In Ancient Greece—Ở Hy Lạp Cổ Đại
| My first touch with anything that could definitely be called Theosophy was in the year 504 b.c., when I had the wonderful honour and pleasure of visiting the great philosopher Pythagoras. I had taken birth in one of the families of the Eupatridæ at Athens—a family in fairly good circumstances and offering favourable opportunities for progress. This visit was the most important event in my youth, and it came about in this manner. A relation of mine offered to take me, along with a brother a year or two younger, for a voyage in a ship of which he was part owner. It was a trading voyage among the Greek islands and over to the Asiatic shore, and with the leisurely methods of those days it occupied nearly a year, during which we visited many places and saw not only much beautiful scenery but many marvellous temples adorned with exquisite sculpture. | Lần đầu tôi chạm vào một điều gì đó có thể xác quyết gọi là Thông Thiên Học là vào năm 504 trước Công nguyên, khi tôi có vinh dự và hoan lạc kỳ diệu được viếng thăm nhà hiền triết vĩ đại Pythagoras. Tôi đã sinh vào một gia đình thuộc dòng dõi Eupatridæ ở Athens—một gia đình khá giả, tạo cơ hội thuận tiện cho sự tiến bộ. Chuyến viếng thăm này là biến cố quan trọng nhất trong tuổi trẻ của tôi, và nó xảy ra như sau. Một người bà con đề nghị dẫn tôi, cùng với một người em trai kém tôi một hai tuổi, đi một chuyến hải hành trên con tàu mà ông là một phần chủ. Đó là một chuyến buôn giữa các đảo Hy Lạp và sang đến bờ Á Châu, và với cung cách ung dung của thuở ấy nó kéo dài gần trọn một năm, trong đó chúng tôi ghé thăm nhiều nơi, nhìn ngắm không chỉ phong cảnh tuyệt mỹ mà còn nhiều ngôi đền kỳ diệu trang hoàng bằng những tác phẩm điêu khắc tinh xảo. |
| Among other islands we called at Samos, and it was there that we found the great Pythagoras, who was then a man of advanced age and very near his death. Some historians have thought that this sage perished when his school at Krotona was wrecked by popular prejudice; others, recognizing that he survived that catastrophe, believe that he died much later at Metapontum. Neither of these ideas seems to be correct; when very old, he left his schools in Magna Græcia, and returned to his patrimony in Samos to end his days where he had begun them, and so it happened that we had this very great privilege of seeing him in the course of our voyage. | Trong số các hải đảo, chúng tôi ghé Samos, và chính ở đó chúng tôi gặp nhà hiền triết vĩ đại Pythagoras, khi ấy là một người đã rất cao niên và gần kề cái chết. Một số sử gia cho rằng bậc hiền triết này đã mất khi trường của Ngài ở Krotona bị dư luận quần chúng đập phá; những người khác, nhận ra rằng Ngài đã sống sót sau tai họa đó, thì tin rằng Ngài qua đời muộn hơn, tại Metapontum. Dường như cả hai ý kiến này đều không đúng; khi đã rất già, Ngài rời các trường ở Magna Græcia, trở về phần gia sản của mình ở Samos để kết thúc những ngày cuối cùng tại nơi mình đã khởi đầu, và thế là trong chuyến hải hành ấy chúng tôi được đặc ân rất lớn được diện kiến Ngài. |
| His principal disciple at that time was Kleineas (now the Master Djwal Kul); and Kleineas was exceedingly kind to us, and patiently answered all our eager questions, explaining to us the system of the Pythagorean philosophy. We were at once most strongly attracted towards the teaching expounded to us, and were anxious to join the school. Kleineas told us that a branch of it would presently be opened in Athens; and meantime he gave us much instruction in ethics, in the doctrine of reincarnation and the mystery of numbers. All too soon our vessel was ready for sea (it had fortunately required refitting) and we had regretfully to take leave of Pythagoras and Kleineas. To our great and awed delight, when we called to bid him adieu, the aged philosopher blessed us and said with marked emphasis: “πάλιν συναντήσομεθα—we shall meet again.” Within a year or two we heard of his death, and so we often wondered in what sense he could have meant those words; but when in this present incarnation I had for the first time the privilege of meeting the Master Kuthumi, He recalled to my memory that scene of long ago, and said: “Did I not tell you that we should meet again?” | Đệ tử chính yếu của Ngài khi ấy là Kleineas (nay là Chân sư Djwal Kul); và Kleineas đã vô cùng tử tế với chúng tôi, nhẫn nại đáp mọi câu hỏi cháy bỏng, giảng giải cho chúng tôi hệ thống triết học Pythagoras. Lập tức chúng tôi bị lôi cuốn mãnh liệt bởi giáo huấn ấy và khát khao gia nhập trường. Kleineas cho biết rằng một chi nhánh của trường sẽ sớm mở tại Athens; trong khi chờ đợi, Ngài đã dạy chúng tôi rất nhiều về đạo đức học, về giáo lý luân hồi và huyền nghĩa của các con số. Chẳng bao lâu con tàu của chúng tôi đã sẵn sàng ra khơi (may mắn thay trước đó nó cần được tu sửa), và chúng tôi đành luyến tiếc từ biệt Pythagoras và Kleineas. Đến niềm hoan hỷ kính sợ của chúng tôi, khi đến cáo từ, nhà hiền triết tuổi già đã ban phước lành và nhấn mạnh nói: “ π άλιν συν αντήσομεθα —chúng ta sẽ gặp lại.” Trong vòng một hai năm sau, chúng tôi nghe tin Ngài đã tạ thế, nên thường tự hỏi Ngài đã hiểu lời ấy theo nghĩa nào; nhưng khi trong kiếp hiện tại này, lần đầu tiên tôi có đặc ân được yết kiến Chân sư Kuthumi, Ngài đã gợi lại trong ký ức tôi cảnh tượng năm xưa ấy, và nói: “Há Ta đã không bảo rằng chúng ta sẽ gặp lại sao?” |
| Soon after the death of Pythagoras, Kleineas fulfilled his promise to come and establish a school of the philosophy in Athens, and naturally my brother and I were among his first pupils. Large numbers were attracted by his teaching, and the philosophy took a very high place in the thought of the time. Except for what was actually necessary for the management of the family estate, I devoted practically the whole of my time to the study and teaching of this philosophy, and indeed succeeded to the position of Kleineas when he passed away. | Ngay sau khi Pythagoras tịch, Kleineas đã giữ lời đến Athens lập trường triết học, và dĩ nhiên tôi và em trai là những môn sinh đầu tiên của Ngài. Rất đông người bị lôi cuốn bởi giáo huấn của Ngài, và triết học ấy chiếm một vị trí rất cao trong tư tưởng thời bấy giờ. Ngoại trừ những gì thật sự cần cho việc quản trị điền sản gia đình, tôi hầu như dành trọn thời giờ cho việc học và giảng dạy triết học này, và thực sự đã kế nhiệm vị trí của Kleineas khi Ngài qua đời. |
My Early Attitude—Thái Độ Buổi Đầu
| It may have been owing to this exclusive devotion to this higher thought that I had a very unusually long period in the heaven-world—just over 2,300 years. To what extent that fact affected my present life I cannot say; but I arrived in this incarnation without any definite memory of all that I had learnt at the cost of so much time and trouble. In my early life I knew nothing whatever of these matters, but in looking back now upon that period, I can see that I found myself in possession of a set of convictions which I had evidently brought over from that other life. | Có lẽ vì sự chuyên chú trọn vẹn vào tư tưởng cao cả này mà tôi đã có một thời kỳ rất khác thường ở cõi thượng thiên—hơn 2.300 năm một chút. Tôi không rõ thực tế đó đã ảnh hưởng đến đời này của tôi đến mức nào; nhưng tôi đến với lần lâm phàm này mà không có ký ức xác định nào về tất cả những điều tôi đã học được bằng bao năm tháng công phu. Thuở niên thiếu tôi hoàn toàn không biết gì về các vấn đề ấy, nhưng nhìn lại giai đoạn đó, tôi thấy mình mang sẵn một hệ tín niệm mà hiển nhiên tôi đã mang theo từ đời trước. |
| The middle of last century was a time of widespread materialism, of disbelief or at least uncertainty as to religious matters, and scornful denial of the possibility of any kind of non-physical manifestation. Even as a child I was aware that men were arguing hotly as to the existence of God and the possibility that there might be something in man which survives death; but when I heard such discussions I wondered silently how people could be so foolish, for I myself had an unshakable interior certainty on these points, though I could not argue in defence of my belief, or indeed bring forth any reason to support it. | Giữa thế kỷ trước là thời của chủ nghĩa duy vật lan rộng, của sự bất tín, hoặc ít nhất là hồ nghi đối với các vấn đề tôn giáo, và là sự khước từ khinh mạn khả thể của bất cứ loại biểu hiện phi vật chất nào. Ngay từ nhỏ tôi đã biết người ta đang tranh luận gay gắt về sự hiện hữu của Thượng đế và khả năng tồn tại nơi con người một điều gì đó còn sống sau khi chết; nhưng khi nghe những cuộc bàn cãi như vậy, tôi lặng lẽ lấy làm lạ sao người ta có thể ngu muội đến thế, vì tự thâm tâm tôi có một xác quyết bất khả lay chuyển về những điểm ấy, cho dù tôi không thể biện luận để bênh vực niềm tin của mình, hay thực sự nêu ra được lý do nào để hỗ trợ nó. |
| But I knew that there was a God, that He was good, and that death was not the end of life. Even at that age I was able to deduce from these certainties that all must somehow be well, although so often things appeared to be going ill. I remember well how horrified I was (and I am afraid very angry as well) when a small playfellow introduced to my notice the theory of hell. I promptly contradicted him, but he insisted that it must be true because his father had said so. I went home in great indignation to consult my own father on this incredible abomination; but he only smiled tolerantly and said: “Well, my boy, I don’t for a moment believe it myself, but a great many people think so, and it is no use trying to convince them; you will just have to put up with it.” So by degrees I learnt that one’s own interior conviction, however strong, was ineffective as an argument against orthodox opinion. | Nhưng tôi biết rằng có Thượng đế, rằng Ngài là thiện, và rằng cái chết không phải là đoạn cuối của sự sống. Ngay ở tuổi đó, tôi đã có thể suy ra từ những xác quyết này rằng rốt cuộc mọi sự hẳn sẽ ổn thỏa theo cách nào đó, mặc dù rất thường khi mọi việc dường như diễn ra tệ hại. Tôi còn nhớ rõ mình đã kinh hoàng thế nào (và e rằng còn rất giận dữ nữa) khi một cậu bạn nhỏ đưa ra với tôi thuyết địa ngục. Tôi lập tức bác lại, nhưng cậu ta khăng khăng rằng điều đó hẳn đúng vì cha cậu đã nói vậy. Tôi về nhà trong cơn phẫn nộ tột độ để hỏi ý cha tôi về điều ghê tởm không thể tin ấy; nhưng ông chỉ mỉm cười khoan hòa và nói: “Này con trai, cha chẳng tin điều đó dù chỉ một thoáng, nhưng có rất nhiều người nghĩ như thế, và chẳng ích gì khi cố thuyết phục họ; con đành phải chấp nhận mà thôi.” Thế là dần dần tôi học được rằng xác quyết nội tâm của chính mình, dù mạnh mẽ đến đâu, cũng bất lực như một luận cứ chống lại quan kiến chính thống. |
| One other curious little fragment of half-recollection I seem to have brought over from that Greek incarnation. As a child I used frequently to dream of a certain house, quite unlike any with which I was at that time familiar on the physical plane, for it was built round a central courtyard (with fountains and statues and shrubs) into which all the rooms looked. I used to dream of this perhaps three times a week, and I knew every room of it and all the people who lived in it; I used constantly to describe it to my mother, and to make ground-plans of it. We called it my dream-house. As I grew older I dreamt of it less and less frequently, until at last it faded from my memory altogether. But one day, much later in life, to illustrate some point my Master showed me a picture of the house in which I had lived in my last incarnation, and I recognized it immediately. | Còn một mảnh vụn kỳ lạ khác của ký ức mơ hồ mà tôi có vẻ đã mang theo từ đời Hy Lạp ấy. Khi còn nhỏ, tôi thường mơ về một ngôi nhà nhất định nào đó, hoàn toàn khác hẳn với bất kỳ ngôi nhà nào mà khi ấy tôi quen thuộc trên cõi hồng trần, vì nó được xây quanh một sân trong ở trung tâm (có đài phun nước, tượng và cây bụi), vào đó mọi gian phòng đều hướng nhìn. Tôi có lẽ mơ thấy nó ba lần một tuần, và tôi biết rõ từng căn phòng và tất cả những người cư ngụ trong đó; tôi thường xuyên kể cho mẹ nghe, và còn vẽ cả mặt bằng của nó. Chúng tôi gọi đó là “ngôi nhà trong mộng” của tôi. Khi lớn lên, tôi mơ về nó ít dần, cho đến khi nó rốt cuộc phai khỏi ký ức hoàn toàn. Nhưng một ngày kia, rất lâu về sau, để minh họa một điểm, vị Chân sư của tôi cho tôi xem một hình ảnh về căn nhà tôi đã sống trong kiếp trước, và tôi lập tức nhận ra nó. |
| Although, as I have already said, I had the most absolute interior conviction with regard to the life after death, I soon came to recognize that in discussing the matter with others it would be an immense advantage to have something of the nature of physical-plane evidence to produce. It occurred to me that such evidence ought to be discoverable if one were disposed to give a certain amount of time and trouble to searching for it. I remembered when I was quite a boy coming across a copy of Mrs. Crowe’s Night Side of Nature, which I read with the greatest interest; and it seemed to me that if I could have the opportunity of investigating at first hand cases similar to those which she described I should surely in process of time be able to arrive at something definite which I could quote in answer to inquiries. | Tuy như đã nói, tôi có xác quyết nội tâm tuyệt đối về đời sống sau khi chết, nhưng chẳng bao lâu tôi nhận ra rằng khi thảo luận vấn đề này với người khác, sẽ là một lợi thế rất lớn nếu có thể đưa ra điều gì đó thuộc loại bằng chứng trên cõi hồng trần. Tôi nghĩ rằng những bằng chứng như thế hẳn có thể tìm thấy nếu người ta sẵn lòng bỏ ra một ít thời giờ và công sức để tìm kiếm. Tôi nhớ hồi còn rất nhỏ từng bắt gặp một bản cuốn Night Side of Nature của Bà Crowe, tôi đã đọc với mối quan tâm rất lớn; và có vẻ với tôi rằng nếu tôi có cơ hội tự mình khảo sát tận nơi những trường hợp tương tự như bà đã mô tả, hẳn rồi theo thời gian tôi có thể đi đến một điều gì xác định để có thể dẫn ra đáp lời người thắc mắc. |
Personal Investigations—Những Khảo Sát Cá Nhân
Spiritualism—Thần linh học
A Story of Madame Blavatsky—Một Câu Chuyện về Bà Blavatsky
| The very first news that I ever heard of our great Founder, Madame Blavatsky, was curious and characteristic, and the hearing of it was a most important event in my life, though I did not know it then. A staunch friend of my school-days took up the sea-life as his profession, and about the year 1879 he was second officer on board one of the coasting vessels of the British India Steam Navigation Co. On her voyage from Bombay to Colombo Madame Blavatsky happened to travel by that steamer, and thus my friend was brought into contact with that marvellous personality. | Tin tức đầu tiên tôi từng nghe về vị Tổ sáng lập vĩ đại của chúng ta, Bà Blavatsky, vừa lạ lùng vừa tiêu biểu; và việc nghe được điều đó là một biến cố hết sức quan trọng trong đời tôi, dù lúc ấy tôi chưa biết. Một người bạn chí cốt thời đi học của tôi chọn đời đi biển làm nghề, và vào khoảng năm 1879, ông là sĩ quan phụ thứ hai trên một trong các tàu chạy ven bờ của British India Steam Navigation Co. Trên chuyến đi từ Bombay đến Colombo, Bà Blavatsky tình cờ đi bằng con tàu ấy, và vì thế bạn tôi được tiếp xúc với cái phàm ngã kỳ diệu đó. |
| He told me two very curious stories about her. It seems that one evening he was on the bridge trying vainly to light a pipe in a high wind. Being on duty he could not leave the bridge, so he struck match after match only to see the flame instantly extinguished by the gale. Finally, with an expression of impatience, he abandoned the attempt. As he straightened himself he saw just below him a dark form closely wrapped in a cloak, and Madame Blavatsky’s clear voice called to him: | Ông kể tôi nghe hai câu chuyện hết sức lạ lùng về Bà. Hình như một buổi tối nọ, ông đang trên đài chỉ huy cố vô ích châm tẩu trong gió lớn. Vì đang phiên trực nên ông không thể rời đài, cứ quẹt hết que diêm này đến que khác chỉ để thấy ngọn lửa tắt phụt ngay vì cuồng phong. Cuối cùng, với một lời bực bội, ông bỏ cuộc. Khi ông đứng thẳng người dậy, ông thấy ngay bên dưới mình một dáng người tối, quấn chặt trong áo choàng, và giọng trong trẻo của Bà Blavatsky gọi ông: |
| “Cannot you light it, then?” | “Thế là không châm được sao?” |
| “No,” he replied, “I do not believe that anyone could keep a match alight in such a wind as this.” | “Không,” ông đáp, “tôi không tin là ai có thể giữ cho que diêm cháy trong cơn gió như thế này.” |
| “Try once more,” said Madame Blavatsky. | “Hãy thử lại lần nữa,” Bà Blavatsky nói. |
| He laughed, but he struck another match, and he assures me that, in the midst of that gale and quite unprotected from it, that match burnt with a steady flame clear down to the fingers that held it. He was so astounded that he quite forgot to light his pipe after all, but H. P. B. only laughed and turned away. | Ông bật cười, nhưng vẫn quẹt thêm một que nữa, và ông quả quyết với tôi rằng, giữa cơn cuồng phong ấy, không hề được che chắn, que diêm ấy cháy với ngọn lửa đều đặn, cháy đến tận những ngón tay cầm nó. Ông kinh ngạc đến mức rốt cuộc quên châm tẩu, còn H. P. B. chỉ cười rồi quay đi. |
| On another occasion during the voyage the first officer made, in Madame Blavatsky’s presence, some casual reference to what he would do on the return voyage from Calcutta. (The steamers used to go round the coast from Bombay to Calcutta and back again.) She interrupted him, saying: | Một lần khác trong chuyến hải hành, viên sĩ quan nhất đã vô tình nhắc, ngay trước mặt Bà Blavatsky, đến những gì ông sẽ làm trong chuyến trở về từ Calcutta. (Hồi đó tàu thủy vẫn chạy vòng quanh bờ biển từ Bombay đến Calcutta rồi quay lại.) Bà cắt ngang, nói: |
| “No, you will not do that, for you will not make the return voyage at all. When you reach Calcutta you will be appointed captain of another steamer, and you will go in quite a different direction.” | “Không, ông sẽ không làm thế, vì ông sẽ không đi chuyến trở về đó đâu. Khi đến Calcutta ông sẽ được bổ nhiệm làm thuyền trưởng của một con tàu khác, và ông sẽ đi theo một hướng hoàn toàn khác.” |
| “Madame,” said the first officer, “I wish with all my heart you might be right, but it is impossible. It is true I hold a master’s certificate, but there are many before me on the list for promotion. Besides, I have signed an agreement to serve on the coasting run for five years.” | “Thưa Bà,” viên sĩ quan nhất nói, “tôi cầu mong Bà nói đúng bằng cả tấm lòng, nhưng điều đó là không thể. Đúng là tôi có bằng thuyền trưởng, nhưng còn nhiều người xếp trước tôi trong danh sách thăng chức. Hơn nữa, tôi đã ký hợp đồng chạy tuyến ven bờ trong năm năm.” |
| “All that does not matter”, replied Madame Blavatsky; “you will find it will happen as I tell you.” | “Tất cả điều đó không can gì,” Bà Blavatsky đáp; “ông sẽ thấy mọi sự xảy ra đúng như tôi nói.” |
| And it did; for when that steamer reached Calcutta it was found that an unexpected vacancy had occurred (I think through the sudden death of a captain), and there was no one at hand who could fill it but that same first officer. So the prophecy which had seemed so impossible was literally fulfilled. | Và quả đúng như vậy ; vì khi con tàu ấy đến Calcutta, người ta thấy có một chỗ trống bất ngờ (tôi nghĩ là do cái chết đột ngột của một vị thuyền trưởng), và chẳng có ai ở đó có thể lấp vào ngoài chính viên sĩ quan nhất ấy. Thế là lời dự ngôn tưởng như không thể lại được ứng nghiệm đúng từng chữ. |
| Years afterwards, when I was on my way from Java to India with Mr. van Manen, I travelled on a steamer the captain of which was that very same man who had been the first officer of my friend’s story, and he told us the tale from his point of view, exactly corroborating the original version. | Nhiều năm sau, khi tôi đang đi từ Java sang Ấn Độ với Ông van Manen, tôi đi trên một con tàu mà vị thuyền trưởng chính là người đã từng là sĩ quan nhất trong câu chuyện của bạn tôi, và ông đã kể lại cho chúng tôi câu chuyện ấy theo quan điểm của mình, xác nhận đúng hệt phiên bản ban đầu. |
| These were points of no great importance in themselves, but they implied a good deal, and their influence on me was in an indirect manner considerable. For in less than a year after that conversation Mr. A. P. Sinnett’s book The Occult World fell into my hands, and as soon as I saw Madame Blavatsky’s name mentioned in it I at once recalled the stories related to me by my friend. Naturally the strong first-hand evidence which I had already had of her phenomenal powers predisposed me to admit the possibility of these other strange new things of which Mr. Sinnett wrote, and thus those two little stories played no unimportant part in my life, since they prepared me for the instant and eager acceptance of Theosophical truths. | Những điều ấy tự thân không mấy quan trọng, nhưng chúng hàm ý rất nhiều, và ảnh hưởng của chúng đối với tôi, theo một cách gián tiếp, thì khá đáng kể. Vì chưa đầy một năm sau cuộc trò chuyện đó, cuốn Thế Giới Huyền Bí của Ông A. P. Sinnett tình cờ đến tay tôi, và ngay khi thấy tên Bà Blavatsky được nhắc đến trong đó, tôi lập tức nhớ lại những câu chuyện người bạn của tôi đã kể. Tự nhiên là bằng chứng trực tiếp mạnh mẽ mà tôi đã có về những năng lực phi thường của Bà khiến tôi thiên về việc thừa nhận khả tính của những điều lạ lùng mới mẻ khác mà Ông Sinnett đã viết, và như thế hai câu chuyện nhỏ đó đã đóng một vai không hề nhỏ trong đời tôi, vì chúng đã chuẩn bị cho tôi sự tiếp nhận tức thì và háo hức đối với các chân lý Thông Thiên Học. |