FOURTH SECTION —NIRVANA
>
IT has often been said that in the final consummation all individual souls merge into the Great Soul, and our students sometimes find it difficult to reconcile this with other statements which seem to imply that the individuality is maintained, in some form or other, even up to the very greatest heights. The fact is that no experience which we can have, and no ideas which we can formulate down here in our physical brain, will at all express the glorious realities of nirvana and the planes beyond it. We know so little of that transcendent glory, and what little we do know can never be put into adequate words. Perhaps, however, it is in a certain sense somewhat misleading to speak of individual souls as merging into the Great Soul. Every monad is fundamentally a spark of the divine triad; he cannot merge into that of which he is already a part. Surely a better explanation of what happens would be to say that as he evolves the spark develops into flame; he becomes more and more conscious of his unity with the divine, and so the LOGOS is able more and more to manifest Himself through him. | Người ta thường nói rằng trong thành tựu tối hậu, mọi linh hồn cá thể hòa nhập vào Đại Hồn, và các đạo sinh đôi khi thấy khó mà điều hòa điều này với những tuyên bố khác dường như ngụ ý rằng tính cá thể được duy trì, dưới hình thức này hay hình thức khác, thậm chí cho đến những đỉnh cao cao cả nhất. Sự thật là không có kinh nghiệm nào chúng ta có thể có, và cũng không ý niệm nào chúng ta có thể hình thành nơi bộ não hồng trần này, có thể diễn đạt các thực tại huy hoàng của Niết Bàn và các cõi vượt trên đó. Chúng ta biết quá ít về vinh quang siêu việt ấy, và chút ít mà chúng ta biết cũng không bao giờ có thể diễn ra bằng lời cho thỏa đáng. Tuy nhiên, ở một ý nghĩa nào đó, nói rằng những linh hồn cá thể hòa nhập vào Đại Hồn có lẽ là hơi gây hiểu lầm. Mỗi chân thần vốn là một tia lửa của bộ ba thiêng liêng; y không thể hòa nhập vào cái mà y vốn đã là một phần của nó. Hẳn là một giải thích tốt hơn cho điều xảy ra là: khi y tiến hóa, tia lửa phát triển thành ngọn lửa; y ngày càng ý thức hơn về sự hợp nhất của mình với điều thiêng liêng, và như thế Thượng đế càng lúc càng có thể tự hiển lộ qua y. |
This much at least I can say, that up to the highest level of consciousness which any of our students have yet attained—up even to what is commonly called nirvana itself, there is no loss of individuality, of the power to think, to plan and to act. Long before that there is an entire loss of the sense of separateness, but that is a very different thing. Sir Edwin Arnold wrote of that beatific condition “the dewdrop slips into the shinning sea.” Those who have passed through that most marvelous of experiences know that, paradoxical as it may seem, the sensation is exactly the reverse, and that a far closer description would be that the ocean had somehow been poured into the drop! | Ít nhất tôi có thể nói điều này, rằng cho đến cấp độ tâm thức cao nhất mà các đạo sinh của chúng ta từng đạt được—thậm chí tới cái mà thường được gọi là Niết Bàn, không hề có sự mất mát của tính cá thể, của năng lực tư duy, hoạch định và hành động. Từ lâu trước đó đã có sự mất hẳn cảm thức về sự tách biệt , nhưng đó lại là một điều rất khác. Sir Edwin Arnold đã viết về tình trạng huy hoàng ấy: “giọt sương lướt vào biển sáng chói.” Những ai đã đi qua trải nghiệm kỳ diệu nhất ấy biết rằng, nghịch lý thay, cảm giác lại hoàn toàn ngược lại, và mô tả sát hơn nhiều là đại dương bằng cách nào đó đã được rót vào giọt sương! |
That consciousness, wide as the sea, with “its centre everywhere and its circumference nowhere,” is a great and glorious fact; but when a man attains it, it seems to him that his consciousness has widened to take in all that, not that he is merged into something else. And he is right, for that which he had ignorantly supposed to be his consciousness was never his at all, but only the shining of the divine power and wisdom and love through him, and he is now at last beginning to realize that stupendous fact. The truth is that what is commonly understood by individuality is a delusion and has never existed, but all that is best and noblest in that conception is maintained up to adeptship and far beyond, even into the realm of the great Planetary Spirits, for They are assuredly individuals, though mighty beyond our feeble powers of conception. | Cái tâm thức ấy, rộng như biển, với “tâm ở khắp nơi và chu vi chẳng nơi đâu,” là một sự thật vĩ đại và huy hoàng; nhưng khi một người đạt được nó, dường như với y là tâm thức của y đã nới rộng để bao trùm tất cả điều đó, chứ không phải y đã hòa tan vào cái gì khác. Và y đúng, vì cái mà trước kia y lầm tưởng là tâm thức của mình vốn chưa bao giờ là của y, mà chỉ là ánh tỏa của quyền năng, minh triết và tình thương thiêng liêng xuyên qua y, và giờ đây cuối cùng y bắt đầu nhận ra sự thật hùng vĩ ấy. Sự thật là cái mà người ta thường hiểu bởi “tính cá thể” chỉ là ảo tưởng và chưa bao giờ hiện hữu, nhưng tất cả điều gì là tinh túy và cao quý nhất trong quan niệm ấy vẫn được duy trì cho tới trình độ chân sư và vượt xa nữa, thậm chí vào cõi của các Linh Thần Hành tinh vĩ đại, vì Quả thật Các Ngài là những cá thể, dù hùng mạnh vượt ngoài khả năng tưởng hình yếu ớt của chúng ta. |
Even though the attempt be foredoomed to failure, let me endeavour to give some slight idea of an experience which some of us once had in connection with this lofty plane. Before we ourselves by our own efforts were able to touch it, a Master, for certain purposes of His own, enfolded us in His higher aura, and enabled us through Him to know something of glories of nirvana. | Dù nỗ lực này có thất bại ngay từ đầu, hãy để tôi cố gắng phác họa chút ít về một kinh nghiệm mà vài người trong chúng tôi đã có liên quan đến cõi cao quý này. Trước khi tự mình có thể chạm tới nó bằng nỗ lực riêng, một Chân sư, vì những mục đích riêng của Ngài, đã bao bọc chúng tôi trong hào quang cao của Ngài, và cho phép chúng tôi nhờ Ngài mà biết đôi điều về vinh quang của Niết Bàn. |
Try to imagine the whole universe filled with and consisting of an immense torrent of living light, and in it a vividness of life and an intensity of bliss altogether beyond all description, a hundred thousand times beyond the greatest bliss of heaven. At first we feel nothing but the bliss; we see nothing but the intensity of the light; but gradually we begin to realize that even in this dazzling brightness there are brighter spots—nuclei, as it were—which are built of the light because there is nothing but the light, and yet through them somehow the light gleams out more brightly, and obtains a new quality which enables it to be perceptible upon other and lower planes, which without this would be altogether beneath the possibility of sensing its effulgence. And by degrees we begin to realize that these subsidiary suns are the great Ones, that these are Planetary Spirits, Great Angels, Karmic Deities, Buddhas, Christs and Masters, and that through Them the light and the life are flowing down to the lower planes. Gradually, little by little, as we become more accustomed to the stupendous reality, we begin to see that, in a far lower sense, even we ourselves are a focus in that cosmic scheme, and that through us also, at our much lower level, the light and the life are flowing to those who are still further away—not from it, for we are all part of it and there is nothing else anywhere—but further from the realization of it, the comprehension of it, the experience of it. | Hãy thử hình dung toàn vũ trụ được tràn ngập và cấu thành bởi một thác lũ ánh sáng sống động khôn cùng, và trong đó là sức sống rực rỡ và cường độ phúc lạc hoàn toàn vượt ngoài mô tả, trăm nghìn lần vượt hơn cực lạc lớn nhất của thiên giới. Lúc đầu chúng ta chẳng cảm gì ngoài phúc lạc; chúng ta chẳng thấy gì ngoài cường độ của ánh sáng; nhưng dần dần chúng ta bắt đầu nhận ra rằng ngay trong ánh chói lòa này vẫn có những điểm còn chói rực hơn—những hạch tâm, như thể thế—vốn được dệt bằng chính ánh sáng vì chẳng có gì ngoài ánh sáng, vậy mà qua chúng ánh sáng bằng cách nào đó lại bừng lên rạng hơn và có được một phẩm tính mới cho phép nó khả kiến trên các cõi khác và thấp hơn—những cõi mà nếu không có điều này thì hoàn toàn dưới ngưỡng có thể cảm nhận được quang huy của nó. Và từng chút một chúng ta bắt đầu nhận ra rằng những thái dương phụ này chính là các Đấng Cao Cả, rằng đó là các Linh Thần Hành tinh, các Đại Thiên Thần, các Vị Thần Nghiệp Quả, các vị Phật, các Đức Christ và các Chân sư, và rằng qua Các Ngài, ánh sáng và sự sống đang tuôn chảy xuống các cõi thấp hơn. Dần dần, từng chút một, khi chúng ta trở nên quen hơn với thực tại hùng vĩ, chúng ta bắt đầu thấy rằng, ở một nghĩa thấp hơn nhiều, ngay cả chính chúng ta cũng là một tiêu điểm trong sơ đồ vũ trụ ấy, và rằng qua chúng ta nữa, ở cấp độ thấp hơn rất nhiều của mình, ánh sáng và sự sống đang tuôn chảy đến những ai còn ở xa hơn—không phải xa khỏi nó, vì tất cả chúng ta đều là một phần của nó và chẳng có gì khác ở bất cứ đâu—mà là xa hơn khỏi việc nhận ra nó, thấu hiểu nó, thể nghiệm nó. |
If we can see and grasp even a little of the glory, we can to some extent reflect it to others who are less fortunate. That light shines for every one, and it is the only reality; yet men by their ignorance and by their foolish actions may so shut themselves away that they cannot see it, just as the sun floods the whole world with light and life, and yet men may hide themselves in caves and cellars where that light cannot be seen. Just as a mirror properly placed at the mouth of such a cave or cellar may enable those within to participate, at least to some extent, in the benefits of the light, so may we, when we see the light, reflect it to others who have so placed themselves that they cannot perceive it directly. | Nếu chúng ta có thể thấy và nắm bắt dù chỉ phần nào vinh quang ấy, chúng ta có thể phần nào phản chiếu nó cho những người kém may mắn hơn. Ánh sáng đó chiếu cho mọi người, và đó là thực tại duy nhất; tuy nhiên, con người bằng vô minh và hành động dại dột của mình có thể tự khép lại đến nỗi họ không thể thấy nó, cũng như mặt trời rót tràn ánh sáng và sự sống khắp thế gian, vậy mà người ta có thể ẩn mình trong hang động và hầm hố nơi ánh sáng ấy không thể thấy. Cũng như một tấm gương được đặt đúng chỗ ở cửa miệng hang hay hầm có thể cho những người bên trong phần nào thụ hưởng ích lợi của ánh sáng, thì chúng ta cũng vậy, khi đã thấy ánh sáng, có thể phản chiếu nó cho những người đã tự đặt mình ở chỗ không thể trực tiếp tri nhận nó. |
No words that we can use can really give even least idea of such an experience as that, for all with which our minds are acquainted has long ago disappeared before that level is attained. There is of course at that level a sheath of some sort for the spirit, but it is impossible to describe it in any words. In one sense it seems as though it were an atom, and yet in another it seems to be the whole plane. Each man is a centre of consciousness and therefore must have some position; that focus in the stream of the life of the LOGOS must, one would say, be in one place or another. Yet he feels as if he were the whole plane and could focus anywhere, and wherever for the moment the outpouring of this force stops, that is for him a sheath. The man still feels absolutely himself, even though he is so much more; and he is able to distinguish others. He is able to recognize with perfect certainty the Great Ones whom he knows, yet it is rather by instinctive feeling than by any resemblance to anything that he has seen before; but if he focusses his consciousness upon one of These he gets the effect of the form of the man he knows it in the Augoeides, two planes below. | Không một ngôn từ nào chúng ta có thể dùng có thể thực sự cho dù chỉ một ý niệm nhỏ nhất về một kinh nghiệm như thế, vì mọi điều trí chúng ta quen thuộc đã biến mất từ lâu trước khi đạt đến cấp độ ấy. Dĩ nhiên ở cấp độ đó vẫn có một cái vỏ nào đó cho chân thần, nhưng bất khả diễn tả bằng bất kỳ lời nào. Ở một nghĩa, dường như nó là một nguyên tử, vậy mà ở một nghĩa khác, dường như nó là toàn cõi. Mỗi người là một trung tâm tâm thức và vì thế tất phải có một vị trí nào đó; tiêu điểm ấy trong dòng Sự Sống của Thượng đế hẳn, người ta sẽ nói, phải ở chỗ này hay chỗ khác. Tuy vậy, y cảm như thể y là toàn cõi và có thể tập trung ở bất cứ đâu, và bất cứ nơi nào mà trong khoảnh khắc sự tuôn đổ của mãnh lực này dừng lại, thì đó đối với y là một cái vỏ. Con người vẫn cảm thấy tuyệt đối là chính mình, dù y là nhiều hơn thế rất nhiều; và y có thể phân biệt những người khác. Y có thể nhận ra với sự chắc chắn tuyệt đối những Đấng Cao Cả mà y biết, nhưng đó là bằng trực cảm hơn là bởi bất kỳ sự giống nhau nào với điều y từng thấy trước đó; song nếu y tập trung tâm thức vào một trong Các Ngài, y có được hiệu quả của hình tướng của người mà y quen biết trong Augoeides, tức hai cõi bên dưới. |
THE TRIPLE SPIRIT—CHÂN THẦN TAM PHÂN
>
The Monads are clearly all centres of force in the LOGOS, and yet each possesses a very distinct individuality of his own. In the average man the monad is but little in touch with the ego and the lower personality, which are yet somehow expressions of him. He knows from the first what is his object in evolution and he grasps the general trend of it, but until that portion of him which expresses itself in the ego has reached a fairly high stage, he is scarcely conscious of the details of life down here, or at any rate takes little interest in them. He seems at that stage not to know other monads, but rests in indescribable bliss without any active consciousness of surroundings. As evolution progresses, however, he grasps matters on the lower lane much more fully, and finally takes them entirely into his own hands, and at that stage he knows both himself and others, and his voice within us becomes for us the Voice of the Silence. That voice differs for us at different stages. For us now in this lower consciousness it is the voice of the ego; when we identify ourselves with the ego it is the voice of the spirit; when we reach the spirit it is the voice of the monad, and when in the far-away future we identify ourselves wholly with the monad it ill be the voice of the LOGOS; but in every case we have to subject the lower and rise above it, before the voice of the higher can be heard. | Các Chân thần hiển nhiên đều là những trung tâm mãnh lực trong Thượng đế, tuy vậy mỗi vị đều sở hữu một tính cá thể rất riêng. Ở người trung bình, chân thần chỉ tiếp xúc rất ít với chân ngã và phàm ngã bên dưới, vốn dẫu sao cũng là những biểu lộ của chính Ngài. Ngay từ đầu Ngài đã biết mục đích của mình trong tiến hóa và nắm được xu hướng tổng quát của nó, nhưng cho đến khi phần của Ngài biểu lộ thành chân ngã đạt đến một trình độ khá cao, Ngài hầu như không ý thức chi tiết của đời sống nơi đây, hoặc ít nhất không mấy quan tâm đến chúng. Ở giai đoạn đó dường như Ngài không biết các chân thần khác, mà an trụ trong phúc lạc không thể tả, không có tâm thức chủ động về hoàn cảnh chung quanh. Tuy nhiên, khi tiến hóa tiếp diễn, Ngài nắm bắt các vấn đề ở các cõi thấp đầy đủ hơn nhiều, và sau cùng tự tay đảm trách trọn vẹn, và ở giai đoạn đó Ngài biết cả chính mình lẫn tha nhân, và tiếng nói của Ngài bên trong chúng ta trở thành với chúng ta Tiếng Nói của Im Lặng. Tiếng nói đó đối với chúng ta khác nhau ở những giai đoạn khác nhau. Giờ đây, trong tâm thức thấp này, đó là tiếng nói của chân ngã; khi chúng ta đồng hóa mình với chân ngã, đó là tiếng nói của tinh thần; khi chúng ta đạt đến tinh thần, đó là tiếng nói của chân thần; và khi trong tương lai xa xăm chúng ta hoàn toàn đồng hóa với chân thần, thì đó sẽ là tiếng nói của Thượng đế; nhưng trong mọi trường hợp, chúng ta phải chế ngự cái thấp và vượt lên trên nó, trước khi tiếng nói của cái cao hơn có thể được nghe. |
This monad resides permanently upon the second of our planes, and when he descends upon the third, the plane of nirvana, he manifests himself as the triple spirit, and this triple spirit is a reflection or (even more truly) an expression of the LOGOS as He manifests Himself in our set of planes. His first manifestation on our highest plane is also triple. In the first of these three aspects He does not manifest Himself on any plane below the highest, but in the second He descends to the second plane and draws round Himself a garment of its matter, thus making a quite separate expression of Him. In the third aspect He descends to the upper portion of the third plane, and draws round Himself matter of that level, thus making a third manifestation. These three are the “three persons in one God,” of which Christianity teaches, telling us in its Athanasian creed that we should worship “One God in Trinity and Trinity in Unity, neither confounding the persons nor dividing the substance”—that is to say, never confusing in our minds the work and function of the three separate manifestations, each on its own plane, yet never for a moment forgetting the eternal unity of the “substance,” that which lives behind all alike on the highest plane, at the level where these three are one. | Chân thần này an trụ vĩnh viễn trên cõi thứ hai của chúng ta, và khi Ngài giáng xuống cõi thứ ba, tức cõi Niết Bàn, Ngài tự biểu lộ thành chân thần tam phân, và chân thần tam phân này là sự phản chiếu hoặc (đúng hơn nữa) là sự biểu lộ của Thượng đế khi Ngài tự hiển lộ trong hệ cõi của chúng ta. Biểu hiện đầu tiên của Ngài trên cõi cao nhất của chúng ta cũng là tam phân. Trong phương diện thứ nhất của ba phương diện này, Ngài không tự biểu lộ trên bất kỳ cõi nào dưới cõi cao nhất; nhưng ở phương diện thứ hai, Ngài giáng xuống cõi thứ hai và khoác quanh mình một y phục bằng chất liệu của cõi đó, nhờ vậy tạo thành một biểu lộ khá riêng biệt của Ngài. Ở phương diện thứ ba, Ngài giáng xuống phần trên của cõi thứ ba, và khoác quanh mình chất liệu ở trình độ ấy, nhờ vậy tạo thành một biểu hiện thứ ba. Ba vị này là “Ba Ngôi trong Một Thượng đế,” như Ki-tô giáo dạy, bảo chúng ta trong tín điều Athanasian rằng chúng ta nên thờ phượng “Một Thượng đế trong Tam Vị và Tam Vị trong Nhất Thể, không lẫn lộn các ngôi cũng không phân chia bản thể”—nghĩa là, đừng bao giờ lẫn lộn trong tâm trí chúng ta công việc và chức năng của ba biểu lộ riêng biệt, mỗi vị trên cõi riêng của mình, nhưng cũng đừng quên một sát-na nào sự hợp nhất vĩnh cửu của “bản thể,” cái sống đằng sau cả ba như nhau trên cõi cao nhất, nơi ba vị là một. |
Now an exact repetition of this process takes place in the case of man, who is in very truth made in the image of God. The spirit is triple upon the third plane, and the first of its three manifestations does not descend below that level. The second manifestation descends one stage, on to the fourth plane, and clothes itself with its matter, and then we call it buddhi. Just as before, the third aspect descends two planes, and shrines itself in matter of the highest level of the mental plane, and we call that manas, and this trinity of atma-buddhi-manas, manifesting in the causal body, is what we call the ego. | Giờ đây, một sự lặp lại y hệt tiến trình này diễn ra trong trường hợp con người, kẻ thực sự được tạo theo hình ảnh của Thượng đế. Tinh thần là tam phân trên cõi thứ ba, và biểu hiện đầu tiên trong ba biểu hiện ấy không giáng xuống dưới cõi đó. Biểu hiện thứ hai giáng xuống một bậc, đến cõi thứ tư, và khoác lấy chất liệu của cõi này, và rồi chúng ta gọi đó là Bồ đề. Cũng như trước, phương diện thứ ba giáng xuống hai cõi, và ngự trong chất liệu của trình độ cao nhất của cõi trí, và chúng ta gọi đó là manas, và bộ ba atma–buddhi–manas này, biểu lộ trong thể nguyên nhân, là cái mà chúng ta gọi là chân ngã. |
Never forget that the ego is not the manas only, but the spiritual triad; at our present stage of evolution he rests in his causal body on the higher levels of the mental plane, but as he passes onwards his consciousness will be centred on the buddhic plane, and afterwards, when he attains adeptship; on the nirvanic. But it must not be supposed that when this further development takes place the manas is in any way lost. When the ego draws himself up into the buddhic plane, he draws up manas with him into that expression of manas which has all the time existed on the buddhic plane, but has not been fully vivified until now. In the same way when he draws himself up into the nirvanic plane, manas and buddhi exist within him just as fully as ever, so that now the triple spirit is in full manifestation on its own plane in all its three aspects. Therefore the spirit is truly seven-fold, for he is triple on his own plane, dual on the buddhic, and single on the mental, and the unity which is his synthesis makes seven. Though he draws back into the higher he retains the definiteness of the lower. | Đừng bao giờ quên rằng chân ngã không chỉ là manas, mà là Tam Nguyên Tinh Thần; ở giai đoạn tiến hóa hiện tại, y ngự trong thể nguyên nhân của mình trên các cõi cao của cõi trí, nhưng khi y tiến xa hơn, tâm thức của y sẽ tập trung nơi cõi Bồ đề, và về sau, khi y đạt đến trình độ chân sư, nơi cõi Niết Bàn. Nhưng không được nghĩ rằng khi sự phát triển tiếp theo này xảy ra thì manas bị mất đi theo bất kỳ cách nào. Khi chân ngã kéo mình lên cõi Bồ đề, y kéo manas lên cùng y vào biểu lộ của manas vốn vẫn tồn tại suốt thời gian qua nơi cõi Bồ đề, nhưng chưa được sinh lực hóa đầy đủ cho đến bây giờ. Tương tự, khi y kéo mình lên cõi Niết Bàn, manas và Bồ đề tồn tại trong y trọn vẹn như trước, để rồi giờ đây chân thần tam phân hiển bày trọn đủ trên cõi riêng của mình trong cả ba phương diện. Bởi vậy, tinh thần thực sự là thất phân, vì Ngài là tam phân trên cõi riêng của Ngài, nhị phân trên cõi Bồ đề, và đơn nhất trên cõi trí, và sự hợp nhất vốn là tổng hợp của Ngài khiến thành bảy. Dẫu Ngài quy phục vào cái cao hơn, Ngài vẫn giữ được tính xác định của cái thấp hơn. |
This is probably what Madame Blavatsky meant when she spoke of the auric egg, but she surrounded this idea with great mystery, and it seems likely that she was under some pledge not to write freely about it. She never clearly explained the triple spirit, but evidently endeavored to suggest the idea without clearly expressing it, for she laid great stress upon the fact that, just as the astral plane may be said to be a reflection of the buddhic, so may the physical be said to be a reflection of the nirvanic, and then she furthermore emphasized the fact that there are three bodies or vehicles of man on the physical plane—apparently going out of her way to make this agree, and for that purpose dividing the physical body of man into two parts, the dense and the etheric, and adding as a third principle the vitality which flows through them. Now as this vitality exists on all the planes, and might just as well be made into additional principles on the astral and mental planes as on the physical, it would seem that some reason is required for her rather peculiar arrangement, and perhaps this reason may be found in her desire to indicate the triple spirit without actually mentioning it. I think the President has said that when Blavatsky spoke about the sacred auric egg she meant the four permanent atoms within an envelope of matter of the nirvanic plane. | Có lẽ đây là điều Bà Blavatsky muốn nói khi Bà đề cập đến noãn hào quang, nhưng Bà đã bao phủ ý niệm này bằng vẻ bí nhiệm lớn lao, và có vẻ như Bà ở dưới một lời thệ không được viết tự do về điều ấy. Bà chưa bao giờ giải thích minh bạch về chân thần tam phân, nhưng rõ ràng đã cố gắng gợi ý ý niệm này mà không diễn đạt rõ ràng, vì Bà nhấn mạnh mạnh mẽ vào sự kiện rằng, cũng như cõi cảm dục có thể được xem là phản chiếu của cõi Bồ đề, thì cõi hồng trần cũng có thể được xem là phản chiếu của cõi Niết Bàn, và rồi Bà còn nhấn mạnh thêm rằng con người có ba thể hay vận cụ trên cõi hồng trần—rõ ràng là Bà phải vòng ra ngoài để khiến điều này tương ứng, và vì mục đích đó đã chia thể xác của con người thành hai phần, phần đậm đặc và phần dĩ thái, và thêm như một nguyên khí thứ ba là sinh khí chảy xuyên qua chúng. Nay, vì sinh khí này hiện hữu trên mọi cõi, và cũng có thể được làm thành các nguyên lý bổ sung trên cõi cảm dục và cõi trí như trên cõi hồng trần, nên có vẻ cần một lý do cho sắp đặt khá đặc thù của Bà, và có lẽ lý do ấy nằm ở chỗ Bà muốn gợi chỉ về chân thần tam phân mà không trực tiếp nêu tên. Tôi nghĩ vị Chủ tịch đã nói rằng khi Blavatsky nói về noãn hào quang thiêng liêng, Bà ám chỉ bốn Nguyên tử trường tồn nằm trong một bao thể chất liệu của cõi Niết Bàn. |
BUDDHIC CONSCIOUSNESS—TÂM THỨC BỒ ĐỀ
>
A selfish man could not function on the buddhic plane, for the very essence of that plane is sympathy and perfect comprehension, which excludes selfishness. A man cannot make a buddhic body until he has conquered the lower planes. There is a close connection between the astral and the buddhic, the former being in some ways a reflection of the latter; but it must not therefore be supposed that a man can leap from the astral consciousness to the buddhic without developing the intervening vehicles. | Một người ích kỷ không thể hoạt động trên cõi Bồ đề, vì bản chất cốt yếu của cõi này là sự cảm thông và thấu hiểu trọn vẹn, điều loại trừ tính ích kỷ. Con người không thể kiến tạo một thể Bồ đề cho đến khi y đã chinh phục các cõi thấp. Có một mối liên hệ mật thiết giữa cõi cảm dục và cõi Bồ đề, cõi trước ở một vài phương diện là phản chiếu của cõi sau; nhưng vì thế không nên cho rằng một người có thể nhảy vọt từ tâm thức cảm dục sang tâm thức Bồ đề mà không phát triển các vận cụ trung gian. |
Certainly on the highest levels of the buddhic plane a man becomes one with all others, but we must not therefore assume that he feels alike towards all. There is no reason to suppose that we shall ever feel absolutely alike towards everybody; why should we? Even the Lord BUDDHA had His favorite disciple Ananda; even the Christ regarded Saint John the Beloved in a different way from the rest. What is true is that presently we shall come to love every one as much as we now love our nearest and dearest, but by that time we shall have developed for those nearest and dearest a type of love of which we have no conception now. The buddhic consciousness includes that of many others, so that you may put yourself down into another man and feel exactly as he does, looking upon him from within instead of from without. In that relation you will feel no shrinking even from an evil man, because you will recognize him as a part of yourself—a weak part. You will desire to help him by pouring strength in that weak part of yourself. What is required is really to be in this attitude and to do it, not merely to talk about it or think vaguely of it; and it is not easy to acquire this power. | Chắc chắn ở các cấp cao nhất của cõi Bồ đề, một người trở nên hợp nhất với hết thảy người khác, nhưng chúng ta không nên bởi thế mà giả định rằng y cảm như nhau đối với mọi người. Không có lý do gì để cho rằng chúng ta sẽ bao giờ cảm tuyệt đối như nhau với tất cả; tại sao phải thế? Ngay cả Đức PHẬT cũng có đệ tử yêu dấu của Ngài là A Nan; ngay cả Đức Christ cũng xem Thánh Gioan, người được thương mến, theo cách khác với những vị còn lại. Điều đúng là rồi đây chúng ta sẽ đến chỗ yêu thương mọi người nhiều như chúng ta hiện nay yêu những người thân nhất yêu dấu nhất, nhưng đến lúc đó chúng ta sẽ đã phát triển đối với những người thân yêu ấy một dạng tình yêu mà hiện nay chúng ta chưa thể khái niệm được. Tâm thức Bồ đề bao gồm tâm thức của nhiều người khác, đến nỗi bạn có thể “đặt mình vào” một người khác và cảm chính xác như y, nhìn y từ bên trong thay vì từ bên ngoài. Trong tương quan đó, bạn sẽ không thấy ngại ngần gì ngay cả đối với một người xấu, bởi bạn sẽ nhận ra y là một phần của chính bạn—một phần yếu. Bạn sẽ ước muốn giúp y bằng cách rót sức mạnh vào phần yếu đó của chính bạn. Điều cần thiết thật sự là ở trong thái độ này và hành động như thế, chứ không chỉ nói về nó hay nghĩ mơ hồ về nó; và đạt được năng lực này không dễ. |
EXPERIENCE—KINH NGHIỆM
>
It is not necessary for every ego to go through every experience, for when you rise to the buddhic level you can gain the experience of others, even of those who have opposed progress. We shall feel by sympathy. We could withdraw if we did not want to feel another’s suffering; but we should choose to feel it because we want to help. On the buddhic plane we enfold the man in our own consciousness, and though he knows nothing of such enfoldment it will to a certain extent lessen his sufferings. In all probability we have all had most of the experiences of the savage and half-civilized stages. An adept would necessarily wish to remove or relieve suffering, but we may easily imagine a case in which he would see that the good which was being produced by the suffering so enormously outweighed the present pain that to interfere would not be kindness but cruelty to the sufferer. He would see the whole, not only the part. His sympathy would be deeper than ours, but he would not express it in action except when action was useful. | Không cần thiết mọi chân ngã đều phải trải qua mọi kinh nghiệm, vì khi bạn vươn lên cấp độ Bồ đề bạn có thể thu nhận kinh nghiệm của những người khác, thậm chí của những ai đã chống lại sự tiến bộ. Chúng ta sẽ cảm nhận bằng sự cảm thông. Chúng ta có thể rút lui nếu không muốn cảm nỗi đau của người khác; nhưng chúng ta sẽ chọn cảm nó vì chúng ta muốn giúp. Trên cõi Bồ đề, chúng ta bao bọc người đó trong chính tâm thức của mình, và dẫu y không hề biết đến sự bao bọc ấy, nó vẫn ở một mức nào đó làm nhẹ bớt những đau khổ của y. Rất có khả năng tất cả chúng ta đều đã có phần lớn những kinh nghiệm của các giai đoạn dã man và bán văn minh. Một vị chân sư tất nhiên sẽ mong muốn loại bỏ hay làm nhẹ đi khổ đau, nhưng chúng ta dễ dàng hình dung một trường hợp trong đó Ngài thấy rằng điều thiện được tạo ra bởi sự đau khổ vượt trội gấp bội so với nỗi đau hiện tại, đến nỗi can thiệp không phải là lòng tốt mà là độc ác với người chịu khổ. Ngài sẽ thấy toàn thể, chứ không chỉ phần đoạn. Lòng cảm thông của Ngài sâu hơn chúng ta, nhưng Ngài sẽ không biểu lộ nó bằng hành động trừ khi hành động là hữu ích. |
THE SPHERES—CÁC QUẢ CẦU
>
In any diagram which represents the various planes we usually draw them as lying one above the other like the shelves of a book-case. But then in explaining that diagram we are careful to say that this must not be taken literally, since all the planes interpenetrate and all of them are about us here all the time. That is perfectly true, and yet there is a sense in which the shelf-like arrangement is true also. We may perhaps draw an analogy from the condition of affairs which we find existing upon the surface of the physical earth. We may take the solid matter for all practical purposes as existing only under our feet, as the lowest stratum of physical matter, though of course it is true that countless millions of particles of solid matter are also floating in the air over our heads. | Trong bất kỳ sơ đồ nào biểu diễn các cõi khác nhau, chúng ta thường vẽ chúng như nằm chồng lên nhau như các kệ của một tủ sách. Rồi khi giải thích sơ đồ ấy, chúng ta cẩn thận nói rằng không được hiểu theo nghĩa đen như vậy, vì mọi cõi đều tương giao xuyên thấu và tất cả đều ở quanh chúng ta ở ngay đây luôn luôn. Điều đó hoàn toàn đúng, nhưng vẫn có một ý nghĩa trong đó cách sắp đặt như kệ cũng đúng. Chúng ta có thể rút một tương tự từ tình trạng sự việc mà chúng ta thấy tồn tại trên bề mặt Trái Đất vật chất. Về mọi mục đích thực tế, chúng ta có thể xem chất rắn chỉ tồn tại dưới chân chúng ta, như tầng thấp nhất của chất liệu hồng trần, dù dĩ nhiên đúng là vô số triệu hạt rắn cũng đang lơ lửng trong không khí trên đầu chúng ta. |
We may say that, roughly speaking, the liquid matter of the earth (chiefly water) lies upon the surface of the solid matter, though again it is true that a large amount of water interpenetrates the earth beneath us, and also that millions of tons of water are raised above the surface of the earth in the form of clouds. Still, the great bulk of the liquid matter of the earth lies on the top of its solid matter in the form of the ocean, lakes and rivers. Then the gaseous matter of our earth (chiefly the atmosphere) lies upon the surface of the water and of the solid earth, and extends much further away into space than either the liquid or the solid. | Chúng ta có thể nói đại khái rằng chất lỏng của Trái Đất (chủ yếu là nước) nằm trên bề mặt của chất rắn, dù cũng đúng là một lượng lớn nước xuyên thấu vào đất bên dưới chúng ta, và cũng đúng là hàng triệu tấn nước được nâng lên trên bề mặt Trái Đất dưới dạng mây. Tuy vậy, phần lớn khối lượng chất lỏng của Trái Đất nằm trên đỉnh chất rắn của nó dưới dạng đại dương, hồ và sông. Rồi chất khí của Trái Đất (chủ yếu là khí quyển) nằm trên bề mặt của nước và của đất rắn, và lan xa hơn vào không gian nhiều hơn cả chất lỏng lẫn chất rắn. |
All three conditions of matter exist here at the surface of the earth where we live, but the water in the form of clouds extents further above that surface than does ordinary dust, and again the air, though interpenetrating both the others, extends much further away still. This is by no means a bad analogy to explain the arrangement of the matter of the higher planes. | Cả ba trạng thái chất liệu đều tồn tại ngay đây trên bề mặt Trái Đất nơi chúng ta sống, nhưng nước dưới dạng mây vươn cao hơn bề mặt ấy so với bụi thông thường, và không khí, tuy xuyên thấu cả hai trạng thái kia, lại lan xa hơn nữa. Đây không phải là một tương tự tồi để giải thích sự sắp đặt của chất liệu các cõi cao hơn. |
What we call our astral plane may also be considered as the astral body of the earth. It certainly exists all around us, and interpenetrates the solid earth beneath our feet, but it also extends far away above our heads, so that we may think of it as a huge ball of astral matter with the physical earth in the middle of it, much as the physical body of a man exists within the ovoid form which is filled with astral matter, except that in case of the earth the proportionate size of its astral body outside the physical is enormously greater than in the case of man. But just as in the case of the man densest aggregation of astral matter is that which is within the periphery of the physical body, so in the case of the earth by far the greater part of its astral matter is gathered together within the limit of the physical sphere. | Cái mà chúng ta gọi là cõi cảm dục của chúng ta cũng có thể được xem như thể cảm dục của Trái Đất. Nó chắc chắn tồn tại quanh chúng ta, và xuyên thấu Trái Đất rắn dưới chân, nhưng nó cũng vươn xa khỏi trên đầu chúng ta, để rồi chúng ta có thể nghĩ về nó như một quả cầu khổng lồ bằng chất liệu cảm dục với Trái Đất vật chất ở giữa, tương tự như thể xác của một người tồn tại trong hình bầu dục noãn được lấp đầy bằng chất liệu cảm dục, ngoại trừ trong trường hợp Trái Đất, kích thước tương đối của thể cảm dục bên ngoài thể xác lớn hơn gấp bội so với trường hợp con người. Nhưng cũng như trong trường hợp con người, nơi tập trung đặc hơn của chất liệu cảm dục là phần nằm trong chu vi của thể xác, thì trong trường hợp Trái Đất, phần lớn nhất của chất liệu cảm dục của nó được gom lại trong giới hạn của quả cầu vật chất. |
Nevertheless, the portion of the astral sphere which is exterior to the physical, extends nearly to the mean distance of the moon’s orbit, so that the astral planes of the two worlds touch one another when the moon is in perigee, but do not touch when the moon is in apogee. Incidentally, it follows that at certain times of the month astral communication with the moon is possible, and at certain other times it is not. | Tuy thế, phần của quả cầu cảm dục nằm ngoài phần vật chất lan rộng gần đến khoảng cách trung bình của quỹ đạo Mặt Trăng, để rồi các cõi cảm dục của hai thế giới chạm nhau khi mặt trăng ở điểm cận địa, nhưng không chạm khi mặt trăng ở điểm viễn địa. Hệ quả là, vào những thời điểm nhất định trong tháng, giao tiếp cảm dục với Mặt Trăng là khả hữu, còn ở những thời điểm khác thì không. |
The mental plane of our earth bears about the same proportion to the astral as the latter does to the physical. It also is a huge globe, concentric with the other two, interpenetrating them both, but extending much further from the centre than does the astral globe. It will be seen that the effect of this is that, while matter of all the planes exists together down here, there is a certain amount of truth in the illustration of the shelves, for beyond the limit of the physical atmosphere there is a considerable shell which consists only of astral and mental matter, and outside of that again another similar shell which consists of mental matter only. | Cõi trí của Trái Đất chúng ta có tỷ lệ so với cõi cảm dục cũng gần như cõi cảm dục so với cõi hồng trần. Nó cũng là một quả cầu khổng lồ, đồng tâm với hai quả kia, xuyên thấu cả hai, nhưng lan xa khỏi tâm hơn quả cầu cảm dục. Sẽ thấy rằng hiệu quả của điều này là, trong khi chất liệu của mọi cõi cùng tồn tại ở dưới này, thì cũng có phần nào đúng khi minh họa theo kiểu “các kệ,” vì ở ngoài giới hạn của khí quyển vật chất có một vỏ đáng kể chỉ gồm chất liệu cảm dục và trí, và ngoài vỏ đó lại có một vỏ tương tự nữa chỉ gồm chất liệu trí. |
When we reach the buddhic plane the extension becomes so great that what we might call the buddhic bodies of the different planets of our chain meet one another, and so there is but one buddhic body for the whole chain, which means that in the buddhic vehicle it is possible to pass from one of these planets to another. I presume that when investigations in a similar way are extended to the nirvanic plane it will be found that that matter extends so much further that other chains are included in it as well—perhaps the entire solar system. | Khi chúng ta đạt đến cõi Bồ đề, sự mở rộng trở nên lớn đến mức cái mà ta có thể gọi là “các thể Bồ đề” của các hành tinh khác trong dãy của chúng ta gặp nhau, và vì thế chỉ có một thể Bồ đề cho cả dãy, nghĩa là trong vận cụ Bồ đề có thể đi từ hành tinh này sang hành tinh khác. Tôi phỏng đoán rằng khi khảo cứu theo cách tương tự được mở rộng lên cõi Niết Bàn, sẽ thấy chất liệu cõi đó vươn xa đến mức các dãy khác cũng được bao gồm trong đó—có lẽ là toàn bộ hệ mặt trời. |
All this is true as far as it goes, and yet it does not convey a really accurate idea of the true position of affairs, because of the fact that our minds can grasp only three dimensions, whereas in reality there are many more, and as we raise our consciousness from plane to plane, each step opens before us the possibility of comprehending one more of these dimensions. This makes it difficult to describe exactly the position of those who have passed away from the physical life to other planes. Some of such people tend to hover round their earthly homes, in order to keep in touch with their friends of the physical life and the places which they know; others, on the other hand, have a tendency to float away and to find for themselves, as if by specific gravity, a level much further removed from the surface of the earth. | Tất cả những điều này đúng ở mức độ nào đó, nhưng nó không truyền đạt một ý niệm thật sự chính xác về tình trạng thực sự, vì tâm trí của chúng ta chỉ có thể nắm ba chiều, trong khi thực tại có nhiều chiều hơn, và khi chúng ta nâng tâm thức từ cõi này lên cõi khác, mỗi bước mở ra trước chúng ta khả năng thấu hiểu thêm một chiều nữa trong số các chiều ấy. Điều này làm cho việc mô tả chính xác vị thế của những người đã rời đời sống hồng trần sang các cõi khác trở nên khó khăn. Một số người như vậy có xu hướng lảng vảng quanh mái nhà trần thế của họ, để giữ tiếp xúc với bạn bè trong đời sống hồng trần và những nơi họ quen biết; những người khác, trái lại, có xu hướng trôi nổi xa và tìm cho mình, như thể theo “tỷ trọng riêng,” một tầng mức xa bề mặt Trái Đất hơn rất nhiều. |
The average person passing into the heaven-life, for example, tends to float at a considerable distance above the surface of the earth, although on the other hand some of such men are drawn to our level. Still, broadly speaking, the inhabitants of the heaven-world may be thought of as living in a sphere or ring or zone round the earth. What Spiritualists call the summer-land extends many miles above our heads, and as people of the same race and the same religion tend to keep together after death just as they do during life, we have what may be described as a kind of network of summer-lands over the countries to which belong the people who have created them. | Người trung bình khi đi vào đời sống thiên giới, chẳng hạn, có xu hướng trôi ở một khoảng cách đáng kể trên bề mặt Trái Đất, dù mặt khác, một số người như vậy lại bị hút về tầng mức gần chúng ta. Tuy nhiên, nói rộng ra, cư dân của cõi trời có thể được xem như đang sống trong một quả cầu hay một vành đai hay một vùng chung quanh Trái Đất. Cái mà các nhà thần linh học gọi là “miền mùa hạ” trải rộng nhiều dặm trên đầu chúng ta, và vì người thuộc cùng chủng tộc và cùng tôn giáo có xu hướng kết tụ với nhau sau khi chết cũng như khi còn sống, chúng ta có một cái có thể mô tả như một mạng lưới các “miền mùa hạ” phủ trên những xứ sở thuộc về những người đã tạo ra chúng. |
People find their own level on the astral plane, much in the same way as objects floating in the ocean do. This does not mean that they cannot rise and fall at will, but that if no special effort is made they come to their level and remain there. Astral matter gravitates towards the centre of the earth just as physical matter does; both obey the same general laws. We may take it that the sixth sub-plane of the astral is partially coincident with the surface of the earth, while the lowest, or seventh, penetrates some distance into the interior. | Con người tìm thấy tầng mức riêng của mình trên cõi cảm dục, tương tự như những vật nổi trên đại dương. Điều này không có nghĩa là họ không thể lên xuống theo ý muốn, mà là nếu không có cố gắng đặc biệt, họ sẽ đến tầng mức của mình và ở lại đó. Chất liệu cảm dục hấp về tâm Trái Đất cũng như chất liệu hồng trần; cả hai đều tuân theo cùng những định luật tổng quát. Chúng ta có thể coi rằng, nói chung, cõi phụ thứ sáu của cõi cảm dục phần nào trùng với bề mặt Trái Đất, trong khi cõi phụ thấp nhất, hay thứ bảy, xuyên vào một khoảng trong nội thất của hành tinh. |
The conditions of the interior of our earth are not easy to describe. Vast cavities exist in it, and there are races inhabiting these cavities, but they are not of the same evolution as ourselves. One of these evolutions, which is at a level distinctly lower than any race now existing upon the surface of the earth, is to some extent described in the seventeenth life of Alcyone, published recently in The Theosophist; the other is more nearly at our level, yet utterly different from anything that we know. | Điều kiện ở nội tâm của Trái Đất không dễ mô tả. Có những khoang rỗng mênh mông ở đó, và có những giống loài cư trú trong các khoang này, nhưng họ không thuộc cùng một tiến hóa như chúng ta. Một trong những tiến hóa này, vốn ở trình độ thấp rõ rệt hơn bất kỳ giống dân nào hiện hữu trên bề mặt Trái Đất, đã phần nào được mô tả trong đời thứ mười bảy của Alcyone, mới xuất bản gần đây trong The Theosophist ; tiến hóa kia thì gần như ở mức của chúng ta hơn, song hoàn toàn khác với bất cứ điều gì chúng ta biết. |
As the centre of the earth is approached, matter is found to exist in a state not readily comprehensible to those who have not seen it; a state in which it is far denser than the densest metal known to us, and yet flows as readily as water. But yet there is something else within even that. Such matter is far too dense for any forms of life that we know, but nevertheless, it has connected with it an evolution of its own. | Khi tiến gần tâm Trái Đất, thấy chất liệu tồn tại trong một trạng thái không dễ lĩnh hội đối với người chưa thấy nó; một trạng thái trong đó nó đặc hơn rất nhiều so với kim loại đặc nhất mà chúng ta biết, vậy mà lại chảy dễ dàng như nước. Nhưng rồi lại có một cái gì đó bên trong cả cái đó nữa. Chất liệu như thế quá đỗi đậm đặc đối với bất kỳ hình thức sự sống nào mà chúng ta biết, nhưng tuy vậy, nó cũng có gắn với nó một tiến hóa riêng. |
The tremendous pressures which exist here are utilized by the Third LOGOS for the manufacture of new elements; in fact, the central portions of the earth may with great truth be regarded as His laboratory for temperatures and pressures are obtainable there of which we on the surface have no conception. It is there that, under His direction, troops of devas and nature-spirits of a particular type combine and separate, arrange and rearrange the ultimate physical atoms, working along the wonderful double spiral which is symbolized in Sir William Crookes’ lemniscates. From this point also, incredible as it seems to us, there is a direct connection with the heart of the sun, so that elements made there appear in the centre of the earth without passing through what we call the surface; but it is useless to speak of this until the higher dimensions of space are more generally understood. As in the case of the physical, the densest astral matter is far too dense for the ordinary forms of astral life; but that also has other forms of its own which are quite unknown to students of the surface. | Những áp lực khủng khiếp hiện hữu ở đây được Đệ Tam Thượng đế sử dụng để chế tạo các nguyên tố mới; thực vậy, khu trung tâm của Trái Đất rất đúng có thể được xem là phòng thí nghiệm của Ngài, vì ở đó có thể có những nhiệt độ và áp lực mà chúng ta trên bề mặt không thể nào khái niệm. Tại đó, dưới sự chỉ đạo của Ngài, các đoàn thiên thần và tự nhiên linh thuộc một loại đặc thù kết hợp và phân chia, sắp đặt và tái sắp đặt các nguyên tử hồng trần tối hậu, vận hành theo đường xoắn kép kỳ diệu được biểu tượng trong hình vô cực (lemniscate) của Sir William Crookes. Cũng từ điểm này, mặc dù điều đó dường như khó tin với chúng ta, có một mối liên hệ trực tiếp với tâm Mặt Trời, đến nỗi các nguyên tố được tạo ra ở đó xuất hiện ở trung tâm Trái Đất mà không đi qua cái chúng ta gọi là bề mặt; nhưng nói về điều này là vô ích cho đến khi các chiều cao hơn của không gian được hiểu biết rộng rãi hơn. Cũng như đối với cõi hồng trần, chất liệu cảm dục đậm đặc nhất quá đỗi đậm đặc đối với những hình thái sự sống cảm dục thông thường; nhưng cõi đó cũng có những hình thức riêng của nó hoàn toàn không được các học viên nơi bề mặt biết đến. |
In investigating the interior of the earth we did not find a central shaft running from pole to pole, such as has been described by some mediums, nor did we find a number of concentric spheres resting upon cushions of steam. At the same time there are certain forces which do play through concentric layers, and it is not difficult to see what were the natural phenomena which deceived those who, in perfect good faith, made that statement. | Trong khi khảo sát nội tâm Trái Đất, chúng tôi không thấy một trục rỗng chạy từ cực này sang cực kia, như một số đồng tử đã mô tả, cũng không thấy một số quả cầu đồng tâm nằm trên những đệm hơi nước. Đồng thời, vẫn có những mãnh lực nhất định tác động xuyên qua các lớp đồng tâm, và không khó để thấy những hiện tượng tự nhiên nào đã đánh lừa những người, với thiện chí hoàn toàn, đưa ra lời khẳng định đó. |
There is unquestionably a force of etheric pressure just as there is of atmospheric pressure, and it can be utilized by man as soon as he can discover some material which is ether-proof. The same pressure exists in the astral world. The most ordinary example of this is what happens when a man leaves his body in sleep or in death. | Không nghi ngờ gì, có một mãnh lực áp suất dĩ thái cũng như có áp suất khí quyển, và nó có thể được con người sử dụng ngay khi y phát hiện ra một chất liệu nào đó “chống dĩ thái.” Cùng áp suất ấy tồn tại trong thế giới cảm dục. Ví dụ phổ thông nhất về điều này là những gì xảy ra khi con người rời thể xác trong giấc ngủ hoặc trong cái chết. |
When the astral body is withdrawn from the physical, we must not suppose that that physical body is left without an astral counterpart. The pressure of the surrounding astral matter—and that really means the action of the force of gravitation on the astral plane—immediately forces other astral matter into that astrally empty space, just as, if we create a vortex and draw out the air from a room, other air flows instantly from the surrounding atmosphere. But that astral matter will correspond with curious accuracy to physical matter which it interpenetrates. Every variety of physical matter attracts astral matter of corresponding density, so that solid physical matter is interpenetrated by what we may call solid astral matter—that is, matter of the lowest astral sub-plane; whereas physical liquid is interpenetrated by matter of the next astral sub-plane—astral liquid; while physical gas in turn attracts its particular correspondence—matter of the third astral sub-plane from the bottom, which might be called astral gas. | Khi thể cảm dục được rút khỏi thể xác, ta không nên cho rằng thể xác bị bỏ lại không có đối phần cảm dục. Áp lực của chất liệu cảm dục bao quanh—và điều đó thực ra có nghĩa là tác động của lực hấp dẫn trên cõi cảm dục—lập tức ép chất liệu cảm dục khác vào khoảng trống cảm dục ấy, y như khi chúng ta tạo một xoáy và hút không khí khỏi một căn phòng, thì không khí khác tức khắc tràn vào từ khí quyển chung quanh. Nhưng chất liệu cảm dục đó sẽ tương ứng với độ chính xác thú vị với chất liệu hồng trần mà nó xuyên thấu. Mỗi dạng chất liệu hồng trần lôi cuốn chất liệu cảm dục có mật độ tương ứng, để rồi chất rắn hồng trần được xuyên thấu bởi cái mà chúng ta có thể gọi là “chất rắn cảm dục”—tức chất liệu của cõi phụ thấp nhất của cõi cảm dục; trong khi chất lỏng hồng trần được xuyên thấu bởi chất liệu của cõi phụ kế tiếp—“chất lỏng cảm dục”; và chất khí hồng trần đến lượt mình lôi cuốn đối phần tương ứng—chất liệu của cõi phụ thứ ba tính từ dưới lên, có thể gọi là “chất khí cảm dục.” |
Take the case of a glass of water; the tumbler (being solid matter) is interpenetrated by astral matter of the lowest sub-plane; the water in the tumbler (being liquid matter) is interpenetrated by astral matter of the second sub-plane, counting from the bottom upwards; while the air which surrounds both (being gaseous matter) is interpenetrated by astral matter of the third sub-plane, counting from the bottom upwards. | Hãy lấy trường hợp một ly nước; cái cốc (vì là chất rắn) được xuyên thấu bởi chất liệu cảm dục của cõi phụ thấp nhất; nước trong cốc (vì là chất lỏng) được xuyên thấu bởi chất liệu cảm dục của cõi phụ thứ hai, tính từ dưới lên; còn không khí bao quanh cả hai (vì là chất khí) được xuyên thấu bởi chất liệu cảm dục của cõi phụ thứ ba, tính từ dưới lên. |
We must also realize that just as all these things, the tumbler, the water, and the air, are interpenetrated by physical ether, so are their astral correspondences further interpenetrated by the variety of astral matter which corresponds to the different types of ether. So when a man withdraws is astral body from the physical there is an inrush of all three varieties of astral matter, because man’s physical body is composed of solid, liquid and gaseous constituents. Of course there is ether in the physical body as well, so there must also be astral matter of the higher sub-planes to correspond to that. | Chúng ta cũng phải nhận ra rằng, cũng như tất cả những vật này—cốc, nước và không khí—được xuyên thấu bởi dĩ thái hồng trần, thì các đối phần cảm dục của chúng lại còn được xuyên thấu thêm nữa bởi dạng chất liệu cảm dục tương ứng với các loại dĩ thái khác nhau. Vậy nên, khi một người rút thể cảm dục khỏi thể xác, có một luồng ập vào của cả ba loại chất liệu cảm dục, bởi thể xác của con người được cấu thành bởi các thành phần rắn, lỏng và khí. Dĩ nhiên, có dĩ thái trong thể xác nữa, vậy nên cũng phải có chất liệu cảm dục của các cõi phụ cao hơn tương ứng với điều đó. |
That temporary astral counterpart formed during the absence of the real astral body is thus an exact copy of it so far as arrangement is concerned, but it has no real connection with the physical body, and could never be used as a vehicle. It is constructed of any astral matter of the required kind that happens to be handy; it is merely a fortuitous concourse of atoms, and when the true astral body returns it pushes out this other astral matter without the slightest opposition. This is one reason for the extreme care which ought to be exercised as to the surroundings in which we sleep, for if those surroundings are evil, astral matter of the most objectionable type may fill our physical bodies while we are away from them, leaving behind it an influence which cannot but react horribly upon the real man when he returns. But the instant inrush when the body is abandoned shows the existence of astral pressure. | Đối phần cảm dục tạm thời ấy, hình thành trong thời gian vắng mặt của thể cảm dục thật, vì thế là một bản sao chính xác của thể cảm dục về phương diện sắp đặt, nhưng nó không có liên hệ thực sự nào với thể xác, và không bao giờ có thể được sử dụng như một vận cụ. Nó được cấu thành từ bất cứ chất liệu cảm dục nào của loại cần dùng có sẵn gần đó; nó chỉ là một kết tụ ngẫu hợp của các nguyên tử, và khi thể cảm dục thật trở về, nó đẩy chất liệu cảm dục kia ra mà không gặp chút phản kháng nào. Đây là một lý do cho sự cẩn trọng tối đa mà chúng ta nên thực hành đối với môi trường xung quanh nơi chúng ta ngủ, vì nếu môi trường ấy xấu, chất liệu cảm dục thuộc loại đáng chê nhất có thể lấp đầy thể xác chúng ta khi chúng ta vắng mặt, để lại phía sau một ảnh hưởng không thể không phản tác động khủng khiếp lên con người thật khi y trở về. Nhưng luồng ập vào tức thì khi thể xác bị bỏ rơi cho thấy sự hiện hữu của áp suất cảm dục. |
In the same way, when the man has finally left his physical body at death, what he leaves is no longer a vehicle, but a corpse—not in any true sense a body at all, but simply a collection of disintegrating material in the shape of a body. Just as we can no longer call that truly a body, so we cannot call the astral matter which interpenetrates it truly a counterpart in the ordinary sense of the word. Take an imperfect yet perhaps helpful analogy. When the cylinder of an engine is full of steam, we may regard the steam as the living force within the cylinder, which makes the engine move. But when the engine is cold and at rest, the cylinder is not necessarily empty; it may be filled with air; yet that air is not its appropriate living force, though it occupies the same position as did the steam. | Tương tự như vậy, khi con người đã rời thể xác của mình dứt khoát trong cái chết, cái y bỏ lại không còn là một vận cụ nữa, mà là một xác—không còn là một “thể” theo bất kỳ nghĩa đúng đắn nào, mà chỉ là một tập hợp chất liệu đang phân hủy trong hình dáng của một thân thể. Cũng như chúng ta không còn có thể gọi cái đó là “thể” theo nghĩa chân chính, thì chúng ta cũng không thể gọi chất liệu cảm dục xuyên thấu nó là đối phần thực thụ theo nghĩa thông thường. Hãy lấy một tương tự chưa hoàn hảo nhưng có lẽ hữu ích. Khi xi-lanh của một động cơ đầy hơi nước, chúng ta có thể xem hơi nước là mãnh lực sống trong xi-lanh, cái làm cho động cơ chuyển động. Nhưng khi động cơ nguội và nghỉ, xi-lanh không nhất thiết trống; nó có thể đầy không khí; tuy nhiên, không khí đó không phải là mãnh lực sống thích hợp của nó, dù nó chiếm cùng vị trí như hơi nước từng chiếm. |
Astral matter is never really solid at all—only relatively solid. You know that the mediaeval alchemists always symbolized astral matter by water, and one of the reasons for that was its fluidity and penetrability. It is true that the counterpart of any solid physical object is always matter of the lowest astral sub-plane, which for convenience we often call astral solid matter; but we must not therefore endow it with the qualities with which we are familiar in solids on this plane. The particles in that densest kind of astral matter are further apart relatively to their size than even gaseous particles; so that it would be easier for two of the densest astral bodies to pass through each other than it would be for the lightest physical gas to diffuse itself in the air. | Chất liệu cảm dục không bao giờ thực sự “rắn”—chỉ “rắn” một cách tương đối. Bạn biết rằng các nhà giả kim thời trung cổ luôn tượng trưng chất liệu cảm dục bằng nước, và một trong những lý do là vì tính lưu chất và khả năng xuyên thấu của nó. Đúng là đối phần của bất kỳ vật rắn hồng trần nào luôn là chất liệu của cõi phụ thấp nhất cảm dục, mà vì tiện lợi chúng ta thường gọi là “chất rắn cảm dục”; nhưng chúng ta đừng bởi vậy mà gán cho nó những phẩm tính mà chúng ta quen thuộc nơi chất rắn ở cõi này. Các hạt trong loại chất liệu cảm dục đậm đặc nhất ấy đứng xa nhau, so với kích thước của chúng, còn hơn cả các hạt khí; đến nỗi sẽ còn dễ hơn cho hai “thể cảm dục đậm đặc” xuyên qua nhau, so với việc chất khí nhẹ nhất khuếch tán vào không khí. |
On the astral plane one has not the sense of jumping over a precipice, but simply of floating over it. If you are standing upon the ground, part of your astral body interpenetrates the ground under your feet; but through your astral body you would not be conscious of this fact by anything corresponding to a sense of hardness, or by any difference in your power of motion. Remember that upon the astral plane there is no sense of touch that corresponds to ours upon the physical. One never touches the surface of anything, so as to feel it hard or soft, rough or smooth, hot or cold; but on coming into contact with the interpenetrating substance one would be conscious of a different rate of vibration, which might of course be pleasant or unpleasant, stimulating or depressing. When on awakening in the morning we remember anything corresponding to our ordinary sense of touch, it is only that in bringing the remembrance through, the physical brain adopted the means of expression to which we are accustomed. | Trên cõi cảm dục, người ta không có cảm giác “nhảy qua vực sâu,” mà chỉ có cảm giác lướt qua đó. Nếu bạn đứng trên mặt đất, một phần thể cảm dục của bạn xuyên thấu đất dưới chân; nhưng qua thể cảm dục bạn sẽ không ý thức về sự kiện này bằng bất kỳ điều gì tương ứng với cảm giác cứng hay mềm, cũng chẳng có bất kỳ khác biệt nào trong năng lực vận động của bạn. Hãy nhớ rằng trên cõi cảm dục không có cảm giác xúc chạm giống như của chúng ta trên cõi hồng trần. Người ta không bao giờ “chạm” vào bề mặt của vật gì, để cảm nó cứng hay mềm, thô hay mịn, nóng hay lạnh; mà khi tiếp xúc với chất liệu xuyên thấu, người ta sẽ ý thức về một nhịp độ rung động khác, điều này dĩ nhiên có thể là dễ chịu hay khó chịu, kích thích hay làm sụt giảm. Khi lúc thức dậy vào buổi sáng chúng ta nhớ bất cứ điều gì tương ứng với cảm giác xúc chạm thông thường của mình, thì đó chỉ là vì khi đưa ký ức qua, bộ não hồng trần đã dùng phương tiện biểu đạt mà chúng ta quen dùng. |
Though the light of all planes comes from the sun, yet the effect which it produces on the astral plane is entirely different from that on the physical. In astral life there is a diffused luminosity, not obviously coming from any special direction. All astral matter is in itself luminous, and an astral body is not like a painted sphere, but rather a sphere of living fire. It is also transparent, and there are no shadows. It is never dark in the astral world. The passing of a physical cloud between us and the sun makes no difference whatever to the astral plane, nor of course does the shadow of the earth which we call night. | Dẫu ánh sáng của mọi cõi đến từ mặt trời, nhưng hiệu quả mà nó tạo ra trên cõi cảm dục hoàn toàn khác với trên cõi hồng trần. Trong đời sống cảm dục có một ánh sáng tỏa đều, không hiển nhiên đến từ một hướng đặc biệt nào. Mọi chất liệu cảm dục tự thân đều phát quang, và một thể cảm dục không giống như một khối cầu được sơn, mà giống một khối cầu lửa sống động. Nó cũng trong suốt, và không có bóng. Trên cõi cảm dục không bao giờ tối. Đám mây hồng trần đi ngang giữa chúng ta và mặt trời chẳng tạo khác biệt gì với cõi cảm dục, và dĩ nhiên cái bóng của Trái Đất mà chúng ta gọi là đêm cũng vậy. |
The invisible helper would not pass through a mountain, if he thought of it as an obstacle; to learn that it is not an obstacle is precisely the object of one part of what is called “the test of earth.” There cannot be an accident on the astral plane in our sense of word, because the astral body, being fluidic, cannot be destroyed or permanently injured, as the physical body can. An explosion on the astral plane might be temporarily as disastrous as an explosion of gunpowder on the physical, but the astral fragments would quickly collect themselves again. | Một người trợ giúp vô hình sẽ không “đi xuyên” qua một ngọn núi nếu y xem đó là một chướng ngại; học rằng nó không phải là chướng ngại chính là mục tiêu của một phần cái gọi là “bài thử của đất.” Không thể có tai nạn trên cõi cảm dục theo nghĩa của chúng ta, bởi vì thể cảm dục, vốn linh động, không thể bị hủy diệt hay tổn thương vĩnh viễn như thể xác. Một vụ nổ trên cõi cảm dục có thể tạm thời gây tai hại như một vụ nổ thuốc súng trên cõi hồng trần, nhưng các mảnh cảm dục sẽ nhanh chóng tự tập hợp lại. |
People on the astral plane can and do pass through one another constantly, and through fixed astral objects. Remember that on the astral plane matter is so much more fluidic and so much less densely aggregated. There never can be anything like what we mean by a collision, and under ordinary circumstances two bodies which interpenetrate are not even appreciably affected. If, however, the interpenetration lasts for some time, as it does, for example, when two person sit side by side through a service in a church or a performance in a theatre, a considerable effect may be produced. | Con người trên cõi cảm dục có thể và thường xuyên xuyên qua nhau, và xuyên qua các vật cảm dục cố định. Hãy nhớ rằng trên cõi cảm dục, chất liệu linh động hơn nhiều và tập hợp kém đặc hơn nhiều. Không bao giờ có bất cứ điều gì giống như cái mà chúng ta gọi là va chạm, và trong hoàn cảnh bình thường, hai “thể” xuyên thấu nhau thậm chí không bị ảnh hưởng đáng kể. Tuy nhiên, nếu sự xuyên thấu kéo dài một thời gian, như khi hai người ngồi cạnh nhau suốt một buổi lễ trong nhà thờ hoặc một buổi diễn trong nhà hát chẳng hạn, có thể tạo ra một hiệu quả đáng kể. |
There are many currents which tend to carry about persons who are lacking in will, and even those who have will but do not know how to use it. During physical life the matter of our astral bodies is constantly in motion, while after death, unless the will is exercised for the purpose of preventing it, it is arranged in concentric shells with a crust of the coarsest matter on the outside. If a man wishes to be of service on the astral, this shelling must be prevented, for those whose astral bodies have been thus re-arranged are confined to one level. If the re-arrangement has already occurred, the first thing that is done when a person is taken in hand is to break up that condition and set him free on the whole of the astral plane. For those who are acting as invisible helpers on the astral plane there are no separate levels; it is all one. | Có nhiều dòng lưu chuyển có xu hướng cuốn theo những người thiếu ý chí, và thậm chí những ai có ý chí nhưng không biết dùng nó. Trong đời sống hồng trần, chất liệu của thể cảm dục chúng ta liên tục chuyển động, còn sau khi chết, nếu không vận dụng ý chí để ngăn chặn, nó sẽ được sắp đặt thành các vỏ đồng tâm với một lớp vỏ thô nhất ở bên ngoài. Nếu một người muốn phụng sự trên cõi cảm dục, trạng thái “tạo vỏ” này phải được ngăn chặn, vì những ai có thể cảm dục đã được sắp đặt lại như thế bị giới hạn ở một tầng mức duy nhất. Nếu sự sắp đặt lại đã xảy ra, điều đầu tiên được làm khi một người được tiếp nhận là phá vỡ trạng thái đó và giải phóng y trên toàn bộ cõi cảm dục. Với những ai đang hành động như các trợ giúp vô hình trên cõi cảm dục, không có các tầng mức riêng rẽ; tất cả là một. |
In India the idea of service on the astral plane is not so widely known as in the West; the idea of service to God for the attainment of liberation is more prominent than that of service to one’s fellowmen. Atmospheric and climatic conditions make practically no difference to work on the astral and mental planes. But being in a big city does make a great difference, on account of the masses of thought-forms. Some psychics require a temperature of about eighty degrees in order to do their best work, while others do not work well except at a lower temperature. | Ở Ấn Độ, ý niệm phụng sự trên cõi cảm dục không phổ biến như ở phương Tây; ý niệm phụng sự Thượng đế để đạt giải thoát nổi bật hơn ý niệm phụng sự đồng loại. Điều kiện khí quyển và khí hậu hầu như không tạo khác biệt cho công việc trên các cõi cảm dục và trí. Nhưng ở trong một thành phố lớn quả thật tạo khác biệt lớn, vì các khối lượng Hình tư tưởng. Một số nhà ngoại cảm cần nhiệt độ khoảng tám mươi độ để làm công việc tốt nhất, trong khi những người khác không làm việc tốt trừ khi ở nhiệt độ thấp hơn. |
If necessary, occult work can be done anywhere, but some places afford greater facilities than others. For example, California has a very dry climate with much electricity in the air, which is favourable for the development of clairvoyance Here in Adyar there is no resistance to our thought-forms on account of the environment, because we are all thinking more or less along the same lines. But we must remember that there may always be resistance on the part of the person to whom we are sending thoughts, for some persons have for a whole life-time built round themselves such shells of selfishness that one cannot penetrate them even when one wishes to do them good. | Nếu cần, công việc huyền môn có thể được thực hiện ở bất cứ đâu, nhưng có những nơi cung cấp điều kiện thuận lợi hơn nơi khác. Chẳng hạn, California có khí hậu rất khô với nhiều điện lực trong không khí, điều này thuận lợi cho sự phát triển thông nhãn. Ở đây, tại Adyar, không có sự kháng cự đối với các Hình tư tưởng của chúng ta từ môi trường, bởi vì tất cả chúng ta đều tư duy ít nhiều dọc theo cùng một đường lối. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng luôn có thể có sự kháng cự từ phía người mà chúng ta đang gửi tư tưởng tới, vì có những người suốt cả một đời đã xây quanh họ những vỏ tự kỷ đến mức không thể xuyên thấu, ngay cả khi người ta muốn làm điều thiện cho họ. |