Chương 6— Một Sự Thay Đổi Đột Ngột

An Abrupt Change—Một Bước Ngoặt Đột Ngột

Our last chapter ended with my meeting with Madame Blavatsky at a hotel at Port Said, where I fondly expected that we might wait in peace until our steamer arrived. I did not know Madame Blavatsky as well then as I came to do later, or I should probably have felt less sanguine. I engaged a bedroom and hunted out a few score mosquitoes from inside the curtains of its bed, and was already looking forward with pleasure to the idea of settling down for the night. Soon after darkness fell, however, Madame Blavatsky had one of those sudden flashes of inspiration which so frequently came to her from the inner side of things. She usually attributed them to one or other of those whom she called the Brothers—a term under which she included not only some of the Masters but also a number of Their disciples. In this case the hint which she received completely upset all our plans, for she was instructed that instead of waiting quietly for our steamer we were to post off immediately to Cairo, where we should obtain some information that would be of great use to her in dealing with her treacherous servants, the Coulombs.Chương trước kết thúc ở chỗ tôi gặp Bà Blavatsky tại một khách sạn ở Port Said, nơi tôi ngây thơ trông đợi rằng chúng tôi có thể yên ổn chờ tàu. Khi ấy tôi chưa hiểu Bà Blavatsky như về sau, nếu không có lẽ tôi đã bớt lạc quan. Tôi thuê một phòng ngủ và lục tìm mấy chục con muỗi núp trong màn, và đã bắt đầu mong mỏi được yên vị qua đêm. Tuy nhiên, không lâu sau khi trời tối, Bà Blavatsky lại có một tia hứng khởi bộc phát như thường đến với Bà từ mặt trong của sự việc. Bà thường quy những điều đó cho “các Huynh đệ”—một thuật ngữ mà dưới đó Bà bao gồm không chỉ một vài vị trong số các Chân sư mà còn cả một số đệ tử của Các Ngài. Trong trường hợp này, ám chỉ mà Bà nhận được đã hoàn toàn đảo lộn mọi dự tính của chúng tôi, vì Bà được chỉ thị rằng thay vì yên lặng chờ tàu thì chúng tôi phải lập tức đi đường bộ tới Cairo, nơi chúng tôi sẽ thu được một số thông tin rất hữu ích cho Bà trong việc đối phó với đám đầy tớ phản trắc của Bà, nhà Coulomb.

The Khedive’s Packet-Boat—Chiếc Tàu Thư của Khedive

In those days there was no railway running from Port Said, and the only way in which we could reach Cairo was by travelling down the Suez Canal as far as Ismailia, whence we could take train to the capital. The journey down the canal was performed in a tiny little steamer somewhat like a tug-boat, which was dignified with the name of the Khedive’s packet-boat. Every night it left Port Said at midnight and reached Ismailia in the early morning. In spite of its high-sounding name it was perhaps the dirtiest and least convenient craft which I have encountered; but of course we had to make the best of it. In the stern there was a little hutch about ten feet square which was called the general cabin, and out of that at the back opened a kind of cupboard which was labelled as the ladies’ room. It was, however, windowless, so that when the door was shut it was in perfect darkness. This we resigned to Madame Blavatsky.Thời ấy chưa có đường sắt chạy từ Port Said, và cách duy nhất để đến Cairo là đi dọc Kênh đào Suez tới Ismailia, từ đó có thể bắt tàu hỏa vào thủ đô. Chuyến đi dọc kênh được thực hiện bằng một con tàu hơi nước bé xíu na ná tàu kéo, được ban cho cái tên oai vệ là tàu thư của Khedive. Mỗi đêm nó rời Port Said lúc nửa đêm và tới Ismailia vào tảng sáng. Bất chấp cái tên oai vệ ấy, có lẽ đó là chiếc thuyền dơ bẩn và bất tiện nhất mà tôi từng gặp; nhưng dĩ nhiên chúng tôi phải liệu cho ổn trong điều kiện có thể. Ở đuôi tàu có một khoang nhỏ chừng mười bộ vuông gọi là khoang chung, và phía sau khoang ấy mở ra một kiểu buồng như cái tủ, đề là phòng phụ nữ. Tuy nhiên buồng ấy không có cửa sổ, nên khi đóng cửa lại thì tối om. Chúng tôi dành gian đó cho Bà Blavatsky.
Mr. Oakley, who was much fatigued and, I think, somewhat upset by the sudden change in our plans, threw himself down on a hard wooden seat at one side of the general cabin; while Mrs. Oakley and I, having regard to the army of enormous cockroaches which was already in full possession of both cabins, preferred to spend the night in walking up and down the few yards of open deck, which gave us about six steps each way as the limit of our promenade. We paused occasionally to glance in at Mr. Oakley, but he slept on peacefully, although absolutely covered by the loathsome creatures already mentioned—and others. Mrs. Oakley, who was a particularly fastidious person in ordinary life, was somewhat depressed—perhaps not unnaturally; so I did my best to comfort her with glowing pictures of the glory and beauty which I hoped were awaiting us in India.Ông Oakley, người rất mệt và, tôi nghĩ, phần nào bị xáo trộn bởi sự thay đổi đột ngột trong kế hoạch, nằm phịch xuống một băng ghế gỗ cứng ở một bên khoang chung; còn Bà Oakley và tôi, xét đến đạo quân gián khổng lồ đã chiếm lĩnh cả hai khoang, thà trải đêm đi đi lại lại trên mấy thước boong tàu trống, cho chúng tôi tối đa chừng sáu bước mỗi chiều cho cuộc dạo bộ của mình. Thỉnh thoảng chúng tôi dừng lại để liếc vào chỗ Ông Oakley, nhưng ông ngủ yên, dù bị những sinh vật ghê tởm đã nói—và cả những thứ khác—phủ kín khắp người. Bà Oakley, vốn là người cực kỳ khắt khe trong đời sống thường nhật, có phần chán nản—có lẽ cũng tự nhiên thôi; nên tôi ráng ủi an bà bằng những bức viễn cảnh rực rỡ về vinh quang và vẻ đẹp mà tôi hy vọng đang chờ chúng tôi ở Ấn Độ.
This went on for some hours until the monotony was suddenly broken by pitiable cries from Madame Blavatsky in her cupboard. Mrs. Oakley at once dashed in bravely, facing the insect plague with only a momentary shudder; but she found Madame Blavatsky very ill. and in great pain, and vehemently demanding conveniences which on that squalid little tug-boat simply did not exist. Fortunately our next stop was at the village of Kantara—the place where the pilgrim-track from Cairo to Jerusalem crosses the canal; and we prevailed on the captain of our funereal craft to wait for us there for a few minutes. There was of course nothing in the nature of a gangway, nor even a wharf; but they produced from somewhere a plank—an ordinary builder’s plank, perhaps a foot in width, and Mr. Oakley and I had to carry our unfortunate leader ashore by that means. (Madame Blavatsky at that time weighed 245 pounds; I know because I weighed her myself on the butcher’s steel-yard on board the s.s. Navarino a few days later.)Mọi sự cứ thế kéo dài được vài giờ cho đến khi bỗng bị phá vỡ bởi những tiếng kêu thảm thiết từ Bà Blavatsky trong “cái tủ” của Bà. Bà Oakley lập tức anh dũng lao vào, đối diện nạn côn trùng chỉ với một cái rùng mình thoáng chốc; nhưng bà thấy Bà Blavatsky bị bệnh nặng, đau đớn dữ dội, và khẩn thiết đòi hỏi những tiện nghi vốn tuyệt nhiên không tồn tại trên con tàu kéo nhếch nhác ấy. May thay, điểm dừng tiếp theo là làng Kantara—nơi đường hành hương từ Cairo đến Jerusalem băng qua kênh đào; và chúng tôi thuyết phục được thuyền trưởng của con thuyền ảm đạm như đám tang ấy chờ chúng tôi ít phút. Dĩ nhiên chẳng có thứ gì như cầu tàu, thậm chí cả một ván lên xuống cũng không; nhưng từ đâu đó họ lôi ra một tấm ván—tấm ván thợ xây bình thường, chừng một bộ bề ngang, và Ông Oakley cùng tôi phải khiêng vị lãnh đạo bất hạnh của mình lên bờ bằng cách đó. (Khi ấy Bà Blavatsky nặng 245 pao; tôi biết vì chính tôi đã cân Bà trên chiếc cân đòn sắt của hàng thịt trên tàu s.s. Navarino vài ngày sau.)
You may imagine that it was nervous work, and Madame Blavatsky’s language on the occasion was more conspicuous for strength than suavity. But somehow or other the feat was achieved; we conveyed her safely ashore, and back again on board a little later—which was even a more serious undertaking, because of the pronounced upward slope of the plank. She was restored to her cubby-hole, and the heroic Mrs. Oakley sat beside her until she sank to sleep. I believe Mr. Oakley went to sleep again; but his wife, as soon as she could leave our leader, came and paced the deck with me until in the pale gold of the Egyptian morning we moored beside the wharf at Ismailia.Bạn có thể hình dung đó là một việc làm căng thẳng thế nào, và lời lẽ của Bà Blavatsky khi ấy nổi bật về độ mạnh mẽ hơn là sự nhu hòa. Nhưng bằng cách này hay cách khác, kỳ công cũng thành; chúng tôi đưa Bà lên bờ an toàn, rồi một lát sau lại khiêng Bà trở lại tàu—việc này còn khó hơn, vì tấm ván dốc ngược rất rõ. Bà được đưa về chỗ buồng nhỏ, và Bà Oakley quả cảm ngồi bên Bà cho đến khi Bà thiếp ngủ. Tôi tin Ông Oakley lại ngủ tiếp; nhưng vợ ông, ngay khi có thể rời vị lãnh đạo của chúng tôi, liền ra boong đi tới đi lui với tôi cho đến khi trong sắc vàng nhạt của buổi sáng Ai Cập chúng tôi cặp mạn vào bến ở Ismailia.

Ismailia—Ismailia

There was an interval of some hours before our train started, so it seemed reasonable to go to a hotel and have some breakfast. There were at that time two hotels in the town, and their respective touts were vehemently pressing their claims on the wharf. Mr. Oakley, who was supposed to be the business man of the party, made some sort of a bargain with one of them. Madame Blavatsky, though still looking pale, was able to come on shore and to walk slowly up and down the wharf, but she did not seem anxious for companionship, and in fact rather repelled it. We saw her exchange a few words with one or two officials and with the men from the hotels; and when a little later a dilapidated carriage drove up and we wished to start for the hotel, the two porters at once engaged in a savage fight over our luggage.Còn mấy giờ nữa tàu hỏa mới chạy, nên xem ra hợp lý là vào khách sạn ăn sáng. Lúc đó trong thị trấn có hai khách sạn, và những tay cò của họ đang hăng hái giành giật khách ngay trên bến. Ông Oakley, người được xem là “người lo việc” của cả đoàn, đã mặc cả với một trong số họ. Bà Blavatsky, tuy hãy còn xanh xao, đã có thể lên bờ và chậm rãi đi tới đi lui trên bến, nhưng Bà dường như không muốn có người đi cùng, thậm chí còn tỏ ý gạt đi. Chúng tôi thấy Bà trao đổi đôi câu với một hai viên chức và với mấy người từ các khách sạn; và khi một chiếc xe ngựa tồi tàn lạch cạch chạy đến và chúng tôi muốn đi khách sạn, hai anh phu khuân vác liền lao vào đánh nhau dữ dội vì hành lý của chúng tôi.
When we called on the station-master to interfere, it transpired that while Mr. Oakley had made an arrangement with one of these men Madame Blavatsky had meantime engaged the other, and naturally, as she spoke in Arabic, we had no inkling of this proceeding on her part until the time came for our departure. So we had to go to the hotel which she had chosen, and to pacify the other unfortunate man as well as we could. Matters were sorted out eventually, of course by bribing both parties to the quarrel, and at last we were allowed to depart in peace and partake of our breakfast. Poor Madame Blavatsky still suffered somewhat, and was evidently not in the best of humours; but she indignantly scouted the timid suggestion that we should spend a day at Ismailia in order that she might recover her strength. So in due course we took our places in the train.Khi chúng tôi nhờ trưởng ga can thiệp, thì hóa ra trong khi Ông Oakley đã thỏa thuận với một người trong bọn họ, thì cùng lúc đó Bà Blavatsky lại thuê người kia; và dĩ nhiên vì Bà nói bằng tiếng Ả Rập, chúng tôi chẳng mảy may hay biết việc Bà làm cho đến lúc sắp khởi hành. Thế là chúng tôi đành đến khách sạn do Bà chọn, và ráng dàn xếp cho người kia tội nghiệp trong khả năng có thể. Rốt cuộc mọi chuyện cũng được thu xếp ổn thỏa, tất nhiên là bằng cách đút lót cho cả hai bên trong vụ ẩu đả, và sau cùng chúng tôi được phép rời bến yên ổn để đi ăn sáng. Tội nghiệp Bà Blavatsky vẫn còn khó chịu, và hiển nhiên không ở trong tâm trạng tốt nhất; nhưng Bà phẫn nộ gạt phắt gợi ý có phần nhút nhát rằng chúng tôi nên nghỉ lại Ismailia một ngày để Bà hồi sức. Vậy là đúng kỳ giờ, chúng tôi lên tàu hỏa.

A Message—Một Thông Điệp

As the journey continued Madame Blavatsky gradually recovered her strength, and a little conversation arose; but it was distinctly coloured by the influence of the previous night, for our leader favoured us with the most gloomy prognostications of our future fate:Khi tàu chạy, Bà Blavatsky dần hồi sức, và câu chuyện nho nhỏ bắt đầu; nhưng nó mang rõ sắc thái của đêm trước, vì vị lãnh đạo của chúng tôi ban cho cả đoàn những lời tiên đoán ảm đạm nhất về số phận tương lai:
“Ah! you Europeans”, she said, “you think you are going to enter upon the path of occultism and pass triumphantly through all its troubles; you little know what is before you; you have not counted the wrecks by the wayside as I have. The Indians know what to expect, and they have already passed through tests and trials such as have never entered into your wildest dreams; but you, poor feeble things, what can you do?”“À! các ông bà châu Âu,” Bà nói, “các người tưởng mình sắp bước vào Thánh Đạo huyền bí học và sẽ khải hoàn vượt qua mọi gian truân; các người nào có biết điều gì đang chờ phía trước; các người đâu đã đếm hết bao kẻ gục ngã dọc đường như tôi từng thấy. Người Ấn Độ biết điều gì phải trông đợi, và họ đã đi qua những phép thử và thử thách chưa từng lọt vào những giấc mơ hoang dại nhất của các người; còn các người, những kẻ yếu ớt tội nghiệp, các người làm được gì?”
She continued these Cassandralike prophecies with a maddening monotony, but her audience was far too reverential to try to change the subject. We sat in the four corners of the compartment, Madame Blavatsky facing the engine, and Mr. Oakley sitting opposite to her with the resigned expression of an early Christian martyr; while Mrs. Oakley, weeping profusely, and with a face of ever-increasing horror, sat opposite to me. For myself, I had a sort of feeling like putting up an umbrella against a heavy shower, but I reflected that after all a good many other men had entered upon that path and had reached its goal, and it seemed to me that even if I could not reach it in this life I could at any rate lay a good foundation for the work of the next incarnation. Che sara, sara!Bà tiếp tục những lời tiên tri kiểu Cassandra ấy với một nhịp điệu gây phát điên, nhưng thính giả của Bà quá mực kính cẩn nên không dám đổi đề tài. Chúng tôi ngồi ở bốn góc khoang, Bà Blavatsky ngồi quay mặt về phía đầu máy, và Ông Oakley ngồi đối diện Bà với vẻ cam chịu của một vị tử đạo Kitô giáo thuở sơ kỳ; còn Bà Oakley, nước mắt lã chã, gương mặt mỗi lúc một kinh hãi, ngồi đối diện tôi. Phần tôi, tôi thấy mình như muốn giương ô trước một cơn mưa nặng hạt, nhưng tôi nghĩ rằng rốt cuộc cũng đã có không ít người bước vào con đường ấy và đạt tới đích của nó, và tôi thấy dù không thể đạt được trong đời này thì ít nhất tôi cũng có thể đặt nền móng tốt cho công việc của kiếp sau. Che sara, sara!
In those prehistoric days trains were usually lit by smoky oil lamps, and in the centre of the roof of each compartment there was a large round hole into which porters inserted these lamps as they ran along the roofs of the carriages. This being a day train, however, there was no lamp, and one could see the blue sky through the hole. It happened that Mr. Oakley and I were both leaning back in our respective corners, so that we both saw a repetition of the phenomenon which I have previously described as occurring in England; we saw a kind of ball of whitish mist forming in that hole, and a moment later it had condensed into a piece of folded paper, which fell to the floor of our compartment. I started forward, picked it up, and handed it at once to Madame Blavatsky, taking it for granted that any communication of this nature must be intended for her. She at once unfolded it and read it, and I saw a red flush appear upon her face.Vào thuở rất xưa ấy, tàu hỏa thường thắp đèn dầu khói mù, và giữa trần của mỗi khoang có một lỗ tròn lớn để mấy người phục vụ cắm đèn vào khi họ chạy dọc trên nóc toa. Tuy nhiên đây là tàu chạy ban ngày, nên không có đèn, và có thể thấy bầu trời xanh qua cái lỗ ấy. Tình cờ Ông Oakley và tôi đều tựa lưng trong góc của mình, nên cả hai cùng nhìn thấy một hiện tượng lặp lại mà trước đây tôi đã tả là từng xảy ra ở Anh; chúng tôi thấy một kiểu quả cầu sương trắng nhạt hình thành trong lỗ đó, và một khoảnh khắc sau nó đã ngưng tụ thành một mảnh giấy gấp, rơi xuống sàn khoang. Tôi bật dậy, nhặt lên, và đưa ngay cho Bà Blavatsky, đương nhiên cho rằng bất kỳ thông tin liên lạc nào theo cách ấy hẳn là gửi cho Bà. Bà liền mở ra đọc, và tôi thấy mặt Bà ửng đỏ.
“Umph,” she said, “that’s what I get for trying to warn you people of the troubles that lie before you,” and “she” threw the paper to me.“Hừm,” Bà nói, “đó là cái tôi nhận được khi cố cảnh báo các người về những rắc rối ở phía trước,” và “Bà” ném tờ giấy cho tôi.
“May I read it?” I said, and her only reply was: “Why do you think I gave it to you?”“Tôi có thể đọc chứ?” tôi nói, và Bà chỉ đáp: “Sao ông nghĩ tôi đưa cho ông?”
I read it and found it to be a note signed by the Master Kuthumi, suggesting very gently but quite decidedly that it was perhaps a pity, when she had with her some earnest and enthusiastic candidates, to give them so very gloomy a view of a path which, however difficult it might be, was destined eventually to lead them to joy unspeakable. And then the message concluded with a few words of kindly commendation addressed to each of us by name. I am sorry that I cannot be quite certain of the exact wording of that message, though I am sure that I have correctly reproduced its general tenor. The little sentence addressed personally to me was: “Tell Leadbeater that I am satisfied with his zeal and devotion.”Tôi đọc và thấy đó là một mảnh ghi chú có chữ ký của Chân sư Kuthumi, rất nhẹ nhàng nhưng dứt khoát gợi ý rằng có lẽ thật đáng tiếc, khi Bà đang có bên mình vài ứng viên nghiêm túc và nhiệt thành, lại vẽ cho họ một bức tranh quá ảm đạm về một con đường mà, dù khó đến đâu, rốt cuộc cũng sẽ dẫn họ tới niềm hoan lạc khôn tả. Và rồi thông điệp kết lại bằng mấy lời khen ngợi ân cần gửi đến từng người chúng tôi, gọi đích danh. Tôi tiếc là không thể hoàn toàn chắc chắn về nguyên văn thông điệp đó, dù tôi tin rằng mình đã thuật lại đúng đại ý. Câu ngắn gửi riêng cho tôi là: “Hãy nói với Leadbeater rằng Ta hài lòng với lòng nhiệt thành và sự tận tâm của y.”

A Little Dust—Chút Bụi

I need hardly say that we were all much comforted and uplifted and filled with gratitude; but, though no rebuke could possibly have been more gently worded, it was evident that Madame Blavatsky did not altogether appreciate it. Before our conversation began she had been reading some book which she wished to review for The Theosophist, and she was still sitting with the book open upon her knee and the paper-knife in her hand. She now resumed her reading, stroking the dust of the desert (which came pouring in at the open window) off the pages of the book with her paper-knife as she read. When an especially vicious puff came in Mr. Oakley started forward and made a motion as if to close the window; but Madame Blavatsky looked up at him balefully, and said with unmeasured scorn: “You don’t mind a little dust, do you?” Poor Mr. Oakley shrank back into his corner like a snail into its shell, and not another word did our leader utter until we steamed into the station at Cairo. The dust certainly was rather trying, but after that one remark we thought it best to suffer it in silence. I remember that poor Mrs. Oakley was wearing one of those curious contrivances which ladies call a feather boa; and before we reached Cairo the whole thing was just a solid rope of sand, the feathers being indistinguishable.Chẳng cần nói cũng biết chúng tôi đều được an ủi, nâng đỡ và tràn đầy tri ân; nhưng, dù một lời nhắc nhở khó có thể được diễn đạt dịu dàng hơn, rõ ràng là Bà Blavatsky không hoàn toàn cảm kích nó. Trước khi câu chuyện khởi đầu, Bà đang đọc một cuốn sách nào đó mà Bà muốn điểm cho The Theosophist , và Bà vẫn ngồi đó với cuốn sách mở trên đầu gối và con dao rọc giấy trong tay. Giờ Bà lại tiếp tục đọc, vừa quét bụi sa mạc (thổi ào vào qua cửa sổ mở) khỏi các trang sách bằng con dao rọc giấy. Khi một luồng bụi đặc biệt dữ dội ào vào, Ông Oakley bật dậy và làm động tác như muốn đóng cửa sổ; nhưng Bà Blavatsky ngẩng lên nhìn ông với ánh mắt dữ dội, và nói bằng giọng khinh bạc không chút kiêng dè: “Ông không ngại chút bụi chứ?” Tội nghiệp Ông Oakley thụt sâu vào góc mình như con ốc thu mình vào vỏ, và vị lãnh đạo của chúng tôi không thốt thêm lời nào cho tới khi tàu rít còi vào ga Cairo. Bụi thì quả là khá khó chịu, nhưng sau câu nói ấy chúng tôi thấy tốt hơn là cứ âm thầm chịu đựng. Tôi còn nhớ Bà Oakley đáng thương đang đeo một thứ mà các bà gọi là khăn lông quấn cổ; và trước khi đến Cairo, cả cái thứ ấy đã trở thành một sợi dây cát đặc sệt, lông chẳng còn phân biệt nổi.

Another Abrupt Change—Thêm Một Bước Ngoặt Đột Ngột

At Cairo we engaged a carriage and drove as a matter of course to Shepheard’s Hotel, that being the usual resort of English people. It would seem that some thirty or forty other people had the same idea, for we found the great entrance-hall crowded, and everything in dire confusion. Our luggage, of which we had a considerable amount, had been piled upon the floor in the middle of the hall; and Madame Blavatsky sat upon it, while Mr. Oakley was trying to fight his way through the crowd to the clerk’s desk in order to engage rooms for us. He had barely succeeded in doing this—in fact, he was still struggling in the crowd on his way back to us—when she jumped up from her seat and called to him excitedly, telling him that we were not to stay at Shepheard’s at all, but instead were to make our way to the Hotel d’Orient, which had been kept by the Coulombs during their stay in Egypt—the suggestion being that in that house we could acquire a good deal of information which would be of use to Madame Blavatsky when she came to deal with them later.Ở Cairo, chúng tôi thuê một cỗ xe ngựa và theo lẽ thường chạy thẳng đến Khách sạn Shepheard, nơi vốn là chỗ lui tới quen thuộc của người Anh. Có vẻ như khoảng ba bốn chục người khác cũng cùng ý định, vì chúng tôi thấy đại sảnh vào cửa chật cứng và mọi thứ rối tung. Hành lý của chúng tôi, vốn khá nhiều, đã được chất thành đống ở giữa sảnh; và Bà Blavatsky ngồi lên trên đó, trong khi Ông Oakley đang cố chen qua đám đông để đến bàn thư ký nhằm đặt phòng cho chúng tôi. Ông vừa kịp làm xong việc đó—thật ra, ông vẫn còn đang lách qua đám đông trên đường quay lại với chúng tôi—thì Bà bật dậy khỏi chỗ ngồi và hào hển gọi ông, bảo rằng chúng tôi hoàn toàn không được ở lại Shepheard, mà phải đi đến Khách sạn d’Orient, nơi gia đình Coulomb từng trọ khi họ ở Ai Cập—ý là ở ngôi nhà đó chúng tôi có thể thu thập được nhiều tin tức hữu ích cho Bà Blavatsky khi sau này Bà cần đề cập đến họ.
Of course this caused the usual confusion; poor Mr. Oakley had to go back and countermand the rooms which he had engaged, and we made our way to the other hotel, which, though certainly less fashionable, proved comfortable enough. It was in the Ezbekieh Square, and we had some pleasant rooms looking out over the garden. We stayed there for several days, and the suggestion which had been made to Madame Blavatsky bore much fruit, as she was able to obtain from the present host and hostess of the hotel, and from some servants who had worked in the house for some years, numerous evidential details of unreliable and discreditable conduct on the part of the previous occupants.Dĩ nhiên thế là sinh ra cảnh hỗn độn thường thấy; tội nghiệp Ông Oakley phải quay lại hủy các phòng vừa đặt, còn chúng tôi thì đi sang khách sạn kia, vốn tuy kém sang trọng hơn, nhưng hóa ra cũng khá tiện nghi. Nó nằm ở Quảng trường Ezbekieh, và chúng tôi có vài căn phòng xinh xắn nhìn xuống khu vườn. Chúng tôi ở đó mấy ngày, và đề nghị vốn đưa ra với Bà Blavatsky đã sinh nhiều kết quả, vì Bà có thể lấy được từ chủ khách sạn hiện tại và phu nhân của ông, cũng như từ vài gia nhân đã làm việc trong nhà nhiều năm, vô số chi tiết bằng chứng về những hành vi thiếu đáng tin và mất phẩm giá của những người cư ngụ trước.

An Elder Brother—Một Huynh Trưởng

It was in Madame Blavatsky’s room in that hotel that I first saw one of the members of the Brotherhood. While sitting on the floor at her feet, sorting out some papers for her, I was startled to see standing between us a man who had certainly not entered by the door, which was straight before me the whole time, and had not opened. I jumped up uttering a sharp exclamation of surprise, which caused Madame to laugh inordinately. She said banteringly:Chính trong phòng của Bà Blavatsky ở khách sạn đó mà tôi lần đầu tiên thấy một vị thuộc Huynh đệ Đoàn Chánh đạo. Khi đang ngồi dưới chân Bà, trên sàn, sắp xếp vài giấy tờ cho Bà, tôi bỗng giật mình thấy giữa hai chúng tôi đứng một người đàn ông, mà chắc chắn không bước vào qua cửa—vì suốt thời gian đó cửa ở ngay trước mặt tôi và không hề mở. Tôi bật dậy, buột một tiếng kêu ngạc nhiên, khiến Bà cười đến mức quá đà. Bà nói đùa:
“You will not go far on the path of occultism if you are so easily startled at a little thing like that.”“Con sẽ chẳng đi xa trên con đường huyền bí học đâu nếu con dễ giật mình bởi những chuyện nhỏ như thế.”
Then she presented me to the visitor, who proved to be he who is now the Master Djwal Kul, although he had not then taken the Initiation which made him an Adept.Rồi Bà giới thiệu tôi với vị khách, hóa ra Ngài là người mà nay chúng ta biết là Chân sư Djwal Kul, dù lúc đó Ngài chưa thọ cuộc Điểm đạo vốn làm cho Ngài thành một Chân sư.
Our stay in Egypt was in many ways a most remarkable experience, as Madame Blavatsky constantly told us much of the inner side of what we saw there. She had been in Egypt before, and was well acquainted with some of the officials, including the Prime Minister, Nubar Pasha, who very kindly invited us all to dinner. She also seemed to know quite intimately the Russian Consul, Monsieur Hitrovo, who was exceedingly kind and attentive to her, sending her every morning a great bouquet of lovely flowers, and treating her in every way as a lady of the highest distinction, as of course she really was in her own country. Also she introduced us to Monsieur Maspero, the Curator of the Boulak Museum, as it was then. I remember particularly how we went through the Museum with this gentleman and how Madame Blavatsky was able to give him a great mass of most interesting information about the various curiosities that were under his care.Chuyến ở Ai Cập của chúng tôi về nhiều mặt là một trải nghiệm hết sức khác thường, vì Bà Blavatsky luôn kể cho chúng tôi nghe nhiều điều thuộc nội diện của những gì chúng tôi trông thấy ở đó. Bà từng ở Ai Cập trước đây và quen biết khá thân với một số quan chức, kể cả Thủ tướng Nubar Pasha, người rất tử tế mời cả bọn chúng tôi dự tiệc. Bà có vẻ cũng thân thiết với Lãnh sự Nga, Ông Hitrovo, người đã hết sức niềm nở và chăm sóc Bà, sáng nào cũng gửi tặng một bó hoa tuyệt đẹp, và xét mọi bề đều đối đãi với Bà như một phu nhân tột bậc danh giá—mà dĩ nhiên ở quê nhà Bà đúng là như vậy. Bà cũng giới thiệu chúng tôi với Ông Maspero, Quản thủ Bảo tàng Boulak, như nó được gọi thời đó. Tôi nhớ đặc biệt lần chúng tôi đi cùng vị này thăm bảo tàng, và Bà Blavatsky có thể cung cấp cho ông một khối lượng lớn những tin tức vô cùng thú vị về các cổ vật thuộc sự coi sóc của ông.

A Gruesome Ceremony—Một Nghi Lễ Rợn Người

We saw many strange things, and it was of course an enormous advantage to us to have with us one who understood so well the Oriental customs, and could explain the meaning of much that without her we could not have comprehended. I remember one day we were looking out of the window of the hotel, when we saw a number of men, obviously Muhammadans, gather together in a circle in the garden of the Square, all facing inwards. After some preliminary mutterings they all began to go through a sort of exercise of extraordinary violence, raising their hands above their heads as high as they could reach, bending backwards as far as possible, and then swinging forwards until with the tips of their fingers they touched the ground in front of them; and each time they made that convulsive swing they all shouted in unison the name of God—”Al-lah-ha!”Chúng tôi chứng kiến nhiều điều lạ lùng, và dĩ nhiên có Bà đồng hành là lợi thế lớn, vì Bà hiểu rất rõ các phong tục phương Đông và có thể giải thích ý nghĩa của nhiều điều mà nếu không có Bà chúng tôi khó lòng lĩnh hội. Tôi nhớ một hôm chúng tôi đang nhìn ra cửa sổ khách sạn, thì thấy một nhóm người, rõ ràng là tín đồ Hồi giáo, tụ tập thành vòng tròn trong khu vườn của Quảng trường, tất cả cùng quay mặt vào trong. Sau vài tràng lẩm bẩm dạo đầu, họ bắt đầu tập một kiểu vận động dữ dội khác thường, đưa tay lên cao hết mức chạm tới, uốn người cong hết cỡ ra phía sau, rồi vung mạnh người về phía trước đến mức đầu ngón tay chạm đất trước mặt; và mỗi lần vung người co giật như thế, họ đồng thanh hô lên danh xưng Thượng đế—“Al-lah-ha!”
This remarkable performance went on for about half-an-hour and then quite suddenly they all executed a left turn, so that, although still standing in a ring, they were one behind the other. Then each put his hands on the shoulders of the man in front of him, and they began to run round in that ring, all barking in unison exactly like dogs. This continued for perhaps five minutes, and then one of the men fell out of the circle and sank to the ground in a fit, struggling horribly and foaming at the mouth. In a few moments all the rest were in the same condition, and the scene was most hideous. After a little while one by one they seemed to recover, and sat up looking round in a dazed sort of way, and presently they helped one another to their feet and staggered away.Màn trình diễn khác thường ấy kéo dài chừng nửa giờ, rồi bỗng họ đồng loạt quay trái, đến nỗi tuy vẫn đứng thành một vòng, nhưng thành ra người nọ đứng sau người kia. Rồi mỗi người đặt tay lên vai người trước mặt, và họ bắt đầu chạy vòng quanh trong vòng tròn ấy, tất cả đều sủa đồng thanh  y như chó. Việc này tiếp diễn chừng năm phút, rồi một người rời vòng, ngã vật xuống đất trong một cơn co giật, trông rùng rợn, sùi cả bọt mép. Chỉ trong ít phút, những người còn lại cũng đều lâm vào tình trạng như thế, và cảnh tượng ghê gớm vô cùng. Một lúc sau, từng người có vẻ hồi tỉnh, ngồi dậy nhìn quanh với vẻ ngơ ngác, rồi họ dìu nhau đứng lên và lảo đảo bỏ đi.
But the extraordinary thing was that all the passers-by in that crowded street took the whole thing as a matter of course, and no one even stopped to watch these men—still less to offer any assistance. Madame Blavatsky told us that they belonged to a certain sect which made a practice of such a performance, and that by means of it they believed themselves to become possessed by certain spirits from whom, while in that condition, they could obtain all sorts of useful information—such as, for example, where a buried treasure might be found—or that they could receive advice as to any difficulty in which they might happen to find themselves. She also described to us in the most gruesome manner the peculiarly ghastly and evil elemental creatures which they gathered round themselves by this abominable ceremony.Nhưng điều lạ lùng là mọi khách qua đường trên con phố đông đúc ấy coi tất cả như lẽ đương nhiên, không một ai dừng lại để quan sát họ—chứ đừng nói đến việc giúp đỡ. Bà Blavatsky bảo chúng tôi rằng họ thuộc về một giáo phái chuyên thực hành nghi thức như thế, và nhờ phương tiện đó họ tin rằng mình bị nhập bởi những thần linh nào đó, từ đó, trong trạng thái ấy, họ có thể nhận được đủ thứ tin tức hữu ích—chẳng hạn như nơi chôn giấu một kho báu—hoặc có thể nhận lời khuyên cho bất cứ khó khăn nào họ đang gặp phải. Bà còn mô tả cho chúng tôi một cách rợn người về những loài sinh linh hành khí đặc dị, ghê gớm và tà ác mà họ quần tụ quanh mình bằng nghi lễ ghê tởm ấy.

She Knew Arabic—Bà Biết Tiếng Ả Rập

Madame Blavatsky understood Arabic, and she used to amuse us greatly by translating for our benefit the private remarks which were being made by the grave and dignified Arab merchants, as they sat talking to one another in the bazaar. After they had for some time been calling us Christian dogs, and speaking disrespectfully of our female relatives for many generations, she blandly asked them in their own language whether they thought that was the way in which a good son of the Prophet should speak of those from whom he hoped to gain much in the way of business. The men were always covered with confusion, not having expected that any European could possibly understand them.Bà Blavatsky hiểu tiếng Ả Rập, và Bà thường khiến chúng tôi vô cùng thích thú bằng cách dịch cho chúng tôi nghe những lời nhận xét riêng tư của các thương gia Ả Rập trịnh trọng, đạo mạo khi họ ngồi chuyện trò với nhau trong khu chợ. Sau một lúc họ gọi chúng tôi là bọn chó Kitô giáo, và buông lời bất kính về các nữ quyến của chúng tôi từ bao đời, Bà điềm tĩnh hỏi họ bằng chính ngôn ngữ của họ rằng liệu đó có phải là cách mà một người con tốt của Đấng Tiên tri nên nói về những kẻ mà y hy vọng sẽ kiếm chác được nhiều lợi lộc làm ăn chăng. Bọn họ lúc nào cũng đỏ mặt tía tai vì xấu hổ, vì không ngờ có người châu Âu nào hiểu được họ.
Arabic, however, seems to have been the only Oriental language with which she was acquainted; she did not know Sanskrit, and many of the difficulties of our Theosophical terminology arise from the fact that in those days she would describe what she saw or knew, and then ask any Indian who happened to be near what was the Sanskrit name for it. Very often the gentleman who provided her with the term had not clearly understood what she meant; and even when he did, we must remember that she asked adherents of different schools of philosophy, and that each answered according to the shade of meaning applied to the term in his teaching.Tuy vậy, tiếng Ả Rập có vẻ là ngôn ngữ phương Đông duy nhất mà Bà thông thạo; Bà không biết tiếng Sanskrit, và nhiều khó khăn trong thuật ngữ Thông Thiên Học của chúng ta phát sinh từ việc thời ấy Bà mô tả những gì Bà thấy hoặc biết, rồi hỏi bất cứ người Ấn nào tình cờ ở gần đó rằng tiếng Sanskrit gọi nó là gì. Nhiều khi vị quý ông cung cấp thuật ngữ ấy chưa thật hiểu rõ điều Bà muốn nói; và ngay cả khi hiểu, chúng ta cần nhớ rằng Bà hỏi những tín đồ của các trường triết học khác nhau, và mỗi người trả lời theo sắc thái nghĩa của thuật ngữ trong giáo học của họ.

Phenomena—Hiện Tượng

Many curious phenomena were constantly taking place around her at this period. First, she was herself the most striking of all the phenomena, for her changes were protean. Sometimes the Masters Themselves used her body, and wrote or spoke directly through her. At other times when her ego was elsewhere engaged, one or other of two pupils of lower degree than herself would take the body, and there were even certain occasions when another woman used to be in charge—I think a Tibetan. I have myself frequently seen all these changes take place, and I have seen the new man who entered the body looking round to discover the condition of affairs into which he had come—trying to take up the thread of a conversation, for example. Yet with all this, she was in no sense of the word like an ordinary medium, for the true owner of the body stood more or less within reach all the time in full consciousness, and thoroughly understood what was going on.Nhiều hiện tượng lạ lùng liên tục xảy ra quanh Bà vào thời kỳ này. Trước hết, tự thân Bà là hiện tượng ấn tượng nhất, vì sự biến hóa của Bà muôn hình vạn trạng. Đôi khi chính các Chân sư dùng thân xác của Bà, và viết hay nói trực tiếp qua Bà. Lúc khác, khi chân ngã của Bà bận bịu nơi khác, một trong hai vị đệ tử có đẳng cấp thấp hơn Bà sẽ nhập vào thân, và thậm chí có những lúc một người phụ nữ khác nắm quyền điều khiển—tôi nghĩ là một người Tây Tạng. Bản thân tôi đã nhiều lần thấy tất cả những sự chuyển đổi này diễn ra, và tôi đã thấy người mới bước vào thể xác nhìn quanh để dò xem tình trạng sự vụ mà y vừa bước vào—chẳng hạn cố tiếp nối mạch câu chuyện đang nói. Tuy vậy, với tất cả những điều đó, Bà không hề giống một đồng tử theo nghĩa thông thường, vì chủ nhân đích thực của thể xác vẫn ở đâu đó trong tầm gần suốt thời gian ấy với đầy đủ tâm thức, và hoàn toàn hiểu rõ điều gì đang diễn ra.
These amazing changes led sometimes to the most extraordinary complications. The chela who was suddenly called in to occupy the body was of course ignorant of what had been said a few minutes before, and so was occasionally betrayed into what seemed bare-faced contradictions. I remember a story told to me later by a member of the Avenue Road household, which gives a good illustration of the difficulties we had to encounter. The narrator was a man of some legal experience, and was consequently usually deputed to act as representative of the household, or of Madame Blavatsky, when there was any business to be done with the lawyers.Những biến đổi kinh ngạc này đôi khi dẫn đến những rắc rối khác thường nhất. Vị đệ tử bị gọi đến nhập thân đột ngột dĩ nhiên không hay biết những gì mới được nói vài phút trước đó, nên đôi khi lỡ miệng thành những điều nghe như trắng trợn mâu thuẫn. Tôi nhớ một câu chuyện sau này được một thành viên trong gia đình ở Avenue Road kể lại, nêu một minh họa hay về những khó khăn chúng tôi từng gặp. Người kể là một ông có ít nhiều kinh nghiệm pháp lý, nên thường được ủy nhiệm làm đại diện cho gia đình, hoặc cho Bà Blavatsky, khi có việc cần làm với luật sư.

A Characteristic Experience—Một Trải Nghiệm Tiêu Biểu

On a certain day some such business arose; I do not know its precise nature, but it involved the signing by Madame Blavatsky of several documents. Our member laid these documents before her, and endeavoured with a true legal sense of responsibility to explain them to her, but she did not seem to comprehend at all clearly, and indeed pushed the papers aside somewhat impatiently. Having, as he supposed, obtained all the necessary signatures, he withdrew and was about to start on his journey to the city; but, finding the weather colder than he expected, he decided to wear an overcoat, and ran upstairs to his room to fetch it.Một ngày nọ phát sinh một công việc như thế; tôi không rõ chính xác tính chất của nó, nhưng nó đòi hỏi Bà Blavatsky phải ký vài văn kiện. Vị hội viên của chúng tôi đặt những văn kiện ấy trước mặt Bà, và cố gắng, với ý thức trách nhiệm nghề luật chân chính, giải thích cho Bà, nhưng Bà dường như chẳng hiểu cho thật rõ, thậm chí hơi sốt ruột đẩy xấp giấy sang bên. Nghĩ rằng mình đã lấy đủ các chữ ký cần thiết, ông lui ra và sắp khởi hành vào thành phố; nhưng vì thấy thời tiết lạnh hơn dự liệu, ông quyết định mặc áo choàng, và chạy lên phòng mình lấy.
Changing his papers from one pocket to another, he ran through them mechanically to see that all were there, and fortunately noticed that one of them was unsigned; so on his way downstairs he entered Madame Blavatsky’s room once more, saying:Chuyển các giấy tờ từ túi này sang túi khác, ông lướt qua chúng một cách máy móc để xem có đủ cả không, và may mắn phát hiện một tờ chưa ký; thế là trên đường xuống lầu, ông lại bước vào phòng Bà Blavatsky, nói:
“O, H. P. B., here is one of these papers which I have overlooked; will you please sign it?”“Ô, H.P.B., đây là một trong những giấy tờ tôi đã bỏ sót; Bà vui lòng ký giúp chứ?”
“What papers?” demanded Madame Blavatsky.“Giấy tờ gì?” Bà Blavatsky hỏi.
“Only one more of those which you signed a few minutes ago.”“Chỉ thêm một tờ trong số những tờ Bà đã ký cách đây vài phút.”
“What do you mean? I have signed no papers,” she returned indignantly.“Anh muốn nói gì? Tôi chưa ký giấy tờ nào cả,” Bà đáp, giận dữ.
“But, H. P. B., here they are!” protested the mystified member; and he spread them out before her.“Nhưng, H.P.B., chúng đây này!” vị hội viên bối rối kêu lên; và ông bày chúng trước mặt Bà.
“O, I see!” she said, apparently mollified; “but what is their purport?”“À, tôi hiểu rồi!” Bà nói, có vẻ dịu lại; “nhưng nội dung chúng là gì?”
Our friend repeated his explanations; and not only were they fully understood this time, but this Madame Blavatsky was a better man of business than he was, and asked him questions which he was unable to answer!Bạn chúng tôi lặp lại phần giải thích; và lần này không chỉ được hiểu tường tận, mà lần này Bà Blavatsky còn là một người rành việc hơn cả ông, và hỏi những câu mà ông không trả lời được!
No wonder that strangers did not always quite grasp the situation!Chẳng lạ gì người ngoài không phải lúc nào cũng nắm bắt nổi tình huống!
I remember an occasion on which she bought in the scent-bazaar at Cairo a tiny bottle of attar of roses, for use in the shrine-room at Adyar, paying £2 for it. When we were sitting at lunch in the hotel half-an-hour afterwards, at a small table reserved for our party in an alcove, two English sovereigns fell out of space upon the table, and Madame Blavatsky explained that she had been told that she ought not to spend money upon Them in this way, as we should need every shilling that we had before we reached Adyar—a statement which certainly proved true.Tôi nhớ có lần Bà mua ở khu chợ hương liệu tại Cairo một lọ nhỏ attar hoa hồng, để dùng trong phòng thờ ở Adyar, với giá 2 bảng. Khi chúng tôi đang ngồi ăn trưa ở khách sạn nửa giờ sau đó, tại một bàn nhỏ dành riêng cho nhóm chúng tôi trong một hốc tường, hai đồng vàng Anh rơi từ không trung xuống bàn, và Bà Blavatsky giải thích rằng Bà được bảo là không nên tiêu tiền cho Các Ngài theo cách ấy, vì chúng tôi sẽ cần từng đồng nhỏ trước khi đến Adyar—một lời khẳng định quả thật đã thành sự thật.
At one time and another I have seen a good many of the phenomena which were so closely associated with Madame Blavatsky. I have seen her precipitate drawings and writings, and I have also seen her find a missing object by occult power. On several occasions I have seen letters fall out of the air in her presence; and I must also state that I have seen such a letter fall at the Headquarters at Adyar when she was six thousand miles away in England, and again that I myself have several times had the privilege of being employed by the Master to deliver just such letters after her departure from the physical plane.Đôi lúc này khác tôi đã chứng kiến khá nhiều hiện tượng vốn gắn bó mật thiết với Bà Blavatsky. Tôi đã thấy Bà ngưng tụ tranh vẽ và bút tích, và tôi cũng thấy Bà tìm được một vật thất lạc bằng quyền năng huyền bí. Nhiều lần tôi đã thấy những bức thư rơi ra từ không trung khi có mặt Bà; và tôi cũng phải nói rằng tôi đã thấy một bức thư như thế rơi xuống tại Tổng hành dinh ở Adyar khi Bà đang ở tận Anh, cách đó sáu nghìn dặm, và thêm nữa chính tôi đã vài lần có vinh dự được Chân sư giao phó mang những bức thư như thế, sau khi Bà đã rời cõi hồng trần.
In those early days of the Society messages and instructions from the Masters were frequent, and we lived at a level of splendid enthusiasm which those who have joined since Madame Blavatsky’s death can hardly imagine. Those of us who have had the inestimable privilege of direct touch with the Masters have naturally retained that enthusiasm, but it is not easy for us, whose powers are so much less than hers, fully to impart it to newer members. I have sometimes wondered, however, how many of our present-day members would have found themselves able to endure the somewhat severe but remarkably effective training through which she put her pupils; I can testify to certain radical changes which her drastic methods produced in me in a very short space of time—also to the fact that they have been permanent!Trong những ngày đầu của Hội, các thông điệp và chỉ dẫn từ các Chân sư đến khá thường xuyên, và chúng tôi sống trong một mức độ hứng khởi tuyệt vời mà những ai gia nhập sau khi Bà Blavatsky qua đời khó mà hình dung. Những người trong chúng tôi đã có đặc ân vô giá là được tiếp xúc trực tiếp với các Chân sư tự nhiên vẫn giữ trọn nhiệt huyết ấy, nhưng đối với chúng tôi—những kẻ tài lực kém xa Bà—thì không dễ truyền đạt vẹn toàn điều đó cho các hội viên mới. Dẫu vậy đôi lúc tôi tự hỏi có bao nhiêu hội viên ngày nay của chúng ta đủ sức chịu đựng sự rèn luyện khá nghiêm khắc nhưng kỳ cùng hiệu nghiệm mà Bà dành cho học trò; tôi có thể làm chứng về những biến đổi căn bản mà các phương pháp quyết liệt của Bà đã tạo ra nơi tôi trong một khoảng thời gian rất ngắn—và cũng xin xác nhận rằng chúng đã bền vững!
When I came into her hands I was just an ordinary lawn-tennis-playing curate—well-meaning and conscientious, I believe, but incredibly shy and retiring, with all the average Englishman’s horror of making himself conspicuous in any way or occupying a ridiculous position. After a few weeks of her treatment I had reached a stage in which I was absolutely hardened to ridicule, and did not care in the slightest degree what anybody thought of me. I mean that quite literally; it was not that I had learnt to endure disapproval stoically, in spite of internal anguish, but that I actually did not care what people thought or said of me, and indeed never considered that matter at all. And I have never cared since! I admit that her methods were drastic and distinctly unpleasant at the time, but there was no question as to their effectiveness.Khi đến với Bà, tôi chỉ là một cha phó chơi quần vợt sân cỏ bình thường—tôi tin là thiện chí và có lương tâm, nhưng nhút nhát và rút lui khó tin, với tất cả nỗi khiếp sợ điển hình của người Anh trước việc tự làm mình nổi bật theo bất cứ cách nào hay lâm vào một tình thế lố bịch. Sau vài tuần được Bà rèn luyện, tôi đã đạt đến một giai đoạn thản nhiên tuyệt đối trước mọi lời chế giễu, và chẳng mảy may bận tâm người khác nghĩ gì về mình. Tôi nói điều đó theo nghĩa đen; không phải tôi đã học cách chịu đựng sự bất đồng một cách kiên cường dù đau đớn trong lòng, mà là tôi thực sự không bận tâm người ta nghĩ hay nói gì về mình, và thực tình chẳng bao giờ để tâm đến chuyện đó. Và từ đó đến nay tôi cũng chẳng bận tâm! Tôi thừa nhận phương pháp của Bà quyết liệt và quả thật khó chịu vào lúc đó, nhưng hiệu quả của chúng thì không phải bàn cãi.
Apart from the great Masters of Wisdom, I have never known any person from whom power so visibly radiated. Clever she certainly was; not a scholar in the ordinary sense of the word, yet, as I have already said, possessed of apparently inexhaustible stores of unusual knowledge on all sorts of out-of-the-way unexpected subjects. She was an indefatigable worker from early in the morning until late at night, and she expected everyone around her to share her enthusiasm and her marvellous endurance. She was always ready to sacrifice herself—and, for the matter of that, others also—for the sake of the cause, of the great work upon which she was engaged. Utter devotion to her Master and to His work was the dominant note of her life, and though now she wears a different body, that note still sounds out unchanged, and if she should ever be directed to come forth from her retirement and to take charge once more of the Society which she founded, we shall find it ringing in our ears as a clarion to call around her old friends and new, so that through all the ages that work shall still go on.Ngoài các Chân sư Minh Triết ra, tôi chưa từng biết ai mà quyền năng lại hiển lộ rõ rệt đến thế. Bà chắc chắn là thông tuệ; không phải là học giả theo nghĩa thông thường, nhưng như tôi đã nói, Bà dường như sở hữu kho tàng tri thức bất tận về đủ loại đề tài lạ lùng và bất ngờ. Bà là người làm việc không biết mệt, từ sớm đến khuya, và Bà mong mọi người quanh Bà san sẻ nhiệt huyết và sức bền phi thường của Bà. Bà luôn sẵn lòng hy sinh bản thân—và, nói cho cùng, cả người khác nữa—vì sự nghiệp, vì đại công trình mà Bà đang đảm trách. Lòng tận hiến trọn vẹn cho vị Chân sư của mình và cho Công việc của Ngài là chủ âm đời Bà; và dù nay Bà khoác một thân xác khác, chủ âm ấy vẫn vang lên bất biến, và nếu một ngày nào Bà được chỉ dạy bước ra khỏi ẩn cư và một lần nữa đảm trách Hội mà Bà đã sáng lập, chúng ta sẽ thấy âm điệu ấy vang rền bên tai như tiếng kèn hiệu, triệu tập quanh Bà cả bạn cũ lẫn mới, để qua mọi thời đại công việc ấy vẫn tiếp tục.

Leave a Comment

Scroll to Top