COMMENTARY S1S14 (127-133)

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
📘DOCX📕PDF

S1S14: TCF 128-133

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Hầu hết văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt ở cỡ chữ 16 để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong lớp học. Chú thích và tham chiếu từ các Sách AAB khác và từ các trang khác của TCF đặt ở cỡ chữ 14. Lời bình đặt ở cỡ chữ 12. Gạch chân, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

[128]

[128]

V. DEATH AND THE ETHERIC BODY

V. CÁI CHẾT VÀ THỂ DĨ THÁI

It is not our purpose to give facts for verification by science, or even to point the way to the next step onward for scientific investigators; that we may do so is but incidental and purely secondary.

Mục đích của chúng ta không phải là đưa ra các dữ kiện để khoa học kiểm chứng, thậm chí cũng không phải để chỉ ra bước tiếp theo cho các nhà điều tra khoa học; nếu chúng ta có làm như vậy thì đó chỉ là tình cờ và hoàn toàn thứ yếu.

1. There is a broad purpose to the Tibetan’s approach. There are, nonetheless, many hints which scientific professionals may use to advance their specific discipline.

1. Cách tiếp cận của Chân sư Tây Tạng có một mục đích rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn có vô số ám chỉ mà các nhà chuyên môn khoa học có thể dùng để thúc đẩy chuyên ngành riêng của họ.

What we seek mainly is to give indications of the development and correspondence of the threefold whole that makes the solar system what it is—the vehicle through which a great cosmic ENTITY, the solar Logos, manifests active intelligence with the purpose in view of demonstrating perfectly the love side of His nature.

Điều chúng ta chủ yếu tìm kiếm là đưa ra những chỉ dẫn về sự phát triển và tương ứng của toàn thể tam phân làm cho hệ mặt trời là những gì nó là—vận cụ qua đó một ĐẠI THỰC THỂ vũ trụ, tức Thái dương Thượng đế, biểu lộ Trí tuệ tích cực với mục tiêu minh chứng một cách hoàn thiện phương diện tình thương trong bản tánh của Ngài.

2. Note that the Solar Logos is a great cosmic ENTITY and is referred to by capitalizing all letters in the word “ENTITY”. This kind of treatment is often reserved for greater Entities than He.

2. Lưu ý rằng Thái dương Thượng đế là một ĐẠI THỰC THỂ và được nhắc đến bằng cách viết hoa toàn bộ chữ “THỰC THỂ”. Cách xử lý này thường dành cho những Đấng còn lớn lao hơn Ngài.

3. To demonstrate perfectly the will side of His nature comes in the next solar system. Even in this solar system, there is the possibility that He will take the fifth cosmic initiation (and almost certainly the fourth) at either of which the will side will somewhat begin to demonstrate. He called, after all, a “Lion of Cosmic Will”.

3. Việc minh chứng hoàn hảo phương diện ý chí trong bản tánh của Ngài sẽ đến ở hệ mặt trời kế tiếp. Ngay trong hệ mặt trời này, vẫn có khả tính rằng Ngài sẽ thọ lần điểm đạo vũ trụ thứ năm (và hầu như chắc chắn lần thứ tư), ở mỗi mốc đó phương diện ý chí sẽ phần nào bắt đầu hiển lộ. Rốt cuộc, Ngài được gọi là “Sư Tử của Ý Chí Vũ Trụ”.

4. The fact that He is called “Lion” relate Him directly to the constellation Leo, which in astrology He is said to “rule”. This rulership must necessarily hide a deep occult affiliation between Him and the Lord of the Constellation Leo.

4. Việc Ngài được gọi là “Sư Tử” đặt Ngài liên hệ trực tiếp với chòm sao Sư Tử, mà trong chiêm tinh học nói rằng Ngài “cai quản”. Sự cai quản này tất yếu che giấu một liên hệ nội môn sâu xa giữa Ngài và Đấng Chúa Tể của chòm sao Sư Tử.

5. In any case, this second (or fifth) solar system is the system in which love is to be fully demonstrated. We could say that a Master of the Wisdom fully demonstrates the love aspect; thus, on His own level, the Solar Logos, once He became a Master of Cosmic Wisdom would demonstrate cosmic love fully. The analogy is useful.

5. Dù thế nào, hệ mặt trời thứ hai (hay thứ năm) này là hệ trong đó tình thương sẽ được hiển lộ trọn vẹn. Chúng ta có thể nói rằng một Chân sư Minh triết hiển lộ trọn vẹn phương diện tình thương; Do đó, trên cấp độ riêng của Ngài, Thái dương Thượng đế, một khi Ngài trở thành một Chân sư của Minh Triết Vũ Trụ, sẽ hiển lộ tình thương vũ trụ trọn vẹn. Phép loại suy này hữu ích.

Back of this design lies a yet more esoteric and ulterior purpose, hid in the Will Consciousness of the Supreme Being, which perforce will be later demonstrated when the present objective is attained.

Đằng sau đồ hình này còn có một mục đích thâm áo hơn nữa và viễn hậu hơn nữa, ẩn trong Tâm thức Ý Chí của Đấng Tối Thượng, điều tất yếu sẽ được hiển lộ về sau khi mục tiêu hiện tại được đạt đến.

6. Who is here meant? The One About Whom Naught May Be Said?

6. Ở đây nói đến Ai? Đấng Bất Khả Tư Nghị chăng?

7. The Supreme Being informing the entirety of cosmos cannot be meant as it is far too vast. There are some Beings to whom the consciousness of the Solar Logos is as the consciousness of a crystal is to man.

7. Đấng Tối Thượng thấm nhuần toàn thể vũ trụ không thể là đối tượng được nói đến vì quá bao la. Có những Đấng mà đối với Các Ngài, tâm thức của Thái dương Thượng đế của chúng ta cũng như tâm thức của một tinh thể đối với con người vậy.

8. “The Chohans of high degree [1086] know the forty-nine sounds which give the quality of the consciousness aspect of these great Beings Who are as far removed from the consciousness of our solar Logos as the consciousness of man is removed from that of a crystal.” (TCF 1085-1086)

8. “Các Chohan bậc cao [1086] biết bốn mươi chín âm điệu vốn ban cho phẩm tính của phương diện tâm thức cho những Đấng Vĩ Đại này—Các Ngài xa xôi với tâm thức của Thái dương Thượng đế chúng ta như tâm thức của con người xa xôi với tâm thức của một tinh thể.” (TCF 1085-1086)

9. Or does DK simply mean the will aspect of the Solar Logos. Then the “Supreme Being” is simply the Solar Logos.

9. Hoặc Chân sư DK đơn giản muốn nói đến phương diện ý chí của Thái dương Thượng đế. Khi ấy “Đấng Tối Thượng” chính là Thái dương Thượng đế.

10. This is an example of occult blinding, for the term “Supreme Being” can have a number of meanings in this context.

10. Đây là một ví dụ về phép che lấp huyền bí, vì thuật ngữ “Đấng Tối Thượng” có thể có một số nghĩa trong văn cảnh này.

The dual alternation of objective manifestation and of subjective obscuration, the periodic out-breathing, followed by the in-breathing of all that has been carried forward through evolution embodies in the system one of the basic cosmic vibrations, and the key-note of that cosmic ENTITY whose body we are.

Sự luân phiên nhị phân của biểu lộ khách quan và của u minh chủ quan—sự thở ra theo chu kỳ, tiếp theo là sự hít vào của tất cả những gì đã được đẩy tới qua tiến hoá—thể hiện trong hệ thống một trong các rung động vũ trụ căn bản, và chủ âm của ĐẠI THỰC THỂ vũ trụ mà thân thể của Ngài chính là chúng ta.

11. We may here be speaking of a Cosmic Logos, but not necessarily.

11. Ở đây chúng ta có thể đang nói đến một Thượng đế Vũ Trụ, nhưng không tất yếu.

12. The rhythm of this particular ‘Great Breath’ is correlated with a specific cosmic vibration.

12. Nhịp điệu của ‘Đại Hơi Thở’ đặc thù này tương ứng với một rung động vũ trụ chuyên biệt.

13. Examine: maybe DK is referring only to the Solar Logos and His different aspects.

13. Xét kỹ: có thể Chân sư DK chỉ đang nói đến riêng Thái dương Thượng đế và các phương diện khác nhau của Ngài.

14. All beings have their breathing cycle. The in-breathing and out-breathing of our Solar Logos would account for His periods of pralaya and of manifestation respectively.

14. Mọi hữu thể đều có chu kỳ hô hấp của mình. Sự hít vào và thở ra của Thái dương Thượng đế chúng ta sẽ giải thích các giai đoạn qui nguyên và biểu lộ của Ngài, tương ứng.

15. In this latter case we would be referring to our own Solar God (Who has been called and “ENTITY” above). This would mean that our Solar Logos has for His keynote one of the basic cosmic vibrations (presumably, one of several which are part of a larger cosmic system). Every being has a major ray which is but one of several rays (probably seven) in a system immediately larger.

15. Trong trường hợp sau, chúng ta sẽ nói về Thái dương Thượng đế của chính mình (Đấng vừa được gọi là “THỰC THỂ” ở trên). Điều này sẽ có nghĩa là Thái dương Thượng đế của chúng ta có một trong những rung động vũ trụ căn bản là chủ âm của Ngài (có lẽ là một trong số nhiều rung động thuộc về một hệ thống vũ trụ lớn hơn). Mọi hữu thể đều có một cung chính vốn chỉ là một trong số nhiều cung (có lẽ là bảy) thuộc về một hệ ngay lớn hơn.

16. The immediately larger sevenfold system would be the system of the Logos of the Seven Solar Systems of Which Ours is One.

16. Hệ thất phân ngay lớn hơn đó sẽ là hệ của Thượng đế của Bảy Hệ Mặt Trời mà Hệ của chúng ta là Một.

The heart beats of the Logos (if it might be so inadequately expressed) are the source of all cyclic evolution, and hence the importance attached to that aspect of development called the “heart” or “love aspect,” and the interest that is awakened by the study of rhythm.

Nhịp tim của Thượng đế (nếu có thể diễn đạt cách bất cập như thế) là nguồn của mọi chu kỳ tiến hoá, và do đó giải thích tầm quan trọng gắn với phương diện phát triển gọi là “trái tim” hay “phương diện tình thương”, và lý do của mối quan tâm khởi sinh từ việc khảo cứu nhịp điệu.

17. These ideas are very important demonstrating that cyclic law cannot be understood without a study of the heart.

17. Những ý niệm này rất quan trọng, cho thấy rằng định luật chu kỳ không thể được thấu hiểu nếu thiếu khảo cứu về trái tim.

18. In the heart is the “life”, and it is the life which controls the beginning and end of all cycles.

18. Trong trái tim là “sự sống”, và chính sự sống điều khiển khởi thủy và chung cuộc của mọi chu kỳ.

19. “Heart”, the “love aspect” and “rhythm” are three closely related subjects. We can therefore see the connection between the second ray of love and the seventh ray of rhythm. In our system it is the planet Jupiter which, particularly, expressed these two rays.

19. “Trái tim”, “phương diện tình thương” và “nhịp điệu” là ba chủ đề liên hệ mật thiết. Do đó, chúng ta có thể thấy mối liên hệ giữa cung hai của tình thương và cung bảy của nhịp điệu. Trong hệ của chúng ta, đặc biệt là hành tinh Mộc Tinh biểu lộ hai cung này.

20. A study of the planet Uranus would be useful in this regard, for He is not only the God of Cycles’ and the ‘God of Rhythm’ but is very important in transmitting second ray energy from our ‘local’ “Cosmic Christ”—the Logos of the Sun Sirius.

20. Một khảo cứu về hành tinh Thiên Vương Tinh sẽ hữu ích ở đây, vì Ngài không chỉ là ‘Thần của Chu kỳ’ và ‘Thần của Nhịp điệu’ mà còn rất quan trọng trong việc truyền dẫn năng lượng cung hai từ “Đức Christ Vũ Trụ” của “địa phương” chúng ta—Thượng đế Sirius.

21. Cycles are like heart-beats. Each heart-beat is a kind of cycle.

21. Các chu kỳ giống như nhịp tim. Mỗi nhịp tim là một kiểu chu kỳ.

22. Love is also cyclic—attracting and repelling.

22. Tình thương cũng có tính chu kỳ—thu hút và đẩy lùi.

23. There is much to be learned about the first and second rays through a study of the interaction of the cycles of the breath and of the heart. The cycles of appetite (which we notice through the onset of hunger) relate more to the third ray.

23. Có nhiều điều phải học về cung một và cung hai qua việc khảo cứu tương tác giữa chu kỳ của hơi thở và của trái tim. Các chu kỳ của khẩu vị (mà ta nhận thấy qua cảm giác đói) lại liên hệ nhiều hơn đến cung ba.

This is true, not only cosmically and macrocosmically, but likewise in the study of the human unit.

Điều này đúng, không chỉ ở cấp vũ trụ và đại thiên địa, mà còn trong khảo cứu về đơn vị nhân loại.

24. What is the distinction between the terms “cosmically” and “macrocosmically”? It seems that the term “cosmically” refers to a larger ring-pass-not.

24. Sự phân biệt giữa “vũ trụ” và “đại thiên địa” là gì? Có vẻ như thuật ngữ “vũ trụ” ám chỉ một vòng-giới-hạn lớn hơn.

Underlying all the physical sense attached to rhythm, vibration, cycles and heart-beat, lie their subjective analogies—love, feeling, emotion, desire, harmony, synthesis and ordered sequence,—and back of these analogies lies the source of all, the identity of that Supreme Being Who thus expresses Himself.

Bên dưới mọi ý nghĩa vật lý gán cho nhịp điệu, rung động, chu kỳ và nhịp tim, là các tương ứng chủ quan của chúng—tình thương, cảm tình, xúc cảm, dục vọng, hòa điệu, tổng hợp và trật tự tuần hoàn,—và đằng sau các tương ứng ấy là nguồn cội của mọi sự, tức căn tính của Đấng Tối Thượng, Đấng tự biểu lộ như thế.

25. Let us tabulated the externalities:

25. Hãy liệt kê các ngoại hiện:

a. Rhythm

a. Nhịp điệu

b. Vibration

b. Rung động

c. Cycles

c. Chu kỳ

d. Heart-beat

d. Nhịp tim

26. Let us tabulate the subjective analogies to the externalities:

26. Hãy liệt kê các tương ứng chủ quan với những ngoại hiện:

a. Love

a. Tình thương

b. Feeling

b. Cảm tình

c. Emotion

c. Xúc cảm

d. Desire,

d. Dục vọng

e. Harmony

e. Hoà điệu

f. Synthesis

f. Tổng hợp

g. Ordered sequence

g. Trật tự tuần hoàn

27. The rays evident in the internalities are one, two, four, six seven. Three and five seem to be missing.

27. Các cung hiển lộ trong những nội tại tính này là một, hai, bốn, sáu, bảy. Ba và năm dường như vắng mặt.

28. We are seeking to understand subjective analogies. Physical rhythms, vibrations, cycles and heart beats are not their own cause, but originate from analogous subjective patterns.

28. Chúng ta đang tìm hiểu các tương ứng chủ quan. Nhịp điệu, rung động, chu kỳ và nhịp tim vật chất không phải là nguyên nhân tự thân, mà phát sinh từ những kiểu mẫu chủ quan tương ứng.

29. The Solar Logos appears behind all these externalities. It would seem that we may have here the meaning of the term “Supreme Being”. In this context, it seems to be the Solar Logos.

29. Thái dương Thượng đế dường như đứng sau tất cả các ngoại hiện này. Ở đây có lẽ chúng ta có được nghĩa của thuật ngữ “Đấng Tối Thượng”. Trong văn cảnh này, dường như đó là Thái dương Thượng đế.

Therefore, the study of pralaya, or the withdrawal of the life from out of the etheric vehicle will be the same [129] whether one studies the withdrawal of the human etheric double, the withdrawal of the planetary etheric double, or the withdrawal of the etheric double of the solar system. The effect is the same and the consequences similar.

Vì Do đó, khảo cứu về pralaya—tức sự rút lui của sự sống ra khỏi vận cụ dĩ thái—sẽ là như nhau [129] cho dù người ta khảo cứu sự rút lui của thể dĩ thái con người, của thể dĩ thái hành tinh, hay của thể dĩ thái của hệ mặt trời. Tác động là như nhau và hệ quả tương tợ.

30. We note that pralaya is particular related (in this context) to withdrawal of life from the etheric vehicle.

30. Chúng ta lưu ý rằng pralaya đặc biệt liên quan (trong văn cảnh này) đến việc rút lui sự sống khỏi thể dĩ thái.

31. But for pralaya to be more complete, the withdrawal would have to continue—from out the astral and mental bodies.

31. Nhưng để pralaya trọn vẹn hơn, sự rút lui ấy phải tiếp diễn—ra khỏi cả thể cảm dục và thể trí.

32. The true ‘rest’ in the causal body results after every human pralaya. May not the same be the case for the greater Logoi—Planetary and Solar?

32. “Sự nghỉ” chân chính trong thể nguyên nhân diễn ra sau mỗi pralaya của con người. Phải chăng điều tương tự cũng đúng với các Thượng đế vĩ đại hơn—Hành Tinh và Thái dương?

33. We are speaking of what is normally called “death”, but we are doing so with respect to “atoms” greater than the human. There will also be a similar death pertaining to the atom of substance.

33. Chúng ta đang nói về cái mà bình thường gọi là “chết”, nhưng đang làm như vậy đối với những “nguyên tử” lớn hơn loài người. Cũng sẽ có một cái chết tương tự thuộc về nguyên tử của chất liệu.

What is the result of this withdrawal, or rather what causes that something which we call death or pralaya? As we are strictly pursuing the text-book style in this treatise, we will continue our methods of tabulation.

Kết quả của sự rút lui này là gì, hay đúng hơn, cái gì gây nên điều mà chúng ta gọi là cái chết hay pralaya? Vì chúng ta đang nhất quán theo lối trình bày như sách giáo khoa trong bộ luận này, chúng ta sẽ tiếp tục phương pháp liệt kê.

34. Death and pralaya are equivalent terms, but pralaya is the more philosophical term and suggests the ongoingness of cyclic life.

34. Cái chết và pralaya là những thuật ngữ tương đương, nhưng pralaya có tính triết học hơn và gợi lên tính chu kỳ liên tục của sự sống.

35. The “text-book style” cannot be undervalued. The Tibetan is capable of presenting His works in many styles. A Treatise on Cosmic Fire is presented in a concertedly academic manner. Nevertheless, this type of presentation still has a great draw upon the intuition.

35. “Lối trình bày như sách giáo khoa” không thể bị xem nhẹ. Chân sư Tây Tạng có khả năng trình bày các chức tác của Ngài theo nhiều phong cách. “Luận về Lửa Vũ Trụ” được trình bày theo một lối học thuật có chủ ý. Tuy Do đó, kiểu trình bày này vẫn có sức hấp dẫn mãnh liệt đối với trực giác.

The withdrawal of the etheric double of a man, a planet, and a system is brought about by the following causes:

Sự rút lui của thể dĩ thái của một người, một hành tinh và một hệ thống được gây ra bởi các nguyên nhân sau:

a. The cessation of desire. This should be the result of all evolutionary process.

a. Sự đình chỉ của dục vọng. Đây phải là kết quả của toàn bộ tiến trình tiến hoá.

36. This is an amazing thought—that the “cessation of desire” should be the result of all evolutionary process. We might say that if evolution are accomplished its goals, nothing remains to desire, for desire is the indicator of the longing for accomplishment.

36. Đây là một tư tưởng kinh diệu—“sự đình chỉ của dục vọng” phải là kết quả của toàn bộ tiến trình tiến hoá. Chúng ta có thể nói rằng nếu tiến hoá đạt được mục tiêu của nó, thì không còn lại gì để dục vọng, vì dục vọng là chỉ báo của khát vọng thành tựu.

True death, under the law, is brought about by the attainment of the objective, and hence by the cessation of aspiration.

Cái chết chân chính, theo định luật, được gây nên bởi sự đạt đến cứu cánh, và do đó bởi sự đình chỉ của nguyện vọng.

37. With every attainment of intended objective, the cessation of aspiration supervenes. Aspiration (or high desire) is a reaching for that which has not yet been achieved.

37. Với mỗi lần đạt đến cứu cánh đã định, sự đình chỉ của nguyện vọng liền nối tiếp. Nguyện vọng (hay dục vọng cao) là vươn tới cái chưa đạt.

This, as the perfected cycle draws to its close, will be true of the individual human being, of the Heavenly Man, and of the Logos Himself.

Điều này, khi chu kỳ hoàn thiện đi đến hồi kết, sẽ đúng với cá nhân con người, với Đấng Thiên Nhân, và với chính Thái dương Thượng đế.

38. In the attempt to understand this, we have to understand the relation between desire and will.

38. Nỗ lực hiểu điều này đòi hỏi chúng ta phải hiểu mối liên hệ giữa dục vọng và ý chí.

39. Desire is that energy or force which magnetizes that or is magnetized by that which will produce completion. Will is the expression of force which arises out of the realization of completion or wholeness (though relative).

39. Dục vọng là năng lượng hay lực hút cái sẽ tạo nên sự viên mãn, hoặc bị cái ấy hút; còn ý chí là sự biểu lộ của lực khởi sinh từ sự nhận thức về tính viên mãn hay toàn thể (dẫu tương đối).

40. Desire is based upon the number two and will, upon the number one.

40. Dục vọng đặt nền trên con số hai, và ý chí đặt nền trên con số một.

41. The entire method of the Buddha (since He taught the cessation of desire) was intended to lead to a liberating “death” or “pralaya”.

41. Toàn bộ phương pháp của Đức Phật (vì Ngài dạy sự đình chỉ của dục vọng) nhằm dẫn đến một “cái chết” hay “pralaya” giải phóng.

b. By the slowing down and gradual cessation of the cyclic rhythm, the adequate vibration is achieved, and the work accomplished.

b. Bằng sự chậm lại và dần dần đình chỉ của nhịp điệu chu kỳ, rung động đầy đủ được đạt đến, và công việc hoàn tất.

42. It is difficult to know whether the “slowing down and gradual cessation of the cyclic rhythm” is the means by which the adequate vibration is achieved, or whether, when the adequate vibration is achieved, there is a slowing down and gradual cessation of cyclic rhythm, for cyclic rhythms exist for the purpose of gradual achievement.

42. Khó biết rằng “sự chậm lại và dần dần đình chỉ của nhịp điệu chu kỳ” là phương tiện để đạt đến rung động đầy đủ, hay là khi rung động đầy đủ được đạt, thì có sự chậm lại và đình chỉ dần dần của nhịp điệu chu kỳ; vì các nhịp điệu chu kỳ hiện hữu nhằm mục đích đạt dần đến hoàn tất.

43. This “slowing down” may also simply indicate that the mechanism of desire for that particular incarnational cycle has spent its strength and that the movement towards fulfillment is waning for a period. In other words, desire may remain, but the physical-cyclic means to accomplish that desire is temporarily impotent. It will be renewed at the next cycle and the unfulfilled desire will have more rapid and vital rhythms at its disposal to achieve its objective.

43. Sự “chậm lại” này cũng có thể đơn giản chỉ ra rằng cơ chế của dục vọng cho chu kỳ nhập thế đặc thù đã kiệt lực và chuyển động hướng tới thành tựu đang tàn lụi tạm thời. Nói cách khác, dục vọng có thể còn, nhưng các nhịp điệu vật chất-chu kỳ để hoàn thành dục vọng ấy tạm thời bất lực. Chúng sẽ được đổi mới ở chu kỳ kế tiếp, và dục vọng chưa thành sẽ có những nhịp điệu nhanh hơn và sống động hơn để đạt cứu cánh.

When the vibration or note is perfectly felt or sounded it causes (at the point of synthesis with other vibrations) the utter shattering of the forms.

Khi rung động hay chủ âm được cảm thấu hay được xướng lên một cách hoàn mãn, nó (tại điểm tổng hợp với các rung động khác) gây nên sự tan vỡ hoàn toàn của các hình tướng.

44. Perfection precedes destruction. Harmonization evokes the death response.

44. Viên mãn đi trước hủy hoại. Sự hòa điệu khơi dậy đáp ứng của cái chết.

45. As one ages one can feel this gradual cessation of cyclic rhythm.. Perhaps the “adequate vibration” slated for a particular life cycle has been achieved.

45. Khi tuổi già đến, người ta có thể cảm được sự đình chỉ dần dần của nhịp điệu chu kỳ. Có lẽ “rung động đầy đủ” được ấn định cho một chu kỳ sinh hoạt đặc thù đã được đạt.

46. It is interesting to consider that a supreme harmonization shatters; one usually thinks of dissonance as that which shatters.

46. Thật thú vị khi xét rằng sự hòa điệu tối thượng làm tan vỡ; người ta thường nghĩ bất hòa mới gây tan vỡ.

47. When “cyclic rhythm” ceases, one “goes no more out”. Hence, one incarnates no more.

47. Khi “nhịp điệu chu kỳ” đình chỉ, người ta “không còn đi ra nữa”. Do đó, người ta không còn nhập thể nữa.

48. The cessation of desire and the cessation of cyclic rhythm are definitely related.

48. Sự đình chỉ của dục vọng và sự đình chỉ của nhịp điệu chu kỳ hiển nhiên có liên hệ với nhau.

Motion is characterised, as we know, by three qualities:

Chuyển động, như chúng ta biết, được đặc trưng bởi ba phẩm tính:

1. Inertia, [Tamas]

1. Trì độ, [Tamas]

2. Mobility, [Rajas]

2. Linh động, [Rajas]

3. Rhythm. [Sattva]

3. Nhịp điệu. [Sattva]

49. All the above are “modes of motion”.

49. Tất cả các điều trên đều là “các lối của chuyển động”.

50. We have to define “inertia” carefully. It is not simply the lack of movement (or the opposite of movement), but the tendency of a body to resist a change in its characteristic state—whether that state is the state of motion or the state of rest.

50. Chúng ta phải định nghĩa “trì độ” một cách cẩn trọng. Nó không đơn giản là thiếu chuyển động (hay đối nghịch với chuyển động), mà là khuynh hướng của một vật thể kháng lại sự thay đổi trong trạng thái đặc trưng của nó—dù trạng thái đó là chuyển động hay nghỉ.

51. In fact we realize, that throughout the entirety of cosmos, there is no such thing as stasis—as motionlessness. Existence, per se, is motion. Pure Being, however, is motionlessness, as there is no-thing to move relative to another thing. In complete homogeneity there can be no motion.

51. Thật Do đó, chúng ta nhận ra rằng trong toàn thể vũ trụ không hề có cái gọi là tĩnh—như là bất động. Hiện hữu, tự thân, là chuyển động. Tuy nhiên, Hữu Thể Thuần Túy là vô động, vì không có-vật gì để chuyển tương đối với vật khác. Trong tình trạng đồng nhất tuyệt đối không thể có chuyển động.

These three are experienced in just the above sequence and presuppose a period of slow activity, succeeded by one of extreme movement. This middle period produces incidentally (as the true note and rate is sought) cycles of chaos, of experiment, of experience and of comprehension.

Ba điều này được kinh nghiệm theo đúng trình tự nói trên và hàm ngụ một thời kỳ hoạt động chậm, tiếp theo là một thời kỳ chuyển động cực độ. Thời kỳ ở giữa này, trong khi chủ âm và nhịp điệu chân chính được tìm kiếm, đẻ ra phụ lưu là những chu kỳ của hỗn loạn, của thí nghiệm, của kinh nghiệm và của thấu triệt.

52. The sequence is invariable and applies to the developmental process of all entities.

53. Undeveloped man is in the stage of inertia (tamas); developing man typifies the stage of mobility (rajas); highly development men (such as true initiates and Masters) typify the stage of rhythm (sattva)

53. Người chưa phát triển ở giai đoạn trệ tĩnh (tamas); người đang phát triển tiêu biểu cho giai đoạn linh động (rajas); những người phát triển cao (như các điểm đạo đồ chân chính và các Chân sư) tiêu biểu cho giai đoạn nhịp điệu (sattva)

54. “True note” and “rate” relates to sattva and the soul.

54. “Âm điệu chân thật” và “nhịp độ” liên hệ với sattva và linh hồn.

55. Let us tabulate the characteristics of the rajasic state:

55. Chúng ta hãy lập bảng các đặc trưng của trạng thái rajasic:

a. Cycles of chaos

a. Các chu kỳ hỗn độn

b. Cycles of experiment

b. Các chu kỳ thí nghiệm

c. Cycles of experience

c. Các chu kỳ kinh nghiệm

d. Cycles of comprehension

d. Các chu kỳ lĩnh hội

56. In what stage of mobility do we now find ourselves? Surely we have overcome, for the most part, tamas, even though the major sin of initiates is sloth!

56. Chúng ta hiện đang ở giai đoạn linh động nào? Chắc chắn là chúng ta đã phần lớn vượt qua tamas, dù “đại tội” của các điểm đạo đồ là sự biếng lười!

57. Are we plunged into the midst of rajas? Do moments of sattva supervene? Or is sattva our habitual state?

57. Chúng ta có đang bị ném vào giữa rajas? Những khoảnh khắc sattva có chen vào không? Hay sattva là trạng thái thường trực của chúng ta?

58. This sounds very much like life upon the rather later stages of the Mutable Cross.

58. Điều này nghe rất giống sự sống ở các giai đoạn khá muộn trên Thập Giá Biến đổi.

59. Perhaps the cycles of relative chaos through which we pass are cycles of considerable learning?

59. Có lẽ những chu kỳ hỗn độn tương đối mà chúng ta đi qua lại là những chu kỳ học hỏi đáng kể?

60. Where does “Chaos Theory” fit into the progression of the three gunas?

60. “Thuyết Hỗn Độn” nằm ở đâu trong tiến trình của ba guna?

61. Where is our planetary process, as a whole, on the continuum of tamas, rajas and sattva?

61. Toàn bộ tiến trình của hành tinh chúng ta, như một chỉnh thể, đang ở đâu trên dải liên tục của tamas, rajas và sattva?

Following on these two degrees of motion (which are characteristic of the atom, Man, of the Heavenly Man [130] or group, and of the Logos or the Totality) comes a period of rhythm and of stabilisation wherein the point of balance is achieved.

Tiếp theo hai cấp độ chuyển động này (vốn là đặc trưng của nguyên tử, con người, của Đấng Thiên Nhân [130] hay nhóm, và của Thượng đế hay Toàn Thể) là một thời kỳ nhịp điệu và ổn định, trong đó đạt được điểm quân bình.

62. Tamas and rajas are called “two degrees of motion”.

62. Tamas và rajas được gọi là “hai cấp độ chuyển động”.

63. We note that these two degrees of motion characterize at one time or another all the wholes of which we are normally aware.

63. Chúng ta ghi nhận rằng hai cấp độ chuyển động này vào một lúc nào đó đều đặc trưng cho mọi chỉnh thể mà chúng ta thường tri nhận.

64. We must necessarily find the quality of Libra related to rhythm/sattva, since Libra is the sign of equilibrium.

64. Tất yếu chúng ta sẽ thấy phẩm tính của Thiên Bình liên hệ với nhịp điệu/sattva, vì Thiên Bình là dấu hiệu của quân bình.

By the force of balancing the pairs of opposites, and thus producing equilibripralaya is the inevitable sequence.

Do sức mạnh cân bằng hai cực đối đãi, và như vậy tạo ra trạng thái qui nguyên do cân bằng, hệ quả tất yếu sẽ xảy ra.

65. We now add the production of equilibrium to the causes which produce death.

65. Bây giờ chúng ta bổ sung sự tạo ra quân bình vào các nguyên nhân đưa đến cái chết.

a. The cessation of desire

a. Sự chấm dứt ham muốn

b. The slowing down and cessation of cyclic activity

b. Sự chậm lại và chấm dứt hoạt động chu kỳ

c. The balancing of the pairs of opposites leading to equilibrium

c. Sự cân bằng hai cực đối đãi dẫn đến quân bình

66. From a certain perspective, normal life processes predicate a loss of equilibrium. Final equilibrium leads to stasis and withdrawal.

66. Từ một góc nhìn nào đó, các tiến trình sống bình thường hàm ngụ sự mất quân bình. Quân bình chung cuộc dẫn đến tĩnh chỉ và thu hồi.

67. Libra and Pisces are the signs of the Christ. In both of them Venus (a planet of the Christ is strong), and both of them, in a way, are signs of withdrawal.

67. Thiên Bình và Song Ngư là các dấu hiệu của Đức Christ. Trong cả hai dấu hiệu này Sao Kim (một hành tinh của Đức Christ) đều mạnh, và cả hai, theo một cách, đều là các dấu hiệu của sự thu hồi.

68. It is not customary to think of Libra as a sign of death, but indeed it produces the equilibrium which allows the withdrawal from form. Desire (Mars) ceases in Libra (for the advanced man), for Mars is in detriment in Libra.

68. Thông thường người ta không nghĩ Thiên Bình là một dấu hiệu của chết chóc, nhưng thật ra nó tạo ra quân bình cho phép thu hồi ra khỏi hình tướng. Dục vọng (Sao Hỏa) chấm dứt trong Thiên Bình (đối với người tiến bộ), vì Sao Hỏa ở vào thế hãm địa trong Thiên Bình.

69. The final withdrawal into Shamballa (symbolized by the major head center) is ruled by Libra. The Aries/Libra polarity, related as it is to the Great Bear (which relates to the seven head centers and thus to samadhi) is involved with the withdrawal process. At earlier stages of evolution this polarity is related to the plunge into form and into duality.

69. Sự thu hồi chung cuộc vào Shamballa (được biểu tượng bởi đại luân xa đầu) do Thiên Bình cai quản. Cực tính Bạch Dương/Thiên Bình, do liên hệ với chòm sao Gấu Lớn (vốn liên hệ với bảy luân xa đầu và vì thế với samadhi), có dính líu đến tiến trình thu hồi. Ở các giai đoạn sớm hơn của tiến hoá, cực tính này gắn với sự lao vào hình tướng và vào nhị nguyên.

70. There is an important lesson for discipleship in all this: we often hear that we must balance the pairs of opposites on the astral plane, somewhere around the second initiation. We can say that Libra would be important in this process and that once the balance was achieved, there would be liberation from the astral plane into the mental. Without this balancing there is no liberation.

70. Có một bài học quan trọng cho địa vị đệ tử trong tất cả điều này: chúng ta thường nghe rằng chúng ta phải cân bằng hai cực đối đãi trên cõi cảm dục, đâu đó quanh lần điểm đạo thứ hai. Chúng ta có thể nói rằng Thiên Bình sẽ quan trọng trong tiến trình này và một khi đã đạt được thế cân bằng, sẽ có giải thoát khỏi cõi cảm dục để đi vào cõi trí. Không có sự cân bằng này thì không có giải thoát.

71. We can take the analogy to higher levels. Libra rules the spiritual triad. Once there is an equilibrating of the three energies of the triad, a release into the monad becomes possible.

71. Chúng ta có thể đẩy sự tương đồng lên các cấp cao hơn. Thiên Bình cai quản Tam Nguyên Tinh Thần. Một khi ba năng lượng của Tam Nguyên được quân bình, việc phóng thích vào chân thần trở nên khả hữu.

72. When through the blending of the fires of matter, mind and spirit, a balance is reached, liberation from the form is also achieved.

72. Khi qua sự hòa trộn các lửa của vật chất, thể trí và tinh thần, một thế cân bằng được đạt tới, thì sự giải thoát khỏi hình tướng cũng được thành tựu.

73. In all these cases, equilibrium within the three leads to the One. This principal could be related to Rule VIII for Disciples and Initiates, where the movement from the seven to the “Three” to the “ONE” is discussed.

73. Trong tất cả các trường hợp này, sự quân bình trong vòng ba dẫn đến Đấng Duy Nhất. Nguyên tắc này có thể liên hệ với Quy luật VIII dành cho các Đệ tử và các Điểm đạo đồ, nơi có bàn về chuyển động từ bảy sang “Ba” rồi đến “MỘT”.

c. By the severing of the physical from the subtler body on the inner planes, through the shattering of the web. This has a threefold effect:

c. Bằng cách tách rời thể xác khỏi thể vi tế hơn trên các cõi nội giới, qua việc làm vỡ mạng lưới. Điều này có một hiệu ứng tam phân:

74. We have been speaking of the causes for the withdrawal of the life from the etheric body of man (and later from his other bodies).

74. Chúng ta đã nói về các nguyên nhân khiến sự sống rút khỏi thể dĩ thái của con người (và về sau khỏi các thể khác của y).

a. The cessation of desire

a. Sự chấm dứt ham muốn

b. The slowing down and gradual cessation of cyclic rhythm

b. Sự chậm lại và chấm dứt dần của nhịp điệu chu kỳ

c. The balancing of the pairs of opposites leading to equilibrium

c. Sự cân bằng hai cực đối đãi dẫn đến quân bình

d. And now the severing of the physical from the subtler body through the “shattering of the web”

d. Và giờ là sự tách rời thể xác khỏi thể vi tế hơn qua việc “làm vỡ mạng lưới”

75. It is interesting that we do not speak of the severing of the subtler body from the physical which would seem equally legitimate.

75. Thật thú vị là chúng ta không nói “tách rời thể vi tế khỏi thể xác”, điều cũng có vẻ hợp lệ như nhau.

76. This severing through shattering has a threefold effect as listed below:

76. Sự tách rời qua việc làm vỡ này có ba hiệu ứng như liệt kê dưới đây:

First. The life that had animated the physical form (both dense and etheric) and which had its starting point in the permanent atom and from thence “pervaded the moving and the unmoving” (in God, the Heavenly Man, and the human being, as well as in the atom of matter) is withdrawn entirely within the atom upon the plane of abstraction. This “plane of abstraction” is a different one for the entities involved:

Thứ nhất. Sự sống vốn làm linh động hình hài thể xác (cả đậm đặc lẫn dĩ thái) và vốn có điểm khởi đầu ở Nguyên tử trường tồn, rồi từ đó “thấm nhuần cái động và cái bất động” (nơi Thượng đế, nơi Đấng Thiên Nhân, nơi con người, cũng như nơi nguyên tử của vật chất) sẽ được thu hồi hoàn toàn vào trong nguyên tử trên cõi trừu xuất. “Cõi trừu xuất” này khác nhau đối với các thực thể liên hệ:

77. This is an important hint. We want to watch closely the definition of the “plane of abstraction” for the various entities studied.

77. Đây là một gợi ý quan trọng. Chúng ta muốn theo dõi kỹ định nghĩa về “cõi trừu xuất” đối với các thực thể khác nhau được khảo cứu.

78. We note that “life” is withdrawn “within” the atom.

78. Chúng ta ghi nhận rằng “sự sống” được thu hồi “vào trong” nguyên tử.

79. What, we may ask, are “the moving and the unmoving”? Certainly on the systemic physical plane all is in motion. That which is “unmoving” can be considered to be pure being, and in a way, “life” is pervasive throughout pure being. It certainly substands all that is in motion. There is, nonetheless, something enigmatical about the use of this phrase, “pervaded the moving and unmoving” in this context.

79. Ta có thể hỏi: thế nào là “cái động và cái bất động”? Chắc chắn trên cõi hồng trần hệ thống, mọi sự đều chuyển động. Cái “bất động” có thể được xem như thuần hữu, và theo một cách, “sự sống” thấm nhuần trong thuần hữu. Chắc chắn nó là nền tảng cho mọi cái đang chuyển động. Tuy nhiên, có điều gì đó bí ẩn trong cách dùng cụm từ “thấm nhuần cái động và cái bất động” trong ngữ cảnh này.

80. Not only are the planes of abstraction different for each of the four kinds of entities involved, but the correspondences between one abstraction process to the next are not easily correlated in detail.

80. Không chỉ các cõi trừu xuất khác nhau cho từng loại thực thể trong bốn loại được đề cập, mà các tương ứng giữa một tiến trình trừu xuất với tiến trình tiếp theo cũng không dễ tương liên chi tiết.

a. For the physical permanent atom, it is the atomic level.

a. Đối với Nguyên tử trường tồn thể xác, đó là cõi phụ nguyên tử.

81. The life of the atom of substance is abstracted from the six lower subplanes of the systemic physical plane (three densely physical and three etheric). We see in this an analogy to the process of the Solar Logos.

81. Sự sống của nguyên tử chất liệu được trừu xuất khỏi sáu cõi phụ thấp của cõi hồng trần hệ thống (ba cõi phụ đậm đặc và ba cõi phụ dĩ thái). Chúng ta thấy ở đây một tương đồng với tiến trình của Thái dương Thượng đế.

b. For man, it is the causal vehicle.

b. Đối với con người, đó là vận cụ nhân quả.

82. Interestingly, the causal vehicle is here inferred to be as an atom.

82. Thật đáng chú ý, thể nhân quả ở đây được hàm ý như một nguyên tử.

83. In this withdrawal, man is abstracted from the eighteen lower subplanes of the systemic physical plane.

83. Trong sự thu hồi này, con người được trừu xuất khỏi mười tám cõi phụ thấp của cõi hồng trần hệ thống.

c. For the Heavenly Man, it is the second plane of monadic life, His habitat.

c. Đối với Đấng Thiên Nhân, đó là cõi thứ hai của sự sống chân thần, cư sở của Ngài.

84. The life of the Heavenly Man or Planetary Logos is abstracted from the five lower systemic planes, which are five lower subplanes of the cosmic physical plane.

84. Sự sống của Đấng Thiên Nhân hay Hành Tinh Thượng đế được trừu xuất khỏi năm cõi hệ thống thấp, vốn là năm cõi phụ thấp của cõi hồng trần vũ trụ.

85. When the Heavenly Man relinquishes His involvement with form at the severing or shattering He repairs to the monadic level. This, for reasons which will be suggested, seems a relatively low plane of abstraction for such an entity.

85. Khi Đấng Thiên Nhân rời bỏ dính líu với hình tướng ở thời điểm tách rời hay làm vỡ, Ngài trở về cõi chân thần. Điều này, vì những lý do sẽ được gợi ý, có vẻ là một cõi trừu xuất tương đối thấp đối với một thực thể như thế.

d. For the Logos, it is the plane of Adi.

d. Đối với Thượng đế, đó là cõi Adi.

86. The life of the Logos (sometimes called “God”) is abstracted from the six lower systemic planes, which are subplanes of the cosmic physical plane.

86. Sự sống của Thượng đế (đôi khi được gọi là “God”) được trừu xuất khỏi sáu cõi hệ thống thấp, vốn là các cõi phụ của cõi hồng trần vũ trụ.

87. Again, there is reason to think of this plane of abstraction as a relatively low one for the Solar Logos, especially if it is compared with the planet of abstraction for man.

87. Một lần nữa, có lý do để xem cõi trừu xuất này là tương đối thấp đối với Thái dương Thượng đế, đặc biệt nếu so với cõi trừu xuất đối với con người.

All these mark the points for the disappearance of the unit into pralaya. We need here to remember that it is always pralaya when viewed from below.

Tất cả những điều này đánh dấu các điểm mà đơn vị biến mất vào Giai kỳ qui nguyên. Chúng ta cần nhớ rằng luôn luôn là Giai kỳ qui nguyên khi nhìn từ bên dưới.

88. “Pralaya” is a term relative to the vision of those ‘below’ who witness the apparent disappearance of that which is abstracted.

88. “Giai kỳ qui nguyên” là một thuật ngữ tương đối với nhãn quan của những kẻ ‘ở dưới’ chứng kiến sự biến mất bề ngoài của cái được trừu xuất.

89. Gaining the right perspective on pralaya is important.

89. Đạt được viễn kiến đúng đắn về Giai kỳ qui nguyên là điều quan trọng.

90. The various planes we have been discussing: the atomic physical plane; the higher mental plane; the monadic plane; the adic plane; are all considered pralayic planes or planes on which the ‘disappearing’ unit of life eventually refocuses while in an abstracted state.

90. Các cõi khác nhau mà chúng ta đã bàn: cõi hồng trần phụ nguyên tử; cõi thượng trí; cõi chân thần; cõi Adi; tất cả đều được xem là các cõi qui nguyên, hay các cõi mà trên đó đơn vị sự sống ‘biến mất’ rốt cuộc tái định tâm trong trạng thái trừu xuất.

From the higher vision, that sees the subtler continuously overshadowing the dense when not in objective manifestation, pralaya is simply subjectivity, and is not that “which is not,” but simply that which is esoteric.

Từ nhãn quan cao hơn, nhãn quan thấy cái vi tế liên tục phủ bóng cái đậm đặc khi không ở trong biểu hiện khách quan, Giai kỳ qui nguyên đơn thuần là tính chủ quan, và không phải là “cái không hiện hữu”, mà đơn giản là cái mang tính nội môn.

91. This is an important distinction. Pralaya is not negation and true disappearance, but subjectivity.

91. Đây là một phân biệt quan trọng. Giai kỳ qui nguyên không phải là phủ định hay sự biến mất thực sự, mà là tính chủ quan.

92. That which is esoteric is defined as subjective. These two terms must be remembered in relation to each other.

92. Cái nội môn được định nghĩa là chủ quan. Hai thuật ngữ này phải được ghi nhớ liên hệ với nhau.

93. The subtle world is not truly the subjective. Astral and mental states are considered subtle but objective.

93. Thế giới vi tế không thực sự là cái chủ quan. Các trạng thái cảm dục và trí tuệ được xem là vi tế nhưng khách quan.

94. For the world at large, however, that which is esoteric is as if it were not—i.e., as if it were negated. Let us think even of our own lives; of how many cosmic factors are we totally unaware—as if they were not?

94. Tuy nhiên, đối với thế giới nói chung, cái nội môn như thể không hiện hữu—tức là như thể bị phủ định. Hãy nghĩ ngay cả về đời sống của chính chúng ta; chúng ta hoàn toàn không hay biết bao nhiêu yếu tố vũ trụ—như thể chúng không tồn tại?

Second. The etheric double of a man, a planetary Logos, and a solar Logos, being shattered, becomes nonpolarised as regards its indweller, and permits therefore of escape.

Thứ hai. Song trùng dĩ thái của một con người, một Hành Tinh Thượng đế, và một Thái dương Thượng đế, sau khi bị làm vỡ, trở nên không phân cực đối với đấng cư ngụ của nó, và do đó cho phép thoát ra.

95. We are still dealing with the three effects of the severing and shattering.

95. Chúng ta vẫn đang xử lý ba hiệu ứng của sự tách rời và làm vỡ.

96. This is an important statement in relation to bio-electricity.

96. Đây là một mệnh đề quan trọng liên hệ đến sinh điện học.

97. Polarization and its inevitable inter-polar magnetism, binds and prevents escape.

97. Sự phân cực, và từ điện liên cực không thể tránh, trói buộc và ngăn cản sự thoát ly.

98. It seems that the shattering of the etheric double is the cause of its becoming non-polarized. It become then, neutral to its indweller—neither attractive nor repulsive.

98. Có vẻ như việc làm vỡ song trùng dĩ thái là nguyên nhân khiến nó trở nên không phân cực. Khi ấy nó trở nên trung tính đối với đấng cư ngụ của nó—không còn thu hút cũng không còn đẩy lui.

99. Sattva is neutral and non-polarized. In the periodical table, Inert gases are examples of non-polarized, hence, sattvic elements. Perhaps, in the context of the periodic table they exist in a state analogous to hermaphroditism. Their ‘attractive encounters’ would occur within themselves.

99. Sattva là trung tính và không phân cực. Trong bảng tuần hoàn, các khí trơ là những ví dụ của các nguyên tố không phân cực, do đó, mang tính sattvic. Có lẽ, trong ngữ cảnh bảng tuần hoàn, chúng tồn tại ở một trạng thái tương tự lưỡng tính. Những ‘tương ngộ hấp dẫn’ của chúng sẽ diễn ra trong chính chúng.

100. In human evolution, the sattvic stage is achieved at the fourth initiation when the personality vehicles are composed entirely of atomic matter. There is therefore no desire to return to incarnation and nor need to do so (except under the impetus of the Will-to-Save. In this very practical instance, sattva represents equilibriharmony and therefore release (from incarnation) through non-desire. Mars (the planet which, through desire and attachment initiates return) is in detriment in Libra, one of the most sattvic of signs (during the later stages of evolution)

100. Trong tiến hoá nhân loại, giai đoạn sattvic được thành tựu ở lần điểm đạo thứ tư khi các vận cụ của phàm ngã được cấu thành hoàn toàn bằng chất liệu nguyên tử. Do đó không còn ham muốn trở lại lâm phàm và cũng không cần làm vậy (ngoại trừ dưới xung lực của Ý Chí-Cứu Rỗi). Trong trường hợp rất thực tiễn này, sattva biểu trưng cho hài hoà-cân bằng và vì thế là sự phóng thích (khỏi lâm phàm) bằng vô dục. Sao Hỏa (hành tinh, qua dục vọng và chấp trước, khởi phát sự hồi hoàn) ở vào thế hãm địa trong Thiên Bình, một trong những dấu hiệu sattvic nhất (trong các giai đoạn tiến hoá muộn)

101. If we want to ‘escape’ we must end desire and thus be non-polarized.

101. Nếu muốn ‘thoát’, chúng ta phải chấm dứt dục vọng và như vậy trở nên không phân cực.

102. We are to achieve a divine neutrality which is pure and releasing love.

102. Chúng ta phải đạt đến một trung tính thiêng liêng, vốn thuần khiết và giải phóng, tức tình thương phóng thích.

103. Inert gases and the Hermaphrodite

103. Các khí trơ và Người lưỡng tính

It is (to word it otherwise) no longer a source of attraction, nor a focal magnetic point. It becomes non-magnetic, and the great Law of Attraction ceases to [131] control it;

Nói cách khác, nó không còn là nguồn thu hút, cũng chẳng còn là điểm tụ từ. Nó trở thành phi từ, và Đại Định luật Hút thôi [131] chi phối nó;

104. Thus vehicles of expression (such as personality vehicles) can be affected by the Law of Attraction or not.

104. Như Do đó, các vận cụ biểu hiện (như các vận cụ của phàm ngã) có thể chịu sự chi phối của Định luật Hút hoặc không.

105. The supervening of the non-magnetic state of the etheric body coincides, it would seem, with the Ego’s loss of interest in the form (as discussed below).

105. Sự xuất hiện của trạng thái phi từ của thể dĩ thái dường như trùng khớp với sự mất hứng thú của Chân ngã đối với hình tướng (như bàn dưới đây).

106. This non-polar condition of the etheric vehicle can be seen at the time of the fourth initiation and on the verge of liberation. Can we say that it coincides with the cessation o the will-to-live in form (especially incarnated human form?)

106. Tình trạng không phân cực này của vận cụ dĩ thái có thể được thấy vào thời điểm lần điểm đạo thứ tư và ở bờ giải thoát. Chúng ta có thể nói rằng nó trùng khớp với sự chấm dứt của ý chí-sống trong hình tướng (đặc biệt là hình tướng nhân loại lâm phàm) chăng?

hence disintegration is the ensuing condition of the form.

vì Do đó, tan rã là tình trạng kế tiếp của hình tướng.

107. Because the indweller escapes and no longer promotes the coherency of the vehicle which it indwelt.

107. Bởi vì đấng cư ngụ thoát ra và không còn duy trì sự kết dính của vận cụ mà Ngài đã cư ngụ.

108. Without the binding power of ‘poles-in-attraction’ the form will not cohere.

108. Không có năng lực ràng buộc của ‘các cực hút nhau’, hình tướng sẽ không kết dính.

The Ego [probably means soul in this case] ceases to be attracted by its form on the physical plane, and, proceeding to inbreathe, withdraws its life from out of the sheath.

Chân ngã [có lẽ ở đây có nghĩa là linh hồn] thôi bị thu hút bởi hình tướng của nó trên cõi hồng trần, và, tiến hành thâu hít vào, rút sự sống của mình ra khỏi bao thể.

109. The Ego itself experiences a cessation of desire. Death results from a temporary ‘loss of interest’.

109. Chính Chân ngã trải nghiệm sự chấm dứt dục vọng. Cái chết là hệ quả của một ‘sự mất hứng thú’ tạm thời.

110. We know from our own experience that when we seek to interested in our various projects and undertakings, they die, or, at least, we ‘die to them’.

110. Chúng ta biết từ kinh nghiệm riêng rằng khi chúng ta thôi quan tâm đến các dự phóng và công việc khác nhau của mình, chúng chết, hay ít nhất, chúng ta ‘chết đối với chúng’.

The cycle draws to a close, the experiment has been made, the objective (a relative one from life to life and from incarnation to incarnation) has been achieved, and there remains nothing more to desire; the Ego, or the thinking entity, loses interest therefore in the form, and turns his attention inward. [this amounts to death]

Chu kỳ đi đến khép lại, cuộc thí nghiệm đã được thực hiện, mục tiêu (một mục tiêu tương đối từ đời này sang đời khác và từ lần lâm phàm này đến lần lâm phàm khác) đã đạt, và không còn gì nữa để ham muốn; Chân ngã, hay chủ thể tư duy, vì thế mất hứng thú đối với hình tướng, và quay sự chú ý vào nội tâm. [điều này tương đương với cái chết]

111. Manifestation arises because of desire. This is interesting in terms of the fifth unmanifested Creative Hierarchy, or the eighth from below. It is ruled by Neptune (desire) and has much to do with stimulating the processes of incarnation (as it is ruled by the sign of incarnation—Cancer.

111. Biểu lộ phát sinh là do dục vọng. Điều này thú vị nếu xét đến Huyền Giai Sáng Tạo Không Biểu Hiện thứ năm, hay thứ tám tính từ dưới lên. Nó do Sao Hải Vương (dục vọng) cai quản và có liên hệ mật thiết với kích thích các tiến trình lâm phàm (vì nó do dấu hiệu của sự lâm phàm—Cự Giải—cai quản).

112. Interesting—this loss of interest! We see how a loss of interest or attentiveness (when considering the magical process) leads to disintegration.

112. Thật thú vị—sự mất hứng thú này! Chúng ta thấy một sự mất hứng thú hay thiếu chăm chú (khi xét tiến trình huyền thuật) dẫn đến tan rã.

113. What is here being said of the Ego and its form can be said of the human creator and his thoughtforms.

113. Điều đang được nói ở đây về Chân ngã và hình tướng của nó cũng có thể được nói về con người sáng tạo và các hình tư tưởng của y.

114. For the sake of the service to be done, may be comport ourselves in such a way that the Solar Angel (or we as soul) do not prematurely ‘lose interest’ in our outer expression, the personality!

114. Vì sự phụng sự cần làm, mong rằng chúng ta xử mình thế nào để Thái dương Thiên Thần (hay chúng ta như linh hồn) không ‘mất hứng thú’ một cách quá sớm với biểu lộ bên ngoài của mình, tức phàm ngã!

His polarisation changes, and the physical is eventually dropped. [“Let go!” is the ancient formula.]

Sự phân cực của y thay đổi, và thể xác rốt cuộc được bỏ xuống. [“Buông ra!” là công thức cổ xưa.]

115. The drama of death is controlled by the great Law of Attraction (and Repulsion).

115. Vở kịch của cái chết được chi phối bởi Đại Định luật Hút (và Đẩy).

116. This statement is easily made and seems easy of apprehension, but what, really, is a change in polarization with respect to the life of the Ego.

116. Mệnh đề này thật dễ nói ra và dường như dễ lĩnh hội, nhưng thật ra, một sự thay đổi phân cực đối với sự sống của Chân ngã là gì?

117. The change in polarization occurs along with a loss of interest in the lower form.

117. Sự thay đổi phân cực xảy ra cùng với sự mất hứng thú đối với hình tướng thấp.

118. The role of desire in inciting and sustaining all manifestation is clear.

118. Vai trò của dục vọng trong việc kích khởi và duy trì mọi biểu lộ là điều rõ ràng.

119. Perhaps polarization is ultimately (and in terms of consciousness) based upon ‘concentration on other’ or ‘concentration on self’.

119. Có lẽ phân cực rốt cùng (xét theo tâm thức) đặt nền trên ‘tập trung vào tha’ hay ‘tập trung vào tự ngã’.

120. In this case interest in or concentration upon a superior is a negative polarization; interest in or concentration upon an inferior (as the Ego’s relationship to its personality) is a positive polarization; concentration upon oneself is a neutral polarization, the non-polarized condition.

120. Trong trường hợp này, quan tâm đến hay tập trung vào một đấng thượng đẳng là phân cực âm; quan tâm đến hay tập trung vào một đấng hạ đẳng (như mối liên hệ của Chân ngã với phàm ngã) là phân cực dương; tập trung vào chính mình là phân cực trung tính, tức trạng thái không phân cực.

The planetary Logos likewise in His greater cycle (the synthesis or the aggregate of the tiny cycles of the cells of His body) pursues the same course; He ceases to be attracted downward or outward, and turns His gaze within;

Hành Tinh Thượng đế cũng Do đó, trong đại chu kỳ của Ngài (tổng hợp hay tổng số các tiểu chu kỳ của những tế bào trong Thân Ngài) theo đuổi cùng tiến trình; Ngài thôi bị hấp dẫn đi xuống hay ra ngoài, và ngoảnh ánh nhìn vào bên trong;

121. From one perspective we can view this dynamic as sponsored by Mars (“downward and outward”) and Venus (the turning of the gaze within).

121. Từ một viễn quan, chúng ta có thể xem động lực này như do Sao Hỏa bảo trợ (“đi xuống và ra ngoài”) và Sao Kim (sự ngoảnh nhìn vào bên trong).

122. The motions being considered are centrifugal and centripetal.

122. Các chuyển động đang được xét là ly tâm và hướng tâm.

123. Where the eye turns, energy follows. When the eye is averted, energy is withdrawn.

123. Nơi mắt quay đến, năng lượng theo đó. Khi mắt quay đi, năng lượng liền thu hồi.

124. It would be productive to ponder on the nature of the Planetary Logos as “the synthesis or aggregate of the tiny cycles of the cells of His body”. His cycles are the sum of lesser cycles.

124. Sẽ hữu ích nếu chiêm nghiệm về bản tính của Hành Tinh Thượng đế như “tổng hợp hay tổng số các tiểu chu kỳ của những tế bào trong Thân Ngài”. Các chu kỳ của Ngài là tổng số các chu kỳ nhỏ hơn.

He gathers inward the aggregate of the smaller lives within His body, the planet, and severs connection. Outer attraction ceases and all gravitates towards the centre instead of scattering to the periphery of His body.

Ngài thu nhiếp vào trong tổng số các sự sống nhỏ hơn ở trong Thân Ngài, tức hành tinh, và cắt đứt liên hệ. Sự hấp dẫn hướng ra ngoài chấm dứt và mọi sự rơi về trung tâm thay vì tản ra chu vi Thân Ngài.

125. It is the lives that are gravitating to the center.

125. Chính các sự sống đang rơi về trung tâm.

126. ‘Where’ do these ingathered lives ‘go’?

126. ‘Những’ sự sống được thu nhiếp này ‘đi’ về ‘đâu’?

127. May we say that it is the spirit aspect of the smaller lives which is ingathered?

127. Chúng ta có thể nói đó là phương diện tinh thần của các sự sống nhỏ hơn được thu nhiếp chăng?

128. We may be speaking about the absorption of fire-by-friction into solar fire, and of solar fire into electric fire—at least this would be the case at any final pralaya.

128. Có thể chúng ta đang nói về sự hấp thu Lửa do ma sát vào Lửa Thái dương, và Lửa Thái dương vào Lửa điện—ít nhất đó sẽ là trường hợp ở bất kỳ Giai kỳ qui nguyên chung cuộc nào.

129. For interim pralayas, the absorption of fire-by-friction into solar fire would be sufficient.

129. Đối với các Giai kỳ qui nguyên tạm thời, sự hấp thu Lửa do ma sát vào Lửa Thái dương là đủ.

130. We see that in this instance the severing of connection is coming from the greater life. Above we (p. 130) we speak of the “severing of the physical from the subtler body”, as if the lower body were the agent of severing.

130. Chúng ta thấy rằng trong ví dụ này, sự cắt đứt liên hệ đến từ sự sống lớn hơn. Ở trên (tr. 130) chúng ta nói về “sự tách rời thể xác khỏi thể vi tế”, dường như thể thể thấp hơn là tác nhân của việc tách rời.

131. The Planetary Logos ceases His ‘outgoing’. He no longer sustains lives on the periphery of His body. Because He has withdrawn, the lives that were sustained by Him follow Him—inward.

131. Hành Tinh Thượng đế chấm dứt ‘xuất ly’. Ngài không còn duy trì các sự sống trên chu vi Thân Ngài. Vì Ngài đã thu hồi, các sự sống được Ngài duy trì đi theo Ngài—vào bên trong.

In the system, the same process is followed by the solar Logos; from His high place of abstraction, He ceases to be attracted by His body of manifestation. He withdraws His interest and the two pairs of opposites, the spirit and the matter of the vehicle, dissociate.

Trong hệ thống, cùng tiến trình được Thái dương Thượng đế thực hiện; từ cảnh giới cao của trừu xuất, Ngài thôi bị hấp dẫn bởi thân thể biểu lộ của Ngài. Ngài rút lại sự quan tâm và hai cặp đối cực—tinh thần và vật chất của vận cụ—ly tán.

132. Contrast Aries/Mars with Libra/Venus for beginnings and endings, for the impulse to involve and the impulse to release (through the ending of desire)

132. Hãy đối chiếu Bạch Dương/Sao Hỏa với Thiên Bình/Sao Kim cho phần khởi đầu và kết thúc, cho xung lực giáng nhập và xung lực phóng thích (qua sự chấm dứt dục vọng).

133. We notice that we are speaking of the dynamics of spirit and matter. Soul, per se, is not mentioned in this dynamic.

133. Chúng ta lưu ý rằng đang nói về động lực của tinh thần và vật chất. Linh hồn, tự thân, không được nhắc đến trong động thái này.

134. If we follow the analogy carefully, we will see that the logoic plane is only one ‘place’ of abstraction for the Solar Logos. His own causal vehicle must be the place of abstraction for Him, just as the casual vehicle of the Planetary Logos is a place of abstraction for that great entity.

134. Nếu theo sát sự tương đồng, chúng ta sẽ thấy cõi của Thượng đế chỉ là một ‘nơi chốn’ trừu xuất của Thái dương Thượng đế. Chính thể nhân quả của Ngài ắt phải là nơi trừu xuất cho Ngài, giống như thể nhân quả của Hành Tinh Thượng đế là nơi trừu xuất cho đại thực thể đó.

135. To think of the higher parts of the cosmic mental plane as the focus of abstraction for the Planetary Logos and Solar Logos seems a more fitting analogy to the process of human abstraction.

135. Xem các phần cao của cõi trí vũ trụ như là tiêu điểm trừu xuất cho Hành Tinh Thượng đế và Thái dương Thượng đế có vẻ là một tương đồng thích đáng hơn với tiến trình trừu xuất của con người.

136. We note that death of abstraction occurs when the inner life ceases to be attracted to its outer expression.

136. Chúng ta ghi nhận rằng cái chết hay sự trừu xuất xảy ra khi đời sống nội tại thôi bị hấp dẫn với biểu lộ bên ngoài của nó.

137. The true yogi is, in life, constantly involved in the processes of abstraction and has, it would seem no real attraction to his body of manifestation, which is simply considered instrumentally.

137. Vị du-già chân chính, ngay trong đời sống, liên tục can dự vào các tiến trình trừu xuất và dường như không thật sự bị lôi cuốn bởi thân biểu lộ của mình, vốn chỉ được xem như một khí cụ.

With this dissociation the solar system, that “Son of Necessity,” or of desire, ceases to be, and passes out of objective existence.

Với sự ly tán này, thái dương hệ, “Đứa Con của Tất yếu”, hay của dục vọng, thôi hiện hữu, và ra khỏi tồn tại khách quan.

138. In this context, necessity and desire seem to be equated.

138. Trong ngữ cảnh này, tất yếu và dục vọng dường như được xem như tương đương.

139. Once desire is activated, the process of manifestation that follows is necessitous—i.e., it follows by law.

139. Một khi dục vọng được kích hoạt, tiến trình biểu lộ nối theo mang tính tất yếu—tức là, nó diễn ra theo định luật.

140. “Dissociation” is a word which has been used by certain theorists to describe the Integration Formula for those upon the sixth ray.

140. “Ly tán” là một từ được vài nhà lý thuyết dùng để mô tả Công thức Tích hợp cho những người thuộc cung sáu.

141. We might consider the first ray as the ‘Ray of Dissociation’.

141. Chúng ta có thể xem cung một như ‘Cung của sự Ly tán’.

142. We remind ourselves that, while the solar system passes out of “objective” existence, it does not pass out of “subjective” existence.

142. Chúng ta nhắc mình rằng, trong khi thái dương hệ ra khỏi tồn tại “khách quan”, thì nó không ra khỏi tồn tại “chủ quan”.

143. This is all another way of saying that the ‘dead’ are very much with us! “Out of sight” may mean “out of mind”, but it does not mean “out of existence”.

143. Đây cũng là một cách khác để nói rằng những ‘kẻ chết’ vẫn rất gần gũi với chúng ta! “Khuất mắt” có thể đồng nghĩa “khuất trí”, nhưng không có nghĩa là “không còn tồn tại”.

Third. This leads finally, to the scattering of the atoms of the etheric body into their primordial condition.

Thứ ba. Điều này cuối cùng dẫn đến sự tản rã các nguyên tử của thể dĩ thái về tình trạng nguyên sơ của chúng.

144. What is this “primordial condition”? It would seem that we are discussing what in Rule IV for Disciples and Initiates has been called a “return to the reservoir of life”.

144. “Tình trạng nguyên sơ” là gì? Có vẻ như chúng ta đang nói về điều mà trong Quy luật IV dành cho các Đệ tử và các Điểm đạo đồ được gọi là “trở về hồ chứa Sự sống”.

The subjective life, the synthesis of will and love taking active form, is withdrawn.

Sự sống chủ quan, sự tổng hợp của ý chí và tình thương đang mang hình thức hoạt động, được thu hồi.

145. Note this definition of the “subjective life”—“the synthesis of will and love”. In our solar system we are learning that our subjective nature is not form; neither is it only will or only love, but a synthesis of the two.

145. Lưu ý định nghĩa này về “sự sống chủ quan”—“sự tổng hợp của ý chí và tình thương”. Trong thái dương hệ của chúng ta, chúng ta đang học rằng bản tính chủ quan của mình không phải là hình tướng; nó cũng không chỉ là ý chí hay chỉ là tình thương, mà là một tổng hợp của cả hai.

146. The monad is sometimes called atma-buddhi, or will and love.

146. Đôi khi Chân thần được gọi là atma-buddhi, tức ý chí và tình thương.

The partnership is dissolved.

Mối tương liên được giải tán.

147. Note the potential involvement of the sign of partnerships, Libra.

147. Lưu ý khả năng có sự tham dự của dấu hiệu của các mối tương liên, Thiên Bình.

The form then breaks up; the magnetism that has held it in coherent shape is no longer present, and dissipation is complete. Matter persists, but the form no longer persists.

Hình tướng sau đó vỡ ra; từ tính đã giữ nó trong hình dạng kết dính không còn hiện diện nữa, và sự tiêu tán trở nên trọn vẹn. Chất liệu vẫn tồn tại, nhưng hình tướng không còn tồn tại.

148. Libra indicates the partnership between spirit and matter. Aries and Mars are involved in inaugurating this process.

148. Thiên Bình biểu thị mối tương liên giữa tinh thần và vật chất. Bạch Dương và Sao Hỏa tham dự vào việc khai mở tiến trình này.

149. “In Aries we have the duality which is attached to the bringing together of spirit and matter in the great creative activity of manifestation at the beginning of the evolutionary cycle.” (EA II5)

149. “Trong Bạch Dương, chúng ta có nhị nguyên gắn với việc đem tinh thần và vật chất lại với nhau trong hoạt động sáng tạo vĩ đại của biểu lộ ở khởi đầu chu kỳ tiến hoá.” (EA II5)

150. We note again the distinction between matter and form—a distinction easy to overlook if we are too casual. Matter, per se, is shapeless; form has shape. However, it could be said that the tiny units of matter have ‘shape’. Shape is created through relationship.

150. Chúng ta lại ghi nhận sự phân biệt giữa chất liệu và hình tướng—một phân biệt dễ bị bỏ qua nếu ta quá sơ sài. Chất liệu, tự thân, vô hình dạng; hình tướng có hình dạng. Tuy nhiên, có thể nói các đơn vị nhỏ của chất liệu cũng có ‘hình dạng’. Hình dạng được tạo ra qua các liên hệ.

151. The presence of the life within the form is the presence of magnetism. Withdraw the life, withdraw the magnetism.

151. Sự hiện diện của đời sống trong hình tướng là sự hiện diện của từ tính. Rút đời sống đi, từ tính liền rút theo.

The work of the second Logos ends, and the divine [132] incarnation of the Son is concluded.

Công việc của Đệ Nhị Logos chấm dứt, và cuộc [132] lâm phàm thiêng liêng của Con kết thúc.

152. The Son is equivalent to the Second Logos. It is the ‘Logos of Relationship’ and its magnetism creates the ‘shape’ characteristic of form and the coherence of that shape.

152. “Con” tương đương với Đệ Nhị Logos. Đó là ‘Logos của Liên hệ’ và từ tính của Ngài tạo ra ‘hình dạng’ đặc trưng của hình tướng và sự kết dính của hình dạng đó.

But the faculty or inherent quality of matter also persists, and at the end of each period of manifestation, matter (though distributed again into its primal form [i.e., the “reservoir of life”]) is active intelligent matter plus the gain of objectivity, and the increased radiatory and latent activity which it has gained through experience.

Nhưng khả năng hay phẩm tính cố hữu của chất liệu cũng vẫn tồn tại, và vào cuối mỗi thời kỳ biểu lộ, chất liệu (dù lại được phân phối vào trạng thái nguyên sơ của nó [tức “hồ chứa Sự sống”]) là chất liệu thông tuệ hoạt động cộng thêm sự thu đạt tính khách quan, và sự gia tăng hoạt động phóng xạ và hoạt động tiềm tàng mà nó đã thu được qua kinh nghiệm.

153. What is the main purpose of being in a form? Shall we call it ‘the gain of quality’?

153. Mục đích chính của việc ở trong một hình tướng là gì? Chúng ta có thể gọi đó là ‘sự thu đạt phẩm tính’ chăng?

154. Let us focus on the meaning of this “gain of objectivity”. Does this mean that gain which has come through “objectivity”—i.e., through being molded or aggregated into objects, into forms?

154. Hãy tập trung vào ý nghĩa của “sự thu đạt tính khách quan” này. Có phải điều đó nghĩa là phần thu đạt đến từ “tính khách quan”—tức là, từ việc được đúc nắn hay kết tụ thành các đối tượng, thành các hình tướng?

155. The increase in radiatory and latent activity is easy to understand. Radiatory activity relates to pranic emanation; latent activity to the fire of dense matter itself. Note however, that even “latent activity” is increased, showing that it, too, has the possibility of evolving.

155. Sự gia tăng hoạt động phóng xạ và hoạt động tiềm tàng thì dễ hiểu. Hoạt động phóng xạ liên hệ đến phát xạ prana; hoạt động tiềm tàng liên hệ đến lửa của chất đậm đặc tự thân. Tuy nhiên, lưu ý rằng ngay cả “hoạt động tiềm tàng” cũng gia tăng, cho thấy nó cũng có khả năng tiến hoá.

156. All changes are changes of vibration and changes of relationship or configuration. The fact that matter is aggregated into objective form contributes to a change with respect to its “inherent quality”. Matter, in short, is reconfigured and its internal relationships are altered to a configuration more in line with the patterns of the inner life which has magnetized it.

156. Mọi biến đổi đều là biến đổi của rung động và biến đổi của liên hệ hay cấu hình. Việc chất liệu được kết tập thành hình tướng khách quan góp phần vào một biến đổi đối với “phẩm tính cố hữu” của nó. Tóm lại, chất liệu được tái cấu hình và các liên hệ nội tại của nó được điều chỉnh sang một cấu hình phù hợp hơn với các mô thức của đời sống nội tại đã từ tính hoá nó.

Let us illustrate: The matter of the solar system, when undifferentiated, was active intelligent matter, and that is all that can be predicated of it.

Hãy minh hoạ: Chất liệu của thái dương hệ, khi chưa biến phân, là chất liệu thông tuệ hoạt động, và đó là tất cả những gì có thể được khẳng định về nó.

157. Though we could enter into the vibratory nature of that activity. Matter is intelligent because it is selective and acts according to its inherent tendencies (which is desire on the lowest material level).

157. Tuy nhiên, chúng ta có thể đi sâu vào bản chất rung động của hoạt động đó. Chất liệu là thông tuệ vì nó có tính tuyển chọn và hành xử theo các khuynh hướng cố hữu của nó (vốn là dục vọng ở mức chất liệu thấp nhất).

158. What does DK mean here by “matter…when undifferentiated”? Does He mean that all such matter is homogenous—of similar constitution? Is He not allowing for the many varieties of matter created by the differentiating Fire of Fohat?

158. Ở đây Chân sư DK muốn nói gì bằng “chất liệu…khi chưa biến phân”? Có phải Ngài muốn nói mọi chất liệu như thế là đồng tính—cùng bản chất? Phải chăng Ngài không xét đến nhiều chủng loại chất liệu được tạo bởi Lửa của Fohat mang tính biến phân?

This active intelligent matter was matter qualified by an earlier experience, and coloured by an earlier incarnation.

Chất liệu thông tuệ hoạt động này là chất liệu được phẩm tính hoá bởi một kinh nghiệm trước đó, và được “nhuộm màu” bởi một lần lâm phàm trước.

159. That “earlier experience” occurred in the first solar system, which was both intelligent and materially inclined. We are speaking of an “earlier incarnation” of our Solar Logos.

159. “Kinh nghiệm trước đó” diễn ra trong thái dương hệ thứ nhất, vốn là thông tuệ và nghiêng về vật chất. Chúng ta đang nói về một “lần lâm phàm” trước của Thái dương Thượng đế của chúng ta.

Now this matter is in form, the solar system is not in pralaya but in objectivity,

Nay chất liệu này đang ở trong hình tướng, thái dương hệ không ở trong Giai kỳ qui nguyên mà ở trong hiện hữu khách quan,

160. For matter to be “in form” means that its inherent quality is being subjected to re-patterning. The magnetism of the indwelling life in reconfiguring the internal structural relationships within matter.

160. Việc chất liệu “ở trong hình tướng” nghĩa là phẩm tính cố hữu của nó đang chịu sự tái mô thức hoá. Từ tính của đời sống nội tại đang tái cấu hình các tương quan cấu trúc bên trong của chất liệu.

161. This “gain in objectivity” might also be called ‘gain through objectivity’.

161. “Sự thu đạt tính khách quan” này cũng có thể gọi là ‘sự thu đạt qua tính khách quan’.

—his objectivity having in view the addition of another quality to the logoic content, that of love and wisdom.

—sự hiện hữu khách quan của Ngài nhằm bổ sung một phẩm tính khác vào nội dung logoic, tức Bác Ái – Minh Triết.

162. Matter subjected to love and wisdom would necessarily be re-configured and re-patterned. It would not longer be strictly matter conditioned by the magnetism of the first solar system.

162. Chất liệu chịu sự chi phối của Bác Ái – Minh Triết nhất định sẽ được tái cấu hình và tái mô thức hoá. Nó sẽ không còn thuần là chất liệu bị điều kiện hoá bởi từ tính của thái dương hệ thứ nhất.

Therefore at the next solar pralaya, at the close of the one hundred years of Brahma,

Vậy nên vào kỳ Giai kỳ qui nguyên thái dương kế tiếp, khi khép lại “một trăm năm của Brahma”,

163. Apparently, each solar system will always last a hundred years of Brahma, but the absolute duration of an occult century may (perhaps) vary.

163. Hiển nhiên, mỗi thái dương hệ sẽ luôn kéo dài một trăm năm của Brahma, nhưng thời lượng tuyệt đối của một thế kỷ huyền môn có thể (có lẽ) thay đổi.

164. It may be that time is very relative and that occult centuries cannot be equated with each other according to an unvarying standard. In any case, we are in no position to measure such things.

164. Có thể thời gian là cực kỳ tương đối và các thế kỷ huyền môn không thể được đồng nhất hoá theo một chuẩn bất biến. Dù sao, chúng ta không ở vị thế có thể đo lường những điều như vậy.

165. We are told, at least, that our solar system is to last “one hundred years of Brahma”.

165. Ít nhất chúng ta được cho biết rằng thái dương hệ của chúng ta sẽ kéo dài “một trăm năm của Brahma”.

166. On can question whether, if our Solar Life were participating in different ‘Solar Yugas’ whether the duration of a solar system would be two hundred, three hundred or four hundred years to correspond with the relative duration of the various yugas, as is hypothesized in the case of man (who once, we are told, lived to be much older than now).

166. Người ta có thể đặt vấn đề rằng, nếu Sự Sống Thái dương của chúng ta tham dự vào các “Thời kỳ Thái dương” khác nhau, thì thời lượng của một thái dương hệ sẽ là hai trăm, ba trăm hay bốn trăm năm để tương ứng với thời lượng tương đối của các thời kỳ, như người ta giả thuyết trong trường hợp con người (người mà một thời, như chúng ta được biết, sống thọ hơn bây giờ rất nhiều).

the matter of the solar system will be coloured by active intelligence, and by active love. This means literally that the aggregate of solar atomic matter will eventually vibrate to another key than it did at the first dawn of manifestation.

chất liệu của thái dương hệ sẽ được “nhuộm màu” bởi thông tuệ hoạt động, và bởi tình thương hoạt động. Điều này có nghĩa là tổng số chất liệu nguyên tử thái dương rốt cuộc sẽ rung động theo một cung khác với cung đã có lúc bình minh đầu tiên của biểu lộ hé rạng.

167. A change in quality signals a change in vibration. If we really wish to describe the nature of quality we can use musical terms such as “key”, which simply means a sustained focusing at a particular vibratory frequency.

167. Sự đổi khác phẩm tính báo hiệu sự đổi khác rung động. Nếu thật sự muốn mô tả bản chất của phẩm tính, chúng ta có thể dùng các thuật ngữ âm nhạc như “cung”, vốn đơn giản là một sự tập trung duy trì ở một tần số rung động đặc thù.

168. We are speaking in the language of vibration, sound and color. Notice that when speaking of the impartation of quality, the term “coloured” is utilized.

168. Chúng ta đang nói bằng ngôn ngữ rung động, âm thanh và màu sắc. Lưu ý rằng khi nói về sự phú bẩm phẩm tính, thuật ngữ “nhuộm màu” được dùng.

169. We are discussing the endowment of lesser lives by greater lives.

169. Chúng ta đang bàn về sự phú bẩm của các sự sống nhỏ bởi các sự sống lớn.

170. We are being told that the faculty or inherent quality of matter persists even when matter is dispersed to the “reservoir of life”, its primal source.

170. Chúng ta được cho biết rằng khả năng hay phẩm tính cố hữu của chất liệu vẫn tồn tại ngay cả khi chất liệu được phân tán về “hồ chứa sự sống”, nguồn nguyên sơ của nó.

171. In an evolving cosmos, every unit is gaining from every other unit—IF the “Design at the Beginning” is followed.

171. Trong một vũ trụ đang tiến hoá, mọi đơn vị đều thu nhận từ mọi đơn vị khác—NẾU “Thiết Kế từ Khởi Thuỷ” được tuân theo.

We can work this out in connection with the planetary Logos and the human unit, for the analogy holds good.

Chúng ta có thể khai triển điều này liên hệ với Hành Tinh Thượng đế và đơn vị con người, vì sự tương đồng là đúng.

172. As human beings, our elemental constituents are returned to the reservoir of life (thence to be re-gathered at the next incarnation) but they have been coloured by the preceding incarnation.

172. Là con người, các thành phần hành khí của chúng ta được hoàn hoàn về hồ chứa sự sống (rồi từ đó được tái tụ trong lần lâm phàm kế) nhưng chúng đã được nhuộm màu bởi lần lâm phàm trước.

173. The re-gathering of previously aggregated units is one of the mysteries of the incarnational process. It does seem to occur—certainly in relation to the astral and mental elementals. It would be more difficult to conceive how this re-gathering could apply to the constituents of the physical elemental.

173. Sự tái tụ các đơn vị từng được kết tụ trước đây là một huyền nhiệm của tiến trình lâm phàm. Có vẻ như điều đó xảy ra—chắc chắn đối với các hành khí cảm dục và trí tuệ. Sẽ khó hình dung hơn điều này áp dụng thế nào cho các thành phần của hành khí thể xác.

We have a correspondence on a tiny scale in the fact that each human life period sees a man taking a more evolved physical body of a greater responsiveness, tuned to a higher key, of more adequate refinement, and vibrating to a different measure. In these three thoughts lies much information, if they are carefully studied and logically extended.

Chúng ta có một tương ứng ở tỉ lệ nhỏ trong thực tế rằng mỗi giai đoạn đời người thấy con người thọ dụng một thân xác tiến hoá hơn, đáp ứng tốt hơn, được chỉnh cung lên cao hơn, tinh luyện đầy đủ hơn, và rung động theo một nhịp độ khác. Trong ba ý niệm này có chứa nhiều thông tin, nếu được khảo cứu kỹ và mở rộng một cách hợp lý.

174. “Greater responsiveness” a “higher key” and “more adequate refinement” are parallel ideas.

174. “Tính đáp ứng cao hơn”, một “cung cao hơn” và “tinh luyện đầy đủ hơn” là các ý niệm song hành.

175. Looking backwards incarnationally may stimulate understanding of our present circumstances, but cannot be a very pleasant task. Probably, as we are, we are as ‘good’ as we have ever been (as human beings).

175. Nhìn lại các lần lâm phàm trước có thể kích thích sự hiểu biết về hoàn cảnh hiện tại của chúng ta, nhưng không thể là một việc dễ chịu. Có lẽ, như chúng ta hiện là, chúng ta ‘tốt’ như chúng ta từng là (trong tư cách con người).

176. There are, however, those who suffer great karmic liabilities and possess bodies which, apparently, are not tuned to a higher key. But we cannot allow ourselves to be deceived by appearances. In such cases we do not know whether the inner vehicles of such handicapped people have not been tuned to a higher key.

176. Tuy nhiên, có những người mang nợ nghiệp nặng nề và sở hữu các thân thể xem ra không được chỉnh cung lên cao. Nhưng chúng ta không thể để mình bị đánh lừa bởi bề ngoài. Trong những trường hợp như Do đó, chúng ta không biết liệu các vận cụ nội tại của những người khiếm khuyết ấy có đã được chỉnh cung lên cao hay không.

177. Nevertheless, there do seem to be instance of devolution caused by life tendency or by a temporary karmic condition. Those who pursue the left-hand path are involved in a long term devolution which cannot lead to greater refinement. Perhaps the real or imagined form of demons gives us an idea of what can happen through a dedicated will to re-immerse in matter.

177. Dẫu Do đó, dường như có những trường hợp thoái hoá do khuynh hướng sống hay do một tình trạng nghiệp tạm thời. Những ai theo tả đạo dính líu vào một sự thoái hoá lâu dài không thể dẫn đến tinh luyện cao hơn. Có lẽ hình dạng thực hoặc tưởng tượng của các ma quỷ cho chúng ta một ý niệm về điều gì có thể xảy ra qua một ý chí tận hiến để tái vùi lấp vào vật chất.

178. We also have the case of Down’s Syndrome—psychologically, a mysterious condition. The inner life may not be expressed through the outer form, either because of deliberate sacrifice (for the sake of others) or for karmic reasons.

178. Chúng ta cũng có trường hợp Hội chứng Down—về mặt tâm lý, là một tình trạng bí ẩn. Đời sống bên trong có thể không được biểu lộ qua hình tướng bên ngoài, hoặc do sự hy sinh có chủ ý (vì người khác) hoặc vì lý do nghiệp quả.

d. By the transmutation of the violet into the blue. This we cannot enlarge on. We simply make the statement, and leave its working out to those students whose karma permits and whose intuition suffices.

d. Bằng sự chuyển hoá màu tím vào màu xanh lam. Về điều này chúng tôi không thể khai triển. Chúng tôi chỉ nêu mệnh đề, và để việc triển khai nó cho những đạo sinh có nghiệp cho phép và có đủ trực giác.

179. We are still tabulating in relation to the sentence: “The withdrawal of the etheric double of a man, a planet, and a system is brought about by the following causes:”

179. Chúng ta vẫn đang lập bảng liên quan đến câu: “Sự rút lui của song trùng dĩ thái của một người, một hành tinh và một hệ thống được mang lại bởi các nguyên nhân sau:”

180. The movement from violet into blue is in the direction of abstraction and reflects a sixth ray mystical technique). Violet represents the physical sphere and blue, the astral. Clues in relation to this idea are found in Esoteric Healing and in Letters on Occult Meditation.

180. Sự chuyển dịch từ tím sang xanh lam đi theo hướng trừu xuất và phản ánh một kỹ thuật thần bí của cung sáu. Tím biểu trưng cho bình diện thể xác và xanh lam, bình diện cảm dục. Manh mối về ý niệm này được tìm thấy trong Trị Liệu Huyền Môn và trong Những Bức Thư về Tham Thiền Huyền Bí.

181. If we think about the other direction—the movement from ‘blue to violet’—we are moving in the direction of manifestation. It is an occult rather than mystical movement, a movement characterized by the seventh ray. It takes us into matter.

181. Nếu nghĩ về hướng ngược lại—chuyển từ ‘xanh lam sang tím’—chúng ta đang đi theo hướng biểu lộ. Đó là một chuyển động huyền thuật hơn là thần bí, một chuyển động được đặc trưng bởi cung bảy. Nó dẫn chúng ta đi vào vật chất.

182. It is interesting to note that blue has ‘less red’ in it – so the dissipation of ‘red desire’ is also indicated in a movement from violet to blue. Red is also the color of the first ray, of which the seventh ray is a more concrete reflection. The blue rays (ray six and two) do not ‘contain’ much of the first ray as does the seventh or violet ray. Violet has a ‘violence’ about it, a purpose, a desire to manifest from the highest to lowest. We have here the idea of spirit ‘vio-lating’ matter to impress itself in the lower worlds.

182. Thật thú vị khi lưu ý rằng xanh lam ‘ít đỏ’ hơn—vậy nên sự tiêu tán của ‘đỏ dục’ cũng được chỉ ra qua chuyển dịch từ tím sang xanh lam. Đỏ cũng là màu của cung một, mà cung bảy là một phản chiếu cụ thể hơn. Các cung màu xanh (cung sáu và cung hai) không ‘chứa’ nhiều cung một như cung bảy hay cung tím. Tím mang một sắc thái ‘mãnh liệt’, một mục đích, một dục vọng để biểu lộ từ cao nhất xuống thấp nhất. Ở đây chúng ta có ý niệm tinh thần ‘xâm nhập’ vật chất để ấn dấu mình vào các thế giới thấp.

183. When dealing with violet and blue we are dealing with exteriority and interiority respectively. Blue is the color of the inner quality of the two great Logoi in Whom we live and move and have our being (the Earth Logos and the Solar Logos). To enter into the blue means to enter more deeply into their subjective life, departing from their objective life.

183. Khi xử lý tím và xanh lam, chúng ta đang xử lý ngoại diện và nội diện tương ứng. Xanh lam là màu của phẩm tính nội tại của hai vị Đại Logos trong Đấng mà chúng ta sống, cử động và hiện hữu (Địa Cầu Thượng đế và Thái dương Thượng đế). Đi vào xanh lam nghĩa là đi sâu hơn vào đời sống chủ quan của Các Ngài, rời khỏi đời sống khách quan của Các Ngài.

184. We are moving towards the soul which is archetypally blue.

184. Chúng ta đang tiến về phía linh hồn, vốn có sơ nguyên là xanh lam.

185. Do the violet devas come from the Moon Chain? They are certainly devas of the ethers and, thus, related closely to form.

185. Liệu các thiên thần tím đến từ Dãy Mặt Trăng? Chắc chắn họ là các thiên thần của các tầng dĩ thái và vì vậy liên hệ mật thiết với hình tướng.

186. Bruises turn to violet. Also, a bruise one becomes black and blue.

186. Các vết bầm chuyển sang màu tím. Hơn nữa, một vết bầm trở thành đen bầm.

187. In our solar system, at least, blue is a more interior, subjective color.

187. Ít nhất trong thái dương hệ của chúng ta, xanh lam là một màu mang tính nội tại, chủ quan hơn.

e. By the withdrawal of the life, the form should gradually dissipate. The reflex action here is interesting to note, for the greater Builders and Devas who are the [133] active agents during manifestation, and who hold the form in coherent shape, transmuting, applying and circulating the pranic emanations, likewise lose their attraction to the matter of the form, and turn their attention elsewhere.

e. Bằng sự rút lui của sự sống, hình tướng sẽ dần tiêu tán. Tác động phản xạ ở đây đáng chú ý, vì các Đấng Kiến Tạo lớn và các Thiên thần vốn là [133] các tác nhân chủ động trong thời kỳ biểu lộ, và giữ cho hình tướng ở trong dạng kết cấu mạch lạc, chuyển hoá, áp dụng và lưu thông các phát xạ prana, cũng mất dần sự hấp dẫn đối với chất liệu của hình tướng, và chuyển sự chú ý của họ đi nơi khác.

188. This section is important for defining one of the roles of the “greater Builders and Devas”. They are the “active agents during manifestation and…hold the forming coherent shape”. They also transmute, apply and circulate pranic emanations.

188. Đoạn này quan trọng vì xác định một trong các vai trò của “các Đấng Kiến Tạo lớn và các Thiên thần”. Họ là “các tác nhân chủ động trong thời kỳ biểu lộ và…giữ cho hình tướng ở trong dạng kết cấu mạch lạc”. Họ cũng chuyển hoá, áp dụng và lưu thông các phát xạ prana.

189. What is discussed in this section is equivalent to a dissociation between greater and lesser devic lives.

189. Điều được bàn ở đoạn này tương đương với một sự ly cách giữa các sự sống thiên thần lớn và các sự sống hành khí nhỏ hơn.

190. Elemental lives are held in coherent shape by these greater Builders and Devas.

190. Các sự sống hành khí được giữ trong dạng kết cấu mạch lạc bởi các Đấng Kiến Tạo và Thiên thần lớn này.

191. The disintegration of the form is all part of the devic loss of attention; both the Solar Angel and the greater building Devas lose interest and withdraw attention.

191. Sự tan rã của hình tướng là một phần của sự mất chú tâm về phương diện thiên thần; cả Thái dương Thiên Thần lẫn các Thiên thần Kiến tạo lớn đều mất hứng thú và rút sự chú ý.

192. In studying the death process (the process of pralaya) we are noting changes in polarization and changes in attraction or interest. Death ensues because of a loss of attractive coherency between various cooperating entities. They temporarily ‘lose interest’ in each other; they lose the desire to be associated (because, for the moment, there is nothing to gain by this association).

192. Khi khảo cứu tiến trình chết (tiến trình Giai kỳ qui nguyên), chúng ta đang ghi nhận những đổi thay trong sự phân cực và những đổi thay trong sức thu hút hay mối quan tâm. Cái chết xảy ra do đánh mất tính gắn kết bằng hấp lực giữa các đơn vị hợp tác khác nhau. Chúng tạm thời “mất hứng thú” với nhau; chúng mất đi ước muốn liên kết (bởi vì, vào lúc đó, chẳng còn gì để thu nhận từ sự liên kết này).

193. The “song has been sung”

193. “Bài ca đã được xướng”

On the path of out-breathing (whether human, planetary or logoic) these building devas (on the same Ray as the unit desiring manifestation, or on a complementary Ray) are attracted by his will and desire, and perform their office of construction.

Trên lộ trình thở-ra (dù ở cấp nhân loại, hành tinh hay thuộc Thái dương Thượng đế) các thiên thần kiến tạo này (ở cùng Cung với đơn vị mong muốn biểu lộ, hoặc ở một Cung bổ sung) bị hấp dẫn bởi ý chí và dục vọng của y, và thi hành phận sự kiến tạo của mình.

194. This is a very important piece of information. The Ray of the building devas (being the same or complimentary to that of the man) is to be noted.

194. Đây là một thông tin hết sức quan trọng. Cần lưu ý Cung của các thiên thần kiến tạo (vốn trùng với, hoặc bổ sung cho, Cung của con người).

195. The building devas are attracted by the will or desire of the man—for manifestation.

195. Các thiên thần kiến tạo bị hấp dẫn bởi ý chí hay dục vọng của con người—vì mục đích biểu lộ.

196. It would be important for us to determine the evolutionary level of these devic builders.

196. Sẽ quan trọng cho chúng ta khi xác định cấp độ tiến hoá của các thiên thần kiến tạo này.

197. When dealing with the same of complimentary rays, the following equations should be noted.

197. Khi đề cập đến các cung trùng hoặc bổ sung, nên ghi nhận các “phương trình” sau.

198. 2 x 1 = 2 (Thus the first and second rays are related. Can they be called complementary?)

198. 2 x 1 = 2 (Vậy Cung một và Cung hai có liên hệ. Liệu có thể gọi chúng là bổ sung chăng?)

199. 2 x 2 = 4 (Thus the second and fourth rays are related. They are complementary.)

199. 2 x 2 = 4 (Vậy Cung hai và Cung bốn có liên hệ. Chúng là bổ sung.)

200. 2 x 3 = 6 (Thus the third and sixth rays are related. Can they be called complementary?)

200. 2 x 3 = 6 (Vậy Cung ba và Cung sáu có liên hệ. Liệu có thể gọi chúng là bổ sung chăng?)

201. Ray 2 = Indigo; R 5 = Indigo esoterically. Rays two and five are related, but can they be called complementary. In terms of color, the relationship is definite.

201. Cung 2 = màu chàm; Cung 5 = màu chàm về mặt nội môn. Cung hai và Cung năm có liên hệ, nhưng liệu có thể gọi là bổ sung chăng. Xét theo sắc màu, mối liên hệ là xác định.

202. Usually rays 1-3-5-7 are considered complementary as are 2-4-6, but the matter is a little more complex than it would seem initially.

202. Thông thường các cung 1-3-5-7 được xem là bổ sung, nhưng vấn đề phức tạp hơn vẻ bề ngoài ban đầu.

203. Is the identicality or complementarity of the “Ray” here discussed to be considered the soul ray or the monadic ray?

203. “Cung” được bàn đến ở đây—tính đồng nhất hay bổ sung—nên được xét là Cung linh hồn hay Cung chân thần?

204. The identicality or complementarity of the Ray in question pertains, it would seem, to one of the higher rays and not the lower ones.

204. Có vẻ như tính đồng nhất hay bổ sung của Cung đang xét thuộc về một trong các Cung cao hơn chứ không phải các Cung thấp.

205. If, for instance, one is on the second ray in his soul nature, one perspective on the matter would have the cooperating building devas correlating with that ray (a higher ray), but capable of building a mind, an emotional vehicle or etheric-physical body of any ray quality. It is the higher ray which would have to be identical or complementary in the case of the devas cooperating with the man, and not the lower rays.

205. Thí dụ, nếu ai đó thuộc Cung hai trong bản chất linh hồn, một góc nhìn về vấn đề là các thiên thần kiến tạo hợp tác sẽ tương ứng với Cung ấy (một Cung cao), nhưng có khả năng kiến tạo một thể trí, một thể cảm dục hay một thể dĩ thái-hồng trần với phẩm chất bất kỳ của cung. Chính Cung cao hơn mới phải đồng nhất hay bổ sung trong trường hợp các thiên thần kiến tạo hợp tác với con người, chứ không phải các Cung thấp.

206. Contrarily, we might ask if the different building devas cooperating with the man would have ray qualities correlating to the ray of the particular lower vehicle to be built.

206. Ngược lại, chúng ta có thể hỏi liệu các thiên thần kiến tạo khác nhau—vốn hợp tác với con người—sẽ mang các phẩm tính cung tương ứng với cung của từng vận cụ thấp được kiến tạo hay không.

207. The consensus in class was that Master DK is talking about a main ray (soul ray, or at some stage of evolution, monadic) rather than the ray of the lower bodies.

207. Đồng thuận trong lớp học là Chân sư DK đang nói về một Cung chính (Cung linh hồn, hoặc ở một giai đoạn tiến hoá nào đó, Cung chân thần) hơn là cung của các hiện thể thấp.

208. The whole matter can be resolved by concentrating on the words, “the same Ray as the unit desiring manifestation”. We are speaking of only one ray, and not of all the secondary rays related to the personality vehicles which will be used by that unit.

208. Toàn bộ vấn đề có thể được tháo gỡ bằng cách tập trung vào các từ “cùng một Cung với đơn vị mong muốn biểu lộ”. Chúng ta đang nói chỉ về một cung, chứ không phải mọi cung phụ liên hệ đến các vận cụ phàm ngã mà đơn vị ấy sẽ sử dụng.

On the path of in-breathing (whether human, planetary or logoic) they are no longer attracted, and the form begins to dissipate.

Trên lộ trình thở-vào (dù ở cấp nhân loại, hành tinh hay thuộc Thái dương Thượng đế) chúng không còn bị hấp dẫn nữa, và hình tướng bắt đầu tan rã.

209. The building devas are subject to fluctuations in “interest” just as is the Solar Angel or Ego.

209. Các thiên thần kiến tạo cũng chịu những dao động trong “mối quan tâm” giống như Thái dương Thiên Thần hay Chân ngã.

210. We see that the creation or dissipation of form is very much governed by the Law of Attractions (and Repulsion).

210. Chúng ta thấy việc kiến tạo hay tiêu tán hình tướng bị chi phối rất nhiều bởi Định luật Hấp dẫn (và Đẩy lùi).

211. Much depends upon whether the building devas are attracted or not.

211. Nhiều điều tùy thuộc vào việc các thiên thần kiến tạo có bị hấp dẫn hay không.

212. A general principle that might be extracted from the foregoing discussion is that interest is cyclic.

212. Một nguyên lý tổng quát có thể rút ra từ thảo luận trên là mối quan tâm có tính chu kỳ.

They withdraw their interest and the forces (likewise entities) who are the agents of destruction, carry on their necessary work of breaking up the form;

Chúng rút lại mối quan tâm và các mãnh lực (cũng là các thực thể) vốn là tác nhân của hủy diệt tiếp tục công việc cần thiết là phá vỡ hình tướng;

213. We are discussing different types of entities involved in the death process, or in the induction of pralaya.

213. Chúng ta đang bàn về các loại thực thể khác nhau tham dự vào tiến trình chết, hay trong việc dẫn khởi Giai kỳ qui nguyên.

they scatter it—as it is occultly expressed—to “The four winds of Heaven,” or to the regions of the four breaths,—a fourfold separation and distribution.

chúng phân tán nó—như cách diễn đạt nội môn—về “Bốn luồng gió của Thiên giới,” hay về các miền của bốn hơi thở,—một sự phân ly và phân phối tứ phân.

214. We may be learning something about the occult placement of the various “reservoirs of life”

214. Có thể chúng ta đang học được điều gì đó về sự an trí nội môn của các “hồ chứa sự sống” khác nhau.

A hint is here given for careful consideration.

Một gợi ý được đưa ra ở đây cho việc cân nhắc cẩn trọng.

215. Various thoughts, questions and speculations came to the group mind during discussion.

215. Nhiều tư tưởng, câu hỏi và suy đoán đã nảy sinh trong thể trí nhóm trong lúc thảo luận.

216. The wind is the spirit. Nicodemus was undergoing the third initiation, and was told, by the Christ, in effect that those who are born of the spirit are like the wind which “bloweth where it listeth”; no man knows of their comings or goings.

216. Gió là tinh thần. Nicodemus đang trải qua lần điểm đạo thứ ba, và được Đức Christ, theo nghĩa, cho biết rằng những ai sinh bởi tinh thần thì giống như gió “thổi nơi nào tùy ý”; không ai biết sự đến hay đi của họ.

217. Wind can be considered as a breath or energy current. We are to penetrate the symbolism.

217. Gió có thể được xem như một hơi thở hay một dòng năng lượng. Chúng ta phải xuyên thấu biểu tượng học.

218. Ray one is the ray of dispersion or scattering. Destructive entities are on ray one.

218. Cung một là cung của sự phân tán hay rải tán. Các thực thể hủy diệt thuộc cung một.

219. In the several ‘fours’ mentioned in this section, there are hints about the magical process which is essentially the process of creation and destruction, of formation and dissolution. This process has much to do with the number four considered as a number of manifestation.

219. Trong những “bộ bốn” được nhắc tới ở phần này, có những gợi ý về tiến trình huyền thuật vốn, tự thân, là tiến trình sáng tạo và hủy diệt, kết tạo và giải thể. Tiến trình này liên hệ mật thiết với con số bốn được xem như một con số của biểu lộ.

220. It is important to note that there are devas on different rays.

220. Quan trọng là ghi nhận rằng có các thiên thần ở những cung khác nhau.

221. Here we are contrasting building devas with devas of destruction.

221. Ở đây chúng ta đang đối chiếu các thiên thần kiến tạo với các thiên thần hủy diệt.

222. The “four winds of Heaven” are actually “four breaths”. Each of the four reservoirs for matter is ruled over by one of the Four Breaths (considering these breaths as great devic entities).

222. “Bốn luồng gió của Thiên giới” thực ra là “bốn hơi thở”. Mỗi trong bốn hồ chứa cho vật chất đều do một trong Bốn Hơi Thở cai quản (xem các Hơi Thở ấy như những đại thiên thần).

223. It would seem that the Guardians of the four directions (North, East, South, West) are to be considered Four Breaths. When they respond to invocation, perhaps they breathe.

223. Có vẻ như các Vệ thần của bốn phương (Bắc, Đông, Nam, Tây) nên được xem như Bốn Hơi Thở. Khi đáp ứng lời khẩn cầu, có lẽ Các Ngài sẽ thở.

224. Which four are these four?

224. Bốn nào là bốn này?

225. Are the “four winds of Heaven” Shamballic Beings? Or lower?

225. “Bốn luồng gió của Thiên giới” có phải là các Đấng thuộc Shamballa chăng? Hay thấp hơn?

226. Let us attend to the analogy of the four elements to the fourfoldness of Shamballa.

226. Chúng ta hãy lưu ý sự tương đồng giữa bốn nguyên tố và tính tứ phân của Shamballa.

227. The “Four Directions” are vibratory domains presided over by different devic entities.

227. “Bốn Phương” là các miền rung động do những thiên thần khác nhau chủ trì.

228. The “Four winds” are from Heaven. In which traditions are Guardians actually called “Four Winds”? In the East? Among the Native Americans and other indigenous peoples?

228. “Bốn luồng gió” là từ Thiên giới. Trong truyền thống nào các Vệ thần thực sự được gọi là “Bốn Luồng Gió”? Ở phương Đông? Trong số người Da đỏ châu Mỹ và các dân tộc bản địa khác?

229. Maybe the Solar Angel supervises the building devas.

229. Có lẽ Thái dương Thiên Thần giám sát các thiên thần kiến tạo.

230. The eighteen lower subplanes can be separated into four—physical, etheric, astral and lower mental. Elemental life is, it seems separated out and distributed in relation to eighteen subplanes.

230. Mười tám cõi phụ thấp có thể được chia thành bốn—hồng trần, dĩ thái, cảm dục và hạ trí. Sự sống hành khí, xem ra, được phân tách và phân phối liên hệ với mười tám cõi phụ.

231. Then, when the time is correct, the separated and distributed elements are breathed-in again.

231. Rồi, khi thời điểm chín muồi, các yếu tố đã phân ly và phân phối lại được thở-vào.

232. There are analogies existing between four divisions of the lower eighteen subplanes and the four cosmic ethers: logoic/lower mind; monadic/astral; atmic/etheric; buddhic/dense physical.

232. Có những tương đồng giữa bốn phân đoạn của mười tám cõi phụ thấp và bốn dĩ thái vũ trụ: logoic/hạ trí; chân thần/cảm dục; atma/dĩ thái; Bồ đề/thể xác đậm đặc.

233. The direction of the South can be related to Master R, the Mahachohan on the third ray; the East is reserved for the Teacher to come and is related to the second ray, the light; the West holds a relation to the Christ, the Redeemer of matter, Varuna; the North is traditionally for the elders, guarding the human race; sometimes the North is related to humanity as a whole and, especially, to what it will become under the cultivation of the Masters.

233. Hướng Nam có thể liên hệ với Chân sư R., vị Mahachohan thuộc cung ba; hướng Đông dành cho Vị Huấn Sư sẽ đến và liên hệ với cung hai, ánh sáng; hướng Tây có liên hệ với Đức Christ, Đấng Cứu Chuộc của vật chất, Varuna; hướng Bắc theo truyền thống dành cho các bậc trưởng lão, canh giữ nhân loại; đôi khi hướng Bắc liên hệ với toàn thể nhân loại và, nhất là, với điều nhân loại sẽ trở thành dưới sự giáo dưỡng của các Chân sư.

234. From another perspective, Atma can be considered the East, Buddhi the West, Manas the South and North is the Monad (or by reflection, humanity, fourfold, just as Shamballa is fourfold.)

234. Từ một góc khác, Atma có thể được xem là hướng Đông, Bồ đề là hướng Tây, Manas là hướng Nam và hướng Bắc là Chân thần (hoặc do phản chiếu, là nhân loại, tứ phân, cũng như Shamballa là tứ phân.)

235. Speculation arose concerning the assignment of the Archangels:

235. Có nảy sinh suy đoán về việc phân bổ các Tổng Thiên Thần:

236. From one perspective, Michael is related to Libra and Saturn.

236. Xét theo một góc nhìn, Michael liên hệ với Hổ Cáp và Sao Thổ.

237. If we consider the Archangels in relation to the Fixed Signs (as they often are), Uriel is the Ox and is seen in relation to Taurus; Gabriel (the One who Announces) is understood as the Eagle and can be related to Scorpio, hierarchically ruled by Mercury; Raphael is the Lion and is, thus, related to Leo and Michael (the man) is related to the human sign Aquarius. There is no hard and fast assignment of these Angels to the various signs, fixed signs or otherwise. There are many justifications.

237. Nếu chúng ta xét các Tổng Thiên Thần trong liên hệ với các Dấu hiệu Cố Định (như thường thấy), Uriel là Con Bò và được xem trong liên hệ với Kim Ngưu; Gabriel (Đấng Truyền Tin) được hiểu là Đại Bàng và có thể liên hệ với Hổ Cáp, vốn do Sao Thủy chủ quản ở cấp đẳng thứ bậc; Raphael là Sư Tử và, như Do đó, liên hệ với Sư Tử và Michael (con người) liên hệ với dấu hiệu nhân loại Bảo Bình. Không có sự phân bổ cứng nhắc các Thiên Thần này cho các dấu hiệu khác nhau, dù là dấu hiệu cố định hay khác. Có nhiều biện minh.

238. There are other assignments of the Archangels to the Cardinal Signs (Aries, Cancer, Libra, Capricorn),.

238. Cũng có những phân bổ khác của các Tổng Thiên Thần cho các Dấu hiệu Chủ Yếu (Bạch Dương, Cự Giải, Thiên Bình, Ma Kết).

239. According to the Church Calendar: Michael is powerful autumn (under Libra and Saturn, Gabriel rules the spring, as He came to tell Maria that she would bear the Christ Child; since the Christ was ‘born’ in Capricorn, the Annunciation would necessarily occur in the Spring in Aries. Continuing this assignment, but with less obvious justifications, Raphael is given to Capricorn and Uriel is given Cancer.

239. Theo Lịch Phụng Vụ của Giáo hội: Michael mạnh mẽ vào mùa thu (dưới Thiên Bình và Sao Thổ), Gabriel cai quản mùa xuân, vì Ngài đã đến báo cho Maria rằng Bà sẽ sinh Hài Nhi Christ; bởi vì Đức Christ “đản sinh” ở Ma Kết, Truyền Tin tất yếu diễn ra vào Mùa Xuân ở Bạch Dương. Tiếp tục phân bổ này, dù ít có biện minh hiển nhiên hơn, Raphael được gán cho Ma Kết và Uriel được gán cho Cự Giải.

240. Discussion then arose in relation to the color green, the sixth and the third rays:

240. Thảo luận sau đó chuyển về màu xanh lục, cung sáu và cung ba:

a. Green can be related to ray six because the sixth ray solar plexus center is said to be colored green and rose.

a. Màu xanh lục hỗ trợ sự tập trung ở đầu, cũng như đỏ kích thích tùng thái dương và xanh lục có tác động rõ rệt lên tim và các dòng sự sống. (Trị Liệu Huyền Môn 456-457)

b. Rose is a ray six color, relating it to the third ray through the green of the solar plexus.

b. Xanh lam và vàng trộn như phẩm màu cho ra xanh lục. Xanh lam tương ứng cung hai; vàng tương ứng cung bốn; 2 + 4 = 6 chia cho 2 = 3. Xanh lục tương ứng cung ba.

c. The previous solar system was the ‘Green System’

c. Hệ thống trước là “Hệ Xanh Lục”

d. Presently, the green is to be related to the blue.

d. Hiện nay, xanh lục liên hệ với xanh lam.

e. To relate the solar plexus to the heart is to relate the green to the blue.

e. Liên hệ tùng thái dương với tim là liên hệ xanh lục với xanh lam.

f. The movement to the heart is also a movement to yellow, a buddhic color. Our Sun, which is a symbol of the heart centers, is yellow and symbol for buddhi.

f. Sự chuyển dịch về tim cũng là chuyển dịch về vàng, một màu của Bồ đề. Thái Dương của chúng ta, biểu tượng của các trung tâm tim, là màu vàng và là biểu tượng cho Bồ đề.

g. When blue and yellow are mixed (both of them buddhic colors) the result is green—a color of manifestation.

g. Khi xanh lam và vàng được hoà (cả hai đều là màu của Bồ đề) thì kết quả là xanh lục—một màu của biểu lộ.

h. We are told that Saturn is bluish in the north and yellowish in the south.

h. Chúng ta được cho biết Sao Thổ xanh lam ở phương bắc và vàng ở phương nam.

Though no pictures have been drawn of death bed scenes nor of the dramatic escape of the palpitating etheric body from the centre in the head, as might have been anticipated, yet some of the rules and purposes governing this withdrawal have been mentioned.

Dẫu không có những bức vẽ về cảnh giường hấp hối, cũng không có cảnh kịch tính “thoát xác” của thể dĩ thái đang đập rộn từ trung tâm ở đầu, như người ta có thể chờ đợi, thì một vài quy luật và mục đích chi phối sự rút lui này đã được đề cập.

241. DK takes the more impersonal, less dramatic approach.

241. DK chọn cách tiếp cận phi cá nhân hơn, ít kịch tính hơn.

242. Much more information on the death process can be gleaned from Esoteric Healing.

242. Có thể thu lượm nhiều thông tin hơn về tiến trình chết trong Trị Liệu Huyền Môn.

We have seen how the aim of each life (whether human, planetary or solar) should be the effecting and the carrying out of a definite purpose.

Chúng ta đã thấy mục tiêu của mỗi sự sống (dù nhân loại, hành tinh hay Thái dương) phải là thực hiện và triển khai một mục đích minh định.

243. Life is purposeful. The purpose of each life is not vague but increasingly definite as evolution proceeds.

243. Sự sống có mục đích. Mục đích của mỗi sự sống không mơ hồ mà ngày càng minh định khi tiến hoá.

This purpose is the development of a more adequate form for the use of the spirit;

Mục đích này là phát triển một hình tướng thích đáng hơn cho việc sử dụng của tinh thần;

244. This is the clearly stated purpose of life. It is the will of spirit to manifest through its self-projection (matter/form)

244. Đây là mục đích được nêu rõ ràng của sự sống. Đó là ý chí của tinh thần muốn biểu lộ qua sự tự-phóng chiếu (chất liệu/hình tướng)

and when this purpose is achieved then the Indweller turns his attention away,

và khi mục đích này đạt được thì Đấng Cư Ngụ Bên Trong chuyển sự chú ý đi nơi khác,

245. This means, from a meditational perspective, that the Indweller enters a state of Self-contemplation.

245. Điều này, xét theo quan điểm tham thiền, có nghĩa là Đấng Nội Tại nhập vào trạng thái Tự-chiêm ngưỡng.

and the form disintegrates, having served his need. This is not always the case in every human life nor even in each planetary cycle. The mystery of the moon is the mystery of failure.

và hình tướng tan rã, sau khi đã đáp ứng nhu cầu của Ngài. Điều này không phải lúc nào cũng xảy ra trong mọi kiếp sống của con người, thậm chí không phải trong mỗi chu kỳ hành tinh. Huyền bí của Mặt Trăng là huyền bí của thất bại.

246. The Moon was a failure because the lower four, the elemental life, emerged into a dominant position and could not be controlled by the higher or rational aspects.

246. Mặt Trăng đã thất bại bởi vì bộ tứ thấp, sự sống hành khí, đã trồi lên nắm quyền chi phối và không thể bị kiểm soát bởi các phương diện cao hơn hay lý tính.

247. The last necessary human incarnation occurs with the taking of the fourth initiation; there is no need to incarnate after that. The Moon as the symbol of incarnational life is conquered.

247. Kiếp lâm phàm nhân loại cần thiết sau cùng diễn ra với lần điểm đạo thứ tư; sau đó không còn nhu cầu lâm phàm. Mặt Trăng như biểu tượng của đời sống nhập thể được chinh phục.

248. Interestingly, the Moon is ruled by ray four which correlates with the four elemental lives (with which it is no longer necessary to engage) and the fourth initiation, at which time this disengagement or dissociation becomes final.

248. Thật đáng chú ý, Mặt Trăng được cai quản bởi cung bốn vốn tương ứng với bốn sự sống hành khí (mà không còn cần phải dấn thân vào nữa) và với lần điểm đạo thứ tư, tại đó sự thoát ly hay phân ly này trở nên chung cuộc.

249. All this is achieved through sacrifice, the color of which is yellow. The Law of Sacrifice is related to the fourth ray and thus to Mercury and the color yellow.

249. Tất cả điều này được thành tựu qua hi sinh, màu của hi sinh là vàng. Định luật Hi Sinh liên hệ với cung bốn và như vậy liên hệ với Sao Thủy và màu vàng.

250. It is important to realize that the Moon (fourth ray) falls in the sign Scorpio (humanity’s sign, and a sign ruled by the fourth ray).

250. Cần hiểu rằng Mặt Trăng (cung bốn) rơi vào dấu hiệu Hổ Cáp (dấu hiệu của nhân loại, và là dấu hiệu được cung bốn chủ đạo).

251. Scorpio related to the number four and hence to the fourth initiation and the fall of the Moon, is the sign of death. One dies, in one’s fourfold elemental nature at the fourth initiation, but beings to live as a buddhic being, focussed on the fourth plane—the buddhic.

251. Hổ Cáp liên hệ với con số bốn và do đó với lần điểm đạo thứ tư và sự “suy tàn” của Mặt Trăng, là dấu hiệu của cái chết. Người ta chết, trong bản tính tứ phân hành khí của mình ở lần điểm đạo thứ tư, nhưng bắt đầu sống như một hữu thể Bồ đề, tập trung trên cõi thứ tư—cõi Bồ đề.

252. Through the livingness of the fourth initiation all lower lunar tendencies pertaining to the lower four are conquered.

252. Qua sức sống của lần điểm đạo thứ tư, mọi khuynh hướng nguyệt tính thấp liên hệ với bộ bốn thấp đều bị chinh phục.

253. One dies to the lower eighteen subplanes, the lunar subplanes. Interestingly, the Moon Card in the Tarot deck is Card Eighteen. This card represents illusion—presumably the illusion to be encountered on the eighteen lower subplanes.

253. Người ta chết đối với mười tám cõi phụ thấp, các cõi phụ nguyệt tính. Thật thú vị, Lá Mười Tám trong bộ bài Tarot là Lá Mặt Trăng. Lá này đại diện ảo tưởng—có lẽ là ảo tưởng sẽ gặp phải trên mười tám cõi phụ thấp.

254. In this section Master DK is speaking of those incarnational cycles in which purpose has not been fulfilled. The greatest case of non-fulfillment in the history of our planet was the case of the failure on the Moon-chain.

254. Trong phần này Chân sư DK đang nói về những chu kỳ nhập thể trong đó mục đích chưa được hoàn tất. Trường hợp không hoàn tất lớn lao nhất trong lịch sử hành tinh của chúng ta là trường hợp thất bại ở Dãy Mặt Trăng.

255. We learn that we, as human individualities, can experience our own correspondence to the failure on the Moon-chain.

255. Chúng ta học được rằng, với tư cách các cá thể nhân loại, chúng ta có thể trải nghiệm tương ứng riêng của mình với sự thất bại ở Dãy Mặt Trăng.

256. At least to know the incarnational purpose is of importance; this can go a long way towards the fulfillment of that purpose. The entire process of fulfillment on the Moon-chain had to aborted, according to the decision of the Solar Logos.

256. Ít nhất biết được mục đích nhập thể là điều quan trọng; điều này có thể góp phần rất lớn hướng đến sự hoàn tất mục đích ấy. Toàn bộ tiến trình hoàn tất trên Dãy Mặt Trăng đã phải bị đình chỉ, theo quyết định của Thái dương Thượng đế.

257. Group discussion then turned again to color:

257. Thảo luận nhóm sau đó lại quay về sắc màu:

a. Orange aids the focussing in the head, just as red stimulates the solar plexus and green has a definite effect upon the heart and life streams. (EH 456-457)

a. Màu cam trợ giúp việc tập trung ở đầu, cũng như đỏ kích thích tùng thái dương và xanh lục có tác động rõ rệt lên tim và các dòng sự sống. (Trị Liệu Huyền Môn 456-457)

b. Blue and yellow mixed as pigments make green. Blue is correlated to ray two; yellow is correlated to ray four; 2 + 4 = 6 divided by 2 = 3 Green is correlated to ray three.

b. Xanh lam và vàng trộn như phẩm màu cho ra xanh lục. Xanh lam tương ứng cung hai; vàng tương ứng cung bốn; 2 + 4 = 6 chia cho 2 = 3. Xanh lục tương ứng cung ba.

c. Is yellow the solution to the ray three problem of selfish mind because yellow is the color of sacrifice. Yellow is associated with pain, but also with cowardice. Lepus the Hare (fleeing from the “Hound of Heaven”) is associated with the first decanate of Gemini and with the escapist tendencies of Mercury.

c. Vàng có phải là lời giải cho vấn đề cung ba của cái trí ích kỷ, vì vàng là màu của hi sinh chăng. Vàng gắn với đau đớn, nhưng cũng gắn với sự hèn nhát. Chòm Lepus Con Thỏ (chạy trốn khỏi “Con Chó Săn trên Trời”) gắn với thập độ thứ nhất của Song Tử và với khuynh hướng thoái thác của Sao Thủy.

d. Yellow is the color of sacrifice. This can be justified in one way as follows: In the Egoic Lotus, wherever there is sacrifice there is yellow. The sacrifice petals of that lotus are colored primarily by yellow; i.e., yellow is found in each of the sacrifice petals, and in the sacrifice petal of the other love and knowledge tier.

d. Vàng là màu của hi sinh. Có thể biện minh điều này theo một cách như sau: Trong Hoa Sen Chân Ngã, bất cứ nơi nào có hi sinh đều có màu vàng. Các cánh hoa hi sinh của đóa sen ấy chủ yếu được nhuộm bởi vàng; tức là, vàng hiện diện trong mỗi cánh hoa hi sinh, và trong cánh hoa hi sinh của tầng bác ái và tri thức khác.

e. The Law of Sacrifice is ruled by ray four. Mercury is given the color yellow and Mercury also distributes the fourth ray. Yellow, the Tibetan tells us, harmonizes all in the autumn. Lords of Karma bring harmony and harmony is yellow.

e. Định luật Hi Sinh do cung bốn chủ. Sao Thủy được gán màu vàng và Sao Thủy cũng phân phối cung bốn. Vàng, như Chân sư Tây Tạng cho biết, điều hoà tất cả vào mùa thu. Các Vị Chúa của Nghiệp quả mang lại hoà điệu và hoà điệu là vàng.

f. Esoteric ray three is green; exoteric ray three is black.

f. Cung ba nội môn là xanh lục; cung ba hiển môn là đen.

g. Esoteric ray four is yellow; exoteric ray four is crème.

g. Cung bốn nội môn là vàng; cung bốn hiển môn là màu kem.

h. The primary colors in light are Red, Blue/Violet and Green

h. Các màu sơ cấp trong ánh sáng là Đỏ, Lam/Tím và Xanh lục

i. The primary colors in pigment/paint = are Red, Blue and Yellow. Green is not primary in pigment.

i. Các màu sơ cấp trong phẩm màu/sơn là Đỏ, Lam và Vàng. Xanh lục không phải sơ cấp trong phẩm màu.

j. The note of the first solar system is green and FA

j. Chủ âm của hệ mặt trời thứ nhất là xanh lục và FA

k. The note of the second solar system is blue and SOL, but also yellow/gold is related to SOL.

k. Chủ âm của hệ mặt trời thứ hai là xanh lam và SOL, nhưng đồng thời vàng/kim cũng liên hệ với SOL.

l. According to Rudolph Steiner, the color of skin should be orange blossom. We can relate orange blossom and the soul. Of all colors, orange is the principal color of the causal body.

l. Theo Rudolf Steiner, màu da nên là màu hoa cam. Chúng ta có thể liên hệ màu hoa cam và linh hồn. Trong mọi sắc màu, cam là màu chủ đạo của thể nguyên nhân.

m. Blue and green are foundational colors for our second ray/third ray planet.

m. Xanh lam và xanh lục là các màu nền tảng cho hành tinh cung hai/cung ba của chúng ta.

n. Out of the green comes the blue; out of photosynthesis comes oxygen which is blue and correlated to ray two.

n. Từ xanh lục sinh ra xanh lam; từ quang hợp sinh ra dưỡng khí, vốn có màu xanh lam và tương ứng cung hai.

o. There was a statement that oxygen, in fact, did not emerge from the photosynthesis process.

o. Có ý kiến cho rằng dưỡng khí, thực ra, không phát sinh từ tiến trình quang hợp.

This leads, when comprehended, to a life of dignity and offers an aim worthy of our best endeavour.

Điều này, khi được thấu hiểu, dẫn đến một đời sống phẩm nghi và trao cho chúng ta một mục đích xứng đáng với nỗ lực tốt đẹp nhất của mình.

258. An understanding of purpose and the preservation of dignity are closely related.

258. Sự thấu hiểu về mục đích và việc giữ gìn phẩm nghi có liên hệ mật thiết.

259. A human being has dignity when he has clear purpose and abides by that purpose regardless of temptations which lead towards enslaving involvement with the four elements.

259. Con người có phẩm nghi khi y có mục đích minh bạch và kiên trì theo mục đích ấy bất chấp những cám dỗ dẫn đến sự dính mắc nô lệ với bốn nguyên tố.

When this angle of truth is universally recognised, as it will be when the intelligence of the race suffices, then evolution will proceed with certainty, and the failures be less numerous.

Khi góc nhìn chân lý này được công nhận phổ quát, như sẽ xảy ra khi trí tuệ của nhân loại đạt mức đủ đầy, thì tiến hoá sẽ tiến hành với sự chắc chắn, và những thất bại sẽ ít hơn.

260. The growth of intelligence is indispensable in the promotion of a more successful evolutionary process.

260. Sự tăng trưởng trí tuệ là điều không thể thiếu để thúc đẩy một tiến trình tiến hoá thành công hơn.

261. As a human race we have been greatly subject to failures—relatively. The present efforts to affect a transformation of human consciousness are meant to make our entire evolutionary process more successful.

261. Với tư cách một giống người, chúng ta đã rất bị chi phối bởi những thất bại—tương đối mà nói. Các nỗ lực hiện tại để tạo ra một chuyển đổi trong tâm thức con người nhằm khiến toàn bộ tiến trình tiến hoá của chúng ta thành công hơn.

262. At length, failure fails to be useful. Failure can, however, be initially useful if the lessons of failure are learnt.

262. Rốt cuộc, thất bại cũng hết hữu dụng. Tuy nhiên, thất bại có thể ban đầu hữu ích nếu bài học của thất bại được học.

263. How certain is the achievement of the evolutionary objective? There is no relative certainty and any self-conscious entity (on any scale) may fail—temporarily, at least. The Lord of the Moon was an aspect of our Planetary Logos and that Lord (and through Him, the Planetary Logos) failed. This may also be true of even larger entities. The factor of freewill, free choice, seems inherent throughout the universe.

263. Thành tựu mục tiêu tiến hoá chắc chắn đến mức nào? Không có sự chắc chắn tương đối và bất kỳ thực thể tự ý thức nào ( trên bất kỳ bình diện nào ) đều có thể thất bại—ít nhất là tạm thời. Nguyệt tinh quân là một phương diện của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta và vị ấy (và qua Ngài, Hành Tinh Thượng đế) đã thất bại. Điều này cũng có thể đúng với những thực thể còn lớn lao hơn nữa. Yếu tố tự do ý chí, tự do chọn lựa, dường như vốn có khắp vũ trụ.

264. The question arises as to whether the necessity for ultimate success is built into every universe. No one can know the answer to this question: “Can the entirety of the universe end in failure?” Surely a duration of a universe (when compared to the duration of the life of man) is like a day, a year or a life (depending on our perspective), and some days, years or lives can end in relative failure. But can the same be said of the ultimate structure?

264. Câu hỏi phát sinh: liệu tất yếu của thành công sau cùng có được xây sẵn vào mọi vũ trụ hay không. Không ai có thể biết câu trả lời cho câu hỏi này: “Toàn thể vũ trụ có thể kết thúc trong thất bại hay không?” Chắc chắn một chu kỳ tồn tại của một vũ trụ (so với độ dài đời người) giống như một ngày, một năm hay một đời (tuỳ theo góc nhìn), và một số ngày, năm hay đời có thể kết thúc trong thất bại tương đối. Nhưng liệu điều ấy có thể được nói về cấu trúc tối hậu chăng?

265. Here is where faith enters the picture, for surely the rational intellect cannot decide the correctness or incorrectness of assuming that the universe can or cannot end in failure.

265. Đây là nơi đức tin bước vào, vì chắc chắn trí năng lý tính không thể quyết định tính đúng hay sai của giả định rằng vũ trụ có hay không thể kết thúc trong thất bại.

266. In general, over the span of planetary history, we do see ascent; and in the lives of people, we see more ascent than descent. The root races have evolved, and primitivity has given place to greater sophistication. We know what the trend should be and we can see (that despite setbacks) that trend is working out.

266. Nói chung, trong suốt lịch sử hành tinh, chúng ta thấy sự thăng tiến; và trong đời sống con người, chúng ta thấy thăng nhiều hơn giáng. Các chủng tộc gốc đã tiến hoá, và tính nguyên sơ đã nhường chỗ cho sự tinh luyện cao hơn. Chúng ta biết xu hướng nên như thế nào và có thể thấy (bất chấp những thụt lùi) xu hướng ấy đang hiển lộ.

267. The ultimate questions, however, will have to be left to the intuition of beings far greater than we are.

267. Tuy nhiên, những câu hỏi tối hậu sẽ phải được để cho trực giác của các hữu thể cao cả hơn chúng ta rất nhiều.

268. Today there is a great struggle between the forces of life and death. In planetary terms, Uranus (life) and Saturn (death) are struggling for ascendancy.

268. Hôm nay có một cuộc tranh đấu lớn giữa các lực của sự sống và của cái chết. Xét theo bình diện hành tinh, Thiên Vương (sự sống) và Thổ Tinh (cái chết) đang tranh giành quyền tối thượng.

269. The higher four (of which, on our planet, Shamballa is the greatest example) seek to impress the lower four (the elemental lives which are residues from the previous solar system).

269. Bộ bốn cao (mà trên hành tinh chúng ta, Shamballa là thí dụ cao nhất) tìm cách ấn tượng bộ bốn thấp (các sự sống hành khí vốn là tồn dư từ hệ mặt trời trước).

270. Great Devic Lives are in contest through this struggle. Progress demands that in our solar system, we move into the second aspect and away from dominance by the third. On Earth, we are in a critical moment in the juncture between the three and the two. We are in the scales right now and are being balanced.

270. Những Sự Sống Thiên Thần Vĩ Đại đang giao tranh qua cuộc đấu này. Tiến bộ đòi hỏi rằng trong hệ mặt trời chúng ta, chúng ta chuyển vào phương diện thứ hai và rời khỏi sự chi phối của phương diện thứ ba. Trên Địa Cầu, chúng ta đang ở một khoảnh khắc then chốt trong chỗ nối giữa số ba và số hai. Chúng ta đang ở trên cán cân ngay lúc này và đang được cân bằng.

271. Our task is to move from Libra (the Scales) into Scorpio (where the power of the second aspect asserts control). In this respect it is interesting to realize that Saturn (in many ways representing the old) is exalted in Libra and Uranus (representing the new) is exalted in Scorpio.

271. Nhiệm vụ của chúng ta là chuyển từ Thiên Bình (cán cân) sang Hổ Cáp (nơi quyền năng của phương diện thứ hai xác lập quyền kiểm soát). Ở khía cạnh này thật thú vị khi nhận ra rằng Thổ Tinh (về nhiều mặt đại diện cho cái cũ) đắc địa ở Thiên Bình và Thiên Vương (đại diện cho cái mới) đắc địa ở Hổ Cáp.

272. Second Ray/Third ray = Uranus/Saturn = Etheric Body/Dense Physical Body = Soul/Personality = New/Old. The terms of these analogical equations could be meaningfully extended, and as an exercise, they could be.

272. Cung hai/Cung ba = Thiên Vương/Thổ Tinh = Thể dĩ thái/Thể hồng trần đậm đặc = Linh hồn/Phàm ngã = Mới/Cũ. Các vế của những phương trình tương đồng này có thể được mở rộng một cách ý nghĩa, và như một bài luyện tập, hoàn toàn có thể làm vậy.

273. We have been studying the etheric body and especially its involvement in the factor of death or pralaya. At a time when humanity is seeking to “come alive” through the relinquishment of matter/form, this study is of central importance.

273. Chúng ta đã và đang học về thể dĩ thái, đặc biệt sự can dự của nó trong yếu tố chết hay Giai kỳ qui nguyên. Trong một thời kỳ nhân loại đang tìm cách “sống dậy” bằng việc xả bỏ chất liệu/hình tướng, khảo cứu này có tầm quan trọng trung tâm.

274. If we manage to understand the etheric body and to shift out attention into that body from its present fixation in the dense physical, the scales will tip and we shall find ourselves moving, as a race, towards the expression of Love-Wisdom, the great theme of the second ray soul of our Planetary Logos and the second ray soul and personality of our Solar Logos.

274. Nếu chúng ta có thể thấu hiểu thể dĩ thái và chuyển sự chú tâm vào thể ấy từ sự cố định hiện nay trong thể đậm đặc, cán cân sẽ nghiêng và chúng ta, như một giống người, sẽ thấy mình chuyển dịch hướng về biểu lộ Bác Ái – Minh Triết, đại chủ đề của linh hồn cung hai của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta và linh hồn cùng phàm ngã cung hai của Thái dương Thượng đế của chúng ta.

Scroll to Top