Chương 2: “Thế Giới Huyền bí”

“The Occult World”—“Thế Giới Huyền Bí”

I have already mentioned that the first Theosophical book which fell into my hands was Mr. A. P. Sinnett’s The Occult World. I saw it advertised in a catalogue of second-hand books, and was much attracted by the title, so I sent for it immediately, and was fortunate enough to secure it. Naturally the stories which it contains interested me deeply, but its real fascination lay in the glimpses which it gave of a wonderful system of philosophy and of a kind of inner science which really seemed to explain life rationally and to account for many phenomena which I had observed.Tôi đã nói rằng quyển sách Thông Thiên Học đầu tiên đến tay tôi là Thế Giới Huyền Bí của Ông A. P. Sinnett. Tôi thấy quảng cáo của nó trong một bảng chào bán sách cũ, và bị lôi cuốn mạnh bởi tựa đề, nên lập tức đặt mua, và may mắn là đã lấy được. Dĩ nhiên những câu chuyện trong đó khiến tôi hết sức thích thú, nhưng sức hấp dẫn thực sự của nó nằm ở những thoáng nhìn về một hệ thống triết học kỳ diệu và một loại khoa học nội môn dường như thực sự giải thích sự sống một cách hợp lý và lý giải được nhiều hiện tượng mà tôi từng quan sát.
I was of course eager to learn very much more of this, but I was so entirely unused to the ways of the literary world that I did not know in the least how to set about obtaining further information. With the benefit of later experience, I can see now that it would have been simple to write a note to the author and send it to the care of his publishers; but such a solution of the difficulty did not occur to me. At the end of his book Mr. Sinnett remarks:Tất nhiên tôi nóng lòng muốn tìm hiểu thêm thật nhiều về điều này, nhưng tôi hoàn toàn không quen với cung cách của giới văn đàn nên không hề biết phải bắt đầu bằng cách nào để có thêm thông tin. Nhờ kinh nghiệm sau này, giờ tôi thấy rằng thật đơn giản nếu viết một mảnh thư cho tác giả và gửi nhờ nhà xuất bản chuyển; nhưng giải pháp như thế khi ấy không hề nảy đến với tôi. Ở cuối sách, Ông Sinnett ghi nhận:
Some readers who are interested, but slow to perceive what practical action they can take, may ask what they can do to show appreciation of this opportunity. My reply will be modelled on the famous injunction of Sir Robert Peel: “Register, register, register!” Take the first step towards making a response to the offer which emanates from the occult world—register, register, register; in other words, join the Theosophical Society—the one and only association which at present is linked by any recognized bond of union with the Brotherhood of Adepts in Thibet.Một số độc giả quan tâm, nhưng chậm nhận ra họ có thể hành động thiết thực ra sao, có thể sẽ hỏi họ có thể làm gì để tỏ lòng trân trọng cơ duyên này. Câu trả lời của tôi sẽ noi theo lệnh dụ nổi tiếng của Ngài Robert Peel: “Ghi danh, ghi danh, ghi danh!” Hãy bước bước đầu tiên để đáp ứng lời mời gọi phát xuất từ thế giới huyền bí—ghi danh, ghi danh, ghi danh; nói cách khác, hãy gia nhập Hội Thông Thiên Học—hiệp hội duy nhất hiện nay được nối kết bằng một mối liên kết được thừa nhận với Huynh đệ các Chân sư ở Thibet.
I was most anxious to follow this advice, but found it by no means easy to do so. The author mentioned that there was a Theosophical Society in London, but did not give its address, and I sought for it in vain in the Post Office Directory. I made many enquiries among friends, but did not happen to find anyone who could help me in my quest.Tôi rất nóng lòng muốn làm theo lời khuyên này, nhưng thấy không hề dễ. Tác giả có nói rằng ở London có một Hội Thông Thiên Học, nhưng không cho địa chỉ, và tôi tìm trong Danh bạ của Bưu điện cũng vô ích. Tôi dò hỏi nhiều bạn bè, nhưng lại không gặp ai có thể giúp tôi trong cuộc tìm kiếm.
Shortly after that, however, I was in Scotland enquiring into the evidence for second-sight in the Highlands, and apparently by the merest chance (but I doubt whether anything ever happens by chance) I found on the table in the reading-room of a hotel a copy of a tiny spiritualistic magazine—hardly more than a leaflet; I think it was called Rays of Light, or some name like that. In it was an announcement referring to Dr. Anna Kingsford, President of the London Lodge of the Theosophical Society, and stating that she was the wife of the rector or vicar of some West-country village or town—I think the name was Atcham. Naturally I seized upon this clue, and at once wrote to her at that vicarage, asking for further information. It was some time before I received a reply, for, as it transpired afterwards, Dr. Kingsford was away on the Continent for a holiday; and even when it arrived it proved to be only a printed circular—very beautifully printed, however, with much of silver about it. But it gave me the information which I wanted—the address of the Secretary in London, and it further told me that in order to join the Society I must be proposed and seconded by two members.Không lâu sau đó, tuy vậy, tôi ở Scotland để tìm hiểu các bằng chứng về năng lực nhìn thấy trước ở miền Cao nguyên, và dường như chỉ là tình cờ (nhưng tôi nghi ngờ liệu có điều gì thật sự xảy ra một cách ngẫu nhiên hay không) tôi thấy trên bàn trong phòng đọc của một khách sạn một tờ tạp chí thần linh học nhỏ xíu—hầu như chỉ là một tờ rơi; tôi nghĩ nó tên là Những Tia Sáng , hay một cái tên tương tự. Trong đó có một thông báo nhắc đến Bác sĩ Anna Kingsford, Chủ tịch London Lodge của Hội Thông Thiên Học ở London, và nói rằng Bà là vợ của vị chánh quản nhiệm hoặc mục sư của một làng hay thị trấn miền Tây—tôi nghĩ tên là Atcham. Tự nhiên tôi nắm ngay manh mối này, và lập tức viết cho Bà tại nhà xứ ấy, hỏi thêm thông tin. Phải một thời gian sau tôi mới nhận được hồi âm, vì như sau đó được biết, Bác sĩ Kingsford đang đi nghỉ ở Lục địa châu Âu; và khi thư đến thì hóa ra chỉ là một tờ thông tri in sẵn—tuy nhiên in rất đẹp, điểm nhiều sắc bạc. Nhưng nó cho tôi điều tôi cần—địa chỉ của Thư ký tại London, và còn cho biết rằng để gia nhập Hội tôi phải được hai hội viên đề cử và bảo trợ.

How I Joined—Tôi đã gia nhập như thế nào

The Secretary was Mr. Kirby (not the Mr. Kirby so well known in later years in connection with the Society’s work in Italy, but the Kirby of Kirby and Spence’s Entomology, a book which I had studied in my boyhood). I promptly wrote to him, pointing out that I wished to join, but had not the pleasure of the acquaintance of any of the existing members; what was I to do? Again I had to wait a long time for an answer, for Mr. Kirby also was abroad—I think climbing peaks in Switzerland; but at length he replied austerely that the rules were inviolable, and that no exception could be made, but suggested as an afterthought that I might call upon either Mr. A. P. Sinnett or Mr. G. B. Finch.Vị Thư ký là Ông Kirby (không phải Ông Kirby vốn nổi tiếng những năm sau trong công việc của Hội tại Ý, mà là Kirby của cuốn Côn trùng học của Kirby và Spence, một quyển tôi từng học thuở nhỏ). Tôi liền viết cho ông, trình bày rằng tôi muốn gia nhập, nhưng không hân hạnh quen biết hội viên nào hiện hữu; vậy tôi phải làm gì? Một lần nữa tôi lại phải đợi rất lâu mới có thư trả lời, vì Ông Kirby cũng đang ở nước ngoài—tôi nghĩ là đang leo những đỉnh núi ở Thụy Sĩ; nhưng cuối cùng ông đáp lại một cách nghiêm khắc rằng các quy định là bất khả xâm phạm, không thể ngoại lệ, song như một ý nghĩ đến sau, ông gợi ý rằng tôi có thể đến gặp Ông A. P. Sinnett hoặc Ông G. B. Finch.
I adopted this suggestion and wrote a note to Mr. Sinnett, hardly daring, however, to hope that he could really be the author of the book which had impressed me so deeply. His reply soon set that point at rest, and invited me to come up to London to see him. He had only recently returned from India, and was then staying temporarily at the house of his mother-in-law, Mrs. Edensor, in Royal Crescent, Notting Hill. He received me with the greatest kindness and cordiality, and of course we talked much of his books (for by that time I had found Esoteric Buddhism also) and the wonderful revelation which they contained. The more I heard of Theosophy the more anxious I became to learn all that could be told to me; but when I spoke of joining the Theosophical Society Mr. Sinnett became very grave and opined that that would hardly do, seeing that I was a clergyman!Tôi làm theo gợi ý này và viết một mảnh thư cho Ông Sinnett, tuy nhiên hầu như không dám hy vọng rằng ông thực sự là tác giả của quyển sách đã gây ấn tượng sâu sắc với tôi. Hồi âm của ông sớm làm sáng tỏ điểm ấy, và mời tôi lên London gặp ông. Ông vừa mới trở về từ Ấn Độ, và đang tạm trú tại nhà của mẹ vợ ông, Bà Edensor, ở Royal Crescent, Notting Hill. Ông tiếp tôi với lòng tốt và sự thân tình lớn lao, và dĩ nhiên chúng tôi nói nhiều về các sách của ông (vì lúc đó tôi cũng đã tìm được cả Phật giáo Huyền bí ) và sự mặc khải kỳ diệu mà chúng chứa đựng. Càng nghe về Thông Thiên Học tôi càng nóng lòng muốn học tất cả những gì có thể được nói cho tôi; nhưng khi tôi nói đến việc gia nhập Hội Thông Thiên Học thì Ông Sinnett trở nên rất nghiêm và cho rằng điều đó khó mà ổn, xét rằng tôi là một giáo sĩ!
I wondered rather why the Society should discriminate against members of the cloth; and at last I ventured timidly to put the question. Mr. Sinnett replied:Tôi lấy làm lạ vì sao Hội lại phân biệt đối xử với những người thuộc hàng giáo sĩ; và cuối cùng tôi đánh bạo rụt rè nêu câu hỏi. Ông Sinnett đáp:
“Well, you see, we are in the habit of discussing every subject and every belief from the beginning, without any preconceptions whatever; and I am afraid that at our meetings you would be likely to hear a great deal that would shock you profoundly.”“Chúng tôi, chúng ta thường quen bàn luận mọi chủ đề và mọi tín niệm từ đầu, không hề có định kiến; và tôi e rằng ở các buổi họp của chúng tôi, y có lẽ sẽ nghe thấy rất nhiều điều làm y bị sốc sâu sắc.”
I had already, years previously, attended some of Mrs. Besant’s lectures at the Hall of Science in Old Street, off the City Road, and I thought that, after that, nothing that the members of the Theosophical Society could say would be likely to offend me very seriously; so I smilingly assured Mr. Sinnett that I hoped I was not that kind of clergyman and that I should be quite prepared to join in any discussion that might arise, irrespective of the beliefs of the debaters. At this Mr. Sinnett partially thawed, and even said that, if that were really the case, he should have peculiar pleasure in admitting a clergyman; but that before finally taking so decided a step he must consult his Council. So we had to leave it at that, and I returned to my country curacy fifty miles away in Hampshire.Nhiều năm trước đó tôi đã dự một số buổi thuyết giảng của Bà Besant tại Hall of Science ở Old Street, gần City Road, và tôi nghĩ rằng, sau chừng ấy, thì chẳng có điều gì mà các hội viên của Hội Thông Thiên Học nói ra còn có thể xúc phạm tôi một cách nghiêm trọng; nên tôi mỉm cười quả quyết với Ông Sinnett rằng tôi hy vọng mình không phải là loại giáo sĩ như thế và tôi sẽ hoàn toàn sẵn sàng tham gia bất kỳ cuộc thảo luận nào có thể nảy sinh, bất kể tín niệm của những người tranh luận. Đến đây Ông Sinnett có phần dịu lại, và thậm chí nói rằng, nếu quả thực như vậy, ông sẽ đặc biệt vui mừng được kết nạp một vị giáo sĩ; nhưng trước khi cuối cùng đi đến một bước dứt khoát như vậy, ông phải hỏi ý Hội đồng của ông. Thế là chúng tôi đành để vậy, và tôi trở về nhiệm sở phó xứ ở miền quê, cách năm mươi dặm, tại Hampshire.
  

Mr. A. P. Sinnett—Ông A. P. Sinnett

Within a week, however, I had a letter from Mr. Sinnett saying that the majority of the Council had agreed to my admission, and that if I would fill up the necessary forms he would be glad to propose me himself; and he further advised me to call upon Mr. G. B. Finch, who would probably second my application if I impressed him favourably. Mr. Finch proved to be just as kindly as Mr. Sinnett, and I was presently notified that I was at last accepted as a member of the Society, and that if I would call at his house on a certain evening I might be initiated. By that time Mr. Sinnett had moved into a house of his own in Ladbroke Gardens, and thither I duly repaired at the appointed time.Chỉ trong vòng một tuần, tuy vậy, tôi nhận được thư của Ông Sinnett nói rằng đa số Hội đồng đã đồng ý tiếp nhận tôi, và rằng nếu tôi điền các mẫu đơn cần thiết thì ông rất vui được đích thân đề cử tôi; và ông còn khuyên tôi đến gặp Ông G. B. Finch, người nhiều khả năng sẽ bảo trợ đơn của tôi nếu tôi gây ấn tượng tốt. Ông Finch tỏ ra tử tế không kém Ông Sinnett, và chẳng bao lâu tôi được thông báo rằng cuối cùng tôi đã được chấp nhận làm hội viên của Hội, và rằng nếu tôi đến nhà ông vào một buổi tối nhất định, tôi có thể được làm lễ nhập môn. Lúc đó Ông Sinnett đã dọn về một căn nhà riêng ở Ladbroke Gardens, và tôi đã đến đó đúng giờ hẹn.
I found that I was to be initiated into the mysteries of the Society along with two other applicants, Professor and Mrs. Crookes. Even then I realized the honour of being admitted along with so distinguished a scientist, for though Professor Crookes was not yet Sir William, I knew of him as the discoverer of thallium, the inventor of the radiometer, and the apostle of radiant matter. To join the Theosophical Society was in those days a somewhat formidable undertaking. We found Mrs. Sinnett’s large drawing-room crowded to excess, the assembly in fact overflowing on to the landing and a little way up the staircase. I suppose there may have been some two hundred people present, including some who bore very distinguished names—such as Professor Myers, C. C. Massey, Stainton Moses and others. We three were planted together upon a sofa in the midst of the crowd, and Mr. Sinnett, after delivering a homily upon the objects and work of the Society, duly communicated to us a series of signs and passwords by means of which we were to be able to recognize our fellow-members in any part of the world. These signs and words have since dropped into abeyance in most countries, though I think that our President still gives them to any candidates whom she receives in India.Tôi nhận ra rằng tôi sẽ được làm lễ nhập vào các bí pháp của Hội cùng với hai người xin gia nhập khác, là Giáo sư và Bà Crookes. Ngay khi ấy tôi đã hiểu vinh dự được kết nạp cùng một nhà khoa học lỗi lạc như vậy, vì tuy Giáo sư Crookes khi đó chưa được phong tước Ngài William, tôi đã biết ông là người phát hiện thallium, phát minh máy đo bức xạ, và là người cổ xúy cho vật chất bức xạ. Gia nhập Hội Thông Thiên Học thời ấy là một việc khá đáng ngại. Chúng tôi thấy phòng khách lớn của Bà Sinnett đông nghẹt, đám đông thực sự tràn ra cả chiếu nghỉ và lên một đoạn cầu thang. Tôi cho rằng có chừng hai trăm người hiện diện, gồm cả những vị mang những tên tuổi rất lừng lẫy—như Giáo sư Myers, C. C. Massey, Stainton Moses và những người khác. Ba chúng tôi được xếp ngồi cùng nhau trên một chiếc ghế dài giữa đám đông, và Ông Sinnett, sau khi thuyết giảng về tôn chỉ và công việc của Hội, đã trịnh trọng truyền cho chúng tôi một loạt dấu ám hiệu và khẩu lệnh nhờ đó chúng tôi có thể nhận ra đồng hội viên ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Những dấu hiệu và khẩu lệnh ấy từ đó đã rơi vào tình trạng không còn được dùng ở hầu hết các nước, tuy tôi nghĩ rằng Bà Chủ tịch của chúng ta vẫn trao chúng cho bất kỳ ứng viên nào mà Bà tiếp nhận ở Ấn Độ.
After this I missed very few of the Lodge meetings, coming up to London nearly every week. In fact, Mr. Sinnett was so hospitable as to give me a standing invitation to dine and spend the night at his house on these occasions, as I lived fifty miles away. At those dinners and at the meetings which followed them I met many well-known people, and heard many most interesting and instructive conversations. It must be remembered that all the teaching was at that time quite new to us, that there were many points on which our information was very imperfect, and that consequently there was much room for discussion. The planetary chains, the different planes of nature and the conditions of consciousness upon each of them—all these things came to us as a fresh revelation, and we had no small difficulty in harmonizing the scattered statements made in the replies which had been received to Mr. Sinnett’s multifarious questions. The sun of our present President had not then risen above the Theosophical horizon, so we had no one to disentangle the knotted skeins or to bring the apparently conflicting statements into harmony.Sau đó tôi hầu như không bỏ lỡ buổi họp Lodge nào, gần như tuần nào cũng lên London. Thật vậy, Ông Sinnett hiếu khách đến mức thường trực mời tôi dùng cơm tối và ngủ lại nhà ông vào những dịp ấy, vì tôi sống cách đó năm mươi dặm. Trong những bữa tối ấy và ở các buổi họp tiếp theo, tôi gặp nhiều người nổi tiếng, và nghe nhiều cuộc chuyện trò vô cùng thú vị và hữu ích. Cần nhớ rằng bấy giờ tất cả giáo lý đối với chúng tôi đều hoàn toàn mới, có nhiều điểm mà thông tin của chúng tôi còn rất thiếu, và do đó có nhiều chỗ cho thảo luận. Các dãy hành tinh, các cõi khác nhau của thiên nhiên và những điều kiện của tâm thức trên mỗi cõi—tất cả những điều ấy đến với chúng tôi như một mặc khải mới mẻ, và chúng tôi đã gặp không ít khó khăn trong việc hòa hợp những tuyên bố rời rạc trong các hồi đáp cho muôn vàn câu hỏi của Ông Sinnett. Mặt trời của Vị Chủ tịch hiện tại của chúng ta lúc ấy vẫn chưa mọc lên trên chân trời Thông Thiên Học, nên chúng tôi không có ai để tháo gỡ những mối sợi rối hay hòa điệu những mệnh đề có vẻ mâu thuẫn.
I remember creating a small sensation at the dinner-table by announcing that it seemed to me the obvious course that each of us should set before himself the definite intention of becoming a pupil of one of the great Adept Masters. The suggestion was apparently somewhat of a shock to those present, for it was received in dead silence; and it was only after an appreciable pause that Mr. Sinnett remarked that he supposed that Europeans could hardly hope for anything of that sort at the present stage of our knowledge—which was true enough, but I thought that we might at least set our faces determinedly in that direction.Tôi nhớ đã gây nên một chấn động nho nhỏ ở bàn ăn khi tuyên bố rằng theo tôi, điều hiển nhiên là mỗi người chúng ta nên tự đặt cho mình chủ đích rõ ràng trở thành môn sinh của một trong các Chân sư vĩ đại. Đề nghị ấy dường như gây đôi chút sốc cho những người hiện diện, vì nó được đáp lại bằng sự im lặng như tờ; và chỉ sau một khoảng dừng có thể cảm nhận được, Ông Sinnett mới nói rằng ông cho rằng người Âu khó lòng hy vọng có điều như vậy vào giai đoạn hiểu biết hiện tại của chúng tôi—điều ấy thì đủ đúng, nhưng tôi nghĩ ít nhất chúng ta cũng có thể kiên quyết hướng về phía đó.
These meetings of the London Lodge were almost our only sources of Theosophical information in those days. I think we were an exceptionally keen set of students, but there was really not very much for us to study. In addition to those two books of Mr. Sinnett’s we had Madame Blavatsky’s monumental work Isis Unveiled and also a fine book by Dr. Anna Kingsford called The Perfect Way or The Finding of Christ. This latter book contained a great deal of information, but it was given from a point of view entirely different from that of Mr. Sinnett’s books and for most of us much more difficult to follow. Isis Unveiled is a vast chaos of most interesting matter, but we found it very difficult to deduce from it anything that could be called a coherent or definite system. But we struggled along as best we could, and a little later we had the very great encouragement of hearing that the Master Kuthumi was pleased with the efforts that we had made, and would send over from India one of His own disciples to help us in our work.Những buổi họp của London Lodge hầu như là nguồn thông tin Thông Thiên Học duy nhất của chúng tôi vào thời ấy. Tôi nghĩ chúng tôi là một nhóm đạo sinh đặc biệt say mê, nhưng thực sự không có nhiều thứ cho chúng tôi học. Ngoài hai cuốn sách của Ông Sinnett, chúng tôi có tác phẩm đồ sộ Isis Vén Màn của Bà Blavatsky và một cuốn sách hay của Bác sĩ Anna Kingsford nhan đề Nẻo Đường Toàn Hảo hay Sự Tìm Ra Đức Christ . Cuốn sau này chứa nhiều thông tin, nhưng được trình bày theo quan điểm hoàn toàn khác với các sách của Ông Sinnett và đối với đa số chúng tôi thì khó theo dõi hơn nhiều. Isis Vén Màn là một mớ hỗn độn mênh mông những điều lý thú, nhưng chúng tôi thấy rất khó rút ra từ đó điều gì có thể gọi là một hệ thống mạch lạc hay xác định. Nhưng chúng tôi cố gắng hết sức, và một thời gian sau chúng tôi được khích lệ rất lớn khi nghe rằng Chân sư Kuthumi hài lòng với nỗ lực của chúng tôi, và Ngài sẽ gửi từ Ấn Độ sang một trong các đệ tử của Ngài để giúp chúng tôi trong công việc.

Mr. M. M. Chatterji—Ông M. M. Chatterji

This pupil was Mr. Mohini Mohun Chatterji, a young lawyer from Calcutta, and he reached London along with Colonel Olcott early in 1884. I must say that he proved exceedingly helpful to us, and it was from his addresses that we first gained a clear idea of the Path of Initiation and its requirements. A statement of these in his wording appears in the first of the celebrated Transactions of the London Lodge.Vị môn sinh ấy là Ông Mohini Mohun Chatterji, một luật sư trẻ từ Calcutta, và ông đến London cùng với Đại tá Olcott vào đầu năm 1884. Tôi phải nói rằng ông đã giúp ích cho chúng tôi vô cùng, và chính từ các bài thuyết trình của ông, lần đầu tiên chúng tôi lĩnh hội rõ ràng về Con Đường Điểm Đạo và các đòi hỏi của nó. Một bản trình bày những điều này theo ngôn ngữ của ông xuất hiện trong tập đầu tiên của Kỷ yếu của London Lodge nổi tiếng.
I remember well the occasion of his first appearance at one of Mr. Sinnett’s evening receptions. Colonel Olcott and Mohini stood on the hearthrug in front of the grate and some two hundred people were brought and introduced to them one by one. Among these was the notorious Mr. Oscar Wilde, who always gave one the impression of wishing to be distinctive (not to say bizarre) both in manners and in dress. On that occasion, I remember, he was habited in black velvet, with knee breeches and white stockings. He came up to Mohini, was introduced, bowed gracefully and in retiring said in a very audible stage-whisper to Mrs. Sinnett: “I never realized before what a mistake we make in being white!” Mohini, being a Brahman, was quite unversed in Western customs, and I believe that it caused him acute discomfort to allow that crowd of wine-drinking Mlechhas to seize him by the hand. He looked very sick, but he endured it nobly, and of course none of us had the least idea what was the matter. He answered patiently a vast number of what must have seemed to him very foolish and incredibly ignorant questions, and came off with flying colours as the hero of the evening, most of the old ladies regarding him with reverential awe.Tôi còn nhớ rõ dịp ông lần đầu xuất hiện tại một buổi tiếp khách tối ở nhà Ông Sinnett. Đại tá Olcott và Mohini đứng trên tấm thảm trước lò sưởi và chừng hai trăm người lần lượt được dẫn đến giới thiệu với họ. Trong số đó có Ông Oscar Wilde lừng danh, người luôn cho người ta ấn tượng rằng ông muốn tỏ ra khác biệt (chưa nói là kỳ dị) cả trong cung cách lẫn y phục. Dịp ấy, tôi nhớ, ông mặc nhung đen, quần chẽn đến gối và tất trắng. Ông bước đến chỗ Mohini, được giới thiệu, cúi chào duyên dáng và khi lui ra thì thì thầm kiểu sân khấu, đủ cho Bà Sinnett nghe: “Tôi chưa bao giờ nhận ra trước đây rằng chúng ta đã sai lầm đến thế khi là người da trắng!” Mohini, vốn là một người Bà-la-môn, hoàn toàn không quen phong tục phương Tây, và tôi tin rằng việc để bầy Mlechha uống rượu ấy nắm tay mình bắt tay đã khiến ông vô cùng khó chịu. Trông ông rất khổ sở, nhưng ông đã chịu đựng một cách cao thượng, và dĩ nhiên chẳng ai trong chúng tôi mảy may biết chuyện gì đang xảy ra. Ông kiên nhẫn trả lời một số lượng lớn những câu hỏi mà hẳn với ông là rất ngớ ngẩn và dốt nát khó tin, và rốt cuộc ông rực rỡ bước ra như người hùng của buổi tối, hầu hết các bà lớn tuổi nhìn ông với nỗi kính sợ trang nghiêm.

Mr. Eglinton—Ông Eglinton

In the course of my inquiries into spiritualism I had come into contact with most of the prominent mediums of that day, and had (as I have said before) seen every ordinary phenomena about which one reads in books upon that subject. One medium with whom I had much to do was Mr. Eglinton; and although I have heard stories told against him, I must bear witness that in all my own dealings with him I found him most straightforward, reasonable and courteous. He had various so-called controls—one a Red Indian girl who called herself Daisy, and chattered volubly on all occasions, appropriate or inappropriate. Another was a tall Arab, named Abdullah, considerably over six feet, who never said anything, but produced remarkable phenomena, and often exhibited feats showing great strength. I have seen him simultaneously lift two heavy men, one in each hand.Trong quá trình tìm hiểu về thần linh học, tôi đã tiếp xúc với hầu hết các đồng tử nổi bật thời ấy, và (như tôi đã nói trước đây) đã chứng kiến mọi hiện tượng thông thường mà người ta đọc được trong các sách về đề tài này. Một đồng tử mà tôi có nhiều dịp làm việc cùng là Ông Eglinton; và dù tôi có nghe những câu chuyện bất lợi về ông, tôi phải làm chứng rằng trong tất cả những lần giao tiếp của riêng tôi với ông, tôi thấy ông hết sức ngay thẳng, hợp lý và nhã nhặn. Ông có nhiều “linh kiểm soát” như người ta gọi—một cô gái Da Đỏ tự xưng là Daisy, và lắm lời trong mọi dịp, thích hợp hay không thích hợp. Một vị khác là một người Ả Rập cao lớn, tên Abdullah, cao hơn sáu feet khá nhiều, người không bao giờ nói gì, nhưng tạo ra những hiện tượng đáng chú ý, và thường biểu diễn những kỳ công cho thấy sức mạnh lớn. Tôi đã thấy y đồng thời nhấc bổng hai người đàn ông nặng, mỗi tay một người.
A third control who frequently put in an appearance was Ernest; he comparatively rarely materialized, but frequently spoke with direct voice, and wrote a characteristic and well-educated hand. One day in conversation with him something was said in reference to the Masters of the Wisdom; Ernest spoke of Them with the most profound reverence, and said that he had on various occasions had the privilege of seeing Them. I at once enquired whether he was prepared to take charge of any message or letter for Them, and he said that he would willingly do so, and would deliver it when opportunity offered, but he could not say exactly when that would be.Một linh kiểm soát thứ ba thường xuất hiện là Ernest; y khá ít khi hiện hình, nhưng thường nói bằng tiếng nói trực tiếp, và viết với một nét chữ đặc trưng, có học. Một ngày nọ, trong lúc đối thoại với y, có người nói đến các Bậc Minh triết; Ernest nói về Các Ngài với lòng tôn kính sâu xa nhất, và nói rằng y đã nhiều lần có đặc ân được thấy Các Ngài. Tôi lập tức hỏi y có sẵn sàng nhận chuyển bất kỳ thông điệp hay thư nào gửi Các Ngài không, và y nói sẵn lòng, sẽ chuyển khi có cơ hội, nhưng y không thể nói chính xác khi nào.
I may mention here that in connection with this I had later a good example of the unreliability of all such communications. Some considerable time afterwards some spiritualist wrote to Light explaining that there could not possibly be such persons as the Masters, because Ernest had positively told him that there were not. I wrote to the same newspaper to say that I had it on precisely the same valueless authority that there were Masters, and that Ernest knew Them well. In each case Ernest had evidently reflected the thought of the questioner, as such entities so often do.Tôi có thể nhắc ở đây rằng liên quan đến việc này, về sau tôi đã có một ví dụ điển hình về tính không đáng tin của mọi loại thông tin như thế. Một thời gian khá lâu sau đó, có một nhà thần linh học viết cho Ánh Sáng giải thích rằng không thể có những nhân vật như các Chân sư, vì Ernest đã quả quyết nói với ông ta rằng không hề có. Tôi cũng viết cho tờ báo ấy để nói rằng tôi cũng dựa trên cùng một thứ thẩm quyền vô giá trị như vậy mà khẳng định rằng các Chân sư, và rằng Ernest quen biết Các Ngài. Trong mỗi trường hợp, rõ ràng Ernest đã phản chiếu tư tưởng của người hỏi, như những thực thể như thế thường làm.
To return to my story, I at once provisionally accepted Ernest’s offer. I said that I would write a letter to one of these Great Masters, and would confide it to him if my friend and teacher, Mr. Sinnett, approved. At the mention of this name the “spirits” were much perturbed; Daisy especially was very angry, and declared that she would have nothing to do with Mr. Sinnett under any circumstances; “Why, he calls us spooks!” she said, with great indignation. However, I blandly stuck to my point that all I knew of Theosophy had come to me through Mr. Sinnett, and that I therefore did not feel justified in going behind his back in any way, or trying to find some other means of communication without first consulting him.Trở lại câu chuyện của tôi, tôi lập tức tạm chấp nhận đề nghị của Ernest. Tôi nói rằng tôi sẽ viết một lá thư cho một trong các Chân sư Cao cả, và sẽ giao lại cho y nếu bạn và là thầy dạy của tôi, Ông Sinnett, đồng ý. Khi nghe nhắc đến tên này, “các linh” tỏ ra rất bối rối; đặc biệt Daisy rất tức giận, và quả quyết rằng cô sẽ không can dự gì đến Ông Sinnett trong bất kỳ hoàn cảnh nào; “Ông ta gọi bọn tôi là ma cỏ kia mà!”—cô nói, hết sức phẫn nộ. Tuy nhiên, tôi điềm đạm giữ vững quan điểm rằng mọi điều tôi biết về Thông Thiên Học đến với tôi qua Ông Sinnett, và vì thế tôi không thấy chính đáng khi làm bất cứ điều gì sau lưng ông, hoặc tìm một cách liên lạc khác mà không hỏi ý ông trước.
Finally, though with a very bad grace, the spirits consented to this, and the séance presently terminated. When Mr. Eglinton came out of his trance, I asked him how I could send a letter to Ernest, and he said at once that if I would let him have the letter he would put it in a certain box which hung against the wall, from which Ernest would take it when he wished. I then posted off to Mr. Sinnett, and asked his opinion of all this. He was at once eagerly interested, and advised me promptly to accept the offer and see what happened.Cuối cùng, dù hết sức miễn cưỡng, các linh cũng chấp thuận, và buổi gọi hồn chẳng mấy chốc kết thúc. Khi Ông Eglinton ra khỏi trạng thái xuất thần, tôi hỏi làm sao tôi có thể gửi thư cho Ernest, và ông lập tức nói rằng nếu tôi đưa ông bức thư, ông sẽ đặt nó vào một chiếc hộp treo trên tường, từ đó Ernest sẽ lấy khi y muốn. Rồi tôi vội viết thư cho Ông Sinnett, hỏi ý ông về tất cả chuyện này. Ông lập tức tỏ ra hết sức quan tâm, và khuyên tôi mau chóng chấp nhận đề nghị ấy và xem điều gì sẽ xảy ra.

A Letter to the Master—Một bức thư gửi đến Chân sư

Thereupon I went home and wrote three letters. The first was to the Master K. H., telling Him with all reverence that ever since I had first heard of Theosophy my one desire had been to place myself under Him as a pupil. I told Him of my circumstances at the time, and asked whether it was necessary that the seven years of probation of which I had heard should be passed in India. I put this letter in a small envelope and sealed it carefully with my own seal. Then I enclosed it in a letter to Ernest in which I reminded him of his promise, and asked him to deliver this letter for me, and to bring back an answer if there should be one. That second letter I sealed in the same manner as the first, and then I enclosed that in turn with a short note to Eglinton, asking him to put it in his box, and let me know whether any notice was taken of it. I had asked a friend who was staying with me to examine the seals of both the letters with a microscope, so that if we should see them again we might know whether anyone had been tampering with them. By return of post I received a note from Mr. Eglinton, saying that he had duly put the note for Ernest into his box, and that it had already vanished, and further that if any reply should come to him he would at once forward it.Sau đó tôi về nhà và viết ba bức thư. Bức thứ nhất gửi cho Chân sư KH, kính cẩn thưa với Ngài rằng từ khi lần đầu tiên tôi nghe nói về Thông Thiên Học, một ước nguyện duy nhất của tôi là được đặt mình dưới sự chỉ dạy của Ngài như một môn sinh. Tôi trình Ngài hoàn cảnh của mình lúc bấy giờ, và hỏi liệu có cần thiết phải trải qua bảy năm dự bị mà tôi đã nghe nói, và liệu thời gian đó phải trôi qua ở Ấn Độ hay không. Tôi bỏ bức thư này vào một phong bì nhỏ và cẩn thận niêm phong bằng ấn của chính tôi. Rồi tôi cho nó vào trong một bức thư gửi Ernest, trong đó tôi nhắc anh ta về lời hứa của anh, và nhờ anh chuyển giùm bức thư này, và nếu có hồi âm thì mang về cho tôi. Bức thư thứ hai ấy tôi cũng niêm phong y như bức đầu, rồi lại kèm nó với một mảnh ghi chú ngắn gửi Eglinton, nhờ ông bỏ vào hộp của mình, và cho tôi biết liệu có ai lưu ý đến nó không. Tôi đã nhờ một người bạn đang ở cùng tôi dùng kính hiển vi kiểm tra các con dấu của cả hai bức thư, để nếu sau này chúng tôi gặp lại, chúng tôi có thể biết có ai đó đã động chạm gì đến chúng hay không. Chỉ trong chuyến thư hồi âm kế tiếp, tôi nhận được một mảnh ghi của Ông Eglinton, nói rằng ông đã bỏ đúng cách mảnh ghi cho Ernest vào hộp, và nó đã biến mất, thêm rằng nếu có hồi âm nào gửi đến ông, ông sẽ lập tức chuyển tiếp.
A few days later I received a letter directed in a hand which was unknown to me, and on opening it I discovered my own letter to Ernest apparently unopened, the name “Ernest” on the envelope being crossed out, and my own written underneath it in pencil. My friend and I once more examined the seal with a microscope, and were unable to detect any indication whatever that any one had tampered with the letter, and we both agreed that it was quite impossible that it could have been opened; yet on cutting it open I discovered that the letter which I had written to the Master had disappeared. All that I found inside was my own letter to Ernest, with a few words in the well-known handwriting of the latter written on its blank page, to the effect that my letter had been duly handed to the Great Master, and that if in the future I should ever be thought worthy to receive an answer Ernest would gladly bring it to me.Vài ngày sau, tôi nhận được một lá thư đề tên bằng nét bút lạ, và khi mở ra, tôi thấy bức thư của chính tôi gửi Ernest hình như vẫn chưa mở, tên “Ernest” trên phong bì bị gạch bỏ, và bên dưới là tên tôi viết bằng bút chì. Tôi và người bạn lại soi con dấu bằng kính hiển vi, và không thể phát hiện bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy có ai can thiệp vào bức thư, và cả hai chúng tôi đều đồng ý là hoàn toàn không thể nào nó đã bị mở; vậy mà khi cắt nó ra, tôi phát hiện bức thư tôi viết cho Chân sư đã biến mất. Tất cả những gì tôi tìm thấy bên trong là bức thư của tôi gửi Ernest, với vài dòng chữ viết tay rất quen thuộc của anh ta trên trang giấy trắng, cho biết rằng thư của tôi đã được trao đúng cách cho Vị Chân sư Vĩ Đại, và rằng nếu trong tương lai tôi được xem là xứng đáng để nhận hồi âm, Ernest sẽ vui lòng mang nó đến cho tôi.
I waited for some months, but no reply came, and whenever I went to Eglinton’s séances and happened to encounter Ernest, I always asked him when I might expect my answer. He invariably said that my letter had been duly delivered, but that nothing had yet been said about an answer, and that he could do no more. Six months later I did receive a reply, but not through Ernest, and in it the Master said that though He had not received the letter (nor, as He remarked, was it likely that He should, considering the nature of the messenger) He was aware of what I had written and He now proceeded to answer it.Tôi chờ đợi mấy tháng, nhưng không có hồi âm nào, và bất cứ khi nào tôi đến dự các buổi gọi hồn của Eglinton và tình cờ gặp Ernest, tôi luôn hỏi anh khi nào tôi có thể trông đợi câu trả lời. Anh ta luôn nói rằng thư của tôi đã được trao đúng cách, nhưng chưa có gì được nói về hồi âm, và anh không thể làm gì hơn. Sáu tháng sau, tôi quả có nhận được hồi âm, nhưng không qua Ernest; trong đó Chân sư nói rằng tuy Ngài không nhận được bức thư (và như Ngài nhận xét, xét đến bản chất của sứ giả, điều ấy cũng khó có thể xảy ra), Ngài vẫn biết điều tôi đã viết và nay Ngài tiến hành trả lời.
It will be necessary presently to explain what His answer was, and what steps I took in consequence of it; but before I can make that intelligible, I must turn aside to describe some other incidents which had occurred in the meantime while I was waiting in hope of receiving that reply.Sắp tới sẽ cần giải thích hồi âm của Ngài là gì, và những bước tôi đã làm theo sau đó; nhưng trước khi có thể khiến điều đó trở nên dễ hiểu, tôi phải rẽ ngang để mô tả vài sự kiện khác đã xảy ra trong thời gian tôi chờ đợi, hy vọng nhận được hồi âm ấy.

Leave a Comment

Scroll to Top