Chương 4 – Bà Blavatsky

Madame Blavatsky—Bà Blavatsky

Let me try for a moment to look at her as an outsider might have looked, if that be possible for me. Frankly, I do not think I can do that, because I love her with the deepest love, I reverence her more than anyone else, except her great Masters and mine. So perhaps I cannot look at her dispassionately from outside, but at least I am trying to do so. I have seen many strangers approach her. I will try to tell you what I have seen reflected in their faces and their minds. The first thing that strikes them all, the first thing that always struck me, was the tremendous power that she radiated. The moment one came into Madame Blavatsky’s presence, one felt that here was some one who counted—some one who could do things, emphatically one of the great ones of the world; and I think that none of us ever lost that feeling.Hãy để tôi thử trong chốc lát nhìn Bà như một người ngoài có thể đã nhìn, nếu điều đó là có thể đối với tôi. Nói thẳng, tôi không nghĩ mình làm được, bởi vì tôi yêu Bà bằng tình yêu sâu thẳm nhất, tôi kính ngưỡng Bà hơn bất kỳ ai khác, trừ các Chân sư vĩ đại của Bà và của tôi. Vậy nên có lẽ tôi không thể nhìn Bà một cách dửng dưng từ bên ngoài, nhưng ít ra tôi đang cố làm như thế. Tôi đã thấy nhiều người lạ tiếp cận Bà. Tôi sẽ cố kể cho bạn những gì tôi thấy phản chiếu trên gương mặt và trong tâm trí họ. Điều đầu tiên gây ấn tượng cho tất cả, điều đầu tiên luôn gây ấn tượng cho tôi, là năng lực ghê gớm mà Bà toả ra. Khoảnh khắc người ta bước vào sự hiện diện của Bà Blavatsky, người ta cảm thấy rằng đây là một con người có trọng lượng—một người có thể làm được những việc, rõ ràng là một trong những bậc vĩ đại của thế giới; và tôi nghĩ không ai trong chúng tôi từng mất đi cảm giác đó.
There were assuredly many people who disagreed with various things that she said; there were others of us who followed her enthusiastically. She was so strong a person that I have never seen anyone among the thousands who met her who was indifferent to her. Some of them absolutely hated her, but more were immensely impressed by her. Many were almost awed by her; but those who knew her best loved her with a never-failing emotion, and love her still. I have recently seen some of those who knew her well, and it does seem that in every one of them the memory of her is just as green as it is in my own heart, and we have never ceased to love her. The impression that she made was indescribable. I can well understand that some people were afraid of her. She looked straight through one; she obviously saw everything there was in one—and there are men who do not like that. I have heard her make sometimes very disconcerting revelations about those to whom she spoke.Chắc chắn có nhiều người bất đồng với vài điều Bà nói; cũng có những người trong chúng tôi nhiệt thành theo Bà. Bà là một con người mạnh mẽ đến nỗi trong số hàng ngàn người gặp Bà, tôi chưa thấy ai dửng dưng với Bà. Có người tuyệt đối căm ghét Bà, nhưng nhiều người khác bị Bà gây ấn tượng mạnh mẽ. Nhiều người gần như kính sợ Bà; nhưng những ai biết Bà sâu nhất thì yêu Bà với một tình cảm không phai nhạt, và đến nay vẫn yêu Bà. Gần đây tôi còn gặp vài người từng biết Bà rõ, và quả thật dường như trong mỗi người trong họ, ký ức về Bà vẫn xanh tươi như trong trái tim tôi, và chúng tôi chưa bao giờ ngừng yêu Bà. Ấn tượng Bà tạo ra là không thể diễn tả. Tôi hoàn toàn hiểu rằng có người đã sợ Bà. Bà nhìn thẳng xuyên một người; hiển nhiên Bà thấy hết mọi thứ ở trong người ta—và có những người đàn ông không thích điều đó. Tôi đã nghe Bà đôi khi đưa ra những tiết lộ khiến người ta rất bối rối về chính những người mà Bà đang nói chuyện cùng.
I say that that overwhelming sense of power was the first thing that was borne in upon one; and then it is difficult to say what came next, but there was a sense of dauntless courage about her which was very refreshing, outspokenness to the verge of—one could not quite say rudeness, but she spoke out exactly what she thought and exactly what she felt; there, again, there are people who do not like that, who find it rather a shock to meet naked truth; but that was what she gave them. Prodigious force was the first impression, and perhaps courage, outspokenness, and straightforwardness were the second.Tôi nói rằng cảm thức áp đảo về quyền năng là điều đầu tiên ập đến với người ta; rồi thật khó nói điều gì đến kế tiếp, nhưng nơi Bà có một khí chất can đảm không biết sợ, vô cùng tươi mới, một sự thẳng thắn đến sát ranh—không thể nói là thô lỗ, nhưng Bà nói ra đúng những gì Bà nghĩ và đúng những gì Bà cảm; và, lại nữa, có những người không thích điều đó, họ thấy chấn động khi chạm mặt sự thật trần trụi; nhưng đó chính là điều Bà đem đến cho họ. Sức mạnh phi thường là ấn tượng đầu tiên, và có lẽ lòng can đảm, tính thẳng thắn và trực ngôn là ấn tượng thứ hai.
I suppose most of us have heard that she was often accused of deception by those who disliked or feared her. Enemies thought her guilty of fraud, of forgery, of all kinds of extraordinary things. Those who repeat such slanders in the present day are all people who have never seen her, and I venture to say that if any of those who talk about her now could have been in her presence for an hour they would have realized the futility of their aspersions. I can understand that certain other things might have been said against her—for example, that she rode a little roughshod over people’s prejudices sometimes; perhaps it is a good thing for people to have their prejudices exposed occasionally; but to accuse her of forgery or deception was utter folly to any of us who knew her. It was even said that she was a Russian spy. (There was a great scare at the time that Russia had designs on India.) If there ever was on this earth a person who was absolutely unsuited for the work of a spy, that person was Madame Blavatsky. She could not have kept up the necessary deception for ten minutes; she would have given it all away by her almost savage outspokenness. The very idea of deception of any sort in connection with Madame Blavatsky is unthinkable to anyone who knew her, who had lived in the same house with her, and knew how she spoke straight out exactly what she thought and felt. Her absolute genuineness was one of the most prominent features of her marvellously complex character.Tôi nghĩ hầu hết chúng ta đều nghe rằng Bà thường bị cáo buộc là dối trá bởi những kẻ ghét hoặc sợ Bà. Kẻ thù cho rằng Bà phạm gian lận, làm giả, đủ các thứ việc phi thường. Những ai ngày nay còn lặp lại các lời phỉ báng như vậy đều là những người chưa từng gặp Bà, và tôi dám nói rằng nếu bất kỳ ai đang nói về Bà bây giờ có thể ở trong sự hiện diện của Bà một giờ thôi, họ sẽ nhận ra sự vô ích của mọi lời bôi nhọ. Tôi có thể hiểu rằng có những điều khác nhất định có thể bị nói chống lại Bà—thí dụ, rằng đôi khi Bà “cưỡi ngựa thô bạo” qua các thành kiến của người ta; có lẽ đôi lúc để cho thành kiến của họ bị phơi bày cũng là điều tốt; nhưng buộc tội Bà làm giả hay lừa dối là điều hết sức ngớ ngẩn đối với bất kỳ ai trong chúng tôi, những người biết Bà. Thậm chí có người còn nói Bà là gián điệp Nga. (Khi ấy người ta rất hoảng sợ trước tin Nga có mưu đồ với Ấn Độ.) Nếu trên đời này từng có một người hoàn toàn không thích hợp với công việc của một gián điệp, thì người đó là Bà Blavatsky. Bà không thể duy trì được sự dối trá cần thiết ấy quá mười phút; Bà sẽ tự để lộ tất cả vì cái thẳng thắn gần như hung dữ của mình. Bất cứ ý tưởng nào về sự dối trá liên quan đến Bà Blavatsky đều là điều không thể nghĩ nổi đối với bất kỳ ai biết Bà, từng sống chung nhà với Bà, và biết Bà nói thẳng ra đúng những gì Bà nghĩ và cảm. Tính chân thực tuyệt đối của Bà là một trong những nét nổi bật nhất của tính cách kỳ diệu mà phức hợp của Bà.
I think the next thing which must have impressed the outsider was the brilliance of her intellect. She was without exception the finest conversationalist that I have ever met—and I have seen many. She had the most wonderful gift for repartee; she had it almost to excess, perhaps. She was full, too, of knowledge on all sorts of out-of-the-way subjects; I mean subjects more or less connected with our line of thought—but then it is difficult to realize how very wide is the range of thought which we include under the head of Theosophy. It involves knowing something at any rate along quite a large number of totally different lines. Madame Blavatsky had that knowledge. Whatever might turn up in the course of conversation, Madame Blavatsky always had something to say about it, and it was always something distinctly out of the common.Tôi nghĩ điều kế tiếp hẳn phải gây ấn tượng với người ngoài là trí tuệ rực rỡ của Bà. Không ngoại lệ, Bà là người đàm thoại hay nhất mà tôi từng gặp—và tôi đã gặp nhiều. Bà có năng khiếu đáp từ tuyệt vời; có lẽ gần như đến mức dư dả. Đồng thời Bà cũng đầy ắp tri thức về đủ mọi đề tài ít người biết; ý tôi là những đề tài ít nhiều liên hệ với đường tư tưởng của chúng ta—nhưng rồi thật khó nhận ra rằng phạm vi tư tưởng mà chúng ta đưa vào dưới đầu mục Thông Thiên Học rộng đến nhường nào. Nó đòi hỏi, ít nhất, phải biết chút ít theo một số khá lớn những tuyến khác nhau hoàn toàn. Bà Blavatsky có tri thức đó. Dù cuộc trò chuyện xoay đến điều gì, Bà Blavatsky luôn có điều để nói về nó, và luôn là điều rõ ràng khác hẳn thông thường.
Whatever else she may have been, she was never commonplace. She always had something new, striking, interesting, unusual to tell us. She had travelled widely, chiefly in little-known parts of the world, and she remembered everything, apparently, even the slightest incident that ever occurred to her. She was full of all kinds of sparkling anecdotes, a wonderful raconteuse, one who could tell her story well and make her point effective. She was a remarkable person in that respect, as in so many others.Bất kể là gì đi nữa, Bà không bao giờ tầm thường. Bà luôn có điều gì đó mới mẻ, nổi bật, thú vị, khác thường để kể cho chúng tôi. Bà từng du lịch khắp nơi, chủ yếu đến những vùng đất ít người biết, và Bà nhớ mọi thứ, dường như vậy, ngay cả sự việc nhỏ nhặt nhất từng xảy đến với mình. Bà đầy ắp đủ loại giai thoại lấp lánh, một người kể chuyện tuyệt vời, người có thể kể câu chuyện của mình hay và nhấn trúng ý. Ở khía cạnh đó, cũng như ở nhiều khía cạnh khác, Bà là một người phi thường.
Soon, with a little more intimate talk, one encountered the great central pivot of her life—her intense devotion to her Master. She spoke of Him with a reverence that was beautiful—all the more beautiful from the fact that one could not describe Madame Blavatsky as exactly of a reverent nature. On the contrary, she always saw the humorous side of anything and everything. Apart from this one great central fact, she would sometimes make a joke about things that some of us would have considered sacred; but that was because her utter straight-forwardness made her detest anything in the nature of a sham or pretence, and there is a great deal of what passes for reverence which is really only empty-mindedness, though well akin perhaps to respectability.Chẳng bao lâu, với đôi chút chuyện trò thân mật hơn, người ta bắt gặp trục trung tâm vĩ đại của đời Bà—lòng sùng kính mãnh liệt dành cho Chân sư của mình. Bà nói về Ngài với một niềm tôn kính thật đẹp—lại càng đẹp hơn vì người ta khó có thể mô tả Bà Blavatsky như một người có bản tính tôn kính. Trái lại, Bà luôn thấy khía cạnh hài hước của mọi điều. Ngoài trừ thực tại trung tâm vĩ đại duy nhất này, đôi khi Bà cũng đùa về những điều mà một vài người trong chúng tôi hẳn xem là thiêng liêng; nhưng đó là vì sự ngay thẳng tuyệt đối khiến Bà ghét bất cứ điều gì mang tính giả tạo hay lên gân, và có rất nhiều thứ được người ta xem là tôn kính mà kỳ thực chỉ là rỗng tuếch, tuy có lẽ gần gũi với cái gọi là “đoan trang”.
What she called bourgeois respectability was rather in the nature of a red rag to Madame Blavatsky, because often there is so much hypocrisy in the keeping up of outer appearances while inside there are thoughts and feelings which are not respectable at all. In such cases she tore away the veil and exposed the things underneath, which did not please the unfortunate victim; because of that characteristic one would not have called her a reverential person. But the moment she spoke of her Master her voice fell into a tone of loving awe, and one could see that her feeling towards Him was the very life of her. Her utter trust in Him, and her love and reverence for Him, by contrast with the fact that she was not ordinarily reverent, were very beautiful to see.Điều Bà gọi là “đạo mạo trưởng giả” giống như tấm vải đỏ chọc tức đối với Bà Blavatsky, vì thường có quá nhiều đạo đức giả trong việc giữ vẻ bề ngoài trong khi bên trong là những ý nghĩ và cảm xúc chẳng hề “đoan trang”. Trong những trường hợp như vậy, Bà xé tấm màn và phơi bày những gì ở dưới, điều đó dĩ nhiên không làm “nạn nhân” xui xẻo hài lòng; bởi nét tính cách ấy mà người ta sẽ không gọi Bà là người có tính cung kính. Nhưng ngay khi Bà nói đến Chân sư của mình, giọng Bà trầm xuống trong niềm kính ái, và người ta có thể thấy cảm thức của Bà đối với Ngài chính là sự sống của đời Bà. Sự tin cậy tuyệt đối của Bà nơi Ngài, cùng tình thương và lòng tôn kính dành cho Ngài, đối chiếu với việc Bà vốn không phải người thường tỏ ra cung kính, là điều hết sức đẹp đẽ để thấy.
I think those were the most prominent facts that a stranger would have seen in her. Our younger members, when they grow up and have read her books and realized a little of what we owe her, may quote her and say what a wonderful person she was; and then, quite possibly, they may meet people who will tell them that she was exposed, and was found to have acted fraudulently. Let them ask such slanderers:Tôi nghĩ đó là những sự kiện nổi bật nhất mà một người lạ sẽ thấy nơi Bà. Những hội viên trẻ của chúng ta, khi lớn lên và đã đọc sách của Bà và nhận ra phần nào món nợ của chúng ta đối với Bà, có thể sẽ trích dẫn và nói Bà là một người tuyệt vời thế nào; rồi rất có thể họ sẽ gặp những người bảo rằng Bà đã bị vạch trần, và người ta phát hiện Bà hành xử gian dối. Hãy để họ hỏi những kẻ phỉ báng như thế:
“Did you know her?”“Anh có biết Bà ấy không?”
“O no”, they will reply, “of course I did not.”“Ô không”, họ sẽ đáp, “tất nhiên là tôi không biết.”
You who have read this can rejoin:Bạn, người đã đọc điều này, có thể đáp lại:
“I have read an account written by one who did know her, who knew her exceedingly well; and he said that all such stories were absolutely and utterly untrue—that it was quite impossible that she could have performed any of those fraudulent actions; she could not have deceived people in the way that was stated.”“Tôi đã đọc một tường thuật do một người biết Bà viết, người biết Bà cực kỳ rõ; và ông ấy nói rằng tất cả những chuyện như thế đều hoàn toàn và tuyệt đối không đúng—rằng hoàn toàn không thể nào Bà đã làm bất kỳ hành vi gian dối nào như vậy; Bà không thể đã lừa người ta theo cách được mô tả.”
I could give you many instances in which she was accused of deception, and I can tell you exactly what it was that really happened, and can assure you that there was no fraud whatever in the matter. That much I do know for myself. You may hear much of a certain report made by a Commissioner of the Society for Psychical Research, who went out to India to investigate her case. If anyone quotes that to you, you can tell them that I, who am still living, was in Adyar when that young man (a very conceited young man he was, I am sorry to say), came out to make his report, and I can tell you certain things about that report which show how unreliable it was, though I am sure that he was honest in his intention. I am told that many years later he acknowledged to our present President that if he had known as much about psychic matters in 1884 as he knew at the time of speaking, his report would have been very different.Tôi có thể đưa ra cho bạn nhiều trường hợp Bà bị cáo buộc là dối trá, và tôi có thể nói cho bạn chính xác điều gì thật sự đã xảy ra, và bảo đảm với bạn rằng hoàn toàn không có gian lận gì trong những việc đó. Điều ấy thì tôi quả thật tự thân biết. Bạn có thể nghe nhiều về một bản báo cáo do một Ủy viên của Hội Nghiên Cứu Thần Linh Học soạn, người đã đến Ấn Độ để điều tra vụ của Bà. Nếu ai trích điều đó với bạn, bạn có thể nói với họ rằng tôi, người vẫn còn sống, đã ở Adyar khi chàng thanh niên ấy (rất tiếc phải nói là một chàng trai hết sức tự phụ) đến để làm báo cáo của mình, và tôi có thể kể cho bạn vài điều về bản báo cáo ấy cho thấy nó thiếu đáng tin cậy ra sao, dù tôi chắc rằng ý định của anh ta là thành thật. Tôi được biết nhiều năm sau đó anh ta đã thừa nhận với vị Chủ tịch đương kim của chúng ta rằng nếu anh ta biết nhiều về các vấn đề thông linh vào năm 1884 như điều anh biết vào lúc nói chuyện, thì bản báo cáo của anh hẳn đã rất khác.
He decided against H. P. B. in regard to the letters which came from the Masters, saying that she had written them herself. I have myself received such letters when she was thousands of miles away. I have seen them come in her presence, and I have seen them come when she was far away, and I know by irrefutable evidence that she did not write those letters. I tell you this because I think it is valuable for you to be able to say that you have seen or known of someone who is willing to bear personal testimony that there was no fraud about such things. The testimony of one eye-witness outweighs the prejudice of many people who, not being present, hear these things only at third or thirteenth hand.Anh ta đã kết luận bất lợi cho H. P. B. liên quan đến những bức thư đến từ các Chân sư, bảo rằng Bà tự viết chúng. Bản thân tôi đã nhận những bức thư như thế khi Bà ở cách xa hàng ngàn dặm. Tôi đã thấy chúng đến ngay trong sự hiện diện của Bà, và tôi đã thấy chúng đến khi Bà ở rất xa, và tôi biết bằng những bằng chứng không thể bác bỏ rằng Bà không viết những bức thư ấy. Tôi nói điều này với bạn vì tôi nghĩ điều có giá trị cho bạn là có thể nói rằng bạn đã thấy hoặc biết về một người sẵn lòng chịu làm chứng cá nhân rằng không hề có gian lận gì trong những việc như vậy. Lời chứng của một nhân chứng tận mắt nặng cân hơn thành kiến của nhiều người, những kẻ vì không có mặt, chỉ nghe những điều này gián tiếp qua vài ba, thậm chí mười ba lần truyền miệng.
Remember that, humanly speaking, without Madame Blavatsky there would have been no Theosophical Society, there would have been no presentation of all this glorious teaching to the people of the West. Perhaps there I am saying a little more than I should, because the Great Ones who stand behind made simultaneous efforts through two channels, Madame Blavatsky being one, and Dr. Anna Kingsford the other. I knew both of them. I can only say that while Dr. Kingsford’s presentation was wonderful and interesting, it has not made much impression, has not taken hold of the world to any appreciable extent; whereas the existence of the Theosophical Society shows what Madame Blavatsky’s presentation did.Hãy nhớ rằng, nói theo lẽ người, nếu không có Bà Blavatsky thì đã không có Hội Thông Thiên Học, đã không có sự trình bày tất cả giáo huấn huy hoàng này cho người phương Tây. Có lẽ ở đây tôi nói hơi quá điều nên nói, vì các Đấng Cao Cả đứng phía sau đã đồng thời nỗ lực qua hai kênh, Bà Blavatsky là một, và Bác sĩ Anna Kingsford là kênh kia. Tôi biết cả hai vị. Tôi chỉ có thể nói rằng trong khi sự trình bày của Bác sĩ Kingsford là tuyệt vời và thú vị, nó không để lại ấn tượng lớn, không nắm được thế gian đến một mức đáng kể; trong khi sự tồn tại của Hội Thông Thiên Học cho thấy điều trình bày của Bà Blavatsky đã làm được.
Even the Theosophical Society shows only a small part of her work; for, for every member of this Society there may well be ten, twelve, or twenty non-members who have read the books and acquired much Theosophical knowledge. So her teaching has spread out of all proportion to the size of her Society. That is what Madame Blavatsky has done for us, and for the world, and for that we owe her our love and our gratitude. She told us always:Ngay cả Hội Thông Thiên Học cũng chỉ cho thấy một phần nhỏ công việc của Bà; vì, với mỗi hội viên của Hội này, rất có thể có mười, mười hai, hay hai mươi người ngoài Hội đã đọc sách và thâu nhận nhiều tri thức Thông Thiên Học. Vì thế giáo huấn của Bà đã lan rộng vượt xa tỉ lệ với quy mô Hội của Bà. Đó là điều Bà Blavatsky đã làm cho chúng ta, cho thế giới, và vì thế chúng ta mắc nợ Bà tình thương và lòng biết ơn. Bà luôn nói với chúng tôi:
“These are the facts; but do not believe them because I say so. Use your own reason and common-sense; give life to the teaching, and prove it for yourselves. Don’t carp or grumble or criticize; work.”“Đây là các sự kiện; nhưng đừng tin chúng chỉ vì tôi nói vậy. Hãy dùng lý trí và lương tri của chính bạn; hãy thổi sự sống vào giáo huấn, và tự mình chứng nghiệm. Đừng bới móc hay càm ràm hay chỉ trích; hãy làm việc .”
We who accepted her challenge, we who followed her advice, soon found that her statements were justified, that her teachings were true. So to you, her followers of the present day, I would say: “Go you, and do likewise.”Chúng tôi, những người chấp nhận lời thách thức của Bà, những người làm theo lời khuyên của Bà, chẳng bao lâu đã thấy rằng những phát biểu của Bà được minh chứng, các giáo huấn của Bà là chân thực. Vậy đối với các bạn, những người theo Bà trong thời nay, tôi muốn nói: “Hãy đi và làm y như thế.”
See to it, all of you, that we never forget her—that on White Lotus Day every year, as she desired, we commemorate the occasion. She did not ask that anyone should speak of her, though our love and reverence lead us always to do that. She did not even ask that her own books should be read; but she did ask that something should be read from the Bhagavad-Gita and from The Light of Asia, and that is always done in every Theosophical Lodge unto this day, and I hope that it always will be, and that we shall never allow the memory of our Founder to pass from our minds. I should like you to realize the fact, and to keep it ever in your minds, that all that we have and all that we have learnt, through whatever form it may now be coming to us, we really owe to Madame Blavatsky.Xin tất cả các bạn hãy bảo đảm rằng chúng ta không bao giờ quên Bà—rằng vào Ngày Hoa Sen Trắng mỗi năm, như Bà mong muốn, chúng ta tưởng niệm dịp ấy. Bà không yêu cầu ai phải nói về Bà, dù tình thương và lòng tôn kính khiến chúng ta luôn làm vậy. Bà thậm chí không yêu cầu đọc chính sách của Bà; nhưng Bà có yêu cầu đọc điều gì đó từ Bhagavad-Gita và từ Ánh Sáng Á Châu , và điều đó luôn được thực hiện trong mọi Hội đường Thông Thiên Học cho đến ngày nay, và tôi hy vọng rằng điều đó sẽ luôn như vậy, và rằng chúng ta sẽ không bao giờ để ký ức về Đấng Sáng Lập của chúng ta phai mờ khỏi tâm trí. Tôi muốn các bạn nhận ra sự kiện này, và luôn ghi nhớ rằng tất cả những gì chúng ta có và tất cả những gì chúng ta đã học, dù hiện nay nó đến với chúng ta qua hình thức nào, thật ra chúng ta mắc nợ Bà Blavatsky.

Leave a Comment

Scroll to Top