Chương 3 – Công việc Thực tiển

Practical Work—Công việc Thực hành

Naturally, as soon as I had the main principles of Theosophy, as we knew it then, established in my mind, and had definitely set before myself the idea of aiming, at however great a distance in the future, at drawing nearer to the Feet of the Master, I became anxious to know whether there was not something that I could do to help in the practical work of the Society. I propounded this question to Mr. Sinnett, and in reply he opened a large drawer completely filled with letters, and said:Tự nhiên là, ngay khi các nguyên lý chủ yếu của Thông Thiên Học, như hồi đó chúng tôi biết, đã được xác lập trong thể trí tôi, và tôi đã dứt khoát tự đặt ra cho mình lý tưởng nhắm đến, dù còn ở khoảng cách rất xa trong tương lai, là tiến gần hơn tới Chân của Chân sư, tôi nóng lòng muốn biết liệu không có điều gì tôi có thể làm để góp phần vào công việc thực hành của Hội. Tôi đặt câu hỏi này với Ông Sinnett, và ông đáp lại bằng cách mở một ngăn kéo lớn đầy ắp thư, nói:
“All these are inquiries about Theosophy; every day they come pouring in upon me from all parts of the world; I struggle with them in a feeble sort of way, and answer a few each day; but I am entirely unable to cope with the torrent. I am already behindhand to this extent, and I shall obviously never overtake the accumulation, for the pile of arrears is increasing steadily day by day. If you are willing to take charge of this little assortment, and answer them as well as you can, you will really be doing an important service to a large number of people.”“Tất cả những thư này là thư hỏi về Thông Thiên Học; mỗi ngày chúng từ khắp nơi trên thế giới tuôn đến với tôi; tôi gắng gượng xoay xở trong một kiểu cách yếu ớt, và mỗi ngày trả lời được vài bức; nhưng tôi hoàn toàn không thể chống chọi nổi cơn lũ ấy. Tôi đã tụt lại đến mức này, và rõ ràng là tôi sẽ chẳng bao giờ đuổi kịp đống tích lũy, vì chồng thư tồn đọng vẫn tăng đều từng ngày. Nếu ông sẵn lòng đảm nhận mớ nhỏ này, và trả lời chúng trong khả năng tốt nhất của mình, ông sẽ thực sự làm một việc phụng sự quan trọng cho một số đông người.”
I of course objected that I did not know nearly enough yet to take upon myself the office of expounder of the doctrine; but he replied:Dĩ nhiên tôi phản đối rằng tôi chưa biết đủ để tự gánh chức phận của người giảng giải giáo lý; nhưng ông đáp:
“You have read all the books, you have attended nearly all the meetings; I am sure that you know as much of the teaching as I do myself. And besides, it is clearly a case of that or nothing. With all the other work that I have to do, I shall never be able to deal with them; whereas you may manage, in the seclusion of your country parish, to work through some of them at least; and after all, we can always consult upon any knotty points that arise.”“Ông đã đọc tất cả các sách, ông đã dự hầu như mọi buổi họp; tôi chắc rằng ông biết giáo huấn chẳng kém gì chính tôi. Hơn nữa, rõ ràng đây là một tình thế ‘hoặc là vậy, hoặc chẳng gì cả’. Với tất cả những việc khác tôi phải làm, tôi sẽ chẳng bao giờ xoay xở nổi; trong khi đó, ông có thể, trong cảnh ẩn dật của xứ đạo miền quê của ông, xử lý được ít nhiều; và sau cùng, chúng ta luôn có thể tham khảo nhau về bất kỳ điểm rắc rối nào nảy sinh.”
He was right in saying that I had done all in my power to familiarize myself with this wonderful new teaching. I had read both his books, not once but many times, each time, I think, appreciating their value more and more, and gaining a firmer grip of the ideas promulgated in them. So I filled a suit-case with those letters (there were 437 of them) and took them down into Hampshire. I tackled the job with enthusiasm—I remember that I allowed myself only four hours’ sleep each night—and eventually I actually did work my way through them. It was quite a heavy task, for there were no typewriters in those days, so that every word of those many thousands had to be written laboriously by hand.Ông nói đúng khi bảo rằng tôi đã làm hết sức để làm quen với giáo huấn mới mẻ kỳ diệu này. Tôi đã đọc cả hai cuốn sách của ông, không phải một lần mà nhiều lần, và mỗi lần, tôi nghĩ, tôi lại đánh giá cao giá trị của chúng hơn nữa, và nắm vững hơn các ý tưởng được truyền bá trong đó. Thế là tôi nhét đầy một chiếc va-li với các bức thư ấy (có 437 bức) và mang chúng xuống hạt Hampshire. Tôi hăng hái bắt tay vào việc—tôi nhớ mình chỉ cho phép bản thân ngủ bốn tiếng mỗi đêm—và rốt cuộc tôi đã thực sự làm việc xuyên qua hết thảy. Đó là một nhiệm vụ khá nặng, vì hồi đó chưa có máy đánh chữ, nên mọi chữ trong số hàng vạn chữ ấy đều phải nắn nót viết tay.
Some of the questions were easy, and some were difficult; in many cases long explanations were necessary, because the inquirer seemed to have taken hold of the instruction in quite a wrong way; but I think I did my best with them. Of course I received a host of replies, so that that drawer-full of letters occupied most of my leisure time for many months. I may say that quite a number of new recruits joined the Society in consequence of that correspondence, and I also added largely to my list of friends—likewise to my own stock of Theosophical knowledge, for there is no better way of learning a subject thoroughly than trying to teach it to someone else.Một số câu hỏi thì dễ, một số thì khó; trong nhiều trường hợp cần phải có những giải thích dài dòng, vì người hỏi dường như đã nắm bắt giáo huấn theo một cách hoàn toàn sai; nhưng tôi nghĩ mình đã làm hết sức với chúng. Tất nhiên tôi nhận được cả một loạt thư hồi âm, thành ra ngăn kéo đầy ắp thư ấy chiếm phần lớn thì giờ rảnh rỗi của tôi suốt nhiều tháng. Tôi có thể nói rằng khá nhiều tân hội viên đã gia nhập Hội do hệ quả của mối thư từ ấy, và tôi cũng bổ sung đáng kể vào danh sách bạn bè của mình—đồng thời cũng vào kho tàng hiểu biết Thông Thiên Học của chính tôi, vì không có cách nào học thấu suốt một môn hơn là cố gắng giảng dạy nó cho một người khác.

Dr. Kingsford—Bác sĩ Kingsford

Let me pass on from these comparative trifles to an incident of real importance—my first meeting with Madame Blavatsky. But even before I can describe that, I must give a few words of preliminary explanation. Although Dr. Anna Kingsford was the President of the London Lodge, she was by no means entirely in accord with the teachings which its members were studying. Mr. Sinnett’s information came to him in Oriental form from Oriental Teachers and in answer to a series of more or less haphazard questions which he had formulated; whereas what Dr. Kingsford taught, she knew from her own recollection of what she had learnt in a previous life.Hãy bỏ qua những điều vặt vãnh tương đối này để đến một sự kiện thật sự quan trọng—cuộc gặp gỡ đầu tiên của tôi với Bà Blavatsky. Nhưng trước khi có thể mô tả điều đó, tôi phải nói vài lời giải thích mở đầu. Dẫu Bác sĩ Anna Kingsford là Chủ tịch Hội bộ London, Bà hoàn toàn không hẳn đồng thuận với các giáo huấn mà các hội viên đang nghiên cứu. Thông tin mà Ông Sinnett nhận được đến với ông theo hình thức Đông phương từ các Huấn sư Đông phương và là câu trả lời cho một loạt câu hỏi ít nhiều ngẫu hứng do ông đặt ra; trong khi điều Bác sĩ Kingsford dạy, Bà biết từ ký ức riêng của mình về những gì Bà đã học trong một tiền kiếp.
The agreement in essentials was most remarkable, but the form in which the teaching was cast was widely different, and each form had its own set of terms, which were by no means always interchangeable. Usually at our meetings Mr. Sinnett would deliver an address or make a statement; but before we were allowed to discuss it or to ask for further information on doubtful points, Dr. Kingsford would always insist upon restating the whole matter in her terms and from her point of view. To almost all of us the Oriental statement was far more comprehensible than the Hermetic; and to our eager minds this unnecessary complication appeared intolerable, so that Dr. Kingsford’s long disquisitions were received with a certain amount of impatience. Not content with stating her own case, she sometimes came perilously near to casting animadversions upon Mr. Sinnett’s presentation, and even upon the Masters from Whom it came. It will be readily understood that that tended to arouse considerable indignation in the minds of the members.Sự tương đồng ở những điều cốt yếu thì thật đáng kinh ngạc, nhưng hình thức đúc khuôn giáo huấn lại khác nhau một trời một vực, và mỗi hình thức có một hệ thuật ngữ riêng, vốn không phải lúc nào cũng có thể thay thế cho nhau. Thông thường trong các buổi họp của chúng tôi, Ông Sinnett sẽ diễn thuyết hay trình bày một bản tường thuật; nhưng trước khi chúng tôi được phép thảo luận hay yêu cầu thêm thông tin về các điểm còn ngờ vực, Bác sĩ Kingsford luôn khăng khăng trình bày lại toàn bộ vấn đề theo thuật ngữ của Bà và từ quan điểm của Bà. Với hầu hết chúng tôi, bản trình bày theo lối Đông phương dễ hiểu hơn nhiều so với theo lối Hermetic; và đối với những tâm trí háo hức của chúng tôi, sự rắc rối không cần thiết này trở nên không thể chịu đựng nổi, đến nỗi các bài diễn giải dài dòng của Bác sĩ Kingsford được đón nhận với ít nhiều sốt ruột. Không hài lòng với việc chỉ trình bày lập trường của mình, đôi khi Bà còn suýt nữa buông lời công kích cách trình bày của Ông Sinnett, thậm chí cả các Chân sư, từ Các Ngài mà giáo huấn ấy đến. Dễ hiểu rằng điều đó khơi dậy sự phẫn nộ đáng kể trong tâm trí các hội viên.
On one occasion the Lodge passed a resolution regretting the attitude adopted in a paper which she wrote; and the whole affair created a most undesirable feeling of tension. We even went so far as the publication of certain pamphlets in which the opposing cases were stated; and even Swami T. Subba Rao, far away in India, took part in the discussion. These conditions were still in evidence when Colonel Olcott and Mr. Mohini Mohun Chatterji arrived from India, and the Lodge practically divided itself into two very unequal parties, for Dr. Kingsford’s only supporters were her uncle Mr. Maitland and a few personal friends whom she had brought in when she joined. If Madame Blavatsky herself had been with us she would probably have settled the dispute off-hand; but although she had left India along with Colonel Olcott, she had fallen very seriously ill in Paris, and was even supposed to be in considerable danger.Có lần Hội bộ đã thông qua một nghị quyết bày tỏ lấy làm tiếc về thái độ thể hiện trong một bài viết của Bà; và toàn bộ vụ việc tạo ra một cảm giác căng thẳng hết sức bất lợi. Chúng tôi thậm chí đã đi xa tới việc xuất bản một số tờ bướm nêu rõ các lập trường đối nghịch; ngay cả Swami T. Subba Rao, ở tận Ấn Độ xa xôi, cũng tham gia cuộc thảo luận. Những tình trạng đó vẫn còn khi Đại tá Olcott và Ông Mohini Mohun Chatterji từ Ấn Độ tới, và Hội bộ trên thực tế tự chia thành hai phe rất chênh lệch, vì những người ủng hộ duy nhất của Bác sĩ Kingsford là người bác của Bà, Ông Maitland, và một vài bạn bè thân quen mà Bà đã đưa vào khi gia nhập. Nếu chính Bà Blavatsky có mặt với chúng tôi, có lẽ Bà đã giải quyết vụ tranh chấp ngay tức thì; nhưng tuy Bà đã rời Ấn Độ cùng với Đại tá Olcott, Bà lâm bệnh rất nặng ở Paris, và thậm chí còn bị cho là lâm nguy đáng kể.
Presently we came to the end of our financial year, and the question arose of the election of a President for the next twelve months. It was, I think, the almost unanimous desire of the Lodge that Mr. Sinnett himself should be its nominal as well as its actual leader; but he was unwilling to accept the position, because in the pamphleteering he had expressed himself somewhat strongly against Dr. Kingsford, and he did not wish to carry this almost personal animosity into the politics of the Lodge. When the night of election came Mr. Maitland proposed the reappointment of Dr. Kingsford, but found only one or two members to support him, at which Dr. Kingsford showed most undignified annoyance. Mr. Sinnett then rose and proposed Mr. G. B. Finch, a barrister of Lincoln’s Inn, who in his time had been Senior Wrangler at Cambridge. Being an able and kindly man, he was very popular with the members, and in fact that very meeting was being held in a long room in his chambers in Lincoln’s Inn. He was at once elected by an overwhelming majority, and we then appointed Mr. Sinnett as Secretary and proceeded to the work of the evening.Rồi chúng tôi đến cuối năm tài chính, và nảy sinh câu chuyện bầu Chủ tịch cho mười hai tháng tới. Theo tôi nhớ, gần như tất cả các hội viên đều mong muốn Ông Sinnett trở thành người lãnh đạo trên danh nghĩa cũng như trên thực tế của Hội bộ; nhưng ông không muốn nhận vị trí ấy, vì trong các tờ bướm ông đã phát biểu khá gay gắt chống lại Bác sĩ Kingsford, và ông không muốn mang sự đối kháng gần như cá nhân ấy vào sinh hoạt của Hội bộ. Đến đêm bầu cử, Ông Maitland đề cử tái bổ nhiệm Bác sĩ Kingsford, nhưng chỉ tìm được một hai người ủng hộ, khiến Bác sĩ Kingsford bộc lộ sự bực bội rất kém trang nghiêm. Ông Sinnett bấy giờ đứng lên đề cử Ông G. B. Finch, một luật sư tranh tụng thuộc Lincoln’s Inn, người trước đây từng là thủ khoa Toán tại Cambridge. Là một người vừa có năng lực vừa tử tế, ông rất được các hội viên mến mộ, và thực tế buổi họp hôm đó đang diễn ra trong một căn phòng dài thuộc phòng làm việc của ông tại Lincoln’s Inn. Ông lập tức được bầu với đa số áp đảo, rồi chúng tôi bổ nhiệm Ông Sinnett làm Thư ký và tiếp tục chương trình công việc của buổi tối.
Dr. Kingsford, however, was obviously ill pleased with the result of the election, and her continual interruptions were more exasperating than ever. The President-Founder himself was in the Chair, but did not seem quite to know how to deal with the lady, and the meeting was dragging along in a dreary and fruitless manner. The room, as I have said, was long, and the door by which we entered was in one side of it, but near the end remote from the platform. The room was filled with benches which were hired temporarily for the purpose of the meeting. Now, it happened that my friend Mr. Varley and I had been a few minutes late, entering the room just after the proceedings had begun. So we slipped into an empty bench just opposite that door, and there were only two or three members in our immediate neighbourhood, although the upper end of the room was crowded. Colonel Olcott and Mohini were trying their best to extract something sensible and useful from a very wearisome and unprofitable discussion, and I suppose that we at the other end of the room were not paying any very close attention to the proceedings; when suddenly and sharply the door opposite to us opened, and a stout lady in black came quickly in and seated herself at the outer end of our bench.Tuy nhiên, Bác sĩ Kingsford hiển nhiên không hài lòng với kết quả bầu cử, và những lần ngắt lời liên tiếp của Bà gây bực bội hơn bao giờ hết. Chính vị Chủ tịch-Sáng lập ngồi ghế chủ tọa, nhưng dường như không biết phải xử trí với vị phu nhân ấy ra sao, và buổi họp lê thê trong sự nhàm chán và vô ích. Căn phòng, như tôi đã nói, dài; cánh cửa chúng tôi đi vào nằm ở một bên phòng, gần cuối phía xa bục. Căn phòng đầy những băng ghế thuê tạm cho buổi họp. Lúc ấy, tôi và người bạn là Ông Varley đến muộn vài phút, bước vào ngay sau khi thủ tục đã bắt đầu. Thế là chúng tôi lách vào một băng ghế trống ngay đối diện cánh cửa ấy, và chỉ có hai ba hội viên quanh quẩn gần chỗ chúng tôi, dù đầu trên của căn phòng chật kín người. Đại tá Olcott và Mohini đang cố hết sức chắt lọc đôi điều hợp lý và hữu ích từ một cuộc tranh luận vừa mệt mỏi vừa vô bổ, và tôi đoán chúng tôi ở đầu kia của phòng cũng không chú ý sát sao lắm đến diễn tiến; thì bất thần cánh cửa đối diện chúng tôi bật mở, và một phu nhân đậm người, mặc đồ đen nhanh chóng bước vào, ngồi xuống đầu ngoài của băng ghế chúng tôi.

I Meet Our Founder—Tôi Gặp Vị Sáng lập của Chúng ta

She sat listening to the wrangling on the platform for a few minutes, and then began to exhibit distinct signs of impatience. As there seemed to be no improvement in sight, she then jumped up from her seat, shouted in a tone of military command the one word “Mohini!” and then walked straight out of the door into the passage. The stately and dignified Mohini came rushing down that long room at his highest speed, and as soon as he reached the passage threw himself incontinently flat on his face on the floor at the feet of the lady in black. Many people arose in confusion, not knowing what was happening; but a moment later Mr. Sinnett himself also came running to the door, went out and exchanged a few words, and then, re-entering the room, he stood up on the end of our bench and spoke in a ringing voice the fateful words: “Let me introduce to the London Lodge as a whole—Madame Blavatsky!”Bà ngồi nghe cuộc cãi vã trên bục vài phút, rồi bắt đầu tỏ những dấu hiệu sốt ruột rõ rệt. Thấy chẳng có gì tiến triển, Bà bật dậy khỏi ghế, hét bằng giọng mệnh lệnh quân sự một từ “Mohini!”, rồi đi thẳng qua cửa ra hành lang. Ông Mohini đường bệ và trang nghiêm liền lao nhanh hết tốc lực xuống căn phòng dài ấy, và vừa ra đến hành lang thì lập tức phủ phục sấp mặt xuống sàn dưới chân phu nhân mặc đồ đen. Nhiều người đứng bật dậy trong bối rối, không biết chuyện gì đang xảy ra; nhưng một khoảnh khắc sau, chính Ông Sinnett cũng chạy đến cửa, bước ra trao đổi vài lời, rồi quay vào phòng, ông đứng lên trên đầu băng ghế của chúng tôi và bằng giọng vang dội cất lời định mệnh: “Xin cho tôi giới thiệu với toàn thể Hội bộ London—Bà Blavatsky!”
The scene was indescribable; the members, wildly delighted and yet half-awed at the same time, clustered round our great Founder, some kissing her hand, several kneeling before her, and two or three weeping hysterically. After a few minutes, however, she shook them off impatiently, and was led up to the platform by Colonel Olcott, and after answering a few questions she demanded from him an explanation of the unsatisfactory character of the meeting upon which she had descended so abruptly. The Colonel and Mr. Sinnett explained as well as they could; but she summarily ordered them to close the meeting, and called upon the officials to meet her at once in conference. The members departed in a condition of wild excitement and the officials waited upon Madame Blavatsky in one of the adjacent living rooms.Quang cảnh không thể tả; các hội viên, vừa mừng khôn xiết vừa nửa phần kính sợ, túm tụm quanh Vị Sáng lập vĩ đại của chúng ta, có người hôn tay Bà, vài người quỳ trước Bà, và hai ba người khóc trong cơn kích động. Tuy nhiên, ít phút sau, Bà sốt ruột gạt họ ra, và được Đại tá Olcott dẫn lên bục; sau khi trả lời vài câu hỏi, Bà yêu cầu ông giải thích về tính chất không như ý của buổi họp mà Bà vừa đột ngột “giáng” xuống. Đại tá và Ông Sinnett giải thích trong khả năng của họ; nhưng Bà dứt khoát ra lệnh bế mạc cuộc họp, và yêu cầu các viên chức lập tức họp với Bà để hội ý. Các hội viên ra về trong trạng thái phấn khích tột độ, còn các viên chức thì chầu chực Bà Blavatsky trong một phòng sinh hoạt kế cận.
Now, as I had been invited to spend the night at Mr. Sinnett’s, I, though a new and insignificant member, had to stay behind along with the greater people; and so it happened that I was a witness of the very remarkable scene which followed. Madame Blavatsky demanded a full account of the condition of the Lodge, and of the differences between Mr. Sinnett and Dr. Kingsford; and having received it, she proceeded to rate both of them exactly as if they had been a pair of naughty schoolboys, and finally actually made them both shake hands before us all as a token that their differences were amicably settled! Nevertheless, she ordered that Dr. Kingsford should form a Lodge of her own, in which doctrines could be discussed exclusively from her point of view. This order was carried out in a few days, the new branch taking the title of the Hermetic Lodge. So far as I remember, I do not think that it ever had more than a very small number of members, and I fancy that it soon faded into extinction.Vì tôi được mời qua đêm tại nhà Ông Sinnett, nên tuy là một hội viên mới và nhỏ bé, tôi vẫn phải nán lại cùng với những vị lớn; và thế là tôi trở thành nhân chứng của cảnh tượng hết sức lạ lùng diễn ra sau đó. Bà Blavatsky yêu cầu tường trình đầy đủ về tình trạng của Hội bộ, và về những bất đồng giữa Ông Sinnett và Bác sĩ Kingsford; và khi đã nghe xong, Bà bắt đầu “sửa” cả hai người y như thể họ là hai cậu học trò nghịch ngợm, và rốt cuộc thực sự bắt họ bắt tay nhau trước mặt tất cả chúng tôi như một dấu hiệu rằng mâu thuẫn giữa họ đã được dàn xếp êm thắm! Tuy nhiên, Bà ra lệnh để Bác sĩ Kingsford lập một Hội bộ riêng, trong đó các giáo lý có thể được thảo luận độc quyền theo quan điểm của Bà. Lệnh này được thi hành trong vài ngày, chi bộ mới lấy tên là Hội bộ Hermetic. Theo như tôi nhớ, tôi không nghĩ nó bao giờ có nhiều hội viên hơn một con số rất nhỏ, và tôi đoán nó sớm tàn lụi.
Madame Blavatsky and Colonel Olcott both accompanied our party to Mr. Sinnett’s house, and stayed there until a late hour, Madame Blavatsky expressing vigorous condemnation of the inefficiency of the officials in not managing the meeting better. I was of course presented to her, and Mr. Sinnett took occasion to tell her of my letter to the spiritualistic journal Light on the subject of the spirit Ernest’s disavowal of our Masters. When she heard that little story she looked at me very searchingly and remarked:Bà Blavatsky và Đại tá Olcott đều tháp tùng đoàn chúng tôi đến nhà Ông Sinnett, và ở đó đến khuya, Bà Blavatsky kịch liệt khiển trách sự kém hiệu quả của các viên chức vì đã không điều hành buổi họp khá hơn. Tất nhiên tôi được giới thiệu với Bà, và Ông Sinnett nhân dịp kể với Bà về bức thư của tôi gửi tạp chí thần linh học Ánh Sáng về việc vong linh Ernest chối bỏ các Chân sư của chúng ta. Khi nghe câu chuyện nhỏ đó, Bà nhìn tôi rất săm soi và nhận xét:
“I don’t think much of the clergy, for I find most of them hypocritical, bigoted and stupid; but that was a brave action, and I thank you for it. You have made a good beginning; perhaps you may do something yet.”“Tôi không đánh giá cao giới giáo sĩ, vì tôi thấy phần lớn họ đạo đức giả, cố chấp và ngu muội; nhưng đó là một hành động can đảm, và tôi cảm ơn anh vì điều ấy. Anh đã có một khởi đầu tốt; có lẽ anh còn làm được điều gì đó nữa.”
You may be very sure that after that I missed no opportunity of attending any meeting at which she was present; and though I was far too shy to push myself forward and ask questions, I nevertheless listened eagerly to every word that fell from her lips, and I think that in that way I learnt a very great deal.Chắc chắn là từ dạo đó tôi không bỏ lỡ cơ hội nào để dự bất kỳ buổi họp nào có Bà hiện diện; và dù tôi quá rụt rè để tự đẩy mình lên và đặt câu hỏi, tôi vẫn lắng nghe háo hức từng lời thốt ra từ đôi môi Bà, và tôi nghĩ theo cách đó tôi đã học được rất nhiều.
I wish I could convey to my readers some adequate conception of what she was to me and to all of us who were so highly favoured as to come into close touch with her—of the truly tremendous impression that she made upon us, of the deep affection and the intense enthusiasm which she evoked.Ước gì tôi có thể truyền đạt cho độc giả một ý niệm đủ đầy về Bà đối với tôi và đối với tất cả chúng tôi—những người may mắn vô cùng được gần gũi với Bà—về ấn tượng thực sự khủng khiếp mà Bà khắc vào chúng tôi, về tình cảm sâu nặng và lòng nhiệt thành mãnh liệt mà Bà khơi dậy.
Only a few of us who knew her in her physical body are now left, and I think it is at once our duty and our privilege to try to pass on to our younger brethren at least a few ideas round which they can build their mental image of our great Founder, since their karma was not such as to permit them to see her in the flesh.Chỉ còn ít người trong chúng tôi, những người đã biết Bà trong thể xác, còn lại đến nay, và tôi nghĩ lập tức đó vừa là bổn phận vừa là đặc ân của chúng tôi, cố gắng truyền lại cho các huynh đệ trẻ ít ra vài ý niệm làm nền để họ xây dựng hình ảnh tâm trí về Vị Sáng lập vĩ đại của chúng ta, vì nghiệp của họ không cho phép họ được thấy Bà bằng xương bằng thịt.

Leave a Comment

Scroll to Top