong chừng mực nó hoạt động, nó luôn đứng về phía điều thiện, bởi nó ước muốn điều thuận lợi cho sự tiến hoá của nó như một linh hồn. Nó đặt một phần chính mình xuống chất liệu thấp hơn, và phần ấy trở nên nhạy bén và sinh động trong chất liệu ấy đến nỗi nó suy nghĩ và hành động như thể nó là một hữu thể riêng biệt, quên mất mối liên hệ với tâm thức tự giác ít phát triển hơn nhưng rộng lớn hơn rất nhiều ở bên trên. Bởi vậy đôi khi dường như mảnh vụn ấy làm việc chống lại toàn thể; nhưng người được khai thị thì không chịu để bị mê lầm, và lần ngược qua cái tâm thức tinh anh cảnh giác của mảnh vụn ấy để chạm tới tâm thức chân thực ở hậu cảnh, vốn hãy còn rất ít phát triển.
Undoubtedly the ego is only very partially expressed by his physical body, yet we should not be accurate in speaking of him as dissociated from that body. If we figure the ego as a solid body and the physical plane as a surface, the solid body if laid upon that surface could manifest itself through that surface only as plane figure, which would obviously be an exceedingly partial expression. We can see also that if the various sides of the solid were laid upon the surface successively we might obtain expressions which differed considerably, though all of them would be imperfect, because in all cases the solid would have an extension in an entirely different direction, which could by no means be expressed in the two dimensions of the superficies. We shall obtain a nearly accurate symbolism of the facts as far as the ordinary man is concerned if we suppose the solid to be conscious only so far as it is in contact with the surface, although the results gained through the manifestation of such consciousness would inhere in the solid as a whole, and would be present in any later expression of it, even though that might differ considerably from previous expressions.Quả thật chân ngã chỉ được thể xác biểu đạt một phần rất nhỏ, tuy nhiên chúng ta cũng không chính xác nếu nói về y như thể tách rời khỏi thể xác ấy. Nếu chúng ta hình dung chân ngã như một khối rắn và cõi hồng trần như một bề mặt, thì khối rắn ấy nếu đặt lên bề mặt kia chỉ có thể tự biểu lộ qua bề mặt như một hình phẳng, hiển nhiên là một sự biểu đạt hết sức phiến diện. Ta cũng có thể thấy rằng nếu lần lượt đặt các mặt khác nhau của khối rắn lên bề mặt, chúng ta sẽ có được những biểu đạt khác nhau khá nhiều, tuy tất cả đều không toàn bích, vì trong mọi trường hợp khối rắn luôn có sự trải dài theo một hướng hoàn toàn khác, điều ấy không thể nào được biểu đạt trong hai chiều của bề mặt. Chúng ta sẽ có một biểu tượng gần đúng với thực tại trong chừng mực liên quan đến người thường nếu ta giả định khối rắn chỉ ý thức ở phần tiếp xúc với bề mặt, mặc dù những kết quả thu được qua việc biểu hiện của tâm thức như thế sẽ thuộc về khối rắn như một toàn thể, và sẽ hiện diện trong bất kỳ biểu lộ nào về sau của nó, dù cho biểu lộ ấy có thể khác trước khá nhiều.
It is only in the case of those already somewhat advanced that we can speak of the ego as having a conscious existence among his fellows on his own plane. From the moment that he breaks off from his group-soul and commences his separate existence, he is a conscious entity; but the consciousness is of an exceedingly vague nature. The only physical sensation which occasionally comes to some persons is at the moment of awakening in the morning. There is a state intermediate between sleeping and waking in which a man is blissfully conscious that he exists, and yet is not conscious of any surrounding objects, not capable of any moment. Indeed, he sometimes knows that any movement would break the spell of happiness and bring him down into the ordinary waking world, and so he endeavours to remain still as long as possible.Chỉ trong trường hợp những người đã có phần nào tiến bộ thì ta mới có thể nói về chân ngã như có một sự hiện hữu có ý thức giữa các đồng bạn của y trên chính cõi của y. Kể từ khoảnh khắc y tách khỏi Hồn nhóm và bắt đầu sự hiện hữu biệt lập, y là một đơn vị có ý thức; nhưng cái tâm thức ấy cực kỳ mơ hồ. Cảm giác hồng trần duy nhất thỉnh thoảng đến với một số người là vào khoảnh khắc thức dậy buổi sáng. Có một trạng thái trung gian giữa ngủ và thức, trong đó người ta hạnh phúc ý thức rằng mình hiện hữu, nhưng chưa ý thức về bất kỳ đối tượng chung quanh nào, cũng không có khả năng cử động. Quả vậy, đôi khi người ấy biết rằng bất kỳ cử động nào cũng sẽ phá vỡ phép màu hạnh phúc và kéo y trở lại thế giới thức thường lệ, nên y cố gắng nằm yên lâu nhất có thể.
That condition—a consciousness of existence and of intense bliss—closely resembles that of the ego of the average man upon the higher mental plane. He is wholly centred there only for the short time which intervenes between the end of one life in the heaven-world and the commencement of his next descent into incarnation; and during that short period there comes to him the flash of retrospect and prospect—a glimpse of what his last life has done for him, and of what his next life is intended to do. For many ages these glimpses are his only moments of full awakening, and it is his desire for a more perfect manifestation, his desire to feel himself more thoroughly alive and active, which drives him into the effort of incarnation. It is not desire for life in the ordinary sense of the word, but rather for that complete consciousness which involves the power to respond to all possible vibrations from the surroundings on every plane, so that he may attain the perfection of sympathy.Tình trạng đó—một tâm thức về hiện hữu và phúc lạc mãnh liệt—rất giống với tình trạng của chân ngã nơi người trung bình trên cõi thượng trí. Y chỉ trọn vẹn quy tâm ở đó trong quãng ngắn xen giữa lúc chấm dứt một đời sống trên cõi trời và lúc khởi đầu cuộc giáng nhập tiếp theo; và trong quãng ngắn ấy, y có một tia lóe hồi quán và viễn kiến—một thoáng thấy được đời vừa qua đã làm gì cho y, và đời sắp đến dự định sẽ làm gì. Trong nhiều thời đại, những thoáng chốc ấy là những khoảnh khắc tỉnh thức trọn vẹn duy nhất của y, và chính khát vọng một sự biểu lộ hoàn thiện hơn, khát vọng cảm thấy mình sống và hoạt động sâu sắc hơn, đã thôi thúc y nỗ lực lâm phàm. Đó không phải là ước muốn sống theo nghĩa thông thường của từ này, mà đúng hơn là khát vọng đạt tới tâm thức trọn vẹn, vốn bao hàm năng lực đáp ứng với mọi rung động khả hữu từ hoàn cảnh chung quanh trên mọi cõi, để nhờ vậy y đạt tới sự hoàn mãn của đồng cảm.
When the ego is still undeveloped the forces of the higher mental plane pass through him practically without affecting him, as he cannot respond to more than a very few of these extremely fine vibrations. It needs powerful and comparatively coarse vibrations to affect him at first, and these do not exist upon his own plane, and for that reason he has to put himself down to lower levels in order to find them. Therefore full consciousness comes to him at first only in the lowest and densest of his vehicles, his attention being focussed for a long time down in the physical plane; so that, although that plane is so much lower than his own and offers so much less scope for activity, in those early stages he feels himself much more alive when he is working there. As the consciousness increases and widens its scope he gradually begins to work more and more in matter one stage higher—that is, in astral matter.Khi chân ngã còn chưa phát triển, các lực của cõi thượng trí hầu như đi xuyên qua y mà không tác động gì, vì y không thể đáp ứng với quá nhiều rung động cực kỳ tinh tế ấy. Lúc đầu, cần những rung động mạnh và tương đối thô để tác động lên y, mà những rung động như thế lại không hiện hữu trên cõi của y; vì lý do đó, y phải tự đặt mình xuống những mức thấp hơn để tìm thấy chúng. Do vậy, tâm thức trọn vẹn đến với y lúc ban đầu chỉ trong vận cụ thấp nhất và đậm đặc nhất của y, sự chú ý của y trong một thời gian dài dồn xuống cõi hồng trần; nên mặc dù cõi này thấp hơn nhiều so với cõi của y và cho y rất ít phạm vi hoạt động, ở những giai đoạn sớm sủa ấy y lại cảm thấy mình sống động hơn nhiều khi làm việc tại đó. Khi tâm thức gia tăng và mở rộng tầm vực của nó, y dần dần bắt đầu hoạt động ngày càng nhiều hơn trong chất liệu ở mức cao hơn một bậc—tức là trong vật chất cảm dục.
At a much later stage, when he has attained to clear working in astral matter, he begins to be able also to express himself through the matter of his mental body and the end of his present effort is achieved when he works as fully and clearly in the matter of the causal body on the higher mental plane as he does now on the physical plane.Ở một giai đoạn muộn hơn nhiều, khi y đã đạt khả năng hoạt động minh bạch trong vật chất cảm dục, y bắt đầu cũng có thể tự biểu hiện qua chất liệu của thể trí; và mục tiêu của nỗ lực hiện tại được thành tựu khi y hoạt động đầy đủ và minh bạch trong chất liệu của thể nguyên nhân trên cõi thượng trí như y hiện hoạt động trên cõi hồng trần.
These stages of full development of consciousness must not be confounded with the mere learning to use to some extent the respective vehicles. A man is using his astral body whenever he expresses an emotion; he is using his mental body whenever he thinks. But that is very far from his being able to utilize either of them as independent vehicles through which consciousness can be fully expressed. When a man is fully conscious in his astral body, he has already made a considerable amount of progress; when he has bridged over the chasm between the astral consciousness and the physical, day and night no longer exist for him, since he leads a life unbroken in its continuity. For him death also has ceased to exist, since he carries that unbroken consciousness not only through night and day, but also through the portals of death itself and up to the end of his life upon the astral plane.Những giai đoạn phát triển trọn vẹn của tâm thức này không nên bị lẫn với việc chỉ mới học sử dụng ở một mức độ nào đó các vận cụ tương ứng. Một người đang dùng thể cảm dục bất cứ khi nào y biểu lộ một cảm xúc; y đang dùng thể trí bất cứ khi nào y suy nghĩ. Nhưng điều đó còn xa mới đạt đến khả năng sử dụng bất kỳ vận cụ nào như những vận cụ độc lập qua đó tâm thức có thể được biểu đạt trọn vẹn. Khi một người hoàn toàn ý thức trong thể cảm dục, y đã tiến khá xa rồi; khi y đã bắc được nhịp cầu qua hố sâu giữa tâm thức cảm dục và tâm thức hồng trần, thì ngày và đêm không còn tồn tại đối với y nữa, vì y sống một đời sống liên tục không gián đoạn. Với y, cái chết cũng đã không còn tồn tại, vì y mang theo dòng tâm thức bất đoạn ấy không chỉ xuyên qua đêm và ngày, mà còn xuyên qua cửa ải tử vong và cho đến cuối đời sống của y trên cõi cảm dục.
One step of further development lies open to him—the consciousness of the heaven-world; and then his life and memory are continuous during the whole of each descent into incarnation. Yet one step more raises the full consciousness to the level of the ego on the higher mental plane, and after that he has always with him the memory of all his lives, and he is capable of consciously directing the various lower manifestations of himself at all points of his progress.Một bước phát triển nữa mở ra trước y—tâm thức của cõi trời; và rồi đời sống và ký ức của y liên tục suốt trọn mỗi lần giáng nhập. Thêm một bước nữa nâng tâm thức trọn vẹn lên đến mức của chân ngã trên cõi thượng trí, và từ đó về sau y luôn mang theo ký ức của tất cả các kiếp, và y có khả năng chủ động điều khiển các biểu lộ thấp của chính mình ở mọi chặng đường tiến bộ.
It must not be supposed that the development of any of these stages of consciousness is ever sudden. The actual rending of the veil between two stages is usually a fairly rapid process, sometimes even instantaneous. A man who has normally no memory of what happens on the astral plane may unintentionally, by some accident or illness, or intentionally by certain definite practices, bridge over the interval and make the connection, so that from that time onward his astral consciousness will be continuous, and his memory of what happens while the physical body is asleep will therefore be perfect. But long before such an effort or accident is possible for him the full consciousness must have been working in the astral body, even though in the physical life he knew nothing of it.Không nên tưởng rằng sự phát triển của bất kỳ giai đoạn tâm thức nào trong số này lại diễn ra đột ngột. Sự xé rách thực sự của bức màn giữa hai giai đoạn thường là một quá trình khá nhanh, đôi khi thậm chí tức thời. Một người bình thường không hề có ký ức về những gì xảy ra trên cõi cảm dục có thể vô tình, do một tai nạn hay tật bệnh, hoặc cố ý bằng những thực hành nhất định, bắc cầu qua khoảng cách và tạo mối nối, để từ đó tâm thức cảm dục của y sẽ liên tục, và ký ức về những gì xảy ra trong lúc thể xác ngủ sẽ vì thế mà hoàn hảo. Nhưng từ rất lâu trước khi nỗ lực hay tai nạn như thế có thể xảy đến với y, tâm thức trọn vẹn hẳn đã từng hoạt động trong thể cảm dục, dù trong đời sống hồng trần y không hay biết gì về điều đó.
In exactly the same way a man must have been for a long time thoroughly practised in the use of his mental body as a vehicle before he can hope to break the barrier between that and the astral, so that he can have the pleasure of continuous recollection. By analogy this lead us to see that the ego must have been fully conscious and active on his own plane for a long time before any knowledge of that existence can come through to us in our physical life.Hoàn toàn tương tự, một người phải trong một thời gian dài rèn luyện thuần thục việc sử dụng thể trí như một vận cụ trước khi y có thể hy vọng phá vỡ rào chắn giữa nó với thể cảm dục, để được hoan lạc vì có ký ức liên tục. Theo phép tương đồng, điều này cho ta thấy rằng chân ngã hẳn đã ý thức trọn vẹn và hoạt động trên chính cõi của y trong một thời gian dài trước khi bất kỳ hiểu biết nào về sự hiện hữu ấy có thể truyền xuống với chúng ta trong đời sống hồng trần.
There are many in whom the ego has already to some extent awakened from the condition of mere bliss which was described above, and is at least partially conscious of his own surroundings, and therefore of other egos. From that time on he leads a life and has interests and activities on his own plane; but even then we must remember that he puts down into the personality only a very small part of himself, and that that part constantly becomes entangled in interests which, because they are so partial, are often along different lines from the general activities of the ego himself, who consequently does not pay any particular attention to the lower life of the personality, unless something rather unusual happens to it.Có nhiều người mà chân ngã đã phần nào thức dậy từ tình trạng chỉ có phúc lạc đơn thuần nêu trên, và ít ra đã ý thức phần nào về môi trường riêng của y, và do đó về các chân ngã khác. Từ đó trở đi, y sống và có những mối quan tâm, hoạt động trên chính cõi của y; nhưng ngay cả khi ấy chúng ta vẫn phải nhớ rằng y chỉ đặt xuống phàm ngã một phần rất nhỏ của chính mình, và phần ấy thường xuyên bị cuốn vào những mối quan tâm, vì chúng quá phiến diện, nên hay đi theo những đường hướng khác với các hoạt động tổng quát của chính chân ngã, thành thử y không mấy lưu tâm đến đời sống thấp của phàm ngã, trừ khi có điều gì đó khá khác thường xảy ra với nó.
When this stage is reached he usually comes under the influence of a Master; indeed often his first clear consciousness of anything outside himself is his touch with that Master. The tremendous power of the Master’s influence magnetises him, draws his vibrations into harmony with its own, and multiplies manyfold the rate of his development. It rays upon him like sunshine upon a flower, and he evolves rapidly under its influence. This is why, while the earlier stages of progress are so slow as to be almost imperceptible, when the Master turns His attention upon the man, develops him and arouses his own will to take part in the work, the speed of his advancement increases in geometrical progression.Khi đạt giai đoạn này, y thường rơi dưới ảnh hưởng của một Chân sư; thật vậy, thường thì thức nhận rõ ràng đầu tiên của y về điều gì đó ngoài bản thân là sự tiếp xúc với vị Chân sư ấy. Sức mạnh ghê gớm của ảnh hưởng vị Chân sư từ hóa y, kéo các rung động của y hoà điệu với rung động của Ngài, và nhân lên gấp nhiều lần tốc độ phát triển của y. Ảnh hưởng ấy chiếu rọi trên y như nắng trên đóa hoa, và y tiến hóa nhanh chóng dưới tác động ấy. Vì vậy, trong khi những giai đoạn đầu của tiến bộ chậm đến mức hầu như khó nhận thấy, thì khi Chân sư hướng sự chú ý của Ngài vào người ấy, phát triển y và khơi dậy ý chí của y để tham gia công việc, tốc độ thăng tiến của y tăng theo cấp số nhân.
Of that stream of divine influence poured upon the ego by the Master, the amount which can be passed on to the personality depends upon the connection between it and the ego, which is very different in different cases. There is almost infinite variety in human life. The spiritual force rays upon the ego, and some little of it certainly comes through into the personality, because though the ego has put forth a part of himself he does not cut himself off entirely from it, notwithstanding the fact that in the case of all ordinary people the ego and the personality are very different things.Trong dòng ảnh hưởng thiêng liêng tuôn đổ xuống chân ngã bởi Chân sư, lượng có thể chuyển xuống phàm ngã tùy thuộc vào mối liên kết giữa nó và chân ngã, điều vốn rất khác nhau giữa các trường hợp. Đời sống con người đa dạng gần như vô tận. Mãnh lực tinh thần chiếu rọi lên chân ngã, và hẳn nhiên một phần nhỏ của nó đi xuyên xuống phàm ngã, vì dù chân ngã đã phóng xuất một phần của chính mình, y vẫn không cắt lìa hoàn toàn khỏi phần ấy, mặc cho thực tế là nơi mọi người bình thường, chân ngã và phàm ngã là hai điều rất khác nhau.
The ego in ordinary men has not much grasp of the personality, nor a clear conception of his purpose in sending it forth; and, again, the small piece which meets us in the personality grows to have ways and opinions of its own. It is developing by the experience which it gains, and this is passed on to the ego; but along with this real development it usually gathers a good deal which is hardly worthy of that name. It acquires knowledge, but also prejudices, which are not really knowledge at all. It does not become quite free from these prejudices—not only of knowledge (or rather its absence) but of feeling and action as well—until the man reaches adeptship. It gradually discovers these things to be prejudices, and progresses through them; but it has always a great deal of limitation from which the ego is entirely free.Nơi người thường, chân ngã không nắm bắt nhiều về phàm ngã, cũng không có một nhận thức rõ ràng về mục đích khi phóng nó ra; và nữa, mảnh nhỏ gặp ta trong phàm ngã lại lớn lên để có lối nếp và quan kiến riêng. Nó phát triển nhờ những kinh nghiệm thu thập được, và điều này được chuyển lên cho chân ngã; nhưng cùng với sự phát triển thực sự ấy, nó thường thu góp khá nhiều điều chẳng đáng gọi là phát triển. Nó thủ đắc tri thức, nhưng cả định kiến nữa, vốn không phải tri thức thật. Nó không thể hoàn toàn thoát khỏi các định kiến ấy—không chỉ của tri thức (hoặc đúng hơn là sự thiếu vắng tri thức) mà còn cả của cảm xúc và hành động—cho đến khi người ấy đạt địa vị chân sư. Dần dà nó nhận ra những điều này là định kiến, và tiến bộ xuyên qua chúng; nhưng nó luôn có nhiều giới hạn mà chân ngã hoàn toàn tự do.
As to the amount of the spiritual force which is passed to the personality, one can only decide in a particular case by using clairvoyance. But something of it must flow through always, because the lower is attached to the higher, just as the hand is attached to the body by the arm. It is certain that the personality must get something, but it can have only what it has made itself able to receive. It is also a question of qualities. The Master often plays upon qualities in the ego which are much obscured in the personality, and in that case of course very little comes down. As only those experiences of the personality can be handed on to the spiritual or permanent ego which are compatible with his nature and interests, so only those impulses to which it is able to respond can express themselves in the personality. Remember, though, that the former tends to exclude the bad and the latter the good—or rather we should call them the material and the spiritual, for nothing is bad.Về lượng mãnh lực tinh thần được chuyển xuống phàm ngã, chỉ có thể quyết định trong một trường hợp cụ thể bằng cách dùng thông nhãn. Nhưng hẳn là lúc nào cũng có chút ít chảy qua, bởi vì cái thấp liên kết với cái cao, như bàn tay gắn với thân thể qua cánh tay. Chắc chắn phàm ngã phải nhận được một phần nào đó, nhưng nó chỉ có thể nhận những gì mà chính nó đã làm cho mình có khả năng tiếp nhận. Đồng thời còn là vấn đề phẩm tính nữa. Chân sư thường khai thác những phẩm tính nơi chân ngã vốn bị che khuất nhiều trong phàm ngã, và trong trường hợp ấy dĩ nhiên rất ít sẽ giáng xuống. Cũng như chỉ những kinh nghiệm của phàm ngã tương hợp với bản tính và mối quan tâm của chân ngã mới có thể được chuyển giao lên chân ngã hoặc thể trường tồn, thì chỉ những xung lực nào mà phàm ngã có thể đáp ứng mới có thể tự biểu hiện nơi phàm ngã. Hãy nhớ rằng, vế trước có khuynh hướng loại trừ cái xấu và vế sau cái tốt—đúng hơn chúng ta nên gọi là cái vật chất và cái tinh thần, vì không có gì là xấu.
One may sometimes see by clairvoyance many of these influences at work. On a certain day, for example, we may see a characteristic of the personality much intensified, with no outward reason. The cause is often to be found in what is taking place at some higher level—the stimulation of that quality in the ego. Sometimes a man finds himself overflowing with affection or devotion, and quite unable on the physical plane to understand why. The cause is usually, again, the stimulation of the ego, or it may be that the ego is taking some special interest in the personality for the time being.Đôi lúc bằng thông nhãn có thể thấy nhiều ảnh hưởng như thế đang hoạt động. Chẳng hạn vào một ngày nào đó, chúng ta có thể thấy một đặc tính nơi phàm ngã được tăng cường rất mạnh mà không có nguyên do bên ngoài. Nguyên nhân thường nằm ở những gì đang diễn ra tại một cấp độ cao hơn—tức sự kích hoạt phẩm chất ấy nơi chân ngã. Đôi khi một người thấy mình tràn ngập tình thương hay sùng kính, và hoàn toàn không hiểu nổi vì sao trên cõi hồng trần. Nguyên nhân thường là, một lần nữa, do sự kích hoạt nơi chân ngã, hoặc có khi là do chân ngã đang đặc biệt quan tâm đến phàm ngã trong lúc ấy.
In meditation we sometimes draw such attention on the part of the ego, though it is well to keep in mind that we must try to reach up to join that higher activity, rather than to interrupt it to draw down its attention to the lower. The higher influence is certainly invited by right meditation, which is always effective, even though on the physical plane things may seem to be very dull and quite without zest. The reaching upwards of the ego himself often means his neglect to send energy down to the personality, and this, of course, leaves the latter feeling rather dull and in the shade. The extent, then, to which the personality is influenced by the effort of the Master depends upon two things principally—the strength of the connection at the time between the ego and the personality; and the particular work which the Master is doing upon the ego, that is, the particular qualities upon which He is playing.Trong tham thiền, đôi lúc chúng ta lôi kéo được sự chú ý như thế từ phía chân ngã, tuy cũng nên ghi nhớ rằng chúng ta phải cố với lên để hòa nhập hoạt động cao hơn ấy, hơn là gián đoạn nó để kéo sự chú ý của nó xuống chỗ thấp. Ảnh hưởng cao hơn chắc chắn được mời gọi bằng tham thiền đúng đắn, vốn luôn luôn  hiệu lực, mặc dù trên cõi hồng trần mọi việc có thể xem ra thật tẻ nhạt và vô vị. Sự vươn lên của chính chân ngã thường có nghĩa là y lơ là việc truyền năng lượng xuống phàm ngã, và dĩ nhiên điều đó khiến phàm ngã cảm thấy hơi tẻ nhạt và ở trong bóng râm. Mức độ mà phàm ngã được ảnh hưởng bởi nỗ lực của Chân sư vì thế chủ yếu tùy thuộc vào hai điều—độ bền mạnh của mối liên kết giữa chân ngã và phàm ngã lúc bấy giờ; và công việc đặc thù mà Chân sư đang thực hiện nơi chân ngã, nghĩa là những phẩm tính đặc thù mà Ngài đang khai thác.
Meditation and the study of spiritual subjects in this earthly life make a very great difference in the life of the ego. The ordinary person who has not taken up spiritual matters seriously has only a thread of connection between the higher and the lower self. The personality in his case seems to be all, and the ego, though he undoubtedly exists on his own plane, is not at all likely to be doing anything actively there. He is very much like a chicken which is growing inside an egg. But in the case of some of us who have been making efforts in the right direction, we may hope that the ego is becoming quite vividly conscious. He has broken through his shell, and is living a life of great activity and power. As we go on, we shall become able to unify our personal consciousness with the life of the ego, as far as that is possible, and then we shall have only the one consciousness; even down here we shall have the consciousness of the ego, who will know all that is going on. But with many people at the present day there is often considerable opposition between the personality and the ego.Trong đời trần thế này, tham thiền và học hỏi các đề tài tinh thần tạo khác biệt rất lớn trong đời sống của chân ngã. Người bình thường chưa nghiêm túc tiếp nhận các vấn đề tinh thần thì chỉ có một sợi dây nối liền giữa tự ngã cao và tự ngã thấp. Ở trường hợp y, phàm ngã dường như là tất cả, còn chân ngã, dù chắc chắn hiện hữu trên cõi riêng của y, lại hầu như không làm gì năng động ở đó. Y rất giống một con gà đang lớn trong trứng. Nhưng đối với một số chúng ta—những người đã nỗ lực theo hướng đúng—chúng ta có thể hy vọng rằng chân ngã đang trở nên hết sức sinh động. Y đã phá vỏ trứng và đang sống một đời sống hoạt động mạnh mẽ và đầy năng lực. Khi ta tiếp tục, chúng ta sẽ có thể hợp nhất tâm thức cá nhân với đời sống của chân ngã, trong giới hạn khả dĩ, và rồi chúng ta sẽ chỉ có một tâm thức duy nhất; ngay cả ở dưới này, chúng ta sẽ có tâm thức của chân ngã, y sẽ biết tất cả những gì đang diễn ra. Nhưng với nhiều người hiện nay vẫn thường có sự đối kháng đáng kể giữa phàm ngã và chân ngã.
There are other things to be taken into account. It is by no means always accurate to judge the ego by his manifestation in the personality. An ego of intensely practical type may make much more show on the physical plane than another of far higher development, if the energy of the latter happens to be concentrated almost exclusively upon the causal or buddhic levels. Therefore people who see only on the physical plane are frequently entirely wrong in their estimation of the relative position of others.Còn những điều khác cũng cần tính đến. Hoàn toàn không phải lúc nào cũng chính xác nếu đánh giá chân ngã dựa vào sự biểu hiện của y trong phàm ngã. Một chân ngã có kiểu mẫu hết sức thực tiễn có thể làm nên vẻ vang lớn trên cõi hồng trần hơn một chân ngã khác phát triển cao hơn rất nhiều, nếu năng lượng của chân ngã sau tình cờ tập trung hầu như hoàn toàn ở các cấp độ thể nguyên nhân hoặc Bồ đề. Vì thế những người chỉ thấy trên cõi hồng trần thường đánh giá hoàn toàn sai vị trí tương đối của người khác.
If you have to deal with a fairly advanced ego, you will sometimes find him rather inconsiderate of his body. You see whatever is put down into the personality is so much taken from him! I have again and again seen cases in which the ego was to some extent impatient and withdrew into himself somewhat; but on the other hand in cases such as these there is always a flow between the ego and the personality, which is not possible with the ordinary man. In the ordinary man the part is, as it were, put down and left, though not of course quite cut off; but at this more advanced stage there is a constant communication between the two along the channel. Therefore, the ego can withdraw a great deal of himself whenever he chooses, and leave a very poor representation of the real man behind. So the relation between the lower and the higher self varies much in different people and at different stages of development.Nếu bạn phải làm việc với một chân ngã khá tiến bộ, đôi khi bạn sẽ thấy y hơi thiếu quan tâm đến thân xác của mình. Bạn thấy đấy, bất cứ thứ gì được đặt xuống phàm ngã là bấy nhiêu bị rút khỏi y! Tôi đã nhiều lần thấy những trường hợp chân ngã phần nào sốt ruột và rút vào trong chính mình một chút; nhưng mặt khác, trong những trường hợp như thế luôn có một dòng chảy giữa chân ngã và phàm ngã, điều này không có nơi người thường. Ở người thường, phần kia, như thể, được đặt xuống rồi để đó, tuy dĩ nhiên không bị cắt đứt hoàn toàn; nhưng ở giai đoạn tiến bộ hơn này, luôn có một thông giao thường trực giữa hai bên dọc theo kênh nối. Do vậy, chân ngã có thể rút đi một phần lớn của chính y bất cứ khi nào y muốn, và để lại phía sau một đại diện rất nghèo nàn của con người thật. Bởi vậy, mối liên hệ giữa tự ngã thấp và tự ngã cao khác nhau rất nhiều ở những người khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
As to the work of the ego, he may be learning things on his own plane; or he may be helping other egos—there are many kinds of work for which he may need an accession of strength. And then he may forget for a time to pay his personality proper attention, just as even a good man may occasionally, under some special pressure of business, forget his horse or his dog. Sometimes when that happens the personality reminds him of its existence by blundering into some foolishness which causes serious suffering. You may have noticed that sometimes, after you have completed a special piece of work that has needed the co-operation of the ego to a large extent—as, for example, lecturing to a large audience—he takes away the energy and leaves the personality with only enough to feel rather dispirited. For a time he admitted that there was some importance in the work, and therefore poured down a little more of himself, but afterwards he leaves the poor personality feeling rather depressed.Về công việc của chân ngã, y có thể đang học hỏi những điều trên cõi của y; hoặc y có thể đang giúp đỡ các chân ngã khác—có nhiều loại công việc đòi hỏi y cần tăng thêm sức mạnh. Và rồi y có thể quên trong một thời gian việc dành cho phàm ngã sự chú ý thích đáng, cũng như ngay cả một người tốt đôi khi, dưới áp lực công việc đặc biệt, có thể quên chăm sóc ngựa hay chó của mình. Thỉnh thoảng, khi điều ấy xảy ra, phàm ngã nhắc y về sự hiện hữu của nó bằng cách vấp phải một điều dại dột gây ra đau khổ nghiêm trọng. Bạn có thể đã để ý rằng đôi khi, sau khi bạn hoàn tất một phần việc đặc biệt cần sự hợp tác rất lớn của chân ngã—chẳng hạn như diễn thuyết trước một cử toạ đông đảo—y rút năng lượng về và để lại cho phàm ngã chỉ vừa đủ để cảm thấy hơi nản lòng. Trong một thời gian, y thừa nhận rằng công việc ấy có đôi chút quan trọng, và vì thế rót xuống một chút nhiều hơn của chính mình, nhưng sau đó y để mặc phàm ngã tội nghiệp thấy hơi u sầu.
Of course, depression comes much more often from other reasons, such as the presence of an astral entity in a low-spirited condition, or of some non-human beings. And joy also is not always due to the influence of the ego, for the fact is that the man does not think much about his own feelings when he is in a fit condition to receive an influx of power. Joy may be produced by the proximity of harmonious nature-spirits, or in a variety of other ways. The channel between the ego and personality is by no means always open. Sometimes it appears to be almost choked up—a condition of affairs which is quite a possibility in view of its narrowness in most cases. Then the force may break through again on some occasion, such as that of a conversion. But for many of us there is a constant flow in some measure. Meditation, conscientiously done, opens the channel and keeps it open. Always remember, though, that it is better to try to go up to the ego than to bring it down to the personality.Dĩ nhiên, chán nản thường đến vì nhiều nguyên do khác, như sự hiện diện của một thực thể cảm dục đang ở trạng thái uể oải, hoặc của một vài sinh linh phi nhân. Và hoan hỷ cũng không phải lúc nào là do ảnh hưởng của chân ngã, bởi sự thật là khi người ta ở trong trạng thái thích hợp để tiếp nhận luồng năng lực, y không mấy nghĩ về cảm giác riêng của mình. Niềm vui có thể được tạo ra do sự cận kề của các tinh linh thiên nhiên hoà điệu, hoặc bằng nhiều cách khác. Kênh nối giữa chân ngã và phàm ngã đâu phải lúc nào cũng mở. Đôi khi nó dường như gần như bị nghẽn—một trạng huống hoàn toàn có thể, xét đến sự hẹp của nó trong đa số trường hợp. Rồi lực có thể phá tung trở lại vào một dịp nào đó, như trong một cuộc hoán cải. Nhưng với nhiều người trong chúng ta, luôn có một dòng chảy ở mức nào đó. Tham thiền, nếu được thực hành lương thiện, sẽ mở kênh và giữ cho nó mở. Tuy nhiên, hãy luôn nhớ rằng tốt hơn là cố gắng vươn lên tới chân ngã hơn là kéo y xuống phàm ngã.
Every ego has a certain knowledge of his own. He obtains a glimpse, between lives, of his past and future; in the undeveloped man this awakens the ego for a moment, after which he falls asleep again. During physical life the ordinary ego is to some extent capable of brooding watchfulness and a little effort, but is still in a sleepy condition. With a developed man the ego is fully awake. The ego in course of time discovers that there are a good many things which he can do, and when this happens he may rise into a condition in which he has a definite life on his own plane, though in many cases it is even then but dreamy. It is the ego’s purpose to learn to be fully active on all planes, even the physical.Mỗi chân ngã đều có một tri thức nhất định của riêng y. Giữa các kiếp, y có một thoáng nhìn về quá khứ và tương lai của y; nơi người chưa phát triển, điều này đánh thức chân ngã trong một khoảnh khắc, sau đó y lại ngủ. Trong đời sống hồng trần, chân ngã bình thường ở mức nào đó có khả năng canh giữ trầm tư và một chút nỗ lực, nhưng vẫn ở trong trạng thái buồn ngủ. Nơi người đã phát triển, chân ngã hoàn toàn tỉnh thức. Mục đích của chân ngã theo thời gian là học để năng động trọn vẹn trên mọi cõi, kể cả cõi hồng trần.
Suppose you have an ego whose principal method of manifesting himself is by affection. That quality is what he wants exhibited by his personality, and if you down here try to feel strong affection and make a specialty of that, the ego will promptly throw more of himself down into the personality, because he finds in it exactly what he desires. Be careful to provide what he needs, and he will quickly take advantage of it. Egos on their own plane can help other egos, when they are sufficiently developed to do so. The ego of the ordinary person has rather a vegetable consciousness or life, and seems to be only just aware of other egos. The personality will not know what the ego does, unless they have been unified. The ego may know the Master while the personality does not. The study of inner things, and living the life, wakes up the ego. Purely unselfish devotion belongs to the higher planes and concerns him.Giả sử bạn có một chân ngã mà phương thức biểu lộ chủ yếu của y là bằng tình thương. Phẩm tính ấy là điều y muốn được phàm ngã trình hiện, và nếu bạn ở dưới này cố gắng cảm tình thương mãnh liệt và chuyên tâm nuôi dưỡng điều ấy, chân ngã sẽ lập tức phóng nhiều hơn của chính y xuống phàm ngã, vì y tìm thấy ở đó đúng điều y mong muốn. Hãy cẩn trọng cung ứng điều y cần, và y sẽ nhanh chóng tận dụng nó. Các chân ngã trên cõi của mình có thể giúp các chân ngã khác, khi họ đủ phát triển để làm thế. Chân ngã của người thường có đời sống hay tâm thức như thực vật, và dường như chỉ vừa đủ ý thức về các chân ngã khác. Phàm ngã sẽ không biết chân ngã làm gì, trừ khi hai bên đã được hợp nhất. Chân ngã có thể biết Chân sư trong khi phàm ngã thì không. Việc học hỏi những điều bên trong, và sống theo đời sống ấy, đánh thức chân ngã. Lòng sùng tín hoàn toàn vô kỷ thuộc các cõi cao và liên quan đến y.
I do not think the experiences of the personality can be transmitted to the ego, but the essence of them may. He cares little for the details, but he wants the essence of it. Any of those thoughts that we consider evil are impossible for the ego. For precise definition he must come down into the physical body. He devotes himself more especially during the heaven-life to the assimilation of the experiences of the personality, but he is doing it all the time. When you take up the study of Theosophy, and live the life, you begin to call the attention of the ego by sending up vibrations to which he can respond. The ordinary man has in his life little that appeals to the ego.Tôi không nghĩ những kinh nghiệm của phàm ngã có thể được truyền nguyên vẹn lên chân ngã, nhưng tinh túy của chúng thì có thể. Y ít quan tâm đến chi tiết, nhưng y muốn tinh túy của việc ấy. Bất kỳ loại tư tưởng nào mà chúng ta xem là ác đều bất khả nơi chân ngã. Để định nghĩa chính xác, y phải hạ xuống thể xác. Y dành mình, nhất là trong đời sống cõi trời, cho việc đồng hóa những kinh nghiệm của phàm ngã, nhưng thực ra y làm điều ấy suốt mọi lúc. Khi bạn bắt tay vào học Thông Thiên Học và sống theo đời sống ấy, bạn bắt đầu thu hút sự chú ý của chân ngã bằng cách gửi lên những rung động mà y có thể đáp ứng. Người thường trong đời y có rất ít điều gây được tiếng gọi đối với chân ngã.
High unselfish affection and devotion belong to the highest astral sub-plane, and these reflect themselves in the corresponding matter of the mental plane, so that they touch the causal, not the lower mental. Thus only unselfish thoughts affect the ego. All the lower thoughts affect the permanent atoms, but not the ego; and corresponding to them you would find gaps in the causal body, not bad colors. Selfishness below shows in it as absence of affection or sympathy, and when the good quality develops the gap will be filled up. In the causal body you can see whether a man can possibly fail in this or that quality. Try to deve1ope the qualities the ego wants, and he will come down to help.Tình thương vô kỷ cao cả và lòng sùng tín thuộc cõi phụ cao nhất của cõi cảm dục, và chúng tự phản chiếu vào chất liệu tương ứng của cõi trí, nhờ thế chạm đến thể nguyên nhân, chứ không chạm đến phần hạ trí. Do vậy chỉ những tư tưởng vô kỷ mới ảnh hưởng tới chân ngã. Tất cả những tư tưởng thấp đều tác động lên các Nguyên tử trường tồn, nhưng không tác động lên chân ngã; và tương ứng với chúng, bạn sẽ thấy trong thể nguyên nhân có những khoảng trống, chứ không phải những màu “xấu”. Tính vị kỷ ở bên dưới biểu lộ nơi nó như sự vắng bóng của tình thương hay đồng cảm, và khi phẩm tính tốt phát triển thì khoảng trống ấy sẽ được lấp đầy. Trong thể nguyên nhân bạn có thể thấy liệu một người có thể thất bại ở phẩm chất này hay kia hay không. Hãy cố gắng phát triển những phẩm chất mà chân ngã muốn, và y sẽ giáng xuống để trợ giúp.
As is said in Light on the Path, watch for the ego, and let him fight through you, and yet at the same time never forget that you are the ego. Therefore identify yourself with him and make the lower give way to you the higher. Yet do not be too greatly disheartened if you should fall even many times, for even failure is to a certain extent a success, since we learn by it and so are wiser to meet the next problem. We cannot always succeed now at every point, though we surely shall do so ultimately. But never forget that it is not expected of us that we shall always succeed, but only that we shall do our best.Như đã nói trong Ánh sáng trên Đường Đạo , hãy canh chừng chân ngã, và để y chiến đấu xuyên qua bạn, đồng thời đừng bao giờ quên rằng bạn chính là chân ngã. Vậy nên hãy đồng hóa với y và buộc phần thấp nhường chỗ cho bạn, phần cao. Tuy nhiên, đừng quá nản lòng nếu bạn lỡ té ngã dù nhiều lần, vì ngay cả thất bại ở một mức nào đó cũng là một thành công, bởi chúng ta học được từ đó và trở nên khôn ngoan hơn để đối diện vấn đề kế tiếp. Bây giờ chúng ta không phải lúc nào cũng có thể thành công ở mọi điểm, tuy chắc chắn rốt cuộc chúng ta sẽ làm được. Nhưng đừng bao giờ quên rằng người ta không trông đợi chúng ta luôn luôn thành công, mà chỉ trông đợi chúng ta làm hết sức mình.

COUNTERPARTS—ĐỐI PHẦN

>
When the ego descends into incarnation, he draws round himself a mass of astral matter, not yet formed into a definite astral body; this takes, in the first place, the shape of that ovoid which is the nearest expression that we can realize of the true shape of the causal body. But when the further step downward and outward into physical incarnation is taken, and a little physical body is formed in the midst of that astral matter, it immediately begins to exert a violent attraction over it, so that the great majority of the astral matter (which previously may be thought of as fairly evenly distributed over the large oval) now becomes concentrated into the periphery of that physical body.Khi chân ngã giáng nhập, y kéo quanh mình một khối vật chất cảm dục, chưa được tạo thành một thể cảm dục xác định; điều này lúc đầu lấy hình dạng noãn (hình bầu dục), vốn là biểu đạt gần nhất mà chúng ta có thể hiểu về hình dạng thật sự của thể nguyên nhân. Nhưng khi bước xuống thấp hơn và hướng ngoại vào lâm phàm hồng trần được thực hiện, và một thể xác nhỏ được hình thành ở giữa khối vật chất cảm dục ấy, thì ngay lập tức nó bắt đầu gây nên một hấp lực mạnh mẽ lên vật chất cảm dục, đến nỗi đại bộ phận vật chất cảm dục (trước đó có thể xem như phân bố khá đều trên noãn lớn) giờ trở nên tập trung vào chu vi của thể xác.
As the physical body grows, the astral matter follows every change, and thus we find man presenting the spectacle of an astral body, ninety-nine percent of which is compressed within the periphery of his physical body, only about the remaining one percent filling the rest of the ovoid form. In the plates in Man, Visible and Invisible we have sketched in the outline of the physical body merely in pencil so that it shows but slightly, because my especial desire in that book was to emphasize the colors of the ovoid, and the way in which they illustrate the development of man by the transfer of vibrations from the lower bodies to the higher; but in reality that astral counterpart of the physical body is very solid and definite, and quite clearly distinguishable from the surrounding ovoid.Khi thể xác lớn lên, vật chất cảm dục theo sát mọi thay đổi, và như vậy ta thấy con người trình hiện cảnh tượng một thể cảm dục mà chín mươi chín phần trăm bị nén trong chu vi của thể xác, chỉ khoảng một phần trăm còn lại lấp đầy phần còn lại của dạng noãn. Trong các bản minh họa trong Con Người, Hữu Hình và Vô Hình chúng tôi chỉ phác thảo đường viền của thể xác bằng bút chì nên nó chỉ hiện lên rất nhẹ, bởi ước muốn đặc biệt của tôi trong cuốn sách ấy là nhấn mạnh các màu sắc của noãn, và cách thức chúng minh họa sự phát triển của con người qua việc chuyển giao rung động từ các thể thấp lên thể cao; nhưng trong thực tế đối phần cảm dục của thể xác ấy rất “chắc” và rõ ràng, và hoàn toàn dễ phân biệt với noãn bao quanh.
Note, therefore, that the astral matter takes the exact form of the physical matter merely because of the attraction which the latter has for the former. But we must further realize that although we may speak of the lowest sub-plane of the astral as corresponding to solid physical matter, it is yet very different in texture, for all astral matter bears to its corresponding physical matter something the same sort of relation that the liquid bears to the solid. Therefore the particles of the astral body, whether in the finest or coarsest parts of it, are constantly in motion among themselves, just as are particles of flowing water; and it will consequently be seen that it is quite impossible for the astral body to possess specialized organs in the same sense as does the physical body.Vậy hãy lưu ý rằng vật chất cảm dục mang hình dạng chính xác của vật chất hồng trần chỉ là do hấp lực mà vật chất sau có đối với vật chất trước. Nhưng chúng ta còn phải nhận ra rằng dù ta có thể nói cõi phụ thấp nhất của cõi cảm dục tương ứng với vật chất hồng trần đặc, thì cấu chất của chúng vẫn khác nhau rất nhiều, vì mọi vật chất cảm dục so với vật chất hồng trần tương ứng của nó có một mối liên hệ nào đó tương tự mối liên hệ của chất lỏng với chất rắn. Do vậy, các hạt của thể cảm dục, dù ở phần tinh tế nhất hay thô trọc nhất của nó, cũng luôn luôn chuyển động với nhau, hệt như những hạt nước đang chảy; và vì thế có thể thấy rằng hoàn toàn bất khả để thể cảm dục có các cơ quan chuyên biệt theo cùng nghĩa như thể xác.
No doubt there is an exact counterpart in astral matter of the rods and cones which make up the retina of the physical eye; but the particles which at one moment are occupying that particular position in an astral body may, a second or two later, be moving through the hand or the foot. One does not, therefore, see upon the astral plane by means of the astral counterpart of the physical eyes, nor does one hear with the astral counterpart of the physical ears; indeed, it is perhaps not exactly correct to apply the terms “seeing” and “hearing” to astral methods of cognizance, since these terms are commonly held to imply specialized sense-organs, whereas the fact is that every particle in the astral body is capable of receiving and transmitting vibrations from one of its own type, but its own type only. Thus when one obtains a glimpse of astral consciousness, one is surprised to find oneself able to see on all sides simultaneously, instead of only in front as one does on the physical plane. The exact correspondence of the astral body to the physical therefore is merely a matter of external form, and does not at all involve any similarity of function in the various organs.Chắc chắn có một đối phần chính xác trong vật chất cảm dục của những “que” và “nón” cấu thành võng mạc của mắt hồng trần; nhưng những hạt vào một khoảnh khắc nào đó đang chiếm chỗ đặc thù trong một thể cảm dục ấy thì một hai giây sau có thể đang đi qua bàn tay hay bàn chân. Bởi vậy, người ta không “thấy” trên cõi cảm dục bằng các đối phần cảm dục của mắt hồng trần, cũng không “nghe” bằng các đối phần cảm dục của tai hồng trần; thật ra, có lẽ dùng các từ “thấy” và “nghe” để chỉ các phương pháp tri nhận cảm dục là không thật đúng, bởi các thuật ngữ ấy thường hàm ý các cơ quan cảm giác chuyên biệt; trong khi sự thật là mọi hạt trong thể cảm dục đều có khả năng thu nhận và truyền dẫn các rung động thuộc loại của chính nó, nhưng chỉ loại của chính nó mà thôi. Do vậy, khi người ta có được thoáng chốc tâm thức cảm dục, người ấy sẽ ngạc nhiên thấy mình có thể thấy đồng thời mọi phía, thay vì chỉ ở phía trước như trên cõi hồng trần. Bởi thế, sự tương ứng chính xác của thể cảm dục với thể xác chỉ là vấn đề về hình dạng bên ngoài, hoàn toàn không hàm ý bất kỳ sự tương đồng nào về chức năng nơi các cơ quan khác nhau.
But the attraction continued all through life sets up a kind of habit or momentum in the astral matter, which causes it to retain the same form even while it is withdrawn temporarily from the attraction of the physical body at night and permanently after death; so that even through the long astral life the lineaments of the physical body which was put aside at death will still be preserved almost unchanged. Almost—because we must not forget that thought has a powerful influence upon astral matter and can readily mould it, so that a man who habitually thinks of himself after death as younger than he actually was at the time of that death will gradually come to present a somewhat younger appearance.Tuy nhiên, lực hấp dẫn tiếp diễn suốt đời tạo nên một loại thói quen hay xung lượng nơi vật chất cảm dục, khiến nó giữ nguyên hình dạng ấy kể cả khi nó tạm thời rút khỏi hấp lực của thể xác lúc ban đêm và vĩnh viễn sau khi chết; nên ngay cả trong suốt đời sống cảm dục dài lâu, diện mạo của thể xác đã được đặt sang một bên lúc chết vẫn còn được bảo tồn hầu như không thay đổi. “Hầu như”—bởi chúng ta không được quên rằng tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ lên vật chất cảm dục và dễ dàng uốn nắn nó, thành thử một người sau khi chết mà thường xuyên nghĩ về mình trẻ hơn tuổi lúc chết thì dần dà sẽ trình hiện một dung mạo trẻ hơn đôi chút.
A questioner asks, “If the arm of a man, the branch of a tree, or the leg of a chair were cut off, would in each case the astral counterpart also be removed, and can we, by breaking an astral counterpart, produce a fracture in a physical object? That is to say, if with the hand of my astral body I break the astral counterpart of a chair, will the physical chair also be broke?”Một người hỏi: “Nếu cánh tay của một người, cành của một cái cây, hoặc chân của một chiếc ghế bị cắt rời, thì trong mỗi trường hợp liệu đối phần cảm dục cũng bị loại bỏ không, và liệu chúng ta có thể, bằng cách bẻ gãy một đối phần cảm dục, tạo ra một vết nứt trong một vật thể hồng trần hay không? Tức là, nếu bằng bàn tay của thể cảm dục tôi bẻ gãy đối phần cảm dục của một cái ghế, thì chiếc ghế hồng trần cũng sẽ bị gãy chăng?”
The three cases given are not quite analogous. Both the tree and the man have the life within them which makes the astral body in each case a coherent whole. It is strongly attracted by the particles of the physical body, and therefore adapts itself to its shape, but if part of that physical body be removed, the coherence of the living astral matter is stronger than the attraction towards that severed portion of the physical. Consequently the astral counterpart of the arm or branch will not be carried away with the severed physical fragment. Since it has acquired the habit of keeping that particular form, it will continue for a short time to retain the original shape, but will soon withdraw within the limits of the maimed form.Ba trường hợp nêu ra không hoàn toàn tương đồng. Cả cây lẫn người đều có sinh lực bên trong khiến thể cảm dục trong mỗi trường hợp là một toàn thể kết đoàn. Nó bị hấp dẫn mạnh bởi các hạt của thể xác, và vì thế thích nghi với hình dạng của thể xác, nhưng nếu một phần của thể xác bị cắt rời, thì tính kết đoàn của vật chất cảm dục sống mạnh hơn hấp lực hướng về phần thể xác bị cắt rời ấy. Hệ quả là đối phần cảm dục của cánh tay hoặc cành cây sẽ không bị kéo đi theo mảnh hồng trần bị cắt. Do đã hình thành thói quen giữ hình dạng đặc thù ấy, nó sẽ tiếp tục một thời gian ngắn duy trì hình dạng ban đầu, nhưng sẽ sớm rút vào trong giới hạn của hình dạng đã bị thương tật.
In the case of an inanimate body, such as a chair or a basin, there would not be the same kind of individual life to maintain cohesion. Consequently when the physical object was broken the astral counterpart would also be divided; but it would not be possible to break an astral counterpart, and in that way to affect the physical object. In other words the act of fraction must begin on the physical plane.Trong trường hợp một vật vô tri, như một chiếc ghế hoặc một cái chậu, sẽ không có dạng sinh lực cá thể tương tự để duy trì sự kết đoàn. Bởi vậy, khi vật hồng trần bị bẻ gãy, đối phần cảm dục của nó cũng sẽ bị phân chia; nhưng không thể bẻ gãy một đối phần cảm dục và bằng cách đó ảnh hưởng đến vật hồng trần. Nói cách khác, hành vi bẻ gãy phải khởi đầu trên cõi hồng trần.
One could of course move a purely astral object by means of an astral hand if one wished, but not the astral counterpart of a physical object. In order to perform this latter feat it would be necessary to materialize a hand and move the physical object, when the astral counterpart would of course accompany it. The astral counterpart is there because the physical object is there, just as the scent of a rose fills the room because the rose is there. To suggest that by moving the astral counterpart one could also move the physical object is like suggesting that by moving the smell one could move the physical rose which causes the smell.Tất nhiên, người ta có thể di chuyển một vật thuần cảm dục bằng một bàn tay cảm dục nếu muốn, nhưng không thể làm thế với đối phần cảm dục của một vật hồng trần. Muốn thực hiện điều sau, sẽ cần hiện hình một bàn tay và di chuyển vật hồng trần, khi ấy đối phần cảm dục tất nhiên sẽ đi kèm theo. Đối phần cảm dục hiện diện ở đó vì vật hồng trần hiện diện, cũng như hương hoa hồng lan tỏa khắp phòng vì bông hồng ở đó. Gợi rằng bằng cách di chuyển đối phần cảm dục người ta cũng có thể di chuyển vật hồng trần chẳng khác nào gợi rằng bằng cách di chuyển mùi hương người ta có thể di chuyển bông hồng hồng trần vốn gây nên mùi hương ấy.
The astral body changes its particles as does the physical, but fortunately the clumsy and tiresome process of cooking, eating and digesting food is not a necessity on the astral plane. The particles which fall away are replaced by others from the surrounding atmosphere. The purely physical cravings of hunger and thirst no longer exist there; but the desire of the glutton to gratify the sensation of taste, and the desire of the drunkard for the exhilaration which follows, for him, the absorption of alcohol—these are both astral, and therefore they still persist, and cause great suffering because of the absence of the physical body through which alone they could be satisfied.Thể cảm dục thay đổi các hạt của nó như thể xác thay đổi, nhưng may thay, quá trình vụng về và mệt mỏi là nấu nướng, ăn và tiêu hóa không phải là một nhu cầu trên cõi cảm dục. Những hạt rơi rụng được thay thế bằng những hạt khác từ bầu không khí chung quanh. Những khao khát thuần thể xác như đói và khát không còn tồn tại ở đó; nhưng ước muốn của kẻ phàm ăn muốn thoả mãn cảm giác vị giác, và ước muốn của kẻ nghiện rượu muốn đạt cảm giác hưng phấn theo sau việc hấp thụ rượu—những điều ấy đều là cảm dục, nên vẫn còn tồn tại, và gây đau khổ lớn vì thiếu vắng thể xác, vốn là phương tiện duy nhất qua đó chúng có thể được thoả mãn.
So far as we are at present aware the astral body does not appear to be susceptible to fatigue.Theo như chúng ta hiện biết, thể cảm dục dường như không chịu ảnh hưởng của mệt mỏi.
The ordinary man while possessing a physical body naturally never has the opportunity of working for any length of time consecutively upon the astral plane, for his nights of astral work alternate with days of physical work. I knew, however, of one case of a man who, having the right to take a rapid reincarnation, had to wait upon the astral plane twenty-five years for the special conditions which he required. He spent the whole of this time in working for the help of others, without any intermission except the occasional attendance at classes held by pupils of our Masters; and he assured me that he had never felt the slightest sense of fatigue—that in fact he had forgotten what it meant to be tired.Người thường, trong khi còn có thể xác, tự nhiên chẳng bao giờ có cơ hội làm việc liên tục trên cõi cảm dục trong một thời gian dài, bởi những đêm làm việc cảm dục xen kẽ với những ngày làm việc hồng trần. Tuy nhiên, tôi có biết một trường hợp một người, do có quyền tái lâm nhanh, phải chờ trên cõi cảm dục hai mươi lăm năm cho những điều kiện đặc thù mà y cần. Y đã dành trọn thời gian ấy để làm việc giúp đỡ kẻ khác, không hề gián đoạn ngoại trừ đôi khi tham dự các lớp học do các môn đồ của các Chân sư của chúng ta tổ chức; và y quả quyết với tôi rằng y chưa từng cảm chút mệt mỏi nào—thật ra y đã quên mất mệt mỏi nghĩa là gì.
We all know that excessive or long-continued emotion tires us very quickly in ordinary life, and since emotion is an expression of the astral, that may perhaps lead some to suppose that fatigue of the astral body is possible. I think, however, that it will be found that what is subject to fatigue is merely the physical organism through which everything in us which manifests on this plane must pass. What we call mental fatigue is a parallel case. There is no such thing as fatigue in the mind; what we call by that name is only fatigue of the physical brain through which that mind has to express itself.Chúng ta đều biết rằng cảm xúc quá độ hay kéo dài làm ta mệt rất nhanh trong đời thường, và vì cảm xúc là sự biểu hiện của cảm dục, điều ấy có thể dẫn một số người cho rằng thể cảm dục có thể mệt mỏi. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng sẽ thấy rằng điều chịu mệt mỏi chỉ là cơ cấu hồng trần qua đó mọi thứ trong chúng ta biểu lộ trên cõi này phải đi qua. Cái mà ta gọi là mệt mỏi trí tuệ cũng là một trường hợp song song. Không có cái gọi là mệt mỏi trong tâm trí; điều mà ta gọi bằng cái tên ấy chỉ là mệt mỏi của bộ não hồng trần, qua đó tâm trí phải tự biểu hiện.
A spectator who has not been able to raise his sight above the astral level will of course see only astral matter when he looks at the aura of his fellow-men. He will see that this astral matter not only surrounds the physical body but also interpenetrates it, and that within the periphery of that body it is much more densely aggregated than in that part of the aura which lies outside. This is due to the attraction of the large amount of dense astral matter which is gathered together there as the counterpart of the cells of the physical body.Một người quan sát không thể nâng tầm nhìn lên trên mức cảm dục, dĩ nhiên, khi nhìn hào quang của đồng loại, sẽ chỉ thấy vật chất cảm dục. Y sẽ thấy vật chất cảm dục ấy không chỉ bao quanh thể xác mà còn xuyên thấu nó, và rằng trong chu vi thể xác, vật chất cảm dục được tập trung dày đặc hơn nhiều so với phần của hào quang nằm bên ngoài. Điều này là vì hấp lực của lượng lớn vật chất cảm dục đậm đặc được tập hợp ở đó như đối phần của các tế bào thể xác.
When during sleep the astral body is drawn from the physical this arrangement still persists, and then any one looking at the astral body with clairvoyant vision would still see, just as before, a form resembling the physical body surrounded by an aura. That form would now be composed only of astral matter, but still the great difference in density between it and its surrounding mist would be quite sufficient to make it clearly distinguishable, even though it is itself only a form of denser mist.Khi trong giấc ngủ thể cảm dục được rút khỏi thể xác, sự sắp đặt này vẫn còn tồn tại, và khi ấy, bất kỳ ai nhìn thể cảm dục bằng nhãn thông cũng sẽ vẫn thấy, như trước kia, một hình dạng tương tự thể xác được bao quanh bởi một hào quang. Hình dạng ấy giờ đây chỉ được cấu thành bởi vật chất cảm dục, nhưng sự khác biệt lớn về mật độ giữa nó và làn sương bao quanh cũng đủ để khiến nó hiển lộ rõ rệt, dù tự thân nó cũng chỉ là một dạng sương đặc hơn mà thôi.
There is a considerable difference in appearance between the evolved and the unevolved man. Even in the case of the latter the features and shape of the inner form are recognizable always, though blurred and indistinct; but the surrounding egg scarcely deserves the name for it is in fact a mere shapeless wreath of mist, having neither regularity nor permanence of outline.Có một khác biệt đáng kể về diện mạo giữa người đã tiến hoá và người chưa tiến hoá. Ngay cả nơi người sau, các nét và hình dạng của hình thể bên trong vẫn luôn có thể nhận ra, dù mờ nhạt và không rõ; nhưng noãn bao quanh hầu như không đáng gọi là noãn—thực chất chỉ là một vòng sương mù vô định hình, không có quy luật cũng chẳng có tính bền vững về đường viền.
In the more developed man the change is very marked, both in the aura and the form within it. This latter is much more distinct and definite—a closer reproduction of the man’s physical appearance; while instead of the floating mist-wreath we see a sharply defined ovoid form preserving its shape unaffected amidst all the varied currents which arc always swirling round it on the astral plane. Though the arrangement of the astral body is largely changed after death by the action of the desire elemental, such alteration does not in any way affect the recognizability of the form within the egg, though the natural changes which take place tend on the whole to make the form grow somewhat fainter and more spiritual in appearance as time passes on.Nơi người phát triển hơn, thay đổi rất rõ rệt, cả ở hào quang lẫn hình thể bên trong nó. Hình thể sau rõ nét và xác định hơn nhiều—một bản sao gần gũi hơn của diện mạo hồng trần của người ấy; trong khi thay vì vòng sương trôi nổi, ta thấy một noãn có đường biên sắc nét, giữ nguyên hình dạng không bị ảnh hưởng giữa mọi dòng lưu biến thiên luôn luôn xoáy quanh nó trên cõi cảm dục. Dù sự sắp xếp của thể cảm dục bị thay đổi rất nhiều sau khi chết bởi hoạt động của tinh linh dục vọng, thì sự thay đổi ấy không làm suy suyển chút nào khả năng nhận ra hình thể bên trong noãn; dẫu những biến đổi tự nhiên diễn ra nhìn chung có khuynh hướng khiến hình thể trở nên mờ nhạt và mang vẻ tinh thần hơn theo thời gian.

COLORS IN THE ASTRAL BODY—MÀU SẮC TRONG THỂ CẢM DỤC

>
Any comparatively permanent color in the astral body means a persistent vibration, which in the course of time produces its effect upon the mental body, and also upon the causal body, so that the higher qualities developed by the life on the lower planes are gradually built into the permanent causal body, and so become qualities of the soul itself. The colors may be mingled to any extent; for example, affection (rose) mingled with religious devotion (blue) will give a lovely violet. It is only the good thought or feeling which can produce an effect in the causal body, and so be permanently stored up as part of the man. Other kinds of thought and feeling remain in the lower vehicles and are comparatively impermanent. The size a thought-form shows the strength of the emotion.Bất kỳ một màu sắc tương đối bền vững nào trong thể cảm dục đều có nghĩa là một rung động dai dẳng, điều theo thời gian sẽ tạo nên ảnh hưởng lên thể trí, và cả lên thể nguyên nhân nữa, để rồi các phẩm chất cao được phát triển bởi đời sống trên các cõi thấp dần dần được xây vào thể nguyên nhân trường tồn, và trở thành các phẩm chất của chính linh hồn. Các màu có thể hòa trộn ở bất kỳ mức độ nào; chẳng hạn, tình thương (hồng) hòa với lòng sùng tín tôn giáo (lam) sẽ cho ra một sắc tím tuyệt đẹp. Chỉ có tư tưởng hay cảm xúc tốt  mới có thể tạo ảnh hưởng lên thể nguyên nhân và vì thế được tích lũy bền vững như một phần của con người. Các loại tư tưởng và cảm xúc khác thì tồn tại ở các thể thấp và tương đối vô thường. Kích thước của một hình tư tưởng cho thấy sức mạnh của cảm xúc.

THE CAUSAL BODY—THỂ NGUYÊN NHÂN

>
No number of physical bodies could fully contain the causal body, any more than any number of lines can make a square, or any number of squares can make a cube. The ego puts himself down into his various bodies with the hope of gaining two things—to make the causal body learn to respond to more vibrations, and also to increase its size. Most people are not more than just conscious in the causal body. The strings of such egos cannot be played upon directly, but are affected from below by way of overtones. Most men can at present only work on the matter of the third sub-plane of the mental (the lowest part of their causal bodies), and indeed only the lower matter even of that is usually in operation. When they are on the Path, the second sub-plane opens up. The adept uses the whole causal body while his consciousness is on the physical plane. A rough and ready way of deciding at what stage a man stands is to look at the causal body. It shows also how he arrived there. Men develop unequally—we are all undeveloped in some way. An animal has a minimum-sized causal body as soon as he is individualized; then it has to be developed both as to size and color.Dù có bao nhiêu thể xác cũng không thể chứa trọn thể nguyên nhân, cũng như bao nhiêu đoạn thẳng cũng không thể làm ra một hình vuông, hay bao nhiêu hình vuông cũng không thể làm ra một khối lập phương. Chân ngã đặt mình xuống các thể khác nhau với hy vọng đạt được hai điều—khiến thể nguyên nhân học đáp ứng với nhiều rung động hơn, và cũng làm tăng kích thước của nó. Phần lớn mọi người không hơn gì trạng thái vừa đủ có tâm thức trong thể nguyên nhân. “Những dây đàn” của các chân ngã như thế không thể được gảy trực tiếp, mà chỉ bị tác động từ dưới lên qua các bội âm. Hiện nay, đa số người chỉ có thể hoạt động trên chất liệu của cõi phụ thứ ba của cõi trí (phần thấp nhất của thể nguyên nhân của họ), và thực ra thường chỉ phần chất liệu thấp của chính cõi phụ ấy là hoạt động. Khi họ ở trên Thánh Đạo, cõi phụ thứ hai mở ra. Vị chân sư sử dụng toàn bộ thể nguyên nhân trong khi tâm thức của Ngài đang ở trên cõi hồng trần. Một cách thô sơ nhưng hữu hiệu để quyết định một người đang đứng ở giai đoạn nào là nhìn vào thể nguyên nhân. Nó cũng cho thấy y đã đến đó bằng cách nào. Con người phát triển không đồng đều—tất cả chúng ta đều chưa phát triển ở một phương diện nào đó. Một thú vật có một thể nguyên nhân kích cỡ tối thiểu ngay khi nó được biệt ngã hóa; rồi thể ấy phải được phát triển cả về kích thước lẫn màu sắc.

THE DESIRE-ELEMENTAL—TINH LINH DỤC VỌNG

>
Much of the matter of the astral body is vivified by elemental essence, which is cut off [1]for the time being from the general mass which belongs to the plane, and becomes the man’s expression on that plane. This is a living, though not an intelligent essence. But it has a kind of instinct which Mr. Sinnett calls “dawning intelligence,” which guides it into getting what it wants. Blindly and without reason, but instinctively, it seeks its ends, and shows great ingenuity in obtaining its desires and in furthering its evolution.Nhiều phần của vật chất trong thể cảm dục được tiếp sinh lực bởi Tinh chất hành khí, vốn được tách rời [1]trong một thời gian khỏi khối lượng chung thuộc về cõi, và trở thành sự biểu hiện của con người trên cõi ấy. Đó là một tinh chất sống, tuy không phải tinh chất thông minh . Nhưng nó có một loại bản năng mà Ông Sinnett gọi là “trí khôn đang ló dạng”, thứ hướng dẫn nó đạt được điều nó muốn. Mù quáng và không có lý trí, nhưng theo bản năng, nó tìm kiếm mục đích của mình, và tỏ ra rất tháo vát trong việc đạt điều nó ham muốn và trong việc thúc đẩy sự tiến hoá của chính nó.
Evolution for it is a descent into matter; its aim is to become a mineral monad. Therefore, its object in life is to get as near to the physical plane as it can, to come into contact with as many of the vibrations of the coarser kind as possible. It knows nothing of you; it could not know or imagine anything of you; but it does realize that it is apart from the general stock, and that it is good to be apart. It is not a devil, and you must not get the idea that it is to be hated.Đối với nó, tiến hoá là sự đi xuống vào vật chất ; mục tiêu của nó là trở thành một chân thần khoáng vật. Bởi vậy, mục đích trong đời của nó là tiến càng gần cõi hồng trần càng tốt, để tiếp xúc với càng nhiều rung động thuộc loại thô càng hay. Nó không biết gì về bạn ; nó không thể biết hay tưởng tượng điều gì về bạn; nhưng nó có cảm nhận rằng nó đã tách khỏi khối chung, và rằng việc tách rời ấy là tốt. Nó không phải là quỷ, và bạn chớ có ý nghĩ rằng nó đáng bị ghét bỏ.
It is part of the Divine Life, just as you are; but its interests are diametrically opposed to yours. It wants to evolve downwards; you want to evolve upwards. It desires to preserve its separate life, and it feels that it can do so only by means of its connection with you. It is conscious of a something which is your lower mind, and realizes that if it can englobe, as it were, this mind, and persuade you that its and yours interests are one, you will increasingly supply it with the sensations it desires. When it gets the matter sufficiently entangled to suit its purpose, you cannot withdraw it, the result being that some of this matter of the lower mind is then lost to you altogether in the life after death.Nó là một phần của Sự Sống Thiêng Liêng, cũng như bạn vậy; nhưng lợi ích của nó thì trái ngược hẳn với lợi ích của bạn.  muốn tiến hoá đi xuống; bạn  muốn tiến hoá đi lên. Nó muốn bảo toàn đời sống biệt lập của nó, và nó cảm thấy rằng nó chỉ có thể làm thế bằng mối liên hệ với bạn. Nó ý thức về một điều gì đó là hạ trí của bạn, và nhận ra rằng nếu nó có thể bao trùm, như thể, cái trí ấy, và thuyết phục bạn rằng lợi ích của nó và của bạn là một, thì bạn sẽ càng ngày càng cung cấp cho nó những cảm giác mà nó khao khát. Khi nó khiến chất liệu đủ vướng víu theo đúng ý đồ, thì bạn không thể rút nó ra, hệ quả là một phần vật chất của hạ trí ấy sẽ bị mất hẳn đối với bạn trong đời sau khi chết.
So, you see, here is the desire-elemental seeking its own ends; not knowing that it is injuring you by trying to entangle your lower mind. The more it can do this the better for it, for the more mental matter it can entangle the longer will be its astral life—that life still enduring even after you have passed into the heaven-world. In Theosophical phraseology it has been known as the shade. Your business is not to allow yourself to be deceived; it understands nothing of your evolution, and is not responsible for it; it simply tries to turn you to its own purpose. You ought to understand the situation, and refuse to be drawn. Do let us realize this: that this elemental is not ourselves. It is never you who desire these lower things, but this creature.Bạn thấy đó, đây là tinh linh dục vọng đang tìm kiếm mục đích riêng của nó; không biết rằng nó đang làm tổn hại bạn bằng cách cố gắng làm vướng víu hạ trí của bạn. Nó càng làm được điều này thì càng tốt cho nó, bởi càng vướng được nhiều vật chất trí tuệ thì đời sống cảm dục của nó càng kéo dài—đời sống ấy vẫn còn tiếp diễn ngay cả sau khi bạn đã bước vào cõi trời. Trong thuật ngữ Thông Thiên Học, nó được gọi là “cái bóng”. Phần việc của bạn là không để mình bị lừa dối; nó chẳng hiểu gì về sự tiến hoá của bạn, và không chịu trách nhiệm cho điều ấy; nó đơn giản chỉ cố uốn bạn theo mục đích riêng của nó. Bạn cần hiểu rõ tình huống và từ chối để bị lôi kéo. Xin hãy thực sự nhận ra điều này: rằng tinh linh này không phải là chính chúng ta. Không bao giờ là bạn đang ham muốn những điều thấp hèn ấy, mà là sinh thể này.
It is not so much that we have to make a great fight against it, but we should shake ourselves free, saying: “This is not I; I do not want this lower thing.” Somebody wants it. Yes, it is this elemental; and you are responsible for its likes and wants, for in your last life you made it what it is. Not that this particular collection of astral matter and elemental essence existed then; it did not, for it was newly gathered together at your birth this time. But it is an exact reproduction of the matter in your astral body at the end of your last astral life. Nevertheless it is not you; and you must ever bear this in mind all through life, and even more during the life after death, for then it has still greater power to deceive you.Không hẳn là chúng ta phải giao một trận chiến kịch liệt chống lại nó, mà chúng ta nên tự lắc mình thoát ra, nói rằng: “Đây không phải là tôi; tôi không muốn cái điều thấp kém này.” Ai đó muốn nó. Đúng vậy, đó là tinh linh này; và bạn chịu trách nhiệm về cái thích và cái muốn của nó, vì trong kiếp trước bạn đã làm cho nó thành ra như thế. Không phải là tập hợp đặc thù này của chất liệu cảm dục và Tinh chất hành khí từng hiện hữu khi ấy; nó không có, vì nó chỉ mới được tụ hợp lại khi bạn sinh ra trong kiếp này. Nhưng nó là một bản sao chính xác của chất liệu trong thể cảm dục của bạn vào cuối đời sống cảm dục trước đây của bạn . Tuy nhiên nó không phải là bạn; và bạn phải luôn ghi nhớ điều này suốt cả đời, và còn phải nhớ hơn nữa trong đời sống sau khi chết, vì khi ấy nó còn có quyền lực lớn hơn để mê hoặc bạn.
But you may think that by thus refusing to allow it to influence you, you are checking its evolution. Not at all. You are doing better for the elemental if you control the lower passions, and take a firm stand of your own. It is true you do not develop a very low part of it; but you may drop the lower and evolve the higher. An animal can supply the lower kinds of vibrations even better than you can yourself, whereas none but man can evolve the higher type of essence.Nhưng bạn có thể nghĩ rằng bằng cách từ chối để nó ảnh hưởng lên mình như thế, bạn đang kìm hãm sự tiến hóa của nó. Hoàn toàn không. Bạn làm điều tốt hơn cho tinh linh cảm dục nếu bạn kiểm soát các đam dục thấp và tự mình đứng vững một lập trường kiên định. Đúng là bạn không phát triển một phần rất thấp của nó; nhưng bạn có thể buông bỏ phần thấp và tiến hóa phần cao. Một con vật có thể cung cấp những loại rung động thấp còn tốt hơn chính bạn, trong khi chẳng có ai ngoài con người mới có thể tiến hóa loại tinh chất cao hơn.
After the death of the physical body the ordinary man, who has never heard all this, finds himself when he wakes up on the other side in a totally unexpected condition of affairs, and is generally more or less disturbed thereby. Finally, he accepts these conditions which he does not understand, thinking them necessary and inevitable. Some no doubt are, but some are not, and with knowledge the latter could be transcended.Sau cái chết của thể xác, người thường vốn chưa hề nghe biết những điều này, khi tỉnh dậy ở bên kia bờ thấy mình ở trong một tình trạng hoàn toàn không ngờ tới, và thường ít nhiều bị xáo trộn vì điều đó. Cuối cùng, người ấy chấp nhận những điều kiện mà y không hiểu, nghĩ rằng chúng là cần thiết và tất yếu. Một số điều chắc chắn là như thế, nhưng một số thì không, và với tri thức thì những điều sau có thể được vượt lên trên.
The elemental is afraid, because it knows that the death of the physical body means that the term of its separated life is limited; it knows that the man’s astral death will more or less quickly follow, and with it the loss to it of vivid and intense sensations. Consequently it adopts the best plan it can think of for the preservation of the man’s astral body. It evidently knows enough of astral physics to realize that the coarsest matter can hold together longest, and best stand friction. So it arranges the matter in rings, the coarsest on the outside. And in so doing it is right, from its point of view. During physical life the astral body is like swirling, boiling water, but after death it arranges the matter in a series of graduated sheaths, so that full circulation is impossible.Tinh linh cảm dục thì sợ hãi, vì nó biết rằng cái chết của thể xác có nghĩa hạn kỳ của đời sống tách rời của nó đã bị giới hạn; nó biết rằng cái chết cảm dục của con người sẽ xảy ra sớm hay muộn, và kèm theo đó là mất mát đối với nó những cảm giác sống động và mãnh liệt. Do đó nó chọn kế sách tốt nhất mà nó có thể nghĩ ra để bảo toàn thể cảm dục của con người. Rõ ràng nó biết đủ nhiều về “vật lý” cõi cảm dục để nhận ra rằng chất liệu càng thô càng có thể kết dính lâu nhất và chịu đựng ma sát tốt nhất. Vì vậy nó sắp xếp chất liệu theo những vòng, phần thô nhất ở bên ngoài. Và khi làm như vậy thì xét theo quan điểm của nó, nó làm đúng. Trong đời sống hồng trần, thể cảm dục như nước xoáy sôi sục, nhưng sau khi chết nó sắp đặt chất liệu thành một loạt các lớp vỏ thứ bậc, đến nỗi tuần hoàn đầy đủ là không thể.
Now there are no sense organs in the astral body. There are in it organs corresponding to the physical sense-organs, but you do not see, hear and smell with them. You hear and see all over the surface of the body. Each sub-plane has its own matter; and it is by means of the matter of that sub-plane in your body that you can respond to its vibrations. Whatever matter is on the outside (or surface) of your body responds to these vibrations, and you see or hear by it alone. Consequently, what has happened is this: the elemental has, by this arrangement of the matter of your body, shut you up, as it were, in a box of astral matter, which enables you to see and hear things of the lowest and coarsest plane only. If you object to being shut up in this way, it endeavours to make you believe that unless you do thus firmly root yourself into the lower matter you will float off, and lose yourself in a nebulous vagueness.Giờ đây không có cơ quan cảm giác nào trong thể cảm dục. Trong đó có các cơ quan tương ứng với cơ quan cảm giác hồng trần, nhưng bạn không thấy, không nghe, không ngửi bằng chúng. Bạn nghe và thấy bằng toàn bộ bề mặt của thể. Mỗi cõi phụ có chất liệu riêng của nó; và chính nhờ chất liệu của cõi phụ đó trong thể của bạn mà bạn có thể đáp ứng với các rung động của cõi ấy. Bất cứ chất liệu nào ở bên ngoài (hay bề mặt) thể của bạn đều đáp lại các rung động đó, và bạn chỉ thấy hay nghe bằng nó. Do đó, điều đã xảy ra là thế này: tinh linh cảm dục, bằng sự sắp đặt chất liệu trong thể của bạn như vậy, đã (nói như thế) nhốt bạn trong một cái hộp bằng chất liệu cảm dục, khiến bạn chỉ có thể thấy và nghe những điều của cõi thấp nhất và thô thiển nhất. Nếu bạn phản đối việc bị nhốt theo cách này, nó cố làm cho bạn tin rằng trừ khi bạn bám rễ thật chắc vào chất liệu thấp, bạn sẽ trôi đi và đánh mất mình trong một sự mơ hồ sương khói.
But if, on the other hand, you were to set your will to oppose it, then at once there would be a difference. The particles of the astral body would be kept all intermingled, as in life; and you would, in consequence, be free of all the sub-planes.Nhưng nếu, ở chiều ngược lại, bạn đặt ý chí để đối kháng nó, thì ngay lập tức sẽ có khác biệt. Các hạt của thể cảm dục sẽ được giữ ở trạng thái hòa trộn lẫn nhau như khi còn sống; và do đó bạn sẽ tự do đối với tất cả các cõi phụ.
The final struggle with it takes place at the conclusion of the astral life, for then the ego endeavours to draw back into himself all that he put down into incarnation at the beginning of the life which has just closed—to recover as it were the principal which he has invested, plus the interest of the experience which has been gained and the qualities which have been developed during that life. But when he attempts to do this he is met with determined opposition from this desire-elemental, which he himself has created and fed.Cuộc đấu sau cùng với nó diễn ra vào lúc kết thúc đời sống cảm dục, vì khi ấy chân ngã cố gắng rút trở lại vào chính mình mọi thứ mà Ngài đã đặt xuống khi nhập thể vào lúc khởi đầu của đời sống vừa kết thúc—tức là thu hồi, như thể, phần vốn mà Ngài đã đầu tư, cộng với lãi là kinh nghiệm đã thu nhận và các phẩm tính đã được phát triển trong đời sống đó. Nhưng khi Ngài cố làm điều này, Ngài gặp phải sự chống đối kiên quyết từ tinh linh dục vọng này, vốn do chính Ngài tạo ra và nuôi dưỡng.
Though it can hardly be described as intelligent, it has a strong instinct of self-preservation, which leads it to resist with all the force at its command the extinction which threatens it. In the case of all ordinary mortals it attains a certain measure of success in its efforts, for much of the mental faculty has during life been governed by the lower desires and prostituted to their service, or in other words the lower mind has been so seriously entangled by desire that it is impossible for it to be entirely freed. The result of the struggle is therefore that some portion of the mental matter and even of causal matter is retained in the astral body after the ego has completely broken away from it. When a man has during life completely conquered his lower desires and succeeded in absolutely freeing the lower mind from desire, there is practically no struggle, and the ego reclaims in full both principal and interest; but there is unfortunately an opposite extreme when he is able to reclaim neither.Dẫu khó có thể nói rằng nó thông minh, nhưng nó có bản năng tự tồn rất mạnh, khiến nó dùng hết sức lực trong tầm tay để chống lại sự tiêu diệt đang đe dọa nó. Trong trường hợp của mọi phàm nhân thông thường, nó đạt được một mức độ thành công nào đó trong nỗ lực của mình, vì phần lớn năng lực trí tuệ trong đời sống đã bị các dục vọng thấp cai trị và bị hạ thấp để phục vụ chúng, hay nói cách khác, hạ trí đã bị dục vọng quấn chặt đến mức không thể hoàn toàn giải phóng. Kết quả của cuộc đấu do đó là một phần chất liệu trí tuệ, thậm chí cả chất liệu nguyên nhân, bị giữ lại trong thể cảm dục sau khi chân ngã đã hoàn toàn tách khỏi nó. Khi một người trong đời sống đã hoàn toàn chinh phục các dục vọng thấp và thành công trong việc giải phóng tuyệt đối hạ trí khỏi dục vọng, thì hầu như không có cuộc đấu nào, và chân ngã thu hồi đủ đầy cả vốn lẫn lãi; nhưng đáng tiếc là cũng có cực đoan đối nghịch khi Ngài không thể thu hồi được gì.
So our business, both during life and after death, is to control this desire-elemental, and not let it control us. Realize that you are a god in the making. All the power and force of the universe are on your side. The result is certain. Range yourself on the side of the Law, and all will be simplified.Vì vậy công việc của chúng ta, cả khi sống lẫn sau khi chết, là kiểm soát tinh linh dục vọng này, chứ không để kiểm soát chúng ta. Hãy nhận ra rằng bạn là một vị thần đang được hình thành. Mọi quyền lực và mãnh lực của vũ trụ đều đứng về phía bạn. Kết quả là chắc chắn. Hãy đứng về phía Định luật, và mọi sự sẽ được giản lược.
Absolute control of passions is eminently desirable, but is obtained by few. You have to keep your temper on the astral plane. You see many dreadful things, and if you have not all feelings thoroughly under control you may easily do something for which you will be sorry. Down here people often commit casual brutality and think nothing of it; a callous schoolmaster, for example, beats a child without realizing his wickedness; but on the astral plane the heinousness of such a crime is at once obvious, and even the awful horrors of the karma which it entails may often be seen. On the astral you see the full effects of even an unkind word. Tremendous and violent passions may often attract low kinds of beings, who enter into the thought-forms and enjoy the vibrations. Such animated thought-forms may last for years, and even produce poltergeist phenomena.Sự làm chủ tuyệt đối các đam dục là điều vô cùng đáng mong, nhưng ít ai đạt được. Bạn phải giữ bình tĩnh trên cõi cảm dục. Bạn sẽ thấy nhiều điều khủng khiếp, và nếu bạn chưa hoàn toàn làm chủ mọi cảm xúc, bạn có thể dễ dàng làm điều mà rồi sẽ phải hối hận. Ở đây, người ta thường phạm những hành vi tàn bạo bừa bãi mà chẳng nghĩ gì; một ông thầy giáo vô cảm, chẳng hạn, đánh một đứa trẻ mà không nhận ra sự độc ác của mình; nhưng trên cõi cảm dục, tính nghiêm trọng ghê gớm của tội ác như vậy lập tức hiển lộ, và thậm chí những nỗi kinh hoàng khủng khiếp của nghiệp quả mà nó kéo theo cũng thường có thể được thấy. Trên cõi cảm dục, bạn thấy đầy đủ hiệu ứng ngay cả của một lời nói thiếu tử tế. Những đam dục dữ dội và mãnh liệt thường lôi kéo các loại chúng sinh thấp, chúng nhập vào các hình tư tưởng và hưởng thụ các rung động. Những hình tư tưởng được sinh động như thế có thể tồn tại nhiều năm, và thậm chí gây ra các hiện tượng ma quấy.

LOST SOULS—CÁC LINH HỒN LẠC LỐI

>
It is an unspeakable relief to be set free by the commonsense of Theosophical teaching from the awful nightmare of the doctrine of eternal damnation which is still held by the more ignorant among the Christians, who do not understand the real meaning of certain phrases attributed in their gospels to their Founder. But some of our students, filled with glad enthusiasm by the glorious discovery that every unit must finally attain perfection, find their joy somewhat damped by gruesome hints that, after all, there are conditions under which a soul may be lost, and they begin to wonder whether the reign of divine law is really universal, or whether there is not some method by which man contrive to escape from the dominion of the LOGOS and destroy himself. Let such doubters take comfort; the Will of the LOGOS is infinitely stronger than any human will, and not even the utmost exertion of perverse ingenuity can possibly prevail against Him.Được giải phóng khỏi cơn ác mộng khủng khiếp của giáo lý “đọa đày vĩnh viễn”—vốn vẫn còn được một số người Kitô hữu kém hiểu biết tin giữ, những người không hiểu ý nghĩa thực sự của những cụm từ được cho là của Đấng Sáng Lập trong các phúc âm của họ—bằng lẽ thường của giáo lý Thông Thiên Học, là một sự nhẹ nhõm khôn tả. Nhưng một số đạo sinh của chúng ta, tràn đầy hoan hỷ nồng nhiệt bởi khám phá vinh quang rằng mọi đơn vị rốt cuộc đều phải đạt tới sự hoàn thiện, lại thấy niềm vui của họ phần nào bị lạnh đi bởi những gợi ý rờn rợn rằng, rốt cuộc, có những điều kiện mà tại đó một linh hồn có thể bị lạc lối, và họ bắt đầu tự hỏi liệu quyền cai trị của luật thiêng có thật sự phổ quát hay không, hay là có một phương cách nào đó để con người tìm cách thoát khỏi quyền tể trị của Thượng đế và tự hủy diệt mình. Xin để những kẻ hoài nghi như thế được an ủi; Ý Chí của Thượng đế vô cùng mạnh mẽ hơn bất kỳ ý chí con người nào, và dẫu cho sự nỗ lực tối đa của mưu mô lệch lạc thì cũng tuyệt đối không thể thắng Ngài.
It is true that He allows man to use his free-will, but only within certain well-defined limits; if the man uses that will well, those limits are quickly widened, and more and more power over his own destiny is given to him; but if he uses that will for evil, he thereby increases his limitations, so that while his power for good is practically unbounded, because it has in it the potentiality of infinite growth, his power for evil is rigidly restricted. And this not because of any inequality in the incidence of the law, but because in the one case he exerts his will in the same direction as that of the LOGOS, and so is swimming with the evolutionary tide, while in the other he is struggling against it.Đúng là Ngài cho phép con người sử dụng tự do ý chí, nhưng chỉ trong những giới hạn được xác định rõ ràng; nếu người ấy dùng ý chí đó một cách tốt đẹp, những giới hạn đó sẽ nhanh chóng được nới rộng, và ngày càng nhiều quyền năng hơn đối với định mệnh của chính mình sẽ được trao cho y; nhưng nếu y dùng ý chí đó để làm điều ác, y qua đó tự gia tăng các giới hạn của mình, đến nỗi trong khi quyền năng làm điều thiện của y hầu như không bị giới hạn , vì nó hàm chứa tiềm năng tăng trưởng vô hạn, thì quyền năng làm điều ác của y lại bị hạn chế nghiêm ngặt. Và điều này không phải vì có sự bất bình đẳng trong sự tác động của luật, mà vì trong trường hợp thứ nhất y vận dụng ý chí theo cùng chiều với ý chí của Thượng đế, và như vậy là đang bơi theo làn triều tiến hóa, còn trong trường hợp kia y đang vùng vẫy ngược dòng.
The term “lost souls” is not well chosen, for it is almost certain to be misunderstood, and taken to imply much more than it really means. In every-day parlance, the word “soul” is used with exasperating vagueness, but on the whole it is generally supposed to denote the subtler and more permanent part of man, so that to the man in the street to lose one’s soul means to lose oneself, to be lost altogether. That is precisely what can never happen; therefore the expression is misleading, and a clear statement of the facts which it somewhat inaccurately labels may be of use to students. Of such facts there seem to be three classes; let us consider them one by one.Thuật ngữ “các linh hồn lạc lối” không được chọn khéo, vì hầu như chắc chắn sẽ bị hiểu lầm và bị xem như hàm ý nhiều hơn điều nó thật sự có nghĩa. Trong ngôn ngữ thường ngày, chữ “linh hồn” được dùng một cách mơ hồ đến bực bội, nhưng nhìn chung thường được cho là chỉ phần vi tế và bền vững hơn của con người, đến nỗi đối với người bình thường, đánh mất linh hồn tức là đánh mất chính mình, là bị mất hẳn. Đó chính là điều không bao giờ có thể xảy ra; do vậy cách nói ấy gây hiểu lầm, và một lời trình bày rõ ràng về những sự kiện mà nó dán nhãn một cách khá không chính xác có thể hữu ích cho đạo sinh. Dường như có ba loại sự kiện như thế; chúng ta hãy xét từng loại một.
Those who will drop out of this evolution in the middle of the fifth round. This dropping out is precisely the aeonian (not eternal) condemnation of which the Christ spoke as a very real danger for some of His unawakened hearers—the condemnation meaning merely the decision that they are incapable as yet of the higher progress, but not implying blame except in cases where opportunities have been neglected. Theosophy teaches us that men are all brothers, but not that they are all equal. There are immense differences between them; they have entered the human evolution at various periods, so that some are much older souls than others, and they stand at very different levels on the ladder of development. The older souls naturally learn much more rapidly than the younger, and so the distance between them steadily increases, and eventually a point is reached where the conditions necessary for the one type are entirely unsuitable for the other.Những người sẽ bị rớt khỏi cuộc tiến hóa này vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm. Sự rớt khỏi này chính là sự kết án trường kỳ (không phải vĩnh cửu) mà Đức Christ đã nói đến như một mối nguy rất thực cho một số thính giả còn chưa thức tỉnh của Ngài—sự kết án này chỉ có nghĩa là quyết định rằng họ hiện tại chưa đủ năng lực cho tiến bộ cao hơn, nhưng không hàm ý trách cứ, trừ những trường hợp đã bỏ lỡ cơ hội. Thông Thiên Học dạy chúng ta rằng con người đều là huynh đệ, nhưng không dạy rằng tất cả đều bình đẳng. Giữa họ có những khác biệt mênh mông; họ đã bước vào cuộc tiến hóa nhân loại ở các thời kỳ khác nhau, nên một số là linh hồn già dặn hơn kẻ khác nhiều, và họ đứng ở những bậc rất khác nhau trên chiếc thang phát triển. Các linh hồn già tự nhiên học nhanh hơn nhiều so với các linh hồn trẻ, và như thế khoảng cách giữa họ đều đặn tăng lên, và rốt cuộc đến một điểm mà những điều kiện cần thiết cho kiểu này lại hoàn toàn không thích hợp cho kiểu kia.
We may obtain a useful working analogy by thinking of the children in a class at school. The teacher of the class has a year’s work before him, to prepare his boys for a certain examination. He parcels out the work—so much for the first month, so much for the second, and so on, beginning of course with what is easiest and leading gradually up to what is more difficult. But the boys are of various ages and capacities; some learn rapidly and are in advance of the average, while some lag behind. New boys, too, are constantly coming into his class, some of them barely up to its level. When half the year has run its course, he resolutely closes the list for admissions, and declines to receive any more new boys.Chúng ta có thể có một phép loại suy hữu ích cho công việc bằng cách nghĩ đến những đứa trẻ trong một lớp học ở trường. Người thầy của lớp có một năm công việc trước mặt, để chuẩn bị cho các cậu dự một kỳ thi. Ông phân chia công việc—bấy nhiêu cho tháng thứ nhất, bấy nhiêu cho tháng thứ hai, v.v., tất nhiên khởi đầu bằng phần dễ nhất và dần dần dẫn tới phần khó hơn. Nhưng các cậu học trò thì khác nhau về tuổi tác và năng lực; có đứa học nhanh và vượt trước mức trung bình, trong khi có đứa tụt lại phía sau. Các cậu mới cũng liên tục vào lớp của ông, một số trong họ chỉ vừa đủ trình độ của lớp. Khi nửa năm đã trôi qua, ông dứt khoát đóng sổ ghi danh, và từ chối nhận thêm học trò mới.
That took place for us at the middle point of this fourth round, after which the door was shut for passage from the animal kingdom into the human, save for a few exceptional cases, which belong, as it were, to the future; just as you have a few men attaining adeptship, who are not belated remnants of the moon’s adepts, but people in advance of the rest of humanity. In the same way there are a few animals at the stage of individualization, which the generality are expected to reach at the end of the seventh round. On the next planet an arrangement will be made by which these exceptions will have the opportunity of taking primitive human bodies.Điều đó đã xảy ra đối với chúng ta tại điểm giữa của cuộc tuần hoàn thứ tư này, sau đó cánh cửa đóng lại đối với sự chuyển từ giới động vật vào giới nhân loại, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ, vốn thuộc, như thể, về tương lai; cũng như bạn thấy có vài người đạt được địa vị chân sư, họ không phải là những tàn dư lạc hậu của các chân sư thuộc Dãy Mặt Trăng, mà là những người đi trước phần còn lại của nhân loại. Tương tự như vậy, có một vài loài vật đang ở giai đoạn biệt ngã hóa, điều mà số đông được kỳ vọng sẽ đạt tới vào cuối cuộc tuần hoàn thứ bảy. Trên hành tinh kế tiếp sẽ có một sắp đặt để những ngoại lệ này có cơ hội nhận những thân người nguyên thủy.
A little later the teacher can already clearly foresee that some of his boys will certainly pass the examination, that the chance of others is doubtful, and that there are yet others who are sure to fail. It would be quite reasonable if he should say to these last:Một chút sau đó, người thầy đã có thể tiên liệu rõ ràng rằng một số học trò của mình chắc chắn sẽ vượt qua kỳ thi, cơ hội của những người khác thì đáng ngờ, và lại có những người chắc chắn thất bại. Sẽ hoàn toàn hợp lý nếu ông nói với nhóm sau cùng này:
“We have now reached a stage when the further work of this class is useless for you. You cannot possibly by any effort attain the necessary standard in time for the examination; the more advanced teaching which must now be given to the others would be entirely unsuited for you, and as you could not understand it you would be not only wasting your own time but would be a hindrance to the rest of the class. It will therefore be better for you at once to transfer yourselves to the next class below this, perfect yourselves there in the preliminary lessons which you have not thoroughly learned, and come back to this level with next year’s class, when you will be sure to pass with credit.”“Chúng ta đã đến một giai đoạn mà việc học tiếp theo của lớp này là vô ích đối với các em. Các em không thể, bằng bất kỳ nỗ lực nào, đạt tới chuẩn cần thiết kịp thời cho kỳ thi; phần giảng dạy cao hơn hiện nay phải dành cho những bạn khác hoàn toàn không thích hợp với các em, và vì các em không thể hiểu nó nên các em không chỉ lãng phí thời giờ của mình mà còn trở thành chướng ngại cho phần còn lại của lớp. Vậy sẽ tốt hơn nếu các em ngay lập tức chuyển xuống lớp dưới kế cận, tự hoàn thiện ở đó những bài học sơ bộ mà các em chưa học thấu đáo, và quay lại trình độ này cùng với lớp của năm sau, khi ấy các em chắc chắn sẽ vượt qua một cách vẻ vang.”
That is exactly what will be done in the middle of the fifth round. Those who cannot by any effort reach the prescribed goal in the time which remains will be put back into a lower class, and if the class-room doors are not yet open they will wait in peace and happiness until the appointed time. They may be described as lost to us, lost to this particular little wave of evolution to which we belong; they are no longer “men of our year” as we say at College. But they will very certainly be “men of the next year”—even leading men in it, because of the work that they have already done and the experience that they have already had.Đó chính xác là điều sẽ được thực hiện vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm. Những ai không thể, bằng bất kỳ nỗ lực nào, đạt tới mục tiêu ấn định trong khoảng thời gian còn lại sẽ bị xếp lại vào một lớp thấp hơn, và nếu cửa lớp chưa mở thì họ sẽ chờ đợi trong bình an và hạnh phúc cho tới thời điểm đã định. Có thể mô tả họ là bị mất đối với chúng ta , bị mất đối với làn sóng tiến hóa nhỏ bé đặc thù này mà chúng ta thuộc về; họ không còn là “những người cùng niên” theo cách nói ở Trường nữa. Nhưng rất chắc chắn họ sẽ là “những người của niên khóa kế tiếp”—thậm chí là những người dẫn đầu trong đó, vì công việc họ đã làm và kinh nghiệm họ đã có.
Most of these people fail because they are too young for the class, although they were too old to be put in the first place into the class below. They have had the advantage of going through the first half of the year’s work, and they will therefore take it up again next time readily and easily, and will be able to help their more backward fellow-pupils who have not had their advantages. For those who are too young for the work there is no blame in failure.Phần lớn những người này thất bại vì họ còn quá non so với lớp, dẫu rằng lúc đầu họ đã quá tuổi để xếp vào lớp dưới. Họ đã có lợi thế đi qua nửa đầu của công việc trong năm, và do đó lần tới họ sẽ tiếp tục nó một cách dễ dàng và nhanh chóng, và sẽ có thể giúp đỡ các bạn học lạc hậu hơn chưa có những lợi thế như họ. Đối với những người còn quá non so với công việc thì thất bại không phải là điều đáng trách cứ.
But there is another large class who might succeed by determined effort, but fail for want of that effort. These exactly correspond to the boy who drops behind his class not because he is too young, but because he is too lazy to do his work. His fate is the same as that of the others, but it is obvious that while they were blameless because they did their best, he is blame-worthy precisely because he did not do his; so he will carry with him a legacy of evil karma from which they are free. It is to men of that class that the Christ’s exhortations were addressed—men who had the opportunity and ability to succeed, but were not making the necessary effort.Nhưng có một lớp lớn khác lẽ ra có thể thành công bằng nỗ lực quyết tâm, nhưng lại thất bại vì thiếu nỗ lực đó. Họ giống y như cậu học trò rớt lại sau lớp không phải vì quá non, mà vì quá lười để làm bài. Số phận của cậu cũng giống như những người khác, nhưng rõ ràng là trong khi họ vô tội vì đã làm hết sức, thì cậu đáng bị chê trách chính vì cậu đã không làm phần việc của mình; vậy nên cậu sẽ mang theo một di sản nghiệp xấu mà họ không có. Chính với những người thuộc lớp này mà những lời khuyên nhủ của Đức Christ đã được hướng đến—những người có cơ hội và khả năng để thành công, nhưng đã không nỗ lực cần thiết.
It is of these that Madame Blavatsky speaks in such vigorous terms as “useless drones who refuse to become co-workers with Nature, and who perish by millions during the manvantaric life-cycle.” (Secret Doctrine, iii,) But note that this “perishing” is merely from this “manvantaric life-cycle,” and that it means for them delay only, and not total extinction. Delay is the worst that can happen to people in the ordinary course of evolution. Such a delay is undoubtedly most serious, but, bad though it be, it is the best that can be done under the circumstances. If either through youth, or through laziness and perversity, these people have failed, it is clear that they need more training, and this training they must have. Obviously that is best for them, even though it means many lives—lives, many of which may be dreary, and may even contain much suffering. Still, they must go through to the end, because that is the only way by which they can attain the level which the more advanced races have already reached through similar long-continued evolution.Chính về những kẻ ấy mà Bà Blavatsky đã nói bằng những từ mạnh mẽ như “những kẻ ăn bám vô dụng, từ chối trở thành những cộng tác viên với Tự nhiên, và chết đi hàng triệu trong chu kỳ giai kỳ sinh hóa.” ( Giáo Lý Bí Nhiệm, iii,) Nhưng xin lưu ý rằng sự “tiêu vong” này chỉ khỏi “chu kỳ giai kỳ sinh hóa” này, và rằng đối với họ nó chỉ có nghĩa là trì hoãn, chứ không phải là tiêu diệt hoàn toàn. Sự trì hoãn là điều tệ hại nhất có thể xảy đến với con người trong tiến trình tiến hóa thông thường. Một sự trì hoãn như vậy chắc chắn là vô cùng nghiêm trọng, nhưng dẫu xấu thế nào đi nữa, thì đó là điều tốt nhất có thể làm trong hoàn cảnh. Nếu vì non nớt, hoặc vì lười biếng và tà nghịch, những người này đã thất bại, thì rõ ràng là họ cần được rèn luyện nhiều hơn, và họ phải có sự rèn luyện đó. Hiển nhiên đó là điều tốt nhất cho họ, dù rằng nó có nghĩa là nhiều kiếp sống—nhiều kiếp sống có thể ảm đạm, và thậm chí có thể chứa đựng nhiều đau khổ. Tuy nhiên, họ phải đi cho đến cùng, bởi vì đó là con đường duy nhất nhờ đó họ có thể đạt tới trình độ mà các chủng tộc tiến bộ hơn đã đạt được qua tiến hóa bền bỉ lâu dài tương tự.
It was with the object of saving as many people as possible from that additional suffering that the Christ said to His disciples: “Go ye into all the world and preach the gospel to every creature; he that believeth and is baptised shall be saved, but he that believeth not shall be damned.” For baptism and its corresponding rites in other religions are the sign of the dedication of the life to the service of the Brotherhood, and the man who is able to grasp the truth, and consequently sets his face in the right direction, will certainly be among the “saved” or “safe,” who escape the condemnation in the fifth round; while those who do not take the trouble to see the truth and follow it will assuredly fall under that condemnation. But remember always that the “damnation” means only rejection from this “aeon” or chain of worlds, a throwing back into the next of the successive life-waves. “Lost souls,” if you will; lost to us, perhaps, but not to the LOGOS; so they would be better described as temporarily laid aside. Of course it must not be supposed that the “belief” which saves them is the knowledge of Theosophy; it does not matter in the least what their religion is, so long as they are aiming at the spiritual life, so long as they have definitely ranged themselves on the side of good as against evil, and are working unselfishly onward and upward.Chính với mục đích cứu càng nhiều người càng tốt khỏi sự đau khổ phụ trội đó mà Đức Christ đã nói với các môn đồ của Ngài: “Hãy đi khắp thế gian và rao giảng phúc âm cho mọi tạo vật; ai tin và được rửa tội thì sẽ được cứu, còn ai không tin thì sẽ bị kết án.” Vì phép rửa tội và những lễ nghi tương ứng trong các tôn giáo khác là dấu hiệu dâng hiến đời sống để phụng sự Huynh đệ Đoàn, và người có thể nắm bắt chân lý, và do đó hướng mặt về đúng hướng, chắc chắn sẽ thuộc về số “được cứu” hay “an toàn”, những người thoát khỏi sự kết án trong cuộc tuần hoàn thứ năm; trong khi những ai không bận tâm để thấy chân lý và đi theo nó thì chắc chắn sẽ rơi vào sự kết án ấy. Nhưng hãy luôn nhớ rằng “kết án” chỉ có nghĩa là bị loại khỏi “đại kỳ” hay chuỗi thế giới này, bị ném trở lại vào làn sóng sự sống kế tiếp trong chuỗi liên tiếp. “Các linh hồn lạc lối”, nếu bạn muốn gọi như thế; lạc đối với chúng ta, có lẽ vậy, nhưng không lạc đối với Thượng đế; vậy nên miêu tả đúng hơn là tạm thời được xếp qua một bên. Tất nhiên không nên cho rằng “niềm tin” cứu rỗi họ là tri thức về Thông Thiên Học; tôn giáo của họ là gì cũng chẳng quan trọng, miễn là họ đang hướng tới đời sống tinh thần, miễn là họ đã dứt khoát đứng về phía điều thiện chống lại điều ác, và đang làm việc một cách vị tha để tiến lên và thăng thượng.
Cases in which the personality has been so much emphasized that the ego is almost shut out from it. Of these are two varieties—those who live only in their passions, and those who live only in their minds; and as both types are by no means uncommon it is worth while to try to understand exactly what happens to them.Những trường hợp mà phàm ngã đã được nhấn mạnh quá mức đến nỗi chân ngã hầu như bị loại ra khỏi nó. Trong đó có hai loại—những người chỉ sống trong các đam dục của mình, và những người chỉ sống trong thể trí của mình; và vì cả hai kiểu này đều không hề hiếm nên rất đáng để cố gắng hiểu chính xác điều gì xảy ra với họ.
We often speak of the ego as putting himself down into the matter of the lower planes, yet many students fail to realize that this is not a mere figure of speech, but has a very definite and very material side to it. The ego dwells in a causal body, and when he takes upon himself in addition a mental and an astral body, the operation involves the actual entangling of a portion of the matter of his causal body with matter of those lower astral and mental types. We may regard this “putting down” as kind of investment made by the ego. As in all investments, so in this; he hopes to get back more than he puts out, but there is a risk of disappointment—a possibility that he may lose something of what he invests, or under very exceptional circumstances there may even be a total loss which leaves him, not indeed absolutely bankrupt, but without available capital.Chúng ta thường nói về việc chân ngã đặt chính mình xuống vào chất liệu của các cõi thấp, nhưng nhiều môn sinh không nhận ra rằng đó không chỉ là một hình ảnh ẩn dụ, mà còn có một mặt rất xác định và rất “vật chất”. Chân ngã cư ngụ trong một thể nguyên nhân, và khi Ngài khoác thêm cho mình một thể trí và một thể cảm dục, thì thao tác này bao hàm sự vướng mắc thật sự của một phần chất liệu thuộc thể nguyên nhân của Ngài với chất liệu của các loại thấp hơn kia là cảm dục và trí tuệ. Chúng ta có thể xem việc “đặt xuống” này như một kiểu đầu tư do chân ngã thực hiện. Như trong mọi khoản đầu tư, ở đây cũng vậy; Ngài hy vọng lấy lại nhiều hơn số đã bỏ ra, nhưng có một rủi ro thất vọng—một khả năng Ngài có thể mất đi một phần những gì đã đầu tư, hoặc trong những hoàn cảnh rất đặc biệt thậm chí có thể là mất trắng, khiến Ngài—dẫu không hoàn toàn phá sản—nhưng không còn vốn khả dụng.
Let us consider the elaboration of this analogy. The ego possesses in his causal body matter of three levels—the first, second and third sub-planes of the mental; but for the enormous majority of mankind there is as yet no activity beyond the lowest of these three types, and even that is usually very partial. It is therefore only some of this lowest type of causal matter that can be put down to lower levels, and only a small fraction even of that part can be entangled with mental and astral matter.Hãy xét kỹ hơn phép loại suy này. Chân ngã có trong thể nguyên nhân chất liệu của ba cấp độ—các cõi phụ thứ nhất, thứ hai và thứ ba của cõi trí; nhưng đối với đa số áp đảo nhân loại thì hiện chưa có hoạt động nào vượt trên cấp thấp nhất trong ba loại này, và ngay cả cấp đó thường cũng chỉ hoạt động rất phần nào. Do vậy, chỉ một phần nào đó của loại chất liệu nguyên nhân thấp nhất này mới có thể được đặt xuống các cấp thấp hơn, và chỉ một phần nhỏ ngay cả của phần đó mới có thể bị vướng mắc với chất liệu trí tuệ và cảm dục.
The ego’s control over what is put down is very weak and imperfect, because he is still half asleep. But as his physical body grows up his astral and mental bodies are also developed, and the causal matter entangled with them is awakened by the vigorous vibrations which reach it through them. This fraction of a fraction which is fully entangled gives life and vigor and a sense of individuality to these vehicles, and they in turn react strongly upon it and arouse it to a keen realization of life. This keen realization of life is exactly what it needs, the very object for which it is put down; and it is the longing for this keen realization when it has it not which is spoken of as trishna (the thirst for manifested life, the desire to feel oneself really vividly alive), the force which draws the ego down again into reincarnation.Sự kiểm soát của chân ngã đối với phần được đặt xuống là rất yếu và không hoàn hảo, vì Ngài vẫn còn nửa mê. Nhưng khi thể xác lớn lên, thể cảm dục và thể trí của y cũng được phát triển, và phần chất liệu nguyên nhân bị vướng mắc với chúng được đánh thức bởi những rung động mãnh liệt truyền đến nó qua chúng. Phần nhỏ của phần nhỏ này—phần bị vướng mắc hoàn toàn—đem sinh khí, sức sống và cảm thức cá thể cho các hiện thể ấy, và đến lượt chúng phản hồi mạnh mẽ lên nó và khơi dậy nó tới một cảm thức sống động sắc bén. Chính cảm thức sống động sắc bén này là điều nó cần, là mục đích mà vì đó nó được đặt xuống; và chính khao khát về cảm thức sống động sắc bén này khi nó không có—điều được gọi là trishna (cơn khát đối với đời sống biểu lộ, ước muốn cảm thấy mình thật sự sống động)—là lực kéo chân ngã xuống tái sinh trở lại.
But just because this small fraction has had these experiences, and is therefore so much more awake the rest of the ego, it may often be so far intensified as to think itself the whole, and forget for the time its relation to “its Father which is in heaven.” It may temporarily identify itself with the matter through which it should be working, and may resist the influence of that other portion which has been put down, but is not entangled—that which forms the link with the great mass of the ego on his own plane.Nhưng chính vì phần nhỏ này đã trải nghiệm như thế, và do đó thức tỉnh hơn phần còn lại của chân ngã rất nhiều, nó thường có thể bị tăng cường đến mức tự cho mình là toàn thể, và tạm thời quên mối liên hệ của nó với “Cha nó ở trên trời.” Nó có thể tạm thời đồng hóa với chất liệu mà qua đó lẽ ra nó phải làm việc, và có thể kháng cự ảnh hưởng của phần khác cũng được đặt xuống nhưng không bị vướng mắc—phần tạo thành mối liên kết với khối lượng lớn của chân ngã trên cõi riêng của Ngài.
In order to understand this matter fully we must think of that portion of the ego which is awakened on the third sub-plane of the mental (remembering always how small a fraction even that is of the whole) as itself divided into three parts: (a) that which remains on its own plane; (b) that which is put down, but remains unentangled in lower matter; and (c) that which is thoroughly entangled with lower matter and receives vibrations from it. These are arranged in a descending scale, for just as (a) is a very small part of the real ego, so (b) is but a small part of (a), and (c) in turn a small part of (b). The second acts as a link between the first and third; we may symbolize (a) as the body, (b) as the arm stretched out, and (c) as the hand which grasps, or perhaps rather the tips of the fingers which are dipped into matter.Để hiểu đầy đủ vấn đề này, chúng ta phải nghĩ rằng phần của chân ngã được đánh thức trên cõi phụ thứ ba của cõi trí (luôn nhớ rằng ngay cả phần đó cũng chỉ là một phần rất nhỏ của toàn thể) tự nó được phân thành ba phần: (a) phần vẫn ở trên cõi riêng của nó; (b)  phần được đặt xuống nhưng vẫn không bị vướng mắc trong chất liệu thấp; và (c) phần bị vướng vào chất liệu thấp một cách triệt để và nhận các rung động từ nó. Ba phần này được sắp theo một thang đi xuống, vì cũng như (a) chỉ là một phần rất nhỏ của chân ngã thật sự, thì (b) lại chỉ là một phần nhỏ của (a),(c) lần lượt là một phần nhỏ của (b). Phần thứ hai làm mối liên kết giữa phần thứ nhất và phần thứ ba; chúng ta có thể biểu trưng (a) như thân mình, (b)  như cánh tay vươn ra, và (c) như bàn tay nắm lấy, hay có lẽ đúng hơn là các đầu ngón tay nhúng vào chất liệu.
We have here a very delicately balanced arrangement, which may be affected in various ways. The intention is that the hand (c) should grasp firmly and guide the matter with which it is entangled, being fully directed all the time by the body (a) through the arm (b). Under favourable circumstances additional strength, and even additional matter, may be poured from (a) through (b) into (c), so that the control may become more and more perfect. (c) may grow in size as well as strength, and the more it does so the better, so long as the communication through (b) is kept open freely and (a) retains control. For the very entanglement of the causal matter which constitutes (c) awakens it to a keen activity and an accuracy of response to fine shades of vibration which it could gain in no other way, and this, when transmitted through (b) to (a), means the development of the ego.Ở đây chúng ta có một sắp đặt rất tinh tế cân bằng, có thể bị ảnh hưởng theo nhiều cách. Dự định là bàn tay (c) phải nắm chắc và hướng dẫn chất liệu mà nó bị vướng vào, trong khi suốt thời gian vẫn được thân mình (a) chỉ đạo đầy đủ thông qua cánh tay (b). Trong những hoàn cảnh thuận lợi, có thể có thêm sức mạnh, thậm chí thêm chất liệu, được tuôn từ (a)  thông qua (b) vào (c),  để việc kiểm soát ngày càng trở nên hoàn mỹ. (c) có thể lớn lên cả về kích thước lẫn sức mạnh, và càng như thế càng tốt, miễn là sự thông lưu qua (b) vẫn mở thông tự do và (a) giữ quyền chỉ huy. Vì chính sự vướng mắc của chất liệu nguyên nhân cấu thành (c) đã đánh thức nó tới hoạt động sắc bén và một độ chính xác trong đáp ứng với những sắc thái tinh vi của rung động mà nó không thể đạt được bằng cách nào khác, và điều này, khi được truyền qua (b) tới (a),  có nghĩa là sự phát triển của chân ngã.
Unfortunately the course of events does not always follow the ideal plan of working above indicated. When the control of (a) is feeble, it sometimes happens that (c) becomes so thoroughly immeshed in lower matter that (as I have said) it actually identifies itself with it, forgets for the time its high estate, and thinks of itself as the whole ego. If the matter be of the lower mental plane, we shall then have down here on the physical plane a man who is wholly materialistic. He may be keenly intellectual perhaps, but not spiritual; he may very likely be intolerant of spirituality and quite unable to comprehend or appreciate it. He may probably call himself practical, matter-of-fact, unsentimental, while in reality he is hard as the nether millstone, and because of that hardness his life is a failure, and he making no progress.Đáng tiếc là diễn tiến sự việc không phải lúc nào cũng theo kế hoạch lý tưởng vừa nêu. Khi sự kiểm soát của (a) yếu ớt, đôi khi xảy ra việc (c) bị vướng mắc vào chất liệu thấp đến mức (như tôi đã nói) nó thực sự đồng hóa mình với chất liệu ấy, tạm thời quên địa vị cao của mình, và tự nghĩ mình là toàn thể chân ngã. Nếu chất liệu mà nó bị vướng một cách chí tử là của cõi hạ trí, thì khi xuống đây trên cõi hồng trần, chúng ta sẽ có một người hoàn toàn vật chất. Có thể y sắc sảo về trí tuệ, nhưng không tinh thần; rất có thể y không khoan dung với tinh thần tính và hoàn toàn không có khả năng hiểu hay trân trọng nó. Có thể y tự gọi mình là thực tế, sòng phẳng, không đa cảm, trong khi thực ra y cứng như đá cối, và vì sự cứng ấy mà đời y thất bại, y không tiến bộ.
If the matter in which he is so fatally entangled be astral, he will be (on the physical plane) one who thinks only of his own gratification, who is absolutely ruthless when in pursuit of some object which he strongly desires, a man utterly unprincipled and of brutal selfishness. Such a man lives in his passions, just as the man immeshed in mental matter lives in his mind. Cases such as these have been spoken of in our literature as “lost souls,” though not irretrievably lost. Madame Blavatsky says of them:Nếu chất liệu mà y bị vướng mắc chí tử là cảm dục, thì (trên cõi hồng trần) y sẽ là kẻ chỉ nghĩ đến khoái lạc của riêng mình, tuyệt đối tàn nhẫn khi theo đuổi một đối tượng mà y khao khát mãnh liệt, một kẻ hoàn toàn vô nguyên tắc và ích kỷ tàn bạo. Một người như vậy sống trong các đam dục của y, cũng như người bị vướng mắc trong chất liệu trí tuệ sống trong thể trí của y. Những trường hợp như vậy đã từng được nói trong văn liệu của chúng ta là “các linh hồn lạc lối”, tuy không phải lạc lối vô phương cứu vãn. Bà Blavatsky nói về họ:
“There is, however, still hope for a person who has lost his Higher Soul through his vices, while he is yet in the body. He may still be redeemed and made to turn on his material nature. For either an intense feeling of repentance, or one single earnest appeal to the Ego that has fled, or best of all, an active effort to amend one’s ways, may bring the Higher Ego back again. The thread of connection is not altogether broken.” (Secret Doctrine, iii.)“Tuy nhiên, vẫn còn hy vọng cho một người đã đánh mất Chân Ngã Cao của mình bởi các nết xấu, miễn là y còn ở trong thân xác. Y vẫn có thể được cứu chuộc và làm cho xoay ngược lại trên bản tánh vật chất của mình. Vì hoặc một cảm thức ăn năn mãnh liệt, hoặc chỉ một lời khẩn nguyện chân thành duy nhất hướng tới Chân Ngã đã trốn đi, hay tốt nhất là một nỗ lực tích cực để sửa đổi đường lối của mình, đều có thể đem Chân Ngã Cao quay trở lại. Sợi dây nối kết không hoàn toàn bị đứt.” ( Giáo Lý Bí Nhiệm,  iii.)
These are cases in which (c) has asserted itself against (b), and pressed it back towards (a); the arm has become attenuated and almost paralyzed, its strength and substance being withdrawn into the body, while the hand has set up for itself, and makes on its own account jerky and spasmodic movements which are not controlled by the brain. If the separation could become perfect it would correspond to an amputation at the wrist, but this very rarely takes place during physical existence, though only so much of communication remains as is necessary to keep the personality alive.Đây là những trường hợp trong đó (c) đã khẳng quyết mình chống lại (b) , và đẩy nó lùi về phía (a) ; cánh tay đã trở nên gầy mòn và gần như tê liệt, sức mạnh và chất liệu của nó bị rút vào thân, trong khi bàn tay tự đứng riêng ra và tự mình tạo nên những cử động giật cục và co giật không được bộ óc điều khiển. Nếu sự phân ly có thể trở nên hoàn hảo thì nó sẽ tương đương với việc bị cắt cụt ở cổ tay, nhưng điều này rất hiếm xảy ra trong khi còn sống ở cõi hồng trần, mặc dù chỉ còn đủ liên lạc để giữ cho phàm ngã sống.
As Madame Blavatsky says, such a case is not entirely hopeless, for even at the last moment fresh life may be poured through that paralyzed arm if a sufficiently strong effort be made, and thus the ego may be enabled to recover some proportion of (c), as he has already recovered most of (b). Nevertheless, such a life has been wasted, for even if the man just contrives to escape serious loss, at any rate nothing has been gained, and much time has been frittered away.Như Bà Blavatsky nói, một trường hợp như vậy không hoàn toàn vô vọng, vì ngay cả trong giây phút cuối, sinh lực mới vẫn có thể được tuôn qua cánh tay tê liệt đó nếu một nỗ lực đủ mạnh được thực hiện, và như vậy chân ngã có thể được giúp để thu hồi một phần nào của (c),  vì Ngài đã thu hồi phần lớn của ( b ). Tuy nhiên, một đời sống như thế đã bị phí hoài, vì ngay cả nếu người ấy chỉ vừa kịp thoát khỏi sự mất mát nghiêm trọng, thì ít nhất cũng không thu được điều gì, và rất nhiều thời gian đã bị phung phí.
It may well be thought incredible that such men as I have described could in any case escape serious loss; but, fortunately for our possibilities of progress, the laws under which we live are such that to achieve a really serious loss is no easy matter. The reason for that may perhaps be made clear by the following considerations.Người ta có thể cho rằng thật khó tin khi những người như tôi vừa mô tả có thể trong bất kỳ trường hợp nào lại thoát khỏi mất mát nghiêm trọng; nhưng, may mắn thay cho những khả năng tiến bộ của chúng ta, các định luật mà chúng ta đang sống theo đó là như vậy, đến nỗi để đạt tới một mất mát thật sự nghiêm trọng không phải là chuyện dễ dàng. Lý do cho điều đó có lẽ có thể được làm rõ bởi những suy xét sau.
All the activities that we call evil, whether they are working as selfish thoughts on the mental plane or as selfish emotions on the astral plane, invariably show themselves as vibrations of the coarser matter of those planes, belonging to their lower levels. On the other hand, every good and unselfish thought or emotion sets in vibration some of the higher types of matter on its plane; and because that finer matter is far more easily moved; any given amount of force spent in good thought or feeling produces perhaps a hundred times as much result as precisely the same amount of force sent out into the coarser matter. If this were not so, it is obvious that the ordinary man could never make any progress at all.Mọi hoạt động mà chúng ta gọi là ác, dù chúng vận hành như những tư tưởng ích kỷ trên cõi trí hay như những cảm xúc ích kỷ trên cõi cảm dục, đều biểu lộ ra như những rung động của chất liệu thô hơn của các cõi ấy, thuộc về các cấp thấp của chúng. Mặt khác, mọi tư tưởng hay cảm xúc tốt đẹp và vị tha đều làm rung động một số loại chất liệu cao hơn trên cõi tương ứng; và bởi vì chất liệu tinh hơn ấy dễ chuyển động hơn rất nhiều; một lượng năng lực nhất định được dùng cho tư tưởng hay cảm xúc thiện tạo ra kết quả có lẽ gấp trăm lần so với đúng lượng năng lực ấy nếu được phóng ra vào chất liệu thô hơn. Nếu không phải như vậy thì rõ ràng người thường chẳng bao giờ có thể tiến bộ chút nào.
We shall probably do the quite undeveloped man of the world no injustice if we assume that ninety per cent of his thought and feeling is self-centred, even if not actually selfish; if ten per cent of it is spiritual and unselfish, he must already be rising somewhat above the average. Clearly if these proportions produced corresponding results, the vast majority of humanity would take nine steps backwards for every one forwards, and we should have a retrogression so rapid that a few incarnations would deposit us in the animal kingdom out of which we evolved. Happily for us the effect of ten per cent of force directed to good ends enormously outweighs that of ninety per cent devoted to selfish purposes, and so on the whole such a man makes an appreciable advance from life to life. A man who has even one per cent of good to show makes a slight advance, so it will be readily understood that a man whose account balances exactly, so that there is neither advance nor retrogression, must have been living a distinctly evil life; while to obtain an actual descent in evolution a person must be an unusually consistent villain.Có lẽ chúng ta sẽ không bất công với người đời còn chưa phát triển nếu giả định rằng chín mươi phần trăm tư tưởng và cảm xúc của y là quy ngã, dù không hẳn là ích kỷ; nếu mười phần trăm trong đó là tinh thần và vị tha, thì y đã vượt lên trên mức trung bình đôi chút. Rõ ràng, nếu những tỷ lệ ấy tạo ra những kết quả tương ứng, thì đại đa số nhân loại sẽ thụt lùi chín bước cho mỗi một bước tiến, và chúng ta sẽ có một sự thối hóa nhanh đến mức chỉ vài lần lâm phàm sẽ quẳng chúng ta trở lại giới động vật mà từ đó ta đã tiến hóa. May thay cho chúng ta, tác dụng của mười phần trăm năng lực hướng đến mục đích tốt đẹp áp đảo to lớn tác dụng của chín mươi phần trăm dành cho mục đích ích kỷ, và như thế, nhìn chung, một người như vậy vẫn tiến được một bước đáng kể từ kiếp này sang kiếp khác. Một người mà thậm chí chỉ có một phần trăm điều thiện để trình ra cũng tiến được một chút, vậy nên dễ hiểu rằng một người có cán cân cân bằng chính xác—không tiến cũng không lùi—ắt hẳn đã sống một đời sống rõ ràng là xấu xa; trong khi để đạt tới một sự tụt lùi thực thụ trong tiến hóa, một người phải là kẻ đại ác nhất quán bất thường.
Thanks to this beneficent law the world is steadily but slowly evolving, even though we see round us all the while so much that is undesirable; and even such men as I have described may not after all fall very far. What they have lost is rather time and opportunity than actual position in evolution; but to lose time and opportunity means always additional suffering.Nhờ định luật nhân từ này mà thế giới đang đều đặn nhưng chậm rãi tiến hóa, dẫu rằng chúng ta vẫn thấy quanh mình không ngừng bao điều bất như ý; và ngay cả những người như tôi đã mô tả sau cùng có thể cũng không sa xuống quá xa. Điều họ đã đánh mất là thời gian và cơ hội hơn là vị trí thực tế trong tiến hóa; nhưng đánh mất thời gian và cơ hội thì luôn có nghĩa là đau khổ phụ trội.
To see what they have lost and what they have failed to do, let us revert for a moment to the analogy of investment. The ego expects to recover that which he puts out to interest in lower matter—the block that we have called (c)—and he expects it to be improved both in quality and quantity. Its quality is better because it has become much more awake, and capable of instant and accurate response to a far more varied gamut of vibrations than before—a capacity which (c) when reabsorbed necessarily communicates to (a), though of course the store of energy which made such a powerful wave in (c) creates only a ripple when distributed throughout the substance of (a). (It should be noted here that although the vehicles, containing as they do the grosser as well as the finer types of the matter of their respective planes, can respond to and express evil thoughts and emotions, and although their excitement under such vibrations can produce perturbation in the entangled causal matter (c), it is quite impossible for that matter (c) to reproduce those vibrations or to communicate them to (a) or (b), simply because matter of the three higher mental levels can no more vibrate at the rate of the lowest plane than the string of a violin turned to a certain pitch can be made to produce a note lower than that pitch.)Để thấy họ đã mất gì và đã thất bại trong điều gì, chúng ta hãy quay lại một lát với phép loại suy về đầu tư. Chân ngã trông đợi thu hồi lại phần Ngài bỏ ra để lấy lãi trong chất liệu thấp—khối mà chúng ta gọi là ( c )—và Ngài trông đợi nó được cải thiện cả về phẩm lẫn lượng. Phẩm của nó tốt hơn vì nó đã trở nên tỉnh táo hơn nhiều, và có khả năng đáp ứng tức thời và chính xác với một phổ rung động đa dạng hơn nhiều so với trước—một năng lực mà ( c ) khi được tái hấp thụ tất yếu truyền đạt cho ( a ), dẫu rằng dĩ nhiên kho năng lượng đã tạo nên một làn sóng mạnh mẽ trong ( c ) chỉ tạo thành một gợn nhỏ khi được phân tán khắp chất liệu của ( a ). (Cần lưu ý ở đây rằng mặc dù các hiện thể, vì chứa đựng cả những loại chất liệu thô lẫn tinh trên các cõi tương ứng, có thể đáp ứng và biểu đạt các tư tưởng và cảm xúc xấu, và mặc dù sự kích động của chúng dưới các rung động như vậy có thể gây ra xáo động trong phần chất liệu nguyên nhân bị vướng mắc ( c ) , nhưng hoàn toàn không thể để chất liệu ( c ) tái tạo những rung động ấy hay truyền chúng tới ( a ) hoặc ( b ), đơn giản vì chất liệu của ba cõi phụ cao của cõi trí không thể nào rung ở nhịp của cõi thấp nhất, cũng như dây đàn violon đã chỉnh tới một cao độ nhất định không thể phát ra một nốt thấp hơn cao độ ấy.)
(c) should also be increased in quantity, because the causal body, like all other vehicles, is constantly changing its matter, and when special exercise is given to a certain part of it, that part grows in size and becomes stronger, precisely as a physical muscle does when it is used. Every earth-life is an opportunity carefully calculated for such development in quality and quantity as is most needed by the ego; a failure to use that opportunity means the trouble and delay of another similar incarnation, its sufferings probably aggravated by the additional bad karma incurred.( c ) cũng nên tăng về lượng, vì thể nguyên nhân, như mọi hiện thể khác, luôn thay đổi chất liệu của nó, và khi một phần nào đó của nó được rèn luyện đặc biệt, phần đó sẽ lớn lên về kích thước và trở nên mạnh hơn, đúng như bắp thịt thể xác khi được sử dụng thì sẽ phát triển. Mỗi đời sống hồng trần là một cơ hội được tính toán cẩn thận cho sự phát triển về phẩm và lượng theo cách mà chân ngã cần nhất; thất bại trong việc sử dụng cơ hội đó có nghĩa là rắc rối và trì hoãn của một lần lâm phàm tương tự nữa, với các đau khổ có lẽ bị tăng nặng bởi nghiệp xấu phụ thêm.
Against the increment which the ego has a right to expect from each incarnation we must offset a certain amount of loss which in the earlier stages is scarcely avoidable. In order to be effective the entanglement with lower matter must be very intimate, and it is found that when that is so, it is scarcely ever possible to recover every particle, especially from the connection with the astral vehicle. When the time comes for separation from that it is almost always a shade and not a mere shell that is left behind on the astral plane; and that very distinction means that something of the causal material is lost. Except in the case of an unusually bad life, however, this amount should be much smaller than that gained by growth, and so there should be on the whole a profit on the transaction. With such men as I have described—men living entirely in their passions or their minds—there would be no gain either in quality or quantity, since the vibrations would not be such as could be stored in the causal body; and on the other hand, as the entanglement had been so strong, there would certainly be considerable loss when the separation took place.Trừ đi phần tăng trưởng mà chân ngã có quyền trông đợi từ mỗi lần lâm phàm, chúng ta phải bù lại một phần tổn thất nào đó mà ở các giai đoạn sớm hầu như không thể tránh. Để hữu hiệu, sự vướng mắc với chất liệu thấp phải rất mật thiết, và người ta thấy rằng khi như thế, hầu như không bao giờ có thể thu hồi mọi hạt, nhất là trong liên hệ với hiện thể cảm dục. Khi đến lúc phải tách khỏi nó, gần như bao giờ cũng để lại một “bóng” chứ không chỉ là một “vỏ” trên cõi cảm dục; và chính sự phân biệt đó có nghĩa là đã mất một phần chất liệu nguyên nhân. Tuy nhiên, ngoại trừ trường hợp một đời sống đặc biệt xấu, phần tổn thất này phải nhỏ hơn nhiều so với phần thu được từ tăng trưởng, và như vậy, nhìn chung, phải có lợi nhuận trong “thương vụ”. Còn với những người như tôi đã mô tả—những người sống hoàn toàn trong các đam dục hay trong thể trí—sẽ không có lợi ích nào cả về phẩm lẫn lượng, vì các rung động sẽ không thuộc loại có thể được tích trữ trong thể nguyên nhân; và mặt khác, vì sự vướng mắc đã quá mạnh, chắc chắn sẽ có tổn thất đáng kể khi diễn ra sự tách rời.
We must not allow the analogy of the arm and hand to mislead us in thinking of (b) and (c) as permanent appanages of the ego. During a life-period they may be considered as separate, but at the end of each life-period they withdraw into (a), and the result of their experience is distributed, as it were, through the whole of its substance; so that when the time comes for the ego to put part of himself out into incarnation once more, he does not stretch out again the old (b) and (c), for they have been absorbed in him and become part of him, just as a cupful of water emptied into a bucket becomes part of the water in the bucket and cannot be separated from it.Chúng ta không được để phép loại suy về cánh tay và bàn tay đánh lừa mà nghĩ rằng ( b ) và ( c ) là những phần phụ thường trực của chân ngã. Trong một chu kỳ đời sống chúng có thể được xem như tách rời, nhưng ở cuối mỗi chu kỳ đời sống, chúng thu về trong ( a ), và kết quả của kinh nghiệm của chúng, nói như thế, được phân bố xuyên suốt chất liệu của toàn thể; để khi đến lúc chân ngã lại đặt một phần của mình xuống nhập thể một lần nữa, Ngài không còn vươn lại cái ( b ) và ( c ) cũ , vì chúng đã được hấp thụ vào Ngài và trở thành một phần của Ngài, đúng như một cốc nước đổ vào một thùng nước trở thành một phần của nước trong thùng và không thể tách riêng trở lại.
Any coloring matter which was present in the cup is distributed (though in paler tint) through the whole bucketful of water; and that coloring matter may be taken as symbolizing the qualities developed by experience. Just as it would be impossible to take out again from the bucket exactly the same cupful of water, so the ego cannot again put out the same (b) and (c). The plan is one to which he was accustomed before he became a separate ego at all, for it is identical with that pursued by the group-soul, except that the latter puts down many tentacles simultaneously, while the ego puts forth only one at a time. Therefore the personality in each new incarnation is a different one, though the ego behind it remains the same.Bất cứ phẩm màu nào có trong cốc nước đều được phân tán (dù nhạt hơn) trong toàn bộ thùng nước; và phẩm màu ấy có thể được xem như biểu trưng cho các phẩm tính phát triển nhờ kinh nghiệm. Giống như không thể rót lại từ thùng ra đúng y nguyên cốc nước ban đầu, chân ngã cũng không thể lại đặt xuống đúng cái ( b ) và ( c ) ấy. Kế hoạch này là một điều mà Ngài đã quen thuộc từ trước khi trở thành một chân ngã tách biệt, vì nó đồng nhất với kế hoạch mà Hồn nhóm đã áp dụng, chỉ khác là Hồn nhóm đặt xuống nhiều “vòi” cùng lúc, trong khi chân ngã chỉ vươn ra một cái mỗi lần. Vậy nên phàm ngã trong mỗi lần lâm phàm là một phàm ngã khác nhau, dù chân ngã đứng phía sau vẫn là một.
Cases in which the personality captures the part of the ego which is put down, and actually breaks away are happily excessively rare, but they have happened, and they represent the most appalling catastrophe that can occur to the ego concerned. This time (c), instead of repelling (b) and driving it gradually back into (a), by degrees absorbs (b) and detaches it from (a). This can only be accomplished by determined persistence in deliberate evil—black magic, in short. Reverting to our former analogies, this is equivalent to amputation at the shoulder, or to the loss by the ego of nearly all his available capital. Fortunately for him he cannot lose everything, because (b) and (c) together are only a small proportion of (a), and behind (a) is the great undeveloped portion of the ego on the first and second mental sub-planes. Mercifully a man, however incredibly foolish or wicked, cannot completely wreck himself, for he cannot bring that higher part of the causal body into activity until he has reached a level at which such evil is unthinkable.Những trường hợp mà phàm ngã chiếm đoạt phần chân ngã được đặt xuống và thực sự bứt rời là vô cùng hiếm hoi, nhưng chúng đã xảy ra, và chúng biểu thị thảm họa kinh hoàng nhất có thể giáng xuống chân ngã liên hệ. Lần này, thay vì đẩy lùi ( b ) và từ từ dồn nó trở lại vào ( a ), thì ( c ) dần dần hấp thụ ( b ) và tách nó khỏi ( a ). Điều này chỉ có thể đạt được bằng sự kiên trì quyết liệt trong tà ác cố ý—nói ngắn gọn là Hắc thuật. Quay về các phép loại suy trước đây, điều này tương đương với việc bị cắt cụt ở vai, hoặc là chân ngã mất gần như tất cả phần vốn khả dụng của mình. May thay cho y, y không thể mất hết mọi thứ, bởi vì ( b ) và ( c ) cộng lại chỉ là một tỷ lệ nhỏ của ( a ), và đằng sau ( a ) là phần lớn chưa phát triển của chân ngã trên hai cõi phụ thứ nhất và thứ hai của cõi trí. Thật là nhân từ khi con người, dù ngu dại hay độc ác đến mức khó tin, cũng không thể hoàn toàn hủy diệt chính mình, vì y không thể làm cho phần cao hơn của thể nguyên nhân đi vào hoạt động cho đến khi y đạt đến một trình độ mà tại đó điều ác như thế là điều không thể nghĩ bàn.
Now that the central point of our immersion in matter is passed, the whole force of the universe is pressing upwards towards unity, and the man who is willing to make all his life an intelligent co-operation with nature gains as part of his reward an ever-increasing perception of the reality of this unity. But on the other hand it is obvious that men may set themselves in opposition to nature and, instead of working unselfishly for the good of all, may debase every faculty they possess for purely selfish ends; and of them also, as of the others, the old saying is true, “Verily I say unto you, they have their reward.” They spend their lives in striving for separateness, and for a long time they attain it, and it is said that that sensation of being utterly alone in space is the most awful fate that can ever befall the sons of men.Giờ đây điểm trung tâm của sự đắm chìm vào chất liệu đã đi qua, toàn bộ lực của vũ trụ đang thúc đẩy đi lên hướng tới hợp nhất, và người nào sẵn lòng biến trọn đời mình thành một sự cộng tác minh triết với Tự nhiên sẽ thu được như một phần phần thưởng của mình một sự nhận biết ngày càng tăng về tính hiện thực của hợp nhất ấy. Nhưng mặt khác, rõ ràng là con người cũng có thể tự đặt mình đối nghịch với Tự nhiên và, thay vì làm việc vị tha vì lợi ích của tất cả, lại làm nhơ bẩn mọi năng lực mình có cho các mục đích hoàn toàn ích kỷ; và về họ cũng như về những người kia, lời nói xưa là đúng: “Quả thật Ta nói cùng các ngươi, họ đã có phần thưởng của họ.” Họ dành cả đời cố giành cho bằng được sự phân ly, và trong một thời gian dài họ đạt được nó, và người ta nói rằng cảm giác bị cô độc tuyệt đối trong không gian là số phận kinh khủng nhất có thể xảy ra cho những người con của nhân loại.
This extraordinary development of selfishness is the characteristic of the black magician, and it is among their ranks only that men can be found who are in danger of this terrible fate. Many and loathsome are their varieties, but they may all be classed in one or other of two great divisions. They both use such occult arts as they possess for purely selfish purposes, but these purposes differ.Sự phát triển phi thường của tính ích kỷ là đặc trưng của nhà Hắc thuật, và chỉ trong hàng ngũ của họ mới có thể tìm thấy những người gặp nguy cơ số phận khủng khiếp này. Nhiều và ghê tởm là các biến thể của họ, nhưng tất cả có thể được xếp vào một trong hai nhóm lớn. Cả hai đều sử dụng những thuật pháp huyền bí mà họ có cho những mục đích hoàn toàn ích kỷ, nhưng mục đích thì khác nhau.
In the commoner and less formidable type the object pursued is the gratification of sensual desire of some sort, and naturally the result of a life devoted to nothing but that is to centre the man’s energy in the desire body; so that if the man who works on these lines has succeeded in killing out from himself every unselfish or affectionate feeling, every spark of higher impulse, naturally nothing is left but a remorseless, ruthless monster of lust, who finds himself after death neither able nor desirous to rise above the lowest sub-division of the astral plane. The whole of such mind as he has is absolutely in the grip of desire, and when the struggle takes place the ego can recover none of it, and finds himself seriously weakened in consequence.Trong kiểu phổ biến hơn và ít đáng sợ hơn, mục tiêu theo đuổi là thỏa mãn một loại dục vọng xác thân nào đó, và dĩ nhiên kết quả của một đời sống chỉ dành cho điều đó là tập trung năng lực của người ấy vào thể dục vọng; đến nỗi nếu người làm việc theo đường lối này đã thành công trong việc diệt sạch khỏi mình mọi tình cảm vị tha hay trìu mến, mọi tia lóe của xung động cao hơn, thì dĩ nhiên không còn gì ngoài một quái vật dâm dật tàn nhẫn và không chút xót thương, kẻ mà sau khi chết không thể, cũng không muốn, vượt lên trên phân khu thấp nhất của cõi cảm dục. Toàn bộ phần thể trí mà y có hoàn toàn bị dục vọng nắm chặt, và khi cuộc vật lộn diễn ra, chân ngã không thu hồi được gì cả, và vì thế thấy mình bị suy yếu nghiêm trọng.
By his carelessness in permitting this he has for the time cut himself off from the current of evolution, from the mighty wave of the life of the LOGOS, and so, until he can return to incarnation, he stands (what appears to him to be) outside that life in the condition of avichi, the waveless. Even when he does return to incarnation it cannot be among those whom he has known before, for he has not enough available capital left to provide ensoulment for a mind and body at his previous level. He must now be content to occupy vehicles of a far less evolved type, belonging to some earlier race; so that he has thrown himself far back in evolution and must climb over again many rungs of the ladder.Do sự cẩu thả khi cho phép điều này, trong một thời gian y đã tự cắt mình khỏi dòng tiến hóa, khỏi làn sóng vĩ đại của sự sống Thượng đế, và như vậy, cho đến khi y có thể trở lại lâm phàm, y đứng (theo cách y cảm nhận) ở bên ngoài sự sống ấy trong trạng thái avichi, “vô ba”. Ngay cả khi y trở lại lâm phàm, cũng không thể ở giữa những người y đã từng biết, vì y không còn đủ vốn khả dụng để cung cấp sự phú linh cho một thể trí và thể xác ở trình độ trước đó của mình. Nay y phải bằng lòng sử dụng những hiện thể thuộc loại kém tiến hóa hơn rất nhiều, thuộc về một giống dân sớm hơn; đến nỗi y đã tự quăng mình tụt xa trong tiến hóa và phải trèo lại qua nhiều nấc thang.
He will probably be born as a savage, but will most likely be a chief among them, as he will still have some intellect. It has been said that he may even throw himself so far back that he may be unable to find upon the world in its present condition any type of human body low enough for the manifestation which he now requires, so that he may even be incapacitated from taking any further part in this scheme of evolution, and may therefore have to wait in a kind of condition of suspended animation for the commencement of another.Nhiều khả năng y sẽ sinh ra như một người man rợ, nhưng rất có thể là một thủ lĩnh trong bọn họ, vì y vẫn còn chút trí năng. Người ta đã nói rằng y thậm chí có thể tự quăng mình tụt xa đến mức y không thể tìm thấy trên thế giới, trong tình trạng hiện tại của nó, bất kỳ loại thân người nào đủ thấp cho sự biểu lộ mà y hiện nay đòi hỏi, đến nỗi y thậm chí có thể bị bất năng không thể tham gia thêm nữa vào chương trình tiến hóa này, và do đó có thể phải chờ đợi trong một trạng thái như thể đình chỉ sinh hoạt cho đến khi một chu trình khác khởi diễn.
Meanwhile what of the amputated personality? It is no longer a permanent evolving entity, but it remains full of vigorous and wholly evil life, entirely without remorse or responsibility. As the fate before it is disintegration amidst the unpleasant surroundings of what is called the “eighth sphere,” it naturally tries to maintain some sort of existence on the physical plane as long as possible. Vampirism of some kind is its sole means of prolonging its baneful existence, and when that fails it has been known to seize upon any available body, driving out the lawful owner. The body chosen might very probably be that of a child, both because it might be expected to last longer and because an ego which had not yet really taken hold could be more easily dispossessed. In spite of its frenzied efforts its power seems soon to fail, and I believe there is no instance on record of its successfully stealing a second body after its first theft is worn out. The creature is a demon of the most terrible type—a monster for which there is no permanent place in the scheme of evolution to which we belong.Trong khi đó, còn gì về phàm ngã đã bị cắt cụt? Nó không còn là một đơn vị trường tồn đang tiến hoá, nhưng vẫn đầy ắp một sự sống mãnh liệt và hoàn toàn tà ác, tuyệt nhiên không có ăn năn hay trách nhiệm. Vì số phận đang chờ đợi nó là sự tan rã giữa những cảnh huống khó chịu của cái gọi là “quả cầu thứ tám”, nên tự nhiên nó cố duy trì một lối tồn tại nào đó trên cõi hồng trần càng lâu càng tốt. Một hình thức kí sinh kiểu ma cà rồng nào đó là phương tiện duy nhất để nó kéo dài sự tồn tại tai hại của mình, và khi cách ấy thất bại, người ta biết rằng nó chiếm đoạt bất kỳ thân xác nào có sẵn, trục xuất người chủ hợp pháp. Thân xác được chọn rất có thể là của một đứa trẻ, vừa bởi vì nó có thể kéo dài hơn, vừa bởi vì một chân ngã chưa thật sự chiếm hữu thân xác thì dễ bị tước đoạt hơn. Bất chấp những nỗ lực điên cuồng, quyền lực của nó dường như sớm tàn lụi, và tôi tin rằng chưa từng có trường hợp nào ghi nhận nó thành công đánh cắp một thân xác thứ hai sau khi món trộm đầu tiên đã mòn rã. Sinh thể ấy là một quỷ vật loại kinh khiếp nhất—một quái vật không có chỗ đứng trường cửu trong đồ hình tiến hoá mà chúng ta thuộc về.
Its natural tendency therefore is to drift out of this evolution, and to be drawn by the irresistible force of law into that astral cesspool which in earlier Theosophical writings was called the eighth sphere, because what passes into it stands outside the ring of seven worlds, and cannot return into their evolution. There, surrounded by loathsome relics of all of the concentrated vileness of the ages that are past, burning ever with desire, yet without possibility of satisfaction, this monstrosity slowly decays, its mental and causal matter being thus at last set free—never indeed to rejoin the ego from which it has torn itself, but to be distributed among the other matter of the plane to enter gradually into fresh combinations, and so put to better uses. It is consoling to know that such entities are so rare as to be practically unknown, and that they have the power to seize only those who have in their nature pronounced defects of kindred type.Do đó, khuynh hướng tự nhiên của nó là trôi dạt ra ngoài tiến hoá này, và bị lôi cuốn bởi sức mạnh không cưỡng của định luật vào vũng lầy cảm dục mà trong các trước tác Thông Thiên Học thời sớm gọi là quả cầu thứ tám, vì những gì lọt vào đó đứng ra ngoài vòng bảy thế giới, và không thể quay lại tiến hoá của các thế giới này. Ở đó, bị bao vây bởi những di tích ghê tởm của mọi sự ô uế cô đặc của các thời đại đã qua, luôn bừng bừng khát vọng mà không hề có khả năng thoả mãn, quái vật này chậm rãi mục rữa, chất liệu trí tuệ và nguyên nhân của nó như thế rốt cuộc được giải phóng—quả thật không bao giờ để tái nhập với chân ngã mà nó đã tự xé lìa, mà để được phân phối vào những chất liệu khác của cõi nhằm dần dần đi vào những kết hợp mới, nhờ đó được dùng vào những mục đích tốt đẹp hơn. Điều an ủi là những thực thể như thế hiếm đến mức hầu như không biết đến, và chúng chỉ có khả năng chiếm đoạt những ai trong bản tính vốn có những khuyết tật trội hẳn cùng loại.
But there is another type of the black magician, in outward appearance more respectable, yet really even more dangerous, because more powerful. This is the man who instead of giving himself up altogether to sensuality of one kind or another, sets before himself the goal of a more refined but not less unscrupulous selfishness. His object is the acquisition of an occult power higher and wider indeed, but to be used always for his own gratification and advancement, to further his own ambition or satisfy his own revenge.Nhưng có một loại nhà huyền thuật hắc thuật khác, bên ngoài có vẻ đáng kính hơn, song thực sự còn nguy hiểm hơn, vì quyền lực lớn hơn. Đây là người không phó mặc mình hoàn toàn cho một kiểu khoái lạc xác thịt nào, mà tự đặt trước mặt mục tiêu của một thứ ích kỷ tinh vi hơn nhưng không kém tàn nhẫn. Mục đích của y là thủ đắc một quyền năng huyền bí cao hơn và rộng hơn thật vậy, nhưng luôn dùng nó cho sự khoái trá và thăng tiến riêng, để thúc đẩy tham vọng của mình hay thoả mãn mối báo thù của mình.
In order to gain this he adopts the most rigid asceticism as regards mere fleshly desires, and starves out the grosser particles of his astral body as perseveringly as does the pupil of the Great White Brotherhood. But though it is only a less material kind of desire with which he will allow his mind to become entangled, the centre of his energy is none the less entirely in his personality, and when at the end of the astral life the time of the separation comes, the ego is able to recover no whit of his investment. For the man therefore the result is much the same as in the former case, except that he will remain in touch with the personality much longer, and will to some extent share its experiences so far as it is possible for an ego to share them.Để đạt được điều này, y áp dụng lối khổ hạnh nghiêm khắc nhất đối với các dục vọng xác thân, và bền bỉ làm cho những hạt phần thô trược của thể cảm dục đói lả, cũng như môn sinh của Thánh đoàn làm vậy. Nhưng tuy chỉ cho phép một loại dục vọng bớt vật chất hơn làm cho thể trí của mình sa mắc, trung tâm năng lượng của y vẫn hoàn toàn ở nơi phàm ngã, và khi đến cuối đời sống cảm dục thời điểm phân ly tới, chân ngã không thể thu hồi chút nào vốn liếng đã đầu tư. Do đó, đối với người này kết quả hầu như vẫn giống như trong trường hợp trước, trừ việc y sẽ còn ở trong liên hệ với phàm ngã lâu hơn nhiều, và ở một mức độ nào đó sẽ chia sẻ các kinh nghiệm của phàm ngã, trong chừng mực một chân ngã có thể chia sẻ chúng.
The fate of that personality, however, is very different. The comparatively tenuous astral integument is not strong enough to hold it for any length of time on the astral plane, and yet it has entirely lost touch with the heaven-world which should have been its habitat. For the whole effort of the man’s life has been to kill out such thoughts as naturally find their result at that level. His one endeavour has been to oppose natural evolution, to separate himself from the great whole and to war against it; and as far as the personality goes he has succeeded. It is cut off from the light and life of the solar system; all that is left to it is the sense of absolute isolation, of being alone in the universe.Tuy nhiên, số phận của phàm ngã ấy lại rất khác. Lớp vỏ cảm dục tương đối mỏng manh không đủ mạnh để giữ nó lâu trên cõi cảm dục, và tuy vậy nó lại hoàn toàn mất liên hệ với thiên giới vốn đáng lẽ là chốn cư ngụ của nó. Bởi toàn bộ nỗ lực của đời người là giết chết những tư tưởng vốn tự nhiên kết quả ở cấp độ ấy. Nỗ lực duy nhất của y là chống lại tiến hoá tự nhiên, tách mình khỏi Đại Toàn Thể và gây chiến với nó; và xét về phía phàm ngã, y đã thành công. Phàm ngã ấy bị cắt lìa khỏi ánh sáng và sự sống của Thái dương hệ; tất cả những gì còn lại cho nó là cảm giác cô lập tuyệt đối, là đơn độc trong vũ trụ.
We see therefore that in this rarer case the lost personality practically shares the fate of the ego from which it is in process of detaching itself. But in the case of the ego such an experience is only temporary, although it may last for what we should call a very long time, and the end of it for him will be reincarnation and a fresh opportunity. For the personality however the end of it is disintegration—the invariable end of that which has cut itself off from its source; but through what stages of horror the lost personality passes before that is reached, who shall say? Yet be it remember that neither of these states is eternal—that neither of them can in any case be reached except by deliberate life-long persistence in evil.Vì vậy, chúng ta thấy rằng trong trường hợp hiếm hơn này, phàm ngã đánh mất hầu như chia sẻ số phận của chân ngã mà nó đang trong tiến trình tự tách lìa. Nhưng đối với chân ngã, một kinh nghiệm như thế chỉ là tạm thời, dù có thể kéo dài theo cách gọi của chúng ta là rất lâu, và kết cuộc của nó đối với chân ngã sẽ là tái sinh và một cơ hội mới. Còn đối với phàm ngã thì kết cục là tan rã—kết cục bất biến của cái gì đã tự cắt khỏi nguồn cội của mình; nhưng phàm ngã lạc lối ấy phải trải qua những chặng kinh hoàng nào trước khi đến mức ấy, ai có thể nói? Tuy thế cần nhớ rằng không trạng thái nào trong hai trạng thái này là vĩnh cửu—rằng cả hai đều không thể đạt được trong bất kỳ trường hợp nào ngoại trừ bằng sự bền bỉ cố ý suốt đời trong điều ác.
I have heard from our President of yet another even more remote possibility, of which I have never myself seen an instance. It is stated that, just as (c) may absorb (b) and revolt against (a), set up on its own account and break away, it is (or at any rate has been in the past) just within the limits of practicability that the deadly disease of separateness and selfishness may infest (a) also, that it too may be absorbed into the monstrous growth of evil, and may be torn away from the undeveloped portion of the ego, so that the causal body itself may be hardened and carried away, instead of only the personality.Tôi đã nghe từ vị Chủ tịch của chúng ta về một khả thể còn xa xôi hơn nữa, mà chính tôi chưa từng thấy trường hợp nào. Người ta nói rằng, cũng như ( c ) có thể hấp thụ ( b ) và phản loạn chống ( a ), tự lập và bứt ra, thì (hoặc ít nhất là đã từng xảy ra trong quá khứ) vẫn còn trong ranh giới của điều khả thi việc căn bệnh chết người của tính chia rẽ và ích kỷ có thể lây nhiễm cả ( a ), rằng chính phần ấy cũng có thể bị hấp thụ vào sự tăng trưởng quái đản của ác hạnh, và có thể bị xé khỏi phần chưa phát triển của chân ngã, đến nỗi chính thể nguyên nhân có thể bị làm cứng và bị mang đi, thay vì chỉ phàm ngã.
If this be so, it constitutes yet a fourth group, and would correspond not to an amputation, but to an entire destruction of the body. Such an ego could not reincarnate in the human race; ego though it be, it will fall into the depths of animal life, and would need at least a whole chain-period to regain the status which it had lost. But this, though theoretically possible, is practically scarcely conceivable. Yet it will be noted that even then the undeveloped part of the ego remains as the vehicle of the monad.Nếu đúng vậy, điều này cấu thành một nhóm thứ tư, và sẽ tương ứng không phải với một sự cắt cụt, mà với sự hủy diệt toàn phần của thân thể. Một chân ngã như thế không thể tái sinh vào nhân loại; dẫu là chân ngã, nó sẽ rơi vào vực sâu của sự sống thú vật, và cần ít nhất suốt một kỳ dãy để lấy lại địa vị đã mất. Nhưng điều này, tuy khả dĩ về mặt lý thuyết, trên thực tế hầu như khó thể nghĩ nổi. Tuy nhiên cần lưu ý rằng ngay cả khi ấy phần chưa phát triển của chân ngã vẫn còn là vận cụ của chân thần.
We learn then that millions of backward egos, unable as yet to bear the strain of the higher evolution, will fall out in the middle of the fifth round and come along on the crest of the following wave; that those who live selfishly, whether in the intellect or the passions, do so at their own proper peril, and at the serious risk of much sorrow and loss; that those who are so foolish as to dabble in black magic may bring upon themselves horrors before which imagination shrinks appalled; but that the term “lost soul” is, after all, a misnomer, since every man is a spark of the divine fire, and therefore can never under any circumstances be lost or extinguished. The will of the LOGOS is man’s evolution. In our blindness we may for a time resist Him, but to Him time is naught, and if we cannot see to-day He waits patiently till to-morrow, but always in the end His will is done.Chúng ta học được rằng hàng triệu chân ngã chậm tiến, vì chưa thể chịu nổi sức căng của tiến hoá cao hơn, sẽ rơi rụng vào giữa cuộc tuần hoàn thứ năm và đi theo trên đỉnh của làn sóng tiếp theo; rằng những ai sống ích kỷ, dù trong trí năng hay trong dục vọng, đều làm vậy với hiểm nguy đích đáng của riêng mình, và với rủi ro nghiêm trọng của nhiều sầu khổ và mất mát; rằng những kẻ dại dột đùa giỡn với Hắc thuật có thể tự chuốc lấy những kinh hoàng khiến trí tưởng tượng phải kinh sợ; nhưng rằng thuật ngữ “linh hồn bị mất” rốt cuộc là một danh xưng không đúng, vì mỗi người đều là một tia lửa của Lửa thiêng liêng, do đó không bao giờ trong bất kỳ hoàn cảnh nào có thể bị mất hay bị dập tắt. Ý chí của Thượng đế là sự tiến hoá của con người. Trong mù quáng, chúng ta có thể chống lại Ngài một thời, nhưng đối với Ngài thời gian là hư vô, và nếu hôm nay chúng ta không thể thấy, Ngài kiên nhẫn chờ đến ngày mai, nhưng cuối cùng thì Ý chí của Ngài luôn được thành tựu.

THE FOCUS OF CONSCIOUSNESS—TIÊU ĐIỂM CỦA TÂM THỨC

>
The consciousness in man can only be focussed in one vehicle at a time, though he may be simultaneously conscious through the others in a vaguer way. If you will hold up a finger in front of your face you will find that you can so focus your eyes as to see the finger perfectly. At the same time you will see the wall and furniture behind the finger, but not perfectly, because they are out of focus. In a moment you can change the focus of your eyes so that you will see the wall and the furniture perfectly; in that case you will still see the finger, but will see it only dimly, because it in turn is now out of focus.Tâm thức nơi con người chỉ có thể tập trung trong một vận cụ tại một thời điểm, dù người ấy có thể đồng thời có tâm thức qua các vận cụ khác theo một cách mơ hồ hơn. Nếu bạn giơ một ngón tay trước mặt, bạn sẽ thấy mình có thể điều tiết mắt để nhìn rõ ngón tay. Đồng thời bạn cũng sẽ thấy bức tường và đồ đạc phía sau ngón tay, nhưng không rõ, vì chúng bị lệch tiêu. Chỉ một thoáng, bạn có thể đổi tiêu điểm của mắt để nhìn tường và đồ đạc thật rõ; khi ấy bạn vẫn thấy ngón tay, nhưng chỉ thấy lờ mờ, vì đến lượt nó đã bị lệch tiêu.
Precisely in the same way if a man who has developed astral and mental consciousness focusses himself in the physical brain as in ordinary life, he will see perfectly the physical bodies of his friends, and will at the same time see their astral and mental bodies, but only somewhat dimly. In far less than a moment he can change that focus so that he will see the astral quite fully and perfectly. In that case he will still see the mental and physical bodies, but not in full detail. The same thing is true of the mental sight and of the sight of higher planes.Cũng y như vậy, nếu một người đã phát triển tâm thức cảm dục và trí tuệ mà tập trung vào bộ não thể xác như trong đời thường, người ấy sẽ thấy rõ ràng thân xác của bạn bè mình, đồng thời cũng thấy thể cảm dục và thể trí của họ, nhưng chỉ lờ mờ. Chưa đến một sát-na người ấy có thể đổi tiêu điểm để thấy cõi cảm dục một cách đầy đủ và hoàn hảo. Khi ấy người ấy vẫn thấy các thể trí và thể xác, nhưng không còn chi tiết đầy đủ. Điều tương tự đúng cho thị giác của cõi trí và của những cõi cao hơn.
You ask how it is possible for an entity functioning on the astral plane to be aware of a physical accident or to hear a physical cry. It would not be the physical cry that he would hear; physical sounds assuredly produce an effect upon the astral plane, though I do not think that we should be quite correct in calling that result sound. Any cry which had in it strong feeling or emotion would produce a strong effect upon the astral plane, and would convey exactly the same idea there as here. In the case of an accident the rush of emotion caused by the pain or the fright would flame out like a great light, and could not fail to attract the attention of a seer if he were anywhere near. A case in which this very thing occurred is related in Invisible Helpers—a case in which a boy fell over a cliff; and was supported and comforted by Cyril until physical help could be brought.Bạn hỏi làm sao một thực thể đang hoạt dụng trên cõi cảm dục có thể biết về một tai nạn thể xác hay nghe một tiếng kêu thể xác. Không phải tiếng kêu thể xác mà y nghe; âm thanh thể xác chắc chắn tạo ra một hiệu ứng trên cõi cảm dục, dù tôi không nghĩ chúng ta nên gọi kết quả ấy là âm thanh cho đúng hẳn. Bất kỳ tiếng kêu nào chứa đựng tình cảm hay xúc động mạnh đều tạo một hiệu ứng mạnh trên cõi cảm dục, và truyền tải ở đó chính xác cùng một ý niệm như ở đây. Trong trường hợp một tai nạn, làn sóng cảm xúc do đau đớn hay kinh hoàng sẽ bùng cháy lên như một luồng sáng lớn, và không thể không thu hút sự chú ý của một nhà ngoại cảm nếu y ở gần. Một trường hợp việc này đã thực sự xảy ra được thuật lại trong Những Người Trợ Giúp Vô hình —một trường hợp một cậu bé rơi khỏi vách đá; và được Cyril nâng đỡ và an ủi cho đến khi có thể gọi được trợ giúp thể xác.

FORCE-CENTRES—CÁC TRUNG TÂM LỰC

>
In each of our vehicles there are certain force-centres which in Sanskrit are called chakrams—a word which signifies a wheel or revolving disc. These are points of connection at which force flows from one vehicle to another. They may easily be seen in the etheric double, where they show themselves as saucer-like depressions or vortices in its surface. They are often spoken of as corresponding to certain physical organs; but it must be remembered that the etheric force-centre is not in the interior of the body, but on the surface of the etheric double, which projects a quarter of an inch beyond the outline of the denser matter.Trong mỗi vận cụ của chúng ta có những trung tâm lực nhất định, trong tiếng Phạn gọi là các luân xa—một từ có nghĩa là bánh xe hay đĩa xoay. Đây là những điểm nối nơi mãnh lực chảy từ vận cụ này sang vận cụ khác. Chúng dễ dàng được thấy trong thể dĩ thái đôi, nơi chúng hiện ra như những chỗ lõm giống cái đĩa hay những xoáy trên bề mặt của nó. Người ta thường nói chúng tương ứng với những cơ quan thể xác nhất định; nhưng cần nhớ rằng trung tâm lực dĩ thái không nằm bên trong thân thể, mà ở trên bề mặt của thể dĩ thái đôi, vốn nhô ra ngoài đường viền của chất liệu đậm đặc một phần tư inch.
The centres which are usually employed in occult development are seven, and they are situated in the following parts of the body: (1) the base of the spine; (2) the navel; (3) the spleen; (4) the heart; (5) the throat; (6) the space between the eyebrows; and (7) the top of the head. There are other force-centres in the body besides these, but they are not employed by students of the white magic. It may be remembered that Madame Blavatsky speaks of three others which she calls the lower centres: there are schools which use these, but the dangers connected with them are so serious that we should consider their awakening as the greatest of misfortunes.Những trung tâm thường được dùng trong tu tập huyền môn là bảy, và chúng nằm ở các phần sau của thân thể: (1) đáy cột sống; (2) rốn; (3) lá lách; (4) tim; (5) cổ họng; (6) khoảng giữa hai chân mày; và (7) đỉnh đầu. Có những trung tâm lực khác trong thân thể ngoài các trung tâm này, nhưng chúng không được các môn sinh của Chánh Thuật sử dụng. Có thể nhớ rằng Bà Blavatsky có nói đến ba trung tâm khác mà Bà gọi là các trung tâm thấp: có những trường phái dùng các trung tâm này, nhưng các nguy hiểm gắn liền với chúng nghiêm trọng đến mức chúng tôi xem sự thức tỉnh của chúng là điều bất hạnh lớn nhất.
These seven are often described as corresponding to the seven colors and to the notes of the musical scale; and in the Indian books certain letters of the alphabet and certain forms of vitality are mentioned as attached to each of them. They are also poetically described as resembling flowers, and to each of them a certain number of petals is assigned.Bảy trung tâm này thường được mô tả như tương ứng với bảy màu và các nốt của thang âm nhạc; và trong sách Ấn Độ, một số chữ cái của mẫu tự và một số dạng sinh khí nhất định được nói là gắn với mỗi trung tâm. Chúng cũng được mô tả thi vị như những đoá hoa, và mỗi đoá được gán cho một số lượng cánh nhất định.
It must be remembered that they are vortices of etheric matter, and that they are all in rapid rotation. Into each of these open mouths, at right angles to the plane of the whirling disc or saucer, rushes a force from the astral world (which we will call the primary force)—one of the forces of the LOGOS. That force is seven-fold in its nature, and all its forms operate in all the centres, though in each of them one of the forms is always greatly predominant.Cần nhớ rằng chúng là những xoáy của chất liệu dĩ thái, và tất cả đều xoay nhanh. Vào mỗi cái miệng mở này, vuông góc với mặt phẳng của đĩa hay cái đĩa xoáy, lao vào một lực từ cõi cảm dục (mà chúng ta sẽ gọi là lực sơ cấp)—một trong những lực của Thượng đế. Lực ấy có bản chất thất phân, và mọi dạng của nó vận hành trong tất cả các trung tâm, dù ở mỗi trung tâm luôn có một dạng trội hơn hẳn.
This inrush of force brings the divine life into the physical body, and without it that body could not exist. These centres through which the force can enter are therefore actually necessary to the existence of the vehicle, and so are in operation in every one, but they may be whirling with very different degrees of activity. Their particles may be in comparatively sluggish motion, just forming the necessary vortex for the force and no more, or they may be glowing and pulsating with living light so that an enormously greater amount of force passes through them, with the result that various additional faculties and possibilities are opened to the ego as he functions on that plane.Dòng lực tràn vào này mang sự sống thiêng liêng vào thể xác, và không có nó thì thể xác không thể tồn tại. Các trung tâm qua đó lực có thể đi vào vì vậy thực sự cần thiết cho sự tồn tại của vận cụ, và do đó đang hoạt động nơi mọi người, nhưng chúng có thể xoay với các mức độ hoạt động rất khác nhau. Các hạt của chúng có thể ở trong một chuyển động tương đối chậm chạp, chỉ vừa đủ hình thành xoáy cần thiết cho dòng lực và không hơn; hoặc chúng có thể rực sáng và rung nhịp với ánh sáng sinh động đến mức một lượng lực lớn không thể kể chảy qua chúng, kết quả là nhiều khả năng và năng lực phụ thêm được mở ra cho chân ngã khi nó hoạt dụng trên cõi ấy.
Now those forces which rush into the centre from without set up at right angles to themselves (that is to say, in the surface of the etheric double) secondary forces in undulatory circular motion, just as a bar-magnet thrust into an induction coil produces a current of electricity which flows round the coil at right angles to the axis or direction of the magnet. The primary force itself having entered the vortex, radiates from it again at right angles, but in straight lines, as though the centre of the vortex were the hub of a wheel, and the radiations of the primary force its spokes. The number of these “spokes” differs in the different force- centres, and determines the number of “petals” which each of them exhibits.Nay những lực lao vào trung tâm từ bên ngoài thiết lập, vuông góc với chính chúng (tức là trên bề mặt thể dĩ thái đôi), những lực thứ cấp trong chuyển động tròn dạng gợn sóng, y như một nam châm thỏi đẩy vào một cuộn cảm ứng tạo ra một dòng điện chạy quanh cuộn dây vuông góc với trục hay hướng của nam châm. Bản thân lực sơ cấp, sau khi đi vào xoáy, lại bức xạ ra từ đó vuông góc, nhưng theo những đường thẳng, như thể tâm của xoáy là trục của một bánh xe, và những bức xạ của lực sơ cấp là nan hoa của nó. Số “nan hoa” này khác nhau ở các trung tâm lực khác nhau, và quyết định số “cánh” mà mỗi trung tâm phô bày.
Each of these secondary forces, which sweep round the saucer-like depression, has its own characteristic wave-length, just as has light of a certain colour; but instead of moving in a straight line as light does, it moves along in certain relatively large undulations of various sizes, each of which is some multiple of the smaller wave-lengths within it, though the exact proportions have not as yet been calculated. The number of undulations is determined by the number of spokes in the wheel, and the secondary force weaves itself under and over the radiating currents of the primary just as basket-work might be woven round the spokes of a carriage-wheel. The wave-lengths are infinitesimal, and probably some thousands of them are included within one of the undulations. As the forces rush round in the vortex, these undulations of different sizes, crossing one another in this basket-work pattern, produce an appearance which is not inaptly described in the Hindu books as resembling the petals of a flower; or it is still more like certain saucers or shallow vases of wavy iridescent glass which I have seen in Venice. All of these undulations or petals have that shimmering iridescent effect, like mother-of-pearl, yet each of them has usually its own predominant color.Mỗi lực thứ cấp trong số này, quét quanh chỗ lõm giống như đĩa, có bước sóng đặc trưng riêng, cũng như ánh sáng của một màu nhất định; nhưng thay vì di chuyển theo đường thẳng như ánh sáng, nó di chuyển theo những gợn sóng tương đối lớn với nhiều kích cỡ, mỗi gợn là một bội số nào đó của các bước sóng nhỏ hơn bên trong nó, dù tỷ lệ chính xác vẫn chưa được tính toán. Số lượng gợn sóng được quyết định bởi số nan hoa trong bánh xe, và lực thứ cấp tự dệt dưới và trên các dòng bức xạ của lực sơ cấp giống như môt tấm đan giỏ được dệt quanh nan hoa của bánh xe. Các bước sóng là vô cùng nhỏ, và có lẽ hàng ngàn bước như thế nằm trong một gợn. Khi các lực lao vòng trong xoáy, những gợn với kích cỡ khác nhau này, cắt nhau trong mô hình đan giỏ, tạo ra một hình ảnh không phải là không phù hợp với cách sách Ấn Độ mô tả, giống như cánh hoa; hoặc còn giống hơn với những cái đĩa hay bình nông bằng thuỷ tinh óng ánh gợn sóng mà tôi đã thấy ở Venice. Tất cả những gợn hay cánh ấy đều có hiệu ứng óng ánh, như xà cừ, tuy mỗi cánh thường có màu trội riêng.
In the ordinary men, in whom these centres are just active enough to be channels for sufficient force to keep his body alive, these colors glow with a comparatively dull light; but in those in whom the centres have been aroused and are in full activity they are of blinding brilliancy, and the centres themselves, which have gradually grown from a diameter of about two inches to the size of an ordinary saucer, are blazing and coruscating like miniature suns.Nơi người thường, nơi các trung tâm này chỉ vừa đủ hoạt hoá để làm các kênh cho một lượng lực đủ giữ cho thân thể sống, các màu ấy toả ánh sáng tương đối mờ; nhưng nơi những người mà các trung tâm đã được đánh thức và hoạt động hết mức, chúng rực sáng đến chói lòa, và chính các trung tâm, vốn đã lớn dần từ đường kính chừng hai inch đến cỡ một cái đĩa thường, bừng cháy và loé sáng như những mặt trời tí hon.
The first centre, at the base of the spine, has a primary force which radiates out in four spokes, and therefore arranges its undulations so as to give the effect of its being divided into quadrants, with hollows between them. This makes it seem as though marked with the sign of the cross, and for that reason the cross is often used to symbolize this centre, and sometimes a flaming cross is taken to indicate the serpent-fire which resides in it. When aroused into full activity this centre is fiery orange-red in color, corresponding closely with the type of vitality which is sent down to it from the splenic centre. Indeed, it will be noticed that in the case of every one of these centres a similar correspondence with the color of its vitality may be seen.Trung tâm thứ nhất, ở đáy cột sống, có lực sơ cấp bức xạ ra thành bốn nan hoa, nhờ đó sắp xếp các gợn sóng của nó để tạo hiệu ứng như thể nó chia làm bốn góc phần tư, với các hõm ở giữa chúng. Điều này làm nó trông như mang dấu thập giá, và vì lý do đó, thập giá thường được dùng để biểu trưng cho trung tâm này, và đôi khi một thập giá bốc cháy được coi là biểu trưng cho hỏa xà cư trú ở đó. Khi bị đánh thức hoạt động trọn vẹn, trung tâm này có màu cam-đỏ rực lửa, tương ứng sát với loại sinh khí được đưa xuống nó từ trung tâm lá lách. Quả thật, sẽ nhận thấy rằng ở mỗi trung tâm đều thấy một sự tương ứng tương tự với màu của sinh khí riêng của nó.
The second centre, at the navel or solar plexus, receives a primary force with ten radiations, so it vibrates in such a manner as to divide itself into ten undulations or petals. It is very closely associated with feelings and emotions of various kinds. Its predominant color is a curious blending of various shades of red, though there is also a great deal of green in it.Trung tâm thứ hai, ở rốn hay tùng thái dương, nhận một lực sơ cấp có mười bức xạ, vì vậy nó rung động theo một cách chia nó thành mười gợn hay cánh. Nó liên hệ rất mật thiết với các cảm xúc và tình cảm đủ loại. Màu trội của nó là một pha trộn lạ lùng của nhiều sắc độ đỏ, tuy trong đó cũng có rất nhiều xanh lục.
The third centre, at the spleen, is devoted to the specialization, subdivision and dispersion of the vitality which comes to us from the sun. That vitality is poured out again from it in six horizontal streams, the seventh variety being drawn into the hub of the wheel. This centre therefore has six petals or undulations, and is specially radiant, glowing and sun-like.Trung tâm thứ ba, ở lá lách, chuyên việc chuyên biệt hoá, phân chia và phân tán sinh khí đến với chúng ta từ mặt trời. Sinh khí đó lại được tuôn ra từ trung tâm này thành sáu dòng ngang, và loại thứ bảy được rút vào trục của bánh xe. Do đó trung tâm này có sáu cánh hay gợn, và đặc biệt rạng rỡ, rực sáng như mặt trời.
The fourth centre, at the heart, is also of a glowing golden color, and each of its quadrants is divided into three parts, which gives it twelve undulations, because its primary force makes for it twelve spokes.Trung tâm thứ tư, ở tim, cũng có màu vàng kim rực rỡ, và mỗi góc phần tư của nó lại chia thành ba phần, tạo thành mười hai gợn, vì lực sơ cấp của nó tạo cho nó mười hai nan hoa.
The fifth centre, at the throat, has sixteen spokes, and therefore sixteen apparent divisions. There is a good deal of blue in it, but its general effect is silvery and gleaming, with a kind of suggestion as of moon-light upon rippling water.Trung tâm thứ năm, ở cổ họng, có mười sáu nan hoa, vì vậy có mười sáu phân đoạn hiện ra. Nó có khá nhiều sắc lam, nhưng hiệu ứng tổng thể là ánh bạc loé sáng, gợi như ánh trăng trên mặt nước gợn sóng.
The sixth centre, between the eyebrows, has the appearance of being divided into halves, the one predominantly rose-colored, though with a great deal of yellow about it, and the other predominantly a kind of purplish-blue, again closely agreeing with the colors of the special types of vitality that vivify it. Perhaps it is for this reason that this centre is mentioned in Indian books as having only two petals, though if we are to count undulations of the same character as those of the previous centres we shall find that each half is subdivided into forty-eight of these, making ninety-six in all, because its primary force has that number of radiations.Trung tâm thứ sáu, giữa hai chân mày, có vẻ như chia thành hai nửa, nửa này trội sắc hồng, dù có nhiều vàng quanh đó, và nửa kia trội một dạng xanh tím, lại cũng sát với màu của những loại sinh khí đặc biệt làm sinh động nó. Có lẽ vì lý do này mà trung tâm này được các sách Ấn Độ nói là chỉ có hai cánh, dù nếu chúng ta đếm các gợn có cùng đặc tính như ở các trung tâm trước, chúng ta sẽ thấy mỗi nửa lại chia thành bốn mươi tám gợn, thành chín mươi sáu tất cả, vì lực sơ cấp của nó có chừng ấy bức xạ.
The seventh, the centre at the top of the head, is when stirred into full activity perhaps the most resplendent of all, full of indescribable chromatic effects and vibrating with almost inconceivable rapidity. It is described in Indian books as thousand-petalled, and really this is not very far from the truth, the number of the radiations of its primary force in the outer circle being nine hundred and sixty. In addition to this it has a feature which is possessed by none of the other centres—a sort of subsidiary whirlpool of gleaming white flushed with gold in its heart—a minor activity which has twelve undulations of its own.Trung tâm thứ bảy, ở đỉnh đầu, khi bị khuấy động đến hoạt động hoàn toàn, có lẽ là rực rỡ nhất trong tất cả, đầy những hiệu ứng màu sắc không thể tả và rung với tốc độ hầu như không thể nghĩ bàn. Nó được sách Ấn Độ mô tả là nghìn cánh, và thực sự điều này không xa sự thật lắm, số bức xạ của lực sơ cấp ở vòng ngoài là chín trăm sáu mươi. Ngoài ra nó còn có một đặc điểm mà không trung tâm nào khác có—một kiểu xoáy phụ rực trắng ánh vàng ngay tâm—một hoạt động thứ cấp có mười hai gợn của riêng nó.
I have heard it suggested that each of the different petals of these force-centres represents a moral quality, and that the development of that quality brings the centre into activity. I have not yet met with any facts which confirm this, nor am I able to see exactly how it can be, because the appearance is produced by certain quite definite and easily recognizable forces, and the petals in any particular centre are either active or not active according as these forces have or have not been aroused, and their development seems to me to have no more connection with morality than has the development of the biceps. I have certainly met with persons in whom some of the centres were in full activity, though the moral development was by no means exceptionally high, whereas in other persons of high spirituality and the noblest possible morality the centres were not yet vitalized at all, so that there does not seem to me to be any connection between the two developments.Tôi đã nghe gợi ý rằng mỗi cánh khác nhau của các trung tâm lực này biểu trưng một phẩm chất đạo đức, và rằng sự phát triển phẩm chất ấy đưa trung tâm vào hoạt động. Tôi chưa gặp dữ kiện nào xác nhận điều này, cũng không thể thấy chính xác làm sao lại như thế, vì hình ảnh này được tạo bởi những lực xác định và rất dễ nhận, và các cánh ở một trung tâm nào đó hoặc hoạt động hoặc không hoạt động tuỳ theo các lực này đã hay chưa được đánh thức, và sự phát triển của chúng, theo tôi, không liên hệ gì với đạo đức hơn là sự phát triển của bắp tay. Tôi quả đã gặp những người mà một số trung tâm ở trong hoạt động hoàn toàn, dù sự phát triển đạo đức của họ chẳng cao vượt mức, trong khi ở những người có đời sống tinh thần cao và đạo hạnh cao đẹp nhất có thể, các trung tâm còn chưa được tiếp sinh lực chút nào; vì vậy có vẻ như không có liên hệ giữa hai dạng phát triển ấy.
Besides the keeping alive of the physical vehicle, these force-centres have another function, which comes into play only when they are awakened into full activity. Each of these etheric centres corresponds to an astral centre though as the astral centre is a vortex in four dimensions it has an extension in a direction quite different from the etheric, and consequently is by no means always co-terminous with it, though some part is always coincident. The etheric vortex is always on the surface of the etheric body, but the astral centre is frequently quite in the interior of that vehicle.Ngoài việc giữ cho vận cụ hồng trần sống, các trung tâm lực này còn có một chức năng khác, chỉ phát huy khi chúng được đánh thức hoạt động trọn vẹn. Mỗi trung tâm dĩ thái này tương ứng với một trung tâm cảm dục, dù trung tâm cảm dục là một xoáy trong bốn chiều, có sự mở rộng theo một hướng hoàn toàn khác với trung tâm dĩ thái, và do đó không phải lúc nào cùng ranh giới, dù lúc nào đó cũng có phần trùng khít. Xoáy dĩ thái luôn ở trên bề mặt của thể dĩ thái, nhưng trung tâm cảm dục thường lại ở hẳn bên trong vận cụ ấy.
The function of each of these etheric centres when fully aroused is to bring down into physical consciousness whatever may be the quality inherent in the astral centre which corresponds to it; so, before cataloguing the results to be obtained by arousing the etheric centres into activity, it may be well to consider what is done by each of the astral centres, although these latter are already in full activity in all cultured people of the later races. What effect, then, has the quickening of each of these astral centres produced in the astral body?Chức năng của mỗi trung tâm dĩ thái này khi được đánh thức hoàn toàn là đem xuống tâm thức thể xác bất kỳ phẩm chất gì vốn có nơi trung tâm cảm dục tương ứng; do đó, trước khi liệt kê các kết quả đạt được bằng cách đánh thức các trung tâm dĩ thái hoạt động, sẽ là điều tốt để xét xem mỗi trung tâm cảm dục làm gì, dù những trung tâm sau đã sẵn hoạt động trọn vẹn nơi tất cả những người có văn hoá của các giống dân về sau. Vậy thì, việc làm linh hoạt mỗi trung tâm cảm dục đã tạo ra hiệu ứng gì nơi thể cảm dục?
The first of these centres, that at the base of the spine, is the home of that mysterious force called the serpent-fire or, in The Voice of the Silence, the World’s Mother. I will say more about this force later; for the moment let us consider its effects on the astral centres. This force exists on all planes, and by its activity the rest of the centres are aroused. We must think of the astral body as having been originally an almost inert mass, with nothing but the vaguest consciousness, with no definite power of doing anything, and no clear knowledge of the world which surrounded it. The first thing that happened, then, was the awakening of that force in the man at the astral level. When awakened it moved on to the second centre, corresponding to the navel, and vivified it, thereby awakening in the astral body the power of feeling—a sensitiveness to all sorts of influences, though without as yet anything like the definite comprehension that comes from seeing or hearing.Trung tâm thứ nhất trong số này, ở đáy cột sống, là nơi trú của lực huyền bí gọi là hỏa xà hay, trong Tiếng Nói của Im Lặng , là Mẹ của Thế giới. Tôi sẽ nói thêm về lực này sau; lúc này hãy xét các hiệu ứng của nó lên những trung tâm cảm dục. Lực này hiện hữu trên mọi cõi, và nhờ hoạt động của nó mà các trung tâm khác được đánh thức. Chúng ta phải nghĩ về thể cảm dục như ban đầu là một khối hầu như trơ, chỉ có tâm thức mơ hồ nhất, không có quyền năng xác định để làm gì cả, và không có tri giác rõ ràng về thế giới quanh nó. Điều đầu tiên xảy ra, vậy là sự thức tỉnh của lực ấy nơi con người ở cấp độ cảm dục. Khi được đánh thức, nó di chuyển đến trung tâm thứ hai, tương ứng với rốn, và làm sinh động trung tâm ấy, nhờ đó đánh thức trong thể cảm dục quyền năng cảm thọ—một sự mẫn cảm với đủ loại ảnh hưởng, tuy chưa có gì giống sự thấu hiểu xác định đến từ thị giác hay thính giác.
Then it moved on to the third, that corresponding to physical spleen, and through it vitalized the whole astral body, enabling the person to travel consciously, though with only a vague conception as yet of what he encountered on his journeys.Rồi nó di chuyển đến trung tâm thứ ba, tương ứng với lá lách thể xác, và qua đó tiếp sinh lực cho toàn thể cảm dục, cho phép người ấy du hành một cách có ý thức, tuy mới chỉ có một tri giác mơ hồ về những gì y gặp trong hành trình.
The fourth centre, when awakened, endowed the man with the power to comprehend and sympathize with the vibrations of other astral entities, so that he could instinctively understand their feelings.Trung tâm thứ tư, khi được đánh thức, ban cho người ấy năng lực thấu hiểu và hoà điệu với các rung động của những thực thể cảm dục khác, sao cho y có thể theo bản năng hiểu cảm thọ của họ.
The awakening of the fifth, that corresponding to the throat, gave him the power of hearing on the astral plane—that is to say, it caused the development of that sense which in the astral world produces on our consciousness the effect which on the physical plane we call hearing.Sự đánh thức trung tâm thứ năm, tương ứng với cổ họng, ban cho y năng lực nghe trên cõi cảm dục—tức là tạo nên sự phát triển của giác quan mà trên cõi cảm dục gây nên nơi tâm thức chúng ta hiệu ứng mà trên cõi hồng trần chúng ta gọi là nghe.
The development of the sixth, that corresponding to the centre between the eyebrows, in a similar manner produced astral sight—the power to perceive definitely the shape and nature of astral objects, instead of vaguely sensing their presence.Sự phát triển trung tâm thứ sáu, tương ứng với trung tâm giữa hai chân mày, theo cách tương tự tạo nên thị giác cảm dục—năng lực tri nhận xác định hình dạng và bản chất các đối tượng cảm dục, thay vì chỉ mơ hồ cảm ứng sự hiện diện của chúng.
The arousing of the seventh, that corresponding to the top of the head, rounded off and completed for him the astral life, and endowed him with the perfection of its faculties.Sự khơi dậy trung tâm thứ bảy, tương ứng với đỉnh đầu, hoàn mãn và trọn vẹn hoá cho y đời sống cảm dục, và ban cho y sự thành tựu toàn bích các năng lực của cõi này.
With regard to this centre a certain difference seems to exist according to the type to which men belong. For many of us the astral vortices corresponding to the sixth and seventh of these centres both converge upon the pituitary body, and for those people the pituitary body is practically the only direct link between the physical and the higher planes. Another type of people, however, while still attaching the sixth centre to the pituitary body, bend or slant the seventh until its vortex coincides with the atrophied organ called the pineal gland, which is by people of that type vivified and made into a line of communication directly passing through the intermediate astral plane in the ordinary way. It was for this type that Madame Blavatsky was writing when she laid such emphasis upon the awakening of that organ.Về trung tâm này có một khác biệt nhất định có vẻ tồn tại tuỳ theo loại người. Với nhiều người trong chúng ta, các xoáy cảm dục tương ứng với trung tâm thứ sáu và thứ bảy đều hội tụ về tuyến yên, và với những người ấy, tuyến yên hầu như là mối liên kết trực tiếp duy nhất giữa cõi hồng trần và các cõi cao hơn. Một loại người khác, tuy vẫn gắn trung tâm thứ sáu với tuyến yên, nhưng bẻ nghiêng trung tâm thứ bảy cho đến khi xoáy của nó trùng với cơ quan thoái hoá gọi là tuyến tùng, vốn bởi những người thuộc loại ấy được làm sinh động và biến thành một đường liên lạc đi thẳng qua cõi cảm dục trung gian theo lối thông thường. Chính cho loại người này mà Bà Blavatsky đã viết khi Bà nhấn mạnh đến việc đánh thức cơ quan đó.
Thus these centres to some extent take the place of sense-organs for the astral body, and yet without proper qualification that expression would be decidedly a misleading one, for it must never be forgotten that though, in order to make ourselves intelligible, we constantly have to speak of astral seeing or astral hearing, all that we really mean by those expressions is the faculty of responding to such vibrations as convey to the man’s consciousness, when he is functioning in his astral body, information of the same character as that conveyed to him by his eyes and ears while he is in the physical body.Vậy các trung tâm này phần nào đảm nhiệm chức năng của các giác quan cho thể cảm dục, nhưng nếu không đủ điều kiện thì cách diễn đạt ấy sẽ gây hiểu sai, vì không bao giờ được quên rằng tuy để tự làm mình dễ hiểu chúng ta thường xuyên phải nói về “thấy cảm dục” hay “nghe cảm dục”, tất cả những gì chúng ta thực sự muốn nói bằng các diễn đạt ấy là khả năng đáp ứng với những rung động truyền tải đến tâm thức người ấy, khi y đang hoạt dụng trong thể cảm dục, những thông tin cùng loại như những gì được truyền đến y bởi mắt và tai khi y ở trong thể xác.
But in the entirely different astral conditions specialized organs are not necessary for the attainment of this result. There is matter in every part of the astral body which is capable of such response, and consequently the man functioning in that vehicle sees equally well the objects behind him, above him, and beneath him, without needing to turn his head. The centres, therefore, cannot be described as organs in the ordinary sense of the word, since it is not through them that the man sees or hears, as he does here through the eyes and ears. Yet it is upon their vivification that the power of exercising these astral senses depends, each of them as it is developed giving to the whole astral body the power of response to a new set of vibrations.Nhưng trong những điều kiện cảm dục hoàn toàn khác, các cơ quan chuyên biệt không cần thiết để đạt được kết quả này. Có chất liệu ở mọi phần của thể cảm dục vốn có khả năng đáp ứng như thế, và do đó người đang hoạt dụng trong vận cụ ấy thấy các đối tượng phía sau, phía trên và phía dưới mình như nhau, mà không cần quay đầu. Vì vậy, các trung tâm không thể được mô tả như cơ quan theo nghĩa thông thường của từ này, vì người ấy không nhìn hay nghe qua chúng như y làm ở đây qua mắt và tai. Tuy vậy, chính vào sự được làm sinh động của chúng mà quyền năng vận dụng các giác quan cảm dục này phụ thuộc, mỗi trung tâm khi được phát triển ban cho toàn thể thể cảm dục năng lực đáp ứng một nhóm rung động mới.
As all the particles of the astral body are constantly flowing and swirling about like those of boiling water, all of them in turn pass through each of the centres or vortices, so that each centre in its turn evokes in all the particles of the body the power of receptivity to a certain set of vibrations, and so all the astral senses are equally active in all parts of the body. But even when these astral senses are fully awakened it by no means follows that the man will be able to bring through his physical body any consciousness of their action.Vì mọi hạt phần của thể cảm dục liên tục chảy và xoáy như của nước sôi, tất cả lần lượt đi qua mỗi trung tâm hay xoáy, nhờ đó mỗi trung tâm lần lượt khơi dậy trong mọi hạt phần của thể năng lực tiếp nhận một nhóm rung động nào đó, và như vậy mọi giác quan cảm dục đều hoạt động đồng đều trên mọi phần của thể. Nhưng ngay cả khi các giác quan cảm dục này được đánh thức hoàn toàn thì cũng không có nghĩa là người ấy sẽ có thể đưa qua thể xác bất kỳ tâm thức nào về hoạt động của chúng.
While all this astral awakening was taking place, then, the man in his physical consciousness knew nothing whatever of it. The only way in which the dense body can be brought to share all these advantages is by repeating that process of awakening with the etheric centres. That is to be achieved precisely in the same way as it was done upon the astral plane—that is to say, by the arousing of the serpent-fire, which exists clothed in etheric matter on the physical plane, and sleeps in the corresponding etheric centre, that at the base of the spine.Vậy, trong khi mọi sự đánh thức cảm dục này đang diễn ra, người ấy trong tâm thức thể xác không biết gì cả. Cách duy nhất để thể đậm đặc được chia sẻ tất cả những lợi ích này là lặp lại tiến trình đánh thức với các trung tâm dĩ thái. Điều đó được thực hiện đúng như ở cõi cảm dục—tức là bằng cách khơi dậy hỏa xà, vốn hiện hữu dưới lớp dĩ thái trên cõi hồng trần, và ngủ trong trung tâm dĩ thái tương ứng, tức ở đáy cột sống.
In this case the arousing is done by a determined and long-continued effort of the will, and to bring that first centre into full activity is precisely to awaken the serpent-fire. When once that is aroused, it is by its tremendous force that the other centres are vivified. Its effect on the other etheric centres is to bring into the physical consciousness the powers which were aroused by the development of their corresponding astral centres.Trong trường hợp này, sự khơi dậy được thực hiện nhờ một nỗ lực ý chí kiên định và lâu dài, và đưa trung tâm thứ nhất vào hoạt động trọn vẹn chính là đánh thức hỏa xà. Một khi nó được khơi dậy, bằng sức mạnh khủng khiếp của nó mà các trung tâm khác được làm sinh động. Hiệu ứng của nó lên các trung tâm dĩ thái khác là đem vào tâm thức thể xác những quyền năng đã được khơi dậy bởi sự phát triển các trung tâm cảm dục tương ứng.
When the second of the etheric centres, that at the navel, comes into activity the man begins in the physical body to be conscious of all kinds of astral influences, vaguely feeling that some of them are friendly and others hostile, or that some places are pleasant and others unpleasant, without in the least knowing why.Khi trung tâm dĩ thái thứ hai, ở rốn, đi vào hoạt động, người ấy bắt đầu trong thể xác cảm nhận đủ loại ảnh hưởng cảm dục, mơ hồ thấy rằng có những cái thân thiện và những cái thù nghịch, hoặc rằng có những nơi dễ chịu và những nơi khó chịu, mà chẳng hiểu tại sao.
When the third centre, that at the spleen, is awakened, the man is enabled to remember his vague astral journeys, though sometimes only very partially. The effect of a slight and accidental stimulation of this centre is often to produce half-remembrance of a blissful sensation of flying through the air.Khi trung tâm thứ ba, ở lá lách, được đánh thức, người ấy có thể nhớ lại các cuộc hành trình cảm dục mơ hồ của mình, dù đôi khi chỉ một phần. Hiệu ứng của một sự kích thích nhẹ và tình cờ nơi trung tâm này thường là tạo ra một nửa ký ức về cảm giác hân hoan như bay giữa không trung.
Stimulation of the fourth, that at the heart, makes the man instinctively aware of the joys and sorrows of others, and sometimes even causes him to reproduce in himself by sympathy their physical aches and pains.Sự kích hoạt trung tâm thứ tư, ở tim, khiến người ấy theo bản năng biết niềm vui và nỗi buồn của người khác, và đôi khi còn khiến y bằng sự cảm thông tái tạo nơi mình các đau nhức thể xác của họ.
The arousing of the fifth, that at the throat, enables him to hear voices, which sometimes make all kinds of suggestions to him. Also sometimes he hears music, or other less pleasant sounds. When it is fully working it makes the man clair-audient as far as the etheric and astral planes are concerned.Sự khơi dậy trung tâm thứ năm, ở cổ họng, cho phép y nghe những tiếng nói, đôi khi đưa ra đủ loại gợi ý. Cũng có khi y nghe nhạc, hay những âm thanh ít dễ chịu hơn. Khi trung tâm này hoạt động hoàn toàn, nó khiến người ấy có thông nhĩ trong phạm vi các cõi dĩ thái và cảm dục.
When the sixth, between the eye-brows, becomes vivified, the man begins to see things, to have various sorts of waking visions, sometimes of places, sometimes of people. In its earlier development, when it is only just beginning to be awakened, it often means nothing more than half-seeing landscapes and clouds of color. The full arousing of this brings about clairvoyance.Khi trung tâm thứ sáu, giữa hai chân mày, được làm sinh động, người ấy bắt đầu thấy các sự vật, có đủ loại thị kiến lúc thức, đôi khi là cảnh trí, đôi khi là người. Trong giai đoạn phát triển sớm hơn, khi nó mới chớm thức dậy, điều này thường không là gì khác hơn một nửa thị kiến các phong cảnh và những đám mây màu. Việc đánh thức trọn vẹn đưa đến thông nhãn.
The centre between the eye-brows is connected with sight in yet another way. It is through it that the power of magnification of minute physical objects is exercised. A tiny flexible tube of etheric matter is projected from the centre of it, resembling a microscopic snake with an eye at the end of it. This is the special organ used in that form of clairvoyance, and the eye at the end of it can be expanded or contracted, the effect being to change the power of magnification according to the size of the object which is being examined. This is what is meant in ancient books when mention is made of the capacity to make oneself large or small at will. To examine an atom one developes an organ of vision commensurate in size with the atom. This little snake projecting from the centre of the forehead was symbolized upon the head-dress of the Pharaoh of Egypt, who as the chief priest of his country was supposed to possess this among many other occult powers.Trung tâm giữa hai chân mày còn liên hệ với thị giác theo một cách khác. Qua trung tâm này mà quyền năng phóng đại các vật thể cực nhỏ được vận dụng. Một ống nhỏ linh hoạt bằng chất dĩ thái được phóng chiếu ra từ tâm của trung tâm ấy, giống một con rắn cực vi có con mắt ở đầu. Đây là cơ quan chuyên biệt dùng trong dạng thông nhãn này, và con mắt ở đầu ống có thể được nới rộng hay thu hẹp, hiệu ứng là thay đổi công suất phóng đại tuỳ theo kích cỡ vật thể đang được khảo sát. Đây là ý nghĩa trong các sách cổ khi nói đến khả năng làm cho bản thân lớn hay nhỏ theo ý muốn. Để khảo sát một nguyên tử, người ta phát triển một cơ quan thị giác có kích cỡ tương xứng với nguyên tử. Con rắn nhỏ này phóng ra từ trung tâm trán được biểu trưng trên mũ đội đầu của các Pharaon Ai Cập, những người với tư cách là đại tư tế quốc gia được cho là sở hữu quyền năng huyền bí này giữa nhiều quyền năng khác.
When the seventh centre is awakened the man is able by passing through it to leave his body in full consciousness and also to return to it without the usual break, so that his consciousness will be continuous through night and day. When the fire has been passed through all these centres in a certain order (which varies for different types of people) the consciousness becomes continuous up to the entry into the heaven-world at the end of the life on the astral plane, no difference being made by either the temporary separation from the physical body during sleep or the permanent division at death.Khi trung tâm thứ bảy được đánh thức, người ấy có thể, bằng cách đi qua nó, rời thân xác trong toàn vẹn tâm thức và cũng trở về trong thân xác mà không có khoảng đứt, sao cho tâm thức của y liên tục suốt đêm ngày. Khi lửa đã đi qua tất cả những trung tâm này theo một trình tự nhất định (trình tự này thay đổi theo loại người), tâm thức trở nên liên tục cho đến khi bước vào thiên giới vào cuối đời sống trên cõi cảm dục, không có khác biệt do cả sự ly thân tạm thời khỏi thể xác trong giấc ngủ lẫn sự chia lìa vĩnh viễn khi chết.
Before this is done, however, the man may have many glimpses of the astral world, for especially strong vibrations may at any time galvanize one or other of the centres into temporary activity, without arousing the serpent-fire at all; or it may happen that the fire may be partially roused, and in this way also partial clairvoyance may be produced for the time. For this fire exists in seven layers or seven degrees of force, and it often happens that a man who exerts his will in the effort to arouse it may succeed in affecting one layer only, and so when he thinks that he has done the work he may find it ineffective, and may have to do it all over again many times, digging gradually deeper and deeper, until not only the surface is stirred but the very heart of the fire is in full activity.Tuy nhiên, trước khi điều này được thực hiện, người ấy có thể có nhiều thoáng thấy cõi cảm dục, vì những rung động đặc biệt mạnh có thể vào bất cứ lúc nào làm một hay trung tâm khác rơi vào hoạt động tạm thời, mà chẳng cần khơi dậy hỏa xà; hoặc cũng có thể hỏa xà bị khơi dậy một phần, và theo cách này cũng tạo nên thông nhãn bán phần trong một thời gian. Vì lửa này tồn tại trong bảy lớp hay bảy cấp độ lực, và thường xảy ra là người cố gắng khơi dậy bằng ý chí có thể chỉ thành công tác động được một lớp, khiến khi tưởng rằng mình đã làm xong công việc y lại thấy nó vô hiệu, và có thể phải làm lại hết nhiều lần, đào dần sâu hơn và sâu hơn, cho tới khi không chỉ bề mặt bị khuấy động mà tận tâm điểm của lửa cũng vào hoạt động trọn vẹn.

THE SERPENT-FIRE—HỎA XÀ

>
As we know it, this serpent-fire (called in Sanskrit kundalini) is the manifestation on the physical plane of one of the great world-forces—one of the powers of the LOGOS. You know that what we call electricity is a manifestation of one of His forces, and that that force may take various forms, such as heat, light and motion. Another of His forces is vitality—what is sometimes called prana, but this is not interchangeable with any of those other forms which we have just mentioned. We may say then that vitality and electricity are as it were the lower ends of two of His streams of force.Như chúng ta biết, hỏa xà này (tiếng Phạn gọi là kundalini) là sự biểu hiện trên cõi hồng trần của một trong những đại lực của thế giới—một trong những quyền năng của Thượng đế. Bạn biết rằng cái chúng ta gọi là điện lực là một biểu hiện của một trong các lực của Ngài, và lực ấy có thể mang nhiều dạng như nhiệt, ánh sáng và chuyển động. Một lực khác của Ngài là sinh khí—điều đôi khi gọi là prana, nhưng nó không thể hoán đổi với bất kỳ dạng nào trong những dạng vừa nêu. Chúng ta có thể nói rằng sinh khí và điện lực là như phần đầu thấp của hai dòng lực của Ngài.
This serpent-fire may be taken as the lower end of another of His streams, the physical-plane manifestation of another of the manifold aspects of His power. Like vitality, it exists on all planes of which we know anything; but it is the expression of it in etheric matter with which we have to do. It is not convertible into either vitality or electricity, and does not seem to be affected in any way by either. I have seen as much as a million and a quarter volts of electricity put into a human body, so that when the man held out his arms towards the wall huge flames rushed out from his fingers, yet he felt nothing unusual, nor was he in the least burnt unless he accidentally touched some external object; but even this enormous display of power had no effect whatever upon the serpent-fire.Hỏa xà này có thể xem là phần đầu thấp của một dòng khác nơi Ngài, là sự biểu hiện trên cõi hồng trần của một phương diện phong phú khác trong quyền năng của Ngài. Như sinh khí, nó tồn tại trên mọi cõi mà chúng ta biết điều gì đó; nhưng điều chúng ta phải xử lý là sự biểu hiện của nó trong chất liệu dĩ thái. Nó không thể chuyển hoá thành sinh khí hay điện lực, và dường như không bị ảnh hưởng theo bất kỳ cách nào bởi hai lực ấy. Tôi đã thấy người ta đưa vào thân một điện áp đến một triệu rưỡi volt, đến mức khi người ấy dang tay về phía tường, những ngọn lửa khổng lồ tuôn ra từ các ngón tay, vậy mà y không cảm thấy điều gì bất thường, và không hề bị bỏng trừ khi tình cờ chạm phải vật bên ngoài; nhưng ngay cả màn phô diễn quyền lực khổng lồ này cũng hoàn toàn không ảnh hưởng gì đến hỏa xà.
In The Voice of the Silence this force is called “the Fiery Power” and “the World’s Mother.” There is much reason for all these strange names, for it is in very truth like liquid fire as it rushes through the body, and the course through which it ought to move is a spiral one like the coils of a serpent. It is called the World’s Mother because through it our various vehicles may be vivified, so that the higher worlds may open before us in succession.Trong Tiếng Nói của Im Lặng lực này được gọi là “Quyền năng Lửa” và “Mẹ của Thế giới”. Có nhiều lý do cho tất cả những danh xưng lạ lùng này, vì quả thực nó như lửa lỏng khi lao qua thân thể, và lộ trình đúng đắn của nó là một đường xoắn như những vòng cuộn của con rắn. Nó được gọi là Mẹ của Thế giới bởi vì qua nó các vận cụ khác nhau của chúng ta có thể được làm sinh động, sao cho các cõi cao hơn lần lượt mở ra trước chúng ta.
In the body of man its home, as we have said, is at the base of the spine, and for the ordinary person it lies there unawakened, and its very presence unsuspected, during the whole of his life; and it is indeed far better to allow it thus to remain dormant until the man has made definite moral development, until his will is strong enough to control it and his thoughts pure enough to enable him to face its awakening without injury. No one should experiment with it without definite instruction from a teacher who thoroughly understands the subject, for the dangers connected with it are very real and terribly serious. Some of them are purely physical. Its uncontrolled movement often produces intense physical pain, and it may readily tear tissues and even destroy physical life. This, however, is the least of the evils of which it is capable, for it may do permanent injury to vehicles higher than the physical.Trong thân con người, chỗ cư trú của nó, như đã nói, là ở đáy cột sống, và với người bình thường thì nó nằm đó không thức dậy, và suốt đời người ấy còn không hề biết đến sự hiện diện của nó; và quả thật, để nó ngủ yên như thế là tốt hơn nhiều cho đến khi người ấy đạt một phát triển đạo đức xác định, cho đến khi ý chí đủ mạnh để chế ngự nó và tư tưởng đủ thanh khiết để cho phép đối diện với sự thức tỉnh của nó mà không tổn hại. Không ai nên thử nghiệm với nó nếu không có chỉ dẫn rõ ràng từ một vị Thầy am tường thấu đáo đề tài này, vì các nguy hiểm gắn liền với nó là rất thực và kinh khủng nghiêm trọng. Một số nguy hiểm hoàn toàn thuộc thể xác. Sự vận động không kiểm soát của nó thường gây ra những cơn đau thể xác dữ dội, và nó có thể dễ dàng xé rách các mô và thậm chí huỷ hoại sự sống thể xác. Tuy nhiên, đó là điều ít ác hại nhất mà nó có thể gây ra, vì nó có thể làm tổn thương vĩnh viễn các vận cụ cao hơn thể xác.
One very common effect of rousing it prematurely is that it rushes downwards in the body instead of upwards, and thus excites the most undesirable passions—excites them and intensifies their effects to such a degree that it becomes absolutely impossible for the man to resist them, because a force has been brought into play in whose presence he is as helpless as a swimmer before the jaws of a shark. Such men become satyrs monsters of depravity, because they are in the grasp of a force which is out of all proportion to the ordinary human power of resistance. They may probably gain certain supernormal powers, but these will be such as will bring them into touch with a lower order of evolution with which humanity is intended to hold no commerce and to escape from its awful thraldom may take them more than one incarnation. I am not in any way exaggerating the horror of this thing, as a person to whom it was all a matter of hearsay might unwittingly do. I have myself been consulted by people upon whom this awful fate has already come, and I have seen with my own eyes what happened to them. There is a school of black magic which purposely uses this power in this way, in order that through it may be vivified those lower force-centres which are never used by the followers of the Good Law.Một hiệu ứng rất thường gặp của việc khơi dậy quá sớm là nó lao xuống dưới trong thân thay vì đi lên, và như thế kích động những dục vọng không đáng mong muốn nhất—kích động chúng và làm tăng cường hiệu ứng của chúng đến mức tuyệt đối không thể cưỡng lại, vì một lực đã được đưa vào hoạt động mà trước nó con người bất lực như một người bơi trước hàm cá mập. Những người như vậy trở thành những dâm thần—những quái vật truỵ lạc, vì họ nằm trong nanh vuốt của một mãnh lực vượt xa mọi tỷ lệ so với năng lực kháng cự bình thường của con người. Họ có thể giành được một số quyền năng siêu thường nào đó, nhưng những quyền năng này sẽ thuộc loại đưa họ vào tiếp xúc với một trật tự tiến hoá thấp mà nhân loại không được định để giao thương, và để thoát khỏi ách nô lệ kinh khiếp ấy có thể làm họ mất quá một kiếp. Tôi không hề phóng đại nỗi kinh hoàng này, như một người chỉ nghe nói qua có thể vô tình làm. Tôi đã tự mình được những người mang tai ương khủng khiếp này tìm đến tham khảo, và tôi đã tận mắt thấy điều xảy ra với họ. Có một trường phái Hắc thuật cố ý sử dụng lực này theo cách ấy, để qua đó các trung tâm lực thấp—những trung tâm không bao giờ được các người theo Luật lành dùng—được làm sinh động.
Even apart from this greatest of its dangers, its premature unfoldment has many other unpleasant possibilities. It intensifies everything in man’s nature, and it reaches the lower and evil qualities more readily than the good. In the mental body, for example, ambition is very readily aroused, and soon swells to an incredibly inordinate degree. It would be likely to bring with it a great intensification of the power of intellect, but at the same time it would produce abnormal and satanic pride, such as is quite inconceivable to the ordinary man. It is not wise for a man to think that he is prepared to cope with any force that may arise within his body; this is no ordinary force, but something resistless. Assuredly no uninstructed man should ever try to awaken it, and if such a one finds that it has been aroused by accident he should at once consult some one who fully understands these matters.Ngay cả ngoài nguy hiểm lớn nhất này, sự khai mở sớm của nó còn có nhiều khả năng khó chịu khác. Nó làm mạnh lên mọi thứ trong bản tính con người, và nó chạm tới những phẩm chất thấp và ác dễ hơn là những phẩm chất tốt. Thí dụ trong thể trí, tham vọng rất dễ bị khơi dậy, và sớm phình to đến mức độ không thể tin nổi. Nó có thể mang theo một sự tăng cường lớn lao năng lực trí tuệ, nhưng đồng thời tạo nên một niềm kiêu hãnh quỷ quyệt và ma vương, đến mức không thể hình dung đối với người thường. Không khôn ngoan khi một người nghĩ rằng mình đã sẵn sàng đối phó với bất cứ lực nào có thể nổi lên trong thân; đây không phải là một lực thông thường, mà là một cái gì đó bất khả kháng. Chắc chắn không người nào chưa được chỉ dạy nên thử đánh thức nó, và nếu ai đó thấy rằng nó đã bị khơi dậy một cách tình cờ, người ấy phải lập tức tham vấn một người am hiểu hoàn toàn những vấn đề này.
It may be noticed that I have specially and intentionally refrained from explaining how this arousing is to be done, or mentioning the order in which the force (when aroused) should be passed through these various centres, for that should by no means be attempted except at the express suggestion of a Master, who will watch over His pupil during the various stages of the experiment.Bạn sẽ để ý rằng tôi cố ý và có chủ tâm tránh giải thích cách khơi dậy này phải được thực hiện thế nào, hay đề cập đến trật tự mà lực (khi được đánh thức) nên đi qua các trung tâm khác nhau này, vì tuyệt đối không nên thử điều đó trừ khi có đề nghị minh nhiên của một vị Thầy, Đấng sẽ theo sát học trò của Ngài trong các giai đoạn khác nhau của thí nghiệm.
I most solemnly warn all students against making any effort whatever in the direction of awakening these tremendous forces, except under such qualified tuition, for I have myself seen many cases of the terrible effects which follow from ignorant and ill-advised meddling with these very serious matters. The force is a tremendous reality, one of the great basic facts of nature, and most emphatically it is not a thing to be played with, or to be lightly taken in hand, for to experiment with it without understanding it is far more dangerous than it would be for a child to play with nitroglycerine. As is very truly said in the Hathayogapradipika: “It gives liberation to yogis and bondage to fools.” (iii. 107.)Tôi long trọng cảnh báo mọi môn sinh đừng làm bất cứ nỗ lực nào theo hướng đánh thức những mãnh lực khủng khiếp này, trừ phi dưới sự chỉ giáo đủ thẩm quyền như vậy, vì chính tôi đã thấy nhiều trường hợp các hệ quả khủng khiếp xảy ra do sự can thiệp ngu dốt và dại dột vào những việc cực kỳ nghiêm trọng này. Lực này là một thực tại khổng lồ, một trong những sự kiện nền tảng lớn của thiên nhiên, và rất nhấn mạnh rằng nó không phải là thứ để đùa giỡn hay cầm nắm hờ hững, vì thử nghiệm với nó mà không hiểu nó nguy hiểm hơn rất nhiều so với việc một đứa trẻ chơi với nitroglycerin. Như câu nói rất đúng trong Hathayogapradipika : “Nó đem giải thoát cho các yogi và giam cầm bọn ngu.” (iii. 107.)
In matters such as these, students so often seem to think that some special exception to the laws of nature will be made in their case, that some special intervention of providence will save them from the consequences of their folly. Assuredly nothing of that sort will happen, and the man who wantonly provokes an explosion is quite likely to become its first victim. It would save much trouble and disappointment if students could be induced to understand that in all matters connected with occultism we mean just exactly and literally what we say, and that it is applicable in every case without exception. For there is no such thing as favoritism in the working of the great laws of the universe.Trong những việc như thế này, các môn sinh thường có vẻ nghĩ rằng một ngoại lệ đặc biệt nào đó đối với các định luật thiên nhiên sẽ được tạo ra cho trường hợp của họ, rằng một sự quan phòng đặc biệt sẽ cứu họ khỏi các hệ quả của sự dại dột. Chắc chắn sẽ không có gì như thế xảy ra, và người cố tình khơi gợi một vụ nổ rất dễ trở thành nạn nhân đầu tiên của nó. Sẽ tránh được nhiều rắc rối và thất vọng nếu các môn sinh có thể được thuyết phục hiểu rằng trong tất cả những việc liên quan đến huyền bí học, chúng tôi nói chính xác và theo nghĩa đen điều chúng tôi nói, và điều đó áp dụng cho mọi trường hợp không ngoại lệ. Vì không có thứ thiên vị nào trong sự vận hành của những định luật vĩ đại của vũ trụ.
Everybody wants to try all possible experiments; everybody is convinced that he is quite ready for the highest possible teaching and for any sort of development, and no one is willing to work patiently along at the improvement of character, and to devote his time and his energies to doing something useful for the work of the Society, waiting for all these other things until a Master shall announce that he is ready for them. The old aphorism still remains true: “Seek ye first the kingdom of God and His righteousness, and all these things shall be added unto you.”Ai cũng muốn thử mọi thí nghiệm có thể; ai cũng tin chắc rằng mình đã sẵn sàng cho sự chỉ dạy cao nhất có thể và cho bất cứ dạng phát triển nào, và chẳng ai sẵn lòng làm việc kiên nhẫn để cải thiện Tính cách, và dốc thời gian cùng năng lượng để làm điều gì hữu ích cho công việc của Hội, chờ đợi tất cả những điều khác này cho đến khi một vị Thầy tuyên bố rằng người ấy đã sẵn sàng cho chúng. Châm ngôn xưa vẫn đúng: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước của Thượng đế và sự công chính của Ngài, thì mọi điều ấy sẽ được thêm cho các ngươi.”
There are some cases in which the fire wakes spontaneously, so that a dull glow is felt; it may even begin to move of itself, though this is rare. In this latter case it would be likely to cause great pain, as, since the passages are not prepared for it, it would have to clear its way by actually burning up a great deal of etheric dross—a process that cannot but engender suffering. When it thus awakes of itself or is accidentally aroused, it usually tries to rush up the interior of the spine, instead of following the spiral course into which the occultist is trained to guide it. If it be possible, the will should be set in motion to arrest its onward rush, but if that proves to be impossible (as is most likely) no alarm need be felt. It will probably rush out through the head and escape into the surrounding atmosphere, and it is likely that no harm will result beyond a slight weakening. Nothing worse than a temporary loss of consciousness need be apprehended. The really appalling dangers are connected not with its upward rush, but with the possibility of its turning downwards and inwards.Có những trường hợp mà lửa tự khởi động, khiến người ta cảm thấy một ánh hồng mờ; thậm chí nó có thể tự bắt đầu chuyển động, dù điều này hiếm gặp. Trong trường hợp sau, nó có khả năng gây đau đớn lớn, vì các đường dẫn chưa được chuẩn bị cho nó, nó sẽ phải tự mở lối bằng cách thực sự thiêu đốt một lượng lớn cặn bã dĩ thái—một tiến trình không thể không sinh ra đau khổ. Khi tự nó thức dậy như vậy hoặc bị khơi lên một cách tình cờ, nó thường cố lao vụt lên bên trong cột sống, thay vì theo quỹ đạo xoắn ốc mà nhà huyền bí học được huấn luyện để dẫn dắt nó. Nếu có thể, nên vận dụng ý chí để chặn lại đà lao tới của nó, nhưng nếu điều đó tỏ ra bất khả (điều rất có thể), thì cũng không cần hoảng hốt. Rất có thể nó sẽ phóng ra qua đầu và thoát vào bầu khí quyển chung quanh, và có lẽ sẽ không có hại gì ngoài một chút suy nhược. Không cần lo sợ điều gì tệ hơn ngoài việc mất tâm thức tạm thời. Những nguy hiểm thực sự kinh hoàng không liên hệ đến đà lao thẳng lên của nó, mà là khả năng nó quay xuống dưới và vào trong.
Its principal function in connection with occult development is that by being sent through the force-centres in the etheric body, as above described, it vivifies these centres and makes them available as gates of connection between the physical and astral bodies. It is said in The Voice of the Silence that when the serpent-fire reaches the centre between the eye-brows and fully vivifies it, it confers the power of hearing the voice of the Master—which means in this case the voice of the ego or higher self. The reason for this statement is that when the pituitary body is brought into working order it forms a perfect link with the astral vehicle, so that through it all communications from within can be received.Chức năng chủ yếu của nó liên hệ đến sự phát triển huyền bí là: bằng cách được đưa qua các trung tâm lực trong thể dĩ thái, như đã mô tả ở trên, nó làm sinh động các trung tâm này và khiến chúng khả dụng như các cửa nối kết giữa thể xác và thể cảm dục. Trong Tiếng Nói của Im Lặng  có nói rằng khi xà hỏa đến trung tâm giữa hai chân mày và hoàn toàn làm sinh động trung tâm ấy, nó ban năng lực nghe tiếng nói của Chân sư—trong trường hợp này có nghĩa là tiếng nói của chân ngã. Lý do của lời khẳng định này là khi tuyến yên được đưa vào tình trạng hoạt động đúng mức, nó hình thành một mối liên kết hoàn hảo với hiện thể cảm dục, nhờ đó mọi thông tin truyền đạt từ bên trong đều có thể được tiếp nhận qua nó.
It is not only this one; all the higher force-centres have presently to be awakened, and each must be made responsive to all kinds of astral influences from the various astral sub-planes. This development will come to all in due course, but most people cannot gain it during the present incarnation, if it is the first in which they have begun to take these matters seriously in hand. Some Indians might succeed in doing so, as their bodies are by heredity more adaptable than most others; but it is really for the majority the work of a later round altogether. The conquest of the serpent-fire has to be repeated in each incarnation, since the vehicles are new each time, but after it has been once thoroughly achieved these repetitions will be an easy matter. It must be remembered that its action varies with different types of people; some, for example, would see the higher self rather than hear its voice. Again, this connection with the higher has many stages; for the personality it means the influence of the ego, but for the ego himself it means the power of the monad, and for the monad in turn it means to become a conscious expression of the LOGOS.Không chỉ trung tâm này; tất cả các trung tâm lực cao hơn đều sẽ phải được đánh thức, và mỗi trung tâm phải được làm cho biết đáp ứng với mọi loại ảnh hưởng cảm dục từ các cõi phụ cảm dục khác nhau. Sự phát triển này sẽ đến với mọi người theo thời vận, nhưng hầu hết không thể đạt được nó trong lần lâm phàm hiện tại nếu đây là lần đầu họ bắt đầu nghiêm túc đảm đương những vấn đề này. Một số người Ấn Độ có thể thành công, vì do di truyền mà thân thể của họ thích nghi hơn đa phần người khác; nhưng thực ra đối với đa số, đó là công việc của một cuộc tuần hoàn về sau hẳn hoi. Sự chinh phục xà hỏa phải được lặp lại trong mỗi lần lâm phàm, bởi vì mỗi lần các hiện thể đều mới, nhưng sau khi đã đạt được một lần một cách triệt để, các lần lặp lại sau sẽ là chuyện dễ dàng. Cần nhớ rằng tác động của nó biến thiên theo các kiểu người khác nhau; một số người, chẳng hạn, sẽ thấy chân ngã thay vì nghe tiếng nói của chân ngã. Hơn nữa, mối nối kết với cái cao hơn này có nhiều tầng bậc; với phàm ngã, nó là ảnh hưởng của chân ngã, nhưng với chính chân ngã, nó là quyền năng của chân thần, và với chân thần thì đến lượt nó có nghĩa là trở thành biểu hiện có ý thức của Thượng đế.
It may be of use if I mention my own experience in this matter. In the earlier part of my residence in India twenty-five years ago I made no effort to rouse the fire—not indeed knowing very much about it, and having the opinion that, in order to do anything with it, it was necessary to be born with a specially psychic body, which I did not possess. But one day one of the Masters made a suggestion to me with regard to a certain kind of meditation which would evoke this force. Naturally I at once put the suggestion into practice and in course of time was successful. I have no doubt, however, that He watched the experiment, and would have checked me if it had become dangerous. I am told that there are Indian ascetics who teach this to their pupils, of course keeping them under careful supervision during the process. But I do not myself know of any such, nor should I have confidence in them unless they were specially recommended by some one whom I knew to be possessed of real knowledge.Có lẽ sẽ hữu ích nếu tôi nói đến kinh nghiệm riêng của mình về việc này. Trong giai đoạn đầu cư trú tại Ấn Độ cách đây hai mươi lăm năm, tôi không hề cố gắng khơi dậy ngọn lửa—thực ra cũng không biết bao nhiêu về nó, và tôi cho rằng muốn làm được gì với nó thì cần phải được sinh ra với một thể thông linh đặc biệt, điều mà tôi không có. Nhưng một ngày nọ, một trong các Chân sư đã gợi ý cho tôi về một loại tham thiền nhất định có thể gợi lên mãnh lực này. Tự nhiên tôi lập tức đem lời gợi ý ra thực hành và theo thời gian thì thành công. Tuy nhiên, tôi hoàn toàn không nghi ngờ rằng Ngài đã theo dõi thí nghiệm, và ắt đã ngăn tôi lại nếu nó trở nên nguy hiểm. Tôi được cho biết có những nhà khổ hạnh Ấn Độ dạy điều này cho môn đồ của họ, dĩ nhiên luôn giữ họ dưới sự giám sát cẩn trọng trong suốt tiến trình. Nhưng bản thân tôi không biết một vị nào như thế, và tôi cũng sẽ không đặt niềm tin nơi họ, trừ khi họ được đặc biệt giới thiệu bởi một người mà tôi biết chắc là có tri thức chân thực.
People often ask me what I advise them to do with regard to the arousing of this force. I advise them to do exactly what I myself did. I recommend them to throw themselves into Theosophical work and wait until they receive a definite command from some Master who will undertake to superintend their psychic development, continuing in the meantime all the ordinary exercises of meditation that are known to them. They should not care in the least whether such development comes in this incarnation or in the next, but should regard the matter from the point of view of the ego and not of the personality, feeling absolutely certain that the Masters are always watching for those whom They can help, that it is entirely impossible for any one to be overlooked, and that They will unquestionably give Their directions when They think that the right time has come.Người ta thường hỏi tôi nên làm gì liên quan đến việc khơi dậy mãnh lực này. Tôi khuyên họ làm đúng như chính tôi đã làm. Tôi khuyến nghị họ dấn thân vào công việc Thông Thiên Học và chờ cho đến khi họ nhận được một mệnh lệnh rõ ràng từ một Chân sư, Đấng sẽ đảm nhận việc giám sát sự phát triển thông linh của họ, trong khi đó vẫn tiếp tục tất cả các bài tập tham thiền thông thường mà họ đã biết. Họ không nên bận tâm chút nào liệu sự phát triển như vậy đến trong lần lâm phàm này hay lần sau, mà nên nhìn vấn đề từ quan điểm của chân ngã chứ không phải của phàm ngã, với sự xác tín tuyệt đối rằng các Chân sư luôn dõi tìm những ai Các Ngài có thể trợ giúp, rằng hoàn toàn không thể có chuyện ai bị bỏ sót, và rằng chắc chắn Các Ngài sẽ ban chỉ dẫn khi Các Ngài thấy thời điểm thích hợp đã đến.
I have never heard that there is any sort of age limit with regard to the development, and I do not see that age should make any difference, so long as one has perfect health; but the health is a necessity, for only a strong body can endure the strain, which is much more serious than anyone who has not made the attempt can possibly imagine.Tôi chưa từng nghe nói rằng có bất kỳ giới hạn tuổi tác nào liên quan đến sự phát triển này, và tôi không thấy tuổi tác phải tạo nên khác biệt, miễn là người ta có sức khỏe hoàn hảo; nhưng sức khỏe là điều thiết yếu, vì chỉ một thân thể cường tráng mới chịu nổi sức căng, vốn nghiêm trọng hơn nhiều so với bất kỳ ai chưa từng thử qua có thể tưởng tượng.
The force when aroused must be very strictly controlled, and it must be moved through the centres in an order which differs for people of different types. The movement also, to be effective, must be made in a particular way, which the Master will explain when the time comes.Khi được khơi dậy, mãnh lực này phải được kiểm soát thật nghiêm ngặt, và nó phải được dẫn qua các trung tâm theo một thứ tự khác nhau đối với những kiểu người khác nhau. Hơn nữa, sự di chuyển muốn hiệu quả phải được thực hiện theo một cách thức nhất định, điều mà Chân sư sẽ giải thích khi thời điểm tới.
I have said that the astral and etheric centres are in very close correspondence; but between them, and interpenetrating them in a manner not readily describable, is a sheath composed of a single layer of physical atoms much compressed and permeated by a special form of vital force. The divine life which normally descends from the astral body to the physical is so attuned as to pass through this with perfect ease, but it is an absolute barrier to all other forces—all which cannot use the atomic matter of both the planes. This web is the natural protection provided by nature to prevent a premature opening up of communication between the planes—a development which could lead to nothing but injury.Tôi đã nói rằng các trung tâm cảm dục và dĩ thái tương ứng rất gần nhau; nhưng giữa chúng, và xuyên thấu chúng theo một cách khó miêu tả, là một vỏ bọc cấu thành từ một lớp duy nhất những nguyên tử hồng trần bị nén chặt và thấm nhuần bởi một dạng đặc biệt của sinh lực. Sự sống thiêng liêng vốn thường tuôn xuống từ thể cảm dục vào thể xác được điều chỉnh sao cho đi qua chướng ngại này một cách hết sức dễ dàng, nhưng nó là một hàng rào tuyệt đối đối với mọi mãnh lực khác—tất cả những gì không thể sử dụng chất nguyên tử của cả hai cõi. Tấm lưới này là sự bảo vệ tự nhiên do thiên nhiên cung cấp để ngăn mở sớm mối thông giao giữa các cõi—một phát triển không thể đưa đến gì ngoài tai hại.
It is this which under normal conditions prevents clear recollection of what has happened during sleep, and it is this also which causes the momentary unconsciousness which always occurs at death. But for this merciful provision the ordinary man, who knows nothing about all these things and is entirely unprepared to meet them, could at any moment be brought by any astral entity under the influences of forces to cope with which would be entirely beyond his strength. He would be liable to constant obsession by any being on the astral plane who desired to seize upon his vehicles.Chính nó, trong điều kiện bình thường, ngăn không cho có ký ức rõ ràng về những gì đã xảy ra trong giấc ngủ, và cũng chính nó gây nên sự bất tỉnh trong chốc lát vốn luôn diễn ra lúc chết. Nếu không có sự an bài đầy nhân từ này, người bình thường—kẻ chẳng biết gì về những điều này và hoàn toàn không được chuẩn bị để đối diện—có thể bất cứ lúc nào cũng bị một thực thể cảm dục nào đó đặt dưới ảnh hưởng của các mãnh lực mà y hoàn toàn bất lực để đối phó. Y sẽ luôn có nguy cơ bị bất kỳ sinh thể nào trên cõi cảm dục ám nhập nếu kẻ ấy muốn chiếm lấy các hiện thể của y.
It will therefore be readily understood that any injury to this web is a serious disaster. There are several ways in which injury may come, and it behooves us to use our best endeavours to guard against it. It may come either by accident or by continued malpractice. Any great shock to the astral body, such for example as a sudden terrible fright, may rend apart this delicate organism and, as it is commonly expressed, drive the man mad. (Of course there are other ways in which fear may cause insanity, but this is one.) A tremendous outburst of anger may also produce the same effect. Indeed it may follow upon any exceedingly strong emotion of an evil character which produces a kind of explosion in the astral body.Do đó, có thể dễ dàng hiểu rằng bất kỳ tổn hại nào đến tấm lưới này đều là một tai họa nghiêm trọng. Có nhiều cách mà tổn hại có thể xảy ra, và chúng ta cần nỗ lực hết sức để phòng ngừa. Nó có thể đến do tai nạn hoặc do sự hành xử sai lạc kéo dài. Bất kỳ cú sốc lớn nào đối với thể cảm dục—chẳng hạn một nỗi kinh hoàng bất ngờ khủng khiếp—có thể xé toạc sinh thể tinh tế này và, như người ta thường nói, làm cho con người phát điên. (Dĩ nhiên còn có những cách khác mà sợ hãi có thể gây loạn trí, nhưng đây là một trong số đó.) Một cơn bộc phát giận dữ dữ dội cũng có thể tạo nên hiệu ứng tương tự. Thật ra nó có thể theo sau bất kỳ cảm xúc cực mạnh nào mang tính xấu xa, thứ tạo ra một kiểu “nổ” trong thể cảm dục.
The malpractices which may more gradually injure this protective web are of two classes—the use of alcohol or narcotic drugs and the deliberate endeavour to throw open the doors which nature has kept closed, by means of such a process as is described in spiritualistic parlance as sitting for development. Certain drugs and drinks—notably alcohol and all the narcotics, including tobacco—contain matter which on breaking up volatilizes, and some of it passes from the physical plane to the astral. (Even tea and coffee contain this matter, but in quantities so infinitesimal that it is usually only after long-continued abuse of them that the effect manifests itself.)Những hành xử sai lạc dần dần gây tổn hại tấm lưới bảo hộ này thuộc hai loại—việc dùng rượu hoặc các ma túy và nỗ lực có chủ đích mở toang những cánh cửa mà thiên nhiên vẫn giữ đóng kín, bằng một tiến trình như cách nói của giới thần linh học gọi là “ngồi để phát triển”. Một số thuốc và đồ uống—đặc biệt là rượu và mọi loại ma túy, kể cả thuốc lá—chứa chất khi phân rã sẽ bay hơi, và một phần trong đó đi từ cõi hồng trần sang cõi cảm dục. (Ngay cả trà và cà phê cũng chứa chất này, nhưng với lượng nhỏ đến mức hầu như chỉ sau khi lạm dụng lâu ngày thì hiệu ứng mới biểu hiện.)
When this takes place in the body of man these constituents rush out through the force-centres in the opposite direction to that for which they are intended, and in doing this repeatedly they seriously injure and finally destroy the delicate web. This deterioration or destruction may be brought about in two different ways, according to the type of the person concerned and to the proportion of the constituents in his etheric and astral bodies. First, the rush of volatilizing matter actually burns away the web, and therefore leaves the door open to all sorts of irregular forces and evil influences.Khi điều này diễn ra trong thân thể con người, các thành phần ấy lao ra ngoài qua các trung tâm lực theo chiều ngược lại với mục đích tự nhiên của chúng, và khi lặp đi lặp lại như thế, chúng gây tổn hại nghiêm trọng và cuối cùng phá hủy tấm lưới tinh tế. Sự suy thoái hay phá hủy này có thể xảy ra theo hai cách khác nhau, tùy thuộc kiểu người liên quan và tỷ lệ các thành phần trong thể dĩ thái và thể cảm dục của y. Thứ nhất, dòng chất bay hơi thực sự đốt cháy tấm lưới, từ đó để ngỏ cánh cửa cho đủ loại mãnh lực bất thường và ảnh hưởng xấu xa.
The second result is that these volatile constituents, in flowing through, somehow harden the atom so that its pulsation is to a large extent checked and crippled, and it is no longer capable of being vitalized by the particular type of force which welds it into a web. The result of this is a kind of ossification of the web, so that instead of having too much coming through from one plane to the other, we have very little of any kind coming through.Hậu quả thứ hai là những thành phần bay hơi ấy, khi chảy qua, bằng cách nào đó làm cứng nguyên tử đến mức biên độ rung động của nó phần lớn bị kìm hãm và què quặt, và nó không còn có thể được tiếp sinh lực bởi kiểu mãnh lực đặc thù vốn dệt chúng thành một tấm lưới. Kết quả là một kiểu xơ cứng của tấm lưới, khiến thay vì có quá nhiều thứ đi từ cõi này sang cõi kia, thì gần như chẳng có gì đi qua được.
We may see the effects of both these types of deterioration in the case of men who yield themselves to drunkenness. Some of those who are affected in the former way fall into delirium tremens, obsession or insanity; but those are after all comparatively rare. Far more common is the second type of deterioration—the case in which we have a kind of general deadening down of the man’s qualities, resulting in gross materialism, brutality and animalism, in the loss of all finer feelings and of the power to control himself. He no longer feels any sense of responsibility; he may love his wife and children when sober, but when the fit of drunkenness comes upon him he will use the money which should have bought bread for them to satisfy his own bestial cravings, the affection and the responsibility having apparently entirely disappeared.Chúng ta có thể thấy các hiệu ứng của cả hai kiểu suy thoái này nơi những người tự phó mình cho cơn say sưa. Một số người bị ảnh hưởng theo cách thứ nhất rơi vào mê sảng run, bị ám nhập hay loạn trí; nhưng sau cùng những trường hợp như vậy tương đối hiếm. Phổ biến hơn nhiều là kiểu suy thoái thứ hai—trường hợp mà chúng ta thấy một kiểu làm tê liệt chung các phẩm tính của con người, dẫn đến duy vật thô kệch, hung bạo và thú tính, mất hết mọi cảm tình tinh tế và mất năng lực tự chủ. Y không còn cảm nhận chút ý thức trách nhiệm nào; có thể y yêu vợ con khi tỉnh táo, nhưng khi cơn say tràn tới, y sẽ dùng số tiền đáng lẽ mua bánh mì cho họ để thỏa mãn những dục vọng thú tính của chính y, dường như tình thương và trách nhiệm đã hoàn toàn biến mất.
The second type of effect is very commonly to be seen among those who are slaves of the tobacco habit; again and again we find that they persist in their self-indulgence even when they know perfectly well that it causes nausea and misery to their neighbors. We shall recognize the deterioration at once when we think that this is the only practice in which a gentleman will persist when he is aware that it causes acute annoyance to others. Clearly in this case the finer feelings have already been seriously blunted.Kiểu hiệu ứng thứ hai rất thường thấy nơi những người làm nô lệ cho thói quen hút thuốc; hết lần này đến lần khác, chúng ta thấy họ vẫn cố chấp nuông chiều bản thân ngay cả khi họ biết rõ rằng điều đó gây buồn nôn và khổ sở cho những người quanh họ. Chúng ta sẽ nhận ra sự suy thoái ngay khi nghĩ rằng đây là thói quen duy nhất mà một người lịch sự vẫn cứ bám giữ dù biết rằng nó gây khó chịu gay gắt cho người khác. Rõ ràng trong trường hợp này các cảm quan tinh tế đã bị cùn nhụt nghiêm trọng.
All impressions which pass from one plane to the other are intended to come only through the atomic sub-planes, as I have said; but when this deadening process sets in, it presently infects not only other atomic matter, but matter of even the second and third sub-planes, so that the only communication between the astral and the etheric is when some force acting on the lower sub-planes (upon which only unpleasant and evil influences are to be found) happens to be strong enough to compel a response by the violence of its vibration.Mọi ấn tượng đi từ cõi này sang cõi kia đều được định hướng chỉ đi qua các cõi phụ nguyên tử, như tôi đã nói; nhưng khi tiến trình làm tê liệt này khởi phát, rồi lan nhiễm không chỉ các chất nguyên tử khác mà còn cả chất của cõi phụ thứ hai và thứ ba, đến nỗi chỉ còn có sự thông tin giữa cõi cảm dục và cõi dĩ thái khi một mãnh lực tác động trên các cõi phụ thấp (trên đó chỉ có những ảnh hưởng khó chịu và xấu xa) tình cờ đủ mạnh để cưỡng bức đáp ứng bằng bạo lực rung động của nó.
Nevertheless, though nature takes such precautions to guard these centres, she by no means intends that they shall always be kept rigidly closed. There is a proper way in which they may be opened. Perhaps it would be more correct to say that the intention is not that the doors should be opened any wider than their present position, but that the man should so develop himself as that he can bring a great deal more through the recognized channel.Tuy vậy, dù thiên nhiên đã có những đề phòng để bảo hộ các trung tâm này, ý định của thiên nhiên không phải là giữ chúng luôn đóng chặt. Có một cách đúng đắn để mở chúng. Có lẽ nói chính xác hơn là: ý định không phải mở các cánh cửa rộng hơn vị trí hiện tại, mà là để con người tự phát triển đến mức có thể đưa rất nhiều hơn nữa đi qua kênh đã được công nhận đó.
The consciousness of the ordinary man cannot yet use pure atomic matter either in the physical body or in the astral, and therefore there is normally no possibility for him of conscious communication at will between the two planes. The proper way to obtain that is to purify both the vehicles until the atomic matter in both is fully vivified, so that all communications between the two may be able to pass by that road. In that case the web retains to the fullest degree its position and activity, and yet is no longer a barrier to the perfect communication, while it still continues to fulfill its purpose of preventing the close contact between lower sub-planes which would permit all sorts of undesirable influences to pass through.Tâm thức của người bình thường hiện chưa thể sử dụng chất nguyên tử thuần khiết cả trong thể xác lẫn thể cảm dục, vì vậy thông thường y không có khả năng giao tiếp có ý thức theo ý muốn giữa hai cõi. Cách đúng đắn để đạt điều đó là thanh luyện cả hai hiện thể cho đến khi chất nguyên tử trong cả hai được sinh động trọn vẹn, để mọi liên lạc giữa hai cõi có thể đi qua con đường ấy. Trong trường hợp đó, tấm lưới tiếp tục giữ trọn vị trí và hoạt động của nó, nhưng không còn là chướng ngại đối với sự thông giao hoàn hảo, đồng thời vẫn tiếp tục hoàn thành mục đích ngăn cản tiếp xúc gần giữa các cõi phụ thấp, vốn sẽ cho phép đủ loại ảnh hưởng bất hảo đi qua.
That is why we are always adjured to wait for the unfolding of psychic powers until they come in the natural course of events as a consequence of the development of character, as we see from the study of these force-centres that they surely will. That is the natural evolution; that is the only really safe way, for by it the student obtains all the benefits and avoids all the dangers. That is the Path which our Masters have trodden in the past; that therefore is the Path for us to-day.Đó là lý do vì sao chúng ta luôn được khuyên răn hãy đợi cho đến khi các năng lực thông linh khai nở như hệ quả tự nhiên của sự phát triển lập hạnh, như chúng ta thấy từ việc nghiên cứu các trung tâm lực rằng chắc chắn sẽ như vậy. Đó là tiến hóa tự nhiên; đó là con đường thực sự an toàn duy nhất, vì theo đó đạo sinh nhận được mọi lợi ích và tránh được mọi hiểm nguy. Đó là Thánh Đạo mà các Chân sư đã từng đi trong quá khứ; do đó, ấy là Thánh Đạo cho chúng ta ngày nay.

OBSESSION AND INSANITY—ÁM NHẬP VÀ ĐIÊN LOẠN

>
We must distinguish carefully between obsession and insanity. The latter is a break in the connection between the ego and his vehicles, while the former is the ousting of the ego by some other entity. Only a weak ego would permit obsession—an ego, I mean, who had not much hold upon his vehicles. It is not as a rule true that children are more easily obsessed than adults, because though it is true that the hold of the ego upon its bodies is less strong in childhood, it is also true that the adult is far more likely to have in him qualities which attract undesirable entities and make obsession easy. In the case of a little child, any entity trying to obsess the body would have first to face the elemental who is in charge of the building of it, and he is not at all likely to succeed in ousting that. After the age of seven, when the elemental has been withdrawn, obsession might take place if the ego was very weak; but it is fortunately rare.Chúng ta phải phân biệt cẩn thận giữa ám nhập và điên loạn. Điên loạn là sự đứt gãy trong mối nối giữa chân ngã và các hiện thể của y, trong khi ám nhập là việc chân ngã bị một thực thể nào đó chiếm chỗ. Chỉ một chân ngã yếu mới cho phép ám nhập—ý tôi là một chân ngã không nắm vững các hiện thể của mình. Theo lệ thường, không đúng khi nói rằng trẻ em dễ bị ám nhập hơn người lớn, vì dù đúng là sự nắm giữ của chân ngã trên các thể của nó kém mạnh ở tuổi ấu thơ, cũng đúng là người lớn có xác suất cao hơn nhiều sở hữu các phẩm tính thu hút những thực thể bất hảo và khiến việc ám nhập trở nên dễ dàng. Trong trường hợp một trẻ nhỏ, bất kỳ thực thể nào muốn tìm cách ám nhập thân thể đều trước hết phải đối mặt với hành khí phụ trách việc kiến tạo nó, và y hầu như không thể thành công trong việc đẩy bật hành khí ấy. Sau bảy tuổi, khi hành khí được rút đi, ám nhập có thể xảy ra nếu chân ngã quá yếu; nhưng điều ấy may mắn là hiếm.
Obsession may be permanent or temporary, and it is undertaken for various reasons. Often some dead person is filled with burning anxiety to come again into touch with the physical plane, generally for the satisfaction of the lowest and grossest desires, and in his desperate yearning he seizes upon any vehicle which he can steal. Sometimes, on the other hand, obsession is a definite and calculated act of revenge—not always upon the person obsessed. I knew a case in which man who hated another deliberately went to work to obtain control of and obsess his enemy’s favorite daughter; I know also of another instance even worse than that. Sometimes the obsessing entity is not human at all, but only a nature-spirit who desires experience of human life. In any and all cases obsession should be determinedly resisted by the victim.Ám nhập có thể vĩnh viễn hoặc tạm thời, và nó được thực hiện vì nhiều lý do. Thường thì một người đã chết bị nung nấu bởi nỗi khao khát mãnh liệt muốn tiếp xúc lại cõi hồng trần, thường là để thỏa mãn những dục vọng thấp hèn và thô lậu nhất, và trong nỗi khát khao tuyệt vọng, y chộp lấy bất kỳ vận cụ nào y có thể đánh cắp. Đôi khi, mặt khác, ám nhập là hành vi trả thù có chủ tâm và tính toán—không phải luôn luôn nhắm vào người bị ám nhập. Tôi biết một trường hợp trong đó một người ghét một kẻ khác, đã cố ý ra tay để giành kiểm soát và ám nhập cô con gái cưng của kẻ thù; tôi cũng biết một ví dụ khác còn tệ hơn thế. Đôi khi thực thể ám nhập hoàn toàn không phải là con người, mà chỉ là một tinh linh thiên nhiên muốn trải nghiệm đời sống con người. Trong mọi trường hợp, nạn nhân nên kiên quyết chống lại sự ám nhập.
Insanity is an entirely different matter. Let us try to look at it from the occult point of view. Every cell in the physical brain and every particle of its matter has its corresponding and interpenetrating astral matter; and behind (or rather within) that, it has also the still finer mental matter. Of course the brain is a cubical mass, but for the purposes of our examination let us suppose that it could be spread out upon a surface so that it should be only one particle thick. Then further suppose that the astral and mental matter belonging to it could also be laid out in layers in a similar manner, the astral layer a little above the physical, and the mental a little above the astral.Điên loạn lại là một chuyện hoàn toàn khác. Chúng ta hãy thử nhìn nó từ quan điểm huyền bí. Mỗi tế bào trong bộ não hồng trần và mỗi hạt chất liệu của nó đều có chất liệu cảm dục tương ứng và xuyên thấu nó; và phía sau (hay đúng hơn là bên trong) chất liệu ấy, nó còn có cả chất liệu trí tuệ tinh tế hơn nữa. Dĩ nhiên bộ não là một khối lập phương, nhưng cho mục đích khảo sát, chúng ta giả định nó có thể được trải ra trên một mặt phẳng sao cho chỉ dày một hạt. Rồi giả định thêm rằng chất liệu cảm dục và trí tuệ thuộc về nó cũng có thể được dàn thành từng lớp theo cách tương tự, lớp cảm dục ở hơi phía trên lớp hồng trần, và lớp trí tuệ ở hơi phía trên lớp cảm dục.
Then we should have three layers of matter of different degrees of density, all corresponding one to the other. Now suppose that each physical particle is joined to the corresponding astral particle by a little tube, and each astral particle is joined to its corresponding mental particle in the same way, and even (higher up still) each mental particle to something which corresponds to it in the causal body. So long as these tubes were perfectly in alignment there would be clear communication between the ego and his brain; but if any one of the sets of tubes were bent, closed, or knocked partially aside, it is obvious that the communication might be wholly or partially interrupted.Như thế, chúng ta sẽ có ba lớp chất liệu với các mức độ đậm đặc khác nhau, tất cả tương ứng lớp này với lớp kia. Giờ giả định rằng mỗi hạt hồng trần được nối với hạt cảm dục tương ứng bằng một ống nhỏ, và mỗi hạt cảm dục lại được nối với hạt trí tuệ tương ứng theo cùng cách, và thậm chí (ở cao hơn nữa) mỗi hạt trí tuệ nối với một điều gì tương ứng với nó trong thể nguyên nhân. Chừng nào các ống này được chỉnh hợp hoàn hảo, sẽ có sự thông giao rõ ràng giữa chân ngã và bộ não của y; nhưng nếu bất kỳ một nhóm ống nào bị bẻ cong, bị đóng lại, hoặc bị hất lệch phần nào, rõ ràng là sự thông giao có thể bị gián đoạn hoàn toàn hay một phần.
From the occult standpoint, therefore, we divide the insane into four great classes, each of course having many sub-divisions.Do đó, từ quan điểm huyền bí, chúng ta chia người điên thành bốn loại lớn, mỗi loại dĩ nhiên có nhiều phân nhóm.
Those who are insane merely from a defect of the dense physical brain—from its insufficient size, perhaps, or from some accident like a heavy blow, or some growth which causes pressure upon it or from gradual softening of the tissue.Những người điên chỉ vì khuyết tật của bộ não hồng trần đậm đặc—chẳng hạn kích thước không đủ, hay do một tai nạn như một cú đánh nặng, hoặc một u bướu gây chèn ép lên nó, hay do sự mềm dần của mô.
Those whose defect is in the etheric part of the brain, so that its particles no longer correspond perfectly with the denser physical particles, and so cannot properly bring through the vibrations from the higher vehicles.Những người có khuyết tật nơi phần dĩ thái của bộ não, khiến các hạt của nó không còn tương ứng hoàn hảo với các hạt hồng trần đậm đặc hơn, và vì vậy không thể truyền đưa đúng đắn các rung động từ những hiện thể cao hơn.
Those in whom the astral body is defective instead of the etheric—in whom its tubes are bent, as it were, so that there is a want of accurate adjustment between its particles and those of the vehicles either above or below it.Những người có thể cảm dục bị khuyết tật thay vì phần dĩ thái—trong đó các “ống” bị bẻ cong, như thể có sự thiếu chỉnh hợp chính xác giữa các hạt của nó với các hạt của các hiện thể bên trên hay bên dưới nó.
Those in whom the mind-body itself is in some way out of order, and consequently is unable to bring through the instructions or wishes of the ego.Những người mà chính thể trí của họ bị trục trặc theo một cách nào đó, nên không thể truyền đưa các chỉ thị hay ý chí của chân ngã.
It makes a very great difference to which of these classes an insane person belongs. Those of the first and second types are quite sensible when out of the body during sleep, and of course also after death, so that the ego loses only the expression of himself during walking life. Those of the third type do not recover until they reach the heaven-world, and the fourth class not until they return into the causal body; so that for this last class the incarnation is a failure. But fortunately more than ninety per cent of the insane belong to the first and second classes.Việc một người điên thuộc loại nào trong các loại này tạo nên khác biệt rất lớn. Những người thuộc hạng thứ nhất và thứ hai hoàn toàn tỉnh táo khi xuất ra khỏi xác trong giấc ngủ, và dĩ nhiên cũng thế sau khi chết, cho nên chân ngã chỉ mất đi sự biểu hiện của chính mình trong đời sống thức. Những người thuộc hạng thứ ba không hồi phục cho đến khi họ đạt tới cõi thượng thiên, và hạng thứ tư thì không cho đến khi họ trở về thể nguyên nhân; vì vậy đối với hạng cuối cùng, lần lâm phàm coi như thất bại. Nhưng may mắn thay, hơn chín mươi phần trăm người điên thuộc hai hạng thứ nhất và thứ hai.
Three questions are asked upon the unsavory subject of obsession; I will proceed to answer them. The first is: “What is the best way to get rid of an excarnate human being who persists in occupying one’s body?”Ba câu hỏi thường được nêu ra về đề tài chẳng mấy dễ chịu là ám nhập; tôi sẽ lần lượt trả lời. Câu thứ nhất: “Cách tốt nhất để thoát khỏi một người đã bỏ xác cứ khăng khăng chiếm dụng thân thể của mình là gì?”
I should simply and absolutely decline to be so obsessed. The best and kindest plan would be to have an explanation with the dead person, to enquire what he wants and why he makes such persistent attempts. Quite probably, he may be some ignorant soul who does not at all comprehend his new surroundings, and is striving madly to get into touch again with the only kind of life that he understands. In that case if matters are explained to him, he may be brought to a happier frame of mind and induced to cease his ill-directed efforts. Or the poor creature may have something on his mind—some duty unfulfilled or some wrong unrighted; if this be so, and the matter can be arranged to his satisfaction, he may then be at peace.Tôi sẽ dứt khoát và tuyệt đối từ chối để bị ám nhập như thế. Kế sách tốt nhất và nhân từ nhất là cùng người đã chết ấy giải thích, hỏi xem y muốn gì và vì sao y lại kiên trì những toan tính như vậy. Nhiều khả năng y chỉ là một linh hồn u tối, hoàn toàn không hiểu hoàn cảnh mới của mình, và đang điên cuồng cố bám víu trở lại kiểu đời sống duy nhất mà y hiểu. Trong trường hợp đó, nếu mọi việc được giải thích cho y, y có thể được đưa vào một tâm trạng thư thái hơn và được thuyết phục chấm dứt những nỗ lực sai hướng. Hoặc sinh linh tội nghiệp ấy có điều gì đó canh cánh—một bổn phận chưa tròn hay một lỗi lầm chưa được sửa; nếu như vậy, và điều đó có thể được thu xếp làm y thỏa ý, y có thể sẽ an tâm.
If, however, he proves not to be amenable to reason, if in spite of all argument and explanation he refuses to abandon his reprehensible line of action, it will be necessary gently but firmly to resist him. Every man has an inalienable right to the use of his own vehicle, and encroachments of this nature should not be permitted. If the lawful possessor of the body will confidently assert himself and use his own will-power no obsession can take place.Tuy nhiên, nếu y tỏ ra không chịu nghe lẽ phải, nếu bất chấp mọi lý lẽ và giải thích y vẫn từ chối từ bỏ đường lối đáng quở trách của mình, thì cần nhẹ nhàng nhưng kiên quyết chống lại y. Mỗi người đều có quyền bất khả xâm phạm với việc sử dụng vận cụ của chính mình, và không nên cho phép những xâm phạm theo kiểu này. Nếu người chủ chính đáng của thân xác tự tin khẳng định mình và dùng quyền lực ý chí của chính mình, sẽ không thể xảy ra ám nhập.
When such things occur, it is almost always because the victim has in the first place yielded himself to the invading influence, and his first step therefore is to reverse that act of submission, to determine strongly to take matters into his own hands again and to resume control over his property. It is this reassertion of himself that is the fundamental requirement, and though much help may be given by wise friends, nothing which they can do will take the place of the development of will-power on the part of the victim, or obviate the necessity for it. The exact method of procedure will naturally vary according to the details of the case.Khi những việc như vậy diễn ra, gần như luôn là vì nạn nhân ban đầu đã tự phó mình cho ảnh hưởng xâm nhập, nên bước đầu tiên của y là đảo ngược hành động quy phục ấy, quyết tâm mạnh mẽ giành lại quyền kiểm soát và tái nắm quyền làm chủ tài sản của mình. Chính sự tái khẳng định bản thân này là điều kiện căn bản, và dù bạn bè khôn ngoan có thể trợ giúp nhiều, thì không điều gì họ làm có thể thay thế cho sự phát triển năng lực ý chí nơi chính nạn nhân, hay miễn trừ sự tất yếu của điều đó. Phương cách tiến hành cụ thể sẽ dĩ nhiên thay đổi tùy theo chi tiết của từng trường hợp.
The second question runs thus: “I have long been troubled by entities who constantly suggest evil ideas and make use of coarse and violent language. They are always urging me to take strong drink, and goading me on to the consumption of large quantities of meat. I have prayed earnestly, but with little avail, and am driven to my wits’ end. What can I do?”Câu hỏi thứ hai như sau: “Lâu nay tôi bị quấy rầy bởi những thực thể luôn gợi ý các ý tưởng xấu xa và dùng lời lẽ thô tục, hung bạo. Họ luôn xúi giục tôi uống rượu mạnh và thúc giục tôi ăn nhiều thịt. Tôi đã cầu nguyện khẩn thiết, nhưng chẳng được bao nhiêu, đến nỗi cùng đường bế tắc. Tôi có thể làm gì?”
You have indeed suffered greatly; but now you must make up your mind to suffer no more. You must take courage and make a firm stand. The power of these dead people over you is only in your fear of them. Your own will is stronger than all theirs combined if you will only know that it is; if you turn upon them with vigor and determination they must yield before you. You have an inalienable right to the undisturbed use of your own vehicles, and you should insist on being left in peace. You would not tolerate an intrusion of filthy and disgusting beings into your house on the physical plane; why should you submit to it because the entities happen to be astral? If an indolent tramp forces himself into a man’s house, the owner does not kneel down and pray—he kicks the tramp out; and that is precisely what you must do with these astral tramps.Quả thực bạn đã chịu khổ nhiều; nhưng bây giờ bạn phải quyết tâm không khổ nữa. Bạn phải can đảm và đứng vững. Quyền lực của những người đã chết này trên bạn chỉ nằm ở nỗi sợ của bạn đối với họ. Ý chí của chính bạn mạnh hơn tất cả bọn họ cộng lại nếu bạn chịu biết như thế; nếu bạn quay lại đối diện họ bằng nghị lực và quyết đoán, họ ắt phải chịu thua bạn. Bạn có quyền bất khả xâm phạm đối với việc sử dụng yên bình các hiện thể của bạn, và bạn nên kiên quyết đòi được để yên. Bạn sẽ không chấp nhận sự xâm nhập của những sinh thể thô bẩn, ghê tởm vào nhà mình trên cõi hồng trần; vậy vì sao bạn lại chịu khuất phục chỉ vì các thực thể đó tình cờ là cảm dục? Nếu một kẻ lang thang biếng nhác xông vào nhà một người, chủ nhà không quỳ xuống cầu nguyện—ông ta đá tên lang thang ra ngoài; và đó chính xác là điều bạn phải làm với những kẻ lang thang nơi cõi cảm dục này.
You will no doubt say to yourself that when I give you this advice I do not know the terrible power of the particular demons who are afflicting you. That is exactly what they would like you to believe—what they will try to make you believe; but do not be so foolish as to listen to them. I know the type perfectly, and mean, despicable, bullying villains they are; they will torment a weak woman for months together, but will fly in cowardly terror the moment you turn upon them in righteous anger! I should just laugh at them, but I would drive them out, and hold not a moment’s parley with them. Of course they will bluster and show fight, because you have let them have their own way for so long that they will not tamely submit to expulsion; but face them with iron determination, set your will against them like an immovable rock, and down they will go. Say to them: “I am a spark of the divine fire, and by the power of the God within me I order you to depart!” Never let yourself think for an instant of the possibility of failure or of yielding; God is within you and God cannot fail.Hẳn bạn sẽ tự nhủ rằng khi tôi đưa ra lời khuyên này là vì tôi không biết quyền lực khủng khiếp của các “ác quỷ” cụ thể đang hành hạ bạn. Đó chính xác là điều họ muốn bạn tin—điều họ sẽ cố khiến bạn tin; nhưng đừng dại dột mà nghe họ. Tôi biết rõ kiểu này, thứ ác nhân hèn mọn, đê tiện, ức hiếp; chúng sẽ hành hạ một người phụ nữ yếu đuối suốt nhiều tháng trời, nhưng sẽ bay trốn trong nỗi khiếp đảm hèn hạ ngay khoảnh khắc bạn quay lại đối đầu chúng bằng cơn phẫn nộ chính nghĩa! Tôi sẽ chỉ cười vào mặt chúng, nhưng tôi sẽ xua đuổi chúng ra ngoài, và không đàm phán với chúng lấy một giây. Dĩ nhiên chúng sẽ hò hét và hung hăng, bởi vì bạn đã để chúng muốn làm gì thì làm quá lâu đến nỗi chúng sẽ không ngoan ngoãn chịu bị trục xuất; nhưng hãy đối diện chúng bằng ý chí sắt đá, đặt ý chí của bạn chống lại chúng như một tảng đá bất lay chuyển, và chúng sẽ sụp đổ. Hãy nói với chúng: “Ta là một tia lửa của ngọn lửa thiêng, và nhờ quyền năng của Thượng đế trong ta, ta truyền lệnh cho các ngươi phải rời đi!” Đừng để mình nghĩ dù chỉ trong thoáng chốc về khả năng thất bại hay quy phục; Thượng đế ở trong bạn và Thượng đế không thể thất bại.
The fact of their demanding meat shows what low and coarse entities they are; you should avoid all flesh food and alcohol, because these things minister to such evil beings and make it more difficult for you to resist them.Việc chúng đòi thịt cho thấy chúng là những thực thể thấp hèn và thô lậu; bạn nên tránh mọi đồ ăn xác chết và rượu, vì những thứ này nuôi dưỡng các sinh thể xấu xa như thế và khiến bạn khó chống lại chúng hơn.
The third question is: “If it is possible for a man to become obsessed while he has temporarily lost control of his body during a fit of anger, is it not also possible for obsession to take place when one is out of the body during sleep?”Câu hỏi thứ ba: “Nếu một người có thể bị ám nhập trong khi tạm thời mất kiểm soát thân thể mình trong một cơn giận dữ, vậy chẳng phải cũng có thể xảy ra ám nhập khi người ta xuất khỏi thân trong giấc ngủ sao?”
I would submit that the circumstances are entirely different. Sleep is a natural condition, and though the ego leaves the body, he always maintains a close connection with it, so that under ordinary circumstances he would quickly be recalled to it by any attempt that might be made upon it. There are individual cases in which the ego is not so easily recalled, and a sort of temporary obsession is possible which may cause somnambulism, but these cases are abnormal and comparatively rare. A fit of anger on the other hand is unnatural—an infraction of the natural laws under which we live. In this case it is the astral which has escaped from control; the desire-elemental has rebelled against his master and has broken away from the hold of the ego exercised through the mental body, which alone keeps him safe as part of an astral mechanism. The rightful owner being dispossessed, the astral body is in the condition of a vessel whose helm has been abandoned; anyone who happens to be at hand can seize the wheel, and it may be a difficult matter to recover it.Tôi xin thưa rằng hoàn cảnh hoàn toàn khác nhau. Giấc ngủ là một trạng thái tự nhiên, và dù chân ngã rời thân, y vẫn luôn duy trì mối nối chặt chẽ với nó, nên trong hoàn cảnh bình thường y sẽ nhanh chóng được gọi về thân xác bởi bất kỳ nỗ lực nào có thể xảy ra nhằm chiếm đoạt nó. Có những trường hợp cá biệt trong đó chân ngã không dễ được gọi về, và một dạng ám nhập tạm thời có thể xảy ra gây ra mộng du, nhưng những trường hợp này là bất thường và tương đối hiếm. Mặt khác, một cơn giận dữ là không tự nhiên—là sự vi phạm các định luật tự nhiên mà chúng ta sống theo. Trong trường hợp này, cái thoát khỏi kiểm soát là thể cảm dục; dục-ngã đã nổi loạn chống lại chủ của nó và đã thoát khỏi sự kềm giữ của chân ngã vốn được thực thi qua thể trí, điều duy nhất giữ cho nó an toàn như một phần của cơ cấu cảm dục. Khi người chủ chính đáng bị truất quyền, thể cảm dục ở trong tình trạng của một con tàu mà tay lái đã bị bỏ mặc; bất kỳ ai tình cờ ở gần đều có thể nắm tay lái, và có thể rất khó để giành lại.

SLEEP—GIẤC NGỦ

>
I am asked what is the real cause of sleep.Người ta hỏi tôi nguyên nhân thật sự của giấc ngủ là gì.
I have not the detailed physiological knowledge which is needed to answer this question fully. But I have always understood that the necessity of sleep is due to the fact that the bodies grow tired of one another. The astral vehicle, which so far as we know is practically incapable of fatigue upon its own plane, since it can work incessantly for twenty years without showing signs of it, very soon becomes tired of the heavy labour of moving the particles of the physical brain, and needs a considerable period of separation from it to enable it to gather strength to resume the irksome task.Tôi không có tri thức sinh lý chi tiết để trả lời trọn vẹn câu hỏi này. Nhưng tôi vẫn hiểu rằng nhu cầu ngủ là do các thể mệt mỏi vì nhau. Thể cảm dục—vốn, theo như chúng ta biết, gần như không thể mệt mỏi trên cõi của chính nó, vì nó có thể làm việc liên tục hai mươi năm mà không biểu lộ dấu hiệu mệt mỏi—lại chóng chày chán nản trước lao tác nặng nề là chuyển động các hạt của bộ não hồng trần, và cần một khoảng phân ly đáng kể với nó để gom sức mà tiếp tục gánh việc khó nhọc ấy.
The physical body, on its side, also becomes worn out, because while it is in a waking condition it is always spending force a little faster than it can draw it in. With every thought or feeling, and with every muscular exertion, certain slight chemical changes appear to take place. The ordinary machinery of a healthy body is all the while working to counteract this change and to restore the condition previously existing, but in this it never quite succeeds. So that with every thought or action there is a slight, almost imperceptible loss, and the cumulative effect eventually leaves the physical body too exhausted to be capable of further thought or work. In some cases even a few moments of sleep will give the recuperative powers an opportunity to reassert themselves and regain the ground that they have lost, thus restoring the balance sufficiently to enable the machine to go on working.Về phần mình, thân thể hồng trần cũng bị hao mòn, vì trong trạng thái thức, nó luôn tiêu hao mãnh lực nhanh hơn một chút so với tốc độ thu nhận. Với mỗi ý nghĩ hay cảm xúc, và với mọi nỗ lực cơ bắp, dường như có những biến đổi hóa học nhẹ xảy ra. Bộ máy thông thường của một thân thể khỏe mạnh vẫn luôn làm việc để phản công biến đổi này và khôi phục trạng thái trước đó, nhưng nó không bao giờ hoàn toàn thành công. Bởi vậy, với mỗi ý nghĩ hay hành động đều có một hao hụt nhẹ gần như không thể nhận thấy, và hiệu ứng tích lũy cuối cùng khiến thân thể hồng trần kiệt quệ đến mức không còn có khả năng tư duy hay làm việc thêm nữa. Trong một số trường hợp, chỉ vài khoảnh khắc ngủ cũng đủ tạo cơ hội cho năng lực hồi phục tự khẳng định lại và giành lại phần đã mất, qua đó khôi phục thăng bằng đủ để cỗ máy tiếp tục hoạt động.
Students often ask what is the best time for sleep. Unquestionably the rule of nature is that the day is for work and the night is for rest, and no infringement of nature’s laws can ever be a good thing. One of the serious evils of our modern unnatural life is that noon is no longer, as it should be, the centre of the day. If a man lived by himself and could regulate his own affairs he could, no doubt, return at once to that obviously natural condition; but, surrounded as we are by a mighty so-called civilization which is in many ways distorted and unnatural, we are unable to follow our individual predilections in this matter, and must to some extent adapt ourselves to the general custom, evil though it be.Đạo sinh thường hỏi thời điểm nào là tốt nhất cho giấc ngủ. Không nghi ngờ gì, định luật của thiên nhiên là ban ngày để làm việc và ban đêm để nghỉ ngơi, và không sự vi phạm nào các định luật của thiên nhiên lại có thể là điều tốt. Một trong những điều ác nghiêm trọng của lối sống hiện đại phản tự nhiên của chúng ta là buổi trưa không còn, như lẽ ra phải thế, là trung tâm của một ngày. Nếu một người sống một mình và có thể điều tiết công việc riêng của mình, y hẳn có thể trở lại tình trạng hiển nhiên là tự nhiên đó; nhưng vì bị vây quanh bởi một nền “văn minh” hùng hậu, được gọi là văn minh, vốn theo nhiều cách méo mó và phản tự nhiên, chúng ta không thể theo các thiên hướng riêng trong vấn đề này, và buộc phải phần nào thích nghi với tập quán chung, dẫu nó có xấu xa đi nữa.
It is impossible to lay down rules as to the amount of sleep which is necessary for man, because there is so much difference in constitutions; but when it is possible that sleep should be taken between 8 P. M. and 5 A. M. Some men need the whole of that time, while others may find themselves perfectly healthy on a smaller allowance. Such details of life each man must decide for himself according to his circumstances.Không thể đặt ra quy tắc về lượng giấc ngủ cần thiết cho con người, vì cơ địa khác nhau quá nhiều; nhưng khi có thể, giấc ngủ nên diễn ra trong khoảng 8 giờ tối đến 5 giờ sáng. Có người cần trọn khoảng thời gian ấy, trong khi người khác có thể vẫn hoàn toàn khỏe mạnh với phần ít hơn. Những chi tiết như vậy, mỗi người phải tự quyết theo hoàn cảnh riêng.
People often ask whether there is any way in which they can control their dreams. The dreamer cannot usually change the course of his dream while it is going on; but the dream-life can indirectly be controlled to a very considerable extent. If a man’s thought be pure and high while waking, his dreams will be pure and good also, and a specially important point is that his last thought as he sinks to sleep should be a noble and elevating one, since that strikes the keynote which largely determines the nature of the dreams which follow. An evil or impure thought draws round the thinker evil and impure influences, attracts to him all the gross and loathsome creatures who come near him. These will, in turn, react upon his mind and his astral body, and disturb his rest by awakening all kinds of low and earthly desires. If, on the other hand, a man enters the portals of sleep with his mind fixed upon high and holy things, he thereby draws round him the elementals created by like efforts in others; his rest is peaceful, his mind open to impressions from above and closed to those from below, for he has set it working in the right direction.Người ta thường hỏi có cách nào để kiểm soát giấc mơ của họ không. Người đang mơ thường không thể thay đổi diễn tiến của giấc mơ trong khi nó diễn ra; nhưng đời sống mộng mơ có thể gián tiếp được kiểm soát ở mức độ rất đáng kể. Nếu tư tưởng của một người trong lúc thức trong sạch và cao thượng, thì giấc mơ của y cũng sẽ trong sạch và tốt đẹp; và điểm đặc biệt quan trọng là ý nghĩ cuối cùng khi chìm vào giấc ngủ nên là một ý tưởng cao quý và nâng tâm, vì nó gõ nên chủ âm phần lớn quyết định bản chất các giấc mơ theo sau. Một ý nghĩ tà ác hoặc ô uế sẽ kéo về quanh người tư duy những ảnh hưởng tà ác và ô uế, lôi kéo đến với y tất cả những sinh vật thô kệch và gớm ghiếc đến gần. Những thứ đó sẽ, đến lượt mình, tác động ngược lên tâm trí và thể cảm dục của y, và quấy rối giấc nghỉ của y bằng cách đánh thức đủ loại dục vọng thấp hèn, trần tục. Mặt khác, nếu một người bước qua cánh cổng của giấc ngủ với tâm trí đặt vào những điều cao cả và thiêng liêng, y bởi vậy sẽ kéo đến quanh mình các hành khí được tạo bởi những nỗ lực tương tự nơi những người khác; giấc nghỉ của y sẽ yên bình, tâm trí mở ra với ấn tượng từ trên cao và khép lại với những gì từ dưới thấp, vì y đã đặt nó vận hành theo đúng hướng.
The dreaming of ordinary events does not interfere with astral work, because that dreaming is all taking place in the physical brain, while the real man is away attending to other business. Of course if the man, when out in his astral body, devotes himself to thinking over the events of his physical life, he will be unable during the time of such thought to do any other work, but that is a totally different thing from a mere ordinary dream of the physical brain, though when the man wakes in the morning it is frequently difficult for him to distinguish between the two sets of recollections. It really does not matter what the physical brain does so long as it keeps itself free from impure thoughts, but it is undesirable that the man himself should waste his time in introspection when he might be working on the astral plane.Việc mơ về những sự kiện thông thường không cản trở công việc trên cõi cảm dục, vì việc mơ ấy hoàn toàn diễn ra trong bộ não hồng trần, trong khi con người thật đang rời khỏi đó để lo những công việc khác. Dĩ nhiên, nếu con người, khi ở trong thể cảm dục, dành tâm trí để nghĩ ngợi về những sự kiện đời sống hồng trần của mình, y sẽ không thể làm bất cứ công việc nào khác trong khoảng thời gian ấy; nhưng đó là một chuyện hoàn toàn khác với giấc mơ bình thường của bộ não hồng trần, tuy rằng khi thức dậy buổi sáng, người ta thường khó phân biệt giữa hai loại ký ức. Thực sự thì bộ não hồng trần làm gì cũng không quan trọng miễn là nó giữ mình khỏi những ý nghĩ ô uế; nhưng không mong muốn là chính con người lại lãng phí thời gian vào việc nội quan khi y có thể làm việc trên cõi cảm dục.

SOMNAMBULISM—MỘNG DU

>
You ask what is the cause of sleep-walking. I have never had the opportunity of observing a case of somnambulism, so I am unable to speak from direct knowledge; but from reading accounts of such cases I should imagine that the phenomena may be produced by several widely different causes. There are instances in which it appears that the ego is able to act more directly upon his physical body during the absence of the intermediate mental and astral vehicles—instances in which a man during his sleep is able to write poetry or to paint pictures which would be far beyond his powers when awake.Bạn hỏi nguyên nhân của chứng đi trong lúc ngủ là gì. Tôi chưa từng có cơ hội quan sát trực tiếp một trường hợp mộng du, nên không thể nói từ tri thức trực tiếp; nhưng từ việc đọc các tường thuật về những trường hợp như vậy, tôi cho rằng các hiện tượng ấy có thể được tạo ra bởi vài nguyên nhân rất khác nhau. Có những trường hợp dường như chân ngã có thể tác động trực tiếp hơn trên thể xác của mình trong lúc vắng mặt của các hiện thể trung gian là thể trí và thể cảm dục—những trường hợp trong đó một người khi ngủ có thể viết thơ hay vẽ tranh vượt xa khả năng của y khi thức.
There are other cases in which it is obvious that the dim consciousness inherent in the physical body is working uncontrolled by the man himself, so that it performs quite meaningless acts, or carries out to some extent the idea which was dominant in the mind before falling asleep. To this class belong the stories of servants who have risen in the middle of the night to light the fire, of ostlers who have harnessed horses in their sleep, and so on.Có những trường hợp khác trong đó hiển nhiên là cái tâm thức mờ nhạt cố hữu trong thân thể hồng trần hoạt động mà không bị con người thật kiểm soát, đến nỗi nó thực hiện những hành vi hoàn toàn vô nghĩa, hoặc phần nào thực thi ý nghĩ đã chiếm ưu thế trong tâm trí trước khi ngủ. Nhóm này bao gồm những câu chuyện về người hầu dậy giữa đêm để nhóm lửa, về người đóng cương ngựa trong giấc ngủ, v.v.
Again, there are cases in which some outside intelligence, whether incarnate or discarnate, has seized upon the body of a sleeping man and used it for his own ends. This would be most likely to happen with a person who is what is called mediumistic—that is to say, whose principles are more loosely joined together than usual, and therefore more readily separable; but oddly enough there seems to be a type of somnambulism which is due to a directly opposite condition, when the principles fit more tightly than usual, so that when the man would naturally visit some neighboring spot in his astral body, he takes the physical body along with him as well, because he is not wholly dissociated from it. Somnambulism is probably also connected with the whole complex problem of the various layers of consciousness in man, which under perfectly normal circumstances are unable to manifest themselves.Lại nữa, có những trường hợp một trí tuệ bên ngoài nào đó, dù đang lâm phàm hay đã bỏ xác, đã chiếm lấy thân thể của một người đang ngủ và dùng nó cho mục đích riêng. Điều này có nhiều khả năng xảy ra với một người có cơ tánh đồng tử—nghĩa là các nguyên khí của y được nối với nhau lỏng lẻo hơn thường lệ, do đó dễ tách rời hơn; nhưng lạ lùng thay, dường như có một kiểu mộng du do một tình trạng đối nghịch trực tiếp, khi các nguyên khí khớp với nhau chặt hơn thường lệ, đến mức khi người ấy theo lẽ tự nhiên sẽ viếng thăm một nơi lân cận bằng thể cảm dục, y lại mang cả thân thể hồng trần theo cùng, vì y không hoàn toàn li tách khỏi nó. Mộng du có lẽ cũng liên hệ với toàn bộ vấn đề phức tạp về các tầng tâm thức khác nhau trong con người, những tầng vốn, trong hoàn cảnh hoàn toàn bình thường, không thể tự biểu lộ.

THE PHYSICAL BODY—THỂ XÁC

>
Physical immortality is not a possibility, for that which has a beginning must also have an end, and birth, growth, decay and death are the rules of the physical universe. No reasonable being could desire to retain the same body continuously; it is precisely as though a small child should wish to wear the same suit of clothes during the whole of his life. As man evolves, his successive vehicles will become purer and nobler, and better fitted to meet the needs of his increasing capacity, so that even if a man could keep the same body he would check his growth by doing so, just as the child’s growth would be checked by always wearing something of iron rigidity which was much too tight for him.Bất tử thể xác không phải là một khả thể, vì cái gì có khởi đầu thì cũng phải có kết thúc, và sinh, trưởng, lão, tử là quy luật của vũ trụ hồng trần. Không một hữu thể có lý trí nào lại muốn giữ mãi cùng một thân thể; điều ấy chẳng khác nào một đứa trẻ nhỏ muốn mặc cùng một bộ quần áo suốt đời. Khi con người tiến hóa, các vận cụ kế tiếp của y sẽ trở nên tinh khiết và cao đẹp hơn, thích hợp hơn để đáp ứng nhu cầu năng lực đang gia tăng của y, đến nỗi ngay cả nếu một người có thể giữ cùng một thân thể, y sẽ kìm hãm sự tăng trưởng của mình bằng cách làm như vậy, giống như sự tăng trưởng của đứa trẻ sẽ bị kìm hãm bởi việc luôn mặc một thứ cứng như sắt, chật bó quá mức.
At the same time it is our duty to take the best possible care of our bodies and to improve them as much as we can. Never ill-treat the physical body. Take care of it as you would of a valuable horse, giving it enough rest and food, and keeping it scrupulously clean. It can do only a certain amount of work; for example, a very strong body might walk a hundred miles without resting but it could not walk a thousand. In meditation put it into a comfortable position and then forget about it. You cannot forget it if it is uncomfortable, as it would constantly call you back.Đồng thời, bổn phận của chúng ta là chăm sóc thân thể của mình tốt nhất có thể và cải thiện nó hết mức có thể. Đừng bao giờ ngược đãi thể xác. Hãy chăm sóc nó như bạn chăm một con ngựa quý, cho nó đủ nghỉ ngơi và thức ăn, và giữ gìn nó tuyệt đối sạch sẽ. Nó chỉ có thể làm một lượng công việc nhất định; ví dụ, một thân thể rất khỏe có thể đi bộ một trăm dặm không nghỉ nhưng không thể đi một nghìn dặm. Khi tham thiền, hãy đặt nó vào tư thế thoải mái rồi quên nó đi. Bạn không thể quên nó nếu nó không thoải mái, vì nó sẽ liên tục kéo bạn trở lại.
What should you eat? Well, so long as you avoid alcohol and corpse-eating it probably does not matter very much. Certain vegetables are coarser than others, and therefore when there is a choice it is as well to abstain from them. Among those I should class onions, mushrooms and cabbages. Rice is very pure food, but wheat, barley and oats give more nutriment in the same amount. I consider eggs undesirable, though I should unhesitatingly take them if no other food was to be had.Bạn nên ăn gì? Vâng, miễn là bạn tránh rượu và ăn xác chết thì có lẽ cũng không quá quan trọng. Một số rau củ thô trược hơn những thứ khác, vì vậy khi có lựa chọn, tốt hơn là nên kiêng chúng. Trong số đó tôi xếp hành, nấm và bắp cải. Gạo là thực phẩm rất tinh khiết, nhưng lúa mì, lúa mạch và yến mạch cung cấp nhiều dưỡng chất hơn trong cùng một lượng. Tôi cho rằng trứng là không nên, dù nếu không còn thực phẩm nào khác, tôi sẽ không do dự mà dùng.
There is no sort of question that vegetarianism is better in every way than the devouring of flesh. It furnishes more real nutriment, diminishes the liability to disease, gives greater strength, and does not stimulate the lower nature. The vegetarian diet makes it far easier for a man to develop his higher qualities. It is known that our Masters make a single physical body last much longer than an ordinary man can do, by living always in accordance with hygienic laws and absolute freedom from worry. In that respect we should all try to copy them as nearly as we can, but to endeavour to retain the same body indefinitely has always been a mark of those who follow the selfish path.Không có gì phải nghi ngờ rằng ăn chay tốt hơn mọi bề so với nuốt xác thịt. Nó cung cấp dưỡng chất thực nhiều hơn, giảm nguy cơ bệnh tật, cho sức mạnh lớn hơn, và không kích thích bản chất thấp. Chế độ ăn chay giúp con người dễ phát triển các phẩm tính cao hơn nhiều. Người ta biết rằng các Chân sư giữ một thân thể hồng trần dài lâu hơn nhiều so với người thường, nhờ luôn sống thuận theo các định luật vệ sinh và tuyệt đối không lo lắng. Ở điểm đó, tất cả chúng ta nên cố gắng noi theo Các Ngài gần nhất có thể, nhưng nỗ lực giữ mãi cùng một thân thể vô hạn định thì xưa nay luôn là dấu hiệu của những kẻ đi theo con đường ích kỷ.
There are various undesirable means by which such men have prolonged physical life—sometimes by vampirism, merely depleting the vitality of others, and sometimes by the complete transference to themselves of a succession of other human lives. But it is hardly necessary to warn Theosophists against proceedings of this nature. It is obvious that a person adopting such a plan would be one who is not evolving; and even if he succeeded he would only be as it were patching and enlarging an old coat, but with all his efforts it would remain an old coat still.Có nhiều phương tiện bất hảo để những kẻ ấy kéo dài đời sống hồng trần—đôi khi bằng tà thuật hút sinh lực, chỉ đơn giản là làm cạn sinh khí của kẻ khác, đôi khi bằng việc chuyển giao hoàn toàn cho mình một chuỗi đời người khác. Nhưng hầu như không cần phải cảnh báo các hội viên Thông Thiên Học về những cách thức như vậy. Rõ ràng người chọn kế sách như thế là kẻ không  tiến hóa; và dẫu có thành công, y cũng chỉ như đang chắp vá và nới rộng một chiếc áo cũ, nhưng với mọi nỗ lực, nó vẫn cứ là áo cũ mà thôi.

TOBACCO AND ALCOHOL—THUỐC LÁ VÀ RƯỢU

>
The evil effect of the tobacco habit is obvious in the physical, the astral and the mental bodies. It permeates the man physically with exceedingly impure particles, causing emanations so material that they are frequently perceptible to the sense of smell. Astrally, it not only introduces impurity, but it also tends to deaden many of the vibrations, and it is for this reason that it is frequently found to “soothe the nerves,” as it is called. But, of course, for occult progress we do not want the vibrations deadened nor the astral body weighed down with foul and poisonous particles. We need the capacity of answering instantly to all possible vibrations, and yet at the same time we must have perfect control, so that these desires shall be as horses guided by the intelligent mind to draw us where we will, not to run away with us wildly, and carry us into situations where our higher nature knows that it ought never to be found. Therefore, for any person who is really anxious to develop his vehicles, tobacco is undoubtedly a bad thing.Tác hại của thói quen dùng thuốc lá là hiển nhiên đối với thể hồng trần, thể cảm dục và thể trí. Nó thấm nhuần con người bằng những hạt cực kỳ ô uế về mặt hồng trần, gây ra những phát xạ vật chất đến mức thường nhận ra được bằng khứu giác. Trên cõi cảm dục, nó không chỉ đưa vào sự ô uế, mà còn có xu hướng làm tê nhiều rung động, và vì lý do đó mà người ta thường thấy nó “làm dịu thần kinh”, như người ta gọi. Nhưng dĩ nhiên, để tiến bộ huyền bí, chúng ta không muốn các rung động bị làm tê, cũng không muốn thể cảm dục bị đè nặng bởi những hạt bẩn thỉu và độc hại. Chúng ta cần năng lực đáp ứng tức thời với mọi rung động khả hữu, và đồng thời phải có sự kiểm soát hoàn hảo, để các dục vọng như những con ngựa được trí tuệ điều khiển kéo chúng ta đi nơi ta muốn, chứ không chạy loạn, lôi ta vào những hoàn cảnh mà bản tính cao hơn biết rằng không bao giờ nên có mặt. Do đó, đối với bất cứ ai thực sự khát khao phát triển các hiện thể của mình, thuốc lá chắc chắn là điều bất lợi.
Also it has a singularly deteriorating influence upon the man on the physical plane. It is absolutely the only thing, so far as I know, that a gentleman will deliberately do when he knows it to be offensive to others. But the hold which this noxious habit gains upon its slaves appears to be so great that they are utterly incapable of resisting it, and all their gentlemanly instincts are forgotten in this mad and horrible selfishness. The effect on the astral body after death is also very bad; the man is shut up for a long time as though in prison, and higher vibrations cannot reach him.Nó cũng có một ảnh hưởng suy đồi đặc biệt lên con người nơi cõi hồng trần. Theo như tôi biết, đó là điều duy nhất mà một người lịch sự vẫn cố tình làm dù biết chắc nó xúc phạm người khác. Nhưng sự kìm kẹp mà thói quen độc hại này siết lên các nô lệ của nó dường như lớn đến nỗi họ hoàn toàn bất lực chống lại nó, và mọi bản năng lịch thiệp đều bị lãng quên trong cơn ích kỷ điên rồ, khủng khiếp này. Ảnh hưởng lên thể cảm dục sau khi chết cũng rất xấu; người ta như bị giam hãm lâu dài trong tù ngục, và các rung động cao hơn không thể chạm đến họ.
The chief objection which is always brought by the more self-indulgent Theosophist against remarks such as these is that our great founder Madame Blavatsky herself smoked. I know this to be true, but it does not in the least alter the facts which I have stated above, which I know just as surely from long-continued personal observation. Madame Blavatsky was in every way so entirely sui generis, so emphatically a case apart, that I do not think it reasonable for us to presume that we can safely do what she did. I have often heard her say: “No one but my Master understands my case; do what I tell you, not what I do.” Also she once told me that she smoked incessantly “to quiet the vibrations of this old body, and prevent it from shaking itself to pieces.” The effects on the physical plane during life and on the astral after death are precisely as I have described them, and it does not seem worthwhile incurring them for the sake of a petty indulgence.Sự phản đối chủ yếu mà những hội viên Thông Thiên Học hay nuông chiều bản thân thường đưa ra trước những lời như thế này là: bậc sáng lập vĩ đại của chúng ta, Bà Blavatsky, chính Bà cũng hút thuốc. Tôi biết điều đó là đúng, nhưng nó chẳng làm thay đổi chút nào các sự thật mà tôi đã nêu, những điều tôi biết chắc qua quan sát cá nhân lâu dài. Bà Blavatsky hoàn toàn độc nhất vô nhị,  rõ ràng là một trường hợp riêng biệt, đến nỗi tôi không nghĩ là hợp lý khi chúng ta tự cho rằng mình an toàn nếu làm theo những gì Bà làm. Tôi đã nhiều lần nghe Bà nói: “Chẳng ai ngoài Chân sư của Ta hiểu trường hợp của Ta; hãy làm điều Ta bảo, đừng làm điều Ta làm.” Bà cũng từng nói với tôi rằng Bà hút liên miên “để làm dịu các rung động của cái thân xác già nua này, ngăn nó khỏi tự rung mà tan tành.” Các hiệu ứng trên cõi hồng trần trong đời sống và trên cõi cảm dục sau khi chết đúng y như tôi đã mô tả, và không đáng gì để gánh lấy chúng chỉ vì một thú vui nhỏ nhen.
I think that Mrs. Besant’s remarks about alcohol in Man and His Bodies are fully justified. There is no doubt whatever that from the point of view of the astral and mental bodies its use is always an evil; and there is also no doubt at all that very undesirable entities are attracted by it. Of course many people who are estimable in other respects have certain most unpleasant habits, such as the drinking of alcohol, the eating of meat or the smoking of tobacco; but the fact that they are otherwise good people does not make these things good and sensible. It is, of course, untrue that any of these things are physical necessities, but a man may accustom his system to the use of almost any kind of drug, until that system, being habituated to it, expects it and misses it if it does not get it. We know that exactly the same habit may be set up with opium and arsenic, but that does not make opium and arsenic good things to take. It is, however, generally quite useless to attempt to argue with any man as to his personal habits; he is usually determined to cling to such habits because he likes them, and he cares very little whether they are good in themselves, or even good for him.Tôi cho rằng những nhận xét của Bà Besant về rượu trong Con Người và Các Thể của y  hoàn toàn có cơ sở. Không còn nghi ngờ gì nữa, xét từ quan điểm của thể cảm dục và thể trí, việc dùng rượu luôn là một điều ác; và cũng không còn nghi ngờ gì nữa là những thực thể hết sức bất hảo bị nó lôi kéo đến. Dĩ nhiên nhiều người vốn đáng quý ở những phương diện khác lại có vài thói quen rất khó chịu, như uống rượu, ăn thịt hay hút thuốc; nhưng việc họ là những người tốt ở các phương diện khác không làm cho những điều này trở thành tốt và hợp lý. Dĩ nhiên, không đúng sự thật khi nói rằng bất cứ điều nào trong số ấy là nhu cầu thể xác, nhưng con người có thể làm cho hệ thống của mình quen với việc dùng gần như bất kỳ loại thuốc nào, đến mức hệ thống ấy, đã quen lệ, đòi hỏi và thấy thiếu vắng khi không có. Chúng ta biết rằng chính xác thói quen tương tự có thể thiết lập với thuốc phiện và thạch tín, nhưng điều đó không làm cho thuốc phiện và thạch tín trở thành thứ tốt để dùng. Tuy nhiên, thường hoàn toàn vô ích khi cố tranh luận với một người về các thói quen cá nhân của y; y thường quyết bám chặt vào những thói quen ấy vì y thích chúng, và y rất ít bận tâm liệu chúng có tốt tự thân hay thậm chí có tốt cho y hay không.
You ask my opinion about the regulation of the sale of liquor. In all civilized countries some control is exercised over the sale of poisons, and they are allowed to be supplied only upon a doctor’s certificate. The poison of alcohol does many thousands of times more harm than all other poisons put together, so surely the regulations governing its sale ought to be no less strict.Bạn hỏi ý kiến của tôi về việc quản lý việc bán rượu. Ở tất cả các quốc gia văn minh, người ta có áp dụng kiểm soát nào đó đối với việc bán chất độc, và chỉ cho phép cung ứng khi có giấy chứng nhận của bác sĩ. Chất độc là rượu gây hại nhiều gấp hàng vạn lần mọi chất độc khác cộng lại, vậy hẳn là các quy định điều chỉnh việc bán nó không nên kém nghiêm ngặt hơn.
It is perfectly true that every man will have to develop self-control for himself, but I really do not see how that affects our attitude with regard to the making of laws. You surely would not suggest that in order to teach people not to steal, we should continually at every street corner throw in their way special temptations to induce them to steal, and then stand by without any interference to see whether they would develop sufficient strength of mind to resist our temptations.Hoàn toàn đúng là mỗi người đều phải tự rèn luyện sự tự chủ cho chính mình, nhưng tôi thật sự không thấy điều đó tác động thế nào đến thái độ của chúng ta liên quan đến việc lập luật. Hẳn là bạn sẽ không đề nghị rằng để dạy người ta đừng ăn cắp, chúng ta nên liên tục, ở mọi góc phố, bày ra trước mặt họ những cám dỗ đặc biệt nhằm xúi giục họ ăn cắp, rồi đứng nhìn mà không can thiệp gì để xem liệu họ có phát triển đủ sức mạnh của thể trí để kháng cự những cám dỗ do chính chúng ta bày ra hay không.
Yet that is exactly what is now being done with regard to the consumption of alcohol. We allow, encourage and specially license a number of men to make a tempting display in our streets with the avowed object of trying to induce as many people as possible to degrade themselves by the habitual use of this poison. If at last mankind is so far evolving as to develop some sort of conscience with regard to the weaker brethren, it would seem well for us to encourage their advancement rather than to range ourselves against it. If we feel it right to care for and to help the insane, even to the extent of restraining them for their own good and for that of the public, it is surely well for us also to treat the victim of that terrible form of insanity known as drunkenness along exactly the same lines. But it must not be forgotten that the Theosophical Society takes no part whatever in any political movement, although of course its members as private individuals are perfectly free to take any side that they like in political questions.Thế nhưng đó chính xác là điều hiện nay đang được làm đối với việc tiêu thụ rượu. Chúng ta cho phép, khuyến khích và còn cấp giấy phép đặc biệt cho một số người bày ra những màn mời gọi hấp dẫn trên các con phố của chúng ta với mục đích công khai là cố gắng xúi giục càng nhiều người càng tốt tự hạ thấp phẩm giá mình bằng việc sử dụng thường xuyên thứ chất độc này. Nếu rốt cuộc nhân loại đã tiến hóa đến mức khơi dậy một dạng lương tâm nào đó đối với những huynh đệ yếu hơn, thì có lẽ điều tốt là chúng ta nên khuyến khích sự thăng tiến ấy hơn là đặt mình đối lập với nó. Nếu chúng ta thấy là đúng khi chăm sóc và giúp đỡ những người loạn trí, thậm chí đến mức kiềm chế họ vì lợi ích của chính họ và của công chúng, thì chắc chắn cũng là điều phải lẽ khi chúng ta đối xử với nạn nhân của hình thức điên loạn khủng khiếp được gọi là say rượu theo đúng cùng một đường hướng. Nhưng cũng đừng quên rằng Hội Thông Thiên Học tuyệt đối không tham gia vào bất kỳ phong trào chính trị nào; dĩ nhiên, với tư cách cá nhân, các hội viên hoàn toàn tự do đứng về bất cứ phía nào họ muốn trong các vấn đề chính trị.
[1] bị ngắt; dừng lại, chấm dứt
[1] disconnected; stopped, ceased 

Leave a Comment

Scroll to Top