Luận Về Lửa Vũ Trụ – S3S6 (269-84)

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
📘DOCX📕PDF

S3S6: TCF 269-284

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Hầu hết văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16, để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong các lớp học. Chú thích cuối trang và tham chiếu từ các sách AAB khác và từ những trang khác của TCF được đặt ở cỡ chữ 14. Lời bình xuất hiện ở cỡ chữ 12. Gạch dưới, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

It is suggested that this Commentary be read with the TCF book handy, for the sake of continuity. As analysis of the text is pursued, many paragraphs are divided, and the compact presentation in the book, itself, will convey the overall meaning of the paragraph.

Đề nghị đọc phần Bình giải này kèm theo cuốn sách TCF trong tay, vì mục đích liên tục mạch. Khi tiến hành phân tích văn bản, nhiều đoạn văn được chia nhỏ, và cách trình bày cô đọng trong sách, tự thân nó, sẽ truyền đạt ý nghĩa tổng quát của đoạn.

4. The Heavenly Men and Man.

4. Các Đấng Thiên Nhân và Con người.

The final part of question six is:  Who are the Manasaputras?

Phần cuối của câu hỏi thứ sáu là: Ai là Manasaputra?

1. The term “Manasaputras” is generic. The Solar Angel is a Manasaputra but so are the Heavenly Men.

1. Thuật ngữ “Manasaputra” là một danh xưng tổng quát. Thái dương Thiên Thần là một Manasaputra, nhưng các Đấng Thiên Nhân cũng vậy.

This will be dealt with in greater detail in connection with our planet when taking up the subject of the coming of the Lords of Flame.  It is desirable now to make certain facts clear which must form the basis of any thought upon this subject.

Việc này sẽ được đề cập chi tiết hơn liên quan đến hành tinh của chúng ta khi bàn đến chủ đề sự quang lâm của các Đấng Chúa Tể của Lửa. Hiện thời điều mong muốn là làm sáng tỏ vài sự kiện nhất định vốn phải hình thành nền tảng cho bất kỳ tư tưởng nào về chủ đề này.

2. The Lords of the Flame are Solar Angels.

2. Các Đấng Chúa Tể của Lửa là những Thái dương Thiên Thần.

3. Have we wondered why they are called “Lords of the Flame”? Occultly, the “Flame” is frequently the “Flame of Spirit”. From one perspective, these “Lords” serve the Spirit or Monad of humanity.

3. Chúng ta đã từng thắc mắc tại sao Các Ngài được gọi là “các Đấng Chúa Tể của Lửa ” chưa? Theo huyền môn, “Lửa” thường là “Lửa của Thần Linh”. Từ một quan điểm, các “Đấng Chúa Tể” này phụng sự Thần Linh hay Chân thần của nhân loại.

4. From another perspective, their bodies are of flame. They themselves are a divine fire. They are fire beings.

4. Từ một quan điểm khác, các thể của Các Ngài là lửa. Chính Các Ngài một ngọn lửa thiêng. Các Ngài là những hữu thể Lửa.

5. In the words of Master Morya they could be considered beings from the “fiery world”.

5. Theo lời của Chân sư Morya, có thể xem Các Ngài là những hữu thể đến từ “thế giới lửa”.

6. They emanate from a world in which fire is the great reality—as indeed it is everywhere, however occluded to the normal senses.

6. Các Ngài xuất lộ từ một thế giới trong đó lửa là thực tại vĩ đại—quả vậy, lửa hiện diện ở khắp nơi, chỉ là bị che lấp khỏi các giác quan thông thường.

[270]

[270]

The Divine Manasaputras,13,14 Who are known in the Secret Doctrine by diverse names, are the Mind-born Sons of Brahma, the third aspect logoic.

Các Manasaputra Thiêng Liêng,13,14 Những Vị được biết đến trong Giáo Lý Bí Nhiệm bằng nhiều danh xưng khác nhau, là những Con do Trí sinh của Brahma, phương diện thứ ba của Logos.

7. We note that the term “Divine” has been added before “Manasaputras”. This is almost always the indication that the Entities under discussion are the Heavenly Men.

7. Chúng ta lưu ý rằng từ “Thiêng Liêng” đã được thêm trước “Manasaputra”. Điều này hầu như luôn cho thấy rằng các Thực Thể đang được bàn đến là các Đấng Thiên Nhân.

8. We are familiar with the thought that Brahma represents the third aspect of divinity, Vishnu the second and Shiva the first.

8. Chúng ta quen thuộc với tư tưởng rằng Brahma đại diện phương diện thứ ba của thiên tính, Vishnu là phương diện thứ hai và Shiva là phương diện thứ nhất.

9. If these Manasaputras are Sons of Brahma, then, clearly they are associated with the third aspect of divinity.

9. Nếu các Manasaputra này là Những Con của Brahma, thì rõ ràng họ được liên hệ với phương diện thứ ba của thiên tính.

10. That they are “mind-born” suggests that they are the product of emanation or radiation from the core of that which in any system represents Brahma.

10. Việc họ là “do Trí sinh” gợi ý rằng họ là sản phẩm của sự xuất lộ hay bức xạ từ hạt nhân của cái mà trong bất kỳ hệ thống nào tượng trưng cho Brahma.

11. They do not, however, belong to the third aspect of divinity in the same sense as Fohat and His “Sons”.

11. Tuy nhiên, họ không thuộc phương diện thứ ba của thiên tính theo cùng nghĩa như Fohat và “Những Con” của Ngài.

12. We must remember that these mind-born Sons are “Dragons of Wisdom” and are becoming ever more perfect in the expression of the Love-Wisdom principle on their own levels of development.

12. Chúng ta phải nhớ rằng những Con do Trí sinh này là “Những Con Rồng của Minh Triết” và ngày càng trở nên hoàn hảo hơn trong biểu lộ nguyên khí Bác Ái – Minh Triết trên các cấp độ phát triển riêng của họ.

Footnote 13:

Chú thích 13:

In the Secret Doctrine the Heavenly Men are spoken of as:

Trong Giáo Lý Bí Nhiệm các Đấng Thiên Nhân được nói đến như:

1. Agents of creation.  They are the totality of manifestation. —S. D., I, 470.

1. Các tác viên của sáng tạo. Các Ngài là toàn thể của sự biểu lộ. —S. D., I, 470.

13. Thus, they have an association with the third aspect which functions under the “Ray of Creative Intelligence”, the Tibetan’s preferred name for the third ray.

13. Như vậy, họ có liên hệ với phương diện thứ ba vốn vận hành dưới “Cung của Trí Tuệ Sáng Tạo”, tên gọi mà Chân sư Tây Tạng ưa dùng cho cung ba.

14. The manifestation of which they are the totality can only be manifestation within the solar system.

14. Sự biểu lộ mà họ là toàn thể chỉ có thể là sự biểu lộ trong phạm vi hệ mặt trời.

15. There may be some supremely exalted septenate of which it could be said that they are the totality of manifestation in the entire universe.

15. Có thể có một bộ bảy siêu thăng tối cao mà về họ có thể nói rằng họ là toàn thể sự biểu lộ trong toàn vũ trụ.

2. They are pre-cosmic. —S. D., I, 470.

2. Các Ngài là tiền-vũ trụ. —S. D., I, 470.

16. In this case the term “cosmic” suggests a solar system as a cosmos. That they are “pre-cosmic” suggests that they exist before a solar system comes into manifestation.

16. Trong trường hợp này, từ “vũ trụ” gợi một hệ mặt trời như một tiểu vũ trụ. Việc họ “tiền-vũ trụ” gợi rằng họ hiện hữu trước khi một hệ mặt trời đi vào biểu lộ.

17. There is also the suggestion that they have a life-focus on planes higher than the cosmic physical.

17. Cũng có gợi ý rằng trọng tâm sự sống của họ đặt trên các cõi cao hơn cõi hồng trần vũ trụ.

3. They are the sumtotal of solar and lunar entities. —S. D., I, 152, 470.  Compare II, 374.

3. Các Ngài là tổng số các thực thể thái dương và thái âm. —S. D., I, 152, 470. So sánh II, 374.

18. This may be largely the case within our solar system. Of course, these Manasaputras cannot be conceived as comprising, in addition, the body and subtler vehicles of the Solar Logos per se.

18. Điều này có thể phần lớn đúng trong hệ mặt trời của chúng ta. Dĩ nhiên, không thể quan niệm rằng các Manasaputra này còn bao gồm, thêm vào đó, thân thể và các hiện thể vi tế của chính Thái dương Thượng đế.

19. It can be inferred that within the bodies proper (both objective and subjective) of the Solar Logos there are at least solar entities. Are there lunar entities, however, within the bodies of the Solar Logos, per se?

19. Có thể suy ra rằng trong các thể đích thực (vừa khách quan vừa chủ quan) của Thái dương Thượng đế ít nhất có các thực thể thái dương. Tuy nhiên, liệu có các thực thể thái âm ở trong các thể của chính Thái dương Thượng đế chăng?

4. They are the seven Biblical Archangels.

4. Các Ngài là bảy Tổng Thiên Thần trong Kinh Thánh.

20. We enter the subject of ‘angelology’. We come to understand that at least one interpretation of the nature of the Archangels is that they are Planetary Logoi.

20. Chúng ta bước vào môn “thiên thần học”. Chúng ta hiểu rằng ít nhất một cách diễn giải về bản chất của các Tổng Thiên Thần là: họ là các Hành Tinh Thượng đế.

21. The Archangels are also conceived as intra-planetary beings, and, therefore, as beings lesser than the Planetary Logoi.

21. Các Tổng Thiên Thần cũng được quan niệm như những hữu thể nội-hành tinh, do đó là những hữu thể thấp hơn Hành Tinh Thượng đế.

They are the seven Forces or creative Powers.

Các Ngài là bảy Lực hay các Quyền Năng sáng tạo.

22. It is interesting that they are not called the seven “Energies”. We might say that when an “Energy” expresses itself creatively on a lower plane, it is called a “Force”.

22. Điều đáng chú ý là họ không được gọi là bảy “Năng lượng”. Chúng ta có thể nói rằng khi một “Năng lượng” biểu lộ một cách sáng tạo trên cõi thấp hơn, nó được gọi là một “Lực” hay “mãnh lực”.

They are the seven Spirits before the Throne.

Các Ngài là Bảy Thánh Linh trước Thánh Ngai.

23. Much depends upon which “throne” we are discussing. In this case the “throne” is that of the Solar Logos. Each Planetary Logos, of course, is also a kind of “throne” and has its “seven Spirits” or “Ray Lords”.

23. Nhiều điều tùy thuộc vào việc chúng ta đang nói về “ngai” nào. Trong trường hợp này “ngai” là của Thái dương Thượng đế. Dĩ nhiên, mỗi Hành Tinh Thượng đế cũng là một dạng “ngai” và có “bảy Thánh Linh” hay “các Chúa Tể của Cung” của riêng mình.

They are the seven Spirits of the Planets. —S. D., I, 472, 153.

Các Ngài là bảy Linh của các Hành tinh. —S. D., I, 472, 153.

24. The word “Spirits” in this context represents the great Being Who informs an entire planetary scheme.

24. Từ “Linh” trong ngữ cảnh này đại diện cho Đại Hữu Thể thấm nhuần toàn bộ một hệ hành tinh.

25. We must be cautious in the use of the term spirit of the planet because it can also be used as follows, indicating not a monadic Entity but an involutionary one.:

25. Chúng ta phải thận trọng khi dùng thuật ngữ linh của hành tinh vì nó cũng có thể được dùng như sau, chỉ không phải một Thực Thể chân thần mà là một thực thể giáng hạ tiến hoá:

“All the involutionary lives, as earlier pointed out, form the vehicles for the spirit of the planet, or the planetary entity, who is the sumtotal of the elemental essences in process of involution”. (TCF 302)

“Tất cả các sự sống giáng hạ, như đã chỉ ra trước đó, cấu thành các vận cụ cho linh của hành tinh, hay thực thể hành tinh, vốn là tổng thể các Tinh chất hành khí đang trong quá trình giáng hạ.” ( TCF 302)

5. In Their totality They are the Secret Unpronounceable Name. —S. D., I, 473.

5. Trong toàn thể của Các Ngài, Các Ngài là Danh Xưng Bí Mật Không Thể Phát Âm. —S. D., I, 473.

26. Presumably this “Name” is the “Name” of the Solar Logos. On His own level Sanat Kumara has also a “Secret Unpronounceable Name” and, by analogy, there are probably certainly planetary beings who, in their totality, constitute that name.

26. Suy ra rằng “Danh Xưng” này là “Danh Xưng” của Thái dương Thượng đế. Trên cấp độ riêng của Ngài, Sanat Kumara cũng có một “Danh Xưng Bí Mật Không Thể Phát Âm” và, theo tương đồng, chắc chắn có các hữu thể hành tinh mà tổng thể của họ cấu thành danh xưng đó.

27. We are alerted to the idea that each syllable in that Name has a planetary key. Perhaps, then, each syllable in the Name of Sanat Kumara has a ray key.

27. Chúng ta được gợi ý rằng mỗi âm tiết trong Danh Xưng đó có một khóa hành tinh. Vậy có lẽ mỗi âm tiết trong Danh Xưng của Sanat Kumara có một khóa cung.

6. They are the collective Dhyan Chohans. —S. D., I, 477.

6. Các Ngài là các Dhyan Chohan tập thể. —S. D., I, 477.

28. The term “Dhyan Chohans” is also generic, and is also applied to the Solar Angels. The term suggests a high priest of meditation.

28. Thuật ngữ “Dhyan Chohan” cũng là tổng quát, và cũng được áp dụng cho các Thái dương Thiên Thần. Thuật ngữ này gợi ý các Chúa Tể của sự chiêm ngưỡng.

7. They are the seven Kumaras.  The seven Rishis. —S. D., I, 493.  III, 196, 327.

7. Các Ngài là bảy Kumaras. Bảy Rishi. —S. D., I, 493. III, 196, 327.

29. “Kumaras” are chaste and holy youths. Manasaputras, in this context, are Kumaras of a solar systemic type. We are also well familiar with the thought that there are Kumaras of an intra-planetary type—for instance, the seven Kumaras which express in relation to our own planetary scheme.

29. “Kumara” là những đồng trinh thánh thiện. Các Manasaputra, trong ngữ cảnh này, là các Kumara kiểu hệ mặt trời. Chúng ta cũng rất quen thuộc với tư tưởng rằng có các Kumara kiểu nội-hành tinh—ví dụ, bảy Kumara biểu lộ trong tương quan với hệ hành tinh của riêng chúng ta.

30. “Rishis” are great Teachers. The term is usually used in connection with the Seven Rishis of the Great Bear—the informing Lives of the seven major stars of that constellation.

30. “Rishi” là các Đại Huấn Sư. Thuật ngữ thường được dùng liên hệ đến Bảy Rishi của chòm Đại Hùng—những Sự Sống thấm nhuần bảy ngôi sao chính của chòm sao ấy.

8. They are the Sons of Light. —S. D., I, 521, 522.

8. Các Ngài là Những Con của Ánh sáng. —S. D., I, 521, 522.

31. “Light” can be considered in relation to both the third and second aspects of divinity.

31. “Ánh sáng” có thể được xét liên hệ cả phương diện thứ ba lẫn phương diện thứ hai của thiên tính.

32. If they are both Sons of Brahma and Sons of Light, then Brahma is Light.

32. Nếu họ vừa là Con của Brahma vừa là Con của Ánh sáng, thì Brahma là Ánh sáng.

9. They are the Hierarchy of creative Powers. —S. D., I, 233.

9. Các Ngài là Huyền Giai các Quyền Năng sáng tạo. —S. D., I, 233.

33. There are many Hierarchies of creative powers. DK gives us twelve such Creative Hierarchies in EA 34-35. It would seem that the Planetary Logoi are not included in this enumeration—that they are, in fact, greater that the types of entities found among the twelve. This has yet to be convincingly reasoned.

33. Có nhiều Huyền Giai các quyền năng sáng tạo. Chân sư DK cho chúng ta mười hai Huyền Giai Sáng Tạo như thế trong EA 34-35. Có vẻ như các Hành Tinh Thượng đế không nằm trong sự liệt kê này—rằng thực ra họ còn lớn hơn các loại hữu thể được tìm thấy trong mười hai Huyền Giai ấy. Điều này vẫn cần được biện luận thuyết phục.

34. To arrive at a conclusion, it would have to be determined whether the causal bodies of the Planetary Logoi are incorporated into the structure of the causal body of the Solar Logos, for the Twelve Creative Hierarchies are emanations from the second tier of the solar logoic causal body.

34. Để đi tới kết luận, cần xác định xem liệu các thể nguyên nhân của các Hành Tinh Thượng đế có được đưa vào cấu trúc thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế hay không, vì Mười Hai Huyền Giai Sáng Tạo các xuất lộ từ tầng thứ hai của thể nguyên nhân thuộc Thái dương Thượng đế.

35. We also have the problem that the causal bodies of Planetary Logoi such as our own are focussed on the third subplane of the cosmic mental plane, whereas the causal body of the Solar Logos is focussed on the first subplane.

35. Chúng ta còn gặp vấn đề là các thể nguyên nhân của các Hành Tinh Thượng đế như vị của chúng ta đặt trọng tâm trên cõi phụ thứ ba của cõi trí vũ trụ, trong khi thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế đặt trọng tâm trên cõi phụ thứ nhất.

36. A study of the formation of ‘group lotuses’ (a study beyond our ken) would be required.

36. Cần một nghiên cứu về sự hình thành các “hoa sen nhóm” (một nghiên cứu vượt ngoài tầm chúng ta).

10. They are the veiled synthesis. —S. D., I, 362.

10. Các Ngài là tổng hợp được che kín. —S. D., I, 362.

37. They are “veiled” to intelligences such as the human being. To greater intelligences, they are unveiled.

37. Các Ngài “được che kín” đối với những trí năng như con người. Với những trí năng lớn hơn, các Ngài không bị che.

38. The Heavenly Men also work together in a unity which is representative of a hidden synthesis.

38. Các Đấng Thiên Nhân cũng làm việc cùng nhau trong một hợp nhất vốn biểu trưng cho một tổng hợp ẩn tàng.

39. DK speaks of “that great veil which has been wisely thrown over all planetary lore” (TCF 1051) In fact, we know very little of the true nature and functioning of the Planetary Logoi.

39. Chân sư DK nói về “tấm màn lớn đã được khôn ngoan phủ lên mọi điều tri thức về các hành tinh” ( TCF 1051). Thực ra, chúng ta biết rất ít về bản chất và hoạt động chân thật của các Hành Tinh Thượng đế.

11. They are our own planetary deities. —S. D., I, 153.

11. Các Ngài là các vị thần hành tinh của chính chúng ta. —S. D., I, 153.

40. Here their nature clearly given.

40. Ở đây bản chất của Các Ngài được nêu rõ ràng.

12. They are all men, the product of other worlds. —S. D., I, 132.

12. Tất cả họ đều là “người”, là sản phẩm của các thế giới khác. —S. D., I, 132.

41. Like the Solar Logos, they are the product of other maha-kalpas. Their true origin is not given to us, though they were “men” many maha-kalpas ago.

41. Cũng như Thái dương Thượng đế, họ là sản phẩm của các đại kiếp trước. Cội nguồn chân thật của họ không được ban cho chúng ta, dù họ đã là “người” từ nhiều đại kiếp trước.

42. It may be supposed, however, that they are group Entities, and, as such, are specific groupings of Solar Angels. As such, they may have been, one day long ago, groupings of human beings of some kind. I do not think it is correct to consider that they may ever have been an individual human being even though it is said that they were “men”. Interestingly, the word “men” is a plural, perhaps hinting in a very subtle manner at their group origin.

42. Tuy nhiên có thể giả định rằng họ là các Thực Thể nhóm, và như vậy, là những tổ hợp đặc thù của các Thái dương Thiên Thần. Như thế, có thể một thuở xưa kia, họ là những tổ hợp của loại hình nhân loại nào đó. Tôi không cho rằng đúng khi xem họ từng là một con người riêng lẻ dù nói rằng họ là “người”. Điều đáng chú ý là từ “người” ở đây là số nhiều, có lẽ ám chỉ một cách rất tinh tế đến cội nguồn nhóm của họ.

13. They are closely connected with the seven stars of the Great Bear. —S. D., I, 488.  S. D., II 332.  II, 579, 668.  S. D., III, 195.

13. Các Ngài liên hệ mật thiết với bảy ngôi sao của chòm Đại Hùng. —S. D., I, 488. S. D., II 332. II, 579, 668. S. D., III, 195.

43. The seven major stars informed by the Seven Rishis, serve as the prototypes of the Heavenly Men, and are connected with the Heavenly Men according to similarity of ray.

43. Bảy ngôi sao chính được thấm nhuần bởi Bảy Rishi phục vụ như những nguyên mẫu của các Đấng Thiên Nhân, và được nối kết với các Đấng Thiên Nhân theo sự tương đồng cung.

14. They are symbolised by circles. —S. D., II, 582.

14. Các Ngài được biểu tượng bằng các vòng tròn. —S. D., II, 582.

44. If we study the cosmic monadic plane on TCF 344, we shall find seven great circles symbolizing seven super-constellational Logoi. We can analogize that on the systemic monadic plane, seven such circles (related to the Heavenly Men can likewise be found).

44. Nếu chúng ta nghiên cứu cõi chân thần vũ trụ trên TCF 344, chúng ta sẽ thấy bảy vòng tròn vĩ đại tượng trưng cho bảy Thượng đế siêu chòm sao. Chúng ta có thể suy tương rằng trên cõi chân thần thuộc hệ mặt trời, có thể tương tự tồn tại bảy vòng tròn như vậy (liên quan đến các Đấng Thiên Nhân).

15. They are collectively the fallen Angels. —S. D., II, 284, 541.

15. Tập thể các Ngài là các Thiên Thần Sa Ngã. —S. D., II, 284, 541.

45. Again, caution is required, because the “fallen Angels” are usually considered to be Solar Angels or Asuras. The Manasaputras are “fallen Angels” because they express their qualities in dense manifestation—i.e., within the physical body of the Solar Logos.

45. Một lần nữa, cần thận trọng, vì “các Thiên Thần Sa Ngã” thường được xem là các Thái dương Thiên Thần hay Asura. Các Manasaputra là “Thiên Thần Sa Ngã” vì họ biểu lộ các phẩm tính của mình trong sự biểu lộ đậm đặc—tức là trong nội thể hồng trần của Thái dương Thượng đế.

46. The term “fallen” is often equivalent to “manifested”.

46. Thuật ngữ “sa ngã” thường tương đương với “đi vào biểu lộ”.

Footnote 14:

Chú thích 14:

The Sons of Mind:  are known by various terms, such as:—”The Manasaputras, the Prajapatis, the Kumaras, the Primordial Seven, the Rudras, the Heavenly Men, the Rishis, the Spirits before the Throne.

Các Con của Trí: được biết đến bằng nhiều thuật ngữ, như:—“Manasaputra, Prajapati, Kumara, Bảy Nguyên Thủy, các Rudra, các Đấng Thiên Nhân, các Rishi, các Thánh Linh trước Thánh Ngai.

47. We recognize these terms as frequently used in The Secret Doctrine. Let us tabulate these for ease of assimilation.

47. Chúng ta nhận ra các thuật ngữ này vốn thường dùng trong Giáo Lý Bí Nhiệm. Chúng ta hãy liệt kê để dễ lĩnh hội.

a. The Sons of Mind

a. Các Con của Trí

b. The Manasaputras

b. Các Manasaputra

c. The Prajapatis

c. Các Prajapati

d. The Kumaras

d. Các Kumara

e. The Primordial Seven

e. Bảy Nguyên Thủy

f. The Heavenly Men

f. Các Đấng Thiên Nhân

g. The Rudras

g. Các Rudra

h. The Rishis

h. Các Rishi

i. The Spirits before the Throne

i. Các Thánh Linh trước Thánh Ngai

48. Some of these terms are expanded in The Secret Doctrine, an authoritative which may be consulted for further light. Each term gives a slightly different perspective on these great Planetary Logoi.

48. Một số thuật ngữ này được khai triển trong Giáo Lý Bí Nhiệm, một tác phẩm thẩm quyền có thể được tham khảo để có thêm ánh sáng. Mỗi thuật ngữ cho một viễn kiến hơi khác nhau về các Hành Tinh Thượng đế vĩ đại này.

They are the seven planetary Logoi, and are the Lords of the Rays, the seven Heavenly Men.

Các Ngài là bảy Hành Tinh Thượng đế, và là các Chúa Tể của các Cung, bảy Đấng Thiên Nhân.

49. Another name is given: they are the “Lords of the Rays”. They must, however, be distinguished from intra-planetary Ray Lords, who are shamballic beings.

49. Một tên gọi khác được nêu: họ là “các Chúa Tể của các Cung”. Tuy nhiên, phải phân biệt họ với các Chúa Tể Cung nội -hành tinh, là các hữu thể thuộc Shamballa.

They developed the mind aspect in the first solar system, that in which Brahma was paramount, and in Himself embodied objective existence.

Các Ngài đã phát triển phương diện trí tuệ trong hệ mặt trời thứ nhất, hệ mà trong đó Brahma giữ địa vị tối thượng, và tự Ngài bao hàm sự hiện hữu khách quan.

50. Brahma, in this context, is a great Entity who expresses the entirety of the third aspect of our Solar Logos.

50. Ở đây, Brahma là một Đại Hữu Thể biểu lộ toàn thể phương diện thứ ba của Thái dương Thượng đế của chúng ta.

51. We see that in the Heavenly Men the mind aspect is very fully developed. Towards this type of development, human beings strive.

51. Chúng ta thấy rằng nơi các Đấng Thiên Nhân, phương diện trí tuệ được phát triển rất viên mãn. Con người đang hướng tới kiểu phát triển này.

52. There are many human beings in the present solar system for whom Brahma is still paramount. We might say that for humanity in its present state of development, Brahma is generally paramount. Humanity is struggling to enter into a stage in which Vishnu will emerge into power.

52. Có nhiều con người trong hệ mặt trời hiện tại đối với họ Brahma vẫn tối thượng. Chúng ta có thể nói rằng với nhân loại ở tình trạng phát triển hiện nay, Brahma nói chung là tối thượng. Nhân loại đang vật lộn để bước sang giai đoạn trong đó Vishnu sẽ hiển lộ quyền năng.

53. We gather that in what is usually called the first solar system, Brahma was the embodiment of objective existence. Brahma was the cause and sustaining source of objective existence.

53. Chúng ta hiểu rằng trong cái thường gọi là hệ mặt trời thứ nhất, Brahma là hiện thân của sự hiện hữu khách quan. Brahma là nguyên nhân và nguồn nâng đỡ của sự hiện hữu khách quan.

This He did in the same sense as that in which the second aspect (the Vishnu or Dragon of Wisdom aspect) is the sumtotal of existence in this the second system.

Điều này Ngài đã làm theo cùng ý nghĩa như phương diện thứ hai (phương diện Vishnu hay Long của Minh triết) là tổng thể của sự hiện hữu trong hệ thứ hai này.

54. Spelling this out, in the present solar system Vishnu embodies the sumtotal of existence.

54. Nói rõ ra, trong hệ mặt trời hiện nay, Vishnu bao hàm tổng thể của sự hiện hữu.

55. These statements are somewhat enigmatical, however, for Brahma, Vishnu and Shiva all exist in all solar systems. Nor can it be said that the Solar Logos during the first solar system is entirely Brahma, or entirely Vishnu in this system and destined to be entirely Shiva in the next.

55. Tuy nhiên, các phát biểu này phần nào bí ẩn, vì Brahma, Vishnu và Shiva đều hiện hữu trong mọi hệ mặt trời. Cũng không thể nói rằng Thái dương Thượng đế trong hệ mặt trời thứ nhất là toàn Brahma, hoặc trong hệ này là toàn Vishnu và định sẵn trong hệ tới sẽ là toàn Shiva.

56. We can say however that the previous solar system was our Solar Logos’ Brahmic incarnation, whereas in this solar system He is undergoing His ‘Vishnu’ incarnation—i.e., an incarnation in which Vishnu is dominant just as in the last incarnation Brahma was dominant.

56. Tuy vậy, chúng ta có thể nói rằng hệ mặt trời trước là “hóa thân Brahma” của Thái dương Thượng đế của chúng ta, còn trong hệ mặt trời này Ngài đang trải qua “hóa thân Vishnu”—tức là một hóa thân trong đó Vishnu trội, cũng như trong hóa thân trước Brahma là trội.

The cells in Their bodies are made up of the units of the human and deva evolutions in the same manner (only on a higher turn of the spiral) as the bodies of human beings are made up of living organisms, the various animated cells, or the lesser lives.

Các tế bào trong các thể của Các Ngài được cấu thành bởi các đơn vị của hai tiến hóa: nhân loại và thiên thần  theo cùng một cách (chỉ là trên một vòng xoáy cao hơn) như các thể của con người được cấu thành bởi các sinh thể sống, các tế bào sinh động khác nhau, hay các sự sống nhỏ hơn.

57. Histology is the study of cells. To study man and certain of the devas is to study ‘planetary histology’. Some great Beings may do this in those centers of light which are the higher correspondences to our universities.

57. Mô học là môn nghiên cứu tế bào. Nghiên cứu con người và một số thiên thần nào đó là nghiên cứu “ mô học hành tinh ”. Một vài Đại Hữu Thể có thể làm điều này trong các trung tâm ánh sáng vốn là đối phần cao của các đại học của chúng ta.

58. DK is calling the cells “lesser lives”.

58. Chân sư DK gọi các tế bào là “các sự sống nhỏ hơn”.

59. We will question whether DK includes all members of the deva kingdom or only the self-conscious devas.

59. Chúng ta sẽ nêu câu hỏi liệu Chân sư DK có bao gồm toàn bộ các thành viên của giới thiên thần hay chỉ các thiên thần tự thức.

60. It is probable that many of the functions of the tiny life called a cell can be analogized to the functions of a human being.

60. Có khả năng là nhiều chức năng của sinh thể tí hon gọi là tế bào có thể được suy tương với các chức năng của một con người.

This is a basic fact in occultism, and the relationship between the cells in the human vehicles, and the cells in the bodies of a Heavenly [271] Man, will be productive of illumination if carefully studied.

Đây là một sự kiện cơ bản trong huyền học, và mối liên hệ giữa các tế bào trong các hiện thể của con người, và các tế bào trong các thể của một Đấng Thiên Nhân, [ 271] sẽ mang lại soi sáng nếu được khảo cứu cẩn trọng.

61. Presumably the types of cells in the human body would correlate with the types of human beings within the body of a Planetary Logos.

61. Nhiều khả năng các kiểu tế bào trong thân người sẽ tương ứng với các kiểu con người trong nội thể của một Hành Tinh Thượng đế.

62. Cells often go to the constitution of certain organs and this determines their function. There are also mobile cells. Within the blood stream there is an important division between red and white blood cells which, no doubt, can be analogized significantly.

62. Các tế bào thường cấu thành những cơ quan nhất định và điều này quyết định chức năng của chúng. Cũng có các tế bào lưu động. Trong dòng máu có một phân biệt quan trọng giữa hồng cầu và bạch cầu, điều chắc chắn có thể được suy tương một cách đầy ý nghĩa.

63. This would be a worthy project for someone with a good amount of fifth ray and a penchant for analogy. DK is suggesting that it be done.

63. Đây sẽ là một dự án đáng giá cho ai có đầy đủ phẩm tính cung năm và năng khiếu suy tương. Chân sư DK đang gợi ý nên làm điều đó.

64. Just as we expect that the cells in our body will serve the integrity of our body, so the Planetary Logos may expect that the men and devas that go to the cellular constitution of His centers will serve the integrity of His body (both objective and subjective).

64. Cũng như chúng ta kỳ vọng các tế bào trong thân mình sẽ phục vụ tính toàn vẹn của thân thể, Hành Tinh Thượng đế có thể kỳ vọng rằng con người và chư thiên—những thành phần tạo nên “tế bào” trong các trung tâm của Ngài—sẽ phục vụ tính toàn vẹn của nội thể Ngài (vừa khách quan vừa chủ quan).

65. It is a well-recognized truth that cancer cells work against this integrity.

65. Một chân lý được thừa nhận rộng rãi là tế bào ung thư hoạt động chống lại tính toàn vẹn này.

66. Cancer is related to what we might call ‘rogue individualism’. The word “rogue” suggests rouge, rough, red and Mars—a planet significant of rebellion.

66. Ung thư liên quan đến điều chúng ta có thể gọi là “chủ nghĩa cá nhân vô kỷ luật”. Từ “vô kỷ luật” gợi đến sắc đỏ, thô, dữ và Sao Hỏa—một hành tinh biểu trưng cho phản nghịch.

Just as a human being has an originating source, the Monad, and a semi-permanent vehicle, the causal body, but manifests through his lower principles (of which the dense physical  is not one)

Cũng như một con người có một nguồn gốc khai phát là Chân thần, và một vận cụ bán-trường tồn là thể nguyên nhân, nhưng biểu lộ qua các nguyên khí thấp của y (mà trong đó thể xác đậm đặc không là một nguyên khí)

67. May it be said as well that the human Monad is, for the Planetary Logos a “semi-permanent vehicle”?

67. Có thể cũng nên nói rằng Chân thần của con người, đối với Hành Tinh Thượng đế, là một “vận cụ bán-trường tồn”?

68. Even for the human being, the monadic vesture as presently constituted, is semi-permanent.

68. Ngay cả với con người, xiêm y chân thần hiện nay, như đang cấu tạo, cũng là bán-trường tồn.

so a Heavenly Man has an originating source, His Monad,

thì một Đấng Thiên Nhân có nguồn gốc khai phát là Chân thần của Ngài,

69. Presumably this Monad will be found upon the cosmic monadic plane (cf. TCF 344).

69. Suy ra Chân thần này được tìm thấy trên cõi chân thần vũ trụ (x. TCF 344).

a semi-permanent body on the monadic levels of the solar system,

một thể bán-trường tồn trên các cấp chân thần thuộc hệ mặt trời,

70. There is given an analogy between the causal body of a human being (definitely semi-permanent in its nature) and some kind of planetary logoic vehicle found on the systemic monadic plane—a vehicle which is definitely semi-permanent.

70. Ở đây có nêu một tương đồng giữa thể nguyên nhân của con người (rõ ràng có tính bán-trường tồn) và một loại vận cụ của Hành Tinh Thượng đế được tìm thấy trên cõi chân thần thuộc hệ mặt trời—một vận cụ hiển nhiên là bán-trường tồn.

71. This reference is another way of saying that our present monadic structure (and presumably the monadic structure of certain types of devas) is semi-permanent, for our monadic sheath is part of the constitution of that planetary logoic vehicle which is here said to be semi-permanent. Thus there can be no absolute permanence to the human monadic structure found upon the cosmic physical plane.

71. Tham chiếu này là một cách khác để nói rằng cấu trúc chân thần hiện tại của chúng ta (và suy ra cấu trúc chân thần của một số loại thiên thần) là bán-trường tồn, vì xiêm y chân thần của chúng ta là một phần cấu thành của vận cụ hành tinh đó vốn được nói là bán-trường tồn. Do đó, không thể có tính trường tồn tuyệt đối cho cấu trúc chân thần của con người nằm trên cõi hồng trần vũ trụ.

72. When our monadic sheath is destroyed (at which initiation?, the seventh?) it will represent a type of liberation for the Planetary Logoi, just as the destruction of the causal body at the fourth initiation represents a type of liberation for a man.

72. Khi xiêm y chân thần của chúng ta bị tiêu hủy (vào lần điểm đạo nào? lần thứ bảy?), điều đó sẽ biểu hiện một loại giải thoát cho các Hành Tinh Thượng đế, cũng như sự hủy diệt thể nguyên nhân ở lần điểm đạo thứ tư biểu hiện một dạng giải thoát cho con người.

73. The semi-permanent bodies of the Planetary Logoi are symbolized as triangles upon the systemic monadic plane. Many human and deva units go to the constitution of one of those triangles.

73. Các thể bán-trường tồn của các Hành Tinh Thượng đế được tượng trưng như các tam giác trên cõi chân thần thuộc hệ mặt trời. Nhiều đơn vị nhân loại và thiên thần cấu thành một trong những tam giác ấy.

but manifests through three lower sheaths, our atmic, buddhic, and manasic levels.

nhưng biểu lộ qua ba xiêm y thấp hơn, tức các cấp atma, Bồ đề và manas của hệ mặt trời.

74. The semi-permanent body of the Planetary Logos is the analogy to our causal body.

74. Vận cụ bán-trường tồn của Hành Tinh Thượng đế là tương đương với thể nguyên nhân của chúng ta.

75. The analogy which is suggested is: the planetary logoic semi-permanent body on the systemic monadic plane/three lower sheaths on systemic atmic, buddhic and manasic levels = the human causal body/lower mental, astral and etheric vehicles or sheaths.

75. Tương đồng được gợi ra là: vận cụ bán-trường tồn của Hành Tinh Thượng đế trên cõi chân thần thuộc hệ mặt trời/ba xiêm y thấp hơn trên các cấp atma, Bồ đề và manas của hệ mặt trời = thể nguyên nhân của con người/các vận cụ hạ trí, cảm dục và dĩ thái.

76. it would seem that for the Planetary Logos the systemic manasic planes cannot be considered as related His dense physical body, but rather to his etheric body.

76. Có vẻ như đối với Hành Tinh Thượng đế, các cõi manas thuộc hệ mặt trời không thể được xem như liên quan đến nội thể hồng trần đậm đặc của Ngài, mà đúng hơn, với nội thể dĩ thái của Ngài.

77. The causal bodies of men (considered in aggregation) are sheaths for our Planetary Logos. This is probably true on other planets as well.

77. Các thể nguyên nhân của con người (xét như một tập thể) là các xiêm y cho Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. Điều này có lẽ cũng đúng trên các hành tinh khác.

78. We are realizing that the planes of the spiritual triad are quite ‘personal’ in relation to a Planetary Logos just as the eighteen lower systemic subplanes are ‘personal’ in relation to the entity, man.

78. Chúng ta đang nhận ra rằng các cõi của Tam Nguyên Tinh Thần là khá “cá nhân” đối với một Hành Tinh Thượng đế, cũng như mười tám cõi phụ hệ mặt trời thấp là “cá nhân” đối với thực thể là con người.

79. The higher three subplanes of the systemic mental plane are still areas for the manifestation of a Planetary Logos.

79. Ba cõi phụ cao của cõi trí thuộc hệ mặt trời vẫn là những lĩnh vực để một Hành Tinh Thượng đế biểu lộ.

80. We must consider whether the concrete mental planes are or are not an aspect of His three lower sheaths which house principles (mental, astral and etheric sheaths). The term “manasic levels” used in the extract immediately above could justify the inclusion of these four lower sub-planes.

80. Chúng ta phải cân nhắc liệu các cõi trí cụ thể có hay không là một phần của ba xiêm y thấp hơn của Ngài vốn bao hàm các nguyên khí (các xiêm y trí tuệ, cảm xúc và dĩ thái). Thuật ngữ “các cấp manas” dùng ngay trong trích đoạn ở trên có thể biện minh cho việc bao gồm bốn cõi phụ thấp này.

81. One answer could be that they are not yet, but through man’s illumination, must become so. The mystery of the upright or inverted pentagram may be considered related.

81. Một câu trả lời có thể là: chưa phải, nhưng thông qua sự soi sáng của con người, phải trở thành như vậy. Huyền cơ của ngôi sao năm cánh dựng đứng hay đảo ngược có thể được xem là liên đới.

82. From another perspective, it is possible to consider the atmic sheath in relation to the mental body of the Planetary Logos; the buddhic vehicle in relation to the emotional body of the Planetary Logos; and the entire manasic vehicle in relation to the etheric body of the Planetary Logos.

82. Từ một viễn kiến khác, có thể xem xiêm y atma liên hệ đến thể trí của Hành Tinh Thượng đế; vận cụ Bồ đề liên hệ đến thể cảm xúc của Hành Tinh Thượng đế; và toàn bộ vận cụ manas liên hệ đến thể dĩ thái của Hành Tinh Thượng đế.

83. Were this the case, we can see that the higher mental plane would definitely represent an area of etheric expression. Would this be so for the concrete mental plane as well? According to one theory, yes.

83. Nếu vậy, ta có thể thấy rằng cõi thượng trí chắc chắn đại diện một khu vực biểu lộ dĩ thái. Liệu điều này cũng đúng cho cõi trí cụ thể không? Theo một thuyết, là có.

84. If our Planetary Logos is “extraneous to the astral and physical planes just as a human being is to the physical”, then both the astral and physical planes represent the dense physical (unprincipled) vehicle of the Planetary Logos.

84. Nếu Hành Tinh Thượng đế của chúng ta “ở ngoài” các cõi cảm dục và hồng trần cũng như con người ở ngoài cõi hồng trần, thì cả cõi cảm dục và cõi hồng trần đều biểu thị thể xác đậm đặc (không có nguyên khí) của Hành Tinh Thượng đế.

He is extraneous to the astral and physical planes just as a human being is to the physical.

Ngài ở ngoài các cõi cảm dục và hồng trần cũng như một con người ở ngoài cõi hồng trần.

85. We are pondering then, if the Planetary Logos is also extraneous to the concrete mental levels. We know that He is not extraneous to the higher mental subplanes on which the causal body and the manasic permanent atom are found.

85. Vậy chúng ta đang suy ngẫm xem Hành Tinh Thượng đế cũng ở ngoài các cõi trí cụ thể hay không. Chúng ta biết rằng Ngài không ở ngoài các cõi trí cao, nơi thể nguyên nhân và nguyên tử trường tồn manas được tìm thấy.

86. Can it be, then, that the entire mental plane is involved in the etheric expression of the Planetary Logos?

86. Vậy có thể chăng toàn bộ cõi trí đều tham dự vào biểu lộ dĩ thái của Hành Tinh Thượng đế?

87. We see that when comparing the manner in which the human being is numbered with the ‘numbering’ of the Planetary Logos, the correspondences are not exact. The human being has four etheric sub-planes and three dense physical sub-planes. How many etheric sub-planes are associated with the expression of our Planetary Logos?

87. Chúng ta thấy rằng khi so sánh cách “đánh số” đối với con người và đối với Hành Tinh Thượng đế, các tương đồng không hoàn toàn trùng khít. Con người có bốn cõi phụ dĩ thái và ba cõi phụ thể xác đậm đặc. Vậy có bao nhiêu cõi phụ dĩ thái gắn với biểu lộ của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta?

88. The correspondences between man and the Solar Logos are far more exact.

88. Sự tương đồng giữa con người và Thái dương Thượng đế chính xác hơn nhiều.

89. When dealing with the correspondences between man and the Planetary Logos we must remember that a Planetary Logos may be associated with three distinct types of beings: the Lord of the planetary scheme; the Lords of the planetary schemes; the Lords of the planetary globes.

89. Khi xử lý các tương đồng giữa con người và Hành Tinh Thượng đế, chúng ta phải nhớ rằng một Hành Tinh Thượng đế có thể được liên hệ với ba loại hữu thể riêng biệt: Chúa Tể của hệ hành tinh; các Chúa Tể của các hệ hành tinh; các Chúa Tể của các bầu hành tinh.

90. If there seem to be some rather wide discrepancies regarding the comparison between the Planetary Logos and the Solar Logos (the Planetary Logos seeming far to ‘low’ by comparison), it may be that either a Chain Lord or a Globe Lord is being discussed.

90. Nếu dường như có vài chênh lệch khá lớn khi so sánh Hành Tinh Thượng đế với Thái dương Thượng đế (Hành Tinh Thượng đế xem ra quá “thấp” khi so), có thể là vì đang bàn đến một Chúa Tể Dãy hay một Chúa Tể Bầu.

91. The matter is abstruse, but a Planetary Logos has a semi-permanent vehicle on the cosmic mental plane, just as does a Solar Logos. Then why this discussion of a Planetary Logos’ semi-permanent vehicle on the systemic monadic levels. The analogy does not fit.

91. Vấn đề này thâm áo, nhưng một Hành Tinh Thượng đế có một vận cụ bán-trường tồn trên cõi trí vũ trụ, cũng như một Thái dương Thượng đế có vậy. Vậy tại sao lại bàn về vận cụ bán-trường tồn của một Hành Tinh Thượng đế trên các cấp chân thần thuộc hệ mặt trời? Tương đồng không khớp.

92. Could it be, however, that a Globe Lord has a semi-permanent vehicle on the systemic monadic plane? Could it be that a Chain-Lord has a semi-permanent vehicle on that part of the cosmic astral plane that corresponds to the systemic monadic plane?

92. Tuy nhiên, có thể chăng một Chúa Tể Bầu có một vận cụ bán-trường tồn trên cõi chân thần thuộc hệ mặt trời? Có thể chăng một Chúa Tể Dãy có một vận cụ bán-trường tồn trên phần của cõi cảm dục vũ trụ tương ứng với cõi chân thần thuộc hệ mặt trời?

93. Such questions are meant to induce careful speculation based on a close study of the Law of Correspondences. We are apparently dealing with a very veiled area of the teaching.

93. Những câu hỏi như thế nhằm khơi dậy sự suy xét cẩn trọng dựa trên việc học kỹ Định luật tương ứng. Rõ ràng chúng ta đang xử lý một vùng giáo huấn được che kín sâu xa.

Man vitalises the physical vehicle with his force or heat but he does not occultly count it as a principle. 

Con người tiếp sinh lực cho thể hồng trần bằng mãnh lực hay nhiệt của y, nhưng y không coi nó là một nguyên khí theo huyền thuật.

94. A principle, we remember, can be considered a qualified aspect of monadic expression.

94. Nhớ rằng, một nguyên khí có thể được xem là một phương diện đủ phẩm tính của sự biểu lộ chân thần.

95. We note the equivalence of “force and heat”. Heat, we remember, is associated with fire by friction, and light, generally, with solar fire. Would “energy” and “light”, therefore, be equivalent terms? Energy/Force = Light/Heat

95. Chúng ta ghi nhận sự tương đương của “mãnh lực và nhiệt”. Nhiệt, như ta nhớ, liên quan đến lửa do ma sát, và ánh sáng, nói chung, liên quan đến Lửa Thái dương. Vậy “năng lượng” và “ánh sáng” có phải là các thuật ngữ tương đương? Năng lượng/Mãnh lực = Ánh sáng/Nhiệt

So the Heavenly Man is extraneous to the two lower planes of manifestation though He vitalises them with His force.

Vì thế Đấng Thiên Nhân ở ngoài hai cõi thấp của sự biểu lộ dù Ngài tiếp sinh lực cho chúng bằng mãnh lực của Ngài.

96. Just as the Solar Logos is extraneous to what: the three lower levels of the systemic planes or the twenty-one lowest systemic subplanes.

96. Cũng như Thái dương Thượng đế ở ngoài những gì: ba cấp thấp của các cõi hệ mặt trời hay hai mươi mốt cõi phụ thấp nhất?

97. As suggested, the concrete levels of the systemic mental plane may be in a special category. They are certainly not principled in relation to the Solar Logos; no level of the systemic mental plane is.

97. Như đã gợi ý, các cấp trí cụ thể của cõi trí thuộc hệ mặt trời có thể thuộc một hạng mục đặc biệt. Chắc chắn chúng không có nguyên khí đối với Thái dương Thượng đế; không cấp độ nào của cõi trí thuộc hệ mặt trời là có nguyên khí đối với Ngài.

98. May it be that just as the four ethers of the Solar Logos are the logoic, monadic, atmic and buddhic planes, so, correspondingly, the four ethers of the Heavenly Man (considered as the Planetary Logos) are the monadic, atmic, buddhic and manasic systemic planes (or at least the higher manasic sub-planes)? This would make sense.

98. Có thể chăng rằng cũng như bốn dĩ thái của Thái dương Thượng đế là các cõi logoic, chân thần, atma và Bồ đề, thì, tương ứng, bốn dĩ thái của Đấng Thiên Nhân (xét như Hành Tinh Thượng đế) là các cõi chân thần, atma, Bồ đề và manas thuộc hệ mặt trời (hoặc ít nhất là các cõi phụ manas cao)? Điều này có lý.

99. Remember that the term Heavenly Man (though usually equivalent with the term “Planetary Logos”) may also refer to a lesser type of being within the planetary scheme—such as a Chain Lord or a Globe Lord.

99. Hãy nhớ rằng thuật ngữ Đấng Thiên Nhân (dù thường tương đương với thuật ngữ “Hành Tinh Thượng đế”) cũng có thể chỉ một loại hữu thể thấp hơn trong nội bộ hệ hành tinh—như một Chúa Tể Dãy hay một Chúa Tể Bầu.

100. Earlier we read that the Heavenly Man expresses Himself through the atmic, buddhic and manasic planes, just as a human being expresses through the lower mental, astral and etheric planes.

100. Trước đó chúng ta đã đọc rằng Đấng Thiên Nhân biểu lộ qua các cõi atma, Bồ đề và manas, cũng như con người biểu lộ qua các cõi hạ trí, cảm dục và dĩ thái.

101. What is the nature of the being (within the planetary scheme) for whom the atmic, buddhic and manasic planes are as the mental, emotional and etheric bodies and not as etheric sub-planes? For the true Heavenly Man/Planetary Logos (with His causal body on the third level of the cosmic mental plane), the atmic, buddhic and manasic planes (at least the higher manasic sub-planes) are as ethers. But for the type of Heavenly Man described earlier, the atmic, buddhic and manasic planes are related to the vehicles of the personality. Could such a Heavenly Man be a Chain Lord?

101. Bản chất của hữu thể nào ( trong hệ hành tinh) mà đối với y, các cõi atma, Bồ đề và manas là như các thể trí, cảm xúc và dĩ thái, chứ không phải như các cõi phụ dĩ thái? Đối với Đấng Thiên Nhân đích thực/Hành Tinh Thượng đế (với thể nguyên nhân của Ngài ở tầng thứ ba của cõi trí vũ trụ), các cõi atma, Bồ đề và manas (ít nhất các cõi phụ manas cao) là như các dĩ thái. Nhưng đối với loại Đấng Thiên Nhân đã mô tả trước đó, các cõi atma, Bồ đề và manas liên hệ đến các vận cụ của phàm ngã. Liệu một Đấng Thiên Nhân như vậy có thể là một Chúa Tể Dãy?

102. The expression of the greatest Heavenly Man of our planetary scheme, seems to be, as it were, ‘down one notch’ or plane (or portion thereof) from the expression of the Solar Logos, the ‘Brother’ of the Heavenly Man considered as the Planetary Logos.

102. Biểu lộ của Đấng Thiên Nhân vĩ đại nhất thuộc hệ hành tinh của chúng ta, dường như, như thể “lùi xuống một nấc” hay một cõi (hoặc một phần cõi) so với biểu lộ của Thái dương Thượng đế, “Huynh Đệ” của Đấng Thiên Nhân được xét như Hành Tinh Thượng đế.

103. BUT, the expression of Chain Lords and Globe Lords seems to be ‘down a number of notches’, or planes (or portions thereof), from the expression of both the Solar Logos and the Planetary Logos.

103. NHƯNG, biểu lộ của các Chúa Tể Dãy và Chúa Tể Bầu dường như “lùi xuống vài nấc”, hay vài cõi (hoặc vài phần cõi), so với biểu lộ của cả Thái dương Thượng đế và Hành Tinh Thượng đế.

104. The concrete mental plane remains in an ambiguous position with respect to these beings. To the Solar Logos, the concrete mental plane and the higher mental plane are both part of the dense physical vehicle—i.e., the gaseous level.

104. Cõi trí cụ thể vẫn ở vào một vị trí mơ hồ đối với các hữu thể này. Đối với Thái dương Thượng đế, cả cõi trí cụ thể lẫn cõi thượng trí đều là một phần của nội thể đậm đặc—tức là cấp khí.

105. Perhaps for the Heavenly Man as Planetary Logos the higher mental plane pertains to the etheric structure of the Planetary Logos, but the lower mental plane to the gaseous level.

105. Có lẽ đối với Đấng Thiên Nhân xét như Hành Tinh Thượng đế, cõi thượng trí thuộc về cấu trúc dĩ thái của Hành Tinh Thượng đế, còn cõi hạ trí thuộc về cấp khí.

106. For a lesser type of Heavenly Man, perhaps a Chain Lord, the entire systemic manasic plane would represent the etheric expression, with the buddhic plane representing the emotional and the atmic plane representing the mental.

106. Đối với một loại Đấng Thiên Nhân thấp hơn, có lẽ là Chúa Tể Dãy, toàn bộ cõi manas thuộc hệ mặt trời sẽ đại diện biểu lộ dĩ thái, với cõi Bồ đề đại diện cảm xúc và cõi atma đại diện trí tuệ.

107. For a still lesser type of Heavenly Man, perhaps a Globe Lord (with a semi-permanent body on the atmic plane?), the lower mental plane would represent the etheric level, the higher mental plane the emotional, and the buddhic plane the mental.

107. Đối với một loại Đấng Thiên Nhân thấp hơn nữa, có lẽ là Chúa Tể Bầu (với một thể bán-trường tồn trên cõi atma?), cõi hạ trí sẽ đại diện cấp dĩ thái, cõi thượng trí là cảm xúc, và cõi Bồ đề là trí tuệ.

108. We have to find the span of sub-planes utilized as ethers by each of these types of beings: the Grand Heavenly Man or Solar Logos; the Planetary Logos as the greatest type of Heavenly Man; the Chain Lord as the secondary type of Heavenly Man; and the Globe Lord as the tertiary type of Heavenly Man.

108. Chúng ta phải tìm ra bề rộng các cõi phụ được sử dụng như “dĩ thái” bởi mỗi loại hữu thể này: Đấng Thiên Nhân Vĩ Đại hay Thái dương Thượng đế; Hành Tinh Thượng đế như loại Đấng Thiên Nhân cao nhất; Chúa Tể Dãy như loại Đấng Thiên Nhân thứ yếu; và Chúa Tể Bầu như loại Đấng Thiên Nhân bậc ba.

109. Below I have offered a thought about ‘sub-plane overlap’ which may complicate the matter further, but in which there may be some truth.

109. Dưới đây tôi đã nêu một suy nghĩ về “sự chồng lắp cõi phụ” có thể làm vấn đề thêm phức tạp, nhưng trong đó có thể có phần chân lý nào đó.

The human being realises his relationship (as a cell in the body) to a Heavenly Man only when he is developing the consciousness of the Ego on its own plane.

Con người nhận ra mối liên hệ của mình (như một tế bào trong nội thể) với một Đấng Thiên Nhân chỉ khi y đang phát triển tâm thức của Chân ngã trên chính cõi của nó.

110. We note the word “realises”. The soul is the principle of consciousness. The development of consciousness of the Ego on its own plane really begins with the initiation process, at which time the Monad is making a definite impact on the Ego (on its own plane).

110. Chúng ta lưu ý từ “nhận ra”. Linh hồn là nguyên tắc của tâm thức. Sự phát triển tâm thức của Chân ngã trên chính cõi của nó thực sự khởi phát với tiến trình điểm đạo, khi Chân thần đang tạo ảnh hưởng rõ rệt lên Chân ngã (trên chính cõi của nó).

The first faint tremor of the impact of monadic “destiny” (I know not how else to express this concept) makes itself felt, but is registered only by the soul of the initiate and on the level of soul consciousness; it is never registered by the man on the physical plane who is taking the first initiation; his brain cannot respond to this high vibration.   (R&I 312-313)

Những rung chuyển mơ hồ đầu tiên của tác động “định mệnh” chân thần (tôi không biết diễn đạt khái niệm này thế nào khác) tự biểu lộ, nhưng chỉ được ghi nhận duy nhất bởi linh hồn của vị điểm đạo đồ và trên cấp độ tâm thức linh hồn; nó không bao giờ được ghi nhận bởi người đang ở cõi hồng trần mà đang thọ lần điểm đạo thứ nhất; não của y không thể đáp ứng với rung động cao như vậy. (R&I 312-313)

111. The true cellular nature of man (planetarily considered) is monadic.

111. Bản tính tế bào chân thật của con người (xét theo phương diện hành tinh) là ở nơi Chân thần.

112. If the Monad is as a cell to one type of Heavenly Man, to what type of Heavenly Man is the Ego as a cell?

112. Nếu Chân thần là như một tế bào đối với một loại Đấng Thiên Nhân nào đó, thì Chân ngã là như tế bào đối với loại Đấng Thiên Nhân nào?

113. A number of the occult blinds used by DK when discussing the Planetary Logos relate to the mystery of the nature and interplay of the three types of Heavenly Men.

113. Nhiều cái màn huyền hoặc mà Chân sư DK dùng khi bàn về Hành Tinh Thượng đế liên hệ đến bí ẩn về bản tính và sự tương tác của ba loại Đấng Thiên Nhân.

If it might be so expressed, the groups of causal bodies are the lowest forms through which a Heavenly Man manifests, just as the physical body is the lowest through which a human being manifests, and this in its etheric connotation.

Nếu có thể diễn đạt như vậy, thì các nhóm thể nguyên nhân là những hình thức thấp nhất qua đó một Đấng Thiên Nhân biểu lộ,  cũng như thể xác là thể thấp nhất qua đó một con người biểu lộ, và điều này theo hàm ý dĩ thái.

114. It may be a strange thought for some that the human being is not really manifesting through a dense physical body, but that it is simply an automaton.

114. Có thể là một tư tưởng lạ với vài người rằng con người thực sự không biểu lộ qua một thể xác đậm đặc, mà nó chỉ là một tự động cơ.

115. We find in the extract above a direct analogy between groups of causal bodies and the physical body of man. The Planetary Logos/groups of causal bodies = man/his physical body. We must, however, be careful about the manner in which we define the term “physical”. In this context, it means etheric.

115. Chúng ta tìm thấy trong trích đoạn trên một tương đồng trực tiếp giữa các nhóm thể nguyên nhân và thể xác của con người. Hành Tinh Thượng đế/các nhóm thể nguyên nhân = con người/thể xác của y. Tuy nhiên, chúng ta phải thận trọng về cách định nghĩa thuật ngữ “thể xác”. Trong ngữ cảnh này, nó có nghĩa là dĩ thái.

116. Since the dense physical body of a human being is not a principle (in relation to man) man’s true physical body is considered his etheric body. It is important that we remember this.

116. Vì thân thể hồng trần đậm đặc của con người không phải là một nguyên khí (trong tương quan với con người), thân thể hồng trần chân thật của con người được xem là thể dĩ thái của y. Điều này rất quan trọng mà chúng ta cần ghi nhớ.

117. It is thus clear and confirmed that the higher mental plane (on the two lower levels of which, causal bodies can be found—can they be found on the first level?) is considered in relation to the Heavenly Man (as Planetary Logos) an area of etheric expression.

117. Vì vậy, rõ ràng và được xác nhận rằng cõi thượng trí (mà trên hai cấp thấp của nó có thể tìm thấy các thể nguyên nhân—liệu có thể tìm thấy trên cấp thứ nhất chăng?) được xem, trong tương quan với Đấng Thiên Nhân (tức Hành Tinh Thượng đế), là một khu vực dĩ thái biểu lộ.

118. Since human causal bodies are not found on the concrete mental subplanes, those subplanes cannot be considered etheric in relation to the Planetary Logos or greatest planetary Heavenly Man.

118. Do các thể nguyên nhân của con người không được thấy trên các cõi phụ trí cụ thể, nên các cõi phụ ấy không thể được xem là dĩ thái  trong tương quan với Hành Tinh Thượng đế hay Đấng Thiên Nhân hành tinh tối đại.

119. Yet, we have been reading of a type of Heavenly Man for whom the entire manasic plane stands as an area of etheric expression. The nature of such a lesser Heavenly Man must be ascertained.

119. Ấy vậy, chúng ta đã đọc về một loại Đấng Thiên Nhân mà với Ngài, toàn bộ cõi manas đứng như một khu vực biểu lộ dĩ thái. Cần xác định bản chất của Đấng Thiên Nhân bậc thấp như thế.

120. It is also confirmed that the lower mental plane must be considered equivalent to the gaseous subplane of the Planetary Logos’ dense physical vehicle.

120. Cũng được xác nhận rằng cõi hạ trí phải được xem là tương đương với cõi phụ chất khí của hiện thể hồng trần đậm đặc của Hành Tinh Thượng đế.

121. If these speculations are correct, we can see that each of these great beings has a differing number of systemic etheric sub-planes go to the constitution of the etheric sub-planes of these beings.

121. Nếu các suy đoán này đúng, chúng ta có thể thấy rằng mỗi vị trong các Đấng Vĩ Đại này có số lượng cõi phụ dĩ thái hệ mặt trời khác nhau cấu thành các cõi phụ dĩ thái của các Ngài.

122. The Solar Logos has a fourth etheric vehicle with seven systemic sub-planes (the seven sub-planes of the systemic buddhic plane). The Planetary Logos has a fourth etheric vehicle with only three systemic sub-planes (the three sub-planes of the systemic higher mental plane). We could speculate upon the number of systemic sub-planes which go to the constitution of a Chain Lord and Globe Lord, but not enough is known to make such speculation really profitable. We can only speculate that the numbers will vary.

122. Thái dương Thượng đế có hiện thể dĩ thái thứ tư với bảy cõi phụ hệ mặt trời (bảy cõi phụ của cõi Bồ đề của hệ mặt trời). Hành Tinh Thượng đế có hiện thể dĩ thái thứ tư chỉ với ba cõi phụ hệ mặt trời (ba cõi phụ của cõi thượng trí của hệ mặt trời). Chúng ta có thể suy đoán về số cõi phụ hệ mặt trời cấu thành một Chúa Tể của Dãy và một Chúa Tể của Bầu Hành tinh, nhưng hiểu biết hiện có chưa đủ để khiến sự suy đoán ấy thực sự hữu ích. Chúng ta chỉ có thể suy đoán rằng các con số sẽ khác nhau.

123. If we hope in any way to maintain numerical consistency between the numbers of systemic sub-planes involved in the expression of (for instance) the four etheric vehicles of these different types of beings, we shall have to have what we might call plane-overlap. This is perhaps an unusual idea and there is no way to verify that if may be true.

123. Nếu chúng ta hy vọng duy trì sự nhất quán về con số giữa các số cõi phụ hệ mặt trời can dự vào sự biểu lộ của (chẳng hạn) bốn hiện thể dĩ thái của những loại hữu thể khác nhau này, chúng ta sẽ phải có điều mà chúng ta có thể gọi là chồng-lấp-cõi. Có lẽ đây là một ý niệm khác thường và không có cách nào kiểm chứng rằng điều ấy có thể đúng.

124. For instance, a Solar Logos has seven systemic sub-planes which constitute His lowest or fourth ether, the buddhic plane. Is it justifiable to think that a Planetary Logos has only three systemic sub-planes constituting His fourth or lowest ether (i.e., the higher mental plane)?

124. Chẳng hạn, một Thái dương Thượng đế có bảy cõi phụ hệ mặt trời cấu thành cõi dĩ thái thấp nhất hay thứ tư của Ngài, tức cõi Bồ đề. Liệu có chính đáng chăng khi nghĩ rằng một Hành Tinh Thượng đế chỉ có ba cõi phụ hệ mặt trời cấu thành cõi dĩ thái thứ tư hay thấp nhất của Ngài (tức cõi thượng trí)?

125. OR, using the principle of plane overlap, may the lowest of the Planetary Logos’ four etheric vehicles consist of three systemic sub-planes on the higher mental plane and the four lowest sub-planes on the systemic buddhic plane.

125. HOẶC, theo nguyên tắc chồng-lấp-cõi, liệu cõi thấp nhất trong bốn hiện thể dĩ thái của Hành Tinh Thượng đế có thể gồm ba cõi phụ hệ mặt trời trên cõi thượng trí và bốn cõi phụ thấp của cõi Bồ đề của hệ mặt trời chăng.

126. If we give this idea credence, we shall have to think that our usual maps of the planes and sub-planes are drawn from the perspective of the Solar Logos and man, and not from the perspective of any of the Heavenly Men in a planetary scheme.

126. Nếu chúng ta tin cậy vào ý niệm này, chúng ta sẽ phải nghĩ rằng các bản đồ quen dùng về các cõi và cõi phụ được vẽ từ quan điểm của Thái dương Thượng đế và con người, chứ không phải từ quan điểm của bất kỳ Đấng Thiên Nhân nào trong một hệ hành tinh.

127. Just as there are no hard and fast boundaries between the signs of the zodiac, so there would be a system of relativity defining the boundaries of various planes, depending upon the type of entity or being under discussion.

127. Cũng như không có những ranh giới cứng nhắc giữa các dấu hiệu hoàng đạo, thì sẽ có một hệ thống tương đối xác định ranh giới của các cõi khác nhau, tùy thuộc vào loại hữu thể hay sinh linh đang được đề cập.

128. We think of our systemic higher mental plane as mental, but to a Planetary Logos it is etheric (or, at least, part of His etheric constitution) and to a Solar Logos it is gaseous (along with the concrete mental sub-planes). To a Chain Lord it may be analogous to the astral body and to a Globe Lord the higher mental plane may be as the lower mental plane.

128. Chúng ta coi cõi thượng trí của hệ mặt trời là trí tuệ, nhưng đối với một Hành Tinh Thượng đế nó là dĩ thái  (hoặc ít nhất là phần trong cấu trúc dĩ thái của Ngài) và đối với một Thái dương Thượng đế nó là chất khí  (cùng với các cõi phụ trí cụ thể). Đối với một Chúa Tể của Dãy, nó có thể tương tự như thể cảm dục, và đối với một Chúa Tể của Bầu Hành tinh, cõi thượng trí có thể như cõi hạ trí.

129. If we study what might be called ‘the continuum of prakritic vibration’, we may be able to more easily understand the principle of ‘planar overlap’.

129. Nếu chúng ta khảo sát cái có thể gọi là “liên tục của rung động prakritic”, chúng ta có thể dễ dàng hiểu nguyên tắc “chồng-lấp-các-cõi” hơn.

130. Obviously, we cannot ascertain the truth here. All we can do is follow the suggested analogies and attend to the implications.

130. Rõ ràng, chúng ta không thể xác quyết chân lý ở đây. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là theo các tương đồng được gợi ý và lưu tâm đến các hàm ý.

131. VSK suggests: “This is related to table on TCF 331, and helps solve the problem of the question of which is the colour of buddhi.”

131. VSK gợi ý: “Điều này liên hệ với bảng ở TCF 331, và giúp giải quyết vấn đề về câu hỏi đâu là màu sắc của Bồ đề.”

It should be borne in mind that the manifesting Existences embody certain planes, and have Their points of deepest involution on diverse levels:

Cần ghi nhớ rằng các Hiện Hữu đang biểu lộ bao hàm một số cõi nhất định, và có các điểm giáng hạ tiến hoá sâu nhất của Các Ngài trên những cấp độ khác nhau:

132. Here are series of important comparisons which will convey to us the areas of manifestation for three types of self-conscious entities.

132. Sau đây là một loạt so sánh quan trọng sẽ truyền đạt cho chúng ta các khu vực biểu lộ của ba loại hữu thể tự ý thức.

133. Man, a Planetary Logos and a Solar Logos are all “manifesting Existences”.

133. Con người, một Hành Tinh Thượng đế và một Thái dương Thượng đế đều là những “Hiện Hữu đang biểu lộ”.

134. This extract seems to confirm the possibility of the validity of ‘planar overlap’.

134. Đoạn trích này dường như xác nhận khả năng đúng đắn của “chồng-lấp-các-cõi”.

135. If we say that “manifesting Existences embody certain planes”, may it be justifiable to say that they also embody certain sub-planes?

135. Nếu chúng ta nói rằng “các Hiện Hữu đang biểu lộ bao hàm một số cõi nhất định”, liệu có chính đáng chăng khi nói rằng Các Ngài cũng bao hàm một số cõi phụ nhất định?

136. In studying the planar gamut of manifestation for diverse entities, the principle of relativity will, it seems, have to be considered.

136. Khi khảo cứu phổ cõi biểu lộ của các hữu thể khác nhau, có vẻ như nguyên tắc tương đối sẽ phải được xét đến.

a. A Man originates on the monadic level, has his main focal point on the fifth level, the mental, but is seeking full conscious development on the three lower planes, the mental, the astral and the physical.

a. Một Con người khởi nguồn trên cấp độ chân thần, có điểm tập trung chính ở cấp thứ năm, tức cõi trí, nhưng đang tìm kiếm phát triển tâm thức đầy đủ trên ba cõi thấp, tức cõi trí, cõi cảm dục và cõi hồng trần.

137. The relationship between the two an the five is here clearly evident, for the human Monad’s center of origination is on the second plane while the main focal point of man-the-Monad is on the fifth plane.

137. Ở đây mối liên hệ giữa hainăm đã hiện rõ, vì trung tâm khởi nguyên của Chân Thần con người ở cõi thứ hai trong khi điểm tập trung chính của con-người-như-Chân-Thần là ở cõi thứ năm.

138. There is also an implied connection between the numbers one and five, for the Monad, although on the second plane, represents the first aspect of divinity. The numbers one and five are, of course, intimately related. The number one is the Father and five is the Son.

138. Cũng có một liên kết hàm ẩn giữa các con số mộtnăm, vì Chân Thần, dù ở cõi thứ hai, đại diện cho Phương diện thứ nhất của thiên tính. Dĩ nhiên, số một và năm có liên hệ mật thiết. Số Một là Đấng Cha và số Năm là Đấng Con.

139. When dealing with the true origin of man, it is practical to indicate the monadic level, but what of the Sea of Fire? When the monadic sheath is destroyed, then man-the-essential-Monad is surely not destroyed, but (so it seems reasonable to infer) would be liberated into the sea of fire.

139. Khi đề cập đến nguồn gốc chân thực của con người, thực tế là nên chỉ ra cấp độ chân thần, nhưng còn Biển Lửa thì sao? Khi vỏ bọc chân thần bị hủy, thì con-người—Chân-Thần-tinh-yếu chắc chắn không bị tiêu diệt, mà (có vẻ hợp lý để suy ra) sẽ được giải phóng vào Biển Lửa.

140. The monadic level is the operative point of monadic focus for man’s entire pilgrimage into the lower five planes, however when dealing with the more remote origin of the Monad and its eventual destiny, still higher planes (i.e., cosmic sub-planes) will have to be considered.

140. Cấp độ chân thần là điểm vận hành của sự tập trung chân thần cho toàn bộ cuộc hành hương của con người vào năm cõi thấp, tuy nhiên khi nói đến nguồn gốc xa hơn của Chân Thần và định mệnh sau cùng của nó, các cõi cao hơn nữa (tức các cõi phụ vũ trụ) sẽ phải được xét đến.

b. A Heavenly Man has His source outside the solar system (as man outside the three worlds of his endeavor),

b. Một Đấng Thiên Nhân có nguồn ở bên ngoài hệ mặt trời (như con người ở bên ngoài ba cõi nỗ lực của y),

141. When the Tibetan references the solar system He often confines Himself to the cosmic physical plane.

141. Khi Chân sư Tây Tạng nói đến hệ mặt trời, Ngài thường giới hạn mình trong cõi hồng trần vũ trụ.

142. Since we are talking about sources, we are talking about Monads. It must be remembered, however, that the Ego is, in a way, the source for manifesting man, just as the planetary logoic Ego or the solar logoic Ego would be sources for the manifesting Planetary Logos and Solar Logos respectively.

142. Vì chúng ta đang nói về các nguồn, chúng ta đang nói về các Chân Thần. Tuy nhiên, cần nhớ rằng Chân ngã, theo một nghĩa nào đó, là nguồn cho con người đang biểu lộ, cũng như Chân ngã của Hành Tinh Thượng đế hay Chân ngã của Thái dương Thượng đế sẽ là các nguồn cho Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế đang biểu lộ, tương ứng.

143. Nevertheless, we do seem to be talking of Monads.

143. Dẫu vậy, chúng ta thực sự dường như đang nói về các Chân Thần.

144. The true origin of a Planetary Logos or Heavenly Man (let us, for the most part, treat these terms as equivalent) is probably the cosmic monadic plane. This may be inferred because the causal body of a Planetary Logos is found upon the higher levels of the cosmic mental plane, just as the causal body of man is found upon the higher levels of the systemic mental plane.

144. Nguồn gốc chân thật của một Hành Tinh Thượng đế hay Đấng Thiên Nhân (chúng ta, phần lớn, hãy coi hai thuật ngữ này là tương đương) có lẽ là cõi chân thần vũ trụ. Có thể suy ra điều này vì thể nguyên nhân của một Hành Tinh Thượng đế được thấy trên các cấp cao của cõi trí vũ trụ, cũng như thể nguyên nhân của con người được thấy trên các cấp cao của cõi trí của hệ mặt trời.

145. It is probable that the Heavenly Man here discussed is the greatest of our planetary Heavenly Men—the Planetary Logos.

145. Có khả năng Đấng Thiên Nhân đang được bàn đến ở đây là vị vĩ đại nhất trong các Đấng Thiên Nhân hành tinh của chúng ta —tức Hành Tinh Thượng đế.

146. When (on p. 271) DK spoke of a Heavenly Man who “has an originating source, His Monad, a semi-permanent body on the monadic levels of the solar system”, we have to be very careful. Does the Heavenly Man there under discussion have both “an originating source, His Monad” and “a semi-permanent body of the monadic levels of the solar system”?

146. Khi (ở tr. 271) Chân sư DK nói về một Đấng Thiên Nhân “có một nguồn khởi nguyên, tức Chân Thần của Ngài, một thể bán thường tồn ở các cấp chân thần của hệ mặt trời”, chúng ta phải rất thận trọng. Liệu Đấng Thiên Nhân đang được nói đến ở đó có cả “một nguồn khởi nguyên, tức Chân Thần của Ngài” “một thể bán thường tồn ở các cấp chân thần của hệ mặt trời” chăng?

147. OR, is the phrase “a semi-permanent body on the monadic levels of the solar system” a phrase in apposition, referring to “His Monad”?

147. HOẶC, cụm từ “một thể bán thường tồn ở các cấp chân thần của hệ mặt trời” là một mệnh đề đồng vị, chỉ “Chân Thần của Ngài”?

148. Why is the word “and” not used before “a semi-permanent body” just as it is earlier in the paragraph when describing a human being, for a human being has a Monad as an “originating source” and a “semi-permanent vehicle, the causal body”? Is this just an error? Or is it meant to produce ambiguity and, hence, a deeper search.

148. Tại sao từ “and” lại không được dùng trước “một thể bán thường tồn” như nó đã được dùng trước đó trong đoạn để mô tả một con người, vì con người có một Chân Thần như một “nguồn khởi nguyên” một “vận cụ bán thường tồn, tức thể nguyên nhân”? Đây chỉ là một lỗi? Hay nó được dụng ý tạo ra sự mập mờ và, do đó, một cuộc tìm kiếm sâu hơn.

149. If the solar system is considered to be the cosmic physical plane, then all three types of planetary Heavenly Men may have originating sources outside the solar system.

149. Nếu hệ mặt trời được xem như cõi hồng trần vũ trụ, thì cả ba loại Đấng Thiên Nhân hành tinh  đều có thể có nguồn khởi nguyên ở bên ngoài hệ mặt trời.

150. The Monad of our Planetary Logos (and of all Planetary Logoi) are, we infer, to be found upon the cosmic monadic plane. Where are the originating sources of those Heavenly Men known as Chain Lords and Globe Lords?

150. Chúng ta suy ra rằng Chân Thần của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta (và của mọi Hành Tinh Thượng đế) được thấy trên cõi chân thần vũ trụ. Vậy nguồn khởi nguyên của những Đấng Thiên Nhân được gọi là các Chúa Tể của Dãy và các Chúa Tể của Bầu Hành tinh ở đâu?

151. If the aggregations of human Monads on the systemic monadic plane are a kind of causal body to a certain type of Heavenly Man, then the monadic origin of that type of Heavenly Man would certainly be found outside the solar system (considering the solar system as the cosmic physical plane).

151. Nếu các tập hợp Chân Thần nhân loại trên cõi chân thần của hệ mặt trời là một loại thể nguyên nhân đối với một kiểu Đấng Thiên Nhân nhất định, thì nguồn gốc chân thần của kiểu Đấng Thiên Nhân ấy hẳn nhiên sẽ được thấy ở bên ngoài hệ mặt trời (nếu xét hệ mặt trời như cõi hồng trần vũ trụ).

152. We cannot say upon what type of contra-parallel the Monad of a Chain Lord may be found, or the Monad of a Globe Lord, but it would seem likely to be on cosmic planes above the cosmic physical plane (on which the human Monad has its point of focus).

152. Chúng ta không thể nói Chân Thần của một Chúa Tể của Dãy có thể được thấy trên loại “đối-trục” nào, cũng như Chân Thần của một Chúa Tể của Bầu Hành tinh, nhưng có vẻ hợp lý rằng đó sẽ là trên các cõi vũ trụ cao hơn cõi hồng trần vũ trụ (nơi Chân Thần của con người có điểm tập trung của nó).

153. We are somewhat limited here because we do not know what might be called the ‘developmental proportion’ between a Planetary Logos and His subsidiaries—Chain Lords and Globe Lords. We have some idea of how to measure man against a Solar Logos or Planetary Logos, but how to measure a Globe Lord or a Chain Lord against a Planetary Logos?

153. Chúng ta phần nào bị giới hạn ở đây vì chúng ta không biết cái gọi là “tỉ lệ phát triển” giữa Hành Tinh Thượng đế và các thuộc cấp của Ngài—các Chúa Tể của Dãy và các Chúa Tể của Bầu Hành tinh. Chúng ta có đôi chút khái niệm về cách đo con người so với Thái dương Thượng đế hay Hành Tinh Thượng đế, nhưng làm sao đo một Chúa Tể của Bầu Hành tinh hay một Chúa Tể của Dãy so với một Hành Tinh Thượng đế?

154. The Tibetan has been talking mainly about four types of atoms—the tiny atom of matter/substance; man as an atom; the Planetary Logos as an atom and the Solar Logos as an atom.

154. Chân sư Tây Tạng đã nói chủ yếu về bốn loại “nguyên tử”—nguyên tử nhỏ bé của vật chất/chất liệu; con người như một nguyên tử; Hành Tinh Thượng đế như một nguyên tử và Thái dương Thượng đế như một nguyên tử.

155. May it be possible that there are also inferences concerning Globe Lords and Chain Lords as atoms?

155. Liệu cũng có thể có những hàm ý liên quan đến các Chúa Tể của Bầu Hành tinh và các Chúa Tể của Dãy như những “nguyên tử” chăng?

156. The three worlds of man’s endeavor are the physical-etheric, the astral and the lower mental worlds.

156. Ba cõi nỗ lực của con người là cõi hồng trần-dĩ thái, cõi cảm dục và cõi hạ trí.

157. What are the three worlds of endeavor for the type of Heavenly Man here discussed? If the Heavenly Man is the Planetary Logos, then the three worlds are the cosmic physical plane, the cosmic astral plane and the lower cosmic mental plane. Thus, the originating source of the Planetary Logos would have to be ‘above’ even the cosmic mental plane.

157. Ba cõi nỗ lực của loại Đấng Thiên Nhân đang bàn đến là gì? Nếu Đấng Thiên Nhân là Hành Tinh Thượng đế, thì ba cõi ấy là cõi hồng trần vũ trụ, cõi cảm dục vũ trụ và cõi trí vũ trụ thấp. Như vậy, nguồn khởi nguyên của Hành Tinh Thượng đế sẽ phải “ở trên” cả cõi trí vũ trụ.

has His main focal point on the second plane of the system, the monadic,

có điểm tập trung chính trên cõi thứ hai của hệ, tức cõi chân thần,

158. What for man is monadic and his highest point of focus is for the type of Heavenly Man here discussed an intermediary point of expression. We note, however, that the causal body of a Planetary Logos is not found upon the systemic monadic plane but upon the cosmic mental plane.

158. Điều mà với con người là chân thần và điểm tập trung cao nhất của y thì đối với loại Đấng Thiên Nhân đang bàn đến lại là một điểm biểu lộ trung gian. Tuy nhiên, chúng ta lưu ý rằng thể nguyên nhân của một Hành Tinh Thượng đế không được thấy trên cõi chân thần của hệ mặt trời mà ở trên cõi trí vũ trụ.

159. So for the Planetary Logos (the greatest of the three types planetary Heavenly Men), the focus on the systemic monadic plane is not a causal focus, though such a focus may be considered an analogy to causal focus for a lesser type of planetary Heavenly Man.

159. Vậy, đối với Hành Tinh Thượng đế (vị vĩ đại nhất trong ba loại Đấng Thiên Nhân hành tinh), sự tập trung trên cõi chân thần của hệ mặt trời không phải là một tập trung mang tính nguyên nhân, dù tập trung như vậy có thể được xem như một tương tự với tập trung nguyên nhân đối với một loại Đấng Thiên Nhân hành tinh thấp hơn.

and is seeking consciousness on the planes of the Triad,—this in relation to all the cells in His body.

và đang tìm kiếm tâm thức trên các cõi của Tam Nguyên Tinh Thần,—điều này trong tương quan với mọi tế bào trong thân thể của Ngài.

160. This is an important point. Man (as a cell in the body of the Planetary Logos) is the medium through which a Heavenly Man is seeking to expand His consciousness on the cosmic physical plane.

160. Đây là một điểm quan trọng. Con người (như một tế bào trong thân thể của Hành Tinh Thượng đế) là môi giới qua đó một Đấng Thiên Nhân tìm cách mở rộng Tâm thức của Ngài trên cõi hồng trần vũ trụ.

161. Man is seeking full consciousness development on the lower three systemic planes and “A Heavenly Man” is seeking full consciousness development through man through the spiritual triad of man—the spiritual triad being for man as the personality of the Monad.

161. Con người đang tìm kiếm sự phát triển tâm thức đầy đủ trên ba cõi hệ thống thấp, và “Một Đấng Thiên Nhân” đang tìm kiếm sự phát triển tâm thức đầy đủ thông qua con người qua Tam Nguyên Tinh Thần của con người—Tam Nguyên Tinh Thần, đối với con người, là như phàm ngã của Chân Thần.

162. Man, it would seem, is as a cell of consciousness for the type of Heavenly Man here discussed and indispensable for the expansion of the consciousness.

162. Có vẻ như con người là một tế bào tâm thức của loại Đấng Thiên Nhân đang bàn đến và không thể thiếu cho sự mở rộng tâm thức ấy.

163. We are told that the type of Heavenly Man here discussed “has His main focal point on the second plane of the system, the monadic”. This statement must be compared with the ‘location’ of the “main focal point” for man and for the Solar Logos. Man has his main focal point on causal levels. From what is said about the Solar Logos, it seems possible that He, too, has His main focal point on cosmic causal levels, for we are told that He “has His main focal point on the cosmic mental plane”.

163. Chúng ta được cho biết rằng loại Đấng Thiên Nhân đang bàn đến “có điểm tập trung chính trên cõi thứ hai của hệ, tức cõi chân thần”. Khẳng định này phải được so với “địa điểm” của “điểm tập trung chính” đối với con người và đối với Thái dương Thượng đế. Con người có điểm tập trung chính ở các cấp nguyên nhân. Từ những gì được nói về Thái dương Thượng đế, có vẻ khả dĩ rằng Ngài cũng có điểm tập trung chính của Ngài ở các cấp nguyên nhân vũ trụ, vì chúng ta được nói rằng Ngài “có điểm tập trung chính của Ngài trên cõi trí vũ trụ”.

164. If the Heavenly Man here discussed is really the Planetary Logos of the Earth-scheme, something is out of proportion. If the Heavenly Man under discussion is really the full Planetary Logos, He too should have His main focal point on what for Him are causal levels, but this is not the case.

164. Nếu Đấng Thiên Nhân bàn ở đây thật sự là Hành Tinh Thượng đế của hệ Địa Cầu, thì có gì đó không cân xứng. Nếu Đấng Thiên Nhân đang bàn thật sự là vị Hành Tinh Thượng đế trọn vẹn, thì Ngài cũng phải có điểm tập trung chính của Ngài trên những gì đối với Ngài là các cấp nguyên nhân, nhưng không phải như vậy.

165. The conclusion to be drawn is that when Master DK speaks of a Heavenly Man, He is not always talking about the same type of being!

165. Kết luận rút ra là khi Chân sư DK nói về một Đấng Thiên Nhân, Ngài không phải lúc nào cũng nói về cùng một loại hữu thể!

166. It may be that there is a type of blinding going on, by means of which a Globe Lord or Chain Lord is discussed in relation to man, and not always the great Planetary Logos of the entire Earth-scheme.

166. Có thể có một sự “làm mù” nào đó đang diễn ra, theo đó một Chúa Tể của Bầu Hành tinh hay Chúa Tể của Dãy được bàn đến trong tương quan với con người, chứ không phải lúc nào cũng là vị Hành Tinh Thượng đế vĩ đại của toàn bộ hệ Địa Cầu.

167. Because there are three types of Heavenly Men associated with our planetary scheme, one must remain very alert with regard to the meaning of the references. A sense of proportion will be an important guide.

167. Bởi vì có ba loại Đấng Thiên Nhân liên hệ với hệ hành tinh của chúng ta, nên phải luôn rất cảnh giác đối với ý nghĩa của các tham chiếu. Ý thức về tỉ lệ sẽ là một chỉ dẫn quan trọng.

He developed consciousness on the three [272] lower planes of the three worlds during the first solar system, again in relation to the cells in His body.

Ngài đã phát triển tâm thức trên ba [ 272] cõi thấp của ba thế giới trong hệ mặt trời thứ nhất, cũng lại liên hệ với các tế bào trong thân thể của Ngài.

168. The more one studies these references in depth, their many layers are revealed, if not understood. The Tibetan packs so much information into a few words

168. Càng nghiên cứu sâu các tham chiếu này, các tầng nghĩa của chúng càng bộc lộ, dẫu chưa chắc đã được hiểu. Chân sư Tây Tạng dồn nén quá nhiều thông tin vào vài lời ít ỏi.

169. Just as the Solar Logos has evolved considerably since His expression through His first major solar system, so have Heavenly Men.

169. Cũng như Thái dương Thượng đế đã tiến hóa đáng kể kể từ biểu lộ của Ngài qua hệ mặt trời chính thứ nhất của Ngài, các Đấng Thiên Nhân cũng vậy.

170. When the Tibetan speaks of the “first solar system”, does He mean the first of three major solar systems or the first of the five of which our present solar system is the fifth.

170. Khi Chân sư Tây Tạng nói về “hệ mặt trời thứ nhất”, Ngài có ý nói hệ mặt trời thứ nhất trong ba hệ chính hay thứ nhất trong năm hệ, mà hệ mặt trời hiện tại của chúng ta là hệ thứ năm?

171. The first of the five would have to have been a very material solar system.

171. Hệ thứ nhất trong năm hệ ắt hẳn là một hệ mặt trời rất vật chất.

172. If we use analogy, we shall see that the efforts of the Heavenly Man under discussion in relation to the first major solar system were analogically closer to the present efforts of man than the Heavenly Man’s efforts in relation to the present solar system.

172. Nếu dùng tương đồng, chúng ta sẽ thấy rằng những nỗ lực của Đấng Thiên Nhân đang bàn đến liên hệ với hệ mặt trời chính thứ nhất, xét theo tỷ dụ, gần hơn với nỗ lực hiện tại của con người, so với nỗ lực của Đấng Thiên Nhân ấy trong tương quan với hệ mặt trời hiện tại.

173. We are told that the Heavenly Man is presently seeking consciousness on the planes of the Triad. This would mean (if the Heavenly Man under discussion is the full Planetary Logos) that He is seeking a type of etheric consciousness.

173. Chúng ta được cho biết rằng Đấng Thiên Nhân hiện đang tìm cầu tâm thức trên các cõi của Tam Nguyên. Điều này sẽ có nghĩa (nếu Đấng Thiên Nhân đang bàn là vị Hành Tinh Thượng đế trọn vẹn) rằng Ngài đang tìm một loại tâm thức dĩ thái.

174. Yet we are told that the Planetary Logos is not only seeking consciousness but “control” on the cosmic astral plane. Does this not seem like a discrepancy?

174. Thế nhưng chúng ta cũng được cho biết rằng Hành Tinh Thượng đế không chỉ tìm cầu tâm thức mà còn tìm cầu “kiểm soát” trên cõi cảm dục vũ trụ. Điều này chẳng phải là một sự bất nhất sao?

175. It is clear that some type of Heavenly Man is seeking consciousness through the cells of His body on the triadal levels, but is it the great Planetary Logos or a lesser Heavenly Man within the greater?

175. Hiển nhiên là một loại Đấng Thiên Nhân nào đó đang tìm cầu tâm thức qua các tế bào của thân thể Ngài trên các cấp Tam Nguyên, nhưng đó có phải là vị Hành Tinh Thượng đế vĩ đại hay là một Đấng Thiên Nhân bậc thấp hơn trong Ngài?

176. The term “in relation to the cells in His body” (the human and deva units) is of importance. Man in the aggregate is an extension of the consciousness of the Heavenly Man. This is probably true on all planets and in relation to all Heavenly Men.

176. Cụm từ “trong tương quan với các tế bào trong thân thể của Ngài” (các đơn vị nhân loại và thiên thần) là quan trọng. Con người trong tổng thể là một sự nối dài của tâm thức Đấng Thiên Nhân. Điều này có lẽ đúng trên mọi hành tinh và đối với mọi Đấng Thiên Nhân.

177. Really, man is an extension of the consciousness of all planetary Heavenly Men. It is simply a question of determining what type of extension. Obviously, the unit man means more to a Globe Lord than to a Chain Lord, and more to a Chain Lord than to a Planetary Logos.

177. Thật vậy, con người là một sự nối dài của tâm thức của mọi Đấng Thiên Nhân hành tinh. Chỉ là vấn đề xác định loại sự nối dài mà thôi. Rõ ràng, đơn vị con người có ý nghĩa đối với một Chúa Tể của Bầu Hành tinh hơn là đối với một Chúa Tể của Dãy, và đối với một Chúa Tể của Dãy hơn là đối với một Hành Tinh Thượng đế.

Man is repeating His endeavor up to the fifth Initiation which will bring him to a stage of consciousness achieved by a Heavenly Man in a much earlier mahamanvantara.

Con người đang lặp lại nỗ lực của Ngài cho đến lần Điểm đạo thứ năm, điều này sẽ đưa y đến một giai đoạn tâm thức mà một Đấng Thiên Nhân đã đạt được trong một Đại giai kỳ sinh hóa xa xưa.

178. This is an extraordinary statement productive of expanded perspective.

178. Đây là một khẳng định phi thường, tạo nên một viễn cảnh được mở rộng.

179. The words “much earlier” demand to be quantified. Our Solar Logos has had, according to one method of enumeration, five solar systemic expressions. This is the fifth.

179. Các từ “xa xưa” đòi hỏi được định lượng. Theo một phương pháp liệt kê, Thái dương Thượng đế của chúng ta đã có năm lần biểu lộ hệ mặt trời. Đây là lần thứ năm.

180. The words “much earlier” suggest that when our Heavenly Man (if we are now talking about the Planetary Logos) was (in composite form) an initiate of the fifth degree, it may not have been within the solar systems generated by our Solar Logos. During such solar systems (even if there were five) the Solar Logos has been a Solar Logos and, presumably, the Planetary Logos has been some kind of Planetary Logos—not just a man of the fifth initiation.

180. Từ “xa xưa” gợi rằng khi Đấng Thiên Nhân của chúng ta (nếu bây giờ chúng ta đang nói về Hành Tinh Thượng đế) (trong hình thái tổng hợp) là một điểm đạo đồ của bậc thứ năm, thì có lẽ không nằm trong các hệ mặt trời do Thái dương Thượng đế của chúng ta kiến tạo. Trong các hệ mặt trời như thế (dẫu cho có năm), Thái dương Thượng đế đã là một Thái dương Thượng đế và, ắt hẳn, Hành Tinh Thượng đế cũng là một dạng nào đó của Hành Tinh Thượng đế—không chỉ đơn thuần là một con người ở lần điểm đạo thứ năm.

181. We cannot consider that a Heavenly Man in a much earlier Mahamanvantara was just as a single, individual man is now. A Planetary Logos is a group being, and it takes many men (developed later as Solar Angels) to form the composite-yet-unified consciousness of a Planetary Logos.

181. Chúng ta không thể cho rằng một Đấng Thiên Nhân trong một Đại giai kỳ sinh hóa rất xa xưa lại giống như một cá nhân đơn lẻ như bây giờ. Hành Tinh Thượng đế là một Đấng tập thể, và cần nhiều người (về sau phát triển thành các Thái dương Thiên Thần) để hình thành tâm thức tổng-hợp-mà-hợp-nhất của một Hành Tinh Thượng đế.

The Pitris who formed the egoic body of a human being do not—alone and isolated—form planetary Logoi. The forty-nine groups of solar fires concerned in the great work are those spoken of, and they become the forty-nine planetary Logoi in connexion with seven solar systems. (TCF 879)

Các Pitri đã hình thành thể nguyên nhân của một con người thì không—một mình và bị tách biệt—hình thành các Hành Tinh Thượng đế. Bốn mươi chín nhóm lửa thái dương liên hệ trong đại công trình là những nhóm được nói đến, và chúng trở thành bốn mươi chín Hành Tinh Thượng đế trong liên hệ với bảy hệ mặt trời. ( TCF 879)

182. This is a very important point. Some may wish to debate it: namely that great group beings are ‘composite-yet-unitary’ entities.

182. Đây là một điểm rất quan trọng. Có người sẽ muốn tranh luận về nó: tức là các Đấng tập thể vĩ đại là những hữu thể ‘vừa tổng hợp vừa đơn nhất’.

183. The many former men who now constitute a Heavenly Man were in the stage that many men are now “many” mahamanvantaras ago!

183. Nhiều người vốn bây giờ hợp thành một Đấng Thiên Nhân đã vào giai đoạn mà nhiều người bây giờ đang ở, từ “nhiều” Đại giai kỳ sinh hóa trước đây!

184. At the very least, this statement gives some kind of idea of how long it takes to produce a Heavenly Man (though which of the Heavenly Men we do not know).

184. Ít nhất, khẳng định này cho một ý niệm nào đó về việc cần bao lâu để hình thành một Đấng Thiên Nhân (dù chúng ta không biết là loại Đấng Thiên Nhân nào).

185. One must think of a few of the elevations through which man (individually and in increasingly large aggregates can pass)

185. Hãy nghĩ đến một vài nấc thang mà qua đó con người (cá thể và rồi trong những tập hợp ngày càng lớn) có thể đi qua:

a. Man

a. Con người

b. Solar Angel

b. Thái dương Thiên Thần

c. Groups of Solar Angels

c. Các nhóm Thái dương Thiên Thần

d. Still greater groupings of Solar Angels

d. Những tập hợp lớn hơn nữa của các Thái dương Thiên Thần

e. Globe Lords

e. Các Chúa Tể của Bầu Hành tinh

f. Chain Lords

f. Các Chúa Tể của Dãy

g. Entities manifesting through Kingdoms of Nature (cf. TCF 648)

g. Các Đơn vị biểu lộ qua các Giới Tự Nhiên (x. TCF 648)

h. Planetary Logoi

h. Các Hành Tinh Thượng đế

186. No doubt many steps are omitted, for our knowledge of the many rungs of this particular ‘Ladder of Entities’ is minimal. If, however, we understand these, ladders, we shall know the destiny of the various kinds of entities we can identify.

186. Hẳn còn nhiều bậc thang bị bỏ sót, vì chúng ta biết rất ít về nhiều nấc của ‘Chiếc Thang Hữu Thể’ đặc thù này. Tuy nhiên, nếu chúng ta hiểu những chiếc thang này, chúng ta sẽ biết định mệnh của các loại hữu thể mà chúng ta có thể nhận diện.

In connection with the initiations this should be carefully borne in mind.

Liên hệ với các cuộc điểm đạo điều này cần được ghi nhớ cẩn thận.

187. This sentence draws immediate attention to TCF 384, where initiations for man, the Planetary Logos and the Solar Logos are discussed. Man is mentioned in relation to the “first cosmic initiation”, and our Planetary Logos in relation to the “second cosmic initiation”.

187. Câu này lập tức hướng sự chú ý đến TCF 384, nơi các cuộc điểm đạo của con người, Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế được bàn luận. Con người được nhắc đến trong tương quan với “cuộc điểm đạo vũ trụ thứ nhất”, và Hành Tinh Thượng đế của chúng ta trong tương quan với “cuộc điểm đạo vũ trụ thứ hai”.

188. The implication is that many mahamanvantaras lie between the first cosmic initiation being taken by man (his fifth planetary initiation) and the second initiation to be taken by the Planetary Logos.

188. Hàm ý là rất nhiều Đại giai kỳ sinh hóa nằm giữa cuộc điểm đạo vũ trụ thứ nhất được con người trải qua (lần điểm đạo hành tinh thứ năm của y) và cuộc điểm đạo vũ trụ thứ hai được Hành Tinh Thượng đế trải qua.

189. In fact the orders of initiation suggested must necessarily be different. It is as if the Planetary Logos must have a first cosmic initiation on His own level, and that the first cosmic initiation of a Planetary Logos is not the same as the first cosmic initiation for man. Again, this inference may be debated.

189. Thực ra trật tự các cuộc điểm đạo được hàm ý hẳn là khác biệt. Như thể Hành Tinh Thượng đế phải có một cuộc điểm đạo vũ trụ thứ nhất trên cấp độ riêng của Ngài, và cuộc điểm đạo vũ trụ thứ nhất của một Hành Tinh Thượng đế không giống cuộc điểm đạo vũ trụ thứ nhất của con người. Lại nữa, suy luận này có thể được tranh luận.

190. Because the fifth initiation is mentioned in relation to the type of Heavenly Man under discussion (TCF 272), and because on TCF 384, the fifth initiation is implied to be the “first cosmic initiation”, it is likely that the type of Heavenly Man under discussion is, indeed, the Planetary Logos.

190. Bởi vì lần điểm đạo thứ năm được nhắc đến trong tương quan với loại Đấng Thiên Nhân đang bàn ( TCF 272), và bởi vì ở TCF 384, lần điểm đạo thứ năm được ngụ ý là “cuộc điểm đạo vũ trụ thứ nhất”, nên có khả năng loại Đấng Thiên Nhân đang bàn chính là Hành Tinh Thượng đế.

191. We are dealing with great Entities and vast cycles. No wonder we can only analogize towards some very loose, approximative speculations when dealing with these matters.

191. Chúng ta đang xử lý các Đấng Vĩ Đại và các chu kỳ mênh mông. Không lạ gì chúng ta chỉ có thể dùng tương đồng để đi đến những suy đoán rất lỏng lẻo, gần đúng khi xử lý các vấn đề này.

c. A solar Logos has His origin on a still higher cosmic level,

c. Một Thái dương Thượng đế có nguồn gốc trên một cấp độ vũ trụ cao hơn nữa,

192. We must think carefully here. If our Planetary Logos has His causal body on the third level of the cosmic mental plane, and the Solar Logos has His causal body on the first level of the cosmic mental plane, is there any reason to think that both of them should not have their monadic origins on the cosmic monadic plane?

192. Chúng ta phải suy nghĩ cẩn thận ở đây. Nếu Hành Tinh Thượng đế của chúng ta có thể nguyên nhân ở cấp thứ ba của cõi trí vũ trụ, và Thái dương Thượng đế có thể nguyên nhân ở cấp thứ nhất của cõi trí vũ trụ, liệu có lý do gì để nghĩ rằng cả hai không có nguồn chân thần của mình trên cõi chân thần vũ trụ?

193. Yet, even if both the Planetary Logos and the Solar Logos originated on the cosmic monadic plane, that high plane would necessarily be divided into various vibratory levels, and presumably the origin of the Solar Logos would be rather higher on the cosmic monadic plane than the origin of the Planetary Logos.

193. Tuy vậy, dù cả Hành Tinh Thượng đế lẫn Thái dương Thượng đế có khởi nguyên trên cõi chân thần vũ trụ, thì cõi cao ấy tất yếu được phân biệt thành những cấp độ rung động khác nhau, và có lẽ nguồn của Thái dương Thượng đế sẽ cao hơn trên cõi chân thần vũ trụ so với nguồn của Hành Tinh Thượng đế.

194. We note that the sentence used the word “level” rather than “plane”. This invites the foregoing speculation.

194. Chúng ta lưu ý rằng câu văn dùng từ “cấp độ” thay vì “cõi”. Điều này mời gọi suy luận vừa nêu.

has His main focal point on the cosmic mental plane but is expressing Himself through the three lower cosmic planes just as man is seeking self-expression in the three worlds.

có điểm tập trung chính trên cõi trí vũ trụ nhưng đang tự biểu lộ qua ba cõi vũ trụ thấp giống như con người đang tìm sự tự biểu lộ trong ba cõi thế gian.

195. We note that the Solar Logos, although a “Brother” of the Planetary Logoi, has “His main focal point” on a much higher level than have the Heavenly Men Logoi.

195. Chúng ta lưu ý rằng Thái dương Thượng đế, dù là một “Huynh đệ” của các Hành Tinh Thượng đế, lại có “điểm tập trung chính” của Ngài trên một cấp độ cao hơn nhiều so với các Đấng Thiên Nhân Thượng đế.

196. If the Heavenly Man under discussion is the Planetary Logos, then it would seem (as pointed out above) that the Law of Analogy has been violated. All three of the beings under discussion should have their main point of focus on causal levels. But, again, it would be reasonable for lesser Heavenly Men to have lesser main points of focus on the cosmic physical plane instead of on the cosmic mental plane.

196. Nếu Đấng Thiên Nhân đang bàn là Hành Tinh Thượng đế, thì có vẻ như (như đã chỉ ra ở trên) Định luật Tương đồng đã bị vi phạm. Cả ba hữu thể đang bàn đều nên có điểm tập trung chính của mình trên các cấp nguyên nhân. Nhưng, một lần nữa, điều hợp lý là các Đấng Thiên Nhân bậc thấp có các điểm tập trung chính bậc thấp trên cõi hồng trần vũ trụ thay vì trên cõi trí vũ trụ.

197. Why a great difference in main point of focus between a Solar Logos and a Planetary Logos would be so hard to fathom is because other points of comparison do not show the Planetary Logoi and the Solar Logos so far removed from each other. They are, after all, “Brothers” (“Martanda and His Seven Brothers”) coming into manifestation (as The Secret Doctrine tells us) at the same time. At least this would be so for the physical manifestation of the sacred planets in relation to the physical manifestation of the Sun.

197. Lý do khiến khó hiểu vì sao lại có sự khác biệt lớn về điểm tập trung chính giữa một Thái dương Thượng đế và một Hành Tinh Thượng đế là bởi các điểm so sánh khác không cho thấy các Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế xa cách nhau đến thế. Sau hết, Họ là “Huynh đệ” (“Martanda và Bảy Huynh Đệ của Ngài”) cùng đi vào biểu lộ (như Giáo Lý Bí Nhiệm nói với chúng ta) đồng thời. Ít nhất đây là như vậy đối với sự biểu lộ hồng trần của các hành tinh thiêng liên quan với sự biểu lộ hồng trần của Mặt Trời.

198. It is hard to imagine why it should not be said that the Planetary Logoi have their main point of focus on the cosmic mental plane just as does the Solar Logos—though on a lower level of the cosmic mental plane. In fact, this must necessarily be the case if the Law of Analogy is to be upheld.

198. Thật khó hình dung vì sao lại không nói rằng các Hành Tinh Thượng đế có điểm tập trung chính của Họ trên cõi trí vũ trụ cũng như Thái dương Thượng đế—dù là ở một cấp thấp hơn của cõi trí vũ trụ. Thực vậy, điều này ắt hẳn phải là như thế nếu Định luật Tương đồng được giữ vững.

199. While we cannot confirm that it is so, but it seems more and more probable that there are types of Heavenly Man which DK periodically references are of a lower order than a Planetary Logos—for instance a Globe Lord or Chain Lord. Then the discrepancy between the expression of the Solar Logos and “a Heavenly Man” would make more sense.

199. Dù chúng ta không thể xác nhận rằng là như thế, nhưng có vẻ ngày càng khả dĩ rằng những loại Đấng Thiên Nhân mà Chân sư DK định kỳ nhắc tới là thuộc trật tự thấp hơn Hành Tinh Thượng đế—chẳng hạn một Chúa Tể của Bầu Hành tinh hay một Chúa Tể của Dãy. Khi ấy sự sai biệt giữa sự biểu lộ của Thái dương Thượng đế và “một Đấng Thiên Nhân” sẽ dễ hiểu hơn.

200. We remember that the term “Heavenly Man” is generic and can refer to at least three categories of entity associated with the manifestation of a planetary scheme: the Planetary Logos, a Chain Lord, and a Globe Lord.

200. Chúng ta nhớ rằng thuật ngữ “Đấng Thiên Nhân” là từ chung và có thể chỉ ít nhất ba hạng hữu thể liên kết với sự biểu lộ của một hệ hành tinh: Hành Tinh Thượng đế, một Chúa Tể của Dãy, và một Chúa Tể của Bầu Hành tinh.

201. It would be productive to search the contexts in which the words “the Heavenly Man” and “a Heavenly Man” are used. Revelations concerning the levels of Heavenly Men might then appear.

201. Sẽ hữu ích nếu khảo sát các ngữ cảnh trong đó những từ “ Đấng Thiên Nhân” và “ một Đấng Thiên Nhân” được dùng. Khi đó các mặc khải liên quan đến các cấp độ của các Đấng Thiên Nhân có thể xuất hiện.

202. In any case the analogy between the Solar Logos and man is very close: Solar Logos/three lower cosmic planes = Man/three lower systemic planes.

202. Dù sao, sự tương đồng giữa Thái dương Thượng đế và con người là rất gần gũi: Thái dương Thượng đế/ba cõi vũ trụ thấp = Con người/ba cõi hệ mặt trời thấp.

Therefore, the seven major planes of the solar system are in the same relation to Him cosmically as the physical plane is to a human being. They form His etheric and dense bodies.  

Do đó, bảy cõi chính của hệ mặt trời có cùng tương quan với Ngài về mặt vũ trụ như cõi hồng trần đối với con người. Chúng tạo thành các thể dĩ thái và đậm đặc của Ngài.

203. We are speaking of the Solar Logos and man.

203. Chúng ta đang nói về Thái dương Thượng đế và con người.

204. This is another tremendously important statement. All the lower twenty-one systemic subplanes are the dense physical nature of the Solar Logos—material dense, liquid and gaseous.

204. Đây là một khẳng định vô cùng quan trọng khác. Toàn bộ hai mươi mốt cõi phụ hệ thống thấp là bản chất hồng trần đậm đặc của Thái dương Thượng đế—vật chất-đậm đặc, lỏng và khí.

205. The four higher systemic planes (twenty-eight systemic subplanes) are the etheric nature of the Solar Logos.

205. Bốn cõi hệ thống cao hơn (hai mươi tám cõi phụ hệ thống) là bản chất dĩ thái của Thái dương Thượng đế.

206. As previously stated, it would seem that the dense physical nature for our Planetary Logos should be the lower eighteen subplanes, and that the four ethers would be constituted by:

206. Như đã nêu, có vẻ bản chất hồng trần đậm đặc đối với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta phải là mười tám cõi phụ thấp hơn, và bốn cõi dĩ thái sẽ được cấu thành bởi:

a. The higher mental subplanes

a. Các cõi phụ thượng trí

b. The buddhic plane

b. Cõi Bồ đề

c. The atmic plane

c. Cõi atma

d. The monadic plane

d. Cõi chân thần

207. The only “atom” which is directly and unequivocally related to man, analogically, is the Solar Logos. The sevens fit together very well when considering the human being and the “Grand Heavenly Man”.

207. “Nguyên tử” duy nhất được liên hệ trực tiếp và không hồ nghi với con người theo tương đồng là Thái dương Thượng đế. Các bộ bảy ăn khớp rất tốt khi xét con người và “Đại Thiên Nhân”.

208. Our analogical ingenuity is required when we start comparing the three types of planetary Heavenly Men with either the human being or the Solar Logos.

208. Tài khéo léo về tương đồng của chúng ta được đòi hỏi khi chúng ta bắt đầu so sánh ba loại Đấng Thiên Nhân hành tinh với con người hay với Thái dương Thượng đế.

209. Even when the great Heavenly Man called the Planetary Logos is meant, He may be functioning through various of His emanated aspects (a Globe Lord or a Chain Lord). Thus, when we are told that a Heavenly Man (Planetary Logos) is functioning in a certain manner and in relation to certain planes, it may indeed be the Planetary Logos functioning but through His lesser aspects (Globe Lords and Chain Lords).

209. Ngay cả khi Đấng Thiên Nhân vĩ đại gọi là Hành Tinh Thượng đế được nhắm đến, Ngài có thể đang vận hành qua những phương diện phát lộ của Ngài (một Chúa Tể của Bầu Hành tinh hay một Chúa Tể của Dãy). Vậy nên, khi chúng ta được nói rằng một Đấng Thiên Nhân (Hành Tinh Thượng đế) đang vận hành theo một cách nào đó và liên hệ với những cõi nào đó, thì có thể đúng là Hành Tinh Thượng đế đang vận hành nhưng qua các phương diện thấp hơn của Ngài  (các Chúa Tể của Bầu Hành tinh và các Chúa Tể của Dãy).

210. Thus, when a Globe Lord functions in a certain way and in relation to a certain plane, it is, indeed, the Planetary Logos (the greatest of the planetary Heavenly Men) that is functioning—‘behind’ and through the Globe Lord.

210. Như thế, khi một Chúa Tể của Bầu Hành tinh vận hành theo một cách nào đó và trong tương quan với một cõi nào đó, thì thật ra, chính Hành Tinh Thượng đế (vị vĩ đại nhất trong các Đấng Thiên Nhân hành tinh) đang vận hành—‘đằng sau’ và qua Chúa Tể của Bầu ấy.

211. Interesting problems are revealed when considering the constitution of a Planetary Logos. For instance, how many Sanat Kumaras are there? Some at globe levels? Some fewer at chain levels? One originating Sanat Kumara at the scheme level?

211. Những vấn đề thú vị được bày lộ khi xét cấu tạo của một Hành Tinh Thượng đế. Chẳng hạn, có bao nhiêu Sanat Kumara? Có một số ở cấp bầu? Một số ít hơn ở cấp dãy? Một vị Sanat Kumara khởi nguyên ở cấp hệ hành tinh?

212. The same question can be applied to Buddhas of Activity and their higher correspondences (cf. TCF 873). The various kinds of Buddhas, all interrelated and the lesser as emanations of the greater, are found at the globe, chain and scheme levels.

212. Câu hỏi tương tự có thể áp dụng cho các Đức Phật Hành Động và các đối ứng cao hơn của các Ngài (x. TCF 873). Các loại Đức Phật khác nhau, tất cả đều tương liên và bậc thấp là các xuất lộ của bậc cao, được thấy ở cấp bầu, dãy và hệ.

213. By understanding the dynamics of the process of emanation, it is possible to speak of an ‘originating being’ in terms of His emanations. The lesser emanations naturally would have a lesser scope of expression, but the emanative source works through the lesser emanations.

213. Bằng cách hiểu động học của tiến trình xuất lộ, có thể nói về một “hữu thể khởi nguyên” theo các xuất lộ của Ngài. Các xuất lộ thấp hơn tự nhiên có phạm vi biểu lộ nhỏ hơn, nhưng nguồn xuất lộ tác động qua các xuất lộ thấp hơn.

214. Thus, in a planetary scheme, there are many individual Heavenly Men (as there are a number of globes and chains), and yet, but one Heavenly Man (the emanative source of them all—the Planetary Logos).

214. Do đó, trong một hệ hành tinh, có nhiều Đấng Thiên Nhân cá biệt (vì có một số bầu và dãy), nhưng lại chỉ có một Đấng Thiên Nhân (nguồn xuất lộ của tất cả—tức Hành Tinh Thượng đế).

215. Entities of different power and scope are ‘spread’ differently across the systemic and cosmic planes. Each type of entity has its own particular ‘space’ for expression.

215. Các hữu thể có quyền năng và tầm mức khác nhau được ‘trải’ khác nhau trên các cõi hệ thống và vũ trụ. Mỗi loại hữu thể có “không gian” biểu lộ riêng của mình.

It might be stated that:

Có thể nói rằng:

1. He vitalises them by His life and heat.

1. Ngài tiếp sinh lực cho chúng bằng Sự Sống và nhiệt của Ngài.

216. Life relates to the first aspect of divinity and “heat” to the third. In this context, “light” relates to the second aspect.

216. Sự Sống liên hệ với Phương diện thứ nhất của thiên tính và “nhiệt” với Phương diện thứ ba. Trong ngữ cảnh này, “ánh sáng” liên hệ với Phương diện thứ hai.

2. He animates them.

2. Ngài làm cho chúng sinh động.

217. The word “animate” suggests not only vitalization but the influence of the soul or “anima”.

217. Từ “sinh động” không chỉ gợi sự tiếp sinh lực mà còn gợi ảnh hưởng của linh hồn hay “anima”.

3. He is fully conscious through them.

3. Ngài hoàn toàn có ý thức qua chúng.

218. Through both His etheric and dense vehicles, or only through His etheric vehicle, since the dense vehicle is not a principle?

218. Qua cả các hiện thể dĩ thái và đậm đặc của Ngài, hay chỉ qua hiện thể dĩ thái của Ngài, vì hiện thể đậm đặc không phải là một nguyên khí?

219. What does it mean that the Solar Logos descends no lower than the systemic buddhic plane?

219. “Thái dương Thượng đế không giáng xuống dưới cõi Bồ đề của hệ mặt trời” có nghĩa gì?

220. One can imagine however, that as man solarizes his consciousness the consciousness of the Solar Logos would, through man, penetrate deeper and deeper into the matter which for Him is unprincipled.

220. Tuy vậy, có thể hình dung rằng khi con người được thái dương hóa tâm thức, thì tâm thức của Thái dương Thượng đế, qua con người, sẽ xuyên thấu ngày càng sâu hơn vào vật chất mà đối với Ngài là phi-nguyên-khí.

4. The etheric is in time His lowest principle, but the dense physical is not counted.

4. Theo thời gian dĩ thái là nguyên khí thấp nhất của Ngài, còn hồng trần đậm đặc thì không được tính.

221. In what way “not counted”? Probably, simply, not counted as a principle.

221. “Không được tính” theo nghĩa nào? Có lẽ đơn giản là không được tính như một nguyên khí.

222. Does this mean that the Solar Logos is not fully conscious through His dense physical vehicles—the lower three systemic planes? That they are below the threshold of His consciousness, just as there are certain physiological functions in man’s body which are below the threshold?

222. Điều này có nghĩa rằng Thái dương Thượng đế không hoàn toàn có ý thức qua các hiện thể hồng trần đậm đặc của Ngài—ba cõi hệ thống thấp? Rằng chúng nằm dưới ngưỡng tâm thức của Ngài, cũng như có những chức năng sinh lý trong thân thể con người nằm dưới ngưỡng tâm thức?

223. The words “in time” are enigmatic. Does this suggest that the principles of the Solar Logos are numbered differently ‘out of time’?

223. Các từ “theo thời gian” thật khó hiểu. Điều này có gợi rằng các nguyên khí của Thái dương Thượng đế được liệt kê khác đi ‘ngoài thời gian’ chăng?

224. Perhaps, time and space (as we conceived them) only refer to the cosmic physical plane on which the solar logoic etheric body is the only principle.

224. Có lẽ, thời gian và không gian (như chúng ta quan niệm) chỉ áp dụng cho cõi hồng trần vũ trụ, nơi mà thân dĩ thái của Thái dương Thượng đế là nguyên khí duy nhất.

The dense cosmic physical body is composed of matter of the three lower planes of the solar system, the mental, the astral and the physical.  The buddhic plane is consequently the fourth cosmic ether.

Thân hồng trần vũ trụ đậm đặc được cấu thành bởi vật chất của ba cõi thấp của hệ mặt trời, tức cõi trí, cõi cảm dục và cõi hồng trần. Do đó cõi Bồ đề là cõi dĩ thái vũ trụ thứ tư.

225. This is simple cosmic geography and must be grasped by all students of TCF.

225. Đây là địa đồ vũ trụ đơn giản và tất cả môn sinh của TCF đều phải nắm vững.

226. VSK asks: “Why in this last sentence, is “consequently” italicized – emphasizing this point?” 

226. VSK hỏi: “Tại sao trong câu cuối này, từ ‘do đó’ lại được in nghiêng—nhấn mạnh điểm này?”

227. May it be suggested that the relationship between man and the Solar Logos is simply being driven home?

227. Có thể gợi ý rằng mối tương quan giữa con người và Thái dương Thượng đế chỉ đang được nhấn mạnh mạnh mẽ thêm?

228. Also, the abstraction of the Solar Logos from the lower three systemic planes is being emphasized.

228. Đồng thời, sự siêu thăng của Thái dương Thượng đế khỏi ba cõi hệ thống thấp đang được nhấn mạnh.

d. The Heavenly Men form the seven centres in the body of the Logos.

d. Các Đấng Thiên Nhân hình thành bảy trung tâm trong thân thể của Thượng đế.

229. Yes, seven, but by other enumerations there are ten Heavenly Men. Or are there really twelve major Heavenly Men, for, one day, each constellation of the zodiac will be known as ruled by one of the Planetary Logoi.

229. Vâng, là bảy, nhưng theo các cách đếm khác có mười Đấng Thiên Nhân. Hay thật ra có mười hai Đấng Thiên Nhân chính, vì rồi đây, mỗi chòm sao hoàng đạo sẽ được biết là do một trong các Hành Tinh Thượng đế cai quản.

230. The Heavenly Men here referenced must necessarily be Scheme Lords. The lesser, emanative extensions of the Planetary Logos are not centres in the body of the Logos.

230. Các Đấng Thiên Nhân được nói đến ở đây tất yếu phải là các Chủ Hệ. Các phát lộ hạ cấp, mang tính xuất lộ của Hành Tinh Thượng đế, không phải là các trung tâm trong thân thể của Thượng đế.

Therefore, They are the spheres of fire which animate His body, and each of Them expresses one form of His force manifestation, according to Their place within the body.

Vì vậy, Các Ngài là những cầu lửa  làm sinh động thân thể của Ngài, và mỗi vị trong Các Ngài biểu lộ một hình thái nào đó của sự hiện lộ quyền năng của Ngài, tùy theo vị trí của vị ấy trong thân thể.

231. Another name for a chakra is a “sphere of fire”.

231. Một tên khác của luân xa là “cầu lửa”.

232. One of the great questions is: how can any entity be itself to itself, and yet constitute but a functional part of a greater encompassing entity?

232. Một câu hỏi lớn là: Làm sao bất kỳ hữu thể nào có thể là chính mình đối với chính nó, mà lại chỉ là một bộ phận chức năng của một hữu thể bao trùm lớn hơn?

233. This is only possible if apparently separate entities are not separate at all. Every sphere is organically related to a larger encompassing sphere, until the universal ‘Sphere of all Spheres’ is reached.

233. Điều này chỉ khả hữu nếu những hữu thể dường như tách biệt thực ra không tách biệt chút nào. Mọi hình cầu đều liên hệ hữu cơ với một hình cầu bao trùm lớn hơn, cho đến khi đạt đến ‘Hình Cầu của mọi Hình Cầu’ phổ quát.

e. Human beings, when centred within their groups on causal levels, form one or other of the seven centres in the body of a Heavenly Man.

e. Con người, khi quy tâm trong nhóm của họ ở các cấp nguyên nhân, hợp thành một trong bảy trung tâm trong thân thể của một Đấng Thiên Nhân.

234. Here is a big hint. What kind of Heavenly Man are we discussing? It surely must be evident that in the section of TCF we are studying the mystery of the various types of Heavenly Men through subtle hints if not over statements.

234. Ở đây là một gợi chỉ lớn. Chúng ta đang bàn đến loại Đấng Thiên Nhân nào? Hẳn đã hiển nhiên rằng trong phần TCF chúng ta đang học, huyền nhiệm về các loại Đấng Thiên Nhân được trình bày qua những gợi ý vi tế nếu không phải bằng những khẳng định minh nhiên.

235. If planetary chains are as major chakras to a Heavenly Man (considered as the Planetary Logos), then (in relation to such a Heavenly Man) what kind of centers or chakras are formed by human beings within their groups on causal levels?

235. Nếu các dãy hành tinh đối với một Đấng Thiên Nhân (được hiểu là Hành Tinh Thượng đế) là những luân xa chính, thì (xét trong tương quan với một Đấng Thiên Nhân như vậy) con người, trong các nhóm của mình trên các cõi nguyên nhân, tạo nên những loại trung tâm hay luân xa nào?

236. The answer must come—“much smaller centers”.

236. Câu trả lời hẳn phải là—“các trung tâm nhỏ hơn nhiều”.

237. However, if the type of Heavenly Man discussed is a Globe Lord, then it is conceivable that groups of human beings on causal levels could serve as at least minor centers in relation to such an entity.

237. Tuy nhiên, nếu Đấng Thiên Nhân đang được bàn tới là một Chúa Tể Bầu Hành tinh, thì có thể hình dung rằng những nhóm nhân loại trên các cõi nguyên nhân có thể đóng vai các trung tâm ít nhất là thứ yếu đối với một Thực thể như vậy.

238. It would seem that the seven major groups of human Monads on the systemic monadic plane could serve as the major seven centers of a Globe Lord.

238. Có vẻ như bảy nhóm chính của các Chân Thần nhân loại trên cõi chân thần của hệ thống có thể đóng vai bảy trung tâm chính của một Chúa Tể Bầu Hành tinh.

239. On the chain level, all Monads on all globes of a chain would have to be considered in seven great aggregates, even to comprise minor chain centers—for are not the globes within a chain the major chakras of that chain?

239. Ở cấp độ dãy, mọi Chân Thần trên mọi bầu của một dãy sẽ phải được xét trong bảy đại tụ, ngay cả để cấu thành các trung tâm dãy thứ yếu —vì chẳng phải các bầu trong một dãy là những luân xa chính của dãy đó sao?

240. We are just trying to keep our determinations in proportion through the Law of Analogy.

240. Chúng ta chỉ đang cố giữ các xác định của mình đúng tỉ lệ thông qua Định luật Tương đồng.

241. On the scheme level, all monads on all chains would have to be considered in seven great aggregates, even to comprise minor scheme centers, for are not the seven chains within a planetary scheme the seven major chakras of that scheme?

241. Ở cấp độ hệ hành tinh, mọi chân thần trên mọi dãy đều phải được xét trong bảy đại tụ, ngay cả để cấu thành các trung tâm hệ thứ yếu, vì chẳng phải bảy dãy trong một hệ hành tinh là bảy luân xa chính của hệ đó sao?

Each of the seven chains might be looked upon as picturing the seven centres of one of the Heavenly Men.  (TCF 206)

Mỗi dãy trong bảy dãy có thể được xem như phác họa bảy trung tâm của một trong các Đấng Thiên Nhân. ( TCF 206)

242. We are dealing with a problem of scale which should not be ignored.

242. Chúng ta đang xử lý một vấn đề về quy mô mà không nên bỏ qua.

243. In relation to the excerpt above, we must also remember that the true groups of human beings which go to the constitution of a Heavenly Man are now focussed upon the triadal planes; i.e., the Hierarchy changed its focus to the buddhic plane and the majority of Ashrams are now found on the buddhic plane and not on the causal planes.

243. Liên hệ với trích đoạn trên, chúng ta cũng phải nhớ rằng các nhóm nhân loại chân chính vốn tham gia cấu thành một Đấng Thiên Nhân hiện nay đang tập trung trên các cõi của Tam Nguyên Tinh Thần; tức là, Thánh Đoàn đã chuyển tâm điểm của mình lên cõi Bồ đề và đa số các Đạo viện hiện ở trên cõi Bồ đề chứ không còn trên các cõi nguyên nhân.

244. We have to debate whether TCF was written before this great ‘move’, during it, or after it (unlikely).

244. Chúng ta phải bàn xem TCF được viết trước, trong khi, hay sau (khó có khả năng) “cuộc dịch chuyển” lớn này.

f. The solar Logos forms one centre in the body of a still greater cosmic ENTITY.

f. Thái dương Thượng đế cấu thành một trung tâm trong thân thể của một THỰC THỂ vũ trụ còn Vĩ đại hơn.

245. This ENTITY is not what is usually considered the One About Whom Naught May Be Said, but a cosmic ENTITY which is only a chakra in the One About Whom Naught May Be Said. (cf. TCF 293).

245. THỰC THỂ này không phải là Đấng Bất Khả Tư Nghị như thường được hiểu, mà là một THỰC THỂ vũ trụ vốn chỉ là một luân xa trong Đấng Bất Khả Tư Nghị. (so sánh TCF 293).

246. Not much is said about the Cosmic Logos who contains our solar system as but a chakra. Because not much is said, perhaps this ENTITY should be called the One About Whom Not Much Is Said!

246. Không có nhiều điều được nói về Thượng đế Vũ Trụ bao hàm hệ mặt trời của chúng ta như chỉ là một luân xa. Vì ít điều được nói, có lẽ THỰC THỂ này nên được gọi là Đấng mà Không Nói Nhiều về Ngài!

Human beings therefore [273] find their place within one of the forty-nine centres (not groups, for a centre may be made up of many groups, corresponding to the different parts) of the seven Heavenly Men.

Do đó, con người [273] tìm thấy vị trí của mình trong một trong bốn mươi chín trung tâm (không phải các nhóm, vì một trung tâm có thể được cấu thành bởi nhiều nhóm, tương ứng với những bộ phận khác nhau) của bảy Đấng Thiên Nhân.

247. If the seven Heavenly Men have forty-nine centers, then it is reasonable to think of these centers as forty-nine planetary chains (of the principle seven Planetary Logoi).

247. Nếu bảy Đấng Thiên Nhân có bốn mươi chín trung tâm, thì hợp lý khi nghĩ những trung tâm này là bốn mươi chín dãy hành tinh (thuộc bảy Hành Tinh Thượng đế chính yếu).

248. The excerpt suggests that human beings are found on each and all of these forty-nine planetary chains.

248. Trích đoạn gợi ý rằng nhân loại có mặt trên từng dãy và tất cả bốn mươi chín dãy hành tinh này.

249. How many groups go to the constitution of a center? Well, we can imagine that there are many, many kinds of lives and groups of lives which go to the constitution of a planetary chain.

249. Có bao nhiêu nhóm tham gia cấu thành một trung tâm? Vâng, chúng ta có thể hình dung rằng có vô số loại sự sống và nhóm sự sống góp phần cấu thành một dãy hành tinh.

250. What is being said is that man is not part of the constitution of all groups that constitute one of the forty-nine centers. This must be obvious, because some of those groups are animal, plant, deva, etc. groups.

250. Điều đang được nói là con người không phải là bộ phận cấu thành của mọi nhóm vốn hợp thành một trong bốn mươi chín trung tâm. Điều này hẳn là hiển nhiên, vì một số nhóm trong đó là nhóm thú vật, thực vật, thiên thần, v.v.

251. This material about globes, chains and schemes is heavily veiled. It is so veiled, that we do not know how heavily it is veiled; we, therefore, imagine what is to be revealed as much more transparent than it really is.

251. Tài liệu về bầu, dãy và hệ hành tinh này được che đậy đậm đặc. Nó được che đậy đến mức chúng ta không biết mức độ che đậy sâu đến đâu; vì vậy, chúng ta tưởng rằng điều sẽ được tiết lộ trong suốt hơn thực tại.

252. Not until we know much more about the vibratory and ‘aggregatory’ nature of matter-substance and the many different methods of expressing polarity, will we know how chains and schemes are actually formed.

252. Chỉ khi nào chúng ta biết nhiều hơn rất nhiều về bản chất rung động và ‘ kết tụ ’ của vật-chất và muôn vàn phương thức biểu lộ cực tính, chúng ta mới biết các dãy và các hệ thật sự được hình thành như thế nào.

A Heavenly Man, with His seven centres,

Một Đấng Thiên Nhân, với bảy trung tâm của Ngài,

253. Here the term “Heavenly Man” definitely means one of the Planetary Logoi.

253. Ở đây thuật ngữ “Đấng Thiên Nhân” chắc chắn chỉ một trong các Hành Tinh Thượng đế.

254. These centers are planetary chains.

254. Các trung tâm này là các dãy hành tinh.

forms one centre in the body of the solar Logos.

cấu thành một trung tâm trong thân thể của Thái dương Thượng đế.

255. Determining which planetary schemes represent which centers is a vexed question requiring ongoing investigation.

255. Việc xác định những hệ hành tinh nào biểu trưng cho những trung tâm nào là một câu hỏi nan giải cần tiếp tục khảo cứu.

256. Throughout these commentaries, many thoughts have been offered on this subject and will be offered.

256. Xuyên suốt các bình giải này, nhiều ý tưởng đã được nêu ra về chủ đề này và sẽ còn được nêu ra.

I would here point out to you the close connection existing between the seven Rishis of the Great Bear and the seven Heavenly Men.

Tôi muốn ở đây chỉ ra cho các bạn mối liên hệ mật thiết tồn tại giữa bảy Rishi của chòm Đại Hùng Tinh và bảy Đấng Thiên Nhân.

257. The Seven Rishis are ‘prototypical’ to the Heavenly Men.

257. Bảy Rishi là ‘nguyên mẫu’ đối với các Đấng Thiên Nhân.

The seven Rishis (as They are called) of the Great Bear express Themselves through the medium of the seven planetary Logoi Who are Their Representatives and to Whom They stand in the relation of prototype. (EA 85)

Bảy Rishi (như Các Ngài được gọi) của Đại Hùng Tinh tự Biểu lộ qua trung gian bảy Hành Tinh Thượng đế là các Đại Diện của Các Ngài và với Ai, Các Ngài giữ quan hệ như là nguyên mẫu. (EA 85)

The seven Rishis of the Great Bear are to Them what the Monad is to the evolving human unit.

Bảy Rishi của Đại Hùng Tinh đối với Các Ngài cũng như Chân Thần đối với đơn vị nhân loại đang tiến hóa.

258. If this is the case, what is the Solar Logos to the seven Heavenly Men? Does the Solar Logos stand more as the soul to the Heavenly Men?

258. Nếu đúng vậy, Thái dương Thượng đế là gì đối với bảy Đấng Thiên Nhân? Thái dương Thượng đế có đứng hơn như linh hồn đối với các Đấng Thiên Nhân chăng?

259. Compared to the duration of a Monad, there are many appearances of the “evolving human unit”—IF by this phrase is meant the human personality.

259. So với trường tồn của một Chân Thần, có nhiều lần xuất hiện của “đơn vị nhân loại đang tiến hóa”—NẾU cụm từ này có ý chỉ phàm ngã con người.

260. Of course, the “evolving human unit” could be considered as the soul nature of the human being.

260. Dĩ nhiên, “đơn vị nhân loại đang tiến hóa” cũng có thể được xem như phương diện linh hồn của con người.

261. Really, both the personality and the soul nature (and its form) evolve, but the evolution of the soul nature and its form is the more substantial, and the degree of evolution of the personality is only a reflection of the evolution of the soul.

261. Thực ra, cả phàm ngã lẫn phương diện linh hồn (và hình tướng của nó) đều tiến hóa, nhưng sự tiến hóa của phương diện linh hồn và hình tướng của nó là trọng yếu hơn, và mức tiến hóa của phàm ngã chỉ là phản ảnh của sự tiến hóa nơi linh hồn.

262. If, for instance, the “evolving human unit” meant the soul nature, then the Seven Rishis would hold the “Fixed Design” for each Heavenly Man, and the Heavenly Man would attempt to express this Fixed Design through its soul nature.

262. Nếu, chẳng hạn, “đơn vị nhân loại đang tiến hóa” hàm ý phương diện linh hồn, thì các Rishi sẽ nắm giữ “Đồ hình Cố Định” cho mỗi Đấng Thiên Nhân, và Đấng Thiên Nhân sẽ cố gắng biểu lộ Đồ hình Cố Định đó qua phương diện linh hồn của Ngài.

263. One would expect at least several incarnations of a Heavenly Man during the term of supervision by one of the Rishis.

263. Có thể kỳ vọng rằng ít nhất sẽ có vài lần lâm phàm của một Đấng Thiên Nhân trong nhiệm kỳ được một trong các Rishi giám trông.

264. Although this interesting analogy is given, it must not be forgotten that a Heavenly Man has His own monadic nature. His Monad and the Monad of one of the Seven Rishis are not identical in Time and Space, though essentially, they are the same (for all Monads are ONE).

264. Dẫu tỉ dụ thú vị này được đưa ra, chớ quên rằng một Đấng Thiên Nhân có bản tính chân thần riêng của Ngài. Chân Thần của Ngài và Chân Thần của một trong Bảy Rishi không đồng nhất trong Thời gian và Không gian, tuy ở bản thể là như nhau (vì mọi Chân Thần là MỘT).

265. If the human Monad is the prototype to man (considered as a soul), then a Rishi (considered monadically) is a prototype to a Heavenly Man considered as a soul.

265. Nếu Chân Thần nhân loại là nguyên mẫu đối với con người (xét như một linh hồn), thì một Rishi (xét theo phương diện chân thần) là nguyên mẫu đối với một Đấng Thiên Nhân xét như một linh hồn.

266. The analogy, however, is not exact.

266. Tuy nhiên, tỉ dụ không hoàn toàn trùng khít.

267. Whenever we say that a greater entity holds a function for that lower entity as a periodical vehicle of that lower entity (for instance, a soul or monad), we must realize that the lower entity has its own soul or Monad, and that the place held by the greater entity does not replace the soul function or monadic function of the lesser entity. This bears pondering.

267. Bất cứ khi nào chúng ta nói rằng một thực thể lớn hơn đảm nhiệm một chức năng cho thực thể thấp hơn như là một vận cụ theo chu kỳ của thực thể thấp hơn (thí dụ như linh hồn hay Chân Thần), chúng ta phải nhận ra rằng thực thể thấp hơn có linh hồn riêng hay Chân Thần của chính nó, và vị trí do thực thể cao hơn đảm nhiệm không thay thế chức năng linh hồn hay chức năng chân thần của thực thể thấp hơn. Điều này rất đáng suy ngẫm.

VII. WHY IS THE PROGRESS OF EVOLUTION CYCLIC?

VII. VÌ SAO TIẾN TRÌNH TIẾN HÓA MANG TÍNH CHU KỲ?

This question is one which necessarily appalls us and makes us wonder.

Câu hỏi này tất yếu khiến chúng ta kinh hãi và băn khoăn.

268. VSK muses: “Well, now that you mention it, I could be appalled, but I didn’t know it was that bad. Now I wonder more …”

268. VSK ngẫm nghĩ: “Giờ anh nhắc, tôi có thể kinh hãi, nhưng tôi không biết là nghiêm trọng đến thế. Giờ tôi băn khoăn hơn …”

269. It would seem that one would have to know a great deal more than we do to be sufficiently appalled!

269. Có vẻ như người ta phải biết nhiều hơn chúng ta hiện nay mới đủ để kinh hãi cho xứng!

270. We do know that those who consider the progress of evolution as simply linear, will never understand the true process. For them, the science of astrology will be irrelevant and the process of reincarnation (as it is) practically meaningless.

270. Chúng ta biết rằng ai xem tiến trình tiến hóa như đơn tuyến thì sẽ chẳng bao giờ hiểu đúng quy trình chân thực. Với họ, khoa chiêm tinh học sẽ vô can, và tiến trình tái sinh (vốn như nó là) hầu như vô nghĩa.

Let us, therefore, deal with it as follows:  Certain ideas are involved in the thought of cyclic progression, and these ideas it might pay us well to contemplate.

Vì vậy, chúng ta hãy xử lý như sau: Một số ý tưởng được bao hàm trong tư tưởng về tiến trình chu kỳ, và những ý tưởng này rất đáng để chúng ta chiêm ngưỡng.

271. Now we will analyze the concept of “cyclic progression”.

271. Giờ đây chúng ta sẽ phân tích khái niệm “tiến trình chu kỳ”.

1. The Idea of Repetition.

1. Ý niệm về Sự Lặp Lại.

272. Without repetition, there is insufficient progression for growth. The greater must impart itself to the lesser. Because the absorptive power of the lesser is limited in scope compared to what is to be imparted by the greater, the instrumentality of repetition is needed to render the impartation successful.

272. Không có lặp lại thì không đủ tiến triển để tăng trưởng. Cái lớn phải truyền mình vào cái nhỏ. Vì năng lực hấp thụ của cái nhỏ bị giới hạn so với điều cái lớn cần truyền, nên cần đến phương tiện lặp lại để việc truyền đạt thành công.

273. As human beings, we repeat what we have to say in order to make an impression.

273. Là con người, chúng ta lặp lại điều muốn nói để gây ấn tượng.

274. We do notice how often and from how many different angles DK seems to repeat Himself so that we may understand.

274. Chúng ta nhận thấy Chân sư DK thường xuyên lặp lại những điều của Ngài, từ bao góc độ khác nhau, hầu chúng ta có thể hiểu.

This repetition involves the following factors:

Sự lặp lại này bao hàm các yếu tố sau:

a. Repetition in time:  The thought of cyclic activity necessitates periods of time of differing length—greater or lesser cycles—but (according to their length) of uniform degree.

a. Lặp lại trong thời gian: Tư tưởng về hoạt động chu kỳ đòi hỏi những khoảng thời gian với độ dài khác nhau—chu kỳ lớn hay nhỏ—nhưng (tùy theo độ dài của chúng) có cùng một bậc đồng nhất.

275. Different cycles are of different duration. However, a particular category of cycle will be of uniform duration.

275. Các chu kỳ khác nhau có độ dài khác nhau. Tuy nhiên, một hạng mục chu kỳ nhất định sẽ có độ dài đồng nhất.

276. The term “degree”, however, is perplexing.

276. Dẫu vậy, từ “bậc” gây bối rối.

277. A being in manifestation will pass through certain repetitive cycles in time. I, who occupy a certain space, will pass through a certain number of uniform days—the days of my ongoingness.

277. Một hữu thể trong ngoại hiện sẽ trải qua những chu kỳ lặp đều trong thời gian. Tôi, người chiếm cứ một không gian nhất định, sẽ trải qua một số ngày đồng nhất—những ngày của hành-trình-tới của tôi.

278. The period of Earth around the Sun will (at this approximate time in the evolutionary process of our solar system) always take 365¼ Earth days.

278. Chu kỳ Trái Đất quay quanh Mặt Trời (ở giai đoạn xấp xỉ hiện tại trong tiến trình tiến hóa của hệ mặt trời chúng ta) luôn là 365¼ ngày Trái Đất.

279. The uniformity of cyclic events is a vital principle of the order which characterizes cosmos. We do not expect that one revolution of the Earth around the Sun will be of the usual duration and the next revolution half as long.

279. Tính đồng nhất của các biến cố chu kỳ là nguyên lý cốt yếu của trật tự vốn đặc trưng cho vũ trụ. Chúng ta không mong một vòng quay của Trái Đất quanh Mặt Trời có độ dài như thường lệ còn vòng kế tiếp chỉ bằng nửa.

280. All this is another way of saying that the cycles of nature are regular. Cycles of different types have different durations, but cycles of the same type have uniform duration.

280. Tất cả điều đó là một cách nói khác rằng các chu kỳ của tự nhiên là đều đặn. Các chu kỳ thuộc loại khác nhau có độ dài khác nhau, nhưng các chu kỳ cùng một loại thì có độ dài đồng nhất.

281. When dealing with tightening and loosening spirals, the cycles proceed according to definite formulas and not randomly.

281. Khi xử lý các xoắn ốc siết chặt và nới lỏng, các chu kỳ diễn tiến theo những công thức xác định chứ không ngẫu nhiên.

A manvantara, or Day of Brahma, is always of a certain length, and so is a mahamanvantara.  The cycles wherein an atom of any plane revolves upon its axis are uniform on its own plane.

Một manvantara, hay Ngày của Brahma, luôn có độ dài nhất định, và một mahamanvantara cũng vậy. Các chu kỳ trong đó một nguyên tử của bất cứ cõi nào quay quanh trục của nó là đồng nhất trên chính cõi đó.

282. DK gives examples of the kind we have been discussing.

282. Chân sư DK đưa ra các ví dụ thuộc dạng chúng ta đang bàn.

283. The uniform “Day of Brahma” is uniform with respect to our solar system and, perhaps, with respect to solar systems like ours. But presumably, there may be “Days of Brahma” in other kinds of systems which are of different duration from “Days of Brahma” within out own system.

283. “Ngày của Brahma” đồng nhất xét theo hệ mặt trời của chúng ta và, có lẽ, xét theo những hệ mặt trời tương tự. Nhưng có thể có những “Ngày của Brahma” trong các loại hệ khác với độ dài khác với “Ngày của Brahma” trong hệ của chúng ta.

284. The cycles of any particular category of entity in nature are uniform “on its own plane”. This may mean that an entity, whose structure consists of a number of planes, has cycles of revolution which are different on the various planes upon which it expresses—different, but uniform on each particular plane.

284. Các chu kỳ của bất kỳ hạng mục thực thể nào trong tự nhiên là đồng nhất “trên chính cõi của nó”. Điều này có thể có nghĩa: một thực thể có cấu trúc gồm nhiều cõi thì có các chu kỳ quay khác nhau trên những cõi khác nhau nơi nó biểu hiện—khác nhau nhưng đồng nhất trên từng cõi nhất định.

285. One wonders whether we are being told that a “Day of Brahma” has something to do with revolution/rotation upon an axis.

285. Ta tự hỏi liệu chúng ta có đang được bảo rằng “Ngày của Brahma” có liên quan đến chuyển động quay quanh trục không.

286. One wonders further whether repetition in time always involves revolution and rotation (as distinct from vibration).

286. Ta lại tự hỏi liệu lặp lại trong thời gian có luôn hàm chứa sự quay và xoay (phân biệt với rung động) hay không.

287. We learn from HPB that such a “Day” can be determined by planetary movement.

287. Chúng ta học từ Bà HPB rằng một “Ngày” như vậy có thể được xác định bằng chuyển động hành tinh.

“One day out of this long life of Brahma is called Kalpa; and a Kalpa is that portion of time which intervenes between one conjunction of all the planets on the horizon of Lanka, at the first point of Aries, and a subsequent similar conjunction.” (TCF 36, note 6)

“Một ngày trong đời dài của Brahma được gọi là Kalpa; và một Kalpa là khoảng thời gian giữa một lần hội ngộ của mọi hành tinh trên chân trời của Lanka, tại điểm thứ nhất của Bạch Dương, và một lần hội ngộ tương tự kế tiếp.” ( TCF 36, chú thích 6)

288. We have been describing “Repetition in Time”.

288. Chúng ta đã mô tả “Lặp lại trong Thời gian”.

289. This type of repetition may be considered related to the kind of repetition described below.

289. Dạng lặp lại này có thể được xem là liên hệ với dạng lặp lại mô tả dưới đây.

b. Repetition in fact:  This involves the idea of a key measure, or sound of any particular group of atoms that go to the composition of any particular form.

b. Lặp lại trong sự kiện: Điều này bao hàm ý niệm về một độ đo then chốt, hay âm thanh của bất kỳ nhóm nguyên tử nào góp phần cấu tạo nên bất kỳ hình tướng nào.

290. Here we are dealing with the phenomenon of frequency, pitch and key-note.

290. Ở đây chúng ta đang xử lý hiện tượng tần số, cao độ và chủ âm.

291. The example suggests minute and extremely rapid cycles.

291. Ví dụ gợi lên các chu kỳ vi tế và cực kỳ nhanh.

292. When contrasting the first type of repetition with the second, we may have to contrast revolution/rotation with vibration/oscillation.

292. Khi đối chiếu dạng lặp lại thứ nhất với dạng thứ hai, ta có thể phải đối chiếu quay/ xoay với rung/ dao động.

293. It is clear that fact and form are related.

293. Rõ ràng sự kiệnhình tướng có liên quan.

This grouping of atoms will tend to the make-up of a particular series of circumstances and will repeat the measure or sound when an animating factor is brought to bear upon them.

Sự nhóm tụ của các nguyên tử này sẽ có khuynh hướng làm nên một chuỗi hoàn cảnh nhất định và sẽ lặp lại độ đo hay âm thanh khi một nhân tố sinh động hóa được tác động lên chúng.

294. If a certain stimulating note is sounding, a group of atoms (responding to the sounding note) will continue to be similarly related and will thus appear as an ongoing form—the form will remain the same. They repeat their relationship, and, thus, the circumstances they represent keep re-presenting themselves.

294. Nếu một nốt khích lệ nào đó vang lên, một nhóm nguyên tử (đáp ứng với nốt vang đó) sẽ tiếp tục tương liên theo cách tương tự và như thế hiện diện như một hình tướng liên tục—hình tướng vẫn là một. Chúng lặp lại mối liên hệ của mình, và do đó, những hoàn cảnh chúng biểu trưng cứ tiếp tục được “ trình hiện ” trở lại.

295. Something significant is here suggested about the habit nature.

295. Ở đây có một gợi ý quan trọng về bản tính thói quen.

296. When this type of repetition recurs, we say “the same thing happened again”.

296. Khi dạng lặp lại này tái diễn, chúng ta nói “điều đó xảy ra y hệt lần nữa”.

297. If circumstances are to change, then the frequency, pitch or key-notes of the associated atomic aggregates have to change.

297. Nếu hoàn cảnh phải thay đổi, thì tần số, cao độ hay chủ âm của các kết tụ nguyên tử liên đới phải đổi khác.

298. The atoms must become refined and newly aggregated if they are to respond differently to the animating factor to which, in the past, they always responded similarly. In other words, the animating factor is not solely responsible for the response; it is also the condition of the atoms, their quality and their relationship to each other.

298. Các nguyên tử phải được tinh luyện và tái kết tụ nếu chúng muốn đáp ứng khác đi với nhân tố sinh động hóa mà trước đây chúng luôn đáp ứng giống nhau. Nói cách khác, nhân tố sinh động hóa không hoàn toàn chịu trách nhiệm về đáp ứng; còn là tình trạng của các nguyên tử, phẩm tính của chúng và tương quan giữa chúng.

299. Change of circumstance can occur in two ways; either the condition of the responding atoms, their quality and their relationship to each other changes; or, the quality and intensity of the animating factor or note will change.

299. Biến đổi hoàn cảnh có thể diễn ra theo hai cách; hoặc tình trạng của các nguyên tử đáp ứng, phẩm tính của chúng và tương quan giữa chúng thay đổi; hoặc phẩm chất và cường độ của nhân tố hay nốt sinh động hóa sẽ thay đổi.

When the vitalising force is contacting at stated periods a certain set of atoms, it will call forth from them a specific sound which will demonstrate objectively as environing circumstances.  

Khi mãnh lực tiếp sinh lực chạm tới theo những kỳ hạn ấn định một tập hợp nguyên tử nhất định, nó sẽ gợi lên từ chúng một âm thanh đặc thù, âm này sẽ biểu hiện khách quan như những hoàn cảnh bao quanh.

300. In case we do not recognize it, we are being given a very clear lesson in micro-occultism.

300. Phòng khi chúng ta không nhận ra, ở đây là một bài học rất rõ về huyền bí học vi mô.

301. We also gather that circumstance is sound and sound is circumstance. As well, the sound of circumstance is an atomic evocation.

301. Chúng ta cũng lĩnh hội rằng hoàn cảnh là âm thanhâm thanh là hoàn cảnh. Đồng thời, âm thanh của hoàn cảnh là một sự triệu khởi ở cấp độ nguyên tử.

302. What is required for a change of circumstances can loosely be called ‘atomic reconditioning’.

302. Điều cần thiết cho biến đổi hoàn cảnh có thể tạm gọi là ‘tái điều kiện hóa nguyên tử’.

In other words, [274] the interplay of the Self and the not-self is invariably of a cyclic nature.

Nói cách khác, [274] sự tương tác giữa Tự Ngã và phi-ngã bất biến mang tính chu kỳ.

303. For instance, the Solar Angel sends out cyclic impulses to its ‘shadow man’. The man then responds according to his present condition.

303. Thí dụ, Thái dương Thiên Thần phát ra những xung lực theo chu kỳ đến “người bóng” của Ngài. Con người đáp ứng theo tình trạng hiện tại của y.

304. It is important to recognize that that factor within man (or any other type of Man) which we call the Self, relates to the not-Self in a cyclic manner.

304. Điều quan trọng là nhận ra rằng nhân tố trong con người (hay trong bất kỳ loại Nhân nào khác) mà chúng ta gọi là Tự Ngã tương giao với phi-ngã theo cung cách chu kỳ.

The same quality in tone will be called forth by the Self as it indwells the form, but the key will ascend by gradual degrees.

Cùng một chất lượng trong âm điệu sẽ được Tự Ngã khơi gọi khi Ngài cư ngụ hình tướng, nhưng cao độ sẽ dâng lên từng bậc.

305. A “key” is a tonal center or musical pitch around which a musical composition revolves and to which it invariably and finally returns (at least before writing with consistency in a given key was abandoned in the late 19th century).

305. “Giọng” là trung tâm âm điệu hay cao độ âm nhạc quanh đó một bản nhạc xoay vần và cuối cùng tất yếu trở về (ít nhất là trước khi người ta nhất quán từ bỏ viết nhạc trong một giọng nhất định vào cuối thế kỷ 19).

306. It is the fundamental tone or tonic that is keyed-up—i.e., ascends by gradual degrees. Every entity (and both planes and sub-planes are atomic aggregates ensouled by great devic entities) has its fundamental note or keynote.

306. Đó là âm cơ bản hay âm chủ được “nâng khóa”—tức là, tăng cao dần từng bậc. Mọi hữu thể (và cả các cõi cùng các cõi phụ, vốn là những tụ hợp nguyên tử được phú linh bởi các Đại Thiên Thần) đều có nốt cơ bản hay chủ âm của mình.

307. As the atomic form is refined and the interrelation of atoms is rendered more archetypal, the ability to vibrate to higher frequencies grows, and, correspondingly, the pitch or key of the atomic response rises. In other words, the atoms vibrate to a faster measure.

307. Khi hình tướng nguyên tử được tinh luyện và tương quan giữa các nguyên tử được làm cho mẫu tượng hơn, năng lực rung tới các tần số cao tăng trưởng, và tương ứng, cao độ hay chủ âm của đáp ứng nguyên tử tăng lên. Nói cách khác, các nguyên tử rung theo một nhịp nhanh hơn.

308. As the basic or fundamental note rises, the relationship between all atomic factors is intensified and purified.

308. Khi âm cơ bản hay chủ âm dâng cao, mối liên hệ giữa mọi yếu tố nguyên tử được gia cường và tinh luyện.

309. Our Solar Logos, for instance, has changed His key-note from F to G. This represents an elevated vibration and a change from the color green to blue.

309. Chẳng hạn, Thái dương Thượng đế của chúng ta đã đổi chủ âm từ F sang G. Điều này biểu thị một rung động được nâng cao và một chuyển đổi từ màu xanh lục sang xanh lam.

310. The gradual degrees of ascent are the stages of the initiatory process.

310. Những bậc thang tăng dần là các giai đoạn của tiến trình điểm đạo.

311. All of initiation is a ‘keying-up’ in relation to higher stimulus.

311. Toàn bộ sự điểm đạo là một quá trình “nâng cao” đối với kích thích cao hơn.

312. The “same quality in tone” reflects the fact that the basic identity of the responding aggregate remains the same; but as the quality of the aggregate changes (not the identity) the key-pitch or key-note changes.

312. “Cùng một chất lượng trong âm điệu” phản ánh sự kiện là căn cước cơ bản của tập hợp đáp ứng vẫn như cũ; nhưng khi phẩm chất của tập hợp thay đổi (không phải căn cước), cao độ hay chủ âm thay đổi.

It is similar to the effect produced in striking the same note in different octaves, beginning at the base.

Điều này giống như hiệu ứng tạo ra khi gõ cùng một nốt ở các quãng tám khác nhau, bắt đầu từ âm đáy.

313. We recognize the same “quality” in a note sounded in its different octaves. F1 is twice as slow as F2, which is twice as slow as F3, which is four times as fast as F1 –BUT, each sounding of an F (though the Fs are of different frequencies) is qualitatively recognized as an F. We say to ourselves, “Ah, that is the same note sounded in different octaves”. The octave changes, but the note does not. If you are not convinced of this phenomenon, go to a piano and sound the different octaves of the same note and you will recognize the Tibetan’s point.

313. Chúng ta nhận ra “chất lượng” đồng nhất nơi một nốt được xướng ở các quãng tám khác nhau. F1 chậm gấp đôi F2, F2 chậm gấp đôi F3, F3 nhanh gấp bốn lần F1—NHƯNG, mỗi lần xướng một nốt F (dẫu F có tần số khác nhau) đều được nhận ra về mặt chất là một F. Chúng ta tự nhủ, “À, đó là cùng một nốt được xướng ở các quãng tám khác nhau”. Quãng tám đổi, nhưng nốt thì không. Nếu chưa tin hiện tượng này, hãy đến đàn piano và xướng các quãng tám khác nhau của cùng một nốt, bạn sẽ nhận ra điều Chân sư Tây Tạng nêu.

314. One could begin with a high note and sound progressively lower octaves of that note; the recognition would be the same.

314. Người ta có thể bắt đầu với một nốt cao và xướng lần lượt các quãng tám thấp dần của nốt đó; sự nhận biết vẫn như nhau.

315. Does evolution begin at the “base”? Yes, in a way. Involution begins with a note of high frequency; the process takes the descending life to a note of low frequency; evolution is a re-ascent from low frequency to high frequency.

315. Tiến hóa có bắt đầu ở “âm đáy” chăng? Có, theo một nghĩa nào đó. Giáng hạ tiến hóa khởi từ một nốt có tần số cao; tiến trình đưa sự sống đi xuống một nốt có tần số thấp; tiến hóa là sự tái thăng từ tần số thấp lên cao.

316. In much of the description of Repetition in Fact, we notice that Repetition in Time is implied. The stimuli to which Repetition in Fact is made are very often cyclic stimuli repeated in time.

316. Trong nhiều mô tả về Lặp lại trong Sự kiện, chúng ta nhận thấy rằng Lặp lại trong Thời gian được ngụ ý. Những kích thích mà Lặp lại trong Sự kiện đáp lại thường là những kích thích theo chu kỳ được lặp trong thời gian.

317. A problem arises in considering the two excerpts above. Is the ascent of the key by gradual degrees done in octaves or in lesser divisions? The movement of our Solar Logos from a focus on the note F to a focus on the note G is not an ascent by octaves.

317. Nảy sinh một vấn đề khi xét hai trích đoạn trên. Việc cao độ tăng dần từng bậc diễn ra theo quãng tám hay theo những phân bậc nhỏ hơn? Sự chuyển dịch của Thái dương Thượng đế chúng ta từ tập trung vào nốt F sang nốt G không phải là một tăng bậc theo quãng tám.

318. Further, when considering the four notes of a man: the fundamental, the third of the personality, the fifth of the soul and the octave of the Monad, it is clear that the ascent from the base or fundamental passes through notes within the octave which separates the fundamental from the note of the Monad.

318. Hơn nữa, khi xét bốn nốt của con người: âm cơ bản, quãng ba của phàm ngã, quãng năm của linh hồn và quãng tám của Chân Thần, thì rõ ràng sự tăng từ âm đáy hay âm cơ bản đi qua những nốt nằm trong quãng tám phân cách âm cơ bản và nốt của Chân Thần.

319. If we wish to synthesize these ideas, we might say that ascent occurs both by octaves and by means of notes within the octave. Perhaps truly climactic evolutionary events are marked by achieving the higher octave of the fundamental from which the evolutionary process began.

319. Nếu muốn tổng hợp các ý này, chúng ta có thể nói rằng sự thăng tiến diễn ra vừa theo quãng tám, vừa qua các nốt trong quãng tám. Có lẽ những biến cố tiến hóa thực sự cao trào được đánh dấu bằng việc đạt tới quãng tám cao hơn của âm cơ bản từ đó tiến trình tiến hóa khởi đầu.

c. Repetition in space:  This concept is involved deep in the greater concept of karma, which is really the law that governs the matter of the solar system, and which commenced its work in earlier solar systems.

c. Lặp lại trong không gian: Khái niệm này ẩn sâu trong ý niệm lớn hơn về nghiệp quả, vốn thật ra là định luật cai quản chất liệu của hệ mặt trời, và định luật này đã khởi công tác của mình trong các hệ mặt trời trước đây.

320. A man is born, then dies, then reappears in space, cyclically. He appears and disappears from space (i.e., from a given field of perception). This dynamic is related to the manifestation process and to the Law of Periodicity.

320. Một người sinh ra, rồi chết, rồi tái hiện trong không gian, theo chu kỳ. Y xuất hiện và biến mất khỏi không gian (tức khỏi một trường tri giác nhất định). Động lực này liên hệ với tiến trình ngoại hiện và Định luật Chu Kỳ.

321. We are getting into deep matters here.

321. Chúng ta đang bước vào những vấn đề thâm áo.

322. Karma is an obscure subject and DK is offering some occult elucidation.

322. Nghiệp quả là một đề tài u uẩn và Chân sư DK đang cống hiến vài khai minh huyền môn.

323. Karma is related to materiality—to the nature, quality and disposition of matter.

323. Nghiệp quả liên quan đến tính vật chất—đến bản tính, phẩm chất và thế bố trí của chất liệu.

324. The Law of Karma, we are told, commenced its work in earlier solar systems—note the plural. These systems were all governed by the third aspect of divinity. Our solar system is the first in the series of six (or seven) which is to be governed by the second aspect.

324. Chúng ta được bảo rằng Định luật Nghiệp, đã bắt đầu công việc của mình trong các hệ mặt trời trước đây —lưu ý số nhiều. Những hệ đó đều do Phương diện thứ ba của Thiêng liêng cai quản. Hệ mặt trời của chúng ta là hệ đầu tiên trong chuỗi sáu (hay bảy) hệ sẽ do Phương diện thứ hai cai quản.

We have, therefore, cycles in order, and repetition in an ever-ascending spiral, under definite law.

Do đó, chúng ta có các chu kỳ theo trật tự, và sự lặp lại trên một xoắn ốc luôn thăng, dưới những định luật xác định.

325. In the above excerpt, DK is trying to convey to us something about Repetition in Space.

325. Ở trích đoạn trên, Chân sư DK đang cố truyền đạt cho chúng ta điều gì đó về Lặp lại trong Không gian.

326. When we are told that we have “cycles in order”, something of Repetition in Time is suggested.

326. Khi được bảo rằng chúng ta có “các chu kỳ theo trật tự”, điều gì đó của Lặp lại trong Thời gian được gợi ý.

327. Really, what is being described is spiral-cyclic motion—the motion of the second aspect of divinity.

327. Thực ra, điều đang được mô tả là chuyển động xoắn ốc—chu kỳ, tức chuyển động của phương diện thứ hai của Thiêng liêng.

328. If time is related to the first and third aspects of divinity, space is related to the second aspect.

328. Nếu thời gian liên hệ với phương diện thứ nhất và thứ ba của Thiêng liêng, thì không gian liên hệ với phương diện thứ hai.

329. Just as there was a uniformity of degree within a specific category of cycle in relation to Repetition in Time, so the spiral cycles, though not necessarily uniform, do proceed (not randomly) but under definite law. They also proceed in an orderly manner.

329. Cũng như có tính đồng nhất theo bậc trong một hạng mục chu kỳ nhất định đối với Lặp lại trong Thời gian, thì những chu kỳ xoắn ốc, dẫu không tất yếu đồng nhất, vẫn diễn tiến (không ngẫu nhiên) mà dưới các định luật xác định. Chúng cũng diễn tiến một cách có trật tự.

330. There is a suggestion that the second and seventh rays are cooperating.

330. Có gợi ý rằng cung hai và cung bảy đang hợp tác.

331. A simple way of viewing this idea of Repetition in Space is that certain cyclic events occur in a certain order in the same location in space.

331. Một cách hiểu giản dị về Lặp lại trong Không gian là: những biến cố theo chu kỳ xảy ra theo một trật tự nhất định tại cùng một vị trí trong không gian.

332. For instance, the appearance of the personality of man is a cyclic event and the evolution of that personality is a spiral-cyclic event. The appearance of that personality always occurs on this planet—i.e., in the same ‘place’ or ‘space’. Man, as a personality, reappears cyclically in the same space.

332. Thí dụ, sự xuất hiện của phàm ngã con người là một biến cố theo chu kỳ và sự tiến hóa của phàm ngã đó là một biến cố xoắn ốc. Sự xuất hiện của phàm ngã ấy luôn diễn ra trên hành tinh này— tức là tại cùng một “nơi” hay “không gian”. Con người, xét như phàm ngã, tái hiện theo chu kỳ trong cùng một không gian.

333. VSK queries: “Why would karma be more related to space? As an ENTITY, is space the material and destiny therefore of Itself?

333. VSK nêu vấn nạn: “Vì sao nghiệp quả lại liên hệ nhiều hơn với không gian? Là một THỰC THỂ, liệu không gian có phải là chất liệu và do đó cũng là định mệnh của chính Nó?”

334. There is much to suggest that karma is equally related to time. Saturn, Lord of Karma, is also Lord of Time.

334. Có nhiều điều cho thấy nghiệp quả cũng liên quan như nhau đến thời gian. Thần Saturn, Chúa Tể Nghiệp Quả, cũng là Chúa Tể của Thời gian.

335. Jupiter, in its relation to karma, may have more to do with growthful repetition in space.

335. Jupiter, trong mối liên hệ với nghiệp quả, có thể liên quan nhiều hơn đến sự lặp lại tăng trưởng trong không gian.

336. Here is a brief summary of the three types of repetition thus far addressed:

336. Sau đây là tóm lược ngắn gọn về ba loại lặp lại đã được đề cập:

a. The entity remains as it is, but rotates uniformly and revolves uniformly. Different types of entities rotate and revolve producing cycles of different duration, but there is uniformity within any type of cycle. For instance, planetary periods differ in duration from each other, but each cycle of a given planet is uniform in duration in relation to all the other cycles of that planet. Repetition in Time.

a. Thực thể vẫn như nó là, nhưng quay đều và xoay đều. Những loại thực thể khác nhau quay và xoay tạo ra các chu kỳ có độ dài khác nhau, nhưng có tính đồng nhất trong mỗi loại chu kỳ. Chẳng hạn, các chu kỳ hành tinh khác nhau về độ dài, nhưng mỗi chu kỳ của một hành tinh nhất định là đồng nhất về độ dài so với các chu kỳ khác của chính hành tinh đó. Lặp lại trong Thời gian.

b. The entity remains more or less as it is, but its quality improves, so it rises in its frequency through the rising in frequency of its atomic constituents, but the frequency of the elements composing it may remain in relatively the same proportion though all units rise. If the relative proportion changed too much, the form would no longer be recognizable as itself. Its identity would have changed. We have two related types of repetition: Repetition in Fact and Repetition in Form (discussed below).

b. Thực thể đại thể vẫn như nó là, nhưng phẩm chất của nó được cải thiện, nên tần số của nó tăng lên qua sự tăng tần của các thành tố nguyên tử của nó, nhưng tần số của các yếu tố cấu thành có thể giữ tương quan tương đối như cũ dù tất cả đơn vị đều tăng. Nếu tương quan tương đối thay đổi quá nhiều, hình tướng sẽ không còn nhận ra là chính nó nữa. Căn cước của nó đã đổi khác. Chúng ta có hai loại lặp lại liên hệ: Lặp lại trong Sự kiện và Lặp lại trong Hình tướng (sẽ bàn dưới đây).

c. The entity disappears and reappears, disappears and reappears according to karmic law. This is Repetition in Space.

c. Thực thể biến mất rồi tái hiện, biến mất rồi tái hiện theo định luật nghiệp quả. Đây là Lặp lại trong Không gian.

The thoughts thus conveyed might be expressed likewise as follows:

Những tư tưởng được chuyển tải như thế cũng có thể được diễn đạt như sau:

337. The three kinds of repetition have been fairly comprehensible. It remains to be seen whether the same ease of comprehension will follow.

337. Ba loại lặp lại đã khá dễ hiểu. Còn phải xem liệu sự dễ hiểu tương tự có tiếp tục hay không.

a. The solar system repeating its activity

a. Hệ mặt trời lặp lại hoạt động của nó

….Repetition in Space.

….Lặp lại theo Không gian.

338. The macrocosmic unit with respect to the sequence of four types of repetition here listed, is the solar system. The solar system is the largest unit listed among these four.

338. Đơn vị vĩ mô xét theo chuỗi bốn kiểu lặp lại liệt kê ở đây là hệ mặt trời. Hệ mặt trời là đơn vị lớn nhất trong bốn đơn vị này.

339. It would seem that the solar system has its allotted space, and for the duration of the solar system that space is held.

339. Có vẻ như hệ mặt trời có không gian được ấn định, và trong thời hạn của hệ mặt trời, không gian đó được duy trì.

340. Of course, if we go beyond the context of one solar system, we will also find the solar system repeating in time.

340. Dĩ nhiên, nếu vượt ra ngoài bối cảnh một hệ mặt trời, chúng ta cũng sẽ thấy hệ mặt trời lặp lại theo thời gian.

b. A planetary chain repeating its activity

b. Một dãy hành tinh lặp lại hoạt động của nó

….Repetition in Time.

….Lặp lại theo Thời gian.

341. Now, what do we mean by a “planetary chain”? We have seen that planetary schemes are sometimes (when compared to the solar system considered as a solar scheme) called “planetary chains”.

341. Giờ, “một dãy hành tinh” nghĩa là gì? Chúng ta đã thấy rằng các hệ hành tinh đôi khi (khi so với hệ mặt trời được xét như một hệ thái dương ) được gọi là “dãy hành tinh”.

342. Or, by planetary chain, is a large chakra in a planetary scheme meant?

342. Hoặc, khi nói dãy hành tinh, có phải ý là một luân xa lớn trong một hệ hành tinh?

343. We are told that a planetary scheme does not have the same number of chains at all times, and so it is possible that they appear and disappear.

343. Chúng ta được biết một hệ hành tinh không có cùng số lượng dãy ở mọi thời điểm, vì vậy có khả năng chúng xuất hiện rồi biến mất.

344. We also are faced with the question of whether a Planetary Logos functioning through a planetary scheme undergoes a number of incarnations during the incarnation of the solar system. If there are multiple incarnations of a scheme, then we would have Repetition in Time.

344. Chúng ta cũng đối diện câu hỏi: liệu một Hành Tinh Thượng đế vận hành qua một hệ hành tinh trải qua nhiều lần lâm phàm trong một lần lâm phàm của hệ mặt trời chăng. Nếu có nhiều lần lâm phàm của một hệ, thì chúng ta có Lặp lại theo Thời gian.

345. If there are several incarnations of a planetary chain (a major planetary chakra) we would also have Repetition in Time.

345. Nếu có vài lần lâm phàm của một dãy hành tinh (một luân xa hành tinh chính), chúng ta cũng có Lặp lại theo Thời gian.

346. Also, an incarnation of a planetary scheme or planetary chain may not mean the complete disappearance and reappearance of the entire scheme or chain; it can mean a rotating change in emphasis upon any particular scheme or chakra. This would be another reasonable way of considering the processes of a planetary scheme or chain in relation to Repetition in Time.

346. Ngoài ra, một lần lâm phàm của một hệ hành tinh hay một dãy hành tinh có thể không hàm nghĩa sự biến mất rồi tái hiện trọn vẹn của toàn hệ hay toàn dãy; nó có thể là một sự thay đổi xoay vòng về trọng tâm trên một hệ hay một luân xa nào đó. Đây sẽ là một cách hợp lý khác để xem xét các tiến trình của một hệ hành tinh hay dãy hành tinh liên quan đến Lặp lại theo Thời gian.

347. Yet it can be inferred that a planetary scheme or chain also has it proper space.

347. Tuy nhiên, cũng có thể suy ra rằng một hệ hành tinh hay một dãy hành tinh cũng có “không gian” thích đáng của nó.

c. The constant consecutive reverberation of a plane note, of a subplane note, and of all that is called into objectivity by that note

c. Sự cộng hưởng liên tiếp hằng thường của một nốt cõi, một nốt cõi phụ, và của tất cả những gì được gọi vào khách quan tính bởi nốt đó

…..Plane Repetition.

…..Lặp lại theo Cõi.

348. A new form of repetition is introduced here; it is called “Plane Repetition”. It does seem to relate to “Repetition in Fact”. Planar-circumstances and sub-planar-circumstances are called into manifestation by certain resounding keynotes vibrating to a certain frequencies. The concept of frequency implies the constant repetition of a vibratory cycle in which a certain number of vibrations occur per unit of time.

348. Ở đây một hình thức lặp lại mới được giới thiệu; nó được gọi là “Lặp lại theo Cõi”. Có vẻ nó liên hệ với “Lặp lại trong Sự kiện”. Những hoàn-cảnh-cõi và hoàn-cảnh-cõi-phụ được triệu hiện bởi những chủ âm ngân vang nhất định rung theo những tần số nhất định. Khái niệm tần số hàm nghĩa sự lặp lại hằng định của một chu trình rung, trong đó có một số lần dao động tính trên mỗi đơn vị thời gian.

349. Planes and subplanes, too, are keyed-up as evolution persists. That a plane or sub-plane continues to appear as an ‘evoked condition’ or circumstance is due to the constant sounding of the note characterizing it.

349. Các cõi và các cõi phụ cũng được “nâng khóa” khi tiến hóa tiếp diễn. Rằng một cõi hay cõi phụ tiếp tục xuất hiện như một ‘điều kiện được triệu khởi’ là do sự ngân vang thường hằng của nốt đặc trưng cho nó.

350. There is a constant ‘consecutiveness’ to the reverberation of the plane note. The determined frequency is sustained. The plane note does not change pitch, unless by a definite act of will of the particular type of Logos Who is ensouling the plane.

350. Có một “tính liên tục” không gián đoạn của sự cộng hưởng nốt cõi. Tần số được ấn định thì được duy trì. Nốt cõi không đổi cao độ, trừ khi do một hành động ý chí rõ rệt của một loại Thượng đế đặc thù đang phú linh cho cõi ấy.

d. The tendency of atoms to perpetuate their activity, and thus produce similarity of circumstance, of environment and of vehicle

d. Khuynh hướng của các nguyên tử duy trì hoạt động của chúng, và do vậy tạo ra sự tương tự về hoàn cảnh, môi trường và vận cụ

….Form Repetition.

….Lặp lại theo Hình tướng.

351. The fact that we can recognize forms as persistent is due to “Form Repetition” which, again, seems to be related to “Repetition in Fact”. Form Repetition occurs within Plane Repetition. Forms are produced from the substance of planes. The planar and sub-planar substances are of a certain nature because of their keynote. Those substances, aggregated in unique mixtures, produce:

351. Việc chúng ta có thể nhận ra các hình tướng là dai dẳng là nhờ “Lặp lại theo Hình tướng”, điều này, lần nữa, có vẻ liên hệ với “Lặp lại trong Sự kiện”. Lặp lại theo Hình tướng diễn ra bên trong Lặp lại theo Cõi. Các hình tướng được sản sinh từ chất liệu của các cõi. Các chất liệu cõi và cõi phụ có bản tính nhất định vì chủ âm của chúng. Những chất liệu ấy, kết tụ trong những hòa trộn độc đáo, tạo ra:

a. Similarity of circumstance

a. Sự tương tự về hoàn cảnh

b. Similarity of environment

b. Sự tương tự về môi trường

c. Similarity of vehicle

c. Sự tương tự về vận cụ

352. Within a given solar system (the bounded context which we are discussing), the Solar Logos ‘holds the space’ persistently; the schemes and chains endure for a greater or lesser time and are activated in order; the planes persist in a certain condition according to their keynote; the forms within the planes are evoked into continuing presence by the tendency of their atomic constituents to respond to stimulation in a repetitious manner.

352. Trong một hệ mặt trời nhất định (bối cảnh giới hạn mà chúng ta đang bàn), Thái dương Thượng đế “giữ không gian” bền bỉ; các hệ và dãy tồn tại lâu hay mau và được kích hoạt theo trật tự; các cõi tồn tại trong một tình trạng nhất định tùy theo chủ âm của chúng; các hình tướng trong các cõi được triệu hiện vào sự hiện diện liên tục bởi khuynh hướng của các thành tố nguyên tử của chúng đáp ứng với kích thích theo cung cách lặp lại.

When we carry these ideas on to every plane in the solar system, and from thence to the cosmic planes, we have opened up for ourselves infinitude.

Khi chúng ta mang các ý niệm này tới mọi cõi trong hệ mặt trời, và từ đó sang các cõi vũ trụ, chúng ta đã tự mở ra cho mình cõi vô tận.

353. I would call it a ‘virtual infinitude’. The time spans involved are so great compared to the tiny life cycle of man that the time involved seems infinite.

353. Tôi muốn gọi đó là một “vô tận tương đối ”. Các khoảng thời gian liên quan lớn đến mức so với vòng đời nhỏ bé của con người, thời gian dường như vô tận.

354. It is clear that the principle of repetition—in space, in time, in fact, in form, in relation to planes and subplanes—is ubiquitous throughout the Universe.

354. Rõ ràng nguyên lý lặp lại—trong không gian, trong thời gian, trong sự kiện, trong hình tướng, liên quan đến các cõi và cõi phụ—hiện diện khắp cùng trong Vũ trụ.

2. Repetition of Cyclic Action is Governed by Two Laws:

2. Sự Lặp Lại của Hành Động Chu Kỳ được chi phối bởi Hai Định Luật:

355. Thus far we have dealt somewhat with the Idea of Repetition.

355. Cho tới đây, chúng ta đã xử lý phần nào Ý niệm về Sự Lặp Lại.

356. We now deal with two laws governing Cyclic Action.

356. Giờ chúng ta xét hai định luật chi phối Hành Động Chu Kỳ.

Perhaps it is more accurate to say that it is governed by one law, primarily, and a subsidiary law.

Có lẽ nói chính xác hơn là nó được chi phối chủ yếu bởi một định luật, và một định luật phụ.

357. DK approaches with specificity, arranging the two laws in a hierarchy.

357. Chân sư DK tiếp cận một cách minh xác, sắp đặt hai định luật trong một trật tự tôn ti.

This leads [275] to two general types of cycles, and is involved in the very nature of the Self and of the not-self.  The interplay of the two by the aid of mind produces that which we call environment or circumstance.

Điều này dẫn [275] tới hai kiểu chu kỳ tổng quát, và liên hệ với chính bản tính của Tự Ngã và của phi-ngã. Sự tương tác của hai bên nhờ vào thể trí tạo ra cái mà chúng ta gọi là môi trường hay hoàn cảnh.

358. Self is Spirit; not-Self is matter; mind is the link between the two (solar fire).

358. Tự Ngã là Linh Thần; phi-ngã là chất liệu; thể trí là mối nối giữa đôi bên (Lửa Thái dương).

359. Solar fire is the fire of ‘bridging mind’. It is quality of mind that can create a bridge between Spirit and Matter/matter. It comes (as far as we in our solar system are concerned) from the cosmic mental plane.

359. Lửa Thái dương là lửa của “trí nối cầu”. Chính phẩm chất của trí nối được chiếc cầu giữa Linh Thần và Chất liệu/chất. Nó đến (xét theo hệ mặt trời của chúng ta) từ cõi trí vũ trụ.

360. Is the Tibetan saying that environment and circumstance are produced by the interplay between two general types of cycles, or by the interplay between Self and not-self by the aid of mind? Let us seek clarification below.

360. Chân sư có đang nói rằng môi trường và hoàn cảnh được tạo bởi sự tương tác giữa hai kiểu chu kỳ tổng quát, hay bởi sự tương tác giữa Tự Ngã và phi-ngã nhờ vào thể trí? Hãy tìm minh giải bên dưới.

361. Repetition of Cyclic Action is involved in the very nature of the Self and the not-Self.

361. Sự Lặp Lại của Hành Động Chu Kỳ gắn liền với bản tính của chính Tự Ngã và phi-ngã.

The general law, which produces cyclic effect, is the Law of Attraction and Repulsion, of which the subsidiary law is the Law of Periodicity, and of Rebirth.

Định luật tổng quát sinh ra hiệu ứng chu kỳ là Định luật Hấp Dẫn và Đẩy Lùi, trong đó định luật phụ là Định luật Chu Kỳ, và của Tái Sinh.

362. Here, the names of the two laws are given.

362. Ở đây, tên của hai định luật được nêu ra.

363. Since the Law of Periodicity is the second Fundamental of the Secret Doctrine, it is strange to see it presented as a subsidiary of the Law of Attraction.

363. Vì Định luật Chu Kỳ là Điều Căn Bản thứ hai của Giáo Lý Bí Nhiệm, thật lạ khi thấy nó được trình bày như một định luật phụ của Định luật Hấp Dẫn.

364. If the Law of Attraction and Repulsion causes cyclic effect, let us see how this may be the case. Let us examine the reincarnational cycle of man. Death ensues when the attraction of the soul overpowers the attraction of matter. The incarnating consciousness is then repelled from the lower three worlds of form. Incarnation resumes (normally) when the attractive power of matter and the magnetic attraction towards the three worlds (which we call desire) overpower the attractive power which held the Jiva on higher mental plane. The Jiva, or reincarnating consciousness, is then temporarily repelled from the world of the soul and drawn into the lower three worlds.

364. Nếu Định luật Hấp Dẫn và Đẩy Lùi gây ra hiệu ứng chu kỳ, hãy xem điều này có thể như thế nào. Hãy xét chu kỳ tái sinh của con người. Cái chết xảy đến khi sức hấp dẫn của linh hồn áp đảo sức hấp dẫn của chất. Tâm thức nhập thể lúc ấy bị đẩy khỏi ba cõi giới thấp của hình tướng. Việc lâm phàm tiếp diễn (bình thường) khi sức hấp dẫn của chất và lực hút từ ba cõi (mà ta gọi là dục vọng) áp đảo sức hấp dẫn vốn giữ Jiva trên cõi hạ trí cao. Jiva, hay tâm thức tái sinh, bấy giờ tạm thời bị đẩy khỏi thế giới của linh hồn và lôi nhập vào ba cõi thấp.

365. These changes of attraction occur cyclically.

365. Những đổi thay về hấp dẫn này xảy ra theo chu kỳ.

366. The two poles are alternatively activated. As well, surfeit in relation to one pole is experienced within the form simultaneously with a desire for the opposite pole; then this reverses. When surfeit is experienced in relation to one pole, attraction is experienced in relation to the opposite pole.

366. Hai cực thay phiên được kích hoạt. Đồng thời, chán ngán bội thực đối với một cực được kinh nghiệm trong hình tướng cùng lúc với khát vọng hướng tới cực đối nghịch; rồi điều này đảo chiều. Khi đã bội thực với một cực, người ta sẽ bị hấp dẫn bởi cực kia.

367. Eventually, there is only attraction towards the Self which is not bi-polar.

367. Rốt lại, chỉ còn sự hấp dẫn hướng về Tự Ngã vốn không lưỡng cực.

Cyclic evolution is entirely the result of the activity of matter, and of the Will or Spirit.

Tiến hoá chu kỳ hoàn toàn là kết quả của hoạt động của vật chất, và của Ý Chí hay Tinh thần.

368. Spirit proceeds by pulsations. Matter will only configure itself under the moulding influence of a Spirit-pulsation. We might call such pulsation, ‘formative pulsation’. Rhythmic, formative, “moulding” pulsation produces cyclic evolution.

368. Tinh thần vận hành bằng những xung động. Vật chất chỉ chịu tự cấu hình dưới ảnh hưởng nắn khuôn của một xung động Tinh thần. Chúng ta có thể gọi xung động như vậy là “xung động tạo hình”. Xung động nhịp nhàng, mang tính tạo hình, “nắn khuôn” tạo ra tiến hoá chu kỳ.

369. We are considering the cause of cyclic evolution as an interplay between the first and third aspects of divinity.

369. Chúng ta đang xét nguyên nhân của tiến hoá chu kỳ như là một sự tương tác giữa phương diện thứ nhất và phương diện thứ ba của thiêng liêng.

370. It is the consciousness (the product of Spirit and matter) that evolves spiral cyclically.

370. Chính tâm thức (sản phẩm của Tinh thần và vật chất) tiến hoá theo xoáy ốc chu kỳ.

371. Pulsations come via the Will and are impulsed by Spirit. Pulsations rise in quality incrementally and carry progressively the “Fixed Design” of the archetype towards which consciousness must rise—spiral-cyclically.

371. Các xung động đến qua Ý Chí và được Tinh thần thúc phát. Các xung động gia tăng về phẩm chất một cách tăng dầntiệm tiến chuyển tải “Đồ Án Cố Định” của nguyên mẫu mà tâm thức phải vươn lên—theo xoáy ốc chu kỳ.

372. In colloquial language, the pulsations of Spirit persistently “raise the bar”.

372. Nói theo cách thông tục, những xung động của Tinh thần bền bỉ “nâng chuẩn”.

373. Will is equated with Spirit. Elsewhere, Will is considered a faculty of the Spirit.

373. Ý Chí được đồng nhất với Tinh thần. Ở nơi khác, Ý Chí được xem như một năng lực của Tinh thần.

It is produced by the interaction of active matter and moulding Spirit.

Nó được tạo nên bởi sự tương tác giữa vật chất hoạt động và nắn khuôn Tinh thần.

374. How interesting to consider Spirit as a factor which moulds.

374. Thật thú vị khi xem Tinh thần như một yếu tố nắn khuôn.

375. We are reminded that Vulcan (a planetary force which shapes and moulds) is a first ray planet related to Spirit.

375. Chúng ta được nhắc rằng Vulcan (một lực hành tinh có tính định hình và nắn khuôn) là một hành tinh cung một liên hệ với Tinh thần.

376. The soul builds, but it builds to achieve that which is indicated by the mould of Spirit.

376. Linh hồn kiến tạo, nhưng kiến tạo để đạt điều được gợi chỉ bởi khuôn mẫu của Tinh thần.

377. The Monad/Spirit holds the archetypal form.

377. Chân Thần/Tinh thần nắm giữ hình thể nguyên mẫu.

Every form holds hid a Life.

Mọi hình tướng đều ẩn giữ một Sự sống.

378. The Spirit indwells every form.

378. Tinh thần nội tại trong mọi hình tướng.

Every life constantly reaches out after the similar life latent in other forms.

Mọi Sự sống không ngừng vươn tới Sự sống tương đồng tiềm ẩn trong các hình tướng khác.

379. This relates to that later phase of the evolutionary process when Spirit begins to merge with Spirit; the One rediscovers itself in all things.

379. Điều này liên hệ tới giai đoạn muộn hơn của tiến trình tiến hoá khi Tinh thần bắt đầu hoà nhập với Tinh thần; Đấng Duy Nhất tự khám phá lại chính Ngài trong mọi sự.

When Spirit and matter sound the same note evolution will cease.

Khi Tinh thần và vật chất xướng cùng một âm điệu tiến hoá sẽ chấm dứt.

380. Soul is the means by which the note of Spirit is transferred to the note of matter. Soul is the modulator respecting both the note of Spirit and the note of matter.

380. Linh hồn là phương tiện nhờ đó âm điệu của Tinh thần được chuyển sang âm điệu của vật chất. Linh hồn là bộ điều âm đối với cả âm điệu của Tinh thần lẫn âm điệu của vật chất.

381. When the same note is sounded by Spirit and matter, we have reached a condition of stasis or equilibrium. There is then no more longing or desire (under the Law of Attraction) arising in matter/form. There is then no more need to bestow arising in Spirit (for the note of Spirit has been bestowed).

381. Khi cùng một âm điệu được Tinh thần và vật chất xướng lên, chúng ta đã đạt trạng thái tĩnh hay quân bình. Khi ấy không còn khát vọng hay ham muốn (theo Định luật Hấp dẫn) khởi lên trong vật chất/hình tướng. Khi ấy cũng không còn nhu yếu ban trao khởi lên trong Tinh thần (vì âm điệu của Tinh thần đã được ban trao).

382. The Law of Attraction and Repulsion has ceased. Spirit and matter are now as one and so there need be no more attraction between them.

382. Định luật Hút và Đẩy Lùi đã chấm dứt. Tinh thần và vật chất nay là một, nên không còn cần sự hấp dẫn giữa chúng nữa.

When the note sounded by the form is stronger than that of Spirit, we have attraction between forms.

Khi âm điệu do hình tướng xướng mạnh hơn âm điệu của Tinh thần, chúng ta có sự hấp dẫn giữa các hình tướng.

383. At this stage, the power of Spirit is passive; forms are dynamic and interactive. Spirit exerts no felt influence.

383. Ở giai đoạn này, quyền năng của Tinh thần là thụ động; các hình tướng năng động và tương tác. Tinh thần không tác động cảm nhận được.

When the note sounded by Spirit is stronger than that of matter and form, we have Spirit repelling form.

Khi âm điệu do Tinh thần xướng mạnh hơn âm điệu của vật chất và hình tướng, chúng ta có Tinh thần đẩy lùi hình tướng.

384. At this stage, Spirit begins its long search for Spirit (at first discovering soul) and in doing so repels the form, for form is seen as an interference in the process of uniting Spirit to Spirit (even though Spirit is one in all things).

384. Ở giai đoạn này, Tinh thần bắt đầu cuộc trường tầm Tinh thần (ban đầu khám phá linh hồn) và khi làm vậy đẩy lùi hình tướng, vì hình tướng được thấy như một sự can thiệp vào tiến trình hợp nhất Tinh thần với Tinh thần (dù Tinh thần là một trong mọi sự).

Here we have the basis for the battlefield of life,

Ở đây chúng ta có nền tảng cho chiến địa của sự sống,

385. The battle is based on this: will Spirit win through the initial utilization of soul, or will matter continue to attract?

385. Trận chiến dựa trên điều này: Tinh thần sẽ chiến thắng thông qua việc sử dụng ban đầu linh hồn, hay vật chất sẽ tiếp tục hấp dẫn?

and its myriads of intermediate stages, which might be expressed as follows:

và vô số giai đoạn trung gian của nó, có thể được diễn đạt như sau:

a. The period of the domination of the form note is that of involution.

a. Thời kỳ mà âm điệu của hình tướng chiếm ưu thế là thời kỳ giáng hạ tiến hoá.

386. I, the Spirit in form, desire form, continuously forgetting that I am Spirit

386. Ta, Tinh thần trong hình tướng, ham muốn hình tướng, liên tục quên rằng ta là Tinh thần

b. The period of the repulsion of form by Spirit is that of the battlefield of the three worlds.

b. Thời kỳ Tinh thần đẩy lùi hình tướng là thời kỳ chiến địa của ba cõi giới.

387. To this should be added, ‘the intermittent repulsion of Spirit by form’. Christ was despised and rejected.

387. Cần bổ sung vào đây, “sự đẩy lùi gián đoạn của Tinh thần bởi hình tướng”. Đức Christ đã bị khinh miệt và bị loại bỏ.

388. Sometimes form will look attractive and sometimes not. The consciousness is caught between wanting form and not wanting it. The Law of Repulse, the fourth Law of the Soul, is active. There is an oscillating rejection of the not-Self.

388. Đôi khi hình tướng sẽ có vẻ hấp dẫn và đôi khi không. Tâm thức bị kẹt giữa muốn hình tướng và không muốn nó. Định luật Đẩy Lùi, Định luật thứ tư của Linh hồn, đang hoạt động. Có một sự khước từ dao động đối với phi-Ngã.

389. During this stage, the instrument of Spirit (and warrior on behalf of Spirit) is soul—not really mentioned in this tabulation.

389. Trong giai đoạn này, khí cụ của Tinh thần (và chiến sĩ thay mặt Tinh thần) là linh hồn—thực ra không được nêu trong bảng liệt kê này.

390. Yet, in a way, soul is also form, and the Spirit must one day repel the form-of-soul as well.

390. Tuy vậy, theo một nghĩa, linh hồn cũng là hình tướng, và Tinh thần một ngày kia cũng phải đẩy lùi hình-thức-của-linh-hồn.

c. The period of the attraction of Spirit and Spirit, and the consequent withdrawal from form is that of the Path.

c. Thời kỳ Tinh thần bị hấp dẫn bởi Tinh thần, và hệ quả là sự rút lui khỏi hình tướng, là thời kỳ của Thánh Đạo.

391. Here is an excellent definition of the Path.

391. Ở đây là một định nghĩa tuyệt hảo về Thánh Đạo.

392. An intermediate stage is to be attracted to soul qualities.

392. Một giai đoạn trung gian là bị hấp dẫn bởi các phẩm tính của linh hồn.

393. The attraction of Spirit and Spirit is recognized with the finding of pure being in an attraction.

393. Sự hấp dẫn giữa Tinh thần và Tinh thần được nhận biết khi tìm thấy hiện hữu thuần túy trong một hấp dẫn.

394. Soul attraction is based on quality; Spirit-attraction is based on that which transcends quality—pure being.

394. Sự hấp dẫn của linh hồn đặt nền trên phẩm tính; Sự hấp dẫn của Tinh thần đặt nền trên cái vượt lên phẩm tính— hiện hữu thuần túy.

395. Practically, if attracted units can share the experience of being alive—spiritually, then the attracted units are approaching to the state of Spirit being attracted by Spirit. To the degree that we are consciously the Monad, we can do this.

395. Về thực tiễn, nếu các đơn vị bị hấp dẫn có thể sẻ chia kinh nghiệm của đang sống —về phương diện tinh thần, thì các đơn vị ấy đang tiến gần đến trạng thái Tinh thần bị hấp dẫn bởi Tinh thần. Ở mức độ chúng ta có ý thức là Chân Thần, chúng ta có thể làm điều này.

d. The period of domination of the note of Spirit is that of the higher planes of evolution.

d. Thời kỳ sự ngự trị của âm điệu của Tinh thần là thời kỳ của các cõi cao của tiến hoá.

396. We are speaking of the note of the higher planes of evolution—the cosmic ethers.

396. Chúng ta đang nói về âm điệu của các cõi cao của tiến hoá—các dĩ thái vũ trụ.

397. Normally, until the later stages of evolution, life is weaker than quality. This is so until Spirit dominates.

397. Thông thường, cho đến các giai đoạn muộn hơn của tiến hoá, Sự sống yếu hơn phẩm tính. Điều này như vậy cho đến khi Tinh thần ngự trị.

398. The note of Spirit is the note the Monad is sounding. It is preceded by the note of the soul within the causal body and by the note of the spiritual triad (which, with the note of Spirit, is muted by the note of the soul within the causal body—until the causal body is destroyed).

398. Âm điệu của Tinh thần là âm điệu mà Chân Thần đang xướng. Nó được tiền dẫn bởi âm điệu của linh hồn trong thể nguyên nhân và bởi âm điệu của tam nguyên tinh thần (mà, cùng với âm điệu của Tinh thần, bị âm điệu của linh hồn trong thể nguyên nhân làm cho dịu đi—cho đến khi thể nguyên nhân bị phá huỷ).

To the synchronisation of the notes, or to the lack of synchronisation, may be attributed all that occurs in the world cycles.

Sự đồng bộ của các âm điệu, hoặc sự thiếu đồng bộ, có thể được quy cho tất cả những gì xảy ra trong các chu kỳ thế gian.

399. Synchronization causes the cessation of attraction and repulsion. Non-synchronization necessitates the continued activity of the Law of Attraction and Repulsion—leading to harmonization, unification and finally identification and synchronization.

399. Đồng bộ gây ra sự chấm dứt của hấp dẫn và đẩy lùi. Bất đồng bộ đòi hỏi hoạt động tiếp diễn của Định luật Hút và Đẩy Lùi—dẫn đến hoà điệu, hợp nhất và rốt cùng là đồng nhất hoá và đồng bộ hoá.

Thus we have the production of harmony; first, the basic note of matter, then the note of Spirit gradually overcoming the lower note and usurping attention [276] till gradually the note of Spirit overpowers all other notes.

Như vậy chúng ta có sự sản sinh hoà điệu; trước hết, âm điệu căn bản của vật chất, kế đó âm điệu của Tinh thần dần dần vượt thắng âm điệu thấp hơn và soán đoạt sự chú tâm [276] cho đến khi dần dần âm điệu của Tinh thần áp đảo mọi âm điệu khác.

400. Here we have the entire evolutionary process expressed in musical terms.

400. Ở đây chúng ta có toàn bộ tiến trình tiến hoá được diễn đạt bằng ngôn ngữ âm nhạc.

401. When the note of Spirit overpowers all other notes, we have the perfection of the ‘Chord of the Monad’.

401. Khi âm điệu của Tinh thần áp đảo mọi âm điệu khác, chúng ta có sự hoàn thiện của “Hợp âm của Chân Thần”.

“At first, there is dissonance and discord, a clashing of the colours, and a fight between the Higher and the Lower.  But as time progresses, and later with the aid of the Master, harmony of colour and tone is produced (a synonymous matter), until eventually you will have the basic note of matter, the major third of the aligned Personality, the dominant fifth of the Ego, followed by the full chord of the Monad or Spirit.” (LOM 4)

“Ban đầu có sự nghịch tai và bất hoà, một sự xung đột của các màu sắc, và một cuộc đấu tranh giữa Cao và Thấp. Nhưng theo thời gian, và về sau với sự trợ giúp của Chân sư, hoà điệu về màu và âm được tạo ra (một điều đồng nghĩa), cho đến cuối cùng bạn sẽ có âm điệu căn bản của vật chất, quãng ba trưởng của Phàm ngã chỉnh hợp, quãng năm chủ của Chân ngã, tiếp theo là toàn hợp âm của Chân Thần hay Tinh thần.” (LOM 4)

402. Has the “note of Spirit” usurped attention within our psyche? This note will eventually become demanding and dominant. But first the soul note, considered, literally as the dominant fifth, must attract attention.

402. Âm “của Tinh thần” đã soán đoạt sự chú tâm trong tâm linh chúng ta chưa? Âm này rốt cuộc sẽ trở nên đòi hỏi và thống trị. Nhưng trước hết âm linh hồn, được xem, theo nghĩa đen là quãng năm chủ, phải thu hút sự chú tâm.

403. The soul note attracts attention (utilizing the quality of the second ray); the note of Spirit usurps attention, utilizing the quality of the first ray.

403. Âm linh hồn thu hút sự chú tâm (vận dụng phẩm tính của cung hai); âm của Tinh thần soán đoạt sự chú tâm, vận dụng phẩm tính của cung một.

404. The word “usurping” is definitely a first ray word!

404. Từ “soán đoạt” rõ ràng là một từ thuộc cung một!

Yet it must be borne in mind that it is the note of the life that holds the form together.

Tuy nhiên cần ghi nhớ rằng chính là âm điệu của Sự sống giữ cho hình tướng kết liên.

405. The note of matter would not be sounding if the note of Spirit ceased sounding.

405. Âm điệu của vật chất sẽ không vang lên nếu âm điệu của Tinh thần ngừng vang.

406. We remember the moulding effect of the Spirit. The coherence of matter is caused by a process of Spirit-moulding. Spirit forces material factors together creating a ring-pass-not. Soul sustains the enforced relationship through the power of attraction.

406. Chúng ta nhớ đến tác dụng nắn khuôn của Tinh thần. Sự kết dính của vật chất là do một tiến trình Tinh thần-nắn-khuôn gây nên. Tinh thần ép các yếu tố vật chất lại với nhau tạo nên một vòng-giới-hạn. Linh hồn duy trì mối liên hệ cưỡng kết ấy bằng quyền năng của hấp dẫn.

The note of the Sun, for instance, holds in just attraction the circling spheres, the planets.

Âm điệu của Thái dương, chẳng hạn, giữ các cầu thể đang tuần hoàn, các hành tinh, trong sự hấp dẫn công chính.

407. Here is a new angle on the Law of Attraction. The “note of the Sun” is an attractive force.

407. Ở đây là một góc nhìn mới về Định luật Hấp dẫn. “Âm điệu của Thái dương” là một lực hấp dẫn.

408. Do we realize that in life we are attracted by various sounding notes, and even ‘held in orbit’ by certain greater notes. Just as the planets do, we circle around the sources from whence these notes emanate.

408. Chúng ta có nhận ra rằng trong đời sống ta bị hấp dẫn bởi các âm điệu khác nhau, và thậm chí bị “giữ trong quỹ đạo” bởi những âm điệu lớn hơn nào đó không. Cũng như các hành tinh, chúng ta tuần hoàn quanh những nguồn phát ra các âm điệu ấy.

409. The note of the Sun (in the present solar system) can be considered the note G.

409. Âm điệu của Thái dương (trong hệ mặt trời hiện tại) có thể được xem là nốt G.

410. We note that the type of attraction is “just attraction”, suggesting the influence of Libra, and a type of attraction which is not too great or too little. The attraction is absolutely balanced and proportionate (Libra) so that the circling spheres or planets can maintain their correct position relative to the source of attraction—the Sun.

410. Chúng ta lưu ý rằng kiểu hấp dẫn là “sự hấp dẫn ‘ chính đáng ’”, gợi ý ảnh hưởng của Thiên Bình, và một kiểu hấp dẫn không quá mạnh cũng không quá yếu. Sự hấp dẫn tuyệt đối cân bằng và tương xứng (Thiên Bình) để các cầu thể hay hành tinh đang tuần hoàn có thể giữ đúng vị trí tương đối của mình đối với nguồn hấp dẫn—Thái dương.

411. May we think that different notes sounding forth from the Sun will produce planetary orbits of different kinds? Perhaps the orbital arrangement created through the sounding of the note G is entirely different from the orbital arrangement in the last solar system which was produced by the sounding of the note F.

411. Chúng ta có thể nghĩ rằng những âm điệu khác nhau vang ra từ Thái dương sẽ tạo nên những quỹ đạo hành tinh thuộc loại khác nhau? Có lẽ sắp đặt quỹ đạo được tạo nên bởi việc xướng nốt G hoàn toàn khác với sắp đặt quỹ đạo trong hệ mặt trời trước, vốn được tạo nên bởi việc xướng nốt F.

412. It may be that there will be seven solar systems, and that each of them sounded a particular note of the scale beginning with the fundamental note C. Our solar system is the fifth and the note G is the fifth note in the diatonic scale beginning with C.

412. Có thể sẽ có bảy hệ mặt trời, và mỗi hệ trong số đó vang lên một nốt riêng của thang âm bắt đầu bằng nốt nền tảng C. Hệ mặt trời của chúng ta là hệ thứ năm và nốt G là nốt thứ năm trong thang điệu trưởng bắt đầu bằng C.

413. From another perspective however, the next solar system is to be sounding the note of Will or C. Much thought will be required to clarify the number of solar systems through which our Solar Logos manifests and the nature of the different notes sounding through each.

413. Tuy nhiên, nhìn từ một viễn tượng khác, hệ mặt trời kế tiếp sẽ vang nốt của Ý Chí, tức nốt C. Cần nhiều suy tư để làm sáng tỏ số lượng các hệ mặt trời qua đó Thái dương Thượng đế của chúng ta biểu lộ và bản chất các âm điệu khác nhau vang qua mỗi hệ.

The notes synchronise and harmonise till the stage of adequacy is reached and the period of abstraction.

Các âm điệu đồng bộ và hoà điệu cho đến khi đạt tới giai đoạn đủ đầy và thời kỳ trừu xuất.

414. The process of evolution (sonically considered) is very much the adjusting of note to note.

414. Tiến trình tiến hoá (xét theo âm học) rất mực là sự điều chỉnh âm với âm.

415. The stages of mutual interplay given are:

415. Các giai đoạn tương tác hỗ tương được nêu là:

a. Synchronization

a. Đồng bộ

b. Harmonization

b. Hoà điệu

c. Adequacy

c. Đủ đầy

d. Abstraction.

d. Trừu xuất.

416. The term synchronization introduces the time factor. In order to harmonize properly, the notes involved must sound rhythmically in relation to each other. Their cycles must be related and synchronized.

416. Thuật ngữ đồng bộ đưa vào yếu tố thời gian. Để hoà điệu đúng đắn, các âm liên hệ phải vang một cách nhịp nhàng đối với nhau. Chu kỳ của chúng phải được liên hệ và đồng bộ.

Cyclic evolution proceeds.  A human being, similarly, holds (by means of his note) the atoms of the three bodies together, being to them as the central sun to the planets. 

Tiến hoá chu kỳ tiếp diễn. Tương tự, một con người, nhờ âm điệu của mình, giữ các nguyên tử của ba thể kết dính với nhau, đối với chúng y là Thái dương trung tâm đối với các hành tinh.

417. To the atoms of our little system we (the human being) are as the central sun is to the planets.

417. Đối với các nguyên tử của tiểu hệ của chúng ta (con người) chúng ta là như Thái dương trung tâm đối với các hành tinh.

418. The atoms of our vehicles are held in attractive relation by the sounding of our note.

418. Các nguyên tử của các vận cụ của chúng ta được giữ trong quan hệ hấp dẫn bởi âm điệu của chúng ta.

419. The atoms do not so much revolve as rotate on their own axis. But the sheaths of our nature do revolve around a central axis. This type of revolution could equally be considered rotation.

419. Các nguyên tử không xoay quanh nhiều bằng tự quay trên trục của mình. Nhưng các vỏ bọc của bản tánh chúng ta có xoay quanh một trục trung tâm. Kiểu chuyển động này cũng có thể được xem là sự tự quay.

Primarily, nevertheless, it may be posited that the Law of Attraction is the demonstration of the powers of Spirit, whilst the Law of Repulsion governs the form.

Tuy nhiên, chủ yếu, có thể khẳng định rằng Định luật Hấp dẫn là sự biểu lộ các quyền năng của Tinh thần, trong khi Định luật Đẩy Lùi cai quản hình tướng.

420. We see the Law of Attraction (and Repulsion) as placed between Spirit and matter and partaking of the qualities of both.

420. Chúng ta thấy Định luật Hấp dẫn (và Đẩy Lùi) được đặt giữa Tinh thần và vật chất và dự phần vào phẩm tính của cả hai.

421. Attraction, therefore, is fundamentally of the Spirit and repulsion of the form.

421. Do đó, hấp dẫn, về căn để, thuộc về Tinh thần và đẩy lùi thuộc về hình tướng.

422. From what is here suggested, the Law of Attraction and Repulsion represents an oscillation between the quality of Spirit and the quality of Matter.

422. Từ gợi ý ở đây, Định luật Hấp dẫn và Đẩy Lùi biểu trưng cho một dao động giữa phẩm tính của Tinh thần và phẩm tính của Vật chất.

423. This statement reminds one of the thought—in relation to the Ray of Harmony through Conflict—that harmony represents the higher part of the ray and conflict the lower.

423. Mệnh đề này khiến người ta nhớ đến tư tưởng—liên quan đến Cung Hoà điệu qua Xung đột—rằng hoà điệu biểu hiện phần cao của cung và xung đột là phần thấp.

Spirit attracts Spirit throughout the greater cycle.

Tinh thần hấp dẫn Tinh thần suốt đại chu kỳ.

424. What kind of cycle is meant by “the greater cycle”? Would this be the type of cycle to which the Monad (uninvolved with descent into the five planes of human and superhuman evolution) is subjected?

424. “Đại chu kỳ” là loại chu kỳ nào? Chẳng phải đây là loại chu kỳ mà Chân Thần (không liên dự vào sự đi xuống năm cõi tiến hoá nhân loại và siêu nhân loại) chịu chi phối sao?

425. We do not know the pre-planetary history of the Monad nor its future. Perhaps both its history and future are involved “the greater cycle”. Certainly, it would seem to be true of its future.

425. Chúng ta không biết tiền sử tiền hành tinh của Chân Thần cũng như tương lai của Ngài. Có lẽ cả lịch sử lẫn tương lai của Ngài đều liên quan đến “đại chu kỳ”. Chắc chắn, điều này có vẻ đúng đối với tương lai của Ngài.

In lesser cycles, Spirit temporarily attracts matter.

Trong các chu kỳ nhỏ hơn, Tinh thần tạm thời hấp dẫn vật chất.

426. It would seem that, temporarily (for however many millions of years). humanity has been passing through a lesser cycle.

426. Có vẻ như, tạm thời (dù là trong bao nhiêu triệu năm), nhân loại đã và đang trải qua một chu kỳ nhỏ hơn.

427. Could we say that the entire ‘Pilgrimage into Matter’ of the Monad has been a lesser cycle? From what is here said, it would seem so.

427. Chúng ta có thể nói rằng toàn bộ “Cuộc Hành Hương vào Vật chất” của Chân Thần đã là một chu kỳ nhỏ hơn chăng? Từ những gì được nói ở đây, có vẻ như vậy.

428. The cycles in which the Spirit manifests via soul as the personality are, by this definition, “lesser cycles”.

428. Những chu kỳ trong đó Tinh thần biểu lộ qua linh hồn như là phàm ngã, theo định nghĩa này, là “các chu kỳ nhỏ hơn”.

The tendency of Spirit is to merge and blend with Spirit.

Khuynh hướng của Tinh thần là hoà nhập và hoà trộn với Tinh thần.

429. The Law of Spirit is the Law of Synthesis. Spirit seeks to merge with itself. Shall we say that the Spirit, temporarily bound by the form, seeks its liberation by finding Spirit in other forms?

429. Định luật của Tinh thần là Định luật Hợp Nhất. Tinh thần tìm cách hoà nhập với chính mình. Chúng ta hãy nói rằng Tinh thần, tạm thời bị ràng buộc bởi hình tướng, tìm sự giải thoát bằng cách tìm Tinh thần trong các hình tướng khác?

430. All that is here said pertains to interplay within the Veil of Illusion, for we know that Spirit is, essentially, One.

430. Tất cả những điều được nói ở đây đều thuộc về sự tương tác trong Bức Màn Ảo Tưởng, vì chúng ta biết rằng Tinh thần, về bản thể, là Một.

Form repulses form, and thus brings about separation.

Hình tướng đẩy lùi hình tướng, và như thế mang lại phân ly.

431. The motion of form life is rotary. Rotating forms naturally spin off other forms with which they come into contact.

431. Chuyển động của sự sống hình tướng là xoay tròn. Những hình tướng tự quay tự nhiên hất bật các hình tướng khác mà chúng va chạm.

432. The purpose of form, per se, and operating under its own law (the Law of Economy) is to remain distinct from other forms.

432. Mục đích của hình tướng, tự thân, và hoạt động dưới định luật riêng của nó (Định luật Tiết Kiệm) là để duy trì sự biệt lập với các hình tướng khác.

But—during the great cycle of evolution

Nhưng—trong đại chu kỳ của tiến hoá

433. … necessitating the fusing power of the second ray and the Law of Attraction…

433. … đòi hỏi quyền năng dung hợp của cung hai và Định luật Hấp dẫn…

—when the third factor of Mind comes in,

—khi yếu tố thứ ba là Trí đến,

434. In this context, mind is the second which is the third—the “Son”, third in order, but second in placement within the Trinity.

434. Trong bối cảnh này, trí là cái thứ hai vốn là cái thứ ba— “Ngôi Con”, đứng thứ ba theo trật tự, nhưng đứng thứ hai trong sự an vị trong Ba Ngôi.

435. Mind (related to solar fire and originating on the cosmic mental plane) is the bridging energy.

435. Trí (liên hệ với Lửa Thái dương và phát nguyên trên cõi trí vũ trụ) là năng lượng bắc cầu.

and when the point of balance is the goal,

và khi điểm quân bình là mục tiêu,

436. That “point of balance” being governed by Libra with its mixture of third and second rays…

436. “Điểm quân bình” đó được chi phối bởi Thiên Bình với sự pha trộn của cung ba và cung hai…

437. We can see that Mind is an ordering faculty.

437. Chúng ta có thể thấy rằng Trí là một khả năng sắp đặt.

the cyclic display of the interaction between Spirit and form is seen, and the result is the ordered cycles of the planets, of a human being, and of an atom.

sự trình hiện chu kỳ của tương tác giữa Tinh thần và hình tướng được thấy,kết quả là các chu kỳ có trật tự của các hành tinh, của con người, và của một nguyên tử.

438. Spiral cyclic motion—the second type of motion (related to Mind, as here described) produces forms which gradually evolve in ordered cycles.

438. Chuyển động xoáy ốc chu kỳ—loại chuyển động thứ hai (như được mô tả ở đây liên hệ với Trí) tạo ra các hình tướng vốn dần dần tiến hoá trong các chu kỳ có trật tự.

439. Spirit moulds; matter is moulded; form (relating to the second aspect of divinity) is produced.

439. Tinh thần nắn khuôn; vật chất bị nắn khuôn; hình tướng (liên hệ với phương diện thứ hai của thiêng liêng) được sản sinh.

440. While it may seem that “form” should relate more to the third aspect of divinity, it is truly related to the geometrizing of the second aspect.

440. Tuy bề ngoài có vẻ “hình tướng” nên liên hệ nhiều hơn với phương diện thứ ba của thiêng liêng, thực sự nó liên quan đến sự hình học hoá của phương diện thứ hai.

441. We could say, in a way, that form is related both to the third and second aspects, but more essentially to the second.

441. Theo một nghĩa, chúng ta có thể nói hình tướng liên hệ cả với phương diện thứ ba và thứ hai, nhưng về bản chất thì liên hệ nhiều hơn với phương diện thứ hai.

442. Spirit is sattvic, or pulsating; matter is tamasic, inert; form is rajasic—in a process of constant change as it seeks to approximate the Fixed Design inhering in Spirit.

442. Tinh thần thuộc sattva, tức rung nhịp; vật chất thuộc tamas, trơ lì; hình tướng thuộc rajas—trong một tiến trình biến dịch liên tục khi nó tìm cách tiệm cận với Đồ Án Cố Định hàm tàng trong Tinh thần.

443. There must eventually arise an orderly regulation in the oscillating process of attraction to Spirit and attraction to matter. This is the “cyclic display of the interaction between Spirit and form..,”

443. Rốt cuộc phải nảy sinh một sự điều tiết có trật tự trong quá trình dao động giữa hấp dẫn Tinh thần và hấp dẫn vật chất. Đây là “sự trình hiện chu kỳ của tương tác giữa Tinh thần và hình tướng…”

444. The term “cosmos” suggests beauty and order. Cosmos also suggests the second ray, Mind and the Law of Attraction and Repulsion.

444. Thuật ngữ “vũ trụ mỹ trật” (cosmos) gợi vẻ đẹp và trật tự. Cosmos cũng gợi cung hai, Trí và Định luật Hấp dẫn và Đẩy Lùi.

445. We can associate the Law of Attraction (and Repulsion) with the orderly building of the form and its orderly unfoldment through ordered cycles.

445. Chúng ta có thể gắn Định luật Hấp dẫn (và Đẩy Lùi) với việc kiến tạo có trật tự của hình tướng và sự khai mở có trật tự của nó qua các chu kỳ có trật tự.

446. We see how much seventh ray is suggested. Jupiter (a planet expressing both the second and seventh ray) is implicated in this process cyclic, developmental process.

446. Chúng ta thấy có bao nhiêu cung bảy được gợi mở. Sao Mộc (một hành tinh biểu lộ cả cung hai và cung bảy) có dính hệ trong tiến trình chu kỳ, tiến hoá này.

447. Jupiter (as ruler of the twelfth sign, Pisces) is related to the ending of cycles in fulfillment.

447. Sao Mộc (với tư cách chủ tinh của dấu hiệu thứ mười hai, Song Ngư) liên hệ với sự viên mãn chấm dứt các chu kỳ.

448. Two trinities are being discussed: Spirit/Mind/Form; Spirit/Consciousness/Matter

448. Hai bộ ba đang được luận bàn: Tinh thần/Trí/Hình tướng; Tinh thần/Tâm thức/Vật chất

449. When we are told that there is a cyclic display of interaction between Spirit and form, we should not discount the interplay between the first and second aspects of divinity.

449. Khi chúng ta được nói rằng có một trình hiện chu kỳ của sự tương tác giữa Tinh thần và hình tướng, chúng ta không nên coi nhẹ sự tương tác giữa phương diện thứ nhất và thứ hai của thiêng liêng.

Thus, through repetition, is consciousness developed, and responsive faculty induced.

Như thế, qua sự lặp lại, tâm thức được phát triển, và năng lực đáp ứng được khơi dậy.

450. Without repetition in the form of ‘cyclic ritual’ consciousness will not unfold.

450. Không có sự lặp lại dưới hình thức “nghi lễ chu kỳ” thì tâm thức sẽ không khai mở.

451. By means of cyclic repetition, Spirit makes its impress upon matter/form.

451. Nhờ sự lặp lại chu kỳ, Tinh thần khắc ấn của mình lên vật chất/hình tướng.

452. Consciousness is Spirit penetrating and pervading matter/form such that it knows matter/form.

452. Tâm thức là Tinh thần thâm nhập và thấm nhuần vật chất/hình tướng đến mức nó biết vật chất/hình tướng.

When this faculty is of such a nature that it is an inherent part of the Entity’s working capital, it has to be exercised on every plane, and again cyclic action is the law, and hence rebirth again and again is the method of exercise.

Khi năng lực này có bản chất đến nỗi nó là một phần bẩm hữu của “vốn hoạt dụng” của Thực Thể, nó phải được vận dụng trên mọi cõi, và một lần nữa hành động chu kỳ là định luật, và do đó tái sinh hết lần này sang lần khác là phương thức rèn luyện.

453. We are speaking of the exercise of “responsive faculty”.

453. Chúng ta đang nói về việc vận dụng “năng lực đáp ứng”.

454. That which is developed must be exercised and, thus, unfolded through exercise.

454. Cái được phát triển phải được vận dụng và, như thế, khai mở qua sự rèn luyện.

455. The method of exercising responsive faculty on every plane is through the instrumentality of rebirth. Rebirth offers an orderly, cyclic approach to expression on all planes—in this case, an ascending, spiral-cyclic expression.

455. Phương thức rèn luyện năng lực đáp ứng trên mọi cõi là nhờ khí cụ tái sinh. Tái sinh cung cấp một cách tiếp cận có trật tự, theo chu kỳ, để biểu lộ trên mọi cõi—trong trường hợp này, một biểu lộ thăng, xoáy-ốc chu kỳ.

When the innate conscious faculty of every unit of consciousness has become co-ordinated as part of the equipment of the Logos on every plane of the solar system, then, and only then, will cyclic evolution cease, will rotary movement on every plane of the cosmic physical plane be of such a uniform vibration as to set up action on the next cosmic plane, the astral.

Khi năng lực tâm thức bẩm sinh của mọi đơn vị tâm thức đã được phối hợp như một phần của “trang bị” của Thái dương Thượng đế trên mọi cõi của hệ mặt trời, thì, và chỉ khi đó, tiến hoá chu kỳ mới chấm dứt, chuyển động tự quay trên mọi cõi của cõi hồng trần vũ trụ sẽ có một rung động đồng đều đến mức thiết lập hành động trên cõi vũ trụ kế tiếp, cõi cảm dục.

456. We are speaking of the solar logoic development on all planes and subplanes of the cosmic physical plane.

456. Chúng ta đang nói về sự phát triển của Thái dương Thượng đế trên mọi cõi và cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ.

457. Every unit of life within the solar system must become coordinated with the Purpose of the Solar Logos. Then, there will be no independent units, per se, though free will, will, nevertheless, persist. The action of each Self-conscious unit will be but an aspect of the conscious expression of the Solar Logos. God-the-Solar-Logos will be “all-in-all” on the cosmic physical plane.

457. Mọi đơn vị Sự sống trong hệ mặt trời đều phải được phối hợp với Mục đích của Thái dương Thượng đế. Khi ấy, sẽ không còn những đơn vị độc lập, tự thân, mặc dù ý chí tự do vẫn tồn tại. Hành động của mỗi đơn vị Tự-thức sẽ chỉ là một phương diện của biểu lộ có ý thức của Thái dương Thượng đế. Thượng đế–Thái dương Thượng đế sẽ là “mọi sự trong mọi sự” trên cõi hồng trần vũ trụ.

458. With such an occurrence, rotary motion on all planes and subplanes of the cosmic physical plane will be numerically coordinated and harmonized according to logoic Purpose. Friction will cease. The solar logoic mission will be accomplished and a new ‘area’ of cosmic expression will be assayed.

458. Khi sự kiện như vậy xảy ra, chuyển động tự quay trên mọi cõi và cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ sẽ được phối trí và hoà điều có tính số học theo Mục đích của Thượng đế. Ma sát sẽ chấm dứt. Sứ mệnh của Thái dương Thượng đế sẽ hoàn tất và một “khu vực” biểu lộ vũ trụ mới sẽ được khai mở.

459. The next higher plane cannot be attracted to the lower (and vice versa), while there is much unresolved dissonance on the lower. If we harmonize the level of our present the next higher level will be invoked.

459. Cõi cao hơn kế tiếp không thể bị hấp dẫn bởi cõi thấp hơn (và ngược lại), khi còn quá nhiều bất hoà chưa được giải quyết trên cõi thấp. Nếu chúng ta hoà điều cấp độ hiện tại của mình, cấp độ cao hơn kế tiếp sẽ được triệu ứng.

460. When there is no more to be done, life moves on (and ‘up’).

460. Khi không còn gì để làm nữa, sự sống sẽ tiếp tục (và “thăng” lên).

[277]

[277]

3. The Third Idea Involved Is That of the Two Types of Cycles

3. Ý Niệm Thứ Ba Liên Quan Là Về Hai Loại Chu Kỳ

461. We have just dealt with two laws, one of which is the subsidiary of the other.

461. Chúng ta vừa đề cập hai định luật, một trong đó là phụ luật của định luật kia.

a. The Law of Attraction and Repulsion

a. Định luật Hấp dẫn và Đẩy Lùi

b. The Law of Periodicity (the effect of the magnetisms and antipathies induced by the Law of Attraction and Repulsion)

b. Định luật Chu kỳ (hiệu quả của những từ điện và phản cảm được Định luật Hấp dẫn và Đẩy Lùi khơi dậy)

462. Now, we address two types of cycles.

462. Giờ đây, chúng ta đề cập hai loại chu kỳ.

1. Rotation on the axis:  This is to be seen whether we are dealing with a minute atom of substance, with a planet revolving on its axis, with the rotation of the causal body, or with the rotation of a solar system.

1. Sự quay quanh trục: Điều này có thể thấy dù chúng ta đang đề cập đến một nguyên tử vi ti của chất liệu, đến một hành tinh quay quanh trục của nó, đến sự quay của thể nguyên nhân, hay đến sự quay của một hệ mặt trời.

463. DK affirms the ubiquity of the process of rotation.

463. Chân sư DK xác nhận tính phổ biến của tiến trình tự quay.

464. It comes a no surprise to think of a planet revolving on its axis (rotating, really), but the rotating of the atom on its axis may be a new idea, and the “rotation of the causal body” on its axis a revolutionary concept.

464. Không có gì ngạc nhiên khi nghĩ về một hành tinh quay quanh trục (thực ra là tự quay), nhưng nguyên tử quay quanh trục của nó có thể là một ý niệm mới, và “sự quay của thể nguyên nhân” quanh trục là một khái niệm cách mạng.

465. The causal body may inherently contain an entire zodiac and planetary system which determines the astrology of the soul. When certain sections of the causal body appear before one’s ‘face’, the energies belonging to the appearing section must be faced.

465. Thể nguyên nhân có thể bẩm sinh chứa đựng toàn bộ hoàng đạo và hệ hành tinh quy định chiêm tinh của linh hồn. Khi những phần nhất định của thể nguyên nhân xuất hiện trước “mặt” của một người, các năng lượng thuộc về phần đang xuất hiện ấy phải được đối mặt.

466. The rotation of a solar system (as an entirety) has also not been suspected by modern astronomical science, but the rotation of the Sun itself, on its own axis, has been identified.

466. Sự quay của một hệ mặt trời (như một toàn thể) cũng không được khoa học thiên văn hiện đại nghi vấn đến, nhưng sự tự quay của Thái dương, trên trục của chính nó, đã được nhận diện.

a. In relation to the human being, this might be considered as the rotation of the various sheaths around the central consciousness during any one incarnation.

a. Liên hệ với con người, điều này có thể được xem là sự quay của các vỏ bọc khác nhau quanh tâm thức trung tâm trong suốt bất kỳ một lần lâm phàm nào.

467. We should attend closely to what is said. A kind of central position is given to a “central consciousness”.

467. Chúng ta nên chú tâm kỹ đến điều được nói. Một vị trí trung tâm nào đó được trao cho “tâm thức trung tâm”.

468. It is suggested that all the sheaths of man rotate around this central consciousness during the process of incarnation.

468. Gợi ý rằng tất cả các vỏ bọc của con người quay quanh tâm thức trung tâm này trong tiến trình lâm phàm.

469. This is conceivable in relation to all sheaths except the etheric body which seems to conform to the contours of the non-rotating physical body, and yet it may be the case.

469. Điều này có thể nghĩ được đối với mọi vỏ bọc trừ thể dĩ thái vốn dường như thích ứng với đường nét của thể xác vốn không tự quay, dẫu rằng vẫn có thể là như thế.

470. One can be sure that the periods of rotation of the sheaths is one of the secrets of initiation.

470. Có thể chắc chắn rằng những chu kỳ quay của các vỏ bọc là một trong các bí nhiệm của điểm đạo.

471. One can also reasonably infer that such rotation is keyed to planetary cycles.

471. Cũng có thể suy diễn hợp lý rằng sự quay như vậy được “gắn khoá” với các chu kỳ hành tinh.

472. Such rotation would account for spiral-cyclic encounters with similar conditions. There will be a general repetition of the kind of experience encountered as the sheath rotates or revolves, however, the quality of the sheath may have been elevated during the time period from the beginning of one cycle of rotation to the beginning of the next. The quality of response at similar points in the rotational cycle (one on a lower and one on a higher turn of the spiral) will thus be elevated or enhanced.

472. Sự quay như vậy sẽ giải thích các cuộc gặp gỡ xoáy-ốc chu kỳ với các điều kiện tương tự. Sẽ có một sự lặp lại tổng quát về loại kinh nghiệm gặp phải khi vỏ bọc quay hay chuyển xoay, tuy nhiên, phẩm chất của vỏ bọc có thể đã được nâng cao trong khoảng thời gian từ đầu một vòng quay đến đầu vòng tiếp theo. Phẩm chất của đáp ứng tại các điểm tương tự trong chu kỳ quay (một trên vòng xoáy thấp hơn và một trên vòng xoáy cao hơn) do đó sẽ được nâng lên hay tăng cường.

473. In other words, if we encounter circumstances with enhanced equipment, our response to those circumstances will be elevated above what it formerly was. We will have grown.

473. Nói cách khác, nếu chúng ta gặp các hoàn cảnh với “trang bị” được tăng cường, đáp ứng của chúng ta với những hoàn cảnh ấy sẽ cao hơn so với trước kia. Chúng ta đã trưởng thành.

474. From another perspective, if analogous urges emanate from a rotating sheath at ‘parallel’ points in the rotational cycle (and the quality of the rotating sheath has improved over what it was one cycle before) the expression of the vehicle will be enhanced regardless of what type of circumstances are encountered.

474. Nhìn từ một viễn tượng khác, nếu các xung lực tương tự phát xuất từ một vỏ bọc đang quay tại những điểm “song song” trong chu kỳ quay (và phẩm chất của vỏ bọc đang quay đã được cải thiện so với một chu kỳ trước), sự biểu lộ của vận cụ sẽ được tăng cường bất kể loại hoàn cảnh nào được gặp.

b. In relation to a Heavenly Man it might be considered as the rotation of a globe within a chain, or the period of one incarnation.

b. Liên hệ với một Đấng Thiên Nhân, điều này có thể được xem là sự quay của một bầu trong một dãy, hay giai kỳ của một lần lâm phàm.

475. This is an occult hint and a little thought about it reveals how deeply veiled is this matter of the structure of globes, chains and schemes.

475. Đây là một ám chỉ huyền môn và suy nghĩ đôi chút về nó cho thấy vấn đề cấu trúc của các bầu, dãy và hệ hành tinh được che kín sâu ra sao.

476. Is it being said that one rotation of a globe within a chain represents one incarnation of the Heavenly Man expressing through a particular scheme?

476. Có phải đang được nói rằng một vòng quay của một bầu trong một dãy biểu trưng cho một lần lâm phàm của Đấng Thiên Nhân biểu lộ qua một hệ hành tinh nào đó?

477. Or is the incarnating entity the Globe Lord or Chain Lord?

477. Hay thực thể lâm phàm là Vị Chúa Tể của Bầu hay Chúa Tể của Dãy?

478. Note that in relation to the incarnation, we are not speaking of the cyclic disappearance of that which is rotating. Obviously, more than the physical globe is rotating.

478. Lưu ý rằng liên hệ với lâm phàm, chúng ta không nói về sự biến mất theo chu kỳ của cái đang quay. Hiển nhiên, có nhiều hơn thể xác của bầu đang quay.

479. We might also ask, what sheath or sheaths within the globe are rotating? Not just its physical sheath, presumably, for that rotation occurs on a daily basis, and can hardly be canned “one incarnation”. A globe will, however, have a number of interior sheaths with differing periods of rotation. Some of the internal sheaths (for instance a causal sheath) may be very slow in their rotation when compared to the cycles familiar to man.

479. Chúng ta cũng có thể hỏi, vỏ bọc nào hay những vỏ bọc nào trong bầu đang quay? Không chỉ vỏ bọc thể xác của nó, hẳn vậy, vì sự quay ấy diễn ra hàng ngày, và khó có thể gọi là “một lần lâm phàm”. Tuy nhiên, một bầu sẽ có một số vỏ bọc bên trong với các chu kỳ quay khác nhau. Một số vỏ bọc nội tại (chẳng hạn một vỏ bọc nguyên nhân) có thể rất chậm trong sự quay khi so với các chu kỳ quen thuộc đối với con người.

480. Will every globe also have a monadic sheath which rotates? If so, one rotation per one incarnation may seem more reasonable.

480. Mỗi bầu cũng sẽ có một vỏ bọc chân thần quay chăng? Nếu vậy, một vòng quay ứng với một lần lâm phàm có thể có vẻ hợp lý hơn.

481. In any case, one rotation of a globe within a chain does represent the period of one incarnation for some type of planetary Heavenly Man (of which, we remember, there can be at least three).

481. Dù sao, một vòng quay của một bầu trong một dãy quả thật biểu thị giai kỳ của một lần lâm phàm nào đó cho một loại Đấng Thiên Nhân hành tinh (mà, chúng ta nhớ, có thể có ít nhất ba ).

482. We can hardly think of this rotation as related simply to the cycle of one day and night. Our Earth-globe for instance, does rotate once a day and night.

482. Chúng ta khó có thể nghĩ sự quay này chỉ liên hệ với chu kỳ một ngày một đêm. Chẳng hạn, bầu Địa cầu của chúng ta tự quay mỗi ngày và đêm.

483. Additionally, a structural question arises: can a planetary chain rotate? And if so, what is the nature of its rotation? It is easy to understand how a globe may rotate, but the rotation of a planetary chain or a planetary scheme are harder to conceive. This question bears upon the actual structure of a planetary chain and a planetary scheme.

483. Thêm nữa, nảy sinh một câu hỏi cấu trúc: một dãy hành tinh có thể quay không? Và nếu có, bản chất của sự quay ấy là gì? Dễ hiểu cách một bầu có thể quay, nhưng sự quay của một dãy hành tinh hay một hệ hành tinh thì khó hình dung hơn. Câu hỏi này dính đến cấu trúc thực sự của một dãy hành tinh và một hệ hành tinh.

484. It is clear that the diagrams we have depicting planetary globes, chains and schemes are not suggestive of the real structure of the planetary system.

484. Rõ ràng các sơ đồ mà chúng ta có về các bầu, dãy và hệ hành tinh không gợi đúng cấu trúc thực của hệ hành tinh.

c. In relation to a solar Logos it might be considered as one complete revolution of the Sun in space, with all that is included within the ring-pass-not.

c. Liên hệ với một Thái dương Thượng đế điều này có thể được xem là một vòng quay hoàn chỉnh của Thái dương trong không gian, với tất cả những gì được bao gồm trong vòng-giới-hạn.

485. The term revolution is used, but really, rotation is meant.

485. Thuật ngữ “chu chuyển” được dùng, nhưng thực ra “tự quay” mới là ý định.

486. We are not just talking about the rotation of the Sun as a sphere—a period of some twenty-seven days. We are talking of the rotation of the entire solar sphere, with a period of rotation close to 100,000 years.

486. Chúng ta không chỉ nói về sự tự quay của Thái dương như một cầu thể—chu kỳ cỡ hai mươi bảy ngày. Chúng ta đang nói về sự tự quay của toàn cầu thái dương, với chu kỳ quay gần 100.000 năm.

The exact figures of the cycle which covers the vast rotation must remain as yet esoteric, but it may be stated that it approximates one hundred thousand years, being, as might be supposed, controlled by the energy of the first aspect, and therefore of the first Ray. (TCF 1057)

Những con số chính xác của chu kỳ bao trùm vòng tự quay mênh mông ấy hiện vẫn còn là huyền bí, nhưng có thể nói rằng nó xấp xỉ một trăm nghìn năm,  vì, như có thể giả định, được chi phối bởi năng lượng của phương diện thứ nhất, và do đó của cung Thứ Nhất. ( TCF 1057)

2. Rotation around an orbit. 

2. Sự quay quanh một quỹ đạo.

487. DK seems to be deliberately blurring the distinction between terms. When orbital motion is considered, the term usually used is “revolution”

487. Chân sư DK dường như cố ý làm mờ sự phân biệt giữa các thuật ngữ. Khi xét chuyển động quỹ đạo, thuật ngữ thường được dùng là “chu chuyển”.

This is the revolution of a sphere of life,

Đây là chu chuyển của một cầu thể sự sống,

488. Here, in the very next sentence, He uses the preferred term.

488. Ngay trong câu kế tiếp, Ngài dùng thuật ngữ ưa thích ấy.

489. He similarly blurs the distinction between the terms “sign” and “constellation”.

489. Ngài tương tự làm mờ ranh giới giữa các thuật ngữ “dấu hiệu” và “chòm sao”.

not only on its axis, but along a spheroidal path or orbit around a central point.

không chỉ trên trục của nó, mà còn dọc theo một lộ trình hay quỹ đạo hình cầu quanh một điểm trung tâm.

490. Such a path, as we know, is nominally “spheroidal” but often, in fact, elliptical.

490. Như chúng ta biết, lộ trình như vậy danh nghĩa là “hình cầu” nhưng trên thực tế, thường là elip.

a. In connection with man this might be considered as the revolution of the wheel of life, or the passage of an entity through the three lower planes down into incarnation and back again.

a. Liên hệ với con người điều này có thể được xem là chu chuyển của bánh xe sự sống, hay cuộc hành trình của một thực thể xuyên qua ba cõi thấp đi xuống nhập thể rồi trở lên lại.

491. Pictorially, this type of revolution will probably not appear as does the revolution of the Earth around the Sun.

491. Xét theo hình tượng, kiểu chu chuyển này có lẽ sẽ không hiện ra như sự chu chuyển của Địa cầu quanh Thái dương.

492. Yet, often processes which we interpret as symbolic have a literal meaning. Accordingly, one wonders about a type of motion occurring within the causal body which is pictorially closer to the revolution of the Earth around the Sun than may be imagined. In a way, the three lower planes are contained within the causal body (for the permanent atoms generating these bodies are thus contained) and so the type of revolution of the wheel of life here described is pictorially conceivable.

492. Tuy vậy, thường thì các tiến trình mà chúng ta hiểu là biểu tượng lại có nghĩa đen. Theo đó, người ta tự hỏi về một kiểu chuyển động xảy ra trong thể nguyên nhân mà hình tượng gần gũi với sự chu chuyển của Địa cầu quanh Thái dương hơn phỏng đoán. Theo một nghĩa, ba cõi thấp được hàm chứa trong thể nguyên nhân (vì các nguyên tử trường tồn phát sinh các thể này được hàm chứa trong đó) và do vậy kiểu chu chuyển của bánh xe sự sống được mô tả ở đây là có thể hình tượng hoá.

493. When we speak of the “wheel of life” some sort of occult ‘wheel’ may, indeed, be involved. The mysteries, then, would be protected by the assumption that the teacher could not possibly be literal in His meaning.

493. Khi chúng ta nói về “bánh xe sự sống” có thể thật sự có một “bánh xe” huyền môn nào đó liên hệ. Các bí nhiệm, như thế, sẽ được bảo toàn bằng giả định rằng vị huấn sư khó có thể dùng nghĩa đen trong lời dạy của Ngài.

494. One can easily think of the latitudinal rotation of the causal body on its axis (rotation parallel to the lines of latitude), but what of a longitudinal rotation. The planes, we remember, rotate from East to West and the rays from North to South. For DK the planes rotate latitudinally, and the rays longitudinally (parallel to the lines of longitude).

494. Người ta có thể dễ nghĩ về sự quay theo vĩ độ của thể nguyên nhân quanh trục (sự quay song song với các đường vĩ tuyến), nhưng còn sự quay theo kinh độ thì sao. Chúng ta nhớ các cõi quay từ Đông sang Tây và các cung từ Bắc xuống Nam. Đối với Chân sư DK các cõi quay theo vĩ độ, và các cung theo kinh độ (song song với các đường kinh tuyến).

495. In relation to the causal body we can conceive of an orbit for the movement from East to West and an orbit for the movement from North to South.

495. Liên hệ với thể nguyên nhân, chúng ta có thể hình dung một quỹ đạo cho chuyển động từ Đông sang Tây và một quỹ đạo cho chuyển động từ Bắc xuống Nam.

496. The North/South rotation may pictorially describe the process of incarnation and release from incarnation.

496. Sự quay Bắc/Nam có thể mô tả bằng hình tượng tiến trình lâm phàm và giải thoát khỏi lâm phàm.

497. These movements may occultly describe the inner workings of the “Wheel of Life”.

497. Những chuyển động này có thể mô tả một cách huyền bí sự vận hành nội tại của “Bánh xe Sự sống”.

b. In connection with a Heavenly Man it might be considered as the cycle which we call a round in which the life of the Heavenly Man cycles through all the seven globes.

b. Liên hệ với một Đấng Thiên Nhân điều này có thể được xem là chu kỳ mà chúng ta gọi là một “cuộc tuần hoàn” trong đó Sự sống của Đấng Thiên Nhân tuần hoàn qua tất cả bảy bầu.

498. This is one type of round—a chain-round. There seems also to be a scheme-round of much longer duration in which a Heavenly Man cycles through all seven chains—or through more, considering that there may be ten.

498. Đây là một loại “cuộc tuần hoàn”—một cuộc tuần hoàn thuộc dãy. Có vẻ cũng có một cuộc tuần hoàn thuộc hệ hành tinh có thời lượng dài hơn nhiều trong đó một Đấng Thiên Nhân tuần hoàn qua tất cả bảy dãy— hoặc qua nhiều hơn, xét rằng có thể có mười.

499. There is probably an analogy between one incarnational turning of the wheel of life for a man, and the period of one round. Is a round equivalent to one type of incarnation of a Heavenly Man? A few sentences earlier we learned that the rotation of a globe in a chain was equivalent to “one incarnation”. Much will depend upon the type of Heavenly Man we are discussing.

499. Có lẽ có một tương tự giữa một vòng chuyển của bánh xe sự sống trong một lần lâm phàm của con người, và giai kỳ của một “cuộc tuần hoàn”. Một “cuộc tuần hoàn” có tương đương với một loại lâm phàm của một Đấng Thiên Nhân không? Vài câu trước đó chúng ta học rằng sự quay của một bầu trong một dãy tương đương với “một lần lâm phàm”. Nhiều điều sẽ tuỳ thuộc loại Đấng Thiên Nhân mà chúng ta đang bàn.

500. All lesser incarnations of the lesser types of Heavenly Men within a Planetary Logos are really incarnations of that Planetary Logos—this we hypothesized. But the rotation of all sheaths pertaining to a globe may be one incarnation of that type of Heavenly Man which is a Globe Lord, and the completion of a round may be one incarnation of that type of Heavenly Man which is a Chain Lord.

500. Mọi lần lâm phàm nhỏ hơn của những loại Đấng Thiên Nhân nhỏ hơn trong một Hành Tinh Thượng đế thực ra là những lần lâm phàm của chính Hành Tinh Thượng đế đó—chúng ta đã giả thuyết như vậy. Nhưng sự quay của tất cả các vỏ bọc thuộc về một bầu có thể là một lần lâm phàm của loại Đấng Thiên Nhân là Chúa Tể của Bầu, và sự hoàn tất một cuộc tuần hoàn có thể là một lần lâm phàm của loại Đấng Thiên Nhân là Chúa Tể của Dãy.

501. If there are seven rounds per chain and seven or ten chains, then the number of these types of ‘incarnations’ for a Heavenly Man would be either forty-nine or seventy.

501. Nếu có bảy cuộc tuần hoàn trên mỗi dãy và bảy hay mười dãy, thì số những loại “lâm phàm” này cho một Đấng Thiên Nhân sẽ là hoặc bốn mươi chín hoặc bảy mươi.

502. These numbers, themselves, may have to be multiplied by seven or ten when considering greater planetary cycles—i.e., scheme-rounds.

502. Bản thân những con số này có thể phải nhân bảy hay mười khi xét các chu kỳ hành tinh lớn hơn—tức là các cuộc tuần hoàn thuộc hệ hành tinh.

c. In connection with the solar Logos it is the complete revolution of the solar system around its cosmic centre.

c. Liên hệ với Thái dương Thượng đế đó là một chu chuyển hoàn chỉnh của hệ mặt trời quanh trung tâm vũ trụ của mình.

503. This type of cycle has a duration, we are told, of approximately 250,000 years. The cosmic centre is the star Alcyone in the Pleiades.

503. Loại chu kỳ này có thời lượng, như chúng ta được cho biết, khoảng 250.000 năm. Trung tâm vũ trụ là sao Alcyone trong chòm Pleiades.

Ponder on this and remember also that our Sun is travelling through space (carrying our solar system along in its sphere of influence) around our own central and conditioning star which it has been rightly presumed exists in the constellation Taurus, the Bull, being found in the Pleiades. (EA 111)

Hãy suy gẫm điều này và cũng nhớ rằng Thái dương của chúng ta đang du hành trong không gian (mang hệ mặt trời của chúng ta theo trong quả cầu ảnh hưởng của nó) quanh ngôi sao trung tâm và quyết định của riêng hệ mặt trời chúng ta, mà người ta đã phỏng đoán đúng là hiện hữu trong chòm Taurus, Kim Ngưu, được tìm thấy trong Pleiades. (EA 111)

504. Some modern astronomers think this type of cycle is not possible given the mass of the Sun and the distance of the Sun from the Pleiades.

504. Một số nhà thiên văn hiện đại cho rằng loại chu kỳ này không thể có, xét khối lượng của Thái dương và khoảng cách của Thái dương đến Pleiades.

505. The question naturally arises (if the analogies presented are really tight) whether one cycle of our solar system around the Pleiades represents some type of ‘incarnation’ for our Solar Logos. Such a revolution certainly must represent a developmental phase for our Solar Logos.

505. Câu hỏi tự nhiên nảy sinh (nếu các tương tự được trình bày thật chặt chẽ) là liệu một chu kỳ hệ mặt trời của chúng ta quanh Pleiades có biểu thị một loại “lâm phàm” nào đó cho Thái dương Thượng đế của chúng ta không. Chu chuyển như vậy chắc chắn phải biểu thị một giai đoạn phát triển cho Thái dương Thượng đế của chúng ta.

It is to be noted at this point that the ideas dealt with in connection with cyclic evolution cannot be posited apart from the concept of consciousness.

Cần lưu ý tại điểm này rằng những ý niệm được đề cập liên quan đến tiến hoá chu kỳ không thể được khẳng định tách rời khỏi khái niệm về tâm thức.

506. The concept of “cyclic evolution” and the “concept of consciousness” are inseparable.

506. Khái niệm “tiến hoá chu kỳ” và “khái niệm về tâm thức” là bất khả phân.

507. During cyclic evolution, the evolution of consciousness is the most important result (though, naturally, there will also be evolution of the form as an instrument of consciousness).

507. Trong tiến hóa theo chu kỳ, sự tiến hóa của tâm thức là kết quả quan trọng nhất (dù dĩ nhiên cũng có tiến hóa của hình tướng như là vận cụ của tâm thức).

508. Spiral-cyclic motion is the method by which consciousness evolves.

508. Vận động xoáy ốc–chu kỳ là phương pháp nhờ đó tâm thức tiến hóa.

The ideas of [278] time, of space, and of activity (from the point of view of the occultist), can only be conceived as relative to some conscious entity, to some Thinker.

Những ý niệm về [278] thời gian, không gian và hoạt động (theo quan điểm của nhà huyền bí học) chỉ có thể được quan niệm như là tương đối đối với một thực thể có ý thức nào đó, một Vị Tư tưởng nào đó.

509. Time, space and motion are an archetypal trinity.

509. Thời gian, không gian và chuyển động là một Bộ Ba nguyên mẫu.

510. VSK suggests: “So, without a Thinker to conceive it, cyclic evolution ‘does not exist’.”

510. VSK đề nghị: “Vì vậy, không có một Vị Tư tưởng để tri nhận nó, thì tiến hóa chu kỳ ‘không tồn tại’.”

511. Time, space and motion are categories of perception. The entire Universe is a perceptual process. The Universe arises through a mysterious ‘Act of Self-Perception’.

511. Thời gian, không gian và chuyển động là các phạm loại của tri nhận. Toàn thể Vũ trụ là một tiến trình tri nhận. Vũ trụ khởi sinh qua một ‘Hành vi Tự-nhận biết’ huyền nhiệm.

512. From this perspective, time, space and activity are categories of consciousness.

512. Từ phối cảnh này, thời gian, không gian và hoạt động là các phạm loại của tâm thức.

Time to the occultist is that cycle, greater or lesser, in which some life runs some specific course, in which some particular period begins, continues, and ends, in connection with the awareness of some Entity, and is recognised only as time when the participating life has reached a considerable stage of awareness.

Đối với nhà huyền bí học, thời gian là chu kỳ, lớn hay nhỏ, trong đó một sự sống nào đó chạy qua một lộ trình xác định nào đó, trong đó một thời đoạn riêng biệt nào đó khởi đầu, tiếp diễn và kết thúc, trong liên hệ với tỉnh thức của một Thực Thể nào đó,  và chỉ được nhận ra như là thời gian khi sự sống tham dự đã đạt đến một giai đoạn tỉnh thức đáng kể.

513. Time is defined primarily as a cycle.

513. Trước hết, thời gian được định nghĩa như một chu kỳ.

514. The “greater” or “lesser” can be determined only in comparison with other such cycles.

514. “Lớn” hay “nhỏ” chỉ có thể được xác định khi so sánh với các chu kỳ tương tự khác.

515. The factor of awareness is inseparable from cycles of time. A cycle of time is marked, therefore, by the beginning and end of the awareness of some Entity.

515. Yếu tố tỉnh thức bất khả phân ly với các chu kỳ thời gian. Do đó, một chu kỳ thời gian được đánh dấu bởi khởi đầu và chấm dứt của tỉnh thức nơi một Thực Thể nào đó.

516. Undeveloped entities are not immediately aware of the time cycles in which they are participating and of which they are already aware in the higher aspects of their nature.

516. Những thực thể chưa phát triển thì không tức thời hay biết các chu kỳ thời gian mà chúng đang tham dự, và về điều đó chúng vốn đã hay biết trong các phương diện cao của bản tính mình.

517. All this is another way of saying that unless a cycle of time is perceived by some Entity, it does not exist. If there is no consciousness of time, there is no time.

517. Tất cả điều này là một cách nói khác rằng trừ phi một chu kỳ thời gian được một Thực Thể nào đó tri nhận, nó không hiện hữu. Nếu không có tâm thức về thời gian, sẽ không có thời gian.

518. A unit of time, then, is the relative duration of a ‘span of awareness’.

518. Vậy thì, một đơn vị thời gian là độ dài tương đối của một ‘khoảng tri nhận’.

519. Time, in the largest sense is, therefore, a non-continuous act of Self-Perception. If Self-perception is continuous, one has only endless duration or timelessness.

519. Theo nghĩa rộng nhất, thời gian là một hành vi Tự-nhận biết gián đoạn. Nếu Tự-nhận biết liên tục, người ta chỉ còn vô tận trường cửu hay vô thời gian.

520. Thus, there is no strictly objective time. Time is essentially the result of a subjective process and is a subjective measurement.

520. Như thế, không có thời gian theo nghĩa khách quan nghiêm ngặt. Thời gian về bản chất là kết quả của một tiến trình chủ quan và là một phép đo chủ quan.

Footnote 15: The Secret Doctrine says:

Chú thích 15: Giáo Lý Bí Nhiệm nói:

1. The Universe is in reality but a huge aggregation of states of consciousness. —S.  D., II, 633.  I, 70, 626,

1. Vũ trụ trên thực tế chỉ là một tập đại thành khổng lồ của các trạng thái tâm thức. —S. D., II, 633. I, 70, 626,

521. There are many states of consciousness within the One Consciousness.

521. Có nhiều trạng thái tâm thức trong Một Tâm thức.

522. The Universe is not an objective something; it is a subjective something.

522. Vũ trụ không phải là một cái gì khách quan; nó là một cái gì chủ quan.

523. The Universe is a Self-perception.

523. Vũ trụ là một Tự-nhận biết.

524. The Universal Self becomes the Universe through Self-perception.

524. Tự ngã Vũ trụ trở thành Vũ trụ qua Tự-nhận biết.

2. Spirit and consciousness are synonymous terms. —S.  D., I, 43, 125, 349, 350, 592, 593.

2. Thần linh và tâm thức là các thuật ngữ đồng nghĩa. —S. D., I, 43, 125, 349, 350, 592, 593.

525. This may be so from one perspective. From another perspective, consciousness may be understood as a limitation upon Spirit (considered as Pure Being).

525. Điều này có thể đúng từ một phối cảnh. Từ phối cảnh khác, tâm thức có thể được hiểu như một sự giới hạn áp lên Thần linh (được xét như Thuần Hữu).

526. At the highest level of cosmos, it may be presumed that the Perceiver, the Perceived and the Perceiving are so interwoven as to be indistinguishable.

526. Ở tầng cao nhất của vũ trụ, có thể suy đoán rằng Kẻ Tri Nhận, Cái Được Tri Nhận và Hành Vi Tri Nhận đan quyện đến mức bất khả phân.

3. Every atom in the universe is endowed with consciousness. —S.  D., I, 105.  II, 709, 742.

3. Mọi nguyên tử trong vũ trụ đều được phú tâm thức. —S. D., I, 105. II, 709, 742.

527. This is by now a familiar idea. The consciousness with which the atom is endowed is not self-consciousness but a kind of sensitive responsiveness to other such units.

527. Đến nay đây là một ý niệm quen thuộc. Tâm thức mà nguyên tử được phú không phải là tự-ý thức, mà là một kiểu đáp ứng cảm ứng tinh tế với các đơn vị tương tự khác.

4. Six types of Consciousness as embodied in the Kingdom of Nature on the five planes of Human Evolution. —S.  D., I, 123.  II, 678.

4. Sáu loại Tâm thức được thể hiện trên năm cõi của Tiến Hóa Nhân Loại. —S. D., I, 123. II, 678.

528. It is interesting that although there are seven principles, there are six types of consciousness. Actually, however, a final type of consciousness is added following the six, just as a final, synthetic School of Indian Philosophy is added after the description of the usual six Schools.

528. Thật thú vị là tuy có bảy nguyên khí, lại có sáu loại tâm thức. Tuy nhiên, một loại tâm thức sau cùng được thêm vào theo sau sáu loại ấy, giống như một Trường Phái Ấn Độ triết học tổng hợp sau cùng được thêm vào sau khi mô tả sáu Trường Phái thường thức.

a. The Mineral Kingdom 1.

a. Giới Khoáng vật 1.

Intelligent activity.  All atoms show ability to select, to discriminate intelligently under the Law of Attraction and Repulsion. —S. D., I, 295.

Hoạt động thông tuệ. Mọi nguyên tử đều cho thấy khả năng chọn lựa, phân biện một cách thông tuệ dưới Định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi. —S. D., I, 295.

529. The Law of Attraction and Repulsion is, in this case, a subset of the Law of Economy.

529. Ở đây Định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi là một tập hợp con của Định luật Tiết Kiệm.

530. Each of the cosmic laws is contained within the other two as a subsidiary expression.

530. Mỗi định luật vũ trụ đều hàm chứa trong hai định luật kia như là một biểu lộ phụ thuộc.

b. Vegetable Kingdom 2.

b. Giới Thực vật 2.

Intelligent activity plus embryo sensation or feeling.

Hoạt động thông tuệ cộng mầm mống cảm thọ hay cảm xúc.

531. The degree of responsiveness is greatly increased over the type of response evident in the mineral kingdom. The influence of the Law of Attraction and Repulsion is far more accentuated.

531. Mức độ đáp ứng tăng lên rất nhiều so với kiểu đáp ứng hiển hiện trong giới khoáng vật. Ảnh hưởng của Định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi nổi bật hơn nhiều.

532. The vegetable kingdom is developing a nascent sense of touch under the Law of Attraction and Repulsion.

532. Giới thực vật đang phát triển một cảm giác xúc chạm sơ sinh dưới Định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi.

533. If this is the case, is the mineral kingdom developing a kind of ‘hearing’, though the sense of touch (in this solar system) is the most prominent sense and virtually equivalent to consciousness.

533. Nếu vậy, liệu giới khoáng vật có đang phát triển một loại ‘thính giác’ chăng, tuy rằng cảm giác xúc chạm (trong hệ mặt trời này) là cảm giác nổi trội nhất và hầu như tương đương với tâm thức.

c. Animal Kingdom 3.

c. Giới Động vật 3.

Intelligent activity, sensation plus instinct, or embryo mentality. —S. D., III, 573, 574.

Hoạt động thông tuệ, cảm thọ cộng bản năng, hay trí tuệ sơ sinh. —S. D., III, 573, 574.

534. Manas (a third factor) enters in relation to the third kingdom, the animal.

534. Manas (yếu tố thứ ba) tham dự liên hệ với giới thứ ba, tức giới động vật.

535. Neither minerals or plants have eyes, per se, but animals do.

535. Khoáng vật hay thực vật đều không có mắt, tự thân, nhưng động vật thì có.

536. The emergence or the eye and the emergence of instinct as nascent intelligence are coeval.

536. Sự xuất hiện của con mắt và sự xuất hiện của bản năng như trí tuệ sơ sinh là đồng thời.

These three embody the sub-human consciousness.

Ba giới này thể hiện tâm thức tiền nhân loại.

537. The human being is possessed of mineral, vegetative and animal life. He is the macrocosm to these three microcosms. The three lower kingdoms exist within man.

537. Con người sở hữu sự sống khoáng, thảo và thú; con người là đại thiên địa đối với ba tiểu thiên địa này. Ba giới thấp tồn tại trong con người.

d. Human consciousness 4.

d. Tâm thức Nhân loại 4.

Intelligent activity, love or perfected feeling or realisation and will, or intelligent purpose.  The three aspects.  S. D., I, 215, 231. —S. D., II, 552.  III, 579.

Hoạt động thông tuệ, tình thương hay cảm thọ đã được hoàn thiện hay chứng ngộ, và ý chí, hay mục đích thông tuệ. Ba phương diện. S. D., I, 215, 231. —S. D., II, 552. III, 579.

538. Interesting definitions are here given:

538. Ở đây có những định nghĩa thú vị:

a. Love is perfected feeling. Thus the astral and buddhic faculties are linked.

a. Tình thương là cảm thọ được hoàn thiện. Như thế các năng năng cảm dục và Bồ đề được nối kết.

b. Love also appears to be ‘perfected realization’ which we might call “pure reason”. Love is a blend of the apotheosis of touch and sight.

b. Tình thương cũng dường như là ‘chứng ngộ hoàn thiện’ mà chúng ta có thể gọi là “lý trí thuần khiết”. Tình thương là sự pha trộn giữa tột đỉnh của xúc giác và thị giác.

c. Will is “intelligent purpose”; this equivalence pertains to the atmic plane which is both a plane of will (the first of the five Brahmic planes) and a plane of intelligence (the third of the cosmic-physical subplanes).

c. Ý chí là “mục đích thông tuệ”; sự tương đương này thuộc về cõi atma vốn vừa là cõi của ý chí (cõi thứ nhất trong năm cõi Brahma) vừa là cõi của trí năng (cõi thứ ba trong các cõi phụ của cõi-cảm-vật vũ trụ).

This is Self-Consciousness—the middle point. —S. D., I, 297.

Đây là Tự-ý thức—điểm ở giữa. —S. D., I, 297.

539. The ‘middle law’, the Law of Karma, must be closely associated with man. It cannot apply to those entities possessing only “sub-human consciousness” and, thus, devoid of individual responsibility.

539. ‘Định luật ở giữa’, tức Định luật Nghiệp quả, hẳn gắn bó mật thiết với con người. Nó không thể áp dụng cho những thực thể chỉ sở hữu “tâm thức tiền nhân loại” và, do đó, không có trách nhiệm cá nhân.

540. Self-consciousness is positioned midway between sub-consciousness and group consciousness (the highest expression of which is universal consciousness or God-consciousness).

540. Tự-ý thức được đặt ở trung điểm giữa tiềm thức và tâm thức nhóm (trong đó mức cao nhất là tâm thức phổ quát hay tâm thức Thượng đế).

e. Spiritual Consciousness 5.

e. Tâm thức Tinh thần 5.

Buddhic realisation.  The unit is aware of his group.  The separated unit identifies himself with his ray or type. —S. D., III, 572.  I, 183, 623.

Chứng ngộ Bồ đề. Đơn vị hay biết nhóm của mình. Đơn vị biệt lập đồng nhất hóa mình với cung hay loại của mình. —S. D., III, 572. I, 183, 623.

541. The term “spiritual” again refers to that which transpires within the spiritual triad.

541. Thuật ngữ “tinh thần” lần nữa chỉ điều diễn ra trong Tam Nguyên Tinh Thần.

542. Spiritual consciousness is group consciousness.

542. Tâm thức tinh thần là tâm thức nhóm.

543. We see that consciousness of one’s ray is inseparable from group consciousness. Is buddhi required truly to identify one’s ray? Certainly, mentality alone cannot do it.

543. Chúng ta thấy rằng tâm thức về cung của mình bất khả phân ly với tâm thức nhóm. Liệu Bồ đề có là điều kiện để thực sự nhận ra cung của mình? Chắc chắn, chỉ trí năng thôi thì không thể làm được.

544. The term “realisation” is used. Elsewhere, the term “realisation” is associated with the atmic plane, and it has just been associated with love.

544. Thuật ngữ “chứng ngộ” được dùng. Ở nơi khác, “chứng ngộ” được liên hệ với cõi atma, và vừa được liên hệ với tình thương.

f. Atmic Consciousness 6.

f. Tâm thức Atma 6.

The consciousness of the unit of the Septenary solar system. —S. D., II, 673.  II, 741.

Tâm thức của đơn vị thuộc hệ mặt trời thất phân. —S. D., II, 673. II, 741.

545. This seems a great extension over the manner in which atmic consciousness have been previously described.

545. Điều này dường như là một mở rộng lớn so với cách tâm thức atma đã được mô tả trước đây.

546. To what degree is the septenary solar system realized by the atmically conscious unit? It would seem that the solar system in its Brahmic aspect could be conceived, since the atmic plane is the first of the Brahmic planes.

546. Đơn vị có tâm thức atma chứng biết hệ mặt trời thất phân đến mức độ nào? Có vẻ như hệ mặt trời trong phương diện Brahma của nó có thể được quan niệm, bởi cõi atma là cõi thứ nhất trong các cõi Brahma.

547. We remember the relationship between the Heavenly Men (the Divine Manasaputras) and the third or Brahmic aspect of divinity.

547. Chúng ta nhớ mối liên hệ giữa các Đấng Thiên Nhân (các Manasaputra thiêng liêng) và phương diện thứ ba hay Brahma của Thiêng tính.

These two embody super-consciousness.

Hai loại này thể hiện siêu-ý thức.

548. Atmic and buddhic consciousness are “super-consciousness”. We understand that such consciousness partakes of the consciousness of the Planetary Logos.

548. Tâm thức atma và tâm thức Bồ đề là “siêu-ý thức”. Chúng ta hiểu rằng các tâm thức ấy dự phần vào tâm thức của Hành Tinh Thượng đế.

The seventh type embraces them all and is God Consciousness. —S. D., II, 740 note.

Loại thứ bảy bao trùm tất cả và là Tâm thức Thượng đế. —S. D., II, 740 ghi chú.

549. This is consciousness as apprehended on the seventh or logoic level. Probably monadic consciousness should be included in “God Consciousness”.

549. Đây là tâm thức như được lĩnh hội trên tầng thứ bảy hay logoic. Có lẽ tâm thức chân thần nên được bao gồm trong “Tâm thức Thượng đế”.

550. The seventh type of consciousness may be conceived as a correspondence to Atma-Vidya, or the seventh and synthetic school of Indian Philosophy.

550. Loại tâm thức thứ bảy có thể được quan niệm như một tương ứng với Atma-Vidya, tức trường phái thứ bảy và tổng hợp của Triết học Ấn Độ.

Study also S. D., I, 300, 301, 183, 221, 623.  S. D., II, 32 note, 741, 552 note. —S. D., III, 573, 574, 558, 557, 584.

Hãy khảo cứu thêm S. D., I, 300, 301, 183, 221, 623. S. D., II, 32 ghi chú, 741, 552 ghi chú. —S. D., III, 573, 574, 558, 557, 584.

551. We return now to the definitions of time.

551. Giờ đây chúng ta trở lại với các định nghĩa về thời gian.

Time has been defined as a succession of states of consciousness,

Thời gian đã được định nghĩa như là một chuỗi nối tiếp các trạng thái tâm thức,

552. This is the definition of time which the Secret Doctrine has most emphasized.

552. Đây là định nghĩa về thời gian mà Giáo Lý Bí Nhiệm nhấn mạnh nhất.

553. Presumably if there were not succession of states of consciousness, there would be no time. All states are really states of consciousness. If there are no changes of states of consciousness, a state of timelessness supervenes.

553. Suy ra rằng nếu không có sự tiếp nối của các trạng thái tâm thức, sẽ không có thời gian. Mọi trạng thái thật ra đều là trạng thái tâm thức. Nếu không có những biến đổi trạng thái tâm thức, trạng thái vô thời gian sẽ trùm lên.

554. Continuous identical perception is timelessness.

554. Tri nhận đồng nhất liên tục là vô thời gian.

555. One thing succeeds another through a change in the object of perception.

555. Cái này kế tiếp cái khác do sự biến đổi nơi đối tượng tri nhận.

556. Those who appreciate eternity are perceiving that which does not change, even though they are simultaneously aware of the illusion of that which changes. To master this dual form of perception is to master the art of living.

556. Những ai cảm thấu vĩnh cửu là đang tri nhận cái bất biến, dù đồng thời y cũng hay biết ảo tưởng về cái biến dịch. Làm chủ dạng tri nhận lưỡng hợp này là làm chủ nghệ thuật sống.

557. Time is based upon limitation of perception. The expression of Uranian perception instead of Saturnian perception would overcome this limitation. Uranus is the planet of simultaneity.

557. Thời gian dựa trên sự hạn chế của tri nhận. Sự biểu lộ của kiểu tri nhận thuộc Thiên Vương tinh thay vì kiểu tri nhận thuộc Thổ tinh sẽ vượt thắng hạn chế ấy. Thiên Vương là hành tinh của tính đồng thời.

558. What is to be pondered is how to overcome the sense of succession or of the occurrence of one thing after another. The All-Seeing Eye (the ‘Eye of Simultaneity’) can do this.

558. Điều cần suy gẫm là làm sao vượt thắng cảm thức về sự tiếp nối hay sự diễn ra của cái này sau cái kia. Con Mắt Thấy Hết (cái ‘Mắt của Tính Đồng Thời’) có thể làm được điều này.

559. Succession is overcome by Omnipresence. Time, Saturn (Father Time) and Omnipresence are all related to the third aspect of divinity.

559. Sự tiếp nối được vượt thắng bởi Tính Hiện diện Khắp nơi. Thời gian, Thần Saturn (Cha Thời Gian) và Tính Hiện diện Khắp nơi đều liên hệ với phương diện thứ ba của Thiêng tính.

560. Our sense of the Eternal Now will grow as we overcome the sense of distinct areas of space. If one can be (as it were) omnipresent and see all things simultaneously, one’s sense of time will profoundly alter.

560. Cảm thức của chúng ta về Hiện Tại Vĩnh Cửu sẽ tăng trưởng khi chúng ta vượt thắng cảm thức về những vùng không gian tách biệt. Nếu người ta có thể (nói vậy) hiện diện khắp nơi và thấy mọi sự đồng thời, cảm thức về thời gian của người ấy sẽ thay đổi sâu sắc.

561. We can practice such perception through the use of the creative imagination.

561. Chúng ta có thể thực hành kiểu tri nhận như thế bằng sự tưởng tượng sáng tạo.

15 and it therefore may be studied from the point of view of

15 và vì vậy có thể được khảo cứu từ quan điểm của

562. We are being given the manner in which time may be studied.

562. Chúng ta đang được chỉ cho phương cách có thể khảo cứu thời gian.

[279]

[279]

a. Logoic consciousness, or the successive states of divine realisation within the solar sphere.

a. Tâm thức logoic, hay các trạng thái chứng ngộ thiêng liêng nối tiếp nhau trong phạm vi Thái dương hệ.

563. We are considering time in relation to a Solar Logos.

563. Chúng ta đang xét thời gian liên hệ với một Thái dương Thượng đế.

564. We presume that these successive states of realisation are ordered.

564. Chúng ta giả định rằng các trạng thái chứng ngộ nối tiếp này là được sắp trật tự.

565. How does the Solar Logos perceive time? Since the changes perceived are longer than the changes perceived by lesser entities, relatively great ‘spans of consciousness (great, to a lesser being) may be perceived as but an hour, a day, a month, etc. Hence the time categories—an hour, day, week, month, year or century of Brahma.

565. Thái dương Thượng đế tri nhận thời gian như thế nào? Vì những biến đổi được tri nhận dài hơn những biến đổi được các thực thể nhỏ hơn tri nhận, những ‘khoảng tri nhận’ tương đối lớn (lớn đối với một sự sống nhỏ hơn) có thể được tri nhận chỉ như một giờ, một ngày, một tháng, v.v. Do đó có các hạng mục thời gian—một giờ, ngày, tuần, tháng, năm hay thế kỷ của Brahma.

566. Successive states are really successively perceived states. Perhaps in the solar logoic consciousness, the sense of succession has given way to the sense of simultaneity. Yet even a Solar Logos has a time/space schedule.

566. Các trạng thái nối tiếp thật ra là các trạng thái được tri nhận nối tiếp nhau. Có lẽ trong tâm thức thái dương logoic, cảm thức về sự tiếp nối đã nhường chỗ cho cảm thức về tính đồng thời. Tuy vậy ngay cả một Thái dương Thượng đế cũng có lịch trình thời gian/không gian.

567. A solar system exists in time so long as a Solar Logos meditates upon the essential idea or pattern which the solar system embodies.

567. Một hệ mặt trời tồn tại trong thời gian chừng nào Thái dương Thượng đế còn tham thiền về ý niệm hay mô hình cốt yếu mà hệ mặt trời hiện thân.

b. Planetary consciousness, or the consciousness of a Heavenly Man as He cycles successively through the scheme.

b. Tâm thức hành tinh, hay tâm thức của một Đấng Thiên Nhân khi Ngài tuần hoàn nối tiếp qua hệ hành tinh.

568. We are considering time in relation to a Planetary Logos.

568. Chúng ta đang xét thời gian liên hệ với một Hành Tinh Thượng đế.

569. The Heavenly Man who is the Planetary Logos cycles through globes, rounds and chains.

569. Đấng Thiên Nhân vốn là Hành Tinh Thượng đế tuần hoàn qua các bầu, các vòng và các dãy.

570. The manner of this cyclic succession is mysterious. Theosophists seem to have reduced the process to a very orderly and sequential pattern, but, from a study of DK, there seems to be much more to it and much more that occurs with simultaneity.

570. Cách thức tuần tự chu kỳ này là điều huyền nhiệm. Các nhà Thông Thiên Học dường như đã giản lược tiến trình thành một mô thức rất mực trật tự và tuần tự, nhưng từ khảo cứu các trước tác của Chân sư DK, dường như còn nhiều điều hơn thế và còn nhiều điều diễn ra với tính đồng thời.

571. The successive cycles are probably determined by the focus or attention of the Planetary Logos. Events may be going on everywhere, but the Planetary Logos’ main focus may be relatively sequential—in a manner not yet even partially revealed, though analogically related to chakric development with the human being.

571. Các chu kỳ nối tiếp có lẽ được quyết định bởi tiêu điểm hay sự chú tâm của Hành Tinh Thượng đế. Sự kiện có thể diễn ra khắp nơi, nhưng trọng tâm của Hành Tinh Thượng đế có thể tương đối mang tính tuần tự—theo một cách thức chưa hề được tiết lộ dù chỉ phần nào, nhưng có liên hệ tương đồng với phát triển luân xa nơi con người.

c. Causal consciousness, or the successive expanding of the intelligent awareness of a human being from life to life.

c. Tâm thức nhân quả, hay sự mở rộng nối tiếp của tỉnh thức thông tuệ nơi một con người từ đời này qua đời khác.

572. Time may be studied in relation to the man-as-Ego by considering causal consciousness.

572. Có thể khảo cứu thời gian liên hệ với người-như-Chân ngã bằng cách xét tâm thức nhân quả.

573. The life of the little personality is of short duration from the perspective the consciousness of the Ego on its own plane.

573. Đời sống của phàm ngã nhỏ bé là ngắn ngủi từ phối cảnh của tâm thức Chân ngã trên chính cõi của nó.

574. What are the successive states of consciousness registered by the soul on its own plane? Of what relative duration are these successive states?

574. Những trạng thái tâm thức nối tiếp nào được linh hồn đăng ký trên chính cõi của nó? Những trạng thái nối tiếp ấy có thời lượng tương đối thế nào?

575. One of the ‘spans of awareness’ for the Ego on its own plane will be a unit of expanded intelligent awareness. Expansions as a result of an incarnation lived will be registered.

575. Một ‘khoảng tri nhận’ của Chân ngã trên chính cõi của nó sẽ là một đơn vị của tỉnh thức thông tuệ mở rộng. Các mở rộng do kết quả của một kiếp sống sẽ được đăng ký.

576. The sense of time is inseparable from the factor of comparison.

576. Cảm thức về thời gian bất khả phân ly với yếu tố so sánh.

577. If a ‘span of awareness’ cannot be compared with another span, the sense of whether that span is long or short cannot be determined. Thus, much of an entity’s sense of time (the seeming length of time of any occurrence) depends upon which successive states of consciousness are registered by any type of entity.

577. Nếu một ‘khoảng tri nhận’ không thể so sánh với một khoảng khác, thì cảm thức về khoảng ấy dài hay ngắn không thể được xác định. Do đó, phần lớn cảm thức về thời gian của một thực thể (cái vẻ như dài hay ngắn của bất kỳ diễn tiến nào) tùy thuộc vào những trạng thái tâm thức nối tiếp nào được đăng ký bởi bất kỳ loại thực thể nào.

578. The question arises concerning whether great consciousnesses register minute states of consciousness. What do they notice? Do they notice tiny events? It would seem not. And yet it is said that “Not a sparrow falls…”

578. Câu hỏi nảy sinh là liệu các tâm thức vĩ đại có đăng ký các trạng thái tâm thức vi tiểu hay không. Các Ngài chú ý điều gì? Các Ngài có lưu ý những biến cố rất nhỏ không? Có vẻ là không. Ấy thế mà lại có lời rằng “Chẳng một con chim sẻ nào rơi…”

d. Human consciousness, or the awareness of a man on the physical plane, and progressively on the emotional and the mental planes.

d. Tâm thức của con người, hay tỉnh thức của một người trên cõi hồng trần, và tiếp tiến trên cõi cảm dục và cõi trí.

579. Time may be studied in relation to man the personality.

579. Có thể khảo cứu thời gian liên hệ với con người như phàm ngã.

580. We remind ourselves that time and the factor of awareness are inseparable. A unit of time is a span of awareness.

580. Chúng ta nhắc lại rằng thời gian và yếu tố tỉnh thức bất khả phân. Một đơn vị thời gian là một khoảng tri nhận.

581. We gather the impression that the sense of time on the physical plane is altered as awareness embraces more phenomena on the astral and mental planes.

581. Chúng ta nhận thấy ấn tượng rằng cảm thức về thời gian trên cõi hồng trần sẽ biến đổi khi tỉnh thức bao quát nhiều hiện tượng hơn trên các cõi cảm dục và trí.

582. We may infer that the ‘spans of awareness’ for greater entities are of relatively greater duration than the ‘spans of awareness’ for lesser entities.

582. Có thể suy rằng ‘các khoảng tri nhận’ nơi những thực thể lớn lao có thời lượng tương đối lớn hơn ‘các khoảng tri nhận’ nơi những thực thể nhỏ bé.

583. Questions arise as to the rapidity of successive states on the different planes. Are there more successive states to be registered on lower planes than on higher? This is not easy to answer, but one senses that the answer would be significant.

583. Nảy sinh câu hỏi về tốc độ của các trạng thái nối tiếp trên những cõi khác nhau. Ở các cõi thấp có nhiều trạng thái nối tiếp để đăng ký hơn so với các cõi cao chăng? Điều này không dễ trả lời, nhưng ta cảm được rằng câu trả lời sẽ hàm ý sâu xa.

e. Animal, vegetable and mineral consciousness which differs from the human consciousness in many particulars, and primarily in that it does not co-ordinate, or deduce and recognise separate identityIt resembles human consciousness in that it covers the response to successive contacts of the units involved during their small cycles.

e. Tâm thức động vật, thực vật và khoáng vật khác với tâm thức con người ở nhiều phương diện, và chủ yếu ở điểm là nó không phối hợp, không suy luận và không nhận ra bản ngã biệt lập. Nó tương tự tâm thức con người ở chỗ nó bao quát đáp ứng trước những tiếp xúc liên tiếp của các đơn vị liên hệ trong các tiểu chu kỳ của chúng.

584. One gathers that for the subconscious units involves, there is no sense of time. The sense of time pertains to those entities with self-conscious awareness.

584. Người ta nhận ra rằng đối với các đơn vị thuộc tiềm thức liên quan, không có cảm thức thời gian. Cảm thức thời gian thuộc về những thực thể có tự-ý thức.

585. Important differences are given between human consciousness in contrast with animal, vegetable and mineral consciousness.

585. Có các khác biệt quan trọng giữa tâm thức con người so với tâm thức động vật, thực vật và khoáng vật.

586. The consciousness of the subhuman kingdoms does not

586. Tâm thức của các giới tiền nhân loại không:

a. Co-ordinate

a. Phối hợp

b. Deduce

b. Suy luận

c. Recognize separate identity.

c. Nhận ra bản ngã biệt lập.

587. In this, subhuman consciousness differs from human consciousness.

587. Ở điểm này, tâm thức tiền nhân loại khác với tâm thức con người.

588. Both are similar in that they register successive contacts.

588. Cả hai tương tự ở chỗ chúng ghi nhận những tiếp xúc nối tiếp.

589. The sense of successiveness relates to the scope of the consciousness. Given a consciousness of sufficient scope, the illusion of successiveness is negated, though, paradoxically that which was formerly interpreted as successiveness is noticed.

589. Cảm thức về tính kế tiếp liên hệ với tầm vóc của tâm thức. Khi tầm vóc của tâm thức đủ rộng, ảo tưởng về tính kế tiếp bị hóa giải, tuy nghịch lý thay, cái từng được diễn giải là tính kế tiếp vẫn được để ý.

f. Atomic consciousness, demonstrating through successive states of repulsion and attraction.  In this last definition lies the key to the other states of consciousness.

f. Tâm thức nguyên tử, biểu lộ qua những trạng thái nối tiếp của đẩy lùi và hấp dẫn. Ở định nghĩa sau cùng này có chìa khóa của các trạng thái tâm thức khác.

590. We are being given the essential character of the consciousness of the atom.

590. Chúng ta đang được nêu ra đặc trưng cốt yếu của tâm thức nguyên tử.

591. The key to all states of consciousness is here given.

591. Ở đây có chìa khóa cho mọi trạng thái tâm thức.

592. Let us see if we can offer an interpretation.

592. Hãy xem chúng ta có thể đưa ra một diễn giải hay không.

593. Attention is attracted, and attention endures as long as attraction to the object of attention lasts. Changes of successive states of awareness are determined by attraction and repulsion. When a new attraction overcomes the prevailing attraction the state of consciousness changes. Consciousness engages or disengages with an object according to attraction or repulsion. Thus, changes of interest yield successive states of consciousness and, thus, changes of interest determine the sense of the passage of time.

593. Sự chú ý bị hấp dẫn, và sự chú ý kéo dài chừng nào hấp dẫn đối với đối tượng chú ý còn tồn tại. Những biến đổi của các trạng thái tỉnh thức nối tiếp được quyết định bởi hấp dẫn và đẩy lùi. Khi một hấp dẫn mới thắng thế hấp dẫn đang chi phối, trạng thái tâm thức thay đổi. Tâm thức gắn kết hay tháo gỡ khỏi một đối tượng theo hấp dẫn hay đẩy lùi. Như thế, những biến đổi của mối quan tâm tạo nên các trạng thái tâm thức nối tiếp và, do đó, những biến đổi của mối quan tâm quyết định cảm thức về sự trôi qua của thời gian.

594. Successive states of attraction or repulsion create successive ‘spans of awareness’, and successive ‘spans of awareness’ are time.

594. Các trạng thái nối tiếp của hấp dẫn hoặc đẩy lùi tạo nên những ‘khoảng tri nhận’ nối tiếp, và những ‘khoảng tri nhận’ nối tiếp chính là thời gian.

595. If there were one continuous and unchanging span of awareness, the state of timelessness would supervene.

595. Nếu có một khoảng tri nhận liên tục và bất biến, trạng thái vô thời gian sẽ trùm lên.

596. All this is an effort to define time as a perception.

596. Tất cả điều này là một nỗ lực định nghĩa thời gian như một tri nhận.

597. It may be that one can manipulate time, from the fourth plane (or fourth dimension). It is hard to think about playing with time when one is still limited to three-dimensional consciousness. But if we were focussed buddhically, it would make more sense.

597. Có thể người ta có thể thao diễn thời gian, từ cõi thứ tư (hay chiều thứ tư). Thật khó mà nghĩ đến chuyện chơi đùa với thời gian khi người ta vẫn còn bị hạn định trong tâm thức ba chiều. Nhưng nếu chúng ta an định nơi Bồ đề, điều ấy sẽ có ý nghĩa hơn.

An atom revolves upon its axis.

Một nguyên tử quay quanh trục của nó.

598. We have begun with the Logos and worked our way down to the atom.

598. Chúng ta đã khởi từ Thượng đế Logoic và lần xuống tới nguyên tử.

In its revolution it comes within the field of activity of other atoms.  These it either attracts and swings into its own field of operation, or it repulses and drives them outside its range of activity, causing separation.

Trong sự quay của nó, nó đi vào trong trường hoạt động của các nguyên tử khác. Nó hoặc hấp dẫn và kéo chúng vào trong trường hoạt động của chính nó, hoặc đẩy lùi và xua chúng ra ngoài tầm hoạt động của mình, gây nên sự phân ly.

599. We see that the atom of matter/substance is affected by the Law of Attraction and Repulsion even if the manner in which this law operates on the atomic level is as a subset of the Law of Economy.

599. Chúng ta thấy rằng nguyên tử của chất liệu/chất thể bị ảnh hưởng bởi Định luật Hấp dẫn và Đẩy lùi, dù cách thức định luật này vận hành ở tầng nguyên tử là một tập con của Định luật Tiết Kiệm.

600. At the atomic levels there is a constant process of aggregation based on attraction and a constant process of dispersion based on repulsion.

600. Ở các tầng nguyên tử có một tiến trình liên tục của kết tụ dựa trên hấp dẫn và một tiến trình liên tục của tán ly dựa trên đẩy lùi.

One thing to be borne in mind in the concept of mutual attraction is the preservation of identity in cohesion.

Một điều cần ghi nhớ trong khái niệm hấp dẫn hỗ tương là bảo toàn bản sắc trong kết dính.

601. Through attraction, there is a repeated pattern of association of those atoms which are drawn together and held together by their attraction for one another.

601. Nhờ hấp dẫn, có một mô thức lặp đi lặp lại về sự liên kết của những nguyên tử được lẫn nhau lôi cuốn và được giữ chặt cùng nhau bởi hấp dẫn lẫn nhau.

602. This cohesion and pattern-retention of mutually attracted atoms promotes the sense of continuity of identity.

602. Sự kết dính và giữ mô thức của các nguyên tử hấp dẫn lẫn nhau này thúc đẩy cảm thức về tính liên tục của bản sắc.

603. When we look in the mirror we see pretty much the same form and figure. We say, then, that we “recognize ourselves”. If, however, the atoms of our form and figure did not cohere, but were constantly being dispersed, the form and figure would be changing constantly and would not be recognizable as consistent. From one moment to the next, we would not recognize the changing form and figure as ourselves or as pertaining to ourselves.

603. Khi chúng ta nhìn vào gương, ta thấy hầu như cùng một hình dạng và vóc dáng. Ta nói rằng ta “tự nhận ra mình”. Nhưng nếu các nguyên tử của hình dạng và vóc dáng ta không kết dính, mà liên tục bị tán ly, thì hình dạng và vóc dáng sẽ đổi thay liên tục và không thể nhận ra như là nhất quán. Từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, ta sẽ không nhận ra hình dạng và vóc dáng đang đổi thay là chính mình hay thuộc về mình.

604. The sense of continuity of identity necessitates the existence of a stable form which is based upon the continuous cohesion and pattern-retention of mutually attracted atoms.

604. Cảm thức về tính liên tục của bản sắc đòi hỏi sự hiện hữu của một hình tướng ổn định, vốn dựa trên sự kết dính liên tục và giữ mô thức của những nguyên tử hấp dẫn lẫn nhau.

605. Because energy states and energy forms within our energy system demonstrate repetition, we are endowed with the sense of a distinct identity which is perceived as this and not that. If change of energy states and energy forms is ongoing and highly variable, we will not recognize a sense of continuous identity, because we will become identified with that which is constantly changing.

605. Bởi vì các trạng thái năng lượng và các hình thể năng lượng trong hệ năng lượng của chúng ta biểu lộ tính lặp lại, nên chúng ta được phú bẩm cảm thức về một bản ngã biệt định, được tri nhận như là cái này chứ không phải cái kia. Nếu sự biến đổi của các trạng thái năng lượng và các hình thể năng lượng diễn tiến liên miên và biến thiên mạnh, chúng ta sẽ không nhận ra cảm thức về bản sắc liên tục, bởi chúng ta sẽ đồng hóa với cái luôn biến đổi.

606. When, however, there is Self-identification as Pure Being, the sense of identity-as-Essence will be continuous, regardless of the even highly variable changes of energy states and energy forms within our energy system.

606. Tuy nhiên, khi có Tự -đồng nhất như Thuần Hữu, cảm thức về bản sắc-như-Bản Thể sẽ liên tục, bất chấp ngay cả những biến đổi rất mạnh của các trạng thái năng lượng và các hình thể năng lượng trong hệ năng lượng của chúng ta.

607. We are gathering that something about the rate of rotation of an atom determines whether it will be attracted to or repellant of other atoms. The whole process almost certainly has a numerical key.

607. Chúng ta đang nắm bắt rằng một điều gì đó nơi tốc độ quay của một nguyên tử quyết định liệu nó sẽ bị các nguyên tử khác hấp dẫn hay đẩy lùi. Toàn bộ tiến trình gần như chắc chắn có một chìa khóa số học.

608. We are understanding the relationship of repetition to the preservation of a cohesive identity—an identity which seems or appears the same from moment to moment. Underlying this illusion of sameness is the great Principle of Unrepeatability advanced by Master Morya.

608. Chúng ta đang hiểu mối liên hệ giữa lặp lại với bảo toàn một bản sắc kết dính— một bản sắc dường như hay có vẻ là đồng nhất từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác. Nằm dưới ảo tưởng về tính đồng nhất này là Đại Nguyên Lý Bất Khả Tái Lặp mà Chân sư Morya đã nêu.

609. We are also understanding that even though an atom coheres with other atoms to which it is attracted, it does not lose its distinctive identity by doing do.

609. Chúng ta cũng hiểu rằng dù một nguyên tử kết dính với những nguyên tử khác mà nó bị hấp dẫn, nó không đánh mất bản sắc riêng biệt của mình khi làm như vậy.

A human being in objective manifestation likewise revolves upon his axis, or around his central point, his mainspring of animation;

Một con người trong biểu lộ khách quan cũng quay quanh trục của mình, hay quanh điểm trung tâm của mình, động lực chủ đạo của sinh khí;

610. Master DK is giving us hints about occult anatomy.

610. Chân sư DK đang gợi ý cho chúng ta về giải phẫu huyền môn.

611. The phrase “mainspring of animation” suggests the driving power (“mainspring”) of the soul (the animator).

611. Cụm “động lực chủ đạo của sinh khí” gợi ý quyền năng thúc đẩy (“động lực chủ đạo”) của linh hồn (đấng làm cho sống động).

612. We might question whether that “central point” is the jewel in the lotus.

612. Chúng ta có thể tự hỏi liệu “điểm trung tâm” ấy có phải là bảo châu trong hoa sen.

613. Almost certainly the causal sheath revolves around the jewel as the central point.

613. Gần như chắc chắn vỏ bọc nhân quả quay quanh bảo châu như điểm trung tâm.

this brings him within the range of activity of other men, other human atoms.

điều này đưa y vào trong tầm hoạt động của những người khác, các nguyên tử nhân loại khác.

614. There is an ongoing question here: what is it that brings the man “within the range of activity of other men”. Is it the revolution on his axis that does so? Or something else?

614. Ở đây có một câu hỏi thường trực: cái gì đưa con người “vào trong tầm hoạt động của những người khác”. Có phải chính sự quay quanh trục của y làm như thế? Hay một điều gì khác?

615. Of the atom of substance, the following is said: “In its revolution it comes within the field of activity of other atoms.” This sentence suggests that during the course of its revolution the atom comes within the field of activity of the other atoms, but not that the revolution is the cause of coming within range of others.

615. Về nguyên tử của chất thể, có nói: “Trong sự quay của nó, nó đi vào trong trường hoạt động của các nguyên tử khác.” Câu này gợi rằng trong diễn trình quay của mình, nguyên tử đi vào trường hoạt động của các nguyên tử khác, nhưng không nói rằng sự quay là nguyên nhân đưa nó vào tầm của kẻ khác.

616. But it is probably so that the changes due to rotation account for whether there is attraction or repulsion with respect to the others.

616. Nhưng rất có thể rằng những biến đổi do sự quay gây ra quyết định việc có hấp dẫn hay đẩy lùi đối với các nguyên tử khác.

617. Analogizing to the human level, we all know that at some times we are attracted to other human beings and at other times repelled by the same human beings. The phase of vehicular rotation could account somewhat for this.

617. Áp dụng tương tự lên bình diện con người, chúng ta đều biết rằng có lúc ta bị hấp dẫn bởi một số người và lúc khác lại bị đẩy lùi bởi chính những người ấy. Pha quay của các hiện thể phần nào có thể giải thích điều này.

This similarly either tends to co-operation or cohesion, or to separation or repulsion.

Điều này tương tự hoặc dẫn tới hợp tác hay kết dính, hoặc tới phân ly hay đẩy lùi.

618. It seems most reasonable to conclude that it is not the atom’s rotation on its axis (whether the human atom or the atom of substance) that brings it within range of other atoms, but that the phase of rotation does contribute to whether there is attraction to or repulsion from other atoms.

618. Có vẻ hợp lý nhất để kết luận rằng không phải chính sự quay quanh trục của nguyên tử (dù là nguyên tử con người hay nguyên tử chất thể) đưa nó vào tầm của những nguyên tử khác, mà là pha quay góp phần quyết định việc hấp dẫn tới hay đẩy lùi khỏi các nguyên tử khác.

619. If, in man, the rotation of his sheaths is keyed to various planetary cycles, it is clear that at different times in a complete planetary cycle the conditions inducing attraction or repulsion change.

619. Nếu nơi con người, sự quay của các thể được căn chỉnh với các chu kỳ hành tinh khác nhau, thì rõ ràng ở các thời điểm khác nhau trong một chu kỳ hành tinh trọn vẹn, các điều kiện gây nên hấp dẫn hay đẩy lùi sẽ thay đổi.

Again it must be borne in mind that even in cohesion identity is preserved.

Một lần nữa cần ghi nhớ rằng ngay trong kết dính bản sắc vẫn được bảo toàn.

620. What was true of an atom of substance is true of man; just because a man coheres with others, does mean he loses his sense of identity. In fact, in true group consciousness, the sense of distinctive identity may be enhanced—harmoniously.

620. Điều đúng với một nguyên tử chất thể cũng đúng với con người; chỉ vì con người kết dính với người khác không có nghĩa là y đánh mất cảm thức về bản ngã. Thực ra, trong tâm thức nhóm chân chính, cảm thức về bản sắc riêng biệt có thể được tăng cường—một cách hài hòa.

[280]

[280]

A Heavenly Man, through the form of a planetary chain, similarly revolves upon His axis, and a like phenomenon may be observed.

Một Đấng Thiên Nhân, thông qua hình tướng của một dãy hành tinh, cũng quay quanh trục của Ngài, và có thể quan sát một hiện tượng tương tự.

621. The question has already been posed: if a planetary chain revolves how does it do so? It is easy to imagine the revolution of globes upon their axis. Are chains laid out in space as is the solar system and its planets, or are the globes in a chain super-imposable? From the way chains are represented in theosophical literature, we shall not get any real assistance in answering this question.

621. Câu hỏi đã được nêu: nếu một dãy hành tinh quay, thì nó quay như thế nào? Dễ hình dung việc các bầu quay quanh trục. Các dãy có được bố trí trong không gian như hệ mặt trời và các hành tinh của nó không, hay các bầu trong một dãy chồng lắp nhau? Cách các dãy được biểu diễn trong văn liệu Thông Thiên Học sẽ không giúp ích thực sự trong việc trả lời.

622. Several thoughts and questions arise in connection with this excerpt:

622. Vài suy nghĩ và câu hỏi nảy sinh liên hệ với trích đoạn này:

a. Could it be that at any one time, one chain is focal, in such a way that it is used as the center of revolution for a Planetary Logos?

a. Có thể rằng tại một thời điểm, một dãy là tiêu điểm, theo cách được dùng như trung tâm quay cho một Hành Tinh Thượng đế?

b. When a Planetary Logos changes focus, concentrating on different globes or chains, does His external axis also change orientation?

b. Khi Hành Tinh Thượng đế đổi tiêu điểm, tập trung vào những bầu hay những dãy khác, thì trục bên ngoài của Ngài cũng đổi phương hướng chăng?

c. Can the planetary chains be conceived as built together as molecules are built together?

c. Có thể quan niệm các dãy hành tinh được xây dựng cùng nhau như các phân tử được xây dựng cùng nhau chăng?

d. Can one conceive of the planetary chains ‘piled’, as it were, one on top of another other such that they all chains (and even all globes) share the same axis, like many Russian Dolls?

d. Có thể quan niệm các dãy hành tinh ‘xếp chồng’, như thể cái này trên cái kia đến mức mọi dãy (và thậm chí mọi bầu) cùng chung một trục, như nhiều búp bê Nga?

623. It is because we human beings do not know real structure of planetary chains that we cannot yet answer such questions.

623. Bởi vì chúng ta, những con người, không biết cấu trúc thực của các dãy hành tinh, nên chưa thể trả lời các câu hỏi như thế.

624. We do not know whether the globes in a chain are superimposed upon each other, yet each preserving the integrity of its distinctive sheaths.

624. Chúng ta không biết các bầu trong một dãy có chồng lắp lên nhau hay không, tuy mỗi bầu vẫn bảo toàn tính toàn vẹn của những vỏ bọc đặc thù của nó.

625. We do not know how the chains are distributed in space and whether they are, again, superimposed upon each other, each preserving the integrity of its distinctive sheaths.

625. Chúng ta không biết các dãy được phân bố trong không gian thế nào và liệu chúng cũng chồng lắp lên nhau hay không, tuy mỗi dãy vẫn bảo toàn tính toàn vẹn của những vỏ bọc đặc thù của nó.

626. By a process of what we could call ‘electrical differentiation’, the integrity of the distinctive sheaths could be preserved even through the process of superimposition. Then is could be said of the sheaths of globes and chains that “even in cohesion [their] identity is preserved”.

626. Bằng một tiến trình có thể gọi là ‘biệt hóa điện lực’, tính toàn vẹn của các vỏ bọc đặc thù có thể được bảo toàn ngay cả qua tiến trình chồng lắp. Khi ấy có thể nói về các vỏ bọc của bầu và dãy rằng “ngay trong kết dính [bản] sắc của chúng vẫn được bảo toàn”.

627. This seems true of the sheaths of man. They are in a way, superimposed, and in a relationship that we could call cohesive, yet, within this cohesion their identity is preserved.

627. Điều này dường như đúng với các vỏ bọc của con người. Chúng theo một nghĩa nào đó chồng lắp, và ở trong một tương quan mà ta có thể gọi là kết dính, tuy nhiên trong sự kết dính ấy bản sắc của chúng vẫn được bảo toàn.

628. Under the Law of Attraction, there is the induction of amalgamation accompanied by the preservation of distinction of the amalgamated units.

628. Dưới Định luật Hấp dẫn, có sự cảm ứng của dung hợp đi kèm với bảo toàn sai biệt nơi các đơn vị được dung hợp.

A planet repulses a planet similarly charged, for it is a known law that like particles repel each other,

Một hành tinh đẩy lùi một hành tinh có điện tích tương tự, vì đó là một định luật đã biết rằng các hạt giống nhau đẩy lùi nhau,

629. We are viewing planets almost as ions or charged particles. There are a few occult hints concerning the manner in which planets are “charged”. We are told that Earth is in a masculine (“positive”) incarnation:

629. Chúng ta đang nhìn các hành tinh gần như các ion hay các hạt mang điện. Có vài ám chỉ huyền môn về cách các hành tinh “mang điện”. Người ta được biết rằng Trái Đất đang ở trong một hóa thân dương (“tích cực”):

“Likewise certain of the planetary schemes are positive and others negative; three of the schemes are dual, both negative and positive.  The same can be predicated anent a solar system, and, curiously enough, anent the planes themselves.  For instance, in connection with the earth scheme we have a positive polarity of a temporary nature based on the type of incarnation our particular Heavenly Man is undergoing on our planet.  By this is meant that there are masculine and feminine incarnations undergone by Heavenly Men as by men, considering the entire subject from the angle of electrical polarity and not from sex as understood in connection with the physical body.” (TCF 322)

“Tương tự, một số hệ hành tinh là dương và những hệ khác là âm; ba hệ là lưỡng tính, vừa âm vừa dương. Điều tương tự có thể được phát biểu về một Thái dương hệ, và, lạ lùng thay, về chính các cõi. Chẳng hạn, liên hệ với hệ địa cầu, chúng ta có một cực tính dương mang tính tạm thời dựa trên loại hóa thân mà Đấng Thiên Nhân đặc thù của chúng ta đang trải qua trên hành tinh của chúng ta. Ý ở đây là các hóa thân nam và nữ được các Đấng Thiên Nhân trải qua như con người, xét toàn bộ vấn đề này từ góc độ cực tính điện lực chứ không phải từ giới tính theo nghĩa thân thể hồng trần.” ( Luận về Lửa Vũ Trụ 322)

630. Given the attractive relationship between the Heavenly Man of Earth and the Heavenly Man of Venus, we could infer that one is in a positive and one a negative (receptive) incarnation. If so, their “charges” would be opposite.

630. Xét mối tương liên hấp dẫn giữa Đấng Thiên Nhân của Địa cầu và Đấng Thiên Nhân của Kim tinh, ta có thể suy rằng một vị ở trong hóa thân dương và một vị ở trong hóa thân âm (tiếp nhận). Nếu vậy, “điện tích” của họ sẽ đối nghịch.

but occultly it is a known law that they will eventually attract each other as the vibration becomes sufficiently strong.

nhưng theo huyền bí học đó là một định luật đã biết rằng rốt cuộc chúng sẽ hấp dẫn nhau khi rung động trở nên đủ mạnh.

631. Presumably, this type of attraction between similarly charged atoms or particles occurs when the Law of Synthesis becomes the law characterizing planetary processes. The word “eventually” is used and this suggests, in this context, the later stages of planetary evolution.

631. Suy ra rằng kiểu hấp dẫn giữa các nguyên tử hay hạt tương đồng này xảy ra khi Định luật Tổng hợp trở thành định luật đặc trưng cho các tiến trình hành tinh. Từ “rốt cuộc” được dùng và ở đây gợi các giai đoạn hậu kỳ của tiến hóa hành tinh.

632. Like attracts like when Spirit seeks to merge with Spirit. This attraction of like for like can already be seen operative on the level of soul.

632. Tương đồng hút tương đồng khi Thần linh tìm hợp nhất với Thần linh. Sự hấp dẫn của giống thuần tương đồng đã có thể thấy vận hành trên cấp độ linh hồn.

633. Another way of understanding this phenomenon on the human level is as follows: personalities draw opposites and souls/spirits draw complementaries and similars

633. Một cách hiểu khác về hiện tượng này trên bình diện con người như sau: phàm ngã lôi cuốn các đối cực, còn linh hồn/Thần linh lôi cuốn các bổ sung và tương đồng.

A negative planet will be attracted by a positive, and so on through all forms.

Một hành tinh âm sẽ bị một hành tinh dương hấp dẫn, và cứ thế xuyên suốt mọi hình thức.

634. This is the usual condition in the earlier stages of evolution.

634. Đây là tình trạng thông thường trong các giai đoạn sớm của tiến hóa.

635. When obscuration, merging and absorption come, it would seem that we are dealing with the fusing of like with like. For this reason, Venus, a planet of quality similar to Neptune, would merge into Neptune, and Mercury, a planet which shares many qualities in common with Uranus, would merge into Uranus.

635. Khi đi vào ám muội, dung hợp và hấp thụ, có vẻ như ta đang xử với sự dung luyện của tương đồng với tương đồng. Vì lý do này, Kim tinh, một hành tinh có phẩm tính tương tự Hải Vương tinh, sẽ nhập vào Hải Vương tinh, và Thủy tinh, một hành tinh có nhiều phẩm tính tương đồng với Thiên Vương tinh, sẽ nhập vào Thiên Vương tinh.

636. Of course, similarity of quality does not necessarily determine whether the two planets involved are in a positive or negative incarnation.

636. Dĩ nhiên, sự tương đồng phẩm tính không nhất thiết quyết định liệu hai hành tinh liên hệ ở trong một hóa thân dương hay âm.

637. We gather that a planet has a fundamental polarity, and various periods of shifting polarity. Probably for final absorption, it is the fundamental polarity that counts.

637. Ta thấy rằng một hành tinh có một cực tính căn để, và các thời kỳ hoán chuyển cực tính khác nhau. Có lẽ đối với sự hấp thụ sau cùng, chính cực tính căn để mới là điều quyết định.

This is the manifestation of SEX in substance of every kind, from the tiny atom in the body to the vast planetary chains, and this is the basis of activity.

Đây là sự biểu hiện của TÍNH DỤC trong chất liệu mọi loại, từ nguyên tử nhỏ bé trong thân thể cho đến những dãy hành tinh mênh mông,  và đây là nền tảng của hoạt động.

638. It would seem in this context that the term “chains” means schemes. We recall that the term “chains” suggests relation to a greater “scheme”—in this case a solar scheme.

638. Trong mạch văn này, có vẻ thuật ngữ “dãy” (chains) được dùng với nghĩa “hệ” (schemes). Chúng ta nhớ rằng thuật ngữ “dãy” gợi mối liên hệ với một “hệ” lớn hơn—trong trường hợp này là một hệ Thái dương.

639. It becomes clear that most atoms are characterized by one polarity or another. Perhaps some atoms (like some planets) have both polarities (TCF 322).

639. Hiển nhiên đa số nguyên tử được đặc trưng bởi một cực tính nào đó. Có lẽ có những nguyên tử (như một số hành tinh) mang cả hai cực tính ( Luận về Lửa Vũ Trụ 322).

640. Just as sexual attraction is more evident in younger people, so it may be with respect to all types of atoms—the attraction between atoms of different polarities is accentuated in the earlier phases of evolution.

640. Cũng như hấp dẫn tính dục rõ hơn ở người trẻ, thì có thể đối với mọi loại nguyên tử—sự hấp dẫn giữa các nguyên tử khác cực tính được nhấn mạnh ở những pha đầu của tiến hóa.

Radiatory activity is simply the interplay between male and female, and this can be seen in the physical atom of the scientist, among men and women, and in the vaster atom of a solar system as it vibrates with its cosmic opposite.

Hoạt động bức xạ đơn giản là sự giao hòa giữa đực và cái, và điều này có thể thấy nơi nguyên tử vật lý của nhà khoa học, giữa những người nam và nữ, và nơi nguyên tử vĩ đại hơn là một Thái dương hệ khi nó rung động với đối cực vũ trụ của mình.

641. From units that are attracted to each other a radiation goes forth. Through this radiatory activity interplay is promoted.

641. Từ những đơn vị hấp dẫn nhau, một bức xạ phát ra. Qua hoạt động bức xạ này, sự giao hòa được thúc đẩy.

642. As well, the magnetism between opposing poles evokes radiation.

642. Đồng thời, từ tính giữa các cực đối nghịch khơi dậy bức xạ.

643. When radiation emanates from the nucleus of an atom (of any kind) towards a satellite of that atom, we see the same interplay between positive and negative.

643. Khi bức xạ phát xuất từ hạch của một nguyên tử (bất kỳ loại nào) hướng tới một vệ tinh của nguyên tử ấy, chúng ta thấy cùng một giao hòa giữa dương và âm.

644. We see that radiatory activity is promoted by the Law of Attraction. Perhaps, without the Law of Attraction, radiatory activity is not even possible.

644. Chúng ta thấy rằng hoạt động bức xạ được thúc đẩy bởi Định luật Hấp dẫn. Có lẽ, nếu không có Định luật Hấp dẫn, hoạt động bức xạ thậm chí không thể xảy ra.

645. We are discussing the close relationship between magnetism and electricity (or radiation).

645. Chúng ta đang bàn về mối liên hệ mật thiết giữa từ tính và điện lực (hay bức xạ).

We might, therefore, consider time as that process of activity, or that progression in development, wherein the indwelling Consciousness is seeking its opposite, and coming under the Law of Attraction, which leads to atomic, human, planetary, spiritual, solar and cosmic marriage.

Do đó, chúng ta có thể xét thời gian như là tiến trình hoạt động, hay là sự tiến triển trong phát triển, trong đó Tâm thức trú ngụ đang tìm kiếm đối cực của mình, và đi vào dưới Định luật Hấp dẫn, vốn dẫn đến hôn phối ở cấp nguyên tử, nhân loại, hành tinh, tinh thần, thái dương và vũ trụ.

646. This is an unusual definition of time.

646. Đây là một định nghĩa khác thường về thời gian.

647. Time is defined not as a span but as a “process of activity”.

647. Thời gian được định nghĩa không như một khoảng mà như một “tiến trình hoạt động”.

648. It would seem that time is defined as that process of activity during which (under the Law of Attraction) the marriage partner is sought and marriage consummated.

648. Có vẻ như thời gian được định nghĩa là tiến trình hoạt động, trong đó (dưới Định luật Hấp dẫn) người bạn phối ngẫu được kiếm tìm và hôn phối được viên thành.

649. It is interesting to realize that Libra the sign of marriage and that Saturn Lord of Time (we are defining time) is the strongest planet in Libra

649. Thật thú vị khi nhận ra rằng Thiên Bình là dấu hiệu của hôn phối và Sao Thổ, vị Chúa Tể của Thời gian (chúng ta đang định nghĩa thời gian), là hành tinh mạnh nhất trong Thiên Bình.

650. This definition needs to be related to the definition of time as the “succession of states of consciousness”.

650. Định nghĩa này cần được liên hệ với định nghĩa thời gian như là “sự tiếp nối của các trạng thái tâm thức”.

651. We can never divorce the nature of time from consciousness and experience. It is as if to say that there is no time apart from the experience of time. This means that if a span of activity is not beheld it does not exist. Thus time, becomes, in a way, ‘duration of perception’.

651. Chúng ta không bao giờ có thể tách rời bản tính của thời gian khỏi tâm thức và kinh nghiệm. Như thể nói rằng không có thời gian tách rời khỏi kinh nghiệm về thời gian. Điều này có nghĩa là nếu một khoảng hoạt động không được tri nhận thì nó không hiện hữu. Do đó, theo một cách, thời gian trở thành “thời lượng của tri nhận”.

652. The key to solving the riddle of time is to examine simplicity and complexity in the process of perception.

652. Chìa khóa giải câu đố về thời gian là khảo sát tính đơn giản và phức tạp trong tiến trình tri nhận.

653. In states of profound absorption or concentration, there is the sense of timelessness, or the sense that great ‘amounts’ of time pass very quickly, or that small ‘amounts’ of time are of great duration.

653. Trong các trạng thái nhập định sâu hay tập trung sâu, có cảm thức về vô thời, hoặc cảm thức rằng một “lượng” thời gian rất lớn trôi qua rất nhanh, hoặc rằng một “lượng” thời gian nhỏ lại có thời lượng rất dài.

654. We often think that time, per se, is real but that our sense of time is subjective and variable. What I am emphasizing is that ‘real time’ is subjective, or is created by a subjective act—that of perception.

654. Chúng ta thường nghĩ rằng bản thân thời gian là thật nhưng cảm thức về thời gian của chúng ta thì chủ quan và biến thiên. Điều tôi muốn nhấn mạnh là “thời gian thực” là chủ quan, hay được tạo bởi một hành vi chủ quan—tức là bởi tri nhận.

This idea is comparatively simple in relation to a human being, and can be seen in daily demonstration in his contacts with other men; these contacts are governed, for instance, very largely by his likes and dislikes.

Ý tưởng này tương đối đơn giản khi áp dụng cho một con người, và có thể thấy trong minh chứng hằng ngày nơi các tiếp xúc của y với những người khác; chẳng hạn, các tiếp xúc này được chi phối phần lớn bởi những điều y ưa và ghét.

655. This is the usual astral responsiveness. We can imagine that the astral body and its rotation on its axis account very much for whether human units are attracted to or repelled from each other.

655. Đây là tính đáp ứng cảm dục thông thường. Chúng ta có thể hình dung rằng thể cảm dục và sự tự quay của nó quanh trục của mình giải thích rất nhiều về việc các đơn vị nhân loại bị thu hút hay bị đẩy lùi khỏi nhau.

All these attractions and repulsions are under law, and their cause exists in form itself.

Tất cả những hấp dẫn và xung đẩy này đều ở dưới các định luật, và nguyên nhân của chúng nằm ngay trong hình tướng.

656. If the attractions and repulsions are under law, they must be based on mathematical relations. Coherence or separation are mathematically determined. Frequency of vibration or rotation will determine attraction and repulsion. Quantity is quality.

656. Nếu các hấp dẫn và xung đẩy ở dưới định luật, chúng hẳn phải dựa trên các quan hệ toán học. Sự cố kết hay phân ly được quyết định một cách toán học. Tần số rung động hay tốc độ quay sẽ quyết định hấp dẫn và xung đẩy. Số lượng phẩm tính.

657. In practical life, we often see that people function according to rhythms which render them either attractive or repulsive to other people. The nature of rhythm is determined mathematically.

657. Trong đời sống thực tiễn, chúng ta thường thấy người ta vận hành theo những nhịp điệu khiến họ hoặc trở nên hấp dẫn hoặc gây xung đẩy đối với người khác. Bản chất của nhịp điệu được quyết định một cách toán học.

The emotion of like or of dislike is nothing else but the realisation by the conscious entity of the swinging into his magnetic radius of an atomic form which he is led, by the very law of his own being, to either attract or repulse. 

Cảm xúc ưa hay ghét chẳng gì khác ngoài sự nhận biết của thực thể có ý thức về việc một hình thể nguyên tử đang đu đưa đi vào trong bán kính từ tính của y, mà theo chính định luật của bản thể y, y bị dẫn dắt hoặc thu hút hoặc đẩy lùi nó.

658. To be attracted or repelled seems (initially at least) to be beyond the control of the indweller.

658. Bị thu hút hay bị xua đẩy xem ra (ít nhất là ban đầu ) vượt ngoài tầm kiểm soát của đấng trú ngụ.

659. Playing with language, we can think that we like people who are like us. At least there must be certain significant points in common.

659. Chơi đùa với ngôn ngữ, chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta ưa những người giống ta. Ít nhất, phải có những điểm chung đáng kể.

Only when the form is transcended, and Spirit seeks out Spirit, will the phenomena of repulsion cease.

Chỉ khi hình tướng được siêu vượt, và Tinh thần tìm đến Tinh thần, thì hiện tượng xung đẩy mới chấm dứt.

660. We are being told that in the state of synthesis, in which Spirit has sought, found and merged with Spirit, the state of repulsion has ceased. Synthesis, then, in a non-polar state beyond the state of attraction or repulsion.

660. Chúng ta được cho biết rằng trong trạng thái tổng hợp, nơi Tinh thần đã tìm, gặp và hòa nhập với Tinh thần, trạng thái xung đẩy đã chấm dứt. Vậy tổng hợp là một trạng thái phi phân cực, vượt khỏi trạng thái hấp dẫn hay xung đẩy.

This will be the inevitable finale at the cessation of solar evolution, and it will bring about pralaya.

Đây sẽ là đoạn kết tất yếu khi sự tiến hóa thái dương chấm dứt, và nó sẽ đưa đến Giai kỳ qui nguyên.

661. Finales (even in music) occur under the Law of Synthesis—bringing all together in “one accord”.

661. Các đoạn kết (ngay cả trong âm nhạc) xảy ra dưới Định luật Hợp Nhất—quy tụ mọi thứ trong “một hòa âm”.

The duration of the interplay, the period of the search of Spirit for Spirit, and [281] the vibratory process necessitated by the utilisation of the form, this we call Time, whether in connection with a man, a planetary Logos, or the Deity.

Thời lượng của sự tương giao, khoảng kỳ Tinh thần tìm Tinh thần, và [281] tiến trình rung động do việc sử dụng hình tướng đòi hỏi—đó là điều chúng ta gọi là Thời gian, bất kể liên hệ với con người, một Hành Tinh Thượng đế, hay Thượng đế.

662. Are “time” and “duration” equivalent terms? If so, it seems that the term “time” is being defined by an equivalent term. And yet there are subtle differences in connotation between “time” and “duration”.

662. “Thời gian” và “thời lượng” có phải là những thuật ngữ tương đương? Nếu vậy, có vẻ thuật ngữ “thời gian” đang được định nghĩa bằng một thuật ngữ tương đương. Tuy nhiên, có những khác biệt vi tế trong hàm nghĩa giữa “thời gian” và “thời lượng”.

663. The operative terms in this definition are “duration” and “period”. I have earlier used the word “span”, suggesting much of the same.

663. Những thuật ngữ tác động trong định nghĩa này là “thời lượng” và “khoảng kỳ”. Trước đó tôi đã dùng từ “khoảng”, gợi ý phần nhiều điều tương tự.

664. Unless the Law of Attraction is operative, the experience of time will not be operative. Under the Law of Attraction, change and interplay occur. Change and interplay produce sequences of conscious events.

664. Trừ phi Định luật Hấp dẫn đang tác động, kinh nghiệm về thời gian sẽ không tác động. Dưới Định luật Hấp dẫn, biến đổi và tương giao xảy ra. Biến đổi và tương giao sinh ra các chuỗi biến cố có ý thức.

665. In a state of Pure Spirit or Pure Matter there is no change and thus no sequence of states of consciousness and, thus, no experience of time, and, thus, no time.

665. Trong trạng thái Tinh thần thuần túy hay Chất liệu thuần túy không có biến đổi và do đó không có chuỗi các trạng thái tâm thức, và vì thế, không có kinh nghiệm về thời gian, và do đó, không có thời gian.

666. To the one who perceives only changelessness, there is no time.

666. Đối với kẻ chỉ tri nhận bất biến, không có thời gian.

Space, again, is included in the idea of consciousness, and its utilisation of matter.  Space, for the Logos, is literally the form wherein His conscious activities and purposes are worked out—the solar ring-pass-not.

Không gian, một lần nữa, được bao hàm trong ý niệm về tâm thức, và việc tâm thức sử dụng chất liệu. Đối với Thượng đế, Không gian chính là hình tướng trong đó các hoạt động và mục đích có ý thức của Ngài được triển khai—vòng-giới-hạn thái dương.

667. Usually, we associate space with formlessness. This may be true of the most abstract definition of SPACE as the ABSOLUTE.

667. Thông thường, chúng ta gắn Không gian với sự vô hình tướng. Điều này có thể đúng với định nghĩa trừu tượng nhất về KHÔNG GIAN như TUYỆT ĐỐI.

668. But, within Universe, space is form. Or more properly, space is also a perception—a perception of form rather than a perception of relative duration (time)

668. Nhưng, trong Vũ trụ, không gian là hình tướng. Đúng hơn, không gian cũng là một tri nhận—một tri nhận về hình tướng hơn là một tri nhận về thời lượng tương đối (thời gian).

669. It seems that the Tibetan has entered into very abstract considerations in this section of the book. Whenever speaking of Time and Space the utmost demands are placed on thought.

669. Có vẻ Chân sư Tây Tạng đã đi vào những suy xét rất trừu tượng trong phần này của sách. Mỗi khi nói về Thời gian và Không gian là đòi hỏi tột độ đối với tư duy.

670. We might call space, a sustained perception of that which is different from something else. Or a sustained perception of a certain group of interactive factors.

670. Chúng ta có thể gọi không gian là một tri nhận được duy trì về cái khác biệt với một cái gì khác. Hoặc là một tri nhận được duy trì về một tập hợp các yếu tố tương tác nào đó.

671. In other words, space for any entity is the wholeness of the contents of consciousness for that entity. Entities with greater consciousness express within and relate to a greater ‘space’. An entity’s ‘space’ is the ring pass not of that entity’s perception or registration. All space is psychological space or perceptual space.

671. Nói cách khác, không gian đối với bất kỳ thực thể nào là tính toàn vẹn của nội dung tâm thức đối với thực thể đó. Các thực thể có tâm thức lớn hơn biểu lộ và liên hệ trong một “không gian” lớn hơn. “Không gian” của một thực thể là vòng-giới-hạn của tri nhận hay ghi nhận của thực thể đó. Mọi không gian đều là không gian tâm lý hay không gian tri nhận.

672. Man’s ‘space’ is the sphere of his perception. This sphere is a form.

672. “Không gian” của con người là hình cầu tri nhận của y. Hình cầu này là một hình tướng.

The space wherein a planetary Logos works out His plans is similarly as much of solar space as His consciousness is developed enough to use.

Không gian trong đó một Hành Tinh Thượng đế triển khai các kế hoạch của Ngài tương tự là phần không gian thái dương mà mức phát triển tâm thức của Ngài đủ để sử dụng.

673. Again we see the relation of space to consciousness.

673. Một lần nữa chúng ta thấy mối liên hệ giữa không gian và tâm thức.

674. A Planetary Logos is contained within the ‘space’ of a Solar Logos because the consciousness of the Planetary Logos is contained within the consciousness of the Solar Logos.

674. Một Hành Tinh Thượng đế được bao hàm trong “không gian” của một Thái dương Thượng đế vì tâm thức của Hành Tinh Thượng đế được bao hàm trong tâm thức của Thái dương Thượng đế.

675. We remember the definition of the Universe as a huge aggregation of states of consciousness—the lesser contained within the greater, and the greater Entities experiencing through the lesser.

675. Chúng ta nhớ định nghĩa về Vũ trụ như một đại tập hợp các trạng thái tâm thức—cái nhỏ hơn được bao hàm trong cái lớn hơn, và các Đấng lớn lao hơn trải nghiệm thông qua các đấng nhỏ hơn.

Man again repeats the process and his ring-pass-not is included in the radius of his consciousness, and may be very circumscribed as in the case of the little evolved, or may be inclusive of a portion of planetary space of great extent, and even in the case of the very highly evolved may begin to touch the periphery of the sphere of influence of the planetary Logos in Whose body he is a cell.

Con người lại lặp lại tiến trình ấy và vòng-giới-hạn của y được bao gồm trong bán kính tâm thức của y, và có thể rất bị giới hạn như trong trường hợp người phát triển ít, hoặc có thể bao gồm một phần không gian hành tinh rất rộng lớn, và thậm chí trong trường hợp người phát triển rất cao có thể bắt đầu chạm đến chu vi của phạm vi ảnh hưởng của Hành Tinh Thượng đế mà trong Thân thể của Ngài y là một tế bào.

676. We are speaking of ring-pass-nots of consciousness. A man’s ‘space’ expands as his consciousness expands.

676. Chúng ta đang nói về các vòng-giới-hạn của tâm thức. “Không gian” của một người mở rộng khi tâm thức của y mở rộng.

677. What are the limitations of the ‘space’ within which we, individually, express? How is this ‘space’ expanded when we merge in group consciousness? How is the ‘space’ expanded when we begin to merge into “God consciousness”?

677. Những giới hạn của “không gian” trong đó chúng ta, xét từng cá nhân, biểu lộ là gì? “Không gian” này mở rộng ra sao khi chúng ta hòa nhập vào tâm thức nhóm? “Không gian” ấy mở rộng ra sao khi chúng ta bắt đầu hòa nhập vào “tâm thức Thượng đế”?

Space for the atom (for instance, the atom in the physical body of man) will be the radius of the form in which is found the greater centre of consciousness of which it is a part

Không gian đối với nguyên tử (chẳng hạn, nguyên tử trong thể xác của con người) sẽ là bán kính của hình tướng trong đó tồn tại trung tâm tâm thức lớn hơn mà nó là một bộ phận.

678. The greater center of consciousness is the consciousness of the man who indwells the body of which the atom is a part.

678. Trung tâm tâm thức lớn hơn ấy là tâm thức của con người cư ngụ trong thân thể mà nguyên tử là một bộ phận.

679. In a way the consciousness of the atom is but a tiny aspect of the consciousness of the man who indwells the form.

679. Theo một nghĩa, tâm thức của nguyên tử chỉ là một phương diện rất nhỏ của tâm thức của con người cư ngụ trong hình tướng.

and it will be both attracted and repulsed—attracted and built into the form of the greater Life, yet repulsed and thereby prevented from moving from a certain point within that form.

và nó sẽ vừa bị hấp dẫn vừa bị xua đẩy— được hấp dẫn và được xây vào hình tướng của Sự Sống lớn hơn, nhưng đồng thời bị xua đẩy và vì thế bị ngăn không cho di chuyển khỏi một điểm nào đó bên trong hình tướng ấy.

680. In the case of the atom of matter/substance, potential space (the entirety of the body in which it is found) is greater than the ring-pass-not within that space (or body) to which the atom is confined. A single atom will not be ‘free’ to wander to all part of the ‘space’ that is the body/form of man.

680. Trong trường hợp nguyên tử của vật chất/chất liệu, không gian tiềm năng (toàn thể thân thể nơi nó hiện diện) là lớn hơn vòng-giới-hạn bên trong không gian (hay thân thể) mà nguyên tử bị giam trong đó. Một nguyên tử đơn lẻ sẽ không “tự do” lang thang khắp mọi phần của “không gian” là thân thể/hình tướng của con người.

681. So it is for man; we cannot wander into all ‘spaces’ of which we may be theoretically cognizant. We are attracted by the greater, yet repulsed by it at the same time.

681. Con người cũng vậy; chúng ta không thể lang thang vào mọi “không gian” mà chúng ta có thể nhận biết một cách lý thuyết. Chúng ta bị hấp dẫn bởi cái lớn hơn, nhưng đồng thời cũng bị nó xua đẩy.

We have here dealt a little with time and space in their relation to a specific centre of consciousness;

Ở đây chúng ta đã đề cập đôi chút đến thời gian và không gian trong mối liên hệ với một trung tâm tâm thức cụ thể;

682. Be that centre of consciousness the consciousness of a tiny atom, a man, a Planetary Logos or a Solar Logos.

682. Dù trung tâm tâm thức ấy là tâm thức của một nguyên tử nhỏ, của một con người, của một Hành Tinh Thượng đế hay của một Thái dương Thượng đế.

we have seen that they are simply forms of ideas to express the cyclic activity of an entity. 

chúng ta đã thấy rằng chúng chỉ đơn giản là các hình thức của ý niệm để diễn đạt hoạt động chu kỳ của một thực thể.

683. What is said immediately above is what we must grasp, and it is difficult—that time and space “are simply forms of ideas to express the cyclic activity an entity”. Time and space are not even ideas, but only forms of ideas.

683. Điều vừa nói trên đây là điều chúng ta phải nắm, và điều đó thật khó—rằng thời gian và không gian “chỉ đơn giản là các hình thức của ý niệm để diễn đạt hoạt động chu kỳ của một thực thể”. Thời gian và không gian thậm chí không phải là ý niệm, mà chỉ là hình thức của ý niệm.

684. Space is the totality of the sphere of consciousness; consciousness creates space. Time is that which interrupts the unvarying perception of essence.

684. Không gian là tính toàn thể của hình cầu tâm thức; tâm thức tạo ra không gian. Thời gian là cái gián đoạn sự tri nhận bất biến về bản thể.

685. Unless an entity is engaged in “cyclic activity” there would be no time and space.

685. Nếu một thực thể không dấn thân vào “hoạt động chu kỳ” thì sẽ không có thời gian và không gian.

686. All activity is, fundamentally, cyclic activity and is based upon the principle of pulsation between being and non-being.

686. Mọi hoạt động, về nền tảng, là hoạt động chu kỳ và dựa trên nguyên lý dao động giữa hữu và vô.

687. Time and space are based upon limitation and discontinuity of perception/consciousness.

687. Thời gian và không gian đặt nền trên giới hạn và sự gián đoạn của tri nhận/tâm thức.

The subject is exceedingly abstruse, due to the low stage of the human intelligence, which is as yet so occupied with the objective or material side of manifestation that the attraction existing between Spirit and Spirit is little more than a concept.

Chủ đề này cực kỳ uyên áo, là do trình độ thấp của trí năng nhân loại, vốn hiện vẫn quá bận bịu với mặt khách quan hay vật chất của sự biểu lộ đến nỗi sức hút tồn tại giữa Tinh thần và Tinh thần chỉ là một khái niệm còn mơ hồ.

688. We can all agree with the Tibetan. There are few sections of TCF which are more difficult than the section we have been examining.

688. Chúng ta có thể đồng ý với Chân sư Tây Tạng. Ít có phần nào của Luận về Lửa Vũ Trụ khó hơn phần mà chúng ta vừa khảo sát.

689. Only if one is identified as Spirit will it be possible to fathom the attraction existing between Spirit and Spirit. It is that which causes the human Spirit to look beyond and through any differences in order to discover in the apparent ‘other’ that which is absolutely identical with itself (i.e., the Spirit)  Right now, the registration of distinctions overpowers the search for identicality.

689. Chỉ khi ai đó đồng nhất như Tinh thần thì y mới có thể thấu đáo sức hút tồn tại giữa Tinh thần và Tinh thần. Chính điều ấy khiến Tinh thần nhân loại nhìn vượt lên và xuyên qua mọi khác biệt để khám phá trong cái tưởng như “tha nhân” cái hoàn toàn đồng nhất với tự ngã của nó (tức là Tinh thần). Hiện tại, sự ghi nhận các sai biệt lấn át việc truy tầm tính đồng nhất.

When more of the human family have their centre of consciousness in the Ego and hence are busy with the work of repulsing matter, and with the withdrawal of [282] Spirit from form, then only will the transmutative process be comprehended,

Khi nhiều người trong gia đình nhân loại có trung tâm tâm thức của họ ở trong Chân ngã và vì thế bận rộn với công cuộc đẩy lùi vật chất,với việc rút [ 282] Tinh thần ra khỏi hình tướng, thì khi ấy tiến trình chuyển hóa mới được thấu hiểu,

690. We are given the work to be accomplished by the human being who has his center of consciousness centered in the Ego

690. Chúng ta được nêu nhiệm vụ phải được hoàn tất bởi con người có trung tâm tâm thức đặt nơi Chân ngã:

a. The work of repulsing matter

a. Công cuộc đẩy lùi vật chất

b. The work of withdrawing Spirit from form

b. Công cuộc rút Tinh thần ra khỏi hình tướng

691. In the tabulation on TCF 275 we are given the interrelation between Spirit and form. The Ego is not mentioned.

691. Trong bảng ở Luận về Lửa Vũ Trụ 275 chúng ta được cho biết mối liên hệ qua lại giữa Tinh thần và hình tướng. Chân ngã không được nhắc đến.

a. The period of the domination of the form note is that of involution.

a. Thời kỳ nốt hình tướng chi phối là thời kỳ của giáng hạ tiến hóa.

b. The period of the repulsion of form by Spirit is that of the battlefield of the three worlds.

b. Thời kỳ Tinh thần đẩy lùi hình tướng là thời kỳ của chiến địa thuộc ba cõi.

c. The period of the attraction of Spirit and Spirit, and the consequent withdrawal from form is that of the Path.

c. Thời kỳ Tinh thần và Tinh thần hấp dẫn nhau, và do đó rút khỏi hình tướng là thời kỳ của Thánh Đạo.

d. The period of domination of the note of Spirit is that of the higher planes of evolution.

d. Thời kỳ nốt của Tinh thần chi phối là thời kỳ của các cõi tiến hóa cao hơn.

692. Yet the Ego is to be considered an extension of the Spirit, and the consciousness which is centered in the Ego is passing through stage “b.” above. The “Law of Repulse” is a law of the soul. The work of the soul/Ego is also instrumental during the initial stages of withdrawing Spirit from form.

692. Tuy vậy, Chân ngã cần được xét như một sự mở rộng của Tinh thần, và tâm thức được đặt nơi Chân ngã đang đi qua giai đoạn “b.” ở trên. “Định luật Đẩy Lùi” là một định luật của linh hồn. Công trình của linh hồn/Chân ngã cũng đóng vai trò trong những giai đoạn sơ khởi của việc rút Tinh thần ra khỏi hình tướng.

693. Such a human being (whose consciousness is centered in the Ego) is functioning under the fourth Law of the Soul—the Law of Repulse (which is also the first triadally impulsed soul law).

693. Một con người như vậy (có tâm thức đặt nơi Chân ngã) đang vận hành dưới định luật thứ tư của Linh hồn—Định luật Đẩy Lùi (vốn cũng là định luật linh hồn đầu tiên được thúc đẩy từ Tam nguyên tinh thần).

694. Centering the consciousness in the Ego is, of course, preliminary to the centering of consciousness in the Spirit.

694. Đặt tâm thức trong Chân ngã dĩ nhiên là bước tiền đề cho việc đặt tâm thức trong Tinh thần.

695. Before Spirit can merge with Spirit it must be abstracted from matter/form. The soul-center promotes this abstraction.

695. Trước khi Tinh thần có thể hòa nhập với Tinh thần thì Tinh thần phải được trừu xuất khỏi vật chất/hình tướng. Trung tâm linh hồn thúc đẩy sự trừu xuất này.

696. The work of transmutation (although considered preliminary to transformation and transfiguration) requires a disidentification from matter/form.

696. Công trình chuyển hóa (dù được xem là tiền đề cho chuyển đổi và biến hình) đòi hỏi một sự giải đồng nhất khỏi vật chất/hình tướng.

then only will time (as known in the three worlds) be transcended,

rồi khi ấy thời gian ( như được biết trong ba cõi ) mới được siêu vượt,

697. The suggestion is that there are more ways to understand time than as it is understood in the three worlds.

697. Gợi ý là có nhiều cách hiểu thời gian hơn cách nó được hiểu trong ba cõi.

698. The factor of Time is inescapable if there is to be a Universe. A Universe, in one respect, is the commencement of Time (as well as its sustainment and termination) within the infinite continuum of Endless Duration

698. Yếu tố Thời gian là không thể tránh nếu có một Vũ trụ. Xét theo một phương diện, Vũ trụ là khởi nguyên của Thời gian (cũng như sự duy trì và chấm dứt của nó) trong dòng liên tục vô hạn của Thời Lượng Vĩnh Cửu không biên tế.

and then only will space (as manifested to man through the three lower planes or the eighteen subplanes) be found to be a barrier.

và chỉ khi ấy không gian (như được biểu lộ với con người qua ba cõi thấp hay mười tám cõi phụ) mới được nhận ra là một chướng ngại.

699. The normal ‘space’ for the average human being is the ring-pass-not of the eighteen lower subplanes. Within these worlds he normally lives and moves and has his being and feels no conscious confinement thereby.

699. “Không gian” thông thường đối với người trung bình là vòng-giới-hạn của mười tám cõi phụ thấp. Trong các thế giới ấy y bình thường sống, di chuyển và hiện hữu mà không cảm thấy bị giam hãm nào cả.

700. Let us tabulate the results of centering consciousness in the Ego:

700. Chúng ta hãy lập bảng những kết quả của việc đặt tâm thức vào Chân ngã:

a. The transmutative process will be comprehended

a. Tiến trình chuyển hóa sẽ được thấu hiểu

b. Time (as we know it) will be transcended

b. Thời gian (như chúng ta biết) sẽ được siêu vượt

c. Space (as manifested through the eighteen sub-planes) will be found to be a barrier

c. Không gian (như biểu lộ qua mười tám cõi phụ) sẽ được nhận là một chướng ngại

This same statement can be predicated of the seven Logoi and of the solar Logos, extending the idea to other planes, solar and cosmic.

Mệnh đề này cũng có thể được khẳng định đối với bảy Vị Thượng đế Hành Tinh và đối với Thái dương Thượng đế, mở rộng ý tưởng ra các cõi khác—thái dương và vũ trụ.

701. The “seven Logoi” (in this context) are the seven Planetary Logoi. Usually, when Planetary Logoi are indicated, the Tibetan will say so.

701. “Bảy Vị Thượng đế” (trong ngữ cảnh này) là bảy Hành Tinh Thượng đế. Thông thường, khi nói đến Hành Tinh Thượng đế, Chân sư sẽ nêu rõ.

702. The Planetary Logoi are cosmic beings, and the time they experience can be conceived as relating to the eighteen lower cosmic subplanes which, as well, is their confining ‘space’—especially when they are non-sacred Planetary Logoi.

702. Các Hành Tinh Thượng đế là những đấng vũ trụ, và thời gian mà Các Ngài kinh nghiệm có thể được hiểu là liên hệ với mười tám cõi phụ vũ trụ thấp, và đó cũng là “không gian” giam hãm Các Ngài—nhất là khi Các Ngài là những Hành Tinh Thượng đế không thiêng liêng.

703. The twenty-one lower cosmic subplanes determine time and space for a Solar Logos.

703. Hai mươi mốt cõi phụ vũ trụ thấp xác định thời gian và không gian cho một Thái dương Thượng đế.

704. One cannot experience of time outside of one’s space. One cannot experience relative space except through the processes of time.

704. Người ta không thể có kinh nghiệm về thời gian bên ngoài không gian của chính mình. Người ta cũng không thể kinh nghiệm không gian tương đối ngoại trừ thông qua các tiến trình của thời gian.

705. Long ago Planetary Logoi and Solar Logoi achieved transmutation as it is necessitated in the human evolutionary process, and transcended time (humanly considered) and broke through the barrier of ‘human space’ produced by the limitations of human consciousness.

705. Lâu lắm rồi các Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế đã đạt chuyển hóa như điều cần thiết trong quá trình tiến hóa của con người, và đã siêu vượt thời gian (xét theo nhân loại) và bứt qua rào cản của “không gian nhân loại” tạo bởi các giới hạn của tâm thức nhân loại.

706. Is it not, therefore, interesting that these great beings must pass though other and greater transmutations; transcend time of an entirely different order (related, of course, to the limitations of their perceptual process—vast though it is); and enlarge their conception of ‘space’.

706. Vậy chẳng phải thú vị sao khi những Đấng vĩ đại ấy vẫn phải trải qua các chuyển hóa khác nữa và lớn lao hơn; siêu vượt thời gian thuộc một trật độ hoàn toàn khác (dĩ nhiên liên hệ với những giới hạn của tiến trình tri nhận của Các Ngài—dù nó là bao la); và mở rộng quan niệm của Các Ngài về “không gian”.

707. When we humans speak of transcending time and space, we rarely think that those beings (who many mahamanvantaras ago were human) are even now attempting to transcend time and space as time and space appear to them!

707. Khi chúng ta là con người nói về việc siêu vượt thời gian và không gian, chúng ta hiếm khi nghĩ rằng những Đấng (nhiều Đại giai kỳ sinh hóa trước đây từng là con người) thậm chí hiện nay đang cố gắng siêu vượt thời gian và không gian như thời gian và không gian hiển lộ đối với Các Ngài!

So also can it be narrowed down to the subhuman, and to the involutionary lives, remembering ever that as the consciousness is more confined and restricted so inertia, lack of response and limitation of radiation will be seen.

Tương tự, điều ấy cũng có thể được thu hẹp xuống các giới tiền nhân loại, và đến các sự sống giáng hạ tiến hóa, luôn nhớ rằng khi tâm thức càng bị giam hãm và giới hạn thì sẽ thấy rõ sự trơ ì, thiếu đáp ứng và giới hạn của bức xạ.

708. Such subhuman lives are overcome by the energy of the third aspect through which ‘amalgamative radiation’ is not produced.

708. Các sự sống tiền nhân loại như vậy bị năng lượng của phương diện thứ ba chế ngự, qua đó không tạo ra “bức xạ hòa dung”.

709. Compared, for instance, to a Planetary Logos, the human being is

709. So sánh, chẳng hạn, với một Hành Tinh Thượng đế, con người là:

a. Restricted and confined

a. Bị hạn chế và giam hãm

b. Characterized by inertia

b. Đặc trưng bởi trơ ì

c. Characterized by lack of response

c. Đặc trưng bởi thiếu đáp ứng

d. Characterized by limitation of radiation

d. Đặc trưng bởi giới hạn của bức xạ

710. A similar restriction will be noted when comparing a Planetary Logos to the Solar Logos, though these two types of beings are far closer in their degree of unfoldment than is a man to a Planetary Logos or Solar Logos.

710. Một hạn chế tương tự sẽ được ghi nhận khi so sánh một Hành Tinh Thượng đế với Thái dương Thượng đế, dù hai loại Đấng này gần nhau hơn nhiều về cấp độ khai mở so với con người so với một Hành Tinh Thượng đế hay Thái dương Thượng đế.

By a close scrutiny of chart V (See p. 344), it will be apparent wherein lies the problem of the Logos, and wherein lies the accuracy of the correspondence between Him and His reflection Man.

Bằng việc khảo sát kỹ lưỡng biểu đồ V (Xem tr. 344), sẽ hiển lộ nơi đâu có vấn đề của Thượng đế, và nơi đâu có sự chính xác của định luật tương ứng giữa Ngài và phản ảnh của Ngài là Con người.

711. Chart V is one of the great charts in TCF. An extraordinary amount of knowledge can be mined from a prolonged and careful examination of the chart.

711. Biểu đồ V là một trong những biểu đồ lớn trong Luận về Lửa Vũ Trụ. Có thể khai thác một lượng tri thức phi thường từ một sự khảo sát lâu dài và cẩn thận biểu đồ ấy.

712. As previously stated, the analogy between the Solar Logos and Man is in many points closer than the analogy between the Planetary Logos and Man.

712. Như đã nói, sự tương đồng giữa Thái dương Thượng đế và Con người, xét ở nhiều điểm, gần gũi hơn sự tương đồng giữa Hành Tinh Thượng đế và Con người.

713. The chart suggests far more than it depicts literally. Far more is implied than is presented.

713. Biểu đồ gợi nhiều điều hơn là những gì nó trình bày theo chữ nghĩa. Những điều hàm ẩn còn nhiều hơn điều được thể hiện.

714. We will note that the cosmic atmic plane and the cosmic astral plane are left apparently blank, which is hardly the case. Important centers of focus for our Planetary Logos (and even for out Solar Logos) are there to be found. But a single chart cannot illustrate all pertinent relationships.

714. Chúng ta sẽ lưu ý rằng cõi atma vũ trụ và cõi cảm dục vũ trụ dường như được để trống, điều này hẳn không phải như thế. Những trung tâm quan trọng của tập chú đối với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta (và thậm chí đối với Thái dương Thượng đế của chúng ta) được tìm thấy ở đó. Nhưng một biểu đồ đơn lẻ không thể minh họa mọi mối liên hệ thích đáng.

715. In relation to the shared problems of Man and the Solar Logos, they are problems incident to the fact that both beings are midway through their process of evolution.

715. Về các “vấn đề” chung của Con người và Thái dương Thượng đế, chúng là các vấn đề tất yếu do thực tế rằng cả hai Đấng đều đang ở giữa tiến trình tiến hóa của mình.

716. Is it not interesting that Man is considered a “reflection” of the Solar Logos. This is not said in so many words with regard to our Heavenly Man.

716. Chẳng phải thú vị sao khi Con người được xem là “phản ảnh” của Thái dương Thượng đế. Điều này không được nói rõ như vậy đối với Đấng Thiên Nhân của chúng ta.

717. What may be the “problem of the Logos”? The following quotations concerning the Solar Logos and Man suggest some of the problems:

717. “Vấn đề của Thượng đế” có thể là gì? Những trích dẫn sau đây về Thái dương Thượng đế và Con người gợi ý vài vấn đề:

Both are at their point of deepest involution. (TCF 282)

Cả hai đều ở điểm sâu nhất của giáng hạ tiến hóa. ( Luận về Lửa Vũ Trụ 282)

We have been told that the solar Logos, on the cosmic planes, works at the problem of cosmic mind; that He functions in His physical solar system, is polarised in His cosmic astral, or emotional body, and is developing cosmic mind.  (LOM 52-53)

Chúng ta đã được cho biết rằng Thái dương Thượng đế, trên các cõi vũ trụ, đang làm việc với vấn đề tâm trí vũ trụ; rằng Ngài vận hành trong hệ mặt trời vật chất của Ngài, phân cực nơi thể cảm xúc vũ trụ của Ngài, và đang phát triển tâm trí vũ trụ. (Thư về Tham Thiền Huyền Bí 52-53)

Man has to bring down into conscious full control, the God within.  Through that control he must dominate circumstance, make his environment his instrument and manipulate matter.  On cosmic levels the Logos does likewise.  Both are far from achievement. (TCF 282)

Con người phải đưa Thượng đế nội tại vào sự chủ trị đầy đủ trong ý thức. Thông qua sự chủ trị ấy y phải chế ngự hoàn cảnh, biến môi trường thành khí cụ và thao tác với vật chất. Trên các cấp vũ trụ, Thượng đế cũng làm như vậy. Cả hai còn xa mới đạt thành tựu. ( Luận về Lửa Vũ Trụ 282)

Just as the planet called the earth is regarded as the turning point or the battle-ground between Spirit and matter, and is therefore, from that very consideration, of great importance, so our solar system holds an analogous place in the cosmic scheme.  The cosmic man, the solar Arjuna, is wrestling for His individualised perfected self-consciousness, and for freedom and liberation from the form, and from the not-self.  So man on this planet battles for similar ideals on his tiny scale; so battle in heaven Michael and His Angels, or the divine Heavenly Men, Whose problem is the same on the higher scale. (TCF 242)

Cũng như hành tinh gọi là địa cầu được xem như điểm chuyển hướng hay chiến địa giữa Tinh thần và vật chất, và vì vậy, bởi chính sự xét ấy, có tầm quan trọng lớn, thì hệ mặt trời của chúng ta cũng giữ một vị trí tương tự trong đồ án vũ trụ.  Con người vũ trụ, Arjuna thái dương, đang chiến đấu cho tâm thức tự ngã đã được cá nhân hóa và viên mãn, và cho tự do và giải thoát khỏi hình tướng, khỏi phi-ngã. Tương tự, con người trên hành tinh này chiến đấu cho những lý tưởng tương tự ở tầm mức nhỏ bé của y; và nơi cõi trời Michael và các Thiên Thần của Ngài chiến đấu, hay các Thiên Nhân thiêng liêng, những Đấng có vấn đề tương tự ở tầm mức cao hơn. ( Luận về Lửa Vũ Trụ 242)

718. The close scrutiny which DK suggests will not be easy.

718. Sự khảo sát kỹ lưỡng mà Chân sư DK khuyến nghị sẽ không dễ dàng.

719. The alignments between the numbers two and four are evident in the chart.

719. Các liên kết giữa con số haibốn là hiển nhiên trong biểu đồ.

720. We note our Solar Logos’ relation to the fourth Rishi of the Great Bear, remembering that our Logos is of the fourth order.

720. Chúng ta ghi nhận mối liên hệ của Thái dương Thượng đế của chúng ta với vị Rishi thứ tư của Đại Hùng Tinh, nhớ rằng Thượng đế của chúng ta thuộc trật tự thứ tư.

721. Four is the number of struggle towards harmony, and two the number of the love-wisdom which arises harmony is achieved.

721. Bốn là con số của cuộc vật lộn hướng về hòa hợp, và hai là con số của Bác Ái – Minh Triết vốn khởi sinh khi đạt được hòa hợp.

722. The Chart suggests that we live in an astral-buddhic solar system, and that the struggle towards the full achievement of Cosmic Love pertains to our Solar Logos.

722. Biểu đồ gợi ý rằng chúng ta đang sống trong một hệ mặt trời mang tính cảm dục–Bồ đề, và cuộc vật lộn hướng tới thành tựu đầy đủ của Tình thương Vũ trụ liên hệ với Thái dương Thượng đế của chúng ta.

723. Incidentally, the line from the Logos passes through the Vishnu aspect on the logoic plane and a fourth Planetary Logos on the monadic plane. Is this Planetary Logos the Logos of the Earth-scheme, or of the sacred planet of the fourth ray—Mercury egoically, and Vulcan, monadically?

723. Nhân đây, đường từ Thượng đế đi qua phương diện Vishnu trên cõi thượng đế (logoic) và một Hành Tinh Thượng đế thứ tư trên cõi chân thần. Liệu Hành Tinh Thượng đế này là Thượng đế của hệ hành tinh Địa Cầu, hay của hành tinh thiêng liêng thuộc cung bốn—Sao Thủy về mặt chân ngã, và Vulcan về mặt chân thần?

724. I will call our attention to the following fact now, and hope later to suggest some thoughts re its elucidation: On the cosmic monadic plane, the line which passes through the fourth Rishi of the Great Bear originates in a triangle which is either the second or the third depending on the mode of counting the seven triangles in each large circle. This must be very significant for all that is transpiring within our solar system.

724. Tôi muốn lưu ý chúng ta về sự kiện sau đây ngay lúc này, và hy vọng sau đó sẽ gợi một vài ý tưởng về việc khai giải nó: Trên cõi chân thần vũ trụ, đường đi qua vị Rishi thứ tư của Đại Hùng Tinh khởi phát từ một tam giác, tam giác này hoặc là thứ hai hoặc là thứ ba tùy theo cách đếm bảy tam giác trong mỗi vòng tròn lớn. Điều này hẳn rất có ý nghĩa cho tất cả những gì đang diễn ra bên trong hệ mặt trời của chúng ta.

725. That little triangle in the fourth large circle is what we might call a ‘sleeping hint’, awaiting the day of its revelation—when?—centuries ahead?

725. Tam giác nhỏ ấy trong vòng tròn lớn thứ tư là điều chúng ta có thể gọi là một “gợi ý đang ngủ yên”, chờ đợi ngày được khai thị—khi nào?—vài thế kỷ nữa?

A diagram of different colors

AI-generated content may be incorrect.

726. VSK states: “The following list is a beautiful demonstration of numerical resonance to context in a seven point list”

726.  VSK nói: “Danh sách sau đây là một minh họa tuyệt đẹp về sự cộng hưởng số học tương ứng với bối cảnh trong một danh sách bảy điểm”.

727. Here we are given a tabulation of conditions and problems shared by both Man and the Solar Logos.

727.  Ở đây chúng ta được đưa ra một bảng liệt kê các điều kiện và vấn đề được Con người và Thái dương Thượng đế cùng chia sẻ.

First.  Both are in objective manifestation on the physical plane.

Thứ nhất. Cả hai đều đang trong sự hiện lộ khách quan trên cõi hồng trần.

728. In relation to a human being, we are dealing with the systemic physical plane.

728.  Với con người, chúng ta đang đề cập đến cõi hồng trần hệ thống.

729. In relation to the Solar Logos, we are dealing with the cosmic physical plane. Note that the Tibetan requires that we realize that it is the cosmic physical plane which pertains to the Solar Logos.

729.  Với Thái dương Thượng đế, chúng ta đang đề cập đến cõi hồng trần vũ trụ. Lưu ý rằng Chân sư Tây Tạng yêu cầu chúng ta nhận ra rằng đó là cõi hồng trần vũ trụ vốn thuộc về Thái dương Thượng đế.

Second.  Both are at their point of deepest involution.

Thứ hai. Cả hai đều ở điểm sâu nhất của giáng hạ tiến hóa.

730. This means that both beings are subject to the number four, which represents the midway point in a sevenfold cycle.

730.  Điều này có nghĩa cả hai Đấng đều chịu ảnh hưởng con số bốn, con số tiêu biểu cho điểm giữa trong một chu kỳ thất phân.

731. This statement should be compared with information found on TCF 384.

731.  Mệnh đề này nên được so sánh với thông tin ở Luận về Lửa Vũ Trụ 384.

Third.  Both are trammelled by matter, and are developing consciousness (egoic consciousness) on the physical plane—man on the solar physical, and the Logos on the cosmic physical plane.

Thứ ba. Cả hai đều bị hình tướng trói buộc, và đang phát triển tâm thức (tâm thức chân ngã) trên cõi hồng trần—con người trên cõi hồng trần thái dương (hệ thống), và Thượng đế trên cõi hồng trần vũ trụ.

732. Man well knows that he is not free; is it surprising to think of the great Solar Logos as a Being who, relatively, also is not free, but like man, trammeled by matter?

732.  Con người biết rõ mình chưa tự do; liệu có đáng ngạc nhiên khi nghĩ về Thái dương Thượng đế vĩ đại như một Đấng—xét theo tương đối—cũng chưa tự do, mà giống như con người, bị vật chất trói buộc?

733. Most human beings have not yet developed full egoic consciousness on the physical plane—the solar (or systemic) physical. The Solar Logos, likewise, as He expresses Himself upon the cosmic physical plane, has not yet developed the capacity to access the full consciousness of His own Ego on its own plane—the cosmic mental plane.

733.  Đa số nhân loại vẫn chưa phát triển đầy đủ tâm thức chân ngã trên cõi hồng trần—cõi hồng trần thái dương (hệ thống). Tương tự, Thái dương Thượng đế, khi Ngài biểu lộ trên cõi hồng trần vũ trụ, vẫn chưa phát triển năng lực để tiếp cận trọn vẹn tâm thức của Chân ngã của chính Ngài trên cõi riêng của nó—cõi trí vũ trụ.

734. If the Solar Logos has to develop the capacity to register and express egoic consciousness on the cosmic physical plane, this must certainly be true of the Planetary Logoi.

734.  Nếu Thái dương Thượng đế phải phát triển năng lực để ghi nhận và biểu lộ tâm thức chân ngã trên cõi hồng trần vũ trụ, thì điều này chắc chắn cũng đúng với các Hành Tinh Thượng đế.

735. We can only imagine what type of Solar Angel has created the causal body of the Solar Logos

735.  Chúng ta chỉ có thể hình dung loại Thái dương Thiên Thần nào đã kiến tạo thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế:

“A solar Logos uses for His energy centres the planetary schemes, each of which embodies a peculiar type of energy, and each of which, therefore, vibrates to the key of the logoic solar Angel, of which the human solar Angel is a dim reflection.  It is interesting here to note that as the human solar Angel is a unity, manifesting through three tiers of petals, the logoic correspondence is even more interesting, for that great cosmic Entity demonstrates on the cosmic mental plane as a triple flame working through seven tiers of petals, and it is the energy from these seven circles of energy which pulsates through the medium of any scheme.  All this is hidden in the mystery of the ONE ABOUT WHOM NAUGHT MAY BE SAID, and it is not possible for men to solve it,—the truth being obscure to even the highest Dhyan Chohan of our system.

“Một Thái dương Thượng đế sử dụng các hệ hành tinh làm các trung tâm năng lượng của Ngài, mỗi hệ hành tinh bao hàm một loại năng lượng riêng biệt, và mỗi hệ hành tinh, do đó, rung lên theo điệu chủ của vị Thái dương Thiên Thần của Thượng đế, mà Thái dương Thiên Thần của con người chỉ là một phản ảnh mờ nhạt. Thật thú vị khi lưu ý rằng cũng như Thái dương Thiên Thần của con người là một đơn nhất, biểu lộ qua ba tầng cánh hoa, thì đối ứng ở cấp độ thượng đế (logoic) còn thú vị hơn, vì Đại Thực Thể vũ trụ ấy biểu lộ trên cõi trí vũ trụ như một ngọn lửa tam phân làm việc qua bảy tầng cánh hoa, và chính năng lượng từ bảy vòng tròn năng lượng này pulsate qua trung gian của bất kỳ một hệ hành tinh nào. Tất cả điều này ẩn giấu trong huyền nhiệm về Đấng Bất Khả Tư Nghị, và con người không thể giải nó—chân lý này còn mờ mịt ngay cả với vị Dhyan Chohan cao nhất của hệ thống chúng ta.”

736. If the planetary schemes, as chakras of the Solar Logos, vibrate to the key of the logoic Solar Angel, then the chakras of man must necessarily vibrate to the key of man’s Solar Angel.

736.  Nếu các hệ hành tinh, như các luân xa của Thái dương Thượng đế, rung theo điệu chủ của vị Thái dương Thiên Thần của Thượng đế, thì các luân xa của con người tất nhiên cũng rung theo điệu chủ của Thái dương Thiên Thần của con người.

737. It may be inferred that the logoic Solar Angel also has or focusses upon a ray, just as does man’s Solar Angel. This ray is, probably, what we call the soul ray or egoic ray. It is interesting to realize that all our chakras vibrate to the key of our soul ray. Probably there is a contest within each chakra to see whether it will be ruled by the soul ray or personality ray of the indwelling entity.

737.  Có thể suy rằng vị Thái dương Thiên Thần của Thượng đế cũng có, hay tập chú vào, một cung, giống như Thái dương Thiên Thần của con người. Cung này rất có thể là điều chúng ta gọi là cung linh hồn hay cung chân ngã. Thật thú vị khi nhận ra rằng tất cả các luân xa của chúng ta rung theo điệu chủ của cung linh hồn của chúng ta. Có lẽ trong mỗi luân xa có một cuộc tranh chấp để xem nó sẽ do cung linh hồn hay cung phàm ngã của đấng trú ngụ cai quản.

738. Further, all the planetary schemes vibrate to the key of the Solar Logos’ soul ray, as is evidenced from the chart immediately below:

738.  Hơn nữa, tất cả các hệ hành tinh đều rung theo điệu chủ của cung linh hồn của Thái dương Thượng đế, như được minh chứng trong biểu đồ ngay bên dưới:

A diagram of the solar ray of the planetary logos

AI-generated content may be incorrect.

Fourth.  Man has to bring down into conscious full control, the God within.  Through that control he must dominate circumstance, make his environment his instrument and manipulate matter.  On cosmic levels the Logos does likewise.  Both are far from achievement.

Thứ tư. Con người phải đưa Thượng đế bên trong vào sự chủ trị đầy đủ trong ý thức. Thông qua sự chủ trị ấy y phải chế ngự hoàn cảnh, biến môi trường thành khí cụ và thao tác với vật chất. Trên các cấp vũ trụ, Thượng đế cũng làm như vậy. Cả hai còn xa mới đạt thành tựu.

739. The human being is seeking mastery on the eighteen lower subplanes of the systemic physical plane and, eventually, upon the twenty-one lower subplanes.

739.  Con người đang tìm kiếm sự làm chủ trên mười tám cõi phụ thấp của cõi hồng trần hệ thống và, rốt cuộc, trên hai mươi mốt cõi phụ thấp.

740. The Solar Logos, analogously to man, must seek mastery upon the eighteen lower cosmic subplanes and eventually upon twenty-one such planes.

740.   Tương tự, Thái dương Thượng đế, theo phép tương đồng với con người, phải tìm kiếm sự làm chủ trên mười tám cõi phụ vũ trụ thấp và rốt cuộc trên hai mươi mốt cõi như vậy.

741. It is interesting that our Solar Logos, though presently astrally polarized, has taken the second cosmic initiation and is working towards the third.

741.   Thật thú vị là Thái dương Thượng đế của chúng ta, dù hiện đang phân cực cảm dục, đã thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ hai và đang tiến về lần thứ ba.

742. Following analogy, there must be many human beings who, having taken the second initiation, are still astrally polarized, as they work towards the third initiation.

742.   Theo phép tương đồng, hẳn có nhiều con người, dù đã thọ lần điểm đạo thứ hai, vẫn còn phân cực cảm dục khi họ tiến về lần điểm đạo thứ ba.

743. This is interesting because at the second initiation the human being must have achieved spiritual intelligence and an illumined mind.

743.   Điều này thú vị bởi vì ở lần điểm đạo thứ hai, con người phải đạt được trí tuệ tinh thần và một thể trí được soi sáng.

744. Can we say that the Solar Logos has achieved spiritual intelligence and an illumined mind even though astrally polarized? Perhaps. Probably because our Solar Logos is of such an astral-buddhic nature the astral-buddhic relationship will always be inordinately strong regardless of the degree of spiritual intelligence and mental illumination achieved.

744.   Chúng ta có thể nói rằng Thái dương Thượng đế đã đạt trí tuệ tinh thần và thể trí được soi sáng dù vẫn phân cực cảm dục? Có thể. Có lẽ vì Thái dương Thượng đế của chúng ta mang bản chất cảm dục–Bồ đề mạnh mẽ nên mối liên hệ cảm dục–Bồ đề sẽ luôn đặc biệt mạnh, bất kể mức độ trí tuệ tinh thần và sự chiếu sáng trí tuệ đạt được.

Fifth.  Both work in, with, and by, electrical force.

Thứ năm. Cả hai làm việc trong, với, và bằng, điện lực.

745. Is this to say that both are related to the Pleiades? The Solar Logos has a special relationship to the Pleiades who are a major source of cosmic buddhi. The Path which the Solar Logos is treading leads to the cosmic buddhic plane, and the Sun is said to revolve around the Pleiades.

745.  Điều này có phải nói rằng cả hai đều liên hệ với Pleiades (Thất Nữ)? Thái dương Thượng đế có mối liên hệ đặc biệt với Pleiades—nguồn chủ yếu của Bồ đề vũ trụ. Thánh Đạo mà Thái dương Thượng đế đang bước đi dẫn đến cõi Bồ đề vũ trụ, và Mặt Trời được nói là quay quanh Pleiades.

Sixth.  Both come under the laws governing forms and hence both are controlled in time and space by KARMA, which is the Law of forms.  It has to do with quality, as force has to do with vibration.

745. Thứ sáu. Cả hai đều nằm dưới các định luật chi phối hình tướng và vì thế cả hai đều bị kiểm soát trong thời gian và không gian bởi NGHIỆP QUẢ, vốn là Định luật của các hình tướng. Nó liên hệ đến phẩm tính, như mãnh lực liên hệ đến rung động.

746. Human beings who hope soon to “be rid of karma” had best attend to this excerpt. Beings far greater than a Solar Logos (if they manifest through a form) are still subject to the Law of Forms.

746.  Những con người hy vọng sớm “thoát nghiệp” tốt nhất nên lưu tâm đến đoạn trích này. Những Đấng còn vĩ đại hơn cả một Thái dương Thượng đế (nếu Các Ngài biểu lộ qua một hình tướng) vẫn còn chịu Định luật của các Hình tướng chi phối.

747. We are given a profound hint: Karma is related to quality as force is related to vibration.

747.   Chúng ta được gợi một ám chỉ thâm diệu: Nghiệp liên hệ với phẩm tính như mãnh lực liên hệ với rung động.

748. The reason that Karma adjusts the interplay of forms with mathematical exactitude (the fourth ray is the Ray of Mathematical Exactitude) is to bring about the emergence of the second aspect or quality.

748.   Lý do khiến Nghiệp điều chỉnh sự tương giao giữa các hình tướng với độ chính xác toán học (cung bốn là Cung của Tính Chính Xác Toán Học) là để làm hiển lộ phương diện thứ hai, tức phẩm tính.

749. Force causes vibration; this interaction pertains to the third aspect of divinity. It is amazing how much the Law of Karma works with and promotes the emergence of the second aspect, even though first and third ray methods are utilized.

749.   Mãnh lực gây ra rung động; sự tương tác này thuộc về phương diện thứ ba của thiêng liêng. Thật đáng kinh ngạc là Định luật Nghiệp vận hành với và làm trỗi dậy phương diện thứ hai nhiều như thế, dù vẫn sử dụng các phương pháp cung một và cung ba.

750. If one studies the third and second rays of Libra, one can see how the second ray is meant to emerge from the balancing of forces made possible by the third aspect.

750.   Nếu người ta nghiên cứu hai cung của Thiên Bình, cung ba và cung hai, người ta có thể thấy phương diện thứ hai được định trỗi dậy từ sự quân bình các lực mà phương diện thứ ba làm khả hữu.

751. Interestingly, the second aspect of divinity is the “form builder”. Force and vibration pertain to the matter aspect. The second aspect pertains to the patterning and cohesion of form.

751.   Thú vị thay, phương diện thứ hai của thiêng liêng là “đấng kiến tạo hình tướng”. Mãnh lực và rung động thuộc về phương diện vật chất. Phương diện thứ hai thuộc về việc tạo mẫu và cố kết hình tướng.

752. When we consider the planet Saturn, we may come to understand that second ray purposes lie behind all the drastic hard-line disciplining administered by this planetary Lord of Karma.

752.   Khi chúng ta xét đến hành tinh Sao Thổ, chúng ta có thể hiểu rằng các mục đích cung hai nằm phía sau mọi sự uốn nắn kỷ luật nghiêm khắc do vị Chúa Tể nghiệp quả hành tinh này thi hành.

753. Basically, Karma serves the growth of consciousness.

753.   Về căn bản, Nghiệp phục vụ sự tăng trưởng của tâm thức.

Seventh.  Both work through forms made up of:

Thứ bảy. Cả hai làm việc thông qua các hình tướng được cấu tạo bởi:

754. Here the formal constitutions of Man and the Solar Logos are compared.

754.  Ở đây cấu trúc hình tướng của Con người và Thái dương Thượng đế được so sánh.

[283]

[283]

a. Three main types of forms:  A mental form, one aspect of manifestation; an astral form, a second aspect; and a physical form, the third aspect.

a.  Ba loại hình tướng chính: Một hình tướng trí tuệ, một phương diện của sự biểu lộ; một hình tướng cảm dục, phương diện thứ hai; và một hình tướng hồng trần, phương diện thứ ba.

755. From one perspective the mental form is correlated to the first ray, the astral to the second and the physical form to the third. There is also a legitimate way to reverse the correlation for the mental and physical forms, assigning the third ray to the mental body and the first to the physical form.

755.   Từ một quan điểm, hình tướng trí tuệ tương ứng với cung một, hình tướng cảm dục với cung hai và hình tướng hồng trần với cung ba. Cũng có một cách đảo tương ứng hợp lệ cho hình tướng trí và hình tướng xác, gán cung ba cho thể trí và cung một cho hình tướng hồng trần.

The mental vibration sets the key measure and seeks to utilise and co-ordinate the physical body at Will.  It deals with or links up the consciousness to the three forms in one direction; it repulses and causes separation in another.

755. Rung động trí tuệ đặt định nhịp chủ và tìm cách sử dụng, phối hợp thể xác theo Ý chí. Nó xử lý, hay liên kết tâm thức với ba hình tướng theo một hướng; theo hướng khác, nó đẩy lùi và gây ra phân ly.

756. The mind has a dual function—that which links and that which repels and separates.

756.  Thể trí có một chức năng lưỡng diện—liên kết và đẩy lùi, phân ly.

757. The body is to be controlled by the mind. “Mind over matter”.

757.   Thân thể phải được thể trí chế ngự. “Trí thắng vật”.

758. The mind is the dominating principle within the personality. “I come forth and from the plane of mind I rule.”

758.   Thể trí là nguyên lý thống trị bên trong phàm ngã. “Ta xuất hiện và từ cõi trí ta cai quản.”

759. In the words “key measure” the principle of rhythm is suggested. At first the “key measure” applies to the personality.

759.   Trong các từ “nhịp chủ” là gợi ý về nguyên lý nhịp điệu. Ban đầu “nhịp chủ” áp dụng cho phàm ngã.

760. The key measure which is set by the mental vibration should eventually resonate to the keynote of the soul. This will occur when the mind can be held steady in the light. Still later, the “key measure” will resonate to monadic vibration.

760.   Nhịp chủ do rung động trí tuệ đặt định rốt cuộc sẽ cộng hưởng với chủ âm của linh hồn. Điều này sẽ xảy ra khi thể trí có thể được giữ vững trong ánh sáng. Về sau nữa, “nhịp chủ” sẽ cộng hưởng với rung động chân thần.

761. The mental vibration is both attractive and repulsive. Towards the later stages of evolution it cooperates in repulsing the attractiveness of the form. It assists the man to discriminate in relation to his desires and to ‘see through’ the lure of form.

761.   Rung động trí tuệ vừa hấp dẫn vừa đẩy lùi. Về cuối tiến trình tiến hóa, nó hợp tác trong việc đẩy lùi sức quyến rũ của hình tướng. Nó trợ giúp con người để phân biện liên quan đến các ham muốn của y và “nhìn xuyên” sức lôi cuốn của hình tướng.

762. The mental vibration also assists soul consciousness to infuse the form, working out strategies by means of which this can be done.

762.   Rung động trí tuệ cũng trợ giúp tâm thức linh hồn thấm nhuần hình tướng, bằng cách hoạch định các chiến lược nhờ đó điều này có thể được thực hiện.

763. Man is the Thinker and in his nature manas is paramount. Let us ponder the mental vibration we are generating and expressing.

763.   Con người là Kẻ Tư Duy và trong bản chất y, manas là tối thượng. Chúng ta hãy suy ngẫm về rung động trí tuệ mà chúng ta đang tạo và đang biểu lộ.

The astral vibration deals with the quality, with the attractive measure.  It is the psychic element.

Rung động cảm dục xử lý phẩm tính, với “nhịp hấp dẫn”. Nó là yếu tố thông linh.

764. The word “measure” suggests rhythm and mathematics.

764.

765. So far we have been given two kinds of measures:

765.  Cho đến nay chúng ta đã được nêu ra hai loại nhịp:

a. The “key measures”

a.  “nhịp chủ”

b. The “attractive measure”

b.   “nhịp hấp dẫn”

766. The astral vibration is selective of external quality which harmonizes with inherent quality and repellant to that which felt as inharmonious.

766.   Rung động cảm dục có tính tuyển chọn những phẩm chất bên ngoài hài hòa với phẩm chất cố hữu và bài xích những gì được cảm nhận là bất hòa.

767. The “psychic element” is the sensitive element.

767.   “yếu tố thông linh” là yếu tố nhạy cảm.

The physical is the meeting ground of consciousness with the material form.  This last is the result produced by the union of the key measure and the quality of tone.

Thể xác là nơi gặp gỡ của tâm thức với hình tướng vật chất. Điều sau cùng này là kết quả do sự hợp nhất của nhịp chủ và phẩm tính của âm điệu.

768. More profound occultism!

768.   Huyền bí học sâu xa hơn nữa!

769. We are dealing with the magical process. It is indicated that the physical nature is the result of the collaboration between mind and the astral nature. In the magical process, the production of the final external form also depends upon the collaboration of the mind and the astral body.

769.  Chúng ta đang đề cập đến tiến trình huyền thuật. Có chỉ ra rằng bản chất hồng trần là kết quả của sự cộng tác giữa thể trí và bản chất cảm dục. Trong tiến trình huyền thuật, sự tạo thành hình tướng bên ngoài sau cùng cũng tùy thuộc vào sự cộng tác của thể trí và thể cảm dục.

770. The initiation process demands that consciousness infuse the material form. Thus, are the “prisoners of the planet” redeemed.

770.   Quá trình điểm đạo đòi hỏi tâm thức thấm nhuần hình tướng vật chất. Như thế, “những tù nhân của hành tinh” được cứu chuộc.

771. We are to ponder on the “key measure” which, eventually, is to vibrate to monadic purpose (for the Monad is reflected in the mind), and the “quality of tone” (reflective of the soul) through which this key measure must express.

771.   Chúng ta cần suy ngẫm về “nhịp chủ” vốn rốt cuộc sẽ rung theo mục đích của chân thần (vì Chân thần được phản chiếu trong thể trí), và “phẩm tính của âm điệu” (phản chiếu của linh hồn) qua đó nhịp chủ này phải biểu lộ.

772. Within the personality the mind is the representative of the Monad and the astral body of the Ego.. The monadic ray has a special effect upon the mind and the soul ray upon the astral body.

772.   Trong phàm ngã, thể trí là đại diện của Chân thần và thể cảm dục là của Chân ngã.. Cung chân thần có tác động đặc biệt lên thể trí và cung linh hồn lên thể cảm dục.

The Personality ray finds its major field of activity and expression in the physical body.  It determines its life trend and purpose, its appearance and occupation.  It is selective of quality, when influenced by the egoic ray.

“ Cung phàm ngã tìm thấy lĩnh vực hoạt động và biểu lộ chính của nó nơi thể xác. Nó quyết định khuynh hướng và mục đích đời sống của thể xác, diện mạo và nghề nghiệp của nó. Nó có tính tuyển chọn về phẩm tính, khi chịu ảnh hưởng của cung chân ngã.

The Egoic Ray has direct and specific action upon the astral body.  Hence the battlefield of the life is ever on the plane of illusions as the soul seeks to dispel the ancient glamour, the aspirant is enabled to walk in the light.

Cung Chân ngã có tác động trực tiếp và đặc thù lên thể cảm dục.  Do đó chiến địa của đời sống luôn ở trên cõi của các ảo tưởng vì linh hồn tìm cách xua tan ảo cảm cổ xưa, người chí nguyện được cho phép bước đi trong ánh sáng.

The Monadic Ray influences the mental body, after integration of the personality has been brought about. It causes the mind nature to achieve that clear vision which finds its consummation at the fourth initiation, and releases the man from the limitations of form.  There is an analogy to this triplicity and an interesting symbolic relation in the three Initiators. (EP I 406)

Cung Chân thần ảnh hưởng đến thể trí, sau khi sự tích hợp của phàm ngã đã được thực hiện. Nó khiến bản chất thể trí đạt được tầm nhìn minh triệt mà thành tựu tối hậu của nó là ở lần điểm đạo thứ tư, và giải phóng con người khỏi các giới hạn của hình tướng. Có một sự tương đồng với bộ ba này và một liên hệ biểu tượng thú vị nơi ba Đấng Điểm đạo. (EP I 406)

773. All that is here said is true of both man and the Solar Logos.

773.  Tất cả những gì được nói ở đây đều đúng cho cả con người lẫn Thái dương Thượng đế.

b. Seven centres of force which hold the three forms in one coherent whole, and cause their vitalisation and their co-ordination.

b.  Bảy trung tâm lực vốn giữ ba hình thể trong một toàn thể kết dính, và gây nên sự tiếp sinh lực cùng sự phối hợp cho chúng.

774. Let us tabulate the functions of the seven centers of force in relation to both man and Solar Logos.

774.    Chúng ta hãy liệt kê các chức năng của bảy trung tâm lực liên quan đến cả con người và Thái dương Thượng đế.

a. The centers hold the three forms in one coherent whole

a.    Các trung tâm giữ ba hình thể trong một toàn thể kết dính

b. The centers cause the vitalization of the three forms

b.    Các trung tâm gây nên sự tiếp sinh lực cho ba hình thể

c. The centers cause the coordination of the three forms.

c.    Các trung tâm gây nên sự phối hợp của ba hình thể.

775. If the Planetary Logoi are the centers in the body of a Solar Logos, then we learn something about the influence of the planets on the coherency of the three bodies logoic, on their vitalization and their coordination.

775.    Nếu các Hành Tinh Thượng đế là những trung tâm trong thân thể của một Thái dương Thượng đế, thì chúng ta học được điều gì đó về ảnh hưởng của các hành tinh đối với tính kết dính của ba thể của Thượng đế, đối với sự tiếp sinh lực và sự phối hợp của chúng.

776. We remember that the seven chakras are extensions of monadic energy (meditated by the Ego on its own plane). So really, it is the Monad (whether of man or Planetary Logos) that is causing coherence, vitalization and coordination.

776.    Chúng ta nhớ rằng bảy luân xa là những sự mở rộng của năng lượng chân thần (được Chân ngã làm trung giới trên chính cõi của mình). Vậy thực ra, chính Chân thần (dù là của con người hay của Hành Tinh Thượng đế) là Đấng gây ra sự kết dính, tiếp sinh lực và phối hợp.

They put the triple unit into correlation with their main centre of consciousness on the higher planes, whether that centre is the causal body of man, of a planetary Logos, or of a solar Logos.

Chúng đặt đơn vị tam phân vào tương quan với trung tâm tâm thức chính của chúng trên các cõi cao, cho dù trung tâm ấy là thể nguyên nhân của con người, của một Hành Tinh Thượng đế, hay của một Thái dương Thượng đế.

777. Here the causal body is references as the “main centre of consciousness”, but in other sections of the book we learn that the energy pulsing through the causal body (cohering, vitalizing and coordinating) really emanates from the Monad.

777.   Ở đây thể nguyên nhân được nhắc đến như “trung tâm tâm thức chính”, nhưng ở các phần khác của sách, chúng ta biết rằng năng lượng đang đập qua thể nguyên nhân (kết dính, tiếp sinh lực và phối hợp) thật ra xuất phát từ Chân thần.

778. We may remember that earlier in this Commentary we were discussing the “main focal point” of man, the Heavenly Man and the Solar Logos (TCF 271). Perhaps we can equate the terms “main centre of consciousness” with “main focal point” since the causal body is involved in relation to both terms.

778.  Chúng ta có thể nhớ rằng trước đó trong Bản chú giải này chúng ta đã bàn về “điểm tiêu chú chính” của con người, của Đấng Thiên Nhân và của Thái dương Thượng đế ( TCF 271). Có lẽ chúng ta có thể đồng nhất các thuật ngữ “trung tâm tâm thức chính” với “điểm tiêu chú chính” vì thể nguyên nhân có liên đới trong cả hai thuật ngữ.

779. However, we noticed that the “main focal point” of the type of Heavenly Man under discussion was considered the systemic monadic plane. From reading what is given above, we realize that the type of Heavenly Man there discussed was probably not the Planetary Logos in His fulness (though every type of Heavenly Man is an expression of the Planetary Logos).

779.   Tuy nhiên, chúng ta đã lưu ý rằng “điểm tiêu chú chính” của loại Đấng Thiên Nhân được thảo luận khi ấy được xem là cõi chân thần cấp hệ thống. Từ những gì nêu trên, chúng ta nhận ra rằng loại Đấng Thiên Nhân được bàn khi ấy có lẽ không phải là Hành Tinh Thượng đế trong sự viên mãn của Ngài (dẫu mọi loại Đấng Thiên Nhân đều là biểu lộ của Hành Tinh Thượng đế).

780. We are here told that a Planetary Logos has for His “main centre of consciousness on the higher planes”, the causal body, yet in the section under “main focal point” the causal body was not mentioned in relation to a Heavenly Man.

780.   Ở đây chúng ta được cho biết rằng một Hành Tinh Thượng đế có “trung tâm tâm thức chính trên các cõi cao” là thể nguyên nhân, nhưng trong phần về “điểm tiêu chú chính” thì thể nguyên nhân không được đề cập liên quan đến một Đấng Thiên Nhân.

781. In relation to that earlier section, it becomes clear that the Planetary Logos was functioning through a lesser Heavenly Man, and it was the function embodied by the lesser Heavenly Man that was being described by listing its “main focal point” on the systemic monadic plane.

781.   Liên quan đến phần trước đó, hóa ra rõ rằng Hành Tinh Thượng đế đang hoạt động qua một Đấng Thiên Nhân thấp hơn, và chính chức năng thể hiện bởi Đấng Thiên Nhân thấp hơn ấy được mô tả bằng việc liệt kê “điểm tiêu chú chính” của nó trên cõi chân thần hệ thống.

782. When the centres are rightly functioning and in a manner coordinated with each other, they will give access to Ego and Monad.

782.   Khi các trung tâm vận hành đúng và được phối hợp với nhau, chúng sẽ mở lối tiếp cận với Chân ngã và Chân thần.

c. Millions of infinitesimal cells, each embodying a lesser life, each in a condition of constant activity, and each repulsing other cells so as to preserve individuality or identity, yet each held to each by a central attractive force.

c.   Hàng triệu tế bào vi tế vô cùng, mỗi tế bào hiện thân một sự sống thấp hơn, mỗi tế bào ở trong tình trạng hoạt động không ngừng, và mỗi tế bào đẩy lùi các tế bào khác để bảo toàn tính cá biệt hay căn cước,  tuy mỗi tế bào vẫn được gắn với nhau bởi một lực hấp dẫn trung ương.

783. Here we have important information descriptive of a cell. When what is said here is applied to man as a cell in the Planetary Logos, the results are illuminating.

783.   Ở đây chúng ta có thông tin quan trọng mô tả về một tế bào. Khi điều được nói ở đây được áp dụng cho con người như một tế bào trong Hành Tinh Thượng đế, các kết quả thật soi sáng.

784. The cell

784. Tế bào

a. Embodies a lesser life

a.   Hiện thân một sự sống thấp hơn

b. Is in a condition of constant activity

b.   Ở trong tình trạng hoạt động không ngừng

c. Is repulsing other cells so as to preserve individuality or identity. (On the human level, this is an interesting rationale for the dynamic of repulsion which goes on between human units. If human beings do not know who to repulse, their individuality and identity can be compromised.)

c.   Đẩy lùi các tế bào khác để bảo toàn tính cá biệt hay căn cước. (Ở cấp con người, đây là một lý do thú vị cho động lực đẩy lùi diễn ra giữa các đơn vị nhân loại. Nếu con người không biết phải đẩy lùi ai, cá tính và căn cước của họ có thể bị phương hại.)

d. Is held to other cells by a central attractive force. (This relates to either the herd instinct or group instinct in man—inspired by the soul.)

d.   Được gắn với các tế bào khác bởi một lực hấp dẫn trung ương. (Điều này liên hệ với bản năng bầy đàn hay bản năng nhóm ở con người—được linh hồn cảm hứng.)

Thus we have produced the objective form of a crystal, a vegetable, an animal, a man, a planet, a system.

Như vậy chúng ta đã tạo ra hình tướng khách quan của một tinh thể, một thực vật, một thú vật, một con người, một hành tinh, một hệ thống.

785. All these structures are composed of “cells”.

785. Tất cả những cấu trúc này được cấu thành bởi các “tế bào”.

786. We are familiar with the cell structure for the vegetable, animal or man. What is the analogue to a cell within a crystal? A molecule?

786.  Chúng ta quen thuộc với cấu trúc tế bào đối với giới thực vật, thú vật hay con người. Vậy đối phần của một tế bào trong một tinh thể là gì? Một phân tử?

787. Within a planet, man is a cell. There is a necessity to determine the relationship of a man to the three types of Heavenly Men—Globe Lords, Chain Lords and the Scheme-Lord (the Planetary Logos).

787.   Trong một hành tinh, con người là một tế bào. Cần xác định mối tương quan của con người với ba loại Đấng Thiên Nhân—các Chúa Tể Bầu (Globe Lords), các Chúa Tể Dãy (Chain Lords) và Chúa Tể Hệ (Scheme-Lord, tức Hành Tinh Thượng đế).

788. Within a solar system, groupings of men are as cells. In relation to the Solar Logos, is it legitimate to look upon Ashrams as cells?

788.   Trong một hệ mặt trời, các nhóm người như là những tế bào. Liên quan với Thái dương Thượng đế, có chính đáng không khi xem các Đạo viện như những tế bào?

Finally, both work, therefore, in a dual manner and each demonstrates both attraction and repulsion.

Sau cùng, vì vậy, cả hai đều hoạt động theo cách nhị nguyên và mỗi bên đều biểu thị cả hấp dẫn lẫn đẩy lùi.

789. We remember that we are dealing with the condition of and problems shared by a Solar Logos and a man.

789.   Chúng ta nhớ rằng chúng ta đang đề cập đến trạng huống và các vấn đề mà một Thái dương Thượng đế và một con người cùng chia sẻ.

Attraction of matter to Spirit and the building of a form for the use of Spirit is the result of electrical energy in the universe, which in each case brings the lesser lives or spheres into its range of influence.

Sự hấp dẫn của vật chất đối với Tinh thần và việc kiến tạo một hình tướng cho Tinh thần sử dụng là kết quả của năng lượng điện trong vũ trụ, vốn trong mỗi trường hợp đem những sự sống hay những cầu thể thấp hơn vào phạm vi ảnh hưởng của nó.

790. This is the first stage of a threefold process and relates to the Pleiadian impulse. The Pleiades are the source of “electrical energy”.

790.   Đây là giai đoạn thứ nhất của một tiến trình tam phân và liên quan đến xung lực từ Pleiades. Pleiades là nguồn của “năng lượng điện”.

791. We are linking “electrical energy” to the Law of Attraction. We are discussing, perhaps, the second aspect of Fohat as Eros. Electrical energy, in this case, is a form-builder.

791.  Chúng ta đang liên kết “năng lượng điện” với Định luật Hấp Dẫn. Có lẽ chúng ta đang đề cập đến phương diện thứ hai của Fohat như Eros. Ở đây năng lượng điện là kẻ xây hình.

792. The material lives must be brought within the sphere of influence of Spirit. Electrical energy accomplishes this.

792.   Những đơn vị vật chất phải được đưa vào phạm vi ảnh hưởng của Tinh thần. Năng lượng điện thực hiện điều này.

793. The attracted material units obscure the Spirit, but a great act of service is thereby arranged.

793.   Những đơn vị vật chất bị hấp dẫn che khuất Tinh thần, nhưng nhờ thế mà một hành vi phụng sự lớn lao được sắp đặt.

The magnetic force, the life of the Logos gathers together His body of manifestation.  The magnetic force of the Heavenly Man, the planetary Logos, gathers out of the solar ring-pass-not that which He needs for each incarnation.

Lực từ, sự sống của Thượng đế tập hợp lại thân thể ngoại hiện của Ngài. Lực từ của Đấng Thiên Nhân, Hành Tinh Thượng đế, tập hợp từ trong vòng-giới-hạn Thái dương những gì Ngài cần cho mỗi lần lâm phàm.

794. Notice the use of the words “energy” and “force”. We are dealing with electrical energy and magnetic force.

794.   Lưu ý cách dùng các từ “năng lượng” và “lực”. Chúng ta đang đề cập đến năng lượng điện và lực từ.

795. We are focusing upon a process of selectivity conditioned by the karma of the gatherer and of the gathered.

795.  Chúng ta đang tập trung vào một tiến trình tuyển chọn được điều kiện bởi nghiệp quả của kẻ thu thập và của cái được thu thập.

796. It is as if, for the duration of manifestation, both factors are attracted to each other—the one who serves as logos and the lesser units gathered by the logos (whether that logos is the central life of an atom, a man, a Planetary Logos or a Solar Logos).

796.   Như thể rằng, trong suốt thời kỳ ngoại hiện, cả hai yếu tố đều hấp dẫn lẫn nhau—đấng đóng vai trò là thượng đế và các đơn vị nhỏ hơn được vị thượng đế ấy quy tụ (dù vị thượng đế ấy là sự sống trung ương của một nguyên tử, một con người, một Hành Tinh Thượng đế hay một Thái dương Thượng đế).

[284]

[284]

The magnetic force of the Ego gathers, at each rebirth, matter within the particular sphere or scheme within which the Ego has place.

Lực từ của Chân ngã, vào mỗi lần tái sinh, tập hợp chất liệu trong phạm vi khu vực hay hệ thống mà Chân ngã có chỗ đứng.

797. This matter is pre-conditioned by the previous incarnation of the particular Ego. The matter gathered has already been tinged by the quality of the Ego through frequent, former association.

797.  Chất liệu này đã được định điều kiện sẵn bởi lần lâm phàm trước của Chân ngã ấy. Chất liệu được tập hợp đã từng được nhuộm sắc bởi phẩm tính của Chân ngã qua bao lần liên hệ trước kia.

The focus of activity shifts from the active body to the active entity within that body, the master of his surroundings, the director of his possessions, and the one who is the breath itself, despatching the lives to the reservoir of substance, or recalling them at will to resume their relation to him. (R&I 103)

Trọng tâm hoạt động chuyển từ thể hoạt động sang thực thể hoạt động bên trong thể ấy, bậc làm chủ hoàn cảnh chung quanh mình, người điều khiển các sở hữu của mình, và chính là hơi thở, phái đi các sự sống về hồ chứa của chất liệu, hoặc triệu hồi chúng tùy ý để nối lại mối liên hệ với y. (R&I 103)

798. The same must be true of the Solar Logos and the Planetary Logos. They are (through previous experience) related to that which they gather. And when they are gathered by a far greater Entity, it is as a result of former association.

798.   Điều tương tự cũng đúng với Thái dương Thượng đế và Hành Tinh Thượng đế. Các Ngài (qua kinh nghiệm trước) có liên hệ với những gì các Ngài quy tụ. Và khi các Ngài được một Đấng còn vĩ đại hơn thu hút, đó là hậu quả của sự liên hệ trước kia.

799. When the Ego takes its ‘rest’ between incarnations, the matter previously conditioned by the Ego is also ‘resting’ within a “reservoir of life”

799.  Khi Chân ngã “nghỉ ngơi” giữa các kiếp, chất liệu trước đó đã được Chân ngã định điều kiện cũng “nghỉ ngơi” trong một “hồ chứa sự sống”.

So on down the scale, we find the lesser pursuing its round ever within the greater.

Cứ thế hạ xuống theo nấc thang, chúng ta thấy cái thấp hơn theo đuổi vòng quay của nó luôn luôn ở trong cái cao hơn.

800. Even the Universal Logos pursues its round with the GREATER—the GREATEST OF ALL POSSIBLE—the ABSOLUTE.

800.   Ngay cả Thượng đế Vũ Trụ cũng theo đuổi vòng quay của Ngài với ĐẤNG VĨ ĐẠI HƠN—ĐẤNG VĨ ĐẠI NHẤT TRONG MỌI KHẢ HỮU—ĐẤNG TUYỆT ĐỐI.

Therefore we have (during a period of Attraction and Repulsion, or a life cycle) that which we call Time and Space, and this holds equally true in the life cycle of a Logos or an ant, or a crystal.

Vì vậy chúng ta có (trong một thời kỳ của Hấp Dẫn và Đẩy Lùi, hoặc một chu kỳ sống ) cái mà chúng ta gọi là Thời gian và Không gian, và điều này đúng như nhau trong chu kỳ sống của một Thượng đế hay của một con kiến, hoặc của một tinh thể.

801. A life cycle is by definition a period of attraction and repulsion. Between the poles the life cycle occurs. The ‘space’ for the occurrence of every life cycle is situated in a specific magnetic and repulsive relation to the two poles. That relation changes through the process of evolution, moving away from matter and towards Spirit. In other words, the attraction towards matter gives way to repulsion from matter, and the repulsion from Spirit gives way to attraction to Spirit.

801.   Một chu kỳ sống theo định nghĩa là một thời kỳ của hấp dẫn và đẩy lùi. Giữa hai cực chu kỳ sống diễn ra. “Không gian” cho sự diễn ra của mọi chu kỳ sống nằm trong một tương quan từ tính và đẩy lùi đặc thù với hai cực. Tương quan đó thay đổi qua quá trình tiến hóa, chuyển rời khỏi vật chất và hướng về Tinh thần. Nói cách khác, sự hấp dẫn đối với vật chất nhường chỗ cho sự đẩy lùi khỏi vật chất, và sự đẩy lùi đối với Tinh thần nhường chỗ cho sự hấp dẫn đến Tinh thần.

802. The condition of Spirit and root Matter is timeless and spaceless. Through their electrical, magnetic interplay limited perception begins and thus begin time and space.

802.  Trạng thái của Tinh thần và Căn vật chất là vô thời gian và vô không gian. Qua sự tương tác điện–từ của chúng, tri giác hạn định khởi phát và như thế thời gian cùng không gian bắt đầu.

803. Unless attraction and repulsion are operative we will not have time and space.

803.   Nếu không có hấp dẫn và đẩy lùi vận hành, chúng ta sẽ không có thời gian và không gian.

804. Or, time and space manifest only during periods of attraction and repulsion between Spirit and Matter.

804.   Hoặc, thời gian và không gian chỉ biểu lộ trong những thời kỳ có hấp dẫn và đẩy lùi giữa Tinh thần và Vật chất.

805. The coming together of Spirit and Matter create time and space and also bring about the effective emergence into prominence of the second aspect of divinity (the ‘Universe Builder’) with its second law—the Law of Attraction—coeval with time and space.

805.   Sự kết hợp của Tinh thần và Vật chất tạo nên thời gian và không gian và cũng đưa đến sự nổi bật hữu hiệu của phương diện thứ hai của thiên tính (“Đấng Kiến Tạo Vũ Trụ”) với định luật thứ hai của Ngài—Định luật Hấp Dẫn—đồng thời với thời gian và không gian.

806. We judge then that the following ideas are closely related:

806.   Vậy chúng ta phán xét rằng các ý niệm sau đây có liên hệ mật thiết:

a. The attraction and repulsion of Spirit and Matter

a.    Sự hấp dẫn và đẩy lùi của Tinh thần và Vật chất

b. The Law of Attraction and Repulsion

b.    Định luật Hấp Dẫn và Đẩy Lùi

c. The Law of Periodicity

c.    Định luật Chu Kỳ

d. Time and Space

d.    Thời gian và Không gian

There are cycles of activity in matter, due to some energising Will, and then Time and Space are known.

Có những chu kỳ hoạt động trong chất liệu, do một Ý Chí năng hoạt nào đó kích thích, và rồi Thời gian và Không gian được biết đến.

807. Unless there is a cycle of activity in matter, Time and Space will not be known.

807. Nếu không có một chu kỳ hoạt động trong chất liệu, Thời gian và Không gian sẽ không được biết đến.

808. The Will (as Spirit or of Spirit) commences the engagement of Spirit and Matter.

808.  Ý Chí (như Tinh thần hay của Tinh thần) khởi sự sự giao kết giữa Tinh thần và Vật chất.

809. The genesis of time and space require the instigation of cyclic and spiral cyclic activity in matter as an energizing Will engages with matter.

809.   Nguồn sinh khởi của thời gian và không gian đòi hỏi sự khởi xướng hoạt động chu kỳ và xoắn ốc chu kỳ trong chất liệu khi một Ý Chí năng hoạt tương tác với chất liệu.

810. We note the phrase, “Time and Space are known”. This phrase points to the fact that Time and Space are perceptions or, as Kant has said, “categories of consciousness”.

810.   Chúng ta lưu ý cụm từ “Thời gian và Không gian được biết đến ”. Cụm từ này chỉ ra rằng Thời gian và Không gian là những tri giác hay, như Kant đã nói, “những phạm trù của tâm thức”.

There are cycles of non-being when Time and Space are not, and the energising Will is withdrawn.

Có những chu kỳ phi-hiện hữu khi Thời gian và Không gian không còn, và Ý Chí năng hoạt được thu hồi.

811. This is of philosophical importance.

811.   Điều này có tầm quan trọng triết học.

812. The only cycle of pure and true non-being is the cycle of the ABSOLUTE—as GOD-ALL-IN-ALL.

812.  Chu kỳ phi-hiện hữu thuần túy và chân thực duy nhất là chu kỳ của ĐẤNG TUYỆT ĐỐI—như THƯỢNG ĐẾ-TẤT-CẢ-TRONG-MỌI-SỰ.

813. Paradoxically, although ‘within’ the ABSOLUTE, Time and Space are not, nevertheless this ‘STATE’ occurs periodically!

813.   Nghịch lý thay, mặc dù “trong” ĐẤNG TUYỆT ĐỐI, Thời gian và Không gian không tồn tại, tuy nhiên “TÌNH TRẠNG” này lại xảy ra một cách chu kỳ!

814. The cycles of non-being are devoid of the sequential changes caused by the Law of Attraction and Repulsion.

814.   Các chu kỳ phi-hiện hữu vắng bóng những biến đổi tuần tự do Định luật Hấp Dẫn và Đẩy Lùi gây nên.

815. We see how fundamental to the production of Time and Space is the “energizing Will”.

815.   Chúng ta thấy “Ý Chí năng hoạt” là nền tảng đến mức nào đối với sự sản sinh Thời gian và Không gian.

816. The Will is that which goes forth from the Real in order to create the un-Real.

816.   Ý Chí là cái đi ra từ Chân Thực để tạo nên Phi-Thực.

817. The Will is the catalyst for the emergence of interactive duality.

817.   Ý Chí là chất xúc tác cho sự xuất hiện của nhị nguyên tính tương tác.

818. The cycles of non-being need not be absolute. Each entity enters, periodically, relative cycles of non-being relative.

818.   Các chu kỳ phi-hiện hữu không nhất thiết là tuyệt đối. Mỗi thực thể định kỳ đi vào các chu kỳ tương đối  của phi-hiện hữu theo tính tương đối.

But we must not forget that this is purely relative, and only to be considered from the standpoint of the particular life or entity involved, and the special stage of awareness reached.  All must be interpreted in terms of consciousness.

Nhưng chúng ta không được quên rằng điều này hoàn toàn là tính tương đối, và chỉ nên được xét từ lập trường của sự sống hay thực thể cụ thể có liên quan, cùng với giai đoạn nhận thức đặc thù đã đạt. Mọi điều đều phải được diễn giải theo các thuật ngữ của tâm thức.

819. There are, apparently, many types of cycles of relative non-being, but, in cosmos, they are more an experience than a fact.

819.   Hình như có nhiều loại chu kỳ của tính phi-hiện hữu tương đối, nhưng, trong vũ trụ, chúng là kinh nghiệm hơn là một sự kiện.

820. In deepest sleep, time and space appear as naught—at least the awakening one remembers a period of apparent non-existence or nothingness. This is not to say that the abstracted consciousness was not conscious and aware on levels impenetrable to the waking consciousness.

820.  Trong giấc ngủ sâu nhất, thời gian và không gian dường như bằng không—ít nhất là người thức dậy nhớ một thời đoạn của dường như không-tồn-tại hay hư vô. Điều này không có nghĩa là tâm thức được trừu xuất ấy không còn tỉnh giác và biết ở những cấp độ bất khả xuyên nhập đối với tâm thức tỉnh táo.

821. A cycle of relative non-being is a cycle of abstraction, or pralaya but not a cycle of extinction.

821.   Một chu kỳ của phi-hiện hữu tương đối là một chu kỳ trừu xuất, hay pralaya nhưng không phải là một chu kỳ tiêu diệt.

822. Perhaps may be that within cosmos, any cycle of non-being is really illusory, for the cosmos is being in manifestation, and consciousness is inextinguishable (though its content in higher worlds is often unremembered by the human being immersed in the limited consciousness of the lower worlds).

822.   Có lẽ có thể là trong vũ trụ, bất kỳ chu kỳ phi-hiện hữu nào thật ra đều là huyễn ảo, vì vũ trụ là hiện hữu trong ngoại hiện, và tâm thức là bất khả tiêu diệt (dẫu nội dung của nó ở các thế giới cao thường không được người phàm đang chìm trong tâm thức hạn hẹp của các cõi thấp nhớ lại).

823. We now deal with the meaning of three kinds of cycles. In the immediately foregoing excerpts DK mentions only two.

823.   Bây giờ chúng ta xử lý ý nghĩa của ba loại chu kỳ. Trong các trích đoạn ngay liền trước, Chân sư DK chỉ nhắc đến hai loại.

The first type of cycle, or the period involved in one entire revolution of a sphere around its own centre of consciousness, is to the particular Entity involved (be he God or man) a lesser cycle.

Loại chu kỳ thứ nhất, hay thời kỳ liên quan đến một vòng quay trọn vẹn của một cầu thể quanh chính trung tâm tâm thức của nó, đối với Thực thể cụ thể liên hệ (dù là Thượng đế hay con người) là một chu kỳ nhỏ.

824. This is rotation upon an axis.

824.   Đây là sự quay quanh trục.

825. One revolution/rotation of this kind is, for the Earth, a day and night cycle. Clearly, for the Earth, this is a lesser cycle when compared to the yearly revolution of the Earth around the Sun.

825.  Một vòng quay loại này, đối với Trái Đất, là chu kỳ ngày và đêm. Hiển nhiên, đối với Trái Đất, đây là một chu kỳ nhỏ khi so với vòng quay hàng năm của Trái Đất quanh Mặt Trời.

826. For a human being, one lesser cycle is a complete rotation of all rotating sheaths. We do not know the periods for such rotations. The greater cycle is the cycle of incarnation.

826.   Đối với một con người, một chu kỳ nhỏ là một vòng quay trọn vẹn của tất cả những bao thể đang quay. Chúng ta không biết các thời kỳ cho những vòng quay như vậy. Chu kỳ lớn hơn là chu kỳ lâm phàm.

827. This type of cycle correlates to the third aspect of divinity and to rotary motion.

827.   Loại chu kỳ này tương ứng với phương diện thứ ba của thiên tính và với chuyển động tự quay.

The second type of cycle or the period involved in the complete circling of an orbit, or the revolution of a sphere around the centre of which it is an integral part, we can consider as a greater cycle.

Loại chu kỳ thứ hai hay thời kỳ liên quan đến sự chu hành hoàn toàn của một quỹ đạo,  hay vòng quay của một cầu thể quanh trung tâm mà nó là một bộ phận tích hợp, chúng ta có thể xem như một chu kỳ lớn.

828. Thus we have rotation, per se, as a lesser cycle and revolution per se, as a greater cycle.

828.   Như vậy chúng ta có sự tự quay, tự thân, như một chu kỳ nhỏ, và vòng quay quỹ đạo tự thân, như một chu kỳ lớn.

829. This second type of cycle correlates to the second aspect of divinity and to spiral-cyclic motion.

829.  Loại chu kỳ thứ hai này tương ứng với phương diện thứ hai của thiên tính và với chuyển động xoắn ốc chu kỳ.

830. For man it will be kind of ‘revolution’ around his Ego in the reincarnational cycle.

830.   Đối với con người, nó sẽ là một dạng “vòng quay” quanh Chân ngã của y trong chu kỳ luân hồi.

831. For the Planetary Logos, this type of cycle will be a revolution around the Sun, defining the year.

831.   Với Hành Tinh Thượng đế, loại chu kỳ này sẽ là vòng quay quanh Mặt Trời, xác định năm.

832. For the Solar Logos this cycle will be a revolution (we are told) of the solar system around the Pleiades (especially with reference to the central star of the Pleiades, Alcyone).

832.   Với Thái dương Thượng đế, chu kỳ này sẽ là vòng quay (chúng ta được cho biết) của hệ mặt trời quanh Pleiades (đặc biệt liên hệ đến sao trung tâm của Pleiades, Alcyone).

The third type of cycle has not so much to do with the transition of the form through a certain location in space but as the cycle which includes both the greater and the lesser cycles.

Loại chu kỳ thứ ba không liên hệ nhiều đến sự quá độ của hình tướng qua một vị trí nhất định trong không gian mà là chu kỳ bao gồm cả chu kỳ lớn lẫn chu kỳ nhỏ.

833. This type of cycle, we can infer, will rightly be correlated with the first aspect of divinity and with the first type of motion—progressive.

833.   Chúng ta có thể suy ra rằng loại chu kỳ này sẽ tương ứng đúng với phương diện thứ nhất của thiên tính và với loại chuyển động thứ nhất—chuyển động tấn tới.

It has to do with the response of the ENTITY, to Whom our solar Logos is but a centre in His Body, to the contacts made on that centre and on its cosmic opposite.

Nó liên quan đến sự đáp ứng của THỰC THỂ, đối với Đấng mà Thái dương Thượng đế của chúng ta chỉ là một trung tâm trong Thân của Ngài, đối với những tiếp xúc được tạo ra trên trung tâm ấy và trên đối cực vũ trụ của trung tâm ấy.

834. A great triangle is produced between the ENTITY (let us call it a Cosmic Logos) and two Solar Logoi—our Solar Logos and the Solar Logos who is His polar opposite. We have already speculated on the possibility of either the Logos of Sirius or the Logos of Alpha Centauri—the two stars closest to the Sun.

834.   Một tam giác vĩ đại được tạo thành giữa THỰC THỂ (chúng ta hãy gọi là một Vũ Trụ Thượng đế) và hai Thái dương Thượng đế—Thái dương Thượng đế của chúng ta và Thái dương Thượng đế là cực đối nghịch của Ngài. Chúng ta đã suy đoán ở nơi khác về khả hữu đó là hoặc Thượng đế của Sirius hoặc Thượng đế của Alpha Centauri—hai ngôi sao gần Mặt Trời nhất.

835. In this type of cycle, the Cosmic Logos is responding to the interplay between Solar Logoi.

835.  Trong loại chu kỳ này, Vũ Trụ Thượng đế đang đáp ứng với sự tương tác giữa các Thái dương Thượng đế.

836. If we try to keep our perspective in proportion, the ENTITY concerned will not be the Super-Cosmic Logos or the One About Whom Naught May Be Said, because it is the constellation of which our Logos is one small part which is a center in such a BEING. (cf. TCF 293)

836.   Nếu chúng ta cố giữ phối cảnh ở đúng tỉ lệ, THỰC THỂ có liên quan sẽ không phải là Siêu Vũ Trụ Thượng đế hay Đấng Bất Khả Tư Nghị, bởi vì chòm sao mà trong đó Thái dương Thượng đế của chúng ta là một phần nhỏ bé mới là một trung tâm trong HỮU THỂ như vậy. (x. TCF 293)

These two centres, for instance, our solar system and its cosmic opposite, in their interaction create a cycle period which has a relation to the “ONE WHO IS ABOVE OUR LOGOS.”

Hai trung tâm này, chẳng hạn, hệ mặt trời của chúng ta và đối cực vũ trụ của nó, trong sự tương tác của chúng tạo ra một thời kỳ chu kỳ có liên hệ đến “ĐẤNG Ở TRÊN THƯỢNG ĐẾ CỦA CHÚNG TA.”

837. This whole subject is blinded. We have made some inferences elsewhere in this commentary.

837.   Toàn bộ chủ đề này bị che mờ. Chúng ta đã đưa ra một số suy luận ở nơi khác trong bản chú giải này.

838. The ONE WHO IS ABOVE OUR LOGOS is probably a Cosmic Logos and not a Super-Cosmic Logos.

838.  “ĐẤNG Ở TRÊN THƯỢNG ĐẾ CỦA CHÚNG TA” rất có thể là một Vũ Trụ Thượng đế chứ không phải là một Siêu Vũ Trụ Thượng đế.

839. One suspects that in considering these two Solar Logoi there is an analogy to the Earth (related to our Logos, perhaps) and Venus (related to the other Logos). If the analogy is appropriate, the other Logos is probably the Logos of Sirius.

839.   Người ta nghi rằng khi xét đến hai Thái dương Thượng đế này có một sự tương đồng với Trái Đất (có lẽ liên quan với Thượng đế của chúng ta) và Sao Kim (liên quan với Thượng đế kia). Nếu sự tương đồng thích đáng, Thượng đế kia có lẽ là Thượng đế của Sirius.

840. Have we noticed how great a leap there has been between the second type of cycle and the third?

840.   Chúng ta có nhận thấy có một bước nhảy lớn đến chừng nào giữa loại chu kỳ thứ hai và thứ ba không?

841. One suspects that in relation to this third cycle there will be a “driving forward through space” towards that great ENTITY which will act as an attractor for the two Solar Logoi under discussion.

841.   Người ta nghi rằng liên quan đến chu kỳ thứ ba này sẽ có một “sự thúc đẩy tiến qua không gian” hướng tới THỰC THỂ vĩ đại sẽ đóng vai trò như một điểm hấp dẫn đối với hai Thái dương Thượng đế đang được bàn.

This is, of course, beyond human conception, but must be included in our enumeration of cycles if exactitude is to be achieved.

Điều này, dĩ nhiên, vượt ngoài khái niệm của con người, nhưng phải được đưa vào sự liệt kê các chu kỳ của chúng ta nếu muốn đạt được tính xác quyết.

842. On the solar logoic level

842.   Trên cấp độ Thái dương thượng đế

a. The entire solar system has one revolution every 100,000 or so years.

a.  Toàn bộ hệ mặt trời có một vòng quay khoảng mỗi 100.000 năm hay hơn.

b. The entire solar system revolves (we are told) around the Pleiades every 250,000 years or so.

b.   Toàn bộ hệ mặt trời (chúng ta được cho biết) quay quanh Pleiades mỗi khoảng 250.000 năm hay hơn.

c. Our solar system and another to which ours is intimately related, are related to a greater ENTITY, and this relationship should involve the motion of “progress onward”.

c.   Hệ mặt trời của chúng ta và một hệ khác có liên hệ mật thiết với hệ của chúng ta, đều có liên hệ với một THỰC THỂ vĩ đại hơn, và mối liên hệ này hẳn liên can đến chuyển động “tiến tới phía trước”.

d. DK gives a hint when He says that this third type of cycle does not involve the “transition of the form through a certain location in space”, as do the first and second cycles. If the motion of “progress onward” were involved, the location in space would not be a “certain location” but would be forever changing with the “driving forward” of the two Logoi towards their ‘Attractor’.

d.   Ngài DK đưa ra một gợi ý khi Ngài nói rằng loại chu kỳ thứ ba này không liên quan đến “sự quá độ của hình tướng qua một vị trí nhất định trong không gian”, như hai chu kỳ thứ nhất và thứ hai. Nếu có liên quan đến chuyển động “tiến tới phía trước”, thì vị trí trong không gian sẽ không phải là một vị trí “ nhất định ” mà sẽ luôn thay đổi với “sự thúc đẩy tiến về phía trước” của hai Thượng đế hướng tới “điểm hấp dẫn” của họ.

e. This cycle would involve direct movement towards a cosmic center, and would naturally include the other two cycles of the Solar Logos—axial rotation and orbital revolution. The “driving forward” would render orbital revolution spiral-cyclic. So would it be, as well, for axial rotation

e.   Chu kỳ này sẽ bao gồm chuyển động trực tiếp hướng tới một trung tâm vũ trụ, và đương nhiên sẽ bao hàm cả hai chu kỳ khác của Thái dương Thượng đế—sự quay quanh trục và sự quay theo quỹ đạo. “Sự thúc đẩy tiến về phía trước” sẽ khiến chuyển động quỹ đạo trở nên xoắn ốc chu kỳ. Điều đó cũng sẽ đúng đối với sự quay quanh trục

843. Such a cycle in relation to man would relate to a return to the Monad.

843.   Một chu kỳ như vậy liên hệ đến con người sẽ là sự trở về với Chân thần.

844. We cannot hope to penetrate the veils hiding such cosmic occurrences. It does seem reasonable, however, to infer that this third type of cycle relates to Law of Monadic Return on both a human and solar logoic level.

844.   Chúng ta không thể hy vọng xuyên thủng những bức màn che giấu các biến cố vũ trụ như thế. Tuy vậy, có vẻ hợp lý khi suy ra rằng loại chu kỳ thứ ba này liên quan đến Định luật Trở Về của Chân thần trên cả cấp độ nhân loại và Thái dương thượng đế.

845. To simplify, the first type of cycle can be correlated with the personality.

845.   Để đơn giản hóa, loại chu kỳ thứ nhất có thể được liên hệ với phàm ngã.

846. The second type of cycle is a soul or egoic cycle.

846.   Loại chu kỳ thứ hai là một chu kỳ của linh hồn hay chân ngã.

847. The third type of cycle is inferred as a monadic cycle.

847.   Loại chu kỳ thứ ba được suy ra là một chu kỳ của chân thần.

848. The material we have been considering is deeply veiled and our intelligence is not sufficient to penetrate. DK uses the word “exceedingly abstruse”, and He means it!

848.   Những tài liệu chúng ta đang xét là được che giấu sâu xa và trí năng của chúng ta không đủ để xuyên nhập. DK dùng từ “cực kỳ uyên áo”, và Ngài muốn nói đúng như vậy!

Scroll to Top