The Inner Life I – Chương 3 —LƯƠNG TRI

THIRD SECTION—COMMON SENSE

ABOVE all things and under all circumstances the student of occultism must hold fast to common sense. He will meet with many new ideas, with many startling facts, and if he allows the strangeness of things to overbalance him, harm instead of good will result from the increase of his knowledge. Many other qualities are desirable for progress, but a well-balanced mind is an actual necessity. The study of occultism may indeed be summed up in this: it is the study of much that is unrecognized ordinary man—the acquisition therefore of a great multitude of new facts, and then the adaptation of one’s life to the new facts in a reasonable and common-sense way. All occultism of which I know anything is simply an apotheosis of common sense.TRÊN hết thảy và trong mọi hoàn cảnh, đạo sinh huyền bí học phải nắm giữ vững vàng lẽ thường. Y sẽ chạm trán nhiều tư tưởng mới, nhiều sự kiện gây sửng sốt, và nếu y để sự lạ lùng của các điều ấy làm mình chao đảo, thì sự gia tăng tri thức sẽ đem lại hại nhiều hơn lợi. Nhiều phẩm tính khác là đáng mong muốn để tiến bộ, nhưng một tâm trí quân bình thực sự là điều tất yếu. Nghiên cứu huyền bí học có thể tóm lược như sau: đó là nghiên cứu về nhiều điều mà người thường không nhận ra—vì thế là sự thu nhận một đoàn lớn những sự kiện mới—và rồi là việc thích ứng đời sống của mình với các sự kiện mới ấy một cách hợp lý và theo lẽ thường. Mọi huyền bí học mà tôi biết đều chỉ là sự tôn vinh lẽ thường đến mức tột đỉnh.

BROTHERHOOD—TÌNH HUYNH ĐỆ

The brotherhood of man is a fact in nature; those who deny it are simply those who are blind to it, because they shut their eyes to actualities which they do not wish to acknowledge. We need waste little time over those who deny it; nature itself will refute their heresy. More subtly dangerous are those who misunderstand it, and their name is legion.Tình huynh đệ của nhân loại là một sự kiện trong tự nhiên; những ai phủ nhận nó chỉ là những người mù lòa với nó, vì họ nhắm mắt trước những thực tại họ không muốn thừa nhận. Chúng ta không cần phí nhiều thời gian với những người phủ nhận; tự nhiên sẽ phản bác tà thuyết của họ. Nguy hại tinh vi hơn là những người hiểu sai nó, và số ấy thì vô kể.
Remember not only what brotherhood means, but also what it does not mean. It emphatically does not mean equality, for twins and triplets are comparatively rare; under all but the most abnormal circumstances, brotherhood implies a difference in age, and consequently all sorts of other differences, in strength, in cleverness, in capacity.Hãy nhớ không chỉ tình huynh đệ có nghĩa là gì, mà còn nghĩa là không phải gì. Nó dứt khoát không có nghĩa là bình đẳng, vì sinh đôi, sinh ba là khá hiếm; trong mọi hoàn cảnh trừ những tình huống bất thường nhất, tình huynh đệ hàm ý sự khác biệt về tuổi tác, và hệ quả là đủ loại khác biệt khác nữa, về sức mạnh, về sự lanh lợi, về năng lực.
Brotherhood implies community of interest, but not community of interests. If the family be rich all its members profit thereby; if the family be poor, all its members suffer accordingly. So there is a community of interest. But the individual interests of the brothers not only may be, but also for many years must be, absolutely different. What interests has the boy of fourteen in common with his brother of six? Each lives his own life among friends of his own age, and has far more in common with them than with his brother. What cares the elder brother of twenty-five, fighting his way in the world, for all the prizes and anxieties of school-life which fill the horizon of that second brother?Tình huynh đệ hàm ý sự cộng thông về lợi ích chung, chứ không phải cộng thông về các lợi ích riêng. Nếu gia đình giàu, mọi thành viên đều được lợi; nếu gia đình nghèo, mọi thành viên đều chịu khổ tương ứng. Như vậy có sự lợi ích chung. Nhưng các lợi ích cá nhân của các anh em không chỉ có thể, mà còn trong nhiều năm chắc chắn phải, hoàn toàn khác biệt. Một cậu bé mười bốn tuổi có lợi ích gì chung với đứa em sáu tuổi? Mỗi đứa sống đời mình giữa những bạn cùng tuổi, và có nhiều điều chung với họ hơn là với người anh em. Người anh hai mươi lăm tuổi, đang bươn chải trong thế gian, nào bận tâm chi đến mọi phần thưởng và lo âu của đời học trò vốn đang chiếm trọn chân trời của cậu em thứ?
It is not to be expected, then, that because they are brothers men shall feel alike or be interested in the same things. It would not be desirable, even if it were possible, for their duties differ according to their ages, and the one thing which most promotes the evolution of the human family as a whole is that every man should strive earnestly to do his duty in that state of life to which it shall please God to call him, as the Church catechism puts it. This does not in the least imply that every man must always remain in the station in which his karma has placed him at birth; if he can honestly and harmlessly make such further karma as will raise him out of it he is at perfect liberty to do so. But at whatever stage he may be, he should do the duties of that stage. The child grows steadily; but while he is at a certain age, his duties are those appropriate to that age, and not those of some older brother. Each age has its duties—the younger to learn and to serve, and the older to direct and protect; but all alike to be loving and helpful, all alike to try to realize the idea of the great family of humanity. Each will best help his brothers, not by interfering with them, but by trying earnestly to do his own duty as a member of this family.Vậy thì không thể mong đợi rằng chỉ vì là anh em mà người ta cảm thấy giống nhau hay hứng thú với cùng một điều. Dẫu có thể, điều đó cũng không đáng mong muốn, vì bổn phận của họ khác nhau theo tuổi tác, và điều giúp thăng tiến sự tiến hoá của đại gia đình nhân loại hơn cả chính là mỗi người phải cố gắng làm tròn bổn phận của mình trong trạng thái sống mà giáo lý vấn đáp của Giáo hội nói rằng “sẽ đẹp lòng Thượng đế gọi y đến”. Điều này tuyệt nhiên không hàm ý rằng mỗi người phải luôn ở lại trong địa vị mà nghiệp quả đã đặt y vào lúc sinh ra; nếu y có thể một cách chân chính và vô tổn hại tạo nên nghiệp mới đưa y vượt khỏi địa vị ấy, y hoàn toàn có quyền làm như vậy. Nhưng ở bất kỳ giai đoạn nào, y nên làm tròn bổn phận của giai đoạn ấy. Đứa trẻ lớn lên đều đặn; nhưng khi ở một độ tuổi nhất định, bổn phận của y là những điều phù hợp với độ tuổi ấy, chứ không phải bổn phận của người anh lớn hơn. Mỗi tuổi có bổn phận riêng—tuổi nhỏ là học và phục vụ, tuổi lớn là hướng dẫn và bảo hộ; nhưng tất cả đều yêu thương và trợ giúp, tất cả đều cố gắng hiện thực ý niệm về đại gia đình nhân loại. Mỗi người sẽ giúp anh em mình tốt nhất không phải bằng cách can thiệp vào họ, mà bằng cách cố gắng làm tròn bổn phận của chính mình như một thành viên của gia đình này.
The brotherhood of our Society ought to be a very real thing. It is important that we should recognize and realize a close fellowship, a feeling of real unity and drawing together. This will be achieved if members will forget their own personal feelings and think chiefly of the interests of others. The heart of the Society is making for itself a body on the buddhic plane, a channel through which the Great Ones can work. The perfection of the channel as such depends upon the attitude of the earnest and devoted members. As yet it is very imperfect, because of the tendency of each member to think too much of himself as a unit, and too little of the good and well-being of the whole. The stones of the wall must be built each in its own place; one standing out of place here, or projecting there, causes roughness, and the wall as a whole is a less perfect wall. We form but a little part of a vast scheme, one wheel as it were of a machine. It is for us to make ourselves really fit for our little part; if we do that, though we may be quite unfit to take a leading position in the drama of the world, yet what little we do is well done and lasting, and will honourably fill its place in the greater whole.Tình huynh đệ trong Hội của chúng ta phải là một điều rất thật. Điều quan trọng là chúng ta nhận biết và thể nghiệm một mối đồng hàng mật thiết, một cảm thức hợp nhất và quy tụ thực sự. Điều đó sẽ đạt được nếu hội viên quên tình cảm cá nhân của mình và chủ yếu nghĩ đến lợi ích của người khác. Trái tim của Hội đang kiến tạo cho mình một thể ở cõi Bồ đề, một đường dẫn qua đó Các Đấng Cao Cả có thể hoạt động. Sự hoàn mỹ của đường dẫn ấy, như một đường dẫn, tùy thuộc vào thái độ của những hội viên tha thiết và tận hiến. Hiện nay nó còn rất bất toàn, vì khuynh hướng của mỗi hội viên là nghĩ quá nhiều về bản thân như một đơn vị, và quá ít về lợi ích và sự vẹn toàn của toàn thể. Những hòn đá của bức tường phải được xây ở đúng chỗ của chúng; một hòn đứng lệch ra chỗ này, hay nhô ra chỗ kia, tạo nên chỗ gồ ghề, và bức tường như một toàn thể kém hoàn mỹ. Chúng ta chỉ là một phần nhỏ của một đồ hình mênh mông, như một bánh xe của cỗ máy. Việc của chúng ta là tự làm cho mình thực sự xứng hợp với phần nhỏ bé của mình; nếu ta làm được điều đó, dẫu ta có thể hoàn toàn không thích hợp để đóng vai trò lãnh đạo trong vở kịch của thế gian, thì điều nhỏ bé ta làm cũng được làm cho tốt và bền vững, và sẽ lấp đầy cách danh dự vị trí của nó trong tổng thể lớn hơn.
You are all aware that in seven hundred years’ time our two Masters will commence the founding of the sixth root-race, and that even already They are looking about for those who will be suitable assistants for Them in that work. But there is something nearer than that to be done—and it is a work which will afford excellent practice in developing the qualities necessary for that larger work; and this is the development of the sixth sub-race of the Aryan race, which is now just beginning to be formed in North America. Already signs are to be seen of the preparations for this work; different races are being welded together in one; and we too have our part to play in this. We all recognize how important it is that a child’s early years should be surrounded by good influences, and it is just the same with the childhood of a race. If we can succeed in starting this young race along right lines much will be gained; and we, even at this distance from America, can be of great help at this critical period of history, if we will.Tất cả các bạn đều biết rằng trong bảy trăm năm nữa, hai Vị Thầy của chúng ta sẽ khởi sự khai sáng giống dân gốc thứ sáu, và ngay bây giờ Các Ngài đã tìm kiếm những ai sẽ là trợ thủ xứng hợp cho Các Ngài trong công cuộc ấy. Nhưng có một điều gần hơn phải được làm—và đó là một công việc sẽ đem lại sự thực tập tuyệt hảo để khai triển những phẩm tính cần cho công việc lớn hơn—ấy là việc phát triển giống dân phụ thứ sáu của giống dân Arya, hiện đang bắt đầu hình thành ở Bắc Mỹ. Dấu hiệu chuẩn bị cho công việc này đã thấy; các giống dân khác nhau đang được hàn gắn vào một; và chúng ta cũng có phần của mình trong đó. Chúng ta đều nhận ra tầm hệ trọng của việc những năm đầu đời của một đứa trẻ phải được bao bọc bởi những ảnh hưởng tốt, và với thời thơ ấu của một giống dân cũng vậy. Nếu chúng ta có thể khởi phát giống dân trẻ này theo đường hướng đúng đắn, thì sẽ đạt được nhiều điều; và chúng ta, ngay cả ở khoảng cách xa xôi này với châu Mỹ, vẫn có thể trợ giúp lớn lao vào thời khắc then chốt của lịch sử, nếu chúng ta muốn.
Part of the scheme very shortly to be realized is the drawing together of the various branches of our fifth sub-race, the Teutonic. Many of us belong to that—the English colonies, the Americans, the Scandinavians, the Dutch and the Germans; and many also in France and Italy, as for example the Normans, who are the descendants of the Norsemen, and also those in southern countries who are descendants of the Goths and Visigoths. What is desired in order to promote the work of the great plan is that all these races should be drawn into much closer sympathy. This has already been achieved to a great extent in the case of England and America; it is very much to be regretted that it cannot be done in the case of Germany also, but for the present that great country seems disposed to hold aloof from the desired coalition, and to stand out for what it considers its own private interests. It is much to be hoped that this difficulty may be overcome.Một phần của đồ hình sẽ sớm được hiện thực là quy tụ các nhánh khác nhau của giống dân phụ thứ năm của chúng ta, tức Teutonic. Nhiều người trong chúng ta thuộc giống đó—các thuộc địa Anh, người Mỹ, người Scandinavia, người Hà Lan và người Đức; và nhiều người ở Pháp và Ý, như người Norman, vốn là hậu duệ của người Norse, và cả những người ở các nước phương nam là hậu duệ của người Goth và Visigoth. Điều mong muốn nhằm thúc đẩy công việc của đại kế là tất cả những giống dân này được kéo lại trong sự cảm thông gần gũi hơn nhiều. Điều này đã đạt được ở mức độ lớn giữa Anh và Mỹ; thật đáng tiếc là điều ấy chưa thể thực hiện với Đức, nhưng hiện tại quốc gia lớn ấy dường như muốn đứng ngoài sự liên minh mong mỏi, và tách ra vì những gì họ xem là lợi ích riêng tư của mình. Rất hy vọng rằng khó khăn này có thể được vượt qua.
The great purpose of this drawing together is to prepare the way for the coming of the new Messiah, or, as we should say in Theosophical circles, the next advent of the Lord Maitreya, as a great spiritual teacher, bringing a new religion. The time is rapidly approaching when this shall be launched—a teaching which shall unify the other religions, and compared with them shall stand upon a broader basis and keep its purity longer. But before this can come about we must have got rid of the incubus of war, which at present is always hanging over our heads like a great spectre, paralyzing the best intellects of all countries as regards social experiments, making it impossible for our statesmen to try new plans and methods on a large scale. Therefore one essential towards carrying out the scheme is a period of universal peace. Many efforts have already been made in various ways to bring about this result—for example the Peace Conference; but it seems that some other way will have to be tried.Mục đích lớn lao của việc quy tụ ấy là để chuẩn bị con đường cho sự đến của một Đấng Cứu Thế mới, hay, như chúng ta vẫn nói trong giới Thông Thiên Học, lần giáng lâm kế tiếp của Đức Maitreya như một bậc đạo sư tinh thần vĩ đại, mang đến một tôn giáo mới. Thời điểm phóng xuất giáo lý ấy đang đến gần nhanh chóng—một giáo lý sẽ hợp nhất các tôn giáo khác, và so với chúng sẽ đứng trên một nền tảng rộng lớn hơn và giữ được sự tinh sạch lâu hơn. Nhưng trước khi điều này có thể diễn ra, chúng ta phải trút bỏ gánh nặng đè nặng của chiến tranh, vốn hiện nay luôn treo lơ lửng trên đầu chúng ta như một bóng ma khổng lồ, làm tê liệt những trí tuệ ưu tú nhất của mọi quốc gia trong các thử nghiệm xã hội, khiến các chính khách không thể thử nghiệm các kế hoạch và phương sách mới trên quy mô lớn. Vì vậy, một điều kiện tất yếu để thực thi đồ hình là một thời kỳ hòa bình phổ quát. Nhiều nỗ lực đã được thực hiện theo nhiều cách để đạt đến kết quả này—chẳng hạn như Hội nghị Hòa bình; nhưng có vẻ cần phải thử một con đường khác.
If we of the fifth sub-race can but put aside our prejudices and stand side by side, a great work lies before us in the future. Ours is the latest sub-race, and therefore contains, generally speaking, the highest egos in evolution. Yet the majority of the people in it are by no means ready to respond to a purely unselfish motive as a means of bringing about the universal peace required.Nếu chúng ta của giống dân phụ thứ năm có thể gạt bỏ định kiến và đứng bên nhau, một công việc lớn lao chờ đợi phía trước. Giống dân phụ của chúng ta là muộn nhất, và vì thế, nói chung, chứa những chân ngã cao nhất trong tiến hoá. Tuy vậy, đa số người trong đó hoàn toàn chưa sẵn sàng đáp ứng với một động cơ thuần vô kỷ như phương tiện mang lại nền hòa bình phổ quát cần thiết.
How then can this best be attained? By making it to the interest of all these nations to insist upon universal peace. Remember that trade suffers during war. We of these various branches of the Teutonic race are the greatest trading nations of the world, and I hope that we may shortly realize that it is to our interest to bind ourselves together, and to stand for peace. Truly this is not a very high motive, for it is merely self-interest; but still when the rulers and great statesmen are moved to desire unity from the abstract love for humanity, this lower motive may help to bring their less developed fellow-countrymen into line with them, and cause them warmly to support any movement which they may set on foot for that object.Vậy làm sao đạt được điều này một cách tốt nhất? Bằng cách khiến cho vì lợi ích của chính mình mà tất cả các quốc gia ấy phải đòi hỏi nền hòa bình phổ quát. Hãy nhớ rằng thương mại chịu tổn thất trong chiến tranh. Chúng ta—những nhánh khác nhau của giống Teutonic—là các quốc gia buôn bán lớn nhất thế giới, và tôi hy vọng rằng chẳng bao lâu chúng ta sẽ nhận ra rằng vì lợi ích của mình mà liên kết lại với nhau, và đứng về phía hòa bình. Thật ra, đây không phải là một động cơ rất cao, vì nó chỉ là lợi ích vị kỷ; nhưng dẫu vậy, khi những nhà cầm quyền và các chính khách kiệt xuất được thúc đẩy mong muốn hợp nhất từ lòng nhân loại thuần túy, thì động cơ thấp hơn này có thể trợ giúp đưa những đồng bào kém phát triển hơn của họ vào hàng ngũ, và khiến họ nhiệt thành ủng hộ bất kỳ phong trào nào mà các vị ấy phát động cho mục đích đó.
All sorts of events are being utilized to help this binding together of our race. For example, the death of Her Majesty the late Queen Victoria was very decidedly utilized for that purpose. Her life did very much in drawing the Colonies together into closer bonds with the Mother-country. Those who saw the Jubilee procession from the psychic standpoint were greatly impressed with the mighty current of high emotion thereby evoked. In her life she did much, but at her death still more was accomplished. By her death she drew close not only our Colonies, but also the United States. I was in America at the time of her death, and really it might have been their own ruler for whom the Americans were mourning, so spontaneous and so sincere were their expressions of the sense of loss. So in her death the great Queen did grand service, as well as in her life.Mọi loại biến cố đang được tận dụng để giúp sự gắn kết của chủng tộc chúng ta. Chẳng hạn, sự băng hà của Cố Nữ hoàng Victoria đã được sử dụng rất rõ rệt cho mục đích ấy. Đời Bà đã góp phần rất nhiều trong việc kéo các Thuộc địa lại gần hơn với Mẫu quốc bằng những mối dây gắn bó chặt chẽ. Những ai nhìn đoàn rước Lễ Kỷ niệm từ nhãn quan thông linh đều bị ấn tượng sâu sắc bởi dòng cuồng lưu cảm xúc cao cả được khơi dậy nhờ đó. Trong đời Bà, Bà đã làm được rất nhiều, nhưng khi băng hà, lại thành tựu được nhiều hơn nữa. Qua sự băng hà của Bà, Bà đã kéo gần không chỉ các Thuộc địa của chúng ta, mà cả Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Tôi ở Mỹ vào thời điểm Bà qua đời, và thật sự người ta có thể tưởng như đó là vị quân vương của chính họ mà người Mỹ đang để tang, vì những biểu lộ cảm thức mất mát của họ vừa tự phát vừa chân thành biết bao. Vậy là trong cái chết của mình, vị Nữ hoàng vĩ đại đã làm một cuộc phụng sự lớn lao, cũng như trong cuộc đời của Bà.
Each race has its own peculiarities, just as each individual has. If we wish to co-operate in the great work we must learn to allow for these, to be tolerant of them, and to regard them with a kindly interest, instead of sneering at them or letting them get on our nerves. What then can we do practically to help these great national affairs? This at least: that when in our presence unkind or sneering remarks are made about other nations, we can make a point of always putting forward considerations on the other side, and saying something kindly. We may not always be able to contradict the evil thing said, but at least we may supplement it with something that is good.Mỗi chủng tộc đều có những nét riêng, cũng như mỗi cá nhân vậy. Nếu chúng ta muốn hợp tác trong công cuộc vĩ đại ấy, chúng ta phải học cách tính đến những đặc điểm đó, khoan dung với chúng, và nhìn chúng bằng mối quan tâm thiện lành, thay vì giễu cợt hoặc để chúng làm ta bực bội. Vậy, chúng ta có thể làm gì một cách thiết thực để giúp những vấn đề quốc gia trọng đại này? Tối thiểu là điều này: khi trước mặt chúng ta người ta buông những lời cay nghiệt hay giễu cợt các dân tộc khác, chúng ta có thể chủ động nêu lên những cân nhắc ở phía bên kia, và nói điều gì đó tử tế. Ta có thể không phải lúc nào cũng bác lại được điều xấu mà người ta đã nói, nhưng ít ra ta có thể bổ sung nó bằng một điều thiện.
There are perhaps but few of us, but at least in the course of a year each of us probably meets at least a thousand others, and each of us may to that extent be a centre for helping our own nation to see good in others, and thus, though it may be only in a small way, we may be able to smooth the path and make the way for union easier. Many people are constantly in the habit of speaking with narrow prejudice against the peculiarities of other nations; let us at least take care not to do this, but always bear in mind the importance of promoting friendly feeling. Do not let us despair when we think how little each one of us can do in the matter; let us rather remember that every little effort will be used by Those who are working from behind. No doubt the scheme will be carried out whether or not we take the privilege which is offered to us of helping in it; but that is no reason why we should not do our best.Có lẽ chúng ta chỉ là ít ỏi, nhưng ít nhất trong một năm, mỗi người trong chúng ta có lẽ gặp được ít nhất một nghìn người khác, và ở mức độ đó mỗi chúng ta có thể là một trung tâm giúp cho chính dân tộc mình nhìn thấy điều tốt nơi các dân tộc khác, và nhờ vậy, dẫu chỉ trong một chừng mực nhỏ bé, chúng ta có thể làm con đường êm thuận và mở lối cho hiệp nhất dễ dàng hơn. Nhiều người quen thói nói năng với những định kiến hẹp hòi chống lại các nét riêng của dân tộc khác; chúng ta ít ra hãy cẩn thận đừng làm như vậy, mà luôn ghi nhớ tầm quan trọng của việc bồi đắp tình thân hữu. Đừng để chúng ta tuyệt vọng khi nghĩ đến sự bé nhỏ của những gì mỗi người có thể làm trong chuyện này; trái lại, hãy nhớ rằng mọi nỗ lực nhỏ nhoi đều sẽ được Những Vị đang làm việc từ phía sau sử dụng. Chắc hẳn đề án ấy sẽ được thực hiện dù chúng ta có hay không nhận lấy đặc ân được phụ giúp trong đó; nhưng đó không phải là lý do để chúng ta không cố gắng hết sức.
Nor is it only good people who are used in the promotion of the scheme. All sorts of forces are being used by the Great Brotherhood that stands behind to forward necessary work. Yes, even the very selfishness and the failings of men. “Blindly the wicked work the righteous will of heaven,” as Southey writes in Thalaba. And “All things work together for good to them that love God.” This was spoken as regards personal karma, but the same thing holds good in regard to greater and broader schemes. For example, the bigotry of the Christian Church, evil though it is, has not been altogether valueless, for it has helped to develope strength of faith, since the ignorant cannot believe strongly without being bigoted. Self-seeking in commercial pursuits is evil also, yet it has in it a certain power which can be turned to account by those who stand behind, for it developes strength of will and concentration, qualities which in a future life may be put to most valuable uses.Không chỉ những người tốt mới được sử dụng để xúc tiến đề án. Mọi loại mãnh lực đang được Huynh đệ Đoàn Vĩ Đại đứng phía sau dùng để đẩy công việc cần thiết tiến tới. Vâng, ngay cả tính vị kỷ và những thiếu sót của con người nữa. “Kẻ ác làm mù quáng ý chỉ công minh của trời,” như Southey đã viết trong Thalaba. Và “Mọi sự hiệp lại làm ích cho kẻ yêu mến Thượng đế.” Lời này được nói về nghiệp quả cá nhân, nhưng điều tương tự cũng đúng đối với các kế hoạch lớn hơn và bao quát hơn. Chẳng hạn, tính cuồng tín của Giáo hội Cơ Đốc, tuy là điều xấu, nhưng không phải là hoàn toàn vô giá trị, vì nó đã giúp phát triển sức mạnh của đức tin, bởi người ngu dốt không thể tin mạnh nếu không cuồng tín. Tư lợi trong hoạt động thương mãi cũng là điều xấu, tuy vậy trong đó có một quyền năng nhất định có thể được Những Vị đứng sau chuyển dụng, vì nó phát triển sức mạnh của ý chí và sự tập trung, những phẩm tính mà trong một đời tương lai có thể được dùng vào những mục đích quý giá nhất.
We each have an opportunity to help in this scheme, to co-operate on the side of good. If we do not take the opportunity offered to us, another will, and if not that other, then another, but in any case the work will be done.Mỗi người chúng ta có một cơ hội để góp phần vào đề án này, hợp tác về phía điều thiện. Nếu chúng ta không nắm lấy cơ hội được trao, sẽ có người khác nắm lấy, và nếu không phải người đó thì lại có người khác nữa; nhưng trong mọi trường hợp, công việc vẫn sẽ được hoàn tất.
We know that already some to whom the opportunity has been offered have cast it aside; but that is only all the more reason why we shou1d work with greater vigour, so as to atone for their defection—to do their share as well as our own. Never for a moment must we fear that because of such defection the work will be allowed to suffer. We cannot but regret that our poor friends should lose their opportunities—that from ignorance and lack of clear-sightedness they are working so sadly against their own interests. Yet remember that their folly is but temporary; they will awaken to the truth some day—if not in this life, then in some other. Meantime inside all is well, and the Great Work is going forward.Chúng ta biết rằng đã có những người được trao cơ hội mà đã gạt nó sang một bên; nhưng đó càng là lý do để chúng ta làm việc với sức mạnh lớn hơn, hầu đền bù cho sự thoái thác của họ—làm phần việc của họ cũng như phần của chính mình. Không phút giây nào chúng ta được phép sợ rằng vì sự thoái thác như thế mà công việc sẽ bị để cho chịu thiệt hại. Chúng ta không thể không tiếc khi những người bạn tội nghiệp của mình đánh mất cơ hội—rằng vì ngu dốt và thiếu sáng suốt nên họ đang làm một cách buồn bã nghịch lại lợi ích của chính mình. Dẫu vậy, hãy nhớ rằng sự dại dột của họ chỉ là tạm thời; một ngày kia họ sẽ tỉnh ngộ với chân lý—nếu không trong đời này thì trong một đời khác. Trong khi đó, bên trong mọi sự đều ổn, và Đại Công Trình đang tiến bước.
The evolution of the world is, after all, like any other large undertaking. Think of the making of a railway, for instance. It does not matter to the railway company or to the future passengers which workman lays a certain rail or drives a certain bolt, so long as it is well and truly done; and the overseer will attend to that. It matters very much to the workman, for he who works receives the pay, while the other gets nothing. The overseer regrets it when a workman goes off in a fit of temper or of drunkenness and refuses to work for a day; but he thinks, “Never mind, he will come back tomorrow,” and meantime he employs some one else. Many have left the work in just that way in an outburst of personality, but they will return. The question is not as to whether the work shall be done—the Masters will see to that in any case; it is only as to who will embrace the opportunity of doing it.Sự tiến hoá của thế giới, xét cho cùng, cũng giống như bất kỳ công việc lớn nào khác. Hãy nghĩ đến việc làm một tuyến đường sắt, chẳng hạn. Đối với công ty đường sắt hay đối với những hành khách tương lai, không hề quan trọng việc người thợ nào đặt một thanh ray nhất định hay đóng một chiếc bu-lông nào đó, miễn là nó được làm đúng và tốt; và đốc công sẽ lo bảo đảm điều ấy. Điều đó lại rất quan trọng đối với người thợ , vì người làm việc thì nhận công, còn người kia thì không nhận gì cả. Đốc công lấy làm tiếc khi một người thợ bỏ việc vì cơn nóng giận hay say sưa và từ chối làm một ngày; nhưng ông nghĩ, “Không sao, ngày mai anh ta sẽ quay lại,” và trong lúc đó ông thuê người khác. Nhiều người đã bỏ công việc đúng theo cách đó trong một cơn bộc phát của phàm ngã, nhưng họ sẽ trở lại. Vấn đề không phải là liệu công việc có được làm hay không—các Chân sư dù sao cũng sẽ lo liệu điều đó; vấn đề chỉ là ai sẽ nắm lấy cơ hội để làm nó.
Many people who contend bitterly against the right are merely showing that they are not yet fit to pass this test; they have not yet reached the stage where they can forget themselves utterly in the work; their personalities are still rampant, and so they are capable of being shocked and thrown off their balance, if some new fact comes before them. It is sad, of course, but it is only temporary; they have lost a good opportunity for this life, because they are not yet strong enough for it; but there are many lives yet to come. Meantime others will take their places. Never forget that one thing of importance is that the Masters’ work should be done; let us at least be among those who are doing it now, even though there are many who cannot yet see clearly enough to help us. They repudiate the Masters for this life, like a naughty little boy who gets angry with his parents, and in a fit of passion runs away and hides himself; but presently hunger brings the naughty little boy home again, and in the same way hunger for the truth which they have once tasted will bring most of them back to the feet of the Masters in their next lives. Meantime let us stand firm, and fill our hearts with peace even in the midst of strife.Nhiều người kịch liệt chống lại lẽ phải chỉ đang cho thấy rằng họ chưa sẵn sàng để vượt qua phép thử này; họ chưa đạt đến giai đoạn có thể quên mình hoàn toàn trong công việc; phàm ngã của họ vẫn còn hoành hành, và vì vậy họ có thể bị sốc và mất thăng bằng nếu một sự kiện mới nào đó đến trước họ. Tất nhiên điều đó đáng buồn, nhưng nó cũng chỉ là tạm thời; họ đã bỏ lỡ một cơ hội tốt cho đời này, vì họ chưa đủ mạnh mẽ cho nó; nhưng còn biết bao đời nữa trước mặt. Trong khi đó, người khác sẽ vào thay chỗ của họ. Đừng bao giờ quên rằng điều quan trọng là công việc của các Chân sư phải được hoàn thành; ít ra chúng ta hãy thuộc về những người đang làm nó ngay bây giờ, cho dù có nhiều người chưa đủ sáng suốt để giúp chúng ta. Họ chối bỏ các Chân sư trong đời này, như một cậu bé nghịch ngợm nổi giận với cha mẹ rồi, trong một cơn bốc đồng, bỏ chạy đi trốn; nhưng rồi cơn đói khiến cậu bé nghịch ngợm lại trở về nhà, và cũng vậy, cơn đói chân lý mà họ đã từng nếm sẽ đưa phần nhiều trong số họ trở về dưới chân các Chân sư trong những đời tới. Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy đứng vững, và để bình an tràn đầy tâm chúng ta ngay giữa cảnh tranh đấu.
If we would rise to our opportunity we must rub down our corners and get rid of our awkward personalities, and forget them in encouraging good feeling in every possible way. If we hear something said against somebody else let us at once try to put the other side, and this both with regard to nations and individuals. Counterbalance the evil by speaking the good—not to give a false impression, but to give the best possible aspect or interpretation of the facts. Our work is to make the machine run smoothly, and neutralize the friction. Our aim is to be a united whole as a Society, and to help towards harmony in the outside world. The scheme is great, the opportunity glorious; shall we take it?Nếu chúng ta muốn vươn lên với cơ hội của mình, chúng ta phải mài bớt các góc cạnh và khử đi những phàm ngã vụng về, quên chúng đi bằng cách cổ vũ tình cảm tốt đẹp bằng mọi cách có thể. Nếu nghe ai đó nói điều bất lợi về người khác, chúng ta hãy lập tức thử nêu mặt bên kia, và làm vậy cả đối với quốc gia lẫn cá nhân. Hãy cân bằng điều xấu bằng cách nói điều lành—không phải để tạo ấn tượng sai, mà để đưa ra diện mạo hay diễn giải tốt nhất có thể của các sự kiện. Công việc của chúng ta là làm cho bộ máy chạy êm, và trung hoà ma sát. Mục tiêu của chúng ta là trở thành một toàn thể hiệp nhất với tư cách một Hội, và góp phần vào sự hoà điệu trong thế giới bên ngoài. Kế hoạch thì lớn lao, cơ hội thì rực rỡ; chúng ta có nắm lấy chăng?
Yet beware lest you should make the idea of preparing yourself for grand work in the future an excuse for neglecting the minor opportunities of every-day life. A good example of what I mean is offered by a letter which I recently received, in which the writer says that he finds himself in the position of having to teach a Theosophical Branch, and that he feels it a great responsibility, of which he cannot think himself worthy because his knowledge is at present so imperfect. Now in reply to this I shall say:Tuy nhiên, hãy coi chừng kẻo bạn biến ý tưởng chuẩn bị cho mình để làm công việc lớn lao trong tương lai thành cái cớ để bỏ bê những cơ hội nhỏ trong đời sống hằng ngày. Một ví dụ hay cho điều tôi muốn nói được nêu trong một bức thư tôi mới nhận, trong đó người viết nói rằng anh ta thấy mình đang ở vị trí phải giảng dạy cho một Chi bộ Thông Thiên Học, và anh cảm thấy đó là một trách nhiệm lớn, mà anh không thể nghĩ rằng mình xứng đáng vì tri thức của anh hiện còn quá khiếm khuyết. Giờ đây, đáp lại điều này, tôi sẽ nói:
Do not be in the least troubled about your position towards your Branch. Assuredly it is a responsibility to teach, but on the other hand it is a very great privilege. Think of it rather in this way, that here are number of hungry souls, and Those who stand behind have been so kind to you as to give you the opportunity of being the channel through which these can be fed. You have the broad principles of the teaching clearly in mind, and your own common sense will keep you from going far wrong in details. I admire your extreme consciousness, but if you keep these main principles steadily before your pupils, you are very little likely to go wrong in your teaching.Đừng bận tâm chút nào về vị trí của bạn đối với Chi bộ của bạn. Chắc chắn rằng giảng dạy là một trách nhiệm, nhưng mặt khác đó cũng là một đặc ân rất lớn. Hãy nghĩ theo cách này: ở đây có một số linh hồn đang đói, và Những Vị đứng đằng sau đã ưu ái trao cho bạn cơ hội làm kênh qua đó những người này có thể được nuôi dưỡng. Bạn có những nguyên tắc nền tảng của giáo lý một cách rõ ràng trong tâm, và lương tri của riêng bạn sẽ giữ cho bạn khỏi sai lạc nhiều trong phần tiểu tiết. Tôi trân trọng tâm thức sâu sắc của bạn, nhưng nếu bạn luôn đặt các nguyên tắc chủ đạo ấy trước mặt học trò của mình, bạn rất ít có khả năng đi sai trong sự giảng dạy.
We all have the responsibility of which you speak, and those of us who have to write the books and give the lectures feel it far more acutely than you can imagine. Indeed we have sometimes been told by friends that we ought to have attained adeptship before we wrote any books, so that it might be quite certain that there should be no mistakes in them. I can only say that we decided to share our imperfect knowledge with our brothers, even while we still have very much to acquire; and I think that the result has justified our decision. If we had waited until we attained adeptship, it is true that our books would have been perfect—and they are very far from being perfect now—but then you see you would all have had to wait a thousand years or so for them, which would have made a considerable difference to the work of the Society in the present century. It seems to me that the problem that lies before you is an exactly similar one. You also might refrain from teaching until you knew everything; but what would become of your Branch in the meantime?Tất cả chúng ta đều có trách nhiệm mà bạn nói đến, và những ai trong chúng ta phải viết sách và thuyết giảng còn cảm nhận nó sắc bén hơn nhiều so với điều bạn có thể tưởng. Quả thật đôi khi chúng tôi được bạn bè bảo rằng lẽ ra chúng tôi phải đạt địa vị chân sư trước khi viết bất kỳ cuốn sách nào, để có thể chắc chắn rằng trong đó sẽ không có sai lầm. Tôi chỉ có thể nói rằng chúng tôi đã quyết định chia sẻ tri thức chưa hoàn hảo của mình với các huynh đệ, ngay khi chúng tôi còn rất nhiều điều cần thâu đạt; và tôi nghĩ rằng kết quả đã chứng minh quyết định ấy của chúng tôi là đúng. Nếu chúng tôi đã chờ cho đến khi đạt địa vị chân sư, đúng là sách của chúng tôi sẽ hoàn hảo—và hiện giờ chúng còn rất xa mới hoàn hảo—nhưng rồi bạn thấy đó, tất cả các bạn hẳn phải chờ độ chừng một nghìn năm cho chúng, điều mà hẳn sẽ tạo nên một khác biệt đáng kể cho công việc của Hội trong thế kỷ hiện tại. Có vẻ với tôi rằng vấn đề đặt ra trước bạn hoàn toàn tương tự. Bạn cũng có thể thôi không giảng dạy cho đến khi bạn biết hết mọi điều; nhưng trong khi ấy, Chi bộ của bạn sẽ ra sao?

HELPING THE WORLD—GIÚP THẾ GIỚI

One of the first qualifications which are required for the treading of the Path is single-mindedness or one-pointedness. Even worldly men succeed because they are one-pointed, and we can learn from them the value of determination on our own line. Our goal is not so tangible as theirs, so we have more difficulty in keeping the one-pointed attitude of mind; but in India the importance of the unseen is more easily realized than in the West. It is good to seek the company of those who are more advanced, to whom the realities of the Path are constantly present; also to read and hear and think about our purpose frequently, and unwaveringly to practise the virtues by which alone the perfect knowledge can come to us.Một trong những phẩm hạnh đầu tiên được đòi hỏi để bước trên Thánh Đạo là tính nhất tâm. Ngay cả người đời cũng thành công vì họ nhất tâm, và chúng ta có thể học nơi họ giá trị của quyết chí trên đường hướng của chính mình. Mục tiêu của chúng ta không cụ thể như của họ, nên chúng ta khó hơn trong việc giữ thái độ nhất tâm nơi thể trí; nhưng ở Ấn Độ, tầm quan trọng của cái vô hình dễ được nhận ra hơn là ở phương Tây. Tốt lành biết bao khi tìm kiếm sự bầu bạn của những người tiến xa hơn, đối với họ, thực tại của Thánh Đạo luôn luôn hiện tiền; cũng như thường xuyên đọc, nghe và nghĩ về mục đích của chúng ta, và kiên định thực hành những đức hạnh mà chỉ qua đó tri thức hoàn hảo mới có thể đến với chúng ta.
This an age of hurry and scurry; the tendency is for people to do a little of many things, but nothing thoroughly—to flutter from one thing to another. No man now devotes his life to a masterpiece, as was often done in the Middle Ages in Europe, in old days in India.Đây là một thời đại vội vã hấp tấp; khuynh hướng là người ta làm một chút của nhiều việc, nhưng chẳng việc nào đến nơi đến chốn—bay lượn từ cái này sang cái khác. Giờ đây chẳng ai hiến trọn đời mình cho một tuyệt tác, như từng thường làm ở châu Âu thời Trung Cổ, ở những ngày xưa của Ấn Độ.
Occultism changes a man’s life in many ways, but in none more than in this; it makes him absolutely one-pointed. Of course I do not mean that it causes him to neglect any duty that he used to do; on the contrary, the never-ceasing watch to fulfil every duty is its first prescription. But it gives him a keynote of life which is always sounding in his ears, which he never forgets for an instant—the key-note of helpfulness. Why? Because he learns what is the plan of the LOGOS, and tries to co-operate in it.Huyền bí học thay đổi đời người theo nhiều cách, nhưng không điều nào hơn điều này; nó khiến người ta tuyệt đối nhất tâm. Tất nhiên tôi không có ý nói rằng nó khiến người ấy bỏ bê bất kỳ bổn phận nào mà y vốn làm; trái lại, sự canh chừng không nghỉ để chu toàn mọi bổn phận là đòi hỏi đầu tiên của nó. Nhưng nó ban cho y một chủ âm của đời sống luôn vang trong tai y, mà y không quên một sát-na nào—chủ âm của sự trợ giúp. Vì sao? Vì y học biết Thiên Cơ của Thượng đế là gì, và cố gắng hợp tác trong đó.
This involves many lines of action. To be able to help effectively he must make himself fit to help; hence he must undertake the most careful self-training, the elimination of evil qualities from himself, the development merit of good ones. Also he must maintain a constant watchfulness for opportunities to help.Điều này bao hàm nhiều đường lối hành động. Để có thể giúp đỡ một cách hiệu quả, y phải làm cho mình xứng đáng để giúp; do đó y phải dấn thân vào sự tự huấn luyện kỹ lưỡng nhất, loại trừ các phẩm chất xấu khỏi chính mình, phát triển những phẩm tính tốt. Đồng thời y phải duy trì một sự tỉnh thức thường hằng để nhận ra các cơ hội giúp đỡ.
One special method of helping the world lies ready to the hand of members of our Society—that of spreading Theosophic truth. We have no right and no desire to force our ideas on any one, but it is our duty and our privilege to give people the opportunity of knowing the real explanation of the problems of life. If when the water of life is offered, a man will not drink, that is his own affair; but at least we should see that none perishes through ignorance of the existence of that water.Một phương pháp đặc biệt để giúp thế giới nằm sẵn trong tay các hội viên của Hội chúng ta—ấy là truyền bá chân lý Thông Thiên Học. Chúng ta không có quyền cũng không có mong muốn nào để ép buộc ý tưởng của mình lên ai, nhưng đó là bổn phận và đặc ân của chúng ta khi trao cho mọi người cơ hội biết đến lời giải thích chân thực về các vấn đề của đời sống. Nếu khi nước sự sống được dâng mời mà một người không chịu uống, ấy là việc của riêng anh ta; nhưng ít ra chúng ta phải bảo đảm rằng không ai diệt vong vì không biết đến sự hiện hữu của nguồn nước ấy .
We have then this duty of spreading the truth, and nothing should be allowed to interfere with it. This is the work that as a Society we have to do, and we must remember that the duty is binding upon each of us. Our minds must be filled with it, we must be constantly thinking and planning for it, seizing every opportunity that offers. It is not for us to excuse ourselves because some other member seems to be doing nothing; that is his business, and we are in no way concerned in it; but if we ourselves neglect to do our very best, we are failing in our duty. It was not to illumine our own path that this glorious light came to us, but that we also in our turn might be light-bearers to our suffering brothers.Như vậy, chúng ta có bổn phận truyền bá chân lý, và không điều gì được phép cản trở nó. Đây là công việc mà với tư cách một Hội chúng ta phải làm, và chúng ta phải nhớ rằng bổn phận ấy ràng buộc trên mỗi người chúng ta. Tâm trí chúng ta phải đầy dẫy điều đó, chúng ta phải không ngừng nghĩ suy và hoạch định cho nó, nắm lấy mọi cơ hội đưa đến. Không phải việc của chúng ta là viện cớ vì một hội viên nào đó dường như chẳng làm gì cả; ấy là chuyện của y, và chúng ta không liên can; nhưng nếu chính chúng ta xao lãng mà không dốc hết sức mình, là chúng ta đã thất bổn phận. Ánh sáng rực rỡ này đến với chúng ta không phải để soi riêng con đường của mình, mà để chúng ta cũng đến lượt mình trở thành những người khiêng đuốc cho các huynh đệ đang chịu khổ đau.

CRITICISM—CHỈ TRÍCH

If we wish to make any progress in occultism, we must learn to mind our own business and let other people alone. They have their reasons and their lines of thought which we do not understand. To their own Master they stand or fall. Once more, we have our work to do, and we decline to be diverted from it. We must learn charity and tolerance, and repress the mad desire to be always finding fault with someone else.Nếu muốn tiến bộ chút nào trong huyền bí học, chúng ta phải  học cách lo việc của mình và để cho người khác yên. Họ có những lý do và những đường lối suy nghĩ mà chúng ta không hiểu. Họ đứng hay ngã là trước Vị Thầy của chính họ. Một lần nữa, chúng ta có công việc của mình phải làm, và chúng ta khước từ bị xao lãng khỏi đó. Chúng ta phải  học đức bác ái và bao dung, và nén lại ham muốn điên rồ luôn luôn tìm lỗi ở người khác.
It is a mad desire, and it dominates modern life—this spirit of criticism. Every one wants to interfere with somebody else’s duty, instead of attending to his own; every one thinks he can do the other man’s work better than it is being done. We see it in politics, in religion, in social life. For example the obvious duty of a Government is to govern, and the duty of its people is to be good citizens and to make that work of government easy and effective. But in these days people are so eager to teach their Governments how to govern that they forget all about their own primary duty of being good citizens. Men will not realize that if they will but do their duties, karma will look after the “rights” about which they are so clamorous.Đó  một ham muốn điên rồ, và nó thống trị đời sống hiện đại—tinh thần chỉ trích này. Ai cũng muốn can thiệp vào bổn phận của người khác, thay vì chăm vào phần việc của mình; ai cũng nghĩ mình có thể làm công việc của người kia tốt hơn cách nó đang được làm. Ta thấy điều đó trong chính trị, trong tôn giáo, trong đời sống xã hội. Chẳng hạn, bổn phận hiển nhiên của một Chính phủ là cai quản, và bổn phận của dân chúng là làm những công dân tốt và làm cho công việc cai trị ấy trở nên dễ dàng và hữu hiệu. Nhưng ngày nay người ta sốt sắng dạy các Chính phủ cách cai trị đến nỗi họ quên mất bổn phận tiên quyết của chính mình là làm công dân tốt. Người ta không chịu nhận ra rằng nếu họ chỉ làm bổn phận của mình, thì nghiệp quả sẽ lo cho những “quyền lợi” mà họ ồn ào đòi hỏi như thế.
How comes this spirit of criticism to be so general and so savage at this stage of the world’s history? Like most other evils, it is the excess of a good and necessary quality. In the course of evolution we have arrived at the fifth sub-race of the fifth root-race. I mean that that race is the latest yet developed, that its spirit is dominant in the world just now, and that even those who do not belong to it are necessarily much influenced by that spirit.Sao tinh thần chỉ trích lại trở nên phổ biến và hung hăng đến vậy ở giai đoạn này của lịch sử thế giới? Như hầu hết các điều xấu khác, nó là sự thái quá của một phẩm chất tốt và cần thiết. Trong tiến trình tiến hoá, chúng ta đã đi tới giống dân phụ thứ năm của Giống dân gốc thứ năm. Ý tôi là giống dân ấy là giống dân mới nhất đã được phát triển, tinh thần của nó hiện đang chi phối thế giới, và ngay cả những người không thuộc về nó cũng nhất thiết chịu ảnh hưởng nhiều bởi tinh thần đó.
Now each race has its own special lessons to learn, its own special quality to unfold. The quality of the fifth-race is what is sometimes called manas—the type of intellect that discriminates, that notes the differences between thing. When it is perfectly developed, men will note these differences calmly, solely for the purpose of understanding them and judging which is best. But now, in this stage of half-development most people look for differences from their own point of view not in order to understand them but in order to oppose them—often violently to persecute them. It is simply the point of view of the ignorant and unevolved man, who is full of intolerance and self-conceit, absolutely sure that he is right (perhaps he may be up to a certain point) and that everybody else therefore must be entirely wrong—which does not follow. Remember that Oliver Cromwell said to his council: “Brethren, I beseech you in the sacred name of the Christ to think it possible that you may sometimes mistake!”Nay mỗi chủng tộc đều có bài học riêng phải học, phẩm chất riêng phải mở bày. Phẩm chất của giống dân thứ năm là điều đôi khi được gọi là manas—loại trí tuệ phân biện, lưu ý tới những khác biệt  giữa các sự vật. Khi nó được phát triển hoàn mãn, con người sẽ lưu ý những khác biệt này một cách bình thản, chỉ với mục đích thấu hiểu chúng và phán đoán cái nào là tốt hơn. Nhưng hiện nay, trong giai đoạn bán khai triển này, phần lớn người ta nhìn kiếm các khác biệt từ quan điểm riêng của mình không  phải để thấu hiểu  chúng mà để chống lại chúng—thường còn bức hại dữ dội nữa. Đó đơn thuần là quan điểm của người ngu dốt và kém tiến, vốn đầy bất khoan dung và tự phụ, hoàn toàn chắc chắn rằng mình đúng (có lẽ y đúng đến một mức nào đó) và vì vậy mọi người khác hẳn phải hoàn toàn sai—điều này không hề theo sau. Hãy nhớ Oliver Cromwell đã nói với hội đồng của ông: “Chư huynh đệ, tôi khẩn nài các ông nhân danh thiêng liêng của Đức Christ hãy nghĩ rằng có thể đôi khi các ông cũng lầm lẫn!”
We too must develop the critical faculty; but we should criticise ourselves, not others.Chúng ta cũng phải phát triển năng lực phê phán; nhưng chúng ta nên chỉ trích chính mình,  chứ không phải người khác.
There are always two sides to every question; generally more than two. Kritein means to judge; therefore criticism is useless and can only do harm unless it is absolutely calm and judicial. It is not a mad attack upon the opponent, but a quiet unprejudiced weighing of reasons for and against a certain opinion or a certain course of action. We may decide in one way, but we must recognize that another man of equal intellect may emphasize another aspect of the question, and therefore, decide quite otherwise. And yet in so deciding he may be just as good, just as wise, just as honest as we ourselves.Mọi câu hỏi luôn có hai phía; thường là hơn hai. Kritein nghĩa là phán đoán; do đó, sự phê bình là vô ích và chỉ có thể gây hại trừ phi nó hoàn toàn bình thản và công minh. Nó không phải là một cuộc tấn công điên cuồng vào đối thủ, mà là một việc cân nhắc yên lặng và vô tư các lý do thuận và nghịch đối với một ý kiến hay một đường lối hành động nhất định. Chúng ta có thể quyết định theo một cách, nhưng chúng ta phải  nhận ra rằng một người khác có trí tuệ ngang mình có thể nhấn mạnh một phương diện khác của vấn đề, và vì vậy quyết định hoàn toàn khác. Và rồi, trong quyết định như thế, y có thể tốt như chúng ta, khôn ngoan như chúng ta, lương thiện như chúng ta.
Yet how few recognize that; how few rabid protestants really believe Catholics to be good men; how few convinced redhot radicals really believe that an old Tory squire may be just as good and earnest a man as themselves, trying honestly to do what he thinks his duty!Ấy vậy mà có bao người nhận ra điều đó; có bao người Kháng Cách cuồng nhiệt thật sự tin rằng người Công giáo là người tốt; có bao nhà cấp tiến sôi sục thật sự tin rằng một ông địa chủ Tory già có thể là người tốt lành và thành tâm như chính họ, đang chân thành cố làm điều y cho là bổn phận!
If a man comes to a decision different from our own we need not pretend to agree with him, but we must give him credit for good intentions. One of the worst features of modern life is its eager readiness to believe evil—its habit of deliberately seeking out the worst conceivable construction that can be put upon everything. And this attitude is surely at its very worst when adopted towards those who have helped us, to whom we owe thanks for knowledge or inspiration received. Remember the words of the Master: “Ingratitude is not one of our vices.” It is always a mistake to rush madly into criticism of those who know more than we; it is more seemly to wait and think matters over, to wait and see what the future brings forth. Apply the test of time and the result; “By their fruits ye shall know them.” Let us make a rule to think the best of every man; let us do our work and leave others free to do theirs.Nếu một người đi đến một quyết định khác với chúng ta, chúng ta không cần phải giả vờ đồng ý với y, nhưng chúng ta phải ghi công cho y về thiện chí. Một trong những đặc điểm tệ hại nhất của đời sống hiện đại là sự sẵn sàng nôn nóng để tin điều ác—thói quen cố ý tìm cho bằng được cách diễn giải tệ hại nhất có thể gán cho mọi điều. Và thái độ này hẳn là tệ hại nhất khi được áp dụng đối với những bậc đã giúp chúng ta, những người mà chúng ta mắc ơn về tri thức hay cảm hứng đã nhận. Hãy nhớ lời của Vị Chân sư: “Vô ơn không phải là một trong các lỗi của chúng ta.” Luôn luôn là sai lầm khi lao vào chỉ trích một cách điên cuồng những người biết nhiều hơn ta; hợp lẽ hơn là chờ đợi và nghĩ kỹ sự việc, chờ đợi và xem tương lai sẽ mang lại điều gì. Hãy áp dụng phép thử của thời gian và kết quả; “Cứ xem quả thì biết cây.” Hãy đặt cho mình quy luật nghĩ tốt về mọi người; hãy làm công việc của chúng ta và để người khác tự do làm phần việc của họ.

PREJUDICE—THIÊN KIẾN

Beware of the beginnings of suspicion: it will distort everything. I have seen it come between friends and noticed how a little suspicion soon grows into a giant misunderstanding. Every harmless word is distorted, and mistaken to be the expression of some unkind or improper motive, while all the time the speaker is utterly unconscious of the suspicion. It is the same when opinions differ about books or religion; a slight difference of opinion is fostered by dwelling upon all that tells on one’s own side and against the other side, until the result is an absurdly distorted view. One finds it again with colour prejudice although those now wearing white bodies have worn brown ones and vice versa, and the habits of one have been or will be the habits of the other. Brotherhood means the getting rid of prejudices; knowledge of the fact of reincarnation ought to help us to overcome our limitations and uncharitableness.Hãy coi chừng mầm mống của nghi ngờ: nó sẽ bóp méo mọi sự. Tôi đã thấy nó chen vào giữa bạn bè và nhận thấy một chút nghi ngờ sớm lớn lên thành một sự hiểu lầm khổng lồ. Mọi lời vô hại đều bị bóp méo và bị hiểu lầm như là sự biểu hiện của một động cơ nào đó không tử tế hay không đúng đắn, trong khi suốt thời gian ấy, người nói hoàn toàn không hay biết về sự nghi ngờ đó. Điều tương tự xảy ra khi ý kiến bất đồng về sách hay tôn giáo; một khác biệt nhỏ trong ý kiến được nuôi dưỡng bằng cách chăm bẵm vào tất cả những gì có lợi cho phía mình và bất lợi cho phía kia, cho tới khi kết quả là một cái nhìn méo mó một cách vô lý. Người ta lại thấy điều đó với thiên kiến màu da—mặc dù những người hiện đang mang thân thể trắng đã từng mang thân thể nâu và ngược lại,  và thói quen của bên này đã là hoặc sẽ là thói quen của bên kia. Tình huynh đệ có nghĩa là trừ khử các định kiến; tri thức về sự kiện tái sinh lẽ ra phải giúp chúng ta vượt qua các giới hạn và sự thiếu đức bác ái của mình.
We who are students of the higher life must rise above these prejudices. It is a difficult task, because they are ingrained—prejudices of race, of caste, of religion; but they must all be rooted out, because they prevent clear sight and true judgment. They are like coloured glass—still more like cheap, imperfect glass; everything seen through them is distorted, often so much so as to look entirely different from what it really is. Before we can judge and discriminate we must see clearly.Chúng ta, những đạo sinh của đời sống cao cả, phải  vượt lên trên các định kiến ấy. Đó là một công việc khó, vì chúng ăn sâu—định kiến về chủng tộc, đẳng cấp, tôn giáo; nhưng tất cả những thứ ấy phải  bị tận trừ, vì chúng ngăn cản cái nhìn trong sáng và phán đoán chân thực. Chúng giống như kính màu—hơn nữa lại như kính rẻ tiền, méo mó; mọi thứ nhìn qua chúng đều bị biến dạng, thường đến mức trông hoàn toàn khác với cái vốn là. Trước khi có thể phán đoán và phân biện, chúng ta phải thấy cho rõ ràng.
It is always very easy to attribute some evil motive to others whom we have allowed ourselves to dislike, and to discover some evil explanation for their acts. This tendency forms a very serious impediment in the path of progress. We must tear away our own personalities, for only then shall we be at all able to see the other person as he is. A prejudice is a kind of wart upon the mental body, and of course when a man tries to look out through that particular part of the body he cannot see clearly. It is in reality a congested spot in the mental body, a point at which the matter is no longer living and flowing, but is stagnant and rotten. The way to cure it is to acquire more knowledge, to get the matter of the mental body into motion, and then one by one the prejudices will be washed away and dissolved.Luôn luôn rất dễ gán một động cơ xấu xa nào đó cho những người mà ta đã cho phép mình không ưa, và bịa ra một lời giải thích ác ý cho các hành vi của họ. Khuynh hướng này tạo nên một chướng ngại rất nghiêm trọng trên con đường tiến bộ. Chúng ta phải xé bỏ phàm ngã của chính mình, vì chỉ khi đó ta mới có thể phần nào nhìn thấy người khác đúng như y là. Một định kiến là một thứ mụn cóc trên thể trí, và dĩ nhiên khi một người cố nhìn ra qua đúng phần thể đó, y không thể thấy rõ. Thực ra nó là một điểm ù lì trong thể trí, một điểm mà nơi đó chất liệu không còn sống động và lưu chuyển nữa, mà trì trệ và mục rữa. Cách chữa trị là thâu đạt thêm tri thức, làm cho chất liệu của thể trí vào chuyển động, và rồi từng định kiến một sẽ bị cuốn trôi và tiêu tan.
This evil effect of prejudice was what Aryasangha meant when he said, in The Voice of the Silence, that the mind was the great slayer of the real. By that he was drawing attention to the fact that we do not see any object as it is. We see only the images that we are able to make of it, and everything is necessarily coloured for us by these thought-forms of our own creation. Notice how two persons with preconceived ideas, seeing the same set of circumstances, and agreeing as to the actual happenings, will yet make two totally different stories from them. Exactly this sort of thing is going on all the time with every ordinary man, and we do not realize how absurdly we distort things.Tác hại này của định kiến là điều mà Aryasangha muốn nói khi ông viết, trong Tiếng Nói của Im Lặng,  rằng cái trí là kẻ đại sát chân thực. Bằng điều đó ông đang lưu ý đến thực tế rằng chúng ta không thấy bất kỳ đối tượng nào đúng như nó là. Ta chỉ thấy các ảnh tượng mà mình có thể tạo về nó, và mọi thứ tất yếu bị nhuộm màu đối với ta bởi những hình tư tưởng do chính ta tạo ra. Hãy để ý cách hai người mang định kiến sẵn có, cùng nhìn một chuỗi hoàn cảnh, và đồng ý với nhau về các diễn biến thực tế, vậy mà lại kể ra hai câu chuyện hoàn toàn khác nhau từ chúng. Chính loại việc này đang diễn ra liên tục với mọi người bình thường, và ta không nhận ra mình bóp méo mọi thứ lố bịch đến dường nào.
The duty of the Theosophical student is to learn to see things as they are, and this means control, vigilance and a very great deal of hard work. In the West, for example, people are very much prejudiced along religious lines, for we are born into a certain religion and sedulously taught that all others are superstitions. Our ideas therefore are biased from the first, and even when we do learn to know a little about other religions and respect them it would be difficult for us to imagine ourselves born into them. Those who are Hindus can scarcely think of themselves as being born as Christians or Muhammadans, and just in the same way the Christian or Muhammadan has an equal difficulty in thinking of himself as a Hindu or a Buddhist, although it is practically certain that in some past life he has been in one or other of these religions.Bổn phận của đạo sinh Thông Thiên Học là học cách thấy sự vật như chúng là, và điều này đòi hỏi chế ngự, tỉnh thức và một khối lượng lao động nặng nề rất lớn. Ở phương Tây, chẳng hạn, người ta bị định kiến mạnh mẽ theo đường tôn giáo, vì chúng ta sinh ra trong một tôn giáo nhất định và được dạy dỗ cần mẫn rằng mọi tôn giáo khác đều là mê tín. Do đó, ý tưởng của chúng ta đã bị thiên lệch ngay từ đầu, và ngay cả khi ta học biết đôi chút về các tôn giáo khác và tôn trọng chúng thì ta vẫn khó mà tưởng tượng mình được sinh vào những tôn giáo ấy. Những người theo Ấn giáo hầu như khó nghĩ mình sinh ra làm tín đồ Cơ Đốc hay Hồi giáo, và tương tự như vậy, người Cơ Đốc hay Hồi giáo cũng gặp khó khăn ngang thế khi nghĩ mình là một người theo Ấn giáo hay Phật giáo, mặc dù thực tế gần như chắc chắn rằng trong một kiếp quá khứ nào đó y đã từng thuộc về một trong các tôn giáo ấy.
Many so-called protestant Christians will not even now trust a Roman Catholic, and the more ignorant people are, the greater is their distrust of that to which they are unaccustomed. The peasantry, for example, have an instinctive distrust of all foreigners, and there are many country places in England where, let us say, a Frenchman, unless in poverty and needing help, would certainly be regarded with suspicion. If he is hungry he will be fed, and treated with compassion; but let him come as a fellow-workman and all that he does will be criticised, laughed at, and suspected. Now of course all this comes from ignorance, and occurs because the peasantry are unaccustomed to meeting with foreigners.Nhiều người Cơ Đốc tự xưng là Kháng Cách đến nay vẫn không tin một người Công giáo La Mã, và càng ngu dốt bao nhiêu, người ta càng hoài nghi bấy nhiêu đối với cái mà họ không quen. Dân quê, chẳng hạn, có một sự nghi kỵ bản năng đối với mọi người ngoại quốc, và có nhiều vùng nông thôn ở Anh nơi mà, ta hãy nói, một người Pháp—trừ khi anh ta nghèo túng và cần giúp đỡ—chắc chắn sẽ bị nhìn với con mắt nghi ngờ. Nếu anh ta đói, anh sẽ được cho ăn và đối xử với lòng trắc ẩn; nhưng hãy để anh ta đến như một người thợ cùng làm, thì mọi điều anh làm sẽ bị chỉ trích, bị chế giễu, và bị ngờ vực. Dĩ nhiên tất cả những điều này xuất phát từ ngu dốt, và xảy ra vì dân quê không quen gặp gỡ người ngoại quốc.
The removal of such prejudice is one of the great advantages gained by an intelligent man when he travels. In the Theosophical Society men of different nations are being drawn much more closely together; Indians are learning to trust white people, and white people in turn are learning that Indians are much the same as themselves. I was working in Amsterdam during the Boer war, and though in Holland generally there was a strong feeling at the time against England, there was never the slightest trace of it among the Dutch Theosophical members. It is most interesting to attend one of the European Theosophical Conferences, and to see the really hearty good feeling which exists between men of different nations—how unfeignedly glad they are to see one another, and how they rejoice in one another’s company. One sees at once that if such fellow-feeling as exists between the members of the Theosophical Society could only spread to a majority of their fellow-countrymen in the various nations, war would at once become a ridiculous impossibility.Việc trừ khử những định kiến như vậy là một trong những lợi ích lớn mà người trí thức gặt hái được khi đi du lịch. Trong Hội Thông Thiên Học, những người thuộc các dân tộc khác nhau đang được kéo gần nhau hơn rất nhiều; người Ấn đang học tin vào người da trắng, và người da trắng đến lượt mình đang học rằng người Ấn cũng chẳng khác mấy với họ. Tôi đã làm việc ở Amsterdam trong chiến tranh Boer, và mặc dù ở Hoà Lan nói chung lúc ấy có một cảm tình mạnh mẽ chống nước Anh, thì giữa các hội viên Thông Thiên Học người Hà Lan không hề có một dấu vết nhỏ nào của điều đó. Rất thú vị khi dự một Hội nghị Thông Thiên Học châu Âu, và thấy tình cảm thân ái thật lòng tồn tại giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau—họ vui mừng không hề giả trá khi gặp nhau, và hân hoan trong bầu bạn của nhau. Người ta thấy ngay rằng nếu thứ tình đồng loại như tồn tại giữa các hội viên Hội Thông Thiên Học có thể lan rộng đến đa số đồng bào của họ trong các quốc gia khác nhau, thì chiến tranh lập tức sẽ trở nên một điều bất khả nực cười.
As things are now we form opinions on very slight grounds; you meet a person for the first time, and something that he says, or some trivial gesture, arouses in you a little dislike of him, so that there is a slight wall between you and him. This may seem an unimportant matter, yet if you are not careful that slight bias against the person will grow into a barrier which will for ever prevent you from understanding him. To a certain extent you see him through this thought-form that you have made, and you cannot see him correctly, for it is like looking through a twisted and coloured glass which distorts everything.Trong hoàn cảnh hiện nay, chúng ta hình thành ý kiến trên những căn cứ rất mỏng manh; bạn gặp một người lần đầu, và điều gì đó y nói, hoặc một cử chỉ vặt vãnh nào, khơi lên trong bạn một chút ác cảm với y, đến nỗi có một bức tường mỏng giữa bạn và y. Điều này có vẻ nhỏ nhặt, nhưng nếu bạn không cẩn trọng, thiên lệch nhỏ bé ấy chống lại người đó sẽ lớn lên thành một bức rào cản mà sẽ vĩnh viễn ngăn bạn không thể hiểu y. Ở một mức độ nào đó, bạn nhìn y qua hình tư tưởng mà bạn đã làm, và bạn không thể thấy y một cách chính xác, vì nó như nhìn qua một tấm kính méo mó và có màu, thứ làm biến dạng mọi thứ.
Sometimes, but not so often, a prejudice is in favour of the person, as in the case of a mother who can see no harm in what her child does, even though he may seriously harm others. Now whether they be against a person or in favour of him, both of these are equally prejudices, mental delusions which slay the real. The best way to see truly is to begin determinedly to look always for the good in every one, as our prejudices are generally on the other side, and we are sadly prone to see the evil where none exists. We differ from other people in colour, in dress, in manners and customs, and in outer forms of religion, but all these are merely externals, and all that goes to make up the real man behind and beneath all this is much the same in us all. It is not after all so difficult to learn to look behind the outer shells in which people conceal themselves. Thereby they usually make the worst of themselves, for the main faults nearly always lie on the surface, and the real gold is often successfully concealed. One who aspires to make progress must overcome this blindness to the worth of others, this tendency to judge by surface characteristics.Đôi khi, dù hiếm hơn, một định kiến lại nghiêng về phía có lợi cho người ấy, như trường hợp một người mẹ không thấy điều xấu nào trong những gì con mình làm, dẫu nó có thể gây hại nghiêm trọng cho người khác. Này, dù là chống lại một người hay nghiêng về phía y, cả hai đều đồng đẳng là định kiến, là những ảo tưởng của trí tuệ vốn giết chết cái thực. Cách tốt nhất để thấy chân thực là khởi sự, một cách quyết tâm, luôn tìm điều tốt nơi mọi người, vì các định kiến của chúng ta thường ở phía ngược lại, và chúng ta buồn thay dễ nghiêng thấy điều ác nơi nơi vốn chẳng có điều ác. Chúng ta khác nhau về màu da, y phục, phong thái và tập tục, và về các hình thức tôn giáo bên ngoài, nhưng tất cả những thứ đó chỉ là bề ngoài, và mọi điều hợp thành con người thực đằng sau và bên dưới tất cả những thứ ấy thì ở tất cả chúng ta rất tương đồng. Xét cho cùng, học cách nhìn xuyên qua vỏ ngoài mà người ta tự che đậy mình không quá khó. Bằng cách ấy, họ thường làm lộ ra điều tệ nhất của mình, vì các lỗi chính hầu như luôn nằm trên bề mặt, và vàng thật thì thường được che giấu khá kín. Người khao khát tiến bộ phải vượt thắng sự mù quáng này trước giá trị của người khác, khuynh hướng phán đoán theo đặc tính bề mặt này.
Remember that no one who desires to stand on the side of good as against evil can ever be refused the opportunity, no matter how ignorant or bigoted he may be. The Masters always take the good and use it wherever it appears, even if there is in the same man much that is bad also; and Their use of this force for good greatly helps the man who has generated it. For example, They will use the devotional force which is to be found even in a murderous fanatic, and thus They will allow him to do some good work and consequently to be helped.Hãy nhớ rằng không một ai muốn đứng về phía thiện chống lại ác mà lại có thể bị từ chối cơ hội, bất kể y ngu dốt hay cuồng tín đến đâu. Các Chân sư luôn lấy điều tốt và sử dụng nó ở bất cứ nơi đâu nó xuất hiện, ngay cả khi nơi cùng một con người còn có nhiều điều xấu; và việc Các Ngài sử dụng mãnh lực này vì điều thiện giúp ích rất nhiều cho chính người đã phát ra nó. Chẳng hạn, Các Ngài sẽ sử dụng mãnh lực sùng tín vốn có ngay cả nơi một kẻ cuồng tín sát nhân, và như thế Các Ngài sẽ cho phép y làm đôi chút công việc thiện và do đó được trợ giúp.
We also should imitate the Great ones; we should always try to take the good in everything and everybody. Do not look for and accentuate the evil in any one, but select and emphasize the good. Go on doing your own work to the best of your ability, and do not trouble yourself about the work of another, or about how he is doing it. Even if other people make difficulties in your way, climb over them and do not worry; they are your karma, and after all these things from outside do not really matter. Do not make the mistake of thinking that others are trying to thwart your good purposes. All these people are much like yourself, think of it—would you deliberately choose to do a wicked thing like that?Chúng ta cũng nên noi theo các Đấng Cao Cả; chúng ta phải luôn cố gắng đón lấy điều tốt trong mọi sự và mọi người. Đừng kiếm tìm và làm nổi bật điều ác nơi bất kỳ ai, nhưng hãy chọn lấy và nhấn mạnh điều thiện. Cứ làm công việc của riêng bạn tốt hết khả năng, và đừng bận lòng về công việc của người khác, hay về cách y đang làm. Dù người khác có gây khó cho bạn trên đường, cứ trèo qua chúng và đừng lo lắng; chúng là nghiệp quả của bạn, và sau hết, những điều từ bên ngoài ấy không thực sự quan trọng. Đừng mắc sai lầm nghĩ rằng người khác đang cố phá hỏng mục đích tốt đẹp của bạn. Tất cả những người này rất giống như chính bạn, hãy nghĩ thử xem—liệu bạn có cố tình chọn làm một việc độc ác như thế không?

CURIOSITY—TÒ MÒ

Be so centred in your work that you have no time to find fault with others, or to pry into their affairs. If only each man would mind his own business the world would be infinitely happier.Hãy tập trung đến mức bạn không còn thì giờ để bắt lỗi người khác, hay dòm ngó việc của họ. Nếu mỗi người chỉ lo việc của mình, thế giới sẽ hạnh phúc vô cùng.
This prying into other people’s affairs works much of evil, and it is quite accurate to say that the person who does it is suffering from a disease. The man who is prying is not usually doing it for the purpose of helping, but simply to satisfy his curiosity about something which does not concern him, which is symptomatic of his disease. Another symptom is that the man cannot keep to himself the information which he has so nefariously acquired, but must everlastingly be pouring it out to others as foolish and as wicked as himself. For it is wicked beyond all doubt, this gossip—one of the wickedest things in the world. Ninety-nine times out of a hundred what is said is an absolute fabrication, but it does an enormous amount of harm.Thói dòm ngó vào việc của người khác gây ra rất nhiều điều ác, và nói rằng người làm điều ấy đang mắc một căn bệnh là hoàn toàn chính xác. Người tọc mạch thường không hề làm vậy với mục đích giúp đỡ, mà chỉ để thoả mãn tính tò mò về chuyện chẳng dính líu gì đến y, điều vốn là triệu chứng của căn bệnh y mắc. Một triệu chứng khác là người ấy không thể giữ cho riêng mình những thông tin mà y đã thu được bằng cách xấu xa như vậy, mà cứ hết lần này đến lần khác tuôn nó ra cho những kẻ khác ngu xuẩn và độc ác như chính y. Bởi vì điều này là độc ác vượt quá mọi hồ nghi—chuyện ngồi lê đôi mách—một trong những điều độc ác nhất trên đời. Chín mươi chín lần trong một trăm, những gì được nói ra là bịa đặt hoàn toàn, nhưng nó gây ra một lượng tác hại khổng lồ.
It is not only the damage done to another person’s reputation; that is the least part of the evil. The gossip and his pestilential cronies perpetually make thought-forms of some evil quality which they choose to attribute to their victim, and then proceed to hurl them upon him in an unceasing stream. The natural effect of this will be to awaken in him the evil quality of which they accuse him, if there is anything at all in his nature which will respond to their malicious efforts. In the one case out of a hundred in which there is some truth in their spiteful prattle, their thought-forms intensify the evil, and so they pile up for themselves a store of the terrible karma which comes from leading a brother into sin. Theosophists especially should be careful to avoid these evils, because many of them are making some effort in the direction of developing psychic powers, and if they should use those for the purpose of prying into other people’s affairs or for sending evil thoughts to them, their karma would be of the most terrible nature.Không chỉ là thiệt hại gây ra cho thanh danh của người khác; đó còn là phần nhỏ nhất của điều ác. Kẻ buôn chuyện và đồng bọn ô uế của y liên tục tạo ra những hình tư tưởng về một phẩm chất ác nào đó mà họ chọn để gán cho nạn nhân của mình, rồi liên tiếp ném chúng vào y. Tác dụng tự nhiên của điều này sẽ là đánh thức nơi y phẩm chất ác mà họ buộc tội, nếu trong bản chất y có bất cứ gì đáp ứng được những nỗ lực hiểm độc của họ. Còn trong một lần hiếm hoi trong trăm lần mà có đôi chút sự thật trong lời nói xấu độc của họ, các hình tư tưởng của họ sẽ làm tăng cường cái ác, và như vậy họ chất chứa cho mình một kho nghiệp quả khủng khiếp vì đã dẫn một huynh đệ vào tội lỗi. Người Thông Thiên Học nhất là phải cẩn trọng tránh những điều ác này, vì nhiều người trong họ đang nỗ lực ít nhiều theo hướng phát triển quyền năng thông linh, và nếu họ dùng những quyền năng ấy để dòm ngó việc của người khác hay để gửi các tư tưởng ác đến họ, nghiệp quả của họ sẽ thuộc loại khủng khiếp nhất.
Never speak unless you know, and not even then unless you are absolutely certain that some definite good will come of it. Before you speak ask yourself about what you are going to say: “Is it true? Is it kind? Is it useful?” And unless you can answer these three questions in the affirmative, your duty is to remain silent. I am well aware that an absolute following of this rule would reduce the conversation of the world by about ninety per cent, but that would be an unspeakable advantage, and the world would advance much more rapidly.Đừng bao giờ nói trừ phi bạn biết rõ, và ngay cả khi đó cũng đừng nói nếu bạn không hoàn toàn chắc chắn rằng sẽ có một điều thiện xác định nảy sinh từ đó. Trước khi nói, hãy tự hỏi về điều bạn sắp nói: “Nó có đúng không? Nó có tử tế không? Nó có hữu ích không?” Và trừ phi bạn có thể trả lời cả ba câu hỏi này bằng khẳng định, bổn phận của bạn là im lặng. Tôi biết rõ rằng nếu theo sát tuyệt đối quy tắc này thì cuộc chuyện trò trên đời sẽ giảm đi khoảng chín mươi phần trăm, nhưng đó sẽ là một điều lợi không sao nói xiết, và thế giới sẽ tiến nhanh hơn nhiều.
When we understand the underlying unity of all we cannot be otherwise than helpful, we cannot stand aside from our brother’s sorrow. Of course there may be many cases where physical aid is impossible, but at least we can always give the help of sympathy, compassion and love, and this is clearly our duty. For a man who realizes Theosophy harshness is impossible. Any member who acts roughly or coarsely is failing in his Theosophy, and if he fails in patience he is failing in comprehension. To understand all is to forgive all, to love all. Every man has his own point of view, and the shortest road for one man is not by any means necessarily the best for another. Every man has a perfect right to take his own evolution in hand in his own way, and to do with regard to it what he chooses, so long as he does not cause suffering or inconvenience to any one else. It is emphatically not our business to try to put everybody right, but only to see that all is right on our side in our relation with others. Before we undertake an effort to force someone else into our path it will be best for us carefully to examine his, for it may be better for him. We ought to be always ready to help freely to the fullest extent of our power, but we ought never to interfere.Khi chúng ta thấu hiểu nhất thể nền tảng của vạn hữu, chúng ta không thể không trở nên trợ giúp; chúng ta không thể đứng ngoài trước nỗi sầu muộn của huynh đệ mình. Tất nhiên có thể có nhiều trường hợp sự trợ giúp vật chất là bất khả, nhưng ít ra ta luôn có thể trao sự giúp đỡ của cảm thông, từ bi và tình thương, và rõ ràng đó là bổn phận của ta. Với người thấu triệt Thông Thiên Học, sự thô bạo là bất khả. Bất kỳ hội viên nào hành xử thô lỗ hay cộc cằn là đang thất bại trong Thông Thiên Học của mình, và nếu y thất bại trong nhẫn nại, y thất bại trong thấu hiểu. Hiểu tất cả là tha thứ tất cả, là yêu tất cả. Mỗi người đều có quan điểm riêng, và con đường ngắn nhất đối với người này tuyệt nhiên không nhất thiết là con đường tốt nhất cho người khác. Mỗi người có quyền trọn vẹn để tự cầm nắm sự tiến hoá của mình theo cách riêng, và xử trí liên hệ đến điều đó theo điều y chọn, miễn là y không gây khổ đau hay phiền toái cho bất cứ ai khác. Nhấn mạnh rằng không phải việc của chúng ta là cố gắng uốn nắn tất cả mọi người cho đúng, mà chỉ là để bảo đảm rằng mọi điều đều đúng về phía chúng ta trong mối liên hệ với người khác. Trước khi khởi sự một nỗ lực để ép ai đó đi vào đường của chúng ta, tốt hơn hết là chúng ta cẩn thận xem xét con đường của y,  vì nó có thể tốt hơn đối với y. Chúng ta phải luôn sẵn sàng giúp đỡ một cách tự do đến tận mức năng lực của mình, nhưng không bao giờ được can thiệp.

KNOW THYSELF—HÃY TỰ BIẾT MÌNH

The old Greek saying Gnothi seauton, know thyself, is a fine piece of advice, and self-knowledge is absolutely necessary to any candidate for progress. And yet we must beware lest our necessary self-examination should degenerate into morbid introspection, as it often does with some of the best of our students. Many people are constantly worrying themselves lest unawares they should be “sliding back,” as they call it. If they understood the method of evolution a little better they would see that no one can slide back when the whole current is moving steadily forward.Câu nói cổ của người Hy Lạp Gnothi seauton ,  hãy tự biết mình, là một lời khuyên tuyệt vời, và tự tri là điều tuyệt đối cần thiết cho bất kỳ ứng viên nào muốn tiến bộ. Nhưng chúng ta cũng phải coi chừng kẻo việc tự xét cần thiết ấy lại thoái hoá thành sự soi xét bệnh hoạn, như nó thường làm nơi một số đạo sinh tốt nhất của chúng ta. Nhiều người liên tục lo lắng rằng họ có thể “trượt lùi” mà không hay, như cách họ gọi. Nếu họ hiểu phương pháp của tiến hoá tốt hơn chút nữa, họ sẽ thấy rằng chẳng ai có thể trượt lùi khi cả dòng thác đang chảy đều về phía trước.
As a torrent comes rushing down a slope, many little eddies are formed behind rocks, or perhaps where the water is whirling round and round, and therefore for the moment some of it is moving backward; but yet the whole body of water, eddies and all, is being swept on in the rush of the torrent, so that even that which is apparently moving backwards in relation to the rest of the stream is really being hurried forward along with the rest. Even the people who are doing nothing towards their evolution, and let everything go as it will, are all the while gradually evolving, because of the irresistible force of the LOGOS which is steadily pressing them onwards; but they are moving so slowly that it will take them millions of years of incarnation and trouble and uselessness to gain even a step.Như một dòng thác tuôn ào ạt xuống dốc, nhiều vòng xoáy nhỏ hình thành sau các phiến đá, hoặc ở nơi nước xoáy vòng vòng, và vì thế trong khoảnh khắc nào đó, một phần nước đang chảy ngược; nhưng toàn khối nước, cả các vòng xoáy nữa, vẫn đang bị cuốn đi theo dòng thác đổ, đến nỗi ngay cả phần nước dường như đang chảy ngược so với phần còn lại của dòng cũng thực ra đang bị giục lên phía trước cùng với cả khối. Ngay cả những người chẳng làm gì cho sự tiến hoá của mình, và để mọi thứ muốn ra sao thì ra, vẫn đang dần dần tiến hoá, vì quyền năng không thể cưỡng của Thượng đế đang đều đặn thúc đẩy họ tiến lên; nhưng họ di chuyển quá chậm đến nỗi sẽ phải mất hàng triệu năm lâm phàm và phiền não và vô ích để đạt được dù chỉ một bước.
The method in which this is managed is delightfully simple and ingenious. All the evil qualities in man are vibrations of the lower matter of the respective planes. In the astral body, for example, selfishness, anger, hatred, jealousy, sensuality, and all qualities of this kind are invariably expressed by vibrations of the lower type of astral matter, while love, devotion, sympathy, and emotions of that class are expressed only in matter of the three higher sub-planes. From this flow two remarkable results. It must be borne in mind that each sub-plane of the astral vehicle has a special relation to the corresponding sub-plane in the mental body; or to put it more accurately, the four lower sub-planes of the astral correspond to the four kinds matter in the mental body, while the three higher correspond to the causal vehicle.Phương pháp dùng để xoay xở việc này thật giản dị và tài tình. Mọi phẩm chất xấu nơi con người đều là những rung động của loại chất thấp hơn của các cõi tương ứng. Ở thể cảm dục, chẳng hạn, vị kỷ, sân hận, thù ghét, ganh tỵ, tính dục, và tất cả các phẩm chất loại này luôn luôn được biểu lộ bằng những rung động của loại chất liệu cảm dục thấp, trong khi tình thương, sùng tín, cảm thông và những cảm xúc cùng loại chỉ được biểu lộ trong chất liệu của ba cõi phụ cao. Từ đây phát sinh hai kết quả đáng chú ý. Cần ghi nhớ rằng mỗi cõi phụ của thể cảm dục có liên hệ đặc biệt với cõi phụ tương ứng trong thể trí; hay nói chính xác hơn, bốn cõi phụ thấp của thể cảm dục tương ứng với bốn loại chất liệu trong thể trí, trong khi ba cõi phụ cao tương ứng với vận cụ nguyên nhân.
Therefore it will be seen that only higher qualities can be built into the causal body, since the vibrations created by the lower can find in it no matter which is capable of responding to them. Thence it emerges that while any good which the man developes within himself records itself permanently by a change in his causal body, the evil which he does and thinks and feels cannot possibly touch the real ego, but can only cause disturbance and trouble to the mental body, which is renewed for each fresh incarnation. Of course the result of this evil does store itself in the mental and astral permanent atoms, and so the man has to face it over and over again, but that is a very different matter from taking it into the ego and making it really a part of himself.Vì vậy, có thể thấy rằng chỉ các phẩm tính cao mới có thể được xây nhập vào thể nguyên nhân, vì những rung động do các phẩm chất thấp tạo ra không thể tìm thấy trong đó thứ chất liệu nào có thể đáp ứng với chúng. Từ đó hiển lộ rằng trong khi bất kỳ điều thiện nào mà con người phát triển trong chính mình đều tự ghi khắc một cách vĩnh viễn bằng một biến đổi trong thể nguyên nhân, thì điều ác mà y làm, nghĩ và cảm không thể nào chạm tới chân ngã thực sự, mà chỉ có thể gây khuấy động và phiền toái cho thể trí, vốn được đổi mới cho mỗi lần nhập thể mới. Dĩ nhiên, hậu quả của điều ác đó có tích chứa trong các Nguyên tử trường tồn của thể trí và thể cảm dục, và như thế con người phải đối mặt với nó hết lần này sang lần khác, nhưng đó là chuyện rất khác so với việc mang nó vào chân ngã và biến nó thực sự thành một phần của chính mình.
The second remarkable result produced is that a certain amount of force directed towards good produces an enormously greater effect in proportion than the same amount of force directed towards evil. If a man throws a certain amount of energy into some evil quality it has to express itself through the lower and heavier astral matter; and while any kind of astral matter is exceedingly subtle as compared with anything on the physical plane, yet as compared with the higher matter of its own plane it is just as gross as lead is on the physical plane when compared with the finest ether.Kết quả đáng chú ý thứ hai là một lượng mãnh lực nhất định hướng về điều thiện tạo ra một hiệu quả lớn lao vô chừng so với cùng lượng mãnh lực ấy nếu hướng về điều ác. Nếu một người ném một lượng năng lượng nào đó vào một phẩm chất ác, nó phải biểu lộ qua chất liệu cảm dục thấp và nặng; và trong khi bất cứ loại chất liệu cảm dục nào cũng cực kỳ vi tế so với bất cứ thứ gì trên cõi hồng trần, thì so với chất liệu cao hơn của chính cõi nó, nó lại thô lậu như chì trên cõi hồng trần khi so với loại dĩ thái tinh vi nhất.
If therefore a man should exert exactly the same amount of force in the direction of good, it would have to move through the much finer matter of these higher sub-planes and would produce at least a hundred times as much effect, or if we compare the lowest with the highest, probably more than a thousand times. Remember that even in addition to what has been said as to the effect of force in different grades of matter, we have the other great fact that the LOGOS Himself is by His resistless power steadily pressing the whole system onwards and upwards, and that, however slow this cyclic progression may seem to us, it is a fact which cannot be neglected, for its effect is that a man who accurately balances his good and evil comes back, not to the same actual position, but to the same relative position, and therefore even he has made some slight advance, and is as it were in a position just a little than that which he has actually deserved and made for himself.Vì vậy, nếu một người vận dụng đúng cùng lượng mãnh lực ấy theo hướng điều thiện, nó sẽ phải chuyển động qua chất liệu vi tế hơn nhiều của các cõi phụ cao này và sẽ tạo ra ít nhất một trăm lần hiệu quả, hoặc nếu ta so sánh thấp nhất với cao nhất, có lẽ hơn một nghìn lần. Hãy nhớ rằng ngoài những gì đã nói về tác dụng của mãnh lực trong các đẳng cấp chất liệu khác nhau, ta còn có một sự kiện vĩ đại khác là chính Thượng đế đang bằng quyền năng bất khả kháng của Ngài đều đặn thúc đẩy cả hệ thống tiến lên và hướng thượng, và rằng cho dù sự tiến trình chu kỳ này có vẻ chậm chạp đối với chúng ta, thì nó vẫn là một thực tại không thể bỏ qua; vì tác dụng của nó là một người cân bằng đúng mức điều thiện và điều ác sẽ trở lại không phải cùng vị trí thực tế, mà cùng vị trí tương đối, và do đó ngay cả y cũng đã có tiến một chút, và như thể ở trong một vị thế nhỉnh hơn đôi chút so với vị thế mà y thực sự đáng được và tự tạo cho mình.
It will be clear from these considerations that, if any one is so foolish as to want to get really backwards against the stream, he will have to work hard and definitely towards evil; there is no fear of “sliding” back. That is one of the old delusions which remains from the times of the belief in the orthodox devil, who was so much stronger than God that everything in the world was working in his favour. Really the exact opposite is the case, and everything round a man is calculated to assist him, if he only understands it.Từ những cân nhắc này sẽ rõ ràng rằng, nếu ai đó ngu dại đến nỗi muốn thực sự lùi ngược dòng, y sẽ phải làm việc cật lực và dứt khoát theo hướng điều ác; không có sợ hãi nào về chuyện “trượt” lùi cả. Đó là một trong những ảo tưởng cũ còn sót lại từ thời người ta tin vào con quỷ theo tín điều chính thống, kẻ vốn mạnh hơn Thượng đế đến độ mọi thứ trên đời làm việc đều thuận lợi cho nó. Thực tế hoàn toàn ngược lại, và mọi điều quanh một con người đều được tính toán để trợ giúp y, nếu y chỉ hiểu nó.
So many of our most conscientious people are just like the child who has a little garden of his own, and constantly pulls up his plants to see how the roots are growing—with the result of course that nothing grows at all. We must learn not to think of ourselves personally, nor of our personal progress, but enter the path of development, go on working for others to the best of our ability, and trust our progress to take care of itself. The more a scientist thinks about himself the less mental energy he has for the problems of science; the more a devotee thinks about himself the less devotion has he to lavish upon his object.Quá nhiều người tận tâm nhất của chúng ta giống như đứa trẻ có một mảnh vườn riêng, và liên tục nhổ cây của mình lên để xem rễ chúng mọc thế nào—với hệ quả, dĩ nhiên, là chẳng thứ gì mọc lên cả. Chúng ta phải học không nghĩ về mình như một cá nhân, cũng chẳng nghĩ về sự tiến bộ cá nhân của mình, mà bước vào con đường phát triển, tiếp tục làm việc cho người khác tốt hết khả năng, và phó mặc sự tiến bộ của mình cho chính nó. Một nhà khoa học càng nghĩ về bản thân bao nhiêu thì càng ít năng lượng trí tuệ để dành cho các vấn đề của khoa học bấy nhiêu; một người sùng tín càng nghĩ về mình, thì càng ít lòng sùng tín để dâng trọn cho đối tượng của mình.
Some self-examination is necessary, but it is a fatal mistake to spend too much time in self-examination; it is like spending all one’s time in oiling and tinkering at the machinery. We use what faculties we have, and in the use of them others will develope and true progress will be made. If you are learning a language, for example, it is a mistake to try to learn it from books quite perfectly before you make any attempt to speak it; you must plunge into it, and make mistakes in it, and in the effort you will learn in due course to speak without mistake. So in the course of time what is called renunciation will come naturally, and even easily. No doubt when men first attempt to live the higher life they do definitely renounce many things which are pleasures to others—which still have a strong attraction even for them; but soon the man finds that the attraction of such pleasures has ceased, and that he has neither time nor inclination for the lower enjoyments.Một ít tự xét là cần thiết, nhưng là sai lầm chết người nếu dành quá nhiều thời giờ cho việc tự xét; nó giống như bỏ cả thì giờ để tra dầu và vặt vãnh sửa chữa bộ máy. Chúng ta sử dụng những năng lực mình đang có, và trong việc sử dụng chúng, các năng lực khác sẽ phát triển và tiến bộ đích thực sẽ được tạo ra. Nếu bạn đang học một ngôn ngữ, chẳng hạn, thì là sai lầm nếu cố gắng học nó thật hoàn hảo từ sách trước khi thử nói nó một chút nào; bạn phải đắm mình vào, và mắc lỗi với nó, và trong nỗ lực ấy bạn sẽ học được theo thời gian để nói mà không mắc lỗi. Vậy thì theo dòng thời gian, điều gọi là sự từ bỏ sẽ đến một cách tự nhiên, và thậm chí dễ dàng. Không hồ nghi gì, khi con người lần đầu tiên cố sống đời sống cao hơn, họ có từ bỏ dứt khoát nhiều điều vẫn là thú vui đối với kẻ khác—những điều vẫn còn có hấp lực mạnh mẽ ngay cả với họ; nhưng chẳng bao lâu người ấy sẽ nhận ra rằng hấp lực của các thú vui như thế đã chấm dứt, và y không còn thì giờ hay khuynh hướng cho các lạc thú thấp nữa.
Learn above all things not to worry. Be happy, and make the best of everything. Try to raise yourself and help others. Contentment is not incompatible with aspirations. Optimism is justified by the certainty of the ultimate triumph of good, though if we take only the physical plane into account it is not easy to maintain that position. One’s attitude in this matter depends chiefly upon the level at which one habitually keeps one’s consciousness. If it is centred chiefly in the physical plane one sees little but the misery, but when it becomes possible to centre it at a higher level the joy beyond always shines through. I know the BUDDHA said that life was misery, and it is quite true on the whole with regard to the manifested life down here, yet the Greeks and Egyptians managed to extract much joy even from this lower life by taking it from the philosophical point of view.Hãy học trên hết mọi điều là đừng lo lắng. Hãy vui và tận dụng điều tốt nhất từ mọi sự. Cố gắng vươn mình lên và giúp đỡ kẻ khác. Sự mãn nguyện không hề mâu thuẫn với hoài bão. Lạc quan là chính đáng nhờ sự chắc chắn về thắng lợi tối hậu của điều thiện, dù nếu chúng ta chỉ tính đến cõi hồng trần thì không dễ để giữ vững lập trường ấy. Thái độ của mỗi người trong vấn đề này chủ yếu tùy thuộc vào cấp độ mà người ấy thường giữ tâm thức của mình. Nếu nó chủ yếu tập trung ở cõi hồng trần, người ta thấy chẳng nhiều gì ngoài khổ lụy; nhưng khi có thể tập trung nó ở một cấp độ cao hơn thì niềm vui bên kia luôn chiếu xuyên qua. Tôi biết Đức PHẬT đã nói đời là khổ, và nhìn chung điều ấy quả đúng đối với sự sống biểu lộ nơi đây; vậy mà người Hy Lạp và Ai Cập vẫn xoay sở rút tỉa nhiều niềm vui ngay từ đời sống thấp này khi nhìn nó từ quan điểm triết học.
We never lose anything by making the best of things, but gain very much in happiness and in the power of making others happy. As our sympathy and our love grow we shall be able to receive within ourselves all the streams of emotion and of thought which come to us from others, and yet we shall remain within ourselves unaffected, calm and joyous, like the great ocean which receives the waters of many rivers and yet remains always in equilibrium.Chúng ta không bao giờ mất mát gì khi tận dụng tốt mọi sự, mà còn được rất nhiều hạnh phúc và thêm năng lực làm người khác hạnh phúc. Khi lòng cảm thông và tình thương của chúng ta lớn dần, chúng ta sẽ có thể đón nhận vào trong mình mọi dòng cảm xúc và tư tưởng đến với ta từ người khác, thế mà ta vẫn ở trong chính mình bất động, bình thản và hoan hỷ, như đại dương mênh mông đón nhận nước của muôn sông mà vẫn luôn quân bình.
The inner life of an aspirant ought not to be one of continual oscillation. Outer moods change constantly because they are affected by all sorts of outside influences. If you find yourself depressed, it may be due to any one of half-a-dozen reasons, none of them of any real importance. The physical body is a fertile source of such ills; a trifling indigestion, a slight congestion in the circulation, or a little over-fatigue may account for many conditions which feel quite serious. Even more frequently depression is caused by the presence of some astral entity who is himself depressed, and is hovering round you either in search of sympathy or in the hope of drawing from you the vitality which he lacks. We must simply learn to disregard depression altogether—to throw it off as a sin and a crime against our neighbors, which it really is; but, anyhow, whether we can succeed fully in dispersing its clouds or not we must learn simply to go on as though it were not there.Đời sống nội tâm của một người chí nguyện không nên là một sự dao động liên miên. Tâm cảnh bên ngoài đổi thay không ngừng vì bị tác động bởi muôn vàn ảnh hưởng từ bên ngoài. Nếu bạn thấy mình u uất, có thể là do bất kỳ một trong dăm ba nguyên do, mà chẳng cái nào thật sự quan trọng. Thể xác là nguồn phì nhiêu của những chứng trạng như thế; một cơn rối loạn tiêu hóa vặt, một sự ứ trệ nhẹ trong tuần hoàn, hay một chút quá mệt cũng có thể giải thích nhiều tình trạng cảm thấy  hết sức nghiêm trọng. Thậm chí thường hơn, buồn bã sinh ra do sự hiện diện của một thực thể cảm dục vốn tự y cũng đang u uất, lảng vảng quanh bạn hoặc để tìm cảm thông, hoặc mong rút từ bạn sinh lực mà y thiếu. Chúng ta phải học cách đơn giản là hoàn toàn không đếm xỉa tới u uất—quẳng nó đi như một tội lỗi và tội ác đối với đồng loại, vốn đúng là như thế; nhưng dẫu sao, dù ta có thành công trọn vẹn trong việc làm tan mây mù của nó hay không, ta cũng phải học cách đơn giản là tiếp tục như thể nó không hề ở đó.
Your mind is your own mind, into which you should allow entrance only to such thoughts as you, the ego, choose. Your astral body is also your own, and you should not allow in it any sensations except those which are good for the higher self. So you must manage these vibrations of depression, and absolutely decline to give harbourage to them. They must not be allowed to impinge upon you. If they do so impinge they must not be permitted to effect a lodgment. If, to some slight extent, in spite of your efforts, they do hang about you, then it is your duty to ignore them and to let no one else know that they even exist.Trí của bạn là trí của riêng bạn, vào đó bạn chỉ nên cho phép những ý nghĩ mà bạn, chân ngã, chọn lựa. Thể cảm dục của bạn cũng là của riêng bạn, và bạn không nên cho phép trong đó những cảm thọ nào ngoài những gì tốt cho chân ngã. Cho nên bạn phải xử lý những rung động u uất này, và dứt khoát khước từ chỗ trú ngụ cho chúng. Không được cho phép chúng chạm vào bạn. Nếu chúng có chạm được thì không được cho phép chúng bám trụ. Nếu trong một mức độ ít ỏi nào đó, bất chấp nỗ lực của bạn, chúng vẫn lảng vảng quanh bạn, vậy thì bổn phận của bạn là phớt lờ chúng và đừng để ai biết rằng chúng thậm chí có tồn tại.
Sometimes people tell me they have had moments of splendid inspiration and exaltation, and glowing devotion and joy. They do not realize that these are precisely the moments when the higher self succeeds in impressing himself upon the lower, and that all that which they feel is there all the time, but the lower self is not always conscious of it. Realize by reason and by faith that it is always there, and it becomes as though we felt it, even in the time when the link is imperfect and down here we feel it not.Đôi khi người ta nói với tôi họ đã có những khoảnh khắc đầy cảm hứng rạng ngời và thăng hoa, cùng lòng sùng mộ cháy sáng và hoan lạc. Họ không nhận ra rằng đó chính là những lúc chân ngã thành công trong việc in ấn chính mình lên hạ ngã, và rằng tất cả những gì họ cảm nhận vẫn ở đó suốt thời gian,  nhưng hạ ngã không phải lúc nào cũng ý thức được. Hãy nhận biết bằng lý trí và bằng niềm tin rằng nó luôn ở đó, và như thế nó trở thành như thể chúng ta cảm thấy nó, ngay cả vào lúc mối liên kết còn bất toàn và nơi đây chúng ta chưa cảm được nó.
But many a man, while admitting the truth of this in the abstract, yet says that he cannot perpetually feel this happiness because of his own defects and constant failures. His attitude in fact is very much that adopted in the litany: “Have mercy upon us miserable sinners.” Now we are all sinners in the sense that we all fall short of what we ought to do, and constantly do what we ought not to do, and constantly do what we ought not to do but there is no need to aggravate the offense by being miserable sinners. A miserable person is a public nuisance, because he is a centre of infection, and is spreading misery and sorrow all round upon his unfortunate neighbours—a thing which no man has a right to do. Any man with just the same feelings, who contrives to keep himself reasonably happy even while making determined efforts to reform, is not injuring others in at all the same way.Nhưng nhiều người, dù thừa nhận chân lý này một cách trừu tượng, vẫn nói rằng y không thể mãi mãi cảm nhận hạnh phúc ấy vì những khiếm khuyết và thất bại thường hằng của chính mình. Thái độ của y thực ra rất giống với lời van nài trong kinh nguyện: “Xin thương xót chúng con là những tội nhân khốn khổ.” Giờ đây, chúng ta đều là tội nhân theo nghĩa rằng tất cả đều chưa làm tròn điều phải làm, và liên tục làm điều không nên làm, nhưng không cần làm trầm trọng thêm lỗi lầm bằng cách trở thành những tội nhân đáng thương  . Một người đáng thương là một mối phiền toái công cộng, vì y là một trung tâm lây nhiễm, đang gieo rắc khổ lụy và sầu não lên những người láng giềng bất hạnh quanh mình—một điều mà không ai có quyền làm. Bất kỳ ai có đúng những cảm xúc tương tự, mà vẫn xoay sở giữ cho mình tương đối vui tươi ngay cả khi nỗ lực quyết liệt để tự cải hóa, thì không gây tổn hại cho người khác theo cách như thế.
People who think and speak of themselves as miserable worms are going exactly the right way to make themselves miserable worms, for what a man thinks, that he is. All such talk is usually hypocrisy, as you may easily see from the fact that the man who so readily calls himself a miserable worm in church would feel distinctly insulted if anybody else called him so in ordinary daily life. And whether it is hypocritical or not it is certainly nonsense, for we passed the reptilian stage of evolution long ago, if we ever were in it. Anyone who understands at all the influence of thought will realize that a man who really thinks himself a miserable worm has already deprived himself of any power of rising out of that state, while the man who realizes strongly that he is a spark of the divine life will feel ever hopeful and joyous, because in essence the divine is always joy. It is a great mistake to waste time repentance; what is past is past, and no amount of remorse can undo it. As one of our own Masters once said, “The only repentance that is worth anything whatever is the resolve not to do it again.”Những kẻ nghĩ và nói về mình như những con sâu bọ khốn khổ đang đi đúng con đường khiến mình trở thành sâu bọ khốn khổ, vì người nghĩ gì thì người đó là thế. Tất cả lời lẽ như thế thường là giả dối, như bạn dễ thấy từ sự kiện rằng kẻ dễ dàng gọi mình là “con sâu bọ khốn khổ” trong nhà thờ sẽ cảm thấy bị xúc phạm rõ ràng nếu ai khác gọi y như vậy trong đời sống thường nhật. Và dù có giả dối hay không thì chắc chắn đó cũng là điều vô nghĩa, vì chúng ta đã vượt qua giai đoạn bò sát trong tiến hoá từ lâu rồi, nếu thực ra chúng ta từng ở trong đó. Ai hiểu chút ít về ảnh hưởng của tư tưởng sẽ nhận ra rằng kẻ thực sự nghĩ mình là con sâu bọ khốn khổ đã tự tước mất mọi năng lực vươn ra khỏi trạng thái ấy, trong khi người nhận thức mạnh mẽ rằng mình là một tia lửa của sự sống thiêng liêng sẽ luôn cảm thấy hy vọng và hoan hỷ, bởi về bản thể, cái thiêng liêng luôn là hoan lạc. Lãng phí thời gian cho “ăn năn hối lỗi” là một sai lầm lớn; điều đã qua là đã qua, và không một mớ dằn vặt nào có thể đảo ngược. Như một trong các Chân sư của chúng ta từng nói: “Sự ăn năn duy nhất đáng giá bất cứ điều gì là quyết tâm không tái phạm.”

ASCETICISM—KHỔ HẠNH

Some mistaken ideas seem prevalent among our members upon the subject of asceticism, and it may be worth while to consider what it really is, and how far it may be useful. The word is usually taken to signify a life of austerities and of mortification of the body, though this is somewhat of a departure from the original meaning of the Greek word asketes, which is simply one who exercises himself as an athlete does. But ecclesiasticism impounded the word and changed its sense, applying it to the practice of all sorts of self-denial for the purpose of spiritual progress, on the theory that the bodily nature with its passions and desires is the stronghold of the evil inherent in man since the fall of Adam, and that it must therefore be suppressed by fasting and penance. In the grander Oriental religions we sometimes encounter a similar idea, based on the conception of matter as essentially evil, and following from that the deduction that an approach to ideal good or an escape from the miseries of existence can be effected only by subduing or torturing the body.Có vẻ như đang phổ biến giữa các hội viên của chúng ta một số quan niệm sai lầm về chủ đề khổ hạnh, và có lẽ đáng để xem xét thực chất của nó là gì, và nó hữu ích đến đâu. Từ này thường được hiểu là đời sống khắc khổ và hành xác, tuy điều đó có phần xa rời ý nghĩa nguyên thủy của từ Hy Lạp “asketes”, vốn chỉ đơn giản là người tự rèn luyện như vận động viên. Nhưng chủ nghĩa giáo sĩ đã chiếm dụng từ này và đổi nghĩa của nó, áp dụng vào việc thực hành đủ loại tự phủ nhận nhằm mục đích thăng tiến tinh thần, dựa trên thuyết cho rằng bản chất thân xác với dục tình và ham muốn là thành lũy của ác vốn hữu trong con người từ sau khi Adam sa ngã, và vì thế phải bị chế ngự bằng ăn chay khổ hạnh và đền tội. Trong các tôn giáo phương Đông cao cả, đôi khi ta cũng gặp một quan niệm tương tự, dựa trên ý niệm cho rằng vật chất vốn dĩ là ác, và từ đó suy ra rằng sự tiếp cận đến thiện lý tưởng hoặc thoát khỏi thống khổ của hiện hữu chỉ có thể thực hiện bằng cách khuất phục hay hành hạ thân xác.
The student of Theosophy will at once see that in both these theories there is dire confusion of thought. There is no evil inherent in man except such as he has himself generated in previous births; nor is matter essentially evil, since it is just as much divine as is spirit, and without it all manifestation of the Deity would be impossible. The body and its desires are not in themselves evil or good, but it is true that before real progress can be made they must be brought under the control of the higher self within. To torture the body is foolish; to govern it is necessary. “The men who perform severe austerities……. unintelligent, tormenting the aggregated elements forming the body, and Me also, seated in the inner body—know these demoniacal in their resolves.” (Bhagavad-Gita, xvii. 5,6.) And again, “The austerity done under a deluded understanding, with self-torture, …… that is declared of darkness.” (Ibid, xvii.)Đạo sinh của Thông Thiên Học sẽ lập tức thấy rằng ở cả hai thuyết ấy đều có sự lẫn lộn tư tưởng nghiêm trọng. Không có cái ác nào vốn sẵn trong con người ngoại trừ những gì chính y đã tạo ra trong các kiếp trước; vật chất cũng không vốn ác, vì nó cũng thiêng liêng không kém tinh thần, và nếu không có nó thì mọi sự biểu lộ của Thượng đế đều bất khả. Thân và các ham muốn của nó tự thân không phải là ác hay thiện, nhưng đúng là trước khi có thể thực sự tiến bộ, chúng phải được đặt dưới sự kiểm soát của chân ngã bên trong. Hành xác là dại dột; điều cần là điều ngự thân. “Những người thực hành khổ hạnh nghiêm khắc… vô minh, hành hạ các yếu tố kết hợp tạo thành thân, và cả Ta nữa, đang ngự trong nội thân—hãy biết rằng những kẻ ấy là ma tính trong quyết định của chúng.” (Bhagavad-Gita,  xvii. 5,6.) Và lại nữa: “Sự khổ hạnh được làm trong hiểu biết mê lầm, với hành xác, … đó được tuyên bố là của bóng tối.” (Ibid,  xvii . )
There appears to be a widely-spread delusion that to be really good one must always be uncomfortable—that discomfort as such is directly pleasing to the LOGOS. Nothing can be more grotesque than this idea, and in the above quoted texts from the Bhagavad-Gita we have a hint that it is perhaps worse than grotesque, for it is there said that they who torment the body are tormenting the LOGOS enshrined in it. With us in Europe this unfortunately common theory is one of the many horrible legacies left us by the ghastly blasphemy of Calvinism. I myself have actually heard a child say: “I feel so happy that I am sure I must be very wicked”—a truly awful result of criminally distorted teaching.Dường như có một ảo tưởng lan rộng rằng để thực sự tốt lành, người ta phải luôn luôn khó ở—rằng sự khó ở tự thân là điều làm đẹp lòng Thượng đế. Không có gì khôi hài quái gở hơn ý tưởng này, và trong các đoạn trích dẫn trên từ Bhagavad-Gita  chúng ta nhận được một ám chỉ rằng nó có lẽ còn tệ hơn quái gở, vì ở đó nói rằng những ai hành hạ thân xác là hành hạ Thượng đế đang ngự trong đó. Ở Châu Âu của chúng ta, thuyết bất hạnh đáng tiếc này là một trong nhiều di sản khủng khiếp do sự phạm thượng ghê sợ của thuyết Calvin để lại. Bản thân tôi từng thực sự nghe một đứa trẻ nói: “Con thấy hạnh phúc quá đến nỗi chắc chắn con phải rất xấu xa”—một kết quả thật khủng khiếp của giáo dục bị bóp méo đến mức tội lỗi.
Our Masters, who are so far above us, are full of joy; full of sympathy, but not of sorrow. We also must feel sympathy with others, but not identify ourselves with their sorrow. A man in great trouble can judge nothing clearly. To his vision all the world seems dark, and it appears as if no one should be happy. When he is in great joy, all the world appears bright, and it seems as if no one ought to be unhappy. Yet nothing is changed, not even he himself, but only his astral body. All the world is going on just the same, whether you are happy or unhappy. Do not identify yourself with your astral body, but try to get out of this web of illusion, these personal moods.Các Chân sư của chúng ta, Những Đấng cao xa hơn ta biết bao, tràn đầy hoan lạc; đầy cảm thông, nhưng không đầy sầu khổ. Chúng ta cũng phải cảm thông với người khác, nhưng đừng đồng hóa mình với nỗi khổ của họ. Một người đang trong đại nạn không thể phán đoán gì cho rõ ràng. Trong tầm nhìn của y, cả thế giới như tối tăm, và dường như chẳng ai nên hạnh phúc. Khi y đang trong đại hoan lạc, cả thế giới như sáng bừng, và dường như chẳng ai nên bất hạnh. Vậy mà chẳng có gì đổi thay, ngay cả chính y cũng vậy, mà chỉ có thể cảm dục của y. Cả thế giới vẫn vận hành như cũ, dù bạn hạnh phúc hay bất hạnh. Đừng đồng hóa mình với thể cảm dục, mà hãy cố gắng thoát ra khỏi tấm lưới ảo tưởng này, những tâm cảnh cá nhân ấy.
No doubt this ludicrous theory of the merit of discomfort comes partly from the knowledge that in order to make progress man must control his passions, and from the fact that such control is disagreeable to the unevolved person. But the discomfort is very far from being meritorious; on the contrary, it is a sign that the victory is not yet achieved. It arises from the fact that the lower nature is not yet dominated, and that a struggle is still taking place. When the control is perfect there will no longer be any desire for the lower, consequently no struggle and no discomfort. The man will live the right life and avoid the lower because it is perfectly natural for him to do so—no longer because he thinks he ought to make the effort, even though it may be difficult for him. So that the discomfort exists only at an intermediate stage, and not it, but its absence, is the sign of success.Không nghi ngờ gì, thuyết lố bịch về công đức của sự khó ở phần nào xuất phát từ sự hiểu biết rằng để tiến bộ, con người phải chế ngự dục tình, và từ thực tế rằng sự chế ngự ấy là điều khó chịu đối với người chưa phát triển. Nhưng sự khó chịu rất xa mới là công đức; trái lại, nó là dấu hiệu rằng chiến thắng chưa đạt. Nó phát sinh do hạ ngã chưa bị khuất phục, và cuộc tranh chiến vẫn đang diễn ra. Khi điều ngự trở nên hoàn hảo, sẽ không còn bất kỳ ham muốn đối với điều thấp nữa, hệ quả là không còn tranh chiến và không khó chịu. Con người sẽ sống đời sống đúng đắn và tránh điều thấp bởi vì điều đó đối với y là hoàn toàn tự nhiên—không còn vì y nghĩ mình nên gắng sức dù có thể khó cho y. Bởi vậy, sự khó chịu chỉ tồn tại ở một giai đoạn trung gian, và chính không có nó, chứ không phải có nó, mới là dấu hiệu của thành công.
Another reason for the gospel of the uncomfortable is a confusion of cause and effect. It is observed that the really advanced person is simple in his habits, and often careless about a large number of minor luxuries that are considered important and really necessary by the ordinary man. But such carelessness about luxury is the effect, not the cause, of his advancement. He does not trouble himself about these little matters because he has largely outgrown them and they no longer interest him—not in the least because he considers them as wrong; and one who, while still craving for them, imitates him in abstaining from them, does not thereby become advanced. At a certain stage a child plays with dolls and bricks; a few years later he has become a boy and his play is cricket and football; later again when he is a young man these in turn lose much of their interest, and he begins to play the game of love and life. But an infant who chooses to imitate his elders, who throws aside his dolls and brick and attempts to play cricket, does not thereby transcend his infancy. As his natural growth takes place he puts away childish things; but he cannot force the growth merely by putting these away, and playing at being older.Một nguyên do khác cho “phúc âm của sự khó ở” là sự lẫn lộn giữa nhân và quả. Người ta nhận thấy rằng người thực sự tiến bộ thì đơn giản trong tập quán, và thường xuề xòa trước một loạt tiện nghi nhỏ nhặt được kẻ thường xem là quan trọng và thực sự cần thiết. Nhưng sự xuề xòa đối với tiện nghi ấy là hệ quả, không phải nguyên nhân của sự tiến bộ. Y không bận lòng về những chuyện lặt vặt ấy vì y phần lớn đã vượt qua chúng và chúng không còn hấp dẫn y—không phải chút nào vì y cho chúng là sai; còn kẻ, trong khi vẫn khao khát chúng, lại bắt chước y trong việc kiêng khem chúng, thì bởi vậy không hề trở nên tiến bộ. Ở một giai đoạn nào đó, một đứa trẻ chơi búp bê và gạch; vài năm sau nó thành cậu bé, và trò chơi của nó là crickê và bóng đá; đến nữa khi nó là thanh niên, thì những trò này lần lượt mất nhiều phần hấp dẫn, và nó bắt đầu chơi trò tình yêu và cuộc đời. Nhưng một hài nhi chọn bắt chước người lớn, ném búp bê và gạch sang một bên và cố chơi crickê, thì không vì thế mà vượt khỏi tuổi ấu thơ. Khi tăng trưởng tự nhiên diễn ra, nó sẽ bỏ đi những điều trẻ con; nhưng nó không thể cưỡng bức sự trưởng thành đơn thuần bằng cách loại bỏ các thứ ấy và đóng vai người lớn.
There is no virtue whatever merely in becoming uncomfortable for discomfort’s sake; but there are three cases in which voluntary discomfort may be a part of progress. The first is when it is undertaken for the sake of helping another, as when a man nurses a sick friend or labours hard to support his family. The second is when a man realizes that some habit to which he is addicted is a hindrance in his upward way—such a habit, say, as tobacco-smoking, alcohol-drinking, or corpse-eating. If he is in earnest he gives up the habit instantly, but because the body is accustomed to that particular form of pollution it misses it, cries out for it, and causes the man a great deal of trouble. If he holds firm to his resolution his body will presently adapt itself to the new conditions, and when it has done so there will be no further discomfort. But in the intermediate stage, while the battle for mastery between the man and his body is still being fought, there may be a good deal of suffering, and this must be taken as the karma of having adopted the vice which he is now forsaking. When the suffering passes the karma is paid, the victory is won, and a step in evolution is achieved.Hoàn toàn không có đức hạnh nào chỉ trong việc tự làm cho mình khó ở vì bản thân sự khó ở; nhưng có ba trường hợp trong đó sự khó ở tự nguyện có thể là một phần của tiến bộ. Thứ nhất là khi nó được thực hiện vì giúp kẻ khác, như khi một người túc trực chăm nom bạn ốm hoặc lao động cật lực để nuôi gia đình. Thứ hai là khi một người nhận ra rằng một thói quen nào đó mà y đang nghiện ngập là chướng ngại trên đường thượng tiến—chẳng hạn thói hút thuốc, uống rượu, hay ăn xác động vật. Nếu y nghiêm túc, y từ bỏ thói quen tức khắc, nhưng vì thân đã quen với dạng ô nhiễm đặc thù ấy, nó sẽ nhớ nhung, sẽ đòi hỏi, và gây cho người ấy rất nhiều rắc rối. Nếu y giữ vững quyết tâm, thân sẽ sớm tự điều chỉnh với điều kiện mới, và khi đã làm được thế, sẽ không còn khó chịu nữa. Nhưng ở giai đoạn trung gian, trong khi trận chiến giành quyền làm chủ giữa con người và thân xác vẫn còn đang diễn ra, có thể có nhiều đau khổ, và điều này phải được coi là nghiệp của việc đã nhận lấy thói xấu mà nay y đang từ bỏ. Khi khổ đau qua đi, nghiệp được trả, chiến thắng đạt được, và một bước tiến trong tiến hoá đã hoàn thành.
I am aware that there are rare cases (when people are physically very weak) in which it might be dangerous to relinquish a bad habit instantaneously. The morphine habit is an instance in point; one who is a victim to its horrors usually finds it necessary gradually to decrease the dose, because the strain of abrupt cessation might well be great than the physical body could endure. It would seem that there are certain pitiable cases in which the same system of gradual decrease must be applied to the flesh-eating habit. Doctrine tell us that while the digestion of flesh takes place chiefly in the stomach, that of most forms of vegetable food belongs to the work of the intestines; and therefore a person in very weak health sometimes finds it advisable to give to these various organs a certain amount of time to adjust themselves to the necessary change, and to practise, as it were, the functions which they are now required to fulfil. The steady pressure of the will, however, will soon bring the body into subjection and adapt it to the new order of things.Tôi biết có những trường hợp hiếm hoi (khi người ta thể chất rất yếu) mà việc từ bỏ ngay một thói quen xấu có thể nguy hiểm. Thói nghiện morphin là một ví dụ; kẻ làm nạn nhân của kinh hoàng ấy thường thấy cần phải giảm liều dần dần, vì cú dừng đột ngột có thể vượt quá sức chịu đựng của thể xác. Có vẻ như có một số trường hợp đáng thương mà cùng một hệ thống giảm dần ấy phải được áp dụng cho thói ăn thịt. Y học cho biết rằng trong khi sự tiêu hóa thịt diễn ra chủ yếu ở dạ dày, thì sự tiêu hóa phần lớn các dạng thức ăn thực vật thuộc về công việc của ruột; vì vậy một người rất yếu đôi khi thấy khôn ngoan khi cho các cơ quan khác nhau ấy một khoảng thời gian nhất định để tự điều chỉnh với thay đổi cần thiết, và “tập” các chức năng mà nay chúng được yêu cầu đảm đương. Tuy nhiên, áp lực bền bỉ của ý chí sẽ sớm đưa thân xác vào chỗ quy thuận và thích ứng với trật tự mới.
The third cases in which discomfort may have its use is when a man deliberately forces his body to do something which it dislikes, in order to make sure that it will obey him when necessary. But it must be distinctly understood that even then the merit is in the ready obedience of the body, and not in its suffering. In the way a man may gradually learn indifference to many of the minor ills of life, and so save himself much worry and irritation. In this training himself in will, and his body in obedience, he must be careful to attempt only such things as are advantageous. The Hatha Yogi developes will-power, assuredly, when he holds his arm above his head until it withers; but while he grains enormously in will-power he also loses the use of his arm. The will-power can be developed just as well by some effort the result of which will be permanently useful instead of permanently hampering—by the conquest, for example, of irritability or pride, impatience or sensuality. It would be well if all who feel a yearning for asceticism would take to heart the words of wisdom in the Bhagavad-Gita:Trường hợp thứ ba trong đó sự khó ở có thể có ích là khi một người cố ý buộc thân làm điều mà nó không ưa, để bảo đảm rằng khi cần, nó sẽ vâng phục. Nhưng phải hiểu rõ rằng ngay cả khi ấy, công đức nằm ở sự sẵn sàng vâng phục của thân, chứ không nằm trong sự đau khổ của nó. Bằng cách này, người ta có thể dần học được sự điềm nhiên trước nhiều nỗi khổ nho nhỏ của đời, và nhờ vậy tránh cho mình nhiều bận lòng và bực bội. Khi rèn luyện mình về ý chí, và rèn luyện thân về vâng phục, y phải cẩn thận chỉ thử những điều có lợi. Hành giả Hatha Yoga chắc chắn phát triển sức mạnh ý chí khi y giơ tay trên đầu cho đến khi tay khô héo; nhưng trong khi gặt hái cực nhiều ý chí, y cũng đánh mất công dụng của cánh tay. Ý chí có thể được phát triển cũng tốt như thế bằng một nỗ lực mà kết quả sẽ hữu ích lâu dài thay vì cản trở lâu dài—bằng chiến thắng, chẳng hạn, tính dễ cáu hay kiêu mạn, nôn nóng hay phóng dật. Sẽ tốt biết bao nếu tất cả những ai cảm thấy khát khao khổ hạnh chịu khắc cốt ghi tâm lời minh triết trong Bhagavad-Gita:
“Purity, straightforwardness, continence and harmlessness are called the austerity of the body. Speech causing no annoyance, truthful, pleasant and beneficial ……is called the austerity of speech. Mental happiness, equilibrium, silence, self-control, purity of nature—this is called the austerity of the mind.” (xvii. 14, 15,)“Thanh khiết, trực thắn, tiết dục và vô tổn hại được gọi là khổ hạnh của thân. Lời nói không gây phiền nhiễu, chân thật, êm ái và lợi lạc…… được gọi là khổ hạnh của ngôn. Hỷ lạc nội tâm, quân bình, tĩnh lặng, tự chủ, thanh tịnh bản tánh—đây được gọi là khổ hạnh của tâm.” (xvii. 14, 15,)
Note especially that in this last verse mental happiness is described as the first characteristic of the austerity of the mind—the first sign of the perfect self-control necessary for one who wishes to make real progress. It is emphatically our duty to be happy; morbidity, gloom or depression mean always failure and weakness, because they mean selfishness. The man who allows himself to brood over his own sorrows or wrongs is forgetting his duty to his fellows. He permits himself to become a centre of infection, spreading gloom instead of joy among his brethren; what is this but the grossest selfishness? If there be any one who feels a yearning for asceticism, let him take up this mental austerity advised in the scripture, and resolve that whatever may be his private troubles or sufferings he will forget himself and them for the sake of others, so that he may ever be pouring forth upon his fellow-pilgrims the radiant happiness which comes from the fuller knowledge of the Theosophist, ever helping them towards the realization that “Brahman is bliss.”Đặc biệt lưu ý rằng trong câu cuối này, hạnh phúc nội tâm được mô tả như đặc trưng thứ nhất của khổ hạnh của tâm—dấu hiệu đầu tiên của tự chủ hoàn hảo cần có nơi người muốn tiến bộ thực sự. Bổn phận của chúng ta là phải vui; bệnh hoạn, u ám hay buồn bã luôn có nghĩa là thất bại và yếu đuối, bởi vì chúng có nghĩa là vị kỷ. Kẻ cho phép mình ấp ủ sầu khổ hay oan ức riêng là kẻ quên bổn phận đối với đồng loại. Y cho phép mình trở thành một trung tâm lây nhiễm, gieo u ám thay vì hoan hỷ giữa huynh đệ; đó là gì nếu không phải thứ vị kỷ thô lậu nhất? Nếu có ai đó cảm thấy khát khao khổ hạnh, hãy để y thực hành khổ hạnh của tâm được khuyên dạy trong thánh điển này, và quyết nghị rằng dẫu có thể là nỗi khổ riêng tư hay thương tổn riêng tư nào, y cũng sẽ quên mình và quên chúng vì người khác, để y luôn tuôn đổ lên các bạn đồng hành trên đường đời ánh hoan lạc rạng ngời vốn đến từ tri thức viên mãn hơn của người Thông Thiên Học, luôn giúp họ tiến tới sự chứng ngộ rằng “Brahman là phúc lạc.”

SMALL WORRIES—NHỮNG LO ÂU VẶT VÃNH

Unnecessary worry appears to be the key-note of modern life. Not only those who are making special efforts to progress are making themselves unreasonably uncomfortable, but the same vice is quite common even in ordinary life. The astral body of the average man is a sad sight for a clairvoyant. The illustration in Man Visible and Invisible (p. 131) shows what an astral body ought to be—merely a reflection of the colours of the mental, indicating that the man allows himself to feel only what his reason dictates. But if that be too much to expect at this stage of evolution, the picture on p. 102 gives us an assortment of colours which represents an average astral body when comparatively at rest. In it there are many hues which show the presence of undesirable qualities—qualities which should be weeded out as soon as may be; but that side of the subject is treated in the book, and it is to another feature that I wish now to draw attention.Lo lắng không cần thiết dường như là chủ âm của đời sống hiện đại. Không chỉ những người đang nỗ lực đặc biệt để tiến bộ đang tự làm mình khó ở một cách vô lý, mà cùng tệ nạn này cũng khá phổ biến ngay trong đời thường. Thể cảm dục của người trung bình là một cảnh tượng đáng buồn đối với người thông nhãn. Hình minh họa trong Con Người Hữu Hình và Vô Hình  (tr. 131) cho thấy một thể cảm dục nên ra sao—chỉ là phản chiếu của các màu sắc của thể trí, biểu thị rằng con người chỉ cho phép mình cảm những gì lý trí mách bảo. Nhưng nếu điều đó quá nhiều để kỳ vọng ở giai đoạn tiến hoá này, thì bức họa ở tr. 102 cho ta một tập hợp màu sắc đại diện cho một thể cảm dục trung bình khi tương đối yên. Trong đó có nhiều sắc độ cho thấy sự hiện diện của các phẩm tính không mong muốn—các phẩm tính cần được nhổ bỏ ngay khi có thể; song khía cạnh ấy đã được bàn trong sách, và giờ đây tôi muốn thu hút sự chú ý đến một đặc điểm khác.
I have said that the illustration shows what an ordinary undeveloped astral body would look like if comparatively at rest; but one of the evils of what we have agreed to call civilization is that hardly any astral body ever is even comparatively at rest. Of course it is understood that the matter of an astral body must always be in perpetual vibration, and each of the colours that we see in the drawing marks a different rate of that vibration; but there should be a certain order in this, and a certain limit to it. The more developed man (on p. 131) has five rates of vibration, but the ordinary man shows at least nine rates, with a mixture of varying shades in addition. That is clearly not so good as the other, but the case of the majority of people in the West is really far worse than that. To have even nine rates of simultaneous vibration is already bad enough, but in the astral body of many a man and woman one might easily observe fifty rates or even hundred. The body should be divided into a few fairly definite areas, each swinging steadily at its normal rate, but instead of that, its surface is usually broken up into a multiplicity of little whirl-pools and cross-currents, all battling one against the other in the maddest confusion.Tôi đã nói rằng bức minh họa cho thấy một thể cảm dục bình thường, chưa phát triển, sẽ trông như thế nào nếu tương đối yên; nhưng một trong những điều tệ hại của cái mà chúng ta đã đồng ý gọi là văn minh là hầu như chẳng có thể cảm dục nào thậm chí tương đối yên. Dĩ nhiên hiểu rằng chất liệu của một thể cảm dục phải luôn rung động không ngừng, và mỗi màu sắc chúng ta thấy trong bức vẽ đánh dấu một nhịp độ rung động khác; nhưng trong đó phải có một trật tự nào đó, và một giới hạn nào đó. Người phát triển hơn (ở tr. 131) có năm nhịp độ rung, nhưng người bình thường cho thấy ít nhất chín nhịp, kèm theo sự trộn lẫn các sắc thái biến thiên. Rõ ràng điều đó không tốt bằng trường hợp kia, nhưng tình trạng của đa số người ở phương Tây thực ra còn tệ hơn nhiều. Có đến chín nhịp rung đồng thời đã là đủ tệ, nhưng trong thể cảm dục của biết bao người nam và nữ, người ta có thể dễ dàng quan sát năm mươi hay thậm chí một trăm nhịp. Thể ấy lẽ ra phải được phân chia thành vài vùng tương đối rõ rệt, mỗi vùng đu đưa đều đặn ở nhịp độ bình thường của nó, nhưng thay vì thế, bề mặt nó thường bị bẻ vụn thành vô số xoáy nhỏ và dòng chéo, tất cả đang tranh đấu với nhau trong hỗn loạn điên rồ.
All these are the result of little unnecessary emotions and worries, and the ordinary person of the West is simply a mass of these. He is troubled about this thing, he is annoyed about that, he is in fear about a third, and so on; his whole life is filled with petty little emotions, and all his strength is frittered away on them. A really great emotion, be it good or bad, sweeps over the whole of a man’s astral body and for the time brings it all to one rate of vibration; but these small worries make little vortices or centres of local disturbance, each of which persists for a considerable time.Tất cả những điều này là kết quả của những cảm xúc vụn vặt không cần thiết và lo âu, và người bình thường ở phương Tây quả chỉ là một khối những điều ấy. Y bận lòng chuyện này, y bực bội chuyện kia, y sợ hãi chuyện thứ ba, v.v.; cả cuộc đời y đầy rẫy những cảm xúc nhỏ nhặt, và toàn bộ sức lực y bị tiêu hao vào chúng. Một cảm xúc thực sự lớn, dù là thiện hay ác, quét qua toàn bộ thể cảm dục của một người và trong chốc lát đưa toàn thể nó về một nhịp rung; nhưng những lo âu nhỏ xíu này tạo nên những xoáy nhỏ hay những trung tâm rối loạn cục bộ, mỗi xoáy tồn tại dai dẳng suốt một thời gian đáng kể.
The astral body which thus vibrates fifty ways at once is a blot upon the landscape and a nuisance to its neighbors. It is not only a very ugly object—it is also a serious annoyance. It may be compared to a physical body suffering from some unusually aggravated from of palsy, with all its muscles jerking simultaneously in different directions. But to make the illustration even partially adequate we should have to assume that this palsy was contagious, or that every one who saw its unfortunate results felt an irresistible tendency to reproduce them. For this horrible choas of catastrophic confusion produces an unpleasant and most disturbing effect upon all sensitive people who approach it; it infects their astral bodies and communicates to them a painful sensation of unrest and worry.Thể cảm dục rung theo năm mươi cách cùng một lúc như thế là một vết nhơ giữa khung cảnh và là mối phiền toái cho láng giềng. Nó không chỉ là một vật thể rất xấu xí—mà còn là một điều quấy nhiễu nghiêm trọng. Nó có thể ví như một thể xác đang chịu một dạng run liệt bị làm trầm trọng khác thường, với tất cả bắp thịt cùng lúc giật giật theo các hướng khác nhau. Nhưng để minh họa phần nào cho thích đáng, ta còn phải giả định rằng chứng run liệt này có tính lây, hoặc rằng bất cứ ai nhìn thấy hậu quả đáng thương của nó đều cảm một xu hướng không thể cưỡng lại muốn tái tạo chúng. Bởi vì tình trạng hỗn loạn kinh khủng như thảm họa ấy tạo nên một ảnh hưởng khó chịu và hết sức rối loạn lên tất cả những người nhạy cảm đến gần nó; nó lây nhiễm sang thể cảm dục của họ và truyền cho họ một cảm giác khó chịu về bất an và lo âu.
Only a few have yet unfolded the faculties which enable them to see this maleficent influence in action; a larger number are vaguely conscious of discomfort when they approach one of these fussy persons; but probably the majority feel nothing definite at the time of meeting, though later in the day they will probably wonder why they are so inexplicably fatigued. The effect is there and the harm is done, whether it be immediately perceptible or not.Mới chỉ có ít người khai mở được các năng lực cho phép họ thấy ảnh hưởng độc hại này đang tác động; một số đông hơn mơ hồ cảm thấy khó chịu khi họ đến gần một người hay sốt vó; nhưng có lẽ đa số chẳng cảm thấy gì rõ ràng lúc gặp gỡ, dẫu muộn hơn trong ngày họ có lẽ sẽ tự hỏi vì sao mình mệt mỏi vô cớ đến thế. Ảnh hưởng vẫn ở đó và gây hại vẫn xảy ra, cho dù nó có được nhận ra tức thời hay không.
A person who is so foolish as to allow himself to get into this condition does much harm to many, but most of all to himself. Frequently the perpetual astral disturbance reacts through the etheric upon the dense physical vehicle, and all sorts of nervous diseases are produced. Nearly all nerve troubles are the direct result of unnecessary worry and emotion, and would soon disappear if the patient would but hold his vehicles still and possess his soul in peace.Kẻ dại dột để cho mình rơi vào tình trạng như vậy gây hại nhiều cho nhiều người, nhưng hại nhất là cho chính y. Thường xuyên, sự rối loạn cảm dục liên miên phản hồi qua dĩ thái lên hiện thể hồng trần đậm đặc, và đủ loại bệnh thần kinh phát sinh. Hầu như mọi rối loạn thần kinh là kết quả trực tiếp của lo âu và cảm xúc không cần thiết, và sẽ sớm biến mất nếu bệnh nhân chịu giữ cho các vận cụ của mình tĩnh lặng và nắm giữ linh hồn mình trong an bình.
But even cases where a strong physical body is able successfully to resist this constant irritation from the astral, its effect upon its own plane is no less disastrous. These tiny centres of inflammation which thus cover the whole astral body are to it what boils are to the physical body—not only themselves causes of acute discomfort, sore spots the least touch upon which produces terrible pain, but also weak spots through which the life-blood of vitality drains away, and through which also blood-poisoning from without may take place. A person whose astral body is in this distracted condition can offer practically no resistance to any evil influence which he may encounter, while he is quite unable to profit by good influences. His strength flows out through these open sores, at the same time that all sorts of disease-germs find entrance by them. He is not using and controlling his astral body as a whole, but allowing it to break up into a number of separate centres and control him. His little worries and vexations establish themselves and confirm their empire over him until they become a legion of devils who possess him so that he cannot escape from them.Nhưng ngay cả trong những trường hợp một thể xác cường tráng có thể kháng cự thành công sự kích thích triền miên này từ thể cảm dục, thì ảnh hưởng của nó trên chính cõi của nó cũng không kém phần tai hại. Những trung tâm viêm sưng nhỏ li ti phủ khắp thể cảm dục như thế đối với nó cũng như những mụn nhọt đối với thể xác—không chỉ là nguyên nhân tự thân của nỗi khó chịu nhức nhối, những điểm đau mà chỉ một chạm nhẹ cũng gây nên đau đớn khủng khiếp, mà còn là những điểm yếu  qua đó sinh khí của sự sống rỉ chảy, và cũng qua đó có thể xảy ra “nhiễm trùng máu” từ bên ngoài. Một người mà thể cảm dục ở trong tình trạng rối loạn này hầu như không thể chống đỡ bất kỳ ảnh hưởng xấu nào mà y có thể gặp, đồng thời y hoàn toàn không thể thụ hưởng các ảnh hưởng tốt lành. Sức mạnh của y tuôn ra qua những vết thương hở này, đồng thời đủ loại “mầm bệnh” cũng tìm lối xâm nhập qua đó. Y không sử dụng và điều khiển thể cảm dục của mình như một tổng thể, mà để cho nó vỡ vụn thành một số trung tâm riêng lẻ và điều khiển y. Những lo lắng vặt vãnh của y tự xác lập và củng cố quyền lực của chúng trên y đến nỗi chúng trở thành một “binh đoàn quỷ dữ” ám vào y khiến y không thể thoát ra.
This is a painfully common condition; how is a man to avoid falling into it, and if he is already in it, how is he to get out of it? The answer is the same to both questions; let him learn not to worry, not to fear, not to be annoyed. Let him reason with himself as to the utter unimportance of all these little personal matters which have loomed so large upon his horizon. Let him consider how they will appear when he looks back upon them from the next life, or even twenty years hence. Let him lay well to heart the words of wisdom, that of all the outward things that happen to a man “nothing matters much, and most things matter not at all.” What he himself does or says or thinks is of importance to him, for that forms his future; what other people do or say or think matters to him nothing whatever. Let him abstract himself from all these little pin-pricks of daily life, and simply decline to be worried by them.Đây là một tình trạng phổ biến đến đau lòng; làm sao một người tránh rơi vào nó, và nếu đã ở trong đó, làm sao thoát ra? Câu trả lời giống hệt cho cả hai câu hỏi; hãy học đừng lo lắng, đừng sợ hãi, đừng bực bội. Hãy tự lý lẽ với mình về sự hoàn toàn không quan trọng của tất cả những chuyện vặt cá nhân đã phóng to trên chân trời của y. Hãy nghĩ xem chúng sẽ ra sao khi y nhìn lại từ cõi kế tiếp, hoặc chỉ hai mươi năm nữa thôi. Hãy khắc cốt ghi tâm lời minh triết rằng, trong tất cả những điều bên ngoài xảy đến với một người, “chẳng điều gì thật sự hệ trọng, và phần nhiều điều chẳng hệ trọng chút nào.” Điều y tự làm hay nói hay nghĩ thì hệ trọng đối với y, vì điều đó định hình tương lai của y; còn điều người khác làm hay nói hay nghĩ thì chẳng can hệ gì đến y cả. Hãy tự tách mình khỏi tất cả những mũi kim châm nhỏ nhặt của đời thường, và dứt khoát không để chúng làm bạn lo âu.
It will need some resolution at first, for it requires effort to conquer a well-established bad habit. He will find his mind muttering to him over and over again: “Mrs. Jones spoke evil of me; perhaps she is doing it now; perhaps other people may believe her; perhaps it may do me harm,” and so on ad infinitum. But he must reply: “I don’ t care what Mrs. Jones has said, though I am sorry the poor woman should make such bad karma. I absolutely decline to think of it or of her. I have my work to do, and have no time to waste in thinking of foolish gossip.”Lúc đầu sẽ cần một ít quyết tâm, vì chinh phục một thói xấu đã ăn sâu đòi hỏi nỗ lực. Y sẽ thấy tâm mình lẩm bẩm đi lặp lại: “Bà Jones đã nói xấu tôi; biết đâu bây giờ bà ấy vẫn đang nói; biết đâu người khác sẽ tin; biết đâu điều đó sẽ hại tôi,” v.v. đến vô tận . Nhưng y phải đáp lại: “Tôi không bận tâm điều gì  Bà Jones đã nói, dù tôi buồn cho người phụ nữ tội nghiệp ấy tạo nghiệp xấu như vậy. Tôi dứt khoát từ chối nghĩ về chuyện đó hay về bà ấy. Tôi có công việc phải làm, và không có thời giờ để lãng phí vào chuyện đàm tiếu ngốc nghếch.”
Or it may be that forebodings of coming evil are constantly thrusting themselves into his brain: “Perhaps next year I may lose my position; perhaps I shall be starving; perhaps I shall be bankrupt; perhaps I may lose the affection of some friend.” This also should be met firmly: Perhaps all these things may happen, but also perhaps they may not, and it is useless to try to cross a bridge before one come to it. I shall take all reasonable precautions, and when that is done I decline to think further of the matter. Worrying cannot affect whatever may be coming, but it can and certainly will make me unfit to meet it. Therefore I refuse to worry; I definitely turn my back on the whole subject.”Hoặc có thể là những điềm gở về tai ương sắp tới cứ liên tục xô vào bộ não y: “Biết đâu sang năm tôi mất việc; biết đâu tôi sẽ đói; biết đâu tôi phá sản; biết đâu tôi mất đi tình thương của một người bạn.” Điều này cũng phải được đối mặt cứng rắn: Biết đâu tất cả những điều ấy sẽ xảy ra, nhưng cũng biết đâu sẽ không, và cố vượt cầu trước khi tới là vô ích. Tôi sẽ có mọi phòng bị hợp lý, và khi đã làm xong điều đó, tôi từ chối nghĩ thêm về vấn đề. Lo lắng không thể tác động đến điều gì có thể sắp đến, nhưng chắc chắn nó có thể và sẽ khiến tôi không đủ sức đương đầu với nó. Vậy nên tôi từ chối lo lắng; tôi dứt khoát quay lưng với toàn bộ đề tài.”
Another common form of worry which leads to the most serious results is the folly of taking offense at something which somebody else says or does. Ordinarily common-sense would lead a man to avoid this mistake, and yet those who do avoid it are few. It needs only that we should think dispassionately about the matter, and we shall see that what the other man has said or done cannot make any difference to us. If he has said something which has hurt our feelings, we may be sure that in nine cases out of ten he has not meant it to be offensive; why then should we allow ourselves to be disturbed about the matter? Even in the rare cases when a remark is intentionally rude or spiteful, where a man has said something purposely to wound another, it is still exceedingly foolish of that other to allow himself to feel hurt. If the man had an evil intention in what he said, he is much to be pitied, for we know that under the law of divine justice he will certainly suffer for his foolishness. What he has said need in no way affect us, for, if we think of it, no effect whatever has really been produced.Một dạng lo âu phổ biến khác dẫn đến hệ quả nghiêm trọng là sự dại dột của việc tự ái bị tổn thương vì điều ai đó nói hay làm. Thông thường, lương tri sẽ dẫn một người tránh lỗi này, vậy mà người thực sự tránh thì ít. Chỉ cần ta nghĩ một cách vô tư về vấn đề, ta sẽ thấy rằng điều người kia nói hay làm không thể tạo khác biệt gì cho ta. Nếu y đã nói điều gì đó làm tổn thương cảm xúc của ta, ta có thể chắc rằng chín phần mười là y không cố ý vô lễ; vậy sao ta còn để mình bị xáo trộn vì chuyện ấy? Ngay cả trong những trường hợp hiếm hoi khi một lời nói cố ý thô lỗ hay độc địa, nơi một người nói điều gì đó cố tình làm kẻ khác tổn thương, thì người kia vẫn hết sức dại dột nếu để mình cảm thấy bị xúc phạm. Nếu kẻ ấy có ác ý trong lời nói, y thật đáng thương, vì chúng ta biết rằng theo luật công bằng thiêng liêng, y chắc chắn sẽ chịu hệ quả cho sự ngu muội ấy. Điều y nói không nhất thiết ảnh hưởng gì tới ta, vì, nếu nghĩ kỹ, thực ra chẳng có tác động nào đã xảy ra.
The irritating word does not in any way injure us, except in so far as we may choose to take it up and injure ourselves by brooding over it or allowing ourselves to be wounded in our feelings. What are the words of another, that we should let our serenity be disturbed by them? They are merely a vibration in the atmosphere; if it had not happened that we heard them, or heard of them, would they have affected us? If not, then it is obviously not the words that have injured us, but the fact that we heard them. So if we allow ourselves to care about what a man has said, it is we who are responsible for the disturbance treated in our astral bodies, and not he.Lời nói khó chịu không làm tổn hại ta theo bất kỳ cách nào, trừ phi ta chọn chấp lấy nó và tự tổn thương bằng cách ấp ủ hay cho phép mình bị tổn thương trong cảm xúc. Lời người khác là gì mà ta lại để sự thanh thản của mình bị khuấy động bởi chúng? Chúng chỉ là những rung động trong khí quyển; nếu như không xảy ra việc ta nghe được chúng, hay nghe nói về chúng, liệu chúng có ảnh hưởng đến ta không? Nếu không, thì rõ ràng không phải lời nói đã gây hại ta, mà là sự kiện ta đã nghe chúng. Cho nên nếu ta cho phép mình bận tâm vì điều một người đã nói, thì chính chúng ta  phải chịu trách nhiệm cho sự xáo trộn được tạo ra trong thể cảm dục của mình, chứ không phải y.
The man has done and can do nothing that can harm us; if we feel hurt and injured and thereby make ourselves a great deal of trouble, we have only ourselves to thank for it. If a disturbance arises within our astral bodies in reference to what he has said, that is merely because we have not yet gained control over those bodies; we have not yet developed the calmness which enables us to look down as soul upon all this, and go on our way and attend to our own work without taking the slightest notice of foolish or spiteful remarks made by other men. This is the merest common-sense, yet not one in a hundred will act upon it.Người kia đã làm, và có thể làm, chẳng điều gì có thể hại ta; nếu ta thấy đau và bị tổn thương và bởi vậy tự gây cho mình nhiều rắc rối, ta chỉ có thể tự trách mình. Nếu một xáo trộn khởi lên trong thể cảm dục của ta liên quan đến điều y đã nói, thì đó chỉ vì ta vẫn chưa giành được quyền kiểm soát những thể ấy; ta chưa phát triển được sự bình thản cho phép ta nhìn xuống với tư cách linh hồn vào tất cả việc này, và cứ đi đường mình, lo công việc của mình mà không để ý chút nào đến những lời nói ngu ngốc hay độc địa của kẻ khác. Đây là lẽ thường tình đơn giản nhất, vậy mà hiếm có ai trong cả trăm người hành động theo.
That fact is that any one who wished to become a student of occultism must not have any personal feelings that can be offended under any circumstances whatever. A man who has them is still thinking of himself; whereas our duty is to forget ourselves in order to remember the good of others. Nothing can offend you if you have resolved not to be offended—if you are thinking only how to help the other man, and not at all of yourself.Sự thực là bất kỳ ai muốn trở thành một đạo sinh của huyền bí học thì không được có những cảm thức cá nhân có thể bị xúc phạm trong bất kỳ hoàn cảnh nào. Người còn có những cảm thức ấy vẫn đang nghĩ về bản thân; trái lại, bổn phận của chúng ta là quên mình để nhớ đến điều lành cho kẻ khác. Không gì có thể xúc phạm bạn nếu bạn đã quyết định không bị xúc phạm—nếu bạn chỉ nghĩ cách giúp người kia, và hoàn toàn không nghĩ về mình.
Another variant of the disease is less personal and therefore is so far less blame-worthy, but hardly less prejudicial to progress. It is the habit of fussing over trifles in business or in household affairs. This always involves a lack of discrimination and of the sense of perspective. It is quite true that a household or a business must be orderly, that things must be done punctually and exactly; but the way to achieve this is to set up a high ideal and press steadily towards it—not to irritate every one by ceaseless, useless worry. The person who is so unfortunate as to be afflicted with a disposition of this kind should make a most determined fight against it, for until he conquers it he will be a force working always for friction and not for peace, and so will be of little real use in the world. His symptoms differ slightly from those of the more personal worrier; in his case there are fewer of the carbuncular vortices, but there is a perpetual tremor, an unrest of the whole astral body which is equally disquieting to others, equally subversive of happiness and advancement for the fusser himself.Một biến thể khác của “căn bệnh” ít mang tính cá nhân hơn và vì thế ít đáng quở trách hơn phần nào, nhưng hầu như không kém phần phương hại cho tiến bộ. Đó là thói xốn xang vì chuyện lặt vặt trong công việc làm ăn hay việc nhà. Điều này luôn hàm chứa thiếu sót trong phân biện và cảm quan viễn cận. Có thật rằng một gia đình hay một doanh nghiệp phải có trật tự, mọi việc phải làm đúng giờ và chính xác; nhưng cách để đạt được điều đó là đặt ra một lý tưởng cao và kiên định hướng về nó—chứ không phải làm mọi người khó chịu bằng lo âu không ngớt và vô ích. Kẻ bất hạnh mắc phải tính khí như vậy nên tiến hành một trận chiến quyết liệt nhất để chống lại nó, vì cho đến khi y chinh phục được nó, y sẽ là một lực luôn gây ma sát chứ không gây hòa bình, và như vậy sẽ ít có ích thực sự cho đời. Triệu chứng của y hơi khác một chút so với kẻ hay lo cá nhân; trong trường hợp y, có ít xoáy “mụn nhọt” hơn, nhưng có một cơn run rẩy liên miên, một bất an của toàn bộ thể cảm dục, vốn gây bất an cho kẻ khác không kém, và cũng phá đổ hạnh phúc và thăng tiến đối với chính kẻ hay xốn xang ấy.
The man must learn to be master of his mind and his feelings, and steadily reject every thought and emotion which his highest self does not approve. A chaos of petty emotions is unworthy of a rational being, and it is to the last degree undignified that man, who is a spark of the Divine, should allow himself to fall under the sway of his desire-elemental—a thing that is not even a mineral yet.Con người phải  học làm chủ tâm và cảm, và kiên định khước từ mọi ý nghĩ và cảm xúc mà chân ngã cao nhất của mình không chấp thuận. Một hỗn độn của những cảm xúc vụn vặt là bất xứng đối với một hữu thể có lý trí, và cùng cực bất xứng khi con người—một tia lửa của Thiêng liêng—lại để mình rơi dưới ách của hành khí dục vọng—một thứ thậm chí còn chưa là khoáng vật.
I have already said that this disastrous astral confusion is often prejudicial to physical health; but it is invariably worse than prejudicial to progress on the path—it is absolutely fatal to it. One of the first great lessons to be learnt on that path is perfect self-control, and a long stage on the way to that is complete absence of worry. At first, from mere habit, the matter of the astral body will still be swept readily into unnecessary vortices, but every time that happens the man must firmly obliterate them, and restore the steady swing of the feelings which he, as an ego, really desires to have.Tôi đã nói rằng sự hỗn loạn cảm dục tai hại này thường phương hại đến sức khoẻ thể chất; nhưng đối với tiến bộ trên Đường Đạo, nó luôn luôn còn tệ hơn phương hại—nó tuyệt đối chí tử đối với điều đó. Một trong những bài học vĩ đại đầu tiên phải học trên Con Đường là tự chủ hoàn toàn, và một chặng đường dài hướng về điều ấy là vắng bóng hoàn toàn lo âu. Ban đầu, do thói quen, chất liệu của thể cảm dục vẫn còn dễ dàng bị cuốn vào những xoáy không cần thiết, nhưng mỗi lần điều đó xảy ra người ấy phải kiên quyết xóa bỏ chúng, và khôi phục nhịp đu đưa đều đặn của cảm xúc mà y, với tư cách chân ngã, thực sự mong muốn có.
Let him fill himself so entirely with the divine love that it may be ever pouring from him in all directions in the shape of love for his fellow-men, and then there will be no room for unnecessary vibrations; he will have no time to worry over trifling personal matters if his whole life is spent in the service of the LOGOS, in trying to help forward the evolution of the world. To make any real progress or to do any real work a man must turn from the lower and reach towards the higher; he must come out of our world into Theirs—out of the restlessness into the peace which passeth understanding.Hãy để y tự lấp đầy mình đến tận cùng bằng tình thương thiêng liêng để nó luôn tuôn ra từ y theo mọi hướng dưới dạng tình thương đối với đồng loại, và khi ấy sẽ không còn chỗ cho những rung động không cần thiết; y sẽ không còn thời gian để lo lắng về chuyện vụn vặt cá nhân nếu cả cuộc đời y dành cho sự phụng sự Thượng đế, trong nỗ lực giúp đẩy nhanh tiến hoá của thế gian. Để có bất kỳ tiến bộ thực sự nào hoặc làm được bất kỳ công việc thực sự nào, một người phải quay lưng với điều thấp và vươn tới điều cao; y phải đi ra khỏi thế giới của chúng ta vào Thế Giới của Các Ngài—ra khỏi bồn chồn vào sự bình an vượt ngoài sự thấu hiểu.

KILLING OUT DESIRE—DIỆT TRỪ DỤC VỌNG

We are often told that we must kill out desire; but it should be remembered that that is a gradual process. The lower and coarser desire which are meant by the Sanskrit word kama must certainly be killed out entirely before any sort of advancement can be made, but in the English sense of the word we all of us still have certain desire, and are likely to have them for a very long time to come. We desire keenly, for example, to serve the Master; to become His pupils; to help humanity. These also are desires, but they should not be killed. What is necessary is to kill out the lower and reach up to the higher, that is to say, to purify our desires and to transmute them into aspirations.Chúng ta thường được bảo rằng phải diệt trừ dục vọng; nhưng cần nhớ rằng đó là một tiến trình tuần tự. Những dục vọng thấp và thô thuộc về từ tiếng Phạn kama chắc chắn phải bị diệt hoàn toàn trước khi có thể tiến lên chút nào, nhưng theo nghĩa tiếng Anh của từ này thì tất cả chúng ta vẫn còn có những dục vọng nhất định, và có lẽ sẽ còn có chúng trong một thời gian rất dài nữa. Chẳng hạn, chúng ta khao khát mãnh liệt được phụng sự Chân sư; được trở thành môn sinh của Ngài; được giúp nhân loại. Đó cũng là dục vọng, nhưng chúng không nên bị diệt. Điều cần là diệt bỏ điều thấp và vươn tới điều cao, nghĩa là thanh lọc dục vọng và chuyển hoá chúng thành hoài bão.
Later on another transmutation will take place. For example, now we desire to make progress; but a time will come when we shall be so sure of it that we shall cease to desire, because we know that all the time it is going on as rapidly as is possible for us, and because we mean that it shall so go on. Desire is then transmuted into resolution. At this point there can be no more regret for anything; you do your best and you know that in response to that the best must come. Some people desire earnestly to gain this quality or that; do not waste your power in desiring and wishing, but will instead.Về sau sẽ diễn ra một sự chuyển hoá khác. Thí dụ, hiện nay chúng ta khao khát tiến bộ; nhưng sẽ đến lúc chúng ta chắc chắn về nó đến mức thôi không ham muốn nữa, vì chúng ta biết rằng mọi lúc điều đó đang diễn ra nhanh nhất có thể đối với ta, và vì chúng ta chủ định rằng nó sẽ diễn ra như vậy. Khi ấy, dục vọng được chuyển hoá thành quyết tâm. Tại điểm này sẽ không còn nuối tiếc gì về bất cứ điều gì; bạn làm hết sức mình và bạn biết rằng đáp lại điều đó, điều tốt nhất ắt phải đến. Một số người khao khát mãnh liệt đạt được phẩm tính này hay phẩm tính khác; đừng lãng phí năng lực của bạn vào ham muốn và ước ao, mà hãy định chí thay vào đó.
In the same way it is said that we should slay the lunar form, that is to say the astral body. But that does not mean that the astral body must be destroyed or that we must be without feelings and emotions. If that could be so we should have no sympathy and no understanding of others. What is intended is that we should keep it completely under control, that we should have the faculty to slay the lunar form at will. Purity is necessary, but it means not only the abstinence from specified faults, but absolute selflessness. Ambition, for example, is a very common form of desire, but in it there is always a thought of self. The adept cannot be ambitious. His will is one with the will of the LOGOS, and he wills evolution. We are all parts of the LOGOS, and our wills are part of His. It is only when we do not realize this that we set up desires in our own separate lines. The regulations for our lives were very well summed up by the Lord BUDDHA in one little verse of four short lines:Tương tự, người ta nói rằng chúng ta nên sát diệt hình thể nguyệt tính, tức là thể cảm dục. Nhưng điều đó không có nghĩa là thể cảm dục phải bị phá hủy hay rằng chúng ta phải không có cảm thọ và cảm xúc. Nếu vậy, chúng ta sẽ không có cảm thông và không hiểu biết người khác. Ý định là chúng ta phải giữ nó hoàn toàn dưới quyền kiểm soát, rằng chúng ta phải có năng lực sát diệt hình thể nguyệt tính theo ý chí . Thanh khiết là cần thiết, nhưng nó không chỉ là kiêng các lỗi lầm chỉ định, mà là vô ngã tuyệt đối. Chẳng hạn, tham vọng là một dạng dục vọng rất thường gặp, nhưng trong nó luôn có ý nghĩ về cái tôi. Một chân sư không thể có tham vọng. Ý chí của Ngài là một với Ý chí của Thượng đế, và Ngài muốn tiến hoá. Tất cả chúng ta đều là những phần của Thượng đế, và ý chí của chúng ta là phần của Ý chí Ngài. Chỉ khi không nhận ra điều này, chúng ta mới dựng lên những dục vọng theo các đường lối tách biệt riêng. Quy điều cho đời sống của chúng ta đã được Đức PHẬT tóm lược rất hay trong một bài kệ bốn dòng ngắn:
Sabbapapassa akaranamSabbapapassa akaranam
Kusalassa upasampadaKusalassa upasampada
Sachitta pariyo dapanamSachitta pariyo dapanam
Etam Buddhana sasanam.Etam Buddhana sasanam.
Cease from all evil;Hãy dừng mọi ác hạnh;
Learn to do well;Hãy học làm lành;
Cleanse your own heart;Hãy tự tịnh hoá tâm mình;
This is the religion of the BUDDHAS.Ấy là tôn giáo của chư PHẬT.

THE CENTRE OF MY CIRCLE—TÂM ĐIỂM CỦA VÒNG TRÒN CỦA TÔI

Of all the many obstacles that stand in the way of the aspirant who wishes to enter upon the Path, the most serious, because the most far-reaching and fundamental, is self-centredness. Note that by this I do not mean the crude and ugly selfishness, which definitely seeks everything for itself even at the cost of others. I am, of course, supposing that that at least has been left behind long ago. But in those who have left it behind, there still lingers this other evil—so subtle and so deeply-rooted that they do not recognize it as an evil at all—indeed, they are not even aware of its existence. But let a man examine himself honestly and impartially, and he will find that all his thought is self-centred; he thinks often of other people and of other things, but always in their relation to himself; he weaves many imaginary dramas, but he himself occupies always a prominent role in them. He must always be in the centre of his little stage, with the limelight playing upon him; if he is not in that position he at once feels hurt, annoyed, angry, and jealous of any other person who happens for the moment to be attracting the attention of those who ought to be worshipping at his shrine. To change so fundamental a quality is to change for him the root of all things, to make himself into an altogether different man. Most people cannot for a moment face the possibility of such a radical change because they do not even know that the condition exists.Trong tất cả những chướng ngại đứng chắn đường người chí nguyện muốn bước vào Con Đường, nghiêm trọng nhất, vì bao trùm và căn để nhất, là tâm trung tâm vào bản ngã. Lưu ý rằng tôi không có ý nói đến thứ vị kỷ thô lậu và xấu xí, vốn minh nhiên tìm mọi điều cho mình ngay cả bằng cái giá của người khác. Tôi dĩ nhiên giả định rằng ít ra điều ấy đã được bỏ lại từ lâu. Nhưng nơi những người đã bỏ nó phía sau, vẫn còn vương lại tệ nạn khác này—tinh vi đến thế và ăn sâu đến thế đến nỗi họ không nhận ra nó là tệ nạn chút nào—thực vậy, họ thậm chí không hay biết sự tồn tại của nó. Nhưng cứ để một người tự xét mình một cách thành thật và vô tư, y sẽ thấy rằng tất cả tư tưởng của y đều quy ngã; y nghĩ thường xuyên về người khác và các sự vật khác, nhưng luôn trong tương quan của chúng với chính y; y dệt nên nhiều vở kịch tưởng tượng, nhưng y luôn đảm nhiệm vai trò nổi bật trong đó. Y phải luôn ở tâm điểm của sân khấu nhỏ của y, dưới ánh đèn rọi chiếu vào y; nếu y không ở vị trí ấy, y lập tức thấy bị tổn thương, bực bội, giận dữ, và ghen tị với bất kỳ người nào khác tình cờ đang thu hút sự chú ý của những kẻ lẽ ra phải thờ phụng tại bàn thờ của y  . Đổi thay một phẩm tính căn để như thế là đổi thay gốc rễ của mọi sự đối với y, biến y thành một con người hoàn toàn khác. Đa số người thậm chí không thể đối mặt một giây với khả năng của một đổi thay triệt để như vậy, vì họ thậm chí không biết tình trạng ấy tồn tại.
Now, this attitude is absolutely fatal to any kind of progress. It must be utterly changed, and yet so few are making any attempt to change it. There is one way out of this vicious circle, and only one; and that is the way of love. That is the only thing in the life of the ordinary man which ever changes this condition for him, which seizes upon him with a strong hand and for the time being alters his whole attitude. For a time, at least, when he falls in love, as it is called, some other person occupies the centre of his circle, and he thinks of everything in all the world in its relation to her, and not in its relation to himself. The divinity at whose shrine he offers this worship may in truth seem to the rest of the world to be but a very ordinary person, but for him she is temporarily the incarnation of grace and beauty; he sees in her the divinity which is in truth hers, because it lies latent in all of us, though normally we do not see it. It is true that in many cases after a time his enthusiasm fades and he transfers it to another object; but nevertheless for the time he has ceased to be self-centred, for the time he has had a wider outlook.Giờ đây, thái độ này tuyệt đối chí tử đối với bất kỳ hình thức tiến bộ nào. Nó phải bị thay đổi tận gốc, vậy mà chỉ ít người đang cố gắng thay đổi nó. Có một lối thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn này, và chỉ có một; và đó là con đường của tình thương. Đó là điều duy nhất trong đời sống của người thường bao giờ cũng khiến điều kiện này thay đổi đối với y, nắm trọn y trong bàn tay mạnh mẽ và trong một thời đoạn làm đổi thay toàn bộ thái độ của y. Trong một thời đoạn, ít nhất, khi y “phải lòng” như người ta nói, một người khác chiếm lĩnh tâm điểm vòng tròn của y, và y nghĩ mọi điều trong toàn thế gian trong tương quan của chúng với nàng, chứ không phải với chính mình. Vị thần trước bàn thờ của ai y dâng cúng sự thờ phượng này đối với người khác có thể chỉ là một người hết sức bình thường, nhưng đối với y nàng tạm thời là hiện thân của duyên dáng và vẻ đẹp; y thấy nơi nàng tính thiêng liêng thật sự thuộc về nàng, vì nó tiềm ẩn trong tất cả chúng ta, dù thường ngày ta không thấy. Đúng là trong nhiều trường hợp, sau một thời gian, nhiệt tình của y phai nhạt và y chuyển nó sang đối tượng khác; nhưng dẫu sao, trong thời gian ấy y đã thôi không quy ngã, trong thời gian ấy y đã có một tầm nhìn rộng hơn.
Now this, which the ordinary man thus does unconsciously, the student of occultism must do consciously. He must deliberately dethrone himself from the centre of the circle of his life, and he must enthrone the Master there instead. He has been in the habit of thinking instinctively how everything will affect him, or what he can make of it, how he can turn it to is profit and pleasure. Instead of that he must now learn to think of everything as it affects the Master, and since the Master lives only to help the evolution of humanity, that means that he must regard everything from the stand-point of its helpfulness or hindrance to the cause of evolution. And though at first he will have to do this consciously and with a certain effort, he must persevere until he does it just as unconsciously, just as instinctively as heretofore he centred everything around himself. To use the words of a Master, he must forget himself utterly only to remember the good of other.Điều mà người thường làm một cách vô thức như vậy, đạo sinh của huyền bí học phải làm một cách hữu thức. Y phải cố ý truất phế mình khỏi tâm điểm của vòng tròn đời sống mình, và y phải tôn Chân sư lên ngôi ở đó. Y đã quen theo bản năng nghĩ xem mọi việc sẽ ảnh hưởng y ra sao, hay y có thể lợi dụng nó thế nào, y có thể biến nó thành lợi lộc và thú vui cho mình ra sao. Thay vì thế, giờ đây y phải học nghĩ về mọi thứ  như chúng ảnh hưởng đến Chân sư thế nào, và vì Chân sư chỉ sống để giúp tiến hoá của nhân loại, điều đó có nghĩa là y phải nhìn mọi điều từ quan điểm tính hữu ích hay chướng ngại của nó đối với sự nghiệp tiến hoá. Và dù lúc đầu y phải làm điều này một cách hữu thức và với một nỗ lực nhất định, y phải kiên trì cho đến khi y làm điều đó cũng vô thức như trước nay y vẫn theo bản năng đặt mọi sự xoay quanh mình. Dùng lời của một Chân sư, y phải quên mình hoàn toàn chỉ để nhớ đến điều lành cho người khác.
But even when he has dethroned himself and enthroned the work which he has to do, he must be exceedingly careful that he does not delude himself, that he does not return to the old self-centredness in a subtler form. Many a good and earnest Theosophical worker have I known who committed this very mistake, who identified Theosophical work with himself, and felt that anyone who did not exactly agree with his ideas and his methods was an enemy of Theosophy. So often the worker thinks that his way is the only way, and that to differ from him in opinion is to be a traitor to the cause. But this means only that the self has crept skilfully back into its old place in the centre of the circle, and that the work of dislodging it must be begun all over again. The only power which the disciple should desire is that which makes him seem as nothing in the eyes of men. When he is the centre of his circle he may do good work, but it is always with the feeling that he is doing it, even largely with the object that it may be he that does it; but when the Master is the centre of his circle he will do the work simply in order that it may be done. The work is done for the sake of the work and not for the sake of the doer. And he must learn to look upon his own work precisely as though it were that of some one else, and upon the work of some one else precisely as though it were his own. The one thing that is important is that the work should be done. It matters little who does it. Therefore, he ought neither to be prejudiced in favour of his own work and unduly critical of that of another, nor be hypocritically depreciatory of his own work in order that others may praise it. To quote the words of Ruskin with regard to art, he ought to be able to say serenely: “Be it mine or yours, or whose else it may, this also is well.”Nhưng ngay cả khi y đã phế ngôi chính mình và tôn ngôi cho công việc mà y phải làm, y vẫn phải hết sức cẩn trọng để khỏi tự đánh lừa mình, để khỏi quay về lối tập trung vào bản thân theo một hình thức tinh vi hơn. Tôi đã biết không ít những người phụng sự Thông Thiên Học tốt lành và thành tâm lại phạm đúng lỗi lầm này, đồng hoá công việc Thông Thiên Học với bản thân, và cảm thấy rằng ai không hoàn toàn đồng ý với ý kiến và phương pháp của y thì là kẻ thù của Thông Thiên Học. Người phụng sự thường nghĩ rằng đường lối của mình là duy nhất, và rằng khác ý với y là phản bội sự nghiệp. Nhưng điều đó chỉ có nghĩa là cái “ta” đã khéo léo len lỏi trở về chỗ cũ, ngay giữa vòng tròn, và rằng công việc lôi nó ra khỏi chỗ ấy phải bắt đầu lại từ đầu. Quyền năng duy nhất mà người đệ tử nên khát khao là quyền năng khiến y trở nên hư vô trong mắt người đời. Khi y là trung tâm của vòng tròn của y, y có thể làm được việc tốt, nhưng bao giờ cũng với cảm thức rằng y đang làm việc ấy, thậm chí phần lớn còn nhằm mục đích để chính y là người làm nó; nhưng khi Chân sư là trung tâm vòng tròn của y, y sẽ làm việc đơn giản chỉ để cho công việc được hoàn tất. Công việc được làm vì chính công việc, chứ không vì người làm. Và y phải học nhìn công việc của mình như thể đó là việc của ai khác, và nhìn công việc của người khác như thể đó là việc của chính mình. Điều duy nhất quan trọng là công việc phải được làm xong. Ai làm không mấy hệ trọng. Do đó, y không nên thiên lệch về phía công việc của mình mà quá mức khắt khe với công việc của người khác, cũng không nên giả vờ hạ thấp công việc của mình để người khác khen ngợi. Mượn lời Ruskin nói về nghệ thuật, y nên có thể điềm nhiên nói: “Dù là của tôi hay của anh, hay của ai khác đi nữa, thì điều này cũng lành.”
Another danger there is, too, which is special to the Theosophical worker—the danger of congratulating himself too soon that he differs from the rest of the world. Theosophical teaching puts a new complexion upon everything, so naturally we feel that our attitude is quite different from that of most other people. There is no harm in thinking this obvious truth, but I have found that some of our members are apt to pride themselves upon the fact that they are able to recognize these things. It does not in the least follow that we, who find ourselves able to recognize them are, therefore, better than others. Others men have developed themselves along other lines, and along those lines they may be very far in advance of us, though along our line they may be very far in advance of us, though along our line they lack something which we already have. Remember, the adept is the perfect man who is fully developed along all possible lines, and so while we have something to teach these others we also have much to learn from them, and it would be the height of folly to despise a man because he has not yet acquired Theosophical knowledge, nor even perhaps the qualities which enable him to appreciate it. Therefore, in this sense also we must take care not to be the centre of our own circle.Còn có một mối nguy nữa, đặc thù với người phụng sự Thông Thiên Học—nguy cơ sớm tự chúc mừng rằng mình khác người đời. Giáo lý Thông Thiên Học đem lại sắc thái mới cho mọi sự, nên tự nhiên chúng ta cảm thấy thái độ của mình khác hẳn phần đông người khác. Nghĩ điều chân hiển nhiên đó không có gì sai, nhưng tôi nhận thấy một số hội viên của chúng ta hay tự hào về việc mình có thể nhận ra những điều ấy. Điều đó tuyệt nhiên không hề kéo theo rằng chúng ta, những người tự thấy mình có thể nhận ra chúng, vì thế mà hơn kẻ khác. Những người khác đã tự phát triển theo các đường hướng khác, và theo các đường ấy họ có thể rất xa vượt trước chúng ta, dù theo đường của chúng ta họ thiếu điều gì đó mà chúng ta đã có. Hãy nhớ, chân sư là con người hoàn hảo phát triển trọn đủ theo mọi đường hướng khả hữu; vậy nên, trong khi chúng ta có điều để dạy những người kia, chúng ta cũng có nhiều điều để học ở họ, và thật là dại dột tột bậc nếu khinh miệt một người chỉ vì anh ta chưa tiếp thu được tri thức Thông Thiên Học, hay thậm chí chưa có các phẩm tính giúp anh ta biết trân trọng nó. Do đó, theo nghĩa này nữa, chúng ta cũng phải cẩn thận đừng làm trung tâm cho vòng tròn của chính mình.
A good plan that you may adopt in order to keep yourself from slipping back into the centre may be to remember, as a symbol of what ought to be your attitude, what I have before explained to you with regard to the occult view of the course and influence of the planets. You remember how I explained to you that each planet is a minor focus in an ellipse, the major focus of which is within the body of the sun. You are like that minor focus; you are going upon your own course and doing the work appointed to you, and yet all the time you are but a reflection of the major focus, and your consciousness is centred within the sun, for the Master of whom you are a part is a member of the Great Hierarchy which is ever doing the work of the LOGOS.Một phương sách tốt mà bạn có thể áp dụng để khỏi trượt ngược về trung tâm là ghi nhớ, như một biểu tượng về thái độ bạn nên có, điều tôi đã giải thích trước đây với bạn liên quan đến quan điểm huyền môn về quỹ đạo và ảnh hưởng của các hành tinh. Bạn nhớ tôi đã giải thích rằng mỗi hành tinh là một tiêu điểm phụ trong một đường elip, mà tiêu điểm chính nằm trong thân của mặt trời. Bạn giống như tiêu điểm phụ ấy; bạn đi trên quỹ đạo riêng và làm công việc được giao phó cho bạn, và vậy mà suốt thời gian ấy bạn chỉ là một phản ảnh của tiêu điểm chính, và tâm thức của bạn được đặt ở trong mặt trời, vì Chân sư của Người mà bạn là một phần vốn là thành viên của Thánh Đoàn, vốn không ngừng thực thi công việc của Thượng đế.
While a man is the centre of his own circle he is perpetually making the mistake of thinking that he is the centre of everybody else’s. He constantly supposes that in everything which other people say or do they are somehow thinking of him, or aiming their remarks at him, and with many this becomes a kind of obsession, and they seem totally unable to realize that each of their neighbours is as a rule also entirely wrapped up in himself and not thinking of them at all. So the man makes for himself a great deal of totally unnecessary trouble and worry, all of which might be avoided if we would but see things in a sane and rational perspective. Again, it is because he is the centre of his own circle that he is liable to depression, for that comes only to one who is thinking of himself. If the Master be the centre of his circle, and all his energies are centred upon serving Him, he has no time for depression, nor has he the slightest inclination towards it. He is far too eagerly wishing for work that he can do. His attitude should be that indicated by our President in her Autobiography—that when a man sees a piece of work waiting to be done he should say, not as the ordinary man usually does: “Yes, it would be a good thing, and somebody ought to do it. But why should I?”—but rather he should say: “Somebody ought to do this. Why should it not be I?”Chừng nào một người còn là trung tâm vòng tròn của chính y, y còn mãi mắc lỗi cho rằng y là trung tâm vòng tròn của tất cả mọi người khác. Y liên tục cho rằng trong mọi điều người khác nói hay làm, họ bằng cách nào đó đang nghĩ đến y, hay nhằm các nhận xét vào y, và với nhiều người, điều này trở thành một ám chấp, họ dường như hoàn toàn không thể nhận ra rằng mỗi người láng giềng của họ, theo lẽ thường, cũng hoàn toàn cuộn kín trong chính mình và chẳng nghĩ gì tới họ cả. Thế là người ấy tự chuốc cho mình vô vàn rắc rối và lo âu hoàn toàn không cần thiết—tất cả những điều lẽ ra có thể tránh được nếu chúng ta chịu nhìn sự việc bằng một viễn cảnh lành mạnh và hợp lý. Một lần nữa, chính vì y là trung tâm vòng tròn của mình nên y dễ rơi vào u uất, vì điều ấy chỉ đến với kẻ đang nghĩ về chính mình. Nếu Chân sư là trung tâm vòng tròn của y, và mọi năng lực của y đều tập trung vào việc phụng sự Ngài, y không có thời giờ cho u uất, cũng chẳng có chút khuynh hướng nào về nó. Y quá khát khao có việc để làm. Thái độ của y nên là thái độ mà vị Chủ tịch của chúng ta gợi ý trong Tự truyện của Bà—rằng khi một người thấy một phần việc đang chờ, y không nên nói như người thường vẫn nói: “Vâng, đó là điều tốt, và ai đó nên làm. Nhưng tại sao lại là tôi?”—mà y nên nói: “Ai đó nên làm việc này. Tại sao lại không phải là tôi?”
As he evolves his circle will widen, and in the end there will come a time when his circle will be infinite in extent, and then in a sense he himself will again be its centre, because he has identified himself with the LOGOS, who is the centre of all possible circles, since every point is equally the centre of a circle whose radius is infinite.Khi y tiến hoá, vòng tròn của y sẽ rộng ra, và sau cùng sẽ có lúc vòng tròn ấy vô hạn về tầm vóc, và bấy giờ theo một nghĩa nào đó y lại sẽ là trung tâm của nó, vì y đã đồng hoá với Thượng đế, Đấng là trung tâm của mọi vòng tròn khả hữu, bởi vì mọi điểm đều đồng thời là trung tâm của một vòng tròn có bán kính vô hạn.

OUR DUTY TO ANIMALS—BỔN PHẬN CỦA CHÚNG TA ĐỐI VỚI LOÀI VẬT

While you are trying to do your best for all those around you, do not forget that you also have a duty towards forms of life lower than the human. In order that you may be able to do that, try to understand your lower brothers, try to understand the animals, just as you try to understand on a higher level the children with whom you have to deal. Just as you learn, if you want to help a child, to look at things from the child’s point of view, so, if you want to help the animal evolution, try to see what is the animal’s point of view. In all cases and with all forms of life our business is to love and to help, and to try to bring nearer the golden age when all shall understand one another and all shall co-operate in the glorious work that is to come.Trong khi bạn đang cố gắng làm điều tốt nhất cho mọi người chung quanh, đừng quên rằng bạn cũng có bổn phận đối với các dạng sự sống thấp hơn loài người. Để bạn có thể làm điều đó, hãy cố hiểu những người em thấp hơn, hãy cố hiểu loài vật, cũng như bạn cố hiểu ở cấp cao hơn những trẻ em mà bạn phải chung đụng. Cũng như khi muốn giúp một đứa trẻ, bạn học nhìn sự vật từ quan điểm của đứa trẻ, thì nếu bạn muốn giúp sự tiến hoá của loài vật, hãy cố xem quan điểm của loài vật là gì. Trong mọi trường hợp và với mọi dạng sự sống, bổn phận của chúng ta là yêu thương và giúp đỡ, và cố đưa lại gần hơn thời đại hoàng kim khi mọi người sẽ hiểu nhau và cùng hiệp tác trong công cuộc vinh quang đang đến.
There is no reason why our domestic animals should not be trained to help man, and to work in his service, so long as the work is not painful or excessive. But all the creatures around us should be trained in the way best for themselves; that is to say, we should always remember that their evolution is the object of the divine Will. So that while we should surely teach our animals all that we can, because that developes their intelligence, we must take care that we instil into them good qualities and not evil. We have various creatures brought among us. We have the dog, the cat, the horse and other originally wild animals given into our care—brought to us for affection and help. Why? That we may train them out of their ferocity, and into a higher and more intelligent state of life—that we may evoke in them devotion, affection and intellect.Không có lý do gì khiến thú nuôi của chúng ta không được rèn luyện để giúp con người và làm việc trong sự phụng sự của con người, miễn là công việc ấy không gây đau đớn hay quá sức. Nhưng mọi sinh vật quanh ta nên được huấn luyện theo cách tốt nhất cho chính chúng; nghĩa là, chúng ta phải luôn nhớ rằng sự tiến hoá của chúng là mục đích của Ý Chí thiêng liêng. Do vậy, trong khi chắc chắn chúng ta nên dạy cho loài vật của mình tất cả những gì có thể, vì điều đó phát triển trí tuệ của chúng, ta phải cẩn thận gieo vào chúng những phẩm chất tốt chứ không phải xấu. Nhiều loài được đưa đến sống giữa chúng ta. Chúng ta có chó, mèo, ngựa và các loài thú hoang nguyên thủy khác được trao vào tay ta—đem đến cho chúng ta để yêu thương và giúp đỡ. Tại sao? Để chúng ta huấn luyện chúng thoát khỏi tính hung hãn và bước vào một trạng thái sống cao hơn, thông minh hơn—để chúng ta khơi dậy nơi chúng lòng tận hiến, tình thương và trí tuệ.
But we must take good care that we help, not hinder; we must see that we do not increase in our animal the ferocious qualities which it is the business of is evolution to get rid of. For example, a man who trains a dog to hunt and kill is intensifying within him the very instincts which must be eliminated if the animal is to evolve, and in this way he is degrading a creature given into his charge instead of helping him on his way, even though at the same time he may be developing the animal’s intelligence; and thus, though he may do a little good, he is at the same time doing a great deal of harm which far more than counterbalances it. The sane thing is true of a man who trains his dog to be ferocious in order that he may be an efficient protector of his property.Nhưng chúng ta phải rất cẩn thận để giúp chứ không cản trở; phải đảm bảo rằng ta không làm gia tăng trong con vật những phẩm chất hung bạo mà công cuộc tiến hoá của nó có nhiệm vụ loại bỏ. Chẳng hạn, người huấn luyện chó đi săn và giết đang tăng cường trong nó đúng những bản năng phải bị loại trừ nếu con vật muốn tiến hoá; theo cách đó, thay vì giúp nó trên đường đi, anh ta lại làm suy đồi một sinh linh được trao vào tay mình, dù đồng thời anh ta có thể đang phát triển trí thông minh của con vật; và như thế, dù anh ta có làm được chút điều tốt, thì đồng thời anh ta cũng đang gây rất nhiều điều hại, lấn át xa điều tốt kia. Điều tương tự đúng với người huấn luyện chó trở nên hung dữ để nó có thể bảo vệ hữu hiệu tài sản của mình.
A man who treats an animal harshly or cruelly may possibly be evolving his intellect, since the animal may learn to think more keenly in order to see how to avoid the cruelty. But along with whatever evolution may be gained in this way, there is also the development of the exceedingly undesirable qualities of fear and hatred. Thus when, later on, that animal wave of life goes up into humanity, we shall have a humanity starting terribly handicapped—starting with these awful qualities of fear and hatred ingrained in it, instead of a humanity all aspiring, devotional, loving and gentle, such as we might have had if the men to whom the animal part of that evolution was committed had done their duty.Một người đối xử thô bạo hoặc tàn nhẫn với con vật có thể khiến trí tuệ của nó phát triển, vì con vật có thể học cách nghĩ sắc bén hơn để tránh bị tàn nhẫn. Nhưng cùng với bất kỳ sự tiến hoá nào có thể thu được theo lối ấy, cũng đồng thời phát triển những phẩm chất cực kỳ đáng ghét là sợ hãi và thù hận. Vậy nên, về sau, khi làn sóng sự sống của loài vật ấy vươn lên nhân loại, chúng ta sẽ có một nhân loại khởi đầu với thiệt thòi khủng khiếp—khởi đầu với những phẩm chất kinh tởm của sợ hãi và thù hận ăn sâu, thay vì một nhân loại chỉ thuần hướng thượng, tận hiến, yêu thương và dịu hiền, như lẽ ra chúng ta có thể có nếu những người được giao phó phần tiến hoá của loài vật đã làm tròn bổn phận.
We have also our duty towards other and even lower forms of life than that. There is the elemental essence, which is surrounding us everywhere; that elemental essence progresses by means of our thought, and of the action which we produce upon it by our thoughts, passions, emotions and feelings. We need not trouble ourselves especially about that, because if we carry out our higher ideals, if we try to see to it that all our thought and all our emotion shall be of the highest possible type, then that also will, at the same time and without further difficulty, be the discharging of our duty towards the elemental essences which are influenced by our thought; they will be raised and not depressed; the higher qualities which we alone can reach will be set in motion, vivified and helped at their respective levels.Chúng ta cũng có bổn phận với những dạng sự sống khác, thậm chí còn thấp hơn nữa. Có Tinh chất hành khí, vốn bao quanh chúng ta ở khắp nơi; Tinh chất hành khí tiến bộ nhờ tư tưởng của chúng ta và nhờ tác động mà chúng ta tạo ra trên nó bằng tư tưởng, đam mê, cảm xúc và cảm giác. Chúng ta không cần bận tâm riêng rẽ về điều đó, vì nếu chúng ta thực hiện các lý tưởng cao cả của mình, nếu chúng ta cố gắng bảo đảm cho mọi tư tưởng và mọi cảm xúc đều thuộc phẩm loại cao nhất có thể, thì đồng thời, không cần thêm khó nhọc nào nữa, chúng ta cũng hoàn thành bổn phận đối với các Tinh chất hành khí chịu ảnh hưởng của tư tưởng chúng ta; chúng sẽ được nâng lên chứ không bị hạ xuống; các phẩm chất cao hơn—mà chỉ chúng ta mới có thể chạm tới—sẽ được khởi động, sinh động hoá và hỗ trợ ở các cấp độ tương ứng của chúng.
All through evolution the assistance of the higher is expected in the development of the lower, and it is not only by individualizing them that man has helped the members of the animal kingdom. In Atlantean days the very formation of their species was largely given over into his hands, and it is because he failed to do his duty properly that many things turned out rather differently from what was originally intended. His mistakes are largely responsible for the existence of carnivorous creatures which live only to destroy one another. Not that he was responsible for all carnivorous creatures; there were such among the gigantic reptiles of the Lemurian period, and man was not in any way directly engaged in their evolution; but it was in part his work to assist in the development from those reptile forms of the mammalia which play so prominent a part in the world now. Here was his opportunity to improve the breeds and to curb the undesirable qualities of the creatures that came under his hands; and it is because he failed to do all that he night have done in this direction that he is to some extent responsible for much that has since gone wrong in the world. If he had done all his duty it is quite conceivable that we might have had no carnivorous mammals.Xuyên suốt tiến hoá, sự trợ giúp của bậc cao hơn được kỳ vọng trong sự phát triển của bậc thấp hơn, và không chỉ bằng việc biệt ngã hóa chúng mà con người đã giúp các thành viên của giới động vật. Vào thời Atlantis, ngay cả việc hình thành các loài của chúng phần lớn cũng được trao vào tay con người, và bởi vì con người đã không làm tròn bổn phận đúng đắn của mình nên nhiều điều đã rẽ sang khác với dự định ban đầu. Những sai lầm của con người là nguyên nhân lớn dẫn đến sự tồn tại của các loài ăn thịt chỉ sống bằng cách hủy diệt lẫn nhau. Không phải rằng con người chịu trách nhiệm về tất cả các loài ăn thịt; đã có những loài như thế trong số các bò sát khổng lồ của thời kỳ Lemuria, và con người không trực tiếp tham gia vào sự tiến hoá của chúng; nhưng một phần công việc của con người là trợ giúp phát triển từ các dạng bò sát ấy thành loài thú (động vật có vú) vốn đóng một vai trò rất nổi bật trong thế giới hiện nay. Đây là cơ hội của con người để cải thiện giống loài và kìm bớt những phẩm chất bất hảo của những sinh vật rơi vào tay mình; và vì con người đã không làm tất cả những gì có thể đã làm theo hướng này nên ở một mức độ nào đó con người chịu trách nhiệm về nhiều điều sau đó đã xảy ra sai lệch trên thế gian. Nếu con người đã làm trọn bổn phận, hoàn toàn có thể hình dung rằng chúng ta đã chẳng có các loài thú ăn thịt.
Mankind has for so long treated animals cruelly that the whole animal world has a general feeling of fear and enmity towards men. Men have generated in this way an awful karma, which comes back upon them in terrible suffering, in various forms of disease and of insanity. Yet, even after all this bad behaviour on the part of man, few animals will harm him if left alone. A serpent, for example, will not usually do any injury to a human being, unless he is first hurt or frightened; and the same thing is true of nearly all wild animals, except the very few who may regard man as food, and even they usually will not touch man if they can get anything else. Except when it is absolutely necessary in self-defence or in defence of another the destruction of any form of life ought always to be avoided, as it tends to retard nature’s work. That is one of the reasons why all consistent Theosophists refuse to share the sin of slaughter by eating meat or fish, or by wearing such things as are obtained only by the slaughter of animals, like sealskin or the feathers of birds. Silk used to be obtained by the wholesale slaughter of silk-worms, but I hear that there is now a new way of obtaining it without destroying the worm.Nhân loại đã đối xử tàn nhẫn với loài vật quá lâu đến nỗi cả thế giới loài vật mang một cảm thức chung về sợ hãi và thù nghịch đối với con người. Con người đã tạo ra theo cách ấy một nghiệp quả khủng khiếp, quay lại giáng trên họ bằng những thống khổ ghê gớm, dưới nhiều dạng bệnh tật và cuồng loạn. Tuy vậy, ngay cả sau tất cả những hành vi tệ hại ấy của con người, ít loài vật nào sẽ làm hại con người nếu được để yên. Một con rắn, chẳng hạn, thường sẽ không gây hại cho người, trừ khi nó bị làm đau hoặc bị hoảng sợ trước; và điều tương tự đúng với hầu như mọi loài thú hoang, ngoại trừ một số rất ít có thể xem con người là thức ăn, mà ngay cả chúng cũng thường sẽ không đụng đến con người nếu tìm được thức ăn khác. Trừ khi hoàn toàn cần thiết để tự vệ hoặc để bảo vệ người khác, việc hủy diệt bất kỳ dạng sự sống nào đều nên luôn luôn tránh, vì nó có xu hướng làm chậm công cuộc của thiên nhiên. Đó là một trong những lý do khiến mọi người Thông Thiên Học kiên định đều từ chối chia phần vào tội sát sinh bằng cách ăn thịt hoặc cá, hay mặc những vật chỉ có được bằng cách giết hại loài vật, như da hải cẩu hoặc lông chim. Lụa xưa kia có được bằng cách sát hại hàng loạt tằm, nhưng tôi nghe nói nay đã có cách mới để thu lụa mà không phá hại con tằm.

SYMPATHY—CẢM THÔNG

Never set yourself against the law of nature. Lately, man has gone astray from nature very much, and materialism has become widely spread. Many scientific men who know a great deal more about nature are very much less in sympathy with her than were their less instructed forefathers. In the useful, and indeed necessary, study of the exterior many have forgotten the interior; but men will pass through this intermediate stage of misunderstanding and come back into sympathy. The older people, who had a closer kinship with nature, carried on little of detailed examination, which would have seemed irreverent to them. Because we have become irreverent, have lost the living feeling, we pry remorselessly. We must take care not to lose the precision that we have gained by this intermediate stage, but must recover the sympathy. By sympathy one may find out a great deal which science alone can never discover. In the teaching of children, we need to make them feel that we understand them, even though in doing so we may sacrifice some scholastic advantages. The average child regards grown-up people as foreign entities, strange arbitrary beings.Đừng bao giờ đặt mình đối lập với định luật của thiên nhiên. Gần đây, con người đã lạc xa khỏi thiên nhiên rất nhiều, và chủ nghĩa duy vật đã lan rộng. Nhiều nhà khoa học biết nhiều điều hơn hẳn về thiên nhiên lại kém cảm thông với nàng hơn các bậc tiên tổ kém học của họ. Trong việc nghiên cứu cái bề ngoài, vốn hữu ích và quả thực cần thiết, nhiều người đã quên cái bên trong; nhưng loài người sẽ đi qua giai đoạn trung gian của sự hiểu lầm này và quay trở lại với cảm thông. Người xưa, những người có mối thân tộc gần gũi với thiên nhiên, ít khi đi sâu vào khảo sát chi li—điều vốn sẽ có vẻ thiếu tôn kính đối với họ. Bởi vì chúng ta đã trở nên thiếu tôn kính, đã đánh mất cảm thức sống động, chúng ta bới móc không chút nể nang. Chúng ta phải cẩn thận đừng để mất sự chính xác mà ta đã đạt được qua giai đoạn trung gian này, nhưng phải phục hồi cảm thông. Nhờ cảm thông, người ta có thể khám phá rất nhiều điều mà khoa học đơn thuần không bao giờ có thể phát hiện. Trong việc giáo dục trẻ em, chúng ta cần làm cho chúng cảm thấy rằng ta hiểu chúng, dù khi làm vậy ta có thể phải hy sinh một vài lợi thế học đường. Đứa trẻ trung bình xem người lớn như những thực thể xa lạ, những hữu thể độc đoán kỳ quặc.
All this is true also in connection with our studies of nature. The nature-spirits are afraid of us, if we study them too scientifically; we must go with them into their life, and then they will be interested in the life of humanity also. In their blind way, flowers and other things feel joy and friendliness. Emerson said that it appeared to him that when he returned home, the trees in his garden felt glad to see or feel him again, and no doubt it was quite true. The trees and animals do know the people who love them. In India people speak of the “lucky hand” in planting, meaning that things will grow for some people, but not for others. One must be in sympathy with the purpose of the LOGOS. If we are actively helping in the progress of all, we are living in His will, which penetrates nature, and this is felt by nature at once; but if we put ourselves in opposition to evolution, nature shrinks back from us like a sensitive child.Tất cả những điều này cũng đúng trong mối liên hệ với việc học hỏi thiên nhiên của chúng ta. Các tinh linh thiên nhiên sợ chúng ta nếu chúng ta nghiên cứu chúng quá khoa học; chúng ta phải cùng đi vào đời sống của chúng, và thế thì chúng cũng sẽ quan tâm đến đời sống của nhân loại. Bằng cách mù quáng của mình, hoa cỏ và những sự vật khác cảm được niềm vui và tình thân. Emerson nói rằng ông có cảm tưởng khi ông trở về nhà, những cây trong vườn vui mừng thấy, hay cảm nhận, ông trở lại, và hẳn điều ấy rất đúng. Cây cối và thú vật nhận biết những người yêu thương chúng. Ở Ấn Độ người ta nói đến “bàn tay may mắn” trong việc trồng trọt, nghĩa là sự vật sẽ mọc tốt với một số người này nhưng không với những người khác. Người ta phải hoà cảm với mục đích của Thượng đế. Nếu chúng ta đang tích cực trợ giúp tiến bộ chung của muôn loài, chúng ta đang sống trong Ý chí của Ngài, vốn thấm suốt thiên nhiên, và điều này được thiên nhiên cảm nhận tức thời; nhưng nếu chúng ta tự đặt mình đối lập với tiến hoá, thiên nhiên sẽ co rút khỏi chúng ta như một đứa trẻ nhạy cảm.

OUR ATTITUDE TOWARDS CHILDREN—THÁI ĐỘ CỦA CHÚNG TA ĐỐI VỚI TRẺ EM

What is your attitude towards your children? Remember that these are egos, sparks of the divine life. They have been entrusted to you, not that you may domineer over them and brutally ill-treat them, and use them for your own profit and advantage, but that you may love them and help them in order that they may be expressions of that divine life. What an outpouring of love then you ought to feel! How beyond all words your patience and compassion should be! How deeply you should feel the honour of being trusted to serve them in this way! Remember always that you are not the older and they the younger, but that as souls you are all about the same age, and therefore your attitude must not be that of a selfish and cruel dictator, but of a helpful friend. You do not regard your friend differently when he puts on a new coat; remember therefore that when you meet a child you are meeting a soul wearing a new coat, and you should try by perfect kindness and love to draw out the best that is in it, and to help it to fit on its new coat. Remember always that true good means good for all, and that good is never gained at the cost of suffering to others. That which is so gained is not really good at all.Thái độ của bạn đối với con cái bạn là gì? Hãy nhớ rằng đó là những chân ngã, những tia lửa của sự sống thiêng liêng. Chúng đã được trao phó cho bạn, không phải để bạn áp chế và thô bạo ngược đãi, hay dùng chúng vì lợi ích và lợi lộc riêng, mà để bạn yêu thương và trợ giúp chúng hầu chúng có thể là những biểu lộ của sự sống thiêng liêng ấy. Vậy bạn nên cảm thấy một tràn trề Tình thương biết bao! Lòng nhẫn nại và bi mẫn của bạn phải vượt ngoài mọi lời! Bạn phải cảm nhận sâu xa biết bao niềm vinh dự được tin cậy để phụng sự chúng theo cách này! Hãy luôn nhớ rằng bạn không phải là người già hơn còn chúng là kẻ trẻ hơn, mà như các linh hồn thì tất cả các bạn đều xấp xỉ cùng một tuổi, nên thái độ của bạn không được là của một kẻ độc tài ích kỷ và tàn nhẫn, mà là của một người bạn trợ giúp. Bạn không nhìn bạn mình khác đi khi anh ta khoác một chiếc áo mới; vậy hãy nhớ rằng khi bạn gặp một đứa trẻ, bạn đang gặp một linh hồn khoác chiếc áo mới, và bạn nên cố gắng bằng lòng tốt trọn vẹn và tình thương để khơi ra điều tốt đẹp nhất ở trong nó, và giúp nó mặc cho vừa chiếc áo mới ấy. Hãy luôn nhớ rằng điều thiện chân thật là điều thiện cho tất cả, và điều thiện không bao giờ đạt được bằng cái giá là nỗi khổ của kẻ khác. Điều đạt được như thế không hề là điều thiện thực sự.

THE FEAR OF DEATH—NỖI SỢ CÁI CHẾT

The fear of death is a stern reality in the minds of many people. A far larger number suffer from it than one would suppose, and still more from the fear of what may happen to us after death. Naturally this is especially to be found among people who have ideas of hell, and of probable punishment if they do not believe this or that. It is a gross and degraded form of superstition, but still the suffering is real, and what is even worse is the fear as to the fate of others after death. Many a mother’s whole life is embittered by doubts and fears as to what may happen to her son. He goes far away from her, perhaps; he falls into the ordinary habits of men of the world, and does many things contrary to the narrow religious teaching in which she has been brought up, and so she thinks that he must suffer eternal torture. While it is true that there is no eternal hell for him, there is certainly much real earthly suffering for her.Nỗi sợ cái chết là một thực tại nghiêm khắc trong tâm trí nhiều người. Số người chịu nỗi sợ ấy lớn hơn nhiều so với ta tưởng, và còn nhiều người hơn nữa sợ điều có thể xảy ra cho chúng ta sau khi chết. Tự nhiên điều này đặc biệt phổ biến giữa những người có quan niệm về địa ngục, và về hình phạt có thể đến nếu họ không tin điều này hoặc điều kia. Đó là một hình thức mê tín thô thiển và suy đồi, nhưng nỗi khổ thì vẫn là thật, và còn tệ hơn là nỗi sợ về số phận của kẻ khác sau khi chết. Đời sống của không ít bà mẹ bị đắng cay trọn vẹn bởi hoài nghi và sợ hãi điều có thể xảy đến cho đứa con trai của mình. Có khi nó đi xa khỏi bà; nó rơi vào các thói quen thông thường của người đời, và làm nhiều điều trái với giáo lý tôn giáo hẹp hòi mà bà đã được dạy, thế là bà nghĩ rằng nó phải chịu cực hình muôn đời. Dù sự thật là nó không có địa ngục vĩnh cửu nào, thì chắc chắn có rất nhiều sự thống khổ trần thế thật sự cho bà.
But we know the law of karma, and realize that the states after death are simply a continuation of the life which we are now living, although on a higher plane and without a physical body; and when in addition we learn that what we commonly call life is only one day in the real and greater life, then all these things assume quite a different perspective. We know then that progress is absolutely certain. A man may stumble, he may set himself against the forces of progress, but he will be carried on by them in spite of himself, though when he resists there will be much of bruising and trouble for him. We see at once that this knowledge eliminates fear.Nhưng chúng ta biết luật nghiệp quả, và nhận ra rằng các trạng thái sau khi chết chỉ đơn giản là sự tiếp tục cuộc đời mà hiện nay chúng ta đang sống, dẫu trên một cõi cao hơn và không có thể xác; và khi thêm nữa chúng ta học rằng điều chúng ta thường gọi là đời sống chỉ là một ngày trong sự sống chân thật và cao rộng hơn, thì tất cả những điều này khoác một viễn ảnh hoàn toàn khác. Lúc ấy chúng ta biết rằng tiến bộ là điều chắc chắn tuyệt đối. Một người có thể vấp ngã, y có thể tự đặt mình đối lập với các lực tiến bộ, nhưng y sẽ bị chúng cuốn đi bất chấp chính y; dù rằng khi y kháng cự, y sẽ chịu nhiều thương tích và rắc rối. Chúng ta lập tức thấy rằng tri thức này loại trừ sợ hãi.
The so-called loss of a loved one by death is really only a temporary absence, and not even that as soon as a man developes the power to see on the higher planes. Those whom we think we have lost are with us still, even though with our physical eyes we cannot see them; and we should never forget that, although we may sometimes be under the delusion that we have lost them, they are not in the least under the delusion that they have lost us, because they can still see our astral bodies, and as soon as we leave the physical vehicle in sleep we are with them and can communicate with them exactly as when they were on the physical plane.Cái gọi là mất đi người thân yêu bởi cái chết thực ra chỉ là sự vắng mặt tạm thời, và thậm chí không còn là như vậy nữa ngay khi một người phát triển được năng lực để thấy trên các cõi cao. Những người mà ta tưởng ta đã mất vẫn ở với ta, dù với mắt hồng trần ta không thấy họ; và ta không bao giờ nên quên rằng, dù đôi khi ta bị ảo tưởng rằng ta đã mất họ, họ tuyệt nhiên không hề có ảo tưởng rằng họ đã mất chúng ta , bởi họ vẫn thấy thể cảm dục của ta, và ngay khi ta rời vận cụ hồng trần trong giấc ngủ, ta ở với họ và có thể giao tiếp với họ chính xác như khi họ còn trên cõi hồng trần.
We need not worry ourselves about saving our souls; rather on the other hand, as a Theosophical writer once said, we may not be entirely beyond the hope that some day our souls may save us. There is no soul to be saved in the ordinary sense in which the words are used, because we ourselves are the souls; and furthermore there is nothing to be saved from except our own error and ignorance. The body is nothing but a vestment, and when it is worn out we cast it aside.Chúng ta không cần bận lòng về việc “cứu linh hồn mình”; trái lại, như một tác giả Thông Thiên Học đã từng nói, có lẽ chúng ta chưa đến nỗi tuyệt vọng đến mức một ngày nào đó linh hồn chúng ta có thể cứu chúng ta. Không có linh hồn nào để cứu theo nghĩa thông thường của các từ ấy, vì chính chúng ta là linh hồn; hơn nữa, chẳng có gì để cứu khỏi ngoài chính sai lầm và vô minh của mình. Thân xác chỉ là một tấm áo, và khi nó rách nát, ta cởi bỏ.

CO-OPERATION—HỢP TÁC

It is part of the scheme of the LOGOS that at a certain stage in its evolution humanity must begin to guide itself. Therefore all the future BUDDHAS, Manus and Adepts will be members of our own humanity, the Lords from Venus having gone on to other worlds. Therefore also the LOGOS actually counts upon us all, upon you and upon me. We may have ninety-nine faults and only one virtue, but if that one virtue is needed in the Theosophical work (and what virtue is not needed?) we shall surely have the opportunity to use it.Trong kế đồ của Thượng đế, đến một giai đoạn nào đó trong tiến hoá của mình, nhân loại phải bắt đầu tự dẫn dắt. Bởi vậy, tất cả các Đức Phật tương lai, các Manu và các chân sư sẽ là thành viên của chính nhân loại chúng ta, vì các Đấng đến từ Sao Kim đã đi sang các thế giới khác. Cũng bởi vậy, Thượng đế thực sự trông cậy vào tất cả chúng ta, vào bạn và vào tôi. Chúng ta có thể có chín mươi chín lỗi và chỉ một đức, nhưng nếu đức ấy là điều cần trong công việc Thông Thiên Học (và có đức nào là không cần?) thì chắc chắn ta sẽ có cơ hội sử dụng nó.
We should then value our co-workers for what they can do, and not be constantly blaming them for what they cannot do. Many people have earned the right to do some particular kind of work, notwithstanding that their defects may be greater than their virtue. People often make a sad mistake in comparing their work with that of others, and wishing that they had the same opportunities. The truth is that each one has his own gifts and his own powers, and it is not expected of any man that he should do as much as some other man, but only that he should do his best—just his own best.Chúng ta nên trân trọng các bạn đồng công vì điều họ có thể làm, chứ không nên bền bỉ trách cứ họ vì điều họ không thể làm. Nhiều người đã tạo được quyền làm một loại công việc đặc thù nào đó, dù rằng khiếm khuyết của họ có thể lớn hơn đức hạnh của họ. Người ta thường phạm một lỗi buồn là đem công việc của mình so với công việc của người khác, và ước mình có cùng cơ hội. Sự thật là mỗi người đều có thiên tư và năng lực riêng, và không ai đòi hỏi một người phải làm nhiều bằng người khác, mà chỉ đòi hỏi y làm hết sức mình—chỉ là hết sức của chính y.
The Master once said that in reality there are only two classes of men—those who know and those who do not know. Those who know are they that have seen the light and have turned towards it, through whatever religion they have come, at however great a distance from the light they may as yet find themselves. Many of them may be suffering much in their struggle towards that light, but at least they have hope before them, and while we sympathize deeply with them and strive to help them we yet realize that they are by no means in the worst case. The people really to be pitied are those who are quite indifferent to all higher thought—those who do not struggle because they do not care, or think, or know that there is anything for which to strive. These are they in truth who constitute “the great orphan humanity.”Chân sư từng nói rằng thực ra chỉ có hai hạng người—những người biết và những người không biết. Những người biết là những người đã thấy ánh sáng và đã quay về phía nó, bất kể họ đến qua tôn giáo nào, dẫu hiện nay họ còn ở cách ánh sáng ấy bao xa đi nữa. Nhiều người trong họ có thể khổ sở nhiều trên lộ trình vươn tới ánh sáng ấy, nhưng ít ra họ có hy vọng ở phía trước; và trong khi chúng ta sâu xa cảm thông với họ và cố gắng giúp họ, chúng ta vẫn nhận ra rằng họ không phải là trường hợp đáng thương nhất. Những người thật sự đáng thương là những người hoàn toàn dửng dưng với mọi tư tưởng cao hơn—những kẻ không phấn đấu vì họ không quan tâm, không suy nghĩ, không biết rằng có điều gì đó đáng để phấn đấu. Đấy quả thật là những người hợp thành “đứa trẻ mồ côi vĩ đại là nhân loại”.

A DAY OF LIFE—MỘT NGÀY CỦA SỰ SỐNG

It is not wise to specialize beyond a certain point, because one can never really get to the end of any subject, and it tends more and more to narrow the mind and the outlook, to produce a one-sided and distorted development, and to cause one to view everything out of its due proportion. We are in the habit of thinking of a life-time as a long period, but really it is only a day in greater life. You cannot finish a really great piece of work in one day; it may need many days, and the work of one particular day may at the time show no appreciable result; but nevertheless every day’s work is necessary to the completion of the great task, and if a man should idle day after day because the completion of the work seems so far off he would certainly not succeed in getting it done.Không khôn ngoan nếu chuyên biệt hoá quá một mức nào đó, vì người ta không bao giờ thực sự đi đến cùng một chủ đề nào, và nó càng lúc càng có xu hướng làm hẹp trí và tầm nhìn, tạo ra sự phát triển lệch lạc, méo mó, và khiến người ta nhìn mọi sự lệch khỏi tỉ lệ xứng hợp của chúng. Chúng ta có thói quen nghĩ một kiếp sống là một khoảng thời gian dài, nhưng thực ra nó chỉ là một ngày trong sự sống lớn lao hơn. Bạn không thể hoàn tất một công trình thật lớn trong một ngày; nó có thể cần nhiều ngày, và công việc của một ngày đặc thù nào đó có thể vào lúc ấy chẳng cho thấy kết quả đáng kể; nhưng dẫu vậy, công việc của mỗi ngày đều cần thiết cho sự hoàn thành đại nhiệm, và nếu một người xao lãng ngày qua ngày vì việc hoàn tất xem ra quá xa, chắc chắn y sẽ không thể thành công trong việc hoàn tất nó.
There are many to whom Theosophy comes late in life, who feel themselves somewhat discouraged by the outlook, thinking they are too old now to take themselves in hand seriously or to do any valuable work, that the best that they can do now is to go quietly on to the end of this incarnation in the hope that they may have a better opportunity in the next.Có nhiều người gặp Thông Thiên Học muộn trong đời, cảm thấy mình có phần chán nản khi nhìn về phía trước, nghĩ rằng giờ họ đã quá già để tự nghiêm túc chỉnh mình hoặc để làm công việc gì có giá trị, rằng điều tốt nhất họ có thể làm là bình thản đi đến cuối lâm phàm này với hy vọng đời tới sẽ có cơ hội tốt hơn.
This is a sad mistake, and that for various reasons. You do not know what kind of incarnation karma is preparing for you next time you return to earth. You do not know whether by any previous action you have deserved the opportunity of being born into Theosophical surroundings. In any case the most likely way to secure such a birth is to make use of the opportunity which has come to you now, for, of all that we have learned about the working of this great law of cause and effect, this one fact stands out most clearly—that the result of taking an opportunity is invariably that another and wider opportunity is given. If therefore you neglect the opportunity put before you by your encounter with Theosophy now, it is possible that in the next incarnation the chance may not come to you again.Đó là một sai lầm đáng buồn, và vì nhiều lẽ. Bạn không biết nghiệp quả đang chuẩn bị cho bạn đời lâm phàm kế tiếp kiểu gì khi bạn tái sinh. Bạn không biết liệu bằng hành động nào trước kia bạn đã xứng đáng có được cơ hội sinh ra trong môi trường Thông Thiên Học hay chưa. Dù sao thì cách có khả năng nhất để bảo đảm một sự sinh như thế là tận dụng cơ hội đã đến với bạn bây giờ, vì trong tất cả những gì chúng ta đã học về sự vận hành của định luật nhân quả vĩ đại này, một sự thật nổi bật rõ rệt nhất—rằng kết quả của việc nắm lấy một cơ hội luôn luôn là cơ hội khác rộng lớn hơn được trao. Vậy nên nếu bạn lơ là cơ hội mà cuộc gặp gỡ với Thông Thiên Học trao cho bạn bây giờ, rất có thể trong kiếp tới cơ hội ấy sẽ không đến với bạn nữa.
If a man sets to work earnestly and permeates his spirit as thoroughly as possible with Theosophical ideas, that will build them well into the ego, and will give him so great an attraction towards them that he is certain, even though he may not remember them in detail, to seek for them instinctively, and to recognize them, in his next birth. Every man therefore should begin Theosophical work just as soon as he hears of it, because whatever of it he contrives to achieve, however little it may be, will be just so much to the good, and he will begin to-morrow where he has left off this time. Also by trying to do what he can with such vehicles as he has, obstinate and unresponsive though they may prove through lack of pliability, he will assuredly do much to earn for himself more pliable vehicles for next time. So no effort is lost, and it is never too late in any given life to enter upon the long, long upward path, and to make a commencement in the glorious work of helping others.Nếu một người bắt tay vào công việc một cách nghiêm túc và thấm nhiễm tinh thần của y triệt để hết mức với các ý tưởng Thông Thiên Học, điều đó sẽ xây chúng vững chắc vào trong chân ngã, và sẽ cho y một sức hút mạnh mẽ đến với chúng đến mức y chắc chắn, dù có thể không nhớ chúng chi tiết, sẽ theo bản năng kiếm tìm chúng và nhận ra chúng trong lần sinh sau. Bởi vậy, mỗi người nên khởi sự công việc Thông Thiên Học ngay khi y nghe nói đến nó, vì bất cứ điều gì y xoay xở làm được, dẫu nhỏ đến đâu, cũng là bấy nhiêu điều tốt, và ngày mai y sẽ bắt đầu từ nơi y đã dừng lại lần này. Hơn nữa, bằng việc cố làm hết sức mình với những hiện thể mà y đang có, dẫu chúng cứng đầu và kém đáp ứng vì thiếu tính dẻo, y chắc chắn sẽ làm được nhiều điều để tự tạo cho mình những hiện thể dẻo hơn cho lần tới. Vậy nên chẳng nỗ lực nào uổng phí, và trong bất kỳ đời nào cũng không bao giờ là quá muộn để bước lên con đường dài, dài hướng thượng, và để khởi sự trong công cuộc vinh quang của việc giúp người.
With an eternal life before us it would be a mistake to worry because the present day is drawing near its evening, or in despair to neglect the preparations for the coming day. Light on the Path says: “Kill out desire of life.” This is often misunderstood, but its meaning should be plain. You cannot lose your life; why then should you desire it? It cannot possibly be taken from you. At the same time the quotation means that you should kill out desire for particular bodily conditions.Với một sự sống vĩnh cửu ở phía trước, sẽ là sai lầm nếu bận lòng vì ngày hiện tại đang gần về chiều, hay vì tuyệt vọng mà bỏ bê việc chuẩn bị cho ngày sắp đến. Ánh sáng trên Đường Đạo nói: “Hãy diệt dục vọng sống.” Điều này thường bị hiểu sai, nhưng ý nghĩa của nó phải rõ ràng. Bạn không thể đánh mất sự sống của mình; vậy tại sao lại khao khát nó? Nó không thể bị tước khỏi bạn. Đồng thời, câu trích còn có ý rằng bạn nên diệt dục đối với những điều kiện thân xác đặc thù.

MEDITATION—THAM THIỀN

I think that our members sometimes mistake with regard to meditation, because they have not thoroughly understood the exact way in which it works. They sometimes think that because they do not feel happy and uplifted after a meditation it is therefore a failure and entirely useless, or they find themselves dull and heavy and incapable of meditation. There seems no reality in anything for them, no certainty about anything, and they feel that they are making no progress. They suppose that this must be somehow their own fault and they reproach themselves for it; but they often ask what they can do to improve matters and to restore the joy they used to feel.Tôi nghĩ đôi khi các hội viên của chúng ta mắc sai lầm về tham thiền, vì họ chưa thấu hiểu cặn kẽ cách nó vận hành. Thỉnh thoảng họ nghĩ rằng vì họ không cảm thấy hạnh phúc và được nâng cao sau một thời khoá nên thời khoá ấy là thất bại và hoàn toàn vô ích, hoặc họ thấy mình đờ đẫn, nặng nề và bất lực trong tham thiền. Với họ, dường như chẳng có gì là thật, chẳng có gì chắc chắn, và họ thấy mình chẳng tiến bộ. Họ cho rằng chắc hẳn đó là lỗi nào đó của riêng mình và tự trách; nhưng họ thường hỏi họ có thể làm gì để cải thiện tình hình và khôi phục niềm vui họ từng cảm.
Now the fact is that that experience in regard to meditation is that of all seekers after the spiritual life; you will find that the Christian saints constantly speak of their sufferings at periods of what they call “spiritual dryness,” when nothing seems any use and they feel as though they had lost sight of God altogether. Imagine that I am sitting looking through a wide-open window upon a beautiful hill-side, but the sky is dull grey, heavy with a vast pall of could probably miles in thickness. I have not seen the sun for three days. I cannot feel his rays, but I know he is there, and I know that some day these clouds will roll away as others have done, and I shall see him again. What is necessary for the life of the world is that he should be there, not that I should see him; it is far pleasanter to see him and to feel the warmth of his rays, but it is not a necessity of life. I know just exactly how these people feel, and it is cold comfort to be told that our feelings do not matter, even though there is a very real sense in which it is true.Sự thực là trải nghiệm ấy trong tham thiền là trải nghiệm chung của mọi người tìm kiếm đời sống tinh thần; bạn sẽ thấy các thánh nhân Kitô giáo không ngừng nói về nỗi khổ của họ trong các thời kỳ mà họ gọi là “khô hạn tinh thần”, khi chẳng có gì có ích và họ cảm như thể hoàn toàn đánh mất tăm tích Thượng đế. Hãy hình dung tôi đang ngồi nhìn qua một cửa sổ rộng mở ra một sườn đồi tươi đẹp, nhưng bầu trời là một màu xám chì, nặng nề với một màn mây dày có lẽ hàng dặm. Tôi đã không thấy mặt trời trong ba ngày. Tôi không cảm được những tia nắng của Ngài, nhưng tôi biết Ngài vẫn ở đó, và tôi biết rồi sớm muộn những đám mây này sẽ tan như những đám khác đã tan, và tôi sẽ lại thấy Ngài. Điều cần thiết cho sự sống của thế gian là Ngài phải ở đó , chứ không phải là tôi phải thấy Ngài; được thấy Ngài và cảm hơi ấm của tia nắng dĩ nhiên dễ chịu hơn nhiều, nhưng đó không phải là điều kiện tất yếu của sự sống. Tôi hiểu chính xác những gì những người này cảm, và thật lạnh lùng khi bảo rằng cảm xúc của chúng ta không quan trọng, dù theo một nghĩa rất thật thì điều đó đúng.
I think it is helpful to remember that our meditation has several objects—for example:Tôi nghĩ hữu ích khi nhớ rằng tham thiền của chúng ta có vài mục đích—chẳng hạn:
To ensure that, however deeply we may be immersed in the affairs of the world, we shall devote at least some time each day to the thought of a high ideal.Để bảo đảm rằng, dẫu chúng ta có thể đắm sâu đến đâu trong chuyện đời, thì mỗi ngày ta vẫn dành ít nhất một khoảng thời gian cho tư tưởng về một lý tưởng cao đẹp.
To draw us nearer to the Master and to the LOGOS, so that from Them strength may be poured upon us and through us to benefit the world.Để kéo chúng ta đến gần Chân sư và Thượng đế hơn, hầu từ Các Ngài sức mạnh có thể tuôn đổ xuống chúng ta và thông qua chúng ta để lợi ích cho thế gian.
To train our higher bodies, so that they may have constant practice in responding to the highest vibration—to do the same thing for them that a carefully arranged system of gymnastics or regular exercises does for the physical body.Để rèn luyện các thể cao, sao cho chúng có được sự thực tập thường xuyên trong việc đáp ứng rung động cao nhất—làm cho chúng điều tương tự như một hệ thống luyện tập hay rèn luyện thân thể được sắp xếp cẩn thận làm cho thể xác.
Now you will observe that all these objects are attained just the same whether we feel happy or not. A mistake that many people make is to suppose that a meditation which is unsatisfactory to them is therefore ineffectual. It is just like a little child performing daily her hour of practice upon the piano. Sometimes perhaps she partially enjoys it, but very often it is a weariness to her, and her only thought is to finish it as quickness to her, and her only thought is to finish it as quickly as possible. She does not know, but we do, that every such hour is accustoming her fingers to the instrument, and is bringing nearer and nearer the time when she will derive from her music an enjoyment of which now she does not even dream. You will observe that this object is being attained just as much by the unpleasant and unsatisfactory hour of practice as by that which she enjoys. So in the work of our meditation sometimes we feel happy and uplifted, and sometimes not; but in both cases alike it has been acting for our higher bodies as do the exercises of physical culture or training for our physical body. It is pleasanter when you have what you call a “good” meditation; but the only difference between what seems a good one and a bad one lies in its effect upon the feelings, and not in the real work which it does towards our evolution.Bây giờ bạn sẽ thấy rằng tất cả những mục đích này đều được đạt như nhau, bất kể chúng ta có cảm thấy hạnh phúc hay không. Một sai lầm mà nhiều người mắc là cho rằng một thời khoá không vừa ý đối với họ thì vì vậy là vô hiệu. Điều đó giống như một bé gái hàng ngày thực hiện giờ tập đàn piano của mình. Có lúc em có phần thích thú, nhưng rất thường đó là một nỗi mệt mỏi, và ý nghĩ duy nhất của em là kết thúc nó càng nhanh càng tốt. Em không biết, nhưng chúng ta biết, rằng mỗi giờ tập như thế đang làm cho những ngón tay của em quen với nhạc cụ, và đang đưa lại gần hơn lúc em sẽ rút được từ âm nhạc một niềm vui mà giờ đây em chưa từng mơ thấy. Bạn sẽ nhận ra rằng mục đích ấy đang được đạt tới y như nhau bởi giờ luyện tập khó chịu và không vừa ý cũng như bởi giờ em thích thú. Vậy trong công việc tham thiền của chúng ta, đôi khi chúng ta thấy hạnh phúc và được nâng cao, đôi khi không; nhưng trong cả hai trường hợp, nó vẫn tác động lên các thể cao của ta y như những bài tập rèn luyện thể lý tác động lên thể xác. Dễ chịu hơn khi bạn có điều bạn gọi là một thời khoá “tốt”; nhưng sự khác biệt giữa cái dường như là một thời tốt hay xấu chỉ nằm ở tác động của nó lên cảm xúc, chứ không nằm ở công việc thực mà nó làm được cho tiến hoá của chúng ta.
The reason of the temporary dullness is not always in ourselves—or rather, it is not always attributable to anything that can reasonably be called our fault. Often it is purely physical, resulting from over-fatigue or a nervous strain; often it is due to surrounding astral or mental influences. Of course it is our karma to be subjected to these, and so in that more remote way we are responsible; but we must just do the best we can with them, and there is no need for us to be despondent, or to waste our time in reproaching ourselves.Nguyên do của trạng thái đờ đẫn tạm thời không phải lúc nào cũng ở nơi chúng ta—hay đúng hơn, không phải lúc nào cũng quy cho điều nào có thể hợp lý gọi là lỗi của chúng ta. Thường đó là thuần tuý thể lý, do kiệt sức hay căng thẳng thần kinh; thường đó là do các ảnh hưởng cảm dục hoặc trí tuệ chung quanh. Tất nhiên đó là nghiệp quả của chúng ta khi bị đặt dưới các ảnh hưởng ấy, nên theo cách xa hơn thì chúng ta có trách nhiệm; nhưng chúng ta chỉ cần làm hết sức mình trong các điều kiện đó, và không cần buồn nản hay uổng thời gian tự trách.
Another reason also may be that at certain times the planetary influences are more favourable for meditation than at others. I know nothing of this myself, for I have never considered the planetary influences in these matters, but have always forced my way to what I desired; but I have heard a friend say that an astrologer told him that on certain occasions when Jupiter had certain relations with the moon this had the effect of expanding the etheric atmosphere and making meditation easier, or at least making it appear more successful. The astrologer gave him a list, which he consulted after taking notes of the conditions of his meditations daily for three or four weeks, when he found that the results exactly agreed with the influences which were said to be acting. Certain aspects with Saturn, on the other hand, were said to congest the etheric atmosphere, making the work of meditation difficult, and this also was verified in the same way.Còn một nguyên do nữa là ở những thời điểm nhất định, các ảnh hưởng hành tinh thuận lợi cho tham thiền hơn những lúc khác. Chính tôi thì không hề biết điều này, vì tôi chưa từng để ý đến ảnh hưởng hành tinh trong các việc như thế, mà luôn tự mình bứt tới điều mình muốn; nhưng tôi nghe một người bạn nói rằng một nhà chiêm tinh bảo với anh ta rằng trong những thời điểm nhất định khi Sao Mộc có những liên hệ nào đó với mặt trăng, điều này có hiệu lực là làm giãn nở khí quyển dĩ thái và khiến tham thiền dễ dàng hơn, hoặc tối thiểu khiến nó có vẻ thành công hơn. Nhà chiêm tinh đưa cho anh một danh mục, mà anh tra cứu sau khi ghi chú tình trạng các thời khoá của mình hàng ngày trong ba hay bốn tuần, và anh thấy kết quả trùng khít với những ảnh hưởng được nói là đang tác động. Trái lại, những góc chiếu nhất định với Sao Thổ được nói là làm tắc nghẽn khí quyển dĩ thái, khiến công việc tham thiền khó khăn, và điều này cũng được kiểm chứng theo cách tương tự.
The highest thought that we can have is that of the supreme Lord of all, but of course we must not suppose that our thought changes in the least the attitude of the Supreme towards us. We who are students ought to be far beyond the stage at which a man thinks that he can produce change in the Supreme—a thought which belongs only to the ignorant and unphilosophical among the Christians. We ourselves however are certainly affected by opening ourselves to Him. If you open the window of your room to the sun, the condition of your room is much changed by the power of the sun, but the sun is no way changed by your opening the window. Open the windows of your soul to God.Ý nghĩ cao nhất mà chúng ta có thể có là về Đấng Tối Thượng của muôn loài, nhưng dĩ nhiên chúng ta không được cho rằng tư tưởng của chúng ta dù chỉ mảy may làm đổi thay thái độ của Đấng Tối Thượng đối với ta. Bản thân chúng ta chắc chắn được ảnh hưởng khi mở mình ra với Ngài. Nếu bạn mở cửa sổ phòng mình cho mặt trời, tình trạng căn phòng của bạn thay đổi rất nhiều bởi quyền năng của mặt trời, nhưng mặt trời không hề đổi thay bởi việc bạn mở cửa sổ. Hãy mở các cửa sổ của linh hồn bạn ra với Thượng đế.
During meditation one may try to think of the Supreme Self in everything and everything in it. Try to understand how the Self is endeavouring to express itself through the form. One method of practice for this is to try to identify your consciousness with that of various creatures, such as a fly, an ant, or a tree. Try to see and feel things as they see and feel them, until as you pass inwards all consciousness of the tree or the insect falls away, and the life of the LOGOS appears. We are very much more than the tree or the ant; therefore there is no danger of out being unable to withdraw our consciousness when the experiment is finished. We do not after all imprison it in the form of the tree or the ant; we expand it to take in the life in every form. The man who does this for the first time is usually surprised when he realizes the limitations under which animals act. He had thought an animal acted in a certain way for what seemed quite obvious reasons, but when he really enters into the animal he finds that its motives and intentions are wholly different. The disciple has to go through this process also with lower classes of human beings, because without it he could not perfectly help them.Trong tham thiền, người ta có thể cố nghĩ về Tự Ngã Tối Thượng trong muôn loài và muôn loài ở trong Ngài. Cố hiểu cách Tự Ngã đang nỗ lực biểu lộ qua hình tướng. Một phương pháp thực tập cho điều này là cố đồng hoá tâm thức của bạn với tâm thức của các sinh linh khác nhau, như một con ruồi, một con kiến, hay một cái cây. Cố thấy và cảm như chúng thấy và cảm, cho đến khi khi bạn đi vào nội tâm, mọi ý thức về cái cây hay côn trùng đều rơi rụng, và sự sống của Thượng đế hiển lộ. Chúng ta lớn lao hơn cái cây hay con kiến rất nhiều; vì vậy không có nguy hiểm nào khiến chúng ta không thể rút tâm thức về khi thí nghiệm kết thúc. Rốt cuộc, chúng ta không giam nó trong hình tướng của cái cây hay con kiến; chúng ta mở rộng nó để bao hàm sự sống trong mọi hình tướng. Người làm điều này lần đầu thường ngạc nhiên khi nhận ra những giới hạn trong đó loài vật hành động. Anh đã nghĩ một con vật hành động theo một cách nào đó vì những lý do xem ra khá hiển nhiên, nhưng khi anh thật sự đi vào con vật, anh thấy động cơ và ý định của nó hoàn toàn khác. Người đệ tử cũng phải đi qua tiến trình này với những hạng người thấp hơn, vì nếu không, y không thể giúp họ một cách hoàn hảo.
This enables us to get down to the bed-rock of the Self, and clears away the darkness and loneliness which often comes over us at one stage of our progress. When we know quite certainly that we are part of a whole we do not so much mind where this particular fragment of it may be, or through what experiences it may be passing. Whatever loneliness we may have, we feel, we know, that we are never alone; the Master is always there waiting to help where help is possible. We must give up the clinging to the particular forms; and have no motive but to do the will of the LOGOS. We must never allow the feeling of loneliness to make us forget the Master or lose faith in Him, for no progress is possible unless we have the fullest confidence in the Master whom we choose to serve. If we have only a half-hearted questioning faith in him we cannot progress. We need not make the choice of Master unless we will; but having made it we must have faith in the Teacher and His message.Điều này giúp ta đi xuống đến nền tảng rắn chắc của Tự Ngã, và quét sạch bóng tối và nỗi cô độc thường kéo đến với ta ở một giai đoạn tiến bộ. Khi ta biết chắc chắn rằng mình là một phần của toàn thể, ta không còn bận tâm đến việc mảnh phần đặc thù này đang ở đâu, hay đang đi qua những trải nghiệm nào. Dù ta có nỗi cô độc nào, ta vẫn cảm, vẫn biết, rằng ta không bao giờ đơn độc; Chân sư luôn ở đó chờ giúp đỡ nơi nào có thể giúp. Ta phải buông dính mắc vào các hình tướng riêng biệt; và không có động cơ nào khác ngoài việc làm theo ý muốn của Thượng đế. Ta không bao giờ được để cảm thức cô độc làm ta quên Chân sư hoặc đánh mất niềm tin nơi Ngài, vì không thể có tiến bộ nào nếu ta không có lòng tin trọn vẹn nơi Chân sư mà ta chọn phụng sự. Nếu chúng ta chỉ có một đức tin bán tín bán nghi nơi Ngài, chúng ta không thể tiến bộ. Ta không cần chọn một Chân sư nếu ta không muốn; nhưng một khi đã chọn, ta phải tin tưởng nơi Huấn sư và sứ điệp của Ngài.
In controlling the mind first turn away the senses from outward sounds and sights, and become insensitive to the waves of thought and emotion from others. That is comparatively easy, but the next stage is very difficult, for when this is done there come up from within disturbances which spring from the uncontrolled activity of the mind. The meditation of many of our beginners consists mostly of a continuous struggle to come back to the point. Here comes in the advice given in The Voice of Silence. “The mind is the slayer of the real; let the disciple slay the slayer.” You must not of course destroy your mind, for you cannot get along without it, but you must dominate it; it is yours, not you. The best way to overcome its wandering is to use the will. It is often suggested that the pupil should help himself by making a shell round him; but after all shells are but crutches. Develop will, and you will be able to dispense with them. The astral body tries to impose itself upon you in the same way, and to make you believe that its desires are yours; but with that also we must deal in a precisely similar manner.Khi điều phục thể trí, trước hết hãy quay các giác quan khỏi âm thanh và hình ảnh bên ngoài, và trở nên không nhạy với các làn sóng tư tưởng và cảm xúc từ người khác. Điều đó tương đối dễ, nhưng giai đoạn kế tiếp rất khó, vì khi điều này hoàn tất sẽ trồi lên từ bên trong những xáo động phát sinh từ hoạt động không kiểm soát của thể trí. Tham thiền của nhiều người sơ cơ trong chúng ta phần lớn là một cuộc vật lộn liên tục để quay lại điểm tập trung. Ở đây lời khuyên trong Tiếng Nói của Im Lặng phát huy tác dụng: “Trí là kẻ sát hại Thực tại; hãy để đệ tử giết kẻ sát hại.” Bạn dĩ nhiên không được phá huỷ thể trí của mình, vì bạn không thể xoay sở nếu thiếu nó, nhưng bạn phải chế ngự nó; nó là của bạn , không phải là bạn . Cách tốt nhất để khắc phục sự phóng dật của nó là dùng ý chí. Người ta thường gợi ý rằng học trò nên tự giúp bằng cách tạo một vỏ bọc quanh mình; nhưng suy cho cùng các vỏ bọc chỉ là những chiếc nạng. Hãy phát triển ý chí, và bạn sẽ có thể bỏ chúng. Thể cảm dục cũng tìm cách áp đặt lên bạn theo cách tương tự, và làm bạn tin rằng các dục vọng của nó là của bạn; nhưng với nó, chúng ta cũng phải xử lý bằng đúng một cách như thế.
There is no limit to the degree to which will may be developed. There are decided limitations to the extent to which the strength of the physical body can be increased, but there seem to be no limitations in the case of the will. Fortunately we can train it in the ordinary small things of daily life every day and all day long, and we can have no better practice than this. It is much easier for a man to screw up his courage to face a dramatic martyrdom before a crowd of people than to go on doing the tiresome daily duty with tiresome people day after day and year after year. This latter needs much more will-power than the former. Be careful however that you do not make others suffer in your efforts to develop your own will. Sometimes people have shown will-power by leaving home and friends and going out to face all kinds of difficulties and privations in order to do Theosophical work. That is quite right if a man is absolutely free to do it; but a man who left his wife and family for that purpose, or an only son who left parents that were dependent upon him, would evidently be neglecting his duty in a way which no one has a right to do, even for the sake of the noblest motives.Không có giới hạn cho mức độ phát triển của ý chí. Có những giới hạn nhất định đối với mức độ gia tăng sức mạnh của thể xác, nhưng dường như không có giới hạn trong trường hợp ý chí. May mắn thay, chúng ta có thể rèn luyện nó trong những điều nhỏ nhặt bình thường của đời sống, mỗi ngày và suốt cả ngày, và chúng ta không thể có thực tập nào tốt hơn. Dễ hơn nhiều cho một người là dồn hết can đảm để đối mặt một cuộc tử đạo kịch tính trước đám đông, hơn là tiếp tục chịu đựng bổn phận hằng ngày nhàm chán với những con người nhàm chán, ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác. Điều sau này đòi hỏi nhiều ý chí lực hơn điều trước. Tuy nhiên hãy cẩn thận đừng làm người khác khổ trong nỗ lực phát triển ý chí của riêng bạn. Đôi khi người ta đã biểu lộ ý chí lực bằng cách rời bỏ gia đình, bè bạn, và đi ra đối mặt đủ thứ khó khăn, thiếu thốn để làm công việc Thông Thiên Học. Điều đó hoàn toàn đúng nếu một người hoàn toàn tự do làm vậy; nhưng người đàn ông bỏ vợ con vì mục đích đó, hay người con trai duy nhất bỏ cha mẹ đang phụ thuộc vào mình, hiển nhiên là bỏ bê bổn phận theo một cách mà không ai có quyền làm, dù vì những động cơ cao cả nhất.
As a result of determined meditation we begin to build into our bodies the higher kinds of matter. At this stage we often feel grand emotions, coming from the buddhic level and reflected in the astral body, and under their influence we may do fine work and show great self-sacrifice. But then is needed the development of the mental and causal bodies in order to steady and balance us; otherwise the grand emotions that have swayed us in the right direction may very readily become a little twisted and sway us along some other and less desirable lines. With feeling alone we never obtain perfect balance or steadiness. It is well that the high feelings should come, and the more powerfully they come the better, but that is not enough; wisdom and steadiness must also be acquired because we need directing power as well as motive force. The very meaning of buddhic is wisdom, and when that comes it swallows up all else.Kết quả của tham thiền kiên quyết là chúng ta bắt đầu xây vào trong các thể của mình những loại chất liệu cao hơn. Ở giai đoạn này, chúng ta thường cảm những cảm xúc hùng tráng từ cấp độ Bồ đề phản chiếu xuống thể cảm dục, và dưới ảnh hưởng của chúng, chúng ta có thể làm được công việc tốt đẹp và tỏ bày sự hi sinh lớn. Nhưng rồi cần phải phát triển các thể trí và nguyên nhân để làm vững và cân bằng chúng ta; nếu không, những cảm xúc hùng tráng đã đưa ta theo chiều hướng đúng có thể rất dễ bị trẹo đi đôi chút và đưa ta theo những đường lối khác, kém mong muốn hơn. Với cảm xúc đơn thuần, chúng ta không bao giờ đạt được quân bình hoàn hảo hay sự vững chãi. Thật tốt khi những cảm xúc cao cả trỗi dậy, và chúng càng mạnh mẽ càng tốt, nhưng bấy nhiêu chưa đủ; cần thủ đắc thêm minh triết và đức vững vàng, vì chúng ta cần quyền năng chỉ đạo cũng như lực đẩy. Ý nghĩa của Bồ đề chính là minh triết, và khi điều ấy đến, nó thu nhiếp tất cả.
Illumination may mean three quite different things. First, a man, by setting himself to think intensely and very carefully over a subject may arrive at some conclusion with respect to it. Secondly, he may hope to obtain some illumination from his higher self—to discover what the ego really thinks on its own plane about the matter in question. Thirdly, a highly developed man may come into touch with Masters or devas. It is only in the first case that his conclusions would be likely to be vitiated by his thought-forms. The higher self would be able to transcend these, and so would a Master or a deva.Sự soi sáng có thể có ba nghĩa khác nhau. Thứ nhất, một người bằng cách tự đặt mình vào trạng thái tư duy mãnh liệt và rất cẩn trọng về một chủ đề có thể đạt tới một kết luận nào đó liên quan đến nó. Thứ hai, y có thể hy vọng đạt một ít soi sáng từ chân ngã cao của mình—khám phá xem chân ngã thực sự nghĩ gì trên cõi riêng của nó về vấn đề đang xét. Thứ ba, một người phát triển cao có thể tiếp xúc với các Chân sư hay chư thiên thần. Chỉ trong trường hợp thứ nhất thì kết luận của y mới có khả năng bị các hình tư tưởng của y làm cho lệch lạc. Chân ngã cao sẽ vượt khỏi những điều này, và một Chân sư hay một thiên thần cũng vậy.
All these would have no difficulty in presenting things as they really are; but we must remember that we have not only to absorb the information, but also to bring it down into the physical brain, and as soon as it reaches that brain it will begin to be coloured by prejudices. What we can do in meditation depends upon what we are doing all day long. If we have built up prejudices in ordinary life we cannot escape from them during the time of meditation; but if we patiently endeavour to root out our prejudices and to learn that the ways of others are just as good as our own, we are at least on our way towards establishing a gentle and tolerant attitude which will assuredly extend itself to the special time of our meditation. It is easy for us to see the disadvantages of any new ideas or suggestions; these leap to the eyes. But look for the good also, which does not always so readily emerge.Tất cả các vị ấy sẽ không gặp khó khăn nào trong việc trình hiện sự vật như chúng thực là; nhưng chúng ta phải nhớ rằng chúng ta không chỉ phải hấp thụ thông tin, mà còn phải đưa nó xuống bộ não hồng trần, và ngay khi nó chạm đến bộ não ấy, nó sẽ bắt đầu bị nhuốm màu bởi các định kiến. Điều chúng ta có thể làm trong tham thiền tùy thuộc vào điều chúng ta đang làm suốt cả ngày. Nếu trong đời sống thường nhật chúng ta đã xây đắp những định kiến, ta không thể thoát khỏi chúng trong thời gian tham thiền; nhưng nếu kiên nhẫn nỗ lực nhổ tận gốc định kiến và học biết rằng đường lối của người khác cũng tốt như của ta, ta ít nhất đang trên đường thiết lập một thái độ nhu hoà và khoan dung, và điều này chắc chắn sẽ lan sang khoảng thời gian đặc thù của tham thiền. Dễ cho chúng ta khi thấy các bất lợi của bất cứ ý tưởng hay đề nghị mới nào; những điều này nhảy ngay vào mắt. Nhưng hãy tìm điều tốt nữa, điều không phải lúc nào cũng nổi rõ như thế.
During meditation the ego regards the personality much as at any other time—he is slightly contemptuous usually. Remember your physical meditation is not for the ego, but for the training of the various vehicles to be a channel for the ego. If the ego is at all developed he will meditate also upon his own level; but it does not follow that his meditation will synchronize with that of the personality. The force coming down is always that of the ego, but only a small part, giving a one-sided conception of things. The yoga of a fairly well-developed ego is to try to raise his consciousness first into the buddhic plane and then through its various stages. He does this without reference to what the personality happens to be doing at the time. Such an ego would probably also send down a little of himself at the personal meditation, though his own meditations are very different.Trong khi tham thiền, chân ngã nhìn phàm ngã không khác mấy so với bất kỳ lúc nào khác—thường có phần khinh suất. Hãy nhớ rằng việc tham thiền trên cõi hồng trần của bạn không dành cho chân ngã, mà để huấn luyện các vận cụ khác nhau trở thành kênh cho chân ngã. Nếu chân ngã đã phát triển ở mức nào đó, y cũng sẽ tham thiền trên cấp độ riêng của y; nhưng không vì thế mà việc tham thiền của y sẽ đồng bộ với của phàm ngã. Mãnh lực tuôn xuống luôn là của chân ngã, nhưng chỉ là một phần nhỏ, khiến cho cái nhìn về sự vật bị phiến diện. Yoga của một chân ngã tương đối phát triển là cố gắng nâng tâm thức của y trước hết lên cõi Bồ đề rồi qua các giai đoạn khác nhau của cõi này. Y làm điều đó mà không cần để ý phàm ngã lúc ấy đang làm gì. Một chân ngã như thế có lẽ cũng sẽ rót xuống đôi chút chính y trong lúc phàm ngã tham thiền, dù các cuộc tham thiền của riêng y khác hẳn.
For the development of the powers of the soul, thought-control is an essential pre-requisite. When the thought is controlled and the will is strong a good deal may be achieved in various directions. Much help may be given both to the living and to the dead, and those who are sick or sorrowful may be greatly helped and strengthened. It is well for each member to make it a daily practice to devote a certain time to the sending out of such thoughts to people who are personally known to him—in addition, I mean, to the ordinary meditation which he undertakes for the sake of his own development. The same thing can be done to some extent in group meditation; the thoughts of all may be concentrated for a few minutes upon some one who is known to be in trouble or suffering, and a determined effort made to send strength and consolation. The same power used in a different way will often cure physical diseases.Để phát triển các năng lực của linh hồn, kiểm soát tư tưởng là tiền đề thiết yếu. Khi tư tưởng được kiểm soát và ý chí mạnh mẽ, có thể đạt được nhiều thành tựu theo các hướng khác nhau. Có thể trợ giúp rất nhiều cho cả người sống lẫn người đã qua đời, và những ai bệnh tật hay sầu khổ có thể được giúp đỡ và gia cường lớn lao. Tốt nhất mỗi thành viên nên biến việc dành một khoảng thời gian mỗi ngày để phát ra những tư tưởng như vậy đến những người y quen biết thành một thực hành thường nhật—bên cạnh, tôi muốn nói, việc tham thiền thông thường mà y thực hiện vì sự phát triển của chính mình. Điều tương tự cũng có thể làm ở một mức độ nào đó trong tham thiền nhóm; tư tưởng của mọi người có thể tập trung trong vài phút vào một người nào đó mà ai nấy biết là đang gặp khó khăn hay đau khổ, và nỗ lực quả quyết được thực hiện để gửi sức mạnh và niềm ủi an. Cùng một năng lực ấy, nếu dùng theo cách khác, thường sẽ chữa lành các bệnh tật thể xác.
As to the development of astral sight and hearing, one hardly regards that as an end in itself, but rather as a means to an end. It seems best to utilize to the utmost all the powers that we already possess, and wait for these others to unfold themselves as the result of study and unselfish work. Such powers are undoubtedly a help, though they may be a danger if they come before the character is fully developed. For any one who wishes to hasten their unfoldment I should recommend the process which I describe in the last chapter of The Other Side of Death.Về việc phát triển thị giác và thính giác trên cõi cảm dục, hầu như không ai xem đó là cứu cánh tự thân, mà đúng hơn là phương tiện để đạt cứu cánh. Có vẻ tốt nhất là tận dụng đến mức tối đa mọi năng lực mà chúng ta đã có, và chờ những năng lực khác tự bung nở như kết quả của học hỏi và công việc vị tha. Những năng lực như vậy chắc chắn là sự trợ giúp, dù có thể là mối nguy nếu chúng đến trước khi Tính cách được phát triển đầy đủ. Với bất kỳ ai muốn thúc đẩy sự bung nở ấy, tôi khuyên dùng tiến trình mà tôi mô tả trong chương cuối của Bên Kia Cái Chết .
Where a house is large enough to permit it, it is a good idea to set apart a room especially for meditation. I see no harm in holding group-meetings in such a room if the group be earnest and harmonious, but not if there is to be anything of the nature of discussion or wrangling. If you are trying experiments with mediums of any sort I should advise the use of some other room. You ask whether you should enter such a room when you feel worried; don’ t be worried, don’ t even admit the possibility of being worried. I advise you not to make a thought-form, “I am worried, therefore I must not enter,” rather to take exactly the opposite line, “I am about to enter, therefore I am no longer worried.” You will find that much more effective.Nếu căn nhà đủ rộng cho phép, ý tưởng dành riêng một phòng chuyên cho tham thiền là rất hay. Tôi không thấy hại gì khi tổ chức các buổi nhóm trong căn phòng như vậy nếu nhóm có chí thành và hòa hợp, nhưng không nếu trong đó có bất cứ điều gì mang tính bàn cãi hay tranh cãi. Nếu bạn đang thử nghiệm với các đồng tử thuộc bất kỳ loại nào, tôi khuyên nên dùng phòng khác. Bạn hỏi liệu có nên vào một căn phòng như vậy khi bạn cảm thấy lo lắng; đừng lo lắng, đừng thậm chí thừa nhận khả năng lo lắng. Tôi khuyên bạn đừng tạo một Hình tư tưởng, “Tôi đang lo, vậy nên tôi không được vào,” mà hãy chọn hướng ngược lại: “Tôi sắp bước vào, vậy nên tôi không còn lo nữa.” Bạn sẽ thấy cách ấy hiệu quả hơn nhiều.

Leave a Comment

Scroll to Top