Adyar at Last—Cuối Cùng Cũng Đến Adyar
| The Headquarters at which I arrived in the month of December, 1884, was very different from the palatial suite of buildings which now meets the view of the visitor as he drives in over the Elphinstone Bridge from Madras. Colonel Olcott had bought the property just two years before that, and had not yet begun the series of alterations and extensions which were presently so entirely to transform the buildings. The estate then comprised twenty-seven acres, and the house was of the ordinary Anglo-Indian type—not large, but well built and commodious. It was flanked by two small octagonal garden pavilions of two rooms each, and it had the usual stables and outbuildings—supplemented, however, by a swimming-bath. We have, unfortunately, no good photographs of the house as it was then, though there exists a small print cut out of some old magazine which gives a partial view, and some of the early Convention photographs show little bits of the building. | Trụ sở nơi tôi đặt chân tới vào tháng Mười Hai năm 1884 rất khác với quần thể công trình nguy nga mà nay phô bày trước mắt khách thăm khi xe chạy qua Cầu Elphinstone từ Madras. Đại tá Olcott chỉ mới mua bất động sản ấy hai năm trước đó, và vẫn chưa khởi công chuỗi cải tạo và mở rộng vốn về sau đã hoàn toàn biến đổi các tòa nhà. Khi ấy, điền trang có hai mươi bảy mẫu Anh, và ngôi nhà thuộc kiểu Anglo-Ấn điển hình—không lớn, nhưng xây chắc và tiện dụng. Hai bên nhà là hai thuỷ tạ nhỏ hình bát giác trong vườn, mỗi cái hai phòng, và có đủ chuồng ngựa, nhà phụ như thường lệ—nhưng còn có thêm một bể bơi. Tiếc rằng chúng ta không có bức ảnh nào ra hồn về ngôi nhà như thuở ấy, tuy có một tấm in nhỏ cắt từ một tạp chí cũ cho thấy một phần quang cảnh, và vài bức ảnh chụp các kỳ Đại hội ban đầu cho thấy đôi mảng của tòa nhà. |
| When I first saw it, it possessed on the ground floor a square central hall, on each side of which were two comfortable rooms. At the back of the hall was a sort of ante-room, and then a large chamber, evidently intended to be the main drawing-room, which ran almost the whole length of the house and opened out on to a broad terrace overlooking the Adyar River. That room was being used as the office for the Recording Secretary of the Society and the Manager of The Theosophist, and we also kept there our little store of books for sale, the nucleus out of which has grown the extensive business of The Theosophical Publishing House of the present day. | Khi lần đầu thấy nó, tầng trệt có một đại sảnh vuông ở trung tâm, hai bên là hai căn phòng tiện nghi. Phía sau đại sảnh là một kiểu tiền phòng, rồi đến một gian lớn, hiển nhiên định làm phòng khách chính, chạy dài gần suốt chiều dài ngôi nhà và mở ra một sân thượng rộng nhìn xuống sông Adyar. Căn phòng ấy lúc đó được dùng làm văn phòng cho Thư ký Ghi chép của Hội và Quản lý của The Theosophist , và chúng ta cũng để ở đó một kho sách nhỏ để bán—hạt nhân từ đó đã nảy nở thành hoạt động rộng lớn của The Theosophical Publishing House ngày nay. |
| As is usual in India, the whole of the house was covered by a flat cemented roof. Upon this roof, when the house came into possession of the Society, there was one large room (now divided into two bedrooms), and on the way down the stairs a very small one in which Damodar lived—a sort of eyrie, with a window looking west towards the great bridge. Madame Blavatsky had at first occupied the large room upon the roof, but was not altogether satisfied with it, so during her absence in Europe in 1884 another room was erected for her at the north-east corner of the roof, and it was in this latter that she took up her residence when we arrived there at the end of 1888. Colonel Olcott was at that time living in one of the garden pavilions—that on the eastern side of the main building; Dr. Franz Hartmann occupied the octagonal room, and Colonel Olcott had established himself in the oblong room just behind it. On our arrival from Europe we found all the available accommodation occupied, and indeed overcrowded; so that for a night or two I was honoured by being allowed to sleep upon a settee in the Colonel’s room. | Như thường thấy ở Ấn Độ, toàn bộ ngôi nhà lợp mái phẳng trát xi măng. Trên mái ấy, khi ngôi nhà về tay Hội, có một phòng lớn (nay đã chia thành hai phòng ngủ), và trên lối cầu thang đi xuống có một phòng rất nhỏ nơi Damodar ở—tựa một tổ chim, có cửa sổ nhìn về phía tây hướng tới cây cầu lớn. Lúc đầu Bà Blavatsky ở căn phòng lớn trên mái, nhưng Bà không hoàn toàn vừa ý, nên trong thời gian Bà sang châu Âu năm 1884, một căn phòng khác được dựng cho Bà ở góc đông bắc của mái, và chính vào căn sau này mà Bà dọn vào ở khi chúng ta trở lại đó vào cuối năm 1888. Khi ấy Đại tá Olcott sống trong một thuỷ tạ ở vườn—cái phía đông của tòa nhà chính; Bác sĩ Franz Hartmann ở căn phòng bát giác, còn Đại tá Olcott thì ở căn phòng hình chữ nhật ngay phía sau. Khi chúng ta từ châu Âu tới nơi, thấy mọi chỗ ở sẵn có đều đã có người ở, thậm chí là quá tải; đến nỗi một hai đêm tôi được vinh hạnh cho ngủ trên một chiếc ghế dài trong phòng của Đại tá. |
| I remember waking in the middle of one night and seeing a tall figure carrying a lantern standing by the Colonel’s bedside, which surprised me somewhat, as I knew that the door had been locked. I half raised myself in bed, but as I saw that the visitor had aroused the Colonel, who apparently recognized him, I sank back reassured. After a few moments of earnest conversation the figure suddenly vanished—which was the first intimation to me that he was not an ordinary physical-plane visitant. As the Colonel, who had raised himself in bed, promptly lay down and went to sleep again, it occurred to me that I had better do likewise; but in the morning I ventured respectfully to tell the Colonel what I had seen. He informed me that the messenger was Djwal Kul—now a member of the Great Brotherhood, but then the principal pupil and lieutenant of the Master Kuthumi—the same whom I had already seen in the Hotel d’Orient at Cairo, though in this case the light was not strong enough to enable me to recognize him. | Tôi nhớ đã thức giấc giữa đêm và thấy một bóng người cao lớn cầm đèn đứng bên giường Đại tá, điều ấy làm tôi hơi ngạc nhiên, vì tôi biết cửa đã khóa. Tôi nửa chồm dậy, nhưng thấy người khách đã đánh thức Đại tá, và dường như ông nhận ra vị ấy, tôi bèn yên tâm nằm xuống lại. Sau ít phút đàm thoại khẩn thiết, bóng người bỗng biến mất—đó là dấu hiệu đầu tiên cho tôi biết vị ấy không phải là một khách viếng thăm thuộc cõi hồng trần thông thường. Vì Đại tá, người vừa nhỏm dậy trên giường, liền nằm xuống và ngủ tiếp, nên tôi nghĩ tốt hơn mình cũng nên làm theo; nhưng sáng hôm sau, tôi mạn phép kính cẩn thuật lại với Đại tá điều tôi đã thấy. Ông cho tôi hay rằng sứ giả ấy là Chân sư Djwal Kul—nay là một thành viên của Thánh đoàn, nhưng hồi ấy là môn đồ chính và phụ tá của Chân sư Kuthumi—vị tôi đã thấy ở Khách sạn d’Orient tại Cairo, tuy lần này ánh sáng không đủ mạnh để tôi nhận ra Ngài. |
| A little later in the year, when Madame Blavatsky left for Europe, Colonel Olcott, by her desire, took possession of the new room which had been built for her at the corner of the roof, and it has ever since been occupied by the President of the Society. The alterations which have since been made in the Headquarters building are of so radical a character that it is practically impossible for the visitor at the present time to reconstruct in his mind the house as it used to be; and even those of us who knew it in those earlier days find it difficult to trace the old landmarks. | Ít lâu sau trong năm, khi Bà Blavatsky sang châu Âu, Đại tá Olcott, theo ý Bà, dọn vào căn phòng mới đã dựng cho Bà ở góc mái, và từ đó đến nay căn phòng ấy luôn do Hội trưởng của Hội sử dụng. Những sửa đổi về sau được thực hiện trong tòa nhà Trụ sở mang tính cách mạng đến nỗi hầu như hiện nay khách viếng chẳng thể nào tái dựng trong tâm trí hình dáng ngôi nhà như xưa; và ngay cả những người trong chúng ta từng biết nó thuở ban đầu cũng thấy khó mà lần theo các mốc cũ. |
The Headquarters Hall—Đại Sảnh của Trụ Sở
| It was in the next year, 1885, that Colonel Olcott made his first great alteration, for the purpose of providing a permanent hall in which the Convention meetings could be held. The Convention of 1884, which was just about to commence when I arrived, was held in what is called a pandal—a huge temporary hall with walls and roof of palm-leaves; and it was the many inconveniences attached to this, as well as the expense of it, which had determined the Committee of the Society to sanction the construction of a more durable erection. As is usual in the Theosophical Society, the great difficulty that confronted us was the everlasting financial problem. To build a hall at all adequate for our purposes would even in those days of long ago have cost at least £1000, and nothing like that sum was forthcoming. | Vào năm sau, 1885, Đại tá Olcott thực hiện cuộc cải tạo lớn đầu tiên, nhằm xây dựng một đại sảnh thường trực để tổ chức các kỳ Đại hội. Đại hội năm 1884, vừa sắp bắt đầu khi tôi tới nơi, được tổ chức trong cái gọi là một pandal —một đại sảnh tạm bợ khổng lồ với tường và mái bằng lá cọ; và chính những bất tiện muôn mặt gắn với nó, cũng như chi phí của nó, đã khiến Ủy ban của Hội quyết định phê chuẩn việc xây dựng một công trình bền vững hơn. Như vẫn thường trong Hội Thông Thiên Học, khó khăn lớn nhất trước mắt chúng ta là bài toán tài chính triền miên. Để xây một đại sảnh đủ đáp ứng mục đích của chúng ta, ngay cả vào những ngày xa xưa ấy, cũng phải tốn ít nhất £1000, và số tiền tương tự hoàn toàn không thể kiếm đâu ra. |
| But Colonel Olcott’s ingenuity was equal to the occasion; he devised a plan by which we obtained a fine and convenient hall, quite sufficient for our needs, for about one-sixth of that estimate. Along the front of the house—in front of the square hall previously described and of the rooms on each side of it—ran the usual wide Indian veranda, perhaps a hundred feet long and about fourteen feet in width. In the centre of that projected a porte-cochère under which ran the drive leading up to the house. The floor of this veranda was some feet above the level of the drive, and Colonel Olcott carried out that raised floor to the edge of the portico, and then extended it along in both directions until he had doubled the width of his veranda. He raised the roof about six feet, built a wall on the other side of his extended veranda, and then made a new porch and deflected the carriage-drive to meet it. | Nhưng óc sáng tạo của Đại tá Olcott đã kịp thời phát huy; ông nghĩ ra một phương án giúp chúng ta có được một đại sảnh đẹp và thuận tiện, hoàn toàn đủ cho nhu cầu, với chi phí chỉ vào khoảng một phần sáu con số ước tính ấy. Suốt dọc mặt tiền ngôi nhà—trước đại sảnh vuông đã mô tả và các phòng hai bên—là một hiên rộng kiểu Ấn, dài chừng trăm bộ và rộng khoảng mười bốn bộ. Ở giữa nhô ra một porte-cochère , bên dưới là lối xe chạy vào nhà. Nền của hiên này cao hơn lối xe vài bộ, và Đại tá Olcott đã đổ nền nâng cao ấy ra đến mép tiền sảnh, rồi kéo dài theo cả hai phía cho đến khi chiều rộng hiên được nhân đôi. Ông nâng mái thêm chừng sáu bộ, xây một bức tường ở phía ngoài của hiên đã mở rộng, rồi làm một tiền sảnh mới và uốn lối xe ngựa để trổ vào đó. |
| In this way he provided us with a hall shaped like the letter T—the double-width veranda forming the cross piece, and the original square hall, with the ante-room thrown into it, forming the central stroke. The platform for speakers was placed in the centre of the long arm, facing into the old square hall, so that the speakers had that hall in front of them and the new extension on each side of them. This hall was for many years used for our public meetings; it is supposed to seat 1500 people comfortably, but on several occasions 2300 have been squeezed into it; and even then so many people had to be turned away that for some years now we have given up the endeavour to accommodate the crowd in-doors and have held our public meetings under the branches of the big banyan tree at Blavatsky Gardens. | Bằng cách này, ông đã tạo cho chúng ta một đại sảnh hình chữ T—phần hiên có bề rộng gấp đôi tạo thành thanh ngang, còn đại sảnh vuông nguyên thủy, với tiền phòng nhập vào, tạo thành nét dọc trung tâm. Bục dành cho diễn giả được đặt ở giữa nhánh dài, hướng vào đại sảnh vuông cũ, để các diễn giả có đại sảnh cũ trước mặt, và phần mở rộng mới ở hai bên. Đại sảnh này trong nhiều năm được dùng cho các buổi họp công khai của chúng ta; người ta cho rằng nó có thể xếp ghế thoải mái cho 1500 người, nhưng đã có vài lần 2300 người được “nén” vào đó; và ngay cả khi ấy vẫn còn quá nhiều người phải quay về, đến nỗi từ vài năm trước chúng ta đã thôi cố nhồi nhét đám đông vào trong nhà và tổ chức các buổi họp công cộng dưới tán đa lớn ở Vườn Blavatsky. |
My First Convention—Đại Hội Đầu Tiên của Tôi
| It may be imagined with what enormous enthusiasm I entered upon my first Theosophical Convention—what it was to me to find myself at last upon the sacred soil of India, among the dark-skinned brothers of whom I had heard so much—any one of whom might, for all I knew, be a pupil of one of our holy Masters—all of whom, I thought, must at any rate have been from childhood students of the Sacred Lore, knowing far more about it all than we Westerns could know. I was fully prepared to see the best in everybody and to make the best of everything; I met with the most kindly welcome from everyone with whom I came in contact, and consequently enjoyed myself immensely. The number and the variety of the new impressions which I received were so great as to be somewhat overwhelming; indeed, I recollect but vaguely the lectures which were delivered and the then unknown brethren who delivered them. The principal subject of discussion was the unspeakably shameful attack upon Madame Blavatsky which had been made by some people calling themselves Christian missionaries—though nothing could possibly have been more utterly un-Christian than the campaign of falsehood and slander upon which they so eagerly and maliciously entered. | Có thể hình dung tôi đã nhập vào kỳ Đại hội Thông Thiên Học đầu tiên của mình với nhiệt huyết lớn lao nhường nào—điều ấy đối với tôi là gì khi rốt cuộc được đứng trên thổ ngơi thiêng liêng của Ấn Độ, giữa những huynh đệ da sậm mà tôi đã nghe nói đến biết bao—mỗi người trong số họ, theo hiểu biết ít ỏi của tôi, đều có thể là một môn đồ của một trong các Chân sư thánh thiện của chúng ta—và, tôi nghĩ, tối thiểu thì tất cả họ hẳn đã từ thuở nhỏ là những người học hỏi Thánh điển, biết nhiều về mọi điều ấy hơn chúng ta, những người phương Tây, có thể biết. Tôi đã chuẩn bị trọn vẹn để thấy điều tốt nhất nơi mọi người và làm điều tốt nhất trong mọi việc; tôi được tất cả những người tôi gặp gỡ chào đón bằng thiện chí lớn lao, và vì thế vô cùng hân hoan. Số lượng và sự đa dạng của những ấn tượng mới tôi thu nhận được lớn đến mức phần nào khiến tôi bị choáng ngợp; thực vậy, tôi chỉ nhớ lơ mơ những bài thuyết giảng đã trình bày và các vị huynh đệ khi ấy còn xa lạ là những người trình bày chúng. Đề tài chính được bàn thảo là cuộc công kích đáng hổ thẹn không bút nào tả xiết nhằm vào Bà Blavatsky do một số người tự xưng là nhà truyền giáo Cơ Đốc phát động—dẫu không thể có gì trái ngược với tinh thần Cơ Đốc đến tột cùng hơn chiến dịch dối trá và vu khống mà họ hăm hở và độc địa dấn thân vào. |
| I soon found that there was much difference of opinion as to the best way of meeting these loathsome libels. Madame Blavatsky herself was full of vivid indignation and was most anxious to prosecute her slanderers for libel. Many of her friends and admirers heartily agreed with her in this; but it happened that among our most prominent Indian members we had a large number of judges, of eminent lawyers and of statesmen belonging to the various semi-independent Indian kingdoms; and all these men with one accord advised her strongly against taking any such course. They knew well the extreme bitterness of Anglo-Indian feeling against the Theosophical Society, and they declared that it was absolutely impossible that Madame Blavatsky could obtain justice or that the trial would be conducted with ordinary fairness. I was myself in no position to offer an opinion in this matter, so I need say nothing further about it here, but I should like to refer my readers to the third volume of Colonel Olcott’s Old Diary Leaves, pp. 190-195, where they will find full reasons given for the conclusions at which the Committee of Councillors arrived. | Tôi chẳng bao lâu nhận ra rằng có nhiều ý kiến khác nhau về cách tốt nhất để ứng phó với những lời phỉ báng ghê tởm ấy. Bản thân Bà Blavatsky tràn đầy phẫn nộ sôi nổi và rất mong được khởi tố bọn vu khống về tội phỉ báng. Nhiều người bạn và người ngưỡng mộ Bà hết lòng đồng tình; nhưng trùng hợp là giữa những hội viên Ấn Độ nổi bật nhất của chúng ta khi ấy có một số đông các vị thẩm phán, luật gia danh tiếng và các chính khách thuộc những tiểu vương quốc Ấn Độ bán tự trị; và tất cả các vị ấy đồng thanh tha thiết khuyên Bà đừng chọn con đường đó. Họ hiểu rõ sự cay độc tột độ của giới Anh-Ấn đối với Hội Thông Thiên Học, và quả quyết rằng Bà Blavatsky tuyệt đối không thể mong đợi công lý hay mong phiên xử được tiến hành với sự công bằng thông thường. Bản thân tôi không ở vị thế đưa ra ý kiến trong việc này, nên chẳng cần nói gì thêm ở đây, nhưng tôi muốn giới thiệu độc giả tìm đọc tập ba của Old Diary Leaves của Đại tá Olcott, trang 190-195, nơi có nêu đầy đủ các lý do dẫn đến kết luận mà Ủy ban các Ủy viên Hội đồng đã đi đến. |
| Another consideration which I think weighed very heavily in this decision was that it would be quite impossible to prevent the enemy from bringing up in court the whole question of the existence of our holy Masters, so that Their names would be exposed to the coarse ribaldry of utterly unscrupulous slanderers, whose only object would be to cause as much pain as possible to those who loved and followed Them. It was felt that such sacrilegious comment would arouse such widespread horror and indignation among all decent Hindus that it would be better to endure any amount of vilification than to set in motion so terrible a stream of filth. Colonel Olcott (having himself been a lawyer) threw the weight of his influence strongly on the side of this more sagacious party, and finally Madame Blavatsky very reluctantly consented to abide by their decision. | Một yếu tố khác, theo tôi, cũng nặng ký trong quyết định này là không thể nào ngăn kẻ đối nghịch lôi ra tòa toàn bộ vấn đề về sự hiện hữu của các Chân sư thánh thiện của chúng ta, khiến tên Các Ngài sẽ bị phơi ra cho bọn phỉ báng vô lương thóa mạ thô tục, mà mục đích duy nhất của chúng chỉ là gây đau đớn nhiều nhất có thể cho những ai yêu kính và theo Các Ngài. Người ta cảm thấy rằng những lời báng bổ như thế sẽ gây nên sự ghê tởm và phẫn nộ lan rộng nơi mọi người Ấn Độ lương thiện đến mức thà chịu bất kỳ sự vu vạ nào còn hơn là khơi dậy một dòng lũ ô uế khủng khiếp như vậy. Đại tá Olcott (bản thân từng là luật sư) đã đặt trọng lực ảnh hưởng của mình mạnh mẽ về phía nhóm sáng suốt hơn này, và rốt cuộc Bà Blavatsky, hết sức miễn cưỡng, đã ưng thuận tuân theo quyết định của họ. |
| Many of those whose names stand forth most prominently in my memories of that 1884 Convention have now passed away from among us, and to mention them here would be merely to compile a list of names, most of them little known to the present generation of Theosophists. They appear in our President-Founder’s Old Diary Leaves, and photographs of many of them are to be seen in the series of memoirs of “Theosophical Worthies” which appeared some years ago in The Theosophist, and also in Mr. C. Jinarājadāsa’s monumental work The Golden Book of The Theosophical Society. Many of them were men of high station and noble reputation, and I esteem it an honour to have known them even slightly. The Recording Secretary at that time was a young Mahratta Brahman, Damodar Keshub Mavalankar, and as far as I remember he and a certain southern Brahman were the only young men who took any prominent part in the work, though many hundreds of students attended the public meetings. | Nhiều người mà tên tuổi nổi bật nhất trong ký ức của tôi về kỳ Đại hội năm 1884 ấy nay đã rời xa chúng ta, và nếu kể ra đây thì cũng chỉ là liệt kê một danh sách tên gọi, phần nhiều ít được biết đến với thế hệ Hội viên Thông Thiên Học ngày nay. Họ xuất hiện trong Old Diary Leaves của vị Hội trưởng-Khai sáng của chúng ta, và ảnh của nhiều vị có thể thấy trong loạt hồi ký “Theosophical Worthies” từng đăng cách đây mấy năm trên The Theosophist , và cũng trong công trình đồ sộ của Ông C. Jinarājadāsa, The Golden Book of The Theosophical Society . Nhiều vị là những con người ở địa vị cao sang và thanh danh cao quý, và tôi coi là vinh hạnh dù chỉ được biết các vị đôi chút. Vị Thư ký Ghi chép khi ấy là một Bà-la-môn người Mahratta trẻ tuổi, Damodar Keshub Mavalankar, và theo tôi nhớ thì ông cùng một vị Bà-la-môn miền Nam là những người trẻ duy nhất tham gia nổi bật vào công việc, dẫu có hàng trăm sinh viên dự các buổi họp công khai. |
| This young southern Brahman was something of a mystery; I understand that his real name was M. Krishnamachari, but at the period of which I am writing he was commonly known as Babaji (or Bawaji) Darbhagiri Nath. Now, that is a northern name and not a southern; and it would seem from a reference in one of Mr. Sinnett’s books that there really was a Babaji Darbhagiri Nath in the north of India who had some part in the earlier history of the Society; but he was certainly not the same person whom I saw at Adyar, for he is described as a large and portly person, whereas this young man was almost a dwarf. He seemed then deeply devoted to Madame Blavatsky, and when she went to Europe a little later he was one of those who accompanied her; but afterwards he turned against her for some unknown reason and attacked her in the grossest manner. I remember that Madame Blavatsky wrote a letter to me in which she complained bitterly of the wickedness and malignity of his action; and the Master Kuthumi annotated that letter in the course of its transmission through the post (as They often used to do in those days), and spoke of the little man as having failed. | Vị Bà-la-môn trẻ tuổi miền nam này là một điều gì đó đầy bí ẩn; tôi được biết tên thật của y là M. Krishnamachari, nhưng vào thời kỳ mà tôi đang thuật lại, y thường được gọi là Babaji (hoặc Bawaji) Darbhagiri Nath. Nay, đó là một cái tên miền bắc chứ không phải miền nam; và dường như theo một chỗ dẫn trong một trong các sách của Ông Sinnett thì thực sự có một Babaji Darbhagiri Nath ở miền bắc Ấn Độ, người đã có dự phần nào đó trong buổi đầu lịch sử của Hội; nhưng chắc chắn ông ta không phải là người mà tôi thấy tại Adyar, vì ông ta được mô tả là một người to lớn, đẫy đà, trong khi chàng thanh niên này thì hầu như thấp lùn. Hồi ấy y có vẻ hết mực sùng kính Bà Blavatsky, và khi Bà đi châu Âu ít lâu sau đó, y là một trong những người tháp tùng Bà; nhưng về sau, vì một lý do không ai biết, y quay lại chống Bà và công kích Bà theo cách thô bỉ nhất. Tôi nhớ Bà Blavatsky đã viết cho tôi một bức thư, trong đó Bà cay đắng than phiền về sự độc ác và ác tâm trong hành động của y; và Chân sư KH đã chú giải bức thư ấy trong lúc nó đang được chuyển qua đường bưu điện (như Các Ngài vẫn thường làm hồi ấy), và nói về người đàn ông nhỏ bé ấy như là đã thất bại. |
| For some reason or other both this young man and Damodar wore during that 1884 Convention a very curious costume, consisting chiefly of a sort of long coat of silk, slashed in alternate gores of blue and white. Naturally the rumour went round that this was some kind of uniform prescribed for the chelas of the Masters! But I have never seen anybody wearing it since. | Vì một lý do nào đó, cả chàng trai này lẫn Damodar trong kỳ Đại hội năm 1884 đều mặc một trang phục rất lạ, chủ yếu là một loại áo khoác dài bằng lụa, chẻ tà xen kẽ những mảng xanh lam và trắng. Tự nhiên lời đồn lan ra rằng đó là một kiểu đồng phục nào đó được ấn định cho các đệ tử của các Chân sư! Nhưng từ đó đến nay tôi chưa từng thấy ai mặc lại nó. |
A Visit to Burma—Một Chuyến Thăm Miến Điện
| Soon after the Convention was over Colonel Olcott asked me to accompany him on an expedition to introduce Theosophy to Burma. I believe that he had received a message of invitation from King Theebaw, or at any rate an intimation that the King was curious to see a white man who had become a Buddhist, and that a visit from him would be welcome. We therefore engaged a passage on the British India steamer Asia to Rangoon. The British India steamers of that period were not what they are to-day, and the Asia was a boat of some 1200 or 1300 tons only. In those days they did not run directly to Rangoon, but called on the way at Masulipatam, Cocanada, Vizagapatam and Bimlipatam, turning only at this last place to run straight across the bay. | Ngay sau khi Đại hội kết thúc, Đại tá Olcott đề nghị tôi tháp tùng Ông trong một chuyến đi để giới thiệu Thông Thiên Học tại Miến Điện. Tôi tin rằng Ông đã nhận được một thông điệp mời từ Vua Theebaw, hoặc ít nhất là một ám chỉ rằng Nhà Vua hiếu kỳ muốn gặp một người da trắng đã trở thành Phật tử, và rằng một chuyến viếng thăm của Ông sẽ được hoan nghênh. Do đó, chúng tôi đặt chỗ trên tàu hơi nước của British India mang tên Asia đi Rangoon. Những tàu của British India thời đó không như ngày nay, và Asia chỉ là một con tàu cỡ 1200 hoặc 1300 tấn. Thuở ấy tàu không chạy thẳng đến Rangoon, mà ghé qua Masulipatam, Cocanada, Vizagapatam và Bimlipatam, chỉ đến bến cuối cùng này mới bẻ lái chạy thẳng băng qua vịnh. |
| The Captain of the Asia at that time was an old school-fellow of mine, (the same from whom I first heard of Madame Blavatsky), and I was glad to have the opportunity of sailing with him. I remember that he told us that the best cabin on the ship was No. 11, and he advised us to book that for ourselves, which we did. | Thuyền trưởng của tàu Asia khi ấy là một bạn học cũ của tôi (cũng chính người đầu tiên cho tôi hay về Bà Blavatsky), và tôi mừng vì có cơ hội đi biển với Ông. Tôi nhớ Ông nói với chúng tôi rằng ca-bin tốt nhất trên tàu là số 11, và khuyên chúng tôi tự đặt ca-bin đó, thế là chúng tôi làm theo. |
A Curious Little Fact—Một Sự Kiện Nhỏ Lạ Lùng
| But here came in an instance of a trifling but curious little phenomenon, which seemed to haunt the Colonel. His discussions with Indian pandits had immensely impressed him with the importance of the sacred number seven; and the result was that he was always watching for the occurrence of this number in all sorts of small matters of daily life. One might have smiled at it as a harmless little superstition, but for the fact that the number in question really did haunt him in the most extraordinary way. In The Theosophist for March, 1892, he writes about Madame Blavatsky: | Nhưng đây lại có một ví dụ về một hiện tượng nhỏ nhặt mà lạ lùng, dường như cứ ám theo Đại tá. Những cuộc bàn luận của Ông với các luận sư Ấn Độ đã khiến Ông cực kỳ ấn tượng với tầm quan trọng của con số bảy thiêng liêng; và kết quả là Ông luôn dõi tìm sự xuất hiện của con số này trong đủ mọi chuyện nhỏ nhặt của đời sống hằng ngày. Người ta có thể mỉm cười mà xem đó như một chút mê tín vô hại, nếu không vì thực tế là con số ấy quả thật đã ám Ông theo cách kỳ lạ nhất. Trong The Theosophist số tháng Ba, 1892, Ông viết về Bà Blavatsky: |
| I notice in Mr. Sinnett’s book the coincidence that she arrived at New York on the 7th July, 1873, that is to say on the seventh day of the seventh month of her forty-second year (6×7), and that our meeting was postponed until I attained my forty-second year. And it must also be remarked that she died in the seventh month of the seventeenth year of our Theosophical relationship. Add to this the further fact that Mrs. Annie Besant came to H. P. B. as an applicant for membership in the seventh month of the seventeenth year after her final withdrawal from Christian communion (and when Mrs. Besant herself was forty-two) and we have here a pretty set of coincidences to bear in mind. My own death when it comes will no doubt occur on a day that will accentuate the fatefulness of the number seven in the history of our Society and of its two founders. | Tôi để ý trong sách của Ông Sinnett có sự trùng hợp là Bà đặt chân đến New York vào ngày 7 tháng Bảy, 1873, nghĩa là vào ngày thứ bảy của tháng thứ bảy trong năm thứ bốn mươi hai đời Bà (6×7), và cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi bị hoãn lại cho đến khi tôi bước sang năm thứ bốn mươi hai đời mình. Cũng phải lưu ý rằng Bà qua đời vào tháng thứ bảy của năm thứ mười bảy trong mối tương giao Thông Thiên Học giữa chúng tôi. Thêm vào đó là sự thật nữa: Bà Annie Besant tìm đến H. P. B. xin gia nhập vào tháng thứ bảy của năm thứ mười bảy kể từ khi Bà dứt khoát rút khỏi sự hiệp thông Kitô giáo (và khi chính Bà Besant bốn mươi hai tuổi), thì ở đây chúng ta có một chuỗi trùng hợp đáng ghi nhớ. Cái chết của riêng tôi, khi đến, ắt hẳn cũng sẽ rơi vào một ngày càng làm nổi bật tính định mệnh của con số bảy trong lịch sử của Hội chúng ta và của hai đấng sáng lập Hội. |
| His prophecy was accurately fulfilled, for he died at seventeen minutes past seven on the morning of February 17th, 1907. | Lời tiên liệu của Ông đã ứng nghiệm chính xác, vì Ông mất lúc bảy giờ mười bảy phút sáng ngày 17 tháng Hai, 1907. |
| But, as I have already said, the number absolutely haunted him in ordinary life in a quite amusing way. I have travelled with him frequently, and it’s an actual fact that he could hardly ever take a railway ticket or even a tramway ticket which did not contain the number seven; and if by some strange chance the number itself did not appear, then the digits of the number would add up to seven or to a multiple of seven. In the case to which I have just referred we applied for cabin number 11, and it was duly entered on our tickets; but when we came down to the ship on the day of sailing my friend the Captain met us with profuse apologies that by some mistake Cabin 11 had been booked twice over, and that consequently we had been transferred to—number seven! | Nhưng, như tôi đã nói, con số ấy tuyệt đối ám Ông trong đời sống thường ngày theo một cách thật khôi hài. Tôi đã đi cùng Ông nhiều lần, và sự thật là hầu như Ông không thể mua một vé tàu hỏa hay thậm chí vé xe điện nào mà không có con số bảy; và nếu do một cơ may kỳ lạ nào đó con số ấy không hiện ra, thì tổng các chữ số của số vé lại cộng thành bảy hoặc bội số của bảy. Trong trường hợp tôi vừa nhắc, chúng tôi xin ca-bin số 11, và nó đã được ghi chính thức trên vé; nhưng khi xuống tàu vào ngày khởi hành, người bạn là Thuyền trưởng của tôi vội vã ra đón với lời xin lỗi rối rít rằng vì một nhầm lẫn nào đó, ca-bin số 11 đã bị đặt trùng, và hậu quả là chúng tôi đã được chuyển sang—số bảy! |
| Again I remember that on that same expedition we lost our way one day when out walking in the suburbs of Rangoon, and presently, coming in sight of a policeman standing at a junction where two roads crossed, the Colonel remarked that we would ask for a direction from him. But as we came up to the man the Colonel whispered aside to me “Regardez le numero”; I looked at the number on the man’s cap, and laughed to see that it was 77. I do not in the least know what this curious little phenomenon meant or how it was arranged; but I can certainly testify that it was a fact; and the Colonel, although he laughed at it, yet half believed in it as an indication of good fortune. For when we jumped into a tramcar bearing this mystic number or some repetition of it, he would say: “Ha! now I know we are going to have a good meeting!” | Lại nữa, tôi nhớ trong cùng chuyến đi ấy, có một ngày chúng tôi lạc đường khi đi dạo ở ngoại ô Rangoon, và rồi, trông thấy một viên cảnh sát đứng tại một ngã tư nơi hai con đường cắt nhau, Đại tá nói rằng chúng tôi sẽ hỏi đường ông ta. Nhưng khi đến gần, Đại tá thì thầm với tôi: “Hãy để ý con số”; tôi nhìn con số trên mũ của người kia và bật cười khi thấy đó là 77. Tôi hoàn toàn không biết hiện tượng nhỏ lạ lùng này có ý nghĩa gì hay nó được sắp đặt thế nào; nhưng tôi có thể xác nhận chắc chắn rằng đó là sự thật; và Đại tá, dẫu bật cười, vẫn nửa tin rằng đó là một dấu hiệu may mắn. Vì hễ khi chúng tôi nhảy lên một chiếc xe điện mang con số huyền bí ấy hoặc một biến thể lặp lại của nó, Ông lại nói: “À ha! giờ thì tôi biết chúng ta sẽ có một buổi họp tốt đẹp!” |
Our Life in Burma—Đời Sống Của Chúng Tôi Ở Miến Điện
| The charm operated in the case of our voyage to Burma, for it was very pleasant, and our stay in the country was interesting and successful. Rangoon was a very different city then from what it is to-day; practically the entire town consisted of wooden houses. We stayed, I remember, with a certain Moung Htoon Oung, who lived at what was then the top of Phayre Street, and I used to go long walks through the jungle to the suburbs of Kemmendine and Insein, on one of which I had the curious experience of coming face to face with an animal of the leopard tribe, who looked at me with blazing eyes for what seemed many minutes, although it was probably really about thirty seconds, before he decided that I was harmless and went peaceably on his way. | “Bùa” ấy cũng linh nghiệm trong chuyến đi Miến Điện, vì chuyến hải trình rất thú vị, và thời gian lưu trú của chúng tôi ở xứ ấy vừa lý thú vừa thành công. Rangoon khi đó rất khác so với ngày nay; hầu như cả thành phố gồm toàn nhà gỗ. Tôi nhớ chúng tôi ở nhà một vị tên Moung Htoon Oung, cư ngụ nơi khi ấy là đầu đường Phayre, và tôi thường đi dạo đường dài xuyên rừng rậm tới ngoại ô Kemmendine và Insein; trong một lần như thế, tôi đã có một trải nghiệm lạ lùng là đối mặt với một con thú thuộc họ báo, nó nhìn tôi bằng đôi mắt rực lửa suốt quãng thời gian tưởng như nhiều phút, dẫu có lẽ thật ra chỉ chừng ba mươi giây, trước khi nó quyết rằng tôi vô hại và thản nhiên tiếp tục đường nó đi. |
| We found that a great deal of interest was aroused by the Colonel’s exposition of Buddhism. Quite a number of Burmese gentlemen gathered each evening at the rooms of our host, and we frequently had useful and entertaining discussions. The interest exhibited, however, was not confined to the natives of the country. There was also a considerable Tamil population; and just as the Colonel could talk fluently and instructively to the Burmese about Buddhism, so could he speak equally well to the Tamil population about Hinduism; in just the same way I have heard him descant by the hour to a Parsi audience about Zoroastrianism; and as it was quite obvious that he was by no means a scholar, in the ordinary sense of the word, with regard to any of the Oriental Scriptures, I once asked him how it was that, without that detailed knowledge, he was nevertheless so well able to expound the doctrines of these various faiths, and in every case to throw new light upon them, which their own instructors had not given to them. | Chúng tôi nhận thấy có rất nhiều quan tâm được khơi dậy bởi phần trình bày của Đại tá về Phật giáo. Khá đông các vị quý ông người Miến tụ họp mỗi tối tại phòng khách của chủ nhà chúng tôi, và chúng tôi thường có những cuộc thảo luận hữu ích và lý thú. Tuy nhiên, sự quan tâm ấy không chỉ giới hạn trong dân bản xứ. Cũng có một cộng đồng người Tamil khá đông; và cũng như Đại tá có thể nói lưu loát và giàu tính hướng dẫn với người Miến về Phật giáo, Ông cũng có thể nói hay không kém với cộng đồng Tamil về Ấn giáo; theo cùng một cách, tôi đã nghe Ông thao thao bất tuyệt hàng giờ trước một thính chúng Parsi về Bái Hỏa giáo; và vì rõ ràng rằng theo nghĩa thông thường của từ này, Ông tuyệt đối không phải là một học giả về bất kỳ Kinh điển Đông phương nào, nên có lần tôi hỏi Ông làm sao mà, không có kiến thức chi tiết, Ông vẫn có thể giảng giải rất tốt các giáo thuyết của nhiều tôn giáo như vậy, và trong mọi trường hợp đều soi rọi cho họ những điểm mới mà chính các vị giáo thọ của họ chưa đưa ra. |
| He replied: “My dear boy, of course I do not know the detail of all these religions; but I do know my Theosophy, and I find that that always fits in and explains everything, They propound their various problems; I listen carefully and then use my commonsense.” I can certainly testify that the plan worked. | Ông đáp: “Chàng trai thân mến của tôi, dĩ nhiên tôi không biết chi tiết của tất cả các tôn giáo ấy; nhưng tôi biết Thông Thiên Học của mình, và tôi thấy rằng nó luôn khớp vào và giải thích được mọi sự. Họ nêu các vấn đề khác nhau của họ; tôi lắng nghe cẩn thận và rồi dùng lẽ thường.” Tôi có thể xác nhận rằng cách đó tỏ ra hữu hiệu. |
| The Colonel also made the acquaintance of some European and Eurasian gentlemen who were deeply interested in the phenomena of mesmerism; and as the Colonel himself was a powerful mesmerist, he was soon able to form a little group of students along that line. But just as all this work was opening up so well in these various directions, there came a telegram from Damodar to the Colonel begging him to return at once, as Madame Blavatsky was dangerously ill. Of course he took the next steamer back to Madras, leaving me behind in Rangoon to try to hold these various elements together—rather a serious undertaking for a man who was quite new to this particular sort of work. However, I did the best I could, though I am afraid that I entirely lack the Colonel’s ready wit and his facility of exposition. | Đại tá cũng làm quen với một số vị quý ông Âu và Á-Âu rất quan tâm đến các hiện tượng thôi miên; và vì tự thân Đại tá là một nhà thôi miên mạnh, Ông chẳng mấy chốc đã lập được một nhóm nhỏ môn sinh theo hướng đó. Nhưng ngay khi tất cả công việc này đang mở ra rất tốt đẹp theo nhiều hướng khác nhau, bỗng có điện tín từ Damodar gửi Đại tá, nài xin Ông lập tức quay về, vì Bà Blavatsky lâm trọng bệnh. Tất nhiên Ông liền đi chuyến tàu kế tiếp về Madras, để mặc tôi ở lại Rangoon cố gắng giữ cho các nhóm khác nhau ấy gắn kết với nhau—một đảm đương khá nghiêm trọng đối với một người hoàn toàn mới với kiểu công việc này. Tuy nhiên, tôi làm hết sức mình, dẫu e rằng tôi hoàn toàn không có khả năng ứng đối nhanh trí và lối trình bày lưu loát như Đại tá. |
| On his arrival at Madras he found Madame Blavatsky in a most serious condition; indeed, I think that for three or four days he was quite uncertain as to her recovery; but at the end of that time her Master paid her one of those visits in which He offered her the choice of resigning her terribly enfeebled body or carrying it on for awhile, to do yet another piece of work before casting it finally aside. This seems to have happened several times in the course of her career, and each time she chose the more arduous path and received from Him strength to carry on yet a little longer. In this case she became quite suddenly so much better that she was willing to consent to the Colonel’s return to Burma, so he came back again on the return voyage of the same steamer which had carried him to India—the s.s. Oriental. I need hardly say how glad I was to welcome him, and to hear that Madame Blavatsky had made so wonderful a recovery. | Khi về tới Madras, Ông thấy Bà Blavatsky trong tình trạng cực kỳ nghiêm trọng; thực vậy, tôi nghĩ rằng suốt ba hay bốn ngày Ông hoàn toàn không chắc Bà có qua khỏi hay không; nhưng cuối thời gian ấy, Chân sư của Bà đã đến thăm Bà một lần như thế, trong đó Ngài cho Bà quyền chọn hoặc buông bỏ thân xác đã kiệt quệ đến thảm hại của mình, hoặc duy trì nó thêm một thời gian, để làm thêm một phần việc nữa trước khi vĩnh viễn trút bỏ. Điều này dường như đã xảy ra vài lần trong suốt cuộc đời Bà, và mỗi lần Bà đều chọn con đường gian lao hơn và nhận từ Ngài sức mạnh để gắng gượng thêm đôi chút. Trong trường hợp này, Bà bỗng tốt lên nhanh đến mức Bà sẵn lòng đồng ý để Đại tá trở lại Miến Điện, thế là Ông lại quay về trên chuyến hồi trình của chính con tàu đã chở Ông sang Ấn Độ—tàu s.s. Oriental . Khỏi cần nói tôi hân hoan dường nào khi đón Ông, và nghe tin Bà Blavatsky đã hồi phục kỳ diệu. |
| He took up his work again with the utmost enthusiasm and formed no less than three separate Branches of the Society—the Shwe Dagon Branch for the Burmese for the study of Buddhism, the Rangoon Theosophical Society for the Tamil members, and the Irrawaddy Theosophical Society for the European and Eurasian students of mesmerism. The Shwe Dagon is the magnificent golden pagoda which stands on a spur of the hills just outside the town, and is said to contain relics not only of the Lord Gautama Buddha, but also of the three Buddhas who preceded Him in this world—a wonderful bell-shaped dome rising 370 feet above its platform, which is itself 166 feet above the surrounding country. The whole of that great dome is covered with gold leaf, which is constantly being renewed, so it may well be imagined that the effect is splendid and that the dagoba is a landmark visible for many miles around. | Ông lại bắt tay vào việc với nhiệt huyết tột độ và lập liền ba Chi bộ riêng của Hội—Chi bộ Shwe Dagon cho người Miến để học Phật giáo, Hội Thông Thiên Học Rangoon cho các hội viên Tamil, và Hội Thông Thiên Học Irrawaddy cho các môn sinh Âu và Á-Âu quan tâm đến thôi miên. Shwe Dagon là ngôi chùa vàng tráng lệ tọa trên một mỏm đồi ngay ngoài thành, được nói là chứa thánh tích không chỉ của Đức Phật Gautama, mà còn cả của ba vị Phật đã đi trước Ngài trong thế giới này—một mái vòm hình chuông kỳ vĩ vươn cao 370 bộ trên nền đài của nó, mà chính nền đài này cao 166 bộ so với vùng chung quanh. Toàn bộ mái vòm lớn ấy được dát vàng lá, liên tục được tu bổ, nên có thể hình dung hiệu quả rực rỡ đến dường nào và tháp xá lợi (dagoba) ấy là cột mốc có thể nhìn thấy từ nhiều dặm quanh vùng. |
| The platform measures 900 feet by 700 and contains numerous little temples, shrines and rest-houses in which are hundreds of images of the Lord Buddha, presented by countless devotees since the year 588 b.c., when the erection of this dagoba was begun, although it is stated that the spot had been sacred for centuries before. I remember the wonderfully artistic effect produced when, immediately after sunrise one morning. “Colonel Olcott delivered a lecture on that platform, he himself standing at the top of a small flight of steps, and his audience seated in their peculiar way upon the vast stone platform. The festive dress of the Burmese is more brightly-coloured than any other in the world; and sitting at the feet of the Colonel and looking out over his audience, I can compare it only to a vast field of the most brilliantly-coloured flowers—something like those that one sees from the railway train in Holland at the season when the narcissi and the daffodils or the tulips are in flower. Years later I have myself spoken on that same platform, and have even given the Pansil to a huge crowd there; and always one finds the same wonderful effect. | Nền đài đo 900 bộ x 700 bộ và có nhiều đền nhỏ, thánh điện và nhà nghỉ, trong đó có hàng trăm tượng của Đức Phật, do vô số thiện tín dâng tặng kể từ năm 588 trước Công nguyên, khi việc dựng tháp bắt đầu, dẫu người ta nói rằng địa điểm này đã linh thiêng suốt nhiều thế kỷ trước đó. Tôi còn nhớ ấn tượng nghệ thuật tuyệt vời tạo nên khi, ngay sau bình minh một buổi sáng, Đại tá Olcott giảng thuyết trên nền đài ấy, chính Ông đứng trên đỉnh một đoạn bậc thang nhỏ, và thính giả ngồi theo kiểu ngồi đặc thù của họ trên nền đá mênh mông. Y phục lễ hội của người Miến có màu sắc rực rỡ hơn bất kỳ dân tộc nào khác; và khi ngồi dưới chân Đại tá, nhìn ra khắp thính chúng, tôi chỉ có thể ví đó như một cánh đồng mênh mang những đóa hoa rực rỡ nhất—hơi giống cảnh người ta thấy từ tàu hỏa ở Hà Lan vào mùa thủy tiên, uất kim hương hay tulip đua nở. Nhiều năm sau, chính tôi cũng đã nói trên nền đài ấy, và thậm chí truyền Pansil cho một đám đông khổng lồ ở đó; và luôn luôn người ta bắt gặp cùng một ấn tượng kỳ diệu. |
| In the course of many lengthy conversations with our host and other Burmese friends, all of them elders and men of importance in the Buddhist community of Rangoon, the Colonel had come to doubt very seriously the wisdom and the utility of the proposed visit to King Theebaw at his capital, Mandalay, in Upper Burma. Colonel Olcott tells us in his Old Diary Leaves that our advisers gave this monarch an exceedingly bad character, regretfully admitting that he was a debauched tyrant, a monster of vice and cruelty, and that his motive in inviting a visit was merely curiosity to see a white Buddhist, and not enthusiasm for the Buddhist religion, of which the ruler himself was so unworthy an exponent. It was also stated that the King’s arrogant and unjust conduct in his dealings with certain English merchants was almost certain to lead speedily to an outbreak of war, which would assuredly render nugatory any attempt to introduce Theosophy into his dominions. So the Colonel, decided to cancel our proposed northern journey, and substitute for it a tour through Lower Burma, Assam, and Bengal. Even this plan, however, was not destined to be realized at that period, for we were hurriedly recalled by the news that Madame Blavatsky had had an alarming relapse. | Qua nhiều cuộc đàm thoại dài với chủ nhà và những người bạn Miến khác của chúng tôi—tất cả đều là bậc trưởng thượng và là những người có vai vế trong cộng đồng Phật giáo ở Rangoon—Đại tá đã đi đến nghi ngờ rất nghiêm túc về sự khôn ngoan và ích dụng của chuyến viếng thăm Vua Theebaw tại kinh đô Mandalay, Thượng Miến, như đã dự định. Đại tá Olcott thuật lại trong Old Diary Leaves rằng các vị cố vấn của chúng tôi dành cho quân vương này một nhận định cực kỳ bất lợi, buồn bã thừa nhận rằng ông ta là một bạo chúa trụy lạc, một quái vật của thói xấu và tàn bạo, và rằng động cơ mời viếng thăm chỉ là tò mò muốn thấy một Phật tử da trắng, chứ không phải là nhiệt tâm với đạo Phật, mà chính nhà vua là một người trình bày đạo quá bất xứng. Cũng có lời nói rằng thái độ kiêu căng và bất công của Nhà Vua trong cách đối xử với một số thương nhân Anh gần như chắc chắn sẽ sớm dẫn đến bùng nổ chiến tranh, điều ấy đương nhiên sẽ làm vô hiệu mọi nỗ lực đưa Thông Thiên Học vào cõi trị của ông ta. Vì vậy, Đại tá quyết định hủy bỏ chuyến đi lên miền bắc như dự kiến và thay vào đó là một chuyến du hành qua Hạ Miến, Assam và Bengal. Dẫu thế, kế hoạch này cũng không được định duyên thực hiện vào thời điểm đó, vì chúng tôi bị vội vã gọi về bởi tin Bà Blavatsky vừa tái phát một cơn nguy kịch. |
Two Religious Leaders—Hai Vị Lãnh Đạo Tôn Giáo
| Before I refer to our return voyage I must not forget to chronicle two very interesting interviews. The first was with the Tha-tha-na-baing, or Chief Abbot of Mandalay, a sort of Burmese Archbishop of Canterbury, who visited Rangoon during our stay and was good enough to give us an audience. I remember having to sit for three hours in a most uncomfortable and cramped position, out of respect for this ecclesiastical dignitary, while he carried on a keen discussion with Colonel Olcott on various points of Buddhist doctrine. Of course, he spoke no English, so every sentence had to be interpreted, and it was often difficult to arrive at a mutual understanding. I think, however, that the exceedingly able and somewhat sceptical old gentleman was eventually fully satisfied that we really were genuine Buddhists! | Trước khi nói về chuyến về lại của chúng tôi, tôi không được quên ghi chép hai cuộc gặp gỡ rất thú vị. Cuộc đầu là với vị Tha-tha-na-baing, hay Tổng trụ trì của Mandalay, một dạng “Tổng Giám mục Canterbury” của Miến Điện, người đã viếng Rangoon trong thời gian chúng tôi ở đó và có nhã ý cho chúng tôi yết kiến. Tôi nhớ đã phải ngồi suốt ba giờ trong một tư thế vô cùng khó chịu và gò bó, để tỏ lòng tôn kính vị giáo phẩm này, trong khi Ngài tranh luận sôi nổi với Đại tá Olcott về nhiều điểm giáo lý Phật giáo. Dĩ nhiên Ngài không nói tiếng Anh, nên mỗi câu đều phải qua thông dịch, và nhiều khi rất khó đạt tới sự thấu hiểu lẫn nhau. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng vị lão trượng cực kỳ thông tuệ và hơi hoài nghi ấy cuối cùng đã hoàn toàn tin chắc rằng chúng tôi thật sự là những Phật tử chân chính! |
| The other interview was also with an ecclesiastical dignitary, but a man of very different type—the gentle and saintly Roman Catholic Bishop Bigandet, then Vicar Apostolic of Southern Burma. During his long tenure of that office he had become intensely interested in the religion of the country, and had written a very valuable and sympathetic book. The Legend of Gaudama, which was published in two volumes in Trubner’s Oriental Series. So we felt sure that when calling on him we should find that we had many points in common, and we were not disappointed. He received us most graciously, complimenting Colonel Olcott on his Buddhist Catechism, than which, he said, there was no more useful book on the religion of Sakyamuni. He assured us emphatically that he had no more doubt as to the salvation of his good Buddhist friends and neighbours than he had of his own, and he spoke very highly of their probity, kindliness and general good character. The Colonel was deeply impressed in his favour and, being unaccustomed to dealing with those of episcopal rank, would persist in addressing him as “Your Right Reverence” instead of the customary “My Lord”! | Cuộc gặp thứ hai cũng là với một vị giáo phẩm, nhưng là một người thuộc kiểu rất khác—vị Giám mục Công giáo Rôma hiền hòa và thánh thiện Bigandet, khi ấy là Đại diện Tông tòa miền Nam Miến Điện. Trong suốt thời gian dài giữ chức vụ, Ngài đã trở nên hết mực quan tâm đến tôn giáo của xứ sở, và đã viết một cuốn sách rất giá trị và đầy cảm thông, The Legend of Gaudama , xuất bản hai tập trong Oriental Series của Trubner. Thế nên chúng tôi chắc rằng khi đến thăm Ngài, chúng tôi sẽ thấy có nhiều điểm đồng cảm, và quả nhiên không thất vọng. Ngài tiếp chúng tôi rất ân cần, khen ngợi Buddhist Catechism của Đại tá Olcott, và nói rằng khó có cuốn nào hữu ích hơn về tôn giáo của Đức Thích-ca Mâu-ni. Ngài quả quyết rằng Ngài không chút nghi ngờ về sự cứu rỗi của những người bạn và láng giềng Phật tử tốt lành của Ngài, cũng như Ngài tin chắc về phần mình, và Ngài đánh giá rất cao đức liêm chính, lòng nhân hậu và phẩm hạnh nói chung của họ. Đại tá rất có cảm tình với Ngài và, vì không quen ứng xử với bậc giáo phẩm hàng Giám mục, nên cứ khăng khăng xưng hô với Ngài là “Ngài Tôn Đức” thay vì lối xưng hô thông thường “Đức Ông”! |
Our Return Voyage—Chuyến Hồi Trình Của Chúng Tôi
| We left Rangoon on the British India steamer Himalaya, and a most remarkable voyage we had. We must have started under unfavourable astrological auspices, for every day as we crossed the Bay of Bengal in perfect weather, some curious little misfortune occurred to us. We had some missionaries on board and, as is well known, sailors of most countries consider them as birds of ill omen, certain to bring bad luck; so that before we reached Bimlipatam our Lascar crew was in a condition of terror and almost on the verge of mutiny. | Chúng tôi rời Rangoon trên tàu của British India mang tên Himalaya , và có một chuyến hải trình thật khác thường. Hẳn là chúng tôi khởi hành dưới những điềm chiêm tinh bất lợi, vì mỗi ngày khi băng qua Vịnh Bengal trong thời tiết hoàn hảo, đều xảy đến với chúng tôi một chuyện rủi nhỏ lạ lùng. Trên tàu có vài nhà truyền giáo, và như ai cũng biết, thủy thủ của hầu hết các xứ vốn xem họ như điềm gở, chắc chắn mang lại xúi quẩy; nên trước khi đến Bimlipatam, thủy thủ đoàn Lascar của chúng tôi đã hoảng sợ đến mức gần như bên bờ nổi loạn. |
| On the first day out the engines failed; but in those days many steamers carried sails as well, and we were brig-rigged, so we sailed along like a yacht for several hours at a pace of two knots or so, until repairs were effected. Next day a Hindu deck passenger fell overboard, and the ship had to stop, put out a boat to rescue him, and steam round in a circle to pick him up. A curious point was that the Colonel, told us that five months before in Paris a clairvoyant had described this scene, saying that he saw him (the Colonel) sailing in a steamer on a far-off sea, a man falling overboard, the vessel stopped, a boat put out, and the steamer moving in a circle. As a steamer does not usually move in a circle unless she is swinging her compasses, this struck the Colonel as odd, and he made a note of it, little expecting that the vision would prove to be prophetic of an event which would take place nearly half a year later on the other side of the world. | Ngày đầu tiên ra khơi, máy tàu hỏng; nhưng thuở ấy nhiều tàu hơi nước cũng mang buồm, và tàu chúng tôi được trang bị buồm kiểu thuyền hai cột, nên chúng tôi lướt đi như một du thuyền trong nhiều giờ, tốc độ chừng hai nút, cho đến khi sửa chữa xong. Hôm sau, một hành khách theo Ấn giáo ở boong rơi xuống biển, và tàu phải dừng lại, hạ xuồng cứu người, và chạy vòng tròn để đón anh ta lên. Một điểm lạ là Đại tá kể rằng năm tháng trước ở Paris, một người thông nhãn đã mô tả cảnh tượng này, nói rằng ông ta thấy Ông (Đại tá) đi trên một tàu hơi nước ở một biển khơi xa xăm, có người rơi khỏi tàu, con tàu dừng lại, hạ xuồng, và chiếc tàu chạy theo một vòng tròn. Vì tàu hơi nước thường không chạy vòng tròn, trừ khi đang hiệu chỉnh la bàn, nên điều ấy làm Đại tá thấy lạ, và Ông ghi chú lại, chẳng ngờ rằng thị kiến ấy sẽ tỏ ra là lời tiên báo về một sự kiện xảy ra gần nửa năm sau, ở bên kia địa cầu. |
| The passenger was saved; the incident had no serious consequences, but still the crew began to grumble; and their nervousness was pardonably intensified when next an unexplained fire was discovered burning among the cargo. That was soon extinguished, and but little harm was done, but the feeling of unrest continued; and it culminated the day after when a case of smallpox declared itself among the steerage passengers! Perhaps it was just as well that we sighted the Indian coast early on the next day, before there was time for another stroke of misfortune to descend upon us! | Hành khách được cứu; sự cố không có hậu quả nghiêm trọng, nhưng thủy thủ đoàn đã bắt đầu càu nhàu; và nỗi bất an của họ lại càng có thể thông cảm khi kế đó, một đám cháy vô cớ được phát hiện đang bùng lên trong hàng hóa. Đám cháy sớm được dập tắt, và chỉ gây hại chút ít, song cảm giác bất ổn vẫn kéo dài; và nó lên tới cực điểm vào ngày kế tiếp khi một ca đậu mùa bộc phát giữa đám hành khách hạng hầm! Có lẽ cũng may là sáng hôm sau chúng tôi đã sớm nhìn thấy bờ biển Ấn Độ, trước khi còn thời gian cho một vận rủi khác giáng xuống! |