Right through the later periods of the cycle of incarnation wherein the man is juggling with the pairs of opposites, and through discrimination is becoming aware of reality and unreality, there is growing up in his mind a realisation that he himself is an immortal Existence, an eternal God, and a portion of Infinity. Ever the link between the man on the physical plane and this inner Ruler becomes clearer until the great revelation is made. Then comes a moment in his existence when the man stands consciously face to face with his real Self and knows himself to be that Self in reality and not just theoretically; he becomes aware of the God within, not through the sense of hearing, or through attention to the inner voice directing and controlling, and called the “voice of conscience.” This time the recognition is through sight and direct vision. He now responds not only to that which is heard, but also to that which he sees. | Qua các giai đoạn sau của chu kỳ luân hồi, khi hành giả dao động với các cặp đối cực, và nhờ phân biện, trở nên ý thức được điều chân, lẽ giả, trong trí y có sự nhận thức ngày càng tăng, rằng y chính là Sự Sống bất tử, một vị Thượng Đế vĩnh cửu, và là một phần của Nguồn Sống Vô Cùng. Mối liên kết con người ở cõi trần và vị Chúa tể nội tâm ngày càng sáng tỏ hơn cho đến khi sự hiển lộ quan trọng xảy ra. Rồi đến một lúc nào đó trong cuộc sống, hành giả hữu thức đối diện với Đại Ngã thực sự của y và biết y chính thực là Đại Ngã đó chứ không chỉ trong lý thuyết; y trở nên ý thức được Thượng Đế nội tâm, không qua thính giác, hoặc nhờ chú ý vào sự điều khiển và hướng dẫn của tiếng nói nội tâm, gọi là “tiếng nói của lương tâm.” Lần này, y nhận biết bằng thị giác và trực kiến. Nay, y không chỉ đáp ứng với những gì nghe được, mà còn đáp ứng với những gì y thấy được. |
It is known that the first senses developed in a child are hearing, touch, and sight: the infant becomes aware of sound and turns his head; he feels and touches; finally, he consciously sees, and in these three senses the personality is co-ordinated. These are the three vital senses. Taste and smell follow later, but life can be lived without them, and should they be absent, the man remains practically unhandicapped in his contacts on the physical plane. On the path of inner, or subjective development, the sequence is the same. | Chúng ta biết rằng các giác quan đầu tiên được phát triển nơi đứa trẻ là thính giác, xúc giác, và thị giác; đứa bé sơ sinh nhận biết âm thanh và quay đầu về hướng đó, nó cảm giác và sờ soạng; cuối cùng nó nhìn thấy một cách ý thức, và phàm ngã được phối kết trong ba giác quan này. Đây là ba giác quan thiết yếu. Vị giác và khứu giác phát triển sau, nhưng chúng ta có thể sống mà không có hai giác quan này, và nếu thiếu chúng, con người vẫn thực sự không bị trở ngại trong các giao tiếp ở cõi trần. Trên đường phát triển nội tâm, trình tự cũng giống như vậy. |
Hearing–response to the voice of conscience, as it guides, directs, and controls. This covers the period of strictly normal evolution. | Thính giác-đáp ứng với tiếng nói của lương tâm, khi nó hướng dẫn, điều khiển và chế ngự. Điều này bao gồm thời kỳ tiến hoá hoàn toàn bình thường. |
Touch–response to control or vibration, and the recognition of that which lies outside of the separated human [114] unit on the physical plane. This covers the period of gradual spiritual unfoldment, the Paths of Probation and of Discipleship right up to the door of initiation. The man touches at intervals that which is higher than himself; he becomes aware of the “touch” of the Master, of the egoic vibration and of group vibration, and through this occult sense of touch he accustoms himself to that which is inner and subtle. He reaches out after that which concerns the higher self, and through touching unseen things, habituates himself to them. | Xúc giác-đáp ứng với các hướng dẫn hay rung động, và nhận [114] biết được những gì ở bên ngoài cá nhân trên cảnh giới hồng trần. Điều này bao gồm thời kỳ tuần tự khai mở tinh thần, Con Đường Dự Bị và Con Đường Đệ Tử, thẳng lên đến cửa điểm đạo. Hành giả tiếp xúc từng lúc với những gì cao siêu hơn chính y; y dần dần ý thức được “sự tiếp xúc” với Chân sư, với rung động của chân nhân và với tập thể, và qua xúc giác huyền bí này y làm quen với những điều nội tại và tinh tế. Y vươn lên tìm kiếm những gì liên quan đến chân ngã, và nhờ tiếp xúc với những điều chưa thấy được, y trở nên quen thuộc với chúng. |
Finally, Sight–that inner vision which is produced through the initiation process, yet which is withal but the recognition of faculty, always present yet unknown. Just as an infant has eyes which are perfectly good and clear from birth, yet there comes a day wherein the conscious recognition of that which is seen is first to be noted, so with the human unit undergoing spiritual unfoldment. The medium of the inner sight has ever existed, and that which can be seen is always present, but the recognition of the majority as yet exists not. | Cuối cùng là Thị giác-là nội nhãn thông tạo được qua tiến trình điểm đạo, tuy nhiên đó vẫn chỉ là việc nhận ra một quan năng luôn luôn hiện hữu nhưng chưa được biết. Như đứa trẻ từ lúc mới sinh đã có đôi mắt hoàn toàn tốt và trong sáng, nhưng phải đến một ngày nào đó lần đầu tiên nó mới hữu ý nhận thức, ghi nhận được những điều nó thấy, thì con người trải qua cuộc phát triển tinh thần cũng vậy. Cơ quan của nội nhãn vẫn luôn luôn hiện hữu, và những điều có thể thấy vẫn luôn luôn có sẵn, nhưng phần đông người ta vẫn chưa nhận ra được. |
This “recognition” by the initiate is the first great step in the initiation ceremony, and until it has transpired all the other stages must wait. That which is recognised differs at the different initiations, and might be roughly summarised as follows:- | Sự “nhận thức” này của điểm đạo đồ là bước quan trọng đầu tiên trong cuộc lễ điểm đạo, và tất cả các giai đoạn khác đều phải đợi cho đến khi đã qua được bước này. Trong các cuộc điểm đạo khác nhau, những điều được nhận thức cũng khác, và có thể tóm tắt khái quát như sau:- |
The Ego, the reflection of the Monad, is in itself a triplicity, as is all else in nature, and reflects the three aspects of divinity, just as the Monad reflects on a higher plane the three aspects–will, love-wisdom, and active intelligence–of the Deity. Therefore: | Chân nhân, phản ánh của Chân thần, chính nó là một tam nguyên như vạn hữu trong thiên nhiên, và phản ánh ba trạng thái thiêng liêng, cũng như trên cõi cao Chân thần phản ánh ba trạng thái—ý chí, bác ái-minh triết, và thông tuệ linh hoạt—của Thượng Đế. Thế nên: |
At the first initiation the initiate becomes aware of the third, or lowest, aspect of the Ego, that of active intelligence. He is brought face to face with that manifestation of the great solar angel (Pitri) who is himself, the real self. He [115] knows now past all disturbance that that manifestation of intelligence is that eternal Entity who has for ages past been demonstrating its powers on the physical plane through his successive incarnations. | Vào cuộc điểm đạo thứ nhất, điểm đạo đồ ý thức được trạng thái thứ ba, thông tuệ linh hoạt, là trạng thái thấp nhất của Chân nhân. Y được đối diện với sự biểu hiện đó của thần thái dương [115] cao cả (là Từ phụ) là chân ngã, là chính y. Nay không còn là mơ hồ lẫn lộn, y biết rằng sự biểu hiện thông tuệ đó là Thực thể vĩnh cửu, qua bao thời đại đã và đang biểu dương các quyền năng ở cõi trần, trong các kiếp sống liên tiếp của y. |
At the second initiation this great Presence is seen as a duality, and another aspect shines forth before him. He becomes aware that this radiant Life, Who is identified with himself, is not only intelligence in action but also is love-wisdom in origin. He merges his consciousness with this Life, and becomes one with it so that on the physical plane, through the medium of that personal self, that Life is seen as intelligent love expressing itself. | Vào cuộc điểm đạo thứ hai, y thấy Bản tính Thiêng liêng cao cả này là lưỡng nguyên, và một trạng thái khác chói rạng. Y ý thức được rằng Sự Sống quang huy này, vốn đồng nhất với chính y, không chỉ là thông tuệ đang tác động mà còn có nguồn gốc bác ái-minh triết. Y hoà hợp tâm thức với Sự Sống này và hợp nhất với Nó đến mức, ở cõi trần, thông qua phàm ngã, chúng ta thấy Sự Sống này là bác ái thông tuệ tự biểu lộ. |
At the third initiation the Ego stands before the initiate as a perfected triplicity. Not only is the Self known to be intelligent, active love, but it is revealed also as a fundamental will or purpose, with which the man immediately identifies himself, and knows that the three worlds hold for him in the future naught, but only serve as a sphere for active service, wrought out in love towards the accomplishment of a purpose which has been hid during the ages in the heart of the Self. That purpose, being now revealed, can be intelligently co-operated with, and thus matured. | Vào cuộc điểm đạo thứ ba, Chân nhân hiện ra trước điểm đạo đồ như một tam nguyên hoàn thiện. Không những y biết được Đại Ngã là bác ái thông tuệ, linh hoạt mà Nó cũng được hiển lộ như là ý chí hay chủ đích nền tảng; y lập tức tự đồng nhất với ý chí này và biết rằng trong tương lai tam giới đối với y không còn gì khác hơn là một trường phụng sự tích cực, thực hiện trong tình thương, hướng đến hoàn thành một chủ đích đã ẩn tàng trong tâm của Đại Ngã qua nhiều thời đại. Nay, chủ đích này được hiển lộ để y có thể cộng tác một cách thông minh và hoàn thành. |
These profound revelations shine forth before the initiate in a triple manner:- | Những khải thị thâm sâu này chói rạng trước điểm đạo đồ theo ba cách:- |
As a radiant angelic existence. This is seen by the inner eye with the same accuracy of vision and judgment as when a man stands face to face with another member of the human family. The great solar Angel, Who embodies the real man and is his expression on the plane of higher mind, is literally his divine ancestor, the “Watcher” Who, through long cycles of incarnation, has poured Himself out in sacrifice in order that man might BE. | Như một vị thiên thần sáng ngời. Nội nhãn thấy được vị này với tầm nhìn và phán đoán chính xác như khi hành giả đối diện với một người khác trong nhân loại. Vị Thần thái dương cao cả, hiện thân của Chân nhân và là biểu lộ của Chân nhân trên cảnh giới thượng trí, thực sự là tổ phụ thiêng liêng của y,”Vị trông nom,” qua các chu kỳ luân hồi lâu dài, đã hy sinh ban bố sự sống của chính Ngài, để phàm nhân có thể HIỆN TỒN. [116] |
[116] | |
As a sphere of radiant fire, linked with the initiate standing before it by that magnetic thread of fire which passes through all his bodies and terminates within the centre of the physical brain. This “silver thread” (as it is rather inaccurately called in the Bible, where the description of its loosing of the physical body and subsequent withdrawal is found) emanates from the heart centre of the solar Angel, linking thus heart and brain,-that great duality manifesting in this solar system, love and intelligence. This fiery sphere is linked likewise with many others belonging to the same group and ray, and thus it is a literal fact in demonstration that on the higher planes we are all one. One life pulsates and circulates through all, via the fiery strands. This is part of the revelation which comes to a man who stands in the “Presence” with his eyes occultly opened. | Như một khối cầu lửa chói rạng, được nối kết với điểm đạo đồ đứng trước nó bởi sợi dây từ lực bằng lửa, xuyên suốt tất cả các thể của y và tận cùng ở trung tâm của não bộ hồng trần. Sợi “chỉ bạc” này (như được gọi phần nào thiếu chính xác trong Kinh Thánh,khi mô tả nó tách rời thể xác và sau đó rút khỏi thể này) phát ra từ luân xa tim của Thần thái dương, để liên kết tâm hồn và trí não,—là lưỡng nguyên vĩ đại, bác ái và thông tuệ, biểu hiện trong thái dương hệ này. Khối cầu lửa này cũng được liên kết với nhiều khối cầu khác thuộc cùng nhóm và cung, và do thế nói rằng trên cảnh giới cao chúng ta là một, là một sự kiện thực tế. Sự sống duy nhất nhịp nhàng lưu chuyển qua tất cả, xuyên qua những đường dây bằng lửa. Đây là một phần của sự khải thị cho người trụ vào “Bản tính Thiêng liêng” với tầm mắt khai mở một cách huyền bí. |
As a many tinted Lotus of nine Petals. These petals are arranged in three circles around a central set of three closely folded petals, which shield what is called in the eastern books “The Jewel in the Lotus.” This Lotus is a thing of rare beauty, pulsating with life and radiant with all the colours of the rainbow, and at the first three initiations the three circles are revealed in order, until at the fourth initiation the initiate stands before a still greater revelation, and learns the secret of that which lies within the central bud. In this connection the third initiation differs somewhat from the other two, inasmuch as through the power of a still more exalted Hierophant than the Bodhisattva, the electrical fire of pure Spirit, latent in the heart of the Lotus, is first contacted. | Như một Hoa sen chín cánh đa sắc. Các cánh hoa sen này được xếp thành ba vòng quanh một bộ ba cánh hoa khép kín ở trung tâm, che chở cho “Viên Ngọc quí trong Hoa sen” như tên gọi trong các kinh sách Đông phương. Hoa sen này cực kỳ xinh đẹp, với sự sống rung động nhịp nhàng và chói rạng tất cả các màu sắc của cầu vồng; trong ba cuộc điểm đạo đầu tiên, ba vòng này được hiển lộ theo thứ tự, cho đến cuộc điểm đạo thứ tư, điểm đạo đồ đứng trước một sự hiển lộ còn lớn lao hơn nữa, và học được điều bí ẩn trong nụ hoa ở trung tâm. Về phương diện này, cuộc điểm đạo thứ ba hơi khác với hai cuộc điểm đạo trước, vì nhờ quyền năng của một Đấng Điểm Đạo còn cao cấp hơn Đức Bồ-tát mà lần đầu tiên điểm đạo đồ tiếp xúc được với lửa điện của Tinh thần thuần khiết ẩn trong Hoa sen. |
In all these words, “solar angel,” “sphere of fire,” and “lotus,” lies hid some aspect of the central mystery of human life, but it will only be apparent to those who have eyes to see. The mystic significance of these pictorial phrases will prove only a snare or a basis for incredulity to the man who [117] seeks to materialise them unduly. The thought of an immortal existence, of a divine Entity, of a great centre of fiery energy, and of the full flower of evolution, lies hidden in these terms, and they must be thus considered. | Tất cả các từ này, “thần thái dương,” “khối cầu lửa,” và “hoa sen,” che giấu một phương diện của bí nhiệm trọng tâm của sự sống con người, nhưng chỉ tỏ rõ đối với những ai có mắt thấy được. Ý nghĩa huyền nhiệm của các nhóm từ hình tượng này sẽ chỉ là cái bẩy hay là cơ sở khiến người ta không còn tin tưởng [117] khi tìm cách cụ thể hoá chúng quá đáng. Trong các thuật ngữ này có ẩn ý tưởng về một sự hiện tồn bất tử, một Thực thể thiêng liêng, một đại trung tâm hỏa năng, và sự bừng nở toàn vẹn của cuộc tiến hoá, và ta phải xem xét chúng theo ý nghĩa đó. |
At the fourth initiation, the initiate is brought into the Presence of that aspect of Himself which is called “His Father in Heaven.” He is brought face to face with his own Monad, that pure spiritual essence on the highest plane but one, which is to his Ego or higher self what that Ego is to the personality or lower self. | Vào cuộc điểm đạo thứ tư, điểm đạo đồ được đối diện với sự Hiện hữu của trạng thái nơi chính y, gọi là “Cha ở trên Trời.” Y được đối diện với Chân thần của chính mình, là tinh hoa thuần khiết của tinh thần trên cảnh giới cao siêu thứ nhì, đối với Chân nhân hay chân ngã cũng giống như Chân nhân đối với phàm nhân hay phàm ngã vậy. |
This Monad has expressed itself on the mental plane through the Ego in a triple fashion, but now all aspects of the mind, as we understand it, are lacking. The solar angel hitherto contacted has withdrawn himself, and the form through which he functioned (the egoic or causal body) has gone, and naught is left but love-wisdom and that dynamic will which is the prime characteristic of Spirit. The lower self has served the purposes of the Ego, and has been discarded; the Ego likewise has served the purposes of the Monad, and is no longer required, and the initiate stands free of both, fully liberated and able to contact the Monad, as earlier he learned to contact the Ego. For the remainder of his appearances in the three worlds he is governed only by will and purpose, self-initiated, and creates his body of manifestation, and thus controls (within karmic limits) his own times and seasons. The karma here referred to is planetary karma, and not personal. | Chân thần đã tự biểu hiện trên cõi trí qua ba trạng thái của Chân nhân, nhưng tất cả những trạng thái của trí tuệ, như chúng ta biết, nay không còn nữa. Vị Thần thái dương từ trước đến giờ y tiếp xúc, nay đã triệt thoái, và hình thể vị này dùng để hoạt động (thể của chân nhân hay thể nguyên nhân) nay đã tiêu tan, chẳng có gì còn lại ngoại trừ bác ái-minh triết và ý chí mãnh liệt vốn là đặc trưng chủ yếu của Tinh thần. Phàm ngã đã phục vụ xong các mục đích của Chân nhân, và đã bị loại bỏ; Chân nhân cũng đã phục vụ xong các mục đích của Chân thần và không còn cần thiết; nay điểm đạo đồ trở nên tự do đối với cả hai và hoàn toàn giải thoát, có thể tiếp xúc với Chân thần, như trước kia y đã học cách tiếp xúc với Chân nhân vậy. Thời gian còn lại để hiện diện trong tam giới, y chỉ chịu sự chi phối của ý chí hay mục đích tự đề xuất, tạo ra thể biểu hiện của y để tự quyết định thời cơ hoạt động của chính mình (trong các giới hạn nghiệp quả). Nghiệp quả đề cập ở đây là nghiệp quả hành tinh, chứ không phải nghiệp quả cá nhân. |
At this fourth initiation he contacts the love aspect of the Monad, and at the fifth the will aspect, and thus completes his contacts, responds to all necessary vibrations, and is master on the five planes of human evolution. | Vào cuộc điểm đạo thứ tư này, y tiếp xúc với trạng thái bác ái của Chân thần, và với trạng thái ý chí vào cuộc điểm đạo thứ năm; do thế y hoàn tất các giao tiếp, ứng đáp được tất cả các rung động cần thiết, và là chủ nhân trên năm cảnh giới tiến hoá của nhân loại. |
Further, it is at the third, the fourth, and the fifth initiations that he becomes aware also of that “Presence” which enfolds even that spiritual Entity, his own Monad. [118] He sees his Monad as one with the Planetary Logos. Through the channel of his own Monad he sees the self-same aspects (which that Monad embodies) on a wider scale, and the Planetary Logos, Who ensouls all the Monads on His ray, is thus revealed. This truth is well-nigh impossible to express in words, and concerns the relation of the electrical point of fire, which is the Monad, to the five-pointed star, which reveals the Presence of the Planetary Logos to the initiate. This is practically incomprehensible to the average man for whom this book is written. | Ngoài ra, ngay trong các cuộc điểm đạo thứ ba, thứ tư và thứ năm, y cũng trở nên ý thức được “Đấng Hằng Hữu” bao gồm ngay cả Thực thể tinh thần, là Chân thần của Chính y. Y thấy [118] Chân thần của mình hợp nhất với Đức Hành Tinh Thượng Đế. Qua vận hà của Chân thần, y thấy cũng cùng những trạng thái (mà Chân thần thể hiện) nhưng trên một qui mô rộng lớn hơn, và Đức Hành Tinh Thượng Đế, Đấng phú linh cho tất cả các Chân thần trong cung Ngài, được hiển lộ cho y theo cách đó. Chân lý này hầu như không thể phát biểu bằng lời, và chỉ về mối liên hệ của điểm lửa điện, tức là Chân thần, với ngôi sao năm cánh, giúp cho điểm đạo đồ thấy được sự Hiện hữu của Đức Hành Tinh Thượng Đế. Đây là điều thực sự không thể hiểu được đối với người độc giả bình thường, là đối tượng của sách này. |
At the sixth initiation, the initiate, functioning consciously as the love-aspect of the Monad, is brought (via his “Father”) into a still vaster recognition, and becomes aware of that Star which encloses his planetary star, just as that star has earlier been seen as enclosing his own tiny “Spark.” He thus makes his conscious contact with the solar Logos, and realises within himself the Oneness of all life and manifestation. | Vào cuộc điểm đạo thứ sáu, hoạt động hữu thức như là trạng thái bác ái của Chân thần, điểm đạo đồ (thông qua “Từ phụ” của y) được đưa vào một sự nhận thức còn rộng lớn hơn nữa, và biết được ngôi sao bao trùm ngôi sao hành tinh của y, cũng như trước đây y đã thấy ngôi sao hành tinh bao trùm “Điểm Linh Quang” nhỏ bé của y. Bằng cách này y hữu thức tiếp xúc với Đức Thái Dương Thượng Đế, và ở nội tâm nhận thức được tính Duy nhất của toàn cuộc sống và cuộc biểu hiện. |
This recognition is extended at the seventh initiation, so that two aspects of the One life become realities to the emancipated Buddha. | Sự nhận thức này được mở rộng vào cuộc điểm đạo thứ bảy, khiến cho hai trạng thái của Sự Sống Duy Nhất trở thành hiện thực đối với vị Phật đã giải thoát. |
Thus by a graded series of steps is the initiate brought face to face with Truth and Existence. It will be apparent to thoughtful students why this revealing of the Presence has to precede all other revelations. It produces within the mind of the initiate the following basic realisations:- | Thế là, nhờ một loạt các bước tiến tăng dần, điểm đạo đồ được trực kiến Chân lý và Sự Sống Hằng Hữu. Các môn sinh suy gẫm sâu xa sẽ hiểu rõ được tại sao sự hiển lộ này của Bản tính Thiêng liêng phải có trước tất cả các cuộc hiển lộ khác, giúp cho trí tuệ điểm đạo đồ nhận thức được những điều cơ bản sau đây:- |
His faith for ages is justified, and hope and belief merge themselves in self-ascertained fact. Faith is lost in sight, and things unseen are seen and known. No more can he doubt, but he has become instead, through his own effort, a knower. | Tín ngưỡng của y qua nhiều thời đại nay đã được chứng minh, niềm tin và hy vọng hoà hợp thành một thực kiện tự khẳng định. Đức tin được thay thế bằng thị kiến, và điều chưa thấy thì nay được thấy và biết. Y không còn có thể nghi ngờ điều gì, và thay vào đó, nhờ tự nỗ lực, y trở thành một thức giả. |
His oneness with his brothers is proven, and he realises the indissoluble link which binds him to his fellow-men everywhere. Brotherhood is no longer a theory but a proven [119] scientific fact, no more to be disputed than the separateness of men on the physical plane is to be disputed. | Y được chứng tỏ cho thấy là một với các huynh đệ, và nhận biết được mối liên hệ bất diệt ràng buộc y với đồng bào của mình ở khắp nơi. Tình huynh đệ không còn là lý thuyết mà là một sự [119] kiện khoa học được chứng minh; không còn điều gì phải bàn cãi hơn là tính chia rẽ của con người ở cõi trần. |
The immortality of the soul and the reality of the unseen worlds is for him proven and ascertained. Whereas, before initiation, this belief was based on brief and fleeting vision and strong inner convictions (the result of logical reasoning and of a gradually developing intuition) now it is based on sight and on a recognition past all disproving, of his own immortal nature. | Y được xác định và chứng minh cho thấy tính bất tử của linh hồn và thực tại của các thế giới vô hình. Trong khi, trước cuộc điểm đạo, niềm tin này chỉ căn cứ trên tầm nhìn ngắn ngủi, thoáng qua và các tin tưởng mạnh mẽ ở nội tâm (là kết quả của suy luận hợp lý và trực giác phát triển tăng dần), thì nay nó được căn cứ trên mắt thấy và sự nhận biết bản tính bất tử của chính y, không cách nào phủ nhận được. |
He realises the meaning and source of energy, and can begin to wield power with scientific accuracy and direction. He knows now whence he draws it, and has had a glimpse of the resources of energy which are available. Before, he knew that that energy existed, and used it blindly and sometimes unwisely; now he sees it under the direction of the “open mind,” and can co-operate intelligently with the forces of nature. | Y nhận thức được ý nghĩa và nguồn cội của năng lượng, và có thể bắt đầu vận dụng quyền lực với sự lèo lái chính xác khoa học. Nay y biết rút năng lượng từ đâu, và thoáng thấy những tài nguyên năng lượng khả dụng. Trước kia, y đã biết rằng năng lượng vốn hiện hữu, và sử dụng nó một cách mù quáng và đôi khi thiếu khôn ngoan; nay y thấy nó theo sự hướng dẫn “của trí tuệ rộng mở” và có thể cộng tác một cách thông minh với các mãnh lực của thiên nhiên. |
Thus, in many ways, does the revelation of the Presence produce definite results in the initiate, and thus it is judged by the Hierarchy to be the necessary preamble to all later revelations. | Thế là, theo nhiều lối, sự hiển lộ Bản tính Thiêng liêng tạo nên các kết quả rõ rệt nơi điểm đạo đồ, và do đó được ĐĐCG xem là phần mở đầu cần thiết cho tất cả các cuộc hiển lộ về sau. |