
CHAPTER 1
The Pyramid and the Crest of the USA— Kim tự tháp và Huy hiệu của Hoa Kỳ
|
It is surprising how often the abstruse matter of the third eye intrudes into public attention. In 1976, Americans began to celebrate their bi-centennial, and the attention of the public was soon drawn to the important and relevant matter of the nation’s crest which, on inspection, revealed itself to be a symbol of extraordinary occult significance. |
Thật ngạc nhiên khi vấn đề huyền bí về con mắt thứ ba thường xuyên thu hút sự chú ý của công chúng. Vào năm 1976, người Mỹ bắt đầu kỷ niệm lễ hai trăm năm độc lập, và sự chú ý của công chúng nhanh chóng hướng đến vấn đề quan trọng và liên quan về huy hiệu quốc gia, mà khi được xem xét, đã tự bộc lộ là một biểu tượng mang ý nghĩa huyền môn phi thường. |
|
For purposes of the Inner Government, the world is divided into so-called parishes which are guided by Masters, both Eastern and Western. The United States, among other nations, is part of the Western parish and one of the Western Masters, who probably was responsible under higher direction for the formation of the United States of America, is in charge of America today. |
Vì mục đích của Chính phủ Nội Giới, thế giới được chia thành những lãnh vực được gọi là các giáo khu, do các Chân sư thuộc cả phương Đông và phương Tây dẫn dắt. Hoa Kỳ, cùng với các quốc gia khác, thuộc về giáo khu phương Tây, và một trong các Chân sư phương Tây—người có lẽ đã chịu trách nhiệm dưới sự chỉ đạo cao hơn cho sự thành lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ—hiện nay đang phụ trách nước Mỹ. |
|
We need to understand that it was never intended that the Anglo-Saxon subrace (including Britain and America) should split. It was an occult disaster. Unfortunately, the brain of King George III had become diseased and no one, not even the most concerned adept, could reach the monarch to prevent the inevitable. All that remained was for the adepts to do what they could to ensure that ultimate separation did not weaken drastically what Britain and America could contribute individually to planetary evolution. |
Chúng ta cần hiểu rằng việc phân tách của phân chủng Anglo-Saxon (bao gồm Anh và Mỹ) chưa bao giờ được dự định xảy ra. Đó là một thảm họa huyền bí. Thật không may, bộ não của Vua George III đã trở nên suy nhược, và không ai, kể cả vị chân sư quan tâm nhất, có thể tiếp cận vị quân vương để ngăn chặn điều không thể tránh khỏi. Tất cả những gì còn lại là các chân sư đã làm những gì có thể để đảm bảo rằng sự phân tách cuối cùng không làm suy yếu nghiêm trọng những đóng góp mà Anh và Mỹ có thể cung cấp riêng lẻ cho sự tiến hóa của hành tinh. |
|
H. P. Blavatsky discussed this matter of the Elder Brethren taking part in national affairs in The Theosophist (December 1883). She was prompted to reply to a correspondent’s inquiry as to the part played by the Adepts in the American independence movement. While she specifically stated that Tibetan and Indian Mahatmas were not participating in the movement, she made not the slightest reference to the Western Masters, of whom there are several, and one of whom, according to occult tradition, must have been behind the American drama. Perhaps one of these was the unknown speaker of the Fourth of July 1776. |
Bà H. P. Blavatsky đã thảo luận về vấn đề này, liên quan đến sự tham gia của các Huynh Trưởng vào các vấn đề quốc gia, trong The Theosophist (tháng 12 năm 1883). Bà đã trả lời một câu hỏi của độc giả về vai trò của các Chân sư trong phong trào độc lập của Mỹ. Mặc dù bà đã khẳng định rõ rằng các Đại sư Tây Tạng và Ấn Độ không tham gia vào phong trào, nhưng bà không hề đề cập đến các Chân sư phương Tây, trong số đó có nhiều người, và theo truyền thống huyền bí, một trong số các Ngài chắc chắn phải đứng sau diễn biến của nước Mỹ. Có lẽ, một trong số đó chính là diễn giả ẩn danh vào ngày 4 tháng 7 năm 1776. |
|
One thing is certain. The founding fathers of the United States number amongst them many members of the Congress who were from esoteric orders, and it seems certain that they were trying to convey an important message through the choice of their crest—a message that would be passed down from generation to generation, suggesting that both the nation and its citizens were incomplete and that total integration required a factor that was hardly to be found in the material world. It suggested a numinous energy located both in the capstone of the pyramidal shape and somehow, in the capstone of man. |
Một điều chắc chắn là: các nhà lập quốc của Hoa Kỳ, trong đó có nhiều thành viên của Quốc hội, là những người thuộc các hội kín, và có vẻ như họ đã cố gắng truyền tải một thông điệp quan trọng thông qua việc lựa chọn biểu tượng của mình—một thông điệp sẽ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, gợi ý rằng cả quốc gia lẫn công dân của nó đều chưa hoàn thiện và sự tích hợp hoàn toàn đòi hỏi một yếu tố hầu như không thể tìm thấy trong thế giới vật chất. Điều đó ám chỉ một năng lượng thiêng liêng được định vị cả ở viên đá chóp của hình kim tự tháp và, bằng cách nào đó, trong viên đá chóp của con người. |

|
European mysticism was not dead at the time the United States of America was founded. The hand of the Mysteries controlled in the establishment of the new government. for the signature of the Mysteries may still be seen on the Great Seal of the United States of America. Careful analysis of the Seal discloses a mass of occult and Masonic symbols. (See Appendix 1). |
Chủ nghĩa thần bí châu Âu không hề tàn lụi vào thời điểm Hợp chủng quốc Hoa Kỳ được thành lập. Bàn tay của các Bí Nhiệm đã điều khiển việc thiết lập chính quyền mới, và dấu ấn của các Bí Nhiệm vẫn còn được nhìn thấy trên Đại Ấn của Hoa Kỳ. Phân tích kỹ lưỡng Đại Ấn tiết lộ một khối lượng lớn các biểu tượng huyền bí và của Hội Tam Điểm. (Xem Phụ lục 1). |
|
Above is the reverse of the Great Seal of the United States of America. The significance of the mystical number 13. which frequently appears thereupon, is not limited to the number of the original colonies. On the obverse of the Great Seal there are 13 stars above the head of the ‘eagle’. In the original Seal of 1782. this was the head of a Phoenix bird, an ancient symbol of the Mysteries representing the accomplishment of alchemical transmutation, a process equivalent to human regeneration. He clutches in his right talon a branch bearing 13 leaves and 13 berries. and in its left a sheaf of 13 arrows. The motto E Pluribus Unum contains 13 letters, as does also the inscription Annuit Coeptis. The face of the unfinished pyramid (the Great Pyramid of Gizeh), exclusive of the panel containing the date. consists of 72 stones arranged in 13 rows. And right at the apex is the Masonic symbol of the ‘All Seeing Eye’, representing the so-called third eye. |
Ở trên là mặt sau của Đại Ấn Hoa Kỳ. Ý nghĩa của con số huyền bí 13, thường xuyên xuất hiện trên đó, không chỉ giới hạn ở số lượng các thuộc địa ban đầu. Ở mặt trước của Đại Ấn, có 13 ngôi sao trên đầu “đại bàng.” Trong Đại Ấn nguyên bản năm 1782, đó là đầu của chim Phượng Hoàng, một biểu tượng cổ xưa của các Bí Nhiệm, đại diện cho sự hoàn thành của sự chuyển hóa luyện kim, một quá trình tương đương với sự tái sinh của con người. Chim này cầm trong móng vuốt phải một nhánh mang 13 lá và 13 quả mọng, và trong móng vuốt trái là một bó 13 mũi tên. Phương châm E Pluribus Unum có 13 chữ cái, cũng như dòng chữ Annuit Coeptis. Mặt của kim tự tháp chưa hoàn thiện (Kim tự tháp lớn ở Giza), ngoại trừ bảng chứa ngày tháng, bao gồm 72 viên đá được sắp xếp thành 13 hàng. Và ngay tại đỉnh là biểu tượng Hội Tam Điểm “Con Mắt Thấy Tất cả”, đại diện cho cái gọi là con mắt thứ ba. |
|
Today we know much more about pyramids than we did a generation ago. Despite the enormous studies of Egyptology, which began with the conquering of Egypt by Napoleon, and the numerous and remarkable books on the subject which have emerged, very little has been given out about the hidden significance of the pyramid’s shape and its relevance to spiritual unfoldment, apart from suggestions that the Great Pyramid itself was once used as a temple of initiation. However, when we begin to accept the idea that shapes themselves, especially those which are symmetrical, are accumulators of energy, then the hidden significance of such structures becomes evident. |
Ngày nay, chúng ta biết nhiều hơn về các kim tự tháp so với một thế hệ trước đây. Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu về Ai Cập học, bắt đầu từ cuộc chinh phục Ai Cập của Napoleon, cùng với vô số các tác phẩm đáng chú ý về chủ đề này, rất ít thông tin được tiết lộ về ý nghĩa ẩn giấu của hình dạng kim tự tháp và sự liên hệ của nó với sự phát triển tinh thần, ngoại trừ gợi ý rằng chính Kim Tự Tháp Lớn từng được sử dụng như một ngôi đền điểm đạo. Tuy nhiên, khi chúng ta bắt đầu chấp nhận ý tưởng rằng bản thân các hình dạng, đặc biệt là những hình dạng đối xứng, là những bộ tích tụ năng lượng, thì ý nghĩa ẩn giấu của các cấu trúc như vậy trở nên rõ ràng. |
|
This is not an easy proposition for the Western mind to accept, namely that all symmetrical shapes tend to store energy within them, irrespective of whether they are pyramidal, cuboidal or spherical, etc., and this is true no matter whether the shape itself is built of stone, like the Great Pyramid, or of wood or even of tissue paper. Shapes on their own attract and store energies within themselves peculiar to their dimensions. Man is, himself, an energy accumulator: |
Đây không phải là một quan niệm dễ dàng được tâm trí phương Tây chấp nhận, cụ thể là tất cả các hình dạng đối xứng đều có xu hướng lưu trữ năng lượng bên trong chúng, bất kể chúng có hình dạng kim tự tháp, hình hộp, hay hình cầu, v.v., và điều này đúng dù hình dạng đó được làm từ đá, như Kim Tự Tháp Lớn, hay bằng gỗ, thậm chí là giấy mỏng. Bản thân các hình dạng thu hút và lưu giữ năng lượng đặc trưng cho các kích thước của chúng. Con người, tự thân, cũng là một bộ tích tụ năng lượng. |

|
The ancients believed the universe to be constructed out of certain basic shapes, and we still talk of these in terms of the ‘Platonic Solids’. What is still not yet recognised is that if these shapes are placed about us, they can, through their qualities, affect the nature of the vibrations of our environment. More than this. If these shapes could be created visually, in the mind, they could be used as accumulators of specialised energies, which could be released into the various bodies and directed to the opening of the chakras and their related petals (See The Jewel In The Lotus by the author, pages 188-193). |
Người xưa tin rằng vũ trụ được cấu thành từ một số hình dạng cơ bản, và chúng ta vẫn gọi những hình dạng này là “Các Khối Platon.” Điều vẫn chưa được công nhận đầy đủ là nếu những hình dạng này được đặt xung quanh chúng ta, chúng có thể, thông qua các phẩm chất của mình, ảnh hưởng đến bản chất của các rung động trong môi trường sống. Hơn thế nữa, nếu những hình dạng này có thể được tạo ra trong tâm trí dưới dạng hình ảnh, chúng có thể được sử dụng như những bộ tích tụ năng lượng chuyên biệt, có thể giải phóng vào các thể khác nhau và hướng tới việc khai mở các luân xa cùng những cánh hoa liên quan của chúng (Xem The Jewel In The Lotus của tác giả, trang 188-193). |
|
Hence, we see then that in shapes, both outside and inside Man’s body, God geometrises. |
Do đó, chúng ta thấy rằng qua các hình dạng, cả bên ngoài lẫn bên trong cơ thể con người, Thượng Đế thực hiện hình học hóa. |

|
Charles Dickens used to keep the blades of his razors sharp by placing them in a pyramid, which suggests that some sort of magnetic force maintained the orientation of the iron molecules of the sharpened edges. We know that the energies at different levels of the pyramid are themselves different. The energy in the lower third of the pyramidal shape, which preserves mammalian tissue indefinitely, is quite distinctly of a lower vibration than the energy in the apex. |
Charles Dickens từng giữ lưỡi dao cạo của mình sắc bén bằng cách đặt chúng vào trong một kim tự tháp, điều này gợi ý rằng một loại lực từ trường nào đó đã duy trì sự định hướng của các phân tử sắt tại các cạnh được mài sắc. Chúng ta biết rằng năng lượng ở các mức khác nhau của kim tự tháp có bản chất khác nhau. Năng lượng ở phần ba dưới cùng của hình dạng kim tự tháp, nơi có khả năng bảo quản mô động vật có vú một cách vô thời hạn, rõ ràng có rung động thấp hơn nhiều so với năng lượng ở đỉnh của nó. |
CHƯƠNG 2
The Power Within Shapes— Sức Mạnh Bên Trong Các Hình Thể
|
The truths concerning these matters were brought home to me very powerfully during the years of my withdrawal in the early 1950’s. It was a time in which I had to make great decisions about my whole future, and I felt a powerful call within me to go into retreat. I chose to do this in a desolate area south of Cape Town, South Africa, called Phillipi. It was a semi-desert region of many square miles of sand dunes and grassy vleis. Phillipi lies near the southern tip of Africa where the two great oceans of the Atlantic and the Indian meet, the former icy and turbulent and the latter warm and often calm. |
Những sự thật liên quan đến những vấn đề này đã được khắc sâu vào tôi một cách mạnh mẽ trong những năm tôi rút lui vào đầu thập niên 1950. Đó là khoảng thời gian tôi phải đưa ra những quyết định quan trọng về toàn bộ tương lai của mình, và tôi cảm nhận một lời kêu gọi mạnh mẽ từ bên trong để rút lui. Tôi chọn thực hiện điều này ở một khu vực hoang vắng phía nam Cape Town, Nam Phi, được gọi là Phillipi. Đó là một vùng bán sa mạc với hàng dặm vuông cồn cát và những đầm cỏ. Phillipi nằm gần mũi phía nam của châu Phi, nơi hai đại dương lớn—Đại Tây Dương và Ấn Độ Dương—gặp nhau, một bên lạnh giá và đầy sóng gió, một bên ấm áp và thường yên tĩnh. |
|
Behind me I had left the typical materialistic existence of an accomplished young man, well educated, socially accepted and prosperous. With everything before me and great prospects for making money, it all went sour. Nothing out there seemed relevant when a series of inner, spiritual experiences began to invade my smug complacency from my twenty-eighth year onwards. These experiences came suddenly after being introduced to the Ancient Wisdom by a friend at a house party. |
Tôi đã bỏ lại phía sau mình cuộc sống vật chất điển hình của một thanh niên thành đạt, được giáo dục tốt, được xã hội chấp nhận và giàu có. Với mọi thứ đang chờ đợi phía trước và triển vọng kiếm tiền lớn, tất cả bỗng trở nên nhạt nhẽo. Không có gì bên ngoài dường như có ý nghĩa khi một loạt các trải nghiệm tâm linh nội tại bắt đầu xâm nhập vào sự tự mãn thoải mái của tôi từ năm 28 tuổi trở đi. Những trải nghiệm này đến đột ngột sau khi một người bạn giới thiệu tôi với Minh Triết Ngàn Đời trong một buổi tiệc tại gia. |
|
At first they were a diversion and a talking point. Then they became progressively my most powerful concern and, finally, a magnificent obsession that demanded the alteration of my way of life. I began to seek the meditative way of life and needed desperately a period of withdrawal in order to hear clearly what my higher Self was trying to tell me. This took me to the wilds of Phillipi and demanded that I make serious attempts at establishing a dialogue with that Self. |
Lúc đầu, chúng chỉ là một sự phân tâm và một chủ đề để bàn luận. Sau đó, chúng dần dần trở thành mối quan tâm mạnh mẽ nhất của tôi, và cuối cùng, là một ám ảnh tuyệt vời buộc tôi phải thay đổi lối sống. Tôi bắt đầu tìm kiếm con đường sống tham thiền và cần thiết một cách tuyệt vọng một giai đoạn rút lui để nghe rõ những gì Chân ngã của tôi đang cố gắng nói với tôi. Điều này dẫn tôi đến vùng hoang dã của Phillipi và buộc tôi phải cố gắng nghiêm túc thiết lập một cuộc đối thoại với Chân ngã đó. |
|
I was essentially unsuited to Hatha Yoga, being large in frame and often stiff rather than supple, usually from overwork. There was no way that I could put myself into the padmasana position, and so I made one of many concessions to the reality of my situation and decided to meditate rather in a club-easy chair which I had retained after disposing of my fashionable apartment in Kenilworth. |
Tôi không phù hợp với Hatha Yoga, do khung xương lớn và thường cứng nhắc thay vì dẻo dai, thường là do làm việc quá sức. Không có cách nào tôi có thể đặt mình vào tư thế padmasana, vì vậy tôi nhượng bộ thực tế tình trạng của mình và quyết định tham thiền trên một chiếc ghế bành mà tôi vẫn giữ lại sau khi thanh lý căn hộ sang trọng của mình ở Kenilworth. |
|
I had always been an early riser and instinctively felt my meditation should begin, whenever possible, before dawn. Accordingly, I would seat myself on a high sand dune looking out towards the eastern horizon across the Indian Ocean. It wasn’t too long before I took to this site with such dedication that I decided to hump my old club-easy up to the top of the dune and wedge it into a position where I could watch for the sun and do my meditations. |
Tôi luôn là người dậy sớm và cảm nhận một cách bản năng rằng việc tham thiền của tôi nên bắt đầu, bất cứ khi nào có thể, trước lúc bình minh. Theo đó, tôi sẽ ngồi trên một cồn cát cao, nhìn về phía chân trời phía đông qua Ấn Độ Dương. Chẳng bao lâu sau, tôi gắn bó với địa điểm này đến mức quyết định khiêng chiếc ghế bành của mình lên đỉnh cồn cát và đặt nó vào vị trí chắc chắn, nơi tôi có thể ngắm mặt trời và thực hành tham thiền. |
|
Observing the great red-gold ball of the sun slide upwards out of the Indian Ocean each morning provided for me a glorious object for meditation. I soon learnt to put that object in the sacred square inch between my brows, seeing it behind my closed lids each morning long before it arose outwardly above the ocean’s horizon. Very soon, it was possible to put the red-gold orb in that position whenever I wanted. |
Việc quan sát quả cầu đỏ-vàng lớn của mặt trời trượt lên từ Ấn Độ Dương mỗi sáng mang lại cho tôi một đối tượng tham thiền tuyệt đẹp. Tôi nhanh chóng học cách đặt đối tượng đó vào “khoảng một inch thiêng liêng” giữa đôi chân mày, nhìn thấy nó sau đôi mắt nhắm từ mỗi sáng, rất lâu trước khi nó thực sự xuất hiện trên chân trời của đại dương. Rất nhanh sau đó, tôi có thể đặt quả cầu đỏ-vàng này vào vị trí đó bất cứ khi nào tôi muốn. |
|
I found, somewhat to my astonishment, that by thus visualising this structure in the neutral space between the brows, I was flooded with energy. It was an energy of a special kind. It seemed to make me more able to concentrate my attention, and in later years, I had no hesitation in recognising that this was the energy of Will and Power, and that the spheroid shape could thus be correlated to the First Ray. |
Tôi phát hiện, một cách khá ngạc nhiên, rằng bằng cách hình dung cấu trúc này trong không gian trung tính giữa đôi chân mày, tôi được tràn đầy năng lượng. Đó là một loại năng lượng đặc biệt. Nó dường như làm tôi tập trung sự chú ý tốt hơn, và trong những năm sau này, tôi không ngần ngại nhận ra rằng đó là năng lượng của Ý Chí và Quyền Lực, và rằng hình dạng cầu này có thể được liên hệ với Cung Một. |
|
Some years later, when I emerged from my retirement, having discovered my Self, as well as having learnt the purpose which that Being had for me in this life, I was able to use this meditative device for flooding my consciousness with energy during my medical studies. It was a most supportive mechanism which made studying, not a simple task for anyone after the age of thirty, comparatively easy. |
Vài năm sau, khi tôi rời khỏi giai đoạn ẩn dật của mình, sau khi phát hiện Chân ngã và học được mục đích mà Thực Thể đó dành cho tôi trong cuộc đời này, tôi có thể sử dụng phương pháp tham thiền này để tràn đầy năng lượng vào tâm thức mình trong suốt quá trình học y khoa. Đó là một cơ chế hỗ trợ đáng kể, khiến việc học tập—một nhiệm vụ không đơn giản với bất kỳ ai sau tuổi 30—trở nên tương đối dễ dàng. |
|
It was only later, much later, that I began to understand that the technique of placing the great disc of the rising sun in the sacred square inch was the basis for almost all creativeness as it is practiced objectively by artists, poets, sculptors and writers, but also by those who work subjectively in the realms of creative meditation, absent healing and the seeding of thoughts in the minds of others. |
Chỉ sau này, rất lâu sau đó, tôi mới bắt đầu hiểu rằng kỹ thuật đặt đĩa lớn của mặt trời mọc vào “khoảng một inch thiêng liêng” là cơ sở cho hầu hết mọi sự sáng tạo, dù được thực hành khách quan bởi các nghệ sĩ, nhà thơ, nhà điêu khắc và nhà văn, hay chủ quan bởi những người làm việc trong lĩnh vực tham thiền sáng tạo, chữa lành từ xa và gieo mầm ý tưởng vào tâm trí người khác. |
|
A decade passed before it came home to me in my astrological studies that my ascendant Sign being Libra, I had been meditating on an object that exactly fitted Libra Rising which rules a sun coming up from or sinking into the horizon. Appropriate objects and shapes for visualisation are, of course, always located in the meditator’s horoscope. |
Một thập kỷ đã trôi qua trước khi tôi nhận ra, qua các nghiên cứu chiêm tinh của mình, rằng dấu hiệu mọc của tôi là Thiên Bình. Tôi đã tham thiền trên một đối tượng hoàn toàn phù hợp với Thiên Bình, vốn cai quản mặt trời mọc lên hoặc lặn xuống trên chân trời. Những đối tượng và hình dạng phù hợp để hình dung, tất nhiên, luôn được định vị trong lá số chiêm tinh của người tham thiền. |
|
This serves to emphasise that structures may be built of any material, even mental substance, in order to store energy. Readers would find it of immense value if they learnt to use classical shapes as objects for meditation, placing them in the sacred square inch during their meditations. |
Điều này nhấn mạnh rằng các cấu trúc có thể được tạo dựng từ bất kỳ vật liệu nào, thậm chí từ chất liệu tinh thần, để lưu trữ năng lượng. Độc giả sẽ thấy giá trị lớn lao nếu học cách sử dụng các hình dạng cổ điển làm đối tượng tham thiền, đặt chúng vào “khoảng một inch thiêng liêng” trong quá trình tham thiền của mình. |
|
The pyramid is essentially related to the Second Ray of Love-Wisdom and, through this Ray, to teaching and healing. As a prerequisite to any act of healing, visualisation of an Indigo pyramid in this area provides a force centre which acts as a reservoir for energies which will be conveyed by the healer to the sick patient. |
Kim tự tháp chủ yếu gắn liền với Cung Hai của Bác Ái-Minh Triết và thông qua Cung này, nó liên quan đến việc giảng dạy và chữa lành. Như một điều kiện tiên quyết cho bất kỳ hành động chữa lành nào, việc hình dung một kim tự tháp màu chàm ở khu vực này sẽ tạo ra một trung tâm lực, hoạt động như một hồ chứa năng lượng mà người chữa lành sẽ truyền đến bệnh nhân. |
|
Similarly, the cube visualised in the same sacred area and especially the colour of emerald green, brings a philosophic disposition and affects profoundly the attitudes to such matters as adversity. The words of William Shakespeare in the play As You Like It pertain here: |
Tương tự, việc hình dung một hình lập phương trong cùng khu vực thiêng liêng, đặc biệt với màu xanh lục ngọc, sẽ mang lại một thái độ triết học và ảnh hưởng sâu sắc đến cách nhìn nhận những vấn đề như nghịch cảnh. Những lời của William Shakespeare trong vở kịch As You Like It rất phù hợp ở đây: |
|
Sweet are the uses of adversity |
Ngọt ngào thay những ích lợi từ nghịch cảnh |
|
Which like a toad, ugly and venomous, |
Như con cóc xấu xí đầy nọc độc, |
|
Wears yet a jewel in his head . . . . |
Nhưng lại mang viên ngọc trên đầu. |
|
The purpose of this excursion into a discourse on shapes as accumulators is to implant firmly in the mind of the reader the important concept that ultimately he is a unit of energy and that his shape is the outcome more of his qualities at their energy levels. By shape, we do not mean the physical form only, but rather the structure of his aura, the patency of his chakras and the degree to which such organs as the ‘third eye’ are manifest. |
Mục đích của cuộc khảo luận này về các hình dạng như những bộ tích tụ năng lượng là để khắc sâu vào tâm trí người đọc khái niệm quan trọng rằng, cuối cùng, con người là một đơn vị năng lượng, và hình dạng của họ là kết quả từ phẩm chất của họ ở các cấp độ năng lượng. Hình dạng, ở đây, không chỉ là hình tướng vật lý, mà còn là cấu trúc của hào quang, mức độ mở của các luân xa, và mức độ mà những cơ quan như “con mắt thứ ba” được biểu hiện. |
|
‘Energy follows thought.’ Visualise a pyramid, a sphere, a flower or just a corolla of petals, and energy flows into it. The visualised pattern or object becomes a reservoir of energy, the extent, quality and intensity of which is decided greatly by its shape, its symmetry and its ‘occult’ significance. That significance is, in turn, determined by the extent of the chosen object or symbol in the unconscious of the meditator, in his race and in the collective unconscious of mankind itself. |
“Năng lượng đi theo tư tưởng.” Khi hình dung một kim tự tháp, một hình cầu, một bông hoa hoặc chỉ một đài hoa, năng lượng sẽ chảy vào đó. Mẫu hình hoặc đối tượng được hình dung trở thành một hồ chứa năng lượng, mức độ, chất lượng và cường độ của nó được quyết định phần lớn bởi hình dạng, tính đối xứng và ý nghĩa “huyền bí” của nó. Ý nghĩa đó, đến lượt nó, được xác định bởi mức độ phổ biến của đối tượng hoặc biểu tượng được chọn trong tiềm thức của người tham thiền, trong chủng tộc của họ và trong tiềm thức tập thể của nhân loại. |
|
Not only will energy stream into the visualised object or concept, but the same energies will connect with all other similarly constructed objects . . . pyramids everywhere, flowers everywhere. When the visualised object is a patient in need of help, the phenomenon of absent healing occurs. You are not only energising an image of the patient between your brows, but reaching the distraught person at a distance. This mechanism not only bears energy, but Life itself. The union of the life of the one with the other occurs. |
Không chỉ năng lượng sẽ chảy vào đối tượng hoặc khái niệm được hình dung, mà những năng lượng tương tự sẽ kết nối với tất cả các đối tượng tương tự khác… kim tự tháp ở khắp nơi, hoa ở khắp nơi. Khi đối tượng được hình dung là một bệnh nhân cần giúp đỡ, hiện tượng chữa lành từ xa sẽ xảy ra. Bạn không chỉ đang truyền năng lượng đến hình ảnh của bệnh nhân giữa đôi chân mày, mà còn đang tiếp cận người đang khốn khổ ở một khoảng cách xa. Cơ chế này không chỉ mang năng lượng mà còn mang cả sự sống. Sự hợp nhất của sinh mệnh giữa hai cá thể xảy ra. |
|
Yoga is a science that brings such mystical and occult processes under control, raising not only the consciousness of those who practise it, but the level of their creative abilities where, as in the instance quoted above, the person may become a true healer without necessarily leaving the sanctuary in which he meditates. The yogis, or anyone learning to function in these realms, is in the process of opening the Third Eye. |
Yoga là một khoa học đưa những quá trình thần bí và huyền bí như vậy vào tầm kiểm soát, không chỉ nâng cao tâm thức của những người thực hành nó, mà còn nâng cấp khả năng sáng tạo của họ, nơi mà, như ví dụ được trích dẫn ở trên, một người có thể trở thành một nhà chữa lành thực thụ mà không cần phải rời khỏi nơi ẩn dật của mình. Các yogi, hoặc bất kỳ ai đang học cách hoạt động trong những lĩnh vực này, đều đang trong quá trình mở ra Con Mắt Thứ Ba. |
|
When they meditate on a particular object, like a flower for instance, they speak of merging their awareness with it—as if they themselves were the conscious life of the flower, as well as that which was flooding their own bodies. |
Khi họ tham thiền trên một đối tượng cụ thể, chẳng hạn như một bông hoa, họ nói về việc hòa nhập tâm thức của mình với nó—như thể họ chính là sự sống có ý thức của bông hoa, cũng như sự sống đó đang tràn ngập cơ thể họ. |
|
One is reminded of Aldous Huxley’s experiments on himself with the mystical effects of the drug mescalin. Somewhere during his experiments, he speaks of focussing his attention on a minute scratch on his arm. The mark became magnified to the size of a culvert. In his book Doors of Perception, he describes his feelings after taking four-tenths of a grain of mescalin: |
Điều này gợi nhớ đến những thí nghiệm của Aldous Huxley trên chính bản thân ông với các hiệu ứng thần bí của chất mescalin. Trong một phần thí nghiệm, ông nói về việc tập trung sự chú ý vào một vết xước nhỏ trên cánh tay mình. Vết xước đó trở nên phóng đại đến kích thước của một miệng cống. Trong cuốn sách Doors of Perception, ông mô tả cảm giác của mình sau khi dùng bốn phần mười grain mescalin: |
|
‘. . . It had always seemed to me possible that, through hypnosis for example, or auto-hypnosis, by means of systematic meditation, or else by taking the appropriate drug, I might so change my ordinary mode of consciousness as to be able to know, from the inside, what the visionary, the medium, even the mystic were talking about …. I took a pill at 11 … an hour and a half later, I was sitting in my study, looking intently at a small glass vase. The vase contained only three flowers – a full-blown Belle of Portugal rose, shell pink with a hint at every petal’s base of a hotter, flamier hue; a large magenta and cream coloured carnation; and, pale purple at the end of its broken stalk, the bold heraldic blossoms of an Iris. . . . |
“… Tôi luôn cảm thấy có khả năng rằng, thông qua thôi miên chẳng hạn, hoặc tự thôi miên, bằng cách tham thiền có hệ thống, hoặc bằng cách sử dụng một loại dược chất phù hợp, tôi có thể thay đổi trạng thái tâm thức thông thường của mình để có thể biết được, từ bên trong, những gì nhà thị kiến, đồng tử, thậm chí nhà thần bí đang nói đến… Tôi uống một viên thuốc lúc 11 giờ… một tiếng rưỡi sau, tôi ngồi trong phòng làm việc, nhìn chăm chú vào một chiếc bình thủy tinh nhỏ. Chiếc bình chỉ chứa ba bông hoa—một bông hồng Belle of Portugal đầy đặn, màu hồng vỏ sò với chút sắc thái nóng rực hơn ở gốc mỗi cánh hoa; một bông cẩm chướng lớn màu đỏ tươi và kem; và, màu tím nhạt ở đầu cuống bị gãy, những bông hoa táo bạo và huy hiệu của Iris… |
|
‘I continued to look at the flowers, and in their living light I seemed to detect the qualitative equivalent of breathing but of breathing without returns to a starting point, with no recurrent ebbs but only a repeated flow from beauty to heightened beauty, from deeper to ever deeper meaning. Words like grace and transfiguration came to my mind, and this, of course, was what, among other things, they stood for. |
“… Tôi tiếp tục nhìn những bông hoa, và trong ánh sáng sống động của chúng, tôi dường như nhận ra một sự tương đương về chất của hơi thở, nhưng đó là hơi thở không quay lại điểm khởi đầu, không có dòng chảy trở lại mà chỉ là dòng chảy lặp đi lặp lại từ vẻ đẹp đến vẻ đẹp cao hơn, từ ý nghĩa sâu sắc đến ngày càng sâu sắc hơn. Những từ như ân điển và sự biến hình hiện lên trong tâm trí tôi, và tất nhiên, đó là những gì, trong số những điều khác, chúng đại diện. |
|
‘My eyes travelled from the rose to the carnation, and from that feathery incandescence to the smooth scrolls of sentient amethyst which were the Iris. The Beautific Vision, Sat Chit Ananda, Being-Awareness-Bliss—for the first time I understood not on the verbal level, not by inchoate hints or at a distance, but precisely and completely what those prodigious syllables referred to.’ |
“… Mắt tôi chuyển từ bông hồng sang bông cẩm chướng, và từ ánh sáng lung linh của nó sang những cuộn xoắn êm ái của thạch anh tím biết cảm nhận được, đó là Iris. The Beautific Vision, Sat Chit Ananda, Being-Awareness-Bliss—lần đầu tiên tôi hiểu không phải ở mức độ ngôn từ, không phải qua những gợi ý lờ mờ hay từ xa, mà một cách chính xác và hoàn toàn những âm tiết phi thường đó ám chỉ đến điều gì.” |
|
Meditation occurs in the space between thoughts: |
Tham thiền diễn ra trong khoảng trống giữa các ý nghĩ. |

|
By using the image of the higher Self, a symbol of it or its substitute (a Master, The Christ, The Buddha, etc.), we establish the beginnings of union with that high Being (B). |
Bằng cách sử dụng hình ảnh của Chân ngã cao cả, một biểu tượng của nó hoặc một hình thức thay thế (một Chân sư, Đức Christ, Đức Phật, v.v.), chúng ta thiết lập khởi đầu của sự hợp nhất với Thực Thể cao cả đó (B). |

|
Ability to place the image of the ‘Celestial Man’, the cosmic Higher Self or its substitute, a Master, The Christ, The Buddha, etc., brings about union, too … in that sacred space between the brows. |
Khả năng đặt hình ảnh “Người Cõi Trời,” Chân ngã Vũ trụ cao cả hoặc một biểu tượng thay thế, như một Chân sư, Đức Christ, Đức Phật, v.v., cũng mang lại sự hợp nhất… trong không gian thiêng liêng giữa đôi chân mày. |
|
The yogis claim they can ‘walk in the garden of their own and others’ minds.’ Memories to them are real things and ever available for inspection. Each person is at each moment capable of remembering all that has ever happened to him and of perceiving everything that is happening everywhere in the universe. |
Các nhà yogi tuyên bố rằng họ có thể “bước đi trong khu vườn của tâm trí họ và của người khác.” Với họ, ký ức là những điều thực sự và luôn sẵn sàng để kiểm tra. Mỗi người, vào mỗi thời điểm, đều có khả năng nhớ lại mọi điều đã từng xảy ra với mình và nhận thức mọi thứ đang xảy ra ở khắp nơi trong vũ trụ. |
|
Huxley agrees with Cambridge philosopher, Dr. C.D.Broad, ‘the function of the brain and nervous system and sense organs is in the main eliminative and not productive . . . to protect us from being overwhelmed and confused by . . . largely useless and irrelevant knowledge, by shutting out most of what we should otherwise perceive or remember at any moment, and leaving only that very small and special selection which is likely to be practically useful.’ |
Huxley đồng ý với triết gia Cambridge, Tiến sĩ C.D. Broad, rằng “chức năng của bộ não, hệ thần kinh và các cơ quan cảm giác chủ yếu là loại bỏ chứ không phải tạo ra… nhằm bảo vệ chúng ta khỏi bị áp đảo và bối rối bởi… những kiến thức phần lớn là vô ích và không liên quan, bằng cách ngăn chặn hầu hết những gì chúng ta sẽ nhận thức hoặc nhớ tại bất kỳ thời điểm nào, và chỉ để lại một phần rất nhỏ và đặc biệt có khả năng hữu ích về mặt thực tiễn.” |
|
The brain acts as a sort of reducing valve which holds back universal knowledge and, by inference, all power and all life. The yogis speak of one, and only one, universal life force that fills the whole planet as a single unit, and which is not really divided into the separated parts of plants, animals and men except as an illusion in our minds. They call the ability to experience union (or communion) with this ONE life force, Samadhi, a yoking (yoga) with the infinite. |
Bộ não hoạt động như một loại van giảm áp, giữ lại tri thức phổ quát và, theo suy luận, cả sức mạnh và sự sống. Các yogi nói về một, và chỉ một, lực sống phổ quát tràn ngập toàn bộ hành tinh như một đơn vị duy nhất, và trên thực tế không thực sự bị phân chia thành các phần tách biệt như thực vật, động vật và con người, ngoại trừ như một ảo tưởng trong tâm trí chúng ta. Họ gọi khả năng trải nghiệm sự hợp nhất (hoặc giao hòa) với lực sống DUY NHẤT này là Samadhi, một sự kết nối (yoga) với cái vô hạn. |
|
Using a pseudo-physiological analogy, it is as if a single living cell in the body, with a minute and independent consciousness of its own, were able by some extraordinary discipline and effort to contact or hold for a moment the total consciousness which normally floods, as a totality, the human body in which the cell lives and moves and has its being—the yogi in Samadhi being the cell and the universe as a whole, a living body. Such an elevated consciousness could only be retained for short periods in degrees of efficiency so that Samadhi is graded and intermittent. |
Dựa trên một phép so sánh sinh lý học giả định, điều này giống như một tế bào sống duy nhất trong cơ thể, với một ý thức nhỏ bé và độc lập của riêng nó, nhờ vào một kỷ luật và nỗ lực phi thường nào đó, có thể tiếp cận hoặc nắm giữ trong giây lát toàn bộ ý thức vốn tràn ngập cơ thể con người mà tế bào ấy đang sống, chuyển động và tồn tại trong đó—yogi trong trạng thái Samadhi chính là tế bào, và vũ trụ, như một tổng thể, là một cơ thể sống. Loại ý thức nâng cao này chỉ có thể được duy trì trong những khoảng thời gian ngắn với các mức độ hiệu quả khác nhau, do đó Samadhi được phân cấp và gián đoạn. |
CHAPTER 3
The Organ of Inner Vision—Cơ quan Nội Nhãn
|
The way in which the organ of inner vision functions is very much an existential matter. The usual mistake is to believe that clairvoyance, the ability to see through walls or things at a distance or into the past and future are the only ways in which the third eye manifests. This is not true. The latter may be perhaps the most dramatic ways, but they are certainly not the only ones. Any access to a truly higher authority than one’s own personality is indicative of a functioning third eye, just so long as the individual is sufficiently aware and has not lost his consciousness to some possessing entity. |
Cách mà cơ quan nội nhãn hoạt động là một vấn đề rất mang tính hiện sinh. Sai lầm thường gặp là tin rằng khả năng thông nhãn—như nhìn xuyên tường, thấy những thứ ở khoảng cách xa, hoặc nhìn vào quá khứ và tương lai—là những cách duy nhất mà con mắt thứ ba biểu hiện. Điều này không đúng. Những khả năng này có thể là những cách thể hiện kịch tính nhất, nhưng chắc chắn không phải là duy nhất. Bất kỳ sự tiếp cận nào tới một thẩm quyền thực sự cao hơn bản thân phàm ngã đều là dấu hiệu của một con mắt thứ ba đang hoạt động, miễn là cá nhân đủ nhận thức và không đánh mất ý thức của mình vào một thực thể chiếm hữu nào đó. |
|
Nitrous Oxide has often been used for experiments in mystical experience. From a completely different approach, Winston Churchill, emerging from an anaesthetic after a street accident in 1932, struggled to record the same sentiments: |
Khí Nitrous Oxide thường được sử dụng trong các thí nghiệm về trải nghiệm thần bí. Từ một cách tiếp cận hoàn toàn khác, Winston Churchill, khi tỉnh dậy sau một cơn mê do tai nạn trên đường phố năm 1932, đã cố gắng ghi lại những cảm nhận tương tự: |
|
‘The sanctum is occupied by alien powers. I see the absolute truth and explanation of things, but something is left out which upsets the whole, so by a larger sweep of the mind, I have to see a greater truth and a more complete explanation, which comprises the living element. Nevertheless, there is still something left out. So we have to take a wider sweep … This process continues inexorably.’ |
“Thánh đường bị chiếm giữ bởi những quyền lực ngoại lai. Tôi nhìn thấy sự thật tuyệt đối và lời giải thích của mọi thứ, nhưng có một điều gì đó bị bỏ qua làm xáo trộn toàn bộ, vì vậy, bằng một bước nhảy tư duy lớn hơn, tôi phải thấy một sự thật lớn hơn và một lời giải thích hoàn chỉnh hơn, bao gồm yếu tố sống động. Tuy nhiên, vẫn có điều gì đó bị bỏ sót. Do đó, chúng ta phải mở rộng tầm nhìn… Quá trình này tiếp tục không thể dừng lại.” |
|
Each person has his own dignity, his own qualities, and these in turn are affected by moments of time and positionings in space, which also have their qualities. The karma of previous lives, the potency of permanent atoms, the complement of Rays, the patency of chakras, all decide which expressions of the third eye will be peculiarly and individualistically manifested. |
Mỗi người đều có phẩm giá, phẩm chất riêng của mình, và những điều này lần lượt bị ảnh hưởng bởi các thời khắc trong thời gian và vị trí trong không gian, vốn cũng có phẩm chất riêng. Nghiệp quả từ các kiếp trước, sức mạnh của các nguyên tử trường tồn, sự bổ sung của các Cung, mức độ mở của các luân xa—tất cả đều quyết định những biểu hiện của con mắt thứ ba sẽ thể hiện cách độc đáo và riêng biệt như thế nào. |
|
We should abandon immediately any idea of concrete organs lying at the basis of a functioning third eye. When we think of the powers released through the opened organ of inner vision, the first that come to mind are those of clairvoyant perception, and there are many such examples. The work of C. W. Ông Leadbeater, the Theosophical clairvoyant, stands out in the field of clairvoyance. |
Chúng ta nên từ bỏ ngay lập tức bất kỳ ý tưởng nào về một cơ quan vật lý cụ thể nằm ở nền tảng của con mắt thứ ba đang hoạt động. Khi chúng ta nghĩ về những năng lực được giải phóng thông qua cơ quan nội nhãn đã mở, điều đầu tiên xuất hiện trong tâm trí là khả năng thông nhãn, và có nhiều ví dụ về điều này. Công trình của C. W. Ông Leadbeater, nhà thông nhãn Thông Thiên Học, nổi bật trong lĩnh vực này. |

|
On one occasion in 1913, during an episode of clairvoyant perception, Ông Leadbeater observed St. Paul’s Cathedral 700 years in the future. During the bombing of London in World War II, many wondered whether St. Paul’s would be destroyed and thus invalidate Ông Leadbeater’s observation. In fact, whilst all the surrounding buildings were laid waste, the Cathedral itself was barely scratched. |
Vào năm 1913, trong một linh ảnh thông nhãn, C. W. Ông Leadbeater đã quan sát Nhà thờ St. Paul 700 năm trong tương lai. Trong Thế chiến II, khi London bị đánh bom, nhiều người lo ngại rằng Nhà thờ St. Paul có thể bị phá hủy, điều này sẽ làm mất hiệu lực quan sát của Ông Leadbeater. Tuy nhiên, mặc dù tất cả các tòa nhà xung quanh đều bị tàn phá, Nhà thờ St. Paul hầu như không bị tổn hại gì. |
|
Ông Leadbeater’s perception of the nuclei of all the known elements brought forth the amazing work Occult Chemistry, in which illustrations were provided of the structure of ultimate particles which make up the core of the atom. At that time and for the next fifty years, science considered the elements to be built out of combinations of neutrons, protons and electrons. Gold had more protons, neutrons and electrons than did oxygen or nitrogen. |
Cũng trong lần thông nhãn này, Ông Leadbeater đã mô tả các hạt nhân của tất cả các nguyên tố đã biết, điều này dẫn đến công trình đáng kinh ngạc Hóa Học Huyền Bí, trong đó các hình minh họa được cung cấp về cấu trúc của các hạt tối hậu tạo thành hạt nhân nguyên tử. Vào thời điểm đó và suốt 50 năm sau, khoa học vẫn cho rằng các nguyên tố được cấu thành từ các tổ hợp của neutron, proton và electron. Vàng có nhiều proton, neutron và electron hơn oxy hoặc nitơ. |
|
The whole pattern of the elements seemed to be, according to science’s interpretation, a dreary series of mere combinations of these particles clustered about the nucleus of each atomic element. Today, with the discovery of the quark, we are aware that the nucleus of the atom is far more elaborate than previously envisaged by science. We know that there are a variety of energies contained within it and extraordinary movements of quarks, all suggestive rather of the observations of Ông Leadbeater than the structures of the elements that we were taught in our chemistry classes at school. |
Theo cách giải thích của khoa học lúc bấy giờ, toàn bộ mẫu hình của các nguyên tố dường như chỉ là một chuỗi kết hợp nhàm chán của các hạt này xung quanh hạt nhân của mỗi nguyên tố. Ngày nay, với sự phát hiện ra quark, chúng ta nhận thức rằng hạt nhân nguyên tử phức tạp hơn nhiều so với những gì khoa học trước đây hình dung. Chúng ta biết rằng bên trong hạt nhân chứa đựng nhiều loại năng lượng khác nhau và các chuyển động phi thường của các quark, điều này có vẻ gần gũi hơn với quan sát của Ông Leadbeater hơn là cấu trúc nguyên tố mà chúng ta từng được học trong lớp hóa học ở trường. |
|
It should be remembered that Ông Leadbeater worked with Bà Annie Besant at the turn of the century. Bà Annie Besant herself had high moral codes and was an esteemed member of society, a Socialist and feminist, who often spoke in the Albert Hall to great crowds. It is said that she, more than any other European, did more for the liberation of imperial India. She vouchsafed the observations of Ông Leadbeater, and the author has often forecast, despite the falterings of Theosophists themselves who should know better, that Ông Leadbeater’s work will be vindicated. |
Cần nhớ rằng Ông Leadbeater đã làm việc cùng Bà Annie Besant vào đầu thế kỷ. Bà Annie Besant, người có các tiêu chuẩn đạo đức cao, là một thành viên được kính trọng trong xã hội, một nhà xã hội chủ nghĩa và nhà nữ quyền, thường phát biểu trước đám đông lớn tại Albert Hall. Người ta nói rằng bà, hơn bất kỳ người châu Âu nào khác, đã làm nhiều nhất cho sự giải phóng của Ấn Độ thuộc địa. Bà đã xác nhận những quan sát của Ông Leadbeater, và tác giả thường dự đoán rằng, bất chấp những nghi ngờ từ chính các nhà Thông Thiên Học, công trình của Ông Leadbeater cuối cùng sẽ được minh chứng. |
|
C. W. Ông Leadbeater indicated that his clairvoyant abilities were related to the long period which he had spent in devachan between his present life and the last and suggested that he had ‘trailed in clouds of glory’ and with these divine attributes had been able to look into the tiniest atom, as well as into the past and into the future. It is interesting to note that Ông Leadbeater said that he formulated a long, tapering, funnel-like structure (shape) from his brow in order to look into the microcosm of the atoms. |
Ông C.W. Leadbeater cho rằng khả năng thông nhãn của mình liên quan đến khoảng thời gian dài mà ông đã trải qua trong Devachan giữa kiếp sống hiện tại và kiếp trước, và gợi ý rằng ông đã “mang theo những đám mây vinh quang” và với những thuộc tính thiêng liêng này, ông có thể nhìn vào nguyên tử nhỏ nhất, cũng như vào quá khứ và tương lai. Điều thú vị là ông Leadbeater nói rằng ông đã hình thành một cấu trúc dài, thuôn nhọn, giống như cái phễu từ trán của mình để nhìn vào vi mô của các nguyên tử. |
|
Edgar Cayce’s work is too well known to dwell upon here. He was not only able to examine the structure of the person’s karma in previous lives, but could also diagnose illnesses of persons whom he had not even met, but who were in correspondence. |
Công trình của Edgar Cayce đã quá nổi tiếng để cần đề cập chi tiết tại đây. Ông không chỉ có khả năng kiểm tra cấu trúc nghiệp quả của một người trong các kiếp trước, mà còn có thể chẩn đoán bệnh của những người mà ông chưa từng gặp, chỉ thông qua thư từ. |
|
The author has already written about the functioning of the organ of inner vision in that grand mystic Emanuel Swedenborg (See Life After Death by the author.) Amongst many other powers manifested, he often remarked how celestial beings virtually queued to use his physical eyes through which to look into our world. |
Tác giả đã từng viết về sự hoạt động của cơ quan nội nhãn trong trường hợp nhà thần bí vĩ đại Emanuel Swedenborg (Xem Life After Death của tác giả). Trong số nhiều năng lực khác mà Swedenborg thể hiện, ông thường nhận xét rằng các thực thể cõi trời dường như xếp hàng để sử dụng đôi mắt thể chất của ông nhằm quan sát thế giới của chúng ta. |
|
The mythologies of the nations are full of references to the third eye. The Egyptians called it the ‘Eye of Horus.’ In Roman and Greek mysteries, the third eye is referred to as the swelling on the rod of the caduceus which was carried by Mercury, or Hermes, and Mercury was the messenger of the gods. In the Roman Bacchanalia, the baby Bacchus plays with a pine cone and a mirror—the mirror representing the astral plane and the pine cone representing the pineal gland, which was said to resemble the shape of the pine cone. |
Thần thoại của các dân tộc đầy rẫy những tham chiếu đến con mắt thứ ba. Người Ai Cập gọi nó là “Mắt của Horus.” Trong các Bí Nhiệm La Mã và Hy Lạp, con mắt thứ ba được ám chỉ như phần nhô lên trên cây gậy caduceus mà thần Mercury, hay Hermes, mang theo. Mercury là sứ giả của các vị thần. Trong lễ hội Bacchanalia của La Mã, em bé Bacchus chơi đùa với một quả thông và một chiếc gương—chiếc gương đại diện cho cõi cảm dục, còn quả thông tượng trưng cho tuyến tùng, được cho là giống với hình dạng của quả thông. |
|
In the New Testament, it is the organ of inner vision which Jesus refers to in his words, ‘If thine eye be single, thy whole body shall be filled with light.’ In English mysticism, it is the horn of the unicorn—the sharpened instrument or blade of a mythological white horse which was said to have been able to slay the lion of personality. The unicorn is a symbol of the Soul, and the lion with which it fights represents the personality. Also in English mysticism, and I believe in the Bible as well, the third eye is referred to as a shining bowl. It is the Holy Grail of the Arthurian legends and the knights in shining armour, which is the outer symbol of purification. The knights in shining armour search for the Holy Grail, search for the eye of spiritual perception which makes all things visible to them. |
Trong Tân Ước, cơ quan nội nhãn được Đức Jesus đề cập qua lời Ngài: “Nếu mắt ngươi là đơn nhất, cả thân thể ngươi sẽ được đầy ánh sáng.” Trong thần bí học Anh, nó được gọi là sừng của kỳ lân—một công cụ sắc bén hay lưỡi kiếm của chú ngựa trắng thần thoại, được cho là có khả năng giết chết sư tử của phàm ngã. Kỳ lân là biểu tượng của Linh hồn, còn sư tử mà nó chiến đấu tượng trưng cho phàm ngã. Cũng trong thần bí học Anh, và tôi tin rằng trong Kinh Thánh cũng vậy, con mắt thứ ba được gọi là chiếc bát sáng ngời. Đó là Chén Thánh trong truyền thuyết Arthurian và các hiệp sĩ áo giáp sáng ngời, biểu tượng bên ngoài của sự thanh tẩy. Các hiệp sĩ áo giáp sáng ngời tìm kiếm Chén Thánh, tức là tìm kiếm con mắt của nhận thức tinh thần, thứ làm mọi điều trở nên hiển hiện đối với họ. |
|
The subject of the third eye became internationally known probably as the result of an experiment in literary expression way back in the late 1950’s. We all, of course, remember the famous book by Lobsang Rampa called The Third Eye. It excited great comment at the time. It was just as if the contents of the book electrified not only esoteric people, but those who were not even interested in the esoteric, and most people seemed to think that the book was, in fact, a genuine work written by a Tibetan lama. |
Chủ đề về con mắt thứ ba trở nên nổi tiếng quốc tế có lẽ là kết quả của một thí nghiệm trong biểu đạt văn học vào cuối thập niên 1950. Tất cả chúng ta, tất nhiên, đều nhớ cuốn sách nổi tiếng của Lobsang Rampa mang tên The Third Eye. Cuốn sách đã gây ra một sự chú ý lớn vào thời điểm đó. Nội dung của nó dường như không chỉ gây kinh ngạc cho những người quan tâm đến huyền môn mà còn cả những người không có chút hứng thú nào với huyền môn. Hầu hết mọi người đều cho rằng cuốn sách, thực tế, là một tác phẩm chân thực được viết bởi một Lạt ma Tây Tạng. |
|
It told the story of how a little boy in Tibet, a boy of very high birth, entered a lamasery, and there he was put through a series of tests and trials as a preliminary to the opening of the third eye. After many hardships, the experience culminated in his having a wooden sliver (a piece of wood that was sharpened and dried by candles until it turned black) inserted into his brain. When the sliver was withdrawn from the brain, having remained there for some days, the youngster became clairvoyant. He could see auras; he could foretell future events, and he had developed great insight, insight into human nature. |
Cuốn sách kể câu chuyện về một cậu bé ở Tây Tạng, một cậu bé có xuất thân cao quý, bước vào một tu viện Lạt ma và trải qua một loạt các thử thách như bước chuẩn bị cho việc khai mở con mắt thứ ba. Sau nhiều gian khổ, trải nghiệm này đạt đến đỉnh cao khi một thanh gỗ nhỏ (một mẩu gỗ được vót nhọn và sấy khô bằng nến cho đến khi chuyển thành màu đen) được cắm vào não cậu bé. Khi thanh gỗ được rút ra khỏi não, sau khi đã nằm đó vài ngày, cậu bé trở nên thông nhãn. Cậu có thể nhìn thấy hào quang, tiên đoán các sự kiện trong tương lai, và phát triển sự thấu hiểu sâu sắc về bản chất con người. |
|
Whilst all this made the book one of the greatest sellers of its day, a detective in England was investigating Mr. Lobsang Rampa, and a storm was created when the detective revealed to the London newspapers that Lobsang Rampa was none other than an English plumber called Cyril Hoskins. The furore went on, but Hoskins always maintained that the contents of his story were valid. However, he was pestered enormously by the press, and eventually, he fled with his wife, who was a state registered nurse, to Canada. As I recall, he settled in the Calgary area where he wrote a long sequel to The Third Eye, none of which, in my opinion, equalled in any way the first book. |
Dù tất cả điều này khiến cuốn sách trở thành một trong những tác phẩm bán chạy nhất thời bấy giờ, một thám tử ở Anh đã điều tra Lobsang Rampa và gây ra một làn sóng dư luận khi tiết lộ với báo chí London rằng Lobsang Rampa không ai khác chính là một thợ sửa ống nước người Anh tên Cyril Hoskins. Sự ồn ào tiếp tục diễn ra, nhưng Hoskins luôn khẳng định rằng nội dung câu chuyện của ông là đúng sự thật. Tuy nhiên, ông bị báo chí quấy rầy không ngừng, và cuối cùng, ông cùng vợ—một y tá được cấp chứng chỉ—chạy trốn sang Canada. Theo tôi nhớ, ông định cư tại khu vực Calgary, nơi ông viết một loạt phần tiếp theo của The Third Eye, nhưng không tác phẩm nào, theo quan điểm của tôi, có thể so sánh được với cuốn sách đầu tiên. |
CHAPTER 4
Median Eyes— Con Mắt Trung Tâm
|
What we are asking ourselves here is, ‘What is the third eye?’ It is not an easy question to answer. It is more a matter of nomenclature than not knowing the facts. We have so few words, here in the West, which can describe adequately the nature of the third eye: whether it is actually a physical structure, whether it is a spiritual symbol, and so on. |
Câu hỏi mà chúng ta đang tự đặt ra ở đây là, “Con mắt thứ ba là gì?” Đây không phải là một câu hỏi dễ trả lời. Nó thiên về vấn đề thuật ngữ hơn là việc thiếu hiểu biết về sự thật. Ở phương Tây, chúng ta có rất ít từ ngữ có thể mô tả đầy đủ bản chất của con mắt thứ ba: liệu nó thực sự là một cấu trúc vật lý hay là một biểu tượng tinh thần, và vân vân. |
|
Knowledge about such esoteric abstractions here in the West was forced underground by entrenched religions which persecuted esoteric societies and fraternities mercilessly. Driven underground the teachings were expressed symbolically or in the garb of alchemy and astrology. But the traditions remained and now must be exteriorised in whatever way possible and in the language of the day. |
Kiến thức về những khái niệm trừu tượng mang tính huyền bí như vậy ở phương Tây đã bị đẩy vào bóng tối bởi các tôn giáo cố thủ, những tôn giáo đã đàn áp các hội huyền bí và các tổ chức huynh đệ một cách không thương tiếc. Bị buộc phải ẩn mình, những giáo lý này được diễn đạt dưới dạng biểu tượng hoặc dưới lớp vỏ của thuật giả kim và chiêm tinh học. Tuy nhiên, các truyền thống này vẫn được duy trì và giờ đây cần phải được ngoại hiện hóa bằng mọi cách có thể và trong ngôn ngữ hiện đại. |
|
We have, of course, our own esoteric views on the matter, and in the occult teachings, the third eye is always ultimately the target of esoteric disciplines. Esoteric disciplines (like temperance, abstinance, meditation and detachment) are directed towards the recognising or the locating of the third eye, and they prepare the disciple—the would-be initiate or novitiate—for the opening of the third eye which, when it becomes functioning, is said to change the individual into a super-being, into a member of the Fifth Kingdom of nature—the Kingdom of the Saints, the Kingdom of the Soul. |
Tất nhiên, chúng ta có những quan điểm huyền bí của riêng mình về vấn đề này, và trong các giáo lý huyền bí, con mắt thứ ba luôn được xem là đích đến cuối cùng của các kỷ luật huyền môn. Các kỷ luật huyền môn (như sự tiết chế, kiêng khem, tham thiền và buông xả) hướng tới việc nhận biết hoặc định vị con mắt thứ ba, và chúng chuẩn bị cho người đệ tử—người sẽ trở thành điểm đạo đồ hoặc tập sự—cho sự khai mở con mắt thứ ba. Khi con mắt này bắt đầu hoạt động, nó được cho là sẽ biến cá nhân đó thành một siêu nhân, một thành viên của Vương quốc thứ Năm của tự nhiên—Vương quốc của Các Vị Thánh, Vương quốc của Linh hồn. |
|
The question now arises, ‘Is it a physical organ?’ When we examine animals and the part that they play in evolution, we find evidence of a third eye, a real, physical organ in certain animals. This third eye is taken to be a pigmented body which we call the pineal body, and it is an evagination of the brain. The primitive anatomy of animals and of man is one of a tube with a blind end to it, and the tube swells in certain regions to produce the brain itself. The forepart of the tube swells to produce the forebrain, and the rear part of the tube swells to produce the hindbrain. Between the forebrain in the primitive animal (and, indeed, in man) and the hindbrain, an evagination of the tube represents that part which we call the pineal gland or pineal body. |
Câu hỏi đặt ra bây giờ là, “Liệu nó có phải là một cơ quan vật lý?” Khi chúng ta xem xét các loài động vật và vai trò của chúng trong tiến hóa, chúng ta thấy có bằng chứng về một con mắt thứ ba—một cơ quan thực sự, mang tính vật lý—ở một số loài động vật. Con mắt thứ ba này được cho là một cơ quan có sắc tố, mà chúng ta gọi là tuyến tùng, và nó là một phần lồi ra từ não bộ. Cấu trúc giải phẫu nguyên thủy của động vật và con người là một ống với một đầu kín, và ống này phình ra ở một số vùng nhất định để tạo thành chính bộ não. Phần trước của ống phình ra để tạo thành não trước, và phần sau của ống phình ra để tạo thành não sau. Giữa não trước ở động vật nguyên thủy (và, thực tế, ở con người) và não sau, có một phần lồi của ống đại diện cho phần mà chúng ta gọi là tuyến tùng hoặc thể tùng. |

|
This pineal body, which is a swelling of the brain tube, is present in some animals, not in all. It is present as an eye—a primitive eye—meaning that the swelling has got pigment cells in it capable of reacting to light, found in the hag fish and also in the tuatalla lizard of New Zealand. By scraping away the horny surface of the tuatalla lizard’s skull and scalp, the presence there of a pigmented gland can be seen quite easily. In frogs this gland, or pineal body, secretes a hormone which has an effect on the skin colouration, which can be changed from a light colour into a dark colour through the action of the pineal gland which, in turn, is reactive to light. |
Tuyến tùng, vốn là một phần phình ra của ống não, có mặt ở một số loài động vật, nhưng không phải ở tất cả. Nó tồn tại như một con mắt—một con mắt nguyên thủy—nghĩa là phần phình này chứa các tế bào sắc tố có khả năng phản ứng với ánh sáng, được tìm thấy ở cá hagfish và thằn lằn tuatara ở New Zealand. Bằng cách cạo đi lớp xương sừng trên hộp sọ và da đầu của thằn lằn tuatara, có thể dễ dàng nhìn thấy một tuyến sắc tố tại đó. Ở loài ếch, tuyến này, hay còn gọi là tuyến tùng, tiết ra một loại hormone có tác động đến màu sắc của da, khiến da thay đổi từ màu sáng sang màu tối thông qua hoạt động của tuyến tùng, vốn phản ứng với ánh sáng. |
|
Thus, there is in primitive anatomy evidence of a pineal body functioning as a primitive eye, and later we shall see what the esoteric proposition is about the gland. |
Như vậy, trong giải phẫu nguyên thủy, có bằng chứng cho thấy tuyến tùng hoạt động như một con mắt nguyên thủy, và sau này chúng ta sẽ thấy các lý thuyết huyền bí về tuyến này như thế nào. |
|
Certainly, mythology tells us of ‘median eyes’ in ancient human beings, of giants with an eye in the centre of the forehead. There are also indications that early human types, according to mythology, possessed an extra eye apart from their two natural eyes: an extra eye in the forehead or placed at the back of the skull. |
Chắc chắn, thần thoại nói về “con mắt trung tâm” ở loài người cổ đại, những người khổng lồ với một con mắt nằm giữa trán. Cũng có những chỉ dấu cho thấy, theo thần thoại, các dạng người nguyên thủy sở hữu một con mắt bổ sung bên cạnh hai mắt tự nhiên của họ: một con mắt thêm ở trán hoặc phía sau hộp sọ. |
|
When we come to examine the anatomy of the human brain, we find considerable changes from the primitive tube described above. The swelling on the front of the tube has grown into a vast, massive tissue which we call the cerebral hemispheres. Two lobes of the cerebral hemispheres now occupy most of the cranial vault or the contents of the skull, and the hindbrain has grown also, but not to such an extent. Whereas the forebrain is the seat of consciousness in the human being and the seat of higher functions, including things like memory and character, the hindbrain merely is unconscious and acts as a coordinator of movement, producing such things as balance. Yet, between this huge forebrain of man and the smaller hindbrain, there lies the pineal gland. |
Khi nghiên cứu giải phẫu não người, chúng ta thấy có nhiều thay đổi đáng kể so với ống nguyên thủy được mô tả ở trên. Phần phình ở phía trước ống đã phát triển thành một khối mô lớn mà chúng ta gọi là bán cầu não. Hai thùy của bán cầu não hiện nay chiếm phần lớn khoang sọ hoặc nội dung của hộp sọ, trong khi phần não sau cũng phát triển nhưng không đến mức như vậy. Trong khi não trước là nơi đặt trụ tâm thức của con người và là trung tâm của các chức năng cao cấp, bao gồm cả trí nhớ và tính cách, thì não sau chỉ đơn thuần là vô thức và hoạt động như một bộ điều phối chuyển động, tạo ra các chức năng như giữ thăng bằng. Tuy nhiên, giữa não trước khổng lồ của con người và não sau nhỏ hơn, là tuyến tùng. |
|
The centre, hollow part of the tube in man is still patent, in what we call the ventricles of the brain. These ventricles go right down the spinal cord and contain the cerebral spinal fluid, which is a sort of circulation that the brain possesses inherently. As an evagination (a pocketing, an outgrowth, a sort of sac) of the ventricles, we find the pineal gland. Also, out of the floor of the third ventricle, as well as from the roof of the mouth, we have the pituitary gland—another very important gland. Thus, we have located anatomically, by description, the site of or the remnants of the pineal gland in the human being. |
Phần trung tâm rỗng của ống trong con người vẫn tồn tại, mà chúng ta gọi là các não thất. Các não thất này kéo dài xuống tủy sống và chứa dịch não tủy, một dạng tuần hoàn vốn có trong não. Là một phần lồi ra (một túi, một phần mọc nhô lên) từ các não thất, chúng ta tìm thấy tuyến tùng. Ngoài ra, từ sàn của não thất thứ ba cũng như từ vòm miệng, tuyến yên—một tuyến rất quan trọng khác—được hình thành. Như vậy, chúng ta đã xác định vị trí giải phẫu của tuyến tùng hoặc các phần còn sót lại của nó trong cơ thể con người. |
|
It was said for many, many years by esoteric science—including Madame Blavatsky, esoteric Buddhism and others—that the pineal gland was definitely an endocrine gland. However, it is only in very recent years, mainly through the research work done by the University of Minnesota, that we can state now quite definitely that the pineal gland is an endocrine gland and that it does secrete hormones, which is the true test of an endocrine gland. Hormones are chemical messengers which act upon tissues at a distance, producing changes in their structure and sometimes changes in their function as well. In the case of the pineal gland, the changes according to science which are produced—and we don’t know them all—are that it affects the sexual maturation of the human being, i.e., the maturing of the sexual functions and sexual organs. |
Trong nhiều năm qua, khoa học huyền bí—bao gồm bà Blavatsky, Phật giáo huyền bí và những người khác—đã khẳng định rằng tuyến tùng chắc chắn là một tuyến nội tiết. Tuy nhiên, chỉ trong những năm gần đây, chủ yếu thông qua các nghiên cứu của Đại học Minnesota, chúng ta mới có thể khẳng định chắc chắn rằng tuyến tùng là một tuyến nội tiết và nó thực sự tiết ra hormone, điều kiện tiên quyết của một tuyến nội tiết. Hormone là các chất truyền tin hóa học tác động lên các mô ở khoảng cách xa, gây ra những thay đổi trong cấu trúc và đôi khi trong chức năng của chúng. Trong trường hợp của tuyến tùng, các thay đổi được khoa học biết đến (và chúng ta chưa biết hết) bao gồm tác động lên sự trưởng thành sinh dục ở con người, tức là sự phát triển của các chức năng và cơ quan sinh dục. |
|
If the pineal gland is invaded by a cancer (a pinealoma), there can occur gross distortions of the pineal effect in the human being. These are seen as sexual precociousness. A boy with a pinealoma is a child who will have early development of the sexual glands so that at the age of seven or eight, he possesses adult organs, the hair and the precociousness of an adult. |
Nếu tuyến tùng bị xâm lấn bởi ung thư (pinealoma), có thể xảy ra những biến dạng lớn trong tác động của tuyến tùng lên cơ thể con người. Điều này được thể hiện dưới dạng sự phát triển tình dục sớm. Một cậu bé bị pinealoma có thể phát triển các tuyến sinh dục từ rất sớm, đến mức ở tuổi bảy hoặc tám, cậu sở hữu các cơ quan sinh dục của người trưởng thành, cùng với tóc và sự trưởng thành sớm của người lớn. |
|
In addition, the pineal gland has the effect of being able to set the body clock which produces the rhythm of the body. One of the rhythms which may be affected profoundly is the oestrous cycle in women, the cycle in which the body temperature rises (the female gets on ‘heat’, as it were), and this coincides with the preparation of the endometrium (the lining of the uterus) for the reception of the fertilised egg. |
Ngoài ra, tuyến tùng có tác động trong việc thiết lập đồng hồ sinh học của cơ thể, điều chỉnh nhịp điệu cơ thể. Một trong những nhịp điệu có thể bị ảnh hưởng sâu sắc là chu kỳ sinh dục ở phụ nữ, chu kỳ trong đó nhiệt độ cơ thể tăng lên (phụ nữ trở nên “bốc hoả,” nếu có thể nói vậy), và điều này trùng khớp với việc chuẩn bị niêm mạc tử cung để tiếp nhận trứng được thụ tinh. |
|
Of great interest to us as esotericists is the fact that rhythms form a necessary part in the unfoldment of esoteric disciplines. The preparation for discipleship requires the inculcation of rhythms. Outwardly, from an orthodox or exoteric point of view, we are interested at this time in the matter of circadian rhythms, which link the functions of the body organs to night and day. At night, some of our organs sink into a condition of semi-activity; whereas other organs, like the parasympathetic nervous system, become stimulated and over-active at night. The pineal gland has an effect on our circadian rhythm, our adjustment to night and day. The pineal gland also affects the kidneys in such a way that we find that salt may be retained by the kidneys, whereas it normally is excreted almost entirely. |
Điều thú vị đối với chúng ta với tư cách là các nhà huyền bí là thực tế rằng nhịp điệu là một phần cần thiết trong sự phát triển của các kỷ luật huyền bí. Sự chuẩn bị cho địa vị đệ tử đòi hỏi sự rèn luyện các nhịp điệu. Từ quan điểm chính thống hoặc ngoại môn, chúng ta hiện đang quan tâm đến vấn đề nhịp sinh học, liên kết các chức năng của các cơ quan cơ thể với ngày và đêm. Vào ban đêm, một số cơ quan của chúng ta rơi vào trạng thái bán hoạt động, trong khi các cơ quan khác, như hệ thần kinh phó giao cảm, trở nên kích thích và hoạt động mạnh vào ban đêm. Tuyến tùng có ảnh hưởng đến nhịp sinh học của chúng ta, điều chỉnh cơ thể theo ngày và đêm. Nó cũng ảnh hưởng đến thận bằng cách giữ lại muối, thay vì loại bỏ hoàn toàn như bình thường. |
|
Thus, these are some of the known effects which the pineal gland has on the human body. It is the esoteric contention that there are many other effects about which science knows very little. One of these so-called occult or hidden effects is that when the pineal gland is stimulated through meditation, it maintains the patency of the sutures of the skull, of the cranial vault. |
Như vậy, đây là một số tác động đã biết của tuyến tùng lên cơ thể con người. Quan điểm huyền bí cho rằng còn nhiều tác động khác mà khoa học biết rất ít. Một trong những tác động được gọi là huyền bí này là khi tuyến tùng được kích thích thông qua tham thiền, nó duy trì sự thông thoáng của các khớp sọ và khoang sọ. |
|
The bones of man tend to ossify by the time he is twenty-one or twenty-two years of age, except for the bones of the skull. These bones remain unossified, or not completely closed as it were, until about the age of sixty or more. It is the esoteric proposition that these bones of the skull remain unknitted, that the sutures do not ossify or harden, and this enables the shape of the brain of a disciple (of an advanced spiritual person) to change. Indeed, under the influence of meditation, the esoteric sciences say that brain tissue still grows and that the contents of the brain are changed under meditation, new areas being laid down which are highly receptive to spiritual or subjective impacts. It is under the influence of the pineal gland which permits the bone of the skull to remain patent (or unknitted) so that the shape of the brain can change. This is one of the many esoteric functions of the pineal gland which will be discovered in the centuries ahead. |
Xương của con người thường hóa cứng khi đến khoảng 21 hoặc 22 tuổi, ngoại trừ xương hộp sọ. Những xương này vẫn chưa hoàn toàn hóa cứng, hoặc chưa hoàn toàn khép kín, cho đến khoảng 60 tuổi hoặc hơn. Theo các lý thuyết huyền bí, xương hộp sọ của con người vẫn chưa kết nối hoàn toàn, các khớp xương không hóa cứng hoặc trở nên cứng nhắc, điều này cho phép hình dạng của não bộ của một đệ tử (hoặc một người có tâm linh cao cấp) thay đổi. Thật vậy, dưới ảnh hưởng của tham thiền, khoa học huyền bí cho rằng mô não vẫn tiếp tục phát triển và nội dung của não bộ thay đổi, với các khu vực mới được hình thành, có khả năng tiếp nhận cao đối với các tác động tinh thần hoặc nội tại. Chính tuyến tùng tạo điều kiện cho xương hộp sọ duy trì trạng thái thông thoáng (không khép kín), cho phép hình dạng của não thay đổi. Đây là một trong nhiều chức năng huyền bí của tuyến tùng, những chức năng này sẽ được khám phá thêm trong các thế kỷ tới. |
|
Now we need to go further into the occult teachings on the subject. of the pineal gland. Some believe that the pituitary gland is the third eye, that the pituitary has an important link with the organ of inner perception. In part this is true, but it is the pineal gland (of those physical organs that play any part in the opening of the third eye) which is more relevant than the pituitary. It is now important to consider the age of man. |
Bây giờ chúng ta cần đi sâu hơn vào các giáo lý huyền bí liên quan đến tuyến tùng. Một số người tin rằng tuyến yên là con mắt thứ ba và rằng nó có một mối liên kết quan trọng với cơ quan nhận thức nội tâm. Điều này đúng một phần, nhưng chính tuyến tùng (trong số các cơ quan vật lý có liên quan đến việc mở con mắt thứ ba) đóng vai trò quan trọng hơn tuyến yên. |
|
It is not the esoteric belief that man has finished growing physically, nor that he has finished growing at subtler levels. In fact, from the spiritual point of view, man is only embryonic: he is a spiritual embryo, hardly yet formed. The further inward that we travel in man, out of his physical body into his subtler vehicles of consciousness, the more embryonic he is, the less formed he is, the uglier spiritually is he. He may be quite a symmetrical being at the physical level, but from a spiritual point of view, he is only half formed. |
Không có quan niệm huyền bí nào cho rằng con người đã hoàn toàn trưởng thành về mặt thể chất, cũng không cho rằng con người đã hoàn thiện ở các cấp độ tinh vi hơn. Trên thực tế, từ quan điểm tinh thần, con người chỉ mới là một bào thai: một bào thai tinh thần, hầu như chưa được hình thành. Càng đi sâu vào bên trong con người, ra khỏi cơ thể vật lý và tiến vào các thể tinh tế hơn của tâm thức, con người càng trở nên sơ khai, chưa hoàn chỉnh và “xấu xí” về mặt tinh thần. Anh ta có thể là một sinh vật đối xứng ở cấp độ vật lý, nhưng từ quan điểm tinh thần, anh ta chỉ mới hoàn thiện một nửa. |
|
The age of man is immense. His age in the planetary systems in our solar system alone is immense. At a non-physical level, at an angelic level (if we must use such a word) or at a subtle level, man has possessed instruments of expression which go back four or five thousand million years. The physical body of man itself, we maintain, is twenty-five million years old, and, indeed, his physical body is the product of two merging evolutions. One evolution, to which we have just referred with an age of something like four billion years, emphasised a materialising process: a process in which man materialised a mental body, then an emotional or astral body, then an etheric body and finally a physical vehicle. The other evolutionary stream, the twin of the one just described, was that which evolved upon the earth under the usual Darwinian concepts that are accepted, e.g., under such propositions as the origin of species, of survival of the fittest, and so on. |
Tuổi của con người là rất lớn. Chỉ riêng trong hệ thống hành tinh của hệ Mặt Trời, tuổi của con người đã rất khổng lồ. Ở cấp độ phi vật lý, ở cấp độ thiên thần (nếu chúng ta cần sử dụng thuật ngữ này) hoặc ở một cấp độ tinh tế, con người đã sở hữu các công cụ biểu hiện từ khoảng bốn hoặc năm tỷ năm trước. Cơ thể vật lý của con người, chúng ta cho rằng, đã tồn tại khoảng 25 triệu năm và thực tế là sản phẩm của hai dòng tiến hóa hợp nhất. Một dòng tiến hóa, với lịch sử khoảng bốn tỷ năm, nhấn mạnh vào quá trình vật chất hóa: một quá trình mà trong đó con người hình thành một thể trí, sau đó là một thể cảm dục, rồi một thể dĩ thái, và cuối cùng là một thể vật lý. Dòng tiến hóa còn lại, song song với dòng tiến hóa vừa được mô tả, là dòng tiến hóa diễn ra trên Trái Đất theo các khái niệm Darwin tiêu chuẩn, như sự phát sinh loài, sự sinh tồn của kẻ thích nghi nhất, v.v. |
|
By this we mean, very slowly and yet over comparatively shorter periods of time (which involve the occult concepts of Round and Chains), man was fashioned through a process of unfolding, first, the Mineral Kingdom, then on its surface a Plant Kingdom, then by concentration an Animal Kingdom, and then out of the Animal Kingdom a stream of hominids (human-like forms) which had reached an anthropoid stage, and then developed a large brain area. Thus, we had the formation of hominids on the earth, not yet human, but humanlike. |
Ý của chúng ta là, rất chậm rãi nhưng trong những khoảng thời gian tương đối ngắn hơn (liên quan đến các khái niệm huyền bí về Cuộc tuần hoàn và Dãy hành tinh), con người đã được hình thành thông qua một quá trình phát triển dần dần. Đầu tiên là Giới Khoáng vật, sau đó trên bề mặt của nó là Giới Thảo mộc, rồi tiếp đến là Giới Động vật thông qua sự tập trung, và sau đó từ Giới Động vật xuất hiện một dòng giống người vượn (các hình tướng giống con người) đạt đến giai đoạn hình người và phát triển một khu vực não bộ lớn. Như vậy, chúng ta đã có sự hình thành của các loài người vượn trên trái đất, chưa phải là con người, nhưng có hình dạng giống con người. |
|
Then about twenty-five million years ago, some of these hominids, who were extremely developed from the forebrain point of view, were taken over by the etheric states of the older stream of evolution—the materialising evolution—and some of these hominid forms were dwelt upon or overshadowed, interpenetrated by the subtler evolution. Structures in these hominids, like the pineal gland, the pituitary gland, the cranial vault, the face bones and the clavicles, were tremendously altered by this indwelling evolution. |
Khoảng 25 triệu năm trước, một số loài người vượn, vốn đã phát triển cực kỳ tiên tiến về mặt não trước, đã bị chiếm hữu bởi các trạng thái dĩ thái của dòng tiến hóa lâu đời hơn—dòng tiến hóa mang tính vật chất hóa. Một số hình tướng người vượn này đã bị cư trú hoặc phủ bóng, thâm nhập bởi dòng tiến hóa vi tế hơn. Các cấu trúc trong những người vượn này, như tuyến tùng, tuyến yên, hộp sọ, xương mặt và xương đòn, đã được thay đổi đáng kể bởi dòng tiến hóa cư ngụ bên trong này. |
|
Thus, we have the concept of an etherial evolution settling onto the gross, physical hominid structure that had been produced in a shorter period on the earth and a merging of the two. It was under this influence that the pineal structures (which we refer to here as the physical basis of the third eye) changed enormously. The impact of the meeting of these two streams of evolution was explosive in terms of humanising the ape forms. In his book The Emergence of Man (Nelson), John E. Pfeiffer says the factor was a dietary one. Esoteric science points to the ‘overlord’ factor. |
Như vậy, chúng ta có khái niệm về một dòng tiến hóa dĩ thái hội nhập vào cấu trúc vật chất thô kệch của loài người vượn, cấu trúc này đã được hình thành trong khoảng thời gian ngắn hơn trên trái đất, dẫn đến sự hợp nhất của hai dòng tiến hóa. Dưới ảnh hưởng này, các cấu trúc tuyến tùng (mà ở đây chúng ta gọi là cơ sở vật lý của con mắt thứ ba) đã thay đổi một cách đáng kể. Tác động của cuộc gặp gỡ giữa hai dòng tiến hóa này đã tạo ra một sự bùng nổ trong việc nhân hóa các hình tướng loài vượn. Trong cuốn sách The Emergence of Man (Nelson), John E. Pfeiffer cho rằng yếu tố này là do chế độ ăn uống. Khoa học nội môn lại chỉ ra yếu tố “người cai quản”. |
|
In the earliest form of man, the shape of the head (See Appendix 2) changed tremendously as the indwelling beings took over the specialised hominids. Because the cranial vault was still patent (was not yet closed or sutures had not yet ossified), the shape of the skull lengthened. It became more or less acrocephalic, and by that we mean tapered more or less to a point, as can be seen still to this day in some primitive races like the Bantu or the Black races of Southern Africa. We can also see this in some babies who have passed through a narrow birth canal. There is the same effect of a tapered skull where the bones have been moulded by the birth canal to form this acrocephalic shape. |
Trong hình thái sớm nhất của con người, hình dạng của đầu (xem Phụ lục 2) đã thay đổi đáng kể khi các thực thể cư ngụ bắt đầu kiểm soát những người vượn được chuyên biệt hóa. Vì hộp sọ vẫn còn mở (chưa khép kín hoặc các đường khớp chưa bị hóa cốt), hình dạng của hộp sọ đã kéo dài ra. Nó trở nên gần như dạng đầu nhọn, nghĩa là phần trên của hộp sọ thuôn dần về một điểm, điều này vẫn có thể được quan sát cho đến ngày nay ở một số chủng tộc nguyên thủy như người Bantu hoặc các chủng tộc da đen ở miền Nam châu Phi. Chúng ta cũng có thể thấy điều này ở một số trẻ sơ sinh khi đi qua ống sinh hẹp. Hiện tượng tương tự xảy ra khi hộp sọ bị uốn nắn bởi ống sinh, tạo ra hình dạng đầu nhọn này. |
|
The earliest men, then, had such a shaped skull, and in them there was a parietal eye. This eye emerged out of a failure of the skull bones to close completely, forming what we all a parietal foramen—the posterior foramen, if you wish. The posterior foramen is sometimes palpable in the skull of a newborn child. We all see the anterior foramen in the head of a child where there is no closure yet, but in some children, the posterior foramen also remains patent (partly opened), which closes later. It was through this posterior foramen that the parietal eye emerged and functioned in the most primitive men who were called the Third Root Race or Lemurian Root Race. Thus, it was in some of these very early types of the Third and Fourth Subraces of the Lemurian Root Race (The first truly human race on the surface of the planet, beginning its existence about eighteen million years ago) that the parietal eye functioned. |
Những người nguyên thủy nhất đã có hình dạng hộp sọ như vậy, và trong họ tồn tại một con mắt đỉnh đầu. Con mắt này xuất hiện do sự không khép kín hoàn toàn của các xương sọ, hình thành một lỗ đỉnh đầu—hoặc nếu muốn, có thể gọi là lỗ sau. Lỗ sau này đôi khi có thể sờ thấy ở hộp sọ của một trẻ sơ sinh. Chúng ta thường thấy lỗ trước ở đầu trẻ sơ sinh khi hộp sọ chưa khép kín, nhưng ở một số trẻ, lỗ sau cũng vẫn mở (một phần), sau đó mới khép kín. Chính qua lỗ sau này mà con mắt đỉnh đầu xuất hiện và hoạt động trong những người nguyên thủy nhất, được gọi là giống dân gốc thứ ba hoặc Chủng tộc Gốc Lemuria. Như vậy, chính ở một số loại hình rất sớm của các Phân chủng thứ ba và thứ tư của Chủng tộc Gốc Lemuria (chủng tộc con người thực sự đầu tiên trên bề mặt hành tinh, bắt đầu tồn tại khoảng 18 triệu năm trước), con mắt đỉnh đầu đã hoạt động. |
|
In some of the primitive animals referred to above, the pineal gland is a double organ. By this we mean there is a pineal part that becomes a parietal eye, and there is the pineal gland itself. The parietal eye on the end of the parietal nerve lies, in some primitive animals, lust below a thinning of the skull at he top of the head. This thinning forms a clear, translucency of the skull, and just beneath it lies the parietal eye part of the pineal complex. The pineal gland itself lies deeper, in the position previously described. |
Trong một số loài động vật nguyên thủy được đề cập ở trên, tuyến tùng là một cơ quan kép. Điều này có nghĩa là nó bao gồm một phần tuyến tùng phát triển thành con mắt đỉnh đầu và phần còn lại là chính tuyến tùng. Con mắt đỉnh đầu nằm ở cuối dây thần kinh đỉnh đầu, và trong một số loài động vật nguyên thủy, nó nằm ngay dưới một vùng mỏng của hộp sọ trên đỉnh đầu. Vùng mỏng này tạo thành một lớp hộp sọ trong mờ, và ngay bên dưới đó là phần con mắt đỉnh đầu thuộc phức hợp tuyến tùng. Phần tuyến tùng chính nằm sâu hơn, ở vị trí đã được mô tả trước đó. |
|
The parietal eye was an organ which was related to the apprehension of heat, rather than an organ of vision. On the surface of the earth in those early days, volcanoes were very prevalent. Indeed, they were everywhere, and it was important for primitive man (the hom in ids who had been overshadowed) to be warned of sites of heat. According to C. W. Ông Leadbeater, the Theosophical clairvoyant, and Bà Annie Besant, the parietal eye acted as an organ of apprehending the heat of volcanoes, thus saving primitive men from coming too close to dangerous areas on the planet. It also functioned partly under the visual sense. However, we have to remember that these were periods of fire mists, when the whole surface of the earth was covered with cloud and hot vapours, so that light itself as we know it today was a rare phenomenon for the most primitive men. |
Con mắt đỉnh đầu là một cơ quan liên quan đến việc cảm nhận nhiệt hơn là một cơ quan của thị giác. Trên bề mặt Trái đất vào những ngày sơ khai đó, núi lửa xuất hiện rất phổ biến, thực sự có mặt ở khắp nơi. Điều này rất quan trọng đối với con người nguyên thủy (những người vượn đã bị phủ bóng) để nhận được cảnh báo về những nơi có nhiệt độ cao. Theo Ông C.W. Leadbeater, nhà thông nhãn của Thông Thiên Học, và Bà Annie Besant, con mắt đỉnh đầu hoạt động như một cơ quan cảm nhận nhiệt từ các núi lửa, nhờ đó cứu con người nguyên thủy khỏi việc đến quá gần các khu vực nguy hiểm trên hành tinh. Nó cũng hoạt động một phần dưới giác quan thị giác. Tuy nhiên, chúng ta cần nhớ rằng đây là thời kỳ của những làn sương lửa, khi toàn bộ bề mặt Trái đất được bao phủ bởi mây và hơi nóng, vì vậy ánh sáng, như chúng ta biết ngày nay, là một hiện tượng hiếm hoi đối với những người nguyên thủy nhất. |
|
Thus, there was a dual aspect to the pineal complex, and the parietal eye was one of this duality. The second part was the ephiphysis. Thus we have the concept of the pineal structure being dual: a parietal eye which lay in the posterior foramen of the skull which was connected by a parietal nerve to the midbrain that enclosed the ventricle, and as part of this there was also the pineal gland deep inside the skull between the forebrain and the hindbrain. This pineal part of the complex became an endocrine gland, and that part of it which still to this day contains sensitive, pigmented cells represents the remnant of the parietal eye. |
Như vậy, phức hợp tuyến tùng có hai khía cạnh, và con mắt đỉnh đầu là một trong hai phần này. Phần thứ hai là thùy tuyến tùng (epiphysis). Điều này dẫn đến khái niệm cấu trúc tuyến tùng mang tính lưỡng phân: một con mắt đỉnh đầu nằm trong lỗ sau của hộp sọ, được kết nối bởi dây thần kinh đỉnh đầu với não giữa, nơi bao quanh não thất, và một phần khác là tuyến tùng nằm sâu bên trong hộp sọ, giữa não trước và não sau. Phần tuyến tùng của phức hợp này đã phát triển thành một tuyến nội tiết, và phần của nó vẫn còn chứa các tế bào nhạy cảm và có sắc tố đến tận ngày nay chính là tàn tích của con mắt đỉnh đầu. |
|
Thus, this is the teaching of Ancient Wisdom on the nature of the pineal gland. |
Đây chính là giáo lý của Minh Triết Ngàn Đời về bản chất của tuyến tùng. |
|
We must remember that early men on the planet changed enormously in their morphology, in their shape and function. Just as in the ascending arc of spiritual evolution, man himself has to undergo tremendous changes once more in the years ahead in his spiritual unfoldment. In the earliest men, some of the bones of the skeleton (as is still the case today) were formed in membrane, which is very different from the formation of bone in cartilage (like the long bones of the limbs). |
Chúng ta cần nhớ rằng con người nguyên thủy trên hành tinh đã thay đổi đáng kể về hình thái, cấu trúc và chức năng. Cũng giống như trong cung bậc đi lên của tiến hóa tinh thần, con người một lần nữa sẽ phải trải qua những thay đổi to lớn trong những năm sắp tới trong quá trình phát triển tinh thần của mình. Ở con người nguyên thủy, một số xương của bộ xương (vẫn tương tự như ngày nay) được hình thành trong màng, rất khác so với sự hình thành xương trong sụn (như các xương dài của chi). |
|
The membranous bones of the body are the two clavicles, which are referred to as the Keys of Soloman. They are sacred bones and are shaped like the two arms of a swastika. Crossed together they form the ancient swastika symbol that was used by occultists for thousands of years before the Nazis took it up in reverse and used it for their own insigna. The two arms of the swastika represent the shape of the ancient Roman keys that were used to turn locks. They also represent the shape of the clavicle bones or collar bones in man. |
Những xương màng của cơ thể bao gồm hai xương đòn, được gọi là “Chìa khóa của Solomon.” Đây là những xương thiêng liêng và có hình dạng giống như hai cánh tay của biểu tượng chữ Vạn. Khi giao nhau, chúng tạo thành biểu tượng chữ Vạn cổ xưa, đã được các nhà huyền môn sử dụng hàng ngàn năm trước khi Đức Quốc xã đảo ngược và sử dụng nó làm biểu tượng của mình. Hai cánh tay của chữ Vạn tượng trưng cho hình dáng của những chiếc chìa khóa La Mã cổ đại dùng để xoay ổ khóa. Chúng cũng đại diện cho hình dáng của xương đòn hay xương quai xanh trong cơ thể con người. |
|
The jaw of man is formed in cartilage, and it is basically of animal origin. It is part of the Darwinian stream, if you wish. However, the face of man is divine. The face of man owes its origin to an evolution way, way beyond the early history of our own solar system, and the bones of the face of man are formed in membrane, as is also the cranial vault. It is in the membranous part of man’s bones or his skeleton that the main changes are going to occur in the future in the development of his physical body. |
Hàm của con người được hình thành từ sụn và về cơ bản có nguồn gốc từ động vật. Nó thuộc về dòng tiến hóa Darwin, nếu bạn muốn gọi như vậy. Tuy nhiên, khuôn mặt của con người lại mang tính thiêng liêng. Khuôn mặt của con người bắt nguồn từ một dòng tiến hóa vượt xa lịch sử sơ khai của hệ mặt trời của chúng ta, và các xương của khuôn mặt con người được hình thành trong màng, giống như hộp sọ. Chính trong phần màng của xương hoặc bộ xương của con người mà những thay đổi chính sẽ diễn ra trong tương lai, khi cơ thể vật lý của con người tiếp tục phát triển. |
|
Man’s physical body is not yet complete, i.e., it has not undertaken its final alterations yet. Psychology will say that this process halted twenty thousand years ago. We deny that. We say that man’s body will change again and again. He will slowly etherealise much of his lower limbs, for instance. He will become more and more concentrated in the head region, but that is another story. |
Cơ thể vật lý của con người vẫn chưa hoàn thiện, tức là nó chưa trải qua những thay đổi cuối cùng. Tâm lý học có thể nói rằng quá trình này đã dừng lại 20.000 năm trước, nhưng chúng tôi bác bỏ điều đó. Chúng tôi nói rằng cơ thể con người sẽ thay đổi nhiều lần nữa. Ví dụ, các chi dưới sẽ dần trở nên nhẹ nhàng và tinh tế hơn. Con người sẽ tập trung nhiều hơn vào vùng đầu, nhưng đó là một câu chuyện khác. |
|
What we here begin to understand then is that there lay in early men the potential for tremendous change, and that potential showed itself continuously from the Third Subrace of the Third Root Race onwards. Man’s physical body changed enormously. The eyes that he had inherited from the hominids were not enought for the growing man overshadowed by his inner evolution. They were to undergo maturation enormously; they were to change their position on the skull; they were to develop other structures, like stereoscopic vision taken to its ultimate; they were to develop more colour vision. The human eyes were to grow forwards and to change in many other ways. |
Điều chúng ta bắt đầu hiểu ở đây là trong con người nguyên thủy đã tồn tại tiềm năng cho những thay đổi to lớn, và tiềm năng đó liên tục biểu hiện từ Phân chủng thứ ba của Chủng tộc Gốc thứ ba trở đi. Cơ thể vật lý của con người đã thay đổi đáng kể. Đôi mắt mà con người thừa hưởng từ loài người vượn không đủ cho sự phát triển của con người đang được phủ bóng bởi tiến hóa nội tại của y. Đôi mắt này cần trải qua sự trưởng thành to lớn; chúng phải thay đổi vị trí trên hộp sọ; chúng phải phát triển thêm các cấu trúc khác, như tầm nhìn lập thể đạt đến đỉnh cao; chúng phải phát triển khả năng nhìn màu sắc đa dạng hơn. Đôi mắt con người sẽ phát triển về phía trước và thay đổi theo nhiều cách khác nữa. |
|
It was as the paired eyes grew forward with binocular vision that, paralleling this, the pineal gland with its parietal eye began to go into recess; it began to atrophy. The parietal eye withdrew from the posterior foramen. The foramen closed, and the parietal eye returned deep inside the skull, merged with the pineal gland and no longer functioned in that way as the two eyes of man became more and more efficient, prominent and effective. Thus, even at the physical level, there have been great changes in the development of the so-called third eye, or pineal gland. |
Khi đôi mắt kép phát triển về phía trước với tầm nhìn hai mắt, song song với điều này, tuyến tùng cùng con mắt đỉnh đầu bắt đầu thoái lui; nó dần teo lại. Con mắt đỉnh đầu rút lui khỏi lỗ sau, lỗ này đóng lại, và con mắt đỉnh đầu quay trở lại sâu bên trong hộp sọ, hợp nhất với tuyến tùng và không còn hoạt động theo cách đó nữa khi đôi mắt của con người ngày càng trở nên hiệu quả, nổi bật và hữu dụng hơn. Như vậy, ngay cả ở cấp độ vật lý, đã có những thay đổi lớn trong quá trình phát triển của cái gọi là con mắt thứ ba, hay tuyến tùng. |
|
The third eye, or pineal gland, acted upon other endocrine organs, especially the pituitary gland, and in concert with the pituitary gland produced those changes in man’s anatomical structure which we describe as pleomorphism, detailed in my book Anthropogeny. For instance, man’s skin in those early days changed. Each race produced a different colour skin: there were blue men, red men, yellow men. There were a variety of skin changes, not only in colour but in thickness. |
Con mắt thứ ba, hay tuyến tùng, đã tác động đến các tuyến nội tiết khác, đặc biệt là tuyến yên, và cùng với tuyến yên, nó tạo ra những thay đổi trong cấu trúc giải phẫu của con người mà chúng ta gọi là đa hình thái học (pleomorphism), được trình bày chi tiết trong cuốn sách Anthropogeny của tôi. Ví dụ, vào những ngày sơ khai đó, da của con người đã thay đổi. Mỗi chủng tộc tạo ra một màu da khác nhau: có người da xanh, người da đỏ, người da vàng. Các thay đổi về da không chỉ liên quan đến màu sắc mà còn cả về độ dày. |
|
In the tropics, the surface of the earth was covered with swarms of insects, and the skin of man was very, very thin. Changes had to occur there. One of the greatest curses of earliest men was their exposure to the insect hordes, against which he had very little protection. It was one of the reasons why men fled into the northern regions of the earth, there to escape the insect hordes until their skin thickened much later and developed the dermis or underskin containing organs of the skin that we know of today. |
Ở vùng nhiệt đới, bề mặt Trái Đất bị bao phủ bởi các đàn côn trùng, và da của con người khi đó rất, rất mỏng. Những thay đổi bắt buộc phải xảy ra. Một trong những tai họa lớn nhất đối với con người nguyên thủy là sự phơi nhiễm trước những đàn côn trùng, điều mà họ gần như không có biện pháp bảo vệ nào. Đây là một trong những lý do khiến con người chạy trốn lên các vùng phía bắc của Trái Đất để tránh khỏi các đàn côn trùng, cho đến khi làn da của họ dày hơn rất nhiều sau này và phát triển lớp hạ bì hoặc lớp da bên dưới, chứa các cơ quan da như chúng ta biết ngày nay. |
|
Despite all this, however, we must say that the pineal gland with its parietal accessory is not the third eye of metaphysics. What then is the third eye of metaphysics? |
Tuy nhiên, bất chấp tất cả những điều này, chúng ta phải nói rằng tuyến tùng cùng phụ kiện đỉnh đầu của nó không phải là con mắt thứ ba trong siêu hình học. Vậy thì, con mắt thứ ba trong siêu hình học là gì? |
CHAPTER 5
The Subtle Bodies—Các Thể Tế Vi
|
We have to understand that man’s physical body is only the outer expression of a spectrum of his vehicles. His physical body, for instance, is interpenetrated by an etheric vehicle. This is a vehicle that is described as a body of vitalisation. Man cannot act with a body made merely with gas, liquid and solid. Man is made also with an interpenetrating body of action which we call the etheric, which is very subtle. Thus, his physical form is interpenetrated with an etheric counterpart or matrix. |
Cần hiểu rằng cơ thể vật lý của con người chỉ là biểu hiện bên ngoài của một phổ các thể khác nhau. Ví dụ, cơ thể vật lý của con người được xuyên thấm bởi một thể dĩ thái, được mô tả như một thể mang cấp sinh lực. Con người không thể hoạt động chỉ với một cơ thể cấu tạo từ khí, lỏng và rắn. Họ còn được cấu thành bởi một thể xuyên thấm mà chúng ta gọi là thể dĩ thái, rất tinh vi. Như vậy, hình tướng vật lý của con người được xuyên thấm bởi một đối phần hoặc khuôn mẫu dĩ thái. |
|
We have to conceive of different states of matter and try to understand that just as sand is interpenetrated by water and water is interpenetrated by gases —whereby in a handful of mud we have three states of matter (gas, liquid and solid) interpenetrating each other—so too, man possesses subtle bodies or matrices which interpenetrate each other. His gas, liquid and solid physical body is interpenetrated by an etheric body which energises him with what the yogis call prana. |
Chúng ta cần hình dung các trạng thái vật chất khác nhau và hiểu rằng cũng như cát được xuyên thấm bởi nước, và nước được xuyên thấm bởi khí—khiến một nắm bùn chứa ba trạng thái vật chất (khí, lỏng và rắn) xuyên thấm lẫn nhau—thì con người cũng sở hữu các thể tinh tế hoặc khuôn mẫu xuyên thấm lẫn nhau. Cơ thể vật lý của con người (khí, lỏng và rắn) được xuyên thấm bởi một thể dĩ thái, cung cấp năng lượng sống hay prana theo cách gọi của các yogi. |
|
Similarly, man has a feeling body, a body made of emotional substance, in which he feels—an astral body. This astral body in waking consciousness interpenetrates the physicoetheric. During the sleep state or during certain conditions of meditation and yoga, the astral body becomes detached from the physical. I have described the phenomenon of depositing consciousness in a detachable astral body in my book The Techniques Of Astral Projection, but that is another matter. |
Tương tự, con người có một thể cảm xúc, được làm từ chất liệu cảm xúc, nơi họ cảm nhận—thể cảm dục (astral body). Thể cảm dục này, trong trạng thái tỉnh thức, xuyên thấm thể vật lý-dĩ thái. Trong trạng thái ngủ hoặc trong các điều kiện tham thiền và yoga nhất định, thể cảm dục có thể tách khỏi thể vật lý. Tôi đã mô tả hiện tượng chuyển tâm thức sang thể cảm dục tách rời trong cuốn sách The Techniques Of Astral Projection, nhưng đó là một vấn đề khác. |
|
Thirdly, man possesses another body in which he thinks, and this body is incomplete. It has a lower part which is the counterpart of solid, liquid and gas, which we call the lower mental body. This is the part of the mental state in which man thinks. It, too, interpenetrates the other bodies, like gas interpenetrates liquid and liquid interpenetrates sand or solid. |
Thứ ba, con người sở hữu một thể khác mà họ dùng để suy nghĩ, và thể này chưa hoàn chỉnh. Nó có phần thấp hơn, tương đương với rắn, lỏng và khí, mà chúng ta gọi là thể hạ trí. Đây là phần của trạng thái trí năng mà trong đó con người suy nghĩ. Nó cũng xuyên thấm các thể khác, giống như khí xuyên thấm lỏng và lỏng xuyên thấm cát hoặc chất rắn. |
|
These vehicles that I have described make up what we call man’s personality body, the body in which his soul expresses itself as a personality. Higher vehicles also exist, and these are in the realm of the soul. They exist in an energy unit which we call the soul. |
Những thể mà tôi mô tả tạo thành cái mà chúng ta gọi là cơ thể phàm ngã của con người, nơi linh hồn biểu hiện như một phàm ngã. Ngoài ra còn có các thể cao hơn, nằm trong cảnh giới của linh hồn, tồn tại trong một đơn vị năng lượng mà chúng ta gọi là linh hồn. |
|
The soul itself exists on three planes of expression which we call Atma, Buddhi and Manas, but most men are unaware of their souls, of their spiritual unit. They are attached to their soul by a thin ‘cord’ or a thread known as the antahkarana, and spiritual development is a process in which this thin cord (or rainbow bridge, as it is called symbolically) is strengthened, widened and increased into a veritable umbilicus which channels through spiritual energies into man’s personality. This involves a process of spiritual unfoldment. |
Linh hồn tồn tại trên ba cõi biểu hiện mà chúng ta gọi là Atma, Buddhi và Manas, nhưng hầu hết con người không nhận thức được linh hồn của họ, đơn vị tinh thần của họ. Họ được kết nối với linh hồn qua một “sợi dây” mảnh, được gọi là antahkarana, và sự phát triển tinh thần là một quá trình trong đó sợi dây mảnh này (hay cầu vồng, như được gọi một cách biểu tượng) được làm mạnh hơn, mở rộng và tăng trưởng thành một dạng dây rốn thực sự, dẫn các năng lượng tinh thần vào phàm ngã của con người. Quá trình này liên quan đến sự phát triển tinh thần. |
|
Getting back to man’s most immediate subtle body, the etheric body, we find that this etheric body is divided into regions which we could call the etheric anatomy of it. This etheric anatomy includes channels which we call nadis. There are three huge channels which coincide with the spinal cord and the brain of man. These have been described by the Hindus as Ida, Shushumna and Pingala. They are also symbolised by the caduceus of Mercury. They end in that swelling of the caduceus which coincides with the cerebrum of man and at whose centre lies the pineal gland or the physical counterpart of the third eye. |
Quay lại với thể vi tế gần gũi nhất của con người là thể dĩ thái, chúng ta thấy rằng thể dĩ thái này được chia thành các vùng mà chúng ta có thể gọi là giải phẫu dĩ thái của nó. Giải phẫu dĩ thái này bao gồm các kênh mà chúng ta gọi là kinh mạch (nadis). Có ba kênh lớn trùng với tủy sống và não bộ của con người. Chúng được người Hindu mô tả là Ida, Shushumna và Pingala. Chúng cũng được biểu tượng hóa qua biểu tượng caduceus của thần Mercury. Các kênh này kết thúc tại phần phình ra của caduceus, tương ứng với đại não của con người, mà ở trung tâm của nó có tuyến tùng, hoặc đối phần vật lý của con mắt thứ ba. |
|
Now we begin to see that man possesses an energising vehicle known as the etheric body, which contains within it etheric centres or vortices as part of its etheric anatomy known as chakras. These chakras ultimately, in an averagely developed man of today, number about five. But in the most primitive man, the number was about three, and the lowest of these, in anatomical positioning, coincided with the sacrum bone—that bone which is the fusing of five vertebrae at the base of man’s spine. In the earliest days, these five vertebrae were linked to a tailor what we now call the coccyx. It was one of the structural changes of the hominids, i.e., that they lost the tail that was patent in the primitive part of man’s dual evolution. |
Như vậy, con người sở hữu một thể mang năng lượng gọi là thể dĩ thái, chứa các trung tâm lực hoặc xoáy lực như một phần của giải phẫu dĩ thái, được gọi là các luân xa. Ở một người trung bình phát triển ngày nay, các luân xa này có khoảng năm trung tâm. Nhưng ở con người nguyên thủy nhất, số lượng chỉ khoảng ba, và trung tâm thấp nhất trong vị trí giải phẫu trùng với xương cùng (sacrum)—xương được hợp nhất từ năm đốt sống ở đáy cột sống. Trong những ngày đầu, năm đốt sống này liên kết với một đuôi, thứ mà chúng ta gọi là coccyx. Đây là một trong những thay đổi cấu trúc ở các người vượn, tức là chúng đã mất đi chiếc đuôi rõ ràng từ phần tiến hóa nguyên thủy của sự phát triển kép của con người. |
|
In this region of the sacrum bone lies the basic chakra in the etheric body. This chakra, called the Root Centre, is a four petalled lotus, and it represents a site where prana infiltrates the human vehicles in a vast amount. But this is only the basic chakra. With spiritual growth and unfoldment, with the unfolding of subrace after subrace and root race after root race and round after round, the fiery energy lying in this base chakra is aroused. It begins to move upwards, opening up in sequential order chakras or force centres above it. |
Trong khu vực xương cùng này có luân xa cơ bản trong thể dĩ thái, được gọi là Trung tâm Gốc (Root Centre), là một hoa sen bốn cánh, đại diện cho nơi prana thâm nhập vào các thể của con người với lượng lớn. Nhưng đây chỉ là luân xa cơ bản. Với sự phát triển và mở rộng tinh thần, thông qua sự tiến hóa của phân chủng này đến phân chủng khác, giống dân gốc này đến giống dân gốc khác, và cuộc tuần hoàn này đến cuộc tuần hoàn khác, năng lượng lửa nằm trong luân xa cơ bản này được đánh thức. Nó bắt đầu di chuyển lên trên, lần lượt mở ra các luân xa hoặc trung tâm lực phía trên. |
|
Thus, during the Race of Lemuria described above, the arousal of this chakra by man’s interplay with his environment and by man’s bringing in the mental sheath and the emotional sheath of his higher evolution stimulates separation of the sexes. Man in the early root races was first of all asexual. Then he developed bisexuality, in other words, two sets of paralleling organs. And then later, the organs separated into two, giving male orientation and female orientation which was under the development of a second chakra known as the Sacral Centre, a six petalled lotus. It was the environment and qualities of the Lemurian Root Race which enabled the Sacral Centre to unfold. |
Trong Chủng tộc Lemuria được mô tả ở trên, sự kích hoạt luân xa này thông qua sự tương tác của con người với môi trường và việc đưa vào thể trí cũng như thể cảm xúc của tiến hóa cao hơn đã kích thích sự phân chia giới tính. Con người trong các chủng tộc gốc ban đầu lúc đầu là vô tính. Sau đó, họ phát triển lưỡng tính, tức là có hai bộ cơ quan song song. Về sau, các cơ quan này tách ra thành hai, tạo thành định hướng nam và định hướng nữ, điều này nằm dưới sự phát triển của luân xa thứ hai được gọi là Trung tâm Xương Cùng, một hoa sen sáu cánh. Chính môi trường và những đặc điểm của Chủng tộc Gốc Lemuria đã giúp Trung tâm Xương Cùng phát triển. |
|
Later, about five to seven million years ago, another chakra became patent at a higher level, at the level of man’s umbilicus (his navel). This is called the Solar Plexus Chakra. It coincided with a bringing together of the astral sheath of man’s subsidiary evolution with the etheric body, and with the coincidence of the astral sheath, its formation and its specialisation; the Solar Plexus Chakra became radiant. It was the civilisation of Atlantis which made this possible, from an outward point of view. Atlantis provided the emotional stimulus for man to become an emotional being; whereas previously, he was almost an automaton. |
Sau đó, khoảng năm đến bảy triệu năm trước, một luân xa khác trở nên rõ ràng ở cấp độ cao hơn, tại vị trí rốn của con người. Luân xa này được gọi là Luân Xa Tùng Thái Dương. Nó trùng hợp với sự hợp nhất giữa thể cảm dục của tiến hóa phụ của con người với thể dĩ thái, và cùng với sự hình thành cũng như sự chuyên biệt hóa của thể cảm dục, Luân Xa Tùng Thái Dương trở nên rực rỡ. Về mặt bên ngoài, nền văn minh Atlantis đã làm điều này trở nên khả thi. Atlantis cung cấp sự kích thích cảm xúc để con người trở thành một thực thể cảm xúc; trong khi trước đó, y gần như là một cỗ máy tự động. |
|
With his emotional growth, the spiritual impetuses hastened, and the fires now move upwards from the Base of the Spine, through the sacral Centre, and during the Atlantean civilisation (which is still very powerfully manifest on the planet in what we call the Sino-Japanese Root Race), the Solar Plexus Chakra moves towards its ultimate radiation. |
Với sự phát triển cảm xúc, các xung lực tinh thần được đẩy nhanh, và các năng lượng lửa giờ đây di chuyển lên từ gốc cột sống, qua Trung tâm Xương Cùng (Sacral Centre). Trong nền văn minh Atlantis (vẫn còn biểu hiện mạnh mẽ trên hành tinh qua cái mà chúng ta gọi là Giống Dân Gốc Trung-Nhật), Luân Xa Tùng Thái Dương tiến tới trạng thái rạng rỡ cuối cùng. |
|
Now, the fires have risen higher in man, and they begin to go above the level of what we call his diaphragm, a sheet of muscle that marks an esoterically important division also in his etheric body. Man begins to open his Heart Chakra in the region of the heart itself, though more centrally placed. Man begins to open also, with the civilisation which we know today as the Aryan (The so-called Aryan race was a name used fifty years before the Nazis took it up and used it for their own Nordic descriptions of a race which they appropriated for the development of their Nordic concepts) or Fifth Root Race, the Throat Chakra which has sixteen petals. |
Hiện tại, các năng lượng lửa đã dâng cao hơn trong con người và bắt đầu vượt lên trên mức mà chúng ta gọi là cơ hoành (diaphragm), một lớp cơ đánh dấu một sự phân chia quan trọng về mặt huyền bí trong thể dĩ thái của con người. Con người bắt đầu mở Luân Xa Tim (Heart Chakra) tại vùng trái tim, mặc dù vị trí của nó ở giữa hơn. Đồng thời, cùng với nền văn minh mà chúng ta biết ngày nay là Arya (Giống Dân Gốc Arya, được đặt tên khoảng 50 năm trước khi Đức Quốc Xã sử dụng thuật ngữ này cho các khái niệm Bắc Âu của họ), hay Giống Dân Gốc Thứ Năm, con người bắt đầu mở Luân Xa Họng (Throat Chakra), một hoa sen với 16 cánh. |
|
There lies within most individuals yet a further chakra in the region of the brow, said to reside in the sacred square inch between the eyebrows. In some advanced men, even this chakra is greatly developed. This centre is said to be called the Brow Chakra or, by the Hindus, the Ajna Centre. |
Trong hầu hết mọi người, còn tồn tại một luân xa khác ở vùng giữa trán, được cho là nằm trong “khoảng một inch thiêng liêng” giữa hai chân mày. Ở một số người phát triển cao, luân xa này đã được mở rộng đáng kể. Trung tâm này được gọi là Luân Xa Trán (Brow Chakra), hay theo cách gọi của người Hindu, là Trung Tâm Ajna (Ajna Centre). |

|
Finally, man possesses in a state of unfolding that chakra which is said to be the Head Centre. This Head Centre can become so radiant in spiritually developed individuals that it produces a halo around the head. It was described about the head of the advanced men of this planet. It was seen about the head of the Buddha, who was a Sixth Rounder and did not really belong to this round (the Fourth) at all. It was seen about the head of the Master Jesus, and is said to be around the heads of saintly individuals. |
Con người, trong trạng thái đang phát triển, sở hữu một luân xa được gọi là Trung Tâm Đầu (Head Centre). Trung tâm này, ở những cá nhân phát triển cao về mặt tinh thần, có thể trở nên rực rỡ đến mức tạo ra một vòng hào quang xung quanh đầu. Vòng hào quang này được mô tả là xuất hiện quanh đầu của những người phát triển cao trên hành tinh, như Đức Phật, người được cho là thuộc Vòng Tiến Hóa Thứ Sáu và không thực sự thuộc Vòng Thứ Tư hiện tại. Vòng hào quang cũng được nhìn thấy quanh đầu của Chân Sư Jesus và được cho là xuất hiện ở những cá nhân thánh thiện. |
|
We begin to understand then that spiritual unfoldment, from the esoteric point of view, is no nebulous matter. It is a process of deliberately taking, by your own volition and by focus of your own attention, energies from chakras below the diaphragm to regions above the diaphragm. In that great science known as Yoga, abused though it has been, especially in recent years, energies are taken by scientific understanding and direction from specific centres below the diaphragm to their alter egos. Thus, one can hasten one’s spiritual evolution. |
Như vậy, chúng ta bắt đầu hiểu rằng sự phát triển tinh thần, từ góc độ huyền bí, không phải là một điều mơ hồ. Đó là một quá trình cố ý, do ý chí cá nhân và sự tập trung của bản thân, chuyển hóa năng lượng từ các luân xa dưới cơ hoành đến các khu vực trên cơ hoành. Trong bộ môn khoa học vĩ đại gọi là Yoga, dù đã bị lạm dụng nhiều, đặc biệt trong những năm gần đây, năng lượng được chuyển từ các trung tâm cụ thể dưới cơ hoành đến các trung tâm tương ứng trên cơ hoành bằng sự hiểu biết và chỉ dẫn khoa học. Điều này giúp thúc đẩy sự tiến hóa tinh thần. |
|
Spiritual evolution under these terms means the transfer of energy from the Base of the Spine Chakra to the Head Centre, from the Sacral Centre to the Throat Centre, and from the Solar Plexus Chakra to the Heart Centre. Finally, in that process of rapid spiritual unfoldment given the name of discipleship in the beginning and of initiation towards its end—the transmutation of man out of the dross of personality into the shining gold of the adept or the Master, referred to as the process of alchemy—the main energies of the various chakras are centred in the head region. The centreing of these energies in the head produces the rapid opening of the third eye. |
Tiến hóa tinh thần, theo các thuật ngữ này, nghĩa là sự chuyển năng lượng từ Luân Xa Gốc (Base of the Spine Chakra) đến Trung Tâm Đầu, từ Trung Tâm Xương Cùng (Sacral Centre) đến Luân Xa Họng (Throat Centre), và từ Luân Xa Tùng Thái Dương (Solar Plexus Chakra) đến Luân Xa Tim (Heart Centre). Cuối cùng, trong quá trình phát triển tinh thần nhanh chóng được gọi là giai đoạn khởi đầu của địa vị đệ tử và giai đoạn cuối của điểm đạo—sự chuyển hóa con người từ “cặn bã” của phàm ngã thành “vàng ròng” của một điểm đạo đồ hoặc Chân Sư, được ví như quá trình luyện kim thuật—các năng lượng chính từ những luân xa khác nhau tập trung tại vùng đầu. Sự tập trung năng lượng này ở vùng đầu dẫn đến sự khai mở nhanh chóng con mắt thứ ba. |
|
The etheric chakras are shown diagramatically above, where their roots on the spine are interspersed with rotating etheric discs. Note how the number of petals in a force centre increases progressively up the spine, which, in its etheric counterpart, is a three-way tract of nadis called Ida, Sushumna and Pingala. Though there will inevitably be many, many experiences on the Path of Unfoldment (of these chakras), it is really in these three tracts that progress can be actually traced or clairvoyantly observed. |
Các luân xa dĩ thái được minh họa sơ đồ, nơi rễ của chúng trên cột sống xen kẽ với các đĩa dĩ thái xoay. Lưu ý rằng số cánh hoa của mỗi trung tâm lực tăng dần theo chiều lên cột sống, mà trong đối phần dĩ thái của nó là ba dòng kênh gọi là Ida, Sushumna và Pingala. Mặc dù sẽ có rất nhiều trải nghiệm trên Con Đường Phát Triển (của các luân xa này), thực tế sự tiến bộ có thể được truy vết hoặc quan sát thông nhãn trong ba dòng kênh này. |
|
No disciple can expect direct contact with a Master of the Wisdom, an event highly prized in schools of esoteric science, unless he, entirely on his own, has brought energies from the four petalled lotus seated at the base of the spine upwards as far as the ten petalled lotus at the solar plexus, just below the diaphragm. Thereafter, with increasing application of his time and energies, he may begin the true path of discipleship which demands his leading energies from the ten petalled lotus to the twelve, which is seated in the region of the heart. When this process is well advanced, then, and then only, can he claim to be a probationary disciple with eligibility to make contact with the Master. Even then, such contact may not be registered in his awareness until energies are beginning to flow into the sacred square inch, the Brow Chakra, that lies between the eyebrows. His probationary period ends; he becomes an accepted chela, and the Master will then seek his cooperation in some planetary task which is of service to mankind. |
Không một đệ tử nào có thể mong đợi tiếp xúc trực tiếp với một Chân Sư Minh Triết, một sự kiện rất được coi trọng trong các trường phái huyền bí, trừ khi tự bản thân người đó đã nâng năng lượng từ hoa sen bốn cánh nằm ở gốc cột sống lên đến hoa sen mười cánh tại tùng thái dương, ngay dưới cơ hoành. Sau đó, với sự cống hiến ngày càng nhiều thời gian và năng lượng, người đó có thể bắt đầu con đường địa vị đệ tử thực thụ, đòi hỏi chuyển năng lượng từ hoa sen mười cánh đến hoa sen mười hai cánh tại vùng trái tim. Khi quá trình này tiến triển đủ xa, lúc đó, và chỉ lúc đó, người đó mới có thể được coi là một đệ tử tập sự có khả năng tiếp xúc với Chân Sư. Thậm chí, ngay cả khi đó, sự tiếp xúc này có thể không được ghi nhận trong tâm thức cho đến khi năng lượng bắt đầu chảy vào “khoảng một inch thiêng liêng,” Luân Xa Trán (Brow Chakra), nằm giữa hai chân mày. Giai đoạn tập sự của người đó kết thúc; họ trở thành một chela được chấp nhận, và Chân Sư sau đó sẽ tìm kiếm sự hợp tác của họ trong một nhiệm vụ hành tinh phục vụ nhân loại. |
|
Therefore, the third eye, even though it may have a physical counterpart, is basically a structure that exists in the subtle bodies of man. To make the matter more explicit, we need to discuss the matter of the endocrine glands. |
Do đó, con mắt thứ ba, mặc dù có thể có một đối phần vật lý, về cơ bản là một cấu trúc tồn tại trong các thể tinh tế của con người. Để làm rõ hơn vấn đề, chúng ta cần thảo luận về các tuyến nội tiết. |
|
Average man has five chakras functioning at any time at the lower levels. Spiritual man has five chakras functioning at the higher levels, and in the Master seven are functioning, including all those in the higher regions and accessory chakras which open in the later stages of unfoldment. |
Người trung bình có năm luân xa hoạt động ở các cấp độ thấp. Người phát triển về mặt tinh thần có năm luân xa hoạt động ở các cấp độ cao hơn, và ở Chân Sư, có bảy luân xa hoạt động, bao gồm tất cả những luân xa ở vùng cao hơn và các luân xa phụ mở ra ở những giai đoạn phát triển muộn. |
|
The endocrine glands always represent the material aspect of the etheric chakras. They are the condensation or, if you like, the concretion or physical counterpart of subtler vortices of energy which we call the chakras. The relationship between the chakras and the endocrine glands are as follows: |
Các tuyến nội tiết luôn đại diện cho khía cạnh vật chất của các luân xa dĩ thái. Chúng là sự cô đọng, hoặc nếu muốn bạn có thể gọi là sự kết tinh, hay đối phần vật lý của các xoáy lực tinh tế hơn mà chúng ta gọi là luân xa. Mối quan hệ giữa các luân xa và các tuyến nội tiết như sau: |
|
• The suprarenal glands, seated above the kidneys, correspond to the Base of the Spine Chakra (Root Centre). |
○ Tuyến thượng thận, nằm phía trên thận, tương ứng với Luân Xa Gốc (Root Centre). |
|
• The human gonads, which are the ovaries in the female and the testes in the male, correspond to the Sacral Centre. |
○ Tuyến sinh dục của con người, là buồng trứng ở nữ giới và tinh hoàn ở nam giới, tương ứng với Trung Tâm Xương Cùng (Sacral Centre). |
|
• The pancreas corresponds to the Solar Plexus Chakra. |
○ Tuyến tụy tương ứng với Luân Xa Tùng Thái Dương (Solar Plexus Chakra). |
|
• The thymus gland corresponds to the Heart Chakra. |
○ Tuyến ức tương ứng với Luân Xa Tim (Heart Chakra). |
|
• The thyroid gland corresponds to the Throat Centre, and it is now that we begin to enter the territory of the third eye. |
○ Tuyến giáp tương ứng với Trung Tâm Họng (Throat Centre), và từ đây chúng ta bắt đầu đi vào khu vực của con mắt thứ ba. |
|
• The pituitary gland, responsible in earlier races for the production of giants, corresponds to the Brow or Ajna Centre. |
○ Tuyến yên, trong các giống dân trước đây chịu trách nhiệm sản sinh các cá thể khổng lồ, tương ứng với Luân Xa Trán (Brow Centre hay Ajna Centre). |
|
• The pineal gland corresponds to the Head Centre or The Thousand Petalled Lotus. |
○ Tuyến tùng tương ứng với Trung Tâm Đầu (Head Centre), hay Hoa Sen Ngàn Cánh (Thousand Petalled Lotus). |

|
As described, the qualities of the Solar Plexus Chakra, which are very emotional, are correlated to the pancreas. As is the case with all endocrine glands, the pancreas secretes its hormone (called insulin) directly into the blood which enables the body to mobilise and use sugar. It is not just coincidence that the emotional energies of the astral body are correlated to the sugar of the blood; the two are intimately related. People who are strongly emotional, from the point of view of expressing emotions, are frequently individuals who can mobilise sugar very easily. More than that, they are individuals who tend to over-mobilise it. Thus, disorders of endocrinal functions are related to psychological factors, e.g., diabetes. |
Như đã mô tả, các phẩm chất của Luân Xa Tùng Thái Dương (Solar Plexus Chakra), vốn rất cảm xúc, tương ứng với tuyến tụy. Giống như tất cả các tuyến nội tiết, tuyến tụy tiết ra hormone insulin trực tiếp vào máu, giúp cơ thể huy động và sử dụng đường. Không phải ngẫu nhiên mà năng lượng cảm xúc của thể cảm dục (astral body) được liên kết với đường trong máu; hai yếu tố này có mối quan hệ mật thiết. Những người có xu hướng cảm xúc mạnh mẽ, thể hiện cảm xúc một cách rõ ràng, thường là những cá nhân dễ dàng huy động đường. Hơn thế nữa, họ thường có xu hướng huy động quá mức. Do đó, các rối loạn chức năng nội tiết có liên quan đến các yếu tố tâm lý, ví dụ như bệnh tiểu đường. |
|
In regard to the thymus gland, it produces, among other things, a lymphoid tissue which in turn produces via white cells (lymphocytes) antibodies which are responsible for fighting off invasion by foreign bodies like bacteria, viruses and even a transplanted organ. Similarly, the Heart Centre, a chakra which will be opened by the Sixth Root Race (a million years from now), is mainly concerned with distinguishing the difference between self and not-self, and at the physical level through the thymus gland, it does this in immune reactions. |
Về tuyến ức (thymus gland), tuyến này sản sinh các mô bạch huyết, từ đó tạo ra các tế bào bạch cầu (lymphocytes), vốn chịu trách nhiệm sản sinh kháng thể để chống lại sự xâm nhập của các tác nhân ngoại lai như vi khuẩn, virus, thậm chí cả các cơ quan được cấy ghép. Tương tự, Luân Xa Tim (Heart Centre), một luân xa sẽ được mở ra bởi Giống Dân Gốc Thứ Sáu (trong khoảng một triệu năm nữa), chủ yếu liên quan đến việc phân biệt giữa “ngã” và “phi ngã,” và ở cấp độ vật lý, thông qua tuyến ức, thực hiện điều này trong các phản ứng miễn dịch. |
|
We begin to understand that the highest chakras in the body namely, the Head Centre, the Brow Centre and the Throat Centre—must be opened for full spiritual growth to occur. What then is the third eye? The third eye emerges when these three centres become firstly radiant and secondly (though the process must be simultaneous, i.e., they must all emerge and become radiant) when the phenomenon occurs of their overlapping. As they begin to overlap each other, the third eye, a structure in subtle substance, results from the merging of the three centres to form a triangle of esoteric and spiritual importance. Thus, these three head structures merge with each other and begin to form, through their interplay, a massive vortex of energy, out of which is fashioned the third eye. |
Chúng ta bắt đầu hiểu rằng để đạt được sự phát triển tinh thần hoàn toàn, các luân xa cao nhất trong cơ thể—Trung Tâm Đầu (Head Centre), Luân Xa Trán (Brow Centre), và Trung Tâm Họng (Throat Centre)—phải được mở ra. Vậy, con mắt thứ ba là gì? Con mắt thứ ba xuất hiện khi ba trung tâm này trước hết trở nên rực rỡ, và thứ hai (mặc dù quá trình này phải đồng thời) khi xảy ra hiện tượng chúng chồng lấn lên nhau. Khi ba trung tâm này bắt đầu chồng lấn, con mắt thứ ba—một cấu trúc bằng chất liệu tinh tế—được hình thành từ sự hợp nhất của ba trung tâm để tạo thành một tam giác có ý nghĩa quan trọng về mặt huyền bí và tinh thần. Do đó, ba cấu trúc này hợp nhất và thông qua sự tương tác của chúng, tạo thành một xoáy năng lượng lớn, từ đó con mắt thứ ba được hình thành. |
|
Thus, the third eye is an organ of inner vision. It is an organ that functions in the etheric vehicle, in the astral vehicle, in the mental vehicle, and in the spiritual vehicle. It emerges through the interplay of these three head centres. Their coordination and their interplay constitute the target of attention, as described earlier, for discipleship and for esoteric disciplines. |
Như vậy, con mắt thứ ba là một cơ quan của nhận thức nội tại. Nó hoạt động trong thể dĩ thái, thể cảm dục, thể trí, và thể tinh thần. Nó xuất hiện thông qua sự tương tác của ba trung tâm đầu này. Sự phối hợp và tương tác của chúng tạo thành mục tiêu tập trung của địa vị đệ tử và các kỷ luật huyền môn. |
|
Man may be likened to a candle with its base anchored to the Earth at the Muladara Chakra and its highest point in the brain at the site of the pineal gland. Or he may be regarded as a tree with its roots at Muladara and its highest flower the Sahasrara in the head: |
Con người có thể được ví như một ngọn nến, với đế được neo vào Trái Đất tại Luân Xa Gốc (Muladara Chakra) và đỉnh cao nhất tại não bộ, tại vị trí của tuyến tùng (pineal gland). Hoặc con người có thể được xem như một cái cây, với rễ ở Luân Xa Gốc (Muladara) và bông hoa cao nhất là Hoa Sen Ngàn Cánh (Sahasrara) trong đầu. |
|
Man is a child of the Earth at the lower end and a child of God at the higher. |
Con người là đứa con của Trái Đất ở phần thấp nhất và là đứa con của Thượng Đế ở phần cao nhất. |
|
A considered exercise, a favourite with neophytes, is contemplation of the candle flame outwardly and then the seeing of it (as a symbol of the higher Self) in the square inch between the brows. |
Một bài thực hành đáng suy ngẫm, rất được các tân học viên yêu thích, là việc chiêm ngưỡng ngọn nến bên ngoài và sau đó hình dung nó (như một biểu tượng của Chân Ngã cao cả) trong “khoảng một inch thiêng liêng” giữa hai chân mày. |

|
It is also important to understand that these three head centres are the advanced stations of the soul … that at the centre of these three head centres there is a spark, a glowing ember, which has been referred to in the orient as ‘the jewel in the lotus.’ Each of these three head centres possesses a glowing ember, which, under spiritual unfoldment, becomes a radiant fire, and each of the radiant fires overlap to produce a vortex of energy, which is referred to as the element of the third eye. |
Cũng quan trọng để hiểu rằng ba trung tâm đầu này là các trạm tiên tiến của linh hồn… rằng tại trung tâm của ba trung tâm đầu này tồn tại một tia lửa, một than hồng rực sáng, được phương Đông gọi là “viên ngọc trong hoa sen.” Mỗi trung tâm đầu trong ba trung tâm này đều sở hữu một than hồng rực sáng, và dưới sự phát triển tinh thần, chúng trở thành những ngọn lửa rực rỡ. Mỗi ngọn lửa rực rỡ này chồng lấn lên nhau, tạo ra một xoáy năng lượng, được gọi là yếu tố của con mắt thứ ba. |
|
Thus, the soul begins to anchor itself within the human entity through the core, or the central points of these three chakras. It is then that the antahkarana, the rainbow bridgehead, becomes rapidly patent. Instead of transferring energy from the soul to the extent of about 5% of its capacity, it increases this capacity tremendously so that the soul’s energies may be passed in a virtual flood into the personality. |
Như vậy, linh hồn bắt đầu neo đậu chính mình vào thực thể con người thông qua lõi hoặc điểm trung tâm của ba luân xa này. Khi đó, antahkarana, chiếc cầu vồng nối liền, nhanh chóng trở nên rõ ràng. Thay vì chỉ chuyển giao khoảng 5% năng lượng của linh hồn, khả năng này được tăng lên đáng kể, cho phép năng lượng của linh hồn được truyền đi với cường độ mạnh mẽ vào phàm ngã. |
|
We must remember that chakras exist etherically, with another set astrally , and a further set mentally. The combined influence of all these sets of chakras, their interplay and the transmutation of energies from the mental to the astral chakras, the astral to the etheric chakras with their nadis and etheric tracts, produces that which, we call the magnetic aura. Indeed, the aura is a magnetic phenomenon. |
Cần nhớ rằng các luân xa tồn tại ở cấp độ dĩ thái, cùng một bộ luân xa khác ở cấp độ cảm dục, và một bộ nữa ở cấp độ trí tuệ. Sự ảnh hưởng tổng hợp của các bộ luân xa này, sự tương tác của chúng và việc chuyển hóa năng lượng từ luân xa trí tuệ sang luân xa cảm dục, từ luân xa cảm dục sang luân xa dĩ thái cùng các nadis và các kênh dĩ thái, tạo thành cái mà chúng ta gọi là hào quang từ tính (magnetic aura). Thật vậy, hào quang là một hiện tượng từ tính. |
|
In the movement of central Fire from the Monad, which is a spark of the Divine, down through the various vehicles that I have described, the motion of this Fire (spiralling, cyclic and even rotating) produces magnetic forces not only at a physical level, but at a mental and emotional level as well, e.g., spiritual magnetism, mental magnetism, emotional magnetism. They play an immense part in what we call teaching and in healing. Teaching is seduction at a mental and emotional level, as a magnetic device. Healing is an aspect of magnetism, which goes on deeply within the subtle vehicles through the spiralling movement of Fire. |
Trong sự di chuyển của Lửa trung tâm từ Chân Thần, vốn là một tia lửa thiêng liêng, đi xuống qua các thể khác nhau mà tôi đã mô tả, chuyển động của Lửa này (theo hình xoắn ốc, chu kỳ và thậm chí quay tròn) tạo ra các lực từ không chỉ ở cấp độ vật lý mà còn ở cấp độ trí tuệ và cảm xúc, ví dụ như từ lực tinh thần, từ lực trí tuệ, từ lực cảm xúc. Chúng đóng vai trò to lớn trong những gì chúng ta gọi là giảng dạy và chữa lành. Giảng dạy là sự dẫn dụ ở cấp độ trí tuệ và cảm xúc, như một phương tiện từ tính. Chữa lành là một khía cạnh của từ tính, diễn ra sâu trong các thể vi tế thông qua chuyển động xoắn ốc của Lửa. |
|
Age is no barrier to the creative channels that take Kundalini Fire up into the head region, provided that the Path of Discipleship was begun before middle age. Kundalini is the fountain which expresses herself in the head region in three glorious qualities which can maintain the creativeness of the disciple in terms of Truth, Beauty and Goodness right into old age. The three centres in the head are.established, conduct an interplay with each other and finally form an integrated ball of spiritual fire, housing the Solar Deva. |
Tuổi tác không phải là rào cản đối với các kênh sáng tạo đưa Lửa Kundalini lên vùng đầu, miễn là Con Đường Đệ Tử được bắt đầu trước trung niên. Kundalini là nguồn suối biểu hiện chính mình trong vùng đầu qua ba phẩm chất vinh quang có thể duy trì sự sáng tạo của đệ tử trong các giá trị về Chân, Thiện, Mỹ cho đến tuổi già. Ba trung tâm trong đầu được thiết lập, tương tác với nhau và cuối cùng tạo thành một quả cầu lửa tinh thần tích hợp, nơi cư ngụ của Solar Deva (Thần Thái dương). |
|
This is shown diagrammatically opposite, where an advanced initiate has concentrated his spiritual fires within the head region. Each of the three head centres are rotating on a plane at right angles to the other, forming a sphere of interpenetrating discs of great radiance. The initiate is practising Dharana (sustained concentration), and therefore the Brow Centre is oscillating between two planes (of an ecliptic) whilst the other two Head Centres, not receiving such marked attention, are more stable. |
Điều này được minh họa bằng sơ đồ, nơi một điểm đạo đồ cao cấp đã tập trung các ngọn lửa tinh thần của mình trong vùng đầu. Mỗi trong ba trung tâm đầu đang quay trên một mặt phẳng vuông góc với mặt phẳng của trung tâm khác, tạo thành một quả cầu các đĩa xuyên thấu với ánh sáng rực rỡ. Điểm đạo đồ đang thực hành Dharana (sự tập trung bền vững), do đó Luân Xa Trán (Brow Centre) dao động giữa hai mặt phẳng (của một đường hoàng đạo), trong khi hai Trung Tâm Đầu khác, không nhận được sự chú ý tương tự, ổn định hơn. |

CHAPTER 6
The Third Eye in Symbolism—Con Mắt Thứ Ba trong Biểu tượng học
|
We can learn much about the nature of the third eye and its mechanism from ancient symbols. The snake ready to strike was one such symbol. The asp was a symbol reserved for the Egyptian royal family. It was placed in its poised position on the headdress of the Egyptian pharaoh, who was always initiated into the Mysteries which, of course, included references to the opening of the organ of inner vision. |
Chúng ta có thể học hỏi nhiều về bản chất và cơ chế của con mắt thứ ba từ các biểu tượng cổ xưa. Con rắn sẵn sàng tấn công là một trong những biểu tượng như vậy. Loài rắn hổ (asp) là biểu tượng được dành riêng cho hoàng gia Ai Cập, được đặt ở vị trí nổi bật trên mũ đội đầu của các pharaoh, những người luôn được điểm đạo vào các Bí Nhiệm, bao gồm cả những tham chiếu đến việc khai mở cơ quan nội nhãn. |
|
The snake uses the steady gaze of its focussed eyes to mesmerise its victims before striking. From this allusion we may derive the knowledge that focus is one of the elements required for the unfolding of the third eye. Certainly we know that it is used to arouse the two-petalled lotus or chakra which coincides with the space between the brows known as the ‘sacred square inch’ and in the Orient as Ajna. In fact, no powers of any consequence are manifest without the patency of Ajna. It’s arousal into a blazing golden sun brings about divine alchemy. |
Rắn sử dụng ánh mắt tập trung cố định để thôi miên con mồi trước khi tấn công. Từ hình ảnh này, chúng ta có thể nhận ra rằng sự tập trung là một trong những yếu tố cần thiết để khai mở con mắt thứ ba. Chúng ta biết rằng sự tập trung được sử dụng để đánh thức hoa sen hay luân xa hai cánh, trùng với không gian giữa hai chân mày, được gọi là “khoảng một inch thiêng liêng” và trong truyền thống phương Đông là Ajna. Thật vậy, không một quyền năng quan trọng nào có thể biểu hiện nếu Ajna chưa được khai mở. Khi nó bừng sáng thành một mặt trời vàng rực, quá trình luyện kim thiêng liêng diễn ra. |
|
So often it is ‘sicklied o’er with the pale cast of thought.’ The nirmanakaya who was Plato and who overshadowed John Richardson, the historic figure and contemporary of William Shakespeare (See Shakespeare, The True Authorship by the author), refers to the Ajna Centre in Sonnet 33. He likens the outpouring of the aroused Brow Centre to the morning sun and the mundane thoughts (worries, anxieties, diversions, etc.) to the clouds that hide it, ending with a reference to an hour at meditation: |
Tuy nhiên, con mắt này thường bị che phủ bởi “màu nhợt nhạt của những suy nghĩ”—những lo âu, lo lắng, và phân tâm. Nhân vật nirmanakaya được gọi là Plato, người đã chiếm lĩnh John Richardson, một nhân vật lịch sử đương thời của William Shakespeare (Xem Shakespeare, The True Authorship của tác giả), đã nhắc đến Trung Tâm Ajna trong bài Sonnet 33. Ông so sánh dòng năng lượng tuôn trào từ Luân Xa Trán được đánh thức với ánh mặt trời buổi sáng, và những suy nghĩ tầm thường như những đám mây che phủ nó, kết thúc với sự gợi nhắc về một giờ thiền định: |
|
Full many a glorious morning have I seen |
Ta từng thấy biết bao buổi sáng huy hoàng, |
|
Flatter the mountain tops with sovereign eye, |
Vuốt ve đỉnh núi bằng ánh nhìn uy quyền, |
|
Kissing with golden face the meadows green, |
Với gương mặt vàng hôn lên đồng cỏ xanh, |
|
Gilding pale streams with heavenly alchemy; |
Biến dòng suối nhợt nhạt thành vàng bởi thuật luyện kim thiêng liêng; |
|
Anon permit the basest clouds to ride |
Rồi bỗng cho phép những đám mây tầm thường |
|
With ugly rack on his celestial face |
Xấu xí kéo qua gương mặt thiên đường của mình |
|
And from the forlorn world his visage hide, |
Và che giấu khuôn mặt y khỏi thế giới buồn thảm, |
|
Stealing unseen to West with this disgrace. |
Âm thầm lẩn vào phương Tây cùng nỗi hổ thẹn này. |
|
The Mysteries of Rome were represented by the infant, the god Bacchus. The child holds a toy in each of his hands. In the one hand he holds a pine cone and in the other a looking glass. The pine cone represents the pineal gland which Madame Blavatsky related to the third eye (but said was not the third eye itself). The hand mirror is the symbol of inner worlds, like the astral, which are looked into when the third eye is aroused. |
Trong các Bí Nhiệm La Mã, thần Bacchus được đại diện bởi một đứa trẻ, cầm trong mỗi tay một món đồ chơi. Một tay cầm quả thông, biểu tượng cho tuyến tùng, thứ mà Madame Blavatsky liên hệ đến con mắt thứ ba (nhưng không cho rằng đó là con mắt thứ ba thực sự). Tay còn lại cầm chiếc gương, tượng trưng cho các thế giới nội tâm, như cõi cảm dục, mà con người có thể nhìn vào khi con mắt thứ ba được khai mở. |
|
The winged rod carried by Mercury is also a symbol of the pineal gland. Mercury is the Messenger of the Gods, and the winged rod indicates the flight of consciousness which man achieves in the superconscious state wherein he is able to communicate with the gods. If Madame Blavatsky was right, then the pineal gland must have either existed on the end of a long stem, enabling it to protrude from the posterior fontanelle of the skull, or it might have remained deep within the brain substance with an extension of itself, the parietal eye, lying in the posterior fontanelle. Mercury has winged shoes and a winged helmet and suggests spiritual staying power. Indeed, this quality is a requirement for the opening of the third eye. |
Cây gậy có cánh mà thần Mercury mang theo cũng là một biểu tượng của tuyến tùng. Mercury, Sứ giả của các vị thần, mang theo cây gậy có cánh tượng trưng cho sự bay bổng của tâm thức mà con người đạt được trong trạng thái siêu thức, nơi y có thể giao tiếp với các vị thần. Nếu Bà Blavatsky đúng, thì tuyến tùng hoặc đã tồn tại ở phần cuối của một thân dài, cho phép nó nhô ra từ thóp sau của hộp sọ, hoặc có thể vẫn nằm sâu trong chất não với một phần mở rộng của nó, con mắt đỉnh đầu, nằm ở thóp sau. Mercury mang giày có cánh và đội mũ có cánh, gợi ý về sức mạnh tinh thần bền bỉ. Thực vậy, phẩm chất này là điều kiện cần thiết cho sự mở ra của con mắt thứ ba. |
|
When we come to the symbolism of the third eye in English mysticism, we have the stories of the search for the Holy Grail, a legendary cup seeming to be the equivalent of the ‘shining bowl’ in Biblical references. Both the bowl and the grail are indicative of the area covered by the third eye which is a divine receptacle for spiritual Fire. ‘My cup runneth over’ means a state of grace in which spiritual Fire pours out into the aura from this region high in man’s pyramid. |
Khi xem xét biểu tượng của con mắt thứ ba trong thần bí học Anh, chúng ta bắt gặp những câu chuyện về hành trình tìm kiếm Chén Thánh, một chiếc cúp huyền thoại dường như tương đương với “chiếc bát sáng” được nhắc đến trong Kinh Thánh. Cả bát và Chén Thánh đều biểu thị vùng được bao phủ bởi con mắt thứ ba, vốn là một bình thiêng liêng để đón nhận Lửa tinh thần. “Chén ta tràn đầy” ám chỉ trạng thái ân sủng, trong đó Lửa tinh thần tràn ra vào hào quang từ vùng cao trong kim tự tháp của con người. |
|
The unicorn is a white horse, a symbol of the soul, and its median horn the aroused third eye. The spiralling of the horn of the horn tells us that only when consciousness spirals to a point of focus is the third eye fully active. |
Kỳ lân là một chú ngựa trắng, biểu tượng của linh hồn, với chiếc sừng trung tâm là con mắt thứ ba được đánh thức. Sự xoắn ốc của chiếc sừng cho thấy rằng chỉ khi tâm thức xoắn ốc đến một điểm tập trung, con mắt thứ ba mới hoàn toàn hoạt động. |
|
The lion that is engaged in mortal combat with the unicorn is the symbol of man’s personality, which demonstrates the fight in average man for the prize of consciousness. In the royal coat of arms of Britain, both creatures seem to be struggling for the crown, which is the symbol of man’s consciousness. In the old rhyme: |
Sư tử, đối thủ tử chiến của kỳ lân, là biểu tượng của phàm ngã con người, thể hiện cuộc đấu tranh trong con người trung bình để giành lấy phần thưởng của tâm thức. Trong quốc huy của Hoàng Gia Anh, cả hai sinh vật dường như đang tranh đấu để giành lấy vương miện, biểu tượng của tâm thức con người. Trong bài đồng dao cổ: |
|
The lion and the unicorn were fighting for the crown. |
Sư tử và kỳ lân đánh nhau vì vương miện. |
|
The lion beat the unicorn all round the town. |
Sư tử đánh kỳ lân khắp mọi nơi trong thị trấn. |

|
This is so true of man in the world today. His personality constantly dominates his consciousness, and the voice of the unicorn is hardly heard. |
Điều này rất đúng với con người trong thế giới ngày nay. Phàm ngã thường xuyên thống trị tâm thức của họ, và tiếng nói của kỳ lân hiếm khi được nghe thấy. |
|
However, there is an esoteric version of another verse which says that in a further combat the lion’s heart is pierced by the horn of the unicorn, a reference to the final dimension of consciousness of the soul in the spiritually aroused disciple. This is also a reference to the fact that as the force centre in the brow region (Ajna) becomes awakened, the energy of the Heart Centre flows to it. Or, to put it in mythological terms, the horn of the unicorn (Ajna) becomes focussed and pierces the Heart Chakra to allow its energies to spill out and flow to their higher ego, the Ajna Centre. |
Tuy nhiên, có một phiên bản huyền bí của một câu thơ khác, nói rằng trong một trận chiến tiếp theo, trái tim của sư tử bị xuyên thủng bởi chiếc sừng của kỳ lân. Đây là một tham chiếu đến chiều kích cuối cùng của tâm thức linh hồn trong người đệ tử đã được thức tỉnh về mặt tinh thần. Điều này cũng ám chỉ rằng khi trung tâm lực ở vùng trán (Ajna) được khai mở, năng lượng từ Luân Xa Tim (Heart Centre) sẽ chảy đến đó. Hoặc, theo thuật ngữ thần thoại, chiếc sừng của kỳ lân (Ajna) tập trung và xuyên qua Luân Xa Tim, cho phép năng lượng từ đó tuôn trào và chảy đến “bản ngã cao hơn” của nó, tức Trung Tâm Ajna. |
|
The Heart Chakra is the outpost of the Ray of Love-Wisdom, the Ray of teaching and of healing. It is also the Ray of magetism and, therefore, especially of the magnetic aura. |
Luân Xa Tim là tiền đồn của Cung Bác Ái-Minh Triết (Ray of Love-Wisdom), Cung của sự giảng dạy và chữa lành. Nó cũng là Cung của từ tính và đặc biệt liên quan đến hào quang từ tính (magnetic aura). |
|
All individuals who are spiritual should have the ability to teach and to heal, especially where they have Second Ray souls. These souls, or higher triads or bodies of Atma, Buddhi and Manas, resonate to the Ray of Love-Wisdom. Another magnetic phenomenon is esoteric healing, again related to the aura and the ability to transfer the aura and specialising from chakra to chakra. The esoteric healer is able to transfer his auric qualities, especially from his Heart Centre to the Heart Centre of the patient. |
Tất cả những cá nhân có tinh thần nên có khả năng giảng dạy và chữa lành, đặc biệt khi họ có linh hồn thuộc Cung Hai (Second Ray). Những linh hồn này, hay Tam Nguyên tinh thần (Atma, Buddhi, Manas), cộng hưởng với Cung Bác Ái-Minh Triết. Một hiện tượng từ tính khác là chữa lành huyền bí (esoteric healing), liên quan đến hào quang và khả năng chuyển năng lượng hào quang từ luân xa này sang luân xa khác. Người chữa lành huyền bí có khả năng truyền các phẩm chất hào quang của mình, đặc biệt từ Luân Xa Tim của họ đến Luân Xa Tim của bệnh nhân. |
|
The butterfly is often used as the symbol for the soul, as well as for the third eye. In Greek, both the soul and the butterfly are called ‘psyche’. The attempt to grasp the butterfly with the hands symbolises the difficulty of trying to steady the organ of inner vision between the brows. |
Con bướm thường được sử dụng làm biểu tượng cho linh hồn cũng như con mắt thứ ba. Trong tiếng Hy Lạp, cả linh hồn và con bướm đều được gọi là “psyche.” Nỗ lực bắt giữ con bướm bằng tay tượng trưng cho sự khó khăn trong việc ổn định cơ quan nội nhãn ở giữa hai chân mày. |
|
Thus, through an analysis of symbols, much information can be gathered from mythology as to the way in which the organ of inner vision is aroused. The Holy Trinity itself has many interpretations, not the least of which (as the reader will soon become aware) applies to the integration of the three Head Centres as a prerequisite to the opening of the third eye. |
Như vậy, thông qua việc phân tích các biểu tượng, nhiều thông tin có thể được rút ra từ thần thoại về cách thức cơ quan nội nhãn được khai mở. Chính Bộ Ba Thiêng Liêng (Holy Trinity) cũng có nhiều cách giải thích, trong đó không thể bỏ qua ý nghĩa liên quan đến sự hợp nhất của ba Trung Tâm Đầu như một điều kiện tiên quyết để khai mở con mắt thứ ba. |

CHAPTER 7
Restoration of the Capstone— Khôi Phục Đỉnh Chóp
|
The pyramid of man is incomplete. It is deprived of its capstone. In ancient days, the capstone was the focus of attention of all those who approached a pyramid. Indeed, the Great Pyramid at Giza once contained a metallic capstone at its apex. The massive earthquake that split some of the stone beams of its inner temples also caused the capstone to slither down from its summit position, and it was never restored. |
Kim tự tháp của con người vẫn chưa hoàn chỉnh. Nó thiếu đi viên đá đỉnh. Trong thời cổ đại, viên đá đỉnh là tâm điểm chú ý của tất cả những ai đến gần một kim tự tháp. Thật vậy, Kim Tự Tháp Lớn ở Giza từng có một viên đá đỉnh bằng kim loại trên đỉnh của nó. Trận động đất lớn khiến một số dầm đá bên trong đền thờ bị nứt cũng làm viên đá đỉnh trượt xuống khỏi vị trí đỉnh cao và nó không bao giờ được khôi phục. |
|
Man himself has, in a sense, fallen from glory also. The patency of his soul and its organs of expression were lost many millenia ago. His present deficiencies in terms of spiritual structures may be listed as follows: |
Con người, theo một nghĩa nào đó, cũng đã rơi khỏi vinh quang. Tính minh bạch của linh hồn và các cơ quan biểu hiện của nó đã bị mất từ hàng thiên niên kỷ trước. Những khiếm khuyết hiện tại của con người về cấu trúc tinh thần có thể được liệt kê như sau: |
|
A. Man’s mental body is incomplete. It is quite capable in ordinary circumstances to apply itself intelligently to any task required of it. It is competent in linear thinking, as well as being remarkably adaptive and capable in putting together a very fine intellect. However, it is lacking in the ability to deal with the energies of Higher Manas which expresses itself in a spiritual man as Abstract Thought. |
A. Thể trí của con người chưa hoàn chỉnh. Thể trí của con người có khả năng áp dụng một cách thông minh cho bất kỳ nhiệm vụ nào trong các hoàn cảnh thông thường. Nó đủ năng lực cho tư duy tuyến tính, đồng thời cũng thích ứng đáng kể và có khả năng xây dựng một trí tuệ rất tinh tế. Tuy nhiên, nó thiếu khả năng xử lý các năng lượng của Thượng Trí (Higher Manas), vốn biểu hiện trong con người tinh thần như là Tư Duy Trừu Tượng. |
|
Man must learn to think in categories. He must draw the energy of Manas down into his mental body with increasing accessibility. His great problem is that his mind cannot at his command stop the eternal elaboration of thoughts. His thoughts are driven in turn by his senses. From the moment that he awakens in the morning and is aware of his closed eyelids, his consciousness is submitted to an onslaught of rank upon rank of thoughts, and this has been so from childhood. There is not a moment during the day of an average person that serious attempts are made to halt this process of thinking. |
Con người phải học cách tư duy theo các phạm trù. Y cần rút năng lượng từ Thượng Trí xuống thể trí của mình một cách ngày càng dễ dàng hơn. Vấn đề lớn của y là trí óc của y không thể, theo ý muốn, ngừng sự phát triển không ngừng của các ý nghĩ. Các ý nghĩ của y bị thúc đẩy bởi các giác quan. Từ giây phút y thức dậy vào buổi sáng và nhận thức được mí mắt đang khép, tâm thức của y đã chịu sự tấn công của hàng loạt ý nghĩ, điều này đã diễn ra từ thời thơ ấu. Trong suốt ngày dài, rất ít khi người ta nghiêm túc cố gắng ngăn chặn quá trình suy nghĩ này. |
|
The lower mental nature is an entity constructed out of elemental substance. It has been encouraged to act independently of the will and the real owner of the mental vehicle. We are so apt to say, ‘My body is tired. My mind is weary.’ And yet, equally apt to forget who the owner of the mind and the owner of the body is. Man is hemmed in by his thoughts. He is in a jail house every day of his life. There is hardly any time that the higher triad or higher Self is in a position to break through the ring of thoughts to reach the imprisoned ego. |
Bản chất hạ trí là một thực thể được tạo nên từ chất liệu hành khí. Nó đã được khuyến khích hoạt động một cách độc lập với ý chí và chủ thể thực sự của thể trí. Chúng ta thường nói: “Thân tôi mệt mỏi. Trí tôi kiệt sức.” Nhưng lại quên đi ai là chủ nhân thực sự của trí óc và thân thể. Con người bị giam cầm trong các ý nghĩ của mình, y sống trong một nhà tù suốt cuộc đời. Hiếm khi nào Tam nguyên Tinh thần hay Chân ngã có thể phá vỡ vòng vây của các ý nghĩ để tiếp cận phàm ngã bị giam cầm. |
|
Madame Blavatsky said of the mind that it was “the slayer of the real”, and she meant that man constantly slays his higher Self, as surely as the lion slays the unicorn, by keeping his attention at the level of lower manas and active intelligence. It is for this reason that the science of meditation is all important, because it frees man from the bondage of his thoughts. Even if we cannot meditate, we should at least learn to sit in silence, for in silence the soul disseminates and the lighted region of the capstone begins to blaze with a golden effulgence, reminiscent of its previous glory. |
Bà Blavatsky từng nói về thể trí rằng nó là “kẻ giết chết sự thật,” Bà muốn chỉ việc con người liên tục giết chết Chân ngã của mình, cũng như sư tử giết kỳ lân, bằng cách giữ sự chú ý ở cấp độ của hạ trí và trí năng hoạt động. Đây là lý do tại sao khoa học tham thiền vô cùng quan trọng, vì nó giải phóng con người khỏi sự ràng buộc của các ý nghĩ. Ngay cả khi chúng ta không thể tham thiền, chúng ta nên ít nhất học cách ngồi trong im lặng, vì trong sự im lặng, linh hồn được lan tỏa và vùng sáng trên viên đá đỉnh bắt đầu bừng sáng với ánh vàng rực rỡ, gợi nhớ về vinh quang đã mất. |
|
B. Man lacks three coordinated Head Centres. These begin as points of fire and slowly become enlarged through many lives on Earth. Every spiritual experience—in terms of the qualities of Atma (the exercising of divine, persistent Will), Buddhi (compassion, the exercising of our powers of intuition, our understanding of the eternal, our practice of harmlessness and intense discrimination), and Manas (abstract thinking, as described above) —brings energies to these three Head Centres. They start as points of fire, smouldering embers that await arousal. It is to these three points (which together form the jewel in the lotus) that man’s soul (the higher triad) is able to anchor itself as the personality progressively places its future in the hands of its higher Self. |
B. Con người thiếu ba Trung tâm Đầu phối hợp. Những trung tâm này khởi đầu như những điểm lửa và dần mở rộng qua nhiều kiếp sống trên trần gian. Mỗi trải nghiệm tinh thần—về các phẩm tính của Atma (ý chí thiêng liêng kiên định), Buddhi (từ bi, trực giác, thấu hiểu điều vĩnh hằng, thực hành vô tổn hại và phân biện tinh thần), và Manas (tư duy trừu tượng như đã đề cập)—đều mang năng lượng đến ba Trung tâm Đầu này. Chúng bắt đầu như những điểm lửa, những than hồng âm ỉ chờ được khơi dậy. Chính tại ba điểm này (cùng nhau tạo thành viên ngọc trong hoa sen), linh hồn của con người (tam nguyên thượng) có thể tự neo đậu khi phàm ngã từng bước đặt tương lai của mình vào tay Chân ngã. |
|
The opening of these three Head Centres is a delicate matter: |
Việc khai mở ba Trung tâm Đầu này là một vấn đề tinh tế: |
|
(i) Each centre must be fed from its appropriate lower ego, a chakra lying below the level of the medulla oblongata or the angle of the jaw bone. The Heart must feed the Brow. The Base of the Spine must pass its energies to the Head Centre (the Thousand Petalled Lotus). The sixteen petalled lotus in the throat must project its energies into the Alta Major Centre—the winged wheel, placed on an imaginary axle betwen the angles of the jaw bone. |
(i) Mỗi trung tâm phải được nuôi dưỡng từ các trung tâm tương ứng thấp hơn, nằm dưới mức hành tủy hoặc góc xương hàm. Trung tâm Tim phải nuôi dưỡng Trung tâm Trán. Trung tâm Gốc phải truyền năng lượng đến Trung tâm Đầu (Hoa sen ngàn cánh). Hoa sen mười sáu cánh ở cổ họng phải truyền năng lượng vào Trung tâm Alta Major—bánh xe có cánh, đặt trên một trục tưởng tượng giữa các góc xương hàm. |
|
(ii) The basic maxim of ‘Energy follows thought’ is the mechanism whereby energy transferences are achieved. By arousing the appropriate centres below the diaphragm and focussing attention on the alter egos of these centres in the head region, energy follows thought. |
(ii) Nguyên tắc cơ bản “Năng lượng theo sau tư tưởng” là cơ chế để đạt được sự chuyển dịch năng lượng. Bằng cách khơi dậy các trung tâm thích hợp dưới cơ hoành và tập trung sự chú ý vào các trung tâm tương ứng trong vùng đầu, năng lượng sẽ theo sau ý nghĩ. |
|
(iii) Prana conveyed by breathing rhythms can drive these transferences vigorously. In particular, the bellows breath is advantageous when it is coordinated with any act of focus as described above (See Meditation, The Theory And Practice by the author, pages 126-127). |
(iii) Prana được dẫn truyền qua nhịp thở có thể thúc đẩy mạnh mẽ các sự chuyển giao này. Đặc biệt, hơi thở bễ lò rất có lợi khi được phối hợp với bất kỳ hành động tập trung nào như đã mô tả (xem Tham Thiền, Lý Thuyết và Thực Hành của tác giả, các trang 126-127). |
|
In this work, the author has chosen to express the mechanism of unfoldment of spiritual consciousness through the key of Yoga, but he could equally have used an astrological key, an alchemical one or one that is entirely physiological. For the help of those who are new to Yoga, the excellent essay on this sacred science by Vishwanath Keskar is given in Chapter 8. |
Trong tác phẩm này, tác giả đã chọn diễn đạt cơ chế khai mở tâm thức tinh thần thông qua chìa khóa của Yoga, nhưng ông cũng có thể sử dụng chìa khóa chiêm tinh, luyện kim thuật, hoặc hoàn toàn mang tính sinh lý học. Để hỗ trợ những người mới làm quen với Yoga, một bài luận xuất sắc về khoa học thiêng liêng này của Vishwanath Keskar được trình bày trong Chương 8. |
|
(iv) An overactive emotional nature (i.e., undisciplined emotions) presents a barrier to the opening of the three Head Centres. This does not mean that the emotions should be negated, but that they should be disciplined. Such factors in the environment as classical music, Gregorian chants, the observation of works of art, the reading of poetry, the contemplation of eternal structures like the stars themselves, etc., are disciplining to the emotions. |
(iv) Bản chất cảm xúc quá mức (tức là cảm xúc không được kiểm soát) tạo thành một rào cản đối với việc mở ba Trung tâm Đầu. Điều này không có nghĩa là cảm xúc cần bị phủ nhận, mà chúng phải được đưa vào kỷ luật. Những yếu tố trong môi trường như âm nhạc cổ điển, các bài hát Gregorian, việc quan sát các tác phẩm nghệ thuật, đọc thơ ca, chiêm ngưỡng các cấu trúc vĩnh cửu như chính các ngôi sao, v.v., giúp kỷ luật hóa cảm xúc. |
|
(v) The intellect, like the emotions, is not to be banished, but it must not intrude in the process of energy transfers. The safe way of dealing with the intellect is to furnish one’s consciousness with a vocabulary of symbols and images which may be expressive of both the external world and the internal. The author has elaborated a whole method of building into the consciousness of the neophyte a hundred thousand or more symbols and images with which he may proposition his higher Self. These are related to the horoscope of the individual and its astrological aspects, and each person is unique. The horoscope is the ‘spiritual fingerprint’ of the person’s existential nature; it indicates the quality of time, as well as of space, which provided the medium in which he was born. Through the use of a language of images acceptable to the soul as well as to the personality, an ego/Self axis is thus established, and a dialogue with the higher Self becomes possible. Under such circumstances, energy transfers are greatly enhanced. The Claregate Method provides such an axis. |
(v) Trí tuệ, giống như cảm xúc, không nên bị loại bỏ, nhưng cũng không được can thiệp vào quá trình chuyển giao năng lượng. Cách an toàn để xử lý trí tuệ là trang bị cho tâm thức một vốn từ vựng gồm các biểu tượng và hình ảnh có thể biểu đạt cả thế giới bên ngoài lẫn bên trong. Tác giả đã phát triển một phương pháp xây dựng trong tâm thức của người nhập môn hàng trăm ngàn biểu tượng và hình ảnh mà họ có thể sử dụng để tiếp cận Chân ngã của mình. Những biểu tượng này liên quan đến lá số chiêm tinh cá nhân và các khía cạnh chiêm tinh học của nó, mỗi người là duy nhất. Lá số chiêm tinh chính là “dấu vân tay tinh thần” của bản chất tồn tại của một người; nó chỉ ra chất lượng của thời gian và không gian—môi trường mà y được sinh ra. Thông qua việc sử dụng một ngôn ngữ hình ảnh có thể được chấp nhận bởi cả linh hồn lẫn phàm ngã, một trục phàm ngã/Chân ngã được thiết lập, và cuộc đối thoại với Chân ngã trở nên khả thi. Trong những điều kiện như vậy, các chuyển giao năng lượng được tăng cường đáng kể. Phương pháp Claregate cung cấp một trục như vậy. |
|
As Aristotle said, ‘The soul cannot think without an image.’ Many neophytes make the mistake of assessing their situation in life from the viewpoint of their personalities. They would have the soul learn the current language of their present personality … English in this life, French in the last life, Polynesian in the life before that, etc., etc. Under such circumstances, the soul would do nothing but learn languages, perhaps one for each of its 700-odd lives on the Earth. |
Như Aristotle từng nói: “Linh hồn không thể suy nghĩ nếu không có hình ảnh.” Nhiều người nhập môn mắc sai lầm khi đánh giá tình trạng cuộc sống của mình từ góc độ phàm ngã. Họ muốn linh hồn học ngôn ngữ hiện tại của phàm ngã … tiếng Anh trong kiếp này, tiếng Pháp trong kiếp trước, tiếng Polynesia trong kiếp trước đó, v.v. Trong những hoàn cảnh như vậy, linh hồn sẽ không làm gì khác ngoài việc học ngôn ngữ, có lẽ một ngôn ngữ cho mỗi trong số hơn 700 kiếp sống trên Trái Đất. |
|
Whereas, the soul uses a language which hardly changes through the aeons … the language of image. The reason why the Westerner does so poorly in the practice of esoteric sciences is that he has lost knowledge of the language of symbols. In the three great sciences of Yoga, Alchemy and true Astrology (esoteric), that language may be re-learned and used. |
Ngược lại, linh hồn sử dụng một ngôn ngữ hầu như không thay đổi qua các đại kiếp … ngôn ngữ của biểu tượng. Lý do tại sao người phương Tây ít thành công trong việc thực hành các khoa học huyền môn là họ đã đánh mất kiến thức về ngôn ngữ biểu tượng. Trong ba khoa học lớn là Yoga, Luyện kim thuật, và Chiêm tinh học chân chính (nội môn), ngôn ngữ này có thể được học lại và sử dụng. |
|
In the Claregate Method, taught by the author at his college in North London, the student is instructed to equip himself in a language of symbols with which he may establish an ego/Self dialogue. In symbolic idiom, he creates the tree of his antakarana with which he propositions the unconscious. On this tree grows the fruits of the unconscious, the many symbols of his inner visual vocabulary. These fruits are plucked by the higher Self and their seeds produce inner growth. The method is reciprocal, and the result is a soul-infused personality with an organ of inner vision. |
Trong phương pháp Claregate, được tác giả giảng dạy tại trường của ông ở Bắc London, học viên được hướng dẫn trang bị cho mình một ngôn ngữ biểu tượng để thiết lập cuộc đối thoại phàm ngã Chân ngã. Trong ngôn ngữ tượng trưng, họ tạo nên cây cầu antakarana của mình để tiếp cận vô thức. Trên cây cầu này mọc lên những quả của vô thức, các biểu tượng phong phú trong từ vựng hình ảnh nội tâm của họ. Những quả này được Chân ngã hái và hạt giống của chúng thúc đẩy sự phát triển nội tâm. Phương pháp này là tương hỗ, và kết quả là một phàm ngã được linh hồn thấm nhuần cùng với một cơ quan của tầm nhìn nội tâm. |
|
C. The three Head Centres must be aroused simultaneously. Each centre on its own is comparatively easy to arouse, e.g., sitting alone in darkness for long periods of time will arouse on its own and to some degree Sahasrara, the Head Centre or Thousand Petalled Lotus. Breathing oneself into a state of hyperventilation and coma will arouse Alta Major, independently of the other two Head Centres. Excessive use of alcohol or the employment of certain psychedelic drugs may arouse Ajna, independently of the other two. But none of these practices separately or even together will obtain the desired effect of arousing the three Head Centres concurrently, smoothly and safely. |
C. Ba Trung tâm Đầu phải được kích hoạt đồng thời. Mỗi trung tâm tự nó tương đối dễ kích hoạt, ví dụ, ngồi một mình trong bóng tối trong thời gian dài sẽ kích hoạt ở một mức độ nhất định Sahasrara, Trung tâm Đầu hay Hoa Sen Ngàn Cánh. Tự đưa bản thân vào trạng thái thở gấp và hôn mê sẽ kích hoạt Trung tâm Alta Major một cách độc lập với hai Trung tâm Đầu còn lại. Việc lạm dụng rượu hoặc sử dụng một số loại thuốc gây ảo giác có thể kích hoạt Ajna, mà không liên quan đến hai trung tâm khác. Nhưng không một phương pháp nào trong số này, dù riêng lẻ hay kết hợp, đạt được hiệu quả mong muốn là kích hoạt ba Trung tâm Đầu một cách đồng thời, nhịp nhàng và an toàn. |
|
Very briefly, it is through acts of service to mankind, in breathing for others and in breathing rhythmically with nature itself that Alta Major is safely aroused, along with the practicing of disciplines activating the other two Centres. It is through studying the classical teachings of Ancient Wisdom that initial arousal of the Brow Centre is achieved, and later through concentrating on objects visualised in the space between the brows that this centre is brought into fulmination. It is through the science of meditation that the Thousand Petalled Lotus is safely aroused, in coordination with the other two Head Centres. Thus, it is incumbent upon those desirous of opening the third eye to: |
Một cách ngắn gọn, thông qua các hành động phụng sự nhân loại, thở vì người khác và thở nhịp nhàng cùng với chính tự nhiên, Trung tâm Alta Major được kích hoạt một cách an toàn, cùng với việc thực hành các kỷ luật kích hoạt hai Trung tâm khác. Thông qua việc nghiên cứu các giáo lý cổ điển của Minh Triết Ngàn Đời, Trung tâm Trán được khởi đầu kích hoạt, và sau đó bằng cách tập trung vào các đối tượng được hình dung trong không gian giữa hai chân mày, trung tâm này được khai mở hoàn toàn. Thông qua khoa học tham thiền, Hoa Sen Ngàn Cánh được kích hoạt một cách an toàn, phối hợp với hai Trung tâm Đầu còn lại. Do đó, những ai mong muốn mở con mắt thứ ba cần phải: |
|
• be of service to mankind, |
○ Phụng sự nhân loại, |
|
• study the classical teachings of Ancient Wisdom (A list of these is given in Appendix 3), |
○ Nghiên cứu các giáo lý cổ điển của Minh Triết Ngàn Đời (Danh sách các giáo lý này được trình bày trong Phụ lục 3), |
|
• meditate. |
○ Tham thiền. |
|
• When these three disciplines are practiced simultaneously, the three Head Centres are opened progressively and safely. And finally: |
Khi ba kỷ luật này được thực hành đồng thời, ba Trung tâm Đầu sẽ được khai mở một cách dần dần và an toàn. Và cuối cùng: |
|
• the neophyte must learn to live the ‘meditative way of life’. |
○ Người nhập môn phải học cách sống một “đời sống tham thiền.” |
|
He cannot expect to confine his spiritual activities to a brief half an hour of each day or to an hour a week (when he may merely attend a lecture somehwere). He is struggling towards psychosynthesis—the putting together of his personality around a higher point of vibration—and must give himself every chance for this to proceed smoothly. There are many things that he can incorporate into his life style. |
Y không thể giới hạn các hoạt động tinh thần của mình vào một khoảng thời gian ngắn nửa giờ mỗi ngày hoặc một giờ mỗi tuần (khi y chỉ tham dự một buổi giảng ở đâu đó). Y đang phấn đấu để đạt đến sự hợp nhất tâm lý—tập hợp phàm ngã xoay quanh một điểm rung động cao hơn—và cần tạo mọi cơ hội để quá trình này diễn ra suôn sẻ. Có nhiều điều y có thể tích hợp vào lối sống của mình. |
|
Like Prometheus of old, who steals fire from the gods and in an act of great service and dedication brings it to humanity, and who must in punishment suffer an eagle (the trials of Scorpio, the tests of Initiation) to gnaw at his liver whilst chained to the mountain (of Initiation), the neophyte too must expect to undergo great trials and tests on the tortured way. |
Giống như Prometheus xưa kia, người đã đánh cắp lửa từ các vị thần và trong một hành động phụng sự lớn lao cùng sự tận hiến đã mang nó đến cho nhân loại, và người đã phải chịu hình phạt khi bị một con đại bàng (những thử thách của dấu hiệu Hổ Cáp, các bài kiểm tra Điểm Đạo) cắn xé lá gan trong khi bị xiềng xích trên ngọn núi (của Điểm Đạo), người nhập môn cũng phải chuẩn bị tinh thần để đối mặt với những thử thách và kiểm tra lớn lao trên con đường đau khổ. |

|
In my own ashram, we use a mnemonic of CHROME to describe these basic requirements of the meditative way of life, each letter signifying one of six major disciplines: |
Trong ashram của tôi, chúng tôi sử dụng một công cụ ghi nhớ mang tên CHROME để mô tả các yêu cầu cơ bản của đời sống tham thiền, mỗi chữ cái đại diện cho một trong sáu kỷ luật chính: |
|
C – Courage |
C – Courage (Dũng cảm) |
|
H – Harmlessness |
H – Harmlessness (Tính vô tổn hại) |
|
R – Relevance |
R – Relevance (Tính liên quan) |
|
O – Order |
O – Order (Trật tự) |
|
M – Malleability |
M – Malleability (Tính dễ uốn nắn) |
|
E – Endurance |
E – Endurance (Sự bền bỉ) |
|
The neophyte should always remember that the Path is the goal, that any steps which he takes towards the directing of energies into the head region constitutes the goal. He should not be discouraged because he does not reach the mountaintop of initiation immediately. Indeed, many sages in the East promise their disciples no more than benefits in lives to come when they are introduced to new disciplines—something which would hardly be popular in the West with its devotion to the ridiculous concept that we should judge by results, rather than act out of right motive. |
Người tân học nên luôn nhớ rằng Thánh đạo chính là mục tiêu, rằng bất kỳ bước tiến nào mà y thực hiện để hướng năng lượng vào khu vực đầu đều đã là mục tiêu. Y không nên nản lòng vì không đạt được đỉnh cao của điểm đạo ngay lập tức. Thực vậy, nhiều bậc hiền triết ở phương Đông chỉ hứa hẹn cho các đệ tử của mình những lợi ích trong các kiếp sống tương lai khi họ được giới thiệu vào những kỷ luật mới—một điều khó lòng được ưa chuộng ở phương Tây, nơi vẫn trung thành với khái niệm sai lầm rằng chúng ta nên đánh giá dựa trên kết quả, thay vì hành động theo động cơ chính đáng. |
|
Maintain a spiritual diary |
Duy trì một nhật ký tâm linh |
|
D. The keeping of the spiritual diary is an important matter. It acts as a stabilising influence on the life of the hard-pressed disciple. It is his comfort, his mentor, his guiding light. Eventually, it even becomes his spiritual factory in which he elaborates the fabric of his life of service. So important is this matter that the author has written a special treatise on the subject in my book The Spiritual Diary. |
D. Việc giữ một nhật ký tâm linh là một vấn đề quan trọng. Nó đóng vai trò như một ảnh hưởng ổn định trong đời sống của người đệ tử đang chịu áp lực lớn. Đó là nguồn an ủi, người thầy, ánh sáng dẫn đường của y. Cuối cùng, nó thậm chí trở thành “nhà máy tâm linh” nơi y xây dựng cấu trúc của cuộc sống phụng sự. Tầm quan trọng của việc này lớn đến mức tác giả đã viết một chuyên luận đặc biệt về chủ đề này trong tác phẩm Nhật Ký Tâm Linh (The Spiritual Diary). |
|
The spiritual diary is one of the most important tools the disciple has available to him. It is imperative that he begin to record elements of his subjective life, and the diary provides the means for so doing. The setting up and maintaining of the spiritual diary provides a systematic method for recording things which are relevant to soul matters, i.e., dreams, visions, impressions, progress with meditation, service work, esoteric studies and even changes in the physical body. The diary ultimately becomes a link between the disciple and his higher Self, serving as the mechanism by which he can seek counsel from the higher Self and, if set up properly, providing an invaluable record of direct inner response. |
Nhật ký tâm linh là một trong những công cụ quan trọng nhất mà người đệ tử có thể sử dụng. Điều tối quan trọng là y phải bắt đầu ghi lại các yếu tố của đời sống chủ quan, và nhật ký cung cấp phương tiện để thực hiện điều này. Việc thiết lập và duy trì nhật ký tâm linh mang lại một phương pháp hệ thống để ghi lại những điều liên quan đến linh hồn, ví dụ: giấc mơ, linh ảnh, ấn tượng, tiến trình tham thiền, công việc phụng sự, nghiên cứu huyền môn, thậm chí cả những thay đổi trong cơ thể vật lý. Nhật ký cuối cùng trở thành mối liên kết giữa đệ tử và Chân ngã, đóng vai trò như cơ chế mà qua đó y có thể tìm kiếm lời khuyên từ Chân ngã, và nếu được thiết lập đúng cách, nhật ký sẽ cung cấp một tài liệu vô giá về các phản hồi nội tâm trực tiếp. |
|
How to set up the diary |
Cách thiết lập nhật ký |
|
Select a hard-bound book with blank or lined pages (NOT a calendar diary). The diary must then be personalised and dedicated, stating the purpose for which it will be used. Excerpts from classical occult literature should be entered regularly, i.e., The Voice Of The Silence, by H. P. Blavatsky, Light On The Path, by Mabel Collins, At The Feet Of The Master, by Krishnamurti, or any other classical literature or poetry which elicits a response from within and attunes the disciple to the qualities of the higher Self. This helps to set the tone of reverence. |
Thường xuyên chép vào sổ những trích đoạn từ văn học huyền bí cổ điển, chẳng hạn Tiếng Nói của Im Lặng (The Voice Of The Silence) của Bà H. P. Blavatsky, Ánh Sáng Trên Đường Đạo (Light On The Path) của Mabel Collins, Dưới Chân Thầy (At The Feet Of The Master) của Krishnamurti, hoặc bất kỳ văn học cổ điển hay thơ ca nào khơi dậy sự phản hồi từ bên trong và điều chỉnh đệ tử với các phẩm chất của Chân ngã. Điều này giúp thiết lập tông màu trang trọng. |
|
As stated above, a persistent record should be made of dreams, meditational images, service work, revelations, etc. |
Như đã nêu trên, cần ghi chép một cách kiên trì về các giấc mơ, hình ảnh trong tham thiền, công việc phụng sự, sự mặc khải, v.v. |
|
The purpose of the diary |
Mục đích của nhật ký |
|
The spiritual diary is a record of one’s spiritual effort, struggles and achievements, and is concerned with matters which help implement the soul’s purpose. It serves as a valuable chronology of one’s progress along the path of discipleship. If maintained conscientiously, it will provide essential guidance in times of stress or great difficulties, demonstrating to the individual that the soul is ever on watch and guiding its personality vehicle. |
Nhật ký tâm linh là bản ghi lại nỗ lực, đấu tranh và thành tựu tâm linh của một người, liên quan đến những vấn đề hỗ trợ việc thực hiện mục đích của linh hồn. Nó đóng vai trò như một biên niên giá trị về tiến trình của một người trên con đường đệ tử. Nếu được duy trì một cách tận tâm, nhật ký sẽ cung cấp sự hướng dẫn thiết yếu trong những thời điểm căng thẳng hoặc khó khăn lớn, chứng minh cho cá nhân thấy rằng linh hồn luôn quan sát và dẫn dắt phàm ngã của y. |
|
The spiritual diary is a mechanism for bringing into full consciousness elements of the psyche. The diary lays down a channel for the transmission of advice and direction from the higher Self that can bring about a transformation of the personality, its attachments and limitations. It calls forth, in the most evocative manner, such soul-baring confessions of the neophyte as to provide a catalyst for the removal of those personality blocks which keep the Voice of the Silence from becoming an articulate and imminent consultant. It sets the tone and the pace for the personality expression until these become integrated into the nature and no longer need a spur. The philosophical way of life becomes a reality. It is a way that is undisturbed by the breezes of competitive living and the eddies and currents of insecurity and fear. |
Nhật ký tâm linh là một cơ chế để đưa các yếu tố của tâm lý vào ý thức trọn vẹn. Nó thiết lập một kênh truyền dẫn lời khuyên và chỉ dẫn từ Chân ngã, có thể mang lại sự chuyển hóa phàm ngã, cũng như các sự gắn bó và hạn chế của nó. Nhật ký khơi gợi, một cách sâu sắc nhất, những lời tự thú chân thật của người nhập môn, từ đó đóng vai trò như một chất xúc tác để loại bỏ các rào cản cá nhân khiến Tiếng Nói của Im Lặng không thể trở thành người tư vấn rõ ràng và thân cận. Nhật ký thiết lập tông màu và nhịp độ cho sự biểu hiện của phàm ngã cho đến khi những điều này trở thành bản chất tự nhiên và không còn cần sự thúc đẩy. Cách sống triết học trở thành một thực tại—một lối sống không bị xáo trộn bởi những làn gió cạnh tranh và những xoáy nước của bất an và sợ hãi. |
|
An effectively maintained spiritual diary leads the weary traveller to the fountains of his Being, brainwashes the personality to the dictates of its own soul—produces a conversion back to a Path from which the disciple has been straying from the moment of birth. The secret here is that a re-orientation to the Soul, rather than personality, is achieved. The inner springs are stimulated to release their content of high memories garnered from previous lives. A rapport is set up between these elements of the collective superconscious, the psyche and the permanent atoms of the lower triad, which in some establishes the foundations for genius. |
Một nhật ký tâm linh được duy trì hiệu quả sẽ dẫn người lữ khách mệt mỏi đến nguồn suối của Bản Thể, làm sạch phàm ngã theo các chỉ dẫn của chính linh hồn mình—tạo ra một sự chuyển hóa quay trở lại Con Đường mà đệ tử đã rời xa từ lúc chào đời. Bí mật ở đây là một sự tái định hướng đến Linh hồn thay vì phàm ngã. Các dòng suối nội tại được kích thích để giải phóng nội dung của những ký ức cao quý được tích lũy từ các kiếp sống trước. Một mối tương quan được thiết lập giữa các yếu tố của siêu thức tập thể, tâm lý và các nguyên tử trường tồn của Tam phân Phàm ngã, điều này ở một số người tạo nên nền tảng của thiên tài. |
|
Together these impulses give new impetus to the personality. In psychoanalysis, the individual is freed from the childhood psyche. In discipleship, he must be freed from the dweller on the threshold—the sum total of all the deposits of the personality experiences in this and earlier lives, which includes his personal share of the collective unconscious of humanity. The diary prepares the disciple for confrontation with the dweller, evokes pointers from the soul as to which elements of the dweller must be faced next. |
Những xung động này cùng nhau mang đến một động lực mới cho phàm ngã. Trong phân tâm học, cá nhân được giải phóng khỏi tâm lý thời thơ ấu. Trên con đường đệ tử, y phải được giải phóng khỏi Kẻ Chận Ngõ—tổng thể của tất cả các trầm tích từ những trải nghiệm phàm ngã trong kiếp này và các kiếp trước, bao gồm cả phần chia sẻ cá nhân của y trong vô thức tập thể của nhân loại. Nhật ký chuẩn bị đệ tử đối mặt với Kẻ Chận Ngõ, khơi gợi chỉ dẫn từ linh hồn về những yếu tố nào của Kẻ Chận Ngõ cần được đối mặt tiếp theo. |
|
The diary is meant to highlight those difficulties that arise from the adjustments which the disciple must make in the outer world if he is to live the philosophical and meditative way of life. When a question is posited in the diary, the higher Self can make suggestions through meditation and the dream life as to how these adjustments can be effected. |
Nhật ký có nhiệm vụ làm nổi bật những khó khăn phát sinh từ các điều chỉnh mà đệ tử phải thực hiện trong thế giới bên ngoài nếu y muốn sống một đời sống triết học và tham thiền. Khi một câu hỏi được đặt ra trong nhật ký, Chân ngã có thể đưa ra gợi ý thông qua tham thiền và đời sống giấc mơ về cách thực hiện các điều chỉnh này. |
|
The spiritual diary is not meant to help the disciple to escape pain, but rather to show that pain is related to the impermanence of matter. All relationships based on a form structure will pass away. Mystical experience is a joy in itself, but when it rewards the endeavours of a spiritually-oriented personality, it transcends all others because it adds MEANING to the life. Many disciples say they can put up with suffering so long as there is a meaning to it. The diary coordinates the world of action with the world of causes, thus providing insight into the factor of karma. |
Nhật ký tâm linh không nhằm giúp đệ tử trốn tránh đau khổ, mà là để chỉ ra rằng đau khổ liên quan đến tính chất vô thường của vật chất. Tất cả các mối quan hệ dựa trên cấu trúc hình tướng đều sẽ qua đi. Trải nghiệm huyền bí tự nó là một niềm vui, nhưng khi nó là phần thưởng cho những nỗ lực của một phàm ngã hướng về tinh thần, nó vượt trội hơn tất cả những trải nghiệm khác vì nó mang lại Ý NGHĨA cho cuộc sống. Nhiều đệ tử nói rằng họ có thể chịu đựng được đau khổ miễn là có ý nghĩa trong đó. Nhật ký phối hợp thế giới hành động với thế giới nguyên nhân, qua đó mang lại sự thấu hiểu về yếu tố nghiệp quả. |
|
The spiritual diary must be poised ever ready to analyse, assess and evaluate every motive. The search for the signposts of real, spiritual growth is fostered by the diarist who must ever be sincere to himself. Writing untruths in one’s spiritual diary is like cheating at patience. |
Nhật ký tâm linh luôn phải sẵn sàng để phân tích, đánh giá và thẩm định mọi động cơ. Việc tìm kiếm các dấu hiệu của sự phát triển tâm linh thực sự được thúc đẩy bởi người ghi nhật ký, người luôn phải chân thành với chính mình. Viết những điều không đúng sự thật trong nhật ký tâm linh chẳng khác gì tự lừa dối bản thân khi chơi trò patience. |
|
The spiritual diary should be a record of your attempts to lead the meditative way of life, the principles of which are outlined in the next chapter, extracted from the teachings of a famous Yogi. |
Nhật ký tâm linh nên là một bản ghi chép lại những nỗ lực của bạn để sống một đời sống tham thiền, với các nguyên tắc được nêu trong chương tiếp theo, trích từ các giáo lý của một Yogi nổi tiếng. |
CHAPTER 8
Yoga by Vishwanath Keskar— Yoga viết bởi Vishwanath Keskar
|
Yoga is a Science and a Philosophy. As a Science, it deals with physiology of the human body and psychology of the mind. As a Philosophy, it leads man out, from the fetters of body and mind, into his own field of Spiritual Intuition. |
Yoga là một Khoa học và một Triết lý. Là một Khoa học, nó nghiên cứu về sinh lý học của cơ thể con người và tâm lý học của tâm trí. Là một Triết lý, nó dẫn dắt con người thoát khỏi xiềng xích của thân và tâm, tiến vào lĩnh vực trực giác tinh thần của chính mình. |
|
The root Yuj in the word Yoga gives three meanings: Samadhi, self-control and union. These clearly indicate the three aspects of the problem. Samadhi stands for Hatha Yoga, of which it is the culmination. Self-control is the immediate object and means of Yoga, of which Union is the goal. |
Từ gốc Yuj của từ Yoga mang ba ý nghĩa: Samadhi, tự kiểm soát và hợp nhất. Những ý nghĩa này chỉ rõ ba khía cạnh của vấn đề. Samadhi biểu trưng cho Hatha Yoga, đỉnh cao của nó. Tự kiểm soát là mục tiêu tức thời và phương tiện của Yoga, trong khi Hợp nhất là mục tiêu cuối cùng. |
|
The greatest authority on Yoga is the Bhagavad Gita; next in importance stand the Yoga Sutras of Patanjali and Yoga Vashistha. This important subject forms the main topic of three or four of the Upanishads. A long line of real Yogis has kept up the glory of this ancient system of physical, mental and spiritual culture for the benefit of all humanity. |
Tác phẩm uy tín nhất về Yoga là Bhagavad Gita; tiếp theo về tầm quan trọng là Yoga Sutras của Patanjali và Yoga Vashistha. Chủ đề quan trọng này cũng là trọng tâm của ba hoặc bốn cuốn Upanishads. Một dòng dài các nhà Yogi thực sự đã duy trì vinh quang của hệ thống cổ xưa này, một nền văn hóa thể chất, trí tuệ và tinh thần vì lợi ích của toàn nhân loại. |
|
The term is applied to many ways and means of Realisation. But only four of them are conspicuous: Hatha Yoga, Raja Yoga, Karma Yoga and Bhakti Yoga. Again, it stands for the means of Attainment as well as for branches. Thus there have arisen Dhyana Yoga, Mantra Yoga and Laya Yoga. |
Thuật ngữ Yoga được áp dụng cho nhiều con đường và phương pháp Nhận thức. Tuy nhiên, chỉ có bốn nhánh nổi bật: Hatha Yoga, Raja Yoga, Karma Yoga và Bhakti Yoga. Ngoài ra, Yoga còn đại diện cho các phương tiện Thành Tựu cũng như các nhánh. Do đó, xuất hiện thêm Dhyana Yoga, Mantra Yoga và Laya Yoga. |
|
Yoga without any prefix or suffix always means Raja Yoga, that is, Dhyana. The Bhagavad Gita refers to this as the Royal Road to Realisation, and gives it other names which are significant. Those names are Raja Vidya or Divine Wisdom, and Raja Guhya or the Great Secret. |
Yoga không có tiền tố hoặc hậu tố luôn có nghĩa là Raja Yoga, tức là Dhyana. Bhagavad Gita đề cập đến điều này như “Con Đường Hoàng Gia đi đến Nhận Thức” và đặt cho nó các tên gọi ý nghĩa khác như Raja Vidya hoặc Minh Triết Thiêng Liêng, và Raja Guhya hoặc Bí Mật Lớn Lao. |
|
Take man as he is today and analyse his being; you will find two great divisions—physical and superphysical. The superphysical again is divided into higher and lower—Soul, or Atman, and mind. So mind, or Chittam, is the link between the higher and lower parts of man’s being. |
Hãy xem xét con người hiện tại và phân tích sự tồn tại của họ; bạn sẽ thấy hai phân khu lớn—vật lý và siêu vật lý. Phần siêu vật lý lại chia thành cao hơn và thấp hơn—Linh hồn hoặc Atman, và tâm trí. Như vậy, tâm trí hoặc Chittam là cầu nối giữa các phần cao hơn và thấp hơn của con người. |
|
Take the world as it is today and analyse it; you will find life, force and matter. Matter is dead (Jad) and cannot move of itself. It is called Prakriti. A system of Yoga is based upon the principles of Samkhya, which regards Purusha, or Soul, as the enjoyer of good and evil, and Prakriti as the chain of cause and effect supplying materials for his enjoyment. |
Phân tích thế giới hiện tại, bạn sẽ thấy sự sống, mãnh lực và vật chất. Vật chất là chết (Jad) và không thể tự di chuyển. Nó được gọi là Prakriti. Một hệ thống Yoga được xây dựng trên các nguyên lý của Samkhya, xem Purusha hoặc Linh hồn là người hưởng thụ điều tốt và điều xấu, còn Prakriti là chuỗi nguyên nhân và kết quả cung cấp chất liệu cho sự hưởng thụ của Purusha. |
|
There is a Plan in the Universe, and each little part thereof, whether Chittam or Prakritic matter, follows the Law of Evolution, a universal law that regulates the growth of form and consciousness. Modern Science takes note of the evolution of form and carries on its work of research in that field. Yoga teaches that Purusha, the Soul, does not fall under these laws, but inspires Prakriti with a power to fulfil its work according to law. This Law of Evolution is the result of the First Impulse or Will of the Cosmic Mind, Paramatman. His Will is Law, which is inexorable, but intelligent. |
Có một Kế Hoạch trong Vũ Trụ, và mỗi phần nhỏ bé trong đó, dù là Chittam hay vật chất Prakriti, đều tuân theo Luật Tiến Hóa, một luật phổ quát điều chỉnh sự phát triển của hình tướng và tâm thức. Khoa học hiện đại ghi nhận sự tiến hóa của hình tướng và tiếp tục công trình nghiên cứu trong lĩnh vực đó. Yoga dạy rằng Purusha, Linh hồn, không nằm dưới các luật này, mà truyền cảm hứng cho Prakriti thực hiện công việc của mình theo định luật. Luật Tiến Hóa này là kết quả của Xung Lực Đầu Tiên hoặc Ý Chí của Vũ Trụ Trí, Paramatman. Ý Chí của Ngài là Luật, không thể cưỡng lại nhưng thông minh. |
|
Purusha, the Soul, is motiveless, actionless, perfect, all-wise and blissful. He needs no help and admits no change. But the Purushas in bodies of Prakriti, possessing Samskaras, or results of past incarnations, seem to be bound by their own desires. Nature, or Prakriti, is all-powerful to produce a Universe after it is inspired by the Will of Parameshvar, the Cosmic Soul. Ishvara is the direct Inspirer of the world-system to which we belong. Jiva is a unit of consciousness enveloped in a sheath or a number of sheaths. Paramatman pervades all space and time. He is beyond all limitations, but wills freely to become limited. Only then Creation begins. |
Purusha, Linh hồn, không có động cơ, không hành động, hoàn hảo, toàn trí và hoan hỷ. Ngài không cần sự trợ giúp và không thừa nhận thay đổi. Tuy nhiên, các Purusha trong thân xác của Prakriti, mang theo Samskara, hay kết quả của những kiếp sống trước, dường như bị ràng buộc bởi những khao khát của chính mình. Tự nhiên, hay Prakriti, có sức mạnh vô biên để tạo ra một Vũ trụ sau khi được Thánh Ý của Parameshvar, Linh Hồn Vũ trụ, truyền cảm hứng. Ishvara là Người Truyền Cảm Hứng trực tiếp cho hệ thống thế giới mà chúng ta thuộc về. Jiva là một đơn vị tâm thức được bao bọc trong một lớp vỏ hay một số lớp vỏ. Paramatman thâm nhập vào tất cả không gian và thời gian. Ngài vượt lên trên tất cả giới hạn, nhưng tự do mong muốn trở nên giới hạn. Chỉ khi đó, Sáng tạo mới bắt đầu. |
|
Different schools of thought look at the scheme from different angles and start from different points. Hence there is some truth in every system of Science and Philosophy, but no system contains the whole of Truth. This will be against the spirit of the Law of Evolution that reveals the Will of Parameshvar bit by bit. The evolution of form and consciousness is a very slow but intelligent operation. Till the human stage is reached, Consciousness has no will to recognise the Law and hasten natural progress. With man the qualities of Divine Spirit become operative and he can use his will and intuition to hasten his own individual progress. This can be done with benefit to himself without penalty for disobedience. This is the special purpose of Yoga. It is this knowledge of the working of inner and outer evolution that differentiates Yoga from other Sciences and Philosophies. |
Các trường phái tư tưởng khác nhau nhìn vào kế hoạch này từ những góc độ khác nhau và bắt đầu từ những điểm khác nhau. Do đó, mỗi hệ thống Khoa học và Triết học đều có một phần sự thật, nhưng không hệ thống nào chứa toàn bộ Sự Thật. Điều này đi ngược lại tinh thần của Luật Tiến Hóa, luật hé lộ Ý Chí của Parameshvar từng chút một. Sự tiến hóa của hình tướng và tâm thức là một quá trình rất chậm nhưng thông minh. Cho đến khi đạt đến giai đoạn con người, Tâm thức không có ý chí để nhận thức Luật và thúc đẩy tiến trình tự nhiên. Với con người, các phẩm chất của Tinh Thần Thiêng Liêng trở nên hoạt động và con người có thể sử dụng ý chí và trực giác của mình để đẩy nhanh tiến trình cá nhân. Điều này có thể được thực hiện vì lợi ích của chính mình mà không phải chịu hình phạt vì sự bất tuân. Đây là mục đích đặc biệt của Yoga. Chính kiến thức về sự vận hành của tiến hóa bên trong và bên ngoài là điều phân biệt Yoga với các Khoa học và Triết học khác. |
|
The foundations of Yoga are laid in the solid physical structure of the earthly body. The edifice represents the flexible construction of the mind with its world of ideas and desires. It is connected with the body through the nervous system, the stem of which—Merudanda or spine—starts from the lowest end, or the root Muladhara, and reaches the highest point in the brain—Sahasrara, the thousand-petalled Crown. Thus is man a child of the Earth at the lower end and a child of God at the higher. This process implies necessary knowledge, and application of that knowledge in a systematic way, for Fulfilment. |
Nền tảng của Yoga được đặt trên cấu trúc vật lý vững chắc của cơ thể trần gian. Công trình kiến trúc này đại diện cho sự xây dựng linh hoạt của tâm trí với thế giới các ý tưởng và dục vọng. Nó kết nối với cơ thể thông qua hệ thần kinh, thân của hệ này—Merudanda hoặc cột sống—bắt đầu từ đầu thấp nhất, hoặc gốc Muladhara, và đạt đến điểm cao nhất trong não—Sahasrara, đỉnh hoa sen nghìn cánh. Do đó, con người là một đứa con của Đất ở đầu thấp và một đứa con của Thượng Đế ở đầu cao. Quá trình này bao hàm kiến thức cần thiết và sự áp dụng kiến thức đó một cách hệ thống để đạt được Sự Viên Mãn. |
|
Man’s body is a miracle. The different systems that make it an organic whole show an extremely beautiful arrangement of parts and great skill in operation. There is a plan and a purpose behind this physical frame. The most important and complicated of them all is the central nervous system with its stem and innumerable branches spread out in all directions. This gives it an appearance of a tree. The flowers that bloom on this Tree of Life are the Chakrams, or plexuses. The knots at various places are the ductless glands. The fruit grows on the topmost part of the tree. It is both fruit and flower showering immortality and spreading fragrance of bliss all round. Flower and fruit are not visible to the physical sight. Only the bare tree with its branches and branchlets is to be seen. To reach and use those glorious parts, definite steps have to be taken. This forms the practical part of Yoga as an Occult Science. |
Cơ thể con người là một kỳ quan. Các hệ thống khác nhau tạo nên một tổng thể hữu cơ cho thấy một sự sắp xếp các phần cực kỳ đẹp mắt và kỹ năng vận hành tuyệt vời. Có một kế hoạch và mục đích đằng sau cấu trúc thể chất này. Quan trọng và phức tạp nhất trong tất cả là hệ thần kinh trung ương với thân và vô số nhánh lan rộng ra mọi hướng. Điều này mang lại cho nó một dáng vẻ của một cái cây. Những bông hoa nở trên Cây Sự Sống này là các Chakram (luân xa), hoặc các đám rối thần kinh. Các nút tại những nơi khác nhau là các tuyến nội tiết. Trái mọc trên phần cao nhất của cây. Nó vừa là quả vừa là hoa, mang đến sự bất tử và lan tỏa hương thơm của hạnh phúc xung quanh. Hoa và quả này không thể nhìn thấy bằng mắt thường. Chỉ có cái cây trần trụi với các nhánh và nhánh con là có thể được thấy. Để đạt đến và sử dụng những phần tuyệt vời đó, cần phải thực hiện các bước nhất định. Đây chính là phần thực hành của Yoga như một Khoa học Huyền Bí. |
|
Bhagvan Maha Vishnu is the originator of Raja Yoga, or Yoga proper. Bhagvan Shankar is the father of Hatha Yoga and of the Tantra. Lord Krishna gives to Arjuna a history of the great secret in the Bhagavad Gita. It was first revealed to the Sun (Viuasuana) who passed it on to his son Manu (Vaioasoata), Manu to his son Ikshvaku. Thus it passed from one Holy King to another until it reached all worthy recipients of that Divine Wisdom. In course of time the glorious science and philosophy disappeared. Lord Krishna once more revived it for the sake of Arjuna, and through him for all humanity. |
Bhagvan Maha Vishnu là nguồn gốc của Raja Yoga, hay Yoga chính thức. Bhagvan Shankar là cha đẻ của Hatha Yoga và Tantra. Đức Krishna đã trao cho Arjuna lịch sử của bí mật vĩ đại trong Bhagavad Gita. Bí mật này lần đầu được tiết lộ cho Mặt Trời (Vivasvan), sau đó được truyền lại cho con trai của ngài là Manu (Vaivasvata), rồi Manu truyền lại cho con trai ngài là Ikshvaku. Cứ thế, nó được truyền từ một vị Vua Thánh Thiện này đến một vị khác cho đến khi đến tay những người xứng đáng nhận Minh Triết Thiêng Liêng này. Qua thời gian, khoa học và triết học vinh quang này biến mất. Đức Krishna một lần nữa hồi sinh nó vì lợi ích của Arjuna và thông qua Arjuna, dành cho toàn thể nhân loại. |
|
Lord Shankara revealed the secret of the Tantra, Occult Science, to His Divine Consort Parvati. She represents the Shakti or Power aspect of Ishvara. Ishvara or God is Himself without name and form. Therefore He is the silent witness to all activities and changes brought about through His Power or Will —Maya Shakti. |
Đức Shankara tiết lộ bí mật của Tantra, Khoa học Huyền bí, cho Phu nhân Thiêng liêng Parvati của Ngài. Parvati đại diện cho Shakti hay khía cạnh Năng Lượng của Ishvara. Ishvara, hay Thượng Đế, tự thân không có tên gọi và hình tướng. Vì vậy, Ngài là nhân chứng thầm lặng cho mọi hoạt động và sự thay đổi được tạo ra thông qua Năng Lượng hay Ý Chí của Ngài—Maya Shakti. |
|
The Tantra is the occult Yoga which deals primarily with the cosmic energy, or Maha Kundali, represented in the human body by the Kundalini, or Serpent Power. This power lies coiled like a sleeping serpent at the root of the spine and is known as Shakti. The object of the Tantra Shastra is to rouse the sleeping Kundalini and to force it to pass through the six Chakrams (subtle centres) in the middle of the spine until it unites with the Lord of that Power, Shiva. This is the holy marriage in the language of the Secret Science, with the result that the separated Ego attains Immortality. This process goes by the special name of Kundalmi Yoga. |
Tantra là Yoga huyền bí, chủ yếu xử lý năng lượng vũ trụ, hay Maha Kundalini, được biểu thị trong cơ thể con người bằng Kundalini, hay Năng Lượng Rắn. Năng lượng này nằm cuộn lại như một con rắn đang ngủ ở gốc cột sống và được gọi là Shakti. Mục tiêu của Tantra Shastra là đánh thức Kundalini đang ngủ và buộc nó đi qua sáu Chakram (các trung tâm vi tế) ở giữa cột sống cho đến khi nó hợp nhất với Chúa tể của năng lượng đó, Shiva. Đây là “cuộc hôn nhân thiêng liêng” trong ngôn ngữ của Khoa học Bí mật, kết quả là bản ngã tách biệt đạt được sự Bất Tử. Quá trình này được gọi bằng một tên đặc biệt là Kundalini Yoga. |
|
Hatha Yoga adopts the same method, but takes some preparatory steps to get body and mind under control. For this purpose special exercises of Asanas, or physical poses, and of Pranayama, or rhythmic breathing, are mentioned as necessary. Occult powers, or Siddhis, begin to appear with the purification and vitalisation of the solar plexus, or Manipur Chakram. These Siddhis are of two grades—higher and lower. The lower powers are a great danger and handicap on the path of Spiritual Illumination, or Samadhi. The higher powers are also a handicap if they are invited. When they come as the result of inner purity and development of higher consciousness, they are an aid. With some people they are gifts from the past, for they are born with them. With others they appear as the result of special practices undergone under the guidance of Siddhas, Masters of Occult Science. Yogis and Siddhas are two classes of Adepts; the Siddhas are specialists in Kundalini Yoga and consequently in possession of occult powers; the Yogis are specialists in Pranayama and mind control, and possess some of the occult powers—but they have not worked for them. |
Hatha Yoga áp dụng cùng phương pháp, nhưng có thêm các bước chuẩn bị để kiểm soát thân và tâm. Vì mục đích này, các bài tập đặc biệt về Asana, hoặc tư thế thể chất, và Pranayama, hoặc hơi thở nhịp nhàng, được coi là cần thiết. Các năng lực huyền bí, hay Siddhi, bắt đầu xuất hiện khi luân xa tùng thái dương, hay Manipura Chakram, được thanh lọc và tăng cường sinh lực. Các Siddhi này có hai cấp độ—cao và thấp. Những năng lực thấp hơn là mối nguy hiểm lớn và là trở ngại trên con đường Soi Sáng Tâm Linh, hay Samadhi. Những năng lực cao hơn cũng là trở ngại nếu chúng được mời gọi. Khi chúng đến như kết quả của sự thanh tịnh nội tâm và phát triển tâm thức cao hơn, chúng là sự trợ giúp. Ở một số người, chúng là món quà từ quá khứ, vì họ được sinh ra với chúng. Ở những người khác, chúng xuất hiện như kết quả của các thực hành đặc biệt được tiến hành dưới sự hướng dẫn của Siddha, các Bậc Thầy về Khoa học Huyền bí. Yogis và Siddhas là hai loại Thầy; Siddhas là chuyên gia về Kundalini Yoga và do đó sở hữu năng lực huyền bí; Yogis là chuyên gia về Pranayama và kiểm soát tâm trí, và cũng sở hữu một số năng lực huyền bí—nhưng họ không luyện tập để có được chúng. |
|
These two systems of Yoga have fallen into disrepute owing to the misunderstanding of the central principle and the misuse of powers. Otherwise, they represent some of the most glorious achievements of the Aryan Hindus in physical and practical sciences. They reveal the most intimate knowledge of, and practical use in, the higher development of the different systems of the human body. They indicate the heights to which the Aryan mind has risen, and therefore can ever rise in the matter of exploring the hidden fields of Physical Nature. |
Hai hệ thống Yoga này đã bị mang tiếng xấu do sự hiểu sai nguyên lý cốt lõi và việc lạm dụng các năng lực. Tuy nhiên, chúng đại diện cho một số thành tựu vinh quang nhất của người Aryan Hindu trong các khoa học thể chất và thực hành. Chúng tiết lộ kiến thức thâm sâu và cách ứng dụng thực tiễn trong việc phát triển cao hơn của các hệ thống khác nhau trong cơ thể con người. Chúng cho thấy những đỉnh cao mà trí tuệ Aryan đã đạt được và do đó có thể đạt được trong việc khám phá các lĩnh vực ẩn giấu của Thiên nhiên Vật lý. |
|
‘As above, so below’, is a maxim of Greek philosophy echoed from Indian philosophy. Pinda, or the microcosm, is an exact miniature counterpart of Brahmanda, or the macrocosm, in every respect. Mastery over the mind and through it over the brain and the nervous system, taps the source of all powers in the universe. There is nothing in the universe outside that is not in the body of man. What is not here in the Kshetra, or body, is nowhere. This is the dynamics underlying the Law of Evolution of Form. It is this subtle quality in the make-up of the physical form that makes it possible for a Yogi to control and regulate his vehicle to suit his purpose of quicker progress. |
“Cái ở trên cũng như cái ở dưới” là một châm ngôn của triết học Hy Lạp được vang vọng từ triết học Ấn Độ. Pinda, hay tiểu vũ trụ, là một bản sao thu nhỏ chính xác của Brahmanda, hay đại vũ trụ, trên mọi phương diện. Làm chủ tâm trí và thông qua đó làm chủ não và hệ thần kinh khai thác nguồn cội của mọi năng lực trong vũ trụ. Không có gì trong vũ trụ bên ngoài mà không nằm trong cơ thể con người. Cái không có ở đây trong Kshetra, hay cơ thể, thì không tồn tại ở đâu cả. Đây là động lực cơ bản của Luật Tiến Hóa Hình Tướng. Chính phẩm chất vi tế này trong cấu tạo của hình tướng vật lý cho phép một Yogi kiểm soát và điều chỉnh phương tiện của mình để phù hợp với mục đích tiến bộ nhanh hơn. |
|
A Yogi of higher grade turns his attention mainly to the mind. Chittam, or mind, is also a vehicle, but of a superior grade and the only instrument man can use for higher evolution. The important principles of psychology are ever present before the eye of the Yogi—attention and selection. He begins with analysing his mind’s contents and finds out which elements of thought are injurious to his progress. He tries to fix his mind on the changeless Reality, Atman, and to accomplish this, he discriminates between Self and not-Self. He does not want things in the physical as well as in the mental world that do not belong to him as the Self. So many unwelcome visitors have made their permanent abode in the human mind that it becomes an almost impossible task to drive them out. These are ideas, thoughts, feelings, emotions, desires and impulses that depend upon external objects for their fulfilment. |
Một Yogi cấp cao hơn tập trung sự chú ý chủ yếu vào tâm trí. Chittam, hay tâm trí, cũng là một phương tiện, nhưng thuộc cấp độ cao hơn và là công cụ duy nhất con người có thể sử dụng để tiến hóa cao hơn. Các nguyên lý quan trọng của tâm lý học luôn hiện diện trước mắt Yogi—sự chú ý và sự chọn lọc. Y bắt đầu bằng cách phân tích nội dung tâm trí của mình và tìm ra những yếu tố tư tưởng nào gây hại cho sự tiến bộ của y. Y cố gắng tập trung tâm trí vào Thực Tại bất biến, Atman, và để đạt được điều này, y phân biệt giữa Bản Ngã và Phi Bản Ngã. Y không muốn những thứ trong thế giới vật lý cũng như tâm lý không thuộc về y như là Bản Ngã. Có quá nhiều “vị khách không mong muốn” đã làm tổ trong tâm trí con người đến mức việc trục xuất chúng trở thành nhiệm vụ gần như bất khả thi. Chúng là các ý tưởng, tư tưởng, cảm xúc, dục vọng và xung lực phụ thuộc vào các đối tượng bên ngoài để được hoàn thành. |
|
Yoga supplies the remedy. It is to stop the waste of mental energy which is the source of all energies in life. Mind is the key to the solution of all problems in human life. Shri Krishna, in answer to the question of Arjuna, declares the secret in two words, Abhyas and Vairagya—steady practice and non-attachment to objects of senses. The Yoga Sutras declare it in almost identical terms but use a scientific phrase, Chitta Vritti Nirodha—sublimation or suppression of the distracting waves of the mind. The mind has to be emptied of all ideas and emotions, and to be filled with one single thought of the Self. All thoughts and desires of the not-Self are necessarily unpleasant as they deprive man of the highest delight or Bliss of Atman. They are sometimes pleasant insofar as they remove the pain or sorrow of non-enjoyment for a time. But they corrupt the mind with false ideas of happiness and thus degrade it. |
Yoga cung cấp phương pháp giải quyết vấn đề: ngăn chặn sự lãng phí năng lượng tinh thần, vốn là nguồn gốc của mọi năng lượng trong cuộc sống. Tâm trí chính là chìa khóa để giải quyết tất cả các vấn đề trong đời sống con người. Đức Krishna, khi trả lời câu hỏi của Arjuna, đã tiết lộ bí mật trong hai từ: Abhyas và Vairagya—sự thực hành kiên định và sự không bám chấp vào các đối tượng của giác quan. Yoga Sutras cũng tuyên bố điều này với những thuật ngữ gần như tương tự, nhưng dùng một cụm từ khoa học: Chitta Vritti Nirodha—sự chế ngự hoặc sự thanh lọc các làn sóng nhiễu loạn của tâm trí. Tâm trí cần được làm trống khỏi mọi ý tưởng và cảm xúc, và chỉ chứa đựng một ý tưởng duy nhất về Bản Ngã. Mọi ý tưởng và dục vọng liên quan đến Phi Bản Ngã đều không mang lại niềm vui vì chúng tước đi niềm hoan lạc cao nhất—Ananda, hay hạnh phúc của Atman. Đôi khi, chúng có vẻ dễ chịu vì tạm thời làm giảm bớt nỗi đau hay buồn khổ do không được thỏa mãn. Tuy nhiên, chúng làm tha hóa tâm trí bằng những ảo tưởng về hạnh phúc và do đó làm suy thoái nó. |
|
The subconscious mind is the storehouse or collection of past accumulations, from which a part is taken for fruition in this life. The subjective mind receives this and passes it on to the concrete brain for use. In the state of waking-consciousness, mind and organs of sense are equally operative, and through their outward-going tendencies man is thrown out from his real spiritual centre. During the day he is identified with the body and its activities. This brings strong attachment to them. He begins to forget his real nature or Divinity. During dream-consciousness, the body is at rest, and the mind is free to roam about and create its own world of delusion. This feeds it with new fuel with the result that man takes the transitory not-Self for the Reality or Self and wanders away far from home. It is during sound sleep that mind—the mischief-monger—rests also, and allows the Jivatman a faint glimpse of the Supreme. |
Tâm trí tiềm thức là kho lưu trữ hoặc bộ sưu tập các tích lũy từ quá khứ, từ đó một phần được chọn ra để trải nghiệm trong đời sống hiện tại. Tâm trí chủ quan nhận điều này và truyền nó đến bộ não cụ thể để sử dụng. Trong trạng thái ý thức tỉnh táo, tâm trí và các giác quan đều hoạt động, và với xu hướng hướng ngoại, con người bị đẩy ra khỏi trung tâm tâm linh thực sự của mình. Suốt cả ngày, con người đồng nhất với thân thể và các hoạt động của nó, dẫn đến sự gắn bó mạnh mẽ. Y bắt đầu quên đi bản chất thực sự của mình—Thần Tính. Trong trạng thái ý thức mộng mị, thân thể được nghỉ ngơi và tâm trí tự do lang thang, tạo ra thế giới ảo tưởng của riêng nó. Điều này tiếp thêm nhiên liệu mới, khiến con người xem cái vô thường của Phi Bản Ngã là Thực Tại, hay Bản Ngã, và lạc xa khỏi “nhà”. Chỉ trong giấc ngủ sâu, tâm trí—kẻ gây rối—cũng nghỉ ngơi, cho phép Jivatman thoáng nhìn thấy Tối Thượng. |
|
But this does not help any way as the mind-stuff is full of Tamas, or dullness, and Rajas, or restless activity, though suppressed temporarily. It is only when the mind is cleared of these two destructive qualities and filled with Sattva, or rhythm, that the Jiva finds purity and peace. |
Tuy nhiên, điều này không giúp ích gì vì chitta (tâm trí) đầy Tamas (trì trệ) và Rajas (hành động không ngừng), dù tạm thời bị áp chế. Chỉ khi tâm trí được làm sạch khỏi hai phẩm chất phá hủy này và tràn đầy Sattva (nhịp điệu), Jiva mới tìm thấy sự thuần khiết và bình an. |
|
‘As a man thinketh, so he becometh’, is a law of spiritual psychology. It is fully recognised in Yoga and is fully used. Undulating waves of thought, of Samkalpa and Vikalpa—thoughts for and against a thing—disturb the original tranquility of the mind. Thus it is necessary to focus it on the highest ideal. This has to be regularly practised before the mind gets accustomed to behave in its real nature, which is to reflect the Atman. |
“Người nghĩ gì, người trở thành điều đó” là một quy luật của tâm lý học tâm linh. Quy luật này được Yoga thừa nhận đầy đủ và áp dụng triệt để. Những làn sóng suy nghĩ, Samkalpa và Vikalpa—những tư tưởng ủng hộ và phản đối một điều gì đó—làm rối loạn sự tĩnh lặng nguyên thủy của tâm trí. Do đó, cần tập trung tâm trí vào lý tưởng cao nhất. Điều này cần được thực hành đều đặn để tâm trí quen với việc hành xử theo bản chất thực của nó, vốn là phản chiếu Atman. |
|
The chief peculiarity about the mind-principle is that it takes on the colour of the idea or object placed before it. By continued practice the fleeting mind becomes transformed into Spiritual Intuition. This is the dynamics of thought. Man becomes a thinker from being a user of brain as he normally is. When desires and ideas are eliminated, the purified mind vanishes, and man sees his own Self. This is the object of Dhyana. With constant practice, Dhyana develops into Samadhi, Spiritual Illumination. Man is now his own Self, or Atman, fully conscious of his Divinity and no other. The sheaths have lost their weight and hang no more on him as drags. The Light of the Spirit filters through the vehicles from higher into lower until it reaches the physical body and spreads out as a shining envelope. The union of Jivatman and Paramatman in the secret chamber of the head results in the birth of Ananda, Radiance of Bliss, that opens through the back door and forms a flag of victory with a halo. Man is now a Master of his own nature and of Nature outside, and marches forth, heralded by Powers, to the throne placed in the centre of the seventh Chakram. Wisdom has brought depth and humility. Power has made him gentle and kind. Bliss has crowned him with peace and unfailing consciousness of Love. |
Đặc điểm nổi bật nhất của nguyên lý tâm trí là nó tiếp nhận màu sắc của ý tưởng hay đối tượng được đặt trước nó. Với sự thực hành liên tục, tâm trí phù du biến thành Trực giác Tâm linh. Đây là động lực của tư tưởng. Con người từ chỗ chỉ biết sử dụng não bộ đã trở thành một nhà tư tưởng. Khi các dục vọng và ý tưởng bị loại bỏ, tâm trí được thanh lọc sẽ tan biến, và con người nhận ra chính Bản Ngã của mình. Đây là mục tiêu của Dhyana. Với sự thực hành liên tục, Dhyana phát triển thành Samadhi, sự Soi Sáng Tâm Linh. Lúc này, con người là chính Bản Ngã của mình, hay Atman, hoàn toàn ý thức về Thần Tính của mình và không gì khác. Các lớp vỏ (sheaths) đã mất đi sức nặng và không còn là gánh nặng. Ánh sáng của Tinh Thần lan tỏa qua các phương tiện từ cao xuống thấp, đến thể xác và lan rộng như một lớp hào quang sáng chói. Sự hợp nhất của Jivatman và Paramatman trong căn phòng bí mật của đầu dẫn đến sự ra đời của Ananda, sự Rạng Ngời của Hoan Lạc, mở ra qua cửa sau và trở thành lá cờ chiến thắng với một vầng hào quang. Con người giờ đây làm chủ bản chất của chính mình và của Tự Nhiên bên ngoài, tiến bước đến ngai vàng đặt ở trung tâm của Chakram thứ bảy. Minh triết mang lại chiều sâu và sự khiêm tốn. Quyền năng làm y trở nên dịu dàng và từ bi. Hoan lạc tôn y lên với bình an và ý thức tình thương bất diệt. |
|
The Karana Sharira, or causal body, has burnt its seed of desire to live. The Sukshma Sharira, or subtle body, and Sthula Sharira, or gross body, may keep him on the earth plane or they may have disappeared. This does not make any difference to the man who has begun to shine in his own light. The jivanmukta, or Liberated Man, and the Videhamukta, or Liberated Man on higher planes, are equally free. It is the purity and power of Consciousness that matter and not the presence or absence of the physical vehicle. |
Karana Sharira (thể nhân quả) đã đốt cháy hạt giống của dục vọng sống. Sukshma Sharira (thể vi tế) và Sthula Sharira (thể thô trược) có thể giữ y trên cõi trần hoặc đã biến mất. Điều này không tạo ra sự khác biệt nào đối với người đã bắt đầu tỏa sáng trong chính ánh sáng của mình. Người jivanmukta (giải thoát trên cõi trần) và videhamukta (giải thoát trên các cõi cao hơn) đều tự do như nhau. Điều quan trọng là sự thuần khiết và sức mạnh của Tâm Thức, chứ không phải sự hiện diện hay vắng mặt của thể xác. |
|
Seven stages of Realization and eight steps of Yoga are two names indicating the same method with slight differences. This clearly brings out the identity between Dhyana Yoga and Raja Yoga. The history of the science and philosophy of Yoga amply illustrates the truth that real Yogis were Wise Seers, and there has been no Prophet, Master or Teacher who did not know the principles of Yoga. |
Bảy giai đoạn của Nhận Thức và tám bước của Yoga là hai tên gọi chỉ cùng một phương pháp với những khác biệt nhỏ. Điều này cho thấy sự đồng nhất giữa Dhyana Yoga và Raja Yoga. Lịch sử của khoa học và triết lý Yoga minh họa rõ ràng sự thật rằng các Yogi thực sự là những Bậc Minh Triết, và không có Tiên Tri, Chân Sư hay Giáo Thầy nào mà không hiểu rõ các nguyên lý của Yoga. |
|
Lord Krishna is known as Yogeshvar, the Lord of Yoga, and Lord Shiva as Yogeeshvar, the Father of Yoga and the Yogis. Lord Datta is the Great Teacher of Yoga and founder of the school of Nathas, or Adepts in Yoga. Lord Buddha specialised in Dhyana Yoga and found Illumination. He had a special leaning toward Padmasana, the lotus-pose, in which you find him portrayed in pictures. He developed his own philosophy of Meditation. Avalokiteshvar, Buddha and Nagarjuna kept alive and spread yogic lore in the Northern System of Buddhism. Tibet has preserved that science up till now, with the Tantric side of Yoga which helps the development of egoic consciousness after death, if proper care is taken to instruct the Ego before leaving the body. |
Đức Krishna được biết đến là Yogeshvar, Chúa Tể của Yoga, và Đức Shiva là Yogeeshvar, Cha của Yoga và các Yogi. Đức Datta là Đại Huấn Sư của Yoga và người sáng lập trường phái Nathas hay các Chân Sư Yoga. Đức Phật chuyên về Dhyana Yoga và đạt được sự Soi Sáng. Ngài có xu hướng đặc biệt về Padmasana (tư thế hoa sen), hình ảnh quen thuộc của Ngài trong các bức họa. Ngài phát triển triết lý tham thiền của riêng mình. Avalokiteshvar, Đức Phật và Nagarjuna đã giữ gìn và truyền bá tri thức Yoga trong Hệ thống Phật giáo Bắc tông. Tây Tạng đã lưu giữ khoa học này cho đến nay, với khía cạnh Tantra của Yoga giúp phát triển tâm thức bản ngã sau khi chết, nếu có sự chỉ dẫn đúng cách cho bản ngã trước khi rời thể xác. |
|
Mahavir Muni, founder of the Jains and a contemporary of Buddha Deva, developed the special aspect of Dhyana Yoga, or Meditation, in his own peculiar way. Jain philosophy lays special stress on Ahimsa and Upavasa, or absolute non-injury to other creatures and fasting, as necessary conditions for meditation as a real means of Salvation. |
Mahavir Muni, người sáng lập đạo Jain và là đồng thời với Đức Phật, đã phát triển khía cạnh đặc biệt của Dhyana Yoga hay tham thiền theo cách riêng của Ngài. Triết lý Jain đặc biệt nhấn mạnh Ahimsa (tuyệt đối không gây tổn hại đến các sinh vật khác) và Upavasa (nhịn ăn) như những điều kiện cần thiết cho tham thiền như một phương tiện thực sự để đạt giải thoát. |
|
In other lands Yoga has been understood and practised to some extent. Every Prophet and Teacher of repute shows intimate acquaintance with the principles and practice of Yoga. All miracles ascribed to them are the result of occult yogic powers, or Siddhis. Moses lived in an age of White Magic. Egypt was then a great nation enjoying freedom and prosperity. The mighty Pharoahs had in their courts experts in white and black occultism known as Magicians. |
Ở các vùng đất khác, Yoga cũng đã được hiểu và thực hành ở mức độ nào đó. Mỗi vị Tiên Tri và Giáo Thầy danh tiếng đều thể hiện sự am hiểu sâu sắc về các nguyên lý và thực hành của Yoga. Tất cả các phép màu được gán cho họ đều là kết quả của các năng lực huyền bí yogic, hay Siddhi. Moses sống trong một thời đại của Chánh Thuật. Ai Cập khi đó là một quốc gia hùng mạnh, thịnh vượng và tự do. Các Pharaoh vĩ đại có trong triều đình của họ những chuyên gia về huyền thuật trắng và đen được gọi là Pháp Sư. |
|
The Pyramids, a standing marvel in stone, were built with the use of occult powers. Raising huge stones to tremendous heights and placing them in exact positions on a definite plan was the work of Siddhas under whose guidance and supervision the Pyramids were constructed. The Rod of Moses was a magic staff which he used to invoke the forces of Nature in his service, and to checkmate evil influence of Black Magicians. |
Các Kim Tự Tháp, kỳ quan đứng vững bằng đá, được xây dựng với sự sử dụng năng lực huyền bí. Việc nâng các khối đá khổng lồ lên độ cao lớn và đặt chúng vào các vị trí chính xác theo một kế hoạch cụ thể là công trình của các Siddha dưới sự hướng dẫn và giám sát của họ. Gậy của Moses là một cây quyền trượng huyền bí mà ông sử dụng để triệu hồi các lực lượng thiên nhiên phục vụ mình và ngăn chặn các ảnh hưởng xấu của các Pháp Sư Hắc Đạo. |
|
When we trace the history of Yoga as a factor in human evolution we find in the earliest accounts recorded the mention of Sun and Fire as Divine Powers. Agni Yoga is the science which explains the stage of evolution reached by the peoples of Ancient India, Ancient Egypt, Ancient Persia, Ancient Greece, China and Babylon. Ancient India, the cradle of the Aryan Race and sub-races, planted the Tree of Yoga, branches of which spread in all parts of the world. The Mother Tree is still there ready to yield fruit in succeeding ages suited to the level of consciousness that will be developed in those periods. |
Khi lần theo lịch sử của Yoga như một yếu tố trong sự tiến hóa của nhân loại, chúng ta thấy trong các ghi chép sớm nhất đề cập đến Mặt Trời và Lửa như những Năng Lượng Thiêng Liêng. Agni Yoga là khoa học giải thích giai đoạn tiến hóa mà các dân tộc Ấn Độ cổ đại, Ai Cập cổ đại, Ba Tư cổ đại, Hy Lạp cổ đại, Trung Hoa và Babylon đã đạt được. Ấn Độ cổ đại, cái nôi của giống dân Aryan và các giống dân phụ, đã trồng Cây Yoga, mà các nhánh của nó lan rộng ra khắp các vùng đất trên thế giới. Cây Mẹ vẫn còn đó, sẵn sàng cho trái trong các thời đại tiếp theo phù hợp với mức độ tâm thức được phát triển trong các giai đoạn đó. |
|
Earth and water, the lowest of the principles in Creation, first begin to operate in the work of the evolution of form and consciousness. Gross elements have their subtle counterparts known as uncompounded principles, or Apanchikrita Tatvas. The latter regulate the relation between consciousness and form. Every change in the state of consciousness is followed by a corresponding change in the vibrations of matter. It is this subtle relation between Spirit, or Atman, and Mind, and between Mind and Matter that enables the Self, or Atman, to know and use the not-Self, or Prakriti. There is nothing in the wide universe which is outside of Paramatman, the Universal Logos. The difference between the two lies in the degrees of states of consciousness. The same one Atman became Mind through the power of its Will to become limited, and that separated limited power of mind became life and matter through its desire to live a life of worldly enjoyments. This brought into being the world of material objects on the one hand and organs of sense on the other. Life and Matter are brought into interrelation and interaction by the introduction of Prana, a principle of Vitality in Nature. Prana plays a prominent part in the system of Yoga. It is this dynamic element that has to be brought under conscious control through understanding of the constitution of organism and the laws of Spiritual Evolution. |
Đất và nước, hai nguyên lý thấp nhất trong Sáng Tạo, là những yếu tố đầu tiên bắt đầu hoạt động trong công việc tiến hóa hình tướng và tâm thức. Các yếu tố thô này có các đối tác tinh tế được gọi là các nguyên lý không hợp chất, hay Apanchikrita Tatvas. Chúng điều chỉnh mối quan hệ giữa tâm thức và hình tướng. Mọi thay đổi trong trạng thái tâm thức đều được theo sau bởi một thay đổi tương ứng trong rung động của vật chất. Mối quan hệ tinh tế này giữa Tinh Thần (Atman) và Tâm Trí, và giữa Tâm Trí và Vật Chất, cho phép Bản Ngã (Atman) nhận biết và sử dụng Phi Bản Ngã (Prakriti). Không có gì trong vũ trụ bao la nằm ngoài Paramatman, Logos Vũ Trụ. Sự khác biệt giữa hai cái này nằm ở mức độ của các trạng thái tâm thức. Cùng một Atman trở thành Tâm Trí thông qua ý chí tự giới hạn của nó, và sức mạnh tâm trí bị giới hạn này trở thành sự sống và vật chất thông qua dục vọng sống một đời sống hưởng thụ thế gian. Điều này tạo ra thế giới các đối tượng vật chất ở một phía và các cơ quan giác quan ở phía kia. Sự sống và vật chất được liên kết và tương tác thông qua sự giới thiệu của Prana, một nguyên lý sinh lực trong Tự Nhiên. Prana đóng vai trò nổi bật trong hệ thống Yoga. Chính yếu tố động lực này cần được kiểm soát một cách có ý thức thông qua sự hiểu biết về cấu trúc của cơ thể và các quy luật của Tiến Hóa Tâm Linh. |
|
Life first appeared in water after the Earth level was reached. Prana, or Breath of God, as described in the Bible, precedes all manifestation of life in organisms. It is Prana that makes it possible for the lungs to inhale oxygen from the air and exhale carbonic acid. By death is meant the departing of Prana from the body which then becomes a corpse. All the organs of respiration and blood-circulation are there in the dead body. But the motive power has gone, and with that power goes out the Jivatman enveloped in subtler vehicles. Yoga economises and thus conserves the quantity of Prana which is an airy fluid that appears like yellowish gas. |
Sự sống lần đầu xuất hiện trong nước sau khi đạt đến mức độ Đất. Prana, hay Hơi Thở của Thượng Đế như được mô tả trong Kinh Thánh, đi trước mọi biểu hiện của sự sống trong các sinh vật. Chính Prana làm cho phổi có thể hít thở oxy từ không khí và thải ra khí carbonic. Cái chết được hiểu là sự rời đi của Prana khỏi cơ thể, khiến cơ thể trở thành xác chết. Tất cả các cơ quan hô hấp và tuần hoàn máu vẫn còn trong xác chết, nhưng động lực đã mất đi, và cùng với động lực đó, Jivatman rời khỏi cơ thể với các phương tiện tinh tế hơn. Yoga tiết kiệm và bảo tồn năng lượng Prana, vốn là một chất lỏng dạng khí có màu vàng nhạt. |
|
The first stages of evolution are very slow as earth and water do not respond to higher vibrations. It is only when Tejas, or heat, appears on the scene that the pace of progress is quickened. Heat, Light and Electricity are the three forms that gradually develop out of the one. Agni Yoga is the science which explains the laws of these powers. Agni, or Fire, has played an important part in the civilisation of man. Again, in the evolution of religious consciousness, Fire has a lion’s share. Sacrifices came into being and developed a special science of religious rituals and ceremonies. With the Indian Hindus and Iranian Parsis, Fire has been a holy symbol of the Cosmic Fire or Paramatman. The synthetic mind consciousness of the Hindus has permeated all the later developments of human consciousness in succeeding sub-races of the Aryan family, and has shown peculiar analytical quality in the specialisation of branches. |
Các giai đoạn đầu của tiến hóa diễn ra rất chậm vì đất và nước không phản ứng với các rung động cao hơn. Chỉ khi Tejas (nhiệt) xuất hiện thì tốc độ tiến hóa mới được tăng nhanh. Nhiệt, Ánh sáng và Điện là ba hình thức dần phát triển từ một nguồn duy nhất. Agni Yoga là khoa học giải thích các quy luật của những năng lượng này. Agni, hay Lửa, đã đóng vai trò quan trọng trong nền văn minh của con người. Trong sự tiến hóa của tâm thức tôn giáo, Lửa cũng đóng vai trò lớn. Các nghi lễ hy sinh ra đời và phát triển thành một ngành khoa học đặc biệt về các nghi lễ và nghi thức tôn giáo. Với người Ấn Độ Hindu và người Iran Parsi, Lửa là biểu tượng thiêng liêng của Lửa Vũ Trụ, hay Paramatman. Tâm thức tổng hợp của người Hindu đã thấm nhuần mọi sự phát triển sau này của tâm thức nhân loại trong các giống dân phụ thuộc gia đình Aryan, và thể hiện phẩm chất phân tích độc đáo trong việc chuyên môn hóa các nhánh. |
|
Modern times have witnessed the growth of commerce concomitant with mechanical inventions leading to improvements in means of transportation. On land and sea, steam first prepared the way. Properties of heat and light were discovered, and in recent times the discovery of electricity has superseded all other methods for supplying light and power. The improvement in expansion of electricity as a power coincided with aviation or air transport. This is a further stage in the evolution of human consciousness brought about by the knowledge of the use of Air. The present level of man’s consciousness is an indication of a general expansion of Vision and Intellect. He has crossed the threshold of Reason and is about to enter the realm of Intuition. The awakening of the sixth sense in a few individuals is a sign of the advent of the New Age. |
Thời hiện đại chứng kiến sự phát triển của thương mại cùng với các phát minh cơ khí dẫn đến cải tiến trong phương tiện vận chuyển. Trên đất liền và biển, hơi nước đã mở đường. Các thuộc tính của nhiệt và ánh sáng được khám phá, và gần đây, phát minh ra điện đã thay thế tất cả các phương pháp khác để cung cấp ánh sáng và năng lượng. Sự cải tiến trong việc mở rộng sử dụng điện trùng khớp với sự phát triển của hàng không, hoặc vận tải bằng đường không. Đây là một giai đoạn tiếp theo trong tiến hóa của tâm thức con người, được mang lại bởi kiến thức về việc sử dụng Không Khí. Mức độ tâm thức hiện tại của con người là dấu hiệu của sự mở rộng chung về Tầm Nhìn và Trí Tuệ. Con người đã vượt qua ngưỡng cửa của Lý Trí và sắp bước vào lĩnh vực Trực Giác. Sự thức tỉnh giác quan thứ sáu ở một số cá nhân là dấu hiệu cho thấy sự xuất hiện của Kỷ Nguyên Mới. |
|
From the standpoint of Yoga, the five Tatvas, or principles, produce results of septennial character known as combinations. The three Gunas, or qualities of matter, enter into these combinations and bring about practical results. Heat and Air in combination produce three grades or stages of consciousness. Vayu Yoga, or the science of Air, has just dawned upon the inventive mind of man. Electricity, Chemicals and Aviation form the three great planks of scientific progress at the present time. Before entering upon the field of plan for the future, it would be in the fitness of things to refer to some of the yogic achievements of the Aryan mind which illustrate the marvellous possibilities for expansion. |
Từ quan điểm của Yoga, năm nguyên lý (Tatva) tạo ra các kết quả có tính chất bảy phần (septennial) được gọi là sự kết hợp. Ba Guna, hay phẩm chất của vật chất, tham gia vào các sự kết hợp này và tạo ra các kết quả thực tế. Sự kết hợp giữa nhiệt (Tejas) và không khí (Vayu) tạo ra ba cấp độ hay giai đoạn của tâm thức. Vayu Yoga, hay khoa học về không khí, vừa mới ló rạng trong tâm trí sáng tạo của con người. Điện, hóa chất và hàng không hiện đang là ba nền tảng lớn của tiến bộ khoa học. Trước khi bàn về kế hoạch cho tương lai, cần nhắc đến một số thành tựu yogic của trí tuệ Aryan để minh họa cho những khả năng mở rộng kỳ diệu. |
|
The creative power of thought depends upon the purity of the physical system and discipline of the mind. Meditation of this mind with deep concentration on one of the Tanmatras, or subtle principles, produces a power to manipulate or mould the corresponding part in physical nature. Vishvamitra, a great Rishi and expert in Yoga, especially in its Mantra branch, was able to create a material world on the strength of his dynamic Will-power. As the motive was tinged with vanity, creation lacked the support of the Divine Plan, and became crude. Sage Vishvamitra had concentrated on the Prithivi Tatva, the lowest earthly element. He was asked to dissolve it back into the principle and he obeyed. Agastya, another Rishi, developed his mental power in concentrating on the water element, or Apa. He was able to dissolve all the water contents of the seas and bring them out again. Vashistha, a mighty and wise sage, developed his mental power by concentrating on Light. He supplied light equal to that of the Sun. His sacred cloth played that glorious part. |
Sức mạnh sáng tạo của tư tưởng phụ thuộc vào sự thanh khiết của hệ thống thể chất và sự rèn luyện của tâm trí. Sự tham thiền với sự tập trung sâu vào một trong các Tanmatra (nguyên lý vi tế) sẽ tạo ra khả năng điều khiển hoặc định hình các phần tương ứng trong tự nhiên vật lý. Vishvamitra, một đại Rishi và chuyên gia về Yoga, đặc biệt là nhánh Mantra Yoga, đã có thể tạo ra một thế giới vật chất bằng sức mạnh ý chí năng động của mình. Tuy nhiên, động cơ của ông bị ảnh hưởng bởi sự tự phụ, nên sự sáng tạo đó thiếu sự hỗ trợ của Thiên Cơ và trở nên thô sơ. Vishvamitra đã tập trung vào Prithivi Tatva, nguyên lý thấp nhất của đất, và ông được yêu cầu giải thể nó về nguyên lý cơ bản, điều mà ông đã thực hiện. Agastya, một Rishi khác, phát triển năng lực tâm trí của mình bằng cách tập trung vào nguyên lý nước (Apa). Ông đã có thể làm bốc hơi tất cả lượng nước trong các đại dương và mang chúng trở lại. Vashistha, một nhà hiền triết vĩ đại và thông thái, đã phát triển năng lực tâm trí của mình bằng cách tập trung vào ánh sáng. Ông cung cấp ánh sáng ngang bằng với ánh sáng của Mặt Trời thông qua tấm vải thiêng liêng của mình. |
|
With prophets, the superior Siddhis are natural. It does not mean that everyone of them possessed all the powers. But they were there in case of need. Each prophet used only such as were necessary for his purpose. Lord Krishna showing his Universal Form, or Vishvarupa, to Arjuna was the highest Siddhi. This was the result of Divine Power, or Maya Shakti, ever present in Ishvara. It symbolises the presence of universal consciousness under control and a synthesis of all states of consciousness in the Scheme of Evolution. The Master Jesus performed a number of so-called miracles by healing the sick, restoring sight to the blind, and raising the dead. The genuine amongst them all were the results of lower Siddhis which clung to him on account of his purity of life. His ascension as Son of God was Siddhi of a superior order. There is no miracle in the sense of unnatural event in nature. The strange occurrences known as miracles are in accordance with higher laws unknown to ordinary people. |
Với các nhà Tiên Tri, các Siddhi cao cấp hơn là tự nhiên. Điều này không có nghĩa rằng tất cả họ đều sở hữu mọi năng lực. Nhưng các năng lực đó sẽ xuất hiện khi cần thiết. Mỗi nhà Tiên Tri chỉ sử dụng những năng lực phù hợp với mục đích của mình. Đức Krishna hiển lộ Hình Thái Vũ Trụ (Vishvarupa) cho Arjuna là Siddhi cao nhất, kết quả của Thiêng Lực (Maya Shakti) luôn hiện diện trong Ishvara. Điều này tượng trưng cho sự hiện diện của tâm thức phổ quát được kiểm soát và sự tổng hợp tất cả các trạng thái tâm thức trong Sơ đồ Tiến Hóa. Đức Jesus thực hiện nhiều phép lạ như chữa lành bệnh tật, trả lại ánh sáng cho người mù, và làm sống lại người chết. Các phép lạ chân thực trong số đó là kết quả của các Siddhi thấp hơn, gắn liền với Ngài do cuộc sống thanh khiết của Ngài. Sự thăng thiên của Ngài như là Con của Thượng Đế là một Siddhi cao cấp hơn. Không có phép lạ nào là sự kiện phi tự nhiên. Các sự việc kỳ lạ được gọi là phép lạ đều tuân theo các quy luật cao hơn mà người thường không biết đến. |
|
Coming down to historical times, about a thousand years ago, a galaxy of nine Yogis brilliantly shone on the Indian horizon. They were all mighty Adepts trained under the personal guidance of Lord Datta. They possessed all the Siddhis, or occult powers, described in the Yoga Sutras of Patanjali and used them for the benefit of the world. Guru Gorakh Nath, second in order and founder of Nath Patha, a yogic order, outshone the rest, and made even his physical body invulnerable. He lives today in his old worn-out body on the top of Mount Girnar, and visits holy places in his yogic mental vehicle, leaving the physical body in the cave. These Yogis were all pious and wise. |
Khoảng một nghìn năm trước, một nhóm chín Yogi nổi bật rực rỡ trên bầu trời Ấn Độ. Họ là các Bậc Thầy vĩ đại được đào tạo dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Đức Datta. Họ sở hữu tất cả các Siddhi được mô tả trong Yoga Sutras của Patanjali và sử dụng chúng vì lợi ích của thế giới. Guru Gorakh Nath, người sáng lập Nath Patha (dòng Yoga Nath), vượt trội so với phần còn lại, và thậm chí khiến thân xác của mình bất khả xâm phạm. Hiện nay, ông vẫn sống trong cơ thể cũ trên đỉnh núi Girnar, thỉnh thoảng du hành đến các nơi thiêng liêng bằng phương tiện tâm trí yogic, để lại thể xác trong hang động. |
|
The telephone connects the air with Tejas, or Light. The wireless goes a step further and taps the immense expanse of Akasha, or Space, by adjusting the electric apparatus to suit the powerful etheric waves in higher air. |
Điện thoại kết nối không khí với ánh sáng (Tejas). Truyền thông không dây tiến xa hơn một bước, khai thác không gian bao la (Akasha) bằng cách điều chỉnh thiết bị điện phù hợp với các làn sóng ether mạnh mẽ trong không khí cao. |
|
The combination of the higher three Tatvas, namely, light, air and ether, or Tejas, Vayu and Akasha, marks the beginning of the New Age. This awakens the sixth sense or higher consciousness represented in man by the faculty of Intuition, or Buddhi. Television is the harbinger of that Age in Science, and superior clairvoyance in Yoga. Telephony, Telepathy and Television have been long in use among Adepts and Masters. They will soon be more commonly recognised by people, and some persons will receive those gifts from nature. In that case no mechanical or electrical instruments will be needed for them, which will demonstrate the superiority of the human mind over the forces of nature. With this widespread knowledge of man’s superior powers will dawn the possibility of still greater expansion of Vision and Consciousness. The so called invisible and unseen worlds will begin to play a larger part in the life of man, bringing about the unity of life. Law and Harmony will force themselves on the path of men and women willing to know the Truth. This will reveal the beauty and greatness of the Divine Plan. Thus will Truth in Science and Philosophy be vindicated. |
Sự kết hợp giữa ba Tatva cao cấp, cụ thể là ánh sáng (Tejas), không khí (Vayu) và ether (Akasha), đánh dấu sự khởi đầu của Kỷ Nguyên Mới. Điều này đánh thức giác quan thứ sáu hay tâm thức cao hơn, được biểu trưng trong con người bằng trực giác (Buddhi). Truyền hình là dấu hiệu báo trước của thời đại đó trong khoa học, và thấu thị cao cấp trong Yoga. Điện thoại, Viễn cảm và Truyền hình đã được các Chân Sư sử dụng từ lâu và sẽ sớm được nhiều người nhận ra hơn. Một số người sẽ nhận được những món quà đó từ thiên nhiên, khi đó không cần các công cụ cơ khí hoặc điện tử, điều này sẽ chứng minh sự vượt trội của tâm trí con người so với các lực của tự nhiên. Với kiến thức rộng lớn này về các năng lực cao cấp của con người, khả năng mở rộng hơn nữa Tầm Nhìn và Tâm Thức sẽ xuất hiện. Các thế giới vô hình sẽ bắt đầu đóng vai trò lớn hơn trong đời sống con người, mang lại sự hợp nhất của sự sống. Luật pháp và Hòa hợp sẽ dẫn dắt những người sẵn lòng tìm kiếm Sự Thật, tiết lộ vẻ đẹp và sự vĩ đại của Thiên Cơ. |
|
Yoga expects all men and women to base their life on a plan, and to recognise the Plan of the universe in which they live. Man is an organic whole with body, mind and soul or Spirit working in perfect harmony for the common good of all. His highest instrument is Buddhi, or Intuition, in which shines the Divine Light. He need not depend upon external objects that do not belong to him as Purusha. He is a Purusha because he dwells and rules in an organism. As he turns inwards and within himself, he will recognize more of his power, wisdom and glory. |
Yoga kỳ vọng mọi người xây dựng cuộc sống của mình dựa trên một kế hoạch, và nhận ra Kế Hoạch của vũ trụ mà họ đang sống trong đó. Con người là một tổng thể hữu cơ, với thân thể, tâm trí và linh hồn hoạt động trong sự hòa hợp hoàn hảo vì lợi ích chung của tất cả. Công cụ cao nhất của con người là Buddhi (Trực giác), trong đó ánh sáng thiêng liêng tỏa sáng. Con người không cần dựa vào các đối tượng bên ngoài không thuộc về mình như là Purusha. Khi hướng vào bên trong, y sẽ nhận ra nhiều hơn sức mạnh, minh triết và vinh quang của mình. |
|
The central nervous system with the sympathetic system will become more sensitive. It is incumbent on all intelligent men and women to cultivate habits of self-help’ and self-confidence. Then they should proceed to establish poise and balance in the whole organism by recourse to the cardinal principle of moderation in food, speech, work and rest—a key Yoga offers to all aspirants for prosperity and success. To counteract the effects of present-day physical strain and nervous tension as a result of a wide opening of the solar plexus, it is necessary to devote more attention to the higher centres of heart and head, the Anahata and Ajna. This will develop love, devotion, harmony, and insight into spiritual values of Life. To let the mind work in peace and equilibrium, or Sattva, the physical body has to be trained in regular performance of its cycle of work. Irregular and unsystematic movements of the body produce confusion in the mental and emotional worlds. These in their turn react on the body machine producing confusion worse confounded. It is therefore necessary to regulate and train the two important instruments of physical and mental bodies for economy and efficiency. |
Hệ thần kinh trung ương cùng với hệ thần kinh giao cảm sẽ trở nên nhạy cảm hơn. Tất cả những người nam và nữ có trí tuệ đều cần rèn luyện thói quen tự lực và tự tin. Sau đó, họ nên thiết lập sự cân bằng và hài hòa trong toàn bộ cơ thể thông qua nguyên tắc cốt lõi của sự điều độ trong ăn uống, lời nói, công việc và nghỉ ngơi—một chìa khóa mà Yoga mang đến cho tất cả những người chí nguyện để đạt thịnh vượng và thành công. Để chống lại tác động của căng thẳng thể chất và thần kinh ngày nay, do sự khai mở rộng rãi của tùng thái dương, cần chú ý nhiều hơn đến các trung tâm cao hơn của tim và đầu, tức là Anahata và Ajna. Điều này sẽ phát triển tình yêu thương, sự tận tâm, hài hòa và thấu hiểu các giá trị tâm linh của Cuộc Sống. Để tâm trí hoạt động trong trạng thái bình an và cân bằng (Sattva), thể xác cần được rèn luyện trong việc thực hiện đều đặn chu trình công việc của nó. Các chuyển động không đều đặn và không có hệ thống của cơ thể gây ra sự rối loạn trong các thế giới tinh thần và cảm xúc, và ngược lại, chúng tác động lên cơ thể, tạo ra sự hỗn loạn càng tồi tệ hơn. Vì vậy, cần thiết phải điều chỉnh và rèn luyện hai công cụ quan trọng của cơ thể vật chất và tâm trí để đạt hiệu quả và tiết kiệm năng lượng. |
|
The Mind and Prana are vital factors in human evolution. The technique of Yoga begins with the placing of the body in a pose, or Asana, most congenial to rhythmic breathing for smooth operation of Prana on the one hand, and for proper concentration of mind on the other. Poses recommended for meditation are Padmasana or Lotus Pose, and Siddhasana or Master Pose. These bring man in direct touch with the spiritual current of higher vibrations of ether by connecting the lower end of the body with the negative pole of the earth, and the higher part of the head with the positive pole of ether. He is then a dynamo of spiritual electricity. |
Tâm trí và Prana là những yếu tố quan trọng trong tiến hóa của con người. Kỹ thuật Yoga bắt đầu bằng việc đặt cơ thể vào một tư thế (Asana) thích hợp nhất cho việc hít thở nhịp nhàng, giúp Prana vận hành trôi chảy và tạo điều kiện cho sự tập trung tâm trí. Các tư thế được khuyến nghị cho tham thiền là Padmasana (tư thế hoa sen) và Siddhasana (tư thế chân sư). Những tư thế này đưa con người tiếp xúc trực tiếp với dòng chảy tâm linh của các rung động cao hơn trong ether, bằng cách kết nối đầu dưới của cơ thể với cực âm của đất và phần cao nhất của đầu với cực dương của ether. Lúc này, con người trở thành một máy phát điện tâm linh. |
|
The seat on the ground as described in the Gita, consists of three layers—grass, deer-skin and silken cloth on the top. This makes the body a good conductor of higher electric currents and non-conductor of bad influences. Other physical poses are recommended as a system of wonderfully fruitful physical culture that brings every muscle into play and removes impurities of blood. The Asanas reveal a knowledge of important kingdoms of nature, and peculiar qualities of birds and animals which a member of the human kingdom inherits, but which he has forgotten. This is brought into his service so as to enable him to build his physical system into a fit instrument for higher evolution. |
Chỗ ngồi trên mặt đất như mô tả trong Bhagavad Gita gồm ba lớp—cỏ, da hươu và vải lụa đặt trên cùng. Điều này làm cho cơ thể trở thành một chất dẫn tốt cho các dòng điện cao cấp và không dẫn các ảnh hưởng xấu. Các tư thế khác được khuyến nghị như một hệ thống văn hóa thể chất tuyệt vời giúp hoạt động mọi cơ bắp và loại bỏ tạp chất trong máu. Các Asana tiết lộ kiến thức về các giới tự nhiên quan trọng và các đặc tính độc đáo của loài chim và động vật, những đặc điểm mà một thành viên của giới nhân loại thừa kế nhưng đã quên đi. Điều này được đưa vào phục vụ để giúp con người xây dựng hệ thống thể chất trở thành một công cụ phù hợp cho sự tiến hóa cao hơn. |
|
Man standing on his head is a tree with hands and feet as branches. Some poses are named after birds and quadrupeds, whose peculiar physical traits they represent. The fish, the serpent, the tortoise, the cock, the peacock and the lion are more conspicuous than the rest. Some other poses are named after great Rishis and Yogis who have made their mark in the practical branch of Yoga. Vashishtha, Vishvamitra, Gheranda, Kapila Matsyendra and Jalandhara are more conspicuous than the rest. The Asanas serve a double purpose. They help to build a strong and healthy body and act as a system of radical cure for serious complaints of the digestive, respiratory, excretory and nervous systems. In this matter a neophyte is recommended to consult an expert and get the programme definitely marked out to suit his or her individual condition. |
Con người đứng bằng đầu giống như một cái cây với các cành là tay và chân. Một số tư thế được đặt tên theo các loài chim và động vật bốn chân mà chúng đại diện, chẳng hạn như cá, rắn, rùa, gà trống, công và sư tử. Một số tư thế khác mang tên của các Rishi và Yogi vĩ đại đã để lại dấu ấn trong nhánh thực hành Yoga, như Vashishtha, Vishvamitra, Gheranda, Kapila Matsyendra và Jalandhara. Các Asana có hai mục đích: giúp xây dựng cơ thể mạnh mẽ và khỏe mạnh, đồng thời hoạt động như một phương pháp chữa trị triệt để cho các vấn đề nghiêm trọng về tiêu hóa, hô hấp, bài tiết và thần kinh. Trong trường hợp này, người nhập môn được khuyến nghị tham khảo ý kiến chuyên gia để có chương trình được thiết kế phù hợp với tình trạng cá nhân. |
|
The next step is to clear the air passage, and set the lungs and heart in rhythmic operation, by regulating the breathing processes. Prana is the life of air, which in turn becomes life sustainer to man. Pranayama is a vital branch of Yoga as it develops man’s power to control and regulate his breathing, and thus helps him to control the mind. The preliminary conditions laid down for an aspirant, or Sadhaka, are for the purification of body and of mind. This purification consists in using clean and fresh food, pure water and air, cleanliness of person and clothing, of house and surroundings. |
Bước tiếp theo là làm sạch đường hô hấp và đưa phổi cùng tim vào hoạt động nhịp nhàng bằng cách điều chỉnh các quá trình hô hấp. Prana là sự sống của không khí, và đến lượt nó trở thành nguồn sống của con người. Pranayama là một nhánh quan trọng của Yoga vì nó phát triển khả năng kiểm soát và điều chỉnh hơi thở, từ đó giúp kiểm soát tâm trí. Điều kiện tiên quyết dành cho người chí nguyện (Sadhaka) là sự thanh lọc thân và tâm. Sự thanh lọc này bao gồm việc sử dụng thực phẩm sạch và tươi, nước và không khí trong lành, giữ gìn vệ sinh cá nhân, quần áo, nhà cửa và môi trường xung quanh. |
|
Food directly helps to build the health and strength of physical and mental vehicles. Food specialists divide food-stuffs into four classes: fruitarian, vegetarian, mixed, and meat. The Bhagavad Gita rightly gives three divisions according to the three qualities of Prakriti—Sattva, Rajas and Tamas. For progress in Yoga, man should choose such quality and quantity of food as will give him maximum of strength and agility, and as will help to refine and develop subtler bodies. Food that promotes the growth of nobler qualities of head and heart is the best. |
Thực phẩm trực tiếp góp phần xây dựng sức khỏe và sức mạnh của các phương tiện thể chất và tâm trí. Các chuyên gia dinh dưỡng chia thực phẩm thành bốn loại: thuần trái cây, chay, hỗn hợp và thịt. Bhagavad Gita phân loại thực phẩm theo ba phẩm chất của Prakriti—Sattva, Rajas và Tamas. Để tiến bộ trong Yoga, con người nên chọn loại và lượng thực phẩm giúp tối đa hóa sức mạnh và sự nhanh nhẹn, đồng thời hỗ trợ tinh lọc và phát triển các thể vi tế. Thực phẩm thúc đẩy sự phát triển các phẩm chất cao quý của trí óc và trái tim là tốt nhất. |
|
The next step consists in the elimination of distracting and destructive thoughts and ideas. Rhythmic breathing in a steady pose brings about harmony in the mental world. In this connection a beginner, or Sadhaka, is recommended to consult an expert and get a definite programme of Pranayama marked out for him or her. It is dangerous to practise difficult exercises in Kumbhaka Pranayama relying upon books. Kumbhaka means holding the air inside, or shutting it outside, continuously, without the usual process of letting it in and out in its natural course through the nostrils. But a sustained effort is necessary on the part of the seeker to use his will after fixing his heart on the Ideal of Perfect Freedom. |
Bước tiếp theo là loại bỏ các tư tưởng và ý tưởng gây phân tâm và phá hủy. Hơi thở nhịp nhàng trong một tư thế ổn định mang lại sự hài hòa trong thế giới tinh thần. Trong trường hợp này, người bắt đầu (Sadhaka) được khuyến nghị tham khảo ý kiến chuyên gia để có chương trình Pranayama cụ thể. Thực hành các bài tập khó trong Kumbhaka Pranayama (giữ hơi thở bên trong hoặc bên ngoài mà không thở theo cách tự nhiên) chỉ dựa vào sách vở là nguy hiểm. Tuy nhiên, một nỗ lực bền bỉ từ phía người tìm đạo là cần thiết để sử dụng ý chí của mình, sau khi đã đặt trái tim vào Lý Tưởng của Tự Do Hoàn Hảo. |
|
Yoga does not deceive man by placing before him all kinds of ideals, but asks him to reach his own ideal along the natural path of evolution. Man has to find himself in his Real Nature, or Svarupa, that is, to see, know and feel his Divinity, or Atman, himself. It corroborates the conclusions of Science and Psychology and experiences of Religious Mysticism. It encourages research in the unexplored fields of Spiritual Psychology and Occultism. It is the friend of Dnyana, or Divine Wisdom, and of Bhakti, or Pure Devotion. It emphasises the necessity of definite and systematic effort, or Purushartha. |
Yoga không đánh lừa con người bằng cách đặt ra trước họ những lý tưởng khác nhau, mà khuyến khích họ đạt được lý tưởng của chính mình thông qua con đường tiến hóa tự nhiên. Con người phải tìm thấy bản thân mình trong Bản Chất Thực Sự (Svarupa), nghĩa là để thấy, biết và cảm nhận Thần Tính (Atman) của chính mình. Yoga khẳng định các kết luận của Khoa học và Tâm lý học, cũng như trải nghiệm của Huyền học Tôn giáo. Nó khuyến khích nghiên cứu các lĩnh vực chưa được khám phá của Tâm lý học Tâm linh và Huyền bí học. Yoga là người bạn của Dnyana (Minh Triết Thiêng Liêng) và Bhakti (Sự Tận Tâm Thanh Khiết). Nó nhấn mạnh sự cần thiết của nỗ lực rõ ràng và có hệ thống (Purushartha). |
|
It is for this reason that the three important Paths to Liberation go by the common name of Yoga. They are: Karma Yoga, Bhakti Yoga and Dnyana Yoga. Raja Yoga or Yoga proper is identified more with Dhyana than with Bhakti or Karma. These three Paths have their own peculiar traits of character with some points in common. They all meet at Dhyana, or Meditation. Meditation is the heart and soul of Yoga. It is the most important step that leads to and develops into Samadhi, Super-consciousness. It is common to all faiths and philosophies. It is the most powerful means to open communication between man and the higher worlds, and between one Soul and another. |
Chính vì lý do này mà ba con đường quan trọng dẫn đến Giải Thoát đều có tên chung là Yoga: Karma Yoga (Yoga của Hành Động), Bhakti Yoga (Yoga của Sự Tận Tâm), và Dnyana Yoga (Yoga của Minh Triết). Raja Yoga, hay Yoga chính thức, thường được gắn liền với Dhyana (Tham Thiền) hơn là với Bhakti hay Karma. Ba con đường này có những đặc điểm riêng nhưng cũng có một số điểm chung. Tất cả đều hội tụ tại Dhyana, hay Tham Thiền. Tham Thiền là trái tim và linh hồn của Yoga. Đây là bước quan trọng nhất dẫn đến và phát triển thành Samadhi (Siêu Thức). Nó phổ quát trong mọi tín ngưỡng và triết lý, là phương tiện mạnh mẽ nhất để mở ra sự giao tiếp giữa con người với các thế giới cao hơn, và giữa linh hồn này với linh hồn khác. |
|
New Age conditions require refinement and development of the two vital centres of heart and head, Anahata and Ajna. Anahata means sound produced without two objects striking each other. It is the natural sound of Prana flowing rhythmically through the heart-Lotus, but it is not heard by ordinary people. Its music is heard by Yogis who have opened that centre by continuous practice. This is also achieved by silent repetition of a powerful Mantram, the Gayatri being the best. Some substitute the sacred symbol AUM for it. |
Các điều kiện của Kỷ Nguyên Mới đòi hỏi sự tinh lọc và phát triển hai trung tâm quan trọng là tim (Anahata) và đầu (Ajna). Anahata có nghĩa là âm thanh không được tạo ra bởi sự va chạm giữa hai vật thể. Đó là âm thanh tự nhiên của Prana chảy nhịp nhàng qua Hoa Sen Tim, nhưng không được nghe thấy bởi người bình thường. Âm nhạc này được nghe bởi các Yogi đã khai mở trung tâm đó nhờ sự thực hành liên tục. Điều này cũng đạt được qua việc niệm thầm một Mantram mạnh mẽ, trong đó Gayatri là tốt nhất. Một số người thay thế nó bằng biểu tượng thiêng liêng AUM. |
|
In this connection it would be helpful to know something of the significance of Words and Languages. The six Chakrams, or Centres of Energy, look like lotuses with definite numbers of petals with which are identified letters of the Sanskrit alphabet. The number of petals is in ascending order, from Muladhara, or Root Chakram, which has four, to Vishudha, or Throat Chakram, which has sixteen. The sixth or Head Chakram has two. This makes a total of fifty representing all notes of sound, or Shabda Brahma. The Sanskrit alphabet is based upon the science of sound and its meaning. Each of these letters has a special meaning in addition to its general function as part of words it goes to form. The Sanskrit grammar is a complete science by itself. Mantra Shastra, or the Science of Creative Words, is an important branch of Yoga. |
Trong mối liên hệ này, sẽ hữu ích nếu hiểu một chút về ý nghĩa của Các Từ Ngữ và Ngôn Ngữ. Sáu Chakram, hay các Trung Tâm Năng Lượng, trông giống như những hoa sen với số cánh hoa xác định, mỗi cánh hoa được gắn liền với các chữ cái trong bảng chữ cái Sanskrit. Số lượng cánh hoa tăng dần, từ Muladhara, hay Chakram Gốc, có bốn cánh, đến Vishudha, hay Chakram Cổ, có mười sáu cánh. Chakram thứ sáu, hay Chakram Đầu, có hai cánh. Tổng cộng có năm mươi, đại diện cho tất cả các nốt âm thanh, hay Shabda Brahma. Bảng chữ cái Sanskrit dựa trên khoa học âm thanh và ý nghĩa của nó. Mỗi chữ cái trong số này có một ý nghĩa đặc biệt ngoài chức năng chung của nó như một phần của các từ mà nó tạo thành. Ngữ pháp Sanskrit là một khoa học hoàn chỉnh. Mantra Shastra, hay Khoa Học Của Các Từ Sáng Tạo, là một nhánh quan trọng của Yoga. |
|
A Mantram is an arrangement of words based upon the relation between words and the things they signify. Sanskrit Mantrams have the power to create forms invoked by them, as the words are a most accurate representation of powers that they stand for. AUM is the Alpha and Omega of all powers in creation. It is the beginning and end of the universe of form and consciousness. It is the nearest symbol for Ishvara, God. The chanting of AUM, before and after Dhyana, or Meditation, produces wonderful results. First, the vibrations of the three bodies are harmonised. External sounds do not reach the mind, though they touch the eardrum, and are therefore powerless to disturb the inner peace. The mind gets easily concentrated on the object of meditation. |
Một Mantram là sự sắp xếp của các từ dựa trên mối quan hệ giữa từ và đối tượng mà nó biểu thị. Các Mantram tiếng Phạn có sức mạnh tạo ra hình tướng được gợi lên bởi chúng, vì các từ là sự biểu thị chính xác nhất cho các năng lượng mà chúng đại diện. AUM là khởi đầu và kết thúc của mọi năng lượng trong sáng tạo. Đây là biểu tượng gần gũi nhất của Ishvara, Thượng Đế. Việc niệm AUM trước và sau tham thiền (Dhyana) mang lại những kết quả kỳ diệu. Trước hết, nó hài hòa các rung động của ba thể. Các âm thanh bên ngoài không xâm nhập được tâm trí dù chúng chạm vào màng nhĩ, vì vậy không thể làm xáo trộn sự bình an nội tại. Tâm trí dễ dàng tập trung vào đối tượng tham thiền. |
|
AUM finds a place in all great religions. The Amen of the Christian and Ameen of the Muslim are slightly changed forms of that Sacred Word. All Rishis and Masters have used it with the result that they could leave their physical bodies at will and get direct knowledge of higher planes for the good of the world. Psychic powers will soon become more common than they are at present. It is necessary for intelligent men and women to know what they are, and how they are to be used with advantage. There is danger in trying to open one or more of the low centres without the required purification of the vehicles. There is equal danger in letting alone psychic powers that appear either as gifts from the past, heredity, or as a result of meditation. The first three Chakrams, Muladhara, Svadhishthana and Manipura, represent the lower nature in man. The higher three, Anahata, Vishuddha and Ajna, represent the spiritual nature in man. The chanting of a holy Mantram before and after meditation has the effect of controlling the lower three centres and touching the higher ones. |
AUM hiện diện trong mọi tôn giáo lớn. Amen của Thiên Chúa giáo và Ameen của Hồi giáo là những biến thể nhỏ của Từ Thiêng này. Tất cả các Rishi và Chân Sư đều sử dụng nó, kết quả là họ có thể rời khỏi thể xác theo ý muốn và nhận được tri thức trực tiếp từ các cõi cao hơn vì lợi ích của thế giới. Các năng lực tâm linh sẽ sớm trở nên phổ biến hơn hiện nay. Điều cần thiết là những người nam và nữ có trí tuệ phải hiểu được chúng là gì và cách sử dụng chúng một cách có lợi. Nguy hiểm xuất hiện khi cố gắng khai mở một hoặc nhiều trung tâm thấp hơn mà không có sự thanh lọc cần thiết của các phương tiện. Tương tự, cũng nguy hiểm nếu bỏ mặc các năng lực tâm linh xuất hiện dưới dạng quà tặng từ quá khứ, di truyền, hoặc là kết quả của tham thiền. Ba Chakram đầu tiên, Muladhara, Svadhishthana và Manipura, đại diện cho bản chất thấp của con người. Ba trung tâm cao hơn, Anahata, Vishuddha và Ajna, đại diện cho bản chất tâm linh của con người. Việc niệm một Mantram thiêng liêng trước và sau tham thiền có tác dụng kiểm soát ba trung tâm thấp hơn và kích hoạt các trung tâm cao hơn. |
|
Sound as unmanifested word starts from the navel. When this solar plexus is purified, the subtle sound or Nada gets purified. This Para Vani, or Subtle Sound, is the root of articulate sound or word. It is, therefore, a practice among Sadhakas of a high order mentally to touch the navel before starting Japa or chanting. The centre that actually works in all operations of the mouth, including eating and speaking, is that at the cavity of the throat. The thyroid has recently attracted the attention of medical men. It touches the two important functions of speaking and hearing. This centre is automatically refined and opened by the simple process of chanting. The thyroid centre is the starting-point for audible speech. It is known as Madhyama, or intermediary. The opening of this centre confers the power of Vak Siddhi, or creative speech and clairaudience. |
Âm thanh dưới dạng từ ngữ chưa biểu hiện bắt đầu từ vùng rốn. Khi trung tâm năng lượng thái dương này được thanh tẩy, âm thanh tinh tế hay Nada cũng được làm sạch. Para Vani, hay Âm Thanh Tinh Tế, là nguồn gốc của âm thanh rõ ràng hay từ ngữ. Vì vậy, đây là một thực hành trong số các Sadhaka bậc cao để chạm vào vùng rốn trước khi bắt đầu Japa hay niệm chú. Trung tâm thực sự điều khiển tất cả các hoạt động của miệng, bao gồm ăn uống và nói, là tại khoang cổ họng. Tuyến giáp gần đây đã thu hút sự chú ý của các bác sĩ. Nó liên quan đến hai chức năng quan trọng là nói và nghe. Trung tâm này tự động được tinh lọc và mở ra qua quá trình đơn giản của việc niệm chú. Trung tâm tuyến giáp là điểm khởi đầu cho lời nói có thể nghe được. Nó được gọi là Madhyama, hay trung gian. Việc mở trung tâm này mang lại năng lực Vak Siddhi, hay khả năng nói sáng tạo và thông nhĩ. |
|
New Age conditions require the use of these two centres for individual development and general advancement. There is fertile field for research in’ this direction. Creative Thought and Creative Word are more valuable than clairaudience and clairvoyance. Regular habits of concentration of mind and rhythmic breathing will lead to powerful Meditation. Well directed energy of the mind can be used to cure physical weakness and develop vitality. |
Điều kiện của Kỷ Nguyên Mới yêu cầu việc sử dụng hai trung tâm này (Anahata và Ajna) cho sự phát triển cá nhân và sự tiến bộ chung. Đây là một lĩnh vực phong phú để nghiên cứu theo hướng này. Tư tưởng Sáng tạo và Ngôn từ Sáng tạo có giá trị hơn clairaudience (thông nhĩ) và clairvoyance (thông nhãn). Thói quen tập trung tâm trí đều đặn và hơi thở nhịp nhàng sẽ dẫn đến Tham Thiền mạnh mẽ. Năng lượng của tâm trí được định hướng tốt có thể được sử dụng để chữa lành sự suy yếu thể chất và phát triển sinh lực. |
|
The heart centre is the seat of devotion and love. It is in the hollow of this important Lotus, or Padma, that a Bhakti Yogi, or well-trained devotee, sees his or her Lord, or Ishvara. This centre is very useful for Saguna Dhyana, or meditation with concrete object. The Ajna Chakram, or pituitary centre, is more suited to Nirguna Dhyana, or meditation without an object. AUM is a symbol of the Supreme Brahma, and is therefore regarded as Nirguna. |
Trung tâm tim là nơi ngự trị của sự tận tâm và tình thương. Trong lòng Hoa Sen quan trọng này (Padma), một Bhakti Yogi (người chí nguyện tận tâm được đào luyện tốt) nhìn thấy Chúa của mình, hay Ishvara. Trung tâm này rất hữu ích cho Saguna Dhyana (tham thiền với một đối tượng cụ thể). Ajna Chakram (trung tâm tuyến yên) phù hợp hơn cho Nirguna Dhyana (tham thiền không đối tượng). AUM là biểu tượng của Supreme Brahma và do đó được coi là Nirguna. |
|
Meditation is a wide subject and deserves to be treated as such. It can only be said here that it is the key that opens the Mysteries of the Universe. All researches in the fields of Science, Psychology and Philosophy will in the future depend more upon introspection and spiritual meditation than upon the present applied methods. Scientists will have to train themselves along this line. They are naturally equipped with some of the most valuable qualities necessary for successful research, namely, keen observation, concentration and perseverance. They have only to widen their vision and enlarge the concept of Truth as an all-pervading Reality. |
Tham Thiền là một chủ đề rộng lớn và xứng đáng được đối xử như vậy. Ở đây chỉ có thể nói rằng nó là chìa khóa mở ra những Huyền Bí của Vũ Trụ. Mọi nghiên cứu trong các lĩnh vực Khoa học, Tâm lý học và Triết học trong tương lai sẽ phụ thuộc nhiều hơn vào sự nội quán và tham thiền tâm linh hơn là các phương pháp ứng dụng hiện tại. Các nhà khoa học sẽ cần tự rèn luyện theo hướng này. Họ vốn đã được trang bị một số phẩm chất quý giá cần thiết cho nghiên cứu thành công, cụ thể là khả năng quan sát sắc bén, tập trung và kiên trì. Họ chỉ cần mở rộng tầm nhìn và khái niệm về Sự Thật như một Thực Tại thấm nhập tất cả. |
|
Explorers in Religion and Philosophy will have to train themselves along scientific lines for definite results. They are expected to be equipped with a thorough knowledge of the nature of Atman and the Laws of Causation and Rebirth. Yoga helps all seekers after Truth by reconciling Religion with Science. It helps individuals to find their own Moksha, or Salvation, through Samadhi. It helps the research workers to find Laws of Evolution of Form and Consciousness and thus help humanity in quickening its pace of progress. |
Những nhà khám phá Tôn giáo và Triết học sẽ phải tự rèn luyện theo hướng khoa học để đạt được kết quả cụ thể. Họ cần được trang bị kiến thức sâu rộng về bản chất của Atman và các Quy luật Nhân Quả và Tái Sinh. Yoga giúp tất cả những người tìm kiếm Chân Lý bằng cách hòa giải Tôn giáo với Khoa học. Nó giúp cá nhân tìm thấy Moksha (Giải Thoát) của riêng mình thông qua Samadhi. Nó cũng giúp các nhà nghiên cứu khám phá các Quy luật Tiến Hóa của Hình Tướng và Tâm Thức, từ đó giúp nhân loại tăng tốc độ tiến bộ. |
|
Paramatman, or the Supreme Spirit, is first to be realised within one’s own consciousness. He will then be rightly located in the universe outside. Samadhi is a condition of Superconsciousness in which man loses the Ahankara of Jiva, or separated ego consciousness, and becomes united with the Logos. Samadhi has its own degrees after Realisation. |
Paramatman (Tinh Thần Tối Thượng) trước tiên cần được nhận thức trong chính tâm thức của một người. Sau đó, Ngài sẽ được xác định đúng đắn trong vũ trụ bên ngoài. Samadhi là trạng thái Siêu Thức trong đó con người đánh mất Ahankara (bản ngã của Jiva, hay tâm thức tách biệt) và hợp nhất với Logos. Samadhi có các cấp độ riêng của nó sau khi đạt được Nhận Thức. |
CHAPTER 9
Yoga Seen Through Western Eyes—Yoga qua Con Mắt Phương Tây
|
This material was first published as an article by the author in 1960 in ‘Potential’, the journal of the Physiological Society of the University of London, and it goes far towards the rational presentation of the esoteric science of Yoga in a language that is comprehensible to the demanding minds of young western scientists. |
Tài liệu này được xuất bản lần đầu tiên dưới dạng bài báo của tác giả vào năm 1960 trong Potential, tạp chí của Hội Sinh Lý học tại Đại học London. Nó tiến xa trong việc trình bày hợp lý khoa học huyền bí về Yoga bằng một ngôn ngữ dễ hiểu cho những trí tuệ đòi hỏi khắt khe của các nhà khoa học trẻ phương Tây. |
|
In years past various scientific groups have journeyed to india to Investigate the phenomenon of Yoga. Their aim has been to record, by whatever means possible, the activities of the human body during and after the change which is supposed to occur when a yogi enters the trance state. In such condition, yogis have often demonstrated their ability to control the rhythm of the heart. In fact on occasions, they have been known to stop the heartbeat altogether for some minutes. |
Trong những năm qua, nhiều nhóm khoa học đã đến Ấn Độ để điều tra hiện tượng Yoga. Mục tiêu của họ là ghi nhận, bằng bất kỳ phương tiện nào có thể, các hoạt động của cơ thể con người trong và sau sự thay đổi được cho là xảy ra khi một Yogi bước vào trạng thái xuất thần (trance state). Trong trạng thái này, các Yogi thường chứng minh khả năng kiểm soát nhịp tim, thậm chí có thể ngừng nhịp tim hoàn toàn trong vài phút. |
|
Their ability to block sensory impulses when subjected to physical ordeals, such as walking over white-hot coals barefooted, is no less disconcerting to the western mind than the failure of the body, thus afflicted, to show any signs of tissue damage. Other phenomena that find no apparent explanation include the slowing down of metabolism, whereby the body reaches a state nearly equivalent to animal hibernation and can remain thus without food for many weeks. In addition, extra-sensory perception is sometimes known to accompany the trance-state of Samadhi. |
Khả năng chặn các xung cảm giác khi đối mặt với các thử thách thể chất, chẳng hạn như đi chân trần trên than nóng trắng, cũng gây bất ngờ không kém cho tâm trí phương Tây, đặc biệt khi cơ thể không hề bị tổn thương mô. Những hiện tượng khác, không thể giải thích rõ ràng, bao gồm việc làm chậm quá trình trao đổi chất, khiến cơ thể gần như đạt trạng thái ngủ đông của động vật và có thể tồn tại hàng tuần mà không cần thức ăn. Ngoài ra, khả năng ngoại cảm (extra-sensory perception) đôi khi đi kèm với trạng thái xuất thần của Samadhi. |
|
However, owing to the fact that most yogis refused to cooperate, these scientific expeditions to the East were for the most part unsuccessful. Not until the eminent Swami Rama ventured forth to the West was the veil lifted and clinical research conducted to explain yogic phenomena. |
Tuy nhiên, do phần lớn các Yogi từ chối hợp tác, các chuyến thám hiểm khoa học đến phương Đông phần lớn không thành công. Mãi đến khi Swami Rama, một nhà Yogi lỗi lạc, dám bước ra phương Tây, tấm màn bí mật mới được vén lên, và các nghiên cứu lâm sàng được tiến hành để giải thích hiện tượng Yoga. |
|
Yoga is achieved through processing the mind in such a way that maximum control of body organs is obtained. Many yogis are alleged to have fantastic control of their abdominal viscera. There are various disciplines demanded on the physical side of Yoga. One of those which comes into the sphere of the mind is the technique of focus. |
Yoga đạt được thông qua việc xử lý tâm trí sao cho kiểm soát tối đa các cơ quan cơ thể. Nhiều Yogi được cho là có khả năng kiểm soát tuyệt vời các nội tạng bụng. Có nhiều kỷ luật được yêu cầu ở khía cạnh thể chất của Yoga, trong đó một kỹ thuật liên quan đến tâm trí là tập trung. |
|
The first step is to hold the mind steady to some point and to prevent its wandering on some course sponsored by the senses. This in itself is not easy. (Try it and see!) The yogi is taught to ignore the intrusion of sensory impulses into the consciousness. He cuts out all incoming impressions of the environment—no mean feat—and then consciously directs his mind along the line of a specific thought, or rather up a ladder of thought to planes of mental experience as different to our normal mental awareness as love is from hate on the emotional level, or as gas is from solid on the physical level. |
Bước đầu tiên là giữ tâm trí ổn định vào một điểm nhất định và ngăn nó lang thang theo các tín hiệu do giác quan khơi dậy. Điều này không hề dễ dàng (hãy thử và xem!). Nhà yogi được dạy để bỏ qua sự xâm nhập của các xung cảm giác vào ý thức. Họ loại bỏ mọi ấn tượng bên ngoài—một kỳ công không nhỏ—và sau đó hướng tâm trí của mình một cách có ý thức theo dòng chảy của một tư tưởng cụ thể, hoặc đúng hơn là leo lên “bậc thang tư tưởng” đến các cõi trải nghiệm tâm trí khác với ý thức thông thường như tình yêu khác với hận thù trên bình diện cảm xúc, hoặc như chất khí khác với chất rắn trên bình diện vật lý. |
|
The yogi believes that when the senses are completely excluded from his consciousness, he can become aware of the activities of other parts of his sensory equipment, whose nature’ and qualities are overshadowed by the activities of the outer (special) senses. He believes that in the forebrain, the pineal body and various other sections of the brain, there are special areas which are receptive to impulses normally beyond the range of man’s ordinary sensory equipment. He speaks of colours vibrating beyond the visible spectrum, which he ‘sees’ in Samadhi, and of forms which radiate light at lower wavelengths than untraviolet, which can only be registered by a stilled or focussed mind. |
Nhà yogi tin rằng khi các giác quan hoàn toàn bị loại trừ khỏi tâm thức, y có thể nhận thức được các hoạt động của những phần khác trong cơ quan cảm giác của mình, những phần mà bản chất và phẩm chất của chúng bị che khuất bởi các hoạt động của các giác quan bên ngoài (giác quan đặc biệt). Y tin rằng trong não trước, tuyến tùng và các phần khác nhau của não bộ, có những khu vực đặc biệt nhạy cảm với các xung động thường nằm ngoài phạm vi cảm nhận của cơ quan giác quan thông thường của con người. Y nói về những màu sắc rung động vượt ra ngoài phổ nhìn thấy được mà y “nhìn thấy” trong trạng thái Samadhi, và về những hình tướng phát ra ánh sáng ở các bước sóng thấp hơn tia cực tím, chỉ có thể được ghi nhận bởi một tâm trí yên tĩnh hoặc tập trung. |
|
These additions to his consciousness he considers more real than the gas-liquid-solid world we know. That is why he calls the lower mind the slave of the senses and the ‘slayer of the real’. The yogi insists that while we rely only on the impressions conveyed by the normal complement of senses, we are only about one-third awake. But at the same time he maintains that only by certain well-tried techniques (which needless to say do not include mescalin) is it safe or possible to handle extra-sensory impressions and to achieve Samadhi. |
Những bổ sung này vào ý thức được họ coi là thực hơn thế giới vật chất khí-lỏng-rắn mà chúng ta biết. Vì vậy, họ gọi hạ trí là “nô lệ của giác quan” và “kẻ giết chết cái thực”. Yogi khẳng định rằng khi chúng ta chỉ dựa vào ấn tượng do các giác quan bình thường truyền đạt, chúng ta chỉ tỉnh thức khoảng một phần ba. Tuy nhiên, họ nhấn mạnh rằng chỉ thông qua các kỹ thuật đã được kiểm chứng kỹ lưỡng (không bao gồm các phương pháp như sử dụng mescalin), thì mới an toàn và có thể xử lý các ấn tượng ngoại cảm và đạt tới Samadhi. |
|
Experiments conducted along the lines of excluding outer senses from the consciousness have been performed by a Canadian psychologist, Dr. Hebb. The aim was to find out what effects isolation has on man after reports had come in of men confined in aircraft, being cut off from usual sensory stimuli, and showing signs of nervous collapse. They were reported to lose their sense of reality, to have difficulty in orienting themselves and to have hallucinations. |
Thí nghiệm khoa học theo hướng loại bỏ các giác quan bên ngoài khỏi ý thức đã được thực hiện bởi nhà tâm lý học Canada, Dr. Hebb. Mục tiêu là tìm hiểu tác động của sự cô lập lên con người, sau các báo cáo về những người bị giam trong máy bay, không nhận được các kích thích giác quan thông thường, và biểu hiện dấu hiệu suy sụp thần kinh. Những người này được cho là mất cảm giác thực tại, gặp khó khăn trong việc định hướng và có ảo giác. |
|
Dr. Hebb experimented with college students, selected because they were considered normal and adjusted. They were confined to a small cubicle, were fed and went to the toilet on request, but otherwise did nothing. They wore frosted glass goggles that prevented pattern vision. Their ears were covered with sponge rubber pillows in which small speakers were imbedded so that they could receive messages. A microphone hung nearby so that they could answer. They wore gloves and cardboard cuffs over their arms to cut out touch perception. The results were dramatic. |
Thí nghiệm của Dr. Hebb được thực hiện trên các sinh viên đại học, những người được chọn vì họ được coi là bình thường và ổn định. Họ bị giam trong một buồng nhỏ, được cung cấp thức ăn và sử dụng nhà vệ sinh khi yêu cầu, nhưng ngoài ra không làm gì khác. Họ đeo kính mờ ngăn cản khả năng nhìn nhận hình mẫu. Tai được che bằng gối cao su có gắn loa nhỏ để nhận thông điệp. Một microphone treo gần đó để họ trả lời. Họ đeo găng tay và các ống bìa quanh cánh tay để loại bỏ cảm giác xúc giác. Kết quả thật kịch tính. |
|
The subjects showed progressive and extensive loss of ability to solve simple problems (a faculty of the lower mind according to Yoga). They complained they could not concentrate (the very faculty which Yoga enforces as a concurrent discipline when the senses are processed into quietude). The disabilities of these students persisted for some hours after their emergence from the cubicle. Some reported vivid hallucinations, usually visual but occasionally auditory. |
Các đối tượng cho thấy sự mất dần và rộng rãi khả năng giải quyết các vấn đề đơn giản (một khả năng của hạ trí theo Yoga). Họ phàn nàn rằng họ không thể tập trung (chính là khả năng mà Yoga nhấn mạnh như một kỷ luật đồng hành khi các giác quan được xử lý để đạt sự tĩnh lặng). Những suy giảm này ở các sinh viên vẫn còn tồn tại trong vài giờ sau khi họ rời khỏi buồng giam giữ. Một số báo cáo đã trải qua các ảo giác sống động, thường là thị giác nhưng đôi khi là thính giác. |
|
The insistence of Yoga on meditation prevents loss of control during periods of isolation, and it seems clear that the aim of the hermit and the monastic is to achieve the conditions of the recluse for opportunities to meditate. |
Sự nhấn mạnh của Yoga vào việc tham thiền ngăn chặn sự mất kiểm soát trong các giai đoạn cô lập, và có vẻ rõ ràng rằng mục tiêu của ẩn sĩ và tu sĩ là đạt được các điều kiện sống cô lập để tạo cơ hội tham thiền. |
|
Many have tried to trace the state of Samadhi to hypoglycaemia, to a hypersensitivity to insulin, to epilepsy, to imbalance of calcium uptake, etc., working on the assumption that’ the yogi diet has something to do with the matter. Yogis are strict vegetarians and often fast for long periods. Although Yoga stresses the all-importance of the endocrines (and traces all diseases to some one or other of their disfunctions), the yogi maintains that if anything, Samadhi results from a perfect co-ordination and balance of these glands, not from disorders of the brain and body produced by epileptic fits, for example. |
Nhiều người đã cố gắng liên kết trạng thái Samadhi với tình trạng hạ đường huyết, sự nhạy cảm cao với insulin, động kinh, sự mất cân bằng hấp thụ canxi, v.v., dựa trên giả định rằng chế độ ăn của yogi có liên quan đến vấn đề này. Các yogi là những người ăn chay nghiêm ngặt và thường nhịn ăn trong thời gian dài. Mặc dù Yoga nhấn mạnh tầm quan trọng toàn diện của các tuyến nội tiết (và truy nguyên mọi bệnh tật đến một trong các rối loạn chức năng của chúng), nhà yogi khẳng định rằng nếu có gì liên quan, thì Samadhi là kết quả của sự phối hợp và cân bằng hoàn hảo của các tuyến này, chứ không phải từ các rối loạn của não bộ và cơ thể do các cơn động kinh, chẳng hạn. |
|
Furthermore, the yogi considers the west to be practically ignorant as regards the importance of correct use of our breathing equipment. In every important yogic step towards self-control, the stilling of the mind, perfect health and ultimately Samadhi, the yogi stresses the importance of knowing when and how to breathe. He does not consider the lung capacity of eleven pints to exist merely as a mechanism of escape. Oxygen is not stored in the body, this he admits, but there is a more vital, electric factor in the atmosphere, and this can be and is stored by the correctly breathing body. On this postulate of Yoga, the existence of a vital energy unknown as yet to modern science hangs the rationale, the philosophy and phenomena of Yoga. |
Hơn nữa, nhà yogi cho rằng phương Tây hầu như không biết gì về tầm quan trọng của việc sử dụng đúng cách thiết bị hô hấp của chúng ta. Trong mỗi bước quan trọng của Yoga hướng đến sự tự kiểm soát, làm tĩnh lặng tâm trí, sức khỏe hoàn hảo và cuối cùng là Samadhi, nhà yogi nhấn mạnh tầm quan trọng của việc biết khi nào và làm thế nào để thở. Y không xem dung tích phổi là 11 pint chỉ đơn thuần là một cơ chế thoát khí. Yogi thừa nhận rằng oxy không được lưu trữ trong cơ thể, nhưng có một yếu tố điện sống động hơn trong khí quyển, và điều này có thể và được lưu trữ bởi cơ thể hô hấp đúng cách. Dựa trên giả thuyết này của Yoga, sự tồn tại của một năng lượng sống động mà khoa học hiện đại chưa biết đến là cơ sở cho lý luận, triết lý và hiện tượng của Yoga. |
|
Yoga has a very clear explanation for the dynamics of its phenomena and states of consciousness. Unfortunately, it was written for the east and any attempt to reproduce their propositions in western terms brings limitation to the comprehension of the finer points involved. Yoga postulates that there is no such thing as a vacuum. All space, within and without the confines of our planet and solar system, is filled with something. That ‘something’ is very real to the yogi. |
Yoga có một lời giải thích rất rõ ràng về động lực của các hiện tượng và trạng thái tâm thức của mình. Tuy nhiên, điều không may là nó được viết cho phương Đông và bất kỳ nỗ lực nào tái tạo các lý thuyết này theo cách diễn đạt phương Tây đều mang đến sự giới hạn trong việc hiểu các điểm tinh tế liên quan. Yoga đưa ra giả thuyết rằng không có thứ gọi là chân không. Mọi không gian, bên trong và bên ngoài giới hạn của hành tinh và hệ mặt trời của chúng ta, đều chứa đầy một thứ gì đó. Thứ ‘gì đó’ này rất thực đối với nhà yogi. |
|
In fact, it is matter of a ‘subtle’ order, as fine and intangible in texture when compared to gas, as the latter is when compared to a solid. This subtle matter, being mainly neutral in charge, interpenetrates and fills all space, and even flows through the wide open spaces within the atom. It is a root substance, material or medium from which all elements are derived and through which the physical forces, heat and light, are able to operate. |
Thực tế, đó là vật chất của một trật tự ‘vi tế’, tinh tế và không thể chạm vào được so với khí, như khí là so với chất rắn. Vật chất vi tế này, chủ yếu mang điện tích trung tính, thẩm thấu và lấp đầy mọi không gian, thậm chí chảy qua các khoảng trống rộng trong nguyên tử. Đây là chất căn bản, vật liệu hoặc môi trường từ đó mọi nguyên tố được hình thành và qua đó các lực vật lý như nhiệt và ánh sáng có thể hoạt động. |
|
In the West there has been a similar proposition from several scientists, of whom Sir Oliver Lodge (and his book Ether and Reality) is worth mentioning. Let us call their ‘subtle’ medium, or root matter, ether. Yogis propose that in the region of the earth (and for that matter other planets), there is a heavier concentration of aether and that there are several stages of combination of aether to form ‘particles’ (which the yogis prefer to call vortices, which lie in mass between the electron and the hydrogen atom. Not only is the aether more concentrated in the region of the planets, interpenetrating their solids, liquids and gases with their varying combinations, but in the material of plants, animals and man there are even heavier concentrations of ether. |
Ở phương Tây, cũng có những giả thuyết tương tự từ một số nhà khoa học, trong đó đáng kể là Sir Oliver Lodge (và cuốn sách của ông Ether and Reality). Chúng ta hãy gọi môi trường ‘vi tế’ hoặc vật chất căn bản của họ là ether. Nhà Yogi đề xuất rằng trong khu vực trái đất (và đối với các hành tinh khác cũng vậy), có một sự tập trung mạnh hơn của aether và rằng có nhiều giai đoạn kết hợp của aether để hình thành ‘hạt’ (mà yogi thích gọi là xoáy lốc), nằm trong khoảng giữa electron và nguyên tử hydro. Không chỉ aether tập trung nhiều hơn ở khu vực của các hành tinh, thẩm thấu vào các chất rắn, lỏng và khí của chúng với các tổ hợp khác nhau, mà trong vật chất của thực vật, động vật và con người, còn có sự tập trung aether mạnh hơn. |
|
There is a whole network of etheric particles in a state of dynamic equilibrium underlying the tissues of the human body. It is difficult however to come to grips with this etheric web because it is mainly interdependent (in its largest combinations) with living tissue and would disintegrate fast if it were chased with the surgeon’s scalpel. Yet Yoga says it is there, and the web as a whole acts as an intermediate for the reception of energy from the sun and the atmosphere (especially when the latter is negatively ionised). |
Có một mạng lưới toàn bộ các hạt ether ở trạng thái cân bằng động, nằm bên dưới các mô của cơ thể con người. Tuy nhiên, rất khó tiếp cận mạng lưới ether này vì nó chủ yếu phụ thuộc lẫn nhau (trong các tổ hợp lớn nhất của nó) với mô sống và sẽ nhanh chóng phân rã nếu bị đuổi theo bằng dao mổ của bác sĩ phẫu thuật. Tuy nhiên, Yoga nói rằng nó tồn tại, và mạng lưới này như một tổng thể hoạt động như một trung gian để tiếp nhận năng lượng từ mặt trời và khí quyển (đặc biệt là khi khí quyển mang ion âm). |
|
This so-called web is a sort of receiving and transmitting plate of vitality quite distinct from what we in the west call combustible energy. This underlying etheric substance transmits vital force (that which constitutes the difference between the living and the newly dead) to the body tissues as we know them. It acts as a unified whole, an interpenetrating body. It plays an important part in the formation of the embryo and its development, in the regeneration of limbs in crude invertebrates and of damaged nerve (and other) tissue in the human. |
Mạng lưới này được gọi là một tấm bản thu và phát sinh lực sống, hoàn toàn khác biệt với thứ mà chúng ta ở phương Tây gọi là năng lượng cháy nổ. Chất nền ether bên dưới này truyền sinh lực (thứ cấu thành sự khác biệt giữa sống và vừa mới chết) đến các mô cơ thể như chúng ta biết. Nó hoạt động như một tổng thể thống nhất, một cơ thể thẩm thấu lẫn nhau. Nó đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành phôi và sự phát triển của nó, trong việc tái tạo các chi ở động vật không xương sống thô sơ và mô thần kinh (và các mô khác) bị tổn thương ở con người. |
|
The etheric web or body is contained within a corona of ultraviolet light and operates under certain well-defined laws, alleged to be known to the yogis. The changes in its state of equilibrium are immediately reflected to the overlying gas-liquid-solid body. Ions are the grossest (densest) of the states of etheric material. Yogis say that it is the etheric part of the body which actually registers pain and sensation in the gas-liquid-solid states, and they maintain that it is possible to put the etheric part out of alignment with the denser counterpart (the physical body) through the use of drugs and anaesthetics, as well as in sleep and Samadhi. |
Mạng lưới hoặc thể ether được bao bọc trong một vầng ánh sáng cực tím và hoạt động theo các định luật nhất định mà các nhà yogi được cho là biết rõ. Những thay đổi trong trạng thái cân bằng của nó lập tức được phản ánh lên cơ thể khí-lỏng-rắn bên trên. Các ion là trạng thái thô thiển nhất (đậm đặc nhất) của vật chất ether. Các yogi nói rằng chính phần ether của cơ thể mới thực sự cảm nhận được đau đớn và cảm giác trong các trạng thái khí-lỏng-rắn, và họ khẳng định rằng có thể làm cho phần ether mất chỉnh hợp với phần đậm đặc hơn (cơ thể vật lý) thông qua việc sử dụng thuốc, chất gây mê, cũng như trong giấc ngủ và trạng thái Samadhi. |
|
Yogic techniques for achieving a detachment of consciousness by putting the etheric body out of alignment are well-known, and hypnosis achieves the same results by different techniques. Through Yoga, however, there is no sacrifice of the individuality to another person, no loss of consciousness and merely the disengagement of the etheric body from its more material replica. We must leave the vast teachings of Yoga here and consider the slender but growing evidence supporting the proposition of an etheric body. |
Các kỹ thuật Yoga nhằm đạt được sự tách rời tâm thức bằng cách làm cho thể ether mất chỉnh hợp được biết đến rộng rãi, và thôi miên cũng đạt được kết quả tương tự bằng các kỹ thuật khác nhau. Tuy nhiên, thông qua Yoga, không có sự hy sinh cá nhân cho một người khác, không có mất ý thức, mà chỉ đơn thuần là tách rời thể ether khỏi bản sao vật chất hơn của nó. Chúng ta phải dừng lại ở đây về các giáo lý rộng lớn của Yoga và xem xét những bằng chứng nhỏ nhưng ngày càng tăng để hỗ trợ giả thuyết về một thể ether. |
|
The work of Dr. Kilner in his book The Human Atmosphere comes to mind. He experimented with the effects of sensitising the retina of the eye to ultra-violet light. He was chief electrician at St. Thomas’ Hospital, London, when he noticed one day in dim light a sort of radiation of atmosphere surrounding or ‘clothing’ his patients. He conducted tests to see whether the phenomenon was not hallucination, but found after trying unsuccessfully to drive off the atmosphere or aura with heat, magnetism, etc., that the phenomenon not only stood out beyond the skin of the patients, but interpenetrated their bodies as well. |
Công trình của Tiến sĩ Kilner trong cuốn sách The Human Atmosphere hiện lên trong tâm trí. Ông đã thực nghiệm với các hiệu ứng làm nhạy cảm võng mạc của mắt với ánh sáng cực tím. Ông là trưởng kỹ sư điện tại Bệnh viện St. Thomas’, London, khi một ngày nọ ông nhận thấy trong ánh sáng mờ một loại bức xạ hoặc khí quyển bao quanh hay ‘bao phủ’ các bệnh nhân của mình. Ông đã tiến hành kiểm tra để xem liệu hiện tượng này có phải là ảo giác hay không, nhưng sau khi cố gắng không thành công trong việc loại bỏ khí quyển hoặc hào quang này bằng nhiệt, từ tính, v.v., ông nhận thấy rằng hiện tượng này không chỉ tồn tại bên ngoài da của các bệnh nhân, mà còn thẩm thấu vào cơ thể họ. |
|
The cloudlike substance seemed to reflect wavelengths of light at the violet end of the spectrum. By making glass screens, stained with dicyanin dye, Dr. Kilner was able to sensitise the retina to violet light. This, combined with a suitably dim background, brought more rods of the peripheral retina into play. Results were at first encouraging. Some 380 out of every 400 people who tried the screens were able to observe the phenomenon. |
Chất giống như đám mây dường như phản chiếu các bước sóng ánh sáng ở phía đầu tím của quang phổ. Bằng cách làm các màn kính nhuộm bằng thuốc nhuộm dicyanin, Tiến sĩ Kilner đã có thể làm nhạy cảm võng mạc với ánh sáng tím. Điều này, kết hợp với một phông nền đủ tối, đã mang lại sự tham gia của nhiều thanh võng mạc ngoại vi hơn. Kết quả ban đầu rất đáng khích lệ. Khoảng 380 trên 400 người thử nghiệm với các màn kính đã có thể quan sát hiện tượng này. |
|
The interpenetrating substance took up certain patterns and formations which corresponded with vibrant health and altered when sickness intervened. Merely from a study of the patterns, Kilner was able to detect specific diseases and carcinomas. He was not apparently aware of the eastern teachings of Yoga on the subject of the human aura and etheric body. The First World War interrupted his investigations, and with dyes unobtainable from Germany not much more was achieved before he died. |
Chất thẩm thấu vào cơ thể này có các mẫu và hình thái nhất định, tương ứng với sức khỏe sôi động và thay đổi khi bệnh tật xuất hiện. Chỉ từ việc nghiên cứu các mẫu hình này, Kilner đã có thể phát hiện các bệnh cụ thể và các khối u ác tính. Có vẻ ông không biết về các giáo lý phương Đông của Yoga về hào quang và thể etheric của con người. Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm gián đoạn các cuộc nghiên cứu của ông, và với việc không thể tiếp cận thuốc nhuộm từ Đức, không nhiều tiến bộ đã được đạt được trước khi ông qua đời. |
|
Subsequently, work done by George de la Warr of Oxford demonstrated that the same and wider aspects of this field of investigation may be brought into the realm of photography (New Worlds Beyond The Atom by George de la Warr.) Then in the early 1970’s, Swami Rama journeyed to North America where he provided staggering clinical evidence of a wide range of yogic phenomena. |
Sau đó, công trình của George de la Warr ở Oxford đã chứng minh rằng các khía cạnh tương tự và rộng hơn của lĩnh vực điều tra này có thể được đưa vào lĩnh vực nhiếp ảnh (New Worlds Beyond The Atom của George de la Warr). Đến đầu những năm 1970, Swami Rama đã hành trình đến Bắc Mỹ, nơi ông cung cấp bằng chứng lâm sàng gây kinh ngạc về một loạt hiện tượng Yoga. |
|
In the early 1970’s, my great friend Swami Rama, probably the best known Yogi in the world today, was staying with me in my home. He was on the way to North America and showed me a list of various physiological feats that he was about to undertake for the Menninger Medical Foundation at Topeka, Kansas, USA. It was quite staggering. He was proposing to offer himself as a ‘guinea-pig’ for investigation under scientific test conditions of various feats of body control, some of which I had already witnessed earlier. |
Vào đầu những năm 1970, người bạn thân thiết của tôi, Swami Rama, có lẽ là Yogi nổi tiếng nhất thế giới hiện nay, đã ở lại nhà tôi. Ông đang trên đường đến Bắc Mỹ và cho tôi xem một danh sách các kỳ công sinh lý mà ông dự định thực hiện tại Menninger Medical Foundation ở Topeka, Kansas, Hoa Kỳ. Danh sách đó thật đáng kinh ngạc. Ông đề xuất sử dụng bản thân làm ‘chuột bạch’ để điều tra dưới các điều kiện thử nghiệm khoa học các kỳ công kiểm soát cơ thể, một số trong đó tôi đã chứng kiến trước đó. |
|
His journey to North America is now part of medical history. The feats that he demonstrated at the Menninger Foundation have been even responsible for the emergence of a completely new medicine, known as biofeedback, Young people going to medical school today will study textbooks in which Rama’s astounding feats are recorded. |
Chuyến đi của ông đến Bắc Mỹ giờ đây đã trở thành một phần của lịch sử y khoa. Những kỳ công mà ông biểu diễn tại Menninger Foundation đã dẫn đến sự xuất hiện của một ngành y học hoàn toàn mới, được gọi là phản hồi sinh học (biofeedback). Ngày nay, những người trẻ theo học trường y sẽ nghiên cứu các sách giáo khoa trong đó ghi lại các kỳ công đáng kinh ngạc của Rama. |
|
The following are some of the things that he was able to demonstrate under test conditions, sometimes before whole groups of doctors: |
Dưới đây là một số điều mà ông đã có thể biểu diễn trong các điều kiện thử nghiệm, đôi khi trước các nhóm bác sĩ: |
|
He was able to raise the temperature of one part of his body to a much higher level than other parts, when we all know that man is homeothermic and keeps an even temperature at 98.4°F. The author himself remembers Swami Rama demonstrating on one occasion his ability to make one leg as cold and icy as that of a corpse, whilst the other was red and hot with engorged blood. |
Ông đã có thể nâng nhiệt độ của một phần cơ thể lên cao hơn nhiều so với các phần khác, trong khi chúng ta đều biết rằng con người là sinh vật máu nóng và giữ nhiệt độ ổn định ở mức 98.4°F. Chính tác giả đã nhớ lại Swami Rama biểu diễn một lần khả năng làm cho một chân lạnh và băng giá như một xác chết, trong khi chân kia đỏ rực và nóng với máu chảy dồn dập. |
|
Swami Rama was able to raise and lower his blood pressure at will, and from these procedures there has developed psychological techniques monitored by instruments which enable sufferers from high blood pressure to observe which of their behavioural patterns are responsible for raising or lowering it. Through subsequent intervention, using this biofeedback method, individuals can raise or lower their levels accordingly, the advantage of this new kind of medicine being that drugs used in hypertension can be dispensed with. |
Swami Rama có khả năng tự ý tăng hoặc giảm huyết áp, và từ những thực hành này, các kỹ thuật tâm lý được giám sát bằng thiết bị đã được phát triển, cho phép những người mắc bệnh cao huyết áp quan sát các mẫu hành vi nào của họ chịu trách nhiệm làm tăng hoặc giảm huyết áp. Thông qua can thiệp sau đó, sử dụng phương pháp phản hồi sinh học này, các cá nhân có thể điều chỉnh mức huyết áp của mình tương ứng. Lợi ích của loại y học mới này là không cần sử dụng thuốc điều trị cao huyết áp. |
|
The phenomenon of controlling the rate of the heartbeat has always fascinated man, and Swami Rama demonstrated his ability to stop cardiac output, presumably by inducing fibrillation. By various acts of sustained will-power, combined with breath control, all monitored by an electrocardiogram, this extraordinary Yogi altered the output of blood from the heart, thus depriving the brain of oxygen for a sustained period (about six minutes or more). What he was virtually enacting was the condition of clinical death, to order! |
Hiện tượng kiểm soát nhịp tim luôn làm mê hoặc con người, và Swami Rama đã biểu diễn khả năng dừng dòng máu tim, được cho là bằng cách gây ra rung tim. Bằng các hành động duy trì sức mạnh ý chí kết hợp với kiểm soát hơi thở, tất cả được giám sát bởi điện tâm đồ, vị yogi phi thường này đã thay đổi lưu lượng máu từ tim, qua đó ngăn não nhận oxy trong một khoảng thời gian kéo dài (khoảng sáu phút hoặc hơn). Điều ông thực hiện gần như là một trạng thái chết lâm sàng theo yêu cầu! |
|
So impressed were the laboratory assistants monitoring his heart waves in the adjoining room by the condition of virtual heart ‘arrest’ that they rushed in, with resuscitation equipment to bring the Swami back to consciousness and to abort clinical death. They found him, however, fully conscious and calmly talking to the investigating professors of neurophysiology. At will, he could restore heart function. |
Các trợ lý phòng thí nghiệm giám sát sóng tim của ông từ phòng liền kề ấn tượng đến mức họ đã lao vào, mang theo thiết bị hồi sức để đưa Swami trở lại ý thức và ngăn chặn cái chết lâm sàng. Tuy nhiên, họ thấy ông hoàn toàn tỉnh táo và bình thản trò chuyện với các giáo sư nghiên cứu thần kinh sinh lý học. Theo ý muốn, ông có thể khôi phục chức năng tim. |
|
Under other conditions, he was able to put himself into deep coma and yet was able to remember questions put to him in this state which would normally spell complete unconsciousness to the average individual. |
Trong các điều kiện khác, ông có thể tự đưa mình vào trạng thái hôn mê sâu nhưng vẫn có thể nhớ các câu hỏi được đặt ra trong trạng thái này, điều mà đối với người bình thường đồng nghĩa với việc hoàn toàn mất ý thức. |
|
When the organisers of these various experiments asked His Holiness what anatomical tracts he acted upon to produce the phenomena described—that is, which brain tracts, blood vessels and nerves were involved and susceptible presumably to the actions of his mind—the Swami calmly told them that the parts he controlled in the phenomena were not yet described in Western anatomical works. He was referring, of course, to the chakras, nadis and tracts of Ida, Pingala and Shushumna which exist in the etheric part of man’s physical nature. |
Khi các nhà tổ chức các thí nghiệm này hỏi ông về những đường dẫn giải phẫu mà ông đã tác động để tạo ra các hiện tượng được mô tả—tức là, những đường dẫn thần kinh, mạch máu và dây thần kinh nào đã tham gia và có thể chịu ảnh hưởng của tâm trí—Swami điềm nhiên nói với họ rằng các phần ông kiểm soát trong các hiện tượng này chưa được mô tả trong các tài liệu giải phẫu phương Tây. Tất nhiên, ông đang đề cập đến các luân xa, nadis và các đường dẫn của Ida, Pingala và Shushumna tồn tại trong phần etheric của bản chất vật lý con người. |
|
Whilst the evidence for the existence of these structures is slow in forthcoming, their functional capacities are well known from the feats of yoga, which are now commonplace in the West. |
Mặc dù bằng chứng về sự tồn tại của các cấu trúc này xuất hiện chậm, nhưng các năng lực chức năng của chúng được biết đến rõ ràng từ các kỳ công Yoga, giờ đây đã trở nên phổ biến ở phương Tây. |
|
The phenomena described above are considered the least important aspect of Yoga by the yogis themselves. They endure tremendous physical, mental and emotional disciplines in order to reach the state of Samadhi. Like the saints of Christianity in their ‘state of grace’, or the mystic followers of Zoroaster, Buddha, Mohammet and numerous other teachers from Polynesia to Stonehenge, they describe Samadhi as a state of extraordinary ecstasy, during which they feel a merging or giving up of their awareness of our mundane, three-dimensional world in favour of an all-inclusive consciousness. |
Các hiện tượng được mô tả ở trên được các yogi coi là khía cạnh ít quan trọng nhất của Yoga. Họ trải qua những kỷ luật thể chất, trí tuệ và cảm xúc khắc nghiệt để đạt đến trạng thái Samadhi. Giống như các thánh nhân của Thiên Chúa giáo trong trạng thái “ân sủng,” hoặc các tín đồ thần bí của Zoroaster, Đức Phật, Mohammet và nhiều vị thầy khác từ Polynesia đến Stonehenge, họ mô tả Samadhi như một trạng thái xuất thần phi thường, trong đó họ cảm nhận sự hòa nhập hoặc từ bỏ ý thức về thế giới ba chiều tầm thường của chúng ta để hướng tới một tâm thức toàn diện. |
|
It is in pyramidal states of such spiritual consciousness that the capstone of Man becomes ablaze with its awakened spiritual eye. |
Chính trong các trạng thái ý thức tinh thần đỉnh cao dạng kim tự tháp như vậy mà đỉnh cao của Con Người bừng sáng với con mắt tâm linh đã được thức tỉnh. |

CHAPTER 10
Surgery and the Third Eye—Phẩu Thuật và con mắt thứ ba
|
The possibility of intervening surgically to enduce psychic states has always fascinated seekers after superconscious experience. That temporary glimpses of the Fifth Kingdom can be gained from certain drugs and through smoking opium, etc., is well established. Under such conditions, Samuel Coleridge wrote Kubla Khan, a fragment of an epic that would have described the paradisiacal states he had shared in a deep reverie, had he not been interrupted by a caller to his front door. |
Khả năng can thiệp phẫu thuật để tạo ra các trạng thái tâm linh luôn thu hút những người tìm kiếm trải nghiệm siêu tâm thức. Việc thoáng thấy trạng thái của Giới Thứ Năm có thể đạt được thông qua một số loại thuốc và việc hút thuốc phiện, v.v., đã được xác nhận rõ ràng. Trong những điều kiện như vậy, Samuel Coleridge đã viết Kubla Khan, một đoạn trích của một sử thi mà lẽ ra sẽ mô tả các trạng thái thiên đường mà ông đã trải qua trong một cơn mơ sâu, nếu không bị gián đoạn bởi một vị khách đến gõ cửa. |
|
Many accept that an operation can ‘bring on’ psychic unfoldment, but no one seems ever to have hazarded a guess at the target for such surgical intervention. In Lobsang Rampa’s excellent biography, The Third Eye (Corgi Books, London), there is a description of such an operation. That this work is valid in almost every detail the author unhesitatingly gives his own confirmation, based on more than twenty-five years of deep research into esoteric matters. |
Nhiều người chấp nhận rằng một ca phẫu thuật có thể “gây ra” sự khai mở tâm linh, nhưng dường như không ai từng đưa ra một phỏng đoán về mục tiêu cụ thể của sự can thiệp phẫu thuật này. Trong cuốn tiểu sử xuất sắc của Lobsang Rampa, Con Mắt Thứ Ba (The Third Eye, Corgi Books, London), có một mô tả về một cuộc phẫu thuật như vậy. Rằng tác phẩm này hợp lý gần như từng chi tiết, tác giả không ngần ngại xác nhận, dựa trên hơn hai mươi lăm năm nghiên cứu sâu sắc về các vấn đề huyền bí. |

|
The operation was performed on a Tibetan boy of less than ten years of age —youth being a very important factor, as we shall see. It began at sunset, and this may well have had astrological implications and even some relationship to the effect of circadian rhythm on the pineal gland, pituitary and other structures of the diencephalon. Any action commenced at dusk brings planets below the horizon of the horoscope for that project into favourable aspect. |
Cuộc phẫu thuật được thực hiện trên một cậu bé Tây Tạng chưa đầy mười tuổi—tuổi trẻ là một yếu tố rất quan trọng, như chúng ta sẽ thấy. Cuộc phẫu thuật bắt đầu vào lúc hoàng hôn, và điều này có thể mang ý nghĩa chiêm tinh học, thậm chí có liên quan đến ảnh hưởng của nhịp sinh học lên tuyến tùng, tuyến yên và các cấu trúc khác của não trung gian. Bất kỳ hành động nào bắt đầu vào lúc hoàng hôn sẽ đưa các hành tinh nằm dưới đường chân trời của lá số chiêm tinh vào góc chiếu thuận lợi cho dự án. |
|
The boy was seated with his head held firmly between the knees of the surgeon’s assistant. A small trephining instrument was pressed against the centre of his forehead. The site of application is important because of the structures which lie behind the forehead, A classical position for the operation is between the brows, but on this occasion, it would seem that penetration was to be about three centimetres above the brows. |
Cậu bé được đặt ngồi với đầu được giữ chặt giữa hai đầu gối của trợ lý phẫu thuật. Một công cụ khoan nhỏ được đặt vào trung tâm trán của cậu. Vị trí áp dụng rất quan trọng vì các cấu trúc nằm sau trán. Vị trí kinh điển cho cuộc phẫu thuật là giữa hai lông mày, nhưng trong trường hợp này, có vẻ như vị trí đâm xuyên cách lông mày khoảng ba centimet. |
|
No pain, apart from a pricking sensation was felt by the boy, who only registered a sense of pressure and a dull ache even when the trephining device broke through the bone of the skull. The moment penetration was effected, the U-shaped instrument used was held steadily into position whilst a thin sliver of wood was passed down the drilling shaft for some way. It had been carefully cleaned in advance, hardened in a fire and covered with a herbal remedy. |
Cậu bé không cảm thấy đau, ngoại trừ một cảm giác châm chích, chỉ ghi nhận áp lực và cơn đau âm ỉ ngay cả khi dụng cụ khoan xuyên qua xương sọ. Ngay khi quá trình đâm xuyên hoàn tất, dụng cụ hình chữ U được giữ vững tại chỗ, trong khi một mảnh gỗ mỏng được đưa qua trục khoan vào sâu hơn. Mảnh gỗ này đã được làm sạch kỹ càng, nung cứng trong lửa và phủ một loại thảo dược. |
|
Under clairvoyant direction, the sliver was eased further and further into the cranial cavity. The boy noted then a tingling sensation in the nose and a sudden enhancement of olfactory sensation, registering the sweet, fragrant aroma of an indefinable incense. Then there was a blinding flash. The supervising Lama halted the insertion, and at the same time the boy experienced a variety of colour sensations almost descriptive of the typical visual phenomena of psychedelic experience. The metal, U-shaped trephining device was removed and the wooden stick left as it was, embedded deeply within the brain. The angle of penetration was not described. |
Dưới sự hướng dẫn của khả năng thông nhãn, mảnh gỗ được đưa sâu hơn và sâu hơn vào khoang sọ. Sau đó, cậu bé nhận thấy một cảm giác tê rần ở mũi và sự gia tăng đột ngột của cảm giác khứu giác, nhận ra mùi hương ngọt ngào của một loại nhang không xác định. Rồi một tia sáng chói lòa xuất hiện. Vị Lạt Ma giám sát dừng quá trình đẩy mảnh gỗ, và cùng lúc đó cậu bé trải qua nhiều cảm giác màu sắc gần như mô tả hiện tượng thị giác điển hình của trải nghiệm ảo giác. Dụng cụ khoan kim loại hình chữ U được rút ra, và cây gỗ nhỏ được giữ nguyên, cắm sâu vào não. Góc độ đâm xuyên không được mô tả. |
|
The wooden sliver remained bound tightly in its position for more than two weeks, and the boy was kept secluded in a darkened room. During this period he began immediately to detect a golden aura about his spiritual advisors. |
Mảnh gỗ mỏng này được buộc chặt tại chỗ hơn hai tuần, và cậu bé được giữ cách ly trong một căn phòng tối. Trong khoảng thời gian này, cậu ngay lập tức bắt đầu nhận biết một vầng hào quang vàng quanh các vị cố vấn tinh thần của mình. |
|
The question then arises as to what anatomical structures are reached in the operation and for what purposes. At the outset, it should be remembered that clairvoyance implies alterations to the etheric states of matter which interpenetrate the physical body, and the grossest of these etheric tissues is that comprised of ions. |
Câu hỏi đặt ra là những cấu trúc giải phẫu nào bị tác động trong cuộc phẫu thuật này và với mục đích gì. Trước hết, cần nhớ rằng khả năng thông nhãn ám chỉ những thay đổi ở các trạng thái vật chất etheric thẩm thấu cơ thể vật lý, trong đó phần thô nhất của các mô etheric được tạo thành từ các ion. |
|
Chakras are force centres at etheric levels. They vitalise organs by feeding them etheric energies, the subtlest of which is that of the first subplane, the energy of prana. Chakras function normally at a rate of efficiency governed by the degree of spiritual development of an individual and the health of his vehicles. Generally, arousal of chakras in the head region will lead to psychic powers. However, they are in great measure stimulated, inhibited, retarded and rendered rhythmic or arhythmic by nerve currents, nutrition, breathing, emotional energy and mental activity. |
Các luân xa là các trung tâm lực ở các mức độ etheric. Chúng cung cấp năng lượng cho các cơ quan bằng cách truyền năng lượng etheric, mà tinh tế nhất là năng lượng của phân cõi thứ nhất, năng lượng prana. Các luân xa hoạt động bình thường với một mức độ hiệu quả phụ thuộc vào mức độ phát triển tinh thần của một cá nhân và sức khỏe của các thể của y. Nói chung, sự kích hoạt các luân xa trong vùng đầu sẽ dẫn đến các năng lực tâm linh. Tuy nhiên, chúng phần lớn bị kích thích, ức chế, làm chậm lại, và trở nên nhịp nhàng hoặc không nhịp nhàng bởi các dòng thần kinh, dinh dưỡng, hơi thở, năng lượng cảm xúc và hoạt động trí tuệ. |
|
As described elsewhere, each major chakra is related to an endocrine gland. In the head region, the pituitary gland is related to the Brow Chakra, itself an instrument of higher perception. Similarly, the pineal gland is related to The Thousand Petalled Lotus or Head Chakra. |
Như đã mô tả ở nơi khác, mỗi luân xa chính đều liên quan đến một tuyến nội tiết. Trong vùng đầu, tuyến yên liên quan đến Luân Xa Trán, vốn là một công cụ của nhận thức cao cấp. Tương tự, tuyến tùng liên quan đến Hoa Sen Ngàn Cánh hay Luân Xa Đỉnh Đầu. |
|
The site of insertion of the wooden spike coincides exactly with the surface of the brow where the Brow Chakra exteriorises. This cannot be merely by chance. The placing of the sliver must, in some way, clear the path for expression of more etheric energy than would normally be made available to that region. |
Vị trí đưa mảnh gỗ vào trùng khớp chính xác với bề mặt của trán, nơi Luân Xa Chân Mày ngoại hiện. Điều này không thể chỉ là ngẫu nhiên. Việc đặt mảnh gỗ này, theo một cách nào đó, có thể mở đường cho sự biểu hiện của năng lượng etheric nhiều hơn bình thường được đưa đến khu vực này. |
|
Referring to the diagram below, Figures A to E are described as follows: |

|
FIGURE A |
|
|
If the spike is driven in horizontally, it might well be guided (by the clairvoyant) between the two cerebral hemispheres towards the front wall of the third ventricle, the lamina terminalis. If this were penetrated, then the wooden stick would extend from the lumen of the third ventricle all the way to the brow. Embedded there for eighteen days, in a region where regeneration of tissue is almost non-existent (for brain tissue does not replace itself), the normal processes of reaction to a foreign body would occur, and no doubt a passage lined with fibrous walls would ensue. This could well remain patent when the sliver was removed, allowing a channel of cerobrospinal fluid to pass directly to the frontal region, linking possibly with the circulation of spinal fluid in that region. An almost unobstructed path would then connect the region of the third ventricle to the brow. It should, in this connection, be remembered that the third ventricle is the ‘North Pole’ of the magnetic aura, the site of anchorage of the ‘consciousness’ thread. |
Nếu mảnh gỗ được đưa vào theo hướng nằm ngang, nó có thể được dẫn dắt (bởi người có khả năng thông nhãn) đi giữa hai bán cầu não hướng về phía bức tường trước của não thất ba, tức màng tận cùng (lamina terminalis). Nếu màng này bị xuyên thủng, thì mảnh gỗ sẽ kéo dài từ lòng não thất ba đến trán. Khi được giữ ở đó trong mười tám ngày, trong một khu vực mà sự tái tạo mô gần như không tồn tại (vì mô não không tự thay thế), các quá trình phản ứng bình thường đối với một vật thể lạ sẽ xảy ra, và chắc chắn một lối đi lót bởi các vách sợi sẽ hình thành. Lối đi này có thể vẫn duy trì mở sau khi mảnh gỗ được lấy ra, cho phép dòng dịch não tủy đi thẳng đến vùng trán, có thể liên kết với sự lưu thông dịch não tủy tại khu vực này. Một đường dẫn gần như không bị cản trở sẽ kết nối vùng não thất ba với trán. Trong bối cảnh này, cần nhớ rằng não thất ba được coi là ‘Cực Bắc’ của hào quang từ trường, nơi neo giữ sợi chỉ của “tâm thức.” |
|
FIGURE B |
HÌNH B |
|
If the sliver were driven slightly downwards, it would enter the hypothalamus (the emotional brain) reaching to some of the nuclei, thus possibly inhibiting emotional response to the outer environment, leaving the subject more susceptible to one-pointed control by the Brow Chakra. |
Nếu mảnh gỗ được đưa vào hơi hướng xuống, nó có thể đi vào vùng hạ đồi (não cảm xúc), tiếp cận một số nhân (nuclei), có thể làm giảm các phản ứng cảm xúc đối với môi trường bên ngoài, khiến đối tượng dễ dàng chịu sự kiểm soát tập trung bởi Luân Xa Chân Mày hơn. |
|
FIGURE C |
HÌNH C |
|
Driven in at an even lower angle, the shaft could override the optic chiasma and reach the pituitary area or at least its stalk, the tuber cinereum. This gland is the physical expression of the Brow Chakra. A passage between the two would certainly lead to unusual results in chakra unfoldment, as well as to many body structures, in that the pituitary gland can enduce hundreds of combinations of changes in physical and personality structures when interfered with by tumour, surgery or ‘feedback’ hormones and neurohumours. |
Nếu đưa vào với góc thấp hơn nữa, trục mảnh gỗ có thể vượt qua giao thoa thị giác và tiếp cận khu vực tuyến yên hoặc ít nhất là cuống của nó (tuber cinereum). Tuyến yên là biểu hiện vật lý của Luân Xa Chân Mày. Một đường dẫn giữa hai khu vực này chắc chắn sẽ dẫn đến những kết quả bất thường trong sự khai mở luân xa, cũng như ảnh hưởng đến nhiều cấu trúc cơ thể, bởi vì khi bị tác động bởi khối u, phẫu thuật hoặc các hormone và chất dẫn truyền thần kinh (neurohumours) theo cơ chế phản hồi (feedback), tuyến yên có thể tạo ra hàng trăm sự thay đổi trong các cấu trúc thể chất và tính cách. |
|
FIGURE D |
HÌNH D |
|
With deep, horizontal penetration, the sharpened point of the sliver could pass right through the third ventricle and enter the evagination of the ventricle wall, which we call the pineal gland. This gland has been called, by H. P. Blavatsky, the uterus of the brain. A wooden phallus might well set in motion the awakening of pineal cells into activity, or at least arouse them out of their atrophy. The pineal gland is, of course, the physical expression of Sahasrara, The Thousand Petalled Lotus. |
Với sự xuyên sâu theo hướng ngang, đầu nhọn của mảnh gỗ có thể xuyên qua não thất ba và đi vào phần nhô ra của thành não thất, mà chúng ta gọi là tuyến tùng. Tuyến này được H. P. Blavatsky gọi là “tử cung của não.” Một mảnh gỗ, với hình dáng gợi nhớ đến dương vật, có thể kích hoạt sự thức tỉnh của các tế bào tuyến tùng hoặc ít nhất đánh thức chúng khỏi trạng thái thoái hóa. Tuyến tùng, tất nhiên, là biểu hiện vật lý của Ngàn Cánh Hoa Sen (Sahasrara). |
|
FIGURE E |
HÌNH E |
|
A shallow penetration at any of a variety of angles could achieve a miniature lobotomy—an operation once used frequently (but now, mercifully less so) in mental disturbances. A bilateral small trephination in the plane of the coronal suture through which the white matter (containing the nerve tracts) of the brain is cut, separating the diencephalon, especially the hypothalamic region from the cortex of the brain. The operation can greatly diminish the aggressiveness of patients who are manic, but so very frequently turns them into ‘vegetables’ lacking in intellect and drive. More lately, a refinement of the technique preserves intellectual ability whilst achieving the usual passifying effect. |
Một sự xuyên nông ở bất kỳ góc nào có thể thực hiện một hình thức tiểu thùy cắt bỏ (lobotomy)—một phẫu thuật từng được sử dụng thường xuyên (nhưng may mắn thay ngày nay ít hơn) để điều trị các rối loạn tâm thần. Phẫu thuật này thường bao gồm việc khoan hai bên trên mặt phẳng đường khớp vành, cắt chất trắng (chứa các đường dẫn thần kinh) của não, tách vùng não trung gian, đặc biệt là vùng hạ đồi, khỏi vỏ não. Phẫu thuật này có thể làm giảm đáng kể sự hung hăng ở những bệnh nhân cuồng loạn, nhưng thường khiến họ trở thành những “thực vật” thiếu trí tuệ và động lực. Gần đây, một phương pháp cải tiến đã giúp duy trì khả năng trí tuệ trong khi vẫn đạt được hiệu quả làm dịu thông thường. |
|
One is most tempted to settle for this as the target of the sliver, to reduce the aggressive, competitive, separative qualities endowed by this region before they actually begin to manifest in the child. This would. imply that the neophyte thereafter would have to be severely processed in esoteric disciplines to replace.these hostile elements with a self-dependence that does not infringe on the rights of others and allows the forces of Love- Wisdom to be adequately expressed a feature denied most children brought up in western educational institutes, where competition in sport and academics is encouraged. |
Có thể cho rằng mục tiêu của mảnh gỗ là giảm bớt các phẩm chất hung hăng, cạnh tranh, phân tách được khu vực này ban tặng trước khi chúng thực sự biểu hiện ở đứa trẻ. Điều này ngụ ý rằng người tân môn sinh sau đó sẽ phải trải qua kỷ luật huyền bí nghiêm ngặt để thay thế các yếu tố thù địch này bằng một sự tự chủ không xâm phạm quyền lợi của người khác và cho phép các lực Bác Ái – Minh Triết (Love-Wisdom) được thể hiện đầy đủ—một đặc điểm mà hầu hết trẻ em được nuôi dưỡng trong các cơ sở giáo dục phương Tây thường thiếu, nơi cạnh tranh trong thể thao và học thuật được khuyến khích. |
|
The mention of olfactory sensations whilst the sliver was being inserted indicates a much lowered angle of penetration, with possible entry between the eyebrows. However, it seems unlikely that any bilateral structures, like the two olfactory lobes or the amygdaloid nuclei, etc., were targets. |
Việc đề cập đến cảm giác khứu giác trong khi mảnh gỗ được đưa vào cho thấy góc độ xuyên vào khá thấp, có khả năng đi vào giữa hai lông mày. Tuy nhiên, dường như không có khả năng các cấu trúc song phương, như hai thùy khứu giác hoặc các nhân hạch hạnh nhân (amygdaloid nuclei), v.v., là mục tiêu của quá trình này. |

|
That the anatomical explanation is associated with anyone or more of the features listed above is certain. Which one, must remain for some time yet a secret of initiation. As stated at the outset however, the real effects of the operation would be exercised at the etheric level and on the etheric matrix of the target, whichever that may be. |
Rằng lời giải thích giải phẫu liên quan đến một hoặc nhiều đặc điểm được liệt kê ở trên là điều chắc chắn. Tuy nhiên, điều nào trong số đó phải vẫn còn là một bí mật của sự điểm đạo trong một thời gian nữa. Như đã nêu từ đầu, các tác động thực sự của cuộc phẫu thuật sẽ được thực hiện ở mức độ etheric và trên cấu trúc nền etheric của mục tiêu, bất kể đó là gì. |
|
Undoubtedly the operation of trephining is valid. In ancient Egypt, holes were trephined into the skull in order to extract brain tumors. The location of the tumor was made usually by the clairvoyance of a priest-surgeon. Mummies have been examined, and they have clearly shown that such operations have taken place. Not so long ago, it was rumoured for many years that an enthusiastic medical student at a San Francisco university had carried out an operation on himself, trephining the skull in the same position with presumably the same insertion of a sharpened rod. However, in my many travels of North America on lecture tour, I was not able to substantiate this. |
Không nghi ngờ gì, việc khoan sọ (trephining) là một thực hành hợp lý. Ở Ai Cập cổ đại, các lỗ được khoan vào hộp sọ để loại bỏ các khối u não. Vị trí của khối u thường được xác định nhờ khả năng thông nhãn của một thầy tu-phẫu thuật gia. Các xác ướp đã được kiểm tra và rõ ràng cho thấy rằng những cuộc phẫu thuật như vậy đã được thực hiện. Không lâu trước đây, có tin đồn trong nhiều năm rằng một sinh viên y khoa đầy nhiệt huyết tại một trường đại học ở San Francisco đã tự thực hiện một ca phẫu thuật trên chính mình, khoan sọ tại cùng vị trí và có thể đã đưa một que nhọn vào theo cách tương tự. Tuy nhiên, trong nhiều chuyến du giảng khắp Bắc Mỹ, tôi không thể xác thực điều này. |
|
In the case described by Lobsang Rampa, following the operation the boy was able quite clearly to perceive the auras not only of his enlightened teachers, but of fellow devotees and even local tradesmen. In the former he saw the purity of their true nature reflected in a glowing, golden hue radiating from their auras. And in the latter he saw the greyish and red-speckled ‘phantoms’ of greed and anger. Horrified when first confronted with his newly-acquired vision, one of the Lamas consoled him by saying, ‘You are now one of us …. For the rest of your life you will see people as they are and not as they pretend to be.’ It was a very strange experience indeed, but ultimately, through careful training, he was also able to diagnose the health of an individual through these various radiations in the aura, including such comparatively serious illnesses as coronary conditions, etc. |
Trong trường hợp được Lobsang Rampa mô tả, sau cuộc phẫu thuật, cậu bé có thể nhận thấy một cách rõ ràng hào quang không chỉ của các vị thầy sáng suốt mà còn của những đồng môn và thậm chí cả các thương nhân địa phương. Ở các vị thầy, cậu thấy sự trong sáng của bản chất thật của họ phản chiếu qua sắc vàng rực rỡ tỏa ra từ hào quang. Còn ở các thương nhân, cậu thấy những “bóng ma” xám và lấm tấm đỏ tượng trưng cho lòng tham và cơn giận dữ. Ban đầu, cậu kinh hoàng khi đối diện với khả năng thị giác mới có được, nhưng một trong các vị Lạt Ma đã an ủi cậu, nói rằng: “Con giờ đây là một trong chúng ta… Suốt đời mình, con sẽ thấy con người như họ thật sự là, chứ không phải như họ giả vờ là.” Đó quả thực là một trải nghiệm rất kỳ lạ, nhưng cuối cùng, thông qua việc huấn luyện cẩn thận, cậu cũng có thể chẩn đoán sức khỏe của một người thông qua các bức xạ khác nhau trong hào quang, bao gồm cả những bệnh khá nghiêm trọng như các tình trạng về tim mạch. |
CHAPTER 11
The Powers Manifest—Các Quyền Năng Biểu Hiện
|
The emergence of powers associated with the organ of inner vision should not be seen as a rigid process. There are innumerable factors affecting the way in which the third eye manifests itself. |
Sự xuất hiện của các năng lực liên quan đến cơ quan thị giác nội tâm không nên được xem như một quá trình cứng nhắc. Có vô số yếu tố ảnh hưởng đến cách mà con mắt thứ ba biểu hiện. |
|
There is the karma of the individual, going back through thousands of years and scores of lives. Sometimes the karma may be inhibitive. Sometimes it will favour the cultivation of extremely rare expressions of supernormal powers. The powers themselves may be very general. and numerous or highly individual and unusual. |
Yếu tố đầu tiên là nghiệp quả của cá nhân, kéo dài qua hàng ngàn năm và nhiều kiếp sống. Đôi khi nghiệp quả có thể mang tính kìm hãm. Đôi khi, nó lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các biểu hiện cực kỳ hiếm của năng lực siêu thường. Bản thân các năng lực này có thể rất chung và đa dạng hoặc rất cá nhân và đặc biệt. |
|
The state of the permanent atoms is also a relevant factor, as well as the degree to which the neophyte has been of service to mankind. If he has, for instance, been of service in the field of healing for many lives, his understanding of physiology and anatomy of the human body will greatly affect his ability to look into the organs of patients with clairvoyant vision. His ability to make diagnoses now is transmuted into the gift for perceiving instantaneously and clairvoyantly the true nature of a disorder. If he has been a leader, a statesman, an explorer or a general in previous lives, then these qualities will give him a clear perception of the nature of the Races and Sub races of the future and the kind of qualities which should now be emerging in those elements of our current humanity who are to sire the subraces of the future, etc., etc. |
Tình trạng của các nguyên tử trường tồn cũng là một yếu tố liên quan, cùng với mức độ mà tân môn sinh đã phụng sự nhân loại. Nếu, chẳng hạn, y đã phụng sự trong lĩnh vực chữa lành qua nhiều kiếp sống, sự hiểu biết của y về sinh lý học và giải phẫu cơ thể con người sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng nhìn thấu vào các cơ quan của bệnh nhân bằng thị giác thông nhãn. Khả năng chẩn đoán của y giờ đây được chuyển hóa thành món quà nhận thức tức thì và thông nhãn về bản chất thực sự của một rối loạn. Nếu y từng là một lãnh đạo, một chính khách, một nhà thám hiểm hoặc một vị tướng trong các kiếp trước, thì những phẩm chất này sẽ mang lại cho y sự nhận thức rõ ràng về bản chất của các Giống dân và Giống dân phụ trong tương lai, cũng như những phẩm chất nào nên được xuất hiện ở các phần tử của nhân loại hiện tại, những người sẽ sinh ra các giống dân phụ của tương lai, v.v. |
|
Another factor is the all-important quality of the upbringing in this life. If childhood and adolescence have been spent in benign circumstances, then the ability to examine the deva evolution and hidden hierarchies of life using our planet emerges. |
Một yếu tố khác là phẩm chất vô cùng quan trọng của sự nuôi dưỡng trong kiếp sống hiện tại. Nếu thời thơ ấu và tuổi thiếu niên được trải qua trong hoàn cảnh tốt đẹp, thì khả năng nghiên cứu sự tiến hóa của các deva và các Huyền Giai ẩn giấu của sự sống trên hành tinh chúng ta sẽ xuất hiện. |
|
As the three Head Centres begin to overlap and interrelate, they set up an effulgent light which is immediately detected by the Master of the parish in which the chela is resident. The Master takes increasing interest in his activities, guides him towards fields in which he can express himself in service … encourages him, inwardly at first, with studies that he is engaged upon where these involve worthwhile books or, alternately and again inwardly, discourages him from intellectual enterprises that lead into backwaters. In meditation, the struggles to create visualised objects are assisted and often rewarded through the intervention of the Master. (See Meditation, The Theory and Practice by the author). |
Khi ba Trung Tâm Đầu bắt đầu chồng lấn và tương quan lẫn nhau, chúng tạo ra một ánh sáng rực rỡ lập tức được Chân sư của khu vực mà vị đệ tử cư trú nhận biết. Chân sư dành sự quan tâm ngày càng lớn đến các hoạt động của y, hướng dẫn y đến các lĩnh vực mà y có thể thể hiện mình trong sự phụng sự… khuyến khích y, ban đầu từ bên trong, trong các nghiên cứu mà y đang theo đuổi nếu những nghiên cứu này liên quan đến các sách giá trị hoặc, ngược lại và cũng từ bên trong, ngăn cản y khỏi những nỗ lực trí tuệ dẫn đến ngõ cụt. Trong tham thiền, những nỗ lực để tạo ra các đối tượng được hình dung thường được trợ giúp và đôi khi được thưởng thông qua sự can thiệp của Chân sư (xem Tham Thiền, Lý Thuyết và Thực Hành của tác giả). |
|
The disciple can expect encouragement on the Path. There are signposts on the tortured way. The Master will indicate, through various symbols, that chakra which needs the concentrated attention of the chela. Animals with extensions to their heads, presented in a dream, refer to the need for expanding the consciousness in terms of a particular chakra, e.g., a unicorn symbolising Ajna and a Deer symbolising the Heart chakra. Both creatures together mean the transfer of energies from the Heart to Ajna. |
Vị đệ tử có thể mong đợi nhận được sự khuyến khích trên Thánh Đạo. Có những dấu hiệu chỉ đường trên con đường đầy đau khổ. Chân sư sẽ chỉ ra, thông qua các biểu tượng khác nhau, luân xa nào cần sự tập trung chú ý của đệ tử. Những con vật có phần kéo dài trên đầu, xuất hiện trong một giấc mơ, ám chỉ nhu cầu mở rộng tâm thức theo các luân xa cụ thể, ví dụ, một con kỳ lân biểu tượng cho Luân Xa Chân Mày (Ajna) và một con hươu biểu tượng cho Luân Xa Tim. Khi cả hai sinh vật này cùng xuất hiện, điều đó có nghĩa là cần chuyển năng lượng từ Luân Xa Tim lên Luân Xa Chân Mày. |

|
The consciousness of the chela becomes enriched with new symbols. He is stirred to be creative. He may even convert his imagery to poetry: |
Tâm thức của đệ tử được làm phong phú với các biểu tượng mới. Y được khơi dậy để sáng tạo. Y thậm chí có thể chuyển hóa những hình ảnh của mình thành thi ca: |
|
As yellow slashes vie with brushwood plume, |
Khi những vệt vàng tranh giành với chùm cỏ, |
|
Autumn haze cloaks gentle thrusts of summer. |
Sương thu phủ lên những đợt gió hè nhẹ nhàng. |
|
Wheaten ranks gold-deck the violet gloom, |
Những cánh lúa vàng điểm tô cho màn sương tím, |
|
Apples red o’er-gorged pounding the cover |
Những quả táo đỏ, quá no, đập mạnh lên lớp vỏ, |
|
Challenge the gaudy pheasant’s screech, |
Thách thức tiếng kêu của con phượng hoàng sặc sỡ, |
|
Umber torrents flatten, reflect and glide, |
Những dòng suối nâu thẫm dạt dào, phản chiếu và trôi, |
|
And meadows green are splashed with autumn bleach, |
Cánh đồng xanh nhuộm bởi sắc trắng của thu, |
|
My heart, in hiding, tempers ajna’s pride. |
Tâm hồn tôi, đang ẩn mình, làm dịu bớt niềm kiêu hãnh của ajna. |
|
As sinuous roadways thread the hedgerows by, |
Khi những con đường uốn lượn xuyên qua hàng rào, |
|
As heaven directed fronds of yonder elm |
Khi những cành lá của cây du ở phía xa |
|
Pierce the golden bowl of symmetric sky |
Xuyên thủng bầu trời vàng của không gian đối xứng, |
|
Its gentle cohorts there to overwhelm, |
Những đoàn quân nhẹ nhàng của chúng sẵn sàng tràn ngập, |
|
Haystacks of mind are probed with median horn |
Những đống rơm của tâm trí được dò xét bằng chiếc sừng trung gian |
|
For silent pathways trod by unicorn. |
Để tìm ra những con đường im lặng mà kỳ lân đã bước qua. |
|
Douglas Baker |
— Douglas Baker |
|
In effect, through practicing the disciplines more or less in the way that they are outlined in this work creates a screen in the sacred square inch of the brow. Normally, the screen is constantly adulterated with endless and finite thoughts, but eventually the ability to still the mind and to withdraw the senses produces a screen that is not only neutral, but becomes numinous with spiritual energies flowing in from the soul. It is onto this screen at first, and later onto the screen which extends into the area between the overlapping Head Centres, that the Master is able to sow seed thoughts. |
Thực chất, thông qua việc thực hành các kỷ luật theo cách được phác thảo trong tác phẩm này, một màn hình được tạo ra trong “một inch vuông tiêng liêng” ở trán. Thông thường, màn hình này luôn bị vẩn đục bởi những suy nghĩ vô tận và hữu hạn, nhưng cuối cùng, khả năng làm tĩnh lặng tâm trí và rút lui các giác quan tạo ra một màn hình không chỉ trung tính mà còn trở nên thần diệu với các năng lượng tinh thần chảy vào từ linh hồn. Chính trên màn hình này ban đầu, và sau đó trên màn hình mở rộng vào khu vực giữa các Trung Tâm Đầu chồng lấn, Chân sư có thể gieo những hạt giống tư tưởng. |
|
This practice is very wide spread in esoteric circles. It is the way in which the Master is able to implement aspects of His share of the Divine Plan for the planet. He serves the Plan himself and serves to His accepted disciples parts of that Plan. These take ‘the form of a seed thought implanted onto the numinous screen. If the personality life of the disciple is creative and relevant, it will nourish the seed thought, modifying it and amplifying it especially along the courses indicated by the natal horoscope. |
Thực hành này được phổ biến rộng rãi trong các nhóm huyền môn. Đây là cách mà Chân sư thực hiện các khía cạnh trong phần việc của Ngài thuộc Thiên Cơ cho hành tinh. Ngài phụng sự Thiên Cơ và truyền lại các phần của Thiên Cơ cho những đệ tử được Ngài chấp nhận. Các phần này mang hình thức “hạt giống tư tưởng” được gieo trên màn hình linh thiêng. Nếu đời sống phàm ngã của đệ tử mang tính sáng tạo và phù hợp, y sẽ nuôi dưỡng hạt giống tư tưởng đó, điều chỉnh và khuếch đại nó, đặc biệt theo các hướng được chỉ dẫn bởi lá số chiêm tinh của y. |
|
Madame Blavatsky called the pineal gland the ‘uterus of the brain’. Anatomically, the pineal gland is an evagination of the reservoir of spinal fluid which we call the third ventricle. In this respect, it is very like the uterus in being a hollow cavity. But there is also an esoteric implication here. |
Madame Blavatsky đã gọi tuyến tùng là “tử cung của não bộ”. Về mặt giải phẫu, tuyến tùng là một phần nhô ra từ kho dự trữ dịch não tủy mà chúng ta gọi là não thất ba. Theo khía cạnh này, nó rất giống tử cung ở chỗ là một khoang rỗng. Nhưng cũng có một ý nghĩa huyền môn ở đây. |
|
The female uterus builds within itself a lining each lunar month called the endometrium. This is a completely new organ and is created from scratch and is built up into a highly delicate and nutritious membrane capable of receiving the fertilised egg. When the egg embeds itself, it grows into the endometrium and receives from it a rich blood supply. In this way the foetus develops and finally produces a child and its birth into a new world. |
Tử cung của nữ giới mỗi tháng xây dựng một lớp niêm mạc mới gọi là nội mạc tử cung. Đây là một cơ quan hoàn toàn mới, được tạo ra từ đầu, và được phát triển thành một màng rất tinh tế và giàu dinh dưỡng, có khả năng nhận trứng được thụ tinh. Khi trứng gắn vào, nó phát triển trong nội mạc tử cung và nhận được nguồn cung cấp máu dồi dào từ đó. Bằng cách này, phôi phát triển và cuối cùng tạo thành đứa trẻ và chào đời trong một thế giới mới. |
|
Madame Blavatsky meant that seed’ thoughts. growing in the fertile area created by the three Head Centres have the potential to develop into an expressive form, sometimes of gigantic proportions and with equally gigantic impacts upon man’s evolution. |
Madame Blavatsky muốn ám chỉ rằng các “hạt giống tư tưởng” phát triển trong khu vực màu mỡ được tạo ra bởi ba Trung Tâm Đầu có tiềm năng phát triển thành một hình thức biểu hiện, đôi khi có quy mô to lớn và tác động lớn đến sự tiến hóa của con người. |
|
Thus, we might say that a seed thought implanted into the receptive screen of a Florence Nightingale, surrounded with the wartime conditions of the Crimea, flowers into an immensely important structure. The seed thought that women should tend men wounded grievously in battle grows into the concept of a staff of women going out to take over the hospitals near the battle front. Later, much later, these principles become established in the world and from them might even grow such organisations as the world Red Cross movement. |
Chẳng hạn, chúng ta có thể nói rằng một hạt giống tư tưởng được gieo trên màn hình tiếp nhận của Florence Nightingale, trong hoàn cảnh chiến tranh Crimea, đã nở hoa thành một cấu trúc vô cùng quan trọng. Hạt giống tư tưởng rằng phụ nữ nên chăm sóc những người đàn ông bị thương nặng trong chiến trận đã phát triển thành khái niệm về một đội ngũ nữ nhân viên y tế ra tiền tuyến để quản lý các bệnh viện gần chiến trường. Sau này, nhiều năm sau đó, các nguyên tắc này đã được thiết lập trên thế giới và từ đó có thể phát triển thành những tổ chức như phong trào Chữ Thập Đỏ quốc tế. |
|
Frequently, the Hierarchy of Masters has intervened in Man’s evolution in this way. A good example of this was the implanting and cultivation of a seed thought that brought Man closer to the truth with regard to his origin and evolution. In the middle of the 19th century, science was ready for such a growth in human consciousness as to embrace an evolution that went back not merely 5,000 years as stated in the Old Testament, but rather 5,000 million years. The Hindu age for the Earth is given as 4,321 million years which has recently been shown to corroborate the current scientific theories on the subject. |
Thường xuyên, Thánh Đoàn các Chân sư đã can thiệp vào sự tiến hóa của con người theo cách này. Một ví dụ điển hình là việc gieo và nuôi dưỡng một hạt giống tư tưởng mang con người đến gần hơn với sự thật về nguồn gốc và sự tiến hóa của mình. Vào giữa thế kỷ 19, khoa học đã sẵn sàng cho một bước phát triển trong tâm thức con người để đón nhận sự tiến hóa không chỉ kéo dài 5.000 năm như được nêu trong Cựu Ước, mà là 5.000 triệu năm. Con số thời đại của Trái Đất được người Hindu đưa ra là 4.321 triệu năm, gần đây đã được chứng minh phù hợp với các lý thuyết khoa học hiện đại. |
|
So it was that the ancient concept of evolution—well known to the initiates of Greece and Egypt and even stated by the biologist Linneaus—was now implanted as a seed thought at first in the mind of Charles Darwin, a brilliant young biologist in the process of circumventing the globe in HMS Beagle. His researches began to formulate the mechanism whereby evolution was possible. However, he was very slow at exteriorising his concepts. |
Vì vậy, khái niệm cổ xưa về tiến hóa—được biết rõ bởi các đạo đồ Hy Lạp và Ai Cập, thậm chí được nhà sinh vật học Linnaeus đề cập—nay được gieo như một hạt giống tư tưởng, đầu tiên trong tâm trí của Charles Darwin, một nhà sinh vật học trẻ tài năng đang thực hiện chuyến đi vòng quanh thế giới trên tàu HMS Beagle. Các nghiên cứu của ông bắt đầu hình thành cơ chế mà qua đó sự tiến hóa có thể xảy ra. Tuy nhiên, ông tiến hành rất chậm trong việc thể hiện các khái niệm của mình. |
|
Thirty miles away from Charles Darwin’s home in England, Alfred R. Wallace, a surveyor, was also infused with the same seed thought. Wallace had not met Darwin and, indeed, neither men knew that the other was engaged in theoretical work of a similar nature. In later years, Wallace investigated many aspects of the occult and spiritualist world. He was basically an esotericist, and this was known to the English Master of the time, Who had decided to implant the same seed thought within Wallace as within Charles Darwin. Eventually the two men became acquainted, compared notes and published their work jointly, giving birth to the concept of evolution as it is taught today. |
Cách đó khoảng ba mươi dặm từ nhà của Darwin ở Anh, Alfred R. Wallace, một nhà khảo sát, cũng được truyền cảm hứng với cùng một hạt giống tư tưởng. Wallace chưa từng gặp Darwin, và thực tế cả hai không biết rằng người kia đang nghiên cứu lý thuyết tương tự. Trong những năm sau này, Wallace đã nghiên cứu nhiều khía cạnh của thế giới huyền bí và linh hồn học. Ông cơ bản là một nhà huyền môn, điều này được Chân sư Anh Quốc thời đó biết đến, Ngài đã quyết định gieo cùng một hạt giống tư tưởng trong Wallace như trong Darwin. Cuối cùng, hai người gặp nhau, so sánh ghi chép và công bố công trình của họ chung, tạo nên khái niệm tiến hóa như được dạy ngày nay. |
|
Each one of us must develop our own expressions of the third eye. We all restore our capstones eventually. For the author, the concentration of his efforts over the past thirty years has been on establishing the ability to clear the numinous screen which is the capstone of man and to be able to observe with precision the images and symbols flashed onto it by the Nirmanakaya who was Plato. Most of the material contained in his numerous works has been gained through the ability to register impacts on this numinous area. |
Mỗi người trong chúng ta phải phát triển biểu hiện riêng của con mắt thứ ba. Chúng ta cuối cùng sẽ khôi phục đỉnh chóp của mình. Đối với tác giả, sự tập trung của các nỗ lực trong hơn ba mươi năm qua là thiết lập khả năng làm sạch màn hình linh thiêng, vốn là đỉnh chóp của con người, và có thể quan sát một cách chính xác các hình ảnh và biểu tượng được chiếu lên đó bởi Nirmanakaya, người từng là Plato. Hầu hết tài liệu trong các tác phẩm phong phú của ông đều được thu nhận thông qua khả năng ghi nhận những tác động trên khu vực linh thiêng này. |
|
Of course, this process would be worthless if there was not continuity of consciousness. The ability to observe the screen would be quite useless if consciousness were not retained during both the sleepstate as well as during the periods which we call hypnopompia and hypnogogia. (Hypnopompia and hypnogogia are stages of esolepsy during the critical, hair-breadth moments between waking and sleeping, and sleeping and waking, respectively). All of us must eventually develop continuity of consciousness. |
Tất nhiên, quá trình này sẽ vô giá trị nếu không có sự liên tục của tâm thức. Khả năng quan sát màn hình sẽ hoàn toàn vô dụng nếu tâm thức không được duy trì cả trong trạng thái ngủ lẫn trong các giai đoạn mà chúng ta gọi là hypnopompia và hypnogogia. (Hypnopompia và hypnogogia là các giai đoạn của trạng thái nửa tỉnh nửa mê, xảy ra trong những khoảnh khắc mong manh giữa thức và ngủ, cũng như ngủ và thức, tương ứng). Cuối cùng, tất cả chúng ta phải phát triển sự liên tục của tâm thức. |
|
A Master never loses consciousness. He may be contacted at any time and will give answer, if He chooses, immediately. There is no period in which He is unaware or lacking in consciousness or is asleep. He is totally aware, and all of us must learn eventually to reach the same state. |
Một Chân sư không bao giờ mất ý thức. Ngài có thể được tiếp cận bất kỳ lúc nào và sẽ trả lời, nếu Ngài chọn, ngay lập tức. Không có thời điểm nào mà Ngài không nhận thức, thiếu ý thức hoặc đang ngủ. Ngài hoàn toàn tỉnh thức, và tất cả chúng ta cuối cùng cũng phải học để đạt đến trạng thái tương tự. |
|
We therefore return to the same theme contained in the opening paragraphs of this work—that man is an energy accumulator like all forms, but an accumulator of a special kind. Likened to a pyramid, he accumulates energies in the reservoir of his form of a multiple kind. These mainly express themselves through his personality, but there is a region of his pyramid reserved for the most high. This is his capstone. Whereas the personality vehicles may be likened unto a concrete structure, nevertheless still capable of housing energy, his capstone is of the subtlest texture, and within it is an ineffable light that forms such a concentration as to be able to act like an eye. |
Chúng ta do đó quay trở lại chủ đề được đề cập trong những đoạn mở đầu của tác phẩm này—rằng con người là một bộ tích lũy năng lượng giống như mọi hình thể, nhưng là một bộ tích lũy đặc biệt. So sánh với một kim tự tháp, con người tích lũy năng lượng trong kho dự trữ của hình thể mình với nhiều loại hình. Những năng lượng này chủ yếu được biểu hiện thông qua phàm ngã của y, nhưng có một khu vực trong kim tự tháp của y được dành riêng cho điều cao cả nhất. Đây chính là đỉnh chóp của y. Trong khi các thể phàm ngã có thể được ví như một cấu trúc bê tông, vẫn có khả năng chứa đựng năng lượng, thì đỉnh chóp của y mang một kết cấu tinh tế nhất, và bên trong nó là một ánh sáng bất khả diễn đạt tạo thành một sự tập trung đến mức có thể hoạt động như một con mắt. |
|
Those who open this eye may have express powers associated with its donatory capacity, its ability to beam out the essence of itself in a way that is reminiscent of the horn of the unicorn. On the other hand, the disciple may be entirely receptive, with the region of the capstone resembling a uterus capable of receiving a constant flow of communication in image and symbol which he must translate into a language that is ultimately helpful to mankind. Or he may combine both features—the positive and the negative, the male and the female—in an hermaphroditic structure capable of being outgoing as well as receptive. We are all of us existential, even in the nature of our spiritual attributes. |
Những người mở được con mắt này có thể có những năng lực biểu hiện liên quan đến khả năng tặng thưởng của nó, khả năng phát ra bản chất của chính nó theo cách gợi nhớ đến chiếc sừng của kỳ lân. Mặt khác, vị đệ tử có thể hoàn toàn tiếp nhận, với khu vực đỉnh chóp giống như một tử cung có khả năng nhận một dòng chảy liên tục các thông điệp dưới dạng hình ảnh và biểu tượng mà y phải chuyển hóa thành một ngôn ngữ hữu ích cuối cùng cho nhân loại. Hoặc y có thể kết hợp cả hai đặc điểm—tích cực và tiêu cực, nam tính và nữ tính—trong một cấu trúc lưỡng tính có khả năng vừa phát ra vừa tiếp nhận. Chúng ta đều mang tính hiện sinh, ngay cả trong bản chất của các thuộc tính tinh thần của mình. |
|
We also have highly variable attitudes as to what constitutes the most important spiritual values. A comprehensive, but by no means complete, list of these is given in Appendix 4. |
Chúng ta cũng có các thái độ rất khác nhau về những gì cấu thành các giá trị tinh thần quan trọng nhất. Một danh sách bao quát, nhưng không hẳn đầy đủ, về các giá trị này được đưa ra trong Phụ lục 4. |
APPENDIX 1
Adept Influence in United States History—Ảnh hưởng của Chân sư Trong Lịch Sử Hoa Kỳ
|
As everybody knows, the world is divided for the purposes of the Inner Government into parishes, and as there are Masters for Eastern parishes, so are there Masters for Western parishes. The United States of America is part of a Western parish, as there are others, and there are Western Masters in charge of these parishes, one of whom probably was responsible, under higher direction, for the formation of the United States of America, and is in charge of America today. |
Như mọi người đều biết, thế giới được chia thành các khu vực (parishes) cho mục đích của Chính Quyền Nội Môn, và như có các Chân sư phụ trách các khu vực phương Đông, cũng có các Chân sư phụ trách các khu vực phương Tây. Hoa Kỳ là một phần của một khu vực phương Tây, như các khu vực khác, và có các Chân sư phương Tây chịu trách nhiệm cho các khu vực này. Một trong số các Ngài có lẽ đã chịu trách nhiệm, dưới sự chỉ đạo cao hơn, cho việc hình thành Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ và hiện đang phụ trách nước Mỹ ngày nay. |
|
It was never the intention that the Anglo-Saxon subrace (the British and American) should split. It was an occult disaster. Unfortunately, the brain of King George III had become diseased. No one, not even the most concerned adept could reach the monarch and prevent the inevitable. All that remained was for the adepts to do what they could to ensure that ultimate separation did not weaken drastically what Britain and America could contribute individually to planetary evolution. |
Chưa bao giờ có ý định rằng giống dân phụ Anglo-Saxon (người Anh và người Mỹ) sẽ chia tách. Đây là một thảm họa huyền môn. Đáng tiếc, não bộ của Vua George III đã bị bệnh. Không ai, ngay cả vị chân sư lo lắng nhất, có thể tiếp cận được nhà vua để ngăn chặn điều không thể tránh khỏi. Tất cả những gì còn lại là các vị chân sư làm những gì có thể để đảm bảo rằng sự chia tách cuối cùng không làm suy yếu nghiêm trọng những gì Anh và Mỹ có thể đóng góp một cách riêng lẻ cho sự tiến hóa của hành tinh. |
APPENDIX 2
Quantum Evolution— Tiến Hóa Lượng Tử
|
There is dramatic evidence of what the evolutionist George Gaylord Simpson of Harvard calls ‘quantum evolution,’ an explosive burst of development, among man’s ancestors, ‘explosive’ in a relative sense. Simpson warns that ‘considerable imagination must be used to conceive of an explosion that makes no noise and goes on for several million years’, and a process which lasts that long is fast only on a time scale involving hundreds of millions or billions of years. (Astronomers also speak in such terms, for example, in describing the collision of galaxies.) |
Có bằng chứng rõ ràng về điều mà nhà tiến hóa học George Gaylord Simpson của Đại học Harvard gọi là “tiến hóa lượng tử,” một sự bùng nổ phát triển đột ngột trong các tổ tiên của loài người, “đột ngột” theo nghĩa tương đối. Simpson cảnh báo rằng “phải sử dụng trí tưởng tượng đáng kể để hình dung một vụ nổ không gây ra tiếng động và kéo dài hàng triệu năm,” và một quá trình kéo dài như vậy chỉ được xem là nhanh trên thang thời gian liên quan đến hàng trăm triệu hoặc hàng tỷ năm. (Các nhà thiên văn học cũng sử dụng các thuật ngữ tương tự, chẳng hạn, khi mô tả sự va chạm của các thiên hà). |
|
An example of quantum evolution occurred among horses some twenty-five million years ago. Horses had lived mainly on succulent leaves which are easy to chew up, but their survival was threatened when forests became sparse, and they had to survive on a diet of tough, gritty grasses. Although many species failed to adapt to the new conditions, as their short teeth were worn away at an early age, populations that included a relatively high proportion of longer-toothed individuals proved more successful. The shift from browsing to grazing, which brought about changes in tooth shape to provide more efficient grinding surfaces and the appearance of a special tough cement as well as longer teeth, was extremely rapid in evolutionary terms, requiring about eight to ten million years. |
Một ví dụ về tiến hóa lượng tử xảy ra ở loài ngựa cách đây khoảng hai mươi lăm triệu năm. Ngựa chủ yếu sống nhờ vào các lá cây mọng nước, dễ nhai, nhưng sự sống còn của chúng bị đe dọa khi rừng rậm trở nên thưa thớt và chúng phải tồn tại nhờ chế độ ăn gồm các loại cỏ khô, cứng và lẫn tạp chất. Mặc dù nhiều loài không thể thích nghi với điều kiện mới, vì răng ngắn của chúng bị mài mòn sớm, những quần thể có tỷ lệ cao các cá thể có răng dài hơn tỏ ra thành công hơn. Sự chuyển đổi từ việc ăn lá cây sang ăn cỏ, dẫn đến những thay đổi trong hình dạng răng để tạo ra bề mặt nghiền hiệu quả hơn, sự xuất hiện của một loại xi măng răng đặc biệt cứng và răng dài hơn, diễn ra rất nhanh theo thuật ngữ tiến hóa, chỉ mất khoảng tám đến mười triệu năm. |

|
But far more extensive changes took place in far less time among the ape men and their descendants. They were involved in a swifter process of quantum evolution, an unprecedented increase in brain size. The cranial capacity of ‘Australopithecus’ varied from about 435 to 600 cubic centimetres, with an average of about 500 cubic centimetres. The cranial capacity of ‘Homo erectus’, which includes Java man and Peking man together with specimens discovered more recently, varied from about 775 to nearly 1,300 cubic centimetres, with an average of nearly 975 cubic centimetres. The upper part of that range overlaps the range for modern man. This means that some members of ‘Homo erectus’ had brains larger than many people living today. The brain had nearly doubled within two million years.* |
Những thay đổi còn rộng lớn hơn nhiều đã diễn ra trong thời gian ngắn hơn rất nhiều ở loài vượn người và hậu duệ của chúng. Chúng trải qua một quá trình tiến hóa lượng tử nhanh hơn, với sự gia tăng kích thước não bộ chưa từng có. Dung tích hộp sọ của Australopithecus dao động từ khoảng 435 đến 600 cm³, với trung bình khoảng 500 cm³. Dung tích hộp sọ của Homo erectus, bao gồm người Java và người Bắc Kinh cùng với các mẫu vật được phát hiện gần đây hơn, dao động từ khoảng 775 đến gần 1.300 cm³, với trung bình gần 975 cm³. Phần trên của dải này trùng lặp với phạm vi của người hiện đại. Điều này có nghĩa là một số thành viên của Homo erectus có não lớn hơn nhiều người sống ngày nay. Não bộ đã gần như tăng gấp đôi chỉ trong vòng hai triệu năm. |
|
* The Emergence Of Man by John E. Pfeiffer (Nelson), pp. 104-105. |
(Trích từ The Emergence of Man bởi John E. Pfeiffer, Nhà xuất bản Nelson, trang 104-105.) |
APPENDIX 3
The Occult Classics—Các Tác Phẩm Kinh Điển
The following is a list of some of the occult classics of Ancient Wisdom:
The Secret Doctrine by H. P. Blavatsky
A Treatise On Cosmic Fire by Alice A. Bailey
A Treatise On White Magic by Alice A. Bailey
Light On The Path by A. Besant & C. W. Ông Leadbeater
Man: Whence, How and Whither by C. W. Ông Leadbeater
Pedigree Of Man by Bà Annie Besant
A New Model For The Universe by P.D.Ouspensky
At The Feet Of The Master by J. Krishnamurti
The Mahatma Letters, by A. P. Sinnett
The Voice Of The Silence
The Bagavad Gita
The Golden Hoard
As well as works by the following authors:
George Ivanovich Gurdjieff
Rudolph Steiner
Emanuel Swedenborg
Raymond Lully
Eliphas Levi
Douglas Baker
APPENDIX 4
Spiritual Values—Các Giá Trị Tinh thần
|
The assessment of spiritual values forms part of a questionnaire given out by Claregate College. The surprising thing about the returns which are made is the extraordinary difference of opinion as to which of the spiritual values are the most important. They are listed as follows, in alphabetical order: |
Danh mục các giá trị tinh thần được đánh giá là một phần của bảng câu hỏi do Claregate College phát hành. Điều đáng ngạc nhiên về các phản hồi nhận được là sự khác biệt đáng kể trong quan điểm về những giá trị tinh thần nào được coi là quan trọng nhất. Các giá trị này được liệt kê theo thứ tự bảng chữ cái như sau: |
|
Ability to See an Aura |
Khả năng Nhìn thấy Hào quang |
|
Age of the Soul |
Tuổi của Linh hồn |
|
An Attitude of Joy |
Thái độ Vui vẻ |
|
Asceticism |
Khổ hạnh |
|
Attitude Towards Initiation |
Thái độ đối với Điểm đạo |
|
Belief in a Divine Plan/Architect |
Niềm tin vào Thiên Cơ/Kiến trúc Thiêng Liêng |
|
Concern for the Animal Kingdom |
Quan tâm đến Giới Động vật |
|
Concern with Your Spiritual Progress |
Quan tâm đến Tiến bộ Tinh thần của bản thân |
|
Continuity of Consciousness |
Sự Liên tục của Tâm thức |
|
Development of Intuition |
Phát triển Trực giác |
|
Discrimination (Real from the Unreal) |
Phân biện (thực từ ảo) |
|
Emotional Control |
Kiểm soát Cảm xúc |
|
Esolepsy (Withdrawal and turning the consciousness inwards) |
Esolepsy (rút lui và hướng tâm thức vào bên trong) |
|
Exoteric Education |
Giáo dục Ngoại môn |
|
Guarding Your Thought Content |
Canh giữ Nội dung Suy nghĩ |
|
Happiness (as distinct from Joy) |
Hạnh phúc (khác với Vui vẻ) |
|
Honesty with Yourself (as in keeping a Spiritual Diary) |
Trung thực với Bản thân (như trong việc duy trì Nhật ký Tinh thần) |
|
Identification with the Master (‘I am He’ or ‘I am His Instrument’) |
Đồng nhất với Chân sư (‘Tôi là Ngài’ hoặc ‘Tôi là Công cụ của Ngài’) |
|
Identification with the Planet |
Đồng nhất với Hành tinh |
|
Importance of Facts |
Tầm quan trọng của Sự thật |
|
Knowledge of Previous Lives |
Hiểu biết về Các Kiếp trước |
|
Meditation |
Tham thiền |
|
Memory of Dreams |
Ghi nhớ Giấc mơ |
|
Occult Obedience |
Vâng lời Huyền môn |
|
Occult Silence |
Im lặng Huyền môn |
|
Periods of Silence |
Những Khoảng thời gian Tĩnh lặng |
|
Personality Integration |
Tích Hợp Phàm ngã |
|
Physical Purity |
Thanh khiết Thể chất |
|
Platonia (constant Platonic attitudes & conduct) |
Platonia (các thái độ và hành vi Platon nhất quán) |
|
Practice Harmlessness |
Thực hành Tính Vô tổn hại |
|
Resolution of Bad Karma |
Giải quyết Nghiệp xấu |
|
Resolution of Dharma |
Giải quyết Dharma |
|
Retaining Your Own Identity |
Duy trì Bản sắc Cá nhân |
|
Service to Mankind |
Phụng sự Nhân loại |
|
Social Recognition of Your Spiritual Rank |
Sự Công nhận Xã hội về Đẳng cấp Tinh thần của bạn |
|
Spiritual/Wise Use of Money |
Cách Sử dụng Tinh thần/Minh triết về Tiền bạc |
|
Study of Advanced Research |
Nghiên cứu Các công trình Nghiên cứu Tiên tiến |
|
Study of the Occult Classics of Ancient Wisdom |
Nghiên cứu Các tác phẩm Kinh điển Huyền môn về Minh Triết Ngàn Đời |
|
The Actual Keeping of a Spiritual Diary |
Việc duy trì Nhật ký Tinh thần |
|
The Practice of Detachment |
Thực hành Sự Tách rời (Buông Bỏ) |
|
The Radiation of Goodwill |
Lan Tỏa Thiện chí |
|
The Vibrational Surroundings |
Môi trường Rung động |
|
Total Commital |
Cam kết Toàn diện |
|
Understanding of the Ray Equipment |
Hiểu biết về Trang bị Cung |
|
Vegetarianism, Diet ‘ |
Ăn chay, Chế độ ăn uống |
|
Vocabulary’ of Visual Images |
‘Từ vựng’ của Các Hình ảnh Thị giác |