Tầm Nhìn Thiêng Liêng

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
DOCDOCX📄PDF

THE DIVINE VISION—TẦM NHÌN THIÊNG LIÊNG

by C. Jinarajadasabởi C. Jinarajadasa

In these days of struggle and change it is refreshing to read of a lofty vision of man, the path he is travelling, and the goal which we will one day reach. This goal is linked with a realisation of the beauty and wonder of Nature and the reality of the transcendent and immanent Godhead. Man can be a co-worker in the evolutionary process, realizing his oneness with the whole of manifestation.

Trong những ngày đấu tranh và thay đổi này, thật mới mẻ khi đọc về một tầm nhìn cao cả về con người, con đường y đang đi và mục tiêu mà chúng ta một ngày nào đó sẽ đạt được. Mục tiêu này gắn liền với sự nhận biết về vẻ đẹp và sự kỳ diệu của Thiên Nhiên và thực tại của Thượng đế siêu việt và nội tại. Con người có thể là người cộng tác trong quá trình tiến hóa, nhận ra sự hợp nhất của mình với toàn bộ sự biểu hiện.

C. Jinarajadasa was born into a Buddhist family in Ceylon. He was educated in England and obtained his degree of Master of Arts at Cambridge University. For more than fifty years he travelled the world as a Theosophical lecturer, at the same time writing a number of books, which are still widely read and appreciated. In 1946 he was elected the fourth international President of The Theosophical Society, remaining in that office for seven years. He died in 1953.

C. Jinarajadasa sinh ra trong một gia đình theo đạo Phật ở Tích Lan. Ông được học hành ở Anh và lấy bằng Thạc sĩ Nghệ thuật tại Đại học Cambridge. Trong hơn năm mươi năm, Ông đã đi khắp thế giới với tư cách là một giảng viên Thông Thiên Học, đồng thời viết một số cuốn sách, vẫn được đọc và đánh giá cao rộng rãi. Năm 1946, Ông được bầu làm Chủ tịch quốc tế thứ tư của Hội Thông Thiên Học, giữ chức vụ đó trong bảy năm. Ông qua đời năm 1953.

This small work has inspired thousands of people and has lost none of its meaning and validity with the passing of the years

Tác phẩm nhỏ này đã truyền cảm hứng cho hàng ngàn người và không hề mất đi ý nghĩa và giá trị theo thời gian

TO MY BROTHER

GỬI HUYNH ĐỆ CỦA TÔI

CONTENTS

MỤC LỤC

The Divine Vision of Man—Tầm nhìn Thiêng Liêng về Con Người

[A lecture delivered in Queen’s Hall, London, England on May 8th, 1927]

[Bài giảng được trình bày tại Queen’s Hall, Luân Đôn, Anh vào ngày 8 tháng 5 năm 1927]

IT is a true saying, and one experienced and proved by us all, that we rise to higher things on the stepping stones of our dead selves. The life of man is a continual change of vision; as experiences come to him one after another, it is as if he rose from one level to another as he climbs up a mountain side, and therefore his vision steadily changes.

Đó là một câu nói đúng, và một câu nói được tất cả chúng ta trải nghiệm và chứng minh, rằng chúng ta vươn lên những điều cao cả hơn trên những nấc thang của những bản ngã đã chết của mình. Cuộc sống của con người là một sự thay đổi liên tục về tầm nhìn; khi những kinh nghiệm đến với y hết lần này đến lần khác, giống như y vươn lên từ cấp độ này sang cấp độ khác khi y leo lên sườn núi, và do đó tầm nhìn của y liên tục thay đổi.

We recognise that there are two kinds of vision possible for us, that of the ordinary man of the world and that other vision which is presented to us by the great leaders of humanity, the founders of the religions. But we are apt to imagine that that lofty vision of the great teachers is something reserved for them alone, that we men in these lower levels are not capable of a divine vision. Yet the whole purpose of the message of Theosophy is to show that what the greatest of mankind has achieved shall some day be the achievement of every human being. In the course of these three lectures I shall try to show how there is possible for us a divine vision of man, of Nature, and of God.

Chúng ta nhận ra rằng có hai loại tầm nhìn có thể có đối với chúng ta, đó là tầm nhìn của người bình thường trên thế giới và tầm nhìn khác được trình bày cho chúng ta bởi những nhà lãnh đạo vĩ đại của nhân loại, những người sáng lập ra các tôn giáo. Nhưng chúng ta có khuynh hướng tưởng tượng rằng tầm nhìn cao cả của các huấn sư vĩ đại là điều chỉ dành riêng cho Các Ngài, rằng chúng ta, những người ở các cấp độ thấp hơn này, không có khả năng có được một tầm nhìn thiêng liêng. Tuy nhiên, toàn bộ mục đích của thông điệp của Thông Thiên Học là để cho thấy rằng những gì vĩ đại nhất của nhân loại đã đạt được một ngày nào đó sẽ là thành tựu của mọi người. Trong quá trình ba bài giảng này, tôi sẽ cố gắng chỉ ra làm thế nào có thể có được một tầm nhìn thiêng liêng về con người, về Thiên Nhiên và về Thượng đế.

Taking the divine vision of man, let us first note what characteristics we find in the ordinary vision of man. What is the attitude of the average man towards those around him? You will find that in one form or another, it has in it something of resentment. The average man does not: like to see things round him that are different from him; he does not feel at home if people think differently from him; he does not feel at all happy if there should be any kind of challenge to his thoughts and feelings. The result is that each one of us carries with him some subtle form of antipathy – antipathy to non-nationals, and antipathy to those who profess religious ideas differing from our own; and if not positive antipathy, then a sense of superiority. We go about with a critical sense, and we make the standard of our judgement our self and its needs. What will help our self we call “good “; wherever there is anything which seems in any way to narrow the expansion of that self, we call that “evil”. Therefore we have the ordinary vision of man which is full of criticism, and we are very little influenced by that larger sympathy of which we are indeed capable.

Xét về tầm nhìn thiêng liêng về con người, trước tiên chúng ta hãy lưu ý những đặc điểm mà chúng ta tìm thấy trong tầm nhìn thông thường về con người. Thái độ của một người bình thường đối với những người xung quanh y là gì? Bạn sẽ thấy rằng ở dạng này hay dạng khác, nó có một chút oán giận. Người bình thường không thích nhìn thấy những thứ xung quanh mình khác với mình; y không cảm thấy thoải mái nếu mọi người suy nghĩ khác với y; y hoàn toàn không cảm thấy hạnh phúc nếu có bất kỳ loại thách thức nào đối với những suy nghĩ và cảm xúc của y. Kết quả là mỗi người chúng ta mang theo mình một số hình thức ác cảm tinh tế – ác cảm với những người không phải là người trong nước và ác cảm với những người tuyên xưng những ý tưởng tôn giáo khác với ý tưởng của chúng ta; và nếu không phải là ác cảm tích cực, thì đó là cảm giác tự tôn. Chúng ta đi lại với một ý thức phê phán, và chúng ta lấy tiêu chuẩn phán xét của mình là bản thân và những nhu cầu của nó. Những gì sẽ giúp bản thân chúng ta, chúng ta gọi là “tốt”; bất cứ nơi nào có bất cứ điều gì dường như thu hẹp sự mở rộng của bản thân đó, chúng ta gọi đó là “ác”. Vì vậy, chúng ta có tầm nhìn thông thường về con người vốn đầy rẫy những lời chỉ trích, và chúng ta rất ít bị ảnh hưởng bởi sự đồng cảm lớn hơn mà chúng ta thực sự có khả năng.

But there is a different vision possible and every cultured man and woman knows something of it, for it is given to us by the great poets. For what makes a poet is a larger vision and especially is the larger vision of man a characteristic of the great poets. The great poet stands apart from mankind; you find that Shakespeare, who looks at all men as if from a Mount Olympus, notes their foibles and foolishnesses, and yet smiles on them all. There is the spirit of the divine vision when he makes one of his characters say about another, “ God made him, and therefore let him pass for a man.” You will note that, wherever Shakespeare deals with a villain, he has no kind of antipathy to him, whether it is to Cassio or Iago; he makes his villain live his life and expound himself, for Shakespeare has no resentment of the evil in the villain. Even in the case of Falstaff, full of coarseness and trickery, Shakespeare sees the man as he is, and there is no condemnatory judgement. A poet observes men as they are; therefore we find in the poets a larger vision than that of which the ordinary man is capable.

Nhưng có một tầm nhìn khác có thể có và mọi người đàn ông và phụ nữ có văn hóa đều biết một chút về nó, vì nó được ban cho chúng ta bởi những nhà thơ vĩ đại. Vì điều làm nên một nhà thơ là một tầm nhìn lớn hơn và đặc biệt là tầm nhìn lớn hơn về con người là một đặc điểm của những nhà thơ vĩ đại. Nhà thơ vĩ đại đứng tách biệt khỏi nhân loại; bạn thấy rằng Shakespeare, người nhìn tất cả mọi người như thể từ đỉnh Olympus, ghi lại những thói hư tật xấu và sự ngớ ngẩn của họ, nhưng vẫn mỉm cười với tất cả họ. Có tinh thần của tầm nhìn thiêng liêng khi Ông khiến một trong những nhân vật của mình nói về một người khác, “Thượng đế đã tạo ra y, và do đó hãy để y được coi là một người.” Bạn sẽ lưu ý rằng, bất cứ khi nào Shakespeare đối phó với một nhân vật phản diện, Ông không có bất kỳ ác cảm nào với y, cho dù đó là với Cassio hay Iago; Ông khiến nhân vật phản diện của mình sống cuộc đời của y và giải thích về bản thân y, vì Shakespeare không hề oán giận cái ác trong nhân vật phản diện. Ngay cả trong trường hợp của Falstaff, đầy thô tục và xảo quyệt, Shakespeare vẫn thấy con người như y vốn là, và không có sự phán xét lên án nào. Một nhà thơ quan sát con người như họ vốn là; do đó chúng ta thấy ở các nhà thơ một tầm nhìn lớn hơn so với những gì người bình thường có khả năng.

When we pass on from those, the great poets, to the greatest of mankind, those who gave the scriptures of mankind, then we have the widest vision possible. Take three great teachers, and consider the way that they looked upon men. Think of the great Christ, when He opened His arms and said, “ Come unto Me all ye that labour and are heavy laden, and I will give you rest.” Was there any distinction as to who should come to him, and who should not? “ All that labour and are heavy laden” are His, and He looks on all men as to be cherished-sinner and saint, good and bad, young and old; for all men are part inseparable of Him.

Khi chúng ta vượt qua những người đó, những nhà thơ vĩ đại, đến với những người vĩ đại nhất của nhân loại, những người đã ban cho kinh sách của nhân loại, thì chúng ta có được tầm nhìn rộng lớn nhất có thể. Hãy lấy ba Huấn Sư vĩ đại, và xem xét cách Các Ngài nhìn nhận con người. Hãy nghĩ về Đức Christ vĩ đại, khi Ngài dang tay ra và nói: “Hãy đến với Ta hỡi tất cả những ai vất vả và gánh nặng, Ta sẽ cho các ngươi được nghỉ ngơi”. Có sự phân biệt nào về việc ai nên đến với Ngài và ai không nên không? “Tất cả những ai vất vả và gánh nặng” đều là của Ngài, và Ngài xem tất cả mọi người đều đáng được trân trọng – tội nhân và thánh nhân, người tốt và kẻ xấu, già và trẻ; vì tất cả mọi người là một phần không thể tách rời của Ngài.

There is one other place where we find the same great divine vision shown by Him, and that is when He describes His coming again to judge the quick and the dead “. He describes how he will separate; men on to His right hand and on to His left, and how He will call on those on His right hand to live with Him. And when He judges men, would you not think that the first question He would ask of those who are to live with him would be, “Were; you baptised? “- for you look upon Christ as the Master only of Christendom, and therefore you would naturally think that His chief standard of right and wrong must be whether people had accepted Him or not as the Christ. Not a word does He say about such a judgement.; His judgement is “Have you fed the hungry, given drink to the thirsty, visited the sick and those in prison? “ Then will He say, “For as much as ye have done it unto one of the least of these my brethren, ye have done it unto Me.” And does He say His brethren are only those who have been baptised into Christian faith? No; He merely says, “the least of these My brethren “.

Có một nơi khác mà chúng ta thấy Ngài thể hiện cùng một tầm nhìn thiêng liêng vĩ đại, và đó là khi Ngài mô tả sự trở lại của Ngài để phán xét người sống và người chết. Ngài mô tả cách Ngài sẽ phân chia; người ở bên tay phải của Ngài và ở bên tay trái của Ngài, và cách Ngài sẽ kêu gọi những người ở bên tay phải của Ngài sống với Ngài. Và khi Ngài phán xét con người, bạn không nghĩ rằng câu hỏi đầu tiên Ngài sẽ hỏi những người sẽ sống với Ngài là: “Các ngươi đã được rửa tội chưa?” – vì bạn xem Đức Christ chỉ là Chân sư của Cơ đốc giáo, và do đó, bạn sẽ tự nhiên nghĩ rằng tiêu chuẩn chính của Ngài về đúng và sai phải là liệu mọi người có chấp nhận Ngài hay không với tư cách là Đức Christ. Ngài không nói một lời nào về một sự phán xét như vậy. Sự phán xét của Ngài là “Các ngươi có cho người đói ăn, cho người khát uống, thăm người bệnh và những người ở trong tù không?”. Sau đó, Ngài sẽ nói, “Vì các ngươi đã làm điều đó cho một trong những người hèn mọn nhất trong số các huynh đệ của Ta, thì các ngươi đã làm điều đó cho Ta”. Và Ngài có nói rằng các huynh đệ của Ngài chỉ là những người đã được rửa tội vào đức tin Cơ đốc không? Không; Ngài chỉ nói, “những người hèn mọn nhất trong số các huynh đệ của Ta”.

Turn now to the great Teacher Sri Krishna of India. It is that same divine vision of all men which He shows when He says,.”By whatsoever path men approach Me I welcome them, for the path that men take from every side is Mine.” It is that same splendid divine vision which is shown by that other great Teacher, the founder of Buddhism when He gives as the code of conduct for all those who would imitate Him, “As a mother loves her son, her only child, so let a man shed love on all sides, when he sits or stands or sleeps: Love on all sides! It is that splendid vision of man, where there are no divisions of race or creed or religion, which is given to mankind by the greatest leaders of men, those who have opened the gateway to Heaven.

Bây giờ hãy chuyển sang Huấn Sư vĩ đại Sri Krishna của Ấn Độ. Đó là cùng một tầm nhìn thiêng liêng về tất cả mọi người mà Ngài thể hiện khi Ngài nói: “Bất cứ con đường nào mà con người đến với Ta, Ta đều hoan nghênh họ, vì con đường mà con người đi từ mọi phía là của Ta”. Đó là cùng một tầm nhìn thiêng liêng tuyệt vời được thể hiện bởi một Huấn Sư vĩ đại khác, người sáng lập Phật giáo khi Ngài đưa ra quy tắc ứng xử cho tất cả những ai muốn noi theo Ngài, “Như một người mẹ yêu con trai mình, đứa con duy nhất của mình, vậy hãy để một người lan tỏa tình thương yêu đến mọi phía, khi y ngồi, đứng hoặc ngủ: Tình thương yêu đến mọi phía! Đó là tầm nhìn tuyệt vời về con người, nơi không có sự phân chia về chủng tộc, tín ngưỡng hay tôn giáo, được ban cho nhân loại bởi những nhà lãnh đạo vĩ đại nhất của con người, những người đã mở ra cánh cổng dẫn đến Thiên Đàng.

But we imagine that this lofty vision is only possible to these few, the great giants, the lofty peaks of our mountain range of humanity, But the message of Theosophy is, that what the greatest has achieved, that shall each one of us in this hall here present now, and each one of the myriads outside, achieve. And so it is interesting to study the way of achievement, in what way all men shall come to the Divine Vision.

Nhưng chúng ta tưởng tượng rằng tầm nhìn cao cả này chỉ có thể có được đối với một số ít người này, những người khổng lồ vĩ đại, những đỉnh cao chót vót của dãy núi nhân loại của chúng ta. Nhưng thông điệp của Thông Thiên Học là, những gì người vĩ đại nhất đã đạt được, thì mỗi người chúng ta ở hội trường này hiện diện ở đây, và mỗi người trong vô số người bên ngoài, sẽ đạt được. Và vì vậy, thật thú vị khi nghiên cứu con đường thành tựu, bằng cách nào tất cả mọi người sẽ đến được Tầm Nhìn Thiêng Liêng.

When, with the aid of Theosophy, you analyse life’s processes, and especially when you begin to understand the mystery of your own suffering, you begin to realise that life is forcing us, driving us, to learn certain lessons; and one great lesson is that of the One Life. Slowly, slowly, men are driven to understand that there is a Unity. This Unity will be discovered by men according to their temperament, and the names which they will give to the One Life matter not at all. There are those of a religious temperament who will say, “All is the life of God”. Such, for instance, are the Hindus, born and bred in the ancient philosophies, and to them the One Life comes as “Brahman “, that mysterious principle which is the root of everything, which makes a universe, which is man, which is God, which is the plant, which is the living thing and which is also the dead thing. The Hindu, when he mysteriously whispers the word “Brahman “, feels that he has realised something of the great Unity.

Khi, với sự trợ giúp của Thông Thiên Học, bạn phân tích các quá trình của cuộc sống, và đặc biệt khi bạn bắt đầu hiểu được sự huyền bí về nỗi đau khổ của chính mình, bạn bắt đầu nhận ra rằng cuộc sống đang buộc chúng ta, thúc đẩy chúng ta, học những bài học nhất định; và một bài học lớn là bài học về Sự Sống Duy Nhất. Dần dần, dần dần, con người bị thúc đẩy để hiểu rằng có một Sự Hợp Nhất. Sự Hợp Nhất này sẽ được con người khám phá theo tính khí của họ, và những cái tên mà họ sẽ đặt cho Sự Sống Duy Nhất không hề quan trọng. Có những người có tính khí tôn giáo sẽ nói, “Tất cả là sự sống của Thượng đế”. Ví dụ, những người như vậy là người Hindu, sinh ra và lớn lên trong các triết lý cổ xưa, và đối với họ, Sự Sống Duy Nhất đến như “Brahman”, nguyên khí huyền bí đó là gốc rễ của mọi thứ, tạo nên một vũ trụ, là con người, là Thượng đế, là cây cối, là vật sống và cũng là vật chết. Người Hindu, khi y thì thầm một cách bí ẩn từ “Brahman”, cảm thấy rằng y đã nhận ra điều gì đó về Sự Hợp Nhất vĩ đại.

But those travelling along other lines equally come to that same recognition: When you find some one who is not specially religiously inclined, but who has the warm heart of the philanthropist, who throws himself into great human causes, when such a man or woman says that he or she believes in the “solidarity of humanity,” then in that phrase too the One Life is sensed, and the first step to the divine vision has been taken. People of another temperament those more scientifically inclined, who see dimly some kind of great purpose-” a far-off divine event towards which the whole creation moves “-they too, through their intellect, begin to have a vision of the One Life. When that vision comes, whether through religion, science, philosophy, art or other means, the man has found the first step of the path that leads to the Divine Vision of man.

Nhưng những người đi trên những con đường khác cũng đạt được sự công nhận tương tự: Khi bạn tìm thấy một người không đặc biệt có khuynh hướng tôn giáo, nhưng có trái tim ấm áp của nhà từ thiện, người dấn thân vào những sự nghiệp vĩ đại của nhân loại, khi một người đàn ông hoặc phụ nữ như vậy nói rằng y tin vào “tình đoàn kết của nhân loại”, thì trong cụm từ đó, Sự Sống Duy Nhất cũng được cảm nhận, và bước đầu tiên đến tầm nhìn thiêng liêng đã được thực hiện. Những người có tính khí khác, những người có khuynh hướng khoa học hơn, những người lờ mờ nhìn thấy một loại mục đích vĩ đại nào đó – “một sự kiện thiêng liêng xa xôi mà toàn bộ sự sáng tạo hướng tới” – họ cũng vậy, thông qua trí tuệ của mình, bắt đầu có một tầm nhìn về Sự Sống Duy Nhất. Khi tầm nhìn đó đến, dù là thông qua tôn giáo, khoa học, triết học, nghệ thuật hay các phương tiện khác, người đó đã tìm thấy bước đầu tiên của con đường dẫn đến Tầm Nhìn Thiêng Liêng về con người.

First, then, comes the recognition of the One Life. But that is not enough, for there is the necessity also for the discovery by man of his immortality, his deathlessness, while living in a frame that dies. We have sooner or later, each one of us, to solve the problem of immortality. We must be utterly sure that we are immortal. We may look about with the mind; we may go to this philosophy or the other, but we shall find the proof of immortality only as we discover some kind of consecrated work. It is only as we offer ourselves to a consecrated work, in the toil and the sacrifice for it, that we shall have for the first time a glimpse of our immortal nature. And when that glimpse has come, and when also we have felt and known something of the Unity, then all our fellowmen have for each one of us a new message.

Đầu tiên, là sự nhận biết về Sự sống Duy Nhất. Nhưng điều đó không đủ, vì cũng cần thiết cho con người khám phá ra sự bất tử của mình, sự trường tồn của mình, trong khi sống trong một thân thể sẽ chết. Chúng ta sớm hay muộn, mỗi người trong chúng ta, phải giải quyết vấn đề về sự bất tử. Chúng ta phải hoàn toàn chắc chắn rằng chúng ta là bất tử. Chúng ta có thể nhìn xung quanh bằng thể trí; chúng ta có thể đến với triết lý này hay triết lý khác, nhưng chúng ta sẽ chỉ tìm thấy bằng chứng về sự bất tử khi khám phá ra một loại công việc thiêng liêng nào đó. Chỉ khi chúng ta hiến mình cho một công việc thiêng liêng, trong sự lao nhọc và hy sinh cho nó, thì chúng ta mới có được cái nhìn thoáng qua về bản chất bất tử của mình. Và khi cái nhìn thoáng qua đó đến, và khi chúng ta cũng đã cảm nhận và biết điều gì đó về Sự Hợp Nhất, thì tất cả đồng loại của chúng ta đều có một thông điệp mới cho mỗi người chúng ta.

The man who is beginning to tread this higher path soon finds that every man has for him a message. What kind of a message? Think of those few who are bound to us by ties of love and tenderness, our friends, our beloved. What is the message such an one gives to us? Who shall describe it? Do not all the poets fail when trying to tell us what is the mystery of the friend or the beloved? Everyone who loves, when he reads the poems of past lovers, feels that he has discovered something new that was never felt before, for he knows that all life is transformed because one man, one woman, a child, a brother or sister, some one human being, frail as he himself is, has revealed to him something new about life. Perhaps one of the swiftest ways of describing what is the message our beloved brings is in the lines of the poet who said:

Người bắt đầu bước đi trên Thánh Đạo cao hơn này sớm nhận ra rằng mọi người đều có một thông điệp cho y. Loại thông điệp nào? Hãy nghĩ về một số ít người gắn bó với chúng ta bằng những mối dây yêu thương và trìu mến, bạn bè, người yêu của chúng ta. Thông điệp mà một người như vậy mang đến cho chúng ta là gì? Ai sẽ mô tả nó? Chẳng phải tất cả các nhà thơ đều thất bại khi cố gắng nói cho chúng ta biết điều bí ẩn của người bạn hoặc người yêu là gì sao? Mọi người yêu nhau, khi đọc những bài thơ của những người yêu nhau trong quá khứ, đều cảm thấy rằng mình đã khám phá ra một điều gì đó mới mẻ chưa từng cảm thấy trước đây, vì y biết rằng tất cả cuộc sống đều được biến đổi vì một người đàn ông, một người phụ nữ, một đứa trẻ, một người anh hoặc em gái, một người nào đó, yếu đuối như chính y, đã tiết lộ cho y một điều gì đó mới mẻ về cuộc sống. Có lẽ một trong những cách nhanh nhất để mô tả thông điệp mà người yêu của chúng ta mang đến là trong những dòng thơ của nhà thơ đã nói:

For oh, the thing that made you

Vì ôi, điều đã tạo nên bạn

What you are,

Bạn là gì,

Will send me worshipping

Sẽ khiến tôi tôn thờ

To every star.

Đến mọi ngôi sao.

It is such a creed of the divinity and loveliness of all life that the friend, the beloved, can give.

Đó là một tín điều về sự thiêng liêng và vẻ đẹp của tất cả sự sống mà người bạn, người yêu có thể mang lại.

Another kind of message comes to us when we find our “spiritual father in God,” he who is called in India the “ Guru “. When you have found your Master, that great personality who sheds on you the light of the meaning of the mystery of life, then it is that his message to you reveals all that is greatest. They say in India that when a man has found his Guru, the end is in sight, for as says a famous prayer; “ Guru is Brahmâ., Guru is Vishnu, Guru is Mahâdev, verily is Guru Parabrahman itself.” Therefore, to him who has found his Guru, the Guru brings the meaning of life, and in the Guru its full message is revealed.

Một loại thông điệp khác đến với chúng ta khi chúng ta tìm thấy “người cha tinh thần của mình trong Thượng đế”, người được gọi ở Ấn Độ là “Guru”. Khi bạn đã tìm thấy Chân sư của mình, phàm ngã vĩ đại soi sáng cho bạn ánh sáng về ý nghĩa của sự huyền bí của cuộc sống, thì thông điệp của Ngài dành cho bạn sẽ tiết lộ tất cả những gì vĩ đại nhất. Ở Ấn Độ, người ta nói rằng khi một người đã tìm thấy Guru của mình, thì kết thúc đã ở trong tầm mắt, vì một lời cầu nguyện nổi tiếng có nói; “Guru là Brahmâ., Guru là Vishnu, Guru là Mahâdev, quả thật Guru chính là Parabrahman.” Vì vậy, đối với người đã tìm thấy Guru của mình, Guru mang đến ý nghĩa của cuộc sống, và trong Guru, thông điệp đầy đủ của nó được tiết lộ.

No less great, but more difficult to understand, more mysterious, is the message of life which your enemy brings. We do not think of our enemies, those who hate us, as having any kind of a message to give to us. But if we will only stand detached from our enemy, if we will dispassionately try to understand him, we shall begin to realise that he hates us only with what is in us. It is a part of our self, which we: have already sent out into life, which our enemy returns to us, and we call that part of us hatred. Our enemy can teach us something of the mystery of life, how to stand detached, how to stand serene amidst things that come to us both of pain and pleasure. And so from all sides, men – the friend, the beloved, the Guru, the teacher, the enemy – will teach us something of life.

Không kém phần vĩ đại, nhưng khó hiểu hơn, bí ẩn hơn, là thông điệp của cuộc sống mà kẻ thù của bạn mang đến. Chúng ta không nghĩ rằng kẻ thù của mình, những người ghét chúng ta, có bất kỳ loại thông điệp nào để mang đến cho chúng ta. Nhưng nếu chúng ta chỉ đứng tách rời khỏi kẻ thù của mình, nếu chúng ta cố gắng vô tư để hiểu y, chúng ta sẽ bắt đầu nhận ra rằng y ghét chúng ta chỉ vì những gì có trong chúng ta. Đó là một phần của bản thân chúng ta, mà chúng ta đã gửi vào cuộc sống, mà kẻ thù của chúng ta trả lại cho chúng ta, và chúng ta gọi phần đó của chúng ta là sự thù hận. Kẻ thù của chúng ta có thể dạy cho chúng ta điều gì đó về sự huyền bí của cuộc sống, cách đứng tách rời, cách đứng thanh thản giữa những điều đến với chúng ta cả đau khổ và khoái lạc. Và vì vậy, từ mọi phía, những người – người bạn, người yêu, Guru, huấn sư, kẻ thù – sẽ dạy cho chúng ta điều gì đó về cuộc sống.

He who has thus far learnt the message that the few round him have taught to him, will begin then to see that every man also has for him a message. These myriads in the city whom you meet in the street, in the trams, in the trains, they are now to you but as a cypher, a figure of nought; but one day that cypher will be as if you put “1 “ before it, and at once it comes into significance as 10. Take a string of cyphers; put “1 “ before them, and millions and trillions come into existence. And so, to the one who begins to discover the mysterious quality of man, each man has for him a message. The purpose of that message fundamentally is to release in each one of us something that is there.

Người đã học được thông điệp mà một số ít người xung quanh đã dạy cho y, sẽ bắt đầu thấy rằng mọi người cũng có một thông điệp cho y. Hàng hà sa số người trong thành phố mà bạn gặp trên đường phố, trên xe điện, trên tàu hỏa, giờ đây đối với bạn chỉ là một con số không, một hình tượng vô nghĩa; nhưng một ngày nào đó, con số không đó sẽ giống như bạn đặt “1” trước nó, và ngay lập tức nó trở nên có ý nghĩa là 10. Lấy một chuỗi các con số không; đặt “1” trước chúng, và hàng triệu và hàng nghìn tỷ xuất hiện. Và như vậy, đối với người bắt đầu khám phá ra phẩm chất huyền bí của con người, mỗi người đều có một thông điệp cho y. Mục đích của thông điệp đó về cơ bản là để giải phóng trong mỗi chúng ta một điều gì đó vốn đã ở đó.

What happens to me when I love my friend? A great joy indeed, but more than that. He releases in me a capacity of love and tenderness, and from the moment that tenderness is released in me I can give it to others also. I, who have thought myself incapable of anything great, of any sacrifice, find that because I love I am capable of a great thing. That great thing was always in me, but I had to await the moment when there came one who knocked, who had the key of the door, and who could release me. The friend is always he who releases hidden capacities in another.

Điều gì xảy ra với tôi khi tôi yêu bạn mình? Một niềm vui lớn thật sự, nhưng hơn thế nữa. Y giải phóng trong tôi một khả năng yêu thương và trìu mến, và từ thời điểm sự trìu mến đó được giải phóng trong tôi, tôi cũng có thể trao nó cho những người khác. Tôi, người đã nghĩ mình không có khả năng làm bất cứ điều gì vĩ đại, bất kỳ sự hy sinh nào, thấy rằng vì tôi yêu nên tôi có khả năng làm một điều gì đó vĩ đại. Điều vĩ đại đó luôn ở trong tôi, nhưng tôi phải chờ đợi khoảnh khắc khi có một người đến gõ cửa, người có chìa khóa của cánh cửa và người có thể giải phóng tôi. Người bạn luôn là người giải phóng những khả năng tiềm ẩn ở người khác.

There are some whom we cannot love with the intimate tenderness we give to the friend. These, it may be, we merely admire; yet what is the admiration which we give to a hero but a discovery of a heroic capacity within ourselves? When I admire a hero and my heart is thrilled at his great act of sacrifice, it is a way of discovering in myself the power to be a hero. When I pledge myself to live his life, when I enroll myself as his follower, it is only the freeing of myself from the bonds which bind me, so as to rise to live at his level. When we go into the picture galleries and admire the great artists, what is happening? We discover something of the nature of beauty which is within us. It is because the beautiful is awakened within us that we reverence it as it is presented to us. When in this great hall, year after year, the message of music is given, and tens of thousands hear and feel enraptured, what is the mystery that is being performed? Is it only that Beethoven is speaking of the greatness of life as he knows it? It is far more; he is calling out the greatness of life in each one of his hearers; he is releasing the hidden musician in all those who throng to listen to his wondrous music.

Có một số người mà chúng ta không thể yêu bằng sự dịu dàng thân mật mà ta dành cho bạn bè. Những người này, có lẽ, chúng ta chỉ đơn thuần ngưỡng mộ; nhưng sự ngưỡng mộ mà chúng ta dành cho một người hùng là gì, chẳng phải là một khám phá về năng lực anh hùng bên trong chính chúng ta sao? Khi tôi ngưỡng mộ một người hùng và trái tim tôi rung động trước hành động hi sinh cao cả của y, đó là một cách khám phá ra trong tôi sức mạnh để trở thành một người hùng. Khi tôi tự hứa sẽ sống cuộc đời của y, khi tôi đăng ký làm người theo y, đó chỉ là sự giải phóng bản thân khỏi những ràng buộc đang trói buộc tôi, để vươn lên sống ngang tầm với y. Khi chúng ta đến các phòng trưng bày tranh và ngưỡng mộ các nghệ sĩ vĩ đại, điều gì đang xảy ra? Chúng ta khám phá ra điều gì đó về bản chất của cái đẹp vốn ở bên trong chúng ta. Chính vì cái đẹp được đánh thức bên trong chúng ta mà chúng ta tôn kính nó khi nó được trình bày cho chúng ta. Khi ở trong hội trường lớn này, năm này qua năm khác, thông điệp của âm nhạc được trao đi, và hàng chục ngàn người nghe và cảm thấy thích thú, thì bí ẩn nào đang được thực hiện? Có phải chỉ là Beethoven đang nói về sự vĩ đại của cuộc sống như Ngài biết? Nó còn hơn thế nữa; Ngài đang kêu gọi sự vĩ đại của cuộc sống trong mỗi một người nghe của Ngài; Ngài đang giải phóng người nhạc sĩ tiềm ẩn trong tất cả những ai đổ xô đến lắng nghe âm nhạc kỳ diệu của Ngài.

That is one meaning of life. Life is constantly releasing us. And so as we look round and see our friends, each friend releases in us the capacity of divine life. The hero releases within us an endurance that is divine; the artist releases in us a beauty that dwells within us and is divine. All the time, by the interchange of thought and feeling, by the interplay of hidden forces from man to man, each one of us becomes released, and slowly our mortal self is laid aside, and we discover something of our hidden immortal nature.

Đó là một ý nghĩa của cuộc sống. Cuộc sống liên tục giải phóng chúng ta. Và vì vậy, khi chúng ta nhìn xung quanh và thấy bạn bè của mình, mỗi người bạn giải phóng trong chúng ta khả năng của sự sống thiêng liêng. Người hùng giải phóng trong chúng ta một sự chịu đựng vốn thiêng liêng; nghệ sĩ giải phóng trong chúng ta một vẻ đẹp vốn ngự trị bên trong chúng ta và vốn thiêng liêng. Mọi lúc, bằng sự trao đổi tư tưởng và cảm xúc, bằng sự tương tác của các mãnh lực tiềm ẩn từ người này sang người khác, mỗi người chúng ta trở nên được giải phóng, và từ từ phàm ngã của chúng ta được gạt sang một bên, và chúng ta khám phá ra điều gì đó về bản chất bất tử tiềm ẩn của mình.

When he who is seeking the divine vision has come thus far, and feels that every man has to him some kind of a message, when he has those “other larger eyes”, with which to gaze at men, then it is that there dawns on him, as a part of the divine vision,a wonderful scene. It is as if all his life of duty, all his life of tribulation, all that makes the world so full of darkness and gloom, were transformed; it is as if suddenly this world were transformed into a mighty workshop where lives a mighty artist who has made hundreds and thousands of magnificent statues, and this artist takes him by the hand and removes the veil which covers each statue, and shows the great creations of his dreams. It is these great creations which God is fashioning out of us that were called by Plato “archetypes “ – those fundamental modes of divine thought and feeling which the Divine is trying to manifest through our nature here below.

Khi y, người đang tìm kiếm tầm nhìn thiêng liêng đã đến được chừng này, và cảm thấy rằng mọi người đều có cho y một thông điệp nào đó, khi y có những “đôi mắt lớn hơn khác”, để ngắm nhìn mọi người, thì đó là lúc một cảnh tượng tuyệt vời lóe lên trong y, như một phần của tầm nhìn thiêng liêng. Cứ như thể tất cả cuộc đời làm nhiệm vụ của y, tất cả cuộc đời khổ nạn của y, tất cả những gì khiến thế giới trở nên đầy bóng tối và u ám, đều được biến đổi; cứ như thể đột nhiên thế giới này được biến thành một xưởng chế tác vĩ đại, nơi sinh sống của một nghệ sĩ vĩ đại, người đã tạo ra hàng trăm và hàng ngàn bức tượng tráng lệ, và nghệ sĩ này nắm tay y và gỡ bỏ tấm màn che phủ mỗi bức tượng, và cho thấy những sáng tạo vĩ đại từ giấc mơ của Ngài. Chính những sáng tạo vĩ đại này mà Thượng đế đang tạo ra từ chúng ta đã được Plato gọi là “các nguyên mẫu” – những phương thức cơ bản của tư tưởng và cảm xúc thiêng liêng mà Đấng Thiêng Liêng đang cố gắng biểu lộ thông qua bản chất của chúng ta ở cõi trần này.

When we come to the stage of seeing men from the new standpoint, that each has for us a message, then behind each man and each woman we begin to sense and to see this wonder of a divine archetype. Just as a picture gallery shows the great creations of the artist, so all life becomes full of the creations of God, and behind each man you see a great archetype, the primal type of his thought and feeling, through which God is trying to fashion out of frail mortality a divine immortal thing. Ruler and teacher, saint and artist, philosopher and scientist, philanthropist and hero, these and many other archetypes are on all sides of us.

Khi chúng ta đến giai đoạn nhìn người từ một quan điểm mới, rằng mỗi người đều có cho chúng ta một thông điệp, thì đằng sau mỗi người nam và mỗi người nữ, chúng ta bắt đầu cảm nhận và nhìn thấy sự kỳ diệu này của một nguyên mẫu thiêng liêng. Giống như một phòng trưng bày tranh cho thấy những sáng tạo vĩ đại của nghệ sĩ, thì tất cả cuộc sống trở nên tràn ngập những sáng tạo của Thượng đế, và đằng sau mỗi người, bạn thấy một nguyên mẫu vĩ đại, kiểu mẫu nguyên thủy của tư tưởng và cảm xúc của y, thông qua đó Thượng đế đang cố gắng tạo ra từ sự hữu hạn mong manh một điều gì đó thiêng liêng bất tử. Người cai trị và huấn sư, thánh nhân và nghệ sĩ, triết gia và nhà khoa học, nhà từ thiện và người hùng, những nguyên mẫu này và nhiều nguyên mẫu khác ở xung quanh chúng ta.

And when you have gained the vision – even if only a fleeting vision – of man as seen by God, then as you look into the faces of men sunk in ignorance and sin, weak and failing in a hundred ways, then you begin to see the archetypes behind them all, and your judgment becomes so different from that of men. For then, for the first time, you begin to understand something of the interplay of the good and the evil in man, and you begin to put aside the labels which the world has given, of good and evil and you begin to see that there is a divine purpose fashioning through a man’s good and evil, through his pain and agony, through his glory and renunciation, something not for one life but which shall be for eternity.

Và khi bạn đã đạt được tầm nhìn – ngay cả khi chỉ là một tầm nhìn thoáng qua – về con người như Thượng đế thấy, thì khi bạn nhìn vào khuôn mặt của những người chìm đắm trong vô minh và tội lỗi, yếu đuối và thất bại theo hàng trăm cách, thì bạn bắt đầu thấy các nguyên mẫu đằng sau tất cả bọn họ, và sự phán xét của bạn trở nên rất khác so với sự phán xét của con người. Vì khi đó, lần đầu tiên, bạn bắt đầu hiểu điều gì đó về sự tương tác giữa thiện và ác trong con người, và bạn bắt đầu gạt bỏ những nhãn mác mà thế giới đã gán cho, về thiện và ác, và bạn bắt đầu thấy rằng có một Thiên Ý đang tạo ra thông qua thiện và ác của một người, thông qua nỗi đau và sự thống khổ của y, thông qua vinh quang và sự từ bỏ của y, một điều gì đó không phải cho một cuộc đời mà sẽ là cho vĩnh cửu.

When behind the sinner you can see the archetype, then you can understand why he sins; then you sympathise with his fall, because you know that even as he falls he is struggling to achieve; and why, blinded as he is by the light, he goes astray. No man consciously, purposely sins; he is only striving to see something of the light. But hindered, trammelled by the dark forces of his past, he is blinded and goes astray. But when you have seen the archetype behind each man, then with eyes of tenderness you will look on all men, and then indeed will you say with a powerful reality, “Come unto me all ye that labour and are heavy laden, and I will give you rest.”

Khi đằng sau tội nhân, bạn có thể thấy nguyên mẫu, thì bạn có thể hiểu tại sao y phạm tội; thì bạn thông cảm với sự sa ngã của y, bởi vì bạn biết rằng ngay cả khi y sa ngã, y vẫn đang đấu tranh để đạt được; và tại sao, bị ánh sáng làm cho mù quáng, y lại đi lạc. Không ai cố ý, cố tình phạm tội; y chỉ đang cố gắng nhìn thấy điều gì đó về ánh sáng. Nhưng bị cản trở, vướng mắc bởi những mãnh lực đen tối của quá khứ, y bị mù quáng và đi lạc. Nhưng khi bạn đã thấy nguyên mẫu đằng sau mỗi người, thì với đôi mắt dịu dàng, bạn sẽ nhìn tất cả mọi người, và khi đó, bạn thực sự sẽ nói với một thực tế mạnh mẽ: “Hãy đến với ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả và gánh nặng, và ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.”

It is this vision of the divine archetypes behind all that is indeed the great message which life teaches you, when you are ready to learn it. For the first time mankind appears to you in a new way. Then, all men, irrespective of race and creed, caste and colour, the greatest of mankind as the least, is seen by you as divine.

Đây là tầm nhìn về các nguyên mẫu thiêng liêng đằng sau tất cả những gì thực sự là thông điệp vĩ đại mà cuộc sống dạy cho bạn, khi bạn sẵn sàng học hỏi nó. Lần đầu tiên nhân loại xuất hiện với bạn theo một cách mới. Sau đó, tất cả mọi người, bất kể chủng tộc và tín ngưỡng, đẳng cấp và màu da, người vĩ đại nhất của nhân loại cũng như người nhỏ bé nhất, đều được bạn nhìn nhận là thiêng liêng.

We are accustomed to look on a few great ones of humanity as divine. Christ, Krishna, Buddha, Zoroaster, Mohammed, such and such a great person, we say, is divine; for we feel something of the divinity in them. Sometimes we feel it to such a tremendous extent that we are almost annihilated by it in their presence; we can only think of ourselves as merely human, and of them as transcendently divine. We feel that all life is transformed for us because they are divine incarnations, because God has descended and become “The Word made flesh “. But all that rapture which the Christian has for Christ, which the Hindu has for Sri Krishna, that rapture which the Buddhist has as he contemplates his Lord and Master, that same rapture can be discovered in every man and woman that lives, for there is no difference in kind between the greatest of mankind and the least of mankind. All men have the same wondrous divine nature; only, in the Christ, in Krishna and in Buddha, that divine nature is fully released, and in those others who are to you as cyphers, whose faces teach you nothing, it is still hidden, still imprisoned. But when you begin to possess the divine wisdom, then the rapture which you know concerning your beloved is possible from every one.

Chúng ta quen nhìn nhận một vài người vĩ đại của nhân loại là thiêng liêng. Đức Christ, Krishna, Đức Phật, Zoroaster, Mohammed, một người vĩ đại như vậy, chúng ta nói, là thiêng liêng; vì chúng ta cảm nhận được điều gì đó về sự thiêng liêng trong Các Ngài. Đôi khi chúng ta cảm thấy nó đến mức khủng khiếp đến nỗi chúng ta gần như bị tiêu diệt bởi nó khi ở trước sự hiện diện của Các Ngài; chúng ta chỉ có thể nghĩ về bản thân mình như là con người đơn thuần, và về Các Ngài như là những Đấng thiêng liêng siêu việt. Chúng ta cảm thấy rằng tất cả sự sống đều được biến đổi đối với chúng ta bởi vì Các Ngài là những hóa thân thiêng liêng, bởi vì Thượng đế đã giáng thế và trở thành “Linh từ hóa thành nhục thể”. Nhưng tất cả sự ngây ngất mà người Cơ đốc giáo dành cho Đức Christ, mà người Hindu dành cho Sri Krishna, sự ngây ngất mà người Phật tử có được khi chiêm ngưỡng Đức Chúa và Huấn Sư của mình, thì sự ngây ngất tương tự đó có thể được khám phá ở mọi người nam và nữ đang sống, vì không có sự khác biệt nào về bản chất giữa người vĩ đại nhất của nhân loại và người nhỏ bé nhất của nhân loại. Tất cả mọi người đều có cùng một bản chất thiêng liêng kỳ diệu; chỉ là, ở Đức Christ, ở Krishna và ở Đức Phật, bản chất thiêng liêng đó được giải phóng hoàn toàn, và ở những người khác vốn đối với bạn như những con số không, có khuôn mặt không dạy bạn điều gì, thì nó vẫn còn ẩn giấu, vẫn còn bị giam cầm. Nhưng khi bạn bắt đầu sở hữu sự minh triết thiêng liêng, thì sự ngây ngất mà bạn biết về người yêu dấu của mình là có thể có được từ mọi người.

Does it seem as if all the tenderness and exquisite and wonderful greatness which you have found in love diminishes, if it is said that you can find that same wonder in all? Ah! but there is a vision possible when, as you look on those who are sinners or strangers, you realise that there is something in each sinner or stranger that makes you bow the head and reverence and love him, though he be a sinner or a stranger. It is because Christ, Sri Krishna and Buddha have found these wonders that They came to the world, to show us that there is a divine way of looking at things.

Có vẻ như tất cả sự dịu dàng và sự vĩ đại tuyệt vời và kỳ diệu mà bạn đã tìm thấy trong tình yêu sẽ giảm bớt, nếu người ta nói rằng bạn có thể tìm thấy sự kỳ diệu tương tự đó ở tất cả mọi người không? À! nhưng có một tầm nhìn có thể có được khi, khi bạn nhìn vào những người tội lỗi hoặc xa lạ, bạn nhận ra rằng có điều gì đó ở mỗi người tội lỗi hoặc xa lạ khiến bạn cúi đầu và tôn kính và yêu thương y, mặc dù y là một người tội lỗi hoặc một người xa lạ. Chính vì Đức Christ, Sri Krishna và Đức Phật đã tìm thấy những điều kỳ diệu này mà Các Ngài đã đến thế giới, để cho chúng ta thấy rằng có một cách thiêng liêng để nhìn nhận mọi thứ.

Wherever you see an archetype, you must love it, bend the knee and worship it. Therefore there is a vision of all mankind, when the rapture and adoration, which you give to the great Avatâras, the divine Incarnations, you feel capable of giving to all. Life will teach you how; when someone comes, a stranger of whom you know nothing, it will be as if he suddenly unveiled himself, and stood forth in a divine majesty, and you can but stand enraptured, and love and,worship.

Bất cứ nơi nào bạn nhìn thấy một nguyên mẫu, bạn phải yêu nó, quỳ gối và tôn thờ nó. Vì vậy, có một tầm nhìn về tất cả nhân loại, khi sự ngây ngất và tôn thờ, mà bạn dành cho các Đấng Hoá Thân vĩ đại, Các Hóa Thân thiêng liêng, bạn cảm thấy có khả năng trao cho tất cả mọi người. Cuộc sống sẽ dạy bạn như thế nào; khi ai đó đến, một người lạ mà bạn không biết gì, sẽ như thể y đột nhiên vén màn che mặt, và đứng lên trong một sự uy nghi thiêng liêng, và bạn chỉ có thể đứng ngây ngất, và yêu thương và tôn thờ.

This life, that seems so dark and dreary, can at times transform itself, if only we will watch the transformation. He who has something of the great divine vision sees the wonderful transformation on all sides. That great transformation can never be fully described, though it is found partially in the sacred scriptures of the world. Yet they fall short of the reality which each one of you will some day achieve – this vision of the One, indescribable, beautiful, transcendent, all-inspiring, enthralling, enrapturing, something which is ever before you and which you can never fully reveal in words. Yet poets attempt it; and so in the Bhagavad Gita the poet sings of it and says:

Cuộc sống này, có vẻ tối tăm và ảm đạm, đôi khi có thể tự biến đổi, nếu chúng ta chịu theo dõi sự biến đổi. Ngài vốn có điều gì đó về tầm nhìn thiêng liêng vĩ đại sẽ thấy sự biến đổi kỳ diệu ở mọi phía. Sự biến đổi vĩ đại đó không bao giờ có thể được mô tả đầy đủ, mặc dù nó được tìm thấy một phần trong các kinh sách thiêng liêng của thế giới. Tuy nhiên, chúng không đạt đến được thực tế mà mỗi người trong số bạn một ngày nào đó sẽ đạt được – tầm nhìn này về Đấng Duy Nhất, không thể diễn tả, xinh đẹp, siêu việt, đầy cảm hứng, quyến rũ, ngây ngất, một điều gì đó luôn ở trước mắt bạn và bạn không bao giờ có thể tiết lộ đầy đủ bằng lời nói. Tuy nhiên, các nhà thơ đã cố gắng làm điều đó; và vì vậy, trong Bhagavad Gita, nhà thơ đã hát về nó và nói:

Wonderful, wistful, to contemplate!

Thật tuyệt vời, đầy khát vọng để chiêm ngưỡng!

Difficult, doubtful, to speak upon,

Khó khăn, đáng ngờ, để nói về,

Strange and great for tongue to relate!

Kỳ lạ và tuyệt vời để lưỡi kể lại!

Mystical hearing for everyone!

Thần bí để mọi người lắng nghe!

Nor wotteth man this, what a marvel it is,

Và con người không biết điều này, thật là một điều kỳ diệu,

When seeing, and saying, and hearing are done.

Khi nhìn, và nói, và nghe đã xong.

Just as before some magnificent sunset you gaze and gaze and have no words to describe it, and just as it is transforming itself and new colours are coming all the time, and your imagination fails, and you can only say.., It is wonderful; it is beautiful! “ so is life when the divine vision comes. Then it is that every human being that lives is indeed the true and the living God “. Then it is that, much as you may love your religion, your creed, your nation, or a particular type of culture, you pass beyond these barriers which are placed on your imagination, and leave all cultures, all religions, all faiths, and fall and worship the true and the living God everywhere.

Giống như trước một cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp, bạn nhìn và nhìn và không có lời nào để mô tả nó, và giống như nó đang tự biến đổi và những màu sắc mới đang đến mọi lúc, và trí tưởng tượng của bạn thất bại, và bạn chỉ có thể nói.., Thật tuyệt vời; thật đẹp! ” thì cuộc sống cũng vậy khi tầm nhìn thiêng liêng đến. Khi đó, mọi con người đang sống thực sự là Thượng đế chân thật và hằng sống “. Khi đó, dù bạn có thể yêu tôn giáo, tín ngưỡng, quốc gia của mình hay một loại hình văn hóa cụ thể, bạn vượt qua những rào cản vốn được đặt ra cho trí tưởng tượng của mình, và rời bỏ tất cả các nền văn hóa, tất cả các tôn giáo, tất cả các đức tin, và sụp xuống và tôn thờ Thượng đế chân thật và hằng sống ở khắp mọi nơi.

It is true that most of us have trained ourselves to seek God in a particular church and in a particular temple. The millions in the world today can only see Divinity afar off, in the church and in the temple. They see God through a tradition, through a particular form of worship presented to them. Rites and ceremonies, formulas and beliefs, these are the ways through which they tread the road to God, to the God of tradition. But when God has shown you His face, not through tradition, but direct, immediate, then it is that all tradition drops away. It was said by Sri Krishna to the Hindus, that “ when the flood waters are on all sides, what need is there to go to a well for water? “ When the Hindu has discovered the truth direct, what need is there for him to go to the Vedas? And so, similarly, when a man has come to Christ, he needs no longer a Christian Church nor an Old or New Testament, for the Christ suffices. When a Hindu has tome to Sri Krishna, he does not need to go to shrines and temples, on pilgrimages, or perform sacrifices, for all these things then mean nothing to him. He may still go through an orthodox routine because, sometimes, as pointed out in the Bhagavad Gita, if the wise man expects all to live up to his standard, he makes the children to fall. But if he subscribes at all, it will never be to the narrow forms of religion, never to the narrow limits imposed on the mind by churches. True that only a few can see God always near. Ah! if only that few would demand to see God near.

Đúng là hầu hết chúng ta đã tự rèn luyện bản thân để tìm kiếm Thượng đế trong một nhà thờ cụ thể và trong một ngôi đền cụ thể. Hàng triệu người trên thế giới ngày nay chỉ có thể thấy Thiên Tính ở đằng xa, trong nhà thờ và trong đền thờ. Họ nhìn thấy Thượng đế thông qua một truyền thống, thông qua một hình thức thờ cúng cụ thể được trình bày cho họ. Các nghi lễ và buổi lễ, các công thức và tín ngưỡng, đây là những cách mà qua đó họ bước đi trên con đường đến với Thượng đế, đến với Thượng đế của truyền thống. Nhưng khi Thượng đế đã cho bạn thấy dung nhan của Ngài, không phải thông qua truyền thống, mà trực tiếp, ngay lập tức, thì đó là lúc mọi truyền thống đều tan biến. Sri Krishna đã nói với người Hindu rằng, “khi nước lũ ở khắp mọi nơi, thì cần gì phải đến giếng để lấy nước?” Khi người Hindu đã khám phá ra chân lý trực tiếp, thì cần gì phải đến kinh Vệ Đà? Và tương tự như vậy, khi một người đến với Đức Christ, y không còn cần đến một Giáo hội Cơ đốc hay một Kinh Cựu Ước hay Tân Ước, vì Đức Christ là đủ. Khi một người Hindu đến với Sri Krishna, y không cần phải đến các đền thờ và miếu thờ, hành hương hoặc thực hiện các lễ tế, vì tất cả những điều này sau đó chẳng có ý nghĩa gì với y. Y vẫn có thể trải qua một thói quen chính thống bởi vì, đôi khi, như đã chỉ ra trong Bhagavad Gita, nếu người khôn ngoan mong đợi mọi người sống theo tiêu chuẩn của mình, y sẽ khiến những đứa trẻ vấp ngã. Nhưng nếu y đăng ký hoàn toàn, nó sẽ không bao giờ dành cho các hình thức tôn giáo hẹp hòi, không bao giờ dành cho những giới hạn hẹp hòi mà các nhà thờ áp đặt lên thể trí. Đúng là chỉ một số ít có thể thấy Thượng đế luôn ở gần. Ôi! giá như chỉ một số ít đó yêu cầu được thấy Thượng đế ở gần.

We complain often that we are seeking God but do not find Him. But are we seeking Him with sacrifice, or are we seeking Him, asking Him to appear to us in the particular images which we present to Him? We go to Him with our particular type of longing and say, “O God, come to us in this particular longing.” We limit Him and do not allow Him to come to us as He desires to come. If we would only realize that He requires absolute liberty for His manifestation; that we must not go to Him clothed in our creed, our religion, our culture; but must stand utterly naked, ready to wear the garment which He is going to give us; then we shall see the face of God whom we desire to see.

Chúng ta thường phàn nàn rằng chúng ta đang tìm kiếm Thượng đế nhưng không tìm thấy Ngài. Nhưng chúng ta có đang tìm kiếm Ngài bằng sự hy sinh, hay chúng ta đang tìm kiếm Ngài, yêu cầu Ngài xuất hiện với chúng ta trong những hình ảnh cụ thể mà chúng ta trình bày cho Ngài? Chúng ta đến với Ngài với kiểu khao khát đặc biệt của mình và nói, “Ôi Thượng đế, hãy đến với chúng con trong sự khao khát đặc biệt này.” Chúng ta giới hạn Ngài và không cho phép Ngài đến với chúng ta như Ngài mong muốn đến với chúng ta. Nếu chúng ta chỉ nhận ra rằng Ngài đòi hỏi sự tự do tuyệt đối cho sự biểu hiện của Ngài; rằng chúng ta không được đến với Ngài khoác trên mình tín điều, tôn giáo, văn hóa của chúng ta; mà phải đứng hoàn toàn trần trụi, sẵn sàng mặc chiếc áo choàng mà Ngài sẽ trao cho chúng ta; thì chúng ta sẽ thấy dung nhan của Thượng đế mà chúng ta mong muốn được thấy.

How often has it been said that if man makes one step towards God, He makes ten towards man? How is it then that we come to lecture halls like this, seeking God? Only because we have not yet learned to make the step towards Him in the direction in which He is making the ten steps towards us. When once you have seen the face of God, you do not need lectures, books, churches, services or ceremonies. He is the omnipresent God, and His face is shown to you in everything everywhere in the world. How truly was it said by George Macdonald, the mystic, who must have had something of the divine vision:

Người ta đã nói bao nhiêu lần rằng nếu con người thực hiện một bước về phía Thượng đế, Ngài sẽ thực hiện mười bước về phía con người? Vậy thì làm sao mà chúng ta đến các giảng đường như thế này, tìm kiếm Thượng đế? Chỉ vì chúng ta vẫn chưa học được cách thực hiện bước đi về phía Ngài theo hướng mà Ngài đang thực hiện mười bước về phía chúng ta. Một khi bạn đã thấy dung nhan của Thượng đế, bạn không cần các bài giảng, sách vở, nhà thờ, buổi lễ hay nghi lễ. Ngài là Thượng đế hiện hữu khắp nơi, và dung nhan của Ngài được hiển thị cho bạn trong mọi thứ ở khắp mọi nơi trên thế giới. George Macdonald, nhà thần bí, người hẳn phải có một chút tầm nhìn thiêng liêng, đã nói thật đúng:

O God of mountains, stars and boundless spaces,

Ôi Thượng đế của núi non, tinh tú và không gian vô tận,

O God of freedom and of joyous hearts,

Ôi Thượng đế của tự do và những trái tim hân hoan,

When Thy face looketh forth from all men’s faces.

Khi dung nhan Ngài hiện ra từ khuôn mặt của tất cả mọi người.

There will be room enough in crowded marts;

Sẽ có đủ chỗ trong các khu chợ đông đúc;

Brood Thou around me, and the noise is o’er.

Xin Ngài bao bọc con, và tiếng ồn sẽ tan biến.

Thy universe my closet with shut door.

Vũ trụ của Ngài là phòng riêng của con với cánh cửa đóng kín.

All the magnificent gifts of God in the universe are ready to come to us here and now, if only we will look for God on the road on which He is seeking us. When the divine vision of man comes to you, when through friend, beloved, teacher, stranger, or enemy, something of that vision has come to you of what man is, then you will long to release all men from their thraldom. For each man and woman now in the slums of London and Paris and Berlin, or anywhere where there is any misery, is a diamond soul of indescribable wonder. You go into the streets; you see unhealthy, ignorant, sodden faces; but you only see then man rising up out of the brute. But there is the other vision also, and so you know that behind each one of them is the wonderful message which life is waiting to reveal. Everyone of these, the ignorant and the sinful has some word to speak to you concerning life and until that word is spoken, life’s message to you is not complete.

Tất cả những món quà tuyệt vời của Thượng đế trong vũ trụ đều sẵn sàng đến với chúng ta ở đây và ngay bây giờ, nếu chúng ta chỉ tìm kiếm Thượng đế trên con đường mà Ngài đang tìm kiếm chúng ta. Khi tầm nhìn thiêng liêng về con người đến với bạn, khi thông qua bạn bè, người yêu, huấn sư, người lạ hoặc kẻ thù, một điều gì đó về tầm nhìn đó đã đến với bạn về con người là gì, thì bạn sẽ khao khát giải phóng tất cả mọi người khỏi ách nô lệ của họ. Vì mỗi người nam và nữ hiện đang ở khu ổ chuột của Luân Đôn và Paris và Berlin, hoặc bất cứ nơi nào có bất kỳ sự khốn khổ nào, đều là một linh hồn kim cương với sự kỳ diệu không thể tả xiết. Bạn đi ra đường; bạn thấy những khuôn mặt ốm yếu, ngu dốt, đẫm nước; nhưng bạn chỉ thấy người đó trỗi dậy từ con thú. Nhưng cũng có một tầm nhìn khác, và vì vậy bạn biết rằng đằng sau mỗi người trong số họ là thông điệp tuyệt vời mà cuộc sống đang chờ đợi để tiết lộ. Mỗi người trong số này, người ngu dốt và tội lỗi, có một vài lời để nói với bạn về cuộc sống và cho đến khi lời đó được nói ra, thông điệp của cuộc sống dành cho bạn vẫn chưa hoàn thành.

And then, having seen the archetypes of God on all sides, you work for men, and you know the nobility of sacrifice for men. What matter then to you if God is a Trinity or a Unity, whether God exists or not? You have found the Supreme Godhead in the world here below, in all His myriads, and they tell you what is the life of God, and without them you will not understand what is God’s nature. It is then indeed that life for the first time begins.

Và sau đó, khi đã nhìn thấy các hình mẫu của Thượng đế ở khắp mọi nơi, bạn làm việc cho mọi người, và bạn biết được sự cao quý của sự hy sinh cho mọi người. Vậy thì có vấn đề gì với bạn nếu Thượng đế là một Ba Ngôi hay một Hợp Nhất, liệu Thượng đế có tồn tại hay không? Bạn đã tìm thấy Thượng đế Tối Cao trong thế giới ở dưới đây, trong vô số Ngài, và Các Ngài cho bạn biết cuộc sống của Thượng đế là gì, và nếu không có Các Ngài, bạn sẽ không hiểu bản chất của Thượng đế là gì. Thật vậy, đó là khi cuộc sống lần đầu tiên bắt đầu.

We imagine we know holiness because a transformation comes in us in a church or in a temple, but that is only the first beginning of holiness. When the rapture of holiness can be sensed by you in the slum and in the presence of the sinner, then, for the first time, holiness begins in its full splendour. Again and again we say, “God, God,” and look up into the sky. But why do not we look here into the faces of our fellowmen? If only we had the eyes to see, the mystery of God is there. All the Testaments, all the Vedas, all the Tripîtakas, all are there as open pages, in the faces of these men and women around us. God’s great book of revelation is humanity. It is His wonderful message that each man is the antidote for all the world’s ill. It is quite true that God exists, that His power is here, there and up above. All that the religions have taught us about the nature of God is perfectly true. But they have yet to teach us much concerning the Divine Nature of Man. They have to teach us that each of us has within him this wondrous mystery, that each man is both church and temple, that each man is not only the worshipper but also the worshipped, that the Divine Sacrifice is being performed not only in consecrated buildings, but also in the hearts and minds of the myriads around.

Chúng ta tưởng tượng rằng mình biết sự thánh thiện bởi vì một sự biến đổi đến với chúng ta trong một nhà thờ hoặc trong một ngôi đền, nhưng đó chỉ là sự khởi đầu đầu tiên của sự thánh thiện. Khi sự ngây ngất của sự thánh thiện có thể được bạn cảm nhận trong khu ổ chuột và trước sự hiện diện của người tội lỗi, thì lần đầu tiên, sự thánh thiện bắt đầu trong sự huy hoàng trọn vẹn của nó. Chúng ta lặp đi lặp lại, “Thượng đế, Thượng đế,” và nhìn lên bầu trời. Nhưng tại sao chúng ta không nhìn vào khuôn mặt của đồng loại của mình ở đây? Giá mà chúng ta có đôi mắt để nhìn thấy, thì sự huyền bí của Thượng đế ở đó. Tất cả các Kinh Cựu Ước, tất cả các Kinh Veda, tất cả các Tam Tạng Kinh Điển, tất cả đều ở đó như những trang sách mở, trên khuôn mặt của những người nam và nữ xung quanh chúng ta. Cuốn sách mặc khải vĩ đại của Thượng đế là nhân loại. Đó là thông điệp tuyệt vời của Ngài rằng mỗi người là phương thuốc cho mọi tệ nạn của thế giới. Hoàn toàn đúng là Thượng đế tồn tại, rằng quyền năng của Ngài ở đây, ở đó và ở trên cao. Tất cả những gì các tôn giáo đã dạy chúng ta về bản chất của Thượng đế đều hoàn toàn đúng. Nhưng Các Ngài vẫn chưa dạy chúng ta nhiều điều liên quan đến Bản Chất Thiêng Liêng của Con Người. Các Ngài phải dạy chúng ta rằng mỗi người chúng ta đều có trong mình sự huyền bí kỳ diệu này, rằng mỗi người vừa là nhà thờ vừa là đền thờ, rằng mỗi người không chỉ là người thờ phượng mà còn là người được thờ phượng, rằng Sự Hy Sinh Thiêng Liêng đang được thực hiện không chỉ trong các tòa nhà được hiến tế, mà còn trong trái tim và thể trí của vô số người xung quanh.

It is to teach this message that each great Teacher comes. Why did Christ come in Palestine? Was it merely to call men to fall at His feet to worship Him? No, but rather to show that each individual could live the Christ life. Why did Sri Krishna come to us? To say that He was another Avatar? No, only to show that each could play the rôle of Brahman revealed. Why did the great Buddha come? It was to say as He did, “I, like yourself, am a man among men; I have striven; I stand now as a Saviour of mankind to show to everyone of you that, if you tread the path and live the life, you too shall be as I am.” It is to show us that that divine vision of which They are capable is something for us also, that all the greatest in the world have come, and will come again and again. That is Their joy of sacrifice; a thousand times They will come, until more and more millions will rise with Them to become of Their band, possessing Their divine vision.

Chính để dạy thông điệp này mà mỗi Huấn Sư vĩ đại đến. Tại sao Đức Christ đến Palestine? Có phải chỉ để kêu gọi mọi người quỳ dưới chân Ngài để thờ phượng Ngài? Không, mà là để cho thấy rằng mỗi cá nhân có thể sống cuộc đời của Đức Christ. Tại sao Sri Krishna đến với chúng ta? Để nói rằng Ngài là một Đấng Hoá Thân khác? Không, chỉ để cho thấy rằng mỗi người có thể đóng vai Brahman được mặc khải. Tại sao Đức Phật vĩ đại đến? Ngài đã nói như vầy: “Ta, giống như các ngươi, là một người giữa những người; Ta đã phấn đấu; Ta giờ đây đứng lên như một Đấng Cứu Thế của nhân loại để cho mọi người trong các ngươi thấy rằng, nếu các ngươi bước đi trên Thánh Đạo và sống cuộc đời đó, các ngươi cũng sẽ được như Ta.” Các Ngài đến để cho chúng ta thấy rằng tầm nhìn thiêng liêng mà Các Ngài có khả năng là điều dành cho cả chúng ta, rằng tất cả những người vĩ đại nhất trên thế giới đã đến, và sẽ đến nữa. Đó là niềm vui hy sinh của Các Ngài; Các Ngài sẽ đến hàng ngàn lần, cho đến khi ngày càng có nhiều triệu người trỗi dậy cùng Các Ngài để trở thành một phần trong đoàn của Các Ngài, sở hữu tầm nhìn thiêng liêng của Các Ngài.

My brothers, the wonder of life for us is yet to begin. It will begin when those souls, who have been looking upwards to a heaven to understand the mystery of life and the mystery of God, will look downwards here among men, and search in their hearts and, putting aside all prejudice of race and colour, will sympathise with all men, toil for them, sacrifice for them. There in Regent Street is the mystery of God, and there, as you go, even in Regent Street, you will find that the divine vision is ready to burst upon your sight, if only you will dare to live the life which the Great Ones have lived. You can live such a life as They have lived if you, who have enrolled yourselves under the banner of your Master the Christ, will dare to throw open your arms and say, “Come unto me all ye that labour and are heavy laden, and I will give you rest.” If each one of you will be that kind of a Christian, you will know that the divine vision is yours. Then you will also know what is His nature, the true nature of your Master.

Các huynh đệ của tôi, sự kỳ diệu của cuộc sống đối với chúng ta vẫn chưa bắt đầu. Nó sẽ bắt đầu khi những linh hồn vốn đã hướng lên thiên đàng để thấu hiểu sự huyền bí của cuộc sống và sự huyền bí của Thượng đế, sẽ nhìn xuống đây giữa loài người, và tìm kiếm trong trái tim họ và, gạt bỏ mọi thành kiến về chủng tộc và màu da, sẽ đồng cảm với tất cả mọi người, lao động vì họ, hy sinh vì họ. Ở đó, trên phố Regent, có sự huyền bí của Thượng đế, và ở đó, khi bạn đi, ngay cả trên phố Regent, bạn sẽ thấy rằng tầm nhìn thiêng liêng đã sẵn sàng bùng nổ trước mắt bạn, nếu bạn dám sống cuộc đời mà Các Đấng Cao Cả đã sống. Bạn có thể sống một cuộc đời như Các Ngài đã sống nếu bạn, những người đã ghi danh mình dưới ngọn cờ của Chân sư của bạn là Đức Christ, sẽ dám dang rộng vòng tay và nói, “Hãy đến với ta, hỡi tất cả những ai đang vất vả và gánh nặng, và ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” Nếu mỗi người trong các bạn là một Cơ đốc nhân như vậy, bạn sẽ biết rằng tầm nhìn thiêng liêng là của bạn. Sau đó, bạn cũng sẽ biết bản chất của Ngài, bản chất thật sự của Chân sư của bạn.

It is the same for every follower of every faith; if he will not merely put his Teacher upon a pedestal, but will dare to rise to the level of the Teacher and even though he fail a thousand times, determine to be as the Teacher, then the divine vision is his. That divine vision is ready to burst upon some of you today, because you have already freed yourself to some extent, for you know something of the larger culture of the world; your hearts are open to many more religions than your own, and you are ready to begin to tread the great road to Deification. From some of you only a few sacrifices more are needed. If you will only make those sacrifices, putting aside all that limits, even in nationality and in the narrow ideas which are proclaimed as the only possible patriotism; if you will rise to a higher conception of humanity; if you will make yourself and your country as the chalice of a divine offering, not as a rival to any other chalice, then the path to the divine vision is clear before you, and the great transformation of life will begin.

Điều tương tự cũng đúng với mọi tín đồ của mọi đức tin; nếu y không chỉ đặt Huấn Sư của mình lên bệ thờ, mà sẽ dám vươn lên tầm vóc của Huấn Sư và ngay cả khi y thất bại hàng ngàn lần, quyết tâm được như Huấn Sư, thì tầm nhìn thiêng liêng là của y. Tầm nhìn thiêng liêng đó đã sẵn sàng bùng nổ trên một số bạn ngày hôm nay, bởi vì bạn đã giải phóng bản thân ở một mức độ nào đó, vì bạn biết điều gì đó về nền văn hóa rộng lớn hơn của thế giới; trái tim của bạn rộng mở với nhiều tôn giáo hơn tôn giáo của bạn, và bạn đã sẵn sàng bắt đầu bước đi trên con đường vĩ đại dẫn đến Sự Thần Thánh Hóa. Chỉ cần thêm một vài hy sinh nữa từ một số bạn. Nếu bạn chỉ thực hiện những hy sinh đó, gạt bỏ tất cả những gì giới hạn, ngay cả trong quốc tịch và trong những ý tưởng hẹp hòi vốn được tuyên bố là lòng yêu nước duy nhất có thể có; nếu bạn sẽ vươn lên một quan niệm cao hơn về nhân loại; nếu bạn sẽ biến bản thân và đất nước của bạn thành chén thánh của một lễ vật thiêng liêng, chứ không phải là đối thủ của bất kỳ chén thánh nào khác, thì con đường dẫn đến tầm nhìn thiêng liêng sẽ rõ ràng trước mắt bạn, và sự biến đổi vĩ đại của cuộc sống sẽ bắt đầu.

Life today is not all full of splendour; there are so many thorns below the roses, so many wearinesses and so many anguishes. Yet through all that dark cloud of agony, you can hear a wonderful melody, for love is at the heart of it. That song will remind you of your own joyous nature, and that the greatest of Good and Loveliness and you are one, not two. You can possess all these treasures of the realm of God. They are not kept up there above in heaven for you to possess when you have died and entered into heaven; heaven and all its splendour can come to you now, if only you will dare to live and work for the Divine Vision.

Cuộc sống ngày nay không phải lúc nào cũng tràn đầy vẻ huy hoàng; có rất nhiều gai bên dưới những bông hồng, rất nhiều mệt mỏi và rất nhiều đau khổ. Tuy nhiên, xuyên qua đám mây đen tối của sự đau khổ đó, bạn có thể nghe thấy một giai điệu tuyệt vời, vì tình thương/bác ái nằm ở trung tâm của nó. Bài hát đó sẽ nhắc nhở bạn về bản chất vui tươi của chính bạn, và rằng điều vĩ đại nhất của Thiện, Mỹ và bạn là một, không phải hai. Bạn có thể sở hữu tất cả những kho báu này của vương quốc Thượng đế. Chúng không được cất giữ trên đó trên thiên đàng để bạn sở hữu khi bạn đã chết và bước vào thiên đàng; thiên đàng và tất cả sự huy hoàng của nó có thể đến với bạn ngay bây giờ, nếu bạn dám sống và làm việc cho Tầm Nhìn Thiêng Liêng.

And so, my brothers, do not imagine that to be spiritual is a question of going to services or lectures or of reading books. It is a matter of looking into the hearts of men, sharing their joys and anguishes, and feeling that you, because you are just a little older and stronger than most, can strengthen the weak and purify the miry places of the world. Dare to begin to work for that great life, and the Divine Vision of Man will inevitably be yours.

Vì vậy, hỡi các huynh đệ của tôi, đừng hình dung rằng tinh thần là việc tham dự các buổi lễ hoặc các bài giảng hoặc đọc sách. Đó là vấn đề nhìn vào trái tim của con người, chia sẻ niềm vui và nỗi thống khổ của họ, và cảm thấy rằng bạn, bởi vì bạn chỉ lớn hơn và mạnh mẽ hơn một chút so với hầu hết mọi người, có thể củng cố những người yếu đuối và thanh lọc những nơi lầy lội của thế giới. Hãy mạnh dạn bắt đầu làm việc cho sự sống vĩ đại đó, và Thiên Nhãn về Con Người chắc chắn sẽ là của bạn.

THE DIVINE VISION OF NATURE —THIÊN NHÃN VỀ THIÊN NHIÊN

A lecture delivered at Queen’s Hall. London, on May I5th, 1927.

Một bài giảng được trình bày tại Queen’s Hall. Luân Đôn, vào ngày 15 tháng 5 năm 1927.

In our attempt to understand the meaning of life, I have placed as our first topic, “The Divine Vision of Man,” and as the third and last, “The Divine Vision of God “; in between the two there comes,..The Divine Vision of Nature “.

Trong nỗ lực thấu hiểu ý nghĩa của cuộc sống, tôi đã đặt “Thiên Nhãn về Con Người” làm chủ đề đầu tiên của chúng ta, và “Thiên Nhãn về Thượng đế” làm chủ đề thứ ba và cuối cùng; ở giữa hai chủ đề đó là… “Thiên Nhãn về Thiên Nhiên”.

The word “Nature” usually connotes to us what is not God and what is not Man. When we think of that aspect of the world which appeals to our deepest emotions, swaying us with religious aspirations, we use the term “God “ to describe our sense of the infinite majesty of things; and similarly, when we feel most profoundly the tragedy of Man, then we think of” Man “ as distinct from “God “. But, as not partaking of the character either of God or Man, we usually mean by Nature the world of inanimate things.

Từ “Thiên Nhiên” thường biểu thị cho chúng ta những gì không phải là Thượng đế và những gì không phải là Con Người. Khi chúng ta nghĩ về khía cạnh của thế giới vốn thu hút những cảm xúc sâu sắc nhất của chúng ta, lay chuyển chúng ta bằng những khát vọng tinh thần, chúng ta sử dụng thuật ngữ “Thượng đế” để mô tả cảm giác của chúng ta về sự uy nghiêm vô hạn của mọi thứ; và tương tự, khi chúng ta cảm thấy sâu sắc nhất về bi kịch của Con Người, thì chúng ta nghĩ về “Con Người” khác biệt với “Thượng đế”. Nhưng, vì không dự phần vào đặc tính của Thượng đế hay Con Người, chúng ta thường hiểu Thiên Nhiên là thế giới của những vật vô tri vô giác.

In the common use of the word, we mean by Nature, the sky, the sea, the woods and the forests, and we say that we long to go out to Nature,meaning thereby, away from man’s habitations. Sometimes, we also mean by the term Nature living life, though a subhuman life, of the plants and the animals. There is, however, a third use of the word Nature, which is more characteristic of the scientist, when the terms the process of Eternity in which we exist, Nature. When he looks at the stars and the planets, when he sees mighty cosmic forces at work, he uses the word Nature to signify the totality of an evolutionary process.

Theo cách sử dụng thông thường của từ này, chúng ta hiểu Thiên Nhiên là bầu trời, biển cả, rừng cây và rừng rậm, và chúng ta nói rằng chúng ta khao khát được hòa mình vào Thiên Nhiên, có nghĩa là rời xa nơi ở của con người. Đôi khi, chúng ta cũng có ý chỉ sự sống, mặc dù là sự sống hạ đẳng, của thực vật và động vật. Tuy nhiên, có một cách sử dụng thứ ba của từ Thiên Nhiên, đặc trưng hơn cho nhà khoa học, khi Ông gọi quá trình của Vĩnh Hằng mà chúng ta đang tồn tại là Thiên Nhiên. Khi Ông nhìn vào các ngôi sao và các hành tinh, khi Ông thấy các lực lượng vũ trụ hùng mạnh đang hoạt động, Ông sử dụng từ Thiên Nhiên để biểu thị toàn bộ quá trình tiến hóa.

What is this Nature, which is on all sides of us, of which we are a part, and which sometimes so dominates us that we feel utterly helpless before her? If we approach the subject from the standpoint of our modern learning, represented by science, Nature is seen as a mechanical process. All natural phenomena, says the scientist, are the result of forces which began with the beginning of time. If the earth revolves on its axis, it is because the earth received a spinning motion from the original nebula whence it bas condensed. If any water is exposed to the air and bacterial life there appears, the scientist says it is “natural,” because there are germs in the air, and those germs, finding a proper medium, propagate in the water.

Thiên Nhiên này là gì, vốn ở xung quanh chúng ta, chúng ta là một phần của nó, và đôi khi nó chi phối chúng ta đến nỗi chúng ta cảm thấy hoàn toàn bất lực trước nó? Nếu chúng ta tiếp cận chủ đề này từ quan điểm học vấn hiện đại của chúng ta, được đại diện bởi khoa học, thì Thiên Nhiên được xem như một quá trình cơ học. Tất cả các hiện tượng tự nhiên, nhà khoa học nói, là kết quả của các lực lượng bắt đầu từ khi khởi đầu thời gian. Nếu Trái Đất quay quanh trục của nó, đó là vì Trái Đất nhận được một chuyển động quay từ tinh vân ban đầu, nơi nó đã ngưng tụ. Nếu bất kỳ nước nào tiếp xúc với không khí và sự sống của vi khuẩn xuất hiện ở đó, nhà khoa học nói rằng đó là “tự nhiên”, bởi vì có vi trùng trong không khí, và những vi trùng đó, khi tìm thấy một môi trường thích hợp, sẽ sinh sôi nảy nở trong nước.

Generally speaking, then, the modern attitude towards Nature is, in the main, that it is something mechanical. Not completely so, however, because here and there we find a scientist who senses that perhaps the mystery of Nature cannot be explained by merely labelling it. Let me read you the description by Huxley of a natural process, because he almost sees with an intuitive vision that Nature cannot perhaps be so mechanical after all.

Nói chung, thái độ hiện đại đối với Thiên Nhiên chủ yếu là một cái gì đó mang tính cơ học. Tuy nhiên, không hoàn toàn như vậy, bởi vì đây đó chúng ta thấy một nhà khoa học cảm nhận rằng có lẽ sự huyền bí của Thiên Nhiên không thể được giải thích chỉ bằng cách dán nhãn cho nó. Để tôi đọc cho bạn mô tả của Huxley về một quá trình tự nhiên, bởi vì Ông gần như nhìn thấy bằng một tầm nhìn trực quan rằng Thiên Nhiên có lẽ không hoàn toàn mang tính cơ học.

“The student of Nature wonders the more and is astonished the less, the more conversant he becomes with her operations; but of all the perennial miracles she offers to his inspection, perhaps the most worthy of admiration, is the development of a plant or of an animal from its embryo. Examine the recently laid egg of some common animal, such as a salamander or a newt. It is a minute spheriod in which the best microscope will reveal nothing but a structureless sac, enclosing a glairy fluid holding granules in suspension. But strange possibilities lie dormant in that semi-fluid globe. Let a moderate amount of warmth reach its watery cradle, and the plastic matter undergoes changes so rapid and yet so steady and purpose like in their succession, that one can only compare them to those operated by a skilled modeller upon a formless lump of clay. As with an invisible trowel, the mass is divided and subdivided into smaller and smaller proportions until it is reduced to an aggregation of granules not too large to build withal the finest fabrics of the nascent organism. And, then, it is as if a delicate finger traced out the line to be occupied by the spinal column, and moulded the contour of the body, pinching up the head at one end, the tail at the other, and fashioning flank and limb into due salamandrine proportions in so artistic a way that, after watching the process hour by hour, one is almost involuntarily possessed by the notion that some more subtle aid to vision than an achromatic microscope would show the hidden artist, with his plan before him, striving with skilful manipulation to perfect his work.” (Lay Sermons, chapter,..The Origin of Species “.)

“Người nghiên cứu Thiên Nhiên càng ngạc nhiên hơn và càng ít kinh ngạc hơn, Ông càng quen thuộc với các hoạt động của nó; nhưng trong tất cả những phép lạ vĩnh cửu mà nó mang đến cho sự xem xét của Ông, có lẽ đáng ngưỡng mộ nhất là sự phát triển của một loài thực vật hoặc động vật từ phôi của nó. Hãy xem xét quả trứng vừa đẻ của một số loài động vật thông thường, chẳng hạn như kỳ giông hoặc sa giông. Đó là một hình cầu nhỏ, trong đó kính hiển vi tốt nhất sẽ không tiết lộ gì ngoài một túi không cấu trúc, bao bọc một chất lỏng nhầy nhụa giữ các hạt lơ lửng. Nhưng những khả năng kỳ lạ nằm im lìm trong quả cầu bán lỏng đó. Hãy để một lượng nhiệt vừa phải đến được cái nôi nước của nó, và vật chất dẻo trải qua những thay đổi rất nhanh chóng nhưng rất ổn định và có mục đích trong sự kế thừa của chúng, đến nỗi người ta chỉ có thể so sánh chúng với những thay đổi được thực hiện bởi một người thợ nặn lành nghề trên một cục đất sét vô định hình. Như thể với một cái bay vô hình, khối lượng được chia và chia nhỏ thành những tỷ lệ nhỏ hơn và nhỏ hơn cho đến khi nó được giảm thành một tập hợp các hạt không quá lớn để xây dựng với tất cả các cấu trúc tốt nhất của sinh vật mới sinh. Và sau đó, như thể một ngón tay tinh tế vạch ra đường sẽ được cột sống chiếm giữ, và tạo hình đường viền của cơ thể, véo đầu ở một đầu, đuôi ở đầu kia, và tạo hình sườn và chi thành những tỷ lệ kỳ giông thích hợp một cách nghệ thuật đến nỗi, sau khi xem quá trình này hàng giờ, người ta gần như vô tình bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng một sự hỗ trợ tinh tế hơn cho tầm nhìn so với kính hiển vi tiêu sắc sẽ cho thấy nghệ sĩ ẩn mình, với kế hoạch của Ông trước mặt, đang cố gắng với sự khéo léo để hoàn thiện tác phẩm của mình.” (Bài giảng thế tục, chương,..Nguồn gốc của các loài “.)

There we have just a faint inkling of a new vision of Nature, which Huxley was half on the verge of discovering. And, indeed, if you look at creation around you, for example, at the marking of animals, especially of the birds, you cannot help feeling that there is an artist behind it all, for much of Nature is exquisitely artistic; you feel that Nature cannot be merely mechanical, because of the balanced beauty in natural things, a quality of creative beauty which is the despair of the artist.

Ở đó, chúng ta chỉ có một ý niệm mơ hồ về một tầm nhìn mới về Thiên Nhiên, mà Huxley đã gần như khám phá ra. Và, thật vậy, nếu bạn nhìn vào sự sáng tạo xung quanh bạn, ví dụ, ở dấu hiệu của các loài động vật, đặc biệt là của các loài chim, bạn không thể không cảm thấy rằng có một nghệ sĩ đằng sau tất cả, vì phần lớn Thiên Nhiên là vô cùng nghệ thuật; bạn cảm thấy rằng Thiên Nhiên không thể chỉ là máy móc, vì vẻ đẹp cân đối trong những sự vật tự nhiên, một phẩm chất của vẻ đẹp sáng tạo vốn là nỗi tuyệt vọng của người nghệ sĩ.

We all know the non-mechanical explanation of Nature which is given us by religion. We are told that God created things, and that therefore everything which exists must show something of God’s hand. In ancient days, in Greece, they postulated that the universe was the expression of a Divine Reason, which they called the Logos. Similarly, in ancient India, in Buddhism, a religion which postulates no Divinity or Creator, the process of Nature is held to be intelligent and idealistic, but it is an eternal Dharma or Law” which moves to righteousness that is at work from the beginning of time.

Tất cả chúng ta đều biết lời giải thích phi cơ học về Thiên Nhiên mà tôn giáo đã cho chúng ta. Chúng ta được cho biết rằng Thượng đế đã tạo ra mọi thứ, và do đó mọi thứ tồn tại phải thể hiện một điều gì đó về bàn tay của Thượng đế. Vào thời cổ đại, ở Hy Lạp, Các Ngài cho rằng vũ trụ là sự thể hiện của một Lý Trí Thiêng Liêng, mà Các Ngài gọi là Logos. Tương tự, ở Ấn Độ cổ đại, trong Phật giáo, một tôn giáo không cho rằng có Thượng đế hay Đấng Sáng Tạo, quá trình của Thiên Nhiên được cho là thông minh và duy tâm, nhưng đó là một Pháp hay Luật vĩnh cửu” vốn vận động đến sự công bình, điều đó đã hoạt động từ thuở ban đầu.

But it is in a religion like Hinduism that we have in a very marked fashion the conception “that all creation, that which we call evolution, is the work of a Creator who toils to build; so that what we call Nature is not a mere happening, but a purposeful planning and achieving. Let me here quote to you from one of the ancient Hindu books, which gives us in the form of a myth the great story of creation. Just as we have in Genesis an attempt to give, in the form of myth, what is the meaning of Nature, how behind it there is a Builder at work, so we find in ancient India, in very graphic form, the idea of One who builds and un-builds and builds again. This mighty personage is called Prajâpati, the “Lord of Creatures “. Let me quote to you the quaint, concise words of this myth of the Builder who is behind everything.

Nhưng chính trong một tôn giáo như Ấn Độ giáo, chúng ta có một cách rất rõ rệt về quan niệm “rằng tất cả sự sáng tạo, những gì chúng ta gọi là sự tiến hóa, là công việc của một Đấng Sáng Tạo, Đấng lao động để xây dựng; để những gì chúng ta gọi là Thiên Nhiên không chỉ là một sự tình cờ, mà là một kế hoạch và thành tựu có chủ đích. Ở đây, tôi xin trích dẫn cho bạn từ một trong những cuốn sách Hindu cổ, vốn cho chúng ta dưới hình thức một huyền thoại về câu chuyện vĩ đại của sự sáng tạo. Giống như chúng ta có trong Sáng thế ký một nỗ lực để đưa ra, dưới hình thức huyền thoại, ý nghĩa của Thiên Nhiên là gì, làm thế nào đằng sau nó có một Đấng Kiến Tạo đang làm việc, vì vậy chúng ta thấy ở Ấn Độ cổ đại, dưới hình thức rất sinh động, ý tưởng về Đấng xây dựng và phá bỏ và xây dựng lại. Nhân vật hùng mạnh này được gọi là Prajâpati, “Chúa Tể của Chúng Sinh”. Tôi xin trích dẫn cho bạn những lời lẽ kỳ lạ, ngắn gọn của huyền thoại về Đấng Kiến Tạo, Đấng đứng sau mọi thứ này.

In the beginning the universe indeed was non-existent. Now this person Prajâpati desired,..May I be more than one, may I be reproduced.” He toiled, he practised austerity.

Ban đầu, vũ trụ quả thực không tồn tại. Bây giờ người Prajâpati này mong muốn,…Tôi có thể có nhiều hơn một, tôi có thể được tái tạo.” Ngài đã lao động, Ngài đã thực hành khổ hạnh.

Being worn out with toil and austerity, he created first of all Brahman, the Triple Science.

Bị hao mòn vì lao động và khổ hạnh, trước hết Ngài đã tạo ra Brahman, Tam Khoa.

Resting on that foundation, he again practised Austerity.

Dựa trên nền tảng đó, Ngài lại thực hành Khổ Hạnh.

He created the waters out of Vach- speech. It pervaded everything here.

Ngài tạo ra nước từ Vach- lời nói. Nó lan tỏa khắp mọi thứ ở đây.

He desired, “May I be reproduced from these waters.” He entered the waters with that Triple Science. Hence an egg arose. He touched it.

Ngài mong muốn, “Tôi có thể được tái tạo từ những vùng nước này.” Ngài đã đi vào vùng nước với Tam Khoa đó. Do đó, một quả trứng đã xuất hiện. Ngài chạm vào nó.

“Let it exist, let it exist and multiply”, so he said.

“Hãy để nó tồn tại, hãy để nó tồn tại và nhân lên”, Ngài nói.

All this universe appeared as one form only, namely water.

Tất cả vũ trụ này xuất hiện chỉ như một hình thức, cụ thể là nước.

He desired, “May it become more than one, may it reproduce itself.’.

Ngài mong muốn, “Nó có thể trở thành nhiều hơn một, nó có thể tự tái tạo.”

He toiled and practised austerity, he created foam.

Ngài đã lao động và thực hành khổ hạnh, Ngài đã tạo ra bọt.

He was aware that, “This indeed looks different, it is becoming more than one; I must toil indeed!”

Ngài nhận thức được rằng, “Điều này quả thực trông khác biệt, nó đang trở thành nhiều hơn một; Ta phải thực sự lao động!”

Worn out with toil and austerity, he created clay,mud, saline soil and sand, pebble, rock, ore, gold, plants, and trees; therewith he clothed the earth.

Mệt mỏi vì lao động và khổ hạnh, Ngài đã tạo ra đất sét, bùn, đất mặn và cát, sỏi, đá, quặng, vàng, cây cối và cây cối; với điều đó, Ngài đã khoác lên mình trái đất.

Having created these worlds, he desired. “May I create such creatures as shall be mine in these worlds!

Sau khi tạo ra những thế giới này, Ngài mong muốn. “Ta có thể tạo ra những sinh vật như vậy để chúng sẽ là của ta trong những thế giới này!

By his mind he entered into union with speech, he became pregnant, he created the All-Gods; he placed them in the quarters. (Shatapatha Brahmâna, vi, 1. 1. S. B. E.)

Bằng thể trí của mình, Ngài đi vào sự hợp nhất với lời nói, Ngài trở nên mang thai, Ngài đã tạo ra Tất Cả-Các Thượng đế; Ngài đặt Các Ngài vào các khu. (Shatapatha Brahmâna, vi, 1. 1. S. B. E.)

It is in these ancient ideas also that we come across a conception about Nature from which we parted long ago in building our modern civilization, and it is that Nature is ethical. We think that our codes of ethics can only be derived from human experience; since we are men, we think that right and wrong can only be taught to us by men who have tried to live rightly and have suffered by living wrongly. But in ancient days, for instance in Greece. Nature herself was considered the teacher of what is right and wrong. They said that the planets move as they do because there is a right action and a wrong action in the motion of a planet. It is this same conception of the moral basis of natural phenomena which we have in a touching, simple myth from ancient India.

Chính trong những ý tưởng cổ xưa này, chúng ta cũng bắt gặp một quan niệm về Thiên Nhiên mà chúng ta đã chia sẻ từ lâu trong việc xây dựng nền văn minh hiện đại của mình, và đó là Thiên Nhiên có đạo đức. Chúng ta nghĩ rằng các quy tắc đạo đức của chúng ta chỉ có thể bắt nguồn từ kinh nghiệm của con người; vì chúng ta là con người, chúng ta nghĩ rằng đúng và sai chỉ có thể được dạy cho chúng ta bởi những người đã cố gắng sống đúng đắn và đã phải chịu đựng vì sống sai trái. Nhưng vào thời cổ đại, chẳng hạn như ở Hy Lạp. Bản thân Thiên Nhiên được coi là người thầy của những gì đúng và sai. Các Ngài nói rằng các hành tinh di chuyển như chúng vốn làm vì có một hành động đúng và một hành động sai trong chuyển động của một hành tinh. Chính quan niệm tương tự về nền tảng đạo đức của các hiện tượng tự nhiên mà chúng ta có trong một huyền thoại đơn giản, cảm động từ Ấn Độ cổ đại.

And I might here remark that the ancient Hindu, as the modern Hindu, has an attitude to what we term “evil “ which is somewhat different from that which we usually find in the West. The general attitude of Christianity is that if there exists a devil, either one cosmic devil or myriads of little devils, they are all against the Will of God, and must therefore be annihilated. The Hindu sees in “evil “ what mystics have called the “dark side of good “, Hence, therefore, you must not be surprised if demons are brought into a myth side by side with angels and men, nor when you find that the Lord of Creatures. God Himself, is perfectly friendly even to the demons.

Và tôi có thể nhận xét ở đây rằng người Hindu cổ đại, cũng như người Hindu hiện đại, có một thái độ đối với những gì chúng ta gọi là “ác quỷ” vốn có phần khác với thái độ mà chúng ta thường thấy ở phương Tây. Thái độ chung của Cơ đốc giáo là nếu có một con quỷ, một con quỷ vũ trụ hoặc vô số con quỷ nhỏ, thì tất cả chúng đều chống lại Ý Chí của Thượng đế, và do đó phải bị tiêu diệt. Người Hindu nhìn thấy trong “ác quỷ” những gì các nhà thần bí đã gọi là “mặt tối của điều tốt đẹp”. Do đó, bạn đừng ngạc nhiên nếu quỷ được đưa vào một huyền thoại bên cạnh các thiên thần và con người, cũng như khi bạn thấy rằng Đức Chúa Tể của Chúng Sinh. Bản thân Thượng đế hoàn toàn thân thiện ngay cả với lũ quỷ.

1. The threefold descendants of Prajâpati, angels, men and demons, dwelt as students with their father Prajâpati.

1. Các hậu duệ tam phân của Prajâpati, thiên thần, con người và ác quỷ, sống với tư cách là học sinh với cha của Các Ngài là Prajâpati.

Having finished their studentship, the angels said: “Tell us something, Sir.” He told them the syllable “Da.” Then he said, “Did you understand? “ They said, “We did understand. You told us Damayata – be subdued” “Yes,” he said,.,”you have understood”.

Sau khi hoàn thành việc học, các thiên thần nói: “Thưa Ngài, hãy nói với chúng con điều gì đó.” Ngài nói với Các Ngài âm tiết “Da”. Sau đó, Ngài nói, “Các con có hiểu không?” Các Ngài nói, “Chúng con đã hiểu. Ngài đã bảo chúng con Damayata – hãy khuất phục” “Phải,” Ngài nói,.,”các con đã hiểu”.

2. Then the men said to him “Tell us something, Sir.” He told them the same syllable, “Da.” Then he said, “Did you understand? “ They said, “We did understand. You told us Datta – give.” “Yes,” he said, “you have understood.”

2. Sau đó, những người đàn ông nói với Ngài: “Thưa Ngài, xin hãy nói với chúng tôi điều gì đó.” Ngài nói với họ cùng một âm tiết, “Da.” Sau đó, Ngài nói, “Các vị có hiểu không?” Họ nói, “Chúng tôi đã hiểu. Ngài bảo chúng tôi Datta – hãy cho đi.” “Phải,” Ngài nói, “các vị đã hiểu.”

3. Then the demons said to him: “ Tell us something, Sir.” He told them the same syllable “Da.” Then he said, “ Did you understand? “ They said “We did understand, you told us Dayadhvam – be merciful”. “Yes” he said “you have understood.”

3. Sau đó, những con quỷ nói với Ngài: “Thưa Ngài, xin hãy nói với chúng tôi điều gì đó.” Ngài nói với chúng cùng một âm tiết “Da.” Sau đó, Ngài nói, “Các vị có hiểu không?” Chúng nói “Chúng tôi đã hiểu, Ngài bảo chúng tôi Dayadhvam – hãy từ bi”. “Phải” Ngài nói “các vị đã hiểu.”

The divine voice of thunder repeats the same, Da, Da, Da, that is, Be subdued, Give, Be merciful. Therefore let this triad be taught- Subduing, Giving. Mercy. (Brihadâranyaka Upanishad, v. 2, S.B.E.)

Tiếng sấm thiêng liêng lặp lại điều tương tự, Da, Da, Da, nghĩa là, Hãy khuất phục, Cho đi, Hãy từ bi. Vì vậy, hãy dạy bộ ba này – Khuất phục, Cho đi. Từ bi. (Brihadâranyaka Upanishad, v. 2, S.B.E.)

I do not know which is the more important conception for us as human beings, that we should know with science that thunder is a discharge of electricity, or imagine with the children that the voice of the thunder is telling us to be self-controlled, to be charitable, and to be merciful.

Tôi không biết quan niệm nào quan trọng hơn đối với chúng ta với tư cách là con người, rằng chúng ta nên biết bằng khoa học rằng sấm sét là sự phóng điện, hay tưởng tượng với trẻ em rằng tiếng sấm đang bảo chúng ta tự chủ, từ thiện và từ bi.

There was a time in the world’s history when men thought that all Nature had this ethical meaning, that the elements in their action taught us lessons; the sun rose and set then, not to itself alone, but also to teach us something of the mystery of God. It is that conception of the ethical nature of everything that we have slightly reflected in some poets, especially in Wordsworth, when, for instance, he mentions his feeling that:

Đã có một thời trong lịch sử thế giới khi con người nghĩ rằng tất cả Thiên nhiên đều có ý nghĩa đạo đức này, rằng các yếu tố trong hành động của chúng dạy chúng ta những bài học; mặt trời mọc và lặn khi đó, không chỉ cho riêng nó, mà còn để dạy chúng ta điều gì đó về sự huyền bí của Thượng đế. Chính quan niệm về bản chất đạo đức của mọi thứ mà chúng ta đã phản ánh một chút ở một số nhà thơ, đặc biệt là ở Wordsworth, khi, chẳng hạn, Ông đề cập đến cảm giác của mình rằng:

To me the meanest flower that blows can give

Đối với tôi, bông hoa hèn mọn nhất nở ra có thể cho

Thoughts that do often lie too deep for tears.

Những suy nghĩ thường nằm quá sâu để rơi lệ.

It is “the tears in things”, the wisdom in things, which the ancient Hindus give us in those magnificent hymns in praise of natural phenomena in the Rig Veda, in praise of the Sun, of its outer nature that gives warmth and life, in praise of the hidden Sun who impels all men to unfold their inner divine nature, in praise of the winds, in praise of the storms, in praise of the fire, in praise of the twilights, and in praise of that wonderful exquisite being Ushas, the Dawn Maiden. In these days we have travelled so far from Nature that, when we read these ancient songs, we say they are only poetical imagination. Yet I wonder if they are after all only poetical imagination! For what is meant by that phrase? We shall understand what is meant by that phrase if first we can define what imagination is and what poetry is. Then perhaps we shall know that the ancient sages and seers, when they looked at the Sun and sensed its mystic greatness, and felt its mighty force streaming on them, saw with their intuition a vision of deeper truth than any manual of physics or astronomy can give to us today.

Đó là “những giọt nước mắt trong mọi thứ”, sự minh triết trong mọi thứ, mà người Hindu cổ đại mang đến cho chúng ta trong những bài thánh ca tuyệt vời ca ngợi các hiện tượng tự nhiên trong Rig Veda, ca ngợi Mặt trời, về bản chất bên ngoài của nó mang lại hơi ấm và sự sống, ca ngợi Mặt trời ẩn giấu vốn thúc đẩy tất cả mọi người mở ra bản chất thiêng liêng bên trong của họ, ca ngợi gió, ca ngợi bão tố, ca ngợi lửa, ca ngợi ánh hoàng hôn và ca ngợi Đấng Ushas tuyệt vời, tinh tế đó, Trinh Nữ Bình Minh. Trong những ngày này, chúng ta đã đi quá xa khỏi Thiên nhiên đến nỗi, khi đọc những bài hát cổ này, chúng ta nói rằng chúng chỉ là trí tưởng tượng thơ ca. Tuy nhiên, tôi tự hỏi liệu sau tất cả chúng chỉ là trí tưởng tượng thơ ca! Vì cụm từ đó có nghĩa là gì? Chúng ta sẽ hiểu cụm từ đó có nghĩa là gì nếu trước tiên chúng ta có thể định nghĩa trí tưởng tượng là gì và thơ ca là gì. Sau đó, có lẽ chúng ta sẽ biết rằng các nhà hiền triết và nhà tiên tri cổ đại, khi nhìn vào Mặt trời và cảm nhận được sự vĩ đại huyền bí của nó, và cảm thấy sức mạnh to lớn của nó tuôn chảy trên họ, đã nhìn thấy bằng trực giác của họ một tầm nhìn về chân lý sâu sắc hơn bất kỳ cuốn sách vật lý hoặc thiên văn học nào có thể mang lại cho chúng ta ngày nay.

The Divine Vision of Nature begins along several ways, and of these I will only touch upon four, as representing four temperaments, four avenues of approach to this magnificent vision.

Tầm Nhìn Thiêng Liêng về Thiên Nhiên bắt đầu theo nhiều cách, và trong số này, tôi sẽ chỉ đề cập đến bốn cách, đại diện cho bốn tính khí, bốn con đường tiếp cận tầm nhìn tuyệt vời này.

One way is by the worship of Nature. This way of the worship of Nature is in some ways the oldest. You will find that all primitive peoples sense something mysterious in Nature that must be worshipped, The savage, who does not understand that thunder is the discharge of electricity, worships the thunder. He worships the volcano, though he does not know what is the cause of an eruption. It does not matter for the moment that he is ignorant of the laws of Nature; the most important thing to notice is that the savage has an attitude of true reverence, and that he is able to put aside his personality, and see for a fragment of time the thing which is outside of himself “as it is”. He regards Nature with awe, for Nature is indeed terrifying. Nature is truly awe-inspiring, and it is not a little thing, even for a savage, to put aside all his savage nature and fall down in worship of a thing that is worthy of the utmost worship. But not only the savage worships Nature; for it is one of the characteristics of the highest civilisations, that the more men are cultured, the more they begin to feel by intuition that Nature is instinctive with a Mighty Power, a Mighty Wisdom. The highest of mankind also worship Nature. Though they may have within the mind a clear scientific understanding of what Nature is, yet when a higher part of their nature is called out, they then feel that rocks and clouds have another meaning for them, a meaning which impels them to utmost admiration. I do not think that in English there is any more glorious expression of the worship of Nature than in Tennyson’s poem,..The Higher Pantheism,” where, speaking for the modern world, he tries to voice what all the highest feel who live in their fullness:

Một cách là bằng sự tôn thờ Thiên nhiên. Cách tôn thờ Thiên nhiên này theo một số cách là lâu đời nhất. Bạn sẽ thấy rằng tất cả các dân tộc nguyên thủy đều cảm nhận được điều gì đó bí ẩn trong Thiên nhiên cần được tôn thờ. Người man rợ, người không hiểu rằng sấm sét là sự phóng điện, tôn thờ sấm sét. Y tôn thờ núi lửa, mặc dù y không biết nguyên nhân của một vụ phun trào. Không quan trọng vào lúc này rằng y không biết các định luật của Thiên nhiên; điều quan trọng nhất cần lưu ý là người man rợ có thái độ tôn kính thực sự, và y có thể gạt bỏ phàm ngã của mình, và trong một khoảnh khắc thời gian nhìn thấy sự vật bên ngoài bản thân y “như nó vốn là”. Y coi Thiên nhiên với sự kinh sợ, vì Thiên nhiên thực sự đáng sợ. Thiên nhiên thực sự gây kinh sợ, và đó không phải là một điều nhỏ nhặt, ngay cả đối với một người man rợ, khi gạt bỏ tất cả bản chất man rợ của mình và sụp xuống tôn thờ một thứ xứng đáng được tôn thờ hết mực. Nhưng không chỉ người man rợ tôn thờ Thiên nhiên; vì một trong những đặc điểm của các nền văn minh cao nhất, là con người càng được khai sáng, họ càng bắt đầu cảm thấy bằng trực giác rằng Thiên nhiên mang trong mình một Sức Mạnh Vĩ Đại, một Minh Triết Vĩ Đại. Những người cao cả nhất của nhân loại cũng tôn thờ Thiên nhiên. Mặc dù họ có thể có trong thể trí một sự hiểu biết khoa học rõ ràng về Thiên nhiên là gì, nhưng khi một phần cao hơn trong bản chất của họ được kêu gọi, họ cảm thấy rằng đá và mây có một ý nghĩa khác đối với họ, một ý nghĩa thúc đẩy họ đến sự ngưỡng mộ tột cùng. Tôi không nghĩ rằng trong tiếng Anh có bất kỳ biểu hiện vinh quang nào hơn về sự tôn thờ Thiên nhiên hơn là trong bài thơ của Tennyson,…Thuyết Phiếm Thần Cao Hơn,” nơi, thay mặt cho thế giới hiện đại, Ông cố gắng bày tỏ những gì tất cả những người cao cả nhất cảm thấy, những người sống trọn vẹn trong sự viên mãn của họ:

The sun, the moon, the stars, the seas, the hills and the plains-

Mặt trời, mặt trăng, các vì sao, biển cả, đồi núi và đồng bằng-

Are not these, O Soul, the Vision of Him who reigns?

Hỡi Linh Hồn, đây chẳng phải là Tầm Nhìn của Đấng cai trị sao?

Is not the Vision He? tho’ He be not that which He seems?

Chẳng phải Tầm Nhìn là Ngài sao? Mặc dù Ngài không phải là những gì Ngài dường như là?

Dreams are true while they last, and do we not live in dreams?

Những giấc mơ là có thật khi chúng kéo dài, và chẳng phải chúng ta đang sống trong những giấc mơ sao?

Earth, these solid stars, this weight of body and limb,

Trái Đất, những ngôi sao vững chắc này, sức nặng của cơ thể và tứ chi này,

Are they not sign and symbol of thy division from Him?

Chẳng phải chúng là dấu hiệu và biểu tượng cho sự phân ly của ngươi khỏi Ngài sao?

Dark is the world to thee; thyself art the reason why;

Thế giới tối tăm đối với ngươi; chính ngươi là lý do tại sao;

For is He not all but that which has power to feel “ I am I”.?

Vì chẳng phải Ngài là tất cả trừ những gì có quyền năng cảm nhận “Ta là Ta”?

Glory about thee, without thee; and thou fulfillest thy doom

Vinh quang về Ngài, không có Ngài; và Ngài hoàn thành số mệnh của Ngài

Making Him broken gleams, and a stifled splendour and gloom.

Khiến Ngài trở thành những tia sáng vỡ vụn, và một sự huy hoàng và u ám bị kìm hãm.

Speak to Him thou for He heareth, and Spirit with Spirit can meet-

Hãy nói với Ngài vì Ngài lắng nghe, và Tinh thần có thể gặp gỡ Tinh thần-

Closer is He than breathing, and nearer than hands and feet.

Ngài gần gũi hơn hơi thở, và gần hơn cả tay và chân.

God is law, say the wise; O Soul, and let us rejoice,

Thượng đế là luật, những người khôn ngoan nói vậy; hỡi linh hồn, và chúng ta hãy vui mừng,

For if He thunder by law, the thunder is yet His voice.

Vì nếu Ngài sấm sét theo luật, thì tiếng sấm đó vẫn là tiếng nói của Ngài.

Law is God, say some; no God at all, says the fool;

Luật là Thượng đế, một số người nói vậy; kẻ ngốc nói rằng không có Thượng đế nào cả;

For all we have the wit to see is a straight staff bent in a pool;

Vì tất cả những gì chúng ta có đủ trí thông minh để thấy là một cây gậy thẳng bị uốn cong trong một vũng nước;

And the ear of man cannot hear, and the eye of man cannot see;

Và tai người không thể nghe, và mắt người không thể thấy;

But if we could see and hear, this Vision – were it not He?

Nhưng nếu chúng ta có thể thấy và nghe, thì Tầm nhìn này – chẳng phải là Ngài sao?

And along that path indeed of the worship of Nature, man begins to tread the first steps on the journey to the glorious Divine Vision of Nature.

Và trên con đường thờ phụng Thiên nhiên đó, con người bắt đầu bước những bước đầu tiên trên hành trình đến Tầm nhìn Thiêng Liêng vinh quang về Thiên nhiên.

But there is another avenue of approach and that is by the study of Nature, by such a study, for instance, as is possible for us today with the help of modern science. We are apt to imagine that science will take away from us the sense of reverence. Science can never take away anything from our sense of reverence, if the science we are dealing with is true and complete knowledge. Science never robs us of faith. There can never be any quarrel between Faith and Reason, whilst there may be a dispute between faith and reasons. Give a wrong reason and science rebels; give the right reason, and science and the highest in man begin to feel a sense of reverence. It is the same with us Theosophists, who feel profoundly that the more knowledge we gain along all lines of science the greater is the vision we have of the Divine Work. To us, all the departments of science, as they are today working to discover knowledge, are adding a little more wisdom towards the comprehension of the mighty processes of the universe. Whether it be biology, astronomy, physics or chemistry – it does not matter what is the department – only go deep enough, and you will come to the vision of a Divine Mind at work.

Nhưng có một con đường tiếp cận khác và đó là bằng cách nghiên cứu Thiên nhiên, bằng một nghiên cứu như vậy, chẳng hạn, như chúng ta có thể thực hiện ngày nay với sự giúp đỡ của khoa học hiện đại. Chúng ta có khuynh hướng tưởng tượng rằng khoa học sẽ lấy đi khỏi chúng ta cảm giác tôn kính. Khoa học không bao giờ có thể lấy đi bất cứ điều gì từ cảm giác tôn kính của chúng ta, nếu khoa học mà chúng ta đang nghiên cứu là kiến thức đúng đắn và đầy đủ. Khoa học không bao giờ tước đoạt đức tin của chúng ta. Không bao giờ có thể có bất kỳ sự tranh cãi nào giữa Đức Tin và Lý Trí, trong khi có thể có một cuộc tranh chấp giữa đức tin và những lý lẽ. Đưa ra một lý do sai trái và khoa học nổi dậy; đưa ra lý do đúng đắn, và khoa học và những điều cao cả nhất trong con người bắt đầu cảm thấy một cảm giác tôn kính. Cũng như vậy với những nhà Thông Thiên Học chúng ta, những người cảm thấy sâu sắc rằng càng có thêm kiến thức trên tất cả các lĩnh vực khoa học thì chúng ta càng có được tầm nhìn lớn hơn về Công Việc Thiêng Liêng. Đối với chúng ta, tất cả các bộ môn khoa học, khi chúng đang nỗ lực khám phá kiến thức ngày nay, đang bổ sung thêm một chút minh triết để thấu hiểu các quá trình vĩ đại của vũ trụ. Cho dù đó là sinh học, thiên văn học, vật lý hay hóa học – không quan trọng đó là bộ môn nào – chỉ cần đi đủ sâu, và bạn sẽ đến được với tầm nhìn về một Thể Trí Thiêng Liêng đang hoạt động.

That is one of the wonderful, inspiring things arising from the study of Nature, that we begin to understand Nature, and the understanding of her mighty processes brings utmost reverence. And here let me quote to you an understanding of Nature which was expressed by an old Scotsman some seventy years ago, Thomas Erskine, of Linlathen. In his day there was not one-hundredth of the scientific knowledge of Nature that we have today, but along the lines of such science as then existed, he came to such a wonderful conclusion as this:

Đó là một trong những điều tuyệt vời, đầy cảm hứng nảy sinh từ việc nghiên cứu Thiên nhiên, rằng chúng ta bắt đầu hiểu Thiên nhiên, và sự thấu hiểu các quá trình vĩ đại của Ngài mang lại sự tôn kính tột bậc. Và ở đây, tôi xin trích dẫn cho bạn một sự thấu hiểu về Thiên nhiên đã được một người Scotland già bày tỏ cách đây khoảng bảy mươi năm, Thomas Erskine, ở Linlathen. Vào thời của Ông, không có một phần trăm kiến thức khoa học về Thiên nhiên mà chúng ta có ngày nay, nhưng dọc theo các lĩnh vực khoa học đã tồn tại vào thời điểm đó, Ông đã đi đến một kết luận tuyệt vời như sau:

“We are evidently in the midst of a process, and the slowness of God’s processes in the material world prepares us, or ought to prepare us, for something analogous in the moral world; so that at least we may be allowed to trust that He who has taken untold ages for the formation of a bit of old red sandstone may not be limited to threescore years and ten for the perfecting of a human spirit.”

“Chúng ta rõ ràng đang ở giữa một quá trình, và sự chậm chạp trong các quá trình của Thượng đế trong thế giới vật chất chuẩn bị cho chúng ta, hoặc đáng lẽ phải chuẩn bị cho chúng ta, cho một điều gì đó tương tự trong thế giới đạo đức; để ít nhất chúng ta có thể được phép tin rằng Đấng đã mất vô số kỷ nguyên để hình thành một mẩu đá sa thạch đỏ cũ có thể không bị giới hạn trong ba mươi năm mười cho việc hoàn thiện một tinh thần con người.”

What a wonderful lesson that is to come to, by examining the rocks of Nature! Another lesson, exquisitely using the fuller knowledge that science gives us today, we have in the well-known verses of W. H. Carruth, written by one who is a teacher of science:

Thật là một bài học tuyệt vời để đi đến, bằng cách kiểm tra các tảng đá của Thiên nhiên! Một bài học khác, sử dụng một cách tinh tế kiến thức đầy đủ hơn mà khoa học mang lại cho chúng ta ngày nay, chúng ta có trong những câu thơ nổi tiếng của W. H. Carruth, được viết bởi một người là giáo viên khoa học:

EACH IN HIS OWN TONGUE—MỖI NGƯỜI BẰNG TIẾNG NÓI CỦA MÌNH

A fire-mist and a planet.

Một màn sương lửa và một hành tinh.

A crystal and a cell,

Một tinh thể và một tế bào,

A jellyfish and a saurian.

Một con sứa và một con thằn lằn cá.

And caves where the cavemen dwell;

Và những hang động nơi người tiền sử sinh sống;

Then a sense of law and beauty,

Sau đó, một cảm giác về luật lệ và vẻ đẹp,

And a face turned from the clod,-

Và một khuôn mặt quay đi khỏi cục đất,-

Some call it Evolution,

Một số người gọi đó là Tiến hóa,

And others call it God.

Và những người khác gọi đó là Thượng đế.

A haze on the far horizon,

Một màn sương trên đường chân trời xa xăm,

The infinite, tender sky,

Bầu trời vô tận, dịu dàng,

The ripe, rich tint of the cornfields,

Sắc thái chín mọng, phong phú của những cánh đồng ngô,

And the wild geese sailing high;

Và những con ngỗng trời bay cao;

And all over upland and lowland

Và trên khắp vùng cao và vùng thấp

The charm of the goldenrod,

Sự quyến rũ của cây kim tiền vàng,

Some of us call it Autumn,-

Một số người trong chúng ta gọi đó là Mùa thu,-

And others call it God.

Và những người khác gọi đó là Thượng đế.

Like the tide on a crescent sea-beach.

Giống như thủy triều trên một bãi biển hình lưỡi liềm.

When the moon is new and thin,

Khi mặt trăng còn non và mỏng manh,

Into our hearts high yearnings

Vào trái tim chúng ta, những khát vọng cao cả

Come welling and surging in;

Đến dâng trào và trào dâng;

Come from the mystic ocean

Đến từ đại dương huyền bí

Whose rim no foot has trod,-

Mà không có bàn chân nào từng đặt chân lên,-

Some of us call it Longing.

Một số người trong chúng ta gọi đó là Khao khát.

And others call it God.

Và những người khác gọi đó là Thượng đế.

A picket frozen on duty,

Một người lính gác bị đóng băng khi làm nhiệm vụ,

A mother starved for her brood

Một người mẹ chết đói vì đàn con của mình

Socrates drinking the hemlock,

Socrates uống độc cần,

And Jesus on the rood;

Và Đức Jesus trên thập tự giá;

And millions who, humble and nameless,

Và hàng triệu người, khiêm tốn và vô danh,

The straight hard pathway plod,-

Lê bước trên con đường thẳng tắp, gian khổ,-

Some call it Consecration,

Một số người gọi đó là Sự Hiến Dâng,

And others call it God.

Và những người khác gọi đó là Thượng đế.

Surely in these words of the poet-scientist we have a revelation of Nature when approached with the keenest and profoundest intellect.

Chắc chắn trong những lời này của nhà thơ-nhà khoa học, chúng ta có một sự mặc khải về Thiên nhiên khi được tiếp cận bằng trí tuệ sắc bén và sâu sắc nhất.

There is also a Vision of Nature possible by loving Nature. I differentiate the worship of Nature from the love of Nature, for usually, in the worship of Nature, there is, as it were, a little barrier between Man, the worshipper, and Nature, the object of worship. But when we come to the love of Nature, then Man delights in a kinship with the sky, the clouds, and the animals; each little thing in Nature speaks of a brotherliness, of a tenderness,of a younger brother towards an elder. It is this exquisite love of Nature which we have again and again in Wordsworth. Wordsworth, prosy as he often is, and dull to our modern minds, yet stands out supreme amongst the poets of England, because throughout his poems there is an intense truthfulness to Nature and a linking of man to Nature.

Cũng có một Tầm nhìn về Thiên nhiên có thể có được bằng cách yêu Thiên nhiên. Tôi phân biệt sự thờ phượng Thiên nhiên với tình yêu Thiên nhiên, vì thông thường, trong sự thờ phượng Thiên nhiên, có, như thể có một chút rào cản giữa Con Người, người thờ phượng, và Thiên nhiên, đối tượng của sự thờ phượng. Nhưng khi chúng ta đến với tình yêu Thiên nhiên, thì Con Người vui mừng trong mối quan hệ họ hàng với bầu trời, mây và động vật; mỗi điều nhỏ bé trong Thiên nhiên đều nói lên tình huynh đệ, sự dịu dàng, của một người em trai đối với một người anh trai. Chính tình yêu Thiên nhiên tuyệt vời này mà chúng ta có đi có lại trong Wordsworth. Wordsworth, dù thường lan man và buồn tẻ đối với tâm trí hiện đại của chúng ta, nhưng vẫn nổi bật tối cao trong số các nhà thơ của nước Anh, bởi vì xuyên suốt các bài thơ của Ông có một sự chân thật mãnh liệt với Thiên nhiên và một sự liên kết con người với Thiên nhiên.

It was Wordsworth who sensed that striking mystery of the two types of souls among men, the sea souls and the mountain souls. As we go out into Nature and learn to love Nature, we feel a sense of utmost brotherliness, as child to mother, as brother to sister, as friend to friend, and thereby comes for us the possibility of a new vision, a Divine Vision of Nature.

Wordsworth vốn là người cảm nhận được sự huyền bí nổi bật của hai kiểu linh hồn giữa nhân loại, những linh hồn biển cả và những linh hồn núi non. Khi chúng ta bước ra hòa mình vào Thiên Nhiên và học cách yêu Thiên Nhiên, chúng ta cảm thấy một ý thức về tình huynh đệ tột bậc, như con với mẹ, như anh em với chị em, như bạn với bạn, và từ đó mang đến cho chúng ta khả năng có được một tầm nhìn mới, một Tầm Nhìn Thiêng Liêng về Thiên Nhiên.

Then comes the fourth way of approach to the Divine Vision, and that is by refashioning Nature. You will ask what I mean by “refashioning Nature”. How can we refashion Nature, for Nature is Nature and, it may be, there is a Divinity behind her workings? How then can men refashion Nature? But that is exactly what man does as the artist. When a man has looked at many sunsets with his artistic nature keen in him, and then, inspired by one particular sunset, he paints a picture, he paints not the Nature which he sees or has seen, and which a camera could reproduce with greater accuracy; for, though he makes a picture of a sunset in a Nature which for two seconds is never the same, yet his creation is a picture of that permanent Nature which does not change.

Sau đó đến phương pháp tiếp cận thứ tư để có được Tầm Nhìn Thiêng Liêng, và đó là bằng cách tái tạo Thiên Nhiên. Bạn sẽ hỏi tôi muốn nói gì khi dùng từ “tái tạo Thiên Nhiên”. Làm thế nào chúng ta có thể tái tạo Thiên Nhiên, vì Thiên Nhiên là Thiên Nhiên và, có lẽ, có một Thượng đế đằng sau những hoạt động của Bà? Vậy thì làm thế nào con người có thể tái tạo Thiên Nhiên? Nhưng đó chính xác là những gì con người làm với tư cách là một nghệ sĩ. Khi một người đã ngắm nhìn nhiều cảnh hoàng hôn với bản chất nghệ thuật sắc bén trong y, và sau đó, được truyền cảm hứng từ một cảnh hoàng hôn cụ thể, y vẽ một bức tranh, y không vẽ Thiên Nhiên mà y nhìn thấy hoặc đã thấy, và thứ mà một chiếc máy ảnh có thể tái tạo với độ chính xác cao hơn; vì, mặc dù y tạo ra một bức tranh về cảnh hoàng hôn trong một Thiên Nhiên mà trong hai giây không bao giờ giống nhau, nhưng sự sáng tạo của y là một bức tranh về Thiên Nhiên vĩnh cửu không thay đổi đó.

It is the work of the artist, in every department of art, to grasp the fleeting, to find reflected in it the permanent type, the “archetype “ as Plato would say. And then as he paints, as he composes, as he sculptures, as he creates the dance, as he makes the poem – it does not matter what is the form of art in which he specialises – he does refashion Nature. Let me illustrate the way that Nature was refashioned by one man: I refer to Wagner and the way in which he has described Nature. Take, for instance, the forest murmurs in Siegfried. In the forest murmurs we are given not merely the murmurs of a particular forest of the play, but forest murmurs everywhere. So when summer has vanished with her leaves, when the world is frozen and cold, the forest murmurs of Siegfried will bring summer before us again. When we understand the significance of Wagner’s “nature music,” then we know that he is giving to us the eternal forest, the eternal water or fire; when we hear the call of Donner and the mists gather round him, and the “elemental essences “, of water all come together as the music calls, we begin to realise an aspect of Nature that is permanent.

Công việc của người nghệ sĩ, trong mọi lĩnh vực nghệ thuật, là nắm bắt những điều phù du, để tìm thấy được phản ánh trong đó loại hình vĩnh cửu, “nguyên mẫu” như Plato sẽ nói. Và rồi khi y vẽ, khi y sáng tác, khi y điêu khắc, khi y tạo ra điệu nhảy, khi y làm nên bài thơ – không quan trọng hình thức nghệ thuật mà y chuyên về là gì – y thực sự tái tạo Thiên Nhiên. Để tôi minh họa cách mà Thiên Nhiên đã được một người tái tạo: Tôi muốn nói đến Wagner và cách ông mô tả Thiên Nhiên. Lấy ví dụ, những tiếng thì thầm của khu rừng trong Siegfried. Trong những tiếng thì thầm của khu rừng, chúng ta không chỉ được nghe những tiếng thì thầm của một khu rừng cụ thể trong vở kịch, mà là những tiếng thì thầm của khu rừng ở khắp mọi nơi. Vì vậy, khi mùa hè đã biến mất cùng với những chiếc lá của nó, khi thế giới đóng băng và lạnh lẽo, những tiếng thì thầm của khu rừng trong Siegfried sẽ mang mùa hè trở lại trước mắt chúng ta. Khi chúng ta thấu hiểu được ý nghĩa về “âm nhạc thiên nhiên” của Wagner, thì chúng ta biết rằng ông đang mang đến cho chúng ta khu rừng vĩnh cửu, nước hoặc lửa vĩnh cửu; khi chúng ta nghe thấy tiếng gọi của Donner và sương mù tụ lại xung quanh Ngài, và “tinh chất hành khí” của nước đều tập hợp lại khi âm nhạc cất lên, chúng ta bắt đầu nhận ra một khía cạnh của Thiên Nhiên vốn là vĩnh cửu.

The artist it is who is able to refashion Nature, and give us the thing as it stands eternally perfect, and inseparable too from our own unending life. That is what I mean by saying that the artist’s work is to refashion Nature.

Người nghệ sĩ là người có thể tái tạo Thiên Nhiên, và mang đến cho chúng ta sự vật như nó vốn có, vĩnh viễn hoàn hảo, và cũng không thể tách rời khỏi cuộc sống vô tận của chính chúng ta. Đó là ý tôi khi nói rằng công việc của người nghệ sĩ là tái tạo Thiên Nhiên.

Whatever is the mode of approach whether we come through worship or love, through study or refashioning, we shall begin to discover certain mighty mysteries in Nature. And of those, one which is easy to discover, is her tremendous power which seems at times utterly ruthless. When Tennyson contemplates Nature in her evolution, he sees that she is so “careful of the type,” but so ruthless of the individual. There are times, when you stand before some mighty aspect of Nature – Niagara, the Himalayas, or a storm at sea – when all seems power, ruthless power, before which man seems nothing indeed. But pass beyond that stage, and you will begin to feel one with that power. You will find that Niagara is telling you of a Niagara of power within you, that the mountain range is telling you of a mountain range of power and peace in you; the storm at sea will tell you the mystery of your own storms of love and despair. Nature releases from within us the sense of power.

Dù phương thức tiếp cận là gì, dù chúng ta đến qua sự tôn thờ hay tình thương/bác ái, qua học tập hay tái tạo, chúng ta sẽ bắt đầu khám phá ra những điều huyền bí vĩ đại nhất định trong Thiên Nhiên. Và trong số đó, một điều dễ khám phá, là sức mạnh to lớn của Bà, đôi khi có vẻ hoàn toàn tàn nhẫn. Khi Tennyson chiêm ngưỡng Thiên Nhiên trong quá trình tiến hóa của Bà, ông thấy rằng Bà rất “cẩn trọng với loại hình”, nhưng rất tàn nhẫn với cá nhân. Có những lúc, khi bạn đứng trước một số khía cạnh hùng vĩ của Thiên Nhiên – thác Niagara, dãy Himalaya, hoặc một cơn bão trên biển – khi tất cả dường như là sức mạnh, sức mạnh tàn nhẫn, trước đó con người dường như thực sự chẳng là gì cả. Nhưng hãy vượt qua giai đoạn đó, và bạn sẽ bắt đầu cảm thấy hợp nhất với sức mạnh đó. Bạn sẽ thấy rằng thác Niagara đang nói với bạn về một thác Niagara sức mạnh bên trong bạn, rằng dãy núi đang nói với bạn về một dãy núi sức mạnh và sự an lạc trong bạn; cơn bão trên biển sẽ cho bạn biết sự huyền bí về những cơn bão tình thương/bác ái và tuyệt vọng của chính bạn. Thiên Nhiên giải phóng từ bên trong chúng ta ý thức về sức mạnh.

When we watch Nature with a vision of worship or of study, or by whatever mode we have tried to understand her according to our temperament, we begin to feel the rhythm in life. That rhythm in life is obvious to us with an understanding of Theosophy – how life comes, possesses a form and grows in it, and then, when it has come to the limit of its growth, vanishes, and then, after an interval, comes back again. These entrances and exits of life tell us something of the great rhythm of life, of those cyclic processes in things, how Nature has a law of cycles, and how in men too there are cycles, for there is rhythm in all things. We pass on through that to the discovery that this rhythm is not mechanical, not merely a crushing fate, but indeed the Dance of Life, that wonderful Dance of Shiva the Destroyer, the first aspect of God of which we hear in Hindu tradition. Shiva, who is the mighty Destroyer, only destroys so that life can build again. And so Shiva reveals to us the wonderful rhythm of life, which has within it the elements of joy, of expression, of creation, of release.

Khi chúng ta quan sát Thiên Nhiên với một tầm nhìn tôn thờ hoặc học tập, hoặc bằng bất kỳ phương thức nào chúng ta đã cố gắng thấu hiểu Bà theo tính khí của mình, chúng ta bắt đầu cảm nhận được nhịp điệu trong cuộc sống. Nhịp điệu trong cuộc sống đó hiển nhiên đối với chúng ta với sự thấu hiểu về Thông Thiên Học – cách sự sống đến, sở hữu một hình tướng và phát triển trong đó, và sau đó, khi nó đạt đến giới hạn tăng trưởng của mình, biến mất, và sau đó, sau một khoảng thời gian, quay trở lại. Những lối vào và lối ra của sự sống này cho chúng ta biết điều gì đó về nhịp điệu vĩ đại của sự sống, về những quá trình tuần hoàn trong vạn vật, cách Thiên Nhiên có một định luật về các chu kỳ, và cách trong con người cũng có các chu kỳ, vì có nhịp điệu trong mọi thứ. Chúng ta tiếp tục thông qua điều đó để khám phá ra rằng nhịp điệu này không phải là máy móc, không chỉ đơn thuần là một định mệnh nghiệt ngã, mà thực sự là Vũ Điệu của Sự Sống, Vũ Điệu tuyệt vời đó của Shiva Đấng Hủy Diệt, khía cạnh đầu tiên của Thượng đế mà chúng ta nghe nói đến trong truyền thống Hindu. Shiva, vốn là Đấng Hủy Diệt vĩ đại, chỉ hủy diệt để sự sống có thể xây dựng lại. Và vì vậy, Shiva tiết lộ cho chúng ta nhịp điệu tuyệt vời của sự sống, vốn có trong nó các yếu tố của niềm vui, của sự biểu hiện, của sự sáng tạo, của sự giải phóng.

In all these ways man begins to feel the mystery of Nature. Then, “naturally “ {and I use that very word, because it shows the logical process of everything), man begins to change as a living human being. He will change first with the realisation that Nature is living, for when he looks at the clouds, at the hills and the waves, they are not merely things of matter. They are life veiled indescribably in matter. Just as in the ancient days of India, when men saw the sunrise, they said, “This is Ushas, the Dawn Maiden,” so will the man who goes along the line I have outlined begin to feel towards Nature. He will feel everywhere in her the mysterious quality of life.

Bằng tất cả những cách này, con người bắt đầu cảm nhận được sự huyền bí của Thiên Nhiên. Sau đó, “một cách tự nhiên” (và tôi dùng chính từ đó, bởi vì nó cho thấy quá trình hợp lý của mọi thứ), con người bắt đầu thay đổi như một sinh vật sống. Y sẽ thay đổi trước tiên với sự nhận ra rằng Thiên Nhiên đang sống, vì khi y nhìn vào những đám mây, vào những ngọn đồi và những con sóng, chúng không chỉ đơn thuần là những vật chất. Chúng là sự sống được che đậy một cách không thể tả xiết trong vật chất. Giống như vào thời cổ đại của Ấn Độ, khi con người nhìn thấy mặt trời mọc, họ nói: “Đây là Ushas, Trinh Nữ Bình Minh”, thì người đi theo con đường mà tôi đã vạch ra cũng sẽ bắt đầu cảm nhận về Thiên Nhiên. Y sẽ cảm nhận được ở khắp mọi nơi trong đó phẩm chất huyền bí của sự sống.

As his soul expands to sunrises and sunsets, he will be almost on the verge of seeing behind them the joy of the angels; the myriads of blades of grass as the sunlight plays among them, the creatures of earth and air, the very rocks around him which seem lifeless, all these will give a mysterious unity to life. Then, because Nature has revealed to him a little of her meaning, he will sense something of his own hidden power. We imagine that it is only from books and poems and Gospels that we discover the meaning of ourselves; but if we will go out into Nature, with the right attitude of heart and mind, the very life and death struggles in Nature will tell us of those processes of life and death within our own hearts. For Nature always will tell us something of the hidden possibilities of ourselves.

Khi linh hồn y mở rộng ra những cảnh bình minh và hoàng hôn, y sẽ gần như trên bờ vực nhìn thấy đằng sau chúng niềm vui của các thiên thần; vô số ngọn cỏ khi ánh sáng mặt trời chiếu rọi giữa chúng, những sinh vật của đất và không khí, ngay cả những tảng đá xung quanh y dường như vô tri vô giác, tất cả những điều này sẽ mang lại một sự thống nhất huyền bí cho cuộc sống. Sau đó, bởi vì Thiên Nhiên đã tiết lộ cho y một chút ý nghĩa của nó, y sẽ cảm nhận được điều gì đó về sức mạnh tiềm ẩn của chính mình. Chúng ta tưởng tượng rằng chỉ từ sách, thơ và Phúc Âm, chúng ta mới khám phá ra ý nghĩa của bản thân; nhưng nếu chúng ta đi ra ngoài Thiên Nhiên, với thái độ đúng đắn của trái tim và thể trí, thì chính những cuộc đấu tranh sinh tử trong Thiên Nhiên sẽ cho chúng ta biết về những quá trình sinh tử trong chính trái tim mình. Vì Thiên Nhiên sẽ luôn cho chúng ta biết điều gì đó về những khả năng tiềm ẩn của chính chúng ta.

Let me here mention three great poets of England, and how they have helped us to gain something of the Divine Vision of Nature. It has been well said that:

Để tôi đề cập ở đây ba nhà thơ vĩ đại của nước Anh, và cách họ đã giúp chúng ta đạt được điều gì đó về Tầm Nhìn Thiêng Liêng của Thiên Nhiên. Người ta đã nói rằng:

Wordsworth bound the whole world of man and Nature together in a new bond of emotional life; Keats revealed afresh the visible creation clothed in a new magic of beauty; Shelley saw everywhere the invisible spirit of the universe, and those who could follow his soaring flight found themselves caught up into regions beyond the limits of flesh or even time and space.

Wordsworth đã ràng buộc toàn bộ thế giới của con người và Thiên Nhiên lại với nhau bằng một mối liên kết mới của đời sống cảm xúc; Keats đã tiết lộ một lần nữa sự sáng tạo hữu hình được khoác lên một vẻ đẹp kỳ diệu mới; Shelley đã nhìn thấy ở khắp mọi nơi tinh thần vô hình của vũ trụ, và những người có thể theo dõi chuyến bay vút cao của Ông thấy mình bị cuốn vào những vùng vượt ra ngoài giới hạn của thể xác hoặc thậm chí thời gian và không gian.

It is not a small experience to travel with Shelley and look at a cloud and feel the life beyond the cloud. And what is so difficult for most people in Shelley is that he is not dealing with things “as they are”; he is dealing with the divine ideas behind the things. People have the same difficulty in understanding the pictures of Watts; you may remember that once, when Watts was questioned about this difficult quality of his pictures, he replied, “ I paint ideas, not things”. When you have learnt to look beyond the things, and commune with the ideas, then indeed the Divine Vision of Nature begins to be yours. Nature then manifests in an utterly new way, and you accept Nature with her full message of life.

Không phải là một trải nghiệm nhỏ khi du hành cùng Shelley và nhìn vào một đám mây và cảm nhận sự sống vượt ra ngoài đám mây. Và điều khó khăn đối với hầu hết mọi người ở Shelley là Ông không đối phó với những thứ “như chúng vốn là”; Ông đang đối phó với những ý tưởng thiêng liêng đằng sau những thứ đó. Mọi người gặp khó khăn tương tự trong việc hiểu những bức tranh của Watts; bạn có thể nhớ rằng có lần, khi Watts bị chất vấn về phẩm chất khó khăn này trong các bức tranh của Ông, Ông đã trả lời: “Tôi vẽ ý tưởng, không phải vật chất”. Khi bạn đã học được cách nhìn xa hơn những thứ đó và giao tiếp với những ý tưởng, thì quả thực Tầm Nhìn Thiêng Liêng của Thiên Nhiên bắt đầu thuộc về bạn. Khi đó, Thiên Nhiên biểu hiện theo một cách hoàn toàn mới và bạn chấp nhận Thiên Nhiên với toàn bộ thông điệp về sự sống của nó.

But also Nature must be subdued. I have said that Nature is ruthless; if we think of ourselves as infinitesimal fragments in her process, we are indeed helpless. But I have also said that the artist can refashion Nature. We have to learn the mystery of subduing Nature, just as when Wagner created his Fire music he subdued the fire not only of our earth but of the whole universe. When you merely look on at crowded Regent Street and Piccadilly, you may be repelled; but when you paint Regent Street and Piccadilly, you will have seen them with “larger other eyes,” and you will have subdued Regent Street and Piccadilly. And so transformed them that they live within you for ever, not as streets of luxury and shallowness and lust, but as the really glorious places as they exist in the Divine Plan. And so it is with the artist when he composes, or sculptures, or when he creates anything. He then subdues Nature, and thereby he releases himself from his thraldom to Nature.

Nhưng Thiên Nhiên cũng phải được khuất phục. Tôi đã nói rằng Thiên Nhiên tàn nhẫn; nếu chúng ta nghĩ về bản thân như những mảnh vỡ vô cùng nhỏ bé trong quá trình của nó, thì chúng ta thực sự bất lực. Nhưng tôi cũng đã nói rằng nghệ sĩ có thể tái tạo Thiên Nhiên. Chúng ta phải học bí ẩn của việc khuất phục Thiên Nhiên, giống như khi Wagner tạo ra bản nhạc Lửa của mình, Ông đã khuất phục ngọn lửa không chỉ của Trái Đất chúng ta mà còn của toàn bộ vũ trụ. Khi bạn chỉ đơn thuần nhìn vào Phố Regent và Quảng trường Piccadilly đông đúc, bạn có thể bị đẩy lùi; nhưng khi bạn vẽ Phố Regent và Quảng trường Piccadilly, bạn sẽ nhìn thấy chúng bằng “đôi mắt khác lớn hơn” và bạn sẽ khuất phục Phố Regent và Quảng trường Piccadilly. Và do đó biến đổi chúng để chúng sống mãi mãi trong bạn, không phải là những con phố xa hoa, nông cạn và dục vọng, mà là những địa điểm thực sự vinh quang như chúng tồn tại trong Thiên Cơ. Và cũng như vậy đối với nghệ sĩ khi y sáng tác, điêu khắc hoặc khi y tạo ra bất cứ điều gì. Khi đó, y khuất phục Thiên Nhiên, và do đó y giải phóng mình khỏi ách nô lệ đối với Thiên Nhiên.

The artist who knows the true mystery of creation can stand forth in life as the Liberated One; and every great and mighty Teacher who is a Liberated One is indeed an Artist. Have you noted how intensely artistic Christ is in all his similes and parables, and in the way He presents things? The mighty Founder of Buddhism was an exquisite poet. You might not, perhaps, have thought of the Lord Buddha as a great Eastern poet; but his sermons are full of verses composed by Him. Every great Teacher has in him the quality of the artist; that is why he sees men as creators, and comes to teach them what we call his “Way,” his technique of religion. It is by that “way “ that man becomes Nature’s high priest.

Nghệ sĩ biết được bí ẩn thực sự của sự sáng tạo có thể đứng lên trong cuộc sống như Đấng Giải Thoát; và mọi Huấn Sư Vĩ Đại và quyền năng vốn là Đấng Giải Thoát thực sự là một Nghệ Sĩ. Bạn có nhận thấy Đức Christ nghệ thuật đến mức nào trong tất cả những phép so sánh và dụ ngôn của Ngài, và trong cách Ngài trình bày mọi thứ không? Đấng Sáng Lập quyền năng của Phật giáo là một nhà thơ tuyệt vời. Có lẽ bạn có thể không nghĩ về Đức Phật như một nhà thơ vĩ đại của phương Đông; nhưng những bài giảng của Ngài chứa đầy những câu thơ do Ngài sáng tác. Mọi Huấn Sư vĩ đại đều có phẩm chất của nghệ sĩ; đó là lý do tại sao Ngài nhìn thấy con người như những nhà sáng tạo, và đến để dạy họ cái mà chúng ta gọi là “Đạo” của Ngài, kỹ thuật tôn giáo của Ngài. Chính nhờ “đạo” đó mà con người trở thành tư tế tối cao của Thiên Nhiên.

How can one describe the nature of the man who has come to the Divine Vision? Just as the human priest, who is consecrated to the Divine Vision, is mediator between God and Man, it matters not to what God the offering is made, so is it possible for men and women, such as you and I are, to stand midway between Nature and all the humble representatives of Nature. For the rocks, too, long as men long; the plants have their own aspirations; and all Nature, which is the embodiment of Divine Life, is dimly feeling after a great Redeemer. The plant is hungering for Him; everything which seems to be merely matter is dreaming of the day when it shall be released from matter, and shall receive in the Divine Plan a full embodiment of the Divine Life. When one has discovered the Vision of Nature, his life is so blended with Nature, with the plants and the trees, that steadily all things begin to feel that he is their high priest, who will express to God something of their longings.

Làm thế nào một người có thể mô tả bản chất của người đã đạt được Linh Thị Giác? Giống như vị tư tế phàm nhân, vốn được hiến dâng cho Linh Thị Giác, là người hòa giải giữa Thượng đế và Con Người, không quan trọng việc dâng lễ vật cho Thượng đế nào, thì những người nam và nữ, như chúng ta, có thể đứng giữa Thiên Nhiên và tất cả những đại diện khiêm nhường của Thiên Nhiên. Vì đá cũng khao khát như con người khao khát; thực vật có những khát vọng riêng; và tất cả Thiên Nhiên, vốn là hiện thân của Sự Sống Thiêng Liêng, đang lờ mờ cảm nhận về một Đấng Cứu Chuộc vĩ đại. Cây cối đang đói khát Ngài; mọi thứ dường như chỉ là vật chất đang mơ về ngày nó được giải thoát khỏi vật chất, và sẽ nhận được trong Thiên Cơ một hiện thân trọn vẹn của Sự Sống Thiêng Liêng. Khi một người đã khám phá ra Thị Giác của Thiên Nhiên, cuộc sống của y hòa quyện với Thiên Nhiên, với cây cối, đến nỗi mọi thứ bắt đầu cảm thấy rằng y là vị tư tế tối cao của chúng, người sẽ bày tỏ với Thượng đế một phần nào đó về những khát khao của chúng.

It is one of the most wonderful and exquisite things of life to go out into the fields, and as you admire all Nature to know that all the little plants and the little animals and the clouds are stirred by a longing to feel through you, to make you their high priest, so that they too may join with you in your offering. Indeed, it is some such quality of the nature of the high priest that is suggested in that exquisite poem of James Stephens,

Một trong những điều tuyệt vời và tinh tế nhất của cuộc sống là đi ra ngoài đồng ruộng, và khi bạn chiêm ngưỡng tất cả Thiên Nhiên, bạn biết rằng tất cả những cây nhỏ và động vật nhỏ và những đám mây đều bị khuấy động bởi một khát khao cảm nhận thông qua bạn, để biến bạn thành vị tư tế tối cao của chúng, để chúng cũng có thể cùng bạn dâng lễ vật. Thật vậy, một phẩm chất nào đó về bản chất của vị tư tế tối cao được gợi ý trong bài thơ tuyệt vời của James Stephens,

“Little things”:

“Những điều nhỏ bé”:

Little things that run and quail

Những điều nhỏ bé chạy và run sợ

And die in silence and despair;

Và chết trong im lặng và tuyệt vọng;

Little things that fight and fail

Những điều nhỏ bé chiến đấu và thất bại

And fall on earth and sea and air;

Và rơi trên đất, biển và không khí;

All trapped and frightened little things,

Tất cả những điều nhỏ bé bị mắc kẹt và sợ hãi,

The mouse, the coney, hear our prayer.

Chuột, thỏ con, hãy nghe lời cầu nguyện của chúng ta.

As we forgive those done to us,

Khi chúng ta tha thứ cho những điều đã làm với chúng ta,

The lamb, the linnet and the hare,

Cừu, chim lanh và thỏ rừng,

Forgive us all our trespasses,

Tha thứ cho chúng ta mọi lỗi lầm,

Little creatures everywhere.

Những sinh vật nhỏ bé ở khắp mọi nơi.

The man Who loves Nature can go out into the woods and fields, and though he be saddened by all the suffering which man has inflicted on animals, and by the uglinesses with which man has blighted the face of Nature, he can give the blessing that God has for Nature. That is one of the mighty discoveries which come to those who love Nature.

Người yêu Thiên Nhiên có thể đi vào rừng và đồng ruộng, và mặc dù y buồn bã trước tất cả những đau khổ mà con người đã gây ra cho động vật, và trước những điều xấu xí mà con người đã tàn phá bộ mặt của Thiên Nhiên, y có thể ban phước lành mà Thượng đế dành cho Thiên Nhiên. Đó là một trong những khám phá mạnh mẽ đến với những người yêu Thiên Nhiên.

There is still another wonderful discovery, and that is, to know that you can be mankind’s saviour. What does that word “saviour “ mean? It may mean many things, but I think in the main the idea is that a saviour is one Who releases mankind from bondage. That is what you do, with regard to your fellowmen, when you begin to seek and to possess the Divine Vision. For, from then, if you are the true artist, the one who understands the inner mysteries of his art, as you create you create for others. When a poet, out of the depths of his depression, writes a sonnet, not only does he release himself, but he flings wide open the door out of depression to the thousands who read him. When some great mystic writes a hymn of devotion, he makes others feel that devotion with him. When a mighty musician in terms of his abstract conceptions describes in music things which seem utterly indescribable, he takes us by the hand with him into that other land. Always he who has lived with Nature is enabled to release his own fellowman. Nature comes to you then as mother, as brother, as sister, as friend; she leads you to your own Beloved, that ideal you have placed before yourself.

Vẫn còn một khám phá tuyệt vời khác, đó là biết rằng bạn có thể là vị cứu tinh của nhân loại. Từ “cứu tinh” có nghĩa là gì? Nó có thể có nghĩa là nhiều điều, nhưng tôi nghĩ ý chính là một vị cứu tinh là Người giải phóng nhân loại khỏi sự trói buộc. Đó là những gì bạn làm, đối với đồng loại của mình, khi bạn bắt đầu tìm kiếm và sở hữu Linh Thị Giác. Vì từ đó, nếu bạn là nghệ sĩ chân chính, người hiểu những bí ẩn nội tại của nghệ thuật của mình, khi bạn sáng tạo, bạn sáng tạo cho người khác. Khi một nhà thơ, từ tận đáy vực sâu của sự chán nản, viết một bài thơ sonnet, y không chỉ giải thoát bản thân mà còn mở toang cánh cửa thoát khỏi sự chán nản cho hàng ngàn người đọc y. Khi một nhà thần bí vĩ đại viết một bài thánh ca sùng kính, y khiến người khác cảm nhận được sự sùng kính đó cùng với y. Khi một nhạc sĩ vĩ đại mô tả trong âm nhạc những điều dường như hoàn toàn không thể diễn tả được bằng những quan niệm trừu tượng của mình, y nắm tay chúng ta cùng y vào vùng đất khác đó. Luôn luôn người đã sống với Thiên Nhiên có thể giải phóng đồng loại của mình. Thiên Nhiên đến với bạn như mẹ, như anh, như chị, như bạn; Bà dẫn bạn đến với Người Yêu dấu của bạn, lý tưởng mà bạn đã đặt ra trước mắt mình.

Then you know that all that you have achieved, all you have felt with your Beloved, is for man. For it is a striking thing that when you come to fashion the real, the inner nature of things as in art, there is no such thing as “Art for Art’s sake “. What you achieve is always for the world’s sake; and since the closest thing to you is man, it is always for man’s sake. Everything you do throws open the door of release to man, to the plant, to the animal, and to the angel. That is one of the great indescribable joys of him who possesses the Divine Vision of Nature. Not only is he the high priest, he is also the keeper of the prison, for he has the keys in his hand; and from rock, from plant and from animal, he releases the Divine Nature that is in them.

Sau đó, bạn biết rằng tất cả những gì bạn đã đạt được, tất cả những gì bạn đã cảm nhận với Người Yêu dấu của bạn, là dành cho con người. Vì một điều nổi bật là khi bạn tạo ra bản chất thực sự, bản chất bên trong của mọi thứ như trong nghệ thuật, thì không có cái gọi là “Nghệ thuật vị nghệ thuật”. Những gì bạn đạt được luôn là vì thế giới; và vì điều gần gũi nhất với bạn là con người, nên nó luôn là vì con người. Mọi thứ bạn làm đều mở ra cánh cửa giải thoát cho con người, cho cây cối, cho động vật và cho thiên thần. Đó là một trong những niềm vui lớn lao không thể diễn tả của người sở hữu Linh Thị Giác về Thiên Nhiên. Y không chỉ là vị tư tế tối cao, y còn là người canh giữ nhà tù, vì y có chìa khóa trong tay; và từ đá, từ cây cối và từ động vật, y giải phóng Bản Tính Thiêng Liêng vốn có trong chúng.

It is in these ways indeed that he who has seen the Divine Vision goes from stage to stage towards Divinity. All life means then to him inexpressible happiness, and each happiness is a sacred experience in trust for the use of all. Then to him a sunset is a scripture, a symphony is a Gospel. How may he describe what these indescribable things are to him, except by the life he tries to live?

Thật vậy, chính bằng những cách này mà người đã nhìn thấy Linh Thị Giác đi từ giai đoạn này sang giai đoạn khác hướng tới Thần Tính. Tất cả cuộc sống sau đó có ý nghĩa với y là hạnh phúc không thể diễn tả, và mỗi hạnh phúc là một trải nghiệm thiêng liêng được tin tưởng để sử dụng cho tất cả. Sau đó, đối với y, một cảnh hoàng hôn là một đoạn kinh thánh, một bản giao hưởng là một Phúc Âm. Làm thế nào y có thể mô tả những điều không thể diễn tả này đối với y, ngoại trừ bằng cuộc sống mà y cố gắng sống?

And lastly, there comes to him that experience which is his who is on the threshold of Divinity, Then the might of this mighty Nature, of which we are all tiny fragments, comes back to him again; and he who is but a fragment, is one with the whole, and the spark at last is one with the Flame. Then you, a helpless human being still under the thraldom of death, can stand and live among men, flashing to them the power of immortality. Is such a thing possible? That is exactly what does happen; and I cannot do better than quote to you a poem of George W. Russell (A. E. ), where he describes the childhood of Apollo, and what Nature sings to Apollo:

Và cuối cùng, y đạt đến kinh nghiệm vốn là của người đang ở ngưỡng cửa của Thượng đế. Khi đó, sức mạnh của Tự Nhiên vĩ đại này, mà tất cả chúng ta chỉ là những mảnh nhỏ bé, quay trở lại với y; và người vốn chỉ là một mảnh nhỏ, hợp nhất với toàn bộ, và tia lửa cuối cùng hợp nhất với Ngọn Lửa. Khi đó, bạn, một con người bất lực vẫn còn dưới ách nô lệ của cái chết, có thể đứng và sống giữa mọi người, chiếu rọi cho họ sức mạnh của sự bất tử. Một điều như vậy có thể xảy ra không? Đó chính xác là những gì xảy ra; và tôi không thể làm gì tốt hơn là trích dẫn cho bạn một bài thơ của George W. Russell (A. E.), nơi Ông mô tả thời thơ ấu của Apollo, và những gì Tự Nhiên hát cho Apollo:

Now the rooftree of the midnight spreading

Giờ đây mái nhà của bóng đêm đang lan rộng

Buds in citron, green and blue,

Nảy chồi màu vàng chanh, xanh lục và xanh lam,

From afar its mystic odours shedding,

Từ xa tỏa ra những mùi hương huyền bí,

Child, on you.

Hỡi con, cho con.

Now the buried stars beneath the mountains

Giờ đây những ngôi sao bị chôn vùi dưới những ngọn núi

And the vales their life renew,

Và những thung lũng đổi mới sự sống của chúng,

Jetting rainbow blooms from tiny fountains,

Phun ra những đóa hoa cầu vồng từ những đài phun nước nhỏ bé,

Child, for you.

Hỡi con, cho con.

As within our quiet waters passing

Như trong làn nước tĩnh lặng của chúng ta trôi qua

Sun and moon and stars we view,

Chúng ta ngắm nhìn mặt trời, mặt trăng và các vì sao,

So the loveliness of life is glassing,

Vì vậy, vẻ đẹp của cuộc sống đang phản chiếu,

Child, in you.

Hỡi con, trong con.

In the diamond air the sun star glowing

Trong không khí kim cương, ngôi sao mặt trời rực rỡ

Up its feathered radiance threw,

Nâng lên vẻ rạng rỡ như lông vũ của nó,

All the jewel glory there was flowing,

Tất cả vinh quang châu báu đang tuôn chảy,

Child, for you.

Hỡi con, cho con.

And the fire divine in all things burning

Và ngọn lửa thiêng liêng trong vạn vật đang cháy

Yearns for home and rest anew,

Khao khát mái nhà và sự nghỉ ngơi một lần nữa,

From its wanderings far again returning,

Từ những cuộc lang thang xa xôi trở về,

Child, to you.

Hỡi con, cho con.

He who has this Vision of Nature longs to make every child of God like himself. That is why all who love Nature cannot separate themselves from man. They long that man, every man, too, should be released; and those who love Nature long to bring their inspiration into the city, into the slum, and to make the creative power of God, now so feebly felt by men, surge to its full through all their days.

Y vốn có Tầm Nhìn về Tự Nhiên này mong muốn biến mọi người con của Thượng đế trở nên giống như mình. Đó là lý do tại sao tất cả những ai yêu Tự Nhiên không thể tách rời mình khỏi con người. Họ mong muốn rằng con người, mọi người, cũng nên được giải thoát; và những người yêu Tự Nhiên mong muốn mang nguồn cảm hứng của họ vào thành phố, vào khu ổ chuột, và làm cho quyền năng sáng tạo của Thượng đế, giờ đây được con người cảm nhận một cách yếu ớt, trào dâng đến mức trọn vẹn trong suốt những ngày của họ.

It is a wonderful mystery that life tells us, that all the majesty of the world is ours, and that all its joys are somewhere hidden within us. Nature has given them to us all, and we shall find if we will seek the Divine Vision of Nature. With that Divine Vision comes at-onement with Man, and God, and Nature, and the realisation of that indescribable truth, that the All returns to the All.

Đó là một bí ẩn tuyệt vời mà cuộc sống kể cho chúng ta, rằng tất cả sự uy nghi của thế giới là của chúng ta, và tất cả niềm vui của nó đều được ẩn giấu đâu đó bên trong chúng ta. Tự Nhiên đã ban chúng cho tất cả chúng ta, và chúng ta sẽ tìm thấy nếu chúng ta tìm kiếm Tầm Nhìn Thiêng Liêng về Tự Nhiên. Với Tầm Nhìn Thiêng Liêng đó đến sự hợp nhất với Con Người, và Thượng Đế, và Tự Nhiên, và sự nhận ra chân lý không thể diễn tả đó, rằng Tất Cả trở về với Tất Cả.

THE DIVINE VISION OF THE GODS AND OF GOD—TẦM NHÌN THIÊNG LIÊNG VỀ CÁC THƯỢNG ĐẾ VÀ THƯỢNG ĐẾ

A lecture delivered at Queen’s Hall. London, on May 22nd, 1927

Một bài giảng được trình bày tại Queen’s Hall. London, vào ngày 22 tháng 5 năm 1927

[As a commencement to the lecture, the audience sang, at the request of Mr. Jinanjadasa, the following hymn by the late Rev. G. Matheson, Minister of St. Bernard’s, Edinburgh, to the tune Langran.]

[Khi bắt đầu bài giảng, khán giả đã hát, theo yêu cầu của Ông Jinanjadasa, bài thánh ca sau đây của cố Mục sư G. Matheson, Bộ trưởng của St. Bernard’s, Edinburgh, theo giai điệu Langran.]

Gather us in, Thou Love that fillest’ all,

Tập hợp chúng ta lại, Hỡi Tình Thương vốn lấp đầy tất cả,

Gather our rival faiths within Thy fold;

Tập hợp những đức tin đối địch của chúng ta trong vòng tay của Ngài;

Rend each man’s temple’s veil, and bid it fall

Xé bỏ tấm màn đền thờ của mỗi người, và ra lệnh cho nó rơi xuống

That we may know that thou hast been of old.

Để chúng ta có thể biết rằng Ngài đã có từ xưa.

Gather us in; we worship only Thee;

Tập hợp chúng ta lại; chúng ta chỉ thờ phượng Ngài;

In varied names we stretch a common hand:

Trong những cái tên khác nhau, chúng ta dang một bàn tay chung:

In diverse forms a common soul we see;

Trong những hình thức đa dạng, chúng ta thấy một linh hồn chung;

In many ships we seek one spirit-land.

Trong nhiều con tàu, chúng ta tìm kiếm một vùng đất tinh thần.

Thine is the mystic life great India craves,

Của Ngài là sự sống huyền bí mà Ấn Độ vĩ đại khao khát,

Thine is the Parsi’s purifying beam,

Của Ngài là tia sáng thanh lọc của người Parsi,

Thine is the Buddhist’s rest from tossing waves,

Của Ngài là sự nghỉ ngơi của Phật tử khỏi những con sóng nhấp nhô,

Thine is the empire of vast China’s dream

Của Ngài là đế chế trong giấc mơ bao la của Trung Quốc

Thine is the Roman’s strength without his pride.

Của Ngài là sức mạnh của người La Mã mà không có niềm kiêu hãnh của Ông.

Thine is the Greek’s glad world without its slaves,

Của Ngài là thế giới vui vẻ của người Hy Lạp mà không có nô lệ,

Thine is Judea’s law with love beside,

Của Ngài là luật pháp của Judea với tình yêu bên cạnh,

Truth that enlightens, charity that saves.

Chân lý soi sáng, lòng bác ái cứu rỗi.

Each sees one colour of Thy rainbow light,

Mỗi người thấy một màu sắc trong ánh sáng cầu vồng của Ngài,

Each looks upon one tint and calls it heaven.

Mỗi người nhìn vào một sắc thái và gọi nó là thiên đường.

Thou art the fullness of our partial sight;

Ngài là sự viên mãn của tầm nhìn phiến diện của chúng ta;

We are not perfect till we find the seven.

Chúng ta không hoàn hảo cho đến khi chúng ta tìm thấy con số bảy.

Some seek a Father in the heavens above;

Một số người tìm kiếm một Người Cha trên thiên đàng;

Some ask a human image to adore;

Một số người yêu cầu một hình ảnh con người để tôn thờ;

Some crave a spirit vast as life and love;

Một số người khao khát một tinh thần bao la như sự sống và tình yêu;

Within Thy mansions we have all and more.

Trong những dinh thự của Ngài, chúng ta có tất cả và hơn thế nữa.

O glorious Triune God, embracing all.

Ôi Thượng đế Ba Ngôi vinh quang, bao trùm tất cả.

By many Paths do men approach Thy throne;

Bằng nhiều Thánh Đạo, con người đến gần ngai vàng của Ngài;

All Paths are Thine; Thou hearest every call!

Tất cả các Thánh Đạo là của Ngài; Ngài lắng nghe mọi lời kêu gọi!

Each earnest seeker has Thee for his own.

Mỗi người tìm kiếm chân thành đều có Ngài cho riêng mình.

When an audience such as this will, with utter gladness, sing a hymn of such splendid beauty, it is obvious that we are at the opening of a new epoch in religion. The day is over when cultured men and women could imagine that all the truth of religion necessary for mankind could be found in one religion alone. So far as Christians at all advanced stages in thought are concerned, the day is happily over when they could believe that the heathen in his blindness bows down to wood and stone. That old idea that for the first time in Palestine, God’s great light shone upon the world, has happily passed away. We can see the dawn of a new day, even where Christian propaganda is concerned, in the different training given to young men and women who are to go forth as missionaries; in their training today they have to know the splendid ideas of India, or of China, or of Persia. They must, if they are to work in “heathen “ lands, first know that already the Truth has shone there; and if they are to bring any “not of this fold “ into the fold of Christendom, it is only by convincing them that the teachings of Christ are a supplement to all the teachings that have gone before.

Khi một khán giả như thế này, với niềm vui tột độ, hát một bài thánh ca có vẻ đẹp lộng lẫy như vậy, rõ ràng là chúng ta đang ở buổi bình minh của một kỷ nguyên mới trong tôn giáo. Ngày tàn đã qua khi những người nam và nữ có văn hóa có thể tưởng tượng rằng tất cả chân lý của tôn giáo cần thiết cho nhân loại có thể được tìm thấy chỉ trong một tôn giáo. Đối với những Cơ đốc nhân ở tất cả các giai đoạn tư tưởng tiến bộ, ngày tàn đã qua khi họ có thể tin rằng những người ngoại đạo trong sự mù quáng của mình cúi đầu trước gỗ và đá. Cái ý tưởng cũ kỹ rằng lần đầu tiên ở Palestine, ánh sáng vĩ đại của Thượng đế chiếu rọi thế giới, đã may mắn trôi qua. Chúng ta có thể thấy bình minh của một ngày mới, ngay cả khi có liên quan đến công cuộc truyền bá Cơ đốc giáo, trong sự đào tạo khác biệt dành cho những người nam và nữ trẻ tuổi, những người sẽ ra đi làm nhà truyền giáo; trong quá trình đào tạo của họ ngày nay, họ phải biết những ý tưởng tuyệt vời của Ấn Độ, hoặc của Trung Quốc, hoặc của Ba Tư. Họ phải, nếu họ làm việc ở những vùng đất “ngoại đạo”, trước tiên phải biết rằng Chân Lý đã chiếu rọi ở đó; và nếu họ mang bất kỳ ai “không thuộc đàn chiên này” vào đàn chiên của Cơ đốc giáo, thì chỉ bằng cách thuyết phục họ rằng những lời dạy của Đức Christ là một sự bổ sung cho tất cả những lời dạy đã có trước đó.

Because this new attitude exists amongst those who seriously seek God, it is now possible to approach the problem of the Divine Vision of God free from the old prejudices of a day that is gone. But we still have certain prejudices- I should perhaps call them handicaps; it is necessary, therefore, to examine some of them which still clog our thought.

Bởi vì thái độ mới này tồn tại giữa những người thành tâm tìm kiếm Thượng đế, giờ đây có thể tiếp cận vấn đề về Thiên Khải của Thượng đế mà không còn những thành kiến cũ của một thời đã qua. Nhưng chúng ta vẫn có những thành kiến nhất định – có lẽ tôi nên gọi chúng là những trở ngại; do đó, cần phải xem xét một số thành kiến vẫn đang cản trở suy nghĩ của chúng ta.

One handicap is the attitude which we have towards the problem of God, of always trying to fit His nature into some anthropomorphic concept. We cannot think of a Divine Nature, which is the substratum of everything, unless, in the West for instance, we think in terms of manhood; we talk of “the Father,” and we talk of God as “He “. It may be that here and there some talk of the Father-Mother God, but they are few.

Một trở ngại là thái độ của chúng ta đối với vấn đề Thượng đế, luôn cố gắng gán bản chất của Ngài vào một khái niệm nhân hình nào đó. Chúng ta không thể nghĩ về một Bản Chất Thiêng Liêng, vốn là nền tảng của mọi thứ, trừ khi, chẳng hạn như ở phương Tây, chúng ta nghĩ theo kiểu nam tính; chúng ta nói về “Đấng Cha”, và chúng ta nói về Thượng đế như “Ngài”. Có thể ở đây và ở đó một số người nói về Thượng đế Cha-Mẹ, nhưng số đó rất ít.

Usually we feel that if the Divine is to be brought near to us, it can only be through some idea of a human image. In India it is much the same, although the attempt is on a little wider basis, because in Hinduism there are many-armed and many-headed Gods. But with anthropomorphism, there is all the time a certain limitation in our thoughts; it is a handicap when we cannot conceive of any other intellectual mould into which the realisation of the Divine Nature can be poured.

Thông thường, chúng ta cảm thấy rằng nếu Đấng Thiêng Liêng được mang đến gần chúng ta, thì điều đó chỉ có thể thông qua một ý niệm nào đó về hình ảnh con người. Ở Ấn Độ cũng gần giống như vậy, mặc dù nỗ lực này dựa trên một cơ sở rộng hơn một chút, bởi vì trong Ấn Độ giáo có những vị Thần nhiều tay và nhiều đầu. Nhưng với thuyết nhân hình, luôn có một giới hạn nhất định trong suy nghĩ của chúng ta; đó là một trở ngại khi chúng ta không thể hình dung ra bất kỳ khuôn trí tuệ nào khác mà trong đó sự nhận biết về Bản Chất Thiêng Liêng có thể được rót vào.

I have often wondered how the concept of God might appear to certain of our animals, supposing they should be given the high powers of reason. And here let me quote to you an exquisite poem of W. B. Yeats, who took the idea from some Indian legend. He describes the Indian Rishi Kanva listening to what the creatures are saying; the poem is a beautiful parable for us all:

Tôi thường tự hỏi khái niệm về Thượng đế có thể xuất hiện như thế nào đối với một số loài động vật của chúng ta, giả sử chúng được ban cho những năng lực lý luận cao siêu. Và ở đây, tôi xin trích dẫn cho bạn một bài thơ tuyệt vời của W. B. Yeats, người đã lấy ý tưởng từ một truyền thuyết Ấn Độ nào đó. Ông mô tả vị Rishi Kanva người Ấn Độ lắng nghe những gì các sinh vật đang nói; bài thơ là một dụ ngôn tuyệt đẹp cho tất cả chúng ta:

I passed along the water’s edge below the humid trees,

Tôi bước dọc theo mép nước bên dưới những hàng cây ẩm ướt,

My spirit rocked in evening’s hush, the rushes round my knees.

Tâm hồn tôi rung động trong sự tĩnh lặng của buổi tối, những cây sậy quanh đầu gối tôi.

My spirit rocked in sleep and sighs; and saw the moorfowl pace

Tâm hồn tôi rung động trong giấc ngủ và tiếng thở dài; và thấy gà nước bước đi

All dripping on a grassy slope, and saw them cease to chase

Tất cả đều nhỏ giọt trên một sườn dốc đầy cỏ, và thấy chúng ngừng đuổi bắt

Each other round in circles; and I heard the eldest speak:

Lẫn nhau thành vòng tròn; và tôi nghe thấy người lớn tuổi nhất nói:

“Who holds the world between His bill and makes us strong or weak

“Ai giữ thế giới giữa mỏ Ngài và làm cho chúng ta mạnh mẽ hay yếu đuối

Is an undying moorfowl, and He lives beyond the sky,

Là một con gà nước bất tử, và Ngài sống ngoài bầu trời,

The rains are from His dripping wing, the moon-beams from His eye”.

Những cơn mưa đến từ đôi cánh nhỏ giọt của Ngài, những tia trăng từ mắt Ngài”.

I passed a little further on and heard a lotus talk:

Tôi đi xa hơn một chút và nghe một bông sen nói:

“Who made the world and ruleth it, He hangeth on a stalk.

“Ai đã tạo ra thế giới và cai trị nó, Ngài treo trên một cọng.

For I am in His image made, and all this tinkling tide

Vì tôi được tạo ra theo hình ảnh của Ngài, và tất cả thủy triều lấp lánh này

Is but a sliding drop of rain between His petals wide.”

Chỉ là một giọt mưa trượt giữa những cánh hoa rộng của Ngài.”

A little way within the gloom a roebuck raised his eyes

Một đoạn ngắn trong bóng tối, một con hoẵng ngước mắt lên

Brimful of starlight, and he said, “The Stamper of the Skies.

Đầy ắp ánh sao, và y nói, “Đấng In Dấu Bầu Trời.

He is a gentle roebuck; for how else I pray could He

Ngài là một con hoẵng hiền lành; vì nếu không thì làm sao Ngài có thể

Conceive a thing so sad and soft, a gentle thing like me? “

Hình dung ra một điều gì đó buồn và dịu dàng đến thế, một điều dịu dàng như tôi? “

I passed a little further on and I heard a peacock say:

Tôi đi xa hơn một chút và nghe một con công nói:

“Who made the grass and made the worms and made my feathers gay,

“Ai đã tạo ra cỏ và tạo ra sâu và tạo ra bộ lông sặc sỡ của tôi,

He is a monstrous peacock, and He waveth all the night

Ngài là một con công quái dị, và Ngài vẫy suốt đêm

His languid tail above us, lit with myriad spots of light.”

Cái đuôi uể oải của Ngài phía trên chúng ta, được thắp sáng bằng vô số đốm sáng.”

Surely if we were peacocks, should we not see the splendid tail of the Divine Peacock clearly before our eyes in all its beauty, should we not find in it the proof that God is a peacock? We think that all the experiences which we have had convince us that God is a Father, or a Mother, or a Beloved. Because we are human beings, we approach God along our particular line. But, as you will see presently, though it is full of inspiration, such a concept has also certain elements of handicap.

Chắc chắn nếu chúng ta là những con công, chúng ta sẽ không thấy chiếc đuôi lộng lẫy của Con Công Thiêng Liêng rõ ràng trước mắt chúng ta trong tất cả vẻ đẹp của nó sao, chúng ta sẽ không tìm thấy trong đó bằng chứng rằng Thượng đế là một con công sao? Chúng ta nghĩ rằng tất cả những kinh nghiệm mà chúng ta đã có đều thuyết phục chúng ta rằng Thượng đế là một Người Cha, hoặc một Người Mẹ, hoặc một Người Yêu Dấu. Bởi vì chúng ta là con người, chúng ta tiếp cận Thượng đế theo con đường đặc biệt của mình. Nhưng, như bạn sẽ thấy ngay bây giờ, mặc dù nó tràn đầy cảm hứng, nhưng một khái niệm như vậy cũng có những yếu tố gây trở ngại nhất định.

There is also a second handicap which many of us have, especially in the Western world; it is due to our attitude towards Science and Art, because we think that these two great departments have no special relation to religion. Because we know that science in many ways contradicts our preconceived ideas of religion, we do not see that there can be any kind of interplay of science and our religious convictions and realisations. We are apt to imagine that religion is a matter of profound emotion and mysticism and deep intuitions. We have got far away from those ancient days of Greece, when one of the disciples of Pythagoras said that “a purified intellect is a chorus of divinity “. Our modern religious attitude, because science does not find itself able to endorse all our religious claims, is that science stands quite outside the problem of who and what God is.

Ngoài ra còn có một trở ngại thứ hai mà nhiều người trong chúng ta gặp phải, đặc biệt là ở thế giới phương Tây; đó là do thái độ của chúng ta đối với Khoa học và Nghệ thuật, bởi vì chúng ta nghĩ rằng hai lĩnh vực lớn này không có mối liên hệ đặc biệt nào với tôn giáo. Bởi vì chúng ta biết rằng khoa học theo nhiều cách mâu thuẫn với những ý tưởng định sẵn của chúng ta về tôn giáo, chúng ta không thấy rằng có thể có bất kỳ sự tương tác nào giữa khoa học và những xác tín và nhận biết tôn giáo của chúng ta. Chúng ta có khuynh hướng hình dung rằng tôn giáo là một vấn đề của cảm xúc sâu sắc và huyền bí và những trực giác sâu sắc. Chúng ta đã đi rất xa so với những ngày xưa của Hy Lạp, khi một trong những đệ tử của Pythagoras nói rằng “một trí tuệ thanh lọc là một điệp khúc của thần thánh”. Thái độ tôn giáo hiện đại của chúng ta, bởi vì khoa học không thấy mình có thể tán thành tất cả những tuyên bố tôn giáo của chúng ta, là khoa học hoàn toàn đứng ngoài vấn đề Thượng đế là ai và là gì.

Similar is the attitude, among some people, towards art. Because the arts are somewhat too independent, and will not be moulded into the shapes which religion gives, they leave art aside. They do not recognise that in the creations of the artist – creations remember, which mark the high watermark of civilisation – there may possibly be revelations as to the nature of God.

Tương tự là thái độ, ở một số người, đối với nghệ thuật. Bởi vì nghệ thuật có phần quá độc lập và sẽ không được đúc thành những hình dạng mà tôn giáo mang lại, họ gạt nghệ thuật sang một bên. Họ không nhận ra rằng trong những sáng tạo của nghệ sĩ – hãy nhớ rằng những sáng tạo đánh dấu đỉnh cao của nền văn minh – có thể có những mặc khải về bản chất của Thượng đế.

But surely it is obvious to anyone who is seeking Truth, not by way of tradition only, but also by looking directly for himself, that wherever there is any kind of Truth which helps man, it does not matter in what department, that Truth must reveal something of ultimate Reality. For Truth must surely be one, and it is only human limitation which divides Truth into that of Science, of Religion, of Philosophy and of Art. God’s own Truth cannot but be one and indivisible. The seeker without prejudices soon realises that wherever is any kind of Truth – whatever the field it may be in – which has helped mankind, something of the Divine Nature is there to be discovered in understanding and living that Truth.

Nhưng chắc chắn bất cứ ai đang tìm kiếm Chân Lý đều thấy rõ, không chỉ bằng con đường truyền thống, mà còn bằng cách tự mình trực tiếp tìm kiếm, rằng bất cứ nơi nào có bất kỳ loại Chân Lý nào giúp ích cho con người, bất kể ở lĩnh vực nào, thì Chân Lý đó phải tiết lộ điều gì đó về Thực Tại tối thượng. Vì Chân Lý chắc chắn phải là một, và chỉ có sự giới hạn của con người mới chia Chân Lý thành Chân Lý của Khoa học, của Tôn giáo, của Triết học và của Nghệ thuật. Chân Lý của Thượng đế không thể không là một và bất khả phân. Người tìm kiếm không thành kiến sớm nhận ra rằng bất cứ nơi nào có bất kỳ loại Chân Lý nào – bất kể lĩnh vực nào – vốn đã giúp ích cho nhân loại, thì ở đó có điều gì đó về Bản Chất Thiêng Liêng được khám phá trong việc thấu hiểu và sống theo Chân Lý đó.

If there is any kind of a Divinity who has made the universe, not only this speck of dust in that universe which we call the Earth; if this vast process of life is not a “fortuitous concourse of atoms,” but rather the splendid manifestation of some Divine Mind and Purpose; surely then it is obvious that this human brain of ours is able to know only one aspect of that Purpose. How can men and women with brains which, as modern science shows, are not to be distinguished in any wonderful way from those of the anthropoid apes, presume to understand and to grasp the full mystery of the universe? A part of that mystery, yes; but how can we now dare to presume to know all that the universe has to teach us through Science, Philosophy, Art. Religion and all the many kinds of social organisation with it, will unfold in the course of the ages?

Nếu có bất kỳ loại Thượng đế nào đã tạo ra vũ trụ, không chỉ là hạt bụi trong vũ trụ mà chúng ta gọi là Trái Đất; nếu quá trình sự sống rộng lớn này không phải là một “sự hội tụ ngẫu nhiên của các nguyên tử”, mà đúng hơn là sự biểu hiện tuyệt vời của một Thiên Ý và Thiên Cơ nào đó; thì chắc chắn rõ ràng rằng bộ não con người của chúng ta chỉ có thể biết một khía cạnh của Thiên Ý đó. Làm thế nào những người nam và nữ có bộ não mà, như khoa học hiện đại cho thấy, không thể phân biệt một cách kỳ diệu nào với bộ não của loài vượn người, lại dám cho rằng mình có thể hiểu và nắm bắt được toàn bộ bí ẩn của vũ trụ? Một phần của bí ẩn đó, vâng; nhưng làm sao chúng ta có thể dám cho rằng mình biết tất cả những gì vũ trụ phải dạy chúng ta thông qua Khoa học, Triết học, Nghệ thuật. Tôn giáo và tất cả các loại hình tổ chức xã hội khác nhau đi kèm với nó, sẽ mở ra trong suốt các thời đại?

It is because of this complete inability of the human brain to conceive of the fullness of Truth, that one of the greatest philosophers that the world has seen, Gautama the Buddha, never talked of the problem of who and what God is. Whenever a question was asked of Him concerning the nature of creation, whether there was an infinite or finite God, and concerning problems which could not be adequately grasped by the human brain, He always remained silent. Edwin Arnold in The Light of Asia, truly describes the Buddhist point of view, in the opening words of Buddha’s first sermon:

Chính vì sự bất lực hoàn toàn của bộ não con người trong việc hình dung ra sự viên mãn của Chân Lý, mà một trong những nhà triết học vĩ đại nhất mà thế giới từng thấy, Gautama Đức Phật, không bao giờ nói về vấn đề Thượng đế là ai và là gì. Bất cứ khi nào một câu hỏi được hỏi Ngài liên quan đến bản chất của sự sáng tạo, liệu có một Thượng đế vô hạn hay hữu hạn, và liên quan đến các vấn đề vốn không thể được bộ não con người nắm bắt đầy đủ, Ngài luôn im lặng. Edwin Arnold trong Ánh Sáng Á Châu, đã mô tả một cách chân thực quan điểm của Phật giáo, trong những lời mở đầu của bài giảng đầu tiên của Đức Phật:

Om, Amitaya! measure not with words

Om, Amitaya! đừng đo bằng lời

Th’ Immeasurable; nor sink the string of thought Into the Fathomless. Who asks doth err,

Điều Không Đo Được; cũng đừng nhấn chìm sợi dây tư tưởng Vào Điều Không Dò Thấu. Ai hỏi thì sai,

Who answers, errs. Say nought!

Ai trả lời, thì sai. Đừng nói gì cả!

It is exactly this attitude which was taken in India before the Buddha with regard to the same problem. One of the most daring concepts that the Hindus have achieved is, when asking if there is a Divine Purpose in things, to say that perhaps that Divine Purpose itself cannot answer certain questions, such as”Why did the universe arise? “ A most famous hymn in the Rig Veda thus ends:

Chính xác thái độ này đã được thực hiện ở Ấn Độ trước thời Đức Phật liên quan đến cùng một vấn đề. Một trong những khái niệm táo bạo nhất mà người Hindu đã đạt được là, khi hỏi liệu có một Thiên Ý trong mọi thứ hay không, thì nói rằng có lẽ chính Thiên Ý đó không thể trả lời một số câu hỏi nhất định, chẳng hạn như “Tại sao vũ trụ lại phát sinh?” Một bài thánh ca nổi tiếng nhất trong Rig Veda kết thúc như sau:

Who knows for certain? Who shall here declare it?

Ai biết chắc chắn? Ai sẽ tuyên bố điều đó ở đây?

Whence was it born, and whence came this creation?

Nó được sinh ra từ đâu, và sự sáng tạo này đến từ đâu?

The Gods were born after this world’s creation;

Các Thượng đế được sinh ra sau khi thế giới này được tạo ra;

Then who can know from whence it has arisen?

Vậy ai có thể biết nó đã phát sinh từ đâu?

None knoweth whence creation,has arisen,

Không ai biết sự sáng tạo đã phát sinh từ đâu,

And whether He has or has not produced it;

Và liệu Ngài đã tạo ra nó hay chưa;

He who surveys it in the highest heaven,

Ngài vốn quan sát nó trên cõi trời cao nhất,

He only knows, or haply He may know not.

Chỉ Ngài biết, hoặc có lẽ Ngài có thể không biết.

It is in that splendid presumption as to the mystery of the universe, that perhaps even the Creator Himself knows not what is the mystery of it all, that we have the most daring point of Hindu speculation.

Chính trong sự cả gan tuyệt vời đó về bí ẩn của vũ trụ, rằng có lẽ ngay cả Đấng Sáng Tạo cũng không biết bí ẩn của tất cả là gì, mà chúng ta có được điểm suy đoán táo bạo nhất của Ấn Độ giáo.

If any of you in this hall, as you sang “Gather us in”, felt the splendour of its conception of universal religion, it is because in other places in other lives you have known the partial conceptions of the individual religions, and have loved them, and so have transcended the part to grasp the whole. It is in the fact of Reincarnation that we have the possibility of understanding, of discovering, the larger and fuller nature of God. If, when looking at some simple-minded savage, you find you have a larger sympathy, that your conception of the world is larger than his; and if, because of that, your idea of God is more splendid, and you can worship God with love, with self-sacrifice, and not merely with burnt offerings;it is because you have known that primitive type of worship long, long ago; it is because you have lived in Atlantis, known the ancient teachings of China as to the Tao; it is because you have lived in India, and known the teaching as to Brahman; it is because you have known in the past other aspects of God, that you have come stage by stage to the larger vision which is yours today.

Nếu bất kỳ ai trong hội trường này, khi hát “Tập hợp chúng ta lại”, cảm nhận được sự huy hoàng trong quan niệm của nó về tôn giáo phổ quát, thì đó là vì ở những nơi khác trong những kiếp sống khác, bạn đã biết những quan niệm một phần của các tôn giáo cá nhân, và đã yêu mến chúng, và do đó đã vượt lên trên phần đó để nắm bắt toàn bộ. Chính trong thực tế của Luân Hồi mà chúng ta có khả năng thấu hiểu, khám phá bản chất lớn hơn và đầy đủ hơn của Thượng đế. Nếu, khi nhìn vào một người dã man chất phác nào đó, bạn thấy mình có một sự đồng cảm lớn hơn, rằng quan niệm của bạn về thế giới lớn hơn của y; và nếu, vì điều đó, ý tưởng của bạn về Thượng đế trở nên tuyệt vời hơn, và bạn có thể thờ phượng Thượng đế bằng tình thương/bác ái, bằng sự hy sinh bản thân, và không chỉ bằng những lễ vật thiêu; thì đó là vì bạn đã biết loại hình thờ cúng nguyên thủy đó từ rất lâu rồi; đó là vì bạn đã sống ở Atlantis, biết những giáo lý cổ xưa của Trung Quốc về Đạo; đó là vì bạn đã sống ở Ấn Độ, và biết giáo lý về Brahman; đó là vì bạn đã biết trong quá khứ những khía cạnh khác của Thượng đế, mà bạn đã từng bước đạt đến tầm nhìn lớn hơn vốn là của bạn ngày nay.

In the realisation of this larger vision of the Divine, we find various stages. I do not know that I have any particular right to describe one stage as earlier than another. I can only say there are stages, some higher, some lower, but which who knows? But one stage which is very interesting, though it is not very well known today, is that known as Polytheism, when the human mind grasps the Divine Nature through manifestations of the many Gods. There are the many Gods of India, the many Gods of Greece, the many Gods of Egypt; through these many Gods, the attributes of the One, the Indivisible Godhead, are more easily grasped. The attributes of God of power, wisdom, love, strength, peace, beauty, and many others, came to us once, crystallised, we may well term it, in the manifestations of many Gods whom we have worshipped in the past reincarnations. The polytheistic idea of God is more easily understood by mankind, particularly at a certain stage. There are also certain periods in the world’s history when the idea of God seems to stand more clearly revealed as the many rather than as the One. Polytheism is in truth one way of approach to the understanding of the nature of God.

Trong sự nhận biết về tầm nhìn lớn lao hơn này của Đấng Thiêng Liêng, chúng ta thấy nhiều giai đoạn khác nhau. Tôi không biết liệu tôi có quyền đặc biệt nào để mô tả một giai đoạn là sớm hơn giai đoạn khác hay không. Tôi chỉ có thể nói rằng có những giai đoạn, một số cao hơn, một số thấp hơn, nhưng ai biết được? Nhưng một giai đoạn rất thú vị, mặc dù ngày nay nó không được biết đến nhiều, đó là giai đoạn được gọi là Đa Thần Giáo, khi thể trí con người nắm bắt Bản Chất Thiêng Liêng thông qua các biểu hiện của nhiều vị Thần. Có nhiều vị Thần của Ấn Độ, nhiều vị Thần của Hy Lạp, nhiều vị Thần của Ai Cập; thông qua những vị Thần này, các thuộc tính của Đấng Duy Nhất, Thượng đế Bất Khả Phân, dễ dàng được nắm bắt hơn. Các thuộc tính của Thượng đế về quyền năng, minh triết, bác ái, sức mạnh, an bình, vẻ đẹp và nhiều thuộc tính khác, đã đến với chúng ta một thời, được kết tinh, chúng ta có thể gọi như vậy, trong các biểu hiện của nhiều vị Thần mà chúng ta đã tôn thờ trong các lần tái sinh trước đây. Ý niệm đa thần về Thượng đế dễ được nhân loại hiểu hơn, đặc biệt là ở một giai đoạn nhất định. Cũng có những giai đoạn nhất định trong lịch sử thế giới khi ý niệm về Thượng đế dường như được tiết lộ rõ ràng hơn là nhiều hơn là Một. Đa Thần Giáo thực sự là một cách tiếp cận để thấu hiểu bản chất của Thượng đế.

Then of course there is that other stage which is known as Pantheism, the conception that since all is of God, since the whole universe was created by Him, since in some mysterious way it must have its being in Him, therefore God Himself must also be that universe. It was that conception which existed once upon a time in Christian thought as the “Immanence of God “. The “Transcendence of God”, is thought of, on the other hand, as creating and yet standing apart from His creation. While the Transcendent God is one conception, there is the other conception of the Immanent God which teaches that in all that is mysterious, in all that reveals beauty and awe, the Divine Nature can be seen and worshipped. The doctrine as to the Immanence of God comes to us in a fragment of the Christ’s teaching, which was found in the excavations at Oxyrhynchus in Egypt:

Thì tất nhiên có giai đoạn khác được gọi là Phiếm Thần Giáo, quan niệm rằng vì tất cả đều thuộc về Thượng đế, vì toàn bộ vũ trụ được Ngài tạo ra, vì theo một cách bí ẩn nào đó, nó phải tồn tại trong Ngài, do đó, chính Thượng đế cũng phải là vũ trụ đó. Đó là quan niệm đã từng tồn tại trong tư tưởng Cơ đốc giáo như là “Tính Nội Tại của Thượng đế”. “Tính Siêu Việt của Thượng đế”, mặt khác, được nghĩ đến như là việc tạo ra và vẫn đứng ngoài sự sáng tạo của Ngài. Trong khi Thượng đế Siêu Việt là một quan niệm, thì có một quan niệm khác về Thượng đế Nội Tại vốn dạy rằng trong tất cả những gì huyền bí, trong tất cả những gì tiết lộ vẻ đẹp và sự kinh sợ, Bản Chất Thiêng Liêng có thể được nhìn thấy và tôn thờ. Giáo lý về Tính Nội Tại của Thượng đế đến với chúng ta trong một đoạn giáo lý của Đức Christ, được tìm thấy trong các cuộc khai quật ở Oxyrhynchus ở Ai Cập:

Raise the stone and there thou shalt find me,

Nhấc hòn đá lên và ở đó ngươi sẽ tìm thấy ta,

Cleave the wood and there am I.

Chẻ khúc gỗ ra và ở đó có ta.

This conception of Pantheism is given us in noble and beautiful words by the Pythagoreans:

Quan niệm về Phiếm Thần Giáo này được ban cho chúng ta bằng những lời lẽ cao quý và tuyệt đẹp của những người theo trường phái Pythagore:

God is one; and He is not, as some suppose, outside of this frame of things, but within it; but, in all the entireness of His Being, is in the whole of existence, surveying all Nature, and blending in harmonious union with the whole – the author of all His own forces and works, the giver of light in heaven, and Father of all – the mind and vital power of the whole world, the mover of all things. [The Pythagoreans, according to Clem. Alex., “ Exhortation to the Heathen;’ Chapter 6, p. 72. Ante-Nicene Lib.]

Thượng đế là một; và Ngài không phải, như một số người cho là, ở bên ngoài khuôn khổ sự vật này, mà ở bên trong nó; nhưng, trong tất cả sự trọn vẹn của Bản Thể Ngài, là trong toàn bộ sự tồn tại, khảo sát toàn bộ Tự Nhiên, và hòa quyện trong sự hợp nhất hài hòa với toàn bộ – tác giả của tất cả các lực lượng và công trình của chính Ngài, người ban ánh sáng trên thiên đàng, và Cha của tất cả – thể trí và sinh lực của toàn thế giới, người vận hành mọi thứ. [Những người theo trường phái Pythagore, theo Clem. Alex., “Lời kêu gọi dân ngoại;’ Chương 6, tr. 72. Thư viện Ante-Nicene.]

Pantheism, then, is another avenue of approach to the Divine Vision.

Vậy thì, Phiếm Thần Giáo là một con đường tiếp cận khác đến với Tầm Nhìn Thiêng Liêng.

You who are born in a theistic religion like Christianity know what is your own particular approach to God through various forms of monotheistic religion. Christianity, Zoroastrianism and Mohammedanism are monotheistic religions. Sometimes I think that absolute monotheism, which will tolerate no image, no symbol, no kind of human limitation of it, is found clearest in Mohammedanism. So abstract and yet so intimate and real is the conception of Allah, that a devout Mohammedan is the purest devotee I know of monotheistic religion. In a country like India, where we see so many images of God, where the nearness of God is like an atmosphere that presses on one, sometimes I think that, even in India, many Mohammedans have come to a deeper understanding and realisation of the monotheistic idea than most Hindus today.

Các bạn, những người sinh ra trong một tôn giáo hữu thần như Cơ đốc giáo, biết cách tiếp cận Thượng đế đặc biệt của riêng bạn thông qua các hình thức khác nhau của tôn giáo độc thần. Cơ đốc giáo, Zoroastrian giáo và Mohammed giáo là những tôn giáo độc thần. Đôi khi tôi nghĩ rằng chủ nghĩa độc thần tuyệt đối, vốn sẽ không dung thứ cho bất kỳ hình ảnh, biểu tượng nào, bất kỳ loại giới hạn nào của con người đối với nó, được tìm thấy rõ ràng nhất trong Mohammed giáo. Ý niệm về Allah trừu tượng nhưng lại rất thân mật và chân thực đến nỗi một tín đồ Mohammed sùng đạo là một người sùng bái thuần khiết nhất mà tôi biết đến của tôn giáo độc thần. Ở một đất nước như Ấn Độ, nơi chúng ta thấy rất nhiều hình ảnh của Thượng đế, nơi sự gần gũi của Thượng đế giống như một bầu không khí đè nặng lên một người, đôi khi tôi nghĩ rằng, ngay cả ở Ấn Độ, nhiều người Mohammed đã đạt đến sự thấu hiểu và nhận biết sâu sắc hơn về ý niệm độc thần so với hầu hết những người Hindu ngày nay.

But it was in India, too, that they worked out a conception of religion for which Max Muller had to coin a special word. We find it in Egypt also, though perhaps not so clearly. It is called Henotheism, It arises out of such a Polytheism as is found in Hinduism. There are many Gods in Hinduism, but there is also the One of many names, and they call that one God Parabrahman. A very famous verse in the Rig Veda is that which proclaims, “The wise call the One Being by many names; they call It Agni, Yama, Matarishvan.” Hence we find the striking fact in the Rig Veda, in the hymns for instance to Agni the God of Fire, that after describing him as one of the many Gods, suddenly he is revealed as being also at the same time all the possible Gods of the Pantheon. Varuna, God of the firmament, Indra. God of the heavens, Surya, the sun, are each seen as embodying the complete Pantheon. The Polytheistic God becomes thus the Monotheistic God also. It was in order to describe this phase of religion that Max Muller coined the word Henotheism.

Nhưng cũng chính ở Ấn Độ, họ đã xây dựng một quan niệm về tôn giáo mà Max Muller phải đặt ra một từ đặc biệt. Chúng ta cũng thấy nó ở Ai Cập, mặc dù có lẽ không rõ ràng như vậy. Nó được gọi là Henotheism (Nhất Thần Giáo). Nó phát sinh từ một Đa Thần Giáo như được tìm thấy trong Ấn Độ giáo. Có nhiều vị Thần trong Ấn Độ giáo, nhưng cũng có Đấng Duy Nhất với nhiều tên gọi, và họ gọi Thượng đế đó là Parabrahman. Một câu thơ rất nổi tiếng trong Rig Veda là câu tuyên bố rằng, “Những người khôn ngoan gọi Đấng Duy Nhất bằng nhiều tên; họ gọi Ngài là Agni, Yama, Matarishvan.” Do đó, chúng ta thấy một sự thật nổi bật trong Rig Veda, trong các bài thánh ca chẳng hạn như thánh ca dành cho Agni, Thần Lửa, rằng sau khi mô tả ông là một trong nhiều vị Thần, đột nhiên ông được tiết lộ là đồng thời là tất cả các vị Thần có thể có của Điện Pantheon. Varuna, Thần của bầu trời, Indra. Thần của các tầng trời, Surya, mặt trời, mỗi vị được xem là hiện thân của toàn bộ Điện Pantheon. Do đó, Thượng đế Đa Thần cũng trở thành Thượng đế Độc Thần. Chính để mô tả giai đoạn tôn giáo này mà Max Muller đã đặt ra từ Henotheism (Nhất Thần Giáo).

So we find in religion Polytheism, Pantheism, Theism and Henotheism. But not only these; for there has been a discovery of God along quite a different road, though many people might deny any discovery of Him along such a road. I refer to Atheism. I have said that wherever any truth is proclaimed which helps man, behind that Truth the Divine Nature stands revealed. When, therefore, we consider a life of sacrifice like that of Charles Bradlaugh, who did not believe in the existence of God, who found no inspiration in any doctrine of salvation, who was not drawn to the idea of a heavenly reward for leading a moral life dictated by the ordinary principles of humanitarianism; when you find such a man living a life not of ease but of struggle, dreaming and working for the greatness of man, suffering for his ideals and standing like a rock of ages on which are to be founded the dreams of men; when we find hundreds of others like him who suffer nobly and give their lives in order that man’s future may be freed from theocracy and priestcraft and superstition; can we think that the God of the universe is so small that He cannot build their dreams also into His Plan? And so I say that, even in Atheism, there is a discovery of God. Do not be hypnotised by labels; do you think God cares for labels? He is the One behind all dreams of service.

Vì vậy, chúng ta thấy trong tôn giáo có Đa Thần Giáo, Phiếm Thần Giáo, Hữu Thần Giáo và Henotheism. Nhưng không chỉ có vậy; vì đã có một sự khám phá về Thượng đế trên một con đường hoàn toàn khác, mặc dù nhiều người có thể phủ nhận bất kỳ sự khám phá nào về Ngài trên một con đường như vậy. Tôi muốn nói đến Vô Thần Giáo. Tôi đã nói rằng bất cứ nơi nào có một chân lý được công bố giúp đỡ con người, đằng sau Chân Lý đó, Bản Tính Thiêng Liêng được tiết lộ. Vì vậy, khi chúng ta xem xét một cuộc đời hy sinh như cuộc đời của Charles Bradlaugh, người không tin vào sự tồn tại của Thượng đế, người không tìm thấy nguồn cảm hứng trong bất kỳ giáo lý cứu rỗi nào, người không bị thu hút bởi ý tưởng về một phần thưởng trên trời cho việc sống một cuộc đời đạo đức theo các nguyên tắc thông thường của chủ nghĩa nhân đạo; khi bạn thấy một người như vậy sống một cuộc đời không hề dễ dàng mà là đấu tranh, mơ ước và làm việc cho sự vĩ đại của con người, chịu đựng vì lý tưởng của mình và đứng như một tảng đá vĩnh cửu, trên đó những giấc mơ của con người được xây dựng; khi chúng ta thấy hàng trăm người khác như y, những người chịu đựng một cách cao thượng và hiến dâng cuộc đời mình để tương lai của con người có thể được giải thoát khỏi chế độ thần quyền, sự lừa bịp của giới tu sĩ và sự mê tín; chúng ta có thể nghĩ rằng Thượng đế của vũ trụ nhỏ bé đến mức Ngài không thể xây dựng những giấc mơ của họ vào Thiên Cơ của Ngài sao? Và vì vậy, tôi nói rằng, ngay cả trong Vô Thần Giáo, cũng có một sự khám phá về Thượng đế. Đừng bị thôi miên bởi những cái mác; bạn có nghĩ Thượng đế quan tâm đến những cái mác không? Ngài là Đấng Duy Nhất đằng sau tất cả những giấc mơ phụng sự.

Worshipping either the God of Theism, the God of Pantheism, the God of Polytheism, or the God of Humanitarianism, we rise stage by stage as on the rungs of a ladder. That is why I have called this lecture, “ The Divine Vision of the Gods and of God “. For I hold that it is only after you have seen the splendour of the separate colours, and studied the science of life in its myriads of embodiments, that you are ready to be led to the One Life and to be blinded by the splendour of the One Light. It is only because some of us in past lives have been theists and pantheists, polytheists and atheists, that now we seek the Divine Vision in man and Nature also.

Thờ phượng Thượng đế của Hữu Thần Giáo, Thượng đế của Phiếm Thần Giáo, Thượng đế của Đa Thần Giáo, hoặc Thượng đế của Chủ Nghĩa Nhân Đạo, chúng ta trỗi dậy từng giai đoạn như trên các bậc thang. Đó là lý do tại sao tôi gọi bài giảng này là, “Thiên Khải về Các Vị Thần và Thượng Đế”. Vì tôi cho rằng chỉ sau khi bạn đã nhìn thấy sự huy hoàng của các màu sắc riêng biệt, và nghiên cứu khoa học về sự sống trong vô số hiện thân của nó, bạn mới sẵn sàng được dẫn đến Sự Sống Duy Nhất và bị mù quáng bởi sự huy hoàng của Ánh Sáng Duy Nhất. Chỉ vì một số chúng ta trong những kiếp trước đã là những người theo thuyết hữu thần và thuyết phiếm thần, thuyết đa thần và thuyết vô thần, mà giờ đây chúng ta tìm kiếm Thiên Khải trong con người và cả Thiên Nhiên.

This way which so many of us are seeking today is described in splendid language by one of the greatest men whom the East has produced. I refer to the Emperor Akbar of India. The great Mohammedan was one who sought truth diligently. He built in his capital of Fatehpur Sikri a Hall of Audience, where every Friday, the Sunday of the Mohammedans, when he was back from his campaigns, he called together the learned for religious discussion. He invited Mohammedan moulvis, Roman Catholic padres. Zoroastrian mobeds and Hindu shastris to expound to him their faiths, and he listened to what they all had to say about God. Year after year Akbar pondered on the problem of what is God. Slowly he began to perceive the nature of the Divine Vision of God, and he has described it in a famous poem:

Con đường mà rất nhiều người trong chúng ta đang tìm kiếm ngày nay được mô tả bằng ngôn ngữ tuyệt vời bởi một trong những người vĩ đại nhất mà phương Đông đã sản sinh ra. Tôi muốn nói đến Hoàng đế Akbar của Ấn Độ. Vị Mohammedan vĩ đại là một người đã siêng năng tìm kiếm chân lý. Ông đã xây dựng tại kinh đô Fatehpur Sikri của mình một Đại Sảnh Đường, nơi mà mỗi thứ Sáu, ngày Chủ nhật của những người Mohammedan, khi ông trở về từ các chiến dịch của mình, ông đã triệu tập những người có học thức để thảo luận về tôn giáo. Ông đã mời các moulvi Mohammedan, các padre Công giáo La Mã, các mobed Zoroastrian và các shastri Hindu đến để trình bày đức tin của họ cho ông, và ông đã lắng nghe những gì tất cả họ phải nói về Thượng đế. Năm này qua năm khác, Akbar suy ngẫm về vấn đề Thượng đế là gì. Dần dần, ông bắt đầu nhận ra bản chất của Thiên Khải về Thượng đế, và ông đã mô tả nó trong một bài thơ nổi tiếng:

O God, in every temple I see people that seek Thee,

Ôi Thượng đế, trong mọi ngôi đền, con thấy những người tìm kiếm Ngài,

– and in every language I hear spoken, people praise Thee.

– và trong mọi ngôn ngữ con nghe thấy, mọi người ca ngợi Ngài.

Polytheism and Islam feel after Thee.

Đa Thần Giáo và Hồi Giáo cảm nhận về Ngài.

Each religion says, Thou art One, without equal.

Mỗi tôn giáo đều nói, Ngài là Đấng Duy Nhất, không ai sánh bằng.

If it be a mosque, people murmur the holy prayer; if it be a Christian Church, people ring the bell from love to thee.

Nếu đó là một nhà thờ Hồi giáo, mọi người lẩm bẩm lời cầu nguyện thiêng liêng; nếu đó là một nhà thờ Cơ đốc giáo, mọi người rung chuông vì tình yêu đối với Ngài.

Sometimes I frequent the Christian cloister, and sometimes the mosque.

Đôi khi con lui tới tu viện Cơ đốc giáo, và đôi khi là nhà thờ Hồi giáo.

But it is Thou whom I seek from temple to temple.

Nhưng chính Ngài là Đấng con tìm kiếm từ đền thờ này đến đền thờ khác.

Thy elect have no dealings with heresy nor with orthodoxy, since heresy and orthodoxy stand not behind the Screen of the Truth.

Những người được Ngài chọn không giao dịch với dị giáo cũng như chính thống giáo, vì dị giáo và chính thống giáo không đứng sau Màn Chân Lý.

Heresy to the Heretic, Orthodoxy to the Orthodox; but only the Dust of the Rose-petal remains for those who sell perfume.

Dị giáo đối với Dị giáo, Chính thống giáo đối với Chính thống giáo; nhưng chỉ còn lại Bụi của Cánh Hoa Hồng cho những người bán nước hoa.

As slowly the Divine Vision dawns on one who seeks it, one thing is utterly sure. He may not be able to state, in terms of any labels known to man, what is the nature of that vision; but one thing is sure, and it is this, that whatever be the final truth concerning the nature of God, or the Absolute, man and that Absolute are one, and not two. Everyone who aspires, who through suffering rises to some realisation at least of the final achievement, comes to that stage when he knows that every thought of his, all his highest dreams of realisation, are only the great thoughts and dreams of God returning to him. Man came from that Oneness; out of it he developed his nature and became an individual soul; and to That he ever returns. Just as a circle drawn on a sphere is only one out of many which can be drawn on that sphere, each individual and separate; just as all possible circles are only segments in two dimensions of one sphere in three dimensions; just as not all the millions of possible circles will ever reveal the third dimensional quality of the sphere; so does the spiritually-minded man know that all his highest thoughts, dreams and aspirations are only God’s thoughts returning through him back again to God. Man is the holder of the vase of flowers which he offers. When he thinks that he is aspiring, that he is worshipping, it is only God who returns to Himself, it is only the mysterious All which came from Itself returning to Itself.

Khi Thiên Khải từ từ ló dạng trên một người đang tìm kiếm nó, có một điều hoàn toàn chắc chắn. Y có thể không thể tuyên bố, theo bất kỳ nhãn mác nào mà con người biết đến, bản chất của khải tượng đó là gì; nhưng có một điều chắc chắn, và đó là, bất kể chân lý cuối cùng về bản chất của Thượng đế, hay Đấng Tuyệt Đối là gì, con người và Đấng Tuyệt Đối đó là một, chứ không phải hai. Mọi người khao khát, những người thông qua đau khổ vươn lên ít nhất một số nhận thức về thành tựu cuối cùng, đều đến giai đoạn khi y biết rằng mọi suy nghĩ của y, tất cả những giấc mơ cao cả nhất của y về sự hiện thực hóa, chỉ là những suy nghĩ và giấc mơ vĩ đại của Thượng đế trở về với y. Con người đến từ Sự Hợp Nhất đó; từ đó y phát triển bản chất của mình và trở thành một linh hồn cá nhân; và y mãi mãi trở về Với Điều Đó. Giống như một vòng tròn được vẽ trên một quả cầu chỉ là một trong số nhiều vòng tròn có thể được vẽ trên quả cầu đó, mỗi vòng tròn riêng lẻ và tách biệt; giống như tất cả các vòng tròn có thể có chỉ là các đoạn trong hai chiều của một quả cầu trong ba chiều; giống như không phải tất cả hàng triệu vòng tròn có thể có sẽ tiết lộ phẩm chất ba chiều của quả cầu; vì vậy, người có tâm thức tinh thần biết rằng tất cả những suy nghĩ, giấc mơ và khát vọng cao cả nhất của y chỉ là những suy nghĩ của Thượng đế quay trở lại qua y trở lại với Thượng đế. Con người là người giữ chiếc bình hoa mà y dâng tặng. Khi y nghĩ rằng y đang khao khát, rằng y đang thờ phượng, thì chỉ có Thượng đế trở về với Chính Ngài, chỉ có Tất Cả huyền bí đến từ Chính Nó trở về với Chính Nó.

It is this discovery which makes a man spiritual – this knowledge that there is a mightier Doer than he, a more majestic Life than his. Spirituality for him is the realisation that he is only a window, a channel, a finger in a hand. By a hundred similes the spiritual man will try to describe this great experience. When a man has sensed it, then he is pure of heart. Then what St. Augustine said is true of him: “Love and do what you like,” for he wants nothing for himself. That is why such a man, who has reached this realisation directly, is usually impatient of tradition. The spiritual man is not a man of tradition. When the Christian, who has steeped himself in the idealisation of the New Testament, lives the life, then he makes of himself a new type of Christian, and he blossoms on the Christian world like a new variety of flower. Such a Christian is the true saint, whether the Church canonises him or not. So long as a Christian is guided only by the traditions of the centuries of his Church, he has not yet discovered the Christ.

Chính khám phá này làm cho một người trở nên tinh thần – kiến thức này cho rằng có một Đấng Thực Hiện quyền năng hơn y, một Sự Sống hùng vĩ hơn sự sống của y. Tính tinh thần đối với y là sự nhận ra rằng y chỉ là một cửa sổ, một kênh dẫn, một ngón tay trong một bàn tay. Bằng hàng trăm phép so sánh, người tinh thần sẽ cố gắng mô tả trải nghiệm vĩ đại này. Khi một người đã cảm nhận được nó, thì y có một trái tim thuần khiết. Khi đó, những gì Thánh Augustine đã nói là đúng với y: “Hãy yêu thương và làm những gì bạn thích,” vì y không muốn gì cho bản thân. Đó là lý do tại sao một người như vậy, người đã đạt đến sự nhận biết này một cách trực tiếp, thường không kiên nhẫn với truyền thống. Người tinh thần không phải là một người của truyền thống. Khi người Cơ đốc giáo, người đã đắm mình trong sự lý tưởng hóa Tân Ước, sống cuộc đời, thì y tạo ra một kiểu Cơ đốc giáo mới, và y nở rộ trên thế giới Cơ đốc giáo như một loại hoa mới. Một Cơ đốc nhân như vậy là vị thánh thực sự, dù Giáo hội có phong thánh cho y hay không. Chừng nào một Cơ đốc nhân chỉ được hướng dẫn bởi các truyền thống của nhiều thế kỷ của Giáo hội, y vẫn chưa khám phá ra Đức Christ.

When you discover your Truth, your Lord and Saviour, directly for yourself and not through any kind of tradition, then you follow your own royal road. And to discover Truth directly, to know directly the mystery of things, there is only one way. You must create. Even out of your sufferings, out of your anguish, you must create something, and give to the universe what never existed before. Are you capable of a wonderful devotion? Read if you will all the descriptions of devotion which you can find, and steep yourself in the ecstasies of all the saints; but it is only when, out of the offerings of your own devotion, you have created something new (and that always means intense suffering), that you will see directly for yourself the Divine Vision. Are you capable of intense love? When, after experiencing all the types of loving which the world has known, you discover some other type of loving still, and reveal to the world your own splendid truth as to loving, then you will see the Divine Vision. When, out of all your perplexities and doubts, you create some aspect of philosophy, and give out of yourself something that is new to the universe, a new blossom of God that has opened and gives its perfume, then it is you stand by yourself, and see the Divine Vision not through a tradition, but directly for yourself. And similarly, even if you are not particularly moved by devotion, nor influenced by philosophy, you yet feel that the greatest thing in life is to serve man, and to strive to put an end to the world’s abuses, when you give yourself to create a new ideal, a new consciousness of what life can become, then, too, the Divine Vision is yours.

Khi bạn khám phá ra Chân lý, Chúa và Đấng Cứu Rỗi của bạn, trực tiếp cho chính bạn chứ không phải thông qua bất kỳ loại truyền thống nào, thì bạn đi theo con đường vương giả của riêng bạn. Và để khám phá Chân lý một cách trực tiếp, để biết trực tiếp sự huyền bí của mọi thứ, chỉ có một cách. Bạn phải sáng tạo. Ngay cả từ những đau khổ của bạn, từ những thống khổ của bạn, bạn phải tạo ra một cái gì đó và trao cho vũ trụ những gì chưa từng tồn tại trước đây. Bạn có khả năng có một lòng sùng kính tuyệt vời không? Hãy đọc nếu bạn muốn tất cả những mô tả về lòng sùng kính mà bạn có thể tìm thấy, và đắm mình trong sự ngây ngất của tất cả các vị thánh; nhưng chỉ khi, từ những lễ vật của lòng sùng kính của riêng bạn, bạn đã tạo ra một cái gì đó mới (và điều đó luôn có nghĩa là đau khổ tột độ), thì bạn mới thấy trực tiếp cho chính mình Tầm nhìn Thiêng Liêng. Bạn có khả năng yêu thương mãnh liệt không? Khi, sau khi trải nghiệm tất cả các loại yêu thương mà thế giới đã biết, bạn khám phá ra một loại yêu thương khác nữa và tiết lộ cho thế giới chân lý tuyệt vời của riêng bạn về tình yêu thương, thì bạn sẽ thấy Tầm nhìn Thiêng Liêng. Khi, từ tất cả những bối rối và nghi ngờ của bạn, bạn tạo ra một khía cạnh nào đó của triết học, và trao đi từ chính bạn một cái gì đó mới mẻ cho vũ trụ, một bông hoa mới của Thượng đế đã nở và tỏa hương thơm, thì chính bạn đứng một mình và thấy Tầm nhìn Thiêng Liêng không thông qua một truyền thống, mà trực tiếp cho chính bạn. Và tương tự như vậy, ngay cả khi bạn không đặc biệt cảm động bởi lòng sùng kính, cũng không bị ảnh hưởng bởi triết học, bạn vẫn cảm thấy rằng điều vĩ đại nhất trong cuộc sống là phụng sự con người và cố gắng chấm dứt những lạm dụng của thế giới, khi bạn cống hiến hết mình để tạo ra một lý tưởng mới, một tâm thức mới về những gì cuộc sống có thể trở thành, thì Tầm nhìn Thiêng Liêng cũng là của bạn.

When the Divine Vision comes to you, there is a great marvel in it for you. It is, that you cannot focus it in one place; for it is continuously shifting. One day, one year, you may feel that the Divine Vision comes to you, in its profoundest truth and intimacy, through Theism, or through Monotheism or through Polytheism. Then, later, as the splendour of the vision shifts, the vision will appear from some new direction. Polytheism, Pantheism, Monotheism,Atheism, all these become as it were many mirrors around you, many windows through which you look and understand the truth of what is without and within you. That is why, when a man comes to the real crowning of the spiritual life, he cannot be held bound; he breaks through all possible conceptions and forms and bursts all bonds. A man who has the Divine Vision is nearly always a heretic; he will not be bound by any tradition; if a Christian, he will not be tied, even to the utmost splendour of the events of Palestine. For he will see new splendours revealing, new creations, as the universe unfolds itself to him age by age.

Khi Tầm nhìn Thiêng Liêng đến với bạn, có một điều kỳ diệu lớn lao trong đó dành cho bạn. Đó là, bạn không thể tập trung nó ở một nơi; vì nó liên tục thay đổi. Một ngày, một năm, bạn có thể cảm thấy rằng Tầm nhìn Thiêng Liêng đến với bạn, trong chân lý và sự thân mật sâu sắc nhất của nó, thông qua Thuyết hữu thần, hoặc thông qua Thuyết nhất thần hoặc thông qua Thuyết đa thần. Sau đó, sau này, khi sự huy hoàng của tầm nhìn thay đổi, tầm nhìn sẽ xuất hiện từ một hướng mới nào đó. Thuyết đa thần, Thuyết phiếm thần, Thuyết nhất thần, Thuyết vô thần, tất cả những điều này trở thành như thể nhiều tấm gương xung quanh bạn, nhiều cửa sổ mà qua đó bạn nhìn và hiểu chân lý về những gì bên ngoài và bên trong bạn. Đó là lý do tại sao, khi một người đạt đến đỉnh cao thực sự của đời sống tinh thần, y không thể bị trói buộc; y phá vỡ mọi quan niệm và hình thức có thể có và phá vỡ mọi xiềng xích. Một người có Tầm nhìn Thiêng Liêng gần như luôn là một kẻ dị giáo; y sẽ không bị ràng buộc bởi bất kỳ truyền thống nào; nếu là một Cơ đốc nhân, y sẽ không bị trói buộc, ngay cả với sự huy hoàng tột độ của các sự kiện ở Palestine. Vì y sẽ thấy những sự huy hoàng mới tiết lộ, những sáng tạo mới, khi vũ trụ mở ra cho y hết thời đại này đến thời đại khác.

It is at this stage, as his gaze shifts and the Divine Vision is seen along all these many avenues, that one great fact will ever confront him, as a mystery; it is the mystery of the Transcendence and the Immanence of God. It is that mystery which is known in Hinduism as the mystery of Nirguna Brahman and Saguna Brahman – the That which is without attributes, and God who has attributes. There are two paths outlined in Hinduism: one is the path to the Mediating God, and the other to God the Absolute. In the great poem, the Bhagavad Gita, Arjuna asks Sri Krishna which of these two ways men should choose to follow.

Chính ở giai đoạn này, khi cái nhìn của y thay đổi và Tầm nhìn Thiêng Liêng được nhìn thấy dọc theo tất cả những con đường này, một sự thật vĩ đại sẽ luôn đối diện với y, như một điều huyền bí; đó là sự huyền bí về Tính Siêu Việt và Tính Nội Tại của Thượng đế. Đó là sự huyền bí được biết đến trong Ấn Độ giáo như là sự huyền bí của Nirguna Brahman và Saguna Brahman – Cái vốn không có thuộc tính, và Thượng đế vốn có thuộc tính. Có hai con đường được vạch ra trong Ấn Độ giáo: một là con đường đến với Thượng đế Trung Gian, và con đường kia đến với Thượng đế Tuyệt Đối. Trong bài thơ vĩ đại, Bhagavad Gita, Arjuna hỏi Sri Krishna con đường nào trong hai con đường này mà con người nên chọn để đi theo.

Arjuna

Arjuna

Lord! of the men who serve Thee – true in heart-

Lạy Chúa! về những người phụng sự Ngài – chân thành trong tim-

As God revealed; and of the men who serve,

Như Thượng đế đã tiết lộ; và về những người phụng sự,

Worshipping Thee Unrevealed, Unbodied, Far,

Thờ phượng Ngài Không Được Tiết Lộ, Không Thể Xác Định, Xa Xôi,

Which take the better way of faith and life?

Con đường nào tốt hơn về đức tin và cuộc sống?

Sri Krishna

Sri Krishna

Whoever serve Me – as I show Myself-

Bất cứ ai phụng sự Ta – như Ta thể hiện Bản Thân –

Constantly true, in full devotion fixed,

Luôn luôn chân thành, hoàn toàn tận tâm,

Those hold I very holy. But who serve –

Ta coi những người đó rất thánh thiện. Nhưng ai phụng sự –

Worshipping Me, The One, The Invisible,

Thờ phượng Ta, Đấng Duy Nhất, Vô Hình,

The Unrevealed, Unnamed, Unthinkable.,

Đấng Không Được Tiết Lộ, Vô Danh, Bất Khả Tư Nghị.,

Uttermost, All-pervading, Highest, Sure –

Tột Cùng, Bao Trùm Tất Cả, Tối Cao, Chắc Chắn –

Who thus adore Me, mastering their sense,

Ai tôn thờ Ta như vậy, làm chủ giác quan của họ,

Of one set mind to all, glad in all good,

Với một tâm trí hướng đến tất cả, vui mừng trong mọi điều tốt đẹp,

These blessed souls come unto Me. Yet, hard

Những linh hồn được ban phước này đến với Ta. Tuy nhiên, thật khó

The travail if for such as bend their minds

Gian truân là cho những ai uốn nắn thể trí của họ

To reach th’ Unmanifest. That viewless path

Để đạt đến Đấng Bất Khả Tư Nghị. Con đường vô hình đó

Shall scarce be trod by man bearing the flesh!

Sẽ hiếm khi được người phàm xác bước đi!

They both come to God. But those who travel the direct road, and find their inspiration not in forms or creeds, nor even in Avataras or Incarnations of God, but only from within themselves, theirs is a hard road; note the way it is described by Sri Krishna:

Cả hai đều đến với Thượng đế. Nhưng những người đi trên con đường trực tiếp, và tìm thấy nguồn cảm hứng của họ không phải trong các hình tướng hay tín điều, thậm chí không phải trong các Đấng Hoá Thân hay Các Cuộc Lâm Phàm của Thượng đế, mà chỉ từ bên trong chính họ, thì con đường của họ là một con đường khó khăn; hãy lưu ý cách Sri Krishna mô tả nó:

Yet hard the travail is for such as bend their minds

Tuy nhiên, gian truân là cho những ai uốn nắn thể trí của họ

To reach th’ Unmanifest. That viewless path

Để đạt đến Đấng Bất Khả Tư Nghị. Con đường vô hình đó

Shall scarce be trod by man bearing the flesh!

Sẽ hiếm khi được người phàm xác bước đi!

Sooner or later, each individual has to tread that difficult path, because, beyond the Mediating God, he must find the way to the Divine Transcendence. That is why the man who has come to the Divine Vision is heretical; he will not be bound by creeds and forms. He may or may not subscribe to ceremonies; he may sometimes conform to them, to help others who have not yet reached that stage. But, while worshipping the Immanence of God, he knows also the wonderful mystery of the Transcendence, and his eyes ever seek to be blinded by a Vision which is as nothing to others, who can come to achievement only by the lower road of a Mediating God.

Sớm hay muộn, mỗi cá nhân phải bước đi trên con đường khó khăn đó, bởi vì, vượt ra ngoài Thượng đế Trung Gian, y phải tìm ra con đường dẫn đến Sự Siêu Việt Thiêng Liêng. Đó là lý do tại sao người đã đến với Linh Kiến Thiêng Liêng là dị giáo; y sẽ không bị ràng buộc bởi các tín điều và hình tướng. Y có thể hoặc không thể tuân theo các nghi lễ; đôi khi y có thể tuân theo chúng, để giúp đỡ những người khác chưa đạt đến giai đoạn đó. Nhưng, trong khi tôn thờ Sự Nội Tại của Thượng đế, y cũng biết sự huyền bí tuyệt vời của Sự Siêu Việt, và đôi mắt của y luôn tìm kiếm để bị làm cho mù quáng bởi một Linh Kiến vốn không là gì đối với những người khác, những người chỉ có thể đạt được thành tựu bằng con đường thấp hơn của một Thượng đế Trung Gian.

Let me quote to you how these same truths are put by a Sufi Mystic, Ibn-i-Yamin. He is talking of himself, and note how he rises from stage to stage, until finally he goes beyond his inmost self and as it were ceases to be.

Tôi xin trích dẫn cho bạn cách những sự thật tương tự này được một Nhà Thần bí Sufi, Ibn-i-Yamin, trình bày. Ông đang nói về bản thân mình, và lưu ý cách ông vươn lên từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, cho đến khi cuối cùng ông vượt ra ngoài bản ngã sâu kín nhất của mình và dường như không còn là gì nữa.

From the void of Non-existence to this dwelling-house of clay

Từ khoảng không của Vô-Tồn tại đến ngôi nhà bằng đất sét này

I came, and rose from stone to plant; but that hath passed away!

Tôi đến, và trỗi dậy từ đá đến cây; nhưng điều đó đã qua đi!

Thereafter, through the working of the Spirit’s toil and strife,

Sau đó, thông qua công việc lao động và đấu tranh của Tinh thần,

I gained, but soon abandoned, some lowly form of life;

Tôi đã đạt được, nhưng sớm từ bỏ, một số hình thức sống thấp kém;

That too hath passed away!

Điều đó cũng đã qua đi!

In a human breast, no longer a mere unheeding brute,

Trong một trái tim con người, không còn là một con vật vô tri đơn thuần,

This tiny drop of Being to a pearl I did transmute;

Giọt nhỏ bé của Sự Hiện Hữu này thành một viên ngọc trai tôi đã chuyển hóa;

That too hath passed away!

Điều đó cũng đã qua đi!

At the Holy Temple next did I foregather with the throng

Tại Ngôi Đền Thánh, tôi đã tề tựu cùng với đám đông

Of Angels, compassed it about, and gazed upon it long;

Thiên Thần, vây quanh nó, và ngắm nhìn nó thật lâu;

That too hath passed away!

Điều đó cũng đã qua đi!

Forsaking Ibn-i-Yamin, and from this too soaring free,

Từ bỏ Ibn-i-Yamin, và từ điều này cũng bay bổng tự do,

I abandoned all beside Him, so that naught was left but He;

Tôi đã từ bỏ tất cả những gì bên cạnh Ngài, để không còn gì ngoài Ngài;

All else hath passed away!

Tất cả những thứ khác đã qua đi!

[A Persian Anthology, by E. G. Browne.]

[Tuyển tập Ba Tư, của E. G. Browne.]

We come then to that magnificent stage described by Plotinus in words which seem almost meaningless, especially to us in our modern world. For now on all sides there are so many churches and temples, so many intermediaries and ecclesiastical hierarchies, that we have almost forgotten that there is another vision of truth possible than what they reveal. Plotinus describes the direct road which he found in these words: “This therefore is the life of the Gods and of divine and happy men, a liberation from all terrene concerns, a life unaccompanied by human pleasures, and a flight of the alone to the Alone.” But in these days, where there are so many Mediators and Saviours, there are only a few of us who dare to stand alone, and make that “flight of the alone to the Alone “. Yet mankind’s evolution is not complete till each of us makes the great discovery, and free of all scriptures and all saviours, dares to fly.”alone to the Alone,” direct to the Transcendent Godhead.

Sau đó, chúng ta đến với giai đoạn tráng lệ được Plotinus mô tả bằng những từ ngữ dường như gần như vô nghĩa, đặc biệt là đối với chúng ta trong thế giới hiện đại ngày nay. Vì giờ đây ở khắp mọi nơi có rất nhiều nhà thờ và đền thờ, rất nhiều trung gian và huyền giai giáo hội, đến nỗi chúng ta gần như quên mất rằng có một tầm nhìn khác về chân lý có thể có hơn những gì họ tiết lộ. Plotinus mô tả con đường trực tiếp mà ông tìm thấy bằng những lời này: “Do đó, đây là cuộc sống của Các Thượng đế và của những người thiêng liêng và hạnh phúc, một sự giải thoát khỏi mọi mối bận tâm trần tục, một cuộc sống không có những thú vui của con người, và một chuyến bay của người cô độc đến với Đấng Cô Độc.” Nhưng trong những ngày này, nơi có rất nhiều Đấng Trung Gian và Cứu Tinh, chỉ có một vài người trong chúng ta dám đứng một mình, và thực hiện “chuyến bay của người cô độc đến với Đấng Cô Độc”. Tuy nhiên, sự tiến hóa của nhân loại chưa hoàn thành cho đến khi mỗi người chúng ta thực hiện khám phá vĩ đại, và thoát khỏi tất cả kinh sách và tất cả các đấng cứu thế, dám bay “một mình đến với Đấng Cô Độc”, trực tiếp đến Thượng Đế Siêu Việt.

When this stage has been achieved, then such an individual is called in India by a most significant word. He is called Muni, “the silent one,” for he has then discovered the final truth concerning the nature of God, and his lips are sealed. How may he describe it? He may make the attempt, by using those thought moulds which religions have created, he may use the labels of all the greatest philosophies, but he will always fail, always, always, because he has come to truth directly by himself and not through any tradition. That is why, in India, beyond this achievement of intimate communion with a Divine Beloved a further stage is hinted at, a stage difficult for devotional people to understand because it seems so cold, so abstract, so utterly aloof. As the Muni contemplates all his experiences of the bliss of communion, as he gazes at the Divine Vision before him, he must whisper to himself, “Neti! Neti! “., “This is not THAT! This is not THAT! “ To rejoice in the splendour of the Gods, to worship very God of very God, face to face, and yet to say, “This is but the phenomenon, not the noumenon; I seek THAT which cannot express itself in any vision “- that is the greatest teaching which India has given. “Neti! Neti! “ is India’s greatest contribution to the spiritual problem, and how great only a few will ever know. Certainly the teachings of all the religions are helpful; certainly Mediators appear to help men on the road to God; but they are only finger-posts on the road to the Divine Vision which leads us beyond all the experiences which they describe.

Khi giai đoạn này đã đạt được, thì một cá nhân như vậy được gọi ở Ấn Độ bằng một từ vô cùng ý nghĩa. Y được gọi là Muni, “người im lặng”, vì y sau đó đã khám phá ra sự thật cuối cùng liên quan đến bản chất của Thượng đế, và đôi môi của y đã bị niêm phong. Làm thế nào y có thể mô tả nó? Y có thể cố gắng, bằng cách sử dụng những khuôn tư tưởng mà các tôn giáo đã tạo ra, y có thể sử dụng các nhãn mác của tất cả các triết lý vĩ đại nhất, nhưng y sẽ luôn thất bại, luôn luôn, luôn luôn, bởi vì y đã đến với chân lý trực tiếp bởi chính mình và không thông qua bất kỳ truyền thống nào. Đó là lý do tại sao, ở Ấn Độ, vượt ra ngoài thành tựu giao tiếp mật thiết với một Đấng Thiêng Liêng Yêu Dấu, một giai đoạn xa hơn được gợi ý, một giai đoạn khó hiểu đối với những người sùng đạo vì nó có vẻ quá lạnh lùng, quá trừu tượng, quá hoàn toàn xa cách. Khi Muni chiêm ngưỡng tất cả những trải nghiệm của mình về sự hoan lạc của giao tiếp, khi y nhìn vào Linh Kiến Thiêng Liêng trước mặt, y phải thì thầm với chính mình, “Neti! Neti! “., “Đây không phải LÀ CÁI ĐÓ! Đây không phải LÀ CÁI ĐÓ! ” Để vui mừng trong sự huy hoàng của Các Thượng đế, để tôn thờ chính Thượng đế của chính Thượng đế, mặt đối mặt, nhưng vẫn nói, “Đây chỉ là hiện tượng, không phải bản thể; Tôi tìm kiếm CÁI ĐÓ vốn không thể tự biểu hiện trong bất kỳ linh kiến nào “- đó là giáo lý vĩ đại nhất mà Ấn Độ đã ban tặng. “Neti! Neti! ” là đóng góp lớn nhất của Ấn Độ cho vấn đề tinh thần, và chỉ một số ít sẽ biết nó lớn đến mức nào. Chắc chắn những lời dạy của tất cả các tôn giáo đều hữu ích; chắc chắn Các Đấng Trung Gian xuất hiện để giúp đỡ con người trên con đường đến với Thượng đế; nhưng chúng chỉ là những cột chỉ đường trên con đường dẫn đến Linh Kiến Thiêng Liêng, vốn dẫn chúng ta vượt ra ngoài tất cả những trải nghiệm mà chúng mô tả.

He who has come thus far towards the final realisation, and lives as the Muni, the silent one, never describes with words all the splendour that he sees, for it is indescribable. But silent though he be, his life becomes a parable, and without speaking, without debate, he produces changes in the world of thought by what he is, for he radiates the power of the Transcendent God. Concerning that final truth as to Brahman, which only the Muni knows. It was said of old in India, “If you tell this to a withered branch, it will put forth leaf and flower! “ For that final truth is not a negativity, a cold intellectual abstract truth; it is truth which is power, the power which made all things by uttering a Word.

Ngài vốn đã đến được điểm này trên con đường hiện thực hóa cuối cùng, và sống như một Muni, một người im lặng, không bao giờ dùng lời lẽ để mô tả tất cả sự huy hoàng mà Ngài nhìn thấy, vì nó không thể diễn tả được. Nhưng dù Ngài im lặng, cuộc sống của Ngài trở thành một dụ ngôn, và không cần nói, không cần tranh luận, Ngài tạo ra những thay đổi trong thế giới tư tưởng bằng chính con người của Ngài, vì Ngài tỏa ra quyền năng của Thượng đế Siêu Việt. Liên quan đến chân lý cuối cùng về Brahman, mà chỉ Muni biết. Người xưa ở Ấn Độ có câu: “Nếu bạn nói điều này với một cành cây khô héo, nó sẽ đâm chồi và ra hoa!”. Vì chân lý cuối cùng đó không phải là một sự tiêu cực, một chân lý trừu tượng trí tuệ lạnh lùng; nó là chân lý vốn là quyền năng, quyền năng vốn đã tạo ra mọi thứ bằng cách thốt ra một Linh từ.

As such a silent one lives, disciples gather round him, and try with their little minds to measure the greatness of his achievement. And after he has passed away, they dispute among themselves. “What did he mean? “ They do not realise that he was like the diamond which flashes colour after colour by mere movement, and is not of anyone colour at all. Was it not so with Christ, with Buddha, with Krishna, and with every other great Teacher? Their disciples dispute and quarrel, and found sects and churches and establish the lesser road; but They only meant one Truth – the Divine Vision of God which is the Divine Vision of Man.

Khi một người im lặng như vậy sống, các đệ tử tập hợp xung quanh y, và cố gắng bằng hạ trí của họ để đo lường sự vĩ đại trong thành tựu của Ngài. Và sau khi Ngài qua đi, họ tranh cãi với nhau. “Ý Ngài là gì?”. Họ không nhận ra rằng Ngài giống như viên kim cương lấp lánh hết màu này đến màu khác chỉ bằng một chuyển động đơn thuần, và hoàn toàn không thuộc về bất kỳ màu nào cả. Chẳng phải Đức Christ, Đức Phật, Đức Krishna và mọi Huấn Sư Vĩ Đại khác cũng vậy sao? Các đệ tử của Các Ngài tranh cãi và cãi vã, và thành lập các giáo phái và nhà thờ và thiết lập con đường nhỏ hơn; nhưng Các Ngài chỉ muốn nói một Chân lý – Khải Tượng Thiêng Liêng về Thượng đế vốn là Khải Tượng Thiêng Liêng về Con Người.

All questionings fall away from him who possesses the Divine Vision. And you shall all come to it, my brothers, some day, for we are all treading the Path to that Vision. But we have to learn certain lessons now. We have to learn first to see the Divine Vision in the face of our fellowmen, and then to see it in the faces of Nature, for they tell us of the mysteries of the Immanent Godhead. As we arrive at that stage, then begins for us the vision of the Trancendent God, that Absolute which is beyond all names. When we gain even only a partial glimpse of That, then we needs must stand forth in life as the martyr, “the witness,” to the truth that there is but one Divinity, one Divine Law, one Mankind, one Salvation, one Life, indivisible, and, as we say in India, Ekamadvitiyam-. “One without a second “.

Mọi nghi vấn đều tan biến khỏi người sở hữu Khải Tượng Thiêng Liêng. Và tất cả các huynh đệ sẽ đạt được điều đó vào một ngày nào đó, vì tất cả chúng ta đều đang bước đi trên Thánh Đạo dẫn đến Khải Tượng đó. Nhưng bây giờ chúng ta phải học một số bài học nhất định. Trước tiên, chúng ta phải học cách nhìn thấy Khải Tượng Thiêng Liêng trên khuôn mặt của đồng loại, và sau đó nhìn thấy nó trên khuôn mặt của Thiên Nhiên, vì họ kể cho chúng ta về những điều huyền bí của Thượng Đế Nội Tại. Khi chúng ta đạt đến giai đoạn đó, thì Khải Tượng về Thượng Đế Siêu Việt bắt đầu cho chúng ta, Đấng Tuyệt Đối vốn vượt lên trên mọi danh xưng. Khi chúng ta đạt được dù chỉ là một thoáng nhìn về Đấng Đó, thì chúng ta cần phải đứng lên trong cuộc sống như một người tử vì đạo, “nhân chứng”, cho sự thật rằng chỉ có một Thượng đế, một Định luật Thiêng Liêng, một Nhân Loại, một Sự Cứu Rỗi, một Sự Sống, bất khả phân ly, và, như chúng ta nói ở Ấn Độ, Ekamadvitiyam-. “Duy nhất không có thứ hai”.

He who thus stands in the realisation of the “One without a second “ is the strongest soul in the world. Churches may martyr him, but his blood becomes the cement to weld men into greater love of him; the orthodox may burn him at the stake, but he lights with his sacrifice a flame which burns throughout eternity.

Người đứng trong sự hiện thực hóa “Đấng Duy Nhất không có thứ hai” là linh hồn mạnh mẽ nhất trên thế giới. Các nhà thờ có thể hành hình y, nhưng máu của y trở thành xi măng để gắn kết mọi người vào tình yêu lớn hơn dành cho y; những người chính thống có thể thiêu y trên giàn hỏa thiêu, nhưng y thắp lên bằng sự hy sinh của mình một ngọn lửa cháy rực trong suốt cõi vĩnh hằng.

Such are the souls who come to Liberation, the knowledge of the One, the Indivisible. And to their achievement you and I are travelling. If, on the way, we at our lower levels feel that the vision of the Transcendence is not yet for us, that for us the Immanence suffices, that we cannot divest ourselves of the craving for some mediator, for some ritual of worship, let us at least beware of erecting barriers between one form of worship and another, between one creed and another. For, some day, we must transcend all barriers, and learn to gather the whole world into our heart and say with the Christ, “Come unto me! “ For when we come to Liberation, we have to make the world our own; when we become wise, we have to banish the ignorance of mankind; when we are strong, we have to transmute the weakness of our brothers into the strength of God.

Đó là những linh hồn đến với Giải Thoát, tri thức về Đấng Duy Nhất, Đấng Bất Khả Phân Ly. Và các bạn và tôi đang trên đường đến thành tựu của Các Ngài. Nếu, trên đường đi, chúng ta ở các cấp độ thấp hơn của mình cảm thấy rằng khải tượng về Siêu Việt chưa dành cho chúng ta, rằng đối với chúng ta, Nội Tại là đủ, rằng chúng ta không thể từ bỏ sự khao khát một số người hòa giải, một số nghi thức thờ cúng, thì ít nhất chúng ta hãy cẩn thận đừng dựng lên những rào cản giữa hình thức thờ cúng này với hình thức thờ cúng khác, giữa tín ngưỡng này với tín ngưỡng khác. Vì, một ngày nào đó, chúng ta phải vượt qua mọi rào cản, và học cách thu thập toàn bộ thế giới vào trái tim mình và nói với Đức Christ: “Hãy đến với ta!”. Vì khi chúng ta đến với Giải Thoát, chúng ta phải biến thế giới thành của riêng mình; khi chúng ta trở nên khôn ngoan, chúng ta phải xua tan sự ngu dốt của nhân loại; khi chúng ta mạnh mẽ, chúng ta phải chuyển hóa sự yếu đuối của các huynh đệ thành sức mạnh của Thượng đế.

And all these splendours are for you and for me, as stage by stage, and each for himself, we come to the Divine Vision of God.

Và tất cả những sự huy hoàng này là dành cho các bạn và cho tôi, khi từng giai đoạn một, và mỗi người cho chính mình, chúng ta đến với Khải Tượng Thiêng Liêng về Thượng đế.

THE IDEALISM OF THEOSOPHY

TÍNH DUY TÂM CỦA THÔNG THIÊN HỌC

[A lecture delivered in Italian in Palermo. On April 16tb.1927.]

[Một bài giảng được trình bày bằng tiếng Ý ở Palermo. Vào ngày 16 tháng 4 năm 1927.]

Of all living creatures, man surely is the most restless, He is always seeking; he is never content for long. The animal has a few primary needs; he must find his food, protect himself from being devoured and at certain times be must gratify his sexual needs, So the animal wanders, is ever on the alert to defend himself or to enforce his claims. But man has added to this complex life of the animal by possessing a mind; he plans and elaborates in ways not known to the animal. In that planning for future gratifications man discovers a new element, which is, that he is a part of an environment, of a scheme which has not been made by him, and of which he is not master. So man tries to understand. The animal does not try; he lives for the moment, and accepts the pain or the pleasure as it comes. Man, too, is forced to accept pain or pleasure as it comes, but man asks, “Why?” It is this eternal “Why”‘ever rising from man’s inmost being which is both man’s tragedy and his glory.

Trong tất cả các sinh vật sống, con người chắc chắn là loài không ngừng nghỉ nhất. Y luôn tìm kiếm; y không bao giờ hài lòng lâu. Con vật có một vài nhu cầu cơ bản; nó phải tìm thức ăn, tự bảo vệ mình khỏi bị ăn thịt và vào những thời điểm nhất định, nó phải thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình. Vì vậy, con vật lang thang, luôn cảnh giác để tự vệ hoặc để thực thi các yêu sách của mình. Nhưng con người đã thêm vào cuộc sống phức tạp này của con vật bằng cách sở hữu một thể trí; y lên kế hoạch và trau chuốt theo những cách mà con vật không hề biết đến. Trong việc lên kế hoạch cho những sự thỏa mãn trong tương lai đó, con người khám phá ra một yếu tố mới, đó là, y là một phần của một môi trường, của một thiên cơ vốn không phải do y tạo ra, và y không phải là chủ nhân của nó. Vì vậy, con người cố gắng thấu hiểu. Con vật không cố gắng; nó sống cho hiện tại, và chấp nhận nỗi đau hoặc niềm vui khi nó đến. Con người cũng buộc phải chấp nhận nỗi đau hoặc niềm vui khi nó đến, nhưng con người hỏi: “Tại sao?”. Chính chữ “Tại sao” vĩnh cửu này, luôn trỗi dậy từ tận đáy lòng con người, vừa là bi kịch vừa là vinh quang của con người.

This continual craving for satisfaction has been studied by Eastern philosophers; it has but lately been discovered in Western psychology. Psychoanalysis calls it libido, a passion, a desire; Buddha called it “Tanhâ,” a thirst for life. In analysing this libido or craving, which seems to be at the root of all sentient things, modern psychoanalysis finds two elements: one is of an erotic nature, pushing the individual to various forms of gratification of sex impulses; the other element in a man’s being urges him to assert himself against an environment which enforces on him a sense of inferiority. These two elements are well-known both in Hindu and Buddhist philosophy; they are called Kâma and Artha.

Sự khao khát thỏa mãn liên tục này đã được các triết gia phương Đông nghiên cứu; nó chỉ mới được khám phá gần đây trong tâm lý học phương Tây. Phân tâm học gọi nó là libido, một đam mê, một ham muốn; Đức Phật gọi nó là “Tanhâ”, một cơn khát sống. Trong việc phân tích libido hoặc sự khao khát này, vốn dường như là gốc rễ của mọi thứ hữu tri, phân tâm học hiện đại tìm thấy hai yếu tố: một là bản chất nhục dục, thúc đẩy cá nhân đến các hình thức thỏa mãn khác nhau của các xung năng tình dục; yếu tố còn lại trong con người thúc giục y khẳng định mình trước một môi trường áp đặt lên y cảm giác thấp kém. Hai yếu tố này đều được biết đến trong triết học Hindu và Phật giáo; chúng được gọi là Kâma và Artha.

The element of Kama, or desire, in us always impels us from one form of gratification to another: from the coarse sensual excitements of the brute, we pass on by gradations of refinement to the higher and purer expressions of the senses. Wherever there is Kâma in us, and it does not find free expression, a conflict arises in us; we are unhappy because we are ungratified. Whether the want of gratification is of a purely erotic nature or something more aesthetic and artistic, life inflicts on us a struggle; so long as Kâma or desire is a Tanhâ or thirst in our being, life must continue unhappy.

Yếu tố Kama, hay ham muốn, trong chúng ta luôn thôi thúc chúng ta từ hình thức thỏa mãn này sang hình thức thỏa mãn khác: từ những kích thích nhục cảm thô thiển của loài vật, chúng ta chuyển sang các cấp độ tinh tế hơn đến những biểu hiện cao hơn và thuần khiết hơn của các giác quan. Bất cứ nơi nào có Kâma trong chúng ta, và nó không tìm thấy sự thể hiện tự do, một cuộc xung đột nảy sinh trong chúng ta; chúng ta không hạnh phúc vì chúng ta không được thỏa mãn. Cho dù sự thiếu thỏa mãn có bản chất hoàn toàn nhục dục hay điều gì đó thẩm mỹ và nghệ thuật hơn, cuộc sống giáng cho chúng ta một cuộc đấu tranh; chừng nào Kâma hay ham muốn còn là một Tanhâ hay cơn khát trong con người chúng ta, cuộc sống phải tiếp tục bất hạnh.

The second element, called “Artha,” deals with the craving in us for self-assertion and domination. The word Artha means “things”, “objects,” and hence “possessions “. The principal possession which allows us to enforce our individuality over others is wealth; wealth leads to power, it is the way to titles and honours; he who is wealthy need have few conflicts in his inner nature, so far as forcing the self of others to give way before him.

Yếu tố thứ hai, được gọi là “Artha”, đề cập đến sự khao khát trong chúng ta về sự tự khẳng định và thống trị. Từ Artha có nghĩa là “vật chất”, “đồ vật”, và do đó là “của cải”. Của cải chính là thứ cho phép chúng ta áp đặt cá tính của mình lên người khác; của cải dẫn đến quyền lực, đó là con đường dẫn đến tước vị và danh dự; người giàu có cần có ít xung đột trong bản chất bên trong của mình, đến mức buộc bản thân người khác phải nhường đường trước y.

But there is a third element in the libido which has not been discovered by psychoanalysis, which has been expounded by Hindu philosophy: it is called Moksha, or desire for freedom. This craving for freedom arises only when a man has subjugated the two other cravings, for sense gratification and for domination. The man who has tasted Kâma and found it bitter, who has held in his arms Artha and found it unsubstantial, such a man finds himself plunged into a third conflict, that of Moksha or Liberation.

Nhưng có một yếu tố thứ ba trong libido mà phân tâm học chưa khám phá ra, vốn đã được triết học Hindu giải thích: nó được gọi là Moksha, hay khát khao tự do. Sự khao khát tự do này chỉ nảy sinh khi một người đã khuất phục được hai sự khao khát khác, để thỏa mãn giác quan và để thống trị. Người đã nếm trải Kâma và thấy nó cay đắng, người đã ôm trong vòng tay Artha và thấy nó không thực chất, người như vậy thấy mình rơi vào một cuộc xung đột thứ ba, đó là Moksha hay Giải Thoát.

It is at this stage that man insists on understanding; he cannot be satisfied merely to accept on the hearsay of others. I grant you that indeed only a few, at our present stage of human evolution, are at this point of struggling for freedom. The vast majority of mankind still find sufficient satisfaction in Artha and Kâma, in the possessions and gratifications which the world gives them. So long as the physical body is young and strong, and can enjoy, nothing is so pleasant as to adorn it, feed it, and give it pleasant sensations. So long as the mind can show its superiority over others only by means of material objects, it is indeed agreeable to possess lands and titles, and gain respect from our rivals, because we have, and they do not have. So long as our range of experience is limited, then the only way to sense the pleasure of mastery is in hunting the wild animal, and putting our strength and skill against his, in various forms of sport, innocent as in athletics, or nocuous as in hunting, fishing, and those other forms which involve the pain of a living creature as we gratify our craving. So much time for business and for gain, so much time for an impure or pure love, so much time for dress, and for meeting friends or admirers, always carefully avoiding meeting the full truth about things, in a continual game of hide-and-seek with Reality, so passes the life of most around us. Sufficient for them the simple religious truths given by the great religions, which try to prevent these child souls from injuring themselves by wantonly breaking the great Law of Good. Like children whom we pacify with bonbons, so these children are slowly weaned away from Artha and Kâma by promise of heavenly rewards. For not yet for such child souls is the great spiritual conflict of Moksha, that battle royal for freedom, which for the first time reveals to the soul the wisdom and the strength and the love which are within him.

Chính ở giai đoạn này, con người khăng khăng đòi hỏi sự thấu hiểu; y không thể hài lòng chỉ đơn thuần chấp nhận những lời đồn đại của người khác. Tôi thừa nhận với bạn rằng thật vậy, chỉ một số ít, ở giai đoạn tiến hóa của nhân loại hiện tại, đang ở thời điểm đấu tranh cho tự do này. Đại đa số nhân loại vẫn tìm thấy đủ sự thỏa mãn trong Artha và Kâma, trong những của cải và sự thỏa mãn mà thế giới mang lại cho họ. Chừng nào thể xác còn trẻ và khỏe mạnh, và có thể tận hưởng, không có gì thú vị bằng việc tô điểm, nuôi dưỡng và mang lại cho nó những cảm giác dễ chịu. Chừng nào thể trí có thể thể hiện sự vượt trội của mình so với người khác chỉ bằng các đối tượng vật chất, thì việc sở hữu đất đai và tước vị, và giành được sự tôn trọng từ các đối thủ của chúng ta, bởi vì chúng ta có, và họ không có, quả thực là điều dễ chịu. Chừng nào phạm vi kinh nghiệm của chúng ta còn hạn chế, thì cách duy nhất để cảm nhận niềm vui làm chủ là săn bắt động vật hoang dã, và đặt sức mạnh và kỹ năng của chúng ta chống lại nó, trong các hình thức thể thao khác nhau, vô hại như trong điền kinh, hoặc có hại như trong săn bắn, câu cá và những hình thức khác liên quan đến nỗi đau của một sinh vật sống khi chúng ta thỏa mãn cơn thèm khát của mình. Dành nhiều thời gian cho công việc và kiếm tiền, dành nhiều thời gian cho một tình yêu ô uế hoặc thuần khiết, dành nhiều thời gian cho việc ăn mặc và gặp gỡ bạn bè hoặc những người ngưỡng mộ, luôn cẩn thận tránh gặp phải sự thật đầy đủ về mọi thứ, trong một trò chơi trốn tìm liên tục với Thực Tại, cuộc sống của hầu hết những người xung quanh chúng ta trôi qua như vậy. Đủ cho họ những chân lý tôn giáo đơn giản được đưa ra bởi các tôn giáo vĩ đại, vốn cố gắng ngăn cản những linh hồn trẻ con này làm tổn thương chính mình bằng cách cố ý phá vỡ Đại Định Luật Thiện. Giống như những đứa trẻ mà chúng ta xoa dịu bằng kẹo, những đứa trẻ này dần dần cai sữa Artha và Kâma bằng lời hứa về những phần thưởng trên thiên đàng. Vì cuộc xung đột tinh thần vĩ đại của Moksha, trận chiến hoàng gia vì tự do, vốn lần đầu tiên tiết lộ cho linh hồn sự minh triết, sức mạnh và tình thương vốn có bên trong y, vẫn chưa dành cho những linh hồn trẻ con như vậy.

There is today in humanity a small minority, who seek no longer either Artha or Kâma, even of the higher type. They know that life can indeed be most pleasant with the refinements which a cultured environment can give; the arts and the sciences, the tender love of friends and comrades, the common search for relief from the tedium of life, these things no longer attract them. They are no longer attractive for one simple reason: something else more attractive still has come to take their place. It is that new thing called Moksha, the desire for Liberation.

Ngày nay, trong nhân loại có một thiểu số nhỏ, những người không còn tìm kiếm Artha hay Kâma, ngay cả những loại cao hơn. Họ biết rằng cuộc sống thực sự có thể dễ chịu nhất với những tinh tế mà một môi trường văn hóa có thể mang lại; nghệ thuật và khoa học, tình yêu dịu dàng của bạn bè và đồng chí, sự tìm kiếm chung để giải tỏa khỏi sự tẻ nhạt của cuộc sống, những điều này không còn thu hút họ nữa. Chúng không còn hấp dẫn nữa vì một lý do đơn giản: một thứ khác hấp dẫn hơn vẫn đến thay thế chúng. Đó là điều mới mẻ được gọi là Moksha, khát khao Giải Thoát.

When this desire is born, then man finds it imperatively necessary to understand. He seeks first to understand, and then believe. That understanding may come by way of his reasoning mind which examines fact after fact; or it may come as the result of intuitions which grow from the depths of his own nature. But the soul at this stage can have no truce with shadows, he will not be satisfied with mere labels; he must know truth itself, a tiny fragment though it be of that truth to which he can attain. To souls who are struggling for freedom, who are insisting on understanding the mystery of their own nature, Theosophy comes with a wonderful illumination. Let me describe what is the message of Theosophy to those souls who seek primarily not happiness but freedom.

Khi khát khao này được sinh ra, thì con người thấy cần thiết phải thấu hiểu. Y tìm cách thấu hiểu trước, rồi sau đó tin tưởng. Sự thấu hiểu đó có thể đến từ thể trí lý luận vốn xem xét hết sự kiện này đến sự kiện khác; hoặc nó có thể đến như là kết quả của những trực giác vốn phát triển từ chiều sâu bản chất của y. Nhưng linh hồn ở giai đoạn này không thể thỏa hiệp với bóng tối, y sẽ không hài lòng với những cái tên suông; y phải biết chân lý thật sự, dù chỉ là một mảnh nhỏ của chân lý mà y có thể đạt được. Với những linh hồn đang đấu tranh cho tự do, vốn khăng khăng đòi thấu hiểu sự huyền bí về bản chất của chính mình, Thông Thiên Học đến với một sự soi sáng tuyệt vời. Để tôi mô tả thông điệp của Thông Thiên Học cho những linh hồn vốn tìm kiếm trước hết không phải hạnh phúc mà là tự do.

Theosophy proclaims that there is a great joy in life, united to the highest sense of freedom, but that joy comes not from receiving but from giving. The craving in us for understanding, for freedom, can be fulfilled; there awaits us a wisdom and a freedom beyond the dreams of our highest imagination. But to reach them we must grasp certain fundamental facts. It is true that, in the beginning, we cannot assert those facts to be true; we can only accept them for the time as hypotheses. But they must be carefully considered as hypotheses, and tested, so far as we can test them, by such experiences as we have had. Nor must we be impatient if our testing is slow. Rome was not built in a day; why must we presume that the citadel of heaven is going to be captured at our first assault? If truth were so easy to attain, at our first demand for it, it would scarce be such a great and wonderful truth. If we want to understand, we must have the patience of the Alpine climber who is determined to climb the peak he sees, unthwarted by failure after failure.

Thông Thiên Học tuyên bố rằng có một niềm vui lớn trong cuộc sống, hợp nhất với ý thức cao nhất về tự do, nhưng niềm vui đó không đến từ việc nhận mà đến từ việc cho đi. Sự khao khát trong chúng ta về sự thấu hiểu, về tự do, có thể được thỏa mãn; có một sự minh triết và một sự tự do đang chờ đợi chúng ta vượt xa những giấc mơ về trí tưởng tượng cao nhất của chúng ta. Nhưng để đạt được chúng, chúng ta phải nắm bắt một số sự thật cơ bản. Đúng là, ban đầu, chúng ta không thể khẳng định những sự thật đó là đúng; chúng ta chỉ có thể chấp nhận chúng tạm thời như những giả thuyết. Nhưng chúng phải được xem xét cẩn thận như những giả thuyết, và được kiểm tra, trong chừng mực chúng ta có thể kiểm tra chúng, bằng những kinh nghiệm mà chúng ta đã có. Chúng ta cũng không được mất kiên nhẫn nếu việc kiểm tra của chúng ta diễn ra chậm chạp. Thành Rome không được xây dựng trong một ngày; tại sao chúng ta phải cho rằng thành trì của thiên đường sẽ bị chiếm giữ ngay trong cuộc tấn công đầu tiên của chúng ta? Nếu chân lý dễ đạt được như vậy, ngay khi chúng ta yêu cầu nó lần đầu tiên, thì nó khó có thể là một chân lý vĩ đại và tuyệt vời đến thế. Nếu chúng ta muốn thấu hiểu, chúng ta phải có sự kiên nhẫn của người leo núi Alps, vốn quyết tâm leo lên đỉnh núi mà y nhìn thấy, không hề nản lòng trước thất bại hết lần này đến lần khác.

One of the great truths which Theosophy teaches is that we must be creators. Man was not made to enjoy, not even the bliss in heaven in the presence of God. Man’s primary function is as a bringer of change. He must change his environment, all those around him, and so finally himself. This universe of which man is a tiny part is full of an idealism; like an uncut diamond dug from the ground which clamours to be cut into many facets and set in a ring to deck some lovely hand, so the universe is insisting on changing itself as the cycles pass. The universe, too, has its libido, its craving. The Deity who made it, the Eternal Law which decreed that out of chaos a cosmos should arise, these primal causes have implanted in the universe a principle of change.

Một trong những chân lý vĩ đại mà Thông Thiên Học dạy là chúng ta phải là những nhà sáng tạo. Con người không được tạo ra để hưởng thụ, thậm chí không phải là sự hoan lạc trên thiên đường khi diện kiến Thượng đế. Chức năng chính của con người là người mang lại sự thay đổi. Y phải thay đổi môi trường của mình, tất cả những người xung quanh y, và cuối cùng là chính y. Vũ trụ này, nơi con người là một phần nhỏ bé, tràn đầy một chủ nghĩa duy tâm; giống như một viên kim cương thô chưa cắt được đào lên từ mặt đất, vốn kêu gào được cắt thành nhiều mặt và được đặt trên một chiếc nhẫn để trang điểm cho một bàn tay xinh xắn, vũ trụ cũng đang khăng khăng đòi thay đổi chính nó khi các chu kỳ trôi qua. Vũ trụ cũng có libido, sự khao khát của nó. Thượng đế, Đấng tạo ra nó, Định luật Vĩnh Cửu vốn ra lệnh rằng từ hỗn mang phải phát sinh ra một vũ trụ, những nguyên nhân ban đầu này đã cấy vào vũ trụ một nguyên tắc thay đổi.

Our joy in life begins when we understand that we are to be the bringers of the changes decreed for the universe. Let a man but grasp that there is behind everything a reasonable plan of evolution, then he no longer vacillates as to his aim. It is this reasonable plan of evolution which Theosophy unveils; sciences and arts and philosophies, all these must slowly change so that little by little a greater hidden beauty in the universe may be revealed.

Niềm vui trong cuộc sống của chúng ta bắt đầu khi chúng ta hiểu rằng chúng ta là những người mang lại những thay đổi đã được quy định cho vũ trụ. Chỉ cần một người nắm bắt được rằng đằng sau mọi thứ có một thiên cơ tiến hóa hợp lý, thì y sẽ không còn do dự về mục tiêu của mình nữa. Chính thiên cơ tiến hóa hợp lý này mà Thông Thiên Học hé lộ; các ngành khoa học, nghệ thuật và triết học, tất cả những điều này phải từ từ thay đổi để từng chút một một vẻ đẹp ẩn giấu lớn hơn trong vũ trụ có thể được tiết lộ.

I have so far failed to mention one truth which, for some, may seem more vitally important. It is the truth as to man’s own nature. Does he persist after death, will he retain his memories, will he be happy or miserable, such questions I know spring up in the Western mind long before questions as to the ultimate purpose of the universe. Christian theology has for so long threatened man with a terror beyond the grave that, like a terrified child who refuses to believe to further threats, the average Christian scarce seems to be sure if he has any life beyond the grave at all. Above all, the hideous superstition in some Christian sects that the body is necessary for the soul’s eternal life, which fills Christian cemeteries with decaying corpses, and, far worse, which continually and subtly links that body under the earth with the soul which is said to be sleeping in it, has bound fetters on the Western mind, the strength of which perhaps only the Oriental fully sees. To most of us in the East, certainly to us all in the cultured ranks of Hinduism and Buddhism, what puzzles us is not Death but Life. It was the same with Plato, who realised clearly the life of the spiritual worlds, but found difficult to grasp the existence of one material.

Cho đến nay, tôi đã không đề cập đến một chân lý mà đối với một số người, có vẻ quan trọng hơn về mặt sinh tử. Đó là chân lý về bản chất của chính con người. Liệu y có tồn tại sau khi chết, liệu y có giữ lại ký ức của mình, liệu y sẽ hạnh phúc hay đau khổ, tôi biết những câu hỏi như vậy nảy sinh trong trí tuệ phương Tây từ lâu trước khi có những câu hỏi về mục đích tối thượng của vũ trụ. Thần học Cơ đốc giáo từ lâu đã đe dọa con người bằng một nỗi kinh hoàng bên kia nấm mồ, giống như một đứa trẻ kinh hoàng từ chối tin vào những lời đe dọa hơn nữa, người Cơ đốc giáo trung bình dường như không chắc chắn liệu y có bất kỳ sự sống nào bên kia nấm mồ hay không. Trên hết, sự mê tín ghê tởm trong một số giáo phái Cơ đốc giáo rằng thể xác là cần thiết cho sự sống vĩnh cửu của linh hồn, vốn lấp đầy các nghĩa trang Cơ đốc giáo bằng những xác chết đang phân hủy, và, tồi tệ hơn nhiều, vốn liên tục và tinh vi liên kết thể xác đó dưới lòng đất với linh hồn được cho là đang ngủ trong đó, đã trói buộc trí tuệ phương Tây, sức mạnh mà có lẽ chỉ người phương Đông mới thấy hết. Đối với hầu hết chúng ta ở phương Đông, chắc chắn là đối với tất cả chúng ta trong hàng ngũ có văn hóa của Ấn Độ giáo và Phật giáo, điều khiến chúng ta bối rối không phải là Cái Chết mà là Sự Sống. Điều đó cũng tương tự với Plato, Ông nhận ra rõ ràng sự sống của các cõi giới tinh thần, nhưng cảm thấy khó nắm bắt được sự tồn tại của một cõi hồng trần.

Theosophy on this matter speaks with no hesitating voice. Man is immortal because he is a fragment of Divinity. That Ego or Self which stands behind a man’s feelings and thoughts and deeds, that centre of consciousness which makes a man feel “I am I”,. undergoes no diminution with the death of the body. All the thoughts, all the affections, all the memories – in other words, the complete character – are exactly the same after death as before. The only limitation is that that character, that Self, cannot make the lips move in speech or the hand in gesture. The heart has ceased to beat; the switch is turned off which made the dynamo move; but the electricity still exists, and is still at our service the moment we put the switch on. Death makes little difference; life and consciousness pass on unchanged beyond the gate of death. For the so-called “dead”, as for the living, the great problems are exactly the same. For the dead man living in his astral body can say, as before he died, “ Is this astral body of mine permanent? Have I still something more that is the eternal soul? Shall I presently come to an end? Can I prove I am eternal and undying?”

Thông Thiên Học về vấn đề này nói bằng một giọng điệu không hề do dự. Con người là bất tử vì y là một mảnh của Thượng đế. Chân ngã hay Tự ngã vốn đứng đằng sau những cảm xúc, tư tưởng và hành động của một người, trung tâm tâm thức vốn khiến một người cảm thấy “Tôi là Tôi”, không hề suy giảm khi thể xác chết đi. Tất cả những tư tưởng, tất cả những tình cảm, tất cả những ký ức – nói cách khác, tính cách hoàn chỉnh – đều hoàn toàn giống nhau sau khi chết như trước khi chết. Hạn chế duy nhất là tính cách đó, Tự ngã đó, không thể khiến đôi môi cử động để nói hay bàn tay cử động để ra hiệu. Trái tim đã ngừng đập; công tắc đã tắt khiến dynamo ngừng hoạt động; nhưng điện vẫn còn đó, và vẫn phục vụ chúng ta ngay khi chúng ta bật công tắc. Cái chết tạo ra rất ít khác biệt; sự sống và tâm thức tiếp tục không thay đổi vượt qua cổng tử. Đối với cái gọi là “người chết”, cũng như đối với người sống, những vấn đề lớn hoàn toàn giống nhau. Vì người chết sống trong thể cảm dục của y có thể nói, như trước khi y chết, “Thể cảm dục này của tôi có vĩnh viễn không? Tôi vẫn còn thứ gì đó hơn thế nữa, đó là linh hồn vĩnh cửu? Chẳng lẽ tôi sẽ sớm kết thúc? Tôi có thể chứng minh rằng tôi là vĩnh cửu và bất diệt không?”

No, it is not by trying to unravel first the mystery of man’s immortality that we come to the truth about it. Far rather, let us see the full picture, in which man is a tiny figure; let us examine first the large outline of the whole picture, before examining the little outline of the individual man in it. Then we shall see that, as without the picture there is no man, so without the individual man in it, there is no harmonious picture.

Không, không phải bằng cách cố gắng làm sáng tỏ trước tiên bí ẩn về sự bất tử của con người mà chúng ta đi đến sự thật về nó. Thay vào đó, chúng ta hãy xem bức tranh toàn cảnh, trong đó con người là một hình ảnh nhỏ bé; chúng ta hãy xem xét trước tiên phác thảo lớn của toàn bộ bức tranh, trước khi xem xét phác thảo nhỏ của từng người trong đó. Sau đó, chúng ta sẽ thấy rằng, vì không có bức tranh thì không có con người, nên nếu không có từng người trong đó, thì không có bức tranh hài hòa.

It is this concept, that man is an inseparable part of the universe in its eternal expansion, which gives a new value to man. Western theology has made of man a thing created by God, whose destiny thereafter as a creature of God is to be subservient to Him, and whose greatest happiness is to contemplate His goodness and mercy. That man is any way needed for the fulfilment of the Divine Will, that without man’s co-operation God’s work halts and fails of its fulfilment, is a conception wanting in ordinary Christian thought. But it is just this conception which is the very essence of Theosophy. Our philosophy postulates:

Chính khái niệm này, rằng con người là một phần không thể tách rời của vũ trụ trong sự mở rộng vĩnh cửu của nó, mang lại một giá trị mới cho con người. Thần học phương Tây đã biến con người thành một thứ được Thượng đế tạo ra, mà sau đó số phận của y với tư cách là một tạo vật của Thượng đế là phải phục tùng Ngài, và hạnh phúc lớn nhất của y là chiêm ngưỡng lòng tốt và lòng thương xót của Ngài. Việc con người bằng cách nào đó cần thiết cho việc hoàn thành Thiên Ý, rằng nếu không có sự hợp tác của con người thì công việc của Thượng đế sẽ đình trệ và không hoàn thành, là một quan niệm còn thiếu trong tư tưởng Cơ đốc giáo thông thường. Nhưng chính quan niệm này là bản chất của Thông Thiên Học. Triết lý của chúng ta đưa ra các tiên đề:

1. That behind the universe, in all its material and immaterial manifestations, there is a Will at work. This Will is called by many names: as a Personal Deity it is called God, Ishvara, Allah, Ahuramazda, Jehovah; as a non-personal Deity is called Dhamma or Law in Buddhism, Shang-ti or Heaven in China, and it was termed the Logos by the Stoics.

1. Đằng sau vũ trụ, trong tất cả các biểu hiện vật chất và phi vật chất của nó, có một Ý Chí đang hoạt động. Ý Chí này được gọi bằng nhiều tên: với tư cách là một Thượng đế Cá nhân, nó được gọi là God, Ishvara, Allah, Ahuramazda, Jehovah; với tư cách là một Thượng đế phi cá nhân, nó được gọi là Dhamma hay Luật trong Phật giáo, Shang-ti hay Thiên Đàng ở Trung Quốc, và nó được gọi là Logos bởi những người Khắc kỷ.

2. This Creator who shapes the universe is moulding it ceaselessly towards a perfection. His scheme is not perfect today; many an evil and imperfection mar it. But He has in His divine mind the image of its ultimate perfection, and towards it He patiently labours age by age.

2. Đấng Sáng Tạo vốn định hình vũ trụ này không ngừng nhào nặn nó hướng tới sự hoàn hảo. Thiên cơ của Ngài không hoàn hảo ngày hôm nay; nhiều điều xấu xa và không hoàn hảo làm hỏng nó. Nhưng Ngài có trong trí tuệ thiêng liêng của Ngài hình ảnh về sự hoàn hảo cuối cùng của nó, và hướng tới đó Ngài kiên nhẫn lao động hết thời đại này đến thời đại khác.

3. In this work towards perfection, every man is needed. God does not ask of man merely worship, but an understanding of His plan and a co-operation with it. He has given to each man a never-ceasing work; it is to create with God day by day new truth, new goodness and new beauty, till by the joint action of God and man the perfect universe at last comes into being.

3. Trong công việc hướng tới sự hoàn hảo này, mọi người đều cần thiết. Thượng đế không chỉ yêu cầu con người thờ phượng, mà còn phải thấu hiểu Thiên Cơ của Ngài và hợp tác với nó. Ngài đã ban cho mỗi người một công việc không ngừng nghỉ; đó là cùng với Thượng đế ngày qua ngày tạo ra chân lý mới, lòng tốt mới và vẻ đẹp mới, cho đến khi nhờ hành động chung của Thượng đế và con người, vũ trụ hoàn hảo cuối cùng xuất hiện.

Man is not the saint made out of the sinner, but the master craftsman made out of the apprentice – this is the Theosophical conception of our destiny. The universe and the environment which is ours by destiny, these are the workshops large and small in which we have to learn to labour. The labour becomes our spiritual salvation, if we only know how to labour.

Con người không phải là vị thánh được tạo ra từ tội nhân, mà là người thợ cả bậc thầy được tạo ra từ người học việc – đây là quan niệm Thông Thiên Học về số phận của chúng ta. Vũ trụ và môi trường vốn là của chúng ta theo định mệnh, đây là những xưởng lớn nhỏ, nơi chúng ta phải học cách lao động. Lao động trở thành sự cứu rỗi tinh thần của chúng ta, nếu chúng ta chỉ biết cách lao động.

The dominant idea, with which a man is to labour, is that God dwells within him. The stars at night, the beauty of sunrise and sunset, the magic of sea and mountain, the fascination of Nature’s face as the hillsides and fields are covered with spring flowers, the wonder and awe of a Divine Vision which we see sometimes in the face of a man or woman whom we adore, all these marvels of God which we see without us, are within us also. Though a thousand times I fall into sin, yet in me even as I fall, the marvels of God are somewhere hidden. I fall because I have not yet discovered His strength in me to resist temptation; I am led astray by my passions and by my ambitions, because I have not yet seen fully the light in my own heart which is to guide me to truth and beauty. All the time, the Divine Mystery play is being enacted in my own heart, little though I know that God and I are the protagonists on that stage.

Ý tưởng chủ đạo, mà một người phải lao động cùng, là Thượng đế ngự trong y. Những ngôi sao vào ban đêm, vẻ đẹp của bình minh và hoàng hôn, sự kỳ diệu của biển cả và núi non, sự quyến rũ của khuôn mặt Thiên Nhiên khi sườn đồi và cánh đồng được bao phủ bởi những bông hoa mùa xuân, sự kinh ngạc và kính sợ về một Tầm nhìn Thiêng Liêng mà đôi khi chúng ta thấy trên khuôn mặt của một người nam hay nữ mà chúng ta ngưỡng mộ, tất cả những điều kỳ diệu này của Thượng đế mà chúng ta thấy bên ngoài chúng ta, cũng ở bên trong chúng ta. Dù tôi ngã vào tội lỗi hàng ngàn lần, nhưng trong tôi ngay cả khi tôi ngã, những điều kỳ diệu của Thượng đế vẫn ở đâu đó ẩn giấu. Tôi ngã vì tôi chưa khám phá ra sức mạnh của Ngài trong tôi để chống lại sự cám dỗ; tôi bị dẫn dụ lạc lối bởi những đam mê và tham vọng của mình, vì tôi chưa thấy đầy đủ ánh sáng trong trái tim mình vốn sẽ dẫn dắt tôi đến chân lý và vẻ đẹp. Trong suốt thời gian đó, Vở Kịch Bí Ẩn Thiêng Liêng đang được diễn ra trong chính trái tim tôi, dù tôi biết rất ít rằng Thượng đế và tôi là những nhân vật chính trên sân khấu đó.

This is the new conception of ourselves which Theosophy offers to us. We are not sinners to be saved and led to a negative and static salvation, where we merely contemplate the attributes of God and sing psalms extolling them; we are the apprentices of God sent into His workshop to learn the art of creation, and with our thoughts and feelings to change the universe from what it is to something nobler. Our role is to be creators, to be the master craftsmen working under a Divine Statesman, Philosopher and Artist, to create with Him the perfect universe.

Đây là quan niệm mới về bản thân mà Thông Thiên Học mang đến cho chúng ta. Chúng ta không phải là những tội nhân cần được cứu rỗi và dẫn đến một sự cứu rỗi tiêu cực và tĩnh tại, nơi chúng ta chỉ chiêm ngưỡng các thuộc tính của Thượng đế và hát thánh ca ca ngợi Ngài; chúng ta là những người học việc của Thượng đế được gửi vào xưởng của Ngài để học nghệ thuật sáng tạo, và bằng những suy nghĩ và cảm xúc của mình để thay đổi vũ trụ từ những gì nó vốn là thành một thứ cao quý hơn. Vai trò của chúng ta là trở thành những nhà sáng tạo, trở thành những nghệ nhân bậc thầy làm việc dưới một Chính Khách, Triết Gia và Nghệ Sĩ Thiêng Liêng, để cùng Ngài tạo ra một vũ trụ hoàn hảo.

The first great precept of conduct which we have to learn is how to create nobly. Everyone can create; each thought, however trivial, produces a change in the universe. But we can either create alone, following our own individual fancies, or create in union with the Plan of Beauty of the Great Architect of the Universe. We create for eternity as we create with Him. That is the technique of creation which we have to acquire. That technique is not so difficult to acquire that a child cannot learn it; each of us, where he stands with his faults and imperfections, can acquire that technique even now. Only one thing is necessary, that “integrity of heart and innocency of hands “ of which the Bible speaks. Each of us must become the “little child “ of whom Christ spoke, if we are to learn the technique of God. And we learn His technique as we ask for no wages for what we do.

Nguyên tắc lớn đầu tiên về hành vi mà chúng ta phải học là cách tạo ra một cách cao quý. Ai cũng có thể sáng tạo; mỗi suy nghĩ, dù tầm thường đến đâu, đều tạo ra một sự thay đổi trong vũ trụ. Nhưng chúng ta có thể tạo ra một mình, theo những tưởng tượng riêng của mình, hoặc tạo ra trong sự hợp nhất với Thiên Cơ về Vẻ Đẹp của Đại Kiến Trúc Sư Vũ Trụ. Chúng ta tạo ra cho vĩnh cửu khi chúng ta tạo ra cùng với Ngài. Đó là kỹ thuật sáng tạo mà chúng ta phải có được. Kỹ thuật đó không khó đến mức một đứa trẻ không thể học được; mỗi chúng ta, dù đang ở đâu với những lỗi lầm và thiếu sót của mình, đều có thể có được kỹ thuật đó ngay bây giờ. Chỉ một điều là cần thiết, đó là “sự chính trực trong tim và sự vô tội của đôi tay” mà Kinh Thánh nói đến. Mỗi chúng ta phải trở thành “đứa trẻ nhỏ” mà Đức Christ đã nói đến, nếu chúng ta muốn học kỹ thuật của Thượng đế. Và chúng ta học kỹ thuật của Ngài khi chúng ta không đòi hỏi tiền công cho những gì chúng ta làm.

If there is one “original sin “ with which the seed of Adam is cursed, it is our inborn desire for wages. We want recognition of our endeavours, praise for our labour, and a heaven at last for having served God. We dare not be alone with our work; we want the appreciation of our friends, the thanks of the crowd, the smile of God Himself to surround us. Our incentive to further effort comes only as we see the fruits of the harvest we have sown; without the thought of some reward, action does not appeal. Why should I undergo pains and trials to achieve an act, if I do not gain some fruit thereby? That is the gospel of man today, taught to us from our infancy.

Nếu có một “tội tổ tông” mà dòng dõi Adam phải gánh chịu, thì đó là khát vọng bẩm sinh của chúng ta đối với tiền công. Chúng ta muốn được công nhận những nỗ lực của mình, được khen ngợi cho công sức của mình và cuối cùng là một thiên đường vì đã phụng sự Thượng đế. Chúng ta không dám ở một mình với công việc của mình; chúng ta muốn sự đánh giá cao của bạn bè, lời cảm ơn của đám đông, nụ cười của chính Thượng đế bao quanh chúng ta. Động lực để chúng ta nỗ lực hơn nữa chỉ đến khi chúng ta thấy thành quả của vụ mùa mà chúng ta đã gieo; nếu không có ý nghĩ về một phần thưởng nào đó, hành động sẽ không hấp dẫn. Tại sao tôi phải trải qua những đau đớn và thử thách để đạt được một hành động, nếu tôi không đạt được một thành quả nào đó từ đó? Đó là phúc âm của con người ngày nay, được dạy cho chúng ta từ khi còn nhỏ.

But that is the gospel of utter impurity. The fragment of God which is the soul is polluted by all that relates to the separated self, and a reward is only our own separated self returning to us. He who seeks rewards ever finds himself again and again under a thousand guises, but never his ideal. God does not say we must not ask for wages; nay, He gives them when we ask them. But each wage earned is only the face of ourselves coming to us with a new mask. And so a time comes at last when we are utterly sick at the sight of ourselves. Wealth and honours, fame and appreciation, those pleasant things of reward slowly change their welcome faces, and transform themselves into the ugly aspects of our hidden self which we have not dared to reveal to another. In a thousand forms, as we ask for wages and receive them, our separated self shows the Medusa face of horror. “What shall it profit a man if he gain the whole world, and lose his own soul? “ We lose our soul as we ask for wages. The only gospel of life for men who seek to be utterly true and noble is that given by Tennyson in his magnificent poem.

Nhưng đó là phúc âm của sự ô uế hoàn toàn. Mảnh vỡ của Thượng đế vốn là linh hồn bị ô nhiễm bởi tất cả những gì liên quan đến phàm ngã tách biệt, và phần thưởng chỉ là phàm ngã tách biệt của chính chúng ta trở về với chúng ta. Y, kẻ tìm kiếm phần thưởng sẽ luôn tìm thấy chính mình hết lần này đến lần khác dưới hàng ngàn vỏ bọc, nhưng không bao giờ tìm thấy lý tưởng của mình. Thượng đế không nói rằng chúng ta không được đòi hỏi tiền công; không, Ngài ban cho chúng ta khi chúng ta đòi hỏi. Nhưng mỗi đồng lương kiếm được chỉ là khuôn mặt của chính chúng ta đến với chúng ta với một chiếc mặt nạ mới. Và rồi cuối cùng cũng đến lúc chúng ta hoàn toàn chán ghét khi nhìn thấy chính mình. Sự giàu có và danh dự, danh tiếng và sự đánh giá cao, những điều dễ chịu của phần thưởng từ từ thay đổi những khuôn mặt chào đón của chúng, và biến thành những khía cạnh xấu xí của bản ngã ẩn giấu mà chúng ta không dám tiết lộ cho người khác. Trong hàng ngàn hình thức, khi chúng ta đòi hỏi tiền công và nhận được chúng, phàm ngã tách biệt của chúng ta cho thấy khuôn mặt Medusa kinh hoàng. “Người ta có lợi gì nếu được cả thế gian mà mất linh hồn mình?” Chúng ta mất linh hồn khi đòi hỏi tiền công. Phúc âm duy nhất của cuộc sống dành cho những người tìm kiếm sự thật và cao quý tuyệt đối là phúc âm do Tennyson đưa ra trong bài thơ tuyệt vời của Ông.

Wages

“Tiền công”

Glory of warrior, glory of orator, glory of song,

Vinh quang của chiến binh, vinh quang của nhà hùng biện, vinh quang của bài ca,

Paid with a voice flying by to be lost on an endless sea –

Trả bằng một giọng nói bay qua để lạc vào một biển vô tận –

Glory of Virtue, to fight, to struggle, to right the wrong –

Vinh quang của Đức hạnh, để chiến đấu, để đấu tranh, để sửa chữa những sai trái –

Nay, but she aim’d not at glory, no lover of glory she:

Không, nhưng Bà không nhắm đến vinh quang, Bà không phải là người yêu vinh quang:

Give her the glory of going on, and still to be.

Hãy cho Bà vinh quang của việc tiếp tục, và vẫn còn tồn tại.

The wages of sin is death; if the wages of Virtue be dust,

Tiền công của tội lỗi là cái chết; nếu tiền công của Đức hạnh là bụi bặm,

Would she have heart to endure for the life of the worm and the fly?

Liệu Bà có đủ can đảm để chịu đựng cho cuộc sống của sâu và ruồi?

She desires no isles of the blest, no quiet seats of the just,

Bà không mong muốn những hòn đảo của người được ban phước, không có những chỗ ngồi yên tĩnh của người công chính,

To rest in a golden grove, or to bask in a summer sky:

Để nghỉ ngơi trong một khu rừng vàng, hoặc để sưởi ấm dưới bầu trời mùa hè:

Give her the wages of going on, and not to die.

Hãy cho Bà tiền công của việc tiếp tục, chứ không phải chết.

So, as Tennyson saw in his flight of the intuition, it is only he who asks for no wages as he creates he knows the meaning of immortality. If I ask only for the “wages of going on and still to be,” I shall know, as I create in purity, what is immortality. For in a pure act of creation the undivided Universal Self is reflected, and since I am a part of that Self I contemplate my immortality. It is not by going to spiritualistic seances that I shall prove my immortality; not even shall I prove that my friend still lives because I hear his voice there. For the voice and the clasp of the hand are the mortal part of my friend; they will never persist throughout the ages. The immortal part of my friend is that which I see in my high moments of loving him; and to see him so, in his immortal nature, is to know that he dwells as a part of me, indivisible from me. Through love of God, we know we are immortal; through worship of our beloved, we open the gates of that blessed land where he and I eternally dwell.

Vì vậy, như Tennyson đã thấy trong chuyến bay trực giác của mình, chỉ có y, kẻ không đòi hỏi tiền công khi sáng tạo, mới biết ý nghĩa của sự bất tử. Nếu tôi chỉ đòi hỏi “tiền công của việc tiếp tục và vẫn còn tồn tại”, tôi sẽ biết, khi tôi sáng tạo trong sự thanh khiết, sự bất tử là gì. Vì trong một hành động sáng tạo thuần khiết, Bản Ngã Phổ Quát bất phân chia được phản ánh, và vì tôi là một phần của Bản Ngã đó, tôi chiêm ngưỡng sự bất tử của mình. Không phải bằng cách đến các buổi gọi hồn mà tôi sẽ chứng minh sự bất tử của mình; thậm chí tôi cũng không chứng minh rằng bạn tôi vẫn còn sống vì tôi nghe thấy giọng nói của y ở đó. Vì giọng nói và cái nắm tay là phần phàm trần của bạn tôi; chúng sẽ không bao giờ tồn tại qua các thời đại. Phần bất tử của bạn tôi là những gì tôi thấy trong những khoảnh khắc yêu thương y cao cả của mình; và để nhìn thấy y như vậy, trong bản chất bất tử của y, là để biết rằng y ngự như một phần của tôi, không thể phân chia khỏi tôi. Thông qua tình yêu Thượng đế, chúng ta biết chúng ta là bất tử; thông qua sự tôn thờ người yêu dấu của mình, chúng ta mở ra những cánh cổng của vùng đất hạnh phúc đó, nơi y và tôi vĩnh viễn ngự trị.

Just as it is only as I create that I gain the direct and immediate experience of my immortality, so too is it with the discovery of God. Listening to the testimony of others, as given in the Bibles of the world, will never lead the soul to the Divine Vision. God cannot be discovered through intermediaries; we may see His Light reflected in them, but not Himself. The only way to see Him is to search for Him in the recesses of our heart. For He is always there. In our joys He is hidden; He is hidden too in our griefs. And He has a message to His universe through both our joys and griefs.

Cũng giống như chỉ khi tôi sáng tạo, tôi mới có được trải nghiệm trực tiếp và tức thời về sự bất tử của mình, thì cũng như vậy với việc khám phá ra Thượng đế. Lắng nghe lời chứng của người khác, như được trình bày trong Kinh Thánh của thế giới, sẽ không bao giờ dẫn dắt linh hồn đến với Linh Kiến Thiêng Liêng. Không thể khám phá ra Thượng đế thông qua trung gian; chúng ta có thể thấy Ánh Sáng của Ngài phản chiếu trong họ, nhưng không phải chính Ngài. Cách duy nhất để nhìn thấy Ngài là tìm kiếm Ngài trong những ngóc ngách của trái tim chúng ta. Vì Ngài luôn ở đó. Trong niềm vui của chúng ta, Ngài ẩn mình; Ngài cũng ẩn mình trong những nỗi đau của chúng ta. Và Ngài có một thông điệp gửi đến vũ trụ của Ngài thông qua cả niềm vui và nỗi đau của chúng ta.

I must then create out of my ecstasies and my agonies that work of art which reveals His purpose. For though I suffer because I reap the evil sowing of the past, God too suffers through me, and He plans through my pain to reveal to others and to me a little more of His wonderful plan. So consecrating myself to my work of creation, suffering not alone for myself but as for the whole world, blissful not for my delight but that the world may possess something more of joy, I know who and what God is. The names given to Him or to It will have little value for me who have come to where all things vanish except that one Reality.

Vậy thì tôi phải tạo ra từ những ngây ngất và thống khổ của mình tác phẩm nghệ thuật vốn tiết lộ Thiên Ý của Ngài. Vì mặc dù tôi đau khổ vì phải gặt hái những gì xấu xa của quá khứ, Thượng đế cũng đau khổ thông qua tôi, và Ngài lên kế hoạch thông qua nỗi đau của tôi để tiết lộ cho người khác và cho tôi thêm một chút về Thiên Cơ tuyệt vời của Ngài. Vì vậy, khi hiến dâng bản thân cho công việc sáng tạo của mình, không chỉ chịu đựng một mình cho bản thân mà còn cho cả thế giới, hạnh phúc không phải vì niềm vui của tôi mà là để thế giới có thể sở hữu thêm một chút niềm vui, tôi biết Thượng đế là ai và là gì. Những cái tên được đặt cho Ngài hoặc cho Nó sẽ có ít giá trị đối với tôi, người đã đến nơi mọi thứ biến mất ngoại trừ Thực Tại duy nhất đó.

As I create, I shall know God, as did the great composer Handel for a while, as he created the majestic music of his “Messiah “. For, said Handel, describing his sensations as he composed: “I did think I did see all heaven before me, and the great God Himself.” In those moments of creation, when we have so “surpassed” ourselves that we stand almost in awe before our own work, in just those moments does our intuition see visions of God.

Khi tôi sáng tạo, tôi sẽ biết Thượng đế, như nhà soạn nhạc vĩ đại Handel đã biết trong một thời gian, khi Ông sáng tạo ra bản nhạc hùng vĩ “Messiah” của mình. Vì Handel đã nói, khi mô tả cảm giác của mình khi sáng tác: “Tôi đã nghĩ rằng tôi đã nhìn thấy tất cả thiên đàng trước mắt mình, và chính Thượng đế vĩ đại.” Trong những khoảnh khắc sáng tạo đó, khi chúng ta đã “vượt qua” chính mình đến nỗi chúng ta gần như kinh ngạc trước tác phẩm của chính mình, thì chính trong những khoảnh khắc đó, trực giác của chúng ta nhìn thấy những linh kiến về Thượng đế.

Again and again I have used the term “to create “ to describe our true purpose in life. I seem to take for granted that every man has the artistic faculty of creation, and objection may be taken to such an assumption. For how few of us are painters, sculptors, architects, musicians! How can the ordinary man be said to create, when at best he can only learn to appreciate the works of art created by artists? My answer is that “ creation “ is not an act of technique reserved for those alone whom we label “artists “. We must widen the use of the terms “ creation “ and “artist “ in a fuller accord with the facts around us. On one day in early spring we pass a hillside, and see only green leaves; a few days later myriads of flowers are there. The little insignificant plants worked in no studio, and had no master to teach them a technique; but they created, nevertheless, works of art in each flower. Sometimes we call those little craftsmen “weeds,” and yet as they work they show the perfect technique of the artist. What artists are there as perfect as little children, who in their abandon of play, and especially in their rest, pose with exquisite grace? No, every man, woman and child can create some beautiful thing -a thought, an emotion, or a deed – and reveal the hidden artist who seems, to others, to be unaware of the technique of creation.

Tôi đã nhiều lần sử dụng thuật ngữ “sáng tạo” để mô tả mục đích thực sự của chúng ta trong cuộc sống. Tôi dường như mặc nhiên cho rằng mọi người đều có khả năng sáng tạo nghệ thuật, và có thể có sự phản đối đối với giả định như vậy. Vì có bao nhiêu người trong chúng ta là họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ! Làm thế nào có thể nói người bình thường sáng tạo, khi tốt nhất y chỉ có thể học cách đánh giá các tác phẩm nghệ thuật do các nghệ sĩ tạo ra? Câu trả lời của tôi là “sáng tạo” không phải là một hành động kỹ thuật dành riêng cho những người mà chúng ta gọi là “nghệ sĩ”. Chúng ta phải mở rộng việc sử dụng các thuật ngữ “sáng tạo” và “nghệ sĩ” một cách đầy đủ hơn phù hợp với các sự kiện xung quanh chúng ta. Vào một ngày đầu xuân, chúng ta đi ngang qua một sườn đồi và chỉ thấy những chiếc lá xanh; vài ngày sau, vô số hoa xuất hiện ở đó. Những cây nhỏ bé không đáng kể đó không làm việc trong bất kỳ xưởng vẽ nào và không có người thầy nào dạy chúng một kỹ thuật; nhưng chúng vẫn tạo ra những tác phẩm nghệ thuật trong mỗi bông hoa. Đôi khi chúng ta gọi những người thợ thủ công nhỏ bé đó là “cỏ dại”, nhưng khi chúng làm việc, chúng thể hiện kỹ thuật hoàn hảo của người nghệ sĩ. Có những nghệ sĩ nào hoàn hảo như trẻ nhỏ, những người trong sự buông thả vui chơi và đặc biệt là trong sự nghỉ ngơi của chúng, tạo dáng với vẻ duyên dáng tuyệt vời? Không, mọi người nam, nữ và trẻ em đều có thể tạo ra một điều gì đó đẹp đẽ – một ý nghĩ, một cảm xúc hoặc một hành động – và tiết lộ người nghệ sĩ ẩn mình, người dường như, đối với người khác, không nhận thức được kỹ thuật sáng tạo.

For creation is an act whereby, through an event in time, the human creator shows the beauty of the Divine Plan and the unutterable loveliness of Him who made the plan. Everything in life is the crude material on which we work to create the perfect thing; our hopes and dreams, our griefs and despairs, these are the paints on our palette. We need only the moment of inspiration to show us where to stand and paint swiftly the sights and emotions and intuitions awakened in us by what we see. The material for creation – all the colours of the rainbow for the painter, marbles and mallets and chisels for the sculptor, octave after octave of sound for the musician – these are everywhere for the artist. But before he can begin he needs that moment which, as he grasps it, turns out to be the beginning for him of eternity.

Vì sự sáng tạo là một hành động mà qua đó, thông qua một sự kiện trong thời gian, người sáng tạo phàm trần cho thấy vẻ đẹp của Thiên Cơ và vẻ đẹp khôn tả của Đấng đã tạo ra Thiên Cơ. Mọi thứ trong cuộc sống là chất liệu thô mà chúng ta làm việc để tạo ra điều hoàn hảo; hy vọng và ước mơ của chúng ta, đau khổ và tuyệt vọng của chúng ta, đây là những màu sơn trên bảng màu của chúng ta. Chúng ta chỉ cần khoảnh khắc cảm hứng để chỉ cho chúng ta nơi đứng và nhanh chóng vẽ những cảnh tượng, cảm xúc và trực giác được đánh thức trong chúng ta bởi những gì chúng ta thấy. Vật liệu để sáng tạo – tất cả các màu của cầu vồng cho họa sĩ, đá cẩm thạch, vồ và đục cho nhà điêu khắc, hết quãng tám này đến quãng tám khác của âm thanh cho nhạc sĩ – những thứ này ở khắp mọi nơi cho người nghệ sĩ. Nhưng trước khi y có thể bắt đầu, y cần khoảnh khắc đó, khi y nắm bắt được nó, hóa ra là sự khởi đầu cho y của cõi vĩnh hằng.

So too is it with us. Our material is almost illimitable; myriads of thoughts and feelings pulsate through us; hundreds of acts, large and small, issue from us day by day; but in most of them there is no character of creation. For we have not realised that we are artists, and that our true work in life is to create. We must therefore learn the philosophy of creation; our minds must be so serene with certainties that intuitions from a realm higher than the mind can flash to us the signal of the time when creation can begin.

Chúng ta cũng vậy. Vật liệu của chúng ta gần như vô hạn; vô số ý nghĩ và cảm xúc rung động qua chúng ta; hàng trăm hành động, lớn và nhỏ, phát ra từ chúng ta mỗi ngày; nhưng trong hầu hết chúng, không có đặc điểm của sự sáng tạo. Vì chúng ta đã không nhận ra rằng chúng ta là nghệ sĩ và công việc thực sự của chúng ta trong cuộc sống là sáng tạo. Do đó, chúng ta phải học triết lý sáng tạo; thể trí của chúng ta phải thanh thản với những điều chắc chắn đến mức những trực giác từ một cõi cao hơn thể trí có thể lóe lên cho chúng ta tín hiệu về thời điểm có thể bắt đầu sáng tạo.

For this serenity of the mind, which is sure of truth, perhaps the greatest aid found in the world today is a study of Theosophy. For Theosophy proves itself stage by stage; no doubt concerning it but helps to elucidate its truths more fully. Law after law of Nature, as revealed in Theosophy, appears as inevitable and as serene as the laws by which the planets circle round the sun, and the stars circle round greater stars. The vast plan of human perfection which Theosophy reveals brings with it the message that Justice rules the world, and that all is well for every living being, whether plant, or animal or man. The discovery that a boundless Love holds all in its embrace, and that an indescribable Idealism drives all things to transform themselves to become mirrors of the Good, the True and the Beautiful, such a discovery gives that serenity of soul without which we cannot become aware of that moment which expands to eternity. He who is the Theosophist, not with words and professions but with deeds, cannot help creating every moment of his life, after he has become one with his philosophy. For truly was it said in Palestine, that the “Wisdom mightily and sweetly ordereth all things “. To see all things around him as revealing law and harmony, and to transform all things in him into images of the beautiful, such indeed is the life of the Theosophist.

Đối với sự thanh thản của thể trí này, vốn chắc chắn về chân lý, có lẽ sự trợ giúp lớn nhất được tìm thấy trên thế giới ngày nay là nghiên cứu Thông Thiên Học. Vì Thông Thiên Học tự chứng minh từng giai đoạn; không còn nghi ngờ gì về nó mà chỉ giúp làm sáng tỏ những chân lý của nó một cách đầy đủ hơn. Định luật này đến định luật khác của Tự Nhiên, như được tiết lộ trong Thông Thiên Học, xuất hiện tất yếu và thanh thản như các định luật mà các hành tinh xoay quanh mặt trời, và các ngôi sao xoay quanh các ngôi sao lớn hơn. Thiên Cơ bao la về sự hoàn thiện của con người mà Thông Thiên Học tiết lộ mang đến thông điệp rằng Công Lý cai trị thế giới, và mọi thứ đều tốt đẹp cho mọi sinh vật sống, dù là thực vật, động vật hay con người. Việc khám phá ra rằng một Tình Thương vô bờ bến ôm trọn tất cả, và một Chủ Nghĩa Duy Tâm không thể tả xiết thúc đẩy mọi thứ tự biến đổi để trở thành tấm gương phản chiếu của Thiện, Chân và Mỹ, một khám phá như vậy mang lại sự thanh thản trong linh hồn mà nếu không có nó, chúng ta không thể nhận thức được khoảnh khắc mở rộng đến vô tận. Y vốn là nhà Thông Thiên Học, không phải bằng lời nói và tuyên xưng mà bằng hành động, không thể không tạo ra mọi khoảnh khắc trong cuộc đời mình, sau khi y đã trở nên hợp nhất với triết lý của mình. Vì thật vậy, ở Palestine đã nói rằng “Minh triết mạnh mẽ và ngọt ngào sắp xếp mọi thứ”. Để thấy mọi thứ xung quanh y như đang tiết lộ định luật và sự hài hòa, và để biến đổi mọi thứ trong y thành hình ảnh của cái đẹp, quả thật đó là cuộc sống của nhà Thông Thiên Học.

I write these words in that loveliest spot perhaps of all Italy, Taormina. But the last two days sirocco is with us, and mists have come up from the sea and hidden for a whole day both Etna and the sun. Nature has put away her loveliest opal tints of`the sea, and the silent hills have withdrawn themselves behind the mists. Tomorrow, perhaps, sirocco will be gone, and I shall have that vision of Nature which words fail to describe, and whose memory persists as a precious experience. As the sun shines, every blade of grass and every flower will sing a little song of praise; and I shall contact again the legacy of Greece which is still in Taormina, that indescribable feeling that life is a noble thing, a joyous experience, and that in spite of all man’s weakness and sin, he is a descendant of the Gods of Olympus.

Tôi viết những dòng này ở nơi có lẽ là đẹp nhất của toàn nước Ý, Taormina. Nhưng hai ngày qua, gió sirocco ở với chúng ta, và sương mù đã bốc lên từ biển và che khuất cả Etna và mặt trời trong cả một ngày. Thiên nhiên đã cất đi những sắc thái opal đáng yêu nhất của biển cả, và những ngọn đồi tĩnh lặng đã rút lui sau làn sương mù. Có lẽ ngày mai, gió sirocco sẽ tan, và tôi sẽ có được tầm nhìn về Thiên nhiên mà lời nói không thể diễn tả được, và ký ức về nó vẫn tồn tại như một trải nghiệm quý giá. Khi mặt trời chiếu sáng, mọi ngọn cỏ và mọi bông hoa sẽ hát một bài ca ngợi ca; và tôi sẽ lại tiếp xúc với di sản của Hy Lạp vẫn còn ở Taormina, cái cảm giác không thể diễn tả rằng cuộc sống là một điều cao quý, một trải nghiệm vui vẻ, và rằng bất chấp mọi yếu đuối và tội lỗi của con người, y là hậu duệ của Các Vị Thần Olympus.

It is something of this experience of Nature possible at Taormina which comes to the Theosophist about the destiny of humanity, as he understands little by little the great laws of life. As the atmosphere is grey under sirocco, so is humanity as we look at men with their many brutalities uglinesses and sins. But as with the coming of the sun, there is a feeling of praise in the air, so too appears humanity in the light of Theosophy. That blasphemy that God can ever frown on any child of His, can ever condemn to an eternal damnation even a soul who wilfully disobeys Him, is for ever banished from the heart and the mind. Its place is taken by the realisation of a universal salvation decreed by God for all His creatures both great and small. To know clearly, after study of the great religions of the world, that all the religions are but as single words in that divine sentence with which God created and creates still; to see how the Divine Plan requires for its perfection not one culture, of the East or of the West, but all possible cultures; to grasp that every science, however materialistic, every philosophy, however sceptical,every art, however worldly, are all wanted by God in order with their aid to call out His hidden nature in His children; such realisations as to life transform the world for the Theosophist. Look where he will, at earth or heaven or hell, one Divine Plan is there operative; look at whom he will, sinner or saint, Christian or Hindu or Mussalman or Atheist, one work of art is there being done, to shape the imperfect human soul into the image of the Divine Archetype in God’s mind.

Một phần trải nghiệm về Thiên nhiên có thể có ở Taormina đến với nhà Thông Thiên Học về số phận của nhân loại, khi y hiểu dần dần những định luật vĩ đại của cuộc sống. Khi bầu không khí xám xịt dưới gió sirocco, thì nhân loại cũng vậy khi chúng ta nhìn vào con người với nhiều sự tàn bạo, xấu xí và tội lỗi của họ. Nhưng khi mặt trời đến, có một cảm giác ngợi ca trong không khí, thì nhân loại cũng xuất hiện trong ánh sáng của Thông Thiên Học. Sự báng bổ rằng Thượng đế có thể cau mày với bất kỳ người con nào của Ngài, có thể kết án sự nguyền rủa vĩnh cửu ngay cả một linh hồn cố tình không vâng lời Ngài, sẽ mãi mãi bị trục xuất khỏi trái tim và thể trí. Vị trí của nó được thay thế bằng sự nhận ra về một sự cứu rỗi phổ quát do Thượng đế ban hành cho tất cả các tạo vật của Ngài, cả lớn và nhỏ. Để biết rõ ràng, sau khi nghiên cứu các tôn giáo lớn trên thế giới, rằng tất cả các tôn giáo chỉ như những từ đơn lẻ trong câu thiêng liêng mà Thượng đế đã tạo ra và vẫn đang tạo ra; để thấy Thiên Cơ thiêng liêng đòi hỏi sự hoàn hảo của nó không phải một nền văn hóa, của phương Đông hay phương Tây, mà là tất cả các nền văn hóa có thể có; để nắm bắt rằng mọi khoa học, dù duy vật đến đâu, mọi triết lý, dù hoài nghi đến đâu, mọi nghệ thuật, dù trần tục đến đâu, đều được Thượng đế mong muốn để với sự trợ giúp của chúng, khơi dậy bản chất ẩn giấu của Ngài trong những người con của Ngài; những nhận thức như vậy về cuộc sống biến đổi thế giới cho nhà Thông Thiên Học. Nhìn nơi y muốn, ở trái đất hay thiên đàng hay địa ngục, một Thiên Cơ thiêng liêng đang hoạt động ở đó; nhìn vào bất cứ ai y muốn, tội nhân hay thánh nhân, Cơ đốc nhân hay Hindu hay Mussalman hay Người vô thần, một tác phẩm nghệ thuật đang được thực hiện ở đó, để định hình linh hồn con người không hoàn hảo thành hình ảnh của Nguyên Mẫu Thiêng Liêng trong thể trí của Thượng đế.

The wonderful Divine Plan has so organised its work that everyone of us is needed by it with whatsoever gifts we have of creation. Some souls are specially endowed with the faculty of holiness; the Plan wants from them thoughts and feelings of devotion, ecstasies and martyrdoms which testify to the Grace of God. But other souls are more capable of scientific discovery or philosophic inquiry; from them the Plan asks creations of natural laws or systems of philosophy. From artistic souls the Plan asks for poems, statues, symphonies, creations in stone or in sound, fabrics in colour, or rhythmic movements, in which flash the Dance of God. From the myriads of men and women whose great gift is love of wife or husband, child or parent or friend, the Plan asks for deeds of tenderness and bravery, those seemingly trivial incidents of smile and touch of hand which encourage another to go on his way unflinchingly to his goal. To each the Great Plan has given a gift; it asks from each that gift, and till the gift is joyously given the Plan halts of its fulfilment.

Thiên Cơ thiêng liêng tuyệt vời đã tổ chức công việc của nó đến nỗi mỗi người chúng ta đều cần đến nó với bất kỳ món quà sáng tạo nào mà chúng ta có. Một số linh hồn được đặc biệt ban cho khả năng thánh thiện; Thiên Cơ muốn từ họ những tư tưởng và cảm xúc sùng kính, những trạng thái ngây ngất và tử đạo chứng tỏ Ân Sủng của Thượng Đế. Nhưng những linh hồn khác có khả năng khám phá khoa học hoặc tìm tòi triết học hơn; từ họ, Thiên Cơ yêu cầu tạo ra các định luật tự nhiên hoặc các hệ thống triết học. Từ những linh hồn nghệ sĩ, Thiên Cơ yêu cầu những bài thơ, bức tượng, bản giao hưởng, những sáng tạo bằng đá hoặc âm thanh, những tác phẩm bằng màu sắc hoặc những chuyển động nhịp nhàng, trong đó lóe lên Vũ Điệu của Thượng Đế. Từ vô số những người nam và nữ có món quà lớn lao là tình yêu dành cho vợ hoặc chồng, con cái hoặc cha mẹ hoặc bạn bè, Thiên Cơ yêu cầu những hành động dịu dàng và dũng cảm, những sự việc dường như tầm thường về nụ cười và cái chạm tay khuyến khích người khác tiếp tục con đường của mình một cách kiên định đến mục tiêu của mình. Thiên Cơ Vĩ Đại đã ban cho mỗi người một món quà; nó yêu cầu từ mỗi người món quà đó, và cho đến khi món quà được trao đi một cách vui vẻ, Thiên Cơ sẽ dừng lại việc hoàn thành nó.

So Theosophy shows how the whole world and its myriads of activities are supervised by one Divine Lawgiver, and are transformed to beauty by one Supreme Artist. Whether we call that Source of all Life by the terms of God or Eternal Law, whether according to our temperament we turn to that Source as to a Father or as to a Lover, as to an immutable natural Order or as to an abstract principle of Beauty, one fact about Him or It can be discovered by us all. It is that the Plan is clamouring to manifest itself through us, and, if only we will listen, it will speak a thousand gospels of life and light and glory. Within our own heart the Plan is at work, as in the roots and stem of a briar the principle of life is at work fashioning the rose even in the cold wintry autumn days. That is what Dante saw as the mystery of life, and in what he says is for us all a gospel of salvation.

Vì vậy, Thông Thiên Học cho thấy toàn bộ thế giới và vô số hoạt động của nó được giám sát bởi một Đấng Ban Hành Luật Thiêng Liêng, và được biến đổi thành vẻ đẹp bởi một Nghệ Sĩ Tối Thượng. Cho dù chúng ta gọi Nguồn gốc của mọi Sự Sống bằng các thuật ngữ Thượng đế hay Định Luật Vĩnh Cửu, cho dù theo tính khí của chúng ta, chúng ta hướng về Nguồn đó như đối với một Người Cha hoặc như đối với một Người Yêu, như đối với một Trật Tự tự nhiên bất biến hoặc như đối với một nguyên tắc trừu tượng của Cái Đẹp, một sự thật về Ngài hoặc Nó có thể được khám phá bởi tất cả chúng ta. Đó là Thiên Cơ đang kêu gọi biểu hiện thông qua chúng ta, và, nếu chúng ta chịu lắng nghe, nó sẽ nói hàng ngàn phúc âm về sự sống, ánh sáng và vinh quang. Bên trong trái tim của chính chúng ta, Thiên Cơ đang hoạt động, như trong rễ và thân của một cây tầm xuân, nguyên tắc của sự sống đang hoạt động để tạo ra bông hồng ngay cả trong những ngày mùa đông lạnh giá. Đó là những gì Dante đã thấy như là sự huyền bí của cuộc sống, và trong những gì Ông nói là dành cho tất cả chúng ta một phúc âm về sự cứu rỗi.

Io ho veduto tutto il verno prima

Io ho veduto tutto il verno prima

Il prun mostrarsi rigido e feroce;

Il prun mostrarsi rigido e feroce;

Poscia portar la roso in su la cima.

Poscia portar la roso in su la cima.

“I have seen all the winter through the briar show itself hard and forbidding; and then it bore a rose upon its summit.” That rose at the end of the winter is the work of art which the great Plan has hidden away in the recesses of our being. Out of our agonies, we can make a statue of grief which shall show to all the dignity of suffering; after years of starvation, we can create out of our hunger seeds for a harvest of grain which shall feed thousands. Ah, if only during our life’s winter, someone could give us just one glimpse of the rose that will be born in spring! The tragic element in life comes from the fact that, as we aspire to one happiness after another, destiny thwarts us. It is as when the tree puts out little buds to grow into flowers, some wintry blast comes and nips them, and the tree can offer to the world only bare twigs without flowers. Our hopes of self-realisation are continually being pruned by destiny. If only we could be sure that behind destiny there stands an intelligent purpose, which has prepared for us some happiness at the long last.

“Tôi đã thấy suốt mùa đông bụi gai hiện ra cứng rắn và cấm đoán; và sau đó nó mang một bông hồng trên đỉnh của nó.” Bông hồng đó vào cuối mùa đông là tác phẩm nghệ thuật mà Thiên Cơ vĩ đại đã giấu kín trong những ngóc ngách sâu thẳm của bản thể chúng ta. Từ những đau khổ tột cùng của chúng ta, chúng ta có thể tạo ra một bức tượng đau buồn để cho mọi người thấy phẩm giá của sự đau khổ; sau nhiều năm đói khát, chúng ta có thể tạo ra từ những hạt giống đói khát của mình cho một vụ thu hoạch ngũ cốc sẽ nuôi sống hàng ngàn người. Ôi, nếu chỉ trong mùa đông của cuộc đời chúng ta, ai đó có thể cho chúng ta thấy thoáng qua bông hồng sẽ nở vào mùa xuân! Yếu tố bi thảm trong cuộc sống đến từ thực tế là, khi chúng ta khao khát hết hạnh phúc này đến hạnh phúc khác, số phận lại cản trở chúng ta. Nó giống như khi cây đâm chồi non để phát triển thành hoa, một trận gió mùa đông nào đó ập đến và làm héo chúng, và cây chỉ có thể dâng cho thế giới những cành trơ trụi không có hoa. Hy vọng tự hiện thực hóa của chúng ta liên tục bị số phận cắt tỉa. Nếu chúng ta có thể chắc chắn rằng đằng sau số phận có một mục đích thông minh, vốn đã chuẩn bị cho chúng ta một số hạnh phúc vào cuối cùng.

That is just what Theosophy reveals both to the reason and to the intuition. We gain glimpse after glimpse of what we shall become, that far-off wonderful Archetype whose nature is absolute Truth and Beauty and Goodness. What the Deity says to Mephistopheles in Faust is not merely a beautiful thought; it is a supreme fact to the student of the Divine Wisdom.

Đó chính là những gì Thông Thiên Học tiết lộ cho cả lý trí và trực giác. Chúng ta có được hết thoáng nhìn này đến thoáng nhìn khác về những gì chúng ta sẽ trở thành, Nguyên Mẫu tuyệt vời xa xôi đó có bản chất là Chân Lý, Vẻ Đẹp và Thiện Lành tuyệt đối. Những gì Thượng đế nói với Mephistopheles trong Faust không chỉ là một ý nghĩ đẹp; nó là một sự thật tối cao đối với đạo sinh của Minh Triết Thiêng Liêng.

Wenn er mir jetzt auch nur verwirren dient

Wenn er mir jetzt auch nur verwirren dient

So werd’ ich ihn bald in die Klarheit fuhren,

So werd’ ich ihn bald in die Klarheit fuhren,

Weiss doch der Gärtner, wenn das Baümchen grünt,

Weiss doch der Gärtner, wenn das Baümchen grünt,

Dass Blüth und Frucht die kunft’gen Jahre zieren.

Dass Blüth und Frucht die kunft’gen Jahre zieren.

Though still confused his service unto Me,

Though still confused his service unto Me,

I soon shall lead him to a clearer morning.

I soon shall lead him to a clearer morning.

Sees not the gardener, even while he buds his tree,

Sees not the gardener, even while he buds his tree,

Both flower and fruit the future year adorning?

Both flower and fruit the future year adorning?

One element of strength and serenity in the character of the Theosophist comes from the realisation of what he shall become in the future. According to the nature of his inmost being, each soul shall reveal to the world the wonder and majesty of a Divine Archetype. The greatest of statesmen, the wisest of scientists and philosophers, the most perfect among artists, the tenderest among lovers, the most compassionate among saints, these and other perfections which the imagination of poets and dreamers have created for us, are what we shall become in the future. A destiny is awaiting each one of us as Archetype of God revealed to man.

Một yếu tố sức mạnh và thanh thản trong tính cách của nhà Thông Thiên Học đến từ việc nhận ra những gì y sẽ trở thành trong tương lai. Theo bản chất bên trong nhất của mình, mỗi linh hồn sẽ tiết lộ cho thế giới sự kỳ diệu và hùng vĩ của một Nguyên Mẫu Thiêng Liêng. Các chính khách vĩ đại nhất, các nhà khoa học và triết học khôn ngoan nhất, những người hoàn hảo nhất trong số các nghệ sĩ, những người dịu dàng nhất trong số những người yêu nhau, những người từ bi nhất trong số các vị thánh, những điều này và những sự hoàn hảo khác mà trí tưởng tượng của các nhà thơ và những người mơ mộng đã tạo ra cho chúng ta, là những gì chúng ta sẽ trở thành trong tương lai. Một số phận đang chờ đợi mỗi người chúng ta như là Nguyên Mẫu của Thượng đế được tiết lộ cho con người.

I mentioned in the beginning that one of man’s greatest characteristics is his restlessness. He is driven by impulse after impulse, always to seek some other happiness than that which he has known. Every dream which is fulfilled brings in the train of its happiness the need to create another dream. So man, in the long course of his many lives, is driven from one plane of his being into another. At first, as the pure savage, he needs to satisfy only his physical appetites; then at a later stage, he craves a higher happiness, of the emotions, of wealth and fame. These too in turn come to him. For the Law of Karma decrees the equal reaction of every action, and therefore there ensues the realisation of every ambition, of every plan for which the individual has created energy. But as the cultured soul reaps these harvests of happiness which he has planned, there then comes to him that acutest form of dissatisfaction, harder to bear than all others, that spiritual hunger more full of suffering than any other deprivation. That stage is known in India as “Mumukshattva”, the craving for Moksha or Liberation.

Tôi đã đề cập ở phần đầu rằng một trong những đặc điểm lớn nhất của con người là sự bồn chồn của y. Y bị thúc đẩy bởi hết xung động này đến xung động khác, luôn tìm kiếm một hạnh phúc khác với những gì y đã biết. Mọi giấc mơ được hoàn thành đều mang đến nhu cầu tạo ra một giấc mơ khác. Vì vậy, con người, trong quá trình dài của nhiều kiếp sống của mình, bị đẩy từ cõi này sang cõi khác của bản thể mình. Ban đầu, khi còn là người man rợ thuần túy, y chỉ cần thỏa mãn những ham muốn thể xác của mình; sau đó ở giai đoạn sau, y khao khát một hạnh phúc cao hơn, về cảm xúc, về sự giàu có và danh tiếng. Những điều này cũng lần lượt đến với y. Vì Luật Nghiệp Quả quy định sự phản ứng bình đẳng của mọi hành động, và do đó sẽ có sự hiện thực hóa mọi tham vọng, mọi kế hoạch mà cá nhân đã tạo ra năng lượng. Nhưng khi linh hồn có văn hóa gặt hái những vụ mùa hạnh phúc mà y đã lên kế hoạch, thì sau đó đến với y hình thức bất mãn gay gắt nhất đó, khó chịu đựng hơn tất cả những thứ khác, cơn đói tinh thần tràn đầy đau khổ hơn bất kỳ sự tước đoạt nào khác. Giai đoạn đó được gọi ở Ấn Độ là “Mumukshattva”, sự khao khát Moksha hay Giải Thoát.

This high aim of Liberation begins to be slowly achieved when once we are utterly certain that Liberation means creation. When we are ready to learn the lesson, life will teach it to us. Only by creation do we become free. Phidias by creating the Parthenon put his foot on the swift path to Liberation; so did Leonidas as he died at Thermopola?, leaving a name that inspires all nations: so too did Giordano Bruno, whose flaming soul of divine adventurer and, “heroic enthusiast “ inspires so many thousands of Theosophists today. A supreme deed of creation was Christ’s, who laid Himself on the cross of matter and “ was made flesh”, in order that out of His sacrifice a path to heaven might be opened to men. He sacrificed His life, that great thing which the world thinks is the source of all happiness; but he rose again from the dead to be the symbol of all men’s eternity.

Mục tiêu cao cả này của Giải Thoát bắt đầu đạt được một cách chậm rãi khi chúng ta hoàn toàn chắc chắn rằng Giải Thoát có nghĩa là sáng tạo. Khi chúng ta sẵn sàng học bài học này, cuộc sống sẽ dạy cho chúng ta. Chỉ bằng sự sáng tạo, chúng ta mới trở nên tự do. Phidias bằng cách tạo ra đền Parthenon đã đặt chân lên con đường nhanh chóng dẫn đến Giải Thoát; Leonidas cũng vậy khi Ngài hy sinh tại Thermopolae, để lại một cái tên truyền cảm hứng cho tất cả các quốc gia: Giordano Bruno cũng vậy, người có linh hồn rực lửa của nhà thám hiểm thiêng liêng và, “người nhiệt thành anh hùng” truyền cảm hứng cho hàng ngàn nhà Thông Thiên Học ngày nay. Một hành động sáng tạo tối thượng là của Đức Christ, Đấng đã đặt Mình trên thập giá vật chất và “hóa thành nhục thể”, để từ sự hy sinh của Ngài, một con đường lên thiên đàng có thể được mở ra cho nhân loại. Ngài đã hy sinh mạng sống của mình, điều tuyệt vời mà thế giới nghĩ là nguồn gốc của mọi hạnh phúc; nhưng Ngài đã sống lại từ cõi chết để trở thành biểu tượng cho sự vĩnh cửu của tất cả mọi người.

So too is it always with us. “Only where there are graves there are resurrections”. Yet such death is no more an agony than it is for an artist when he is about to create a great work of art. Before the artist can create he must die daily in his artistic life; daily he must turn his back on this creation which he thought was perfect and on that which seemed really to reflect his dream. But such a death the artist voluntarily accepts, for he is certain that at last he will create a great thing. So too must we be certain, as life asks of us one renunciation after another. To be certain, that is our greatest need.

Chúng ta cũng luôn như vậy. “Chỉ nơi nào có mồ mả thì mới có sự phục sinh”. Tuy nhiên, cái chết như vậy không đau đớn hơn đối với một nghệ sĩ khi y chuẩn bị tạo ra một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại. Trước khi người nghệ sĩ có thể sáng tạo, y phải chết hàng ngày trong cuộc sống nghệ thuật của mình; hàng ngày y phải quay lưng lại với sự sáng tạo mà y nghĩ là hoàn hảo và với những gì dường như thực sự phản ánh giấc mơ của y. Nhưng một cái chết như vậy người nghệ sĩ tự nguyện chấp nhận, vì y chắc chắn rằng cuối cùng y sẽ tạo ra một điều gì đó vĩ đại. Chúng ta cũng phải chắc chắn như vậy, khi cuộc sống đòi hỏi chúng ta hết lần này đến lần khác sự từ bỏ. Chắc chắn, đó là nhu cầu lớn nhất của chúng ta.

Where shall we find that philosophy of life which will make us certain about everything? “Seek and ye shall find,” says the ancient maxim. But some of us have not yet found, though we have sought long. If that is the case, it is only because we have knocked, but not at the right door. Perhaps we have asked only with the mind, clamouring to understand; or only with the emotions, hungering for peace. That is not a real asking. The only form of asking which counts in the spiritual realm is to ask with an offering. Ask of life only fuller opportunities to give of yourself in some creation, and you will be always answered.

Chúng ta sẽ tìm thấy triết lý sống nào khiến chúng ta chắc chắn về mọi thứ? “Tìm kiếm rồi các ngươi sẽ thấy,” câu châm ngôn cổ xưa nói. Nhưng một số người trong chúng ta vẫn chưa tìm thấy, mặc dù chúng ta đã tìm kiếm từ lâu. Nếu đó là trường hợp, thì chỉ vì chúng ta đã gõ cửa, nhưng không phải đúng cửa. Có lẽ chúng ta chỉ hỏi bằng thể trí, đòi hỏi phải thấu hiểu; hoặc chỉ bằng cảm xúc, khao khát bình yên. Đó không phải là một yêu cầu thực sự. Hình thức duy nhất của yêu cầu có giá trị trong cõi tinh thần là yêu cầu bằng một sự hiến dâng. Chỉ yêu cầu cuộc sống những cơ hội đầy đủ hơn để cho đi bản thân trong một số sáng tạo, và bạn sẽ luôn được đáp lại.

Once more, where is the philosophy we need? Each will find it in some aspect of Theosophy, whatever name will be borne by the philosophy which he accepts at last. I as one Theosophist cannot prove to you the truth of Theosophy. Each must find the proof for himself. But I can show you the beauty of Theosophy. That is what I am trying to do now.

Một lần nữa, triết lý chúng ta cần ở đâu? Mỗi người sẽ tìm thấy nó trong một khía cạnh nào đó của Thông Thiên Học, bất kể tên nào sẽ được triết lý mà y chấp nhận cuối cùng mang. Tôi với tư cách là một nhà Thông Thiên Học không thể chứng minh cho bạn sự thật của Thông Thiên Học. Mỗi người phải tự tìm bằng chứng cho chính mình. Nhưng tôi có thể cho bạn thấy vẻ đẹp của Thông Thiên Học. Đó là những gì tôi đang cố gắng làm bây giờ.

Consider the beauty of three great truths which summarise its teachings as to man and Nature and God. Long ago in ancient Egypt, the Adept Teachers taught their disciples these three truths of Theosophy:

Hãy xem xét vẻ đẹp của ba chân lý vĩ đại tóm tắt những lời dạy của nó về con người và Thiên Nhiên và Thượng đế. Từ lâu ở Ai Cập cổ đại, Các Huấn Sư Chân sư đã dạy cho đệ tử của họ ba chân lý này của Thông Thiên Học:

1. The soul of man is immortal and its future is the future of a thing whose growth and splendour have no limit.

1. Linh hồn của con người là bất tử và tương lai của nó là tương lai của một thứ mà sự tăng trưởng và vẻ huy hoàng không có giới hạn.

2. The principle which gives life dwells in us, and without us, is undying and eternally beneficent, is not heard or seen or smelt, but is perceived by the man who desires perception.

2. Nguyên lý ban sự sống ngự trong chúng ta, và ngoài chúng ta, là bất diệt và vĩnh viễn nhân từ, không nghe thấy, không nhìn thấy hay ngửi thấy, nhưng được người khao khát nhận thức nhận ra.

3. Each man is his own absolute lawgiver, the dispenser of glory or gloom to himself, the decreer of his life, his reward, his punishment.

3. Mỗi người là người ban luật tuyệt đối của chính mình, người phân phát vinh quang hay u ám cho chính mình, người ra lệnh cho cuộc đời mình, phần thưởng của mình, sự trừng phạt của mình.

By applying these three truths to his life each man can become the master of his destiny. He can find peace within himself, in spite of all storms of passion and doubt; he can find strength within himself, in spite of the memories of past failures; he can find light within himself, in spite of the darkness which surrounds him. For man is himself the Way, the Truth and the Life. But he discovers that great mystery only as he takes himself in hand and, turning back on all asking, trains himself to create and to give.

Bằng cách áp dụng ba chân lý này vào cuộc sống của mình, mỗi người có thể trở thành chủ nhân của số phận của mình. Y có thể tìm thấy sự bình yên trong chính mình, bất chấp mọi giông bão của đam mê và nghi ngờ; y có thể tìm thấy sức mạnh trong chính mình, bất chấp những ký ức về những thất bại trong quá khứ; y có thể tìm thấy ánh sáng trong chính mình, bất chấp bóng tối bao quanh y. Vì con người tự là Con Đường, Chân Lý và Sự Sống. Nhưng y khám phá ra bí ẩn vĩ đại đó chỉ khi y tự mình hành động và, quay lưng lại với mọi yêu cầu, tự rèn luyện mình để sáng tạo và cho đi.

It is not a small discovery to know that, if God created the universe, that power of His to create resides in us too; that, if God is Peace and Eternal Rest, in us is the peace and happiness of every heaven. To know, not superficially but with deepest unshakable conviction, that every noble dream of ours shall be fulfilled at last, is to release in ourselves wisdom and strength and beauty. It is that knowledge which the Ancient Wisdom gives to all who seek her.

Không phải là một khám phá nhỏ khi biết rằng, nếu Thượng đế tạo ra vũ trụ, thì sức mạnh sáng tạo đó của Ngài cũng ngự trong chúng ta; rằng, nếu Thượng đế là Bình Yên và An Nghỉ Vĩnh Hằng, thì trong chúng ta là sự bình yên và hạnh phúc của mọi thiên đàng. Để biết, không phải hời hợt mà với niềm tin sâu sắc nhất không thể lay chuyển, rằng mọi giấc mơ cao quý của chúng ta cuối cùng sẽ thành hiện thực, là để giải phóng trong chính chúng ta sự minh triết và sức mạnh và vẻ đẹp. Đó là kiến thức mà Minh Triết Ngàn Đời ban cho tất cả những ai tìm kiếm Bà.

It is that knowledge which evokes in the Theosophist the sense of victory. For one word better describes Theosophy than long explanations, and that word is Victory. He who lives according to Theosophy feels triumphant always, though his destiny may still give him suffering. We who have tried to live Theosophy have found even already something of the peace and joy of victory. We would share our joy with the whole world; that is why we are members of the Theosophical Society, and work in all lands to make Theosophy the supreme Gospel of life.

Đó là kiến thức khơi gợi trong nhà Thông Thiên Học ý thức chiến thắng. Vì một từ mô tả Thông Thiên Học tốt hơn những lời giải thích dài dòng, và từ đó là Chiến Thắng. Người sống theo Thông Thiên Học luôn cảm thấy chiến thắng, mặc dù số phận của y vẫn có thể mang lại cho y đau khổ. Chúng ta, những người đã cố gắng sống theo Thông Thiên Học, thậm chí đã tìm thấy một phần nào đó sự bình yên và niềm vui của chiến thắng. Chúng ta muốn chia sẻ niềm vui của mình với toàn thế giới; đó là lý do tại sao chúng ta là thành viên của Hội Thông Thiên Học, và làm việc trên khắp các vùng đất để biến Thông Thiên Học thành Phúc Âm tối thượng của cuộc sống.

Scroll to Top