Chương 1 – Ở Hi Lạp Cổ Đại

In Ancient Greece—Ở Hy Lạp Cổ Đại

My first touch with anything that could definitely be called Theosophy was in the year 504 b.c., when I had the wonderful honour and pleasure of visiting the great philosopher Pythagoras. I had taken birth in one of the families of the Eupatridæ at Athens—a family in fairly good circumstances and offering favourable opportunities for progress. This visit was the most important event in my youth, and it came about in this manner. A relation of mine offered to take me, along with a brother a year or two younger, for a voyage in a ship of which he was part owner. It was a trading voyage among the Greek islands and over to the Asiatic shore, and with the leisurely methods of those days it occupied nearly a year, during which we visited many places and saw not only much beautiful scenery but many marvellous temples adorned with exquisite sculpture.Lần đầu tôi chạm vào một điều gì đó có thể xác quyết gọi là Thông Thiên Học là vào năm 504 trước Công nguyên, khi tôi có vinh dự và hoan lạc kỳ diệu được viếng thăm nhà hiền triết vĩ đại Pythagoras. Tôi đã sinh vào một gia đình thuộc dòng dõi Eupatridæ ở Athens—một gia đình khá giả, tạo cơ hội thuận tiện cho sự tiến bộ. Chuyến viếng thăm này là biến cố quan trọng nhất trong tuổi trẻ của tôi, và nó xảy ra như sau. Một người bà con đề nghị dẫn tôi, cùng với một người em trai kém tôi một hai tuổi, đi một chuyến hải hành trên con tàu mà ông là một phần chủ. Đó là một chuyến buôn giữa các đảo Hy Lạp và sang đến bờ Á Châu, và với cung cách ung dung của thuở ấy nó kéo dài gần trọn một năm, trong đó chúng tôi ghé thăm nhiều nơi, nhìn ngắm không chỉ phong cảnh tuyệt mỹ mà còn nhiều ngôi đền kỳ diệu trang hoàng bằng những tác phẩm điêu khắc tinh xảo.
Among other islands we called at Samos, and it was there that we found the great Pythagoras, who was then a man of advanced age and very near his death. Some historians have thought that this sage perished when his school at Krotona was wrecked by popular prejudice; others, recognizing that he survived that catastrophe, believe that he died much later at Metapontum. Neither of these ideas seems to be correct; when very old, he left his schools in Magna Græcia, and returned to his patrimony in Samos to end his days where he had begun them, and so it happened that we had this very great privilege of seeing him in the course of our voyage.Trong số các hải đảo, chúng tôi ghé Samos, và chính ở đó chúng tôi gặp nhà hiền triết vĩ đại Pythagoras, khi ấy là một người đã rất cao niên và gần kề cái chết. Một số sử gia cho rằng bậc hiền triết này đã mất khi trường của Ngài ở Krotona bị dư luận quần chúng đập phá; những người khác, nhận ra rằng Ngài đã sống sót sau tai họa đó, thì tin rằng Ngài qua đời muộn hơn, tại Metapontum. Dường như cả hai ý kiến này đều không đúng; khi đã rất già, Ngài rời các trường ở Magna Græcia, trở về phần gia sản của mình ở Samos để kết thúc những ngày cuối cùng tại nơi mình đã khởi đầu, và thế là trong chuyến hải hành ấy chúng tôi được đặc ân rất lớn được diện kiến Ngài.
His principal disciple at that time was Kleineas (now the Master Djwal Kul); and Kleineas was exceedingly kind to us, and patiently answered all our eager questions, explaining to us the system of the Pythagorean philosophy. We were at once most strongly attracted towards the teaching expounded to us, and were anxious to join the school. Kleineas told us that a branch of it would presently be opened in Athens; and meantime he gave us much instruction in ethics, in the doctrine of reincarnation and the mystery of numbers. All too soon our vessel was ready for sea (it had fortunately required refitting) and we had regretfully to take leave of Pythagoras and Kleineas. To our great and awed delight, when we called to bid him adieu, the aged philosopher blessed us and said with marked emphasis: “πάλιν συναντήσομεθα—we shall meet again.” Within a year or two we heard of his death, and so we often wondered in what sense he could have meant those words; but when in this present incarnation I had for the first time the privilege of meeting the Master Kuthumi, He recalled to my memory that scene of long ago, and said: “Did I not tell you that we should meet again?”Đệ tử chính yếu của Ngài khi ấy là Kleineas (nay là Chân sư Djwal Kul); và Kleineas đã vô cùng tử tế với chúng tôi, nhẫn nại đáp mọi câu hỏi cháy bỏng, giảng giải cho chúng tôi hệ thống triết học Pythagoras. Lập tức chúng tôi bị lôi cuốn mãnh liệt bởi giáo huấn ấy và khát khao gia nhập trường. Kleineas cho biết rằng một chi nhánh của trường sẽ sớm mở tại Athens; trong khi chờ đợi, Ngài đã dạy chúng tôi rất nhiều về đạo đức học, về giáo lý luân hồi và huyền nghĩa của các con số. Chẳng bao lâu con tàu của chúng tôi đã sẵn sàng ra khơi (may mắn thay trước đó nó cần được tu sửa), và chúng tôi đành luyến tiếc từ biệt Pythagoras và Kleineas. Đến niềm hoan hỷ kính sợ của chúng tôi, khi đến cáo từ, nhà hiền triết tuổi già đã ban phước lành và nhấn mạnh nói: “ π άλιν συν αντήσομεθα —chúng ta sẽ gặp lại.” Trong vòng một hai năm sau, chúng tôi nghe tin Ngài đã tạ thế, nên thường tự hỏi Ngài đã hiểu lời ấy theo nghĩa nào; nhưng khi trong kiếp hiện tại này, lần đầu tiên tôi có đặc ân được yết kiến Chân sư Kuthumi, Ngài đã gợi lại trong ký ức tôi cảnh tượng năm xưa ấy, và nói: “Há Ta đã không bảo rằng chúng ta sẽ gặp lại sao?”
Soon after the death of Pythagoras, Kleineas fulfilled his promise to come and establish a school of the philosophy in Athens, and naturally my brother and I were among his first pupils. Large numbers were attracted by his teaching, and the philosophy took a very high place in the thought of the time. Except for what was actually necessary for the management of the family estate, I devoted practically the whole of my time to the study and teaching of this philosophy, and indeed succeeded to the position of Kleineas when he passed away.Ngay sau khi Pythagoras tịch, Kleineas đã giữ lời đến Athens lập trường triết học, và dĩ nhiên tôi và em trai là những môn sinh đầu tiên của Ngài. Rất đông người bị lôi cuốn bởi giáo huấn của Ngài, và triết học ấy chiếm một vị trí rất cao trong tư tưởng thời bấy giờ. Ngoại trừ những gì thật sự cần cho việc quản trị điền sản gia đình, tôi hầu như dành trọn thời giờ cho việc học và giảng dạy triết học này, và thực sự đã kế nhiệm vị trí của Kleineas khi Ngài qua đời.

My Early Attitude—Thái Độ Buổi Đầu

It may have been owing to this exclusive devotion to this higher thought that I had a very unusually long period in the heaven-world—just over 2,300 years. To what extent that fact affected my present life I cannot say; but I arrived in this incarnation without any definite memory of all that I had learnt at the cost of so much time and trouble. In my early life I knew nothing whatever of these matters, but in looking back now upon that period, I can see that I found myself in possession of a set of convictions which I had evidently brought over from that other life.Có lẽ vì sự chuyên chú trọn vẹn vào tư tưởng cao cả này mà tôi đã có một thời kỳ rất khác thường ở cõi thượng thiên—hơn 2.300 năm một chút. Tôi không rõ thực tế đó đã ảnh hưởng đến đời này của tôi đến mức nào; nhưng tôi đến với lần lâm phàm này mà không có ký ức xác định nào về tất cả những điều tôi đã học được bằng bao năm tháng công phu. Thuở niên thiếu tôi hoàn toàn không biết gì về các vấn đề ấy, nhưng nhìn lại giai đoạn đó, tôi thấy mình mang sẵn một hệ tín niệm mà hiển nhiên tôi đã mang theo từ đời trước.
The middle of last century was a time of widespread materialism, of disbelief or at least uncertainty as to religious matters, and scornful denial of the possibility of any kind of non-physical manifestation. Even as a child I was aware that men were arguing hotly as to the existence of God and the possibility that there might be something in man which survives death; but when I heard such discussions I wondered silently how people could be so foolish, for I myself had an unshakable interior certainty on these points, though I could not argue in defence of my belief, or indeed bring forth any reason to support it.Giữa thế kỷ trước là thời của chủ nghĩa duy vật lan rộng, của sự bất tín, hoặc ít nhất là hồ nghi đối với các vấn đề tôn giáo, và là sự khước từ khinh mạn khả thể của bất cứ loại biểu hiện phi vật chất nào. Ngay từ nhỏ tôi đã biết người ta đang tranh luận gay gắt về sự hiện hữu của Thượng đế và khả năng tồn tại nơi con người một điều gì đó còn sống sau khi chết; nhưng khi nghe những cuộc bàn cãi như vậy, tôi lặng lẽ lấy làm lạ sao người ta có thể ngu muội đến thế, vì tự thâm tâm tôi có một xác quyết bất khả lay chuyển về những điểm ấy, cho dù tôi không thể biện luận để bênh vực niềm tin của mình, hay thực sự nêu ra được lý do nào để hỗ trợ nó.
But I knew that there was a God, that He was good, and that death was not the end of life. Even at that age I was able to deduce from these certainties that all must somehow be well, although so often things appeared to be going ill. I remember well how horrified I was (and I am afraid very angry as well) when a small playfellow introduced to my notice the theory of hell. I promptly contradicted him, but he insisted that it must be true because his father had said so. I went home in great indignation to consult my own father on this incredible abomination; but he only smiled tolerantly and said: “Well, my boy, I don’t for a moment believe it myself, but a great many people think so, and it is no use trying to convince them; you will just have to put up with it.” So by degrees I learnt that one’s own interior conviction, however strong, was ineffective as an argument against orthodox opinion.Nhưng tôi biết rằng có Thượng đế, rằng Ngài là thiện, và rằng cái chết không phải là đoạn cuối của sự sống. Ngay ở tuổi đó, tôi đã có thể suy ra từ những xác quyết này rằng rốt cuộc mọi sự hẳn sẽ ổn thỏa theo cách nào đó, mặc dù rất thường khi mọi việc dường như diễn ra tệ hại. Tôi còn nhớ rõ mình đã kinh hoàng thế nào (và e rằng còn rất giận dữ nữa) khi một cậu bạn nhỏ đưa ra với tôi thuyết địa ngục. Tôi lập tức bác lại, nhưng cậu ta khăng khăng rằng điều đó hẳn đúng vì cha cậu đã nói vậy. Tôi về nhà trong cơn phẫn nộ tột độ để hỏi ý cha tôi về điều ghê tởm không thể tin ấy; nhưng ông chỉ mỉm cười khoan hòa và nói: “Này con trai, cha chẳng tin điều đó dù chỉ một thoáng, nhưng có rất nhiều người nghĩ như thế, và chẳng ích gì khi cố thuyết phục họ; con đành phải chấp nhận mà thôi.” Thế là dần dần tôi học được rằng xác quyết nội tâm của chính mình, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng bất lực như một luận cứ chống lại quan kiến chính thống.
One other curious little fragment of half-recollection I seem to have brought over from that Greek incarnation. As a child I used frequently to dream of a certain house, quite unlike any with which I was at that time familiar on the physical plane, for it was built round a central courtyard (with fountains and statues and shrubs) into which all the rooms looked. I used to dream of this perhaps three times a week, and I knew every room of it and all the people who lived in it; I used constantly to describe it to my mother, and to make ground-plans of it. We called it my dream-house. As I grew older I dreamt of it less and less frequently, until at last it faded from my memory altogether. But one day, much later in life, to illustrate some point my Master showed me a picture of the house in which I had lived in my last incarnation, and I recognized it immediately.Còn một mảnh vụn kỳ lạ khác của ký ức mơ hồ mà tôi có vẻ đã mang theo từ đời Hy Lạp ấy. Khi còn nhỏ, tôi thường mơ về một ngôi nhà nhất định nào đó, hoàn toàn khác hẳn với bất kỳ ngôi nhà nào mà khi ấy tôi quen thuộc trên cõi hồng trần, vì nó được xây quanh một sân trong ở trung tâm (có đài phun nước, tượng và cây bụi), vào đó mọi gian phòng đều hướng nhìn. Tôi có lẽ mơ thấy nó ba lần một tuần, và tôi biết rõ từng căn phòng và tất cả những người cư ngụ trong đó; tôi thường xuyên kể cho mẹ nghe, và còn vẽ cả mặt bằng của nó. Chúng tôi gọi đó là “ngôi nhà trong mộng” của tôi. Khi lớn lên, tôi mơ về nó ít dần, cho đến khi nó rốt cuộc phai khỏi ký ức hoàn toàn. Nhưng một ngày kia, rất lâu về sau, để minh họa một điểm, vị Chân sư của tôi cho tôi xem một hình ảnh về căn nhà tôi đã sống trong kiếp trước, và tôi lập tức nhận ra nó.
Although, as I have already said, I had the most absolute interior conviction with regard to the life after death, I soon came to recognize that in discussing the matter with others it would be an immense advantage to have something of the nature of physical-plane evidence to produce. It occurred to me that such evidence ought to be discoverable if one were disposed to give a certain amount of time and trouble to searching for it. I remembered when I was quite a boy coming across a copy of Mrs. Crowe’s Night Side of Nature, which I read with the greatest interest; and it seemed to me that if I could have the opportunity of investigating at first hand cases similar to those which she described I should surely in process of time be able to arrive at something definite which I could quote in answer to inquiries.Tuy như đã nói, tôi có xác quyết nội tâm tuyệt đối về đời sống sau khi chết, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận ra rằng khi thảo luận vấn đề này với người khác, sẽ là một lợi thế rất lớn nếu có thể đưa ra điều gì đó thuộc loại bằng chứng trên cõi hồng trần. Tôi nghĩ rằng những bằng chứng như thế hẳn có thể tìm thấy nếu người ta sẵn lòng bỏ ra một ít thời giờ và công sức để tìm kiếm. Tôi nhớ hồi còn rất nhỏ từng bắt gặp một bản cuốn Night Side of Nature của Bà Crowe, tôi đã đọc với mối quan tâm rất lớn; và có vẻ với tôi rằng nếu tôi có cơ hội tự mình khảo sát tận nơi những trường hợp tương tự như bà đã mô tả, hẳn rồi theo thời gian tôi có thể đi đến một điều gì xác định để có thể dẫn ra đáp lời người thắc mắc.

Personal Investigations—Những Khảo Sát Cá Nhân

Occasionally there would appear in some newspaper an account of the appearance of a ghost, or of curious happenings in a haunted house; and whenever anything of that sort came to my notice, I promptly travelled down to the scene of action, interrogated any witnesses that I could find, and spent a good deal of time and trouble in endeavouring personally to encounter the spectral visitant. Of course in a large number of instances I drew a blank; either there was no evidence worth mentioning, or the ghost declined to appear when he was wanted. Even when there was a witness to be found who had a reasonably credible story to tell, it seemed that the ghost did not stay long enough to say or do anything of special interest; or, perhaps, it was the witness who did not stay long enough!Đôi khi trên một tờ báo nào đó lại xuất hiện tường thuật về một bóng ma hiện hình, hay những chuyện lạ trong một ngôi nhà bị ma ám; và bất cứ khi nào điều như vậy lọt vào tầm chú ý, tôi lập tức đi đến nơi xảy ra sự việc, hỏi han mọi nhân chứng có thể tìm được, và bỏ khá nhiều thời gian công sức để tự mình cố chạm mặt vị khách vô hình ấy. Dĩ nhiên trong một số rất lớn trường hợp tôi tay trắng trở về; hoặc không có chứng cứ nào đáng nói, hoặc hồn ma không chịu xuất hiện khi người ta mong. Ngay cả khi tìm được một nhân chứng có câu chuyện đáng tin ở mức hợp lý, dường như hồn ma cũng không nán lại đủ lâu để nói hay làm điều gì thật đặc biệt; hoặc có lẽ chính nhân chứng đã không đứng vững đủ lâu!
Still, among the wearisome monotony of many failures there came sometimes a bright oasis of definite success, and I presently collected an amount of direct evidence which would have absolutely convinced me, if I had needed convincing. At the same time I also investigated a number of cases of what is called “second sight”, chiefly in the Highlands; and there again I found that it was easy for any unprejudiced person who was willing to take a little trouble to satisfy himself as to the genuineness of the phenomena.Tuy vậy, giữa sự đơn điệu mệt mỏi của biết bao lần thất bại đôi khi cũng có một ốc đảo rực sáng của thành công xác thực, và rồi tôi gom góp được một lượng bằng chứng trực tiếp đủ để hoàn toàn thuyết phục chính tôi, nếu như tôi cần được thuyết phục. Đồng thời tôi cũng khảo sát một số trường hợp của điều người ta gọi là “nhãn thông”, chủ yếu ở vùng Cao nguyên; và ở đó nữa tôi nhận thấy rằng bất kỳ ai không thành kiến, sẵn lòng chịu khó đôi chút, cũng có thể tự mình hài lòng về tính xác thực của các hiện tượng.
  

Spiritualism—Thần linh học

Unfortunately I was at that time quite ignorant that there was another line of possible inquiry—that of spiritualism. The first time that, so far as I can recollect, I ever heard of such a thing was in connection with the séances held by Mr. D. D. Home with the Emperor Napoleon III. A series of articles describing them was written by the Rev. Maurice Davies in The Daily Telegraph; but the statements which he made seemed to me at that time quite incredible, and when reading one of the articles aloud to my mother one evening I expressed strong doubts as to whether the description could possibly be accurate.Không may là khi ấy tôi hoàn toàn không biết rằng còn có một hướng khảo sát khả dĩ khác—đó là Thần linh học. Lần đầu, theo trí nhớ tôi, tôi nghe nói về điều này là liên quan đến các Buổi gọi hồn do Ông D. D. Home thực hiện với Hoàng đế Napoleon III. Một loạt bài miêu tả chúng được Mục sư Maurice Davies viết trên The Daily Telegraph ; nhưng những điều ông nêu khi ấy dường như hoàn toàn khó tin đối với tôi, và khi một buổi tối đọc một bài cho mẹ nghe, tôi đã bày tỏ hoài nghi mạnh mẽ liệu mô tả đó có thể chính xác chăng.
The article ended, however, with the remark that anyone who felt unable to credit the story might readily convince himself of its possibility by bringing together a few of his friends, and inducing them to sit quietly round a small table, either in darkness or in dim light, with the palms of their hands resting lightly upon the surface of the table. It was stated that a still easier plan was to place an ordinary silk hat upon the table, brim upwards, and let two or three people rest their hands lightly upon the brim. It was asserted that the hat or table would presently begin to turn, and in this way the existence of a force not under the control of anyone present would be demonstrated.Tuy nhiên, bài báo kết lại bằng nhận xét rằng ai thấy chưa thể tin câu chuyện thì có thể dễ dàng tự mình kiểm chứng khả thể của nó bằng cách mời vài người bạn đến, khuyến khích họ ngồi yên quanh một chiếc bàn nhỏ, hoặc trong bóng tối hoặc trong ánh sáng mờ, với lòng bàn tay đặt nhẹ trên mặt bàn. Cũng nói rằng một cách đơn giản hơn nữa là đặt một chiếc mũ chóp bằng lụa bình thường trên bàn, vành mũ hướng lên, và để hai hay ba người đặt nhẹ tay lên vành mũ. Người ta quả quyết rằng chiếc mũ hay chiếc bàn chẳng bao lâu sẽ bắt đầu quay, và bằng cách ấy chứng minh sự hiện hữu của một lực không thuộc sự điều khiển của bất kỳ ai hiện diện.
This sounded fairly simple, and my mother suggested that, as it was just growing dusk and the time seemed appropriate, we should make the experiment forthwith. Accordingly I took a small round table with a central leg, the normal vocation of which was to support a flower-pot containing a great arum lily. I brought in my own silk hat from the stand in the hall, and placed it on the table, and we put our hands upon its brim as prescribed. The only person present besides my mother and myself was a small boy of twelve, who, as we afterwards discovered, was a powerful physical medium but I knew nothing about mediums then. I do not think that any of us expected any result whatever, and I know that I was immensely surprised when the hat gave a gentle but decided half-turn on the polished surface of the table.Điều này nghe khá đơn giản, và mẹ tôi đề nghị, vì trời vừa chạng vạng và thời khắc xem ra thuận tiện, chúng tôi sẽ làm thí nghiệm ngay. Thế là tôi lấy một chiếc bàn tròn nhỏ chân giữa, vốn công dụng thường ngày là đỡ chậu cây arum lớn. Tôi mang chiếc mũ chóp bằng lụa của mình từ giá treo ở tiền sảnh vào, đặt nó lên bàn, và chúng tôi đặt tay lên vành mũ như chỉ dẫn. Người duy nhất có mặt ngoài mẹ tôi và tôi là một cậu bé mười hai tuổi, mà về sau chúng tôi phát hiện là một đồng tử vật chất mạnh, nhưng lúc ấy tôi chẳng biết gì về đồng tử cả. Tôi không nghĩ ai trong chúng tôi trông đợi kết quả nào, và tôi biết mình đã vô cùng sửng sốt khi chiếc mũ khẽ nhưng dứt khoát xoay nửa vòng trên mặt bàn đánh bóng.
Each of us thought the other must have moved it unconsciously, but it soon settled that question for us, for it twirled and gyrated so vigorously that it was difficult for us to keep our hands upon it. At my suggestion we raised our hands; the hat came up under them, as though attached to them, and remained suspended a couple of inches from the table for a few moments before falling back upon it. This new development astonished me still more, and I endeavoured to obtain the same result again. For a few minutes the hat declined to respond, but when at last it did come up as before, it brought the table with it! Here was my own familiar silk hat, which I had never before suspected of any occult qualities, suspending itself mysteriously in the air from the tips of our fingers, and, not content with that defiance of the laws of gravity on its own account, attaching a table to its crown and lifting that also! I looked down to the feet of the table; they were about six inches from the carpet, and no human foot was touching them or near them! I passed my own foot underneath, but there was certainly nothing there—nothing physically perceptible, at any rate.Mỗi người chúng tôi đều nghĩ người kia đã vô thức làm nó động, nhưng chẳng bao lâu chính nó tự giải quyết nghi vấn đó, vì nó xoay tít và quay cuồng mạnh đến nỗi chúng tôi khó lòng giữ tay trên nó. Theo gợi ý của tôi, chúng tôi nâng tay lên; chiếc mũ trồi lên chạm dưới tay chúng tôi, như thể dính vào, và lơ lửng khoảng vài phân trên mặt bàn trong giây lát trước khi rơi trở lại. Diễn biến mới này còn làm tôi kinh ngạc hơn nữa, và tôi cố gắng đạt lại kết quả tương tự. Trong vài phút chiếc mũ không chịu đáp ứng, nhưng rồi khi nó đúng là lại trồi lên như trước, thì kéo theo cả chiếc bàn! Đây là chiếc mũ lụa thân quen của chính tôi, mà trước giờ tôi chẳng hề nghi nó có phẩm tính huyền bí nào, nay lại tự treo mình một cách bí ẩn trong không trung từ đầu ngón tay chúng tôi, và, chưa thỏa với sự thách thức định luật trọng lực cho riêng nó, lại còn dính cả cái bàn vào chóp mũ để nhấc nó lên nữa! Tôi nhìn xuống các chân bàn; chúng cách tấm thảm chừng sáu inch, và không một bàn chân người nào chạm vào hay ở gần chúng! Tôi luồn chân mình qua dưới đó, nhưng rõ ràng chẳng có gì ở đó—ít nhất không có gì cảm nhận được bằng giác quan thể xác.
Of course when the hat first moved it had crossed my mind that the small boy must somehow be playing a trick upon us; but in the first place he obviously was not doing so, and in the second he could not possibly have produced this result unobserved. After about two minutes the table dropped away from the hat, and almost immediately the latter fell back to its companion, but the experiment was repeated several times at intervals of a few minutes. Then the table began to rock violently, and threw the hat off—a plain hint to us, if any of us had known enough to take it. But none of us had any idea of what to do next, though we were keenly interested in these extraordinary movements. I was not myself thinking of the phenomenon in the least as a manifestation from the dead, but only as the discovery of some strange new force.Dĩ nhiên khi chiếc mũ mới cử động, ý nghĩ thoáng qua trong tôi là cậu bé hẳn đang bày trò tinh quái nào đó; nhưng thứ nhất, hiển nhiên cậu không làm vậy; thứ hai, cậu ta không thể nào tạo ra kết quả này mà không bị phát hiện. Chừng hai phút sau, cái bàn rơi tách khỏi chiếc mũ, và hầu như ngay lập tức chiếc mũ cũng rơi về lại với bạn đồng hành; nhưng thí nghiệm được lặp lại vài lần sau mỗi vài phút. Rồi cái bàn bắt đầu lắc dữ dội và hất chiếc mũ xuống—một ám hiệu rõ ràng cho chúng tôi, nếu như có ai đủ hiểu biết để nhận ra. Nhưng chẳng ai trong chúng tôi biết phải làm gì tiếp, dẫu đều hết sức chú ý đến những chuyển động khác thường ấy. Riêng tôi, lúc đó tôi không hề nghĩ hiện tượng này là một sự hiện lộ từ những người quá cố, mà chỉ như phát hiện một loại lực lạ lùng mới.
This rather frivolous beginning led me to make further inquiries, and I soon found that there was a considerable literature devoted to this subject, and that I might carry my investigations much further by séances with regular mediums. Of course I encountered a certain amount of fraud, and still more stupidity, but I was presently able to satisfy myself beyond all doubt that some at least of the manifestations were due to the action, of those whom we call the dead.Khởi đầu có phần bông đùa này đã dẫn tôi đến những tìm hiểu sâu hơn, và chẳng bao lâu tôi nhận ra có một khối lượng văn liệu đáng kể dành cho đề tài này, và rằng tôi có thể đẩy xa khảo sát của mình bằng các Buổi gọi hồn với những đồng tử chuyên nghiệp. Tất nhiên tôi cũng gặp một số lừa đảo, và còn nhiều ngu dại hơn nữa, nhưng rồi tôi đã có thể tự mình thỏa mãn ngoài mọi nghi ngờ rằng ít nhất một phần các hiện lộ là do tác động của những người mà chúng ta gọi là người chết.
There is practically ho phenomenon of which I read in spiritualistic books, or hear in spiritualistic circles, which I have not myself witnessed under definite test conditions. Any reader who wishes for a fuller account of my investigations and their result will find it in my book The Other Side of Death, or in that small part of the same book which is published separately under the title of Spiritualism and Theosophy.Hầu như không có hiện tượng nào mà tôi đọc trong sách Thần linh học hay nghe trong các giới Thần linh học mà chính tôi chưa từng chứng kiến trong những điều kiện kiểm chứng rõ ràng. Độc giả nào muốn tường tận hơn về những khảo sát của tôi và kết quả của chúng có thể xem trong cuốn The Other Side of Death của tôi, hoặc trong phần nhỏ của cùng cuốn sách được xuất bản riêng dưới nhan đề Spiritualism and Theosophy .
I have related in considerable detail some of these events of my early life in order to make clear to my readers the attitude of mind in which I was when Theosophy eventually came before me, which I think explains the way in which I instantaneously reacted to it. I ought perhaps just to mention one other incident of my pre-Theosophy life which, insignificant though it was in itself, predisposed me to the acceptance of much that I might otherwise have doubted.Tôi thuật khá chi tiết một số sự kiện của quãng đời sớm ấy để làm rõ với độc giả thái độ thể trí mà tôi đang ở trong đó khi Thông Thiên Học rốt cuộc đến trước tôi, điều mà tôi nghĩ giải thích cách tôi đã ứng đáp tức thời với nó. Có lẽ tôi cũng nên nhắc đến một sự kiện khác trong đời trước-Thuật-ngữ-Thông-Thiên-Học của tôi, tuy tự nó không đáng kể, nhưng đã khiến tôi thiên về chấp nhận nhiều điều mà lẽ ra tôi có thể hoài nghi.
  

A Story of Madame Blavatsky—Một Câu Chuyện về Bà Blavatsky

The very first news that I ever heard of our great Founder, Madame Blavatsky, was curious and characteristic, and the hearing of it was a most important event in my life, though I did not know it then. A staunch friend of my school-days took up the sea-life as his profession, and about the year 1879 he was second officer on board one of the coasting vessels of the British India Steam Navigation Co. On her voyage from Bombay to Colombo Madame Blavatsky happened to travel by that steamer, and thus my friend was brought into contact with that marvellous personality.Tin tức đầu tiên tôi từng nghe về vị Tổ sáng lập vĩ đại của chúng ta, Bà Blavatsky, vừa lạ lùng vừa tiêu biểu; và việc nghe được điều đó là một biến cố hết sức quan trọng trong đời tôi, dù lúc ấy tôi chưa biết. Một người bạn chí cốt thời đi học của tôi chọn đời đi biển làm nghề, và vào khoảng năm 1879, ông là sĩ quan phụ thứ hai trên một trong các tàu chạy ven bờ của British India Steam Navigation Co. Trên chuyến đi từ Bombay đến Colombo, Bà Blavatsky tình cờ đi bằng con tàu ấy, và vì thế bạn tôi được tiếp xúc với cái phàm ngã kỳ diệu đó.
He told me two very curious stories about her. It seems that one evening he was on the bridge trying vainly to light a pipe in a high wind. Being on duty he could not leave the bridge, so he struck match after match only to see the flame instantly extinguished by the gale. Finally, with an expression of impatience, he abandoned the attempt. As he straightened himself he saw just below him a dark form closely wrapped in a cloak, and Madame Blavatsky’s clear voice called to him:Ông kể tôi nghe hai câu chuyện hết sức lạ lùng về Bà. Hình như một buổi tối nọ, ông đang trên đài chỉ huy cố vô ích châm tẩu trong gió lớn. Vì đang phiên trực nên ông không thể rời đài, cứ quẹt hết que diêm này đến que khác chỉ để thấy ngọn lửa tắt phụt ngay vì cuồng phong. Cuối cùng, với một lời bực bội, ông bỏ cuộc. Khi ông đứng thẳng người dậy, ông thấy ngay bên dưới mình một dáng người tối, quấn chặt trong áo choàng, và giọng trong trẻo của Bà Blavatsky gọi ông:
“Cannot you light it, then?”“Thế là không châm được sao?”
“No,” he replied, “I do not believe that anyone could keep a match alight in such a wind as this.”“Không,” ông đáp, “tôi không tin là ai có thể giữ cho que diêm cháy trong cơn gió như thế này.”
“Try once more,” said Madame Blavatsky.“Hãy thử lại lần nữa,” Bà Blavatsky nói.
He laughed, but he struck another match, and he assures me that, in the midst of that gale and quite unprotected from it, that match burnt with a steady flame clear down to the fingers that held it. He was so astounded that he quite forgot to light his pipe after all, but H. P. B. only laughed and turned away.Ông bật cười, nhưng vẫn quẹt thêm một que nữa, và ông quả quyết với tôi rằng, giữa cơn cuồng phong ấy, không hề được che chắn, que diêm ấy cháy với ngọn lửa đều đặn, cháy đến tận những ngón tay cầm nó. Ông kinh ngạc đến mức rốt cuộc quên châm tẩu, còn H. P. B. chỉ cười rồi quay đi.
On another occasion during the voyage the first officer made, in Madame Blavatsky’s presence, some casual reference to what he would do on the return voyage from Calcutta. (The steamers used to go round the coast from Bombay to Calcutta and back again.) She interrupted him, saying:Một lần khác trong chuyến hải hành, viên sĩ quan nhất đã vô tình nhắc, ngay trước mặt Bà Blavatsky, đến những gì ông sẽ làm trong chuyến trở về từ Calcutta. (Hồi đó tàu thủy vẫn chạy vòng quanh bờ biển từ Bombay đến Calcutta rồi quay lại.) Bà cắt ngang, nói:
“No, you will not do that, for you will not make the return voyage at all. When you reach Calcutta you will be appointed captain of another steamer, and you will go in quite a different direction.”“Không, ông sẽ không làm thế, vì ông sẽ không đi chuyến trở về đó đâu. Khi đến Calcutta ông sẽ được bổ nhiệm làm thuyền trưởng của một con tàu khác, và ông sẽ đi theo một hướng hoàn toàn khác.”
“Madame,” said the first officer, “I wish with all my heart you might be right, but it is impossible. It is true I hold a master’s certificate, but there are many before me on the list for promotion. Besides, I have signed an agreement to serve on the coasting run for five years.”“Thưa Bà,” viên sĩ quan nhất nói, “tôi cầu mong Bà nói đúng bằng cả tấm lòng, nhưng điều đó là không thể. Đúng là tôi có bằng thuyền trưởng, nhưng còn nhiều người xếp trước tôi trong danh sách thăng chức. Hơn nữa, tôi đã ký hợp đồng chạy tuyến ven bờ trong năm năm.”
“All that does not matter”, replied Madame Blavatsky; “you will find it will happen as I tell you.”“Tất cả điều đó không can gì,” Bà Blavatsky đáp; “ông sẽ thấy mọi sự xảy ra đúng như tôi nói.”
And it did; for when that steamer reached Calcutta it was found that an unexpected vacancy had occurred (I think through the sudden death of a captain), and there was no one at hand who could fill it but that same first officer. So the prophecy which had seemed so impossible was literally fulfilled.quả đúng như vậy ; vì khi con tàu ấy đến Calcutta, người ta thấy có một chỗ trống bất ngờ (tôi nghĩ là do cái chết đột ngột của một vị thuyền trưởng), và chẳng có ai ở đó có thể lấp vào ngoài chính viên sĩ quan nhất ấy. Thế là lời dự ngôn tưởng như không thể lại được ứng nghiệm đúng từng chữ.
Years afterwards, when I was on my way from Java to India with Mr. van Manen, I travelled on a steamer the captain of which was that very same man who had been the first officer of my friend’s story, and he told us the tale from his point of view, exactly corroborating the original version.Nhiều năm sau, khi tôi đang đi từ Java sang Ấn Độ với Ông van Manen, tôi đi trên một con tàu mà vị thuyền trưởng chính là người đã từng là sĩ quan nhất trong câu chuyện của bạn tôi, và ông đã kể lại cho chúng tôi câu chuyện ấy theo quan điểm của mình, xác nhận đúng hệt phiên bản ban đầu.
These were points of no great importance in themselves, but they implied a good deal, and their influence on me was in an indirect manner considerable. For in less than a year after that conversation Mr. A. P. Sinnett’s book The Occult World fell into my hands, and as soon as I saw Madame Blavatsky’s name mentioned in it I at once recalled the stories related to me by my friend. Naturally the strong first-hand evidence which I had already had of her phenomenal powers predisposed me to admit the possibility of these other strange new things of which Mr. Sinnett wrote, and thus those two little stories played no unimportant part in my life, since they prepared me for the instant and eager acceptance of Theosophical truths.Những điều ấy tự thân không mấy quan trọng, nhưng chúng hàm ý rất nhiều, và ảnh hưởng của chúng đối với tôi, theo một cách gián tiếp, thì khá đáng kể. Vì chưa đầy một năm sau cuộc trò chuyện đó, cuốn Thế Giới Huyền Bí của Ông A. P. Sinnett tình cờ đến tay tôi, và ngay khi thấy tên Bà Blavatsky được nhắc đến trong đó, tôi lập tức nhớ lại những câu chuyện người bạn của tôi đã kể. Tự nhiên là bằng chứng trực tiếp mạnh mẽ mà tôi đã có về những năng lực phi thường của Bà khiến tôi thiên về việc thừa nhận khả tính của những điều lạ lùng mới mẻ khác mà Ông Sinnett đã viết, và như thế hai câu chuyện nhỏ đó đã đóng một vai không hề nhỏ trong đời tôi, vì chúng đã chuẩn bị cho tôi sự tiếp nhận tức thì và háo hức đối với các chân lý Thông Thiên Học.

Leave a Comment

Scroll to Top