The Letter Answered—Bức Thư Được Hồi Âm
| It will be remembered that in a previous chapter I mentioned a letter which I had addressed to the Master Kuthumi, confiding it to a spirit named Ernest for delivery. I received a reply eventually—but not through Ernest and not until the very eve of Madame Blavatsky’s departure for India. The text of the Master’s letter to me will be found in Mr. Jinarājadāsa’s book Letters from the Masters of the Wisdom, p. 27. He told me that it was not necessary to be in India during the seven years of probation—that a chela could pass them anywhere. He warned me that as a Priest of the Christian Church I had a certain share in the collective karma of that body, and He distinctly intimated that there was much in that karma which was terribly evil. He suggested that I might go to Adyar for a few months, to see whether I could work with the Headquarters staff, and added the significant remark: “He who would shorten the years of probation has to make sacrifices for Theosophy.” His letter concluded with the words: | Người đọc hẳn còn nhớ rằng trong một chương trước tôi đã nhắc đến một bức thư tôi gửi cho Chân sư Kuthumi, giao nó cho một linh hồn tên Ernest để chuyển. Cuối cùng tôi nhận được hồi âm—nhưng không qua Ernest và mãi cho đến ngay đêm trước khi Bà Blavatsky khởi hành sang Ấn Độ. Toàn văn bức thư của Chân sư gửi cho tôi có thể tìm thấy trong sách của Ông Jinarājadāsa, Những Bức Thư từ các Chân sư của Minh Triết , tr. 27. Ngài bảo tôi rằng không cần phải ở Ấn Độ trong bảy năm dự bị—rằng một đệ tử có thể trải qua thời kỳ đó ở bất cứ đâu. Ngài cảnh báo tôi rằng, với tư cách là một Linh mục của Giáo hội Kitô giáo, tôi mang một phần nghiệp quả tập thể của tổ chức ấy, và Ngài chỉ rõ rằng trong nghiệp quả đó có nhiều điều cực kỳ xấu ác. Ngài gợi ý rằng tôi có thể đến Adyar vài tháng, để xem liệu tôi có thể làm việc với ban Thư ký Trụ sở không, và thêm một lời nhắc đầy ý nghĩa: “Ai muốn rút ngắn những năm dự bị thì phải hy sinh cho Thông Thiên Học.” Bức thư của Ngài kết thúc bằng những lời: |
| You ask me what rules you must observe during this time of probation, and how soon you might venture to hope that it could begin I answer: You have the making of your own future in your own hands, as shown above, and every day you may be weaving its woof. If I were to demand that you should do one thing or the other, instead of simply advising, I should be responsible for every effect that might flow from the step, and you acquire but a secondary merit. Think, and you will see that this is true. So cast the lot yourself into the lap of Justice, never fearing but that its response will be absolutely true. Chelaship is an educational as well as a probationary stage, and the chela alone can determine whether it shall end in adeptship or failure. Chelas, from a mistaken idea of our system, too often watch and wait for orders, wasting precious time which should be taken up with personal effort. Our cause needs missionaries, devotees, agents, even martyrs perhaps. But it cannot demand of any man to make himself either. So now choose and grasp your own destiny—and may our Lord’s the Tathagata’s memory aid you to decide for the best.1 | Bạn hỏi tôi những quy luật nào bạn phải giữ trong thời kỳ dự bị này, và bao lâu nữa bạn có thể mạo muội hy vọng rằng nó có thể bắt đầu. Tôi trả lời: Bạn tự nắm lấy tương lai của chính mình trong tay, như đã chỉ ra ở trên, và mỗi ngày bạn có thể đang dệt nên tấm vải của nó. Nếu tôi đòi hỏi bạn phải làm điều này hay điều nọ, thay vì chỉ khuyên bảo, thì tôi sẽ chịu trách nhiệm cho mọi hệ quả có thể phát sinh từ bước đi ấy, và bạn chỉ đạt được công đức thứ yếu. Hãy suy nghĩ, bạn sẽ thấy điều đó là đúng. Vậy hãy tự mình gieo quẻ vào lòng Công Chính, đừng bao giờ sợ rằng câu đáp của nó sẽ không hoàn toàn chân thực. Địa vị đệ tử là một giai đoạn giáo dưỡng cũng như giai đoạn dự bị, và chỉ riêng đệ tử mới có thể quyết định liệu nó sẽ kết thúc trong địa vị chân sư hay thất bại. Các đệ tử, do một ý niệm sai lầm về hệ thống của chúng tôi, quá thường ngóng trông và chờ đợi lệnh, phung phí thời gian quý báu lẽ ra phải dành cho nỗ lực cá nhân. Sự nghiệp của chúng ta cần những nhà truyền giáo, những người chí nguyện, những tác viên, thậm chí có lẽ cả những vị tử đạo. Nhưng nó không thể đòi hỏi bất kỳ ai phải tự biến mình thành một trong các vai ấy. Vậy giờ đây hãy chọn lựa và nắm lấy định mệnh của chính anh—và nguyện nhớ niệm của Đức Chúa ’ s Đức Như Lai ’ phù trợ bạn quyết định điều tốt đẹp nhất. 1 |
| 1 Mr. Jinarājadāsa adds the following note: “Our Lord’s the Tathagata’s memory,” is a most striking phrase, understood only many long years after the receipt of the letter. It refers to incidents in past lives of long ago, when C. W. L. had seen the Great Lord face to face. It is as if the Master tried in this manner to go behind the personality of C. W. L. direct to the Ego, in whose consciousness the great truths existed as matters of direct knowledge. | 1 Ông Jinarājadāsa thêm lời chú sau: “Cụm ‘nhớ niệm của Đức Chúa’ ‘Đức Như Lai’,” là một cách nói rất nổi bật, chỉ được hiểu sau nhiều năm dài kể từ khi nhận bức thư. Nó ám chỉ những sự kiện trong các đời quá khứ xa xưa, khi C. W. L. đã thấy Đấng Chí Tôn đối diện. Như thể Chân sư cố gắng theo cách này đi vượt qua phàm ngã của C. W. L. để trực tiếp đến với Chân ngã, nơi trong tâm thức những chân lý vĩ đại tồn tại như những điều đã biết trực tiếp. |
| I wished to say in answer to this that my circumstances were such that it would be impossible for me to come to Adyar for three months, and then return to the work in which I was then engaged; but that I was perfectly ready to throw up that work altogether, and to devote my life absolutely to His service. Ernest having so conspicuously failed me, I knew of no way to send this message to the Master but to take it to Madame Blavatsky, and as she was to leave England on the following day for India, I hastened up to London to see her. | Tôi muốn hồi đáp rằng hoàn cảnh của tôi khi ấy khiến tôi không thể đến Adyar ba tháng rồi trở lại công việc mà tôi đang làm; nhưng rằng tôi hoàn toàn sẵn sàng bỏ hẳn công việc đó, và hiến trọn đời mình cho sự phụng sự Ngài. Vì Ernest đã thất bại quá hiển nhiên với tôi, tôi không biết cách nào gửi thông điệp này đến Chân sư ngoài việc đem nó đến cho Bà Blavatsky, và vì ngày hôm sau Bà sẽ rời Anh quốc sang Ấn Độ, tôi vội vã lên London để gặp Bà. |
| It was with difficulty that I induced her to read the letter, as she said very decidedly that such communications were intended only for the recipient. I was obliged to insist, however, and at last she read it and asked me what I wished to say in reply. I answered to the above effect, and asked her how this information could be conveyed to the Master. She replied that He knew it already, referring of course to the exceedingly close relation in which she stood with Him, so that whatever was within her consciousness was also within His when He wished it. | Khá khó khăn tôi mới thuyết phục được Bà đọc bức thư, vì Bà nói rất dứt khoát rằng những thông điệp như thế chỉ dành cho người nhận. Tuy nhiên tôi buộc phải nài nỉ, cuối cùng Bà đọc nó và hỏi tôi muốn nói gì để đáp lại. Tôi trả lời theo ý trên, và hỏi làm sao chuyển được thông tin này đến Chân sư. Bà đáp rằng Ngài đã biết rồi, dĩ nhiên ám chỉ mối liên hệ cực kỳ mật thiết mà Bà có với Ngài, đến mức bất cứ điều gì ở trong tâm thức của Bà cũng ở trong tâm thức của Ngài khi Ngài muốn vậy. |
| She then told me to wait by her, and not to leave her on any account. She adhered absolutely to this condition, even making me accompany her into her bedroom when she went to put on her hat and, when a cab was required, declining to allow me to leave the room and go to the door to whistle for it. I could not at all understand the purpose of this at the time, but afterwards I realized that she wished me to be able to say that she had never been out of my sight for a moment between the time when she read my letter from the Master and my receipt of the reply to it. I remember as vividly as if it were yesterday how I rode with her in that hansom cab, and the bashful embarrassment that I felt, caused partly by the honour of doing so, and partly by my fear that I must be inconveniencing her horribly, for I was crushed side ways into a tiny corner of the seat, while her huge bulk weighed down her side of the vehicle, so that the springs were grinding all through the journey. Mr. and Mrs. Cooper-Oakley were to accompany her on the voyage to India, and it was to their house that I went with her very late that night—in fact, I believe it was after mid-night, so I really ought to say very early the next morning. | Rồi Bà bảo tôi chờ bên cạnh, và bằng bất cứ giá nào cũng không được rời Bà. Bà giữ điều kiện này một cách tuyệt đối, thậm chí bắt tôi theo Bà vào phòng ngủ khi Bà vào đội mũ, và khi cần một chiếc xe ngựa, Bà không chịu để tôi rời phòng ra cửa huýt gọi. Lúc ấy tôi hoàn toàn không hiểu mục đích của việc này, nhưng về sau tôi nhận ra rằng Bà muốn tôi có thể nói rằng Bà không rời khỏi tầm mắt tôi dù chỉ một khoảnh khắc, từ lúc Bà đọc thư của Chân sư gửi tôi cho đến khi tôi nhận được hồi đáp. Tôi nhớ rõ như mới hôm qua cách tôi đi cùng Bà trong chiếc xe ngựa hai bánh có mui ấy, và sự bối rối ngượng ngùng mà tôi cảm thấy, một phần do vinh dự được đi cùng, một phần vì sợ rằng tôi đang làm Bà cực kỳ bất tiện, vì tôi bị ép nghiêng người dạt vào một góc tí hon của ghế, trong khi thân hình đồ sộ của Bà đè nặng phía bên kia của cỗ xe, đến nỗi lò xo nghiến kèn kẹt suốt hành trình. Ông bà Cooper-Oakley sẽ tháp tùng Bà trong chuyến hải hành sang Ấn Độ, và đó là lý do tôi đi cùng Bà đến nhà họ rất khuya đêm ấy—thật ra, tôi nghĩ là sau nửa đêm, nên đúng ra phải nói là rất sớm sáng hôm sau. |
My First Phenomenon—Hiện Tượng Đầu Tiên Của Tôi
| Even at that hour a number of devoted friends were gathered in Mrs. Oakley’s drawing-room to say farewell to Madame Blavatsky, who seated herself in an easy-chair by the fireside. She was talking brilliantly to those who were present, and rolling one of her eternal cigarettes, when suddenly her right hand was jerked out towards the fire in a very peculiar fashion, and lay palm upwards. She looked down at it in surprise, as I did myself, for I was standing close to her, leaning with an elbow on the mantel-piece: and several of us saw quite clearly a sort of whitish mist form in the palm of her hand and then condense into a piece of folded paper, which she at once handed to me, saying: “There is your answer.” Every one in the room crowded round, of course, but she sent me away outside to read it, saying that I must not let anyone see its contents. It was a very short note and ran as follows: | Ngay vào giờ ấy đã có một số bạn hữu tận tâm tụ họp trong phòng khách của Bà Oakley để từ biệt Bà Blavatsky, Bà ngồi trên một ghế bành bên lò sưởi. Bà đang nói chuyện một cách rực rỡ với những người có mặt, và se một trong những điếu thuốc lá bất tận của mình, thì đột nhiên bàn tay phải của Bà giật về phía lò sưởi theo một cách rất lạ, và mở ngửa lòng bàn tay. Bà nhìn xuống tay mình với vẻ ngạc nhiên, và tôi cũng vậy, vì tôi đứng sát bên Bà, khuỷu tựa lên mặt lò: và có vài người trong chúng tôi thấy rất rõ một thứ sương trắng trắng hiện lên trong lòng bàn tay Bà rồi ngưng tụ lại thành một mảnh giấy gấp, Bà lập tức đưa cho tôi, nói: “Đây là câu trả lời của anh.” Tất nhiên mọi người trong phòng đều ùa lại, nhưng Bà bảo tôi ra ngoài để đọc, nói rằng tôi không được cho ai thấy nội dung. Đó là một mảnh giấy rất ngắn và viết như sau: |
| Since your intuition led you in the right direction and made you understand that it was my desire you should go to Adyar immediately, I may say more. The sooner you go the better. Do not lose one day more than you can help. Sail on the 5th, if possible. Join Upasika1 at Alexandria. Let no one know that you are going, and may the blessing of our Lord and my poor blessing shield you from every evil in your new life. | Vì trực giác của bạn đã dẫn bạn đi đúng hướng và khiến bạn hiểu rằng đó là ý muốn của tôi để bạn đi Adyar ngay lập tức , tôi có thể nói thêm. Càng đi sớm càng tốt. Đừng mất thêm một ngày nào ngoài mức bất khả kháng. Hãy khởi hành vào ngày mồng 5, nếu có thể. Hãy nhập đoàn với Upasika 1 tại Alexandria. Đừng để ai biết rằng bạn đang đi, và nguyện phúc lành của Đức Chúa của chúng ta và lời chúc nghèo nàn của tôi che chở bạn khỏi mọi điều dữ trong đời sống mới. |
| Greeting to you, my new chela. | Gửi lời chào đến bạn, đệ tử mới của tôi . |
| K. H. | K. H. |
| 1 Upasika means a disciple in a female body; our Masters often spoke of Madame Blavatsky by this title. | 1 Upasika có nghĩa là một đệ tử trong thân nữ; các Chân sư của chúng ta thường gọi Bà Blavatsky bằng tước hiệu này. |
Marching Orders—Mệnh Lệnh Hành Quân
| In occult matters to hear is to obey. Madame Blavatsky left London later on in the same day for Liverpool, where she boarded the s.s. Clan Drummond. Meantime I was bustling round to steamer offices trying to obtain a passage for myself. The P. and O. steamer which was to leave on the 5th had absolutely not a single vacant berth in any class, so I was reluctantly compelled to seek elsewhere. After many inquiries the only opportunity that offered itself was to take the Messageries Mari-times s.s. Erymanthe from Marseilles to Alexandria, and in order to do that I had to leave London on the night of the 4th. I hurried down to Hampshire to pack my goods and chattels and to make my final arrangements; and I may say that I did not go to bed until after I had left England! Mohini and Miss Francesca Arundale were at Charing Cross Station to see me depart and give me their earnest good wishes for the strange new life which was opening before me. | Trong các việc huyền bí, nghe tức là tuân phục. Bà Blavatsky rời Luân Đôn ngay trong ngày hôm đó đi Liverpool, nơi Bà lên tàu s.s. Clan Drummond . Trong khi đó, tôi tất bật chạy tới các hãng tàu hơi nước để cố kiếm một chuyến cho chính mình. Con tàu của hãng P. and O. dự định khởi hành vào ngày mồng 5 hoàn toàn không còn một chỗ trống nào ở bất cứ hạng vé nào, nên tôi đành miễn cưỡng tìm hướng khác. Sau nhiều lần dò hỏi, cơ hội duy nhất mở ra là đi tàu s.s. Erymanthe của Messageries Maritimes từ Marseilles tới Alexandria, và để kịp chuyến đó tôi phải rời Luân Đôn vào đêm mồng 4. Tôi vội vã xuống Hampshire để thu xếp đồ đạc tư trang và lo liệu những việc cuối cùng; và có thể nói là tôi không hề lên giường cho đến khi đã rời nước Anh! Mohini và cô Francesca Arundale có mặt tại ga Charing Cross để tiễn tôi đi và gửi những lời chúc chân thành cho đời sống mới lạ đang mở ra trước mắt tôi. |
In Quarantine—Trong Khu Cách Ly
| I reached Marseilles in the ordinary course, only to find that there was supposed to be cholera in the town. I embarked upon the Erymanthe, and I remember that our voyage through the Mediterranean was rather rough. On that voyage I read Esoteric Buddhism for the tenth time; we were fairly thorough in our studies in those days. When we reached Alexandria I found, to my immense disgust, that because of that rumour of cholera at Marseilles the Egyptian authorities proposed to put us all in quarantine for five days. You may imagine my impatience, and my fear that the delay might cause me to miss Madame Blavatsky altogether. They would not allow us to stay in the town, but carried us off to some barracks at Ramleh, where they charged us £1 a day for very unsatisfactory accommodation. Of course we were all of us perfectly well, and we were fully persuaded that the whole affair was a farce, played simply in order to extract money from us; and the broad smiles of the Egyptian officials showed that they thoroughly appreciated the situation. | Tôi đến Marseilles theo đúng lộ trình, chỉ để phát hiện ra rằng người ta cho là trong thành phố có dịch tả. Tôi lên tàu Erymanthe , và tôi còn nhớ chuyến hải hành qua Địa Trung Hải khá chao đảo. Trên chuyến đi ấy tôi đọc Esoteric Buddhism lần thứ mười; thời ấy chúng tôi học hành khá kỹ lưỡng. Khi tới Alexandria, tôi phát hiện, với nỗi chán ghét tột cùng, rằng vì tin đồn về dịch tả ở Marseilles nên nhà chức trách Ai Cập định nhốt tất cả chúng tôi cách ly năm ngày. Bạn có thể hình dung sự nôn nóng của tôi, và nỗi lo rằng sự chậm trễ có thể khiến tôi bỏ lỡ cơ hội gặp Bà Blavatsky. Họ không cho chúng tôi ở lại trong thành phố, mà đưa tất cả tới một trại lính ở Ramleh, nơi họ tính mỗi người chúng tôi 1 bảng một ngày cho một chỗ ở hết sức tệ hại. Tất nhiên tất cả chúng tôi đều hoàn toàn khỏe mạnh, và chúng tôi tin chắc rằng cả vụ này là một trò hề, bày ra đơn thuần để moi tiền chúng tôi; và những nụ cười tươi rói của các quan chức Ai Cập cho thấy họ hoàn toàn thấu hiểu tình thế. |
| At our only point of communication with the outer world there was a very heavy double fence, the component parts of which were perhaps five yards apart. A sort of little wooden railway ran across from one of these fences to the other, and a box with a rope attached to each end of it was hauled backwards and forwards to bring in supplies from without or to deliver our letters and any articles which we might wish to buy. A large bowl of water was placed in the box and we were ordered to throw into it any coins with which we wanted to pay for our purchases, while letters which we sent out to be posted were stabbed in two or three places and rigorously fumigated. The proceedings were more than ridiculous, and we kept up an attitude of feebly joking with the attendants, insisting that when any change had to be sent across to us, it also should be thrown into the water! | Tại điểm duy nhất mà chúng tôi có thể liên lạc với thế giới bên ngoài, có một hàng rào đôi rất dày, hai lớp của nó cách nhau chừng năm thước Anh. Một kiểu đường ray gỗ nhỏ chạy ngang từ hàng rào này sang hàng rào kia, và một chiếc thùng, có buộc dây ở mỗi đầu, được kéo qua kéo lại để đưa đồ tiếp tế từ bên ngoài vào hoặc chuyển thư từ và những món hàng chúng tôi muốn mua. Người ta đặt trong thùng một cái chậu lớn đựng nước và ra lệnh cho chúng tôi ném vào đó bất cứ đồng tiền nào dùng để trả cho các món mua sắm, trong khi những lá thư chúng tôi gửi ra để bỏ bưu điện đều bị đâm thủng hai ba chỗ và khử trùng nghiêm ngặt. Cả thủ tục ấy còn hơn cả trò lố bịch, và chúng tôi cứ nửa đùa nửa thật với đám phục vụ, khăng khăng rằng khi họ gửi lại tiền thừa cho chúng tôi thì cũng phải ném xuống nước! |
| By means of one of the mutilated letters I communicated with the British Consul and learnt from him that Madame Blavatsky and her party had duly arrived, but had gone on to Port Said, where they were awaiting me. As soon as we were released from durance vile I posted off to the Hotel Abbat to have a real bath and some decent food, and then proceeded to inquire as to transit to Port Said. There was no railway in those days, and I found that my next opportunity was again to take the steamer Erymanthe, which had also been detained in quarantine just as we had. We should certainly have been far more comfortable if they had had the sense to leave us on board her, but as we were passengers for Alexandria they would not do that; besides, in that case, the steamer instead of the Egyptian Government would have had our £1 a day! | Bằng một trong những lá thư đã bị xẻ rách ấy, tôi liên lạc với Lãnh sự Anh và biết từ ông rằng Bà Blavatsky và đoàn tùy tùng đã đến nơi, nhưng đã đi tiếp tới Port Said, nơi họ đang chờ tôi. Vừa được thả khỏi cảnh giam hãm tệ hại, tôi liền vội đến khách sạn Abbat để tắm cho ra hồn và kiếm chút thức ăn tử tế, rồi đi hỏi chuyện đi tiếp tới Port Said. Thời ấy chưa có đường sắt, và tôi biết cơ hội tiếp theo lại là đi con tàu Erymanthe , vốn cũng bị giữ trong khu cách ly y như chúng tôi. Hẳn chúng tôi đã thoải mái hơn nhiều nếu họ biết điều mà để chúng tôi lại trên tàu ấy, nhưng vì chúng tôi là hành khách của Alexandria nên họ không chịu; vả lại, trong trường hợp đó, con tàu chứ không phải Chính phủ Ai Cập sẽ lĩnh 1 bảng một ngày của chúng tôi! |
We Meet Again—Chúng Tôi Gặp Lại
| We sailed the same evening, and reached Port Said on the following morning, where Mr. A. J. Cooper-Oakley came off to meet me, and took me ashore to a hotel where I found Madame Blavatsky and Mrs. Oakley sitting on the veranda. Madame Blavatsky’s last word to me in London had been: “See that you do not fail me”; and now her greeting was: “Well, Leadbeater, so you have really come in spite of all difficulties.” I replied that of course I had come, and that when I made a promise I also made a point of keeping it; to which she answered only: “Good for you!” and then plunged into an animated discussion—all discussions in which Madame Blavatsky took part were invariably animated—which had evidently been interrupted by my arrival. Though she said no more than this, she was clearly pleased that I had come, and seemed to regard my presence in her retinue as a kind of card in the game which she had to play. She was returning to India expressly in order to refute the wicked slanders of the Christian College missionaries, and she appeared to consider that to bring back with her a clergyman of the Established Church who had abandoned a good position in that Church to become her enthusiastic pupil and follower was somehow an argument in her favour. | Chúng tôi nhổ neo tối hôm đó, và sáng hôm sau đến Port Said, nơi Ông A. J. Cooper-Oakley đi thuyền nhỏ ra đón tôi, đưa tôi vào bờ đến một khách sạn, nơi tôi thấy Bà Blavatsky và Bà Oakley đang ngồi ở hiên. Lời cuối cùng của Bà Blavatsky với tôi ở Luân Đôn là: “Hãy liệu đừng để làm tôi thất vọng”; và giờ lời chào của Bà là: “Leadbeater, vậy là ông thật sự đã đến, bất chấp mọi khó khăn.” Tôi đáp rằng dĩ nhiên tôi đã đến, và rằng khi tôi đã hứa, tôi cũng quyết giữ lời; Bà chỉ nói: “Tốt lắm!” rồi lao vào một cuộc bàn luận sôi nổi—mọi cuộc bàn luận có Bà Blavatsky tham gia đều luôn sôi nổi—hiển nhiên đã bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của tôi. Dù Bà không nói gì thêm, rõ ràng Bà hài lòng vì tôi đã đến, và dường như xem sự hiện diện của tôi trong đoàn tùy tùng của Bà như một quân bài trong ván cờ Bà phải chơi. Bà trở về Ấn Độ chính là để bác bỏ những lời vu khống độc ác của các nhà truyền giáo thuộc Trường Cao đẳng Cơ Đốc, và Bà dường như cho rằng việc đưa về cùng mình một giáo sĩ của Giáo hội Quốc giáo, người đã từ bỏ một vị trí tốt trong Giáo hội ấy để trở thành môn sinh và người theo nhiệt thành của Bà, bằng cách nào đó là một luận cứ có lợi cho Bà. |