The Inner Life I – Chương 2—NGÔI LỜI

SECOND SECTION—PHẦN THỨ HAI

THE LOGOS—NGÔI LỜI

WE have in the LOGOS of our solar system as near an approach to a personal (or rather, perhaps, individual) God as any reasonable man can desire, for of Him is true everything good that has ever been predicated of a personal deity. We cannot ascribe to Him partiality, injustice, jealousy, cruelty; those who desire these attributes in their deity must go elsewhere. But so far as His system is concerned He possesses omniscience, omnipresence, omnipotence; the love, the power, the wisdom, the glory, all are there in fullest measure. Yet He is a mighty Individual—a trinity in unity, and God in very truth, though removed by we know not how many stages from the Absolute, the Unknowable before which even solar systems are but as specks of cosmic dust. I do not think that we can image Him at all. The sun is His chief manifestation on the physical plane, and that may help us a little to realize some of His qualities, and to see how everything comes from Him. The sun may be considered as a sort of force-centre in Him, corresponding to the heart of man, the outer manifestation of the principal centre in His body.

CHÚNG ta có nơi Thái dương Thượng đế của hệ mặt trời chúng ta một sự tiếp cận gần với một Thượng đế cá vị (hay đúng hơn, có tính cá thể) như bất kỳ người nào sáng suốt có thể mong muốn, bởi vì nơi Ngài, mọi điều thiện hảo từng được quy cho một thần linh cá vị đều là chân thực. Chúng ta không thể gán cho Ngài sự thiên vị, bất công, ghen tuông, tàn bạo; ai muốn thấy những thuộc tính ấy nơi vị thần của mình thì phải tìm ở nơi khác. Nhưng trong phạm vi hệ thống của Ngài, Ngài sở hữu toàn tri, hiện diện khắp nơi, toàn năng; tình thương, quyền năng, minh triết, vinh quang—tất cả đều có mặt nơi Ngài trong mức viên mãn nhất. Tuy thế, Ngài là một Cá Thể hùng vĩ—một Tam Vị trong Hợp nhất, và là Thượng đế đích thực, dẫu Ngài cách xa, không biết là bao nhiêu bậc, so với Tuyệt Đối, Đấng Bất Khả Tri mà trước mặt Ngài, ngay cả các hệ mặt trời cũng chỉ như hạt bụi vũ trụ. Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể tưởng tượng nổi về Ngài. Mặt trời là biểu lộ chủ yếu của Ngài trên cõi hồng trần, và điều ấy có thể giúp chúng ta phần nào hình dung vài phẩm tính của Ngài, và thấy mọi sự đều xuất phát từ Ngài. Có thể xem mặt trời như một trung tâm lực nơi Ngài, tương ứng với trái tim nơi con người, tức biểu lộ ra bên ngoài của trung tâm chủ yếu trong Thể Ngài.

Although the whole solar system is His physical body, yet His activities outside of it are enormously greater than those within it. I have myself preferred not even to try to make any image of Him, but simply to contemplate Him as pervading all things, so that even I myself am also He, so that all other men too are He, and in truth there is nothing but God. Yet at the same time, although this that we can see is a manifestation of Him, this solar system that seems so stupendous to us is to Him but a little thing, for, though He is all this, yet outside it and above it all He exists in a glory and a splendour of which we know nothing as yet. Thus though we agree with the pantheist that all is God, we yet go very much further than he does, because we realize that He has a far greater existence above and beyond His universe. “Having pervaded this whole universe with one fragment of Myself, I remain. (Bhagavad Gita, x.)

Dầu toàn thể hệ mặt trời là thể xác của Ngài, thì các hoạt động của Ngài ở bên ngoài nó vẫn lớn lao vô lượng lần so với các hoạt động bên trong. Về phần tôi, tôi còn không muốn cố tạo ra bất kỳ hình ảnh nào về Ngài; tôi chỉ chiêm ngưỡng Ngài như thấm nhuần tất cả, đến nỗi ngay cả chính tôi cũng là Ngài, mọi người khác cũng là Ngài, và thật sự chẳng có gì ngoài Thượng đế. Tuy vậy, mặc dù cái chúng ta thấy là một biểu hiện của Ngài, thì hệ mặt trời này—vốn dường như vô cùng đồ sộ đối với chúng ta—đối với Ngài chỉ là một điều nhỏ bé, bởi vì dẫu Ngài là tất cả những điều ấy, Ngài vẫn tồn tại bên ngoài và vượt lên trên tất cả, trong một quang huy và huy hoàng mà hiện thời chúng ta chưa biết gì. Như thế, dẫu chúng ta đồng ý với nhà phiếm thần luận rằng “mọi sự là Thượng đế”, chúng ta vẫn đi xa hơn ông rất nhiều, bởi chúng ta nhận ra rằng Ngài còn có một hiện hữu lớn lao hơn nữa ở bên trên và vượt ngoài vũ trụ của Ngài. “Sau khi thấm nhuần toàn vũ trụ này chỉ bằng một mảnh của Ta, Ta vẫn tồn tại.” ( Bhagavad Gita, x.)

I do not think that we can find any form of words that will at all express the method of our union with Him. We may in one sense be cells in his Body, but we are certainly very much more than that, for His life and power are manifested through us in a way which is out of all proportion to any such manifestation of our spiritual life as could be supposed to be given through the cells of our bodies. In His manifestation on the lowest cosmic plane we may take it that His first aspect is on the highest level, the second on that below it, and the third in the higher part of the nirvanic plane, so that when an adept gradually raises his consciousness plane by plane as he developes, he comes first to the third aspect and realizes his unity with that moving on only after long intervals to full union with the second and the first.

Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể tìm ra hình thức ngôn từ nào đủ để diễn đạt phương cách chúng ta hợp nhất với Ngài. Xét theo một nghĩa, chúng ta có thể là những tế bào trong Thân Ngài, nhưng chắc chắn chúng ta còn hơn thế rất nhiều, vì sự sống và quyền năng của Ngài biểu lộ qua chúng ta theo một cách hoàn toàn vượt mức so với bất kỳ biểu lộ nào của sự sống tinh thần nơi chúng ta có thể được cho là truyền qua tế bào thân xác. Trong sự biểu hiện của Ngài trên cõi vũ trụ thấp nhất, ta có thể xem Phương diện thứ nhất của Ngài ở mức cao nhất, Phương diện thứ hai ở mức ngay dưới đó, và Phương diện thứ ba ở phần cao của cõi Niết Bàn; do đó khi một chân sư lần lượt nâng tâm thức của mình lên từng cõi khi vị ấy phát triển, vị ấy trước hết đạt đến Phương diện thứ ba và nhận ra sự hợp nhất của mình với Phương diện ấy, rồi chỉ sau những khoảng dài mới tiến đến hợp nhất trọn vẹn với Phương diện thứ hai và thứ nhất.

I myself who speak to you have once seen Him in a form which is not the form of His system. This is something which utterly transcends all ordinary experience, which has nothing to do with any of the lower planes. The thing became possible for me only through a very daring experiment—the utter blending for a moment of two distinct rays or types, so that by means of this blending a level could for a moment be touched enormously higher than any to which either of the egos concerned could have attained alone. He exists far above His system; He sits upon it as on a lotus throne. He is as it were the apotheosis of humanity, yet infinitely greater than humanity. We might think of the Augoeides carried up higher and higher, and to infinity. I do not know whether that form is permanent or whether it can be seen at a certain level only—who shall say? But that this thing is a tremendous reality—that I know; and, once seen, such a manifestation can never be forgotten.

Bản thân tôi—người đang nói với quý vị—đã từng một lần thấy Ngài trong một hình tướng không phải là hình tướng của hệ thống Ngài. Đó là điều hoàn toàn vượt khỏi mọi kinh nghiệm thông thường, chẳng liên can gì đến các cõi thấp. Việc ấy chỉ trở nên khả hữu với tôi qua một thực nghiệm táo bạo—sự dung hợp trọn vẹn trong chốc lát của hai cung hay loại tính khác biệt, để nhờ sự dung hợp ấy, có thể chạm đến trong tích tắc một mức độ cao hơn vô cùng so với bất cứ mức nào mà riêng mỗi chân ngã trong hai bên có thể tự mình đạt đến. Ngài hiện hữu ở rất cao trên hệ thống của Ngài; Ngài ngự trên nó như trên một tòa sen. Ngài là, như thể nói, sự thăng hoa tột đỉnh của nhân loại, song vẫn vô lượng vượt quá nhân loại. Ta có thể nghĩ đến Thái dương Thiên Thần được đưa lên cao mãi, và đến vô tận. Tôi không biết hình tướng ấy có thường hằng hay chỉ có thể thấy ở một mức nào đó—ai mà dám quyết? Nhưng rằng điều ấy là một hiện thực hùng vĩ—điều đó tôi biết; và một khi đã thấy, một biểu lộ như thế không bao giờ có thể bị lãng quên.

One little touch of higher experience I may mention, though it is one which is exceedingly difficult to describe adequately. When a man raises his consciousness to the highest subdivision of his casual body, and focuses it exclusively in the atomic matter of the mental plane, he has before him three possibilities of moving that consciousness, which correspond to some extent with the three dimensions of space. Obviously a way is open to him to move it downwards into the second subplane of the mental, or upward into the lowest subplane of the buddhic, if he has developed that sufficiently to be able to utilize it as vehicle.

Tôi có thể nhắc đến một chạm nhẹ của kinh nghiệm cao hơn, dẫu nó cực kỳ khó mô tả cho đầy đủ. Khi một người nâng tâm thức của mình lên phân phân cao nhất của thể nguyên nhân và tập trung nó hoàn toàn vào chất nguyên tử của cõi trí, y có trước mặt ba khả năng chuyển động tâm thức ấy, phần nào tương ứng với ba chiều của không gian. Rõ ràng có một lối mở cho y đi xuống phân cõi thứ hai của cõi trí, hoặc đi lên phân cõi thấp nhất của cõi Bồ đề, nếu y đã phát triển đủ để sử dụng cõi ấy như vận cụ.

A second line of movement open to him is the short cut which exists from the atomic subdivision of one plane to the corresponding atomic subdivisions of the planes above and below, so that without touching any intermediate sub-plane the consciousness may pass from that atomic mental downwards to the atomic astral or upwards to the atomic buddhic, again of course supposing the development of this latter to be already achieved. In order to image to oneself this short cut, one may think of the atomic subplanes as being side by side along a rod, the other sub-divisions of each plane hanging from the rod in loops, as though a piece of string were wound loosely round the rod. Obviously then to pass from one atomic sub-division to another one could move by the short cut straight along the rod, or down and up again through the hanging loop of string which symbolizes the lower sub-planes. But there is yet a third possibility—a possibility not so much yet of movement along another line at right angles to both of these others, but rather a possibility of looking up such a line—looking up as a man at the bottom of a well might look up at a star in the sky above him.

Một đường chuyển động thứ hai mở cho y là con đường tắt tồn tại giữa phân phân nguyên tử của một cõi với các phân phân nguyên tử tương ứng của các cõi ở trên và ở dưới, sao cho không cần chạm đến bất kỳ phân cõi trung gian nào, tâm thức có thể đi từ nguyên tử trí xuống nguyên tử cảm dục hoặc lên nguyên tử Bồ đề—dĩ nhiên giả định rằng sự phát triển của cõi sau này đã đạt được. Để hình dung con đường tắt này, người ta có thể nghĩ đến các phân phân nguyên tử như nằm kề nhau dọc theo một thanh trục, còn các phân phân khác của mỗi cõi thì buông thõng từ thanh trục ấy thành những vòng lủng lẳng, như thể một sợi dây được quấn lỏng quanh thanh trục. Rõ ràng để đi từ một phân phân nguyên tử này sang một phân phân nguyên tử khác, ta có thể đi tắt thẳng dọc theo thanh trục, hoặc đi vòng xuống rồi lại lên qua vòng dây buông thõng tượng trưng cho các phân cõi hạ. Nhưng còn một khả năng thứ ba—không hẳn là chuyển động dọc theo một tuyến nữa, vuông góc với cả hai tuyến kia, mà đúng hơn là một khả năng ngước nhìn dọc theo một tuyến như thế—ngước nhìn như người ở đáy giếng ngước nhìn một ngôi sao trên trời.

For there is a direct line of communication between the atomic sub-plane of the mental in this lowest cosmic plane and the corresponding atomic mental in the cosmic plane. We are infinitely far as yet from being able to climb upwards by that line, but once at least the experience came of being able to look up it for a moment. What is seen then it is hopeless to try to describe, for no human words can give the least idea of it; but at least this much emerges, with a certitude that can never be shaken, that what we have hitherto supposed to be our consciousness, our intellect, is simply not ours at all, but His; not even a reflection of His, but literally and truly a part of His consciousness, a part of His intellect. Incomprehensible, yet literally true! It is a commonplace of our meditation to say, “I am that Self; that self am I,” but to see it, to know it, to feel it, to realize it in this way, is something very different from that verbal recitation.

Bởi vì có một đường liên lạc trực tiếp giữa phân phân nguyên tử của cõi trí thuộc cõi vũ trụ thấp nhất này và phân phân trí nguyên tử tương ứng ở Cõi Vũ trụ cao hơn. Chúng ta hiện còn ở cách vô cùng xa khả năng leo lên theo tuyến ấy, nhưng đã có ít nhất một lần kinh nghiệm về việc có thể ngước nhìn theo tuyến đó trong chốc lát. Những gì được thấy khi ấy thì bất khả mô tả—không một ngôn từ nào của con người có thể gợi được chút ý niệm; nhưng chí ít điều này hiện lộ, với một xác tín không gì lay chuyển được: cái mà bấy lâu nay chúng ta tưởng là tâm thức của chúng ta, trí tuệ của chúng ta, thực ra tuyệt nhiên không phải của chúng ta, mà là của Ngài; thậm chí không phải chỉ là phản ảnh của Ngài, mà đúng theo văn nghĩa và theo chân lý, là một phần tâm thức của Ngài, một phần trí tuệ của Ngài. Bất khả tư nghị, mà lại đúng theo văn nghĩa! Trong tham thiền, chúng ta thường nói: “Ta là Tự Ngã ấy; Tự Ngã ấy là ta”, nhưng thấy nó, biết nó, cảm nó, hiện chứng nó theo cách này, là điều rất khác với sự tụng đọc bằng miệng.

From Him comes forth all life in the successive outpourings which are described in our books—the first outpouring from His third aspect, which gives to previously existing atoms the power to aggregate themselves into the chemical elements—the action which is described in the Christian Scriptures as the spirit of God moving over the waters of space. When, at a later stage, the kingdoms of nature are definitely established, there comes the second outpouring, from His second aspect, which forms group-souls for the minerals, the plants, the animals, and this is the descent of the Christ principle into matter, which alone renders possible our very existence. But when we think of the human kingdom we remember that the ego itself is a manifestation of the third outpouring which comes from His first aspect, the eternal and all-loving Father.

Từ Ngài, mọi sự sống tuôn ra qua những lần tuôn đổ liên tiếp, như được mô tả trong các sách của chúng ta—lần tuôn đổ thứ nhất từ Phương diện thứ ba của Ngài, ban cho các nguyên tử vốn đã hiện hữu quyền năng kết tụ thành các nguyên tố hóa học—hành động mà Kinh Thánh Cơ Đốc miêu tả là Thần của Thượng đế di động trên mặt nước của không gian. Khi, ở một giai đoạn muộn hơn, các giới của thiên nhiên được thiết lập rõ rệt, có lần tuôn đổ thứ hai, đến từ Phương diện thứ hai của Ngài, tạo nên các Hồn nhóm cho khoáng vật, thực vật, thú vật; và đó là sự giáng lâm của nguyên lý Christ vào trong vật chất, điều duy nhất làm cho sự tồn tại của chính chúng ta trở nên khả hữu. Nhưng khi nghĩ về giới nhân loại, chúng ta nhớ rằng chân ngã tự thân là một biểu hiện của lần tuôn đổ thứ ba, đến từ Phương diện thứ nhất của Ngài—Đức Cha vĩnh cửu và toàn ái.

Every fixed star is a sun like our own, and each one is a partial expression of a LOGOS.

Mỗi ngôi sao cố định là một mặt trời như mặt trời của chúng ta, và mỗi ngôi như thế là một biểu hiện bộ phận của một Ngôi Lời.

BUDDHISM— ĐẠO PHẬT

PHẬT GIÁO— ĐẠO PHẬT

In thinking of the Lord BUDDHA we must not forget that He is very much more than merely the founder of a religion. He is a great official of the Occult Hierarchy, the greatest of all save one, and the founder in previous incarnations of many religions before this one which now bears His title. For He was the Vyasa who has done so much for the Indian religion; He was Hermes, the great founder of the Egyptian mysteries; He was the original Zoroaster, from whom came the sun and fire worship; and he was also Orpheus, the great bard of the Greeks.

Khi nghĩ về Đức PHẬT, chúng ta chớ quên rằng Ngài hơn xa việc chỉ là vị sáng lập một tôn giáo. Ngài là một vị chức sự vĩ đại của Thánh Đoàn Huyền Bí, vĩ đại nhất ngoại trừ một Đấng, và trong những lần lâm phàm trước đây, Ngài đã sáng lập nhiều tôn giáo trước tôn giáo hiện nay mang danh xưng của Ngài. Bởi Ngài chính là Vyasa, người đã làm rất nhiều cho tôn giáo Ấn Độ; Ngài là Hermes, vị khai sáng vĩ đại của các bí nhiệm Ai Cập; Ngài là Zoroaster nguyên thủy, từ đó nảy sinh sự thờ mặt trời và lửa; và Ngài cũng là Orpheus, đại thi bá của người Hy Lạp.

In this last of His many births, when He came as the Lord Gautama, it does not appear that He had originally any intention of founding a new religion. He appeared simply as a reformer of Hinduism—a faith which was already of hoary antiquity, and had therefore departed much from its original form, as all religions have. It had become hardened in many ways, and appears to have been very far less elastic even than it is now. Even now we all know how strictly drawn are the lines between the castes, what an iron rigidity there is as to forms and ceremonies. We know that even now no man can be converted to Hinduism; the only way to enter that faith is to be born into it.

Trong lần lâm phàm cuối cùng này của vô số hóa thân, khi Ngài đến với tư cách Đức Gautama, có vẻ như ban đầu Ngài không hề có ý định lập ra một tôn giáo mới. Ngài xuất hiện đơn thuần như một nhà cải chánh Ấn giáo—một tín ngưỡng vốn đã cổ xưa rêu phong, và vì thế, như mọi tôn giáo khác, đã rời xa nhiều so với hình thức nguyên thủy. Nó đã trở nên chai cứng theo nhiều cách, và hình như còn kém linh hoạt hơn cả hiện nay. Ngay cả bây giờ, tất cả chúng ta đều biết các ranh giới giữa đẳng cấp được vạch rất nghiêm, và có một sự cứng nhắc sắt đá về hình thức cùng nghi lễ. Chúng ta biết rằng ngay đến nay cũng không ai có thể cải sang Ấn giáo; con đường duy nhất để đi vào tín ngưỡng ấy là sinh ra trong đó.

Imagine a condition in which all this was even far more rigid, in which the feeling was much more intense, in which all the ideas of life had been very much changed from what they were in the days of the original Aryan immigrants, when it was a religion full of joy, and holding out hope for everybody. A little before the time of the Buddha the general opinion seems to have been that practically no one but a brahman had any chance of salvation at all. Now as the number of the brahmans was always small, and even now is only something like thirteen millions out of the three hundred million inhabitants of India, it was clearly not a very hopeful religion for the majority of the people, since it indicated to them that they had to work on through very many lives, until they could earn admission into the small and exclusive brahman caste, before they could possibly escape from the wheel of birth and death.

Hãy hình dung một tình trạng mà trong đó tất cả điều ấy còn cứng nhắc hơn nhiều, cảm thức còn mãnh liệt hơn nhiều, mọi quan niệm về đời sống đã biến đổi rất nhiều so với thời các di dân Arya nguyên thủy, khi Ấn giáo còn là một tôn giáo tràn đầy hoan lạc và mở rộng hy vọng cho mọi người. Gần trước thời Đức Phật, ý kiến chung dường như là hầu như không ai, ngoài một brāhman, có cơ may giải thoát. Nay vì số người brāhman luôn luôn ít—ngay cả bây giờ cũng chỉ chừng mười ba triệu trong tổng số ba trăm triệu dân Ấn Độ—nên hiển nhiên đó không phải là một tôn giáo đầy hy vọng cho đa số dân chúng, bởi nó cho họ biết rằng họ phải làm việc qua rất nhiều kiếp sống, cho đến khi có thể xứng đáng được thu nhận vào đẳng cấp brāhman nhỏ bé và biệt lập, trước khi họ có thể thoát khỏi bánh xe sinh tử.

Then came Lord BUDDHA, and by His teaching flung open wide the gates of the sweet law of justice, for He taught that men had departed entirely from the old form of religion. He repeatedly asserted that a man who, though born a brahman, did not live the life which a brahman should, was neither worthy of respect nor in the way of salvation, and that a man of any other caste who did live the true brahman life, should be treated as a brahman, and had in every way the same possibilities before him as though he had been born into the sacred caste.

Rồi Đức PHẬT xuất hiện, và bằng giáo huấn của Ngài, Ngài mở rộng cánh cổng của luật công bình êm dịu, vì Ngài dạy rằng loài người đã hoàn toàn rời bỏ hình thức tôn giáo xưa. Ngài nhiều lần khẳng định rằng một người, dẫu sinh ra là brāhman mà không sống đời sống xứng với một brāhman, thì chẳng đáng tôn kính cũng chẳng ở trên đường cứu rỗi; và rằng một người thuộc bất kỳ đẳng cấp nào khác nhưng sống đúng đời sống brāhman chân chính thì nên được đối đãi như một brāhman, và ở mọi phương diện đều có trước mắt mình những khả năng như nhau hệt như thể y đã sinh vào đẳng cấp thiêng liêng.

Naturally enough in the face of teachings which placed all hope of final salvation so indefinitely far away in the future, the ordinary man of the world had become hopeless and consequently careless; on the other hand, the austerity of the brahman, who spent the whole of his life in ceremonies and in meditation, was not to their taste, and indeed was obviously impossible for them. But the BUDDHA preached to them what He called the middle way; He told them that although the life of austerity and of entire devotion to religion was not for them, there was no reason why, because of that, they should relapse into carelessness and evil living. He showed them that a higher life is possible for the man still in the world, and that, though they might not be able to devote themselves to metaphysics and to hairsplitting arguments, they could still obtain sufficient grasp of the great facts of evolution to form a satisfactory guide to them in their lives.

Dĩ nhiên, đối diện với những giáo lý đặt mọi hy vọng cứu rỗi cuối cùng vào một tương lai mù mịt xa xăm, người thường trong đời đã trở nên tuyệt vọng và vì vậy hóa ra buông thả; còn lối sống khắc kỷ của brāhman, người dành trọn đời mình cho nghi lễ và tham thiền, thì không hợp với họ, và thực sự là bất khả thi đối với họ. Nhưng Đức PHẬT đã thuyết điều Ngài gọi là con đường trung đạo; Ngài bảo rằng tuy đời sống khổ hạnh và hiến mình trọn vẹn cho tôn giáo không dành cho họ, song không có lý do gì để vì thế mà họ sa ngã vào sự cẩu thả và ác hạnh. Ngài chỉ cho họ thấy rằng một đời sống cao hơn vẫn khả hữu cho người còn ở giữa đời; và rằng tuy họ có thể không thể dành trọn mình cho siêu hình học và những tranh biện rắc rối, họ vẫn có thể nắm đủ những sự kiện lớn lao của tiến hóa để tạo thành một kim chỉ nam thỏa đáng cho đời sống của mình.

He declared that extremes in either direction are equally irrational; that on the one hand the life of the ordinary man of the world, wrapped up entirely in his business, pursuing dreams of wealth and power, is foolish and defective because it leaves out of account all that is really worthy of consideration; but that on the other hand the extreme asceticism that teaches each man to turn his back upon the world altogether, and to devote himself exclusively and selfishly to the endeavour to shut himself away from it and escape from it, is also foolish. He held that the middle path of truth and beauty is the best and safest, and that while certainly the life devoted entirely to spirituality is the highest of all for those who are ready for it, there is also a good and true and spiritual life possible for the man who yet holds his place and does his work in the world.

Ngài tuyên bố rằng các thái cực theo cả hai chiều đều phi lý như nhau; rằng, một mặt, đời sống của người thường ở thế gian, hoàn toàn vùi đầu vào việc làm ăn, theo đuổi mộng tưởng giàu sang và quyền lực, là dại dột và khiếm khuyết vì nó gạt ra ngoài mọi điều thực sự đáng được quan tâm; nhưng, mặt khác, chủ nghĩa khổ hạnh cực đoan dạy mỗi người phải quay hẳn lưng lại với thế gian, và chuyên chú cách ích kỷ vào nỗ lực tự cô lập mình và trốn khỏi nó, cũng là điều dại dột. Ngài chủ trương rằng con đường trung đạo của chân lý và cái đẹp là tốt nhất và an toàn nhất; và rằng, tuy hẳn nhiên đời sống hoàn toàn hiến dâng cho tinh thần là cao cả nhất cho những ai đã sẵn sàng, vẫn có một đời sống tốt lành, chân thực và tinh thần khả hữu cho người còn giữ vị trí và làm công việc của mình giữa thế gian.

He based His doctrines solely on reason and common-sense; He asked no man to believe anything blindly, but rather told him to open his eyes and look around him. He declared that in spite of all the sorrow and misery of the world, the great scheme of which man is a part is a scheme of eternal justice, and that the law under which we are living is a good law, and needs only that we should understand it and adapt ourselves to it. He taught that all life is suffering, but that man causes his own trouble for himself, because he yields himself perpetually to desire for that which he has not, and He said that happiness and contentment can be gained better by limiting desires than by increasing possessions.

Ngài đặt nền giáo pháp của mình hoàn toàn trên lý trí và lẽ thường; Ngài không đòi ai phải tin mù quáng điều gì, mà bảo người ấy mở mắt ra và nhìn quanh. Ngài tuyên bố rằng bất chấp mọi khổ đau và thống khổ của đời, đồ hình vĩ đại mà con người là một phần trong đó là một đồ hình của công bình vĩnh cửu, và luật pháp theo đó chúng ta đang sống là một luật lành, chỉ cần chúng ta thấu hiểu nó và thích ứng mình với nó. Ngài dạy rằng mọi đời sống đều là khổ, nhưng con người tự chuốc lấy rắc rối cho chính mình vì y cứ mãi buông mình theo lòng ham muốn những gì mình chưa có; và Ngài nói rằng hạnh phúc và an lạc có thể đạt được tốt hơn bằng cách hạn chế dục vọng hơn là gia tăng sở hữu.

To this end He tabulated His teaching in the most marvellous manner, arranging everything under certain headings which could be readily memorized. This constitutes in reality a carefully graded system of mnemonics. It is so simple in its broad outline that any child can remember and understand its four noble truths, its noble eightfold path, and the principles of life which they suggest; yet it is carried out so elaborately that it constitutes a system of philosophy which the wisest man may study all his life through, and yet find in it ever more and more light upon the problems of life.

Để đạt mục đích ấy, Ngài đã hệ thống hóa giáo huấn của mình theo một lối kỳ diệu, sắp đặt mọi điều dưới những đề mục nhất định dễ ghi nhớ. Thực chất, đây là một hệ thống ghi nhớ được phân cấp hết sức cẩn trọng. Nó đơn giản trong đại cương đến mức bất kỳ đứa trẻ nào cũng có thể ghi nhớ và hiểu được Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo và những nguyên tắc sống mà chúng gợi ra; song nó lại được triển khai tinh vi đến mức trở thành một hệ thống triết học mà bậc trí giả nhất có thể học suốt đời, vậy mà vẫn còn tìm được trong đó ngày càng nhiều ánh sáng cho các vấn đề của đời sống.

He analyzed everything to an almost incredible extent, as may be seen by a study of the twelve nidanas, or by His enumeration of the steps which intervene between thought and action. Each of His four noble truths is represented by a single word, and yet to any one who has ever heard the exposition of the system each of those words inevitably calls up a great range of ideas. The same thing is true of the words signifying the steps of the noble eightfold path, and of the “great perfections” which are spoken of in The Voice of the Silence. All of these perfections are simply wisdom, power and love appearing in different forms. They are sometimes reckoned as six, but more commonly as ten. The six are given as perfect charity, perfect morality, perfect patience, perfect energy, perfect truth and perfect wisdom; and the other four which are sometimes added are perfect resignation, perfect resolution, perfect kindness and perfect abnegation.

Ngài đã phân tích mọi điều đến mức hầu như khó tin, như có thể thấy qua nghiên cứu về mười hai nhân duyên, hoặc qua sự liệt kê của Ngài những bước trung gian giữa tư tưởng và hành động. Mỗi một trong Tứ Diệu Đế của Ngài được biểu thị bằng một từ duy nhất, vậy mà với bất kỳ ai từng nghe trình bày về hệ thống ấy, mỗi từ ấy tất yếu gợi dậy một trường rộng lớn các ý niệm. Điều tương tự đúng với những từ biểu thị các chi phần của Bát Chánh Đạo, và với “những đại toàn thiện” được nói đến trong Tiếng Nói của Im Lặng. Tất cả những toàn thiện ấy giản dị chỉ là trí tuệ, quyền năng và tình thương xuất hiện dưới những hình thức khác nhau. Đôi khi người ta kể là sáu, nhưng thường là mười. Sáu điều được nêu là bố thí hoàn hảo, trì giới hoàn hảo, nhẫn nhục hoàn hảo, tinh tấn hoàn hảo, chân thật hoàn hảo và trí tuệ hoàn hảo; và bốn điều đôi khi được thêm là xả ly hoàn hảo, quyết chí hoàn hảo, từ ái hoàn hảo và xả kỷ hoàn hảo.

The religion of Buddhism has practically disappeared from India, yet it has left behind it lasting results, and the country bears everywhere the strong impress of His teachings. Before His coming blood-sacrifices appear to have been universal; even now they still exist, but are comparatively rare, for He taught that such things were not pleasing to any noble deity, but that the Gods desired rather the sacrifice of a holy life.

Tôn giáo Phật giáo trên thực tế đã biến mất khỏi Ấn Độ, nhưng nó đã để lại những kết quả bền lâu, và khắp nơi trên đất nước vẫn mang dấu ấn mạnh mẽ giáo huấn của Ngài. Trước khi Ngài xuất hiện, các lễ tế huyết dường như phổ biến; nay chúng vẫn còn, nhưng tương đối hiếm, vì Ngài dạy rằng những điều như thế không làm vừa lòng bất cứ vị thần cao quý nào, mà chư Thần ưa thích sự hiến tế của một đời sống thánh thiện hơn.

In looking back upon the record of those times we see that He preached mostly in the open air, and nearly always sitting at the foot of a tree, with the listeners sitting on the ground about Him, or standing leaning against the trees, men and women intermingling, and little children running about and playing upon the outskirts of the crowd. The great teacher had a most wonderful voice, gloriously full and sonorous, and a personality which instantly commanded the attention of all who heard Him, and invariably won their hearts, even in the rare cases where they did not agree with what he said. The audiences were stirred up to great religious fervor, we find them constantly raising cries of “Sadhu, Sadhu,” by way of applause, when anything was said which especially moved them, and at the same time raising their joined hands in an attitude of salutation.

Nhìn lại ghi chép về những thời ấy, chúng ta thấy Ngài phần lớn thuyết pháp giữa trời, và hầu như luôn ngồi dưới gốc cây, thính chúng ngồi dưới đất quanh Ngài, hoặc đứng tựa lưng vào cây; nam nữ lẫn lộn, và những trẻ nhỏ thì chạy nhảy nô đùa ở rìa đám đông. Vị Huấn sư vĩ đại có một giọng nói hết sức kỳ diệu, tròn đầy và ngân vang huy hoàng, và một sức hiện diện lập tức thu hút sự chú ý của mọi người nghe Ngài, và luôn luôn chinh phục trái tim họ, ngay cả trong những trường hợp hiếm hoi khi họ không đồng ý với điều Ngài nói. Thính chúng thường bừng bừng nhiệt thành tôn giáo; chúng ta thấy họ liên tục cất tiếng “Sa-dhu, Sa-dhu” như một cách tán thưởng khi điều gì đó đặc biệt làm họ xúc động, đồng thời chắp tay lên trong tư thế chào kính.

Part at least of this influence was due to the tremendously strong vibrations of His aura, which was of very great size, so that the audience were actually sitting within it and being attuned to it while they listened to His discourse. Its magnetic effect was almost indescribable, and while His hearers were within its influence even the most stupid of them could understand to the full whatever He said, though often afterwards when they had passed away from that influence they found it difficult to comprehend it at all in the same way. To this marvellous influence also is due the phenomenon so often described in the Buddhist books—the attainment of the arhat level by such large numbers of His hearers. It is quite a common thing to read in the accounts given in the Buddhist scriptures that after a sermon of the BUDDHA hundreds of men, even thousands, reached the arhat level. Knowing what a very high degree of attainment this means, this seemed to us, when we read it, almost incredible, and we supposed it to be simply a case of oriental exaggeration; but later and closer study has shown us that the accounts are actually true. So remarkable a result seemed to call for further investigation into its causes, and we found that in order to understand all this it was necessary to take into account not this one life only, but the work of many previous incarnations.

Ít nhất một phần của ảnh hưởng này là do những rung động vô cùng mạnh mẽ của hào quang của Ngài, vốn có kích thước rất lớn, đến mức thính giả thực sự ngồi bên trong nó và được điều hòa đồng điệu với nó trong lúc họ lắng nghe bài thuyết giảng của Ngài. Tác động từ tính của nó hầu như không thể diễn tả, và khi các thính giả của Ngài còn ở trong vòng ảnh hưởng ấy thì ngay cả những người kém thông tuệ nhất trong họ cũng có thể thấu hiểu trọn vẹn bất cứ điều gì Ngài nói; nhưng thường khi đã ra khỏi ảnh hưởng đó rồi, họ thấy khó mà lĩnh hội nó theo cùng một cách như trước. Cũng chính do ảnh hưởng kỳ diệu này mà nảy sinh hiện tượng – vốn thường được mô tả trong các kinh sách Phật giáo – là việc có một số lượng rất lớn thính giả của Ngài đạt đến đẳng cấp A‑la‑hán. Trong các thuật ký của kinh điển Phật giáo, chúng ta thường bắt gặp lời thuật rằng sau một thời pháp của ĐỨC PHẬT, hàng trăm, thậm chí hàng ngàn người đạt đẳng cấp A‑la‑hán. Biết đẳng cấp chứng đắc ấy cao siêu đến mức nào, khi đọc những lời ấy, chúng tôi từng thấy dường như khó tin và cho rằng đó đơn thuần là một lối cường điệu phương Đông; nhưng về sau, nhờ khảo cứu kỹ lưỡng hơn và gần gũi hơn, chúng tôi thấy những tường thuật ấy thật sự chính xác. Kết quả phi thường như thế hiển nhiên đòi hỏi phải khảo sát sâu thêm về các nguyên nhân, và chúng tôi nhận ra rằng để thấu hiểu tất cả điều này, cần tính đến không chỉ một kiếp sống này, mà còn cả công phu trong nhiều kiếp trước.

We must remember that the Lord Gautama is the BUDDHA of the fourth root-race, even though this last incarnation of His was taken in the fifth. He had been born many times in various Atlantean races, and always as a great teacher. In each of those lives He had drawn around Him many pupils, who had gradually been raised to higher levels of thought and of life, and when He came in India for this last culminating birth He arranged that all those whom at many different times and in many different lands He had influenced should be brought together into incarnation at the same time. Thus His audiences were to a large extent composed of fully prepared and, as it were, highly specialized souls, and when these came under the influence of the extraordinarily powerful magnetism of a BUDDHA, they understood and followed every word which He said, and the action upon them as egos was of the most wonderfully stimulating nature. Therefore it was that they so readily responded; therefore it was that so large a number of them could be and were raised so rapidly to such dizzy heights.

Chúng ta phải nhớ rằng Đức Gautama là ĐỨC PHẬT của căn chủng thứ tư, mặc dù lần lâm phàm cuối cùng của Ngài diễn ra trong căn chủng thứ năm . Ngài đã sinh ra nhiều lần trong các giống dân Atlantis, và luôn luôn là một bậc đại giáo sư. Trong mỗi kiếp như thế, Ngài đã quy tụ quanh mình nhiều môn đồ, những người dần dần được nâng lên các đẳng mức cao hơn của tư tưởng và đời sống; và khi Ngài đến Ấn Độ cho lần sinh tối hậu này, Ngài đã thu xếp để tất cả những ai vào nhiều thời điểm khác nhau và tại nhiều xứ sở khác nhau đã từng được Ngài ảnh hưởng đều cùng đồng thời lâm phàm. Vì vậy, thính chúng của Ngài phần lớn gồm những linh hồn đã chuẩn bị chu đáo và, có thể nói, đã được chuyên biệt cao độ; và khi họ rơi vào tầm ảnh hưởng của từ lực phi thường mạnh mẽ của một ĐỨC PHẬT, họ hiểu và thuận theo từng lời Ngài dạy, và tác động giáng xuống họ với tư cách những Chân ngã là vô cùng khích lệ, nhiệm mầu. Do đó, họ đáp ứng rất mau lẹ; do đó, một con số lớn như vậy có thể được nâng lên, và thật sự đã được nâng lên rất nhanh, đến những đỉnh cao choáng ngợp như thế.

In the third volume of The Secret Doctrine, we shall find an exceedingly interesting and suggestive section called The Mystery of Buddha, which refers to the fact that the BUDDHA prepared His own inner bodies of very high grades of matter, with the fullest development of the spirillae. His buddhic, causal and mental bodies are kept together for other Great Ones to use, because of the exceeding difficulty of producing others equal to them. The Christ used them along with the physical body of Jesus, while the latter waited on higher planes in his own vehicles. Shankaracharya also used these “remains.” Hence arose the incorrect idea that He was a reincarnation of the BUDDHA. The coming Christ will also use these vehicles, wedding them to another physical body which is even now being prepared for Him.

Trong tập thứ ba của Giáo Lý Bí Nhiệm, chúng ta sẽ thấy một thiên mục vô cùng thú vị và gợi mở nhan đề Bí Ẩn về Đức Phật, vốn nhắc đến sự kiện rằng ĐỨC PHẬT đã tự chuẩn bị các thể bên trong của Ngài bằng những cấp vật chất rất cao, với sự phát triển đầy đủ nhất của các xoắn ốc. Các thể Bồ đề, thể nhân quả và thể trí của Ngài được giữ lại cùng nhau để các Đấng Cao Cả khác có thể sử dụng, bởi việc tạo ra những thể tương đương gần như bất khả. Đức Christ đã dùng các thể ấy đồng thời với thể xác của Đức Jesus, trong khi vị sau chờ trên các cõi cao trong những vận cụ riêng của Ngài. Đức Shankaracharya cũng đã dùng những “di thể” này. Bởi thế mới nảy sinh quan niệm sai lầm cho rằng Ngài là một hóa thân của ĐỨC PHẬT. Đức Christ đang Đến cũng sẽ sử dụng những vận cụ này, phối ngẫu chúng với một thể xác khác đang được chuẩn bị cho Ngài ngay từ bây giờ.

Buddhism still claims a larger number of adherents than any other religion in the world, and is a living influence in the lives of millions of our fellow-men. It would be quite unfair to judge it by what is written about it by European orientalists. When I was in Ceylon and Burma I compared these accounts with the interpretation given to the doctrines by the living followers of His religion. Learned monks in these countries approach the subject with an accuracy of knowledge at least equal to that of the most advanced orientalists, but their interpretation of the doctrines is very far less wooden and lifeless. By far the best book in English to give one a real idea of the religion as it is held by living men is The Light of Asia, by Sir Edwin Arnold; and another book, which makes a good second to it, is The Soul of a People, by H. Fielding Hall. Some critics have said that Sir Edwin Arnold has gone a little beyond the bare literal meaning of the words of the text, and is trying to read Christian ideas into them. I do not think this is so, and I have certainly found that he expresses far more closely the feeling and attitude of the Buddhists than any other writer.

Phật giáo hiện vẫn có số lượng tín đồ đông đảo hơn bất cứ tôn giáo nào khác trên thế giới, và là một ảnh hưởng sống động trong đời sống của hàng triệu đồng loại của chúng ta. Sẽ là bất công nếu đánh giá Phật giáo chỉ qua những gì các nhà Đông phương học châu Âu viết về nó. Khi tôi ở Tích Lan và Miến Điện, tôi đã đối chiếu các tường thuật ấy với cách diễn giải giáo lý của những tín đồ đang sống trong tôn giáo của Ngài. Các vị tăng uyên bác ở những xứ sở ấy tiếp cận vấn đề với một tri thức chính xác ít nhất cũng ngang bằng các nhà Đông phương học tiến bộ nhất, nhưng cách diễn giải giáo lý của họ thì bớt khô cứng và vô sinh khí hơn nhiều. Xét trong các sách tiếng Anh, cuốn đem lại một ý niệm chân thực nhất về tôn giáo như được những người đang sống nắm giữ là The Light of Asia, của Sir Edwin Arnold; và một cuốn khác có thể xếp thứ nhì là The Soul of a People, của H. Fielding Hall. Một số nhà phê bình nói rằng Sir Edwin Arnold đã đi xa hơn đôi chút so với nghĩa chữ bạch của văn bản, và cố gắng đem các ý niệm Cơ Đốc giáo đọc vào đó. Tôi không nghĩ như vậy, và tôi chắc chắn thấy rằng ông diễn đạt gần gũi hơn bất cứ tác giả nào khác với cảm thức và thái độ của người Phật tử.

Buddhism is now divided into two great Churches, the Northern and the Southern, and both of them have departed to some extent from the original teaching of the BUDDHA, though in different directions. The religion is so plain and straightforward, and so obviously common-sense that almost any person may readily adapt himself to it, without necessarily giving up the beliefs and practices of other faiths. As a consequence of this in the Northern Church we have a form of Buddhism with an immense amount of accretion. It seems to have absorbed into itself many ceremonies and beliefs of the aboriginal faith which it supplanted; so that in Tibet, for example, we find it including a whole hierarchy of minor deities, devas and demons which were entirely unknown to the original scheme of the BUDDHA. The Southern Church, on the other hand, instead of adding to the teaching of the BUDDHA, has lost something from it. It has intensified the material and the abstract sides of the philosophy.

Hiện nay Phật giáo được phân thành hai Giáo hội lớn, Bắc tông và Nam tông, và cả hai đều đã xa rời giáo huấn nguyên thủy của ĐỨC PHẬT ở một mức độ nào đó, tuy theo những hướng khác nhau. Tôn giáo này rất mộc mạc và thẳng băng, và hiển nhiên hợp lẽ thường đến nỗi hầu như bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng thích nghi với nó, mà không nhất thiết phải từ bỏ tín niệm và thực hành của các tôn giáo khác. Hệ quả là tại Bắc tông, chúng ta gặp một hình thái Phật giáo với lượng chất bồi tích lũy rất lớn. Có vẻ như nó đã hấp thụ vào mình nhiều lễ nghi và tín điều của tín ngưỡng thổ dân mà nó đã thay thế; vì vậy, ở Tây Tạng, chẳng hạn, ta thấy nó gồm cả một hệ thống cấp bậc của các tiểu thần, chư thiên và ma quỷ vốn hoàn toàn xa lạ với đồ hình nguyên thủy của ĐỨC PHẬT. Ngược lại, Giáo hội Nam tông, thay vì bổ sung vào giáo huấn của ĐỨC PHẬT, lại đánh mất đi một phần nào đó; họ nhấn mạnh hơn mặt vật liệu và khía cạnh trừu tượng của triết lý.

It teaches that nothing but Karma passes over from life to life—that there is no permanent ego in man, but that in his next birth he is in effect a new man, who is the result of the karma of the previous life, and they quote various sayings of the BUDDHA in support of this. It is true that He often spoke very strongly against the persistence of the personality, and that He assured His hearers again and again that nothing whatever which they knew in connection with a man could pass over to another birth. But He nowhere denied the individuality; in fact many of His sayings absolutely affirm it. Take for example a text which occurs in the Samannaphalasutta of the Digha-Nikaya. When first mentioning the condition and training of the mind that are necessary for success in spiritual progress, the BUDDHA describes how he sees all the scenes in which he was in any way concerned passing in succession before his mind’s eye. He illustrates it by saying:

Giáo hội Nam tông dạy rằng chẳng có gì ngoài nghiệp quả chuyển di từ kiếp này sang kiếp khác—rằng không có chân ngã thường tồn nơi con người, mà trong lần tái sinh kế tiếp, y thực chất là một con người mới, kết quả của nghiệp quả trong kiếp trước; và họ dẫn ra nhiều lời dạy của ĐỨC PHẬT để hậu thuẫn điều này. Đúng là Ngài thường nói rất mạnh mẽ chống lại sự dai dẳng của phàm ngã, và Ngài đã nhiều lần bảo đảm với thính chúng rằng bất kỳ điều gì họ biết gắn với một con người đều không thể chuyển sang một kiếp khác. Nhưng không chỗ nào Ngài phủ nhận cá thể tính; thực vậy, nhiều lời dạy của Ngài khẳng định dứt khoát điều đó. Hãy lấy thí dụ một đoạn văn xuất hiện trong Samannaphalasutta của Digha‑Nikaya. Khi lần đầu đề cập tới điều kiện và sự rèn luyện của thể trí cần thiết cho thành công trong tiến bộ tinh thần, ĐỨC PHẬT mô tả cách Ngài thấy mọi cảnh tượng mà Ngài đã từng can dự hiện lần lượt trước nhãn quan nội tại. Ngài minh họa điều ấy bằng cách nói:

“If a man goes out from his own village to another and thence to another, and from there comes back again to his own village, he may think thus: ` I indeed went from my own village to that other. There I stood thus; I sat in this manner; thus I spoke, and thus I remained silent. From that village again I went to another, and I did the same there. The same ` I am’ returned from that village to my own village.’ In the very same way, O King, the ascetic, when his mind is pure, knows his former births. He thinks: ` In such a place I had such a name. I was born in such a family, such was my caste, such was my food, and in such and such a way I experienced pleasure and pain, and my life extended through in some other place, and there also I had such and such conditions. Thence removed, the same ` I’ am now born here.’ “

“Nếu một người đi từ làng của mình đến làng khác, rồi lại đến làng khác nữa, rồi từ đó trở về làng mình, người ấy có thể nghĩ như sau: ‘Quả vậy, tôi đã đi từ làng mình tới làng kia. Ở đó, tôi đứng như thế này; tôi ngồi theo cách này; như thế tôi đã nói, và như thế tôi đã im lặng. Từ làng ấy tôi lại đi sang làng khác, và tôi cũng làm y như vậy ở đó. Cái “tôi đây” ấy đã trở về từ làng kia về làng của chính tôi.’ Y như vậy, tâu Đại vương, vị khổ hạnh, khi thể trí thanh tịnh, biết rõ những tiền sanh của mình. Y nghĩ: ‘Ở chốn nọ, ta có tên như vầy. Ta sinh trong một gia tộc như thế, đẳng cấp như thế, thức ăn như thế, và theo cách như thế ta đã kinh nghiệm vui và khổ; rồi đời ta tiếp diễn qua nơi khác, và ở đó ta cũng có những điều kiện như vầy như vầy. Từ đó rời đi, chính cái “ta” ấy nay sinh ra ở đây.’”

This question shows very clearly the doctrine of the BUDDHA with regard to the reincarnating ego. He gives illustrations also in the same Sutta of the manner in which an ascetic can know the past births of others—how he can see them die in one place, and after the sorrows and joys of hell and heaven the same men are born again somewhere else. It is true that in the Brahmajala Sutta He mentions all the various aspects of the soul, and says that they do not absolutely exist, because their existence depends upon “contact,” that is to say upon relation. But in thus denying the absolute reality of the soul He agrees with the other great Indian teachers, for the existence not only of the soul but even of the LOGOS Himself is true only relatively.

Câu hỏi này thể hiện rất rõ giáo lý của PHẬT về bản ngã luân hồi. Ngài cũng đưa ra những minh họa trong cùng một bài kinh về cách thức mà một nhà tu khổ hạnh có thể biết được tiền kiếp của những người khác – làm thế nào ông ta có thể thấy họ chết ở một nơi, và sau những khổ đau và niềm vui của địa ngục và thiên đường, những người đó lại tái sinh ở một nơi nào đó khác. Đúng là trong Kinh Brahmajala, Ngài đề cập đến tất cả các khía cạnh khác nhau của linh hồn, và nói rằng chúng không tồn tại một cách tuyệt đối, bởi vì sự tồn tại của chúng phụ thuộc vào “sự tiếp xúc”, nghĩa là phụ thuộc vào mối quan hệ. Nhưng khi phủ nhận thực tại tuyệt đối của linh hồn như vậy, Ngài đồng ý với các bậc thầy vĩ đại khác của Ấn Độ, vì sự tồn tại không chỉ của linh hồn mà ngay cả của chính THƯỢNG ĐẾ cũng chỉ đúng một cách tương đối.

Untrained minds frequently misunderstand these ideas, but the careful student of oriental thought will not fail to grasp exactly what is meant, and to realize that the teaching of the BUDDHA in this respect is exactly that now given by Theosophy. It is not difficult to see how various texts might be so emphasized or distorted as to seem to contradict one another, and the Southern Church has chosen to cling rather to the denial of the permanence of the personality than to the assertion of the continuity of the individuality, just as in Christianity some people have acquired the habit of laying stress on particular texts, and ignoring others which contradict them.

Những thể trí chưa được huấn luyện thường hiểu lầm các ý niệm này, nhưng người môn sinh cẩn trọng của tư tưởng phương Đông sẽ nắm bắt chính xác điều được hàm ý, và nhận ra rằng giáo huấn của ĐỨC PHẬT ở phương diện này đúng hệt với điều mà Thông Thiên Học hiện truyền dạy. Không khó để thấy các đoạn văn riêng rẽ có thể bị nhấn mạnh hoặc bóp méo đến mức như mâu thuẫn nhau, và Giáo hội Nam tông đã chọn bám vào sự phủ nhận tính trường tồn của phàm ngã hơn là khẳng định tính liên tục của cá thể tính, cũng như trong Cơ Đốc giáo, một số người quen thói nhấn mạnh vài câu riêng lẻ và phớt lờ những câu khác trái ngược với chúng.

Another point as to which there is a very similar misunderstanding is the constantly repeated assertion that nirvana is equivalent to annihilation. Even Max Mueller, the great Oxford Sanskritist, was under this delusion for many years, but later in his life with furthers and deeper study he came to understand that in this he had been mistaken. The description which the Lord BUDDHA Himself gives to nirvana is so far above the comprehension of any man who is trained only in ordinary and worldly methods of thought that it is little wonder that it should have been misunderstood at first sight by the European orientalists; but no one who has lived in the East among the Buddhists can for a moment suppose that they regard annihilation as the end which they are striving to reach.

Một điểm khác nữa thường bị hiểu lầm tương tự là lời khẳng định lặp đi lặp lại rằng niết bàn đồng nghĩa với hư vô. Ngay cả Max Mueller, nhà Phạn ngữ học lừng danh ở Oxford, cũng mắc phải ảo tưởng ấy suốt nhiều năm; nhưng về sau, khi khảo cứu sâu rộng hơn, ông nhận ra rằng mình đã lầm. Sự mô tả mà chính ĐỨC PHẬT dành cho niết bàn cao vượt ngoài khả năng lĩnh hội của bất kỳ ai chỉ được rèn luyện theo các phương pháp tư duy thông tục và thế gian, đến nỗi không lạ gì khi các nhà Đông phương học châu Âu thoạt tiên đã hiểu sai về nó; nhưng không một ai từng sống ở phương Đông giữa hàng Phật tử lại có thể nghĩ rằng họ xem hư vô là cứu cánh mà họ nỗ lực đạt tới.

It is quite true that the attaining of nirvana does involve the utter annihilation of that lower side of man which is in truth all that we know of him at the present time. The personality, like everything connected with the lower vehicles, is impermanent and will disappear. If we endeavour to realize what man would be when deprived of all which is included under these terms we shall see that for us at our present stage it would be difficult to comprehend that anything remained, and yet the truth is that everything remains—that in the glorified spirit which then exists, all the essence of all the qualities which have been developed through the centuries of strife and stress in earthly incarnation will inhere to the fullest possible degree. The man has become more than man, since he is now on the threshold of Divinity; yet he is still himself, even though it be a so much wider self.

Hoàn toàn đúng rằng việc chứng đắc niết bàn có bao hàm sự triệt tiêu toàn bộ phương diện thấp của con người—vốn, thực ra, là tất cả những gì chúng ta hiện biết về y. Phàm ngã, cũng như mọi thứ gắn với các hạ hiện thể, đều vô thường và sẽ tiêu tan. Nếu chúng ta cố gắng hình dung con người sẽ ra sao khi bị tước bỏ tất cả những gì nằm trong các thuật ngữ ấy, chúng ta sẽ thấy rằng, ở trình độ hiện thời của mình, thật khó mà tin rằng còn có thứ gì tồn tại; thế nhưng sự thật là mọi thứ vẫn còn—rằng trong linh thể vinh quang lúc ấy, toàn bộ tinh túy của mọi phẩm chất đã được bồi dưỡng qua bao thế kỷ tranh đấu và lao lực trong các kiếp lâm phàm nơi trần thế sẽ tồn tại ở mức viên mãn nhất có thể. Con người đã trở thành hơn cả con người, vì y nay đang đứng nơi ngưỡng Thần tính; thế nhưng y vẫn là chính y, dù cái “mình” ấy đã mở rộng bội phần.

Many definitions have been given of nirvana, and naturally none of them can possibly be satisfactory; perhaps the best on the whole is that of peace in omniscience. Many years ago when I was preparing a simple introductory catechism of their religion for Buddhist children, the chief Abbot Sumangala himself gave me as the best definition of nirvana to put before them that it was a condition of peace and blessedness so high above our present state that it was impossible for us to understand it. Surely that is far removed from the idea of annihilation. Truly all that we now call the man has disappeared, but that is not because the individuality is annihilated, but because it is lost in divinity.

Đã có nhiều định nghĩa về niết bàn, và dĩ nhiên chẳng định nghĩa nào có thể thỏa đáng; có lẽ khái quát nhất là “an bình trong toàn tri.” Nhiều năm trước, khi tôi soạn một sách giáo lý nhập môn đơn giản về tôn giáo của các em nhỏ Phật tử, chính Đại Trụ trì Sumangala đã cho tôi định nghĩa hay nhất về niết bàn để trình bày với các em: ấy là một cảnh giới an bình và phúc lạc cao vượt trên trạng thái hiện tại của chúng ta, đến nỗi chúng ta không thể hiểu nổi. Hẳn là điều ấy cách xa ý niệm về hư vô. Quả thực, cái mà giờ đây chúng ta gọi là con người đã biến mất, nhưng không phải bởi vì cá thể tính bị tiêu diệt, mà vì nó đã tan hòa trong Thần tính.

The BUDDHA Himself once said: “Nirvana is not being, but also it is not non-being.”

Chính ĐỨC PHẬT đã từng nói: “Niết bàn không phải là hữu, nhưng cũng không phải là vô.”

Another difference between the Northern Church of Buddhism and the Southern is that they adopt different version of the scriptures. It is usually stated that the Northern Church adopts the Mahayana and the Southern the Hinayana, but whether even this much may be safely said depends upon the shade of meaning which we attach to a much-disputed word. Yana means vehicle, and it is agreed that it is to be applied to the dhamma or law, as the vessel which conveys us across the sea of life to nirvana, but there are at least five theories as to the exact sense in which it is to be taken.

Một điểm khác biệt nữa giữa Giáo hội Phật giáo Bắc tông và Nam tông là họ sử dụng các bản kinh điển khác nhau. Người ta thường nói rằng Bắc tông theo Đại thừa và Nam tông theo Tiểu thừa; nhưng ngay cả kết luận ấy có thể nêu ra một cách an toàn hay không còn tùy thuộc vào sắc thái nghĩa mà chúng ta gán cho một từ vốn gây nhiều tranh luận. Yana nghĩa là “phương tiện”, và người ta đồng ý rằng từ này được áp dụng cho dhamma hay luật, như chiếc thuyền chở chúng ta vượt biển đời sang bờ niết bàn; nhưng ít nhất có năm học thuyết về ý nghĩa xác thực cần gán cho nó.

That it refers simply to the language in which the law is written, the greater vehicle being by this hypothesis Sanskrit, and the lesser vehicle Pali—a theory which seems to me untenable. It is true that the Northern Church uses the Sanskrit translation, while the Southern scriptures are in Pali, the language which the Lord BUDDHA spoke when on earth. It is stated that the Pali scriptures which we now possess are not in the original form, but that all the originals existing (in Ceylon at least) were carefully destroyed by the Tamil invaders, so that the Pali scriptures which we now have are a retranslation made from a copy in Elu, then the Vernacular language of Ceylon.

Rằng nó chỉ đề cập đơn giản đến ngôn ngữ viết luật, với “đại thừa” theo giả thuyết này là tiếng Phạn, và “tiểu thừa” là tiếng Pali—một thuyết theo tôi là không thể đứng vững. Đúng là Bắc tông dùng bản bằng tiếng Phạn, còn kinh điển Nam tông là bằng tiếng Pali, ngôn ngữ mà ĐỨC PHẬT đã nói khi còn tại thế. Người ta cho rằng các kinh Pali mà nay chúng ta có không còn ở dạng nguyên bản; tất cả các bản gốc (ít nhất tại Tích Lan) đã bị quân Tamil xâm lược phá hủy kỹ lưỡng, nên những kinh Pali hiện có là bản dịch lại từ một bản sao bằng tiếng Elu, ngôn ngữ bản xứ của Tích Lan thời đó.

Hina may apparently be taken as signifying mean or easy, as well as small. One interpretation therefore considers that the Hinayana is the meaner or easier road to liberation—the irreducible minimum of knowledge and conduct required to attain it, while the Mahayana is the fuller and more philosophical doctrine, which includes much traditional knowledge about higher realms of nature. Needless to say, this interpretation comes from a Mahayana source.

Hina dường như có thể được hiểu là “thấp” hay “dễ”, cũng như “nhỏ”. Theo đó, một cách diễn giải cho rằng Tiểu thừa là con đường “thấp hơn” hay “dễ hơn” để đạt giải thoát—tức là mức tối thiểu bất khả giản lược về tri thức và hạnh kiểm để đạt được cứu cánh; còn Đại thừa là giáo thuyết đầy đủ và triết lý hơn, bao gồm nhiều tri thức truyền thống về các cõi giới cao của thiên nhiên. Tất nhiên, cách diễn giải này phát xuất từ nguồn Đại thừa.

That Buddhism, in its unfailing courtesy towards other religions, accepts them all as ways to liberation, though it regards the method taught by its founder as offering the shortest and surest route. According to this view Buddhism is the Mahayana, and the Hinayana includes Brahmanism, Zoroastrianism, Jainism, and any other religions which were existing at the time when the definition was formulated.

Rằng Phật giáo, với phép lịch nhã bất biến đối với các tôn giáo khác, chấp nhận tất cả như những nẻo dẫn đến giải thoát, tuy vẫn xem phương pháp do bậc Giáo chủ của mình chỉ dạy là con đường ngắn nhất và chắc chắn nhất. Theo quan điểm này, Phật giáo là Đại thừa, còn Tiểu thừa bao gồm Bà‑la‑môn giáo, Hỏa giáo, Kỳ‑na giáo và bất cứ tôn giáo nào khác hiện hữu vào thời điểm định nghĩa ấy được hình thành.

That the two doctrines are simply two stages of one doctrine—the Hinayana for the Sravakas or hearers, and the Mahayana for more advanced students.

Rằng hai giáo thuyết chỉ đơn giản là hai giai đoạn của cùng một giáo thuyết—Tiểu thừa dành cho Thanh văn hay “người nghe”, và Đại thừa dành cho những môn sinh cao tiến hơn.

That the word Yana is to be understood not exactly in its primary sense of ` vehicle,’ but rather in its secondary sense, nearly equivalent to the English word ` career.’ According to this interpretation the Mahayana puts before the man the ` grand career’ of becoming a Bodhisattva and devoting himself to the welfare of the world, while the Hinayana shows him only the smaller ` career’ of so living as to attain nirvana for himself.

Rằng từ Yana không nên hiểu đúng y theo nghĩa gốc là “phương tiện”, mà là theo nghĩa thứ phát, gần tương đương với từ “sự nghiệp”. Theo cách hiểu này, Đại thừa mở ra trước mắt con người “sự nghiệp lớn lao” là trở thành một vị Bồ‑tát và hiến mình cho phúc lợi thế gian, còn Tiểu thừa chỉ cho y thấy “sự nghiệp” nhỏ hơn là một lối sống để đạt niết bàn cho chính mình.

There has also been much discussion as to the exact meaning of the terms Adi-Buddha and Avalokiteshwara. I have made no special study of these things from the philosophical standpoint, but so far as I have been able to gather ideas from discussion of the matter with the living exponents of the religion, Adi-Buddha seems to be the culmination of one of the great lines of superhuman development—what might be called the abstract principle of all the Buddhas. Avalokiteshwara is a term belonging to the Northern Church, and seems to be the Buddhists’ name for their conception of the LOGOS. European scholars have translated it: “The Lord who looks down from on high,” but this seems to have in it a somewhat inaccurate implication, for it is clearly always the manifested LOGOS; sometimes the LOGOS of a solar system and sometimes higher than that, but always manifest. We must not forget that while the founders of the great religions see and know the things which They name, Their followers usually do not see; they have only the names, and they juggle with them as intellectual counters, and build up much which is incorrect and inconsistent.

Cũng có nhiều bàn luận về ý nghĩa chính xác của các thuật ngữ Adi‑Buddha và Avalokiteshwara. Tôi không có khảo cứu chuyên sâu về các điều này từ lập trường triết học; nhưng theo những gì tôi lĩnh hội được qua các cuộc đàm đạo với những nhà truyền thừa đang sống của tôn giáo này, Adi‑Buddha dường như là đỉnh cao của một trong các dòng tiến hóa siêu phàm vĩ đại—có thể gọi là nguyên lý trừu tượng của tất cả chư Phật. Avalokiteshwara là thuật ngữ thuộc Bắc tông, và dường như là danh xưng người Phật tử dành cho quan niệm của họ về Thượng đế. Các học giả châu Âu đã dịch là: “Đấng từ trên cao nhìn xuống,” nhưng cách dịch ấy hàm chứa một ngụ ý không hoàn toàn xác đáng, vì rõ ràng đây luôn là Thượng đế biểu lộ; đôi khi là Thượng đế của một hệ mặt trời và đôi khi còn cao hơn thế nữa, nhưng luôn luôn là hiển lộ. Đừng quên rằng trong khi các vị khai sáng các tôn giáo vĩ đại thấy và biết những điều Các Ngài đặt tên, thì hàng môn đồ thường chẳng thấy; họ chỉ nắm cái tên, rồi tung hứng nó như những dấu hiệu trong lối lý luận trí năng, và dựng lên nhiều điều sai lầm và bất nhất.

The Buddhism of the Southern Church, which includes Ceylon, Burma, Siam and Cambodia, has on the whole kept its religion free from the accretions which have become so prominent in the Northern division of Japan, China and Tibet. In Burma no image appears in the temples except that of the BUDDHA, though of Him there are in some cases hundreds of image, of different material, in different positions, presented by various worshippers. In Ceylon a certain concession seems to have been made to popular feeling, or perhaps to a foreign government during the time of the Tamil kings, for the images of certain Hindu deities are often to be seen in the temples, though they are always placed in a subordinate position and considered as a kind of attendants upon the BUDDHA. We need not however blame the Tibetans very much for the fact that certain superstitions have crept into their Buddhism. The same thing happens in all countries and with all religions, as time goes on. In Italy, for example, numbers of the peasants in the hills still follow what they call the old religion, and continue even in the present day the worship of Bacchus, under an Etruscan name which antedates even the time of the Roman Empire. The Catholic priests quite recognize the existence of this older faith, and set themselves against it, but without avail.

Phật giáo của Giáo hội phương Nam, bao gồm Tích Lan, Miến Điện, Xiêm và Campuchia, nhìn chung đã giữ cho tôn giáo của mình không bị những lớp bồi đắp phụ trội vốn đã trở nên quá nổi bật trong nhánh phương Bắc ở Nhật Bản, Trung Hoa và Tây Tạng. Ở Miến Điện, trong các ngôi chùa không có tượng nào ngoài tượng của Đức Phật, dù trong một số trường hợp có hàng trăm tượng của Ngài bằng những chất liệu khác nhau, ở những tư thế khác nhau, do nhiều người lễ bái dâng cúng. Ở Tích Lan, dường như đã có một nhượng bộ nào đó đối với tâm lý quần chúng, hoặc có lẽ đối với một chính quyền ngoại bang vào thời các vua Tamil; vì hình tượng của một số vị Thần Ấn giáo thường thấy trong đền chùa, tuy luôn được đặt ở vị trí phụ thuộc và được xem như một hạng thị giả của Đức Phật. Tuy nhiên, chúng ta cũng không cần trách người Tây Tạng quá nhiều về việc một số mê tín đã len vào Phật giáo của họ. Điều ấy xảy ra ở mọi quốc độ và với mọi tôn giáo theo thời gian. Ở Ý, chẳng hạn, nhiều nông dân vùng đồi vẫn theo cái mà họ gọi là đạo cũ, và cho đến ngày nay vẫn tiếp tục thờ phụng Bacchus dưới một tên gọi Etrusca có từ trước cả thời Đế chế La Mã. Các linh mục Công giáo hoàn toàn thừa nhận sự tồn tại của tín ngưỡng cổ xưa này và nỗ lực chống lại nó, nhưng đều vô hiệu.

In Southern Buddhism there is remarkably little ceremony of any kind—practically nothing indeed that in any way corresponds to the Christian service. When the people pay their morning visit to the temple they usually call upon the monks to recite for them the three guides and the five precepts, which they then repeat after him, but even this can hardly be called a public service, for it is recited not once at a set time, but for each group of people as they happen to arrive. There is another ceremony called Paritta or Pirit (which means ` blessings’) but this is not performed in the temple itself nor at any stated times, but it is considered a good work on the part of the laity to celebrate any special occasion by giving a Pirit ceremony—that is to say by erecting and elaborately decorating a temporary building in which the ceremony is held. It consists of the chanting of benedictory verses from the sacred scriptures, and is carried on for a certain number of days, usually a fortnight, by relays of monks who relieve one another every two hours.

Trong Phật giáo Nam truyền, hầu như rất ít nghi lễ dưới bất kỳ hình thức nào—thực tế không có gì tương ứng với phụng vụ Kitô giáo. Khi người dân đến chùa buổi sáng, họ thường thỉnh chư tăng tụng cho họ tam quy và ngũ giới; họ sẽ lặp lại theo vị tăng, nhưng ngay cả thế cũng khó gọi là một nghi lễ công cộng, vì không tụng vào một giờ cố định, mà tụng riêng cho từng nhóm người khi họ lần lượt đến. Có một nghi lễ khác gọi là Paritta hay Pirit (nghĩa là ‘chúc phúc’), nhưng nghi lễ này không cử hành ngay trong chùa, cũng không theo thời điểm nhất định; giới cư sĩ xem là việc lành khi nhân một dịp đặc biệt mà thiết lễ Pirit—tức dựng và trang hoàng công phu một kiến trúc tạm để cử hành. Nghi lễ gồm tụng những đoạn chúc phúc trích từ Thánh điển, và kéo dài một số ngày nhất định, thường là nửa tháng, do các vị tăng thay phiên nhau đảm trách, cứ hai giờ đổi ban một lần.

Sometimes when a man falls ill one of these Pirit ceremonies is arranged for him, with the idea that it will promote his recovery. It is in reality a mesmeric ceremony, for the monks sit in a circle and hold in their hands a rope which runs round the circle, and they are instructed to recite their texts, keeping clearly in their minds all the time the will to bless. Naturally this rope becomes very strongly magnetized as the ceremony progresses, and strings run from it to a huge pot of water, which of course also becomes highly charged with magnetism. At the conclusion of the ceremony this water is distributed among the people, and the sick man often holds a thread which is connected with the rope.

Đôi khi khi có người lâm bệnh, người ta sắp đặt một lễ Pirit cho người ấy, với ý niệm rằng điều này sẽ giúp y phục hồi. Thực ra đó là một nghi lễ có tính thôi miên, vì chư tăng ngồi thành vòng tròn và tay cầm một sợi dây chạy quanh vòng; các Ngài được chỉ dẫn tụng kinh, đồng thời giữ rõ ràng trong tâm ý chí chúc phúc. Tự nhiên sợi dây ấy sẽ được từ hóa rất mạnh khi nghi lễ tiến hành; từ đó có những sợi chỉ nối sang một chum nước lớn, và dĩ nhiên nước ấy cũng nhiễm từ tính rất cao. Khi kết thúc nghi lễ, nước được phân phát cho mọi người, và người bệnh thường cầm một sợi chỉ nối liền với sợi dây.

The Southern Buddhists give a list of five psychic powers which may be gained by the man who is making progress on the Path. (1) The ability to pass through the air and through solid objects, and to visit the heaven-world while still alive. It is however possible that this may mean nothing more than ability to function freely in the astral body, because it is quite likely that in speaking of the heaven-world they do not really mean the mental plane, but only the higher levels of the astral. (2) Divinely clear hearing—which is evidently merely the astral faculty of clairaudience. (3) The ability to comprehend and sympathize with all that is in the minds of others—which appears to be thought-reading, or perhaps telepathy. (4) The Power to remember former births. (5) Divinely clear vision—that is to say, clairvoyance. To this is added in some lists the attainment of deliverance by wisdom. This must of course mean the attainment of freedom from the necessity of rebirth, but it does not seem to be of the same nature as the other powers, and perhaps should hardly appear in the same category.

Phật tử Nam truyền đưa ra một danh sách năm thần thông mà người đang tiến bộ trên Thánh Đạo có thể đạt được. (1) Khả năng đi trong hư không và xuyên qua vật rắn, và thăm cõi thượng thiên khi còn sống. Tuy nhiên, có thể điều này không có nghĩa gì hơn là khả năng vận dụng tự do thể cảm dục, vì rất có thể khi nói về cõi thượng thiên, họ không thực sự muốn nói cõi trí, mà chỉ các cảnh giới cao của cõi cảm dục. (2) Thính giác thiêng liêng rõ suốt—rõ ràng chính là năng lực thông nhĩ ở cõi cảm dục. (3) Khả năng thấu hiểu và đồng cảm với tất cả những gì ở trong tâm trí người khác—có vẻ là đọc ý nghĩ, hoặc có lẽ là viễn cảm. (4) Năng lực nhớ các lần sinh trước. (5) Thị giác thiêng liêng rõ suốt—tức thông nhãn. Một số bản liệt kê còn thêm “đắc giải thoát bằng trí tuệ”. Dĩ nhiên phải hiểu là đạt tự do khỏi sự tất yếu tái sinh, nhưng điều này dường như không cùng bản chất với các thần lực kia, và có lẽ không nên xếp chung một loại.

Ananda is said to have been the favourite disciple of the Lord BUDDHA, just as John is spoken of as the beloved disciple of the Christ, and no doubt in both cases the special intimacy was the result of relationship in previous lives. Ananda was certainly not so chosen because he was the most advanced, for even after the death of the BUDDHA we hear that when the first great council was held in a cave within the living rock, and the condition of taking part in it was that none should enter who could not pass through the rock, Ananda found himself shut out from it because he had not yet attained this power. But it is said that his grief at this exclusion from a grand opportunity of serving his departed Master was so great that by a supreme effort of will he then and there developed the power which had been lacking, and passed in triumphantly to take his place among his brothers, though a little late.

Ananda được nói là đệ tử yêu dấu của Đức Phật, cũng như Gioan được gọi là đệ tử được Đức Christ yêu dấu; hẳn trong cả hai trường hợp, sự thân cận đặc biệt ấy là do mối tương quan từ những tiền kiếp. Chắc chắn Ananda không được chọn vì là người tiến hóa nhất; vì ngay sau khi Đức Phật nhập diệt, ta nghe rằng khi đại hội đầu tiên nhóm họp trong một hang động khoét ngay trong khối đá liền, và điều kiện tham dự là ai không thể đi xuyên qua đá thì không được vào, Ananda đã bị ngăn ở ngoài vì chưa thành tựu năng lực ấy. Nhưng truyền rằng nỗi u sầu vì bị loại khỏi cơ hội lớn lao để phụng sự bậc Thầy đã viên tịch thôi thúc mạnh đến nỗi, bằng một nỗ lực Ý Chí tối thượng, ngay khi ấy Ananda phát triển được năng lực còn thiếu, và hiên ngang đi vào, gia nhập cùng các huynh đệ của mình, tuy có hơi muộn.

This shows us that even those who are the most highly advanced of all humanity have still their special friendships, and that therefore to love one person more than another cannot be improper. It is true that such affection as you now feel for your nearest and dearest you will feel later on for the whole world, but at that time you will feel a thousand times more affection for those who are nearest to you. Your love will never be the same for all, although all will be included within it. It is impossible that we should feel towards another as we do towards our Master, for when He becomes a LOGOS we shall be part of His system, and even when far later on we ourselves become LOGOI we shall still be part of Him, for He will represent some far greater system. Although there will always be greater love for some than others, we shall help those whom we love less just as fully as those whom we love more. We shall always do our best for all, just as a doctor equally helps his patient whether he be a friend or not, for anything like dislike or hatred will have ceased aeons before.

Điều này cho thấy ngay cả những người tiến hóa bậc nhất trong toàn nhân loại vẫn có những tình bạn đặc thù; vì vậy yêu mến một người hơn người khác không thể là điều sai trái. Đúng là tình cảm mà hiện nay bạn dành cho người thân cận và yêu dấu nhất, về sau bạn sẽ dành cho toàn thế giới; nhưng lúc ấy, đối với những ai gần gũi nhất với bạn, tình cảm ấy sẽ ngàn lần sâu đậm hơn. Tình yêu của bạn sẽ không bao giờ đồng đều với tất cả, dù tất cả đều được bao gồm trong đó. Chúng ta không thể cảm đối với người khác như đối với bậc Thầy của mình, vì khi Ngài trở thành một Thượng đế (LOGOS) chúng ta sẽ là một phần trong hệ thống của Ngài, và ngay cả rất lâu về sau khi chính chúng ta trở thành Các Thượng đế (LOGOI), chúng ta vẫn còn là một phần của Ngài, vì Ngài sẽ đại diện cho một hệ thống còn vĩ đại hơn nhiều. Dẫu sẽ luôn có tình yêu sâu hơn với một số người hơn những người khác, chúng ta vẫn sẽ trợ giúp trọn vẹn cho những ai mình yêu ít cũng như những ai mình yêu nhiều. Chúng ta sẽ luôn làm hết sức mình cho tất cả, như một y sĩ giúp bệnh nhân ngang nhau dù người ấy là bạn hay không; vì mọi xúc cảm kiểu ác cảm hay hận thù đã chấm dứt từ những kỷ nguyên xa xưa.

At the time of the Lord BUDDHA many other spiritual teachers were sent forth to the world. We find for example Lao-tse, Confucius and Pythagoras, all working in their different spheres. Advantage was taken of the stupendous outpouring of spiritual force at the time to send forth teachers into many parts of the world.

Vào thời Đức Phật, nhiều vị Huấn sư tinh thần khác cũng được phái đến thế gian. Chẳng hạn, ta thấy Lão Tử, Khổng Tử và Pythagoras, tất cả đều hoạt động trong lĩnh vực riêng của mình. Người ta đã tận dụng lần tuôn đổ phi thường của mãnh lực tinh thần vào thời điểm đó để sai các vị giáo huấn đến nhiều miền trên thế giới.

CHRISTIANITY

KI TÔ GIÁO

There is nothing in the principles of Theosophy which is at all in opposition to the true primitive Christianity, though there may be statements which cannot be reconciled with some of the mistakes of modern popular theology. This modern theology attaches immense importance to texts; in fact it appears to me to be based upon one or two texts almost entirely. It takes these and gives to them a particular interpretation, often in direct opposition to the plain meaning of other texts from the same bible. Of course there are contradictions in the Christian scripture just as there must necessarily be in any book of that size, the various parts of which were written at such widely separated periods of the world’s history, and by people so unequal in knowledge and in civilization..

Không có điều gì trong các nguyên lý của Thông Thiên Học đối nghịch với Kitô giáo nguyên thủy chân chính, dầu có thể có những phát biểu không thể điều hòa với một vài sai lầm của nền thần học đại chúng hiện đại. Thần học hiện đại này đặt tầm quan trọng khổng lồ vào các câu văn bản; thực ra, theo tôi, nó gần như đặt nền trên một hai câu mà thôi. Nó nắm lấy các câu ấy và gán cho chúng một cách hiểu đặc biệt, thường trái ngược thẳng thừng với nghĩa hiển nhiên của những câu khác cùng trong Kinh thánh ấy. Dĩ nhiên Kinh điển Kitô giáo có những mâu thuẫn, như tất yếu bất cứ quyển sách nào lớn đến thế, mà các phần khác nhau được trước tác vào những thời đoạn quá xa nhau trong lịch sử thế giới, và bởi những người bất tương xứng về tri thức và mức văn minh.

It is impossible that all the statements made in it can be literally true, but we can go back behind them all, and try to find out what the original teacher did lay before His pupils. Since there are many contradictions and many interpretations it is obviously the duty of a thinking Christian to weigh carefully the different versions of his faith which exist in the world, and decide between them according to his own reason and common-sense.

Không thể có chuyện mọi khẳng định trong đó đều đúng theo nghĩa đen; nhưng chúng ta có thể lần trở về hậu trường của tất cả, để cố tìm xem bậc Thầy nguyên thủy thực sự đã trình bày gì cho các môn đồ của Ngài. Vì có nhiều mâu thuẫn và nhiều lối giải thích, hiển nhiên bổn phận của một Kitô hữu biết suy tư là cân nhắc cẩn thận những dị bản khác nhau của đức tin đang tồn tại, và chọn lựa trong số đó theo lý trí và lương tri của chính mình.

Every Christian does, as a matter of fact, decide for himself now; he chooses to be a Roman Catholic, or a member of the Church of England, or a Methodist, or a Salvationist, though each of these sects professes to have the only genuine brand of Christianity, and justifies its claim by the quotation of texts. How then does the ordinary layman decide between their rival claims? Either he accepts blindly the faith which his father held, and does not examine the matter at all, or else he does examine it, and then he decides by the exercise of his own judgment.

Thực tế thì mỗi người Kitô hữu bây giờ đều tự mình quyết định; y chọn làm người Công giáo La Mã, hay tín hữu của Giáo hội Anh, hay một người Giám Lý, hoặc thuộc Hội Cứu Thế—dù mỗi phái ấy đều tự xưng chỉ mình mới mang nhãn hiệu Kitô giáo chính hiệu, và biện minh cho tuyên bố ấy bằng cách dẫn văn bản. Thế thì người tín hữu bình thường quyết định giữa những đòi quyền cạnh tranh ấy ra sao? Hoặc y mù quáng tiếp nhận đức tin của cha mình và không khảo sát gì cả; hoặc y khảo sát, rồi quyết định bằng phán đoán của chính y.

If he is already doing that, it would be absurd and inconsistent for him to refuse to examine all texts, instead of basing his belief only upon one or two. If he does impartially examine all texts, he will certainly find many which support Theosophical truth. He will find also that the creeds can be rationally interpreted only by Theosophy. Of course in order to make an intelligent comparison between these different systems it will be necessary for him to make some enquiries into the history of his own religion, and to see how the Christian doctrine came to be what it now is.

Nếu y đã làm thế, thì thật vô lý và bất nhất nếu y từ chối khảo sát tất cả các văn bản, thay vì chỉ căn cứ niềm tin trên một hai đoạn. Nếu y vô tư khảo sát tất cả các văn bản, y chắc chắn sẽ thấy có nhiều đoạn ủng hộ chân lý của Thông Thiên Học. Y cũng sẽ nhận ra rằng các tín điều chỉ có thể được giải minh một cách hợp lý bởi Thông Thiên Học. Tất nhiên, để có thể so sánh thông tuệ các hệ thống khác nhau này, y cần tìm hiểu đôi điều về lịch sử của chính tôn giáo mình, và thấy học lý Kitô đã trở nên như hiện nay bằng cách nào.

He will find that in the early Christian Church there were three principal divisions or parties. There were first of all the Gnostic Doctors or teachers, wise and cultured men who held that the Christian Church had its system of philosophy of the same nature as the great Greek and Roman systems which existed at that time. They said that this system, while thoroughly comprehensive and very beautiful, was difficult to understand, and therefore they did not recommend its study to the ignorant. They spoke of it as the Gnosis or knowledge—the knowledge which was possessed by those who were full members of the church, but was not given out to the world at large, and not even told to the more ignorant members of the church while they were in that preliminary stage when they could not receive the sacraments.

Y sẽ thấy rằng trong Giáo hội Kitô giáo sơ kỳ có ba phân bộ hay khuynh hướng chính. Trước hết là các học giả Ngộ giáo—những bậc uyên bác và tao nhã—những người chủ trương rằng Giáo hội Kitô có một hệ thống triết học cùng bản chất với các hệ thống Hy-La vĩ đại đương thời. Họ nói hệ thống ấy, tuy hết sức bao quát và rất mỹ lệ, lại khó hiểu; vì vậy họ không khuyến nghị đem dạy cho người ngu dốt. Họ gọi nó là Gnosis hay Tri thức—tức tri thức do những người là hội viên đầy đủ của Giáo hội sở hữu, nhưng không truyền ra bên ngoài, thậm chí không nói cho các tín hữu ít học hơn khi họ còn ở giai đoạn sơ bộ, chưa thể lãnh các bí tích.

Then there was the second division, a body of respectable middle-class people, who troubled themselves not at all about the philosophy, but simply were content to take the words of the Christ as their guide in life. They used as a sacred book a collection of His sayings, some leaves of which have recently been discovered by antiquarians.

Rồi có phân bộ thứ hai—một khối người trung lưu đáng trọng—họ không bận tâm đến triết lý, mà chỉ bằng lòng lấy những lời dạy của Đức Christ làm chỉ nam sống. Họ dùng như một Thánh thư một sưu tập các lời Ngài dạy; vài tờ trong đó mới đây các nhà khảo cổ đã phát hiện.

Then there was unfortunately a great mass of ignorant and turbulent people who never had any grasp whatever of Christian doctrine, but became members of the church merely because of the prophecies, given by the Christ, of a good time to come. He was very much moved by the sufferings of the poor, and full of compassion and pity for them. He told them constantly, in His teachings, to take comfort, because the poor man who endures the struggle bravely and well will in the future have a better position and greater advancement than the rich man who misuses his opportunities. One can readily see how that doctrine preached to an exceedingly ignorant people might be taken in a one-sided manner. They would take the promises and not the conditions, and their idea of that good time might easily be that they in turn would be the oppressors and would take advantage of the rich man—something which of course the Christ never preached. So it came to pass that He attracted to himself a great crowd of men who for various reasons were against the existing government; and when these ignorant people in turn preached what they called Christianity to others, they naturally intensified and exaggerated their own misconceptions of it. This great mass of the common people, who called themselves “the poor men,” speedily became a vast majority of the infant church, and gained so much power that they were eventually able to throw out the Gnostic Doctors as heretics; for the “poor men” resented the idea that any knowledge which they did not possess could be regarded as an essential part of Christianity.

Rồi tiếc thay lại có một khối quần chúng vô tri và hiếu động, tuyệt nhiên không nắm được giáo lý Kitô, nhưng gia nhập Giáo hội chỉ vì các lời tiên tri, do Đức Christ ban, về một thời kỳ tốt đẹp sẽ đến. Ngài vô cùng cảm thương nỗi khổ của người nghèo, tràn lòng bi mẫn với họ. Ngài thường dạy họ hãy vững lòng, vì người nghèo chịu đựng chiến đấu một cách can trường và đúng đắn thì mai sau sẽ có địa vị cao hơn và tiến bộ lớn hơn người giàu lạm dụng cơ hội mình có. Dễ thấy giáo lý ấy, khi rao cho một đám người cực kỳ ngu dốt, có thể bị tiếp nhận theo một chiều. Họ sẽ nắm lấy lời hứa mà không màng điều kiện, và ý niệm của họ về thời kỳ tốt đẹp ấy rất có thể là đến lượt họ sẽ là kẻ áp bức và lợi dụng người giàu—điều mà dĩ nhiên Đức Christ chưa từng giảng dạy. Bởi thế Ngài đã thu hút về mình một đám đông những người vì nhiều lý do chống lại chính quyền hiện hữu; và khi những người ngu dốt ấy rao truyền thứ mà họ gọi là Kitô giáo cho kẻ khác, tự nhiên họ làm gia trọng và phóng đại những hiểu lầm của chính họ. Khối quần chúng rộng lớn này, tự gọi mình là “những người nghèo,” nhanh chóng trở thành đa số áp đảo của Giáo hội sơ sinh, và nắm quyền lực lớn đến nỗi cuối cùng họ có thể loại các học giả Ngộ giáo ra như lạc giáo; vì “những người nghèo” khó chịu trước ý nghĩ rằng có bất cứ tri thức nào họ không sở hữu lại có thể được coi là yếu tố thiết yếu của Kitô giáo.

There is yet another point of view from which the Christian may find Theosophy of the greatest use to him. Just now the minds of many orthodox Christians are much exercised with regard to what they call the higher criticism—that is, the attempt to apply ordinary common-sense and scientific methods to the examination of the religious teaching—the endeavour to understand religion instead of blindly believing it. For many ages the world has been told that ecclesiastical dogmas must be swallowed like pills, and that to attempt to reason about them is impious. There are many men in the world, and they are among the most intellectual of its citizens, who simply cannot accept doctrines thus blindly and uncomprehendingly. Before they can believe they must to some extent understand, and a statement does not become a living fact to them until they can relate it rationally to other facts, and regard it as part of a more or less comprehensive scheme of things.

Còn một góc nhìn khác để người Kitô hữu có thể thấy Thông Thiên Học hữu ích nhất cho mình. Hiện nay tâm trí nhiều Kitô hữu chính thống bị khuấy lên vì cái mà họ gọi là “phê bình cấp cao”—tức nỗ lực áp dụng lương tri thông thường và các phương pháp khoa học vào việc khảo sát giáo huấn tôn giáo—cố gắng hiểu tôn giáo thay vì mù quáng tin theo. Bao đời nay, người ta được bảo rằng giáo điều giáo hội phải nuốt như thuốc viên, và rằng toan suy luận về chúng là phạm thượng. Có nhiều người trên đời—và họ là những trí giả bậc nhất trong xã hội—đơn giản không thể tiếp nhận các giáo điều một cách mù quáng và không hiểu như thế. Trước khi tin, họ phải hiểu ở mức nào đó; một mệnh đề không trở thành sự kiện sống đối với họ cho đến khi họ có thể gắn kết nó một cách hợp lý với các sự kiện khác, và xem nó như một phần của một mô hình sự vật ít nhiều bao quát.

It is ridiculous to say (as some of the orthodox do) that these people are inherently wicked and that their attitude is inspired by the devil. On the contrary they are precisely the men who truly appreciate God’s great gift of reason, and are determined to employ it in the highest of all possible directions—for the elucidation of the truth about religion. The truth is that the critics are of the greatest possible service to religion; they are clearing up points in it which heretofore have been vague; they are stating with accuracy matters in connection with it which were previously very partially understood; they are trying to make a reasonable system out of what has until now been nothing but a mass of meaningless confusion.

Thật nực cười khi nói (như một số người chính thống làm) rằng những người ấy vốn ác và thái độ của họ do ma quỷ xúi giục. Trái lại, chính họ là những người thực sự trân trọng tặng ân lớn lao là lý trí của Thượng đế, và quyết tâm dùng nó theo phương hướng cao cả nhất—để minh giải chân lý về tôn giáo. Sự thật là các nhà phê bình là những người phục vụ tôn giáo hữu ích nhất; họ đang làm sáng tỏ những điểm bấy lâu mơ hồ; họ đang phát biểu một cách chuẩn xác những điều trước đây chỉ hiểu được rất phần nào; họ đang cố tạo nên một hệ thống hợp lý từ cái vốn cho đến nay chỉ là một đống hỗn độn vô nghĩa.

If any of our members have orthodox friends who are disturbed by these efforts, who fear lest this liberalizing and rationalizing of their faith should refine it altogether out of existence, let them recommend to them the teachings of Theosophy, for that is the very thing which they need. It will teach them to pause before throwing aside ancestral belief, and it will show them that when properly understood that belief has a real meaning and a real foundation, and that, while some of the vagaries of mediaeval ecclesiastical dogma may be incomprehensible and incredible, the original teaching of the Christ was a magnificent presentment of universal truth.

Nếu các hội viên của chúng ta có những bạn bè chính thống đang bị xao động bởi các nỗ lực này, sợ rằng việc khai phóng và duy lý hóa đức tin sẽ tinh luyện nó đến mức triệt tiêu, hãy khuyên họ học giáo huấn của Thông Thiên Học, vì đó chính là điều họ cần. Thông Thiên Học sẽ dạy họ dừng lại trước khi vứt bỏ tín điều tổ tiên, và cho họ thấy rằng khi hiểu đúng, niềm tin ấy có ý nghĩa thật sự và có nền tảng thật sự; rằng tuy vài dị đoan của giáo điều giáo hội thời Trung cổ có thể khó hiểu và khó tin, nhưng giáo huấn nguyên thủy của Đức Christ là một sự trình bày hùng vĩ về chân lý phổ quát.

If they have somewhat outgrown the outer form of their religion, if they have broken through the chrysalis of blind faith, and mounted on the wings of reason and intuition to the freer, nobler mental life of more exalted levels, Theosophy will show them that in all this there has been no loss, but a great and glorious gain. For it tells them that the glow of devotion which has meant so much to them in their spiritual life is more than justified, that the splendour and beauty and poetry of religious thought exist in fuller measure than they have ever hoped before—no longer as mere pleasant dreams from which the cold light of common-sense may at any time rudely awaken them, but as truths of nature which will bear investigation, which become only brighter and more perfect as they are more accurately understood.

Nếu họ đã phần nào vượt ra khỏi hình thức bên ngoài của tôn giáo mình, nếu họ đã phá kén của đức tin mù quáng và bay lên, bằng đôi cánh của lý trí và trực giác, vào đời sống trí tuệ tự do và cao nhã hơn ở những tầng mức cao hơn, Thông Thiên Học sẽ cho họ thấy rằng trong tất cả điều ấy không có mất mát nào, mà là một thu hoạch lớn lao và vinh quang. Vì Thông Thiên Học nói với họ rằng ngọn lửa sùng mộ từng có ý nghĩa lớn lao trong đời sống tinh thần của họ không những chính đáng mà còn hơn thế; rằng vẻ huy hoàng, cái đẹp và chất thơ của tư tưởng tôn giáo tồn tại sung mãn hơn họ từng hy vọng—không còn là những giấc mộng êm đềm mà ánh sáng lạnh lẽo của lương tri có thể bất kỳ lúc nào thô bạo đánh thức họ dậy, mà là những chân lý của thiên nhiên có thể chịu đựng sự khảo sát, càng được hiểu đúng đắn thì càng thêm rực rỡ và hoàn hảo.

Certainly the Christian Bible ought not to be taken literally, for many of its statements are symbolical, and others are simply not true. When we examine clairvoyantly the life of the Founder of Christianity, for example, we can find no trace of the alleged twelve apostles, it would seem that as men they never existed, but that they were introduced into the story for some reason—possibly to typify the twelve signs of the zodiac. The disciple Jesus, whose body was taken by the Christ, was not an illegitimate son, as is implied in the gospel, nor was his father a carpenter. He was in reality of the highest aristocracy of the Jews, a descendant of their own old royal line. He may however have had a tinge of Aryan blood in him, which would be quite enough to cause the exclusive Jews to say that he was not legitimately of the seed of David, and that statement might very easily be taken to mean such an irregular birth as is suggested by the narrative.

Chắc chắn Kinh Thánh Kitô giáo không nên được hiểu theo nghĩa đen, vì nhiều phát biểu của nó là biểu tượng, và những phát biểu khác đơn giản là không đúng sự thật. Chẳng hạn, khi dùng thông nhãn khảo sát đời sống của bậc Sáng lập Kitô giáo, chúng ta không tìm thấy dấu vết của mười hai tông đồ như được gán định; xem ra, với tư cách con người, họ chưa từng hiện hữu, nhưng được đưa vào câu chuyện vì một lý do nào đó—có thể để biểu trưng mười hai dấu hiệu hoàng đạo. Vị đệ tử Jesus, người mà thể xác được Đức Christ mượn dùng, không phải là con ngoài giá thú như Phúc âm hàm ý, cũng không có cha là thợ mộc. Thực ra, Ngài thuộc hàng quý tộc cao cấp nhất của người Do Thái, dòng dõi hoàng gia xưa của họ. Tuy nhiên, có thể trong huyết quản Ngài có một chút máu Arya—chừng ấy cũng đủ để những người Do Thái khép kín nói rằng Ngài không chính thống là dòng giống Đavít; và lời nói ấy rất dễ bị hiểu lầm thành sự sinh nở bất chính như câu chuyện gợi ra.

The truth is that the four gospels at any rate were never intended to be taken as in any sense historical. They are all founded upon a much shorter document written in Hebrew by a monk named Matthaeus, who lived in a monastery in a desert to the south of Palestine. He seems to have conceived the idea of casting some of the great facts of initiation into a narrative form and mingling with it some points out of the life of the real Jesus who was born 105 B. C., and some from the life of another quite obscure fanatical preacher, who had been condemned to death and executed in Jerusalem about 30 A. D.

Sự thật là ít nhất bốn sách Phúc âm vốn không hề được chủ ý xem như có tính lịch sử theo bất kỳ nghĩa nào. Tất cả đều dựa trên một tài liệu ngắn hơn rất nhiều, viết bằng tiếng Do Thái bởi một tu sĩ tên Matthaeus, sống trong một tu viện ở sa mạc phía nam Palestine. Có vẻ như ông đã nảy ý định đúc kết vài đại sự kiện của điểm đạo vào hình thức tường thuật và hòa vào đó vài nét từ đời vị Jesus có thật sinh năm 105 TCN, cùng một vài nét từ đời một nhà giảng đạo cuồng tín vô danh khác, người bị kết án tử và xử tại Jerusalem khoảng năm 30 SCN.

He sent this document to a great friend of his who was the chief abbot of a huge monastery at Alexandria, and suggested to him that he, or some of his assistants, might perhaps recast it, and issue it in the Greek language. The Alexandrian abbot seems to have employed a number of his young monks upon this work, allowing each of them to try the task for himself, and to treat it in his own way. A number of documents of very varying merit were thus produced, each incorporating in his story more or less of the original manuscript of Matthaeus, but each also adding to it such legends as he happened to know, or as his taste and fancy dictated. Four of these still survive to us, and to them are attached the names of the monks who wrote them, Matthew, Mark, Luke and John. The splendid passage with which the gospel of St. John opens was not original but quoted, for we found it in existence many years before the time of the Christ in a manuscript which was even then of hoary antiquity.

Ông gửi bản thảo ấy cho một người bạn thân—vị đại viện chủ của một tu viện đồ sộ tại Alexandria—và gợi ý rằng ông, hoặc vài phụ tá, có thể biên soạn lại và công bố bằng tiếng Hy Lạp. Vị viện chủ Alexandria dường như đã giao việc này cho một số tu sĩ trẻ, để mỗi người thử sức mình và xử lý theo cách riêng. Thế là xuất hiện một số bản văn phẩm chất rất khác nhau; mỗi bản lấy vào câu chuyện của mình ít nhiều nội dung của bản Matthaeus nguyên thủy, đồng thời thêm vào những truyền thuyết mà soạn giả tình cờ biết, hoặc hợp với thị hiếu và óc tưởng tượng của mình. Bốn bản trong số ấy còn tồn tại đến nay, gắn với tên các tu sĩ đã viết: Matthêu, Máccô, Luca và Gioan. Đoạn mở đầu tuyệt diệu của Phúc âm theo Thánh Gioan không phải nguyên tác, mà là trích dẫn; vì chúng tôi đã thấy nó tồn tại nhiều năm trước thời Đức Christ, trong một bản thảo khi ấy đã cổ xưa rêu phong.

It was associated in that manuscript with a quotation from the Stanzas of Dzyan, this latter also being translated into Greek.

Trong bản thảo ấy, đoạn văn được đặt kèm một trích dẫn từ Các Khổ Kệ của Dzyan, và phần sau đó cũng được dịch sang tiếng Hy Lạp.

SIN

TỘI LỖI

You ask what is the real meaning of sin. In the sense in which the word is ordinarily employed, at least by Christian preachers, I think sin may be defined as a figment of the theological imagination. It is popularly supposed to indicate a defiance of divine law—the performance of some action which the actor knows to be wrong. It is exceedingly doubtful whether this phenomenon ever occurs. In almost every conceivable case man breaks the law through ignorance or heedlessness, and not of deliberate intention. When once a man really knows and sees the divine intention he inevitably comes into harmony with it, for two reasons: at an earlier stage because he sees the utter futility of doing otherwise, and later because, seeing the glory and beauty of the design, he cannot but throw himself into its execution with all the powers of his heart and soul.

Bạn hỏi ý nghĩa thực sự của tội lỗi là gì. Theo nghĩa mà từ này thường được dùng—ít nhất là bởi các nhà giảng đạo Kitô—tôi nghĩ tội lỗi có thể được định nghĩa là một sản phẩm của trí tưởng tượng thần học. Người ta thường cho rằng nó chỉ sự thách thức luật thiêng—việc làm một hành vi mà kẻ làm biết là sai. Hết sức đáng ngờ liệu hiện tượng ấy có thật sự xảy ra. Hầu như trong mọi trường hợp có thể nghĩ tới, con người phá luật vì ngu dốt hay cẩu thả, chứ không phải do cố ý. Một khi thật sự biết và thấy thiên ý, con người tất yếu hòa hợp với nó vì hai lý do: ở giai đoạn sớm hơn, vì thấy hoàn toàn vô ích nếu làm khác; và ở giai đoạn sau, vì thấy vinh quang và cái đẹp của đồ án, y không thể không dốc hết tâm hồn và sinh lực để thực hiện nó.

One of the most serious of the many misconceptions which we have inherited from the dark ages is that what is called “sin” is a perversity to be met with punishment and savage persecution, instead of what it really is, the result of a condition of ignorance that can only be dealt with by enlightenment and education. It may be objected that in daily life we constantly see people doing what they must know to be wrong, but this is a misstatement of the case. They are doing what they have been told is wrong, which is quite a different matter. If a man really knows that an action is wrong, and that it will inevitably be followed by evil consequences, he is careful to avoid it. A man really knows that fire will burn him; therefore he does not put his hand into it. He has been told that the fire of hell will burn him as the result of a certain action—say playing cards on a Sunday—but he does not really know this, and therefore when he fells the inclination to play cards he does so in spite of the threatened consequences. It will be found that every one who does wrong justifies the wrong action to himself at the time of its commission, whatever he may think about it afterwards in cold blood. So I say that sin as ordinarily understood is a figment of the theological imagination; what really exists is an unfortunate condition of ignorance which often leads to infraction of the divine Law. This ignorance it is our duty to endeavour to dispel by the light of Theosophy.

Một trong những ngộ nhận nghiêm trọng nhất mà chúng ta thừa hưởng từ thời hắc ám là cái gọi là “tội” bị coi như chứng ngang bướng cần đối trị bằng hình phạt và đàn áp hung bạo, thay vì thừa nhận nó thực ra là hệ quả của trạng thái vô minh—mà chỉ có thể xử lý bằng sự soi sáng và giáo dục. Có thể phản bác rằng trong đời sống hàng ngày ta thường thấy người ta làm điều mà hẳn họ biết là sai; nhưng đó là phát biểu sai về tình huống. Thực ra họ làm điều mà họ đã được bảo là sai—đó là chuyện hoàn toàn khác. Nếu một người thật sự biết một hành vi là sai, và rằng tất yếu nó sẽ kéo theo hậu quả xấu, y sẽ cẩn thận tránh. Một người thật sự biết lửa sẽ đốt cháy mình, vì thế y không thọc tay vào lửa. Y từng được bảo rằng lửa địa ngục sẽ đốt y do kết quả của một hành vi nào đó—thí dụ chơi bài vào Chủ nhật—nhưng y không thật sự biết điều ấy; vì vậy khi có khuynh hướng muốn chơi bài, y vẫn cứ làm bất chấp hậu quả bị đe dọa. Bạn sẽ thấy rằng ai làm điều sai cũng tự biện hộ cho hành vi ấy vào lúc thực hiện, bất kể sau đó khi nguội đầu y nghĩ sao. Cho nên tôi nói tội lỗi như người ta vẫn hiểu chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng thần học; cái thực sự tồn tại là một trạng thái vô minh đáng tiếc, thường dẫn đến vi phạm Định luật thiêng liêng. Nhiệm vụ của chúng ta là nỗ lực xua tan vô minh ấy bằng ánh sáng của Thông Thiên Học.

THE POPE

GIÁO HOÀNG

A magnificent opportunity is waiting for the Pope who shall be ready and brave enough to take it. Instead of fulminating rescripts and bulls against Theosophy and liberalism, he might himself propound the Theosophical interpretation of Christianity. Remember that the Catholic Church possesses what is called the doctrine of development, and also that it has proclaimed the Pope to be the infallible exponent of divine doctrine, the vicegerent of God upon earth. He would therefore be perfectly within his rights if, with regard to the Theosophical interpretation, he should pronounce quite boldly:

Một cơ hội lừng lẫy đang chờ đợi vị Giáo hoàng nào sẵn sàng và đủ can đảm nắm lấy. Thay vì giáng các sắc thư và sắc chỉ chống Thông Thiên Học và chủ nghĩa tự do, chính Ngài có thể trình bày cách hiểu Kitô giáo theo Thông Thiên Học. Hãy nhớ rằng Giáo hội Công giáo có cái gọi là “học thuyết phát triển,” và cũng đã tuyên bố Giáo hoàng là vị giảng giải vô ngộ của giáo lý thiêng liêng, là đại diện của Thượng đế trên trần gian. Do đó, xét về quyền hạn, hoàn toàn chính đáng nếu, liên quan đến cách hiểu theo Thông Thiên Học, Ngài mạnh dạn tuyên bố:

“Certainly this which you bring forward is the true meaning of Christian doctrine. We have always known this, and we have plenty of manuscripts in the Vatican Library to prove it. We did not tell you this before, because all through the ages until now men have not been fit for such a revelation. They have been too crude, too rough, too undeveloped to understand a philosophical and mystical interpretation. The outer husk of the religion has been all that could usefully be offered to them. Now one stage more has been attained and the world is ready for this further revelation. The second and inner meaning of our doctrine is therefore put before you, and while we must not condemn those who are still at the stage when they must cling to the outer husk, neither must they on their part be allowed to condemn those who are ready to take the further step and to receive a higher illumination.”

“Chắc chắn điều mà các ông đưa ra đây là ý nghĩa chân thực của giáo lý Kitô. Chúng tôi luôn biết điều này, và chúng tôi có nhiều bản thảo trong Thư viện Vatican làm bằng chứng. Chúng tôi chưa nói với các ông trước kia, vì suốt các thời đại cho đến nay, loài người chưa thích hợp với một sự mặc khải như thế. Họ còn quá thô, quá cứng, quá non kém để hiểu một cách giải thích mang tính triết học và huyền nhiệm. Vỏ trấu bên ngoài của tôn giáo là tất cả những gì có thể hữu ích mà dâng cho họ. Nay nhân loại đã đạt thêm một nấc và thế giới sẵn sàng tiếp nhận mặc khải tiến xa hơn này. Ý nghĩa thứ hai, nội tại của giáo lý chúng tôi được đặt trước các ông; và trong khi chúng ta không nên kết án những ai còn đang ở giai đoạn cần bám chặt vào lớp vỏ bên ngoài, thì mặt khác cũng không thể để họ kết án những người đã sẵn sàng tiến thêm một bước và lãnh nhận sự soi sáng cao hơn.”

But of course he must indeed be a strong as well as a wise man who should do this, for like all other great personages the Pope is surrounded by enormous masses of thought-forms, and he would find it a matter of extreme difficulty to break through these and make a new departure.

Nhưng dĩ nhiên, phải là một con người vừa mạnh mẽ vừa khôn ngoan mới có thể làm điều ấy; vì như mọi nhân vật lớn lao khác, Giáo hoàng bị bao quanh bởi những khối hình tư tưởng khổng lồ, và Ngài sẽ thấy hết sức khó khăn để phá xuyên qua đó mà mở ra một lối đi mới.

CEREMONIAL

NGHI LỄ

The line of ceremonial is one along which many people come, but of course it must be understood that no religious ceremonial whatever is ever really essential, and the man who wishes to enter upon the Path of Holiness must realize this fully and must cast off belief in the necessity of ceremonies, as one of the fetters which hold him back from nirvana. This does not mean that ceremonies may not be sometimes quite effective in producing the results which are intended, but only that they are never really necessary for any one, and that the candidate for higher progress must learn to do utterly without them. The ceremonial line is an easy road for a certain type of people, and is really helpful and uplifting for them; but there is another type of men who always feel ceremonial as an obstacle between themselves and the deities which they wish to reach.

Con đường nghi lễ là một lối mà nhiều người bước theo, nhưng tất nhiên cần hiểu rằng bất kỳ nghi lễ tôn giáo nào rốt ráo đều không hề thiết yếu; và người muốn bước lên Con Đường Thánh Đức phải thấu triệt điều này và vứt bỏ niềm tin vào tính tất yếu của nghi lễ, như một trong những xiềng xích trói buộc y khỏi Niết-bàn. Điều này không có nghĩa nghi lễ đôi khi không hiệu nghiệm trong việc tạo ra kết quả mong muốn, mà chỉ có nghĩa là chúng không bao giờ thật sự cần cho bất kỳ ai, và người ứng viên của tiến bộ cao hơn phải học cách hoàn toàn không nương vào chúng. Con đường nghi lễ là một lối dễ đi cho một hạng người nào đó, và thực sự hữu ích, thăng hoa cho họ; nhưng lại có hạng người khác luôn cảm thấy nghi lễ như một chướng ngại giữa họ với các vị Thần mà họ muốn vươn tới.

In Christianity this ceremonial line is the one appointed by its founder, through which his magic is to work. The consecration of the host, for example, is a means by which spiritual force is poured out over the people. There is often a vast amount of devotional feeling at the moment of the consecration, and the working of the magic is assisted by that, though it does not depend upon it. Those who are devotional unquestionably receive more because they bring with them an additional faculty of reception. On the other hand, there is always the probability that ignorant devotion will degenerate into superstition. In a recent enquiry into these matters from the occult point of view, made in Sicily, I found that there was certainly plenty of superstition, and much harmful interference in family matters on the part of the priests; but still on the whole the country was distinctly better than it would have been without it. We should remember also that in history we usually hear much of the worst effects of religious enthusiasm, whereas the good steady progress of many thousands under its influence makes but little impression.

Trong Kitô giáo, con đường nghi lễ là lối do bậc Sáng lập ấn định, qua đó huyền thuật của Ngài vận hành. Chẳng hạn, việc thánh hiến bánh thánh là một phương tiện để tuôn đổ mãnh lực tinh thần xuống dân chúng. Thường có một lượng lớn cảm thức sùng mộ vào khoảnh khắc thánh hiến, và điều ấy trợ lực cho sự vận hành của huyền thuật, dù nó không lệ thuộc vào đó. Những người sùng mộ không hồ nghi sẽ tiếp nhận nhiều hơn, vì họ mang đến thêm năng lực thụ cảm. Mặt khác, luôn có khả năng sự sùng mộ vô minh thoái hóa thành mê tín. Trong một cuộc khảo sát gần đây về những vấn đề này từ quan điểm huyền bí học, thực hiện ở Sicilia, tôi thấy quả thật có nhiều mê tín, và nhiều can thiệp tai hại của các linh mục vào chuyện gia đình; nhưng nhìn chung, đất nước ấy vẫn tốt hơn hẳn so với khi không có những điều ấy. Ta cũng nên nhớ rằng trong lịch sử, người ta thường kể nhiều về các hệ quả tệ hại nhất của nhiệt cuồng tôn giáo, trong khi sự tiến bộ bền bỉ tốt đẹp của hàng ngàn người dưới ảnh hưởng của nó lại ít được để ý.

PRAYER

LỜI CẦU NGUYỆN

It is difficult to say anything on the question of prayer that would be universally applicable, because there are such very different kinds of prayer and they are addressed to beings who differ very widely in evolution. The founders of most great religions never in any way encouraged their followers to pray to them, and as a rule the latter have been far too enlightened to do anything of the kind. Whether a very strong thought directed towards them would reach them or not would depend upon the line of evolution which they have since followed—in fact upon whether they still remain within touch of this earth or not. If they were still so within reach, and if such a thought did reach them, it is probable that if they saw that it would be good for the thinker that any notice should be taken they would turn in his direction the attention of some of their pupils who are still upon earth. But it is quite inconceivable that a man who had any sort of conception of the magnificent far-reaching work done for evolution by the Great Ones on higher planes could dream of intruding his own petty concerns upon Their notice; he could not but know that any kind of help that he required would be far more fitly given to him by someone nearer to his own level. Even down here on this physical plane we are wiser than that, for we do not waste the time of the greatest scholars of our universities in helping babies over the difficulties of the alphabet.

Khó mà nói điều gì về vấn đề cầu nguyện có thể áp dụng phổ quát, vì có quá nhiều loại cầu nguyện khác nhau và chúng được hướng đến những hữu thể khác nhau xa về mức tiến hóa. Các bậc sáng lập của đa số tôn giáo lớn không hề khuyến khích tín đồ cầu nguyện với các Ngài; và theo lệ thường, tín đồ quá mực khai sáng để làm điều như vậy. Liệu một ý tưởng rất mạnh hướng về các Ngài có đến được với các Ngài hay không còn tùy vào đường lối tiến hóa mà các Ngài đã theo kể từ đó—thực tế là liệu các Ngài còn ở trong tầm tiếp cận của cõi đất này hay không. Nếu các Ngài còn ở trong tầm, và nếu ý tưởng như thế chạm đến các Ngài, có thể rằng nếu thấy việc lưu ý đến người cầu xin là tốt cho y, các Ngài sẽ hướng sự chú ý của một vài môn sinh của mình—những vị còn đang ở thế gian—về phía người ấy. Nhưng thật khó tưởng tượng một người có chút ý niệm nào về công trình vĩ đại và thấu suốt xa rộng mà Các Đấng Cao Cả đang thực hiện cho sự tiến hóa trên các cõi cao lại dám mơ chuyện đem những mối bận tâm nhỏ nhặt của riêng mình mà quấy rầy Các Ngài; y phải biết rằng bất cứ sự giúp đỡ nào y cần đều thích hợp hơn khi được ban bởi ai đó gần mức của y hơn. Ngay ở cõi hồng trần này, chúng ta cũng khôn ngoan hơn thế: chúng ta không phí thời gian của những học giả lớn nhất trong các đại học để giúp các em bé vượt qua khó khăn của bảng chữ cái.

As regards the saints of any of the churches the position is different, though even with them the ability to hear prayers will depend upon their position in evolution. The ordinary saint, who is simply a good and holy man, will of course take his heaven-life as usual, and will probably take a long one. His life on the astral plane would be likely to be but short, and it would be only during that that it would be possible for a prayer to reach him and attract his attention. If during that time it did so reach him, no doubt he would do anything that he could to satisfy the petitioner but it is by no means certain that it would attract his attention, for he would naturally be fully occupied with his new surroundings.

Đối với các thánh của bất kỳ giáo hội nào, tình hình lại khác; dù ngay cả với các ngài, khả năng nghe lời cầu nguyện cũng tùy thuộc vào địa vị các ngài trong tiến hóa. Một vị thánh bình thường—một người đơn giản là tốt lành và thánh thiện—dĩ nhiên sẽ trải qua thời kỳ sống ở cõi thượng thiên như thường lệ, và có lẽ thời kỳ ấy sẽ dài. Đời sống của vị ấy trên cõi cảm dục có lẽ sẽ ngắn, và chỉ trong quãng ấy thì lời cầu nguyện mới có thể chạm đến và thu hút sự chú ý của vị. Nếu trong thời gian đó lời cầu chạm đến, hẳn vị sẽ làm bất cứ điều gì có thể để đáp lời người thỉnh nguyện; nhưng không hề chắc rằng lời cầu có thể thu hút sự chú ý của vị, vì tự nhiên vị ấy đang bận rộn làm quen với môi trường mới.

When he entered upon his long rest in the heaven-world he would be entirely beyond any possibility of being disturbed by earthly things; yet even in such a case a prayer to him might not be without effect in connection with him. Such a man would almost certainly be pouring out a constant stream of loving thought towards humanity, and this thought would be a real and potent shower of blessing, tending generally towards the spiritual helping of those upon whom it fell; and there is no doubt that the man who was earnestly thinking of or praying to that saint would come into rapport with him, and would therefore draw down upon himself a great deal of that force, though entirely without the knowledge of the saint from whom it came. If the saint were sufficiently advanced to have entered upon a special series of births rapidly following one another the case would be different again. He would then be all the time within reach of earth, either living on the astral plane or in incarnation upon the physical, and if the prayer were strong enough to attract his attention at any time when he was for a moment out of his body, he would probably give any help in his power.

Khi vị ấy bước vào kỳ nghỉ dài ở cõi thượng thiên, vị hoàn toàn ở ngoài mọi khả năng bị những việc trần thế quấy rầy; tuy vậy, ngay trong trường hợp như thế, lời cầu nguyện với vị cũng không phải là vô hiệu liên quan đến vị. Một người như thế gần như chắc chắn sẽ luôn tuôn đổ một dòng tư tưởng yêu thương bất tận về phía nhân loại, và dòng tư tưởng ấy là một trận mưa chúc phúc thực sự và hữu hiệu, nói chung hướng đến sự trợ giúp tinh thần cho những ai mà nó rơi xuống; và không nghi ngờ, người đang thành tâm nghĩ đến hay cầu nguyện với vị thánh ấy sẽ đi vào tương liên với vị, và do vậy sẽ kéo được rất nhiều lực ấy xuống cho chính mình—dù vị thánh hoàn toàn không hay biết gì về điều đã phát ra từ mình. Nếu vị thánh tiến hóa đủ để bước vào một loạt các lần lâm phàm nối nhau nhanh chóng, tình hình lại khác nữa. Khi ấy vị sẽ thường xuyên ở trong tầm cõi đất, hoặc đang sống trên cõi cảm dục, hoặc đang nhập thể trên cõi hồng trần; và nếu lời cầu đủ mạnh để thu hút sự chú ý của vị vào một lúc nào đó khi vị rời thân thể chốc lát, vị có lẽ sẽ ban mọi giúp đỡ trong khả năng.

But fortunately for the many thousands who are constantly pouring forth their souls in prayer—in the blindest ignorance, of course, but still in perfect good faith—there is something else to depend upon which is independent of all these considerations. Shri Krishna tells us, in the Bhagavad Gita, how all true prayers come to Him, to whomsoever they may have been ignorantly offered; there is a consciousness wide enough to comprehend all, which never fails in its response to any earnest effort in the direction of an increased spirituality. It works through many means; sometimes perhaps by directing the attention of a deva to the suppliant, sometimes through the agency of those human helpers who work upon the astral or mental planes for the good of humanity. Such a deva or helper so used would, if he showed himself, inevitably be taken by the petitioner for the saint to whom he had prayed, and there are many stories which illustrate this.

Nhưng may thay cho hàng ngàn người vẫn hằng dốc đổ tâm hồn mình trong cầu nguyện—dĩ nhiên là trong vô minh, nhưng vẫn với thiện chí trọn vẹn—còn có điều khác để nương tựa, độc lập với tất cả những cân nhắc vừa nói. Shri Krishna nói với chúng ta, trong Bhagavad Gita, rằng mọi lời cầu chân thật đều đến với Ngài, dù chúng có được dâng lên một cách vô minh cho ai đi nữa; có một tâm thức đủ rộng để bao dung tất cả, không bao giờ thất bại trong sự đáp ứng trước bất cứ nỗ lực chân thành nào hướng đến gia tăng tính tinh thần. Tâm thức ấy vận hành qua nhiều phương tiện; đôi khi có lẽ bằng cách hướng sự chú ý của một vị thiên thần (deva) đến người cầu xin; đôi khi qua cơ quan của những người trợ giúp nhân loại đang làm việc trên cõi cảm dục hay cõi trí. Một vị thiên thần hay người trợ giúp được vận dụng như thế, nếu hiện thân ra, hẳn tất yếu bị người cầu xin nhận lầm là vị thánh mà y đã cầu, và có nhiều câu chuyện minh họa điều này.

I myself, for example, have been taken under such circumstances for S. Philip Neri, and a junior helper who was with me on the occasion was supposed to be S. Stanislaus Kostka. Our President, too, has more than once been regarded as an angel by those whom she was assisting.

Chính tôi, chẳng hạn, trong những trường hợp như vậy đã từng bị nhận lầm là Thánh Philip Neri; và một người trợ giúp trẻ đi cùng tôi khi ấy đã bị cho là Thánh Stanislaus Kostka. Vị Chủ tịch của chúng tôi cũng đã hơn một lần bị những người được bà giúp đỡ coi như một thiên thần.

THE DEVIL

MA QUỶ

The devil is non-existent. There are persons who imagine themselves to have made pacts with him, sometimes signed with their own blood. The result depends largely upon what sort of entity happened to personate him for the occasion. There are plenty of creatures of various sorts who would hugely enjoy such a joke at the expense of a man; but no such entity, whatever he may be, could possibly have any use for the “soul” of a man—nor would the “soul” of anybody foolish enough to make such a compact be likely to be of any use, either to the owner or anybody else. All these absurd superstitions are disproved by the fact that the man is the ego, and therefore cannot sell himself, and also that there are no buyers in such a transaction; so the whole thing is nothing but foolishness.

Ma quỷ không hề tồn tại. Có những người tưởng rằng mình đã lập khế ước với nó, đôi khi còn ký bằng chính máu mình. Kết quả tùy phần lớn vào loại thực thể nào tình cờ đóng vai nó trong dịp đó. Có thừa những loài sinh linh khác nhau sẽ vô cùng khoái trá trước một trò đùa như thế để hại con người; nhưng không một thực thể nào như vậy, dù là gì đi nữa, có thể có nhu cầu gì đối với “linh hồn” của con người—và “linh hồn” của bất kỳ ai dại dột đến mức ký khế ước như vậy cũng khó mà hữu dụng cho chủ của nó hay cho bất kỳ ai khác. Tất cả những điều mê tín nực cười này bị bác bỏ bởi sự kiện rằng con người chính là chân ngã, nên không thể bán chính mình; và cũng bởi sự kiện rằng chẳng có người mua nào trong thứ giao dịch ấy. Cho nên toàn bộ câu chuyện chẳng qua chỉ là sự dại dột.

There are many entities who may be both willing and able to arrange twenty years of material prosperity for a person. They are generally willing to do it in return for some material consideration, such as the sacrifice of babies, goats or fowls. The ego has no share in these pacts, either in the rare individual cases, or in general fetish worship. These entities cannot possess the human ego, nor could they use it if it could come into their possession. A human body is sometimes convenient for them, and for the sake of being permitted to obsess it they will sometimes enter into an arrangement. The making of a compact of this nature gives the entity a strong hold upon the man; but as soon as he discovers the folly of his action, the proper course for the man to take is to resist such obsession to the utmost. Childish ceremonies, such as signing with his own blood, would of course make no difference whatever.

Có nhiều thực thể vừa sẵn lòng vừa có khả năng sắp đặt cho một người hai mươi năm phồn vinh vật chất. Nói chung, họ sẵn lòng làm điều đó để đổi lại một số đền bù vật chất, như sự hiến tế trẻ sơ sinh, dê hoặc gà. Chân ngã không hề có phần trong những khế ước ấy, dù trong các trường hợp cá nhân hiếm hoi hay trong việc thờ vật linh nói chung. Những thực thể này không thể chiếm đoạt chân ngã con người, và dù có chiếm đoạt được, họ cũng không thể sử dụng nó. Đôi khi thân xác con người thuận tiện cho họ, và vì mục đích được phép ám nhập thân xác ấy, họ đôi khi sẽ đi đến một thỏa thuận. Việc lập một khế ước kiểu này trao cho thực thể một sự kềm giữ mạnh mẽ trên người đàn ông; nhưng ngay khi người ấy nhận ra sự dại dột của hành động mình, con đường đúng đắn y phải chọn là chống lại sự ám nhập ấy đến cùng. Những nghi thức ấu trĩ như ký tên bằng chính máu mình, dĩ nhiên, chẳng tạo nên bất kỳ khác biệt nào.

There is no hierarchy of evil. There are black magicians certainly, but the black magician is usually merely a single solitary entity. He is working for himself, as a separate entity, and for his own ends. You cannot have a hierarchy of people who distrust one another. In the White Brotherhood every member trusts the others; but you cannot have trust with the dark people, because their interests are built upon self.

Không hề có một huyền giai của điều ác. Chắc chắn có các nhà hắc thuật, nhưng nhà hắc thuật thường chỉ là một thực thể đơn lẻ, cô độc. Hắn hành động cho riêng mình, như một thực thể tách biệt, và vì mục đích riêng của hắn. Bạn không thể có một huyền giai gồm những kẻ chẳng tin cậy lẫn nhau. Trong Huynh đệ Đoàn Chánh đạo, mỗi thành viên tin cậy những người khác; nhưng bạn không thể có niềm tin giữa những kẻ thuộc phe bóng tối, bởi lợi ích của họ được xây trên cái tôi.

You must, however, take care what you mean when you speak of evil. The principle of destruction is often personified, but it is only that old forms are broken down to be used as material for building new and higher ones. Here in India there is Shiva, the Destroyer, but no one would think of Him as evil; He is one of the highest manifestations of the deity. The principle of the destruction of forms is necessary in order that life may progress. There is a Great One, a part of whose function it is to arrange when the great cataclysms shall take place—but He works for the good of the world. These things are not to be thought of as in any way evil. The notion of a supposed angel who revolted and was turned out of heaven is very much based upon John Milton. The conception is not at all the same in the Book of Job. In that story the devil is quite a different person from the gloomy hero in the Miltonic conception. Then the Buddhists have Mara—a personification of the karma of the past descending upon the man at once and taking many forms. There is an instant working-out of karma upon the attainment of enlightenment.

Tuy nhiên, bạn phải cẩn thận với điều mình muốn nói khi nhắc đến điều ác. Nguyên lý hủy diệt thường được nhân cách hóa, nhưng thực ra chỉ là những hình thức cũ bị phá vỡ để làm vật liệu xây dựng nên những hình thức mới và cao hơn. Ở Ấn Độ có Shiva, Đấng Hủy Diệt, nhưng chẳng ai nghĩ Ngài là ác; Ngài là một trong những biểu lộ tối cao của Thượng đế. Nguyên lý hủy diệt các hình tướng là cần thiết để sự sống có thể tiến bước. Có một Đấng Vĩ Đại, một phần chức năng của Ngài là sắp đặt thời điểm các tai biến lớn xảy ra—nhưng Ngài hoạt động vì lợi ích của thế gian. Những điều này không nên bị xem là ác theo bất kỳ cách nào. Quan niệm về một thiên thần nổi loạn bị tống khỏi thiên giới phần nhiều dựa trên John Milton. Khái niệm đó hoàn toàn không giống như trong Sách Gióp. Trong câu chuyện ấy, quỷ là một nhân vật rất khác với anh hùng ảm đạm trong quan niệm kiểu Milton. Rồi người Phật tử có Mara—một nhân cách hóa của nghiệp quả quá khứ giáng xuống con người ngay tức thì và mang nhiều hình dạng. Có một sự trổ quả nghiệp tức thời khi đạt đến giác ngộ.

The statement that all material things, all differences and limitations are evil is misleading. If by evil you mean what is ordinarily connoted by that word, and not some other and quite different notion of an abstract kind, then matter is not evil. Spirit and matter are equal. Matter is not in opposition to spirit. We find matter troublesome because of the bodies we have to use; but we are here in order to learn what without the physical life could not be conveyed to us. The physical plane experiences give a definiteness and precision to our consciousness and powers which we could never acquire on any plane unless we had spent the necessary time on this. But why do people bother about evil? There is plenty of good in the world, and it is better to think of that, for your thought strengthens that of which you think. To think and talk so much about black magicians unquestionably attracts their attention to you, and the results are often exceedingly undesirable.

Mệnh đề cho rằng mọi sự vật chất, mọi sai khác và giới hạn đều là ác là điều gây hiểu lầm. Nếu bằng “ác” bạn muốn nói điều thường được hàm ngụ bởi từ ấy, chứ không phải một khái niệm khác, hoàn toàn khác, có tính trừu tượng, thì vật chất không phải ác. Tinh thần và vật chất bình đẳng. Vật chất không đối lập với tinh thần. Chúng ta thấy vật chất rắc rối vì các hiện thể mà chúng ta phải dùng; nhưng chúng ta ở đây để học những điều mà nếu không có đời sống thể xác, chúng ta không thể tiếp nhận. Những trải nghiệm ở cõi hồng trần đem lại cho tâm thức và các năng lực của chúng ta một tính xác định và chính xác mà chúng ta chẳng thể nào tiếp thu ở bất kỳ cõi nào khác, trừ khi đã dành thời gian cần thiết tại đây. Nhưng tại sao người ta bận tâm về điều ác? Thế gian có đầy điều thiện, và tốt hơn là nghĩ về điều ấy, vì tư tưởng của bạn củng cố cái mà bạn nghĩ đến. Nghĩ và nói quá nhiều về các nhà hắc thuật không thể tránh khỏi việc thu hút sự chú ý của họ đến bạn, và hệ quả thường cực kỳ bất như ý.

HINDUISM

ẤN GIÁO

When ignorant missionaries dilate upon the three hundred and thirty million gods of the Hindus they are making a very gross misrepresentation of a religion which is far more scientific than their own. Hinduism, like every other religion, knows perfectly well that there can be only one God, though there may be countless manifestations of Him. To call these “gods” is of course ridiculous. It is perhaps better to avoid the word “god” altogether, because of the exceedingly unpleasant ideas which have been associated with it by the Christians; but if it is to be used, at least it should never be applied to any being lower than the LOGOS of the solar system. All the good things attributed to the Christian God are true of the LOGOS; there is nothing in the system that is not He, and yet He is much more than His system. We could not possibly grasp the truth about the Absolute; anything which we are able to grasp must after all be small, since our minds are so small. The advice of the Lord BUDDHA to His people was always that they should not trouble themselves about such remote matters, since it was impossible to arrive at any conclusion, and nothing useful came from it.

Khi những nhà truyền giáo vô minh phóng đại về ba trăm ba mươi triệu vị thần của người Ấn, họ đã bóp méo một cách thô thiển một tôn giáo vốn khoa học hơn tôn giáo của chính họ rất nhiều. Ấn giáo, như mọi tôn giáo khác, hoàn toàn biết rằng chỉ có một Thượng đế, dù có vô số biểu lộ của Ngài. Gọi những biểu lộ ấy là “chư thần” dĩ nhiên là lố bịch. Có lẽ tốt hơn là tránh hẳn từ “thần”, vì những ý niệm hết sức khó chịu mà người Ki-tô giáo đã gán cho nó; nhưng nếu buộc phải dùng, ít nhất đừng bao giờ áp dụng cho bất kỳ đấng nào thấp hơn Thái dương Thượng đế. Mọi điều tốt đẹp quy cho Thượng đế của Ki-tô giáo đều đúng với Thái dương Thượng đế; trong hệ thống này không có gì không phải là Ngài, và tuy vậy Ngài còn vượt xa hệ thống của Ngài. Chúng ta không thể nào nắm bắt chân lý về Tuyệt Đối; bất cứ điều gì ta có thể nắm bắt rốt lại cũng nhỏ bé, vì trí của chúng ta nhỏ bé. Lời khuyên của Đức Phật dành cho dân Ngài luôn là đừng nhọc lòng về những chuyện xa xăm như thế, vì không thể đi đến kết luận nào, và cũng chẳng đem lại điều ích dụng.

The images of the Indian deities are usually highly magnetized, and when they are carried round the streets at the festivals their influence upon the people is unquestionably productive of much good. In many of the Hindu temples there are strong permanent influences at work, as is the case for example at Madura. Once when I visited that city some white ashes from the temple of Shiva were given to me, and also a bright crimson powder from the temple of Parvati, and I found that both of these were so powerfully magnetized as to retain their influence for some years and after much travelling.

Những tượng của chư vị thần Ấn thường được từ hóa rất mạnh, và khi chúng được rước quanh phố trong các lễ hội, ảnh hưởng của chúng lên dân chúng không thể chối cãi là sinh nhiều điều thiện. Trong nhiều đền Ấn giáo có những ảnh lực thường trực mạnh mẽ vận hành, như ở Madura chẳng hạn. Một lần khi tôi đến thăm thành ấy, tôi được cho một ít tro trắng từ đền Shiva, và một ít bột đỏ thắm từ đền Parvati, và tôi nhận thấy cả hai đều được từ hóa mạnh đến mức giữ được ảnh lực của chúng suốt nhiều năm và qua bao cuộc hành trình.

India is essentially a country of rites and ceremonies. The religion is full of them, and a great many of them are said to have been prescribed by the Manu Himself, though it is quite obvious that many others have been added at a much later date. Some of them appear to be regulations such as would be quite necessary at the beginning of a new race, but now that it is thoroughly established it seems clear that they are useless. In many cases when one watches their performance one can see quite clearly what must originally have been intended, even though now the ceremony has become a mere empty shell, and no result follows upon it. Such things are not without their value for younger souls; indeed there are many who delight in them and obtain great benefit from them; but of course none of them can ever be really necessary, and all such bondage falls away altogether from the really developed man.

Ấn Độ về căn bản là một xứ sở của lễ nghi. Tôn giáo đầy ắp lễ nghi, và rất nhiều trong số đó được cho là do chính Đức Manu ấn định, dù hiển nhiên nhiều thứ khác được thêm vào rất muộn về sau. Một vài điều dường như là những quy định vốn rất cần thiết vào đầu thời của một giống dân mới, nhưng nay khi giống dân ấy đã định hình hoàn toàn, có vẻ rõ ràng là chúng trở nên vô dụng. Nhiều trường hợp, khi quan sát việc hành lễ, người ta có thể thấy khá rõ điều vốn được chủ định ban đầu là gì, dẫu cho giờ đây nghi lễ chỉ còn là cái vỏ rỗng, và chẳng mang lại kết quả gì. Những điều như thế không phải là vô giá trị đối với các linh hồn trẻ; thật vậy, có nhiều người hoan hỷ vì chúng và thu được lợi ích lớn; nhưng dĩ nhiên chẳng điều nào trong đó thực sự cần thiết, và mọi ràng buộc như vậy đều hoàn toàn rơi rụng khỏi người đã phát triển thực sự.

Originally every householder was the priest of his own family, but as the civilization became more complex the rites and ceremonies grew more complex also, and therefore a class of specially instructed priests had to spring up, because no one who had anything else to do could possibly remember the wealth of unnecessary detail. In these days it would seem that most people perform them, or have them performed for them, much in the same spirit as they take medicine from a doctor, without understanding what it is, but with the faith that it will somehow do them good. There are, however, many people who cannot put heart and soul into a ceremony unless they do understand it, and these people usually end by breaking away from ceremonies altogether.

Ban đầu, mỗi chủ gia đình là vị tư tế của chính gia tộc mình, nhưng khi văn minh trở nên phức tạp hơn, các lễ nghi cũng trở nên phức tạp, và do đó một giai cấp tư tế được huấn luyện đặc biệt phải hình thành, vì không ai còn việc gì khác mà có thể nhớ nổi khối chi tiết thừa thãi ấy. Ngày nay, xem ra hầu hết người ta cử hành các nghi lễ, hoặc nhờ người khác cử hành thay cho họ, với tâm trạng không khác mấy khi họ uống thuốc bác sĩ kê, chẳng hiểu nó là gì, nhưng tin rằng bằng cách nào đó nó sẽ có lợi. Tuy vậy, có nhiều người không thể đặt trọn tâm can vào một nghi lễ trừ khi họ hiểu nó, và những người ấy thường kết thúc bằng việc dứt bỏ nghi lễ hoàn toàn.

It is sad to see priests performing the old ceremonies and using the old forms which once were so effective, and yet producing no result worth mentioning. There seems to be no will in these days. They commence some of their recitations “Om, Bhur, Bhuvar, Swar”; but nothing whatever happens when they recite the words. In the old days the officiant who said this threw some will into it, and raised his own consciousness, as well as that of those present who were responsive, from one plane to the other as he spoke.

Thật buồn khi thấy các tư tế thực hiện những nghi thức cũ và dùng những công thức xưa kia vốn rất hiệu nghiệm, mà chẳng tạo nên kết quả nào đáng nói. Ngày nay dường như không còn ý chí. Họ mở đầu vài bài tụng rằng “Om, Bhur, Bhuvar, Swar”; nhưng chẳng có gì xảy ra khi họ xướng những từ ấy. Xưa kia, vị chủ lễ khi xướng như vậy thì dồn ý chí vào đó, và nâng tâm thức của chính mình, cũng như của những người hiện diện vốn có khả năng đáp ứng, từ cõi này lên cõi kia theo từng lời xướng.

I remember seeing this strongly exemplified in the performance of a striking ceremony, when we were examining one of the earlier lives which occurred many thousands of years ago here in India. The people all entered an inner room and stood in absolute darkness. In the beginning of the ceremony the officiant slowly and solemnly uttered those words, and each produced its due effect upon the majority of those who stood around him. The word “Om” brought all the people in close harmony with him, and with the feelings which filled his mind. Then, at the utterance of the word “Bhur,” to their senses the room was filled with ordinary light, and they were able to see all the physical objects in it; when, after an interval, the second word came, astral sight was temporarily opened for them; and the third word produced the same effect upon their mental sight, and brought round them all the bliss and power of the higher plane, and that condition persisted during the recitation of the various verses which followed.

Tôi nhớ đã thấy điều này được minh họa thật rõ trong một nghi lễ ấn tượng, khi chúng tôi khảo sát một trong những tiền kiếp rất xa xưa diễn ra tại Ấn Độ. Mọi người bước vào một căn phòng bên trong và đứng trong bóng tối tuyệt đối. Khởi đầu nghi lễ, vị chủ lễ chậm rãi và trang nghiêm thốt ra những lời ấy, và mỗi từ đều tạo nên hiệu ứng thích đáng lên đa số những người đứng chung quanh. Từ “Om” đưa mọi người vào sự hòa điệu mật thiết với ông, và với những cảm thức đang tràn ngập tâm trí ông. Rồi, khi thốt từ “Bhur”, theo giác quan của họ, căn phòng bừng lên ánh sáng thường, và họ có thể thấy mọi vật thể hồng trần trong đó; sau một quãng, khi từ thứ hai vang lên, thị giác cảm dục tạm thời mở ra cho họ; và từ thứ ba tạo cùng một tác dụng lên thị giác thể trí, đem đến quanh họ mọi an lạc và năng quyền của cõi cao hơn, và trạng thái ấy kéo dài suốt thời gian tụng đọc các bài kệ tiếp theo.

Of course these effects were only temporary, and when the ceremony was over the higher consciousness faded away from those who had taken part in it, but nevertheless it remained for them a tremendous experience, and the effect of it was that on another similar occasion this higher consciousness was more readily and more fully aroused in them. But now nothing of this sort seems to be done anywhere. Now the priest arranges his fuel and utters a solemn invocation to Agni, and then—lights the fire with a match! In the old days that which is represented by Agni really did come, and the fire fell from heaven, to use an old expression. But all outer husks seem to remain.

Dĩ nhiên những hiệu ứng ấy chỉ là tạm thời, và khi nghi lễ kết thúc, tâm thức cao phai dần khỏi những ai đã tham dự, nhưng dẫu vậy đó vẫn là một kinh nghiệm vô cùng lớn đối với họ, và hệ quả là vào một dịp tương tự khác, tâm thức cao ấy được khơi dậy trong họ dễ dàng hơn và đầy đủ hơn. Nhưng nay chẳng nơi nào còn làm những điều như thế. Giờ đây vị tư tế sắp xếp củi và xướng lời khấn trang nghiêm lên Agni, rồi—châm lửa bằng một que diêm! Xưa kia, cái mà Agni đại diện thật sự đã đến, và “lửa từ trời” rơi xuống, nói theo lối xưa. Nhưng mọi lớp vỏ bên ngoài xem ra vẫn còn.

There is a quite rational and scientific idea underlying the practice of pilgrimage. Great shrines are usually erected on the spot where some holy man has lived or where some great event has happened (such as an initiation) or else in connection with some relic of a great person. In any one of these cases a powerful magnetic centre of influence has been created, which will persist for thousands of years. Any sensitive person who approaches the spot will feel this influence, and its effect upon him is unquestionably good. Where there is a strong vibration at a much higher level than any attained by ordinary humanity, its action upon any man who comes within its influence is to raise his own vibrations for the time towards unison with it.

Có một ý niệm hoàn toàn hợp lý và khoa học nằm bên dưới thực hành hành hương. Những thánh tích lớn thường được dựng trên nơi chốn nơi một bậc thánh đã sống hoặc nơi một biến cố trọng đại đã xảy ra (như một cuộc điểm đạo), hoặc liên hệ với một thánh tích của một bậc vĩ nhân. Trong bất kỳ trường hợp nào trong số đó, một trung tâm từ lực hùng mạnh đã được kiến tạo, và sẽ tồn tại hàng ngàn năm. Bất kỳ người nhạy cảm nào đến gần nơi ấy đều sẽ cảm nhận ảnh lực này, và ảnh hưởng của nó lên y chắc chắn là điều thiện. Nơi nào có một rung động mạnh ở cấp độ cao hơn nhiều so với mức mà nhân loại thường đạt, tác dụng của nó lên bất kỳ ai đi vào phạm vi ảnh hưởng là nâng rung động của y tạm thời lên hướng tới sự hòa điệu với nó.

The pilgrim who comes to such a spot and bathes himself in its magnetism, perhaps for several days together, is certainly the better for it, although different people will be affected in different degrees, according to their power of receptivity. Such a place of pilgrimage is the Bodhi tree at Buddha-gaya, the spot where the Lord Gautama attained His Buddhahood. This is true although the tree which is there now is not the original one. That fell some time in the middle ages, and the present tree is only an offshoot from it. But nevertheless the tremendously strong magnetism of the spot remains and is likely to do so for many a century yet to come.

Người hành hương đến nơi như vậy và tắm mình trong từ khí của nơi ấy, có khi suốt vài ngày liền, chắc chắn sẽ tốt hơn, dẫu khác người sẽ chịu ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau tùy theo năng lực tiếp nhận. Một nơi hành hương như thế là cây Bồ-đề tại Buddha-gaya, chốn nơi Đức Gautama đạt đến Phật quả của Ngài. Điều này vẫn đúng dẫu cho cây hiện ở đó không phải cây nguyên thủy. Cây ban đầu đổ xuống vào một thời đã lâu ở trung cổ, và cây hiện nay chỉ là một chồi từ cây ấy. Nhưng dẫu vậy, từ lực cực kỳ mạnh mẽ của nơi ấy vẫn còn, và nhiều thế kỷ nữa hẳn vẫn còn như thế.

CASTES

ĐẲNG CẤP

It is said that originally each caste had its distinctive colour; indeed, the actual meaning of varna (the Sanskrit word for caste) is colour. I have not studied the question, but at least it is clear that the colours which are usually given do not indicate in any way the auras of the people. Only a young child has a white aura, and even the adepts have various colours in Their tremendous glow; yet for some reason the brahman is traditionally mentioned as white. A kshattriya is said to have some connection with the colour red; there are several reds in the human aura, from the rose of affection to the scarlet of anger and indignation, and the brown-reds of sensuality. But the kshattriya has no more of these than other men. Yellow is traditionally ascribed to the vaishya. But yellow in the aura signifies intellect, and we have no reason to consider the vaishya especially endowed with this quality. A shudra is spoken of as black.

Người ta nói rằng ban đầu mỗi đẳng cấp có màu sắc riêng; thật vậy, ý nghĩa thực sự của varna (từ tiếng Phạn chỉ đẳng cấp) là màu sắc. Tôi chưa nghiên cứu vấn đề này, nhưng ít nhất cũng rõ ràng rằng các màu thường được gán cho không hề chỉ thị hào quang của người thuộc các đẳng cấp. Chỉ một đứa trẻ nhỏ mới có hào quang trắng, và ngay cả các chân sư cũng có nhiều màu sắc trong quầng sáng phi thường của Các Ngài; thế mà vì một lý do nào đó, Bà-la-môn lại được truyền thống xem là trắng. Kshattriya được nói là có liên hệ nào đó với màu đỏ; trong hào quang con người có vài sắc đỏ, từ hồng của tình cảm đến đỏ thắm của cơn giận và phẫn nộ, và đỏ nâu của tính dục. Nhưng kshattriya không có nhiều những sắc ấy hơn người khác. Vàng được truyền thống gán cho vaishya. Nhưng vàng trong hào quang biểu thị trí tuệ, và chúng ta không có lý do nghĩ rằng vaishya được phú cho phẩm tính này đặc biệt hơn. Shudra thì được nói là đen.

If we adopt the suggestion that these colours had to do with the ancient and primitive races, we shall find the facts more tractable. The Aryans, representing the brahman caste, were undoubtedly much lighter in colour than the people amongst whom they came. The reddish Toltec people who were ruling large portions of the land when the Aryan invasion took place may have some connection with the original kshattriya caste. The aboriginals, who were Lemurians, and are now only represented by some of the hill tribes, were almost black in colour. They may be connected with the shudras. Between them and the Toltecs there appear to have been several waves of different Atlantean sub-races who settled down as traders; and these men were of a yellowish colour, as is the present day Chinaman. Perhaps they were the original vaishyas.

Nếu chấp nhận gợi ý rằng những màu sắc này liên quan đến các chủng tộc cổ xưa và nguyên sơ, chúng ta sẽ thấy sự kiện trở nên dễ thuyết phục hơn. Người Arya, đại diện cho đẳng cấp Bà-la-môn, chắc chắn sáng màu hơn nhiều so với dân cư nơi họ đến. Người Toltec đỏ hung, đang cai quản những phần rộng lớn của đất đai khi cuộc xâm nhập của người Arya diễn ra, có thể có liên hệ nào đó với đẳng cấp kshattriya nguyên thủy. Những người bản địa, vốn là Lemuria, nay chỉ còn được đại diện bởi một số sắc tộc miền núi, hầu như có màu da đen. Họ có thể liên hệ với shudra. Giữa họ và người Toltec dường như có nhiều làn sóng các giống dân phụ Atlantis khác nhau định cư như những người buôn bán; và những người ấy có màu vàng sẫm, như người Trung Hoa ngày nay. Có lẽ họ là vaishya nguyên thủy.

No doubt as we carry further and further back the investigations which we are making in connection with the lines of past lives which we are making in connection with the lines of past lives which are now being examined, we shall obtain more definite information on the subject of the origin of these castes, and of this question of their relation to colour.

Chắc chắn khi chúng ta lần theo xa hơn nữa các khảo sát đang thực hiện trong mối liên hệ với dòng các tiền kiếp hiện được khảo cứu, chúng ta sẽ thu được thông tin xác định hơn về nguồn gốc các đẳng cấp này, và về mối liên hệ giữa chúng với màu sắc.

SPIRITUALISM

THẦN LINH HỌC

Never forget that the spiritualists are entirely with us on some most important points. They all hold (a) life after death as an actual vivid ever-present certainty, and (b) eternal progress and ultimate happiness for everyone; good and bad alike. Now these two items are of such tremendous, such paramount importance—they constitute so enormous an advance from the ordinary orthodox position—that I for one should be well content to join hands with them on such a platform, and postpone the discussion of the minor points upon which we differ until we have converted the world at large to that much of the truth. I always feel that there is plenty of room for both of us.

Xin đừng quên rằng những người theo thần linh học hoàn toàn đứng cùng chúng ta ở một số điểm tối hệ trọng. Tất cả họ đều khẳng định ( a ) đời sống sau khi chết như một điều chắc chắn sống động luôn hiện tiền, và (b) tiến bộ vĩnh cửu và hạnh phúc tối hậu cho mọi người; cả người thiện lẫn kẻ ác. Nay, hai điều này có tầm quan trọng khôn sánh, tối thượng—chúng cấu thành một bước tiến to lớn từ lập trường chính thống thông thường—đến độ riêng tôi sẵn lòng nắm tay họ trên nền tảng ấy, và hoãn cuộc thảo luận những điểm thứ yếu mà chúng tôi khác biệt cho đến khi chúng ta thuyết phục được cả thế giới chấp nhận phần chân lý đó. Tôi luôn cảm thấy rằng có thừa chỗ cho cả đôi bên.

People who want to see phenomena, people who cannot believe anything without ocular demonstration, will obtain no satisfaction with us, while from the spiritualists they will get exactly what they want. On the other hand, people who want more philosophy than spiritualism usually provides will naturally gravitate in our direction. Those who admire the average trance-address certainly would not appreciate Theosophy, while those who enjoy Theosophical teaching would never be satisfied with the trance-address. We both cater for the liberal, the open-minded, but for quite different types of them; meantime, we surely need not quarrel.

Những người muốn thấy hiện tượng, những người không thể tin điều gì nếu không có chứng kiến tận mắt, sẽ không nhận được thỏa mãn từ phía chúng ta, trong khi nơi những người theo thần linh học họ sẽ có đúng cái họ muốn. Ngược lại, những người muốn nhiều triết lý hơn mức mà thần linh học thường cung cấp tự nhiên sẽ hướng về phía chúng ta. Những ai ưa thích các bài diễn thuyết xuất thần trung bình chắc chắn sẽ không đánh giá cao Thông Thiên Học, trong khi những ai thưởng thức giáo lý Thông Thiên Học sẽ chẳng bao giờ hài lòng với các bài diễn thuyết trong trạng thái xuất thần. Cả hai chúng ta đều phục vụ những người phóng khoáng, cởi mở, nhưng là những dạng khác nhau của họ; trong khi chờ đợi, chúng ta hẳn chẳng cần gây gổ.

In what Madame Blavatsky wrote on the subject she laid great stress on the utter uncertainty of the whole thing, and the preponderance of personations over real appearances. My own personal experience has been more favourable than that. I spent some years in experimenting with spiritualism, and I suppose there is hardly a phenomenon of which you may read in the books which I have not repeatedly seen. I have encountered many personations, but still in my experience a distinct majority of the apparitions have been genuine, and therefore I am bound to bear testimony to the fact. The messages which they give are often uninteresting, and their religious teaching is usually Christianity and water, but still it is liberal as far as it goes, and anything is an advance upon the bigoted orthodox position.

Trong những gì Bà Blavatsky viết về đề tài này, Bà nhấn mạnh mạnh mẽ sự bất định hoàn toàn của toàn bộ sự việc, và tình trạng đóng giả lấn át những xuất hiện chân thật. Kinh nghiệm cá nhân của riêng tôi thì thuận lợi hơn thế. Tôi đã dành vài năm thử nghiệm với thần linh học, và tôi cho rằng hầu như không có hiện tượng nào mà bạn có thể đọc trong sách lại là điều tôi chưa từng nhiều lần chứng kiến. Tôi đã gặp nhiều trường hợp đóng giả, nhưng dẫu vậy, trong kinh nghiệm của tôi, đa số rõ rệt các hiện hình là chân thực, và do đó tôi buộc phải làm chứng cho sự kiện ấy. Những thông điệp họ đưa ra thường không mấy thú vị, và giáo lý tôn giáo của họ thường là một thứ Ki-tô giáo pha loãng, nhưng dẫu vậy, nó vẫn phóng khoáng trong phạm vi của nó, và bất cứ điều gì cũng là một bước tiến so với lập trường chính thống hẹp hòi.

Not that some spiritualists are not bigoted also—narrow and intolerant as any sectarian—when it comes to discussing (say) the question of reincarnation! The majority of English and American spiritualists do not yet know of that fact, but the French spiritists, the followers of Allan Kardec, hold it, and also the school of Madame d’ Esperance in England. Many students wonder that dead people should not all know and recognize the fact of reincarnation; but after all why should they? When a man dies he resorts to the company of those whom he has known on earth; he moves among exactly the same kind of people as during physical life. The average country grocer is no more likely after death than before it to come into contact with any one who can give him information about reincarnation. Most men are shut in from all new ideas by a host of prejudices; they carry these prejudices into the astral world with them, and are no more amenable to reason and common sense there than here.

Không phải là không có những người theo thần linh học cuồng tín—hẹp hòi và bất khoan dung như bất kỳ giáo phái nào—khi bàn (chẳng hạn) vấn đề tái sinh! Đa số những người Anh và Mỹ theo thần linh học vẫn chưa biết đến sự kiện đó, nhưng những nhà thần linh học Pháp, các môn đồ của Allan Kardec, thì thừa nhận, cũng như trường phái của Madame d’Esperance ở Anh. Nhiều học viên thắc mắc tại sao người chết không phải ai cũng biết và nhận ra sự kiện tái sinh; nhưng sau cùng, tại sao họ phải biết? Khi một người chết, y trở về với những người y đã quen biết trên trần; y đi lại giữa đúng loại người như trong đời sống hồng trần. Một người bán tạp hóa ở quê trung bình sau khi chết cũng chẳng dễ gì, hơn so với khi còn sống, mà tiếp xúc với ai có thể cho y thông tin về tái sinh. Hầu hết người ta bị bưng bít khỏi mọi ý tưởng mới bởi một loạt định kiến; họ mang những định kiến ấy vào cõi cảm dục, và ở đó họ cũng chẳng dễ tiếp nhận lý trí và lẽ thường hơn là ở đây.

True, a man who is really open-minded can learn a great deal on the astral plane; he may speedily acquaint himself with the whole of the Theosophical teaching, and there are dead men who do this. Therefore it often happens that scraps of Theosophy are found among spirit communications. We must not forget that there is a higher spiritualism of which the public knows nothing, which never publishes any account of its results. The best circles of all are strictly private—restricted entirely to one family, or to a small number of friends. In such circles the same people meet over and over again, and no outsider is ever admitted to make any change in the magnetism; so the conditions set up are singularly perfect, and the results obtained are of the most surprising character. At public seances, to which any one may be admitted on payment, an altogether lower class of dead people appear, because of the promiscuous jumble of inharmonious magnetisms.

Đúng là một người thực sự cởi mở có thể học được rất nhiều ở cõi cảm dục; y có thể mau chóng làm quen với toàn thể giáo lý Thông Thiên Học, và có những người đã khuất làm được điều này. Bởi vậy, thường xảy ra là người ta thấy vài mẩu Thông Thiên Học trong các thông điệp do vong linh truyền. Chúng ta đừng quên rằng có một hình thái thần linh học cao hơn mà công chúng không hề biết, vốn chẳng bao giờ công bố bất kỳ tường thuật nào về các kết quả của mình. Những nhóm tốt nhất đều hoàn toàn riêng tư—chỉ giới hạn trong một gia đình, hoặc một số ít bạn hữu. Trong những nhóm như thế, những người tham dự luôn là cùng một số người gặp đi gặp lại nhau, và không bao giờ để bất kỳ người ngoài nào chen vào làm thay đổi từ tính; vậy nên những điều kiện thiết lập là đặc biệt hoàn hảo, và các kết quả đạt được hết sức đáng kinh ngạc. Ở các Buổi gọi hồn công khai, nơi bất kỳ ai cũng có thể vào cửa bằng cách trả tiền, một lớp người chết thấp hơn hẳn xuất hiện, vì một mớ hỗn tạp ngẫu nhiên của các từ tính bất hòa.

SYMBOLOGY

BIỂU TƯỢNG HỌC

Symbology is a very interesting study. To a certain type of mind everything expresses itself in symbols, and to some people they are of the greatest possible help. I myself do not happen to be of that type, and therefore I have not paid special attention to them or made any particular study of them. Some of them however are obvious, and readily comprehensible to any one who understands even a little of the principles of their interpretation. Think, for example, of those which appear on the earlier pages of The Book of Dzyan. On the first page is a white disc, signifying the first condition of the unmanifested; on the second page a spot appears in the centre of the white disc, signifying the first manifestation—the First LOGOS, or the Christ in the bosom of the Father; on the third page this spot has expanded into a bar, dividing the disc into two halves and so signifying the first great separation into spirit and matter—also the Second LOGOS, always spoken of as dual or androgynous; on the fourth page another bar has appeared at right angles to the first, giving us the forms of a circle divided into four equal parts or quarters, signifying the emergence of the Third LOGOS, though He is still in a condition of inactivity. On the next page the outer circle falls away, leaving us the equal-armed or Greek cross. This denotes the Third LOGOS ready for action, just about to descend into the matter of His cosmos.

Biểu tượng học là một môn học rất thú vị. Với một kiểu tâm trí nào đó, mọi điều đều tự biểu đạt bằng biểu tượng, và với một số người, chúng là sự trợ giúp tối đa. Bản thân tôi không thuộc kiểu ấy, và vì thế tôi không chú mục đặc biệt vào chúng hay khảo cứu riêng về chúng. Tuy nhiên, một số biểu tượng là hiển nhiên, và bất kỳ ai hiểu đôi chút các nguyên tắc giải nghĩa của chúng cũng có thể dễ dàng nắm bắt. Hãy nghĩ, chẳng hạn, về những biểu tượng xuất hiện ở các trang đầu của Cuốn Sách Dzyan. Trên trang đầu là một đĩa trắng, biểu thị trạng thái đầu tiên của cái không biểu hiện; trên trang thứ hai, một chấm xuất hiện ở trung tâm đĩa trắng, biểu thị biểu lộ đầu tiên—Đệ nhất Thượng đế, hay Đức Christ trong lòng của Cha; trên trang thứ ba, chấm ấy nở rộng thành một vạch, chia đĩa thành hai nửa, do đó biểu thị cuộc phân ly vĩ đại đầu tiên thành tinh thần và vật chất—đồng thời cũng là Đệ nhị Thượng đế, luôn được nói đến như là lưỡng tính; trên trang thứ tư, một vạch khác xuất hiện vuông góc với vạch thứ nhất, cho ta hình thức một vòng tròn chia làm bốn phần bằng nhau hay bốn phương, biểu thị sự xuất hiện của Đệ tam Thượng đế, tuy Ngài vẫn còn trong trạng thái bất hoạt. Ở trang kế tiếp, vòng tròn ngoài rơi đi, để lại thập giá cân bằng kiểu Hy Lạp. Điều này biểu thị Đệ tam Thượng đế sẵn sàng hành động, đang chuẩn bị giáng xuống vào chất liệu của cõi vũ trụ của Ngài.

The next stage of this activity is shown by various forms of the symbol. Sometimes the arms of the Greek cross widen out as they recede from the centre, and then we get the form called the Maltese cross. Another line of symbology retains the straight arms of the Greek cross, but draws a flame shooting out from the end of each arm, to signify the burning light within. A further extension of this idea sets the cross whirling round its centre, like a revolving wheel, and when that is done the flames are drawn as streaming backwards as the cross revolves, and in that way we get one of the most universal of all symbols, that of the svastika, which is to be found in every country in the world, and in connection with every religion.

Giai đoạn kế tiếp của hoạt động này được biểu thị bằng nhiều hình thức khác nhau. Đôi khi các cánh tay của thập giá Hy Lạp nở rộng ra khi xa dần trung tâm, và khi ấy ta có hình thức gọi là thập giá Malta. Một dòng biểu tượng khác giữ các cánh tay thẳng của thập giá Hy Lạp, nhưng vẽ một ngọn lửa phụt ra từ đầu mỗi cánh tay, để biểu thị ánh sáng bốc cháy bên trong. Một mở rộng xa hơn của ý tưởng này làm cho thập giá xoay quanh tâm của nó, như một bánh xe quay, và khi đó các ngọn lửa được vẽ như tuôn ngược theo chiều thập giá quay, và bằng cách ấy ta có một trong những biểu tượng phổ quát nhất, đó là chữ vạn (svastika), được tìm thấy ở mọi quốc gia trên thế giới, và gắn với mọi tôn giáo.

The symbolic meaning of the ordinary Latin cross, as it is used in the Christian Church, has no connection whatever with this line of thought. Its meaning is entirely different, for it symbolizes the Second LOGOS, and His descent into matter, and it is also closely connected with the initiation rites of ancient Egypt. In the case of The Book of Dzyan the comprehension of the symbol is enormously assisted by the fact that the book itself is highly magnetized in a peculiar way, so that when the student who is privileged to see it takes one of the pages in his hand a remarkable effect is produced upon him. Before his mind’s eye arises the picture of that which the page is intended to symbolize, and simultaneously he hears a sort of recitation of the stanza which describes it. It is very difficult to put this clearly into words, but the experience is a wonderful one.

Ý nghĩa biểu tượng của thập giá La-tinh thông thường, như nó được dùng trong Giáo hội Ki-tô, hoàn toàn không liên hệ với dòng tư tưởng này. Ý nghĩa của nó hoàn toàn khác, vì nó tượng trưng cho Đệ nhị Thượng đế và sự giáng xuống vật chất của Ngài, và nó cũng gắn bó mật thiết với các nghi lễ điểm đạo của Ai Cập cổ. Trong trường hợp của Cuốn Sách Dzyan , sự hiểu biểu tượng được trợ giúp vô cùng bởi thực tế là bản thân cuốn sách được từ hóa rất mạnh theo một cách đặc dị, đến nỗi khi đạo sinh được đặc ân chiêm ngưỡng cầm một trong những trang sách trên tay, một hiệu ứng lạ thường được tạo ra trên y. Trước mắt trí của y hiện lên bức tranh về điều mà trang sách nhằm biểu thị, và đồng thời y nghe như một lối tụng đọc bài kệ mô tả điều ấy. Rất khó diễn đạt điều này thật rõ bằng lời, nhưng trải nghiệm ấy là kỳ diệu.

I have myself seen and handled the copy which Madame Blavatsky describes—from the study of which she wrote The Secret Doctrine. That is of course not the original book, but the copy of it which is kept in the occult museum which is under the care of the Master K.H. The original document is at Shamballa, in the care of the Head of the Hierarchy, and is certainly the oldest book in the world. Indeed it has been said that part of it (the first six stanzas, I think) is even older than the world, for it is said to have been brought over from some previous chain. That most ancient part is regarded by some as not merely an account of the processes of the coming into existence of a system, but rather a kind of manual of directions for such an act of creation. Even the copy must be millions of years old.

Chính tôi đã thấy và cầm quyển bản sao mà Bà Blavatsky mô tả—từ sự khảo cứu ấy mà Bà đã viết Giáo Lý Bí Nhiệm. Dĩ nhiên đó không phải là cuốn sách nguyên gốc, mà là bản sao được cất giữ trong viện bảo tàng huyền bí do Chân sư KH trông coi. Bản tài liệu nguyên thủy ở Shamballa, dưới sự chăm sóc của Vị Lãnh Đạo của Thánh đoàn, và chắc chắn là cuốn sách cổ nhất thế giới. Thậm chí có người nói rằng một phần của nó (tôi nghĩ là sáu bài kệ đầu) còn cổ hơn cả thế giới này, vì được cho là đã được mang qua từ một dãy trước. Phần cổ xưa nhất ấy được một số vị xem như không chỉ là một thuật ký về tiến trình xuất hiện của một hệ thống, mà đúng hơn là một loại cẩm nang chỉ dẫn cho hành vi sáng tạo như thế. Ngay cả bản sao cũng hẳn phải có tuổi hàng triệu năm.

Another well-known symbol is that of the “Great Bird,” which is used to denote the Deity in the act of hovering over His universe, brooding over the waters of space, or darting onward along the line of His evolution. To repose between the wings of the Great Bird means so to meditate as to realize union with the LOGOS, and it is said that the man who reaches that level may rest there for untold years.

Một biểu tượng khác quen thuộc là “Đại Điểu”, dùng để chỉ Thượng đế trong hành vi sải cánh bao trùm vũ trụ của Ngài, ấp ủ trên những làn nước của không gian, hoặc lao vút dọc theo đường tiến hoá của Ngài. Nằm nghỉ giữa đôi cánh của Đại Điểu là phương cách tham thiền để thể nhập với Thái dương Thượng đế, và người ta nói rằng ai đạt đến cảnh giới ấy có thể nghỉ ngơi ở đó suốt những năm tháng không thể kể xiết.

The word Om is another presentation of the same idea; it is the sacred word of the fifth or Aryan root-race. The Atlantean sacred word was Tau, and it has been said that the sacred words given to the root-races in succession are all of them consecutive syllables of one great word, which is the true sacred Name.

Linh từ Om là một trình hiện khác của cùng ý tưởng; đó là linh từ của giống dân gốc thứ năm, tức Arya. Linh từ của Atlantis là Tau, và người ta nói rằng các linh từ ban cho các giống dân gốc kế tiếp nhau, tất cả đều là các âm tiết liên tiếp của một linh từ vĩ đại, vốn là Thánh Danh chân thật.

Another obvious symbol, the heart, was prominent in the old Atlantean religion. In the innermost shrine of the great temple in the City of the Golden Gate there lay upon the altar a massive golden box in the shape of a heart, the secret opening of which was known only to the high-priest. This was called “The Heart of the World,” and signified to them the innermost mysteries that they knew. In it they kept their most sacred things, and much of their symbolism centred around it. They knew that every atoms beats as a heart, and they considered that the sun had a similar movement, which they connected with the sun-spot period. Sometimes one comes across passages in their books which give the impression that they knew more than we do in matters of science, though they regarded it all rather from the poetic than from the scientific point of view. They thought, for example, that the earth breathes and moves, and it is certainly true that quite recently scientific men have discovered that there is a regular daily displacement of the earth’s surface which may be thought of as corresponding in a certain way to breathing.

Một biểu tượng hiển nhiên khác, trái tim, cũng nổi bật trong tôn giáo Atlantis cổ. Trong điện thờ sâu thẳm nhất của ngôi đền lớn ở Thành Phố Cửa Vàng có đặt trên bàn thờ một hộp vàng khối có hình trái tim, cách mở bí mật của nó chỉ vị đại tư tế biết. Vật này được gọi là “Trái Tim của Thế Giới”, và đối với họ, nó biểu thị những huyền nhiệm thâm áo nhất mà họ biết. Họ cất giữ trong đó những vật thiêng nhất, và nhiều phần biểu tượng học của họ xoay quanh nó. Họ biết rằng mọi nguyên tử đều đập như một trái tim, và họ cho rằng Mặt trời có một vận động tương tự, điều mà họ liên hệ với chu kỳ vết đen Mặt trời. Thỉnh thoảng người ta gặp những đoạn văn trong sách vở của họ gây ấn tượng rằng trong các vấn đề khoa học, họ biết nhiều hơn chúng ta, dù họ nhìn tất cả dưới nhãn quan thi vị hơn là khoa học. Thí dụ, họ cho rằng Trái Đất hô hấp và vận động, và quả thật gần đây các nhà khoa học phát hiện có một dịch chuyển đều đặn hằng ngày của bề mặt Trái Đất, có thể được xem là tương ứng theo một cách nào đó với sự hô hấp.

Another symbol is that of the lotus, and it is used to signify the solar system in its relation to its LOGOS. There is a real reason for this comparison in the actual facts of nature. The seven Planetary LOGOI, although they are great individual entities, are at the same time aspects of the Solar LOGOS, force-centres as it were in His body. Now each of these great living centres or subsidiary LOGOI has a sort of orderly periodic change or motion of his own, corresponding perhaps on some infinitely higher level to the regular beating of the human heart, or to the inspiration and expiration of the breath.

Một biểu tượng khác là hoa sen, và nó được dùng để biểu thị hệ mặt trời trong mối liên hệ với Thái dương Thượng đế của nó. Có một lý do thật sự cho sự so sánh này trong các sự kiện tự nhiên. Bảy Hành Tinh Thượng đế, dẫu là những thực thể vĩ đại có tính cá thể, đồng thời cũng là các phương diện của Thái dương Thượng đế, như những trung tâm lực trong thân thể của Ngài. Nay, mỗi trung tâm sống động vĩ đại hay mỗi Thượng đế phụ này có một kiểu biến dịch hay vận động theo chu kỳ riêng có trật tự, có thể tương ứng ở một cấp độ cao vô biên nào đó với nhịp đập đều đặn của trái tim con người, hay với sự hít vào và thở ra.

Some of these periodic changes are more rapid than others, so that a very complicated series of effects is produced, and it has been observed that the movements of the physical planets in their relation to one another furnish a clue to the operation of these great cosmic influences at any given moment. Each of these centres has His special location or major focus within the body of the sun, and has also a minor focus which is always exterior to the sun. The position of this minor focus is always indicated by a physical planet.

Một vài biến dịch chu kỳ trong số đó nhanh hơn những cái khác, nên tạo thành một chuỗi hiệu ứng hết sức phức tạp, và người ta đã quan sát thấy rằng vận động của các hành tinh hồng trần trong mối tương quan lẫn nhau cung cấp một mối chỉ dẫn về sự vận hành của những ảnh lực vũ trụ vĩ đại này vào bất kỳ thời điểm nào. Mỗi trung tâm đều có vị trí riêng hay tiêu điểm chính trong lòng Mặt trời, đồng thời có một tiêu điểm phụ luôn ở bên ngoài Mặt trời. Vị trí của tiêu điểm phụ này luôn được chỉ thị bằng một hành tinh hồng trần.

The exact relation can hardly be made clear to our three-dimensional phraseology; but we may perhaps put it that each centre has a field of influence practically co-extensive with the solar system; that if a section of the field could be taken it would be found to be elliptical; and that one of the foci of each ellipse would always be in the sun, and the other would be the special planet ruled by the subsidiary LOGOS. It is probable that, in the gradual condensation of the original glowing nebula from which the system was formed, the location of the planets was determined by the formation of vortices at these minor foci, they being auxiliary points of distribution—ganglia as it were in the solar system. All the physical planets are included within the portion of the system which is common to all the ovoids; so that any one who tries mentally to construct the figure will see that these revolving ovoids must have their projecting segments, and he will therefore be prepared to understand the comparison of the system as a whole to a flower with many petals.

Mối tương quan chính xác khó mà làm rõ bằng ngôn ngữ ba chiều của chúng ta; nhưng có lẽ ta có thể diễn tả rằng mỗi trung tâm có một trường ảnh hưởng gần như đồng đại với toàn hệ mặt trời; rằng nếu lấy một mặt cắt của trường ấy, người ta sẽ thấy nó có dạng bầu dục; và rằng một trong các tiêu điểm của mỗi hình bầu dục luôn ở trong Mặt trời, còn tiêu điểm kia chính là hành tinh đặc thù do vị Thượng đế phụ ấy cai quản. Rất có thể trong quá trình ngưng tụ dần của tinh vân rực cháy nguyên thủy từ đó hệ thống được hình thành, vị trí các hành tinh được định bởi sự hình thành các xoáy tại các tiêu điểm phụ này, vì chúng là những điểm phụ trợ cho việc phân phối—như các hạch trong hệ mặt trời. Tất cả các hành tinh hồng trần đều nằm trong phần hệ thống vốn chung cho tất cả các khối hình bầu dục; nên ai cố gắng kiến tạo hình ảnh ấy trong tâm trí sẽ thấy rằng các khối hình bầu dục quay này hẳn có những đoạn nhô ra, và do đó y sẵn sàng hiểu sự so sánh toàn bộ hệ thống như một bông hoa nhiều cánh.

Another reason for this comparison of the system to a lotus is even more beautiful, but requires deeper thought. As we see them the planets appear as separate globes; but there is in reality a connection between them which is out of reach of our brain-consciousness. Those who have studied the subject of the fourth dimension are familiar with the idea of an extension in a direction invisible to us, but it may not have occurred to them that it is applicable to the solar system as a whole.

Một lý do khác cho sự so sánh hệ thống với hoa sen còn đẹp hơn, nhưng đòi hỏi suy tư sâu sắc hơn. Như ta thấy, các hành tinh hiện ra như những khối cầu tách rời; nhưng trong thực tại có một mối liên kết giữa chúng vượt khỏi tầm nhận thức bằng não bộ của ta. Những ai đã học về chiều thứ tư quen thuộc với ý niệm một sự mở rộng theo một hướng vô hình với ta, song có thể họ chưa từng nghĩ rằng nó có thể áp dụng cho toàn hệ mặt trời.

We may obtain a suggestion of the facts by holding the hand palm upwards bent so as to form a kind of cup, but with the fingers separated, and then laying a sheet of paper upon the tips of the fingers. A two-dimensional being living on the plane of that sheet of paper could not possibly be conscious of the hand as a whole, but could perceive only the tiny circles at the points of contact between the fingers and the paper. To him these circles would be entirely unconnected, but we, using the sight of a higher dimension, can see that each of them has a downward expansion, and that in that way they are all parts of a hand. In exactly the same way the man using the sight of the fourth dimension may observe that the planets which are isolated in our three dimensions are all the time joined in another way which we cannot yet see; and from the point of view of that higher sight these globes are but the points of petals which are part of one great flower. And the glowing heart of that flower throws up a central pistil which appears to us as the sun.

Ta có thể gợi ý về các sự kiện bằng cách ngửa bàn tay như tạo thành một chiếc chén, nhưng xòe các ngón tay ra, rồi đặt một tờ giấy lên các đầu ngón. Một hữu thể hai chiều sống trên mặt phẳng của tờ giấy ấy không thể nào nhận thức bàn tay như một chỉnh thể, mà chỉ có thể thấy những vòng tròn nhỏ ở các điểm tiếp xúc giữa ngón tay và tờ giấy. Với y, những vòng tròn này hoàn toàn tách rời nhau, nhưng chúng ta, dùng cái nhìn của một chiều cao hơn, thấy rằng mỗi vòng đều có phần mở rộng xuống dưới, và như vậy tất cả đều là những phần của một bàn tay. Y như thế, người sử dụng cái nhìn của chiều thứ tư có thể quan sát thấy rằng những hành tinh vốn cô lập trong ba chiều của chúng ta, suốt thời gian ấy vẫn liên kết với nhau theo một cách mà chúng ta hiện chưa thấy; và từ quan điểm của cái nhìn cao hơn ấy, các khối cầu chỉ là những đầu cánh của một cánh hoa, chúng là những phần của một đại liên hoa. Và trái tim rực sáng của đóa hoa ấy trồi lên một nhụy trung tâm, hiện ra với chúng ta như Mặt trời.

It is not wise for the votary of modern science to ridicule or despise either the learning of old time or the strange and fanciful symbols in which it was expressed, for many of these ancient symbols are pregnant with meaning—often with meaning showing deeper knowledge than the outer world now possesses. The Theosophical student at least will avoid the mistake of despising anything merely because he does not yet comprehend it—because he has not yet learnt the language in which it is written.

Người tôn sùng khoa học hiện đại không khôn ngoan khi chế nhạo hay khinh miệt cả nền học thuật cổ thời lẫn những biểu tượng lạ lùng, kỳ khôi trong đó nền học thuật ấy được biểu đạt, vì nhiều biểu tượng cổ xưa ấy đầy dẫy thâm nghĩa—thường là những thâm nghĩa biểu lộ tri thức sâu xa hơn những gì thế giới bên ngoài đang có. Ít nhất thì đạo sinh Thông Thiên Học sẽ tránh sai lầm khinh miệt bất cứ điều gì chỉ vì y chưa thấu hiểu—bởi y chưa học được ngôn ngữ trong đó điều ấy được viết ra.

FIRE

LỬA

On higher planes everything is what down here we should call luminous, and above a certain level every thing may be said to be permeated by fire, yet not at all such fire as we know on the physical plane. What we call by that name down here cannot exist without something which either burns or glows, and it is only a kind of reflection or lower expression of a higher abstract thing which we cannot sense. Try to think of a fire which does not burn, but is in a liquid form, something like water. This was known to the followers of the first great Zoroaster, for they had this fire which no fuel on their altars, a sacred fire by means of which they symbolized divine life.

Ở các cõi cao, mọi sự đều là thứ mà dưới này chúng ta sẽ gọi là “phát quang”, và trên một cấp độ nào đó, có thể nói mọi thứ đều thấm nhuần lửa, tuy hoàn toàn không phải là thứ lửa như chúng ta biết ở cõi hồng trần. Thứ mà chúng ta gọi là lửa dưới này không thể tồn tại nếu không có thứ gì đó cháy hoặc phát sáng, và nó chỉ là một kiểu phản chiếu hay một biểu hiện thấp của một điều cao hơn, trừu tượng hơn mà chúng ta không cảm tri được. Hãy cố nghĩ về một loại lửa không cháy, nhưng ở dạng lỏng, giống như nước. Điều này đã được những người theo vị Zoroaster đầu tiên biết đến, vì họ có thứ lửa không cần nhiên liệu ấy trên các bàn thờ của họ, một ngọn thánh hỏa mà qua đó họ biểu tượng hóa sự sống thiêng liêng.

One way of reaching the LOGOS is along the line of fire, and the ancient Parsis knew this well, and raised themselves until they were one with the fire, so as to reach Him by way of it. The only way in which it can be done is through the assistance of certain classes of devas, but at this period of the world’s history we are so grossly material that very few can stand the ordeal. The first Zoroaster had around him many who were able to take that way; and, though under present conditions our lower vehicles would probably be destroyed if we should make such an attempt, in new races and on other planets we shall be ale to take that way again. All this sounds strange and weird and incomprehensible, because it deals with conditions which are utterly unknown on the physical plane, but the student of occultism will find that in the course of his progress he has to face many things which cannot at all be expressed in words down here.

Một con đường để đạt đến Thái dương Thượng đế là theo tuyến của lửa, và những người Parsi cổ đã biết điều này rất rõ, và nâng mình lên cho đến khi họ hợp nhất với lửa, để đạt đến Ngài qua con đường ấy. Cách duy nhất để làm điều đó là nhờ sự trợ giúp của một số đẳng cấp thiên thần, nhưng trong thời kỳ lịch sử hiện nay của thế giới, chúng ta vật chất nặng nề đến mức rất ít người có thể chịu nổi thử thách. Vị Zoroaster đầu tiên có quanh mình nhiều người có thể đi theo con đường đó; và, tuy trong các điều kiện hiện tại, các hiện thể thấp của chúng ta rất có thể sẽ bị hủy diệt nếu ta cố gắng như vậy, thì trong các giống dân mới và trên các hành tinh khác chúng ta sẽ lại có thể đi theo đường ấy. Tất cả điều này nghe có vẻ lạ lùng, huyền hoặc và khó hiểu, vì nó liên hệ tới những điều kiện hoàn toàn không biết đến ở cõi hồng trần, nhưng đạo sinh huyền bí học sẽ thấy rằng trên bước đường tiến của mình y phải đối diện với nhiều điều hoàn toàn không thể diễn đạt bằng lời ở đây.

Leave a Comment

Scroll to Top