Chương 9—Bà Blavatsky Ra đi

Madame Blavatsky’s Departure—Sự ra đi của Bà Blavatsky

Under the constant harassment of these various complications Madame Blavatsky seemed quite unable, to recover her health, and the distress which was caused to her by this continuous chain of annoyances was so great that at last her doctor flatly declared that her illness must very shortly terminate fatally unless she could escape altogether from her present environment. With great difficulty we at last obtained her assent to a temporary residence in Europe, and towards the end of March she actually departed by the s.s. Tibre, accompanied by Dr. Franz Hartmann, Miss Mary Flynn and the self-styled Babaji Darbhagiri Nath. Damodar Keshub Mavalankar had already left Adyar on the 23rd February, before our return from Burma, and now that the bid for domination made by the European clique had failed they also speedily left; and the Headquarters and Adyar seemed empty and deserted.Bị quấy rối không ngừng bởi đủ thứ rắc rối, Bà Blavatsky dường như hoàn toàn không thể phục hồi sức khỏe, và nỗi khổ tâm do chuỗi phiền nhiễu liên miên ấy gây ra cho Bà quá lớn đến nỗi cuối cùng bác sĩ quả quyết rằng bệnh của Bà rất sớm sẽ kết thúc bằng cái chết nếu Bà không thể thoát hẳn khỏi môi trường hiện tại. Với rất nhiều khó khăn, cuối cùng chúng tôi cũng được Bà ưng thuận tạm thời sang châu Âu, và vào cuối tháng Ba, Bà đã thực sự rời đi bằng tàu hơi nước Tibre , cùng đi có Bác sĩ Franz Hartmann, cô Mary Flynn và người tự xưng là Babaji Darbhagiri Nath. Damodar Keshub Mavalankar đã rời Adyar từ ngày 23 tháng Hai, trước khi chúng tôi trở về từ Miến Điện, và khi mưu toan thao túng của nhóm người Âu thất bại, họ cũng nhanh chóng bỏ đi; và Trụ sở cũng như Adyar bỗng trống vắng, hiu hắt.
Not long after this Colonel Olcott departed upon one of his frequent tours; but before he left he offered me the choice of two lines of work; either I might go down to Galle and take charge of the Theosophical school recently established there, or remain at the headquarters and hold the position of Recording Secretary of the Society. I chose the latter, principally because it allowed me to stay in the centre of the movement where I knew that our Masters frequently showed Themselves in materialized forms.Không lâu sau đó, Đại tá Olcott lại lên đường đi một trong những chuyến công du thường xuyên; nhưng trước khi rời đi Ông đề nghị cho tôi chọn một trong hai công việc: hoặc tôi có thể xuống Galle đảm nhận trường Thông Thiên Học mới lập ở đó, hoặc ở lại Trụ sở và giữ chức Thư ký Biên bản của Hội. Tôi chọn phương án sau, chủ yếu vì nó cho phép tôi ở lại trung tâm phong trào, nơi tôi biết rằng các Chân sư của chúng ta thường hiện hình.
Although the Recording Secretary was expected also to perform the functions of the manager of the Theosophist Office and of the book concern, the work was still of the lightest description in those early days. I did my best, but I am afraid that I was not a shining success in any of these capacities, because I was entirely inexperienced in business matters, and had little idea which books would sell well, and which would not. My predecessor in the office had been the aforesaid Damodar, and while I knew little of business I think he must have known even less, for I found everything connected with the office in a state of chaos, with huge piles of unanswered and even unopened letters stacked on the floor in heaps. The fact was, I think, that Damodar lived so entirely on higher planes that he actually had no time for the physical, and I fancy that he even regarded it with a strong distaste. He wrote articles and letters with great power and with tireless assiduity, and mundane considerations such as filling book orders and acknowledging subscriptions simply did not enter into his world of thought at all. Our office at that time was the long central room with a large veranda looking out upon the river, opposite the platform and facing the statues of the founders. It is now used as a kind of reading-room, an annex to the library.Mặc dù Thư ký Biên bản còn được trông đợi kiêm nhiệm chức năng quản lý Văn phòng Theosophist và cơ sở sách, nhưng trong những năm đầu công việc vẫn là nhẹ nhàng nhất. Tôi đã cố hết sức, nhưng e rằng tôi chẳng mấy sáng giá ở bất kỳ vai trò nào trong số ấy, vì tôi hoàn toàn thiếu kinh nghiệm về thương vụ, và ít có ý niệm sách nào sẽ bán chạy, sách nào thì không. Người tiền nhiệm của tôi trong văn phòng là Damodar vừa nhắc đến; và trong khi tôi biết ít về thương vụ thì tôi nghĩ Ông chắc còn biết ít hơn, vì tôi thấy mọi thứ liên quan đến văn phòng ở trong tình trạng hỗn độn, với những đống thư chưa trả lời và thậm chí chưa mở phong bì chất thành từng đụn trên sàn. Sự thật, theo tôi, là Damodar sống hầu như hoàn toàn trên các cõi cao đến nỗi thật sự không còn thì giờ cho cõi hồng trần, và tôi đoán rằng Ông thậm chí còn rất chán ghét nó. Ông viết bài và thư với sức mạnh lớn lao và sự chuyên cần không mệt mỏi, còn những bận tâm phàm thế như đóng gói sách theo đơn đặt hàng hay hồi báo tiền đặt báo thì đơn giản là không hề bước vào thế giới tư tưởng của Ông. Văn phòng của chúng tôi khi ấy là căn phòng dài ở giữa, có hiên lớn nhìn ra sông, đối diện bục và hướng về các pho tượng của các vị sáng lập. Nay nó được dùng như một dạng phòng đọc, nối thêm cho thư viện.

The Masters Materialize—Các Chân sư hiện hình

I spoke just now of the occasional materialization of our Masters in those days. It should be remembered that at that time no one among us except Madame Blavatsky herself (and to a certain extent Damodar) had developed astral sight while still awake in the physical body. Nor could any one else bring through communications from the higher planes with the requisite certainty. So when, our Masters wished to convey anything definitely to us they had either to announce it through Madame Blavatsky, to write it as a letter to be delivered by phenomenal means, or to show Themselves in materialized form and speak by word of mouth.Vừa rồi tôi có nói đến việc đôi khi các Chân sư của chúng ta hiện hình trong những năm ấy. Cần nhớ rằng vào thời điểm đó không ai trong chúng tôi, ngoại trừ chính Bà Blavatsky (và ở một mức độ nào đó là Damodar), đã phát triển được thị giác cảm dục trong khi vẫn tỉnh thức trong thể xác. Cũng không ai khác có thể chuyển đạt những truyền thông từ các cõi cao với độ xác quyết cần thiết. Vì vậy khi các Chân sư của chúng ta muốn truyền đạt điều gì rõ ràng cho chúng tôi, Các Ngài hoặc phải công bố qua Bà Blavatsky, hoặc viết thành thư giao bằng phương tiện hiện tượng lạ, hoặc hiện hình và nói trực tiếp bằng lời.
It was in such a materialized form that I first saw both of the Masters who have been most closely associated with the Theosophical Society. My own Master, whom we now know as the Chohan Kuthumi, I first met (on the physical plane) on the square of roof outside the door of our President’s room, then occupied by Madame Blavatsky. The additions since made have so changed the appearance of that roof that it is not now easy to follow exactly the lines of the older building; but there was at that time a sort of balustrade running along the front of the house at the edge of the roof, and I happened to be looking towards that when the Master materialized in the very act of stepping over that balustrade, as though He had previously been floating through the air.Chính trong hình thức hiện hình như vậy mà lần đầu tiên tôi thấy cả hai vị Chân sư gắn bó mật thiết nhất với Hội Thông Thiên Học. Vị Chân sư của riêng tôi, Đấng mà nay chúng ta biết là Chohan Kuthumi, tôi lần đầu gặp (trên cõi hồng trần) ở khoảng sân mái ngay ngoài cửa phòng Chủ tịch của chúng tôi, khi ấy do Bà Blavatsky ở. Những phần cơi nới về sau đã thay đổi dáng dấp mái nhà ấy đến mức giờ đây khó mà lần theo chính xác đường nét của kiến trúc cũ; nhưng khi ấy có một dải lan can chạy dọc mặt tiền ngôi nhà ngay mép mái, và tôi tình cờ đang nhìn về hướng đó thì Chân sư hiện hình đúng vào lúc Ngài bước qua lan can ấy, như thể trước đó Ngài vừa lướt qua không khí.
Naturally I rushed forward and prostrated myself before Him; He raised me with a kindly smile, saying that though such demonstrations of reverence were the custom among the Indian peoples, He did not expect them from His European devotees, and He thought that perhaps there would be less possibility of any feeling of embarrassment if each nation confined itself to its own methods of salutation.Tự nhiên tôi chạy vội tới và phủ phục trước Ngài; Ngài đỡ tôi đứng dậy với nụ cười hiền hậu, nói rằng tuy những biểu hiện tôn kính như vậy là phong tục nơi các dân tộc Ấn Độ, Ngài không trông đợi điều ấy nơi những người sùng kính châu Âu của Ngài, và Ngài nghĩ rằng có lẽ sẽ bớt khả năng gây bối rối hơn nếu mỗi dân tộc giữ theo cách chào của riêng mình.
The first time that I had the honour of seeing the Master Morya was on one of those occasions to which I have already referred, when He visited Madame Blavatsky and endowed her with renewed strength to support the burden of her arduous work.Lần đầu tiên tôi có vinh hạnh được thấy Chân sư Morya là vào một trong những dịp mà tôi đã đề cập, khi Ngài đến thăm Bà Blavatsky và ban cho Bà nguồn lực mới để gánh vác gánh nặng công việc cam go của Bà.
Those who are familiar with the configuration of the President’s rooms as they were in the year 1885 will understand what I mean when I say that three of us—a European lady, a distinguished Indian brother and myself—were seated in the ante-room from which Madame Blavatsky’s bedroom branched off at a right angle. (The square room now occupied by our President had not then been added.) The lady was seated on a cushion just inside the outer door to the right, leaning against the rail which protects the stairway running down to the bathroom below. The Indian brother and I were seated on the floor at the opposite corner of the little ante-room, leaning our backs against the edge of a sofa, which stood just to the right of the door leading into Madame Blavatsky’s bedroom.Những ai quen thuộc với bố cục các phòng của Chủ tịch như vào năm 1885 sẽ hiểu ý tôi khi nói rằng có ba người chúng tôi—một nữ nhân người Âu, một huynh đệ Ấn Độ danh giá và tôi—đang ngồi trong căn phòng tiền sảnh nơi phòng ngủ của Bà Blavatsky rẽ ra vuông góc. (Căn phòng vuông nay do vị Chủ tịch của chúng tôi sử dụng khi ấy chưa được xây thêm.) Người phụ nữ ngồi trên đệm ngay bên trong cửa ngoài về phía tay phải, tựa lưng vào thành chắn bảo vệ cầu thang dẫn xuống phòng tắm bên dưới. Vị huynh đệ Ấn Độ và tôi ngồi dưới sàn ở góc đối diện của phòng tiền sảnh nhỏ, tựa lưng vào mép của một chiếc sofa, chiếc sofa đặt ngay bên phải cửa dẫn vào phòng ngủ của Bà Blavatsky.

A Marvellous Change—Một sự đổi thay kỳ diệu

Our Founder herself lay in bed inside in a condition of extreme weakness, but she had just sunk to sleep, so that the lady who was nursing her had thought it safe to steal a few moments of respite, and had come out to sit with us. She was describing to us tearfully Madame’s exceeding weakness when she suddenly checked herself to say: “Who can that be?” for we all heard a firm quick step approaching along what was then the open roof, beyond the bedroom. The footsteps came down from that higher level and passed quickly before the window which faced us as we sat, and then—the Master Morya entered the room; but the lady did not see Him, for as He entered the startled look left her face, and she sank back upon her cushion as though in sleep. The Indian and I sprang to our feet and prostrated ourselves; but the Master Morya walked quickly past us with a bright smile and a benedictory wave of His hand turned in to Madame Blavatsky’s bedroom.Chính vị Sáng lập của chúng ta nằm trong phòng, thân thể cực kỳ suy kiệt, nhưng Bà vừa chợp mắt, nên người chăm sóc Bà nghĩ rằng có thể lén tranh thủ vài phút nghỉ ngơi, và đã bước ra ngồi với chúng tôi. Cô đang rưng rưng mô tả với chúng tôi về sự yếu ớt tột cùng của Bà thì bỗng khựng lại để nói: “Ai vậy nhỉ?” vì tất cả chúng tôi đều nghe tiếng bước chân dứt khoát, nhanh nhẹn đang tiến lại dọc theo phần mái nhà lộ thiên bấy giờ nằm phía sau phòng ngủ. Tiếng chân đi xuống từ mức mái cao hơn rồi nhanh chóng đi qua trước khung cửa sổ đối diện chúng tôi đang ngồi, và rồi—Chân sư Morya bước vào phòng; nhưng người phụ nữ không nhìn thấy Ngài, vì khi Ngài bước vào, vẻ giật mình rời khỏi gương mặt cô, và cô thả người xuống chiếc đệm như thể thiếp đi. Vị huynh đệ Ấn Độ và tôi bật đứng dậy và phủ phục; nhưng Chân sư Morya đi nhanh qua trước chúng tôi với nụ cười rạng rỡ và cái vẫy tay ban phúc, rẽ vào phòng ngủ của Bà Blavatsky.
We heard an exclamation from her, a few words in His. voice and then some reply from her, and in a few minutes He came out again with the same quick step, once more smilingly acknowledged our salutations and passed out again by the way that He came. Only after He had left the room did the lady start up from her corner with the exclamation:Chúng tôi nghe Bà kêu khẽ, vài lời bằng giọng của Ngài, rồi Bà đáp lại mấy câu, và chỉ ít phút sau Ngài trở ra với bước chân nhanh nhẹn như cũ, một lần nữa mỉm cười đáp lễ sự chào kính của chúng tôi và rời khỏi bằng lối Ngài đã đến. Chỉ sau khi Ngài rời khỏi phòng, người phụ nữ mới giật mình ngồi bật dậy nơi góc của cô và kêu lên:
“O, who was that?”“Ô, ai vừa ở đây vậy?”
Before we had any time to discuss the matter our attention was distracted by a call for the nurse from Madame Blavatsky, in surprisingly loud and firm tones:Trước khi chúng tôi kịp bàn bạc, sự chú ý của chúng tôi bị kéo đi bởi tiếng gọi y tá từ Bà Blavatsky, với giọng dõng dạc và quả quyết một cách đáng ngạc nhiên:
“Where are my clothes? I want to dress.”“Quần áo của tôi đâu? Tôi muốn mặc đồ.”
The nurse looked at us despairingly (for the doctor had prescribed the most absolute rest); but Madame Blavatsky was very much “She who must be obeyed,” and of course she was dressed accordingly, and came forth looking much more like her old self. Her Master had asked her whether she would pass away then—she was very near to passing away, and she had had terrible suffering—or whether she would keep her physical body for some years longer, in order to write that great book The Secret Doctrine. She choose to stay. I do not think I exaggerate when I say that from that time onward she had scarcely an hour free from pain, but she fought it down splendidly. She wrote the book, and there it remains, as a monument which will stand all through the ages. She can never, I think, be forgotten while that and her other books remain to speak of her and for her.Cô y tá nhìn chúng tôi đầy tuyệt vọng (vì bác sĩ đã dặn phải để Bà tuyệt đối nghỉ ngơi); nhưng Bà Blavatsky quả là “Bà, người ‘phải được tuân mệnh’,” nên dĩ nhiên Bà được mặc đồ theo đúng ý, và bước ra trông giống hệt phong thái xưa kia của Bà hơn nhiều. Vị Thầy của Bà đã hỏi Bà liệu Bà có muốn lìa đời ngay khi ấy—Bà đã rất gần cõi bên kia và đã chịu khổ sở khủng khiếp—hay Bà sẽ giữ lại thể xác thêm vài năm nữa để viết cuốn sách lớn Giáo Lý Bí Nhiệm . Bà chọn ở lại. Tôi không nghĩ rằng mình nói quá khi bảo rằng từ lúc đó trở đi, hầu như Bà không có nổi một giờ không đau đớn, nhưng Bà đã kiên cường chế ngự nó một cách tuyệt vời. Bà đã viết cuốn sách, và nó vẫn còn đó, như một đài kỷ niệm sẽ đứng vững qua muôn đời. Tôi cho rằng Bà không thể nào bị quên lãng chừng nào cuốn sách ấy và những sách khác của Bà vẫn còn đó để nói về Bà và thay Bà lên tiếng.

A Lonely Life—Một đời sống cô quạnh

I have said that when Colonel Olcott left us on his tour Adyar remained empty; and unfortunately its treasury was in the same condition, so that the very few of us who remained had instructions to observe the strictest economy. Mr. Cooper-Oakley and I were for a long time the only Europeans; and as he lived up on the roof in one of the further rooms (later occupied by Dr. English) and I was in the Eastern octagon room, I saw almost nothing of him, except for a short morning visit of greeting each day. We lived an almost ascetic life, there being practically no servants except two gardeners and Manikam the office-boy. I am not quite sure how Mr. Oakley managed his household arrangements; for myself, every morning as soon as I rose I put a large supply of crushed wheat into a double saucepan, so arranged that it could not burn. Then I swam in the Adyar River (it was cleaner in those days) for half-an-hour or so, and then returned to find my wheat nicely cooked. Then the aforesaid office-boy led a cow round to my veranda and milked her on the spot into my own vessel, bringing me also a bunch of bananas from the estate when there happened to be any. I then consumed half of the wheat, leaving the other half for a second meal at about four o’clock in the afternoon or when the cow came round, and then I warmed up the wheat for a few minutes and dined sumptuously thereon. The Adyar budget was probably simpler at that period than it has ever been since!Tôi đã nói rằng khi Đại tá Olcott rời chúng tôi lên đường công du, Adyar trở nên trống vắng; và đáng tiếc là ngân quỹ của nó cũng ở trong tình trạng tương tự, đến nỗi số ít ỏi chúng tôi còn ở lại đều nhận chỉ thị phải tuân thủ sự tiết kiệm nghiêm ngặt nhất. Ông Cooper-Oakley và tôi suốt một thời gian dài là những người Âu duy nhất; và vì Ông sống trên mái ở một trong các phòng xa hơn (sau này do Bác sĩ English ở) còn tôi ở phòng bát giác phía Đông, tôi hầu như chẳng gặp Ông, ngoại trừ buổi thăm hỏi ngắn mỗi sáng. Chúng tôi sống gần như khổ hạnh, hầu như không có người phục vụ nào ngoài hai người làm vườn và Manikam, cậu bé văn phòng. Tôi không biết chắc Ông Oakley thu xếp gia dụng thế nào; riêng tôi, mỗi sáng vừa thức dậy là tôi cho một lượng lớn lúa mì nghiền vào một cái nồi hai lớp, sắp xếp sao cho nó không thể bị cháy. Rồi tôi bơi ở sông Adyar (thời ấy sông sạch hơn) độ nửa giờ, sau đó quay về thì thấy lúa mì đã chín vừa khéo. Tiếp đó cậu bé văn phòng nói trên dắt một con bò vòng qua hiên nhà tôi và vắt sữa ngay tại chỗ vào bình của tôi, cũng mang cho tôi một buồng chuối từ khu đất khi có sẵn. Tôi ăn một nửa phần lúa mì, dành nửa còn lại cho bữa thứ hai vào khoảng bốn giờ chiều hoặc khi con bò lại đến, rồi tôi hâm nóng lúa mì vài phút và “đại yến” bằng món ấy. Ngân sách Adyar có lẽ đơn giản hơn vào giai đoạn ấy hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ đó!

Unexpected Development—Diễn tiến bất ngờ

It should be understood that in those days I possessed no clairvoyant faculty, nor had I ever regarded myself as at all sensitive. I remember that I had a conviction that a man must be born with some psychic powers and with a sensitive body before he could do anything in the way of that kind of development, so that I had never thought of progress of that sort as possible for me in this incarnation, but had some hope that if I worked as well as I knew how in this life I might be born next time with vehicles more suitable to that particular line of advancement.Cần hiểu rằng vào những năm ấy tôi không có bất cứ khả năng thông nhãn nào, cũng chưa từng xem mình là người mẫn cảm chút nào. Tôi nhớ mình từng tin rằng một người phải sinh ra đã có vài năng lực thông linh và một thể xác nhạy cảm thì mới có thể làm được điều gì trên con đường phát triển dạng ấy, đến nỗi tôi chưa từng nghĩ tiến bộ kiểu đó là có thể cho mình trong kiếp này, mà chỉ hy vọng rằng nếu tôi làm việc tốt nhất như tôi biết trong đời này, thì đời sau tôi có thể được sinh ra với những hiện thể thích hợp hơn cho tuyến tiến bộ đặc thù ấy.
One day, however, when the Master Kuthumi honoured me with a visit, He asked me whether I had ever attempted a certain kind of meditation connected with the development of the mysterious power called kundalini. I had of course heard of that power, but knew very little about it, and at any rate supposed it to be absolutely out of reach for Western people. However, He recommended me to make a few efforts along certain lines, which He pledged me not to divulge to anyone else except with His direct authorization, and told me that He would Himself watch over those efforts to see that no danger should ensue.Tuy nhiên, một hôm, khi Chân sư Kuthumi đoái thương thăm tôi, Ngài hỏi tôi liệu tôi đã từng thử một loại tham thiền nào đó gắn với sự phát triển quyền năng huyền bí gọi là kundalini hay chưa. Dĩ nhiên tôi có nghe nói về quyền năng ấy, nhưng biết rất ít, và dù sao tôi cũng cho rằng nó tuyệt nhiên vượt ngoài tầm với của người phương Tây. Tuy vậy, Ngài khuyên tôi nỗ lực đôi chút theo những đường lối nhất định, những điều mà Ngài buộc tôi không được tiết lộ cho bất kỳ ai khác nếu không có sự cho phép trực tiếp của Ngài, và Ngài nói rằng chính Ngài sẽ trông coi các nỗ lực đó để bảo đảm không xảy ra nguy hiểm nào.
Naturally I took the hint, and worked away steadily, and I think I may say intensely, at that particular kind of meditation day after day. I must admit that it was very hard work and sometimes distinctly painful, but of course I persevered, and in due course began to achieve the results that I had been led to expect. Certain channels had to be opened and certain partitions broken down; I was told that forty days was a fair estimate of the average time required if the effort was really energetic and persevering. I worked at it for forty-two days, and seemed to myself to be on the brink of the final victory, when the Master Himself intervened and performed the final act of breaking through which completed the process, and enabled me thereafter to use astral sight while still retaining full consciousness in the physical body—which is equivalent to saying that the astral consciousness and memory became continuous whether the physical body was awake or asleep. I was given to understand that my own effort would have enabled me to break through in twenty-four hours longer, but that the Master interfered because He wished to employ me at once in a certain piece of work.Tự nhiên tôi hiểu ý và miệt mài làm việc, và tôi nghĩ có thể nói là với cường độ mãnh liệt, ở kiểu tham thiền đặc thù ấy, ngày này qua ngày khác. Tôi phải thú nhận rằng đó là công việc rất khó, đôi khi rõ rệt là đau đớn, nhưng dĩ nhiên tôi vẫn bền chí, và đến lúc thuận kỳ thì tôi bắt đầu đạt những kết quả mà tôi đã được dẫn dắt để chờ đợi. Một số kênh phải được khai mở và một số vách ngăn phải bị phá vỡ; tôi được bảo rằng bốn mươi ngày là ước tính công bình về thời gian trung bình cần thiết nếu nỗ lực thật sự bền bỉ và mạnh mẽ. Tôi làm việc bốn mươi hai ngày, và tự thấy mình đang ở bờ mép của thắng lợi cuối cùng, thì chính Chân sư can thiệp và thực hiện hành động xuyên phá tối hậu hoàn tất tiến trình, và từ đó cho phép tôi sử dụng thị giác cảm dục trong khi vẫn giữ trọn vẹn tâm thức trong thể xác—nghĩa là tâm thức và ký ức cảm dục trở nên liên tục bất kể thể xác tỉnh hay ngủ. Tôi được cho biết rằng tự nỗ lực của tôi sẽ có thể giúp tôi xuyên phá trong hai mươi bốn giờ nữa, nhưng Chân sư đã can thiệp vì Ngài muốn lập tức dùng tôi vào một công việc nhất định.

Psychic Training—Huấn luyện thông linh

It must not for a moment be supposed, however, that the attainment of this particular power was the end of the occult training. On the contrary, it proved to be only the beginning of a year of the hardest work that I have ever known. It will be understood that I lived there in the octagonal room by the river-side alone for many long hours every day, and practically secure from any interruption except at the meal-times which I have mentioned. Several Masters were so gracious as to visit me during that period and to offer me various hints; but it was the Master Djwal Kul who gave most of the necessary instruction. It may be that He was moved to this act of kindness because of my close association with Him in my last life, when I studied under Him in the Pythagorean school which He established in Athens, and even had the honour of managing it after His death. I know not how to thank Him for the enormous amount of care and trouble which He took in my psychic education; patiently and over and over again He would make a vivid thought-form, and say to me: “What do you see?” And when I described it to the best of my ability, would come again and again the comment: “No, no, you are not seeing true; you are not seeing all; dig deeper into yourself, use your mental vision as well as your astral; press just a little further, a little higher.”Tuyệt đối không nên nghĩ rằng đạt được quyền năng đặc thù này là kết thúc của sự huấn luyện huyền môn. Trái lại, nó hóa ra chỉ là khởi đầu cho một năm làm việc vất vả nhất mà tôi từng trải qua. Cần hiểu rằng tôi sống một mình ở căn phòng bát giác bên sông ấy suốt nhiều giờ dài mỗi ngày, hầu như không bị gián đoạn ngoại trừ vào những giờ ăn mà tôi đã nói. Trong thời gian đó, vài vị Chân sư đã ưu ái đến thăm tôi và ban cho tôi những chỉ dẫn khác nhau; nhưng chính Chân sư Djwal Kul là vị đã trao phần lớn chỉ dạy cần thiết. Có thể Ngài được thúc đẩy bởi cử chỉ từ ái này vì mối liên hệ gần gũi giữa tôi với Ngài trong đời trước, khi tôi học dưới sự dẫn dắt của Ngài trong trường Pythagoras mà Ngài thiết lập ở Athens, và thậm chí có vinh hạnh trông coi trường sau khi Ngài qua đời. Tôi không biết bày tỏ lòng tri ân thế nào cho xứng với lượng công sức và chăm sóc vô lượng mà Ngài đã dành cho sự giáo dục thông linh của tôi; một cách nhẫn nại, hết lần này đến lần khác, Ngài tạo một hình tư tưởng sống động và nói với tôi: “Con thấy gì?” Và khi tôi mô tả hết sức mình, thì điệp khúc lại vang lên: “Không, không, con chưa thấy đúng; con chưa thấy hết; hãy đào sâu hơn vào chính mình, hãy dùng nhãn quang trí tuệ cũng như cảm dục; cố vươn thêm một chút, lên cao hơn một chút.”
This process often had to be many times repeated before my mentor was satisfied. The pupil has to be tested in all sorts of ways and under all conceivable conditions; indeed, towards the end of the tuition sportive nature-spirits are specially called in and ordered in every way possible to endeavour to confuse or mislead the seer. Unquestionably it is hard work, and the strain which it imposes is, I suppose, about as great as a human being can safely endure; but the result achieved is assuredly far more than worth while, for it leads directly up to the union of the lower and the higher self and produces an utter certainty of knowledge based upon experience which no future happenings can ever shake.Quá trình này thường phải lặp lại nhiều lần trước khi vị đạo sư của tôi hài lòng. Người học trò phải được thử thách theo đủ mọi cách và trong tất cả những điều kiện có thể nghĩ ra; thực vậy, về cuối khóa học, các tinh linh thiên nhiên tinh nghịch được đặc biệt triệu đến và được lệnh bằng mọi cách có thể để cố làm rối hoặc đánh lạc hướng người thấy. Không nghi ngờ gì, đó là một công việc nặng nhọc, và sức căng mà nó đặt lên, tôi cho là, gần như lớn nhất mà con người có thể an toàn chịu đựng; nhưng kết quả đạt được chắc chắn là đáng giá gấp bội, vì nó dẫn thẳng đến sự hợp nhất giữa hạ ngã và thượng ngã, và sản sinh một sự chắc chắn tuyệt đối của tri thức dựa trên kinh nghiệm mà không một biến cố tương lai nào có thể lay chuyển.
On the physical plane our great pandit Swami T. Subba Rao often did me the honour of driving over to the Headquarters in order to take part in the instruction and testing, and I feel that I can never be grateful enough for all the help that these two great people gave me at this critical stage of my life. When once the way has thus been opened there is no end to the possibility of unfoldment, and I think I may say without any fear of exaggeration that no day has passed in the forty-five years since then in which I have not learnt some new fact. The yoga of the Initiate consists, as does all other yoga, of a steady upward pressure towards union with the Divine at ever higher and higher levels; one has to work the consciousness steadily onward from sub-plane to sub-plane of the buddhic world and then afterwards through the nirvanic; and even beyond all that, other and uncounted worlds are still to be conquered, for the Power, the Wisdom and the Love of the Infinite are as some great mine of jewels, into which one may probe ever more and more deeply without exhausting its capacity; nay, rather, they constitute a shoreless sea into which our dewdrop slips and yet is not lost therein, but feels rather as though it had absorbed the whole ocean into itself.Trên cõi hồng trần, vị đại học giả của chúng ta, Swami T. Subba Rao, thường ưu ái lái xe đến Trụ sở để tham gia chỉ dạy và khảo nghiệm, và tôi cảm thấy rằng mình mãi mãi không thể tỏ đủ lòng biết ơn đối với tất cả sự trợ giúp mà hai bậc vĩ nhân ấy dành cho tôi ở giai đoạn then chốt của đời mình. Khi con đường đã được khai thông như thế, khả năng khai mở là vô tận, và tôi nghĩ có thể nói không sợ cường điệu rằng không có ngày nào trôi qua trong bốn mươi lăm năm kể từ đó mà tôi không học được một sự kiện mới. Yoga của vị Điểm đạo đồ cũng như mọi yoga khác, bao gồm một sự dồn ép đều đặn hướng thượng để hợp nhất với Đấng Thiêng Liêng ở những cấp độ ngày càng cao; người ta phải đẩy tâm thức tiến đều từ cõi phụ này sang cõi phụ khác của thế giới Bồ đề rồi sau đó xuyên qua thế giới Niết Bàn; và thậm chí phía bên kia tất cả những điều ấy, những thế giới khác nữa, vô số, vẫn còn chờ chinh phục, vì Quyền Năng, Minh Triết và Tình Thương của Vô Hạn giống như một mỏ ngọc vĩ đại, vào đó người ta có thể dò sâu hơn mãi mà không làm cạn kiệt; đúng hơn, chúng là một biển không bờ, nơi giọt sương của chúng ta trôi vào mà không hề mất hút, trái lại, cảm như thể nó đã hấp thụ cả đại dương vào trong chính mình.
Thus would I live—yet nowVậy ước nguyện tôi sống—nhưng nay
Not I, but HeKhông phải tôi, mà là Ngài
In all His Power and LoveTrong trọn Quyền Năng và Tình Thương của Ngài
Henceforth alive in me.Từ đây sống động trong tôi.
Here then I must end this fragment of autobiography, for this is “How Theosophy came to me”—first through our great founder Madame Blavatsky on the physical plane, and then more fully and on the higher levels through other members of the Great White Brotherhood to which she introduced me. May all my brethren find in Theosophy the peace and happiness which I have found!Vậy là tôi phải kết thúc mảnh hồi ký này, vì đây là “Thông Thiên Học đã đến với tôi như thế nào”—trước hết qua vị Sáng lập vĩ đại của chúng ta, Bà Blavatsky, trên cõi hồng trần, và rồi đầy đủ hơn cùng trên các cõi cao nhờ những thành viên khác của Thánh đoàn mà Bà đã dẫn tôi vào. Mong tất cả các huynh đệ của tôi tìm thấy trong Thông Thiên Học sự bình an và hạnh phúc mà tôi đã tìm thấy!
Peace to all BeingsBÌNH AN CHO TẤT CẢ

Leave a Comment

Scroll to Top