Luận Về Lửa Vũ Trụ – S3S2 (231-237)

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
📘DOCX📕PDF

S3S2: TCF 231-237

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Phần lớn văn bản của Chân sư Tây Tạng được trình bày ở cỡ chữ 16, để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong các lớp. Chú thích và tham chiếu từ các sách AAB khác và từ các trang khác của TCF được trình bày ở cỡ chữ 14. Lời bình ở cỡ chữ 12. Gạch dưới, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

1. The major part of the book, A Treatise on Cosmic Fire, deals with the Fire of Mind, and with the study of this fire we ill be engaged for the next three and a half years.

1. Phần chủ yếu của cuốn sách, Luận về Lửa Vũ Trụ, đề cập đến Lửa của Thể Trí, và với việc nghiên cứu ngọn lửa này chúng ta sẽ dấn thân trong ba năm rưỡi tới.

2. In this section of the book the Tibetan is addressing Himself to certain fundamental questions.

2. Trong phần này của sách, Chân sư Tây Tạng đang tự mình đề cập đến một số câu hỏi nền tảng.

II. WHAT IS EVOLUTION AND HOW DOES IT PROCEED?

II. TIẾN HÓA LÀ GÌ VÀ NÓ TIẾN HÀNH NHƯ THẾ NÀO?

1. Life Cycles.

1. Các Chu Kỳ Sự Sống.

I do not propose to deal here with the evolutionary process in any other way than briefly to indicate that the whole method of evolution is simply that of adjusting the matter aspect to the Spirit aspect, so that the former proves entirely adequate as a body of expression for the latter.

Tôi không chủ trương bàn ở đây về tiến trình tiến hóa theo cách nào khác ngoài việc chỉ ra vắn tắt rằng toàn bộ phương pháp tiến hóa đơn giản là điều chỉnh phương diện chất liệu cho thích ứng với phương diện Tinh thần, để phương diện trước tỏ ra hoàn toàn thích đáng như một vận cụ biểu lộ cho phương diện sau.

3. One wonders whether there can ever be entire adequacy, such that the entirety of the Spirit aspect can be expressed through the matter aspect. One imagines that Spirit, on its own plane, is relatively untrammeled when compared to Spirit as it could express on lower planes.

3. Người ta tự hỏi liệu có bao giờ có thể đạt đến sự thích đáng trọn vẹn, đến mức toàn thể phương diện Tinh thần có thể được biểu đạt qua phương diện chất liệu. Có thể hình dung rằng Tinh thần, ở trên chính cõi của nó, tương đối không bị câu thúc khi so với Tinh thần như có thể biểu đạt trên các cõi thấp.

4. Yet, since Spirit and Matter are, essentially, one and the same, and an “entirely adequate” expression may, after all, be possible.

4. Tuy vậy, vì Tinh thần và Chất liệu, xét về bản thể, là một và đồng nhất, nên một biểu lộ “hoàn toàn thích đáng” rốt cuộc có thể khả hữu.

5. In relation to the theme of evolution, we may define perfection as evolution ideally (i.e., archetypally) completed through the ideal utilisation of the not-Self by the Self, such that the Self is completely expressed through the not-Self.

5. Liên hệ đến đề tài tiến hóa, chúng ta có thể định nghĩa sự hoàn hảo như tiến hóa được hoàn tất lý tưởng (tức theo mẫu gốc), qua việc sử dụng lý tưởng cái Phi-Ngã bởi cái Ngã, đến mức cái Ngã được biểu lộ trọn vẹn qua cái Phi-Ngã.

6. There is a close relation between beauty and perfection. Evolution, perfectly realized, will achieve an archetypal beauty of form through all worlds and planes lower than the archetypal plane whereon perfectly beautiful ‘forms’ already exist—albeit, in their archetypal state.

6. Có một liên hệ gần gũi giữa cái Đẹp và sự Hoàn thiện. Tiến hóa, khi được thực hiện hoàn hảo, sẽ đạt vẻ đẹp mẫu gốc của hình tướng qua mọi thế giới và cõi thấp hơn cõi mẫu gốc, nơi ‘hình tướng’ hoàn mỹ vốn đã hiện hữu—dù ở trạng thái mẫu gốc của chúng.

7. Of one thing we may be certain: that the degree to which matter presently proves a body of expression for Spirit can be vastly improved.

7. Có một điều chúng ta có thể chắc chắn: mức độ mà chất liệu hiện nay tỏ ra là vận cụ biểu lộ cho Tinh thần có thể được cải thiện vô cùng.

8. During future cycles we can expect a far close approximation of the forms of matter to the will and intention of Spirit.

8. Trong những chu kỳ tương lai, chúng ta có thể kỳ vọng một sự xấp xỉ gần hơn nhiều giữa các hình tướng của chất liệu với ý chí và ý định của Tinh thần.

9. It becomes clear that the processes of evolution (through most phases) are determined by the Law of Attraction. Only during the latter stages of the evolutionary process does the Law of Synthesis supervene.

9. Rõ ràng các tiến trình tiến hóa (trong phần lớn các giai đoạn) được quyết định bởi Định luật Hấp dẫn. Chỉ trong những chặng cuối của tiến trình tiến hóa, Định luật Tổng hợp mới trùm lên.

The life cycle of the Son is one hundred years of Brahma in the same sense as man has a life cycle consisting of a certain number of years, dependent upon his karma. 

Chu kỳ sự sống của Con là một trăm năm của Brahma theo cùng ý nghĩa như con người có một chu kỳ sự sống gồm một số năm nhất định, tùy thuộc vào nghiệp quả của y.

10. In this case the term “Son” cannot mean only the objective solar system. A solar system is a multi-planar energy-structure built by a process of emanation or ‘occult condensation’ from the higher planes to lower. Time must be allowed for the processes of initial emanation and eventual reabsorption, of occult condensation/precipitation, on the one hand, and of occult ‘evaporation’/etherealization on the other.

10. Trong trường hợp này, thuật ngữ “Con” không thể chỉ có nghĩa là hệ mặt trời khách quan. Một hệ mặt trời là một cấu trúc năng lượng đa tầng được kiến thiết bởi tiến trình xuất lộ hay ‘ngưng tụ huyền linh’ từ các cõi cao xuống thấp. Phải có thời gian cho các tiến trình xuất lộ ban đầu và hấp thu sau cùng, của ngưng tụ/giáng hiện huyền bí, một mặt, và của ‘bay hơi’/dĩ thái hóa huyền bí, mặt khác.

11. According to the figures given in occult texts, one hundred years of Brahma have a duration of 311,040,000,000,000, Earth years. It will immediately be realized that this figure dwarfs the figures suggested by the current speculations of science for the duration of the entire physical universe by a factor (let us estimate) of some 20,000 to 30,000. In other words, the occult figure is approximately 20,000 to 30,000 times longer than the figures offered by modern science for the duration of the entire universe (considered only physically, for only a physical conception fits with the usual scientific paradigm).

11. Theo các con số nêu trong các văn bản huyền môn, một trăm năm của Brahma có độ dài 311.040.000.000.000 năm Trái Đất. Lập tức có thể nhận ra rằng con số này làm lu mờ các con số do khoa học hiện đại phỏng đoán cho tuổi thọ của toàn vũ trụ vật chất với một hệ số (chúng ta ước lượng) chừng 20.000 đến 30.000. Nói cách khác, con số huyền môn xấp xỉ dài hơn 20.000 đến 30.000 lần các con số mà khoa học hiện đại đưa ra cho độ dài tồn tại của toàn vũ trụ (chỉ xét về mặt vật chất, vì chỉ một quan niệm vật chất mới phù hợp với mô hình khoa học thông thường).

12. Since the speculations of modern science are always being revised, it would be wise to attend to these speculations while attempting to fathom the real meaning of the huge figure given by occultism (for it may have both a literal meaning and a symbolic meaning).

12. Vì các phỏng đoán của khoa học hiện đại luôn được hiệu đính, sẽ khôn ngoan khi theo dõi chúng trong lúc cố gắng thấu hiểu ý nghĩa thật sự của con số khổng lồ do huyền môn đưa ra (vì nó có thể vừa mang ý nghĩa chữ, vừa mang ý nghĩa biểu tượng).

13. VSK queries: “Does this imply that a man’s life cycle is set to a fixed number, for any one incarnation?”

13. VSK nêu vấn đề: “Điều này có hàm ý rằng chu kỳ đời người được ấn định con số cố định cho mỗi lần lâm phàm chăng?”

14. May it be suggested that the average life span for man is fixed or archetypal, but that the actual duration is individual. This may also be the case for a Solar Logos.

14. Có thể gợi rằng tuổi thọ trung bình của con người là cố định hay mẫu gốc, nhưng độ dài thực tế là cá nhân. Điều này cũng có thể đúng đối với một Thái dương Thượng đế.

15. We have no way of knowing whether the one hundred years of Brahma is a general number applicable to Solar Logoi such as our Solar Logos, or whether it is exactly literal. The Tibetan sometimes gives us large whole numbers for certain cycles but tells us that the real figures are secrets of initiation.

15. Chúng ta không có cách nào biết được liệu “một trăm năm của Brahma” là một con số khái quát áp dụng cho các Thái dương Thượng đế như Thái dương Thượng đế của chúng ta, hay liệu nó là chính xác theo nghĩa đen. Chân sư Tây Tạng đôi khi đưa cho chúng ta các con số nguyên lớn cho những chu kỳ nhất định nhưng lại nói rằng các con số thật sự là những bí mật của điểm đạo.

16. It is said that four score and ten are allotted to the life of man. We recognize this as a general figure having an approximate truth—on average. Perhaps the same may be said of the hundred years of Brahma.

16. Người ta nói rằng đời người được định phần “bốn mươi tám và mười”, tức chín mươi tuổi. Chúng ta nhận ra đây là một con số khái quát có chân lý gần đúng—trung bình mà nói. Có lẽ điều tương tự cũng có thể nói về “một trăm năm của Brahma”.

17. Karma enters in relation to the life cycle of a particular man and, perhaps, in relation to the life cycle of a particular Solar Logos. According to this hypothesis, then, according to the karma so would be the exact duration of the life span of such a Logos.

17. Nghiệp quả tham dự vào chu kỳ sống của một con người cụ thể và, có lẽ, vào chu kỳ sống của một Thái dương Thượng đế cụ thể. Theo giả thuyết này thì, tùy theo nghiệp quả mà thời lượng chính xác của kiếp sống của một vị Logos như thế sẽ là như vậy.

18. The “Son” is the form builder. The form of a solar system is multi-planar. The integrity of the life of the Son refers, therefore, to all planes on which forms contributing to the great form of the Son may be found.

18. “Đứa Con” là đấng kiến tạo hình tướng. Hình tướng của một Thái dương hệ là đa diện-cõi. Do đó, tính toàn vẹn của sự sống của Đứa Con liên quan đến mọi cõi mà trên đó có những hình tướng góp phần vào đại hình tướng của Đứa Con.

19. It should be noted that one hundred years is often considered the ideal duration for the life of man in this present Yuga. Certainly, the thought of living to be a hundred is universally present in present-day human consciousness. Perhaps, as suggested by the occult historian Phillip Lindsay, the ideal duration for a human incarnation during the Krita Yuga would be four hundred years, with three hundred years for the Treta Yuga and two hundred years for the Dwapara Yuga.

19. Cần lưu ý rằng một trăm năm thường được xem là thời lượng lý tưởng cho đời người trong Yuga hiện tại. Chắc chắn, ý tưởng sống đến một trăm tuổi hiện diện một cách phổ quát trong tâm thức con người ngày nay. Có lẽ, như nhà sử học huyền môn Phillip Lindsay gợi ý, thời lượng lý tưởng cho một lần lâm phàm của con người trong Krita Yuga là bốn trăm năm, ba trăm năm trong Treta Yuga và hai trăm năm trong Dwapara Yuga.

20. It is significant that the Yuga figures and all the far vaster figures derived from them are related to the number 2160 (the present duration of one precessional cycle). The huge numbers presented in the Brahmanic Chronology are, therefore, based upon the duration of a major planetary cycle (one twelfth of the duration of a complete gyration of the Earth’s pole upon its axis)—i.e., the cycle of one precession of the equinox.

20. Điều đáng chú ý là các con số Yuga và tất cả những con số rộng lớn hơn phát sinh từ chúng đều liên hệ với con số 2160 (thời lượng hiện tại của một chu kỳ tuế sai). Do đó, các con số khổng lồ được nêu trong Niên biểu Bà-la-môn được đặt nền trên thời lượng của một chu kỳ hành tinh lớn (một phần mười hai thời lượng của một vòng quay trọn vẹn của cực Trái Đất quanh trục của nó)—tức chu kỳ tuế sai của điểm phân.

21. The Spiritual Hierarchy of our planet was established around eighteen million years ago. If we look carefully at this number, while considering the great cycle of 250,000 years (said, in occultism, to represent one cycle revolution of our solar system around the Pleiades) we shall see that approximately seventy-two such cycles have occurred in the eighteen million years.

21. Huyền Giai Tinh Thần của hành tinh chúng ta được thiết lập cách đây khoảng mười tám triệu năm. Nếu chúng ta xem xét kỹ con số này, đồng thời cân nhắc đại chu kỳ 250.000 năm (được nói, trong huyền môn học, là biểu trưng cho một chu kỳ quay của Thái dương hệ chúng ta quanh chòm Pleiades) chúng ta sẽ thấy rằng xấp xỉ bảy mươi hai chu kỳ như vậy đã diễn ra trong mười tám triệu năm ấy.

22. It is not without significance that it takes seventy-two years for the vernal point to move one degree during the precessional process and that seventy-two is exactly one thirtieth of the number 2160.

22. Không phải không có ý nghĩa khi phải mất bảy mươi hai năm để điểm xuân phân di chuyển một độ trong tiến trình tuế sai và rằng bảy mươi hai chính xác là một phần ba mươi của con số 2160.

23. These points can be elaborated more fully in another context. Suffice it to say that we can certainly agree with HPB, that the figures in the Hindu Chronology are not fanciful.

23. Những điểm này có thể được khai triển đầy đủ hơn trong một bối cảnh khác. Chỉ cần nói rằng chúng ta hoàn toàn có thể đồng ý với Bà HPB rằng các con số trong Niên biểu Ấn Độ giáo không phải là điều hư cấu.

During the life cycle of a man, he expresses what is in him at his particular stage, and gradually develops from the stage of the ante-natal period wherein the Self overshadows the matter aspect until the period wherein that Higher Self takes full possession of the prepared form.  This stage varies with every individual. 

Trong chu kỳ sống của một con người, y biểu lộ những gì nơi y tại giai đoạn riêng của mình, và dần dần phát triển từ giai đoạn tiền sản, trong đó Tự Ngã phủ bóng phương diện vật chất, cho đến giai đoạn mà Chân Ngã Cao hơn ấy chiếm hữu trọn vẹn hình tướng đã được chuẩn bị. Giai đoạn này khác nhau với mỗi cá nhân.

24. The term “ante-natal” means pre-natal.

24. Thuật ngữ “tiền sản” có nghĩa là trước khi sinh.

25. It is clear that the stage wherein the Higher Self (the soul) takes full possession of the prepared form is not physical birth.

25. Hiển nhiên giai đoạn mà Chân Ngã Cao hơn (linh hồn) chiếm hữu trọn vẹn hình tướng đã được chuẩn bị không phải là lúc sinh lý.

26. The stage of full possession has sometimes been conventionalized as seven years, but obviously it can vary greatly.

26. Giai đoạn chiếm hữu trọn vẹn đôi khi được ước lệ là bảy năm, nhưng rõ ràng nó có thể biến thiên rất lớn.

27. If the cycles of growth of the human being are seven years in duration (the Tibetan also suggests that we research ten year cycles), the first seven year cycle would correspond planetarily to one Vulcan cycle (or to the Moon, which often substitutes for Vulcan), to be followed by a Mercury cycle, a Venus cycle, a Sun cycle, a Mars cycle, etc., according to the order of the planets from the Sun (geocentrically considered). The Sun cycle would equivalent to an Earth cycle.

27. Nếu các chu kỳ trưởng thành của con người có thời lượng bảy năm (Chân sư Tây Tạng cũng gợi ý rằng chúng ta khảo cứu các chu kỳ mười năm), thì chu kỳ bảy năm đầu tiên sẽ tương ứng theo phương diện hành tinh với một chu kỳ Vulcan (hoặc với Mặt Trăng, vốn thường thay thế cho Vulcan), tiếp theo là một chu kỳ Sao Thủy, một chu kỳ Sao Kim, một chu kỳ Mặt Trời, một chu kỳ Sao Hỏa, v.v., theo thứ tự các hành tinh tính từ Mặt Trời (xét theo quan điểm địa tâm). Chu kỳ Mặt Trời sẽ tương đương với một chu kỳ Trái Đất.

28. It would be reasonable to relate full possession by the Higher Self to the year twenty-one, when a man reaches what is called his “majority”. The planets Vulcan/Moon, Mercury and Venus (planets within the Earth’s orbit_ would then have bestowed upon him their endowments and a fully activated personality would be presented as an instrument to the soul.

28. Hợp lý khi liên hệ sự chiếm hữu trọn vẹn bởi Chân Ngã Cao hơn với tuổi hai mươi mốt, khi một người đạt đến cái gọi là “tuổi thành niên”. Các hành tinh Vulcan/Mặt Trăng, Sao Thủy và Sao Kim (các hành tinh bên trong quỹ đạo Trái Đất) khi ấy sẽ ban cho y những phú bẩm của chúng và một phàm ngã được hoạt hóa đầy đủ sẽ được trình diện như một dụng cụ cho linh hồn.

29. Still, it may be that the stage represented by the Sun (the years twenty-one through twenty-eight) must have been traversed before a really integrated personality is presented to the soul for utilization.

29. Tuy vậy, có thể rằng giai đoạn được biểu trưng bởi Mặt Trời (từ hai mươi mốt đến hai mươi tám tuổi) phải được vượt qua trước khi một phàm ngã thật sự tích hợp được trình bày cho linh hồn sử dụng.

30. In fact, it may well be that the archetypal half-way mark of life, the year thirty-five, might not be the correct moment for full-possession. It is certainly at this age that (in many cases) the soul becomes assertive in a way hitherto not experienced. The year thirty-five represents five cycles of seven—five being one of the numbers easily associated with the soul and soul-culture.

30. Thực vậy, rất có thể mốc giữa-đời mang tính khuôn mẫu, tuổi ba mươi lăm, có lẽ không phải khoảnh khắc đúng cho sự chiếm hữu trọn vẹn. Chắc chắn là vào tuổi này (trong nhiều trường hợp) linh hồn trở nên khẳng quyết theo cách trước đó chưa từng trải. Tuổi ba mươi lăm biểu thị năm chu kỳ bảy năm—năm là một trong những con số dễ liên hệ với linh hồn và sự tu dưỡng linh hồn.

31. One wonders, whether, in some cases full possession of the prepared form is ever achieved. Much, it seems, would have to do with the maturity of the particular soul.

31. Người ta tự hỏi liệu, trong một số trường hợp, sự chiếm hữu trọn vẹn hình tướng đã chuẩn bị có bao giờ đạt được không. Có vẻ như điều đó tùy thuộc rất nhiều vào độ trưởng thành của linh hồn cụ thể.

32. At least, should development proceed normally and in a manner uninterrupted by karma, there comes a point in any incarnation when the possession achieved during the last incarnation is equaled in the present one.

32. Ít nhất, nếu việc phát triển diễn tiến bình thường và không bị nghiệp quả gián đoạn, thì đến một điểm nào đó trong bất kỳ lần lâm phàm nào, sự chiếm hữu đạt được trong lần lâm phàm trước sẽ được quân bình trong lần hiện tại.

33. We note with interest the term “possession”. Occultly, this can be either a positive or a negative event. Here, we are speaking of a positive possession—possession by the soul/Solar Angel (one way of viewing the Higher Self) of its personal reflection.

33. Chúng ta lưu ý với sự quan tâm đến thuật ngữ “chiếm hữu”. Về mặt huyền môn, điều này có thể là một sự kiện tích cực hoặc tiêu cực. Ở đây, chúng ta đang nói về một sự chiếm hữu tích cực—sự chiếm hữu bởi linh hồn/Thái dương Thiên Thần (một cách nhìn về Chân Ngã Cao hơn) đối với bản phản ảnh phàm ngã của Ngài.

From that time on fuller self-consciousness is sought, and the man (if proceeding normally) expresses himself through the form ever more adequately.

Kể từ thời điểm đó, người ta tìm kiếm tự-ý-thức đầy đủ hơn, và con người (nếu tiến triển bình thường) thể hiện bản thân qua hình tướng ngày càng tương xứng hơn.

34. We read here of the psychological effect of “full possession”. There is a movement towards the expansion of self-consciousness, and, perhaps, towards the expansion of consciousness in general.

34. Ở đây chúng ta đọc thấy hiệu quả tâm lý của “sự chiếm hữu trọn vẹn”. Có một sự chuyển động hướng tới sự mở rộng tự-ý-thức, và, có lẽ, hướng tới sự mở rộng tâm thức nói chung.

35. We might say that the moment of full possession represents a moment from which consciousness can be expanded beyond the point reached in the previous incarnation.

35. Chúng ta có thể nói rằng khoảnh khắc chiếm hữu trọn vẹn biểu thị một khoảnh khắc từ đó tâm thức có thể được mở rộng vượt quá điểm đạt được trong lần lâm phàm trước.

36. After full-possession, the man will find that the processes of his life become more ‘soul-driven’ and less automatic or instinctual than before.

36. Sau sự chiếm hữu trọn vẹn, con người sẽ thấy các tiến trình sống của mình trở nên “được linh hồn dẫn dắt” nhiều hơn và ít tự động hay bản năng như trước.

Each life of lesser cycle

Mỗi đời trong chu kỳ nhỏ hơn

37. This means, each incarnation.

37. Tức là, mỗi lần lâm phàm.

in the great cycle of the Ego or Self,

trong đại chu kỳ của Chân ngã hay Tự Ngã,

38. A cycle which may be reasonable conventionalized as twenty-five million years.

38. Một chu kỳ có thể hợp lý ước lệ là hai mươi lăm triệu năm.

39. The figure twenty-five million becomes reasonable when it is realized that Earth humanity was individualized some twenty-one million years ago and is still, primarily, emotionally polarized—thus, very far from the first initiation en masse.

39. Con số hai mươi lăm triệu trở nên hợp lý khi nhận ra rằng nhân loại trên Trái Đất được biệt ngã hóa cách đây chừng hai mươi mốt triệu năm và cho đến nay vẫn chủ yếu là phân cực cảm xúc—vậy nên còn rất xa mới đến lần điểm đạo thứ nhất trên quy mô tập thể.

sees that expression more complete, brings the form more under control and develops a conscious realisation of the Self until there comes a culminating cycle of lives in which the Self within rapidly dominates, and takes full authority.

nhìn thấy biểu lộ ấy ngày càng trọn vẹn hơn, đưa hình tướng vào dưới sự kiểm soát nhiều hơn và phát triển một sự nhận thức có ý thức về Tự Ngã cho đến khi xuất hiện một chu kỳ đời sống cao trào trong đó Tự Ngã bên trong nhanh chóng chế ngự và nắm quyền toàn triệt.

40. It is reasonable to associate this “culminating cycle of lives” with the twelve lives to which the Twelve Labours of Hercules refer. Whether the number of lives in this final cycle is exactly twelve, the reincarnational research of the future will reveal. It is conceivable that life in and/or under a particular sign would have to be repeated if the fullness of the lesson required were not learnt.

40. Hợp lý khi liên hệ “chu kỳ đời sống cao trào” này với mười hai đời mà Mười Hai Lao Công của Hercules ám chỉ. Số đời trong chu kỳ cuối cùng này có chính xác là mười hai hay không, thì các khảo cứu về luân hồi trong tương lai sẽ hé lộ. Có thể hình dung rằng đời sống trong và/hoặc dưới một dấu hiệu nào đó phải được lặp lại nếu bài học cần thiết chưa được học đầy đủ.

41. The rapidity of soul control is much increased during this final cycle.

41. Tốc độ kiểm soát của linh hồn gia tăng rất nhiều trong chu kỳ cuối này.

42. We should focus on the word “dominates” realizing that the musical note of the soul (emerging into ever-greater prominence) is the “dominant fifth”. The term “fifth” is equally important in relation to the soul, which represents the fifth kingdom of nature.

42. Chúng ta nên tập trung vào từ “chế ngự”, nhận ra rằng âm điệu chủ đạo của linh hồn (nổi lên với ngày càng nhiều ưu thế) là “bậc năm chủ âm”. Thuật ngữ “năm” cũng quan trọng không kém liên hệ với linh hồn, vốn đại diện cho giới thứ năm của thiên nhiên.

43. The idea of the soul dominating and taking full authority, suggests the astrological sign Leo, the fifth sign, and one easily associated with Herakles/Hercules—the “bright glory of Hera”, the soul.

43. Ý tưởng linh hồn chế ngự và nắm quyền toàn triệt gợi ra dấu hiệu chiêm tinh Sư Tử, dấu hiệu thứ năm, và dễ liên hệ với Herakles/Hercules—“vinh quang sáng chói của Hera”, tức linh hồn.

The form becomes wholly adequate; the fusion of the two poles of Spirit and matter is fully brought about; and the light (fire) and heat (radiation) is seen and felt systemically

Hình tướng trở nên hoàn toàn tương xứng; sự dung hợp của hai cực Tinh thần và vật chất được đưa đến trọn vẹn; và ánh sáng (lửa) và nhiệt (bức xạ) được thấy và cảm nhận mang tính hệ thống Thái dương.

44. We are to note the association of fire with light and of radiation with heat.

44. Chúng ta cần lưu ý mối liên hệ của lửa với ánh sáng và của bức xạ với nhiệt.

45. Light/fire is seen; heat/radiation is felt. The first has, therefore, a manasic association and the second, an association that it is sentient.

45. Ánh sáng/lửa được thấy; nhiệt/bức xạ được cảm. Vì vậy, cái trước có liên hệ manas và cái sau có liên hệ mang tính cảm tri.

46. VSK queries: “What is the difference between fusion and approximation of the poles? Is approximation some ratio or fraction of ‘full’ fusion?”

46. VSK nêu câu hỏi: “Sự khác nhau giữa dung hợp và xáp gần của các cực là gì? Sự xáp gần có phải là một tỷ lệ hay phân đoạn của sự dung hợp ‘đầy đủ’ không?”

47. VSK’s suggestion seems reasonable. Approximation seems a stage of relative rapport on the way to full fusion.

47. Gợi ý của VSK có vẻ hợp lý. Sự xáp gần dường như là một giai đoạn giao cảm tương đối trên đường đến dung hợp trọn vẹn.

48. VSK remarks: “We see the emphasis again on light and heat, the senses of light and of vision, thus of mind and matter, and of touch, and the one who radiates.”

48. VSK nhận xét: “Chúng ta lại thấy nhấn mạnh vào ánh sáng và nhiệt, các giác năng của ánh sáng và thị giác, do đó là của thể trí và vật chất, và của xúc giác, và về đấng phát xạ.”

49. We have been speaking of a combination of the fourth and fifth initiations as the human being experiences them. We note the very interesting assertion that the human being’s fourth initiation is a systemic event. This means that it is “seen and felt” in the solar system. Does this surprise us?

49. Chúng ta đã nói về một sự kết hợp của lần điểm đạo thứ tư và thứ năm như con người trải nghiệm chúng. Chúng ta ghi nhận khẳng định rất thú vị rằng lần điểm đạo thứ tư của con người là một sự kiện mang tính hệ thống Thái dương. Điều này có nghĩa là nó được “thấy và cảm” trong toàn Thái dương hệ. Điều này có làm chúng ta ngạc nhiên không?

50. If this interpretation is correct, its correctness may be based on the fact that the fourth initiation is a buddhic event and the fifth has an atmic resonance. We remember that the Solar Logos descends no lower than the buddhic plane, all systemic planes below that point being, from His perspective, unprincipled.

50. Nếu cách giải thích này đúng, thì cái đúng ấy có thể đặt nền trên thực tế rằng lần điểm đạo thứ tư là một sự kiện Bồ đề và lần thứ năm có cộng hưởng atma. Chúng ta nhớ rằng Thái dương Thượng đế không giáng xuống thấp hơn cõi Bồ đề, mọi cõi mang tính hệ thống bên dưới điểm ấy, từ góc nhìn của Ngài, đều là vô nguyên khí.

Then the form is either consciously utilised for specific ends or is vacated, and the man is liberated.  Electric fire and fire by friction are fused, and the consequent solar fire blazes forth in radiant glory.

Rồi thì hình tướng hoặc được sử dụng một cách có ý thức cho những mục đích cụ thể, hoặc được rời bỏ, và con người được giải thoát. Lửa điện và Lửa ma sát được dung hợp, và Lửa Thái dương hệ quả bừng cháy trong vinh quang chói rực.

51. A study of the foregoing words confirms that the human being need not necessarily die physically at the fourth degree, for the form, following the fourth degree, may be “consciously utilized for specific ends”.

51. Nghiên cứu những lời trên xác nhận rằng con người không nhất thiết phải chết về mặt thể xác ở bậc thứ tư, vì hình tướng, sau bậc thứ tư, có thể “được sử dụng một cách có ý thức cho những mục đích cụ thể”.

52. If death does occur, it is equivalent to a liberation.

52. Nếu cái chết xảy ra, điều ấy tương đương với sự giải thoát.

53. If death does occur at the fourth degree, a new incarnation may be necessary for the fifth degree or that degree will be taken on inner planes. The following references suggests that initiation can be taken between lives or, in any case, outside the normal process of incarnation:

53. Nếu cái chết xảy ra ở bậc thứ tư, có thể cần một lần lâm phàm mới cho bậc thứ năm hoặc bậc đó sẽ được nhận trên các cõi nội. Những tham chiếu sau đây gợi ý rằng điểm đạo có thể được nhận giữa các đời hoặc, dù sao, bên ngoài tiến trình lâm phàm bình thường:

a) “Or initiation may be taken in the interim period between incarnations, or else immediately upon return to physical plane life. (DINA II 70)

a) “Hoặc việc điểm đạo có thể được thực hiện trong giai đoạn tạm thời giữa các lần lâm phàm, hoặc ngay lập tức khi trở lại đời sống cõi hồng trần. (DINA II 70)

b) Those who pass away from the earth after the fifth initiation, or those who do not become Masters in physical incarnation, take their subsequent initiations elsewhere in the system. (IHS 17)

b) Những ai rời khỏi trần gian sau lần điểm đạo thứ năm, hoặc những ai không trở thành Chân sư trong khi lâm phàm, sẽ nhận các lần điểm đạo kế tiếp ở nơi khác trong hệ. (IHS 17)

54. A still fuller liberation may be expected at the fifth degree when the debris caused by the destruction of the causal body is ‘cleared’.

54. Một sự giải thoát đầy đủ hơn nữa có thể được kỳ vọng ở bậc thứ năm khi những tàn tích gây ra bởi sự hủy diệt của thể nguyên nhân được ‘quét sạch’.

55. The fourth degree is most succinctly described in terms of fire—the fusion of electric fire and fire by friction and the blazing forth in radiant glory of solar fire. We note that it is the solar fire that blazes forth.

55. Bậc thứ tư được mô tả súc tích nhất bằng ngôn ngữ của lửa—sự dung hợp của Lửa điện và Lửa ma sát và sự bừng cháy rực rỡ của Lửa Thái dương. Chúng ta lưu ý rằng chính Lửa Thái dương bừng cháy.

56. The three members of the atomic triangle (mental unit, astral and physical permanent atoms) though they pertain to the lunar nature, are all involved in the display of light and heat.

56. Ba thành viên của tam giác nguyên tử (đơn vị hạ trí, và các Nguyên tử trường tồn cảm dục và hồng trần), tuy thuộc về bản chất thái âm, đều tham dự vào sự phô bày ánh sáng và nhiệt.

Extend this idea from man, an individualised unit of [232] consciousness, to the great Heavenly Men, in one of Whose bodies a man forms a cell.

Mở rộng ý tưởng này từ con người, một đơn vị [232] tâm thức đã biệt ngã hóa, đến các Đấng Thiên Nhân vĩ đại, trong một Thân thể của Các Ngài, con người tạo thành một tế bào.

57. Man is to be found throughout the solar system. Further, our ‘monadic home of origin’ (solar systemically speaking) is not necessarily the Earth, but more likely one of the sacred planets and, in fact, the Sun itself.

57. Con người hiện diện khắp Thái dương hệ. Hơn nữa, “quê” chân thần nguyên thủy của chúng ta (nói theo tầm mức Thái dương hệ) không nhất thiết là Trái Đất, mà có khả năng là một trong các hành tinh thiêng liêng, và, thực vậy, là chính Mặt Trời.

58. If to a Planetary Logos we are cell, then what would we be to a Solar Logos? A complex molecule perhaps? The question of scale would have to be studied closely to find that type of Entity to whom man would be as an atom, or an even smaller unit—a subatomic particle, for instance.

58. Nếu đối với một Hành Tinh Thượng đế chúng ta là một tế bào, thì đối với một Thái dương Thượng đế chúng ta sẽ là gì? Có lẽ là một phân tử phức tạp? Câu hỏi về tỉ lệ quy mô cần được nghiên cứu kỹ để tìm ra kiểu Đấng mà đối với Ngài con người sẽ như một nguyên tử, hay thậm chí một đơn vị nhỏ hơn—ví dụ như một hạt hạ nguyên tử.

The body of expression of each Heavenly Man is one of the sacred planets, and They aim at the same goal as man—the attainment, on Their own levels, of full expression, and the development of Their vehicles of consciousness to a point where the Spirit may blaze forth as light divine, and as heat.

Thân thể biểu lộ của mỗi Đấng Thiên Nhân là một trong các hành tinh thiêng liêng, và Các Ngài nhắm tới cùng một mục tiêu như con người—tức đạt tới, trên các mức riêng của Các Ngài, sự biểu lộ viên mãn, và phát triển các vận cụ tâm thức của Các Ngài đến điểm nơi Tinh thần có thể bừng cháy như ánh sáng thiêng liêng và như nhiệt.

59. This is an interesting statement as, from a study of Esoteric Astrology one gathers that there are both sacred and non-sacred planets and, therefore, Heavenly Men who have reached the stage of sacredness (having taken a fifth initiation in some series of initiations) and those who have not yet done so and are, consequently, still in the non-sacred stage.

59. Đây là một khẳng định thú vị vì từ việc nghiên cứu Chiêm Tinh Học Nội Môn người ta nhận ra rằng có cả các hành tinh thiêng liêng lẫn không thiêng liêng, và do đó có những Đấng Thiên Nhân đã đạt đến giai đoạn thiêng liêng (đã nhận lần điểm đạo thứ năm trong một chuỗi điểm đạo nào đó) và những vị chưa đạt và vì thế vẫn còn ở giai đoạn không thiêng liêng.

60. When we speak of the blazing forth as “light divine and as heat”, one wonders about any possible blazing forth in love.

60. Khi chúng ta nói về sự bừng cháy như “ánh sáng thiêng liêng và như nhiệt”, người ta tự hỏi về khả năng bừng cháy trong tình thương.

61. One wonders why it is said that the “Spirit may blaze forth”. This is, perhaps a technical point. How can we justify the use of the term “Spirit” in that event known as the destruction of the causal body?

61. Người ta tự hỏi vì sao lại nói rằng “ Tinh thần có thể bừng cháy”. Đây có lẽ là một điểm kỹ thuật. Làm sao biện minh việc dùng thuật ngữ “Tinh thần” trong biến cố được gọi là hủy diệt thể nguyên nhân?

a) The term “Spirit” could be justified by considering the expression of the Heavenly Men on the monadic plane (as suggested in Chart V, TCF 344—The Evolution of a Solar Logos).

a) Thuật ngữ “Tinh thần” có thể được biện minh bằng cách xét đến sự biểu lộ của các Đấng Thiên Nhân trên cõi chân thần (như gợi ý trong Biểu đồ V, TCF 344—Sự Tiến hóa của một Thái dương Thượng đế).

b) Another approach to justification might be as follows. If the Jewel in the Lotus is an extension of Spirit (as various diagrams suggest—cf. The Egoic Lotus and the Centres, TCF 817), then the destruction of that Jewel may be involved in such a blaze, and through this destruction, we may consider that Spirit is blazing forth.

b) Cách khác để biện minh có thể như sau. Nếu Viên Ngọc trong Hoa Sen là một xuất lộ của Tinh thần (như nhiều sơ đồ gợi ý—x. Hoa Sen Chân Ngã và các Trung tâm, TCF 817), thì sự hủy diệt Viên Ngọc ấy có thể tham dự vào một cuộc bừng cháy như vậy, và qua sự hủy diệt này, chúng ta có thể xem như Tinh thần đang bừng cháy.

This heat radiates consciously and with intense magnetic attraction between all the seven systemic groups, or planetary schemes.  Their magnetic field of action will include the planetary radius of one and all.

Nhiệt này phát xạ một cách có ý thức và với sức hút từ tính mãnh liệt giữa tất cả bảy nhóm mang tính hệ thống Thái dương, hay các hệ hành tinh. Trường tác động từ tính của Các Ngài sẽ bao gồm bán kính hành tinh của từng vị và toàn bộ.

62. When such a climax is reached in any one systemic group, this induction of magnetism between the seven systemic groups occurs.

62. Khi một cao trào như vậy đạt được trong bất kỳ một nhóm mang tính hệ thống nào, thì sự cảm ứng từ tính giữa bảy nhóm mang tính hệ thống xảy ra.

63. It is remarkable to realize how interdependent are the planetary schemes! Just as the occurrence of the fourth initiation in a human being becomes a planetary event, so the occurrence of the fourth initiation for a Planetary Logos becomes a solar systemic event.

63. Thật đáng kinh ngạc khi nhận ra các hệ hành tinh phụ thuộc lẫn nhau đến mức nào! Cũng như việc xảy ra lần điểm đạo thứ tư nơi một con người trở thành một sự kiện mang tính hành tinh, thì việc xảy ra lần điểm đạo thứ tư đối với một Hành Tinh Thượng đế trở thành một sự kiện mang tính Thái dương hệ.

64. No entity lives unto itself alone. This is both a microcosmic and macrocosmic truth.

64. Không một hữu thể nào sống chỉ cho riêng mình. Đây là một chân lý vừa vi mô vừa vĩ mô.

Carry this thought still further to include the Son, and the entire solar system which He animates;

Hãy mang tư tưởng này đi xa hơn để bao gồm Đức Con, và toàn bộ Thái dương hệ mà Ngài làm sinh động;

65. In these commentaries, we have been considering the concept of the Son in two principle ways—as the objective solar system and as the causative life ‘behind’ and ‘within’ that solar system.

65. Trong các chú giải này, chúng ta đã xét đến khái niệm Đức Con theo hai cách chủ yếu—như Thái dương hệ khách quan và như sự sống gây nhân “đằng sau” và “bên trong” Thái dương hệ ấy.

66. Here, it is clear that the second of the two meanings is meant. The Son is the animator, the anima or soul of the solar system.

66. Ở đây, rõ ràng là ý nghĩa thứ hai được dùng. Đức Con là đấng làm sinh động, là anima hay linh hồn của Thái dương hệ.

His attempt is to find full expression therein, so that eventually and consciously His light may be seen and His heat, or magnetic radiation, may be felt beyond His immediate sphere of influence, the logoic ring-pass-not.

Ngài cố gắng tìm sự biểu lộ viên mãn trong đó, để rồi sau cùng và một cách có ý thức Ánh sáng của Ngài có thể được thấy và Nhiệt của Ngài, hay bức xạ từ tính, có thể được cảm ở ngoài phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của Ngài, tức vòng-giới-hạn logoic.

67. We are in the process of extending the analogy. We have seen how the fourth initiation of both a human being and a Planetary Logos are felt far beyond the circumference of their respective ring-pass-nots. Now we are dealing with the fourth initiation of the Life informing a solar system and the extended influence of such an event beyond the logoic ring-pass-not.

67. Chúng ta đang mở rộng phép tương ứng. Chúng ta đã thấy lần điểm đạo thứ tư của cả con người lẫn một Hành Tinh Thượng đế đều được cảm nhận vượt ngoài chu vi vòng-giới-hạn tương ứng của họ. Giờ đây chúng ta đang bàn về lần điểm đạo thứ tư của Sự Sống thấm nhuần một Thái dương hệ và ảnh hưởng mở rộng của biến cố như vậy vượt quá vòng-giới-hạn logoic.

68. We can think of the kind of group consciousness characteristic of a Planetary Logos or of a Solar Logos—at least we can think of the greater entities to whom these two types of beings would become more closely related following their respective fourth initiations.

68. Chúng ta có thể nghĩ về kiểu tâm thức nhóm đặc trưng của một Hành Tinh Thượng đế hay một Thái dương Thượng đế—ít nhất chúng ta có thể nghĩ về các Đại Nguyên thể mà sau lần điểm đạo thứ tư tương ứng của họ, hai kiểu hữu thể này sẽ trở nên liên hệ mật thiết hơn.

69. What lies beyond our Solar Logos’ ring-pass-not? Specifically six other solar systems of the Seven Solar Systems of Which Ours is One, including such Logoi as the Logos of Sirius, of Procyon, of Alpha Centauri and others whose names should be the subject of careful analysis.

69. Cái gì nằm ngoài vòng-giới-hạn của Thái dương Thượng đế chúng ta? Cụ thể là sáu Thái dương hệ khác trong Bảy Thái dương Hệ mà Hệ của chúng ta là Một, bao gồm các Thượng đế như Thượng đế của Sirius, của Procyon, của Alpha Centauri và những vị khác mà danh xưng nên là đối tượng của sự phân tích cẩn trọng.

Both the light of the Son and the heat of the Son must be felt by the opposite cosmic pole, that constellation which is our system’s magnetic opposite.

Cả ánh sáng của Đức Con và nhiệt của Đức Con phải được cảm bởi cực đối nghịch vũ trụ, tức chòm sao là đối cực từ tính của hệ chúng ta.

70. From a planetary perspective, we may say that Venus is the magnetic opposite of our Earth. We are told that Earth is in a masculine incarnation and Venus, in a feminine one. They are, however, probably closely related for deeper reasons than this.

70. Từ viễn cảnh hành tinh, chúng ta có thể nói rằng Sao Kim là đối cực từ tính của Trái Đất chúng ta. Chúng ta được cho biết rằng Trái Đất đang trong một lần hóa thân nam tính và Sao Kim trong lần hóa thân nữ tính. Tuy nhiên, có lẽ chúng liên hệ mật thiết vì những lý do sâu xa hơn thế.

71. DK tells us that events occurring on Venus are felt on Earth and vice versa.

71. Chân sư DK cho biết các biến cố xảy ra trên Sao Kim được cảm trên Trái Đất và ngược lại.

72. He is now suggesting the same concerning our Solar Logos and another “constellation” within the Seven Solar Systems of Which Ours is One.

72. Ngài nay đang gợi ý điều tương tự liên quan đến Thái dương Thượng đế của chúng ta và một “chòm sao” khác trong Bảy Thái dương Hệ mà Hệ của chúng ta là Một.

73. Why is the term, “constellation” used instead of solar system? May we say that a constellation (beyond its usual definition) can be considered a grouping of heavenly bodies that are not necessarily stars.

73. Vì sao dùng thuật ngữ “chòm sao” thay vì Thái dương hệ? Chúng ta có thể nói rằng một chòm sao (vượt ngoài định nghĩa thông thường) có thể được xem là một tổ hợp các thiên thể không nhất thiết chỉ là các sao.

74. One of the group of local stars is the physical vehicle of a Solar Logos Who represents the magnetic opposite of our Solar Logos.

74. Một trong nhóm sao địa phương là hiện thể vật chất của một Thái dương Thượng đế, Đấng đại diện cho đối cực từ tính của Thái dương Thượng đế của chúng ta.

75. Could that other Logos be the Logos of Sirius? This is a possibility, for Sirius reasonably can be inferred to be the head center of the local system of seven major stars. (Some, however, say it is the ajna center.) In any case, the manasic quality of Sirius and its Logos represents a polarity with the astral-buddhic nature of our Solar Logos.

75. Liệu vị Logos kia có thể là Thượng đế của Sirius? Điều này có thể, vì có cơ sở hợp lý để suy ra rằng Sirius là trung tâm đầu của hệ cục bộ gồm bảy sao chính. (Tuy có người nói đó là trung tâm ajna.) Dù thế nào, phẩm tính manas của Sirius và Thượng đế của nó biểu thị một cực đối với bản chất cảm dục-Bồ đề của Thái dương Thượng đế của chúng ta.

76. However, there is, perhaps, a lack of proportion between Sirius and Sol, our Sun. Sirius is some thirty-three times brighter and quite a bit larger. There is, therefore, a considerable difference in absolute magnitude between them

76. Tuy nhiên, có lẽ có một sự thiếu tương xứng giữa Sirius và Sol, Mặt Trời của chúng ta. Sirius sáng hơn khoảng ba mươi ba lần và lớn hơn khá nhiều. Do đó có một khác biệt đáng kể về độ sáng tuyệt đối giữa chúng.

77. Should we be looking for a star which is closer in absolute magnitude to our Sun? If so, the star Alpha Centauri, the star closest to Sol, might be a good candidate. There may be reason to infer that Alpha Centauri can be considered a sacral center within the Seven Solar Systems of Which Ours is One. According to chakric distinction, there would be a difference in polarity between this star and Sol (for our Sun is as a heart center), but is the difference in emphasis really the difference in magnetism to which the Tibetan refers? We will have to ponder.

77. Chúng ta có nên tìm một ngôi sao gần với Mặt Trời của chúng ta hơn về độ sáng tuyệt đối không? Nếu vậy, sao Alpha Centauri, ngôi sao gần Sol nhất, có thể là một ứng viên tốt. Có thể suy luận rằng Alpha Centauri được xem như một trung tâm xương cùng trong Bảy Thái dương Hệ mà Hệ của chúng ta là Một. Theo phân biệt luân xa, sẽ có khác biệt về cực tính giữa ngôi sao này và Sol (vì Mặt Trời của chúng ta như là một trung tâm tim), nhưng liệu khác biệt về nhấn mạnh có thực sự là khác biệt về từ tính mà Chân sư Tây Tạng ám chỉ? Chúng ta sẽ phải suy ngẫm.

78. In any case Alpha Centauri and Sirius are the two stars closest to our Sun and, thus, may be considered good prospects for ‘marriage’.

78. Dù sao đi nữa, Alpha Centauri và Sirius là hai ngôi sao gần Mặt Trời chúng ta nhất và, do vậy, có thể được xem là những đối tượng ‘hôn phối’ triển vọng.

79. Normally, we would ask, “Of what is the heart center the polar opposite, or the “magnetic opposite”? Normally, we would say, “the head”. What, then, represents the head center of the Seven Solar Systems of Which Ours is One? Sirius is probably the best candidate, but, as previously stated, there are certain reservations which should be considered were we to this of choosing Sirius as our Sun’s polar opposite.

79. Bình thường, chúng ta sẽ hỏi: “Đối cực, hay ‘đối cực từ tính’, của trung tâm tim là gì?” Thông thường, chúng ta sẽ nói “là trung tâm đầu”. Vậy, điều gì đại diện cho trung tâm đầu của Bảy Thái dương Hệ mà Hệ của chúng ta là Một? Sirius có lẽ là ứng viên tốt nhất, nhưng như đã nói, có vài dè dặt cần cân nhắc nếu chúng ta nghĩ đến việc chọn Sirius làm đối cực của Mặt Trời chúng ta.

80. If the polar opposite of Sol is most affected by Sol’s fourth initiation, may we infer that when our Planetary Logos takes His fourth initiation, Venus is the planet most affected? It stands to reason because the proportion Sirius is to the Sun as Venus is to the Earth seems analogically convincing. Of course, Mars is part of a triangle involving both Venus and the Earth, and so the impact on Mars would be substantial as well.

80. Nếu đối cực của Sol chịu ảnh hưởng mạnh nhất bởi lần điểm đạo thứ tư của Sol, ta có thể suy ra rằng khi Hành Tinh Thượng đế của chúng ta nhận lần điểm đạo thứ tư, Sao Kim là hành tinh chịu ảnh hưởng mạnh nhất không? Điều này xem ra có lý vì tỷ lệ “Sirius đối với Mặt Trời” như “Sao Kim đối với Trái Đất” có vẻ thuyết phục theo lối suy luận tương đồng. Dĩ nhiên, Sao Hỏa là một phần của một tam giác liên đới cả Sao Kim và Trái Đất, nên tác động lên Sao Hỏa cũng sẽ đáng kể.

2. The objective of the units of consciousness.

2. Mục đích của các đơn vị tâm thức.

Thus, the thought of union and of fusion underlies the entire scheme of evolution;

Như vậy, tư tưởng về hợp nhất và dung hợp là nền tảng của toàn bộ đề án tiến hóa;

81. Evolution is a process related to the third ray. The third ray aspect of the will is known as the “Will to Evolve” (EA 605)

81. Tiến hoá là một tiến trình liên hệ với cung ba. Phương diện cung ba của ý chí được biết là “Ý Chí Tiến Hóa” (EA 605)

82. Yet, the second ray process of union and fusion underlies the entire scheme of evolution.

82. Tuy vậy, tiến trình hợp nhất và dung hợp của cung hai là nền tảng của toàn bộ đề án tiến hóa.

83. Really, it is impossible to separate any of the three major aspects from the evolutionary process. The entire process is driven by the purpose embodied in the first ray.

83. Thực ra, không thể tách rời bất kỳ trong ba Phương diện chủ yếu khỏi tiến trình tiến hóa. Toàn bộ tiến trình được thúc đẩy bởi mục đích được thể hiện trong cung một.

Man, the Heavenly Men, and the cosmic Man (the Son of the Father and the Mother) have to

Con người, các Đấng Thiên Nhân, và Con Người vũ trụ (Đứa Con của Cha và Mẹ) phải

84. In this case, it would seem that there is an equivalence between “cosmic Man” and a Solar Logos. The term “cosmic Man” however may be considered generic and may be applied to Entities of far vaster scope than a Solar Logos.

84. Trong trường hợp này, có vẻ như có một sự tương đương giữa “Con Người vũ trụ” và một Thái dương Thượng đế. Tuy nhiên, thuật ngữ “Con Người vũ trụ” có thể được xem như một thuật ngữ tổng quát và có thể áp dụng cho các Đấng có tầm vóc lớn lao hơn nhiều so với một Thái dương Thượng đế.

a. Radiate occult heat beyond their own individualised ring-pass-not.

a. Phát xạ nhiệt huyền linh ra ngoài vòng-giới-hạn đã biệt ngã hóa của chính mình.

85. This process surely begins before the third degree, but becomes, literally, spectacular at the fourth.

85. Tiến trình này chắc chắn khởi sự trước bậc thứ ba, nhưng trở nên, theo nghĩa đen, ngoạn mục ở bậc thứ tư.

86. VSK suggest that the process is akin to “bursting one’s own bubble”.

86. VSK gợi rằng tiến trình này giống như “bùng vỡ cái bong bóng của riêng mình”.

87. The evolutionary process is one of rejoining apparently severed parts. The fourth initiation represents a powerful moment of reunion. 

87. Tiến trình tiến hóa là một tiến trình tái-hòa nhập những phần có vẻ như bị phân lìa. Lần điểm đạo thứ tư biểu thị một khoảnh khắc tái hợp mạnh mẽ.

b. Occultly blaze forth and demonstrate light or fiery objectivity.

b. Bừng cháy một cách huyền linh và biểu lộ ánh sáng hay tính khách quan mang tính lửa.

88. Does this objectivity include the mental plane? If would seem so.

88. Liệu tính khách quan này bao gồm cả cõi trí không? Có vẻ như có.

89. Objectivity definitely refers to the physical plane, but occultly, objectivity—begins on the mental plane.

89. Tính khách quan chắc chắn ám chỉ cõi hồng trần, nhưng theo huyền môn, tính khách quan khởi đầu trên cõi trí.

90. This is certainly the case as far as a Solar Logos is concerned. The lower twenty one subplanes are purely objective in His ‘eyes’.

90. Trường hợp một Thái dương Thượng đế chắc chắn là như vậy. Hai mươi mốt cõi phụ thấp là hoàn toàn khách quan trong “nhãn quan” của Ngài.

91. Where does the truly subjective realm begin? It may be considered to begin with buddhi.

91. Lãnh vực thật sự chủ quan bắt đầu ở đâu? Có thể xem là bắt đầu từ Bồ đề.

92. In the case of the human being, if one loves with buddhic love, one is functioning as a subjective being.

92. Đối với con người, nếu một người yêu bằng tình thương Bồ đề, người ấy đang vận hành như một hữu thể chủ quan.

93. True love leads to true subjectivity.

93. Tình thương chân thật dẫn đến tính chủ quan chân thật.

94. Those who work with facility on the astral and mental planes (but cannot focus buddhically) are not yet working subjectively.

94. Những ai làm việc thành thạo trên các cõi cảm dục và trí tuệ (nhưng không thể tập trung ở Bồ đề) thì vẫn chưa làm việc một cách chủ quan.

95. Of course, the word “subjective” has different definitions in different contexts. In some contexts, to work within the egoic lotus is considered a subjective act. For the Solar Logos this is definitely not the case.

95. Tất nhiên, từ “chủ quan” có định nghĩa khác nhau trong những bối cảnh khác nhau. Trong vài bối cảnh, làm việc trong Hoa Sen Chân Ngã được xem là hành vi chủ quan. Đối với Thái dương Thượng đế thì chắc chắn không phải như vậy.

96. Really, for all the type of “man” here considered, subjectivity is ‘arupic’ (i.e., related to the formless planes).

96. Thật ra, đối với tất cả các kiểu “con người” được xét ở đây, tính chủ quan là ‘vô hình tướng’ (tức liên hệ các cõi vô sắc tướng).

c. Expand so as to include that which lies beyond their own immediate spheres.

c. Mở rộng để bao gồm những gì nằm ngoài các phạm vi tức thời của mình.

97. This type of expansion suggests group engagement. For a human being, it represents ashramic engagement.

97. Kiểu mở rộng này gợi lên sự dấn thân nhóm. Đối với con người, nó biểu thị sự gắn kết ashramic.

98. To what extent can we say that a Planetary Logos engaging with other Planetary Logoi, or a Solar Logos engaging with other Solar Logoi, is an example of ashramic engagement? We need to realize that the concept of the Ashram can be applied on exalted levels as well as on our own.

98. Ở mức độ nào chúng ta có thể nói rằng một Hành Tinh Thượng đế gắn kết với các Hành Tinh Thượng đế khác, hay một Thái dương Thượng đế gắn kết với các Thái dương Thượng đế khác, là một ví dụ của sự gắn kết ashramic? Chúng ta cần nhận ra rằng khái niệm Ashram có thể được áp dụng ở những cấp độ siêu việt cũng như ở cấp độ của chúng ta.

d. Fuse and blend the two fires so as to produce perfectly the central fire, solar fire.

d. Dung hợp và hòa trộn hai loại lửa để tạo ra một cách hoàn hảo trung hỏa, tức Lửa Thái dương.

99. The two fires here referenced are the fire by friction and electric fire.

99. Hai loại lửa được nhắc đến ở đây là Lửa ma sát và Lửa điện.

100. The suggestion is that unless the two fires are truly fused and blended, solar fire will not be “perfectly” produced.

100. Gợi ý ở đây là trừ phi hai loại lửa thật sự được dung hợp và hòa trộn, thì Lửa Thái dương sẽ không được “sản sinh một cách hoàn hảo”.

101. This has implications regarding the necessity for the influence of Spirit if Love is to reach its fruition.

101. Điều này hàm ý về sự tất yếu của ảnh hưởng Tinh thần nếu Bác Ái muốn đạt đến thành tựu.

e. Blend Spirit and matter so that a body is produced that will adequately express Spirit.

e. Hòa trộn Tinh thần và vật chất để tạo nên một thân thể đủ sức biểu lộ Tinh thần.

102. The body here referenced can be considered triadal (the body or personality of the Monad) and possibly ‘mayavirupic’ if the bodily demonstration is to take place on the lower planes.

102. Thân thể được nói đến ở đây có thể được xem là tam nguyên (thân hay phàm ngã của Chân thần) và có thể là ‘mayavirupic’ nếu sự biểu lộ thân thể được diễn ra trên các cõi thấp.

103. The true body of a fourth degree initiate is the spiritual triad.

103. Thân thể chân thật của một điểm đạo đồ bậc bốn là Tam Nguyên Tinh Thần.

104. Another type of body which may be indicated is the “body of fire”.

104. Một loại thân thể khác có thể được ẩn chỉ là “thân thể bằng lửa”.

“The centres, therefore, when functioning properly, form the “body of fire” which eventually is all that is left, first to man in the three worlds, and later to the Monad.  This body of fire is “the body incorruptible”72 or indestructible, spoken of by St. Paul, and is the product of evolution, of the perfect blending of the three fires, which ultimately destroy the form.  When the form is destroyed there is left this intangible spiritual body of fire, one pure flame, distinguished by seven brilliant centres of intenser burning.  This electric fire is the result of the bringing together of the two poles and demonstrates at the moment of complete at-one-ment, the occult truth of the words “Our God is a consuming Fire.” (TCF 166-167)

“Vậy nên, các trung tâm, khi vận hành đúng, hợp thành ‘thân thể bằng lửa’ vốn rốt cuộc là tất cả những gì còn lại, trước hết đối với con người trong ba cõi, và sau đó đối với Chân thần. Thân thể bằng lửa này là ‘thân thể không hư hoại’72 hay bất hoại, được Thánh Phao-lô nói đến, và là sản phẩm của tiến hóa, của sự hòa trộn hoàn hảo của ba loại lửa, vốn rốt cuộc hủy diệt hình tướng. Khi hình tướng bị hủy diệt, còn lại thân thể tinh thần-khó-nắm-bắt bằng lửa này, một ngọn lửa thuần nhất, được phân biệt bởi bảy trung tâm rực rỡ của ngọn lửa mãnh liệt hơn.  Lửa điện này là kết quả của việc đem hai cực lại với nhau và biểu lộ, vào lúc hoàn toàn nhất thể, chân lý huyền linh của lời phán: ‘Thượng đế của chúng ta là một Ngọn Lửa thiêu đốt.’ (TCF 166-167)

105. A high initiate has various vehicles for manifestation on various planes.

105. Một vị đại điểm đạo đồ có nhiều vận cụ để biểu hiện trên các cõi khác nhau.

f. Merge the essence within the form, which is occultly [233] qualified during evolution, with the essence in all form—humanly, in a planetary sense, and cosmically.

f. Hợp nhất tinh túy bên trong hình tướng, vốn được huyền linh [233] định phẩm trong tiến hóa, với tinh túy trong mọi hình tướng—trong nhân loại, theo nghĩa hành tinh, và theo nghĩa vũ trụ.

106. The essence here referenced is the Spirit itself; we might call it the ‘seventh essence’, or the seventh principle—the Atman (not Atma).

106. Tinh túy được nói đến ở đây chính là Tinh thần; chúng ta có thể gọi đó là ‘thất tinh túy’, hay nguyên khí thứ bảy—Atman (không phải Atma).

107. In the mantram, “Naught is but Me”, is suggested the dynamic by which Spirit is attracted to Spirit under the Law of Synthesis.

107. Trong mantram “Chẳng có gì ngoài Ta”, động lực được gợi ra là Tinh thần bị thu hút về với Tinh thần dưới Định luật Đồng hợp.

108. We note that the form is occultly qualified during evolution. This meant that it is impressed and patterned by the second divine aspect and, eventually, by the first divine aspect.

108. Chúng ta lưu ý rằng hình tướng được huyền linh định phẩm trong tiến hóa. Điều này có nghĩa là nó được ấn nhiễm và khuôn định bởi Phương diện thứ hai của Thượng đế và, rốt cuộc, bởi Phương diện thứ nhất.

g. Attain human, systemic and cosmic manhood.

g. Đạt đến nhân tính, hệ tính và nhân tính vũ trụ.

109. What really is the definition of “manhood”? Usually, it is considered the third initiation, but this section seems to give a more exalted position to “manhood”. It may be that one must be an initiate of the fourth or even fifth degree to become a full grown “man”.

109. “Nhân tính” thật sự được định nghĩa là gì? Thông thường, nó được xem là lần điểm đạo thứ ba, nhưng phần này dường như đặt “nhân tính” vào một vị trí cao hơn. Có thể phải là một điểm đạo đồ bậc bốn hay thậm chí bậc năm mới trở thành một “con người” trưởng thành hoàn toàn.

110. Interestingly, a Planetary Logos is not considered sacred until its fifth in a certain series of initiations. This may be the same for a Solar Logos. When is human “man” considered truly sacred? Will it be at Mastership?

110. Thật thú vị, một Hành Tinh Thượng đế không được xem là thiêng liêng cho đến lần điểm đạo thứ năm trong một chuỗi điểm đạo nào đó. Điều này có thể cũng đúng với một Thái dương Thượng đế. Khi nào “con người” nhân loại được xem là thật sự thiêng liêng? Liệu có phải ở bậc Chân sư?

111. It certainly seems that there is no manhood without the destruction of the causal body.

111. Rõ ràng dường như không có “nhân tính” đích thực nếu không có sự hủy diệt thể nguyên nhân.

112. In the section which follows the different levels of mastery required by each achieving “man” (human, planetary or solar) are tabulated.

112. Trong phần tiếp theo đây, các cấp độ “làm chủ” khác nhau được yêu cầu bởi mỗi “con người” đạt thành (nhân loại, hành tinh hay thái dương) được liệt kê.

h. Achieve mastery on three planes of the solar system, humanly speaking.

h. Đạt làm chủ trên ba cõi của Thái dương hệ, nói theo phương diện nhân loại.

113. We could ask, “will this mastery be of the mind, emotions and body, or will it be of the atmic, intuitional and manasic vehicles?

113. Chúng ta có thể hỏi, “việc làm chủ này sẽ là của tâm trí, cảm xúc và thân xác, hay sẽ là của các vận cụ atma, trực giác và manas?

114. It is more reasonable to think of the Master as having achieved Mastery over the three lower planes.

114. Hợp lý hơn khi nghĩ một vị Chân sư đã đạt làm chủ trên ba cõi thấp.

115. There are some references which should be accessed in relation to these thoughts:

115. Có vài tham chiếu nên được dẫn nhập liên hệ những tư tưởng này:

a) When man has attained the consciousness of the buddhic plane, he has raised his consciousness to that of the Heavenly Man in whose body he is a cell.  This is achieved at the fourth Initiation, the liberating initiation.  At the fifth Initiation he ascends with the Heavenly Man on to the fifth plane (from the human standpoint), the atmic, and at the sixth he has dominated the second cosmic ether and has monadic consciousness and continuity of function.  At the seventh Initiation he dominates the entire sphere of matter contained in the lowest cosmic plane, escapes from all etheric contact, and functions on the cosmic astral plane. (TCF 121)

a) Khi con người đạt đến tâm thức của cõi Bồ đề, y đã nâng tâm thức của mình đến ngang tầm của Đấng Thiên Nhân mà trong thân thể của Ngài y là một tế bào. Điều này đạt được ở lần Điểm đạo thứ tư, lần điểm đạo giải phóng. Ở lần Điểm đạo thứ năm, y thăng cùng Đấng Thiên Nhân lên cõi thứ năm (xét từ lập trường nhân loại), tức cõi atma, và ở lần thứ sáu y đã chế ngự cõi dĩ thái vũ trụ thứ hai và có tâm thức chân thần cùng tính liên tục của chức năng. Ở lần Điểm đạo thứ bảy y chế ngự toàn bộ phạm vi của chất liệu chứa trong cõi thấp nhất của vũ trụ vật chất, thoát khỏi mọi tiếp xúc dĩ thái, và vận hành trên cõi cảm dục vũ trụ. (TCF 121)

b) For instance, an adept can work with forms and force within [451] the ring-pass-not of his own planetary Logos within the three worlds, within the ring-pass-not of the polar opposite of his Logos, or within the ring-pass-not of three planetary Logoi who form a systemic triangle.  He cannot exhibit this power in the higher planes nor within the spheres of the synthesising and neutral schemes.  After the sixth Initiation his power extends to the two planes beyond the three worlds, the buddhic and the atmic, and within the spheres of the entire Brahma aspect as we visualise it as the totality of the schemes of the five Kumaras who are Brahma.  At the seventh Initiation he has power on all the seven planes and within the entire number of schemes; all the Sacred Words are then his and he can work in matter of all grades, sound all notes, and control all types of force.  He stands ready then to guide the life to regions outside the solar sphere of influence. (TCF 450-451)

b) Chẳng hạn, một chân sư có thể làm việc với các hình tướng và mãnh lực trong [ 451] vòng-giới-hạn của Hành Tinh Thượng đế của y trong ba cõi, trong vòng-giới-hạn của đối cực của Hành Tinh Thượng đế của y, hoặc trong vòng-giới-hạn của ba Hành Tinh Thượng đế hợp thành một tam giác mang tính hệ thống. Y không thể biểu lộ quyền năng này trên các cõi cao hơn cũng như trong các phạm vi của những hệ hành tinh tổng hợp và trung tính.  Sau lần Điểm đạo thứ sáu quyền năng của y mở rộng  đến hai cõi vượt trên ba cõi thấp, tức cõi Bồ đề và cõi atma, và trong các phạm vi của toàn bộ Phương diện Brahma như chúng ta hình dung nó như là tổng thể các hệ của năm vị Kumara là Brahma. Ở lần Điểm đạo thứ bảy y có quyền năng trên cả bảy cõi và trong toàn bộ số các hệ; tất cả các Thánh Ngôn khi ấy là của y và y có thể làm việc trong chất liệu mọi cấp, xướng mọi âm điệu, và kiểm soát mọi loại mãnh lực. Khi đó y sẵn sàng dẫn dắt sự sống đến các miền ở ngoài phạm vi ảnh hưởng của Thái dương cầu. (TCF 450-451)

c) The Chohans of the sixth Initiation work in the fourth and fifth ethers of the logoic etheric body (the buddhic and atmic planes), and deal with the passage of the life of Spirit from form to form in those worlds, having in view the transmutation of units in the spiritual kingdom into the monadic.  Those on still higher levels—the Buddhas and their Confreres of the first and third Rays—deal with the passage of the life into the sub-atomic, and atomic planes of the cosmic physical. (TCF 485)

c) Các Chohan của lần Điểm đạo thứ sáu làm việc trong cõi dĩ thái thứ tư và thứ năm của thể dĩ thái logoic (tức các cõi Bồ đề và atma), và xử lý sự chuyển thông của sự sống Tinh thần từ hình tướng này sang hình tướng khác trong những thế giới ấy, với mục tiêu chuyển hóa các đơn vị trong giới tinh thần thành giới chân thần. Những vị ở các cấp cao hơn nữa—các Đức Phật và Đồng Môn thuộc cung một và ba—xử lý sự chuyển thông của sự sống vào các cõi hạ nguyên tử, và nguyên tử của cõi vật chất vũ trụ. (TCF 485)

d) A Chohan of the sixth Initiation discards all the sheaths beneath the monadic vehicle, from the atmic to the physical. (TCF 569)

d) Một Chohan của lần Điểm đạo thứ sáu xả bỏ mọi bao thể bên dưới vận cụ chân thần, từ atma đến hồng trần. (TCF 569)

e) At the final two initiations, which set a man free from the three worlds and enable him to function in the logoic body of vitality and to wield the force which animates that logoic [697] vehicle, the initiate becomes the five-pointed star, and it descends upon him, merges in him, and he is seen at its very centre.  This descent is brought about through the action of the Initiator, wielding the Rod of Power, and puts a man in touch with the centre in the Body of the planetary Logos of which he is a part; this is consciously effected.  The two initiations, called the sixth and seventh, take place on the atmic plane; the five-pointed star “blazes forth from within itself” as the esoteric phrase has it, and becomes the seven-pointed star; it descends upon the man and he enters into the Flame. (TCF 696-697)

e) Ở hai lần điểm đạo tối hậu, vốn giải phóng con người khỏi ba cõi và cho phép y vận hành trong thể sinh khí logoic và sử dụng mãnh lực làm sinh động vận cụ logoic ấy, [ 697] vị điểm đạo đồ trở thành ngôi sao năm cánh, và nó giáng xuống y, hòa nhập vào y, và y được thấy ở ngay trung tâm của nó. Sự giáng lâm này được mang lại nhờ hành động của Đấng Điểm đạo, Đấng sử dụng Thần Trượng Quyền Năng, và đặt con người tiếp xúc với trung tâm trong Thân Thể của Hành Tinh Thượng đế mà y là một phần; điều này được thực hiện một cách có ý thức. Hai lần điểm đạo, gọi là lần thứ sáu và thứ bảy, diễn ra trên cõi atma; ngôi sao năm cánh “bừng cháy từ chính nội tâm nó” như thuật ngữ nội môn nói, và trở thành ngôi sao bảy cánh; nó giáng xuống con người và y nhập vào trong Ngọn Lửa. (TCF 696-697)

116. In the foregoing references, different grades of work are indicated. Our task is to determine what “mastery” really means for a human being. Although mastery is associated with the atmic plane, it is clear that for a Master, only the three lower subplanes of the cosmic physical plane are truly mastered, even though at mastery he is set free to work or to function in the third and fourth ethers—the atmic and buddhic planes.

116. Trong các tham chiếu trên, những cấp độ công tác khác nhau được chỉ định. Nhiệm vụ của chúng ta là xác định “làm chủ” thật sự có nghĩa gì đối với con người. Dẫu làm chủ có liên hệ với cõi atma, nhưng rõ ràng đối với một Chân sư, chỉ ba cõi thấp của cõi vật chất vũ trụ là thật sự được làm chủ, cho dù ở bậc làm chủ ấy y được giải phóng để làm việc hay vận hành trong hai cõi dĩ thái thứ ba và thứ tư—tức các cõi atma và Bồ đề.

117. The plane upon which an initiation occurs and the planes which are mastered are two quite different things.

117. Cõi mà trên đó một lần điểm đạo diễn ra và các cõi được làm chủ là hai điều hoàn toàn khác nhau.

118. We must discriminate between mastery of a plane, control upon a plane, and the ability to work or function within a plane. The foregoing paragraphs should be studied with these distinctions in mind.

118. Chúng ta phải phân biện giữa làm chủ một cõi, quyền năng trên một cõi, và khả năng làm việc hay vận hành trong một cõi. Những đoạn trên nên được nghiên cứu với các phân biệt này trong tâm trí.

i. Achieve mastery on five planes of the solar system, when speaking of a Heavenly Man.

i. Đạt làm chủ trên năm cõi của Thái dương hệ, khi nói về một Đấng Thiên Nhân.

119. We are now speaking of a Planetary Logos. Compare what is here said with the capabilities discussed of human initiates of various degrees—the fifth, sixth and seventh. It would seem that none of them has true mastery on the buddhic and atmic planes, yet why would they not?

119. Bây giờ chúng ta đang nói về một Hành Tinh Thượng đế. Hãy so sánh điều được nói ở đây với các năng lực đã được bàn của các điểm đạo đồ nhân loại ở các bậc khác nhau—bậc năm, sáu và bảy. Có vẻ như không vị nào trong số họ có làm chủ đích thực trên các cõi Bồ đề và atma, thế nhưng tại sao họ lại không?

120. This statement “i.”, seems to suggest that only a Heavenly Man (probably a Planetary Logos) has real mastery on the buddhic and atmic planes.

120. Khẳng định “i.” này dường như gợi rằng chỉ một Đấng Thiên Nhân (có lẽ là một Hành Tinh Thượng đế) mới có làm chủ thực sự trên các cõi Bồ đề và atma.

121. In section (b) above, we learn that Chohans of the sixth degrees have power upon the buddhic and atmic planes and at the seventh degree, power upon all planes of the cosmic physical plane—but “power on” is not the same as mastery.

121. Trong mục (b) ở trên, chúng ta biết rằng các Chohan bậc sáu có quyền năng trên các cõi Bồ đề và atma và ở bậc bảy, có quyền năng trên tất cả các cõi của cõi vật chất vũ trụ—nhưng “có quyền năng trên” không đồng nghĩa với làm chủ.

122. Much pondering is required. Do we detect a problem in scale, a discrepancy in proportion? It would seem if a human being who is a Master has mastery in the three lower worlds, then a Planetary Logos Who becomes a Master (on His own level) should have mastery on at least two and a half cosmic planes. This discrepancy will not be easily solved.

122. Cần phải suy tư nhiều. Chúng ta có phát hiện một vấn đề về tỉ lệ, một sự lệch pha về cân xứng chăng? Có vẻ như nếu một con người là một Chân sư có sự làm chủ trong ba cõi thấp, thì một Hành Tinh Thượng đế, Đấng trở thành một Chân sư (trên cấp độ riêng của Ngài), hẳn phải có sự làm chủ trên ít nhất hai rưỡi cõi vũ trụ. Sự bất tương xứng này sẽ không dễ dàng được giải quyết.

123. If there is no problem or discrepancy, we must simply conclude that mastery of the cosmic ethers is not available to a human being. Rather, it is available to a Planetary Logos.

123. Nếu không có vấn đề hay bất tương xứng, chúng ta phải đơn giản kết luận rằng sự làm chủ các dĩ thái vũ trụ không thuộc khả năng của con người. Đúng hơn, nó thuộc về một Hành Tinh Thượng đế.

124. Given what we know of our Heavenly Man (or Planetary Logos), there is not yet any possibility of mastery on even the cosmic astral plane, for it is on this plane that He is fighting his way from the fourth subplane to the fifth. This is a long way from anything that might justifiably be called mastery.

124. Căn cứ những gì chúng ta biết về Đấng Thiên Nhân của chúng ta (hay Hành Tinh Thượng đế), hiện chưa có bất kỳ khả năng làm chủ nào ngay cả trên cõi cảm dục vũ trụ, vì chính trên cõi này Ngài đang chiến đấu để đi từ cõi phụ thứ tư lên cõi phụ thứ năm. Điều này còn cách rất xa bất cứ điều gì có thể chính đáng gọi là sự làm chủ.

125. The comparisons given make the developmental gulf between a Planetary Logos and a Solar Logos seem unusually large as is suggested below.

125. Những so sánh được đưa ra làm cho khoảng cách phát triển giữa một Hành Tinh Thượng đế và một Thái dương Thượng đế dường như lớn một cách khác thường như được gợi ý dưới đây.

j. Achieve mastery on three cosmic planes when speaking of the cosmic Christ, the Son, or the Logos manifesting objectively.

j. Đạt làm chủ trên ba cõi vũ trụ khi nói về Đức Christ vũ trụ, Đức Con, hay Thượng đế biểu lộ khách quan.

126. Here several terms are put together. The “Son” is equivalent to the “Cosmic Christ” or to the “Logos manifesting objectively”.

126. Ở đây một vài thuật ngữ được ghép lại với nhau. “Đức Con” tương đương với “Đức Christ Vũ trụ” hay “Thượng đế biểu lộ khách quan”.

127. We can consider the Son as that Being Who manifests primarily through the Heart of the Sun and only secondarily through the lower cosmic planes. The Heart of the Sun is ‘located’ on the higher subplanes of the cosmic mental plane—in fact, for our Solar Logos, the highest subplane.

127. Chúng ta có thể xem Đức Con là Đấng biểu lộ chủ yếu qua Tâm của Thái dương và chỉ thứ yếu qua các cõi vũ trụ thấp. Tâm của Thái dương ‘nằm’ trên các cõi phụ cao của cõi trí vũ trụ—thực tế, đối với Thái dương Thượng đế của chúng ta, là cõi phụ cao nhất.

128. Our particular Solar Logos has not yet achieved the kind of mastery here referenced. He is not yet a cosmic initiate of the third degree, though in a certain series of initiations He appears to be taking the fourth degree. (cf. TCF 384 for pertinent direct statements and inferences), just as our Planetary Logos seems to be taking the fourth degree is a parallel series of cosmically minor initiations.

128. Riêng Thái dương Thượng đế của chúng ta chưa đạt được kiểu làm chủ được nhắc tới ở đây. Ngài vẫn chưa là một điểm đạo đồ vũ trụ của cấp độ thứ ba, dù rằng trong một loạt các cuộc điểm đạo nào đó, Ngài dường như đang trải qua cấp độ thứ tư. (x. LVLVT 384 cho các tuyên bố trực tiếp và suy luận liên quan), cũng như Hành Tinh Thượng đế của chúng ta dường như đang trải qua lần điểm đạo thứ tư trong một loạt song song các cuộc điểm đạo vũ trụ ‘tiểu’.

3. The Manifesting Units of Consciousness.94

3. Các Đơn vị Tâm thức Biểu lộ. 94

Footnote 94

Chú thích 94

“Matter, it must be remembered, is that totality of Existence in the Kosmos which falls within any of the planes of possible perception.”—S. D., I, 560.

“Chất liệu, cần nhớ rằng, là toàn thể Hiện Hữu trong Vũ trụ rơi vào bất kỳ cõi nào của tri nhận khả hữu.”—S. D., I, 560.

129. Is this another way of saying that matter is ubiquitous?

129. Đây có phải là một cách khác để nói rằng chất liệu hiện hữu khắp nơi?

130. Or are we saying that there are some planes within Kosmos which are imperceptible.

130. Hay chúng ta đang nói rằng có những cõi trong Vũ trụ là bất khả tri nhận.

131. We must contrast these ideas with the very reasonable dictum that “to be, is to be perceived”.

131. Chúng ta phải đối chiếu những ý niệm này với mệnh đề rất hợp lẽ rằng “tồn tại là được tri nhận”.

132. It is quite inconceivable to think of a plane that is imperceptible!

132. Thật khó có thể nghĩ đến một cõi là bất khả tri nhận!

133. Of course, we must define the meaning of “perceptible”. The factor of identification may not be included in the concept of perception. In other words, perception may not be able to ‘contain’ identification.

133. Dĩ nhiên, chúng ta phải định nghĩa “khả tri nhận” là gì. Yếu tố đồng hoá có thể không nằm trong khái niệm tri nhận. Nói cách khác, tri nhận có thể không ‘dung chứa’ được sự đồng hoá.

These Existences might be enumerated as follows:

Những Hiện Hữu này có thể được liệt kê như sau:

1. The Seven Heavenly Men.  In their totality they make up the Body of the Grand Man of the Heavens, the Logos.

1. Bảy Đấng Thiên Nhân. Trong tổng thể, các Ngài hợp thành Thân của Đại Nhân của Trời, Thượng đế.

134. Note the term “Grand Man of the Heavens” for the Solar Logos. Sometimes, however, the term “Grand Man of the Heavens” refers only to that aspect of the Solar Logos we call the “Son”.

134. Lưu ý thuật ngữ “Đại Nhân của Trời” dùng cho Thái dương Thượng đế. Tuy nhiên đôi khi, thuật ngữ “Đại Nhân của Trời” chỉ nói riêng về phương diện của Thái dương Thượng đế mà chúng ta gọi là “Đức Con”.

Other names for these Beings:

Những tên gọi khác của các Đấng này:

a. The seven planetary Logoi or Spirits.

a. Bảy Hành Tinh Thượng đế hay Linh Thần.

b. The Prajapatis.

b. Các Prajapati.

c. The seven Lords of the Rays.

c. Bảy Đấng Chúa Tể Cung.

135. In this case, a Ray Lord is equivalent to a Planetary Logos. There are also intra-planetary Ray Lords.

135. Trong trường hợp này, một Chúa Tể Cung tương đương với một Hành Tinh Thượng đế. Cũng có các Chúa Tể Cung nội -hành tinh.

d. The Dyhan Chohans.

d. Các Dyhan Chohan.

136. “Dhyan Chohan” is another generic term. Ever our Solar Angels (intra-planetary beings) are called “Dyhan Chohans”.

136. “Dhyan Chohan” cũng là một thuật ngữ bao quát. Ngay cả các Thái dương Thiên Thần (các hữu thể nội-hành tinh) của chúng ta cũng được gọi là “Dyhan Chohan”.

e. The seven Spirits before the Throne.

e. Bảy Thánh Linh trước Thánh Ngai.

137. Much depends upon the “Throne” to which we refer. The Planetary Logos is a Throne for intra-planetary beings. The Solar Logos is a Throne for Planetary Logoi.

137. Rất nhiều điều tuỳ thuộc vào “Thánh Ngai” mà chúng ta ám chỉ. Hành Tinh Thượng đế là một Ngai cho các hữu thể nội -hành tinh. Thái dương Thượng đế là một Ngai cho các Hành Tinh Thượng đế.

f. The seven Archangels.

f. Bảy Tổng Thiên Thần.

138. It is interesting and instructive to think of Archangels as Planetary Logoi.

138. Thật thú vị và hữu ích khi suy xét các Tổng Thiên Thần như các Hành Tinh Thượng đế.

g. The seven Logoi.

g. Bảy Thượng đế.

139. We must be careful in the use of the term “Logoi”, for the term, when unaccompanied by the term “planetary”, usually means Solar Logoi.

139. Chúng ta phải cẩn trọng khi dùng thuật ngữ “Các Thượng đế”, vì khi không kèm thuật ngữ “hành tinh”, nó thường có nghĩa là các Thái dương Thượng đế Thái dương.

h. The seven Builders.

h. Bảy Đấng Kiến Tạo.

—S. D., I, 115, 130, 152, 535.

—S. D., I, 115, 130, 152, 535.

They are the informing Entities of the Divine Ray, the Ray of the Second Logos, in much the same sense as Fohat and his seven Brothers are the totality of the Primordial Ray. —S. D., I, 100, 108, 155.

Các Ngài là những Đấng thấm nhuần của Cung Thiêng Liêng, Cung của Đệ Nhị Thượng đế, theo cùng một nghĩa như Fohat và bảy Huynh Đệ của Ngài là toàn thể của Cung Nguyên thủy. —S. D., I, 100, 108, 155.

140. Each great Ray is “informed” by seven lesser entities.

140. Mỗi Đại Cung được “thấm nhuần” bởi bảy đơn vị nhỏ hơn.

141. In this case the “Ray of the Second Logos” is equivalent to the Ray of the Solar Logos (Whose major ray in this solar system, at least, is the second).

141. Trong trường hợp này “Cung của Đệ Nhị Thượng đế” tương đương với Cung của Thái dương Thượng đế (Đấng mà cung chính trong hệ mặt trời này, ít nhất, là cung hai).

142. We must keep in mind that the Divine Ray is sevenfold and that Fohat (representing the Primordial Ray) is also sevenfold.

142. Cần ghi nhớ rằng Cung Thiêng Liêng là thất phân và rằng Fohat (đại diện cho Cung Nguyên thủy) cũng là thất phân.

143. Sometimes the “seven Brothers” of Fohat are called His seven “Sons”.

143. Đôi khi “bảy Huynh Đệ” của Fohat được gọi là bảy “Người Con” của Ngài.

144. The seven Brothers or Son of Fohat may be considered as Raja Deva Lords, informing the seven planes of the solar system.

144. Bảy Huynh Đệ hay Con của Fohat có thể được xem là các Chúa Tể Raja Deva, thấm nhuần bảy cõi của hệ mặt trời.

a. Matter is fecundated by the Primordial Ray of Intelligence.  This is the anima mundi, the soul of the world.

a. Chất liệu được thụ tinh bởi Cung Nguyên thủy của Trí tuệ. Đây là anima mundi, linh hồn của thế giới.

145. Matter would remain in an unfecundated state without the ministrations of Fohat who represents, in the act of fecundation, the Divine Father.

145. Chất liệu sẽ vẫn trong trạng thái chưa thụ tinh nếu không có sự tác động của Fohat, Đấng đại diện, trong hành vi thụ tinh, vị Cha Thiêng liêng.

146. An important statement is offered: that the Primary Ray of Intelligence is the “anima mundi, the soul of the world”.

146. Một tuyên bố quan trọng được đưa ra: rằng Cung Nguyên thủy của Trí tuệ chính là “anima mundi, linh hồn của thế giới”.

147. Another way of thinking of the anima mundi is as consciousness submitted to the limitations of matter.

147. Một cách khác để suy niệm về anima mundi là như tâm thức bị quy định bởi những giới hạn của chất liệu.

b. The Primordial Ray is the vehicle for the Divine Ray of Love and Wisdom.  The merging of these two is the aim of evolution.

b. Cung Nguyên thủy là vận cụ cho Cung Thiêng Liêng của Bác Ái và Minh Triết. Sự dung hợp của hai cung này là cứu cánh của tiến hoá.

148. On a large scale, we see that the merging of the third and second aspects is the goal of evolution. On our planet, Earth, this merging is particularly focal at this time in planetary history.

148. Ở bình diện lớn, chúng ta thấy sự dung hợp của phương diện ba và phương diện hai là mục tiêu của tiến hoá. Trên hành tinh Địa Cầu của chúng ta, sự dung hợp này đặc biệt được tiêu điểm hoá trong thời điểm hiện tại của lịch sử hành tinh.

c. The Divine Ray is sevenfold.  It brings in seven Entities.

c. Cung Thiêng Liêng là thất phân. Nó đưa vào bảy Đơn vị.

149. The Divine Ray, of course, brings in more than seven Entities, but seven of them are major or sacred.

149. Dĩ nhiên Cung Thiêng Liêng đưa vào nhiều hơn bảy Đơn vị, nhưng có bảy Đơn vị là chính yếu hay thiêng liêng.

d. These seven are:

d. Bảy Đơn vị này là:

1. The Logos of Will or Power.                   5. The Logos of Concrete Science.

1. Thượng đế của Ý chí hay Quyền năng. 5. Thượng đế của Khoa học Cụ thể.

2. The Logos of Love and Wisdom.                  6. The Logos of Devotion or Abstract Idealism.

2. Thượng đế của Bác Ái và Minh Triết. 6. Thượng đế của Sùng tín hay Lý tưởng Trừu tượng.

3. The Logos of Activity.                                                  7. The Logos of Ceremonial Law or Order.

3. Thượng đế của Hoạt động. 7. Thượng đế của Luật Nghi và Trật tự.

4. The Logos of Harmony.

4. Thượng đế của Hài hoà.

150. Some of the names of the Ray Lords here given are incomplete, but sufficiently delineated to be recognizable.

150. Một vài danh xưng của các Đấng Chúa Tể Cung được nêu ở đây chưa đầy đủ, nhưng đã phác hoạ đủ để nhận diện.

151. From this delineation, it becomes clear that a Ray Lord (on the planetary level) and a Logos are identical.

151. Từ sự phác hoạ này, rõ ràng một Chúa Tể Cung (trên cấp hành tinh) và một Thượng đế là đồng nhất.

2. Men, The Monad, The Units of Consciousness.  They, in their totality, make up the Bodies of the seven Heavenly Men.  Each Monad is found upon one of the seven Rays. —S. D., I, 197, 285, 624; S. D., II, 85, 176, 196.

2. Nhân loại, Chân thần, Các Đơn vị Tâm thức. Tổng thể của họ hợp thành các Thân của bảy Đấng Thiên Nhân. Mỗi Chân thần được tìm thấy trên một trong bảy Cung. — S. D., I, 197, 285, 624; S. D., II, 85, 176, 196.

152. We are told that human and deva units (as Monads) contribute to the cellular constitution of the chakras of a Planetary Logos.

152. Chúng ta được cho biết rằng các đơn vị nhân loại và thiên thần (như các Chân thần) góp phần vào cấu trúc tế bào của các luân xa của một Hành Tinh Thượng đế.

153. The implication here is that the bodies of the seven Heavenly Men are nothing but Monads. This must be thought through carefully. The question arises: “is there any form of life whatsoever that cannot be resolved into a Monad”? Surely all life forms are the extension of the One Monad.

153. Ẩn ý ở đây là các thân của bảy Đấng Thiên Nhân không gì khác ngoài các Chân thần. Điều này phải được suy nghĩ cẩn trọng. Câu hỏi được nêu: “có bất kỳ hình thức sống nào không thể quy về một Chân thần chăng?” Chắc chắn mọi hình tướng sống đều là sự mở rộng của Đơn Nhất Chân thần.

154. In this context, we have to remember that Fohat and the Divine Son are also Monads Who are aspects of the One Monad.

154. Trong ngữ cảnh này, chúng ta phải nhớ rằng Fohat và Đức Con Thiêng Liêng cũng là các Chân thần, những phương diện của Đơn Nhất Chân thần.

155. When it comes to a consideration of the ray structure of the Monad, DK is clear on the fact that the major ray of the Monad must be the first, second or third ray, but that there are minor rays which can be any one of the seven. This distinction is not usually elaborated, but is necessary if there is to be a fuller understanding of the matter.

155. Khi xét đến cấu trúc cung của Chân thần, Chân sư DK nói rõ rằng cung chính của Chân thần phải là cung một, hai hoặc ba, nhưng có các cung phụ có thể là bất kỳ trong bảy cung. Sự phân biệt này thường không được triển khai, nhưng là cần thiết nếu muốn thấu hiểu vấn đề đầy đủ hơn.

3. Devas. —S. D. I, 308; S. D., II, 107. Such devas are, for instance:

3. Chư thiên (Deva). — S. D. I, 308; S. D., II, 107. Chẳng hạn những thiên thần như:

a. The deva Lord of a plane.  The sphere of his body is the entire plane.

a. Chúa Tể thiên thần của một cõi. Phạm vi của thân Ngài là toàn bộ cõi đó.

156. We note that the body of such great devas is spherical. Planes are spherical demonstrations. So, for that matter, are Rays.

156. Chúng ta lưu ý rằng thân của những vị đại thiên thần như vậy có dạng hình cầu. Các cõi là những biểu hiện hình cầu. Và, xét cho cùng, các Cung cũng vậy.

b.  Groups of building devas.

b. Các nhóm thiên thần kiến tạo.

157. Their name must be legion.

157. Danh xưng của họ phải là vô số.

4. Entities involved in the mineral, vegetable, and animal kingdoms. —S. D., I, 210, 298.

4. Các Thực thể liên hệ đến các giới kim thạch, thực vật, và động vật. — S. D., I, 210, 298.

a. The life of the third Logos—the atom of matter.

a. Sự sống của Đệ Tam Thượng đế—nguyên tử của chất liệu.

b. The life of the second Logos—groups of atoms built into forms, plant, animal.

b. Sự sống của Đệ Nhị Thượng đế—các nhóm nguyên tử được kết cấu thành hình tướng, thảo mộc, thú vật.

c. The life of the first Logos—the forms indwelt by highest Spirit.

c. Sự sống của Đệ Nhất Thượng đế—các hình tướng được Linh Thần tối cao ngự trong.

158. Different types of forms are indwelt by different Logoi.

158. Những loại hình tướng khác nhau được các Thượng đế khác nhau ngự trị.

159. We note that the third Logos indwells the singular atom. When atomic groupings begin to occur (under the principle of relationship) the life of the second Logos is implicated. “Wherever two or more are gathered…there am I”.

159. Chúng ta lưu ý rằng Đệ Tam Thượng đế ngự trong nguyên tử đơn lẻ. Khi các tổ hợp nguyên tử bắt đầu xuất hiện (dưới nguyên lý liên hệ), sự sống của Đệ Nhị Thượng đế được hàm nhiếp. “Ở đâu có hai hay ba cùng nhóm lại… ở đó có Ta”.

160. What are the forms indwelt by the highest Spirit? One thought about such forms is that they must be found upon planes which are relatively high in any sevenfold system, because the Spirit does not descend ‘lower’ than a certain level of vibration.

160. Những hình tướng nào được Linh Thần tối cao ngự trong? Một ý tưởng về những hình tướng như vậy là: chúng phải được tìm thấy trên những cõi tương đối cao trong bất kỳ hệ thất phân nào, vì Linh Thần không ‘giáng’ xuống thấp hơn một mức rung động nhất định.

5. The spirit of a planet. —S. D., I, 178; S. D., II, 251, 500.

5. Linh thần của một hành tinh. — S. D., I, 178; S. D., II, 251, 500.

He is the sum-total of the many involutionary lives upon a planet.

Ngài là tổng-hợp của vô số sự sống giáng hạ tiến hoá trên một hành tinh.

161. The use of the word “spirit” can be confusing. Sometimes this being is known as the “Planetary Entity”. The term “spirit” as here used must not be confused with the Monad of the Planetary Logos.

161. Việc dùng từ “linh thần” có thể gây bối rối. Đôi khi hữu thể này được biết là “Thực Thể Hành Tinh”. Thuật ngữ “linh thần” như được dùng ở đây không được nhầm với Chân thần của Hành Tinh Thượng đế.

6. The atom. —S. D., I, 559, 620-622.

6. Nguyên tử. —S. D., I, 559, 620-622.

162. The various atoms can be considered as involutionary lives and part and parcel of the “spirit of the planet”, as the term “spirit” is here used.

162. Các nguyên tử đa tạp có thể được xem là những sự sống giáng hạ tiến hoá và là thành phần không thể tách rời của “linh thần của hành tinh”, theo nghĩa của từ “linh thần” như được dùng ở đây.

163. The term “Planetary Spirit” however, usually suggests the Planetary Logos considered as a Monad.

163. Tuy vậy, thuật ngữ “Linh thần Hành tinh” thường gợi ý Hành Tinh Thượng đế được xét như một Chân thần.

Summing Up:  For the purpose and the goal see S. D., I, 70, 132.

Tổng kết: Về mục đích và cứu cánh xem S. D., I, 70, 132.

164. In the foregoing footnotes, we have seen tabulated in descending order those beings or entities who are called “manifesting units of consciousness” within our solar system. Even confining ourselves to a single solar system, we can see the tremendous scope and complexity of the subject.

164. Trong những chú thích trên, chúng ta đã thấy liệt kê theo trật tự hạ giáng những hữu thể hay thực thể được gọi là “các đơn vị tâm thức biểu lộ” trong nội giới hệ mặt trời của chúng ta. Ngay cả khi chỉ giới hạn trong một hệ mặt trời đơn, chúng ta cũng có thể thấy phạm vi và độ phức hợp của đề tài là to lớn biết bao.

If these stated aims are carefully considered, it will be seen how each has its place within the plan, and how [234] evolution is but a term used to express the gradual development in time and space of the inherent capacity of a human being, of a Heavenly Man, and of the Grand Man of the Heavens.  

Nếu những mục tiêu đã nêu này được suy xét kỹ, sẽ thấy mỗi mục tiêu có vị trí trong Thiên Cơ, và thấy [234] tiến hoá chỉ là thuật ngữ dùng để diễn tả sự phát triển dần dần trong thời gian và không gian các khả năng bẩm tàng của con người, của một Đấng Thiên Nhân, và của Đại Nhân của Trời.

165. The “inherent capacity” of any of these three types of entity is the nature of the Monad itself. All potency and archetypal pattern stem from the Monad.

165. “Khả năng bẩm tàng” của bất kỳ trong ba loại thực thể này là bản tánh của chính Chân thần. Mọi tiềm lực và mô thức nguyên hình đều phát xuất từ Chân thần.

The place and position of one and all to each other must be borne in mind, for no one can develop without the other.

Vị trí và tương quan của từng bên đối với nhau phải được ghi nhớ, vì không ai có thể phát triển nếu không có kẻ khác.

166. The interlocking and interdependent nature of the three types of entities is asserted. This could well be pondered.

166. Bản chất móc nối và tương thuộc của ba loại thực thể được khẳng định. Điều này rất đáng suy niệm.

167. The atom of matter (though not self conscious) could be included in this picture. To what extent is our human progress dependent upon the development of such atoms? Atomic development is somewhat dependent upon the energies of the Primordial Ray (Fohat) and the Divine Ray (the Divine Son), and somewhat dependent upon the unit of life into whose system the atom of matter is built.

167. Nguyên tử của chất liệu (dù chưa tự ý thức) cũng có thể được bao gồm trong bức tranh này. Mức độ nào sự tiến bộ của nhân loại chúng ta lệ thuộc vào sự phát triển của những nguyên tử như vậy? Sự phát triển của nguyên tử phần nào tùy thuộc các năng lượng của Cung Nguyên thủy (Fohat) và Cung Thiêng Liêng (Đức Con Thiêng Liêng), và phần nào tùy thuộc đơn vị sự sống mà vào hệ thống của nó nguyên tử chất liệu được xây vào.

What, therefore, have we?

Vậy, chúng ta có gì?

a. The Son, the Grand Man of the Heavens.

a. Đức Con, Đại Nhân của Trời.

168. This is another name for the Solar Logos, or alternatively, for that aspect of the Solar Logos Who is called the “Son”.

168. Đây là một tên gọi khác cho Thái dương Thượng đế, hoặc, theo một cách khác, cho phương diện của Thái dương Thượng đế được gọi là “Đức Con”.

He manifests through the Sun and the seven sacred planets, each of whom embodies one of His seven principles, just as He in His totality embodies one of the principles of a greater cosmic Entity.

Ngài biểu lộ qua Mặt Trời và bảy hành tinh thiêng liêng, mỗi hành tinh trong đó hàm chứa một trong bảy nguyên khí của Ngài, cũng như toàn thể Ngài hàm chứa một trong các nguyên khí của một Vũ trụ Thượng đế lớn hơn.

169. Our Grand Man of the Heavens embodies the heart center in a Cosmic Logos, though not in the One About Whom Naught May Be Said. A Cosmic Logos is a Being working through seven solar systems. (cf. TCF 293).

169. Đại Nhân của Trời của chúng ta hàm chứa luân xa tim trong một Vũ trụ Thượng đế, dù không phải trong Đấng Bất Khả Tư Nghị. Một Vũ trụ Thượng đế là một Đấng làm việc qua bảy hệ mặt trời. (x. LVLVT 293).

170. This Cosmic Logos is, speculatively, called the “Sirian Logos”—a Logos manifesting through seven solar systems of which the solar system of the star Sirius is only one.

170. Vị Vũ trụ Thượng đế này, theo lối suy, được gọi là “Thượng đế Sirius”—một Thượng đế biểu lộ qua bảy hệ mặt trời mà hệ mặt trời của sao Sirius chỉ là một.

171. The principle of buddhi is very connected to our Solar Logos—in a higher Entity, our Solar Logos may embody the buddhic principle. Why? Because He is functioning as a heart chakra, and in a human being, the heart chakra is definitely related to the buddhic plane.

171. Nguyên khí Bồ đề liên hệ rất mật thiết với Thái dương Thượng đế của chúng ta—trong một Đấng cao hơn, Thái dương Thượng đế của chúng ta có thể hàm chứa nguyên khí Bồ đề. Vì sao? Bởi vì Ngài đang vận hành như một luân xa tim, và nơi con người, luân xa tim chắc chắn tương liên với cõi Bồ đề.

172. Path six, the Path which our astral-buddhic Solar Logos is treading, leads to the cosmic buddhic plane—and, interestingly, is the only Path (of the Paths delineated by Master DK) that does so.

172. Con Đường thứ sáu, Con Đường mà Thái dương Thượng đế cảm dục-Bồ đề của chúng ta đang bước đi, dẫn tới cõi Bồ đề vũ trụ—và, thú vị thay, trong số những Con Đường được Chân sư DK phác hoạ, đây là Con Đường duy nhất như vậy.

173. Following the analogy, each of our sheaths is, to us, as a planet is to our Sun. The planets revolve, but, interestingly, so do the sheaths—at least they rotate.

173. Theo phép tương đồng, mỗi hiện thể của chúng ta, đối với ta, như một hành tinh đối với Mặt Trời của mình. Các hành tinh vận hành xoay quanh, và thú vị thay, các thể cũng vậy—ít nhất, chúng xoay chuyển.

b. A Heavenly Man.  He manifests through a planet, and embodies one of the principles of the Son, the Logos.

b. Một Đấng Thiên Nhân. Ngài biểu lộ qua một hành tinh, và hàm chứa một trong các nguyên khí của Đức Con, Thượng đế.

174. Is this true of every Planetary Logos? If so, we have more Planetary Logoi than we have “principles of the Son”.

174. Điều này có đúng với mọi Hành Tinh Thượng đế chăng? Nếu đúng, chúng ta có nhiều Hành Tinh Thượng đế hơn số “nguyên khí của Đức Con”.

He Himself is likewise developing through seven principles, which are the source of His essential unity with all other Heavenly Men.

Chính Ngài cũng đang phát triển qua bảy nguyên khí, vốn là nguồn cội hợp nhất thiết yếu của Ngài với tất cả các Đấng Thiên Nhân khác.

175. This can mean two distinct things. Do the words “He Himself” refer to the Solar Logos or to a Planetary Logos?

175. Điều này có thể hiểu theo hai nghĩa khác nhau. Cụm “Chính Ngài” ám chỉ Thái dương Thượng đế hay một Hành Tinh Thượng đế?

176. If “He Himself” refers to the Solar Logos, the statement expresses the “essential unity” of the Solar Logos with all the Heavenly Men Who embody His (the Logos’) principles.

176. Nếu “Chính Ngài” ám chỉ Thái dương Thượng đế, thì mệnh đề diễn tả “sự hợp nhất thiết yếu” của Thái dương Thượng đế với tất cả các Đấng Thiên Nhân, là những Đấng hàm chứa các nguyên khí (của Thượng đế).

177. According to another line of interpretation, it would seem that all Planetary Logoi have seven major principles. It would seem that the principles of any Planetary Logos can influence the principles of another—especially identical principles.

177. Theo một cách diễn giải khác, dường như tất cả các Hành Tinh Thượng đế đều có bảy nguyên khí chính. Có vẻ như các nguyên khí của bất kỳ Hành Tinh Thượng đế nào có thể ảnh hưởng đến các nguyên khí của vị khác—đặc biệt là các nguyên khí đồng nhất.

178. Both lines of interpretation are probably valid.

178. Cả hai lối diễn giải có lẽ đều đúng.

Cosmically considered, the Son is developing the principle of a greater cosmic Being, that principle which we call love-wisdom.

Xét về mặt vũ trụ, Đức Con đang phát triển nguyên khí của một Đấng Vũ trụ vĩ đại hơn, nguyên khí mà chúng ta gọi là bác ái-minh triết.

179. We note how the word “Son” in this context means our Solar Logos. Perhaps we have remarked upon the various ways the term “Son” can be utilized.

179. Chúng ta lưu ý cách từ “Đức Con” trong ngữ cảnh này có nghĩa là Thái dương Thượng đế của chúng ta. Có lẽ chúng ta đã nhận xét về những cách dùng khác nhau của thuật ngữ “Đức Con”.

180. A certain Cosmic Logos includes our Solar Logos as the main expression of one of His principles.

180. Một Vũ trụ Thượng đế nào đó bao gồm Thái dương Thượng đế của chúng ta như biểu hiện chủ yếu của một trong các nguyên khí của Ngài.

181. Our Solar Logos embodies the “love-wisdom” principle of this particular Cosmic Logos.

181. Thái dương Thượng đế của chúng ta hàm chứa nguyên khí “bác ái-minh triết” của Vũ trụ Thượng đế đặc thù này.

182. What this means, is that all our companion Solar Logoi within the Seven Solar Systems of Which Ours is One do not, to the same extent, embody the love-wisdom principle.

182. Điều này có nghĩa là tất cả các Thái dương Thượng đế bạn-bè của chúng ta trong “Bảy Hệ Mặt Trời Mà Trong Đó Hệ Của Chúng Ta Là Một” không phải, ở cùng mức độ, đều hàm chứa nguyên khí bác ái-minh triết.

That is the fundamental characteristic He has to develop during His life cycle.

Đó là đặc trưng căn bản mà Ngài phải phát triển trong chu kỳ sống của Ngài.

183. This “life cycle” is the second or fifth solar system (depending upon the manner of counting). It is quite certain that the soul ray of our Solar Logos is the second. DK states it.

183. “Chu kỳ sống” này là hệ mặt trời thứ hai hay thứ năm (tuỳ theo cách tính). Chắc chắn rằng cung linh hồn của Thái dương Thượng đế chúng ta là cung hai. Chân sư DK đã xác quyết điều đó.

“It must be remembered that the dominating ray, the outstanding influence in our  solar system, is the great cosmic second Ray of Love-Wisdom, a dual ray,—that is, a ray combining two great cosmic principles and energies.  It is the ray which governs the “personality” of our solar Logos, if such an expression may be used, and (because it is dual) it indicates both His personality and soul rays, which in Him are now so balanced and blended that, from the angle of humanity, they constitute the major ray, the one ray.  This major ray determines both His quality and His purpose. (EP I 334)”

“Cần nhớ rằng cung chi phối, ảnh hưởng nổi trội trong hệ mặt trời của chúng ta, là Đại Cung vũ trụ thứ hai Bác Ái–Minh Triết, một cung lưỡng hợp—tức là một cung kết hợp hai nguyên khí và năng lượng vũ trụ vĩ đại. Đó là cung cai quản ‘phàm ngã’ của Thái dương Thượng đế chúng ta, nếu có thể dùng cách diễn tả như vậy, và (bởi vì nó là lưỡng hợp) nó biểu thị cả cung phàm ngã lẫn cung linh hồn của Ngài, vốn trong Ngài nay được quân bình và dung hợp đến mức, xét từ góc độ nhân loại, chúng cấu thành cung chủ, cung duy nhất. Cung chủ này quyết định cả phẩm tính lẫn mục đích của Ngài. (EP I 334)”

184. The big question is: is the major monadic ray of our Solar Logos also the second. There are reasons to believe it could be.

184. Câu hỏi lớn là: liệu cung chính của Chân thần nơi Thái dương Thượng đế chúng ta cũng là cung hai hay không. Có lý do để tin rằng có thể là như vậy.

Each Heavenly Man, therefore, embodies predominantly a subsidiary principle of the fundamental one.

Mỗi Đấng Thiên Nhân, do đó, biểu lộ trội yếu một nguyên khí phụ của nguyên khí căn bản.

185. Does DK mean each sacred Heavenly Man, or, simply, each Heavenly Man? If “each”, then we must solve the matter of how more than one Heavenly Man can participate in the manifestation of one of the seven principles of the Solar Logos.

185. Chân sư DK muốn nói “mỗi” Đấng Thiên Nhân thiêng liêng, hay đơn giản là mỗi Đấng Thiên Nhân? Nếu là “mỗi”, vậy làm sao giải quyết việc có nhiều hơn một Đấng Thiên Nhân cùng tham dự biểu lộ một trong bảy nguyên khí của Thái dương Thượng đế?

186. The fundamental principle in our solar system is the love-wisdom principle. Each Heavenly Man embodies only a subsidiary principle to the fundamental one. All Heavenly Men are, therefore, expressing aspects of the love-wisdom principle. This is so even for Heavenly Men which seem, in their nature, rather distant from the nature of the love-wisdom principle—for instance, the Logos of the planet Saturn.

186. Nguyên khí căn bản trong hệ mặt trời của chúng ta là nguyên khí bác ái-minh triết. Mỗi Đấng Thiên Nhân chỉ biểu lộ một nguyên khí phụ của nguyên khí căn bản. Do đó, mọi Đấng Thiên Nhân đều đang biểu lộ các phương diện của nguyên khí bác ái-minh triết. Điều này vẫn đúng ngay cả với những Đấng Thiên Nhân dường như, trong bản tánh, khá xa với bản chất của nguyên khí bác ái-minh triết—chẳng hạn Thượng đế của hành tinh Saturn (Sao Thổ).

In like manner He Himself has six subsidiary principles, as has the Son.

Tương tự, Chính Ngài cũng có sáu nguyên khí phụ, như Đức Con có vậy.

187. Each Planetary Logos has six subsidiary principles. These are probably embodied by planetary chains, with one chain in particular embodying the same principle that the Planetary Logos is principally expressing.

187. Mỗi Hành Tinh Thượng đế có sáu nguyên khí phụ. Những nguyên khí này có lẽ được hàm chứa bởi các dãy hành tinh, với một dãy đặc biệt hàm chứa cùng nguyên khí mà Hành Tinh Thượng đế biểu lộ chủ yếu.

188. It may be that for a greater Entity such as a Solar Logos, more than one planet may represent a principle? Were this true, as well, for a Cosmic Logos, then more than one Solar Logos could represent a cosmic principle.

188. Có thể đối với một Đấng vĩ đại hơn như Thái dương Thượng đế, nhiều hơn một hành tinh có thể đại diện cho một nguyên khí? Nếu điều này đúng cả với một Vũ trụ Thượng đế, thì nhiều hơn một Thái dương Thượng đế cũng có thể đại diện cho một nguyên khí vũ trụ.

189. From the planetary perceptive, we have to determine the degree to which non-sacred Planetary Logoi can be considered (in concert with sacred Planetary Logoi) representative of solar logoic principles.

189. Từ viễn tượng hành tinh, chúng ta phải xác định mức độ mà các Hành Tinh Thượng đế không-thiêng liêng có thể được xem (hiệp cùng các Hành Tinh Thượng đế thiêng liêng ) như đại diện cho các nguyên khí của Thái dương Thượng đế.

190. VSK points out the importance and relevance of knowing which Planetary Man is which centre in the Solar Logos. This, she infers, would lead to a knowledge of important triangles and alignments, systemically considered.

190. VSK nêu bật tầm quan trọng và sự thích đáng của việc biết Đấng Thiên Nhân nào tương ứng với trung tâm nào nơi Thái dương Thượng đế. Bà suy rằng điều này sẽ dẫn đến tri thức về những tam giác và những sắp hàng quan trọng, xét theo toàn hệ.

191. Let us consider a definition of a principle: A principle is a foundational faculty/quality of the Monad. It is a means of expressing monadic potency and quality, a means which is aligned particularly with (and most influential upon) one of the planes or subplanes below the Monad  Principles are, therefore, a septenate inherent in the Monad. They are facets of monadic being.

191. Hãy xét một định nghĩa về “nguyên khí”: Nguyên khí là một năng năng/công cụ nền tảng của Chân thần. Đó là một phương tiện để biểu lộ tiềm lực và phẩm tính chân thần, một phương tiện được chỉnh hợp đặc biệt với (và tác động mạnh nhất lên) một trong các cõi hay cõi phụ bên dưới Chân thần. Bởi vậy, các nguyên khí là một thất bộ vốn có trong Chân thần. Chúng là những diện của hữu thể chân thần.

192. Considering the nature of the Monad as essence, we could say that essence is ineradicable Presence. The Monad is called the Presence. It represents the “Raw Fact of Being”. It can be called ‘Isness’ Being or essence is present everywhere and at all times, without any possibility of modification. IT IS that which IT IS.

192. Xét bản tánh của Chân thần như là tinh yếu, chúng ta có thể nói rằng tinh yếu là Hiện Diện bất khả khử. Chân thần được gọi là Hiện Diện. Nó biểu trưng cho “Sự kiện Thuần Phác của Hữu thể”. Có thể gọi nó là ‘Tính Là’. Hữu thể hay tinh yếu hiện diện khắp nơi và mọi lúc, không thể bị biến đổi. NÓ LÀ cái mà NÓ LÀ.

193. If we wish to consider the Planetary Logoi which could reasonably be related to the principles of the Solar Logos, the following tabulation could be considered suggestive. Justification for all these assignments have been worked out rationally and could be debated at length.

193. Nếu muốn xét các Hành Tinh Thượng đế có thể hợp lý gắn với các nguyên khí của Thái dương Thượng đế, bảng phân phối sau đây có thể gợi ý. Cơ sở biện minh cho các sắp đặt này đã được lý giải hợp lẽ và có thể tranh luận dài lâu.

194. Note that quite a number of principles are listed. Usually, not all of these will be found in one enumeration for most enumerations are limited to seven principles.

194. Lưu ý rằng có khá nhiều nguyên khí được liệt kê. Thông thường, không phải tất cả đều được tìm thấy trong một bảng liệt kê, vì hầu hết các bảng đều giới hạn trong bảy nguyên khí.

a) Atma: Vulcan, Saturn, Uranus

a) Atma: Vulcan, Sao Thổ, Sao Thiên Vương

b) Buddhi: Neptune, Jupiter, Mercury

b) Bồ đề: Sao Hải Vương, Sao Mộc, Sao Thủy

c) Higher Manas: Venus, with a little Uranus, Saturn

c) Thượng trí: Sao Kim, kèm chút Sao Thiên Vương, Sao Thổ

d) Egoic Body: Jupiter, Venus with aspects of Mercury

d) Thể nguyên nhân: Sao Mộc, Sao Kim với các phương diện của Sao Thủy

e) Personality: (Sun veiling an undiscovered non-sacred planet)

e) Phàm ngã: (Mặt Trời che phủ một hành tinh chưa khám phá, không thiêng liêng)

f) Lower/Concrete Mind: Mercury, Mars, Earth, Saturn, maybe Venus, Uranus in its lower aspect, and one should not forget Pluto.

f) Hạ trí/Trí cụ thể: Sao Thủy, Sao Hỏa, Địa Cầu, Sao Thổ, có lẽ cả Sao Kim, Sao Thiên Vương ở phương diện thấp của nó, và cũng chớ quên Sao Diêm Vương.

g) Kama-Manas—Venus and from a stellar perspective, (Sirius)

g) Trí-cảm—Sao Kim và, xét theo quan điểm tinh tú, (Sirius)

h) Kama: Mars, Neptune with some aspects of Venus

h) Kama: Sao Hỏa, Sao Hải Vương với vài phương diện của Sao Kim

i) Prana: (Sun), Mercury and Uranus

i) Prana: (Mặt Trời), Sao Thủy và Sao Thiên Vương

j) Etheric Body: Mercury, Uranus, Earth

j) Thể dĩ thái: Sao Thủy, Sao Thiên Vương, Địa Cầu

k) Dense physical body: Moon, Mars, Saturn, Earth

k) Thể xác đậm đặc: Mặt Trăng, Sao Hỏa, Sao Thổ, Địa Cầu

195. It is not easy to determine which planetary chains could be considered to embody the principles of a Planetary Logos. The information concerning the planetary chains is heavily veiled. In way, we know much less about them than we do about the planets. Planets are visible and we know they exist. Planetary chains are invisible occult structures which we have been told exist.

195. Không dễ xác định các dãy hành tinh nào có thể được xem là hàm chứa các nguyên khí của một Hành Tinh Thượng đế. Thông tin về các dãy hành tinh được che giấu nặng nề. Ở một nghĩa nào đó, chúng ta biết ít về chúng hơn nhiều so với các hành tinh. Các hành tinh hữu hình và chúng ta biết chúng hiện hữu. Các dãy hành tinh là những cấu trúc huyền môn vô hình mà chúng ta đã được bảo là hiện hữu.

196. We may say, in general, that chakras are representations of monadic power which empower those extensions of monadic quality we call principles.

196. Nói chung, có thể nói các luân xa là những biểu trưng của quyền năng chân thần, thứ trao lực cho các phần mở rộng của phẩm tính chân thần mà chúng ta gọi là nguyên khí.

197. The planetary chains are at once chakras within the body of manifestation of the Planetary Logos and also embodiments of planetary logoic principles.

197. Các dãy hành tinh vừa là các luân xa trong thân biểu lộ của Hành Tinh Thượng đế, vừa là những hiện thân của các nguyên khí hành tinh-thượng đế.

198. It is significant that the vehicle that embodies one principle may house many chakras. For instance, the astral body, which is an embodiment of the monadic principle we call kama, has within its sphere seven chakras (only one of which is specifically attuned to kama). We could ponder this.

198. Đáng chú ý là một vận cụ hàm chứa một nguyên khí có thể bao hàm nhiều luân xa. Thí dụ, thể cảm dục, vốn là một hiện thân của nguyên khí chân thần gọi là kama, có trong phạm vi của nó bảy luân xa (chỉ một trong số đó được điều chỉnh đặc biệt với kama). Điều này đáng suy niệm.

199. Although the chakras have been illustrated as existing only on the lower planes, the fact that a Master has thirty-five vortices active, suggests chakric expression on the higher planes of our cosmic physical plane as well.

199. Dù các luân xa thường được minh hoạ như chỉ hiện hữu trên các cõi thấp, việc một Chân sư có ba mươi lăm xoáy lực hoạt hoá gợi ý sự biểu lộ luân xa trên các cõi cao hơn của cõi hồng trần vũ trụ nữa.

c. A Human Being, Man.  He manifests on the physical [235] plane through form, and has also seven principles; in each life cycle he works at their development.

c. Một Con Người. Con người biểu lộ trên cõi hồng trần [235] qua hình tướng, và cũng có bảy nguyên khí; trong mỗi chu kỳ sống, y làm việc để phát triển chúng.

200. We remember that principles are really monadic extensions, powered by monadic fire expressing through the chakric system.

200. Hãy nhớ rằng các nguyên khí thật ra là những phần mở rộng của Chân thần, được tiếp lửa bởi hoả lực chân thần biểu lộ qua hệ thống luân xa.

201. When we work at the development of principles, we are working with the vehicles which are meant to be the expression of these principles.

201. Khi chúng ta làm việc để phát triển các nguyên khí, chúng ta đang làm việc với các vận cụ vốn được định để biểu lộ các nguyên khí ấy.

202. By working directly with the principle, to the degree possible, we contribute to the development of the vehicle which is embodiment of the principle. For example: by working with the principle of manas we contribute to the development of the manasic vehicle.

202. Bằng cách làm việc trực tiếp với nguyên khí, trong mức độ có thể, chúng ta góp phần phát triển vận cụ là hiện thân của nguyên khí. Thí dụ: khi làm việc với nguyên khí manas, chúng ta góp phần phát triển vận cụ manasic.

He likewise has His primary coloring,

Con người cũng có sắc độ chủ,

203. When we see the word “primary” we must be alert to its probable reference to the Monad.

203. Khi thấy từ “chủ” chúng ta phải cảnh giác vì nó có thể ám chỉ Chân thần.

204. The primary coloring of a human being is (as normally defined) the quality of his monadic ray.

204. Sắc độ chủ của một con người (như thường được định nghĩa) là phẩm tính của cung chân thần của y.

dependent upon the fundamental principle embodied by the Heavenly Man, Who is his originating source.  Thus we have:

lệ thuộc vào nguyên khí căn bản được Đấng Thiên Nhân, là nguồn khởi của y, hàm chứa. Vậy chúng ta có:

205. DK seems to be saying that our monadic coloring is dependent upon the quality of the fundamental principle of our planet of origin. But is it not true that any monadic type can come from any planet regardless of the “fundamental principle” of that planet? Certainly, our planet (though it has only one “fundamental principle”) has seven monadic types. Is this not true of all planets?

205. Chân sư DK có vẻ nói rằng sắc màu chân thần chủ của chúng ta lệ thuộc vào phẩm tính của nguyên khí căn bản của hành tinh nguồn gốc của chúng ta. Nhưng chẳng phải đúng là bất kỳ loại chân thần nào cũng có thể đến từ bất kỳ hành tinh nào bất kể “nguyên khí căn bản” của hành tinh đó sao? Chắc chắn rằng hành tinh của chúng ta (dù chỉ có một “nguyên khí căn bản”) vẫn có bảy loại chân thần. Điều này chẳng phải đúng với mọi hành tinh sao?

206.  Even if this is the case, may it be true that a Monad coming from a certain planet will carry (in some subtle manner not altering the monadic ray of the individual) the monadic coloring of that planet or the coloring related to the “fundamental principle” of that planet?

206. Dẫu vậy, nếu đúng như thế, liệu có đúng rằng một Chân thần đến từ một hành tinh nhất định sẽ mang (theo một cách vi tế nào đó mà không làm thay đổi cung chân thần của cá nhân) sắc độ chân thần của hành tinh ấy, hay sắc độ liên hệ với “nguyên khí căn bản” của hành tinh đó?

207. In other words, in some subtle manner, all units of Jupiterian or Venusian origin could be identified by a shared quality regardless of their monadic ray.

207. Nói cách khác, theo một cung cách vi tế, mọi đơn vị xuất xứ Mộc Tinh hay Kim Tinh có thể được nhận ra bởi một phẩm tính chung bất kể cung chân thần của họ.

208. We can see that we are dealing with a situation which must be clarified. One whose Monad originates from Jupiter may (it would reasonably seem) carry the Jupiterian quality regardless of the primary ray or secondary ray of his Monad. The monadic ray would be, from this perspective, independent of the monadic ray or the “fundamental principle” of the planet of origin.

208. Rõ ràng chúng ta đang đối diện một tình huống cần được làm sáng tỏ. Một người có Chân thần khởi nguyên từ Mộc Tinh có thể (hợp lẽ mà nói) mang phẩm tính Mộc Tinh bất kể cung chính hay cung phụ của Chân thần y. Cung chân thần, xét theo viễn tượng này, sẽ độc lập với cung chân thần hay “nguyên khí căn bản” của hành tinh gốc.

209. Yet, if we are interpreting DK correctly, He seems to be saying that the primary coloring of a man (i.e., his primary monadic ray) will be “dependent” upon the “fundamental principle” being embodied by the Heavenly Man Who is his source of origin.

209. Tuy vậy, nếu chúng ta hiểu đúng ý Chân sư DK, Ngài dường như nói rằng sắc độ chủ của con người (tức là cung chân thần chủ của y) sẽ “lệ thuộc” vào “nguyên khí căn bản” mà Đấng Thiên Nhân, là nguồn khởi của y, đang hàm chứa.

210. Much will depend upon whether the term “primary coloring” actually means, as hypothesized, the quality of the primary monadic ray.

210. Nhiều điều sẽ tuỳ thuộc việc thuật ngữ “sắc độ chủ” thực sự có nghĩa, như giả định, là phẩm tính của cung chân thần chủ hay không.

211. In general, the monadic ray is called the “primary ray”. Additionally, there seems to be a major (or primary) monadic ray, and a secondary or subsidiary monadic ray.

211. Nói chung, cung chân thần được gọi là “cung chủ”. Thêm nữa, dường như có cung chân thần chính (hay chủ), và có một cung chân thần phụ hay thứ.

212. But perhaps another non-monadic definition of “primary coloring” is possible.

212. Nhưng có lẽ một định nghĩa khác, không thuộc cấp chân thần, của “sắc độ chủ” là khả dĩ.

213. The references (from other places in the teaching) seem contradictory, and much thought will have to be expended to reconcile the apparent conflicts.

213. Những tham chiếu (từ các chỗ khác trong giáo huấn) có vẻ mâu thuẫn, và nhiều suy tư sẽ phải bỏ ra để hoà giải những xung đột bề ngoài này.

THE LOGOS

THƯỢNG ĐẾ

Father-Spirit  … … … Mother-Matter.

Cha–Tinh thần … … … Mẹ–Vật chất.

producing

sinh xuất

214. We can see that the Logos is triune.

214. Chúng ta thấy rằng Thượng đế là Tam vị.

The Son or the Grand Man of the Heavens,

Đức Con hay Đại Nhân của Trời,

the conscious logoic Ego

chân ngã có ý thức của Thượng đế

215. It is important to realize that the Grand Man of the Heavens is not the Solar Logos in its entirety. Sometimes it seems like this appellation represents the complete Solar Logos. In reference the Grand Man of the Heavens represents only the logoic Ego on the cosmic mental plane.

Điều quan trọng cần nhận ra là Đại Nhân của Thiên Đường không phải là toàn thể Thái dương Thượng đế. Đôi khi có vẻ như danh xưng này đại diện cho toàn bộ Thái dương Thượng đế. Trong ngữ cảnh này, Đại Nhân của Thiên Đường chỉ đại diện cho Chân ngã logoic trên cõi trí vũ trụ.

evolving through

tiến hoá qua

The Sun and the seven sacred planets

Mặt Trời và bảy hành tinh thiêng liêng

each embodying a

mỗi hành tinh hàm chứa một

216. The Sun is the vehicle of the Son. The seven sacred planets are also vehicles of the Son.

216. Mặt Trời là vận cụ của Đức Con. Bảy hành tinh thiêng liêng cũng là vận cụ của Đức Con.

Cosmic principle, in six differentiations

Nguyên khí vũ trụ, trong sáu biệt hoá

by method of

bằng phương pháp

217. That cosmic principle of love-wisdom.

217. Nguyên khí vũ trụ ấy là bác ái-minh triết.

218. We can see that each Planetary Logos embodies what is considered a cosmic principle, and that this cosmic principle has six differentiations.

218. Chúng ta thấy rằng mỗi Hành Tinh Thượng đế hàm chứa cái được xem là một nguyên khí vũ trụ, và nguyên khí vũ trụ này có sáu biệt hoá.

219. The six differentiations express through six planetary chains of the seven  chains found in a planetary scheme, and to a lesser extent through six of the globes in every sevenfold chain.

219. Sáu biệt hoá này biểu lộ qua sáu dãy hành tinh trong bảy dãy được tìm thấy trong một hệ hành tinh, và ở một mức độ nào đó, qua sáu trong mỗi bảy cầu của mọi dãy thất phân.

220. To say that a Planetary Logos embodies a cosmic principle squares with the fact that Planetary Logoi are sometimes referred to as cosmic entities—not only systemic entities. A Planetary Logos does have His major principles on cosmic planes.

220. Nói rằng một Hành Tinh Thượng đế hàm chứa một nguyên khí vũ trụ phù hợp với thực tế rằng các Hành Tinh Thượng đế đôi khi được gọi là những hữu thể vũ trụ —không chỉ là những hữu thể hệ thống. Một Hành Tinh Thượng đế có các nguyên khí chính của Ngài trên các cõi vũ trụ.

221. We are being given, in this tabulation, the method of evolution of a Solar Logos.

221. Chúng ta đang được ban cho, trong bảng mục này, phương pháp tiến hoá của một Thái dương Thượng đế.

a. Expansion, vibratory stimulation, magnetic interaction,

a. Sự bành trướng, kích thích rung động, tương tác từ lực,

or the law of attraction and repulsion.

hay định luật hấp dẫn và đẩy lùi.

222. The dynamics of the Law of Attraction and Repulsion are here given. They consist of

222. Cơ học của Định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi được nêu ở đây. Chúng gồm:

a) Expansion

a) Sự bành trướng

b) Vibratory stimulation

b) Kích thích rung động

c) Magnetic interaction

c) Tương tác từ lực

b. Cyclic progress, rotary repetition,

b. Tiến trình chu kỳ, sự lặp lại vòng quay,

coupled to spiralling ascension,

đi kèm với thăng thướng theo xoáy ốc,

223. Two types of motion are listed under point “b”—both rotary motion and spiral cyclic motion.

223. Hai kiểu chuyển động được liệt kê dưới mục “b”—cả chuyển động quay tròn và chuyển động chu kỳ xoáy ốc.

224. It is illuminating to consider spiral-cyclic motion in association with the words “spiralling ascension”. The concept of this second type of the three types of motion is, thereby, enriched.

224. Có ý nghĩa khi xét chuyển động chu kỳ xoáy ốc trong mối liên hệ với các từ “thăng thướng theo xoáy ốc”. Nhờ vậy, khái niệm về kiểu chuyển động thứ hai trong ba kiểu chuyển động được làm phong phú.

and developing

và phát triển

a. The quality of love-wisdom, through the

a. Phẩm tính bác ái-minh triết, qua

utilization of form by the means of active intelligence.

việc sử dụng hình tướng bằng phương tiện hoạt động thông tuệ.

b. Full self-consciousness.

b. Tự-ý-thức trọn vẹn.

c. A perfected solar system, or the form,

c. Một hệ mặt trời đã được kiện toàn, hay hình tướng

adequate to the needs of the indwelling spirit.

đáp ứng đầy đủ nhu cầu của linh thần ngự trong.

225. Essentially, we are talking about the full development and expression of the “Son” through various vehicles found within the solar logoic ring-pass-not.

225. Cốt lõi, chúng ta đang nói về sự phát triển và biểu lộ đầy đủ của “Đức Con” qua các vận cụ khác nhau nằm trong vòng-giới-hạn của Thái dương Thượng đế.

226. In the tabulation we have been considering the highest (the Solar Logos) and the lowest (the perfected solar system, in all its multiple parts) have met. “The Highest and the Lowest Meet”.

226. Trong bảng mục mà chúng ta đang xét, cái cao nhất (Thái dương Thượng đế) và cái thấp nhất (hệ mặt trời đã kiện toàn, với mọi phần đa tạp của nó) đã gặp nhau. “Cao Nhất và Thấp Nhất Gặp Gỡ”.

Here a similar tabulation may be worked out to demonstrate the similarity of the process in the case of a Heavenly Man and a human being.

Ở đây một bảng mục tương tự có thể được triển khai để biểu thị sự tương tự của tiến trình trong trường hợp một Đấng Thiên Nhân và một con người.

227. DK is inviting us to create analogical structures. We have a sufficient pattern on which to base our thought. Who would like to undertake this project?

227. Chân sư DK đang mời gọi chúng ta kiến tạo những cấu trúc tương đồng. Chúng ta đã có đủ khuôn mẫu để đặt nền cho tư duy. Ai muốn đảm đương công việc này?

If we ask why ten schemes, and in effect ten planets (seven sacred and three concealed) [236] it is because the seven sacred planets are eventually merged into the three, and finally the three are blended into the one.

Nếu chúng ta hỏi vì sao mười hệ hành tinh, và trên thực tế là mười hành tinh (bảy thiêng liêng và ba ẩn giấu ) [236] thì đó là vì bảy hành tinh thiêng liêng rốt cuộc được dung hợp vào ba, và sau cùng ba được pha trộn thành một.

228. TCF 406 gives some idea of how this merging may be accomplished.

228. LVLVT 406 cho thấy vài ý niệm về cách thức dung hợp này có thể được thực hiện.

229. The “three” here referenced, though synthesizing planets, are usually referenced also as “sacred” planets. As a result, we have a picture of at least ten sacred planets. How can we explain this?

229. “Ba” được nói tới ở đây, tuy là các hành tinh tổng hợp, vẫn thường được gọi là các hành tinh “thiêng liêng”. Kết quả là, chúng ta có bức tranh về ít nhất mười hành tinh thiêng liêng. Làm sao giải thích điều này?

230. Perhaps in this way: by the time the merging comes, those which are now non-sacred planets, may be sacred, and the synthesizing planets will be the three greater planets ‘accepting’ or absorbing them.

230. Có lẽ như thế này: vào thời điểm diễn ra sự dung hợp, những hành tinh hiện nay là không-thiêng liêng có thể đã trở thành thiêng liêng, và các hành tinh tổng hợp sẽ là ba hành tinh lớn ‘tiếp nhận’ hay hấp thu chúng.

231. In this pattern of absorption, we are reminded of the Kabala and its “Tree of Life”, in which diagram, a greater three hover above a lesser seven.

231. Trong mô hình hấp thâu này, chúng ta được gợi nhớ đến Kabala và “Cây Sự Sống”, trong đó, một bộ ba lớn lơ lửng phía trên một bộ bảy nhỏ hơn.

232. In the structure of planetary chains, three perhaps superior chains can be considered hidden within the structure of a planetary scheme.

232. Trong cấu trúc các dãy hành tinh, có thể xem ba dãy có lẽ là tối thượng được ẩn trong cấu trúc của một hệ hành tinh.

233. Does this division of seven and three have a systemic analogy, with three, perhaps super planetary schemes, being hidden within the structure of the solar logoic ‘scheme’?

233. Liệu sự phân chia bảy và ba này có một sự tương đồng mang tính hệ thống không, với ba, có lẽ là các hệ hành tinh siêu việt, được ẩn trong cấu trúc “hệ” của Thái dương Thượng đế?

234. We note above that DK, in speaking of planets, says there are seven sacred and “three concealed”. This is most mysterious, because the planets we call the synthesizing planets are not concealed.

234. Chúng ta ghi nhận ở trên rằng Chân sư DK, khi nói về các hành tinh, cho biết có bảy hành tinh thiêng liêng và “ ba hành tinh được che giấu ”. Điều này hết sức bí nhiệm, vì các hành tinh mà chúng ta gọi là những hành tinh tổng hợp thì không bị che giấu.

235. Really, there are four levels of planetary functioning in any solar system, and all must be accounted for when considering the process of absorption:

235. Thực ra, có bốn cấp độ vận hành hành tinh trong bất kỳ hệ mặt trời nào, và tất cả đều phải được tính đến khi xét tiến trình hấp thâu:

a) The non-sacred planets

a) Các hành tinh không thiêng liêng

b) The sacred planets

b) Các hành tinh thiêng liêng

c) The synthesizing planets

c) Các hành tinh tổng hợp

d) AND, the three super-Entities expressing themselves through three Planetary Logoi each. (cf. chart XIII, TCF 1238)

d) VÀ, ba Siêu-Đấng tự biểu hiện qua mỗi vị ba Hành Tinh Thượng đế. (xem biểu đồ XIII, TCF 1238)

236. We must always ask ourselves the question, and, in fact, DK states it as a presently unanswerable question: “Are the three present in the Seven or extraneous to the Seven?”

236. Chúng ta phải luôn tự hỏi, và kỳ thực, Chân sư DK nêu điều đó như một câu hỏi hiện thời chưa thể trả lời: “Ba vị có hiện diện trong Bảy vị hay ở ngoài Bảy vị?”

237. Four numbers are to be considered in this process of understanding absorption or obscuration: not only the three, the seven, and the ten but also the twelve, for eventually there will be twelve planets, and eventually all of them will be sacred to a degree—to a degree, certainly in this solar system, and perhaps fully sacred in the next—though we still have plenty of time in this solar system for the non-sacred planetary rulers of some of the twelve signs to develop into sacred planets.

237. Có bốn con số cần được xét đến trong tiến trình thấu hiểu sự hấp thâu hay ám tàng: không chỉ ba, bảy, và mười mà còn cả mười hai, vì rốt cuộc sẽ có mười hai hành tinh, và rốt cuộc tất cả chúng sẽ thiêng liêng ở một mức độ nào đó —ở một mức độ nào đó, chắc chắn trong hệ mặt trời này, và có lẽ hoàn toàn thiêng liêng trong hệ sau—dẫu chúng ta vẫn còn thừa thời gian trong hệ mặt trời này để các chủ tinh không thiêng liêng của một vài trong mười hai dấu hiệu phát triển thành các hành tinh thiêng liêng.

238. So much depends upon what we really mean by a “sacred planet”, for there are planets which are sacred in part and those which are entirely sacred.

238. Rất nhiều điều tùy thuộc vào việc chúng ta thực sự muốn nói gì khi dùng từ “hành tinh thiêng liêng”, vì có những hành tinh thiêng liêng một phần và những hành tinh hoàn toàn thiêng liêng.

239. Take our non-sacred planet, for instance. When it takes its fifth in a series of seven minor initiations is will be sacred in a way. But as it has not yet, as an entire planetary scheme, taken its second cosmic initiation, will it be fully sacred when taking its fifth minor initiation?

239. Lấy ngay hành tinh không thiêng liêng của chúng ta làm ví dụ. Khi nó trải qua lần thứ năm trong chuỗi bảy tiểu điểm đạo, nó sẽ thiêng liêng theo một nghĩa nào đó. Nhưng vì xét như toàn thể hệ hành tinh, nó vẫn chưa thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ hai, vậy liệu nó có hoàn toàn thiêng liêng khi trải qua tiểu điểm đạo thứ năm chăng?

240. When we use the term “sacred planet”, the term planet may mean the planetary scheme in its entirety, or it may refer to a chain or even to a globe. The term “sacred planet”, therefore, can be considered rather blinded.

240. Khi chúng ta dùng thuật ngữ “hành tinh thiêng liêng”, từ “hành tinh” có thể hàm nghĩa toàn bộ hệ hành tinh, hoặc có thể ám chỉ một dãy hay thậm chí một bầu. Vì vậy, thuật ngữ “hành tinh thiêng liêng” có thể được xem là khá che mờ.

This can be traced along the line of analogy as we consider the seven Rays.  These seven Rays, which in manifestation are diverse, are eventually synthesised.

Điều này có thể lần theo đường tuyến của định luật tương đồng khi chúng ta xét đến bảy Cung. Bảy Cung này, vốn đa dạng trong biểu hiện, rốt cuộc được tổng hợp.

241. We are being given a ray analogy which will help us understand the manner in which the planets are absorbed at the point of solar systemic obscuration.

241. Chúng ta đang được nêu một phép tương đồng theo cung, điều sẽ giúp chúng ta hiểu cách thức các hành tinh được hấp thâu vào thời điểm ám tàng toàn hệ thái dương.

242. The principle to be realized is that all diversity is eventually synthesized.

242. Nguyên lý cần nhận ra là mọi đa tạp rốt cuộc đều được tổng hợp.

The minor four are blended, we are told, into the third major ray, and the three major rays are finally merged into the one synthetic ray, the Love-Wisdom Ray (the Dragon of Wisdom, the occult serpent swallowing its tail).95

Bốn cung phụ được hoà trộn, như chúng ta được cho biết, vào cung chính thứ ba, và ba cung chính rốt cuộc hợp nhất vào một cung tổng hợp, Cung Bác Ái – Minh Triết (Con Rồng của Minh triết, con rắn huyền bí tự nuốt đuôi mình).95

243. The manner in which the lower four are prepared to be merged into the major third ray is of interest. Two pairs of twos become one pair. This pair merges into one, and the remaining one merges into the major third ray.

243. Cách thức bốn cung thấp được chuẩn bị để nhập vào cung chính thứ ba là điều đáng chú ý. Hai cặp đôi trở thành một cặp. Cặp này hòa nhập thành một, và cung còn lại nhập vào cung chính thứ ba.

244. When considering the merging of the rays, it cannot easily be determined whether rays six and seven merge paralleled by the merging of rays five and four, or whether rays six and four merge, paralleled by the merging of rays seven and five.

244. Khi xét sự hợp nhất của các cung, không dễ xác định liệu cung sáu và bảy hợp nhất song song với sự hợp nhất của cung năm và bốn, hay cung sáu và bốn hợp nhất song song với sự hợp nhất của cung bảy và năm.

245. Planetarily, the patterns of absorption are also not easy to determine. We are told that all non-sacred planets merge eventually into Saturn. One would presume that both Vulcan and Jupiter merge, as well, into Saturn.

245. Xét theo bình diện hành tinh, các mô thức hấp thâu cũng không dễ xác định. Chúng ta được cho biết rằng tất cả các hành tinh không thiêng liêng rốt cuộc hợp nhất vào Sao Thổ. Người ta có thể suy rằng cả Vulcan lẫn Sao Mộc cũng hợp nhất, đồng thời, vào Sao Thổ.

246. Mercury, it is suggested, merges into Uranus and Venus into Neptune.

246. Người ta gợi ý rằng Sao Thủy hợp nhất vào Sao Thiên Vương và Sao Kim vào Sao Hải Vương.

247. It is natural to think that Pluto would merge into Mars.

247. Tự nhiên mà nghĩ rằng Sao Diêm Vương sẽ hợp nhất vào Sao Hỏa.

248. If, however, Earth merges with Venus, and Venus with Neptune, then Earth has a Neptunian destiny. Therefore, even though Venus is the alter-ego of Earth just as Mars is the alter-ego of Pluto, it may be that Earth (which is definitely part of a trinity involving Saturn) does not merge with Venus. Time will tell. It is likely that Saturn will be the planet of absorption for the Earth, or for a planet into which the Earth has merged.

248. Tuy nhiên, nếu Trái Đất hợp nhất với Sao Kim, và Sao Kim hợp nhất với Sao Hải Vương, thì Trái Đất có một định mệnh mang sắc thái Hải Vương tinh. Do đó, dù Sao Kim là đối phần của Trái Đất cũng như Sao Hỏa là đối phần của Sao Diêm Vương, có thể Trái Đất (vốn chắc chắn là một phần của một bộ ba liên hệ đến Sao Thổ) không hợp nhất với Sao Kim. Thời gian sẽ trả lời. Rất có thể Sao Thổ sẽ là hành tinh hấp thâu đối với Trái Đất, hoặc đối với một hành tinh mà Trái Đất đã hòa nhập vào.

This has been pointed out by H. P. B.  [95: Serpent swallowing its tail. —S. D., I, 704; II, 531.]

Điều này đã được Bà H. P. B. chỉ ra. [95: Con rắn tự nuốt đuôi mình. —S. D., I, 704; II, 531.]

249. The serpent swallowing its tail can be related to all three rays. To cycles and the third ray; to progressive cycles and, thus, the second; and also to a type of movement which converges to a point (first ray), depending upon whether the snake can carry the process of ‘swallowing’ forward until the circle becomes the point.

249. Hình tượng con rắn tự nuốt đuôi mình có thể liên hệ với cả ba cung. Với các chu kỳ và cung ba; với các chu kỳ tiến triển và như thế, với cung hai; và cũng với một kiểu chuyển động hội tụ về một điểm (cung một), tùy thuộc việc con rắn có thể tiếp tục quá trình “tự nuốt” đến mức vòng tròn trở thành điểm hay không.

We have, therefore, the three crowning rays, but seven seen during the evolutionary process.

Vì vậy, chúng ta có ba cung đội vương miện, nhưng bảy cung được thấy trong tiến trình tiến hoá.

250. There is a Kabalistic hint contained in these words. In Kabala, Kether is the “crown” and is part of a supernal triad accompanied by Chokma and Binah.

250. Có một ám chỉ Kabalistic ẩn trong những lời này. Trong Kabala, Kether là “vương miện” và thuộc về một bộ ba siêu việt đi cùng với Chokma và Binah.

251. In the Tree of Life, seven Sephiroth exist ‘below’ the crowning triad.

251. Trong Cây Sự Sống, bảy Sephiroth tồn tại ‘bên dưới’ bộ ba đội vương miện.

252. Again we come to the question of the seven and the ten. In the Tree of Life, the supernal three seem to have an existence independent from the seven below.

252. Lại nữa, chúng ta trở lại vấn đề về bảy và mười. Trong Cây Sự Sống, ba siêu việt dường như có một hiện hữu độc lập với bảy phía dưới.

253. DK seems to be suggesting that only seven rays are seen during the evolutionary process, but when the time of absorption comes, a supernal three emerge. Are these supernal three the Brahma, Vishnu and Shiva of our solar system? Or are they the three synthesizing planets with which we are familiar?

253. Chân sư DK dường như gợi ý rằng chỉ bảy cung được thấy trong tiến trình tiến hoá, nhưng khi thời điểm hấp thâu đến, một bộ ba siêu việt xuất lộ. Ba siêu việt này có phải là Brahma, Vishnu và Shiva của hệ mặt trời chúng ta không? Hay đó là ba hành tinh tổng hợp mà chúng ta quen thuộc?

254. The ten suggest ten rays, three of which are higher octaves of a lower three. In other words, we would have two sets of rays one, two and three—three of them being “crowning” or supernal and three of them associate with the lower seven.

254. Con số mười gợi ra mười cung, trong đó ba cung là bát độ cao hơn của ba cung thấp hơn. Nói cách khác, chúng ta sẽ có hai bộ cung một, hai và ba—ba cung trong số đó là “đội vương miện” hay siêu việt và ba cung kia liên kết với bảy cung thấp.

In connection with the Heavenly Men, functioning through the planets, there are, therefore, three planets which might be considered as synthesising planets, and four which are blended eventually, until the three have absorbed the essence of the four; finally the one absorbs the essence of the three, and the work is completed.  This process lies many millennia ahead, during the inevitable period of the gradual obscuration of our system. 

Liên hệ đến các Đấng Thiên Nhân, vận hành qua các hành tinh, vì vậy, có ba hành tinh có thể xem là các hành tinh tổng hợp, và bốn hành tinh rốt cuộc được hoà trộn, cho đến khi ba cung hấp thâu tinh hoa của bốn; cuối cùng vị Một hấp thâu tinh hoa của ba, và công việc hoàn tất. Tiến trình này còn ở trước mặt qua nhiều thiên niên kỷ, trong giai đoạn tất yếu của sự ám tàng tiệm tiến của hệ chúng ta.

255. Here the process of absorption is outlined. The one that absorbs the essence of the three may well be the Sun. However, there may be one of the synthesizing planets which absorbs the other two. Which would it be? Probably Saturn or Uranus. Neptune, we are told, does not even belong to our solar system—a deep mystery.

255. Ở đây tiến trình hấp thâu được phác hoạ. Vị Một hấp thâu tinh hoa của ba rất có thể là Mặt Trời. Tuy nhiên, có thể có một trong các hành tinh tổng hợp hấp thâu hai hành tinh kia. Đó sẽ là hành tinh nào? Có lẽ là Sao Thổ hoặc Sao Thiên Vương. Chúng ta được cho biết Sao Hải Vương thậm chí không thuộc về hệ mặt trời của chúng ta—một huyền bí sâu xa.

256. In the entire process of absorption/obscuration, the role of systemic Brahma, Vishnu and Shiva will have to be considered (cf. the three Entities surrounding the Solar Logos on chart XIII, TCF 1238) These functions of these three Entities (each expressing through three Planetary Logoi) are veiled in mystery, but they are clearly factors intermediate between the synthesizing planets and the Sun.

256. Trong toàn bộ tiến trình hấp thâu/ám tàng, vai trò của Brahma, Vishnu và Shiva ở cấp thái dương sẽ phải được xét đến (xem ba Đấng bao quanh Thái dương Thượng đế trên biểu đồ XIII, TCF 1238). Chức năng của ba Đấng này (mỗi Đấng biểu hiện qua ba Hành Tinh Thượng đế) vẫn được che màn bí mật, nhưng các Ngài rõ ràng là những yếu tố trung gian giữa các hành tinh tổng hợp và Mặt Trời.

257. A millennium is a thousand years. It would seem that the process lies billions of years ahead.

257. Một thiên niên kỷ là một nghìn năm. Có vẻ như tiến trình này còn ở phía trước hàng tỷ năm.

Four of the Heavenly Men find Their magnetic opposites, and fuse and blend.  First this takes place between Themselves, the negative and the positive rays merging and fusing, forming then the two from the four.

Bốn vị Thiên Nhân tìm thấy các đối cực từ tính của Các Ngài, và hoà tan, hòa trộn. Trước tiên điều này diễn ra giữa chính Các Ngài, các cung âm và dương hợp nhất và hoà tan, rồi hình thành nên hai từ bốn.

258. Here the process of obscuration as it concerns Planetary Logoi is elucidated.

258. Ở đây tiến trình ám tàng liên quan đến các Hành Tinh Thượng đế được giải minh.

259. The question posed above may be resolved. Negative and positive rays merge. By negative rays we may mean “soft-line” rays, with positive rays being those on the “hard-line”. This, at least, would be one method of interpretation.

259. Câu hỏi nêu trên có thể được tháo gỡ. Các cung âm và các cung dương hợp nhất. Bằng “cung âm” chúng ta có thể hiểu các cung “đường mềm”, còn “cung dương” là các cung “đường cứng”. Ít nhất đó cũng là một cách diễn giải.

260. However, just as heart and solar plexus blend (both expressing soft-line rays) and just as sacral and throat blend (both expressing hard-line rays) the terms “positive” and “negative” may refer to ‘positions’ above or below the diaphragm of the entity concerned, for symbolically, even great Entities have a diaphragm.

260. Tuy nhiên, như tim và tùng thái dương hòa nhập (cả hai đều biểu lộ các cung “đường mềm”) và như xương cùng và cổ họng hòa nhập (cả hai đều biểu lộ các cung “đường cứng”), thì các thuật ngữ “dương” và “âm” có thể ám chỉ ‘vị trí’ ở trên hay dưới cơ hoành của hữu thể liên quan, vì theo biểu tượng, ngay cả các Đấng vĩ đại cũng có một “cơ hoành”.

261. The merging pattern involving sacral/throat, solar plexus/heart, base of spine/head, should definitely be considered when considering planetary and solar systemic mergings, though, in doing so, we will not avoid another set of difficulties and apparent contradictions.

261. Mẫu hình hợp nhất liên quan xương cùng/cổ họng, tùng thái dương/tim, đáy cột sống/đầu, chắc chắn cần được xét đến khi cân nhắc các sự hợp nhất ở cấp hành tinh và toàn hệ thái dương, dẫu khi làm vậy, chúng ta sẽ không tránh khỏi một tập hợp khó khăn và mâu thuẫn bề ngoài khác.

262. Confronted with these varying possibilities, we see that it is not possible for us to penetrate this process with any degree of certainty.

262. Đối diện với những khả năng biến hoá này, chúng ta thấy rằng chúng ta không thể thâm nhập tiến trình này với bất kỳ mức độ chắc chắn nào.

263. As an example, Venus and Mercury represent a ray pair—rays five and four, a positive and a negative ray (from one perspective of considering the meaning of positive and negative). But it is not likely that Mercury and Venus will merge into one, because Mercury is to resolve into Uranus and Venus into Neptune (cf. TCF 406).

263. Chẳng hạn, Sao Kim và Sao Thủy biểu thị một cặp cung—cung năm và cung bốn, một cung dương và một cung âm (xét theo một quan điểm về ý nghĩa của dương và âm). Nhưng có lẽ Sao Thủy và Sao Kim sẽ không hòa làm một, vì Sao Thủy sẽ quy nhập vào Sao Thiên Vương và Sao Kim vào Sao Hải Vương (xem TCF 406).

264. Since, however, Mercury and Venus (having gone further in their cycles than any other planets) are well on their way to obscuration (interestingly), they may not be involved in the pattern of merging/obscuration here presented. The merging/obscuration here discussed may occur later—after Venus and Mercury have already been absorbed.

264. Tuy vậy, vì Sao Thủy và Sao Kim (đã đi xa hơn trong các chu kỳ của chúng so với bất cứ hành tinh nào khác) đang đi nhanh trên con đường ám tàng (thú vị thay), chúng có thể không can dự vào mẫu hình hợp nhất/ám tàng được trình bày ở đây. Sự hợp nhất/ám tàng được luận ở đây có thể diễn ra muộn hơn—sau khi Sao Kim và Sao Thủy đã được hấp thâu.

265. This would leave us to deal with Pluto, Mars, Earth, Vulcan and Jupiter.

265. Điều này để lại cho chúng ta xử lý Sao Diêm Vương, Sao Hỏa, Trái Đất, Vulcan và Sao Mộc.

266. If Pluto were to merge with Mars (its alter-ego), then Mars and Earth would be left to merge as would Vulcan and Jupiter. Earth would be preeminent over Mars and Jupiter over Vulcan. Merged Jupiter/Vulcan would then absorb merged Earth/Mars, and the resulting entity, with Jupiter preeminent, would be absorbed into Saturn.

266. Nếu Sao Diêm Vương hợp nhất với Sao Hỏa (đối phần của nó), thì Sao Hỏa và Trái Đất sẽ được để lại để hợp nhất cũng như Vulcan và Sao Mộc. Trái Đất sẽ trội hơn Sao Hỏa và Sao Mộc trội hơn Vulcan. Thực thể hợp nhất Mộc/Vulcan rồi sẽ hấp thâu thực thể hợp nhất Địa/Hỏa, và thực thể kết quả, với Sao Mộc trội hơn, sẽ được hấp thâu vào Sao Thổ.

267. One can see the complexity of the situation based on the fact that we do not really know anything certain about planetary durations.

267. Người ta có thể thấy độ phức tạp của tình huống dựa trên thực tế rằng chúng ta thực sự không biết chắc điều gì về thời hạn tồn tại của các hành tinh.

268. If we try to understand planetary mergings by following the patterns of energy transference in the human chakra system, other combinations will result. However, it is only fair to say, that chakric energy transferences are not necessarily the same as chakric mergings.

268. Nếu chúng ta tìm cách hiểu các sự hợp nhất hành tinh bằng cách lần theo các mẫu hình chuyển dịch năng lượng trong hệ thống luân xa của con người, các tổ hợp khác sẽ xuất hiện. Tuy nhiên, cũng cần công bằng mà nói rằng các chuyển dịch năng lượng luân xa không nhất thiết giống các sự hợp nhất luân xa.

Again the two merge, producing a united whole, and the one thus produced blends with the major third ray, the intelligence aspect,—the ray represented in our planetary Hierarchy by the Mahachohan. 

Rồi hai vị lại hợp nhất, tạo nên một toàn thể thống nhất, và thực thể vừa được tạo ra ấy hòa lẫn vào cung chính thứ ba, phương diện trí tuệ—cung được đại diện trong Thánh Đoàn hành tinh của chúng ta bởi vị MahaChohan.

269. It may well be that before this process can occur in the manner delineated, certain of the non-sacred planets must have merged with their sacred counterparts. This is so, because we have, as it were, too many planets to enact the pattern as here presented.

269. Rất có thể trước khi tiến trình này có thể diễn ra theo cách đã phác hoạ, một vài hành tinh không thiêng liêng phải hợp nhất với các đối phần thiêng liêng của chúng. Sở dĩ vậy, là vì, có thể nói, chúng ta có “quá nhiều hành tinh” để có thể thể hiện mẫu hình như được nêu.

270. Of course, if there are twelve planets (one to rule each sign of the zodiac) we have a still more complicated problem.

270. Tất nhiên, nếu có mười hai hành tinh (mỗi hành tinh cai quản một dấu hiệu hoàng đạo) chúng ta lại có một vấn đề phức tạp hơn nữa.

271. The pattern which DK presented for merging is, no doubt, accurate, but we do not know the various prior mergings and absorptions which must set up the possibility of the particular pattern of merging which DK delineates.

271. Mẫu hình hợp nhất mà Chân sư DK trình bày hẳn là chính xác, nhưng chúng ta không biết những sự hợp nhất và hấp thâu trước đó vốn cần thiết để tạo nên khả thể cho mẫu hình hợp nhất đặc biệt mà Chân sư DK phác thảo.

So the fusion will proceed until ultimately unity is reached in the system, and the Son has accomplished His purpose.

Vậy nên sự dung hợp sẽ tiếp diễn cho đến khi rốt cuộc đạt đến hợp nhất trong toàn hệ, và Đức Con hoàn tất mục đích của Ngài.

272. From the One to the Many; from the Many to the One. This is the law of all evolving systems.

272. Từ Một đến Nhiều; từ Nhiều trở về Một. Đây là định luật của mọi hệ thống đang tiến hoá.

He is perfected love-wisdom; his light shines forth cosmically;

Ngài là Bác Ái – Minh Triết viên mãn; ánh sáng của Ngài chiếu rạng theo tầm vũ trụ;

273. This means that His light shines forth within the larger system of the Cosmic Logos of which He is a part.

273. Điều này có nghĩa là ánh sáng của Ngài chiếu rạng trong hệ lớn hơn của Thượng đế Vũ Trụ mà Ngài là một phần.

His magnetic radius touches the periphery of His cosmic opposite, and the marriage of the Son is effected.  The two cosmic units merge.

Bán kính từ tính của Ngài chạm tới chu vi của đối cực vũ trụ của Ngài, và cuộc hôn phối của Đức Con được thực hiện. Hai đơn vị vũ trụ hợp nhất.

274. Each Solar Logos is a “cosmic unit”.

274. Mỗi Thái dương Thượng đế là một “đơn vị vũ trụ”.

275. Although the shining forth of the Son will be noticed throughout the sphere of the Cosmic Logos, the magnetic union will occur in relation to only one other Solar Logos. Which Logos this may be we have speculated upon earlier—however inconclusively.

275. Dẫu sự chiếu rạng của Đức Con sẽ được ghi nhận khắp lĩnh vực của Thượng đế Vũ Trụ, sự hợp nhất từ tính sẽ chỉ xảy ra liên hệ với duy nhất một Thái dương Thượng đế khác. Đó là vị Thượng đế nào thì trước đây chúng ta đã suy đoán—tuy chưa ngã ngũ.

276. The same complexity we faced when considering the merging of Planetary Logoi would be faced (with far less certainty) when we consider the merging of Solar Logoi.

276. Cùng một độ phức tạp mà chúng ta gặp phải khi xét sự hợp nhất của các Hành Tinh Thượng đế sẽ còn lớn hơn nhiều khi chúng ta xét sự hợp nhất của các Thái dương Thượng đế.

277. We speculated that our Solar Logos might be merging with the Logos of Alpha Centauri, or perhaps, more dramatically, with the Logos of the star Sirius, since Sirius can be conceived of as the “head” and our Cosmic Logos (Sol) is certainly the “heart” of that same Cosmic Logos.

277. Chúng ta đã suy đoán rằng Thái dương Thượng đế của chúng ta có thể hợp nhất với Thượng đế của Alpha Centauri, hoặc có lẽ, kịch tính hơn, với Thượng đế của sao Sirius, vì Sirius có thể được quan niệm như “đầu” còn Thượng đế Vũ Trụ (Sol) của chúng ta chắc chắn là “tim” của cùng vị Thượng đế Vũ Trụ đó.

278. It could be that both types of solar logoic mergings could occur. Our Solar Logos could merge with the Logos of Alpha Centauri before merging with the Logos of Sirius.

278. Có thể rằng cả hai kiểu hợp nhất tính thái dương có thể xảy ra. Thái dương Thượng đế của chúng ta có thể hợp nhất với Thượng đế của Alpha Centauri trước khi hợp nhất với Thượng đế của Sirius.

279. Clearly, we are on shaky ground, but it is mind-expanding to speculate.

279. Rõ ràng là chúng ta đang đứng trên nền tảng bấp bênh, nhưng việc suy tư như thế mở rộng thể trí.

280. Relevant to the whole question is the fact (we are told) that our Solar Logos is found within the Logoic Quaternary, and Sirius (more advanced) is not.

280. Liên quan đến toàn bộ vấn đề là thực tế (như chúng ta được cho biết) rằng Thái dương Thượng đế của chúng ta nằm trong Bộ tứ Logoic, còn Sirius (tiến bộ hơn) thì không.

281. While, relatively, our Solar Logos is not “sacred”, by the time of the destined merging, our Blue Logos may well be sacred. Were this the case, then, merging with Sirius would represent the merging of two sacred Logoi.

281. Dẫu xét tương đối mà nói, Thái dương Thượng đế của chúng ta chưa “thiêng liêng”, thì đến thời điểm hợp nhất đã định, Đấng Xanh Lam của chúng ta có thể rất thiêng liêng. Nếu vậy, thì sự hợp nhất với Sirius sẽ là sự hợp nhất của hai Thái dương Thượng đế thiêng liêng.

If we here naturally ask which is the cosmic unit that is our solar opposite, we shall be told that that question [237] lies hid for the present, though it is hinted at in the Secret Doctrine, and in other sacred books.

Nếu ở đây một cách tự nhiên chúng ta hỏi đơn vị vũ trụ nào là đối cực thái dương của chúng ta, chúng ta sẽ được cho biết rằng câu hỏi ấy [237] hiện còn ẩn giấu, dẫu đã được ám chỉ trong Giáo Lý Bí Nhiệm, và trong các sách thiêng khác.

282. This is a tantalizing hint, and invites us to go on a search.

282. Đây là một ám chỉ gợi tò mò, và mời gọi chúng ta lên đường tìm kiếm.

283. If the Planetary Logos with whom our Planetary Logos will merge is information hidden from us, how much more justifiable is it to hide the name of the Solar Logos with Whom our Solar Logos will consummate His cosmic marriage!

283. Nếu danh tính Hành Tinh Thượng đế mà Hành Tinh Thượng đế của chúng ta sẽ hợp nhất được che giấu khỏi chúng ta, thì càng có lý do chính đáng hơn để che giấu tên của Thái dương Thượng đế mà Thái dương Thượng đế của chúng ta sẽ hoàn tất cuộc hôn phối vũ trụ của Ngài!

A hint lies concealed in the relationship of the Pleiades to our earth, but not until a further precession of the equinoxes will it be more fully seen what is the exact relationship involved.96

Một ám chỉ ẩn giấu trong mối liên hệ giữa Pleiades và địa cầu của chúng ta, nhưng phải đến sau một lần tuế sai nữa, người ta mới thấy rõ hơn về chính xác mối liên hệ can dự là gì.96

284. We have a profound astronomical hint. The statement is a mystery within a mystery. It is as if our vernal equinox must align once more with Taurus and thus, with the Pleiades, before the mystery will be revealed.

284. Chúng ta có một ám chỉ thiên văn sâu xa. Lời xác quyết này là một huyền bí trong huyền bí. Tựa như điểm xuân phân của chúng ta phải lại một lần nữa thẳng hàng với Kim Ngưu và như thế, với Pleiades, trước khi điều huyền bí được khai mở.

285. We have noted here a special relationship between entities of vastly different orders. The relationship here referenced is between a planet (Earth) and constellation (the Pleiades).

285. Chúng ta ghi nhận ở đây một mối liên hệ đặc thù giữa các thực thể thuộc những cấp bậc sai khác nhau rất lớn. Mối liên hệ được nhắc đến là giữa một hành tinh (Trái Đất) và một chòm sao (Pleiades).

286. There is also a most significant and unsuspected relationship between a planet and a star—namely, the relationship between our planet Earth and the star, Sirius.

286. Cũng có một mối liên hệ tối hệ trọng và ít ai ngờ tới giữa một hành tinh và một ngôi sao—tức mối liên hệ giữa hành tinh Trái Đất của chúng ta và sao Sirius.

287. May it be that the Pleiades, the Star Sirius and the Earth are in some way involved in a special triangular relationship? They are connected in relation to the Mystery of the Makara, for the Solar Angels, though emanating from Sirius, are inspired by the Pleiades, and are focussed in service upon planet Earth.

287. Có thể rằng Pleiades, sao Sirius và Trái Đất theo một cách nào đó cùng tham dự vào một mối liên hệ tam giác đặc biệt? Chúng liên kết nhau liên quan đến Bí Nhiệm của Makara, vì các Thái dương Thiên Thần, dẫu xuất lộ từ Sirius, lại được Pleiades truyền cảm hứng, và tập chú phụng sự trên hành tinh Trái Đất.

288. Should there be something to this triangular relationship, the eventual merging of our Solar Logos with the Logos of Sirius would be a possibility.

288. Nếu mối liên hệ tam giác này có cơ sở, thì sự hợp nhất sau cùng của Thái dương Thượng đế chúng ta với Thượng đế của Sirius sẽ là một khả thể.

289. However, if we follow the analogy that Venus is to the Earth as Sirius is to our Sun, then the merging of Sol with Sirius could be considered questionable. For Venus is to merge into Neptune, and probably Earth is not. Yet, the analogy should, perhaps, not be pushed too far, especially in relation to this recondite matter.

289. Tuy nhiên, nếu chúng ta lần theo tương đồng rằng Sao Kim đối với Trái Đất như Sirius đối với Mặt Trời của chúng ta, thì sự hợp nhất của Sol với Sirius có thể còn đáng ngờ. Vì Sao Kim sẽ hợp nhất vào Sao Hải Vương, và có lẽ Trái Đất thì không. Dẫu vậy, có lẽ không nên đẩy phép tương đồng đi quá xa, nhất là trong vấn đề thâm áo này.

290. There may, one day, be a merging involving the Pleiades, but it will be of a very higher order, for the Pleiadian system is so far distant from our solar system that no merging of the kind envisioned is likely.

290. Ngày nào đó có thể có một sự hợp nhất can dự Pleiades, nhưng đó sẽ là một cấp độ rất cao, vì hệ Pleiades ở quá xa hệ mặt trời của chúng ta nên khó có một sự hợp nhất kiểu được hình dung ở đây.

291. Such a merging involving the Pleiades may be of a constellation with constellation. Speculatively, we could say that the Seven Solar Systems of Which Ours is One (a constellation) will one day merge with another constellation—perhaps with Orion. As well, one day, the constellation of Orion may merge with the Pleiades—which is, speculatively, the ‘hub’ of the super system of the One About Whom Naught May Be Said.

291. Một sự hợp nhất như thế có thể là giữa chòm sao với chòm sao. Theo lối suy đoán, chúng ta có thể nói rằng Bảy Hệ Mặt Trời mà Hệ của chúng ta là một (một chòm sao) rồi sẽ một ngày hợp nhất với một chòm sao khác—có lẽ với Orion. Đồng thời, một ngày kia, chòm sao Orion có thể hợp nhất với Pleiades—vốn, theo suy đoán, là ‘trục’ của siêu hệ của Đấng Bất Khả Tư Nghị.

292. Such mergings, should they occur (and something of this kind must eventually occur) would, indeed, be occurring within the body of manifestation of the One About Whom Naught May Be Said.

292. Những hợp nhất như thế, nếu xảy ra (và một việc nào đó ắt hẳn rốt cuộc sẽ xảy ra), thực sự sẽ diễn ra trong thân biểu lộ của Đấng Bất Khả Tư Nghị.

293. To consider the possibility of such mergings is but reasoned speculation—interesting but necessarily inconclusive. Still, if we pursue these expanded subjects using the law of analogy, much may be discovered.

293. Cân nhắc khả thể của những hợp nhất như vậy chỉ là suy luận có lý—thú vị nhưng tất yếu là không ngã ngũ. Dẫu vậy, nếu chúng ta theo đuổi những đề tài mở rộng này bằng định luật tương đồng, nhiều điều có thể được khám phá.

Footnote 96:

Chú thích 96:

Students might compare the following references and then form their own conclusions. —S. D., I, 711 note, 545, 439; II, 811, 830, 581, 582, 426, 454, 654, 371.

Các đạo sinh có thể đối chiếu các tham chiếu sau rồi tự mình rút ra kết luận. —S. D., I, 711 ghi chú, 545, 439; II, 811, 830, 581, 582, 426, 454, 654, 371.

Scroll to Top