From Bethlehem To Calvary
The Initiations of Jesus
BY
ALICE A. BAILEY
COPYRIGHT © 1937 BY LUCIS TRUST
COPYRIGHT RENEWED © 1965 BY LUCIS TRUST
TRÂN CHÂU DỊCH
CHAPTER ONE – Introductory Remarks on Initiation
CHAPTER ONE
Introductory Remarks on Initiation—Những Nhận xét Dẫn nhập về Điểm đạo
|
KEY THOUGHT |
TƯ TƯỞNG GỐC |
|
“There is a human desire for God; but there is also a Divine desire for man. God is the supreme idea, the supreme concern and the supreme desire of man. Man is the supreme idea, the supreme concern and the supreme desire of God. The problem of God is a human problem. The problem of man is a Divine problem…. Man is the counterpart of God and His beloved from whom He expects the return of love. Man is the other person of the Divine mystery. God needs man. It is God’s will not only that He should Himself exist, but man also, the Lover and beloved.” |
“Con người ngưỡng vọng Thượng Đế; thế nhưng Đấng Thiêng liêng cũng cần có con người. Thượng Đế là ý tưởng tối cao, là mối quan tâm và ước vọng tối cao của con người. Con người là ý tưởng tối cao, là mối quan tâm và ước vọng tối cao của Thượng Đế. Vấn đề của Thượng Đế là vấn đề của con người. Vấn đề của con người cũng là vấn đề của Thiêng liêng … Con người là phần đối ứng của Thượng Đế mà Ngài rất yêu thương, và mong họ cũng yêu thương Ngài. Con người là một ngôi của bí nhiệm Thiêng liêng. Thượng Đế cần con người. Thượng Đế muốn có con người cùng tồn tại với Ngài, Đấng yêu thương và đối tượng được yêu thương.” |
|
Wrestlers with Christ, by Karl Pfleger, p. 236. |
Người tranh đấu với Đức Christ, tác giả Karl Pfleger, tr. 236 |
|
[3] |
[3] |
|
CHAPTER ONE |
CHƯƠNG MỘT |
|
Introductory Remarks on Initiation |
Nhận Xét Mở Đầu về Điểm Đạo |
|
1 |
1 |
|
We are in process of passing from one religious age into another. The spiritual trends of today are steadily becoming more defined. The hearts of men have never been more open to spiritual impression than they are at this time, and the door into the very centre of reality stands wide open. Paralleling, however, this significant development is a trend in the counter direction, and materialistic philosophies and doctrines of negation are becoming increasingly prevalent. To many, the whole question of the validity of the Đức Christian religion remains to be determined. Claims are made that Đức Christianity has failed and that man does not need the Gospel story with its implications of divinity and its urge to service and sacrifice. |
CHÚNG TA đang trong tiến trình đi từ thời đại tôn giáo này đến thời đại tôn giáo khác. Các xu thế tinh thần ngày càng trở nên rõ rệt. Chưa bao giờ tâm hồn mọi người mở ra đón nhận ấn tượng tinh thần nhiều hơn hiện nay. Và cánh cửa đi vào trung tâm của thực tại cũng đang rộng mở. Tuy nhiên, song hành với sự phát triển đầy ý nghĩa này là xu thế ngược lại. Các triết lý và những giáo thuyết xu phụng vật chất đang ngày càng phổ biến. Nhiều người băn khoăn tự hỏi liệu Thiên Chúa giáo có còn giá trị hay không. Cũng có lời khẳng định rằng Thiên Chúa giáo đã thất bại, và con người không còn cần đến câu chuyện Phúc Âm với hàm nghĩa trong đó về thiên tính cùng lời khuyên phụng sự và hy sinh. |
|
Is the Gospel story historically true? Is it a mystical tale of great beauty and of real teaching value but nevertheless of no vital import to the intelligent men and women of today, who pride themselves on their reasoning powers and upon their independence of ancient mental trammels and of old and dusty traditions? As to the perfection of the portrayed character of Đức Christ there is never any question. The enemies of Đức Christianity admit His uniqueness, His basic profundity and His understanding of the hearts of men. They recognise the intelligence of His ideas and sponsor them in their own philosophies. The developments which the Carpenter of Nazareth brought about in the fabric of human life, His social and economic ideals, and the beauty of the civilisation which could be founded upon the ethical teaching of the [4] Sermon on the Mount are frequently emphasised by many who refuse to recognise His mission as an expression of divinity. From the rational point of view, the question as to the historical accuracy of His story remains as yet unsolved, though His teaching upon the Fatherhood of God and the brotherhood of man is endorsed by the best minds of the race. Those who can move in the world of ideas, of faith and of living experience testify to His divinity and to the fact that He can be approached. But such testimony is often passed over lightly as being mystical, futile and incapable of proof. Individual belief is, after all, of no value to anyone except to the believer himself, or as it tends to increase testimony until the total assumes such proportions that it eventually becomes proof. To fall back upon the “way of belief” can be indicative of a living experience, but it can also be a form of self-hypnotism and a “way of escape” from the difficulties and problems of daily life. The effort to understand, to experiment, to experience and to express what is known and believed is frequently too difficult for the majority, and they then fall back upon a belief which is based upon the testimony of the trusted, as the easiest way out of the impasse. |
Theo lịch sử, câu chuyện Phúc Âm có thực hay không? Phải chăng đó là một giai thoại thần bí rất hay và có giá trị giáo huấn, nhưng lại bị những người thông minh ngày nay cho là chẳng có gì quan trọng, vì họ tự hào về khả năng suy luận của mình, và thấy không còn phụ thuộc vào các hạn chế trí tuệ của thời xưa cùng những truyền thống cũ kỹ, lỗi thời? Không hề có nghi vấn gì về phẩm cách hoàn thiện của Đức Christ. Ngay cả những kẻ thù ghét Thiên Chúa giáo cũng thừa nhận Ngài có tính cách độc đáo, uyên thâm và thấu hiểu tâm hồn mọi người. Họ công nhận những ý tưởng thông tuệ của Ngài, và đưa ra lời tán thành các ý tưởng đó trong triết lý của mình. Có nhiều người thường nhấn mạnh các phát triển mà Người thợ mộc ở Nazareth đã mang lại trong đời sống nhân loại. Họ cũng chú trọng các lý tưởng của Ngài về kinh tế-xã hội, và vẻ đẹp của nền văn minh khả dĩ thành lập dựa vào giáo huấn đạo đức của (tr. 4)Bài giảng Trên Núi. Thế nhưng, họ lại không thừa nhận sứ mệnh của Ngài là làm hiển lộ bản tính Thiêng liêng. Trên quan điểm duy lý, người ta vẫn chưa xác định được theo lịch sử câu chuyện của Ngài có chính xác hay không. Thế nhưng, giáo huấn của Ngài về Thượng Đế là Đấng Cha lành và tình huynh đệ giữa mọi người lại được sự tán đồng của những nhà trí thức tài năng nhất trong nhân loại. Những ai có thể hoạt động trong thế giới của ý tưởng, niềm tin và trải nghiệm sống động, đều làm chứng về thiên tính của Ngài và sự thực là chúng ta có thể đến với Ngài. Nhưng bằng chứng đó thường bị bỏ qua, và xem nhẹ. Người ta chỉ cho đó là điều thần bí, chẳng đi đến đâu, và vô căn cứ. Nói cho cùng, niềm tin của mỗi cá nhân thì chẳng có giá trị cho bất cứ ai, ngoại trừ người đó. Hoặc là sự tin tưởng của họ có thêm bằng chứng, cho đến lúc nó trở thành chứng cứ. Nương tựa vào “con đường của đức tin” có thể cho thấy một trải nghiệm sống động. Thế nhưng, nó cũng có thể là một hình thức tự thôi miên, và là một “lối lẩn trốn” khỏi những vấn đề khó khăn của cuộc sống thường ngày. Cố gắng thấu hiểu, thực nghiệm, thể nghiệm và phát biểu những gì mình biết và tin tưởng thì thường là việc khó khăn đối với đại chúng. Thề nên, họ bèn nương tựa vào niềm tin căn cứ theo bằng chứng của những ai được họ tin cậy, và xem đó là cách dễ dàng nhất để thoát ra khỏi ngõ bí. |
|
The problem of religion and the problem of orthodox Đức Christianity are not one and the same thing. Much that we see around us today of unbelief and criticism, and the negation of our so-called truths, is based upon the fact that religion has been largely superseded by creed, and doctrine has taken the place of living experience. It is this living experience which is the keynote of this book. |
Vấn đề tôn giáo và vấn đề của Thiên Chúa giáo chính thống thì không hề giống nhau. Ngày nay, chúng ta thấy chung quanh mình thiếu niềm tin và có sự chỉ trích, cũng như phủ nhận những điều mà chúng ta gọi là chân lý. Phần lớn tình trạng này là do thực tế người ta hầu như lấy tín ngưỡng thay cho tôn giáo, và dùng giáo lý thay vì kinh nghiệm sống thực. Chính cái kinh nghiệm sống thực vừa kể là chủ âm của quyển sách này. |
|
Perhaps another reason why humanity at this time believes so little, or questions so unhappily what is believed, may be the fact that theologians have attempted to lift Đức Christianity out of its place in the scheme of things and have overlooked its position in the great continuity of divine revelation. They have endeavoured to emphasise its uniqueness, and to regard it as an isolated and entirely separated expression of spiritual religion. They thereby destroy its background, remove its foundations, and make it difficult for the steadily developing [5] mind of man to accept its presentation. Yet St. Augustine tells us that “that which is called the Đức Christian religion existed among the ancients, and never did not exist from the beginning of the human race until Đức Christ came in the flesh, at which time the true religion, which already existed, began to be called Đức Christianity.” [iii]1 The Wisdom which expresses relationship to God, the rules of the road which guide our wandering footsteps back to the Father’s home, and the teaching which brings revelation have ever been the same, down the ages, and are identical with that which Đức Christ taught. This body of inner truths and this wealth of divine knowledge have existed since time immemorial. It is the truth which Đức Christ revealed; but He did more than this. He revealed in Himself and through His life history what this wisdom and knowledge could do for man. He demonstrated in Himself the full expression of divinity, and then enjoined upon His disciples that they should go and do likewise. |
Khả dĩ có một lý do khác cho thấy vì sao nhân loại hiện nay quá ít niềm tin, hoặc họ nghi vấn một cách đáng buồn về những gì được tin tưởng. Đó có lẽ là do các nhà thần học cố đưa Thiên Chúa giáo đi lệch ra ngoài vị trí của nó trong đại cuộc, và bỏ qua vị thế của nó trong dòng thiên khải rộng lớn và liên tục. Họ đã tìm cách nhấn mạnh rằng Thiên Chúa giáo là độc nhất vô nhị, và xem nó là sự biểu lộ riêng rẽ và hoàn toàn cách biệt của tôn giáo tinh thần. Bằng cách này, họ phá hủy cơ sở của Thiên Chúa giáo, loại bỏ nền tảng của nó, và khiến cho trí tuệ (tr. 5) đang liên tục phát triển của con người khó lòng chấp nhận những điều trình bày về tôn giáo này. Tuy nhiên, Thánh Augustine nói với chúng ta rằng “những gì được gọi là Thiên Chúa giáo vốn đã có trong các chủng tộc cổ xưa, và không hề thiếu vắng từ thời khởi thủy của loài người, mãi cho đến khi Đức Christ đích thân giáng trần. Bấy giờ, nền tôn giáo chân chính, vốn đã có từ xưa, bắt đầu được gọi là Thiên Chúa giáo.”[1] Nguồn Minh triết biểu lộ mối liên giao với Thượng Đế, những qui tắc trên Đường Đạo dẫn đắt bước chân lang thang của chúng ta trở về nhà của Đấng Cha lành, và giáo huấn mang lại những điều thiên khải, bao giờ cũng như nhau qua các thời đại, và đồng nhất với những gì Đức Christ đã giảng dạy. Các chân lý nội tại và nguồn hiểu biết thiêng liêng này vốn đã có tự ngàn xưa. Đó là chân lý mà Đức Christ đã khải thị; và Ngài còn làm nhiều hơn thế nữa. Nơi chính mình và cuộc đời mình, Ngài cho thấy những gì mà nguồn minh triết và hiểu biết nay có thể giúp ích mọi người. Ngài tự biểu dương sự viên mãn của thiên tính, rồi truyền dạy các môn đồ hãy ra đi và cũng làm như vậy. |
|
In the continuity of revelation, Đức Christianity enters upon its cycle of expression under the same divine law which governs all manifestation—the Law of Cyclic Appearance. This revelation passes through the phases of all form-manifestation, or appearance, then growth and development, and finally (when the cycle draws towards its close) crystallisation and a gradual but steady emphasis of the letter and the form, till the death of that form becomes inevitable and wise. But the spirit remains to live on and take to itself new forms. The Spirit of Đức Christ is undying, and as He lives to all eternity, so that which He incarnated to demonstrate must also live. The cell in the womb, the stage of littleness, the development of the child into the man—to all this He submitted Himself, and underwent all the processes which are the destiny of every son of God. Because of this submission and because He “learned obedience by the things which he suffered,” [iv]2 He could be trusted to reveal God to man, and (may we say it?) the divine in man to God. For the Gospels [6] show us that continuously Đức Christ called forth this recognition from the Father. |
Trong cuộc thiên khải liên tục, Thiên Chúa giáo đi vào chu kỳ biểu lộ theo đúng cùng một định luật thiêng liêng chi phối toàn cuộc biểu hiện. Đó là Luật Xuất hiện theo Chu kỳ. Sự thiên khải này, đi qua tất cả các giai đoạn biểu hiện của hình thể hay sắc tướng, rồi tăng trưởng và phát triển. Rốt cuộc (khi gần đến cuối chu kỳ), nó kết tinh dần và ngày càng chú trọng nhiều hơn vào ngôn từ và hình thể, cho đến khi sự chết của hình thể là đương nhiên là cần thiết. Thế nhưng, tinh thần vẫn sống và tự khoác lên những hình thể mới. Tinh thần của Đức Christ vốn bất tử; do đó, những gì Ngài giáng trần để biểu dương cũng sống mãi. Từ giai đoạn tế bào trong bụng mẹ, qua thời bé thơ, phát triển đến tuổi trưởng thành – Ngài đi qua tất cả các giai đoạn này cùng những quá trình mà mọi người con của Thượng Đế đều phải nếm trải. Với sự tuân phục này, Ngài “học cách vâng theo Thiên ý qua những điều Ngài đã gánh chịu.”[2] Vì thế, Ngài có thể được tín nhiệm để hiển lộ Thượng Đế cho con người, và (có thể nói là) trình bày bản tính thiêng liêng của con người cho Thượng Đế. Bởi vì sách Phúc âm cho (tr. 6) chúng ta biết rằng Đức Christ liên tục kêu cầu được sự chuẩn nhận này của Đấng Cha lành. |
|
The great continuity of revelation is our most priceless possession, and into it the religion of Đức Christ must, and does, fit. God has never left Himself without witness, and He never will. The place of Đức Christianity as the fulfilment of the past and as a stepping-stone to the future, is often forgotten, and this perhaps is one of the reasons why people speak of a failing Đức Christianity, and look forward to that spiritual revelation which seems so sorely needed. Unless this continuity is emphasised and the place of the Đức Christian faith in it, revelation may come and pass unrecognised. |
Nguồn thiên khải vĩ đại và liên tục là những gì quí giá nhất dành cho chúng ta, mà tôn giáo của Đức Christ đương nhiên phải có vai trò trong đó. Thượng Đế chưa bao giờ và sẽ không bao giờ thôi hiển lộ. Người ta thường quên rằng Thiên Chúa giáo có vai trò hoàn thành quá khứ và mở đường đi đến tương lai. Có lẽ đây là một trong những lý do tại sao người ta cho rằng Thiên Chúa giáo đã thất bại, và vì sao người ta cứ mãi chờ mong sự khai thị tinh thần dường như hết sức cần thiết. Nếu không chú trọng đến nguồn thiên khải liên tục này và vai trò của Thiên Chúa giáo trong đó, thì thiên khải có thể đến và đi qua mà chúng ta không hề hay biết. |
|
“There was,” we are told, “in every ancient country having claims to civilisation, an Esoteric Doctrine, a system which was designated WISDOM, and those who were devoted to its prosecution were first denominated sages, or wise men…. Pythagoras termed this system… the Gnosis or Knowledge of things that are. Under the noble designation of WISDOM, the ancient teachers, the sages of India, the magians of Persia and Babylon, the seers and prophets of Israel, the hierophants of Egypt and Arabia, and the philosophers of Greece and the West, included all knowledge which they considered as essentially divine; classifying part as esoteric and the remainder as exterior.” [v]3 |
Người ta nói rằng “trong mọi nước cổ xưa” tự cho là văn minh, đều có một hệ thống Giáo lý Nội môn được gọi là MINH TRIẾT. Trong khi đó, những người hiến mình xiển dương giáo lý ấy được xem là những nhà hiền triết, hay những người sáng suốt, khôn ngoan… Pythagoras gọi hệ thống này … là Tri thức Tinh thần hay là Sự hiểu biết về vạn hữu. Các huấn sư thời xưa, những nhà hiền triết Ấn Độ, các thuật sĩ Ba Tư và Babylon, những nhà nhãn thông và tiên tri của Israel, các giáo trưởng ở Ai Cập và Ả Rập, dùng danh hiệu MINH TRIẾT cao cả này để chỉ về tất cả những sự hiểu biết mà họ xem chính yếu là thiêng liêng. Trong đó, một phần được phân loại là nội môn và phần còn lại là ngoại môn.”[3] |
|
We know much of the exoteric teaching. Orthodox and theological Đức Christianity is founded on it, as are all the orthodox formulations of the great religions. When, however, the inner wisdom teaching is forgotten and the esoteric side is ignored, then the spirit and the living experimental experience disappear. We have been occupied with the details of the outer form of the faith, and have sadly forgotten the inner meaning which carries life and salvation to the individual and also to humanity. We have been busy fighting over the non-essentials of traditional interpretation and have omitted to teach the secret and the technique of the Đức Christian life. We have over-emphasised the doctrinal and dogmatic aspects, and have deified the letter, whilst all the time the soul [7] of man was crying out for the spirit of life, which the letter veiled. We have agonised over the historical aspects of the Gospel narrative, over the time element, and over the verbal accuracy of the many translations, while failing to see the real magnificence of Đức Christ’s accomplishment and the significant teaching it holds for the individual and for the race. The drama of His life and its practical application to the lives of His followers have been lost to sight in the undue importance attached to certain phrases which He is supposed to have uttered, whilst that which He expressed in His life, and the relationships which He emphasised and regarded as implicit in His revelation have been totally ignored. |
Hiện nay chúng ta biết nhiều về giáo huấn ngoại môn. Thiên Chúa giáo chính thống và thần học đều được hình thành dựa trên giáo huấn đó, cũng như tất cả những lối trình bày chính thống của các tôn giáo lớn. Tuy nhiên, khi giáo huấn minh triết nội tàng bị bỏ quên và người ta bỏ qua phương diện nội môn của giáo huấn, thì bấy giờ họ không còn biết đến tinh thần và những trải nghiệm sống động qua thực nghiệm. Họ đã bận tâm đến các chi tiết của hình thức tín ngưỡng bên ngoài. Và buồn thay, họ đã quên đi những ý nghĩa thâm sâu có mang sự sống và cứu rỗi cho mỗi cá nhân cũng như toàn nhân loại. Người ta cứ mãi tranh cãi về những điều không chính yếu trong cách diễn giải theo truyền thống, mà bỏ qua, không giảng dạy các bí yếu và kỹ thuật của cuộc sống Thiên Chúa giáo. Người ta đã quá chú trọng đến các khía cạnh giáo lý, giáo điều, và sùng bái từ chương. Trong khi đó, linh hồn (7) con người bao giờ cũng khao khát tinh thần của sự sống mà ngôn từ che giấu. Người ta băn khoăn suy nghĩ về khía cạnh lịch sử của chuyện kể trong Phúc âm, về yếu tố thời gian, và về mức độ chính xác văn từ của nhiều bản dịch. Trong khi đó, họ không thấy được những thành tựu thật phi thường của Đức Christ và giáo huấn đầy ý nghĩa dành cho mỗi người và cả loài người. Kịch bản cuộc đời của Ngài và việc ứng dụng thực hành nó trong cuộc đời của những kẻ theo Ngài, đã bị xóa nhòa do người ta chú trọng quá đáng vào một số câu mà họ cho rằng Ngài đã thốt ra. Trong khi đó họ hoàn toàn không biết đến những điều Ngài phát biểu khi còn tại thế, và những mối liên giao mà Ngài nhấn mạnh và xem là hàm chứa trong những điều Ngài khai thị. |
|
We have fought over the historical Đức Christ, and thus fighting, have lost sight of His message of love to all beings. Fanatics quarrel over His words, and fail to remember that He was ”the Word made flesh.” We argue about the Virgin Birth of the Đức Christ, and forget the truth which the Incarnation is intended to teach. Evelyn Underhill points out in her most valuable book, Mysticism, that “The Incarnation, which is for popular Đức Christianity synonymous with the historical birth and earthly life of Đức Christ, is for the mystic not only this but also a perpetual cosmic and personal process.” |
Người ta đã tranh chấp nhau về Đấng Christ của lịch sử, và vì cứ mãi đấu tranh họ không hề thấy được bức thông điệp của Ngài về tình yêu thương cả chúng sinh. Những kẻ cuồng tín tranh cãi với nhau về lời của Ngài mà không hề nhớ rằng Ngài là “Ngôi Lời hiện thể.” Người ta tranh luận về sự Giáng sinh của Đức Christ qua Đức Mẹ Đồng trinh mà quên đi sự thực trong giáo huấn về sự Nhập thế. Trong quyển Huyền bí học rất có giá trị của bà, Evelyn Underhill nói rõ rằng “Trong Thiên Chúa giáo của người bình dân, sự Nhập thế đồng nghĩa với sự ra đời và cuộc sống ở cõi trần của Đức Christ. Tuy nhiên, đối với nhà thần bí, nó còn hàm ý một tiến trình liên tục của mỗi cá nhân và toàn vũ trụ.” |
|
Scholars spend their lives in proving that the whole story is only a myth. It should, however, be pointed out that a myth is the summarised belief and knowledge of the past, handed down to us for our guidance and forming the foundation of a newer revelation, and that it is a stepping-stone to the next truth. A myth is a valid and proven truth which bridges, step by step, the gap between the past gained knowledge, the present formulated truth, and the infinite and divine possibilities of the future. The ancient myths and the old mysteries give us a sequential presentation of the divine message as it went forth from God in response to the need of man, down the ages. The truth of one age becomes the myth of the next, but its significance and its reality remain untouched, and require only re-interpretation in the present. |
Các học giả dành cả đời để chứng minh rằng toàn cả câu chuyện Phúc âm đều chỉ là huyền thoại. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng huyền thoại là sự tổng hợp niềm tin và hiểu biết của thời quá khứ, lưu truyền cho chúng ta để hướng dẫn và hình thành nền tảng cho cuộc thiên khải mới. Vì thế, nó mở đường cho chân lý tiếp theo. Huyền thoại là một sự thực có giá trị và đã được chứng minh. Nó từng bước nối liền khoảng cách giữa những hiểu biết đã hoạch đắc trong thời quá khứ, với chân lý được trình bày trong hiện tại và những khả năng thiêng liêng, vô hạn của tương lai. Các huyền thoại cổ và những bí nhiệm của thời xưa mang đến cho chúng ta bức thông điệp thiêng liêng theo trình tự, xuất phát từ Thượng Đế để đáp ứng nhu cầu của con người qua các thời đại. Chân lý của thời đại trước trở thành huyền thoại của thời đại sau. Thế nhưng, thâm nghĩa và thực tính của nó vẫn còn nguyên vẹn, và hiện nay chỉ cần được lý giải theo lối mới. |
|
[8] |
|
|
We are free to choose and to reject; but let us see to it that we choose with eyes opened by that sagacity and wisdom which are the hallmark of those who have penetrated a considerable way along the path of return. There is life and truth and vitality in the Gospel story yet to be re-applied by us. There is dynamic and divinity in the message of Jesus. |
(8) Chúng ta được tự do chọn lựa hay bác bỏ. Nhưng chúng ta hãy làm thế nào để chọn lựa với tầm nhìn rộng mở nhờ sự khôn ngoan, sáng suốt, vốn là đặc điểm của người đã tiến bước khá xa trên đường phản bổn hoàn nguyên. Trong câu chuyện Phúc âm có sự sống, chân lý và sinh lực cần được chúng ta tái sử dụng. Trong thông điệp của Jesus có động lực và thiên tính. |
|
Đức Christianity is, for us today, a culminating religion. It is the greatest of the later divine revelations. Much of it, since its inception two thousand years ago, has come to be regarded as myth, and the clear outlines of the story have dimmed and have come frequently to be regarded as symbolic in their nature. Yet behind symbol and myth stands reality—an essential, dramatic and practical truth. |
Đối với chúng ta ngày nay, Thiên Chúa giáo là một tôn giáo đang đi đến giai đoạn hoàn tất, là cuộc thiên khải lớn nhất xảy ra trong thời gian gần đây. Kể từ khi ra đời hai ngàn năm trước, phần lớn tôn giáo này đã bị xem là huyền thoại. Những chi tiết minh bạch của câu chuyện Phúc âm đã lu mờ và thường bị cho là chỉ có tính cách biểu tượng. Thế nhưng, ẩn trong biểu tượng và huyền thoại vẫn có sẵn thực tại – cái chân lý cốt yếu, thiết thực và đầy ấn tượng. |
|
Our attention has been engrossed by the symbol and by the outer form, whilst the meaning has remained obscured and fails sufficiently to affect our lives. In our myopic study of the letter we have lost the significance of the Word itself. We need to get behind the symbol to that which it embodies, and to shift our attention away from the world of outer forms to that of inner realities. Keyserling points this out in these words: |
Chúng ta đã quá chú ý vào biểu tượng và hình thức bên ngoài. Trong khi đó, thực nghĩa cứ mãi bị phủ che nên không đủ ảnh hưởng đến cuộc sống của chúng ta. Trong khi khảo sát một cách thiển cận theo ngôn từ, chúng ta đánh mất ý nghĩa của chính Linh từ. Chúng ta cần tìm sâu vào bên trong biểu tượng để thấy những gì mà biểu tượng nhằm truyền đạt. Đồng thời cần chuyển sự chú tâm ra khỏi thế giới của các ngoại hình để đi vào những thực tại thâm sâu. Keyserling nói lên điều này như sau: |
|
“The process of shifting levels from the letter to the inner meaning in the matter of spiritual attitudes can be clearly set forth by one single proposition. It consists in `seeing through’ the phenomenon. Every living phenomenon is, first and last, a symbol; for the essence of life is meaning. But every symbol which is the ultimate expression of a state of consciousness is in itself transparent for another deeper one, and so on into eternity; for all things in the sense-connexion of life are inwardly connected, and their depths have their roots in God. |
“Khi nói về thái độ tinh thần, có thể dùng chỉ một câu để giải rõ tiến trình chuyển tâm thức ra khỏi ngôn từ đến thực nghĩa bên trong. Đó là ‘nhìn xuyên qua’ hiện tượng. Trước sau gì mọi hiện tượng cũng là biểu tượng; vì tinh hoa của đời sống là ý nghĩa. Nhưng mọi biểu tượng vốn là sự biểu lộ tối hậu của một trạng thái tâm thức. Chính biểu tượng đó lại mở ra một biểu tượng sâu xa hơn nữa, và cứ thế mà đi vào vĩnh cửu. Bởi vì muôn loài vạn vật đều có mối liên kết ý nghĩa trong cuộc sống. Liên kết ấy hướng vào bên trong đến những độ sâu bắt nguồn từ Thượng Đế. |
|
“Therefore, no spiritual form can ever be an ultimate expression; every meaning, when it has been penetrated, becomes automatically a mere letter-expression of a deeper one, and herewith the old phenomenon takes on a new and different meaning. Thus, Catholicism, Protestantism, Greek-Catholic, Islamism and Buddhistic religiousness can in principle continue, on the plane of this life, what they were and yet signify something entirely new.” [vi]4 |
“Do đó, không hình thái nào của tinh thần có thể là sự biểu lộ tối hậu. Mỗi ý nghĩa khi được thấu đáo, tự động trở thành chỉ là biểu lộ ngôn từ của diệu nghĩa thâm sâu hơn. Bằng cách này, một hiện tượng tuy có vẻ cũ kỹ nhưng vẫn hé lộ ý nghĩa mới mẻ và khác lạ. Vì thế, theo nguyên tắc này, Công giáo, Tin Lành, Công giáo Hy Lạp, Hồi giáo và Phật giáo đều có thể tiếp tục phát triển những gì mình đã có, nhưng vẫn mang ý nghĩa hoàn toàn mới.”[4] |
|
[9] |
|
|
The only excuse for this book is that it is an attempt to penetrate to that deeper meaning underlying the great events in the life of Đức Christ, and to bring into renewed life and interest the weakening aspiration of the Đức Christian. If it can be shown that the story revealed in the Gospels has not only an application to that divine Figure Which dwelt for a time among men, but that it has also a practical significance and meaning for the civilised man today, then there will be some objective gained and some service and help rendered. It is possible that today—owing to our more advanced evolution and the ability to express ourselves through more finely developed shades of consciousness—we can appropriate the teaching with a clearer vision and a wiser use of the indicated lesson. This great Myth belongs to us—for let us be courageous and use this word in its true and right connotation. A myth is capable of becoming a fact in the experience of an individual, for a myth is a fact which can be proven. Upon the myths we take our stand, but we must seek to re-interpret them in the light of the present. Through self-initiated experiment we can prove their validity; through experience we can establish them as governing forces in our lives; and through their expression we can demonstrate their truth to others. This is the theme of this book, dealing as it does with the facts of the Gospel story, that fivefold sequential myth which teaches us the revelation of divinity in the Person of Jesus Đức Christ, and which remains eternally truth, in the cosmic sense, in the historical sense, and in its practical application to the individual. This myth divides itself into five great episodes: |
(9) Sách này có mục đích duy nhất là cố gắng thấu đáo cái ý nghĩa sâu xa hơn ẩn trong các sự kiện quan trọng, xảy ra trong cuộc đời của Đức Christ. Đồng thời, nó cũng giúp cho đạo tâm yếu kém của người Thiên Chúa giáo thấm nhuần sức sống mới với nhiều quan tâm, chú ý. Nếu sách này có thể cho thấy rằng câu chuyện Phúc âm không chỉ nói về một Đấng thiêng liêng đã sống giữa mọi người trong một thời gian, mà còn mang ý nghĩa thâm sâu và thiết thực đối với nhân loại văn minh ngày nay, thì sách này đã đạt mục tiêu và phục vụ được phần nào hữu ích. Hiện nay, nhân loại đã tiến hóa cao hơn và có khả năng tự phát biểu qua những trạng thái tâm thức tinh tế hơn. Vì thế mà chúng ta có thể lãnh hội giáo huấn của Ngài với tầm mắt tỏ rõ hơn, và sử dụng bài học trong đó một cách khôn ngoan hơn. Huyền thoại trọng đại nói trên thuộc về chúng ta – vì chúng ta cần can đảm sử dụng thuật ngữ này theo hàm ý đúng thực của nó. Huyền thoại có thể trở thành sự kiện thực tế khi được thể nghiệm, vì huyền thoại là một sự kiện thực tế có thể chứng minh. Dù đã có quan điểm thế nào về các huyền thoại, chúng ta cũng cần phải lý giải lại chúng theo sự hiểu biết hiện nay. Bằng cách tự thực nghiệm, ta có thể chứng minh giá trị của chúng. Qua kinh nghiệm, ta có thể thấy chúng là những mãnh lực chi phối cuộc đời mình. Và nói lên điều này, ta có thể trình bày sự thực của chúng cho người khác hiểu. Đây là chủ đề của sách này, nhằm nêu lên những điều thực tế trong câu chuyện Phúc âm. Đó là huyền thoại có trình tự gồm năm giai đoạn, cho thấy sự hiển lộ thiên tính trong Cá nhân Đức Jesus Christ. Đồng thời, mãi mãi nó vẫn là chân lý khắp vũ trụ, theo ý nghĩa lịch sử, và ứng dụng thực tế cho mỗi cá nhân. Huyền thoại này được chia thành năm giai đoạn chính như sau: |
|
1. The Birth at Bethlehem. |
1. Sự Giáng sinh tại Bethlehem. |
|
2. The Baptism in Jordan. |
2. Lễ Rửa tội ở Jordan. |
|
3. The Transfiguration on Mount Carmel. |
3. Sự Biến dung trên Núi Carmel. |
|
4. The Crucifixion on Mount Golgotha. |
4. Thập giá hình trên Núi Golgotha. |
|
5. The Resurrection and Ascension. |
5. Sự Phục sinh và Thăng thiên. |
|
Their significance for us and their re-interpretation in modern terms is our task. |
Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa của các giai đoạn này và lý giải chúng theo những thuật ngữ hiện nay. |
|
[10] |
|
|
A point of crisis and of culmination has been reached in the history of man, and man owes this to the influence of Đức Christianity. As a member of the human family, he has reached a level of integration unknown in the past, except in the case of a select few in every nation. He is, as the psychologists have indicated, a sum total of physical organisms, of vital force, of psychical states or emotional conditions, and of mental or thought reactions. He is now ready to have indicated to him his next transition, development or unfoldment. Of this he is expectant, standing in readiness to take advantage of the opportunity. The door into a world of higher being and consciousness stands wide open; the way into the kingdom of God has been clearly pointed out. Many in the past have passed into that kingdom and awakened there to a world of being and of understanding which is, to the multitude, a sealed mystery. The glory of the present moment lies in the fact that many thousands stand thus prepared, and (given the needed instruction) could be initiated into the mysteries of God. A new unfoldment in consciousness is now possible; a new goal has arisen and governs the intentions of many. We are, as a race, definitely on our way towards some new knowledge, some fresh recognitions, and some deeper world of values. What happens on the outer plane of experience is indicative of a similar happening in a more subtle world of meaning. For this we must prepare. |
(10) Nhờ ảnh hưởng của Thiên Chúa giáo mà nhân loại đã đạt đến mức thành tựu có tính cách quyết định. Mỗi người trong gia đình nhân loại ngày nay đã đạt mức tích hợp chưa từng có trước đây, ngoại trừ một số ít người chọn lọc đã có trong mỗi quốc gia. Như các nhà tâm lý học đã cho biết, mỗi người là một tổng hợp gồm thể chất, sinh lực, các tâm thái hay tình trạng tình cảm, và phản ứng của trí tuệ hay tư tưởng. Hiện nay con người sẵn sàng bước vào giai đoạn chuyển tiếp, phát triển và khai mở kế tiếp. Họ đang mong đợi điều đó, chuẩn bị sẵn sàng để sử dụng tốt cơ hội này. Cánh cửa đi vào thế giới hiện tồn và tâm thức cao cả hơn đang rộng mở. Họ đã được chỉ rõ con đường bước vào Thiên giới. Trong quá khứ nhiều người đã bước vào vương quốc này, ý thức được thế giới hiện hữu và những hiểu biết trong đó mà đối với đa số mọi người vẫn còn là điều bí nhiệm sâu kín. Nguồn vinh quang hiện nay là do muôn ngàn người đã chuẩn bị sẵn sàng, và (nếu có sự hướng dẫn cần thiết) họ có thể được truyền thụ các bí nhiệm của Thượng Đế. Giờ đây, khả dĩ có sự khai mở mới trong tâm thức nhân loại. Một mục đích mới đã hiển lộ và chi phối ý định của nhiều người. Với tư cách toàn nhân loại, rõ ràng là chúng ta đang trên đường hoạch đắc một số hiểu biết mới, những nhận thức mới, và các giá trị sâu xa hơn. Những gì đang xảy ra trong trường kinh nghiệm ở ngoại giới đều cho thấy điều tương tự đang diễn ra trong thế giới ý nghĩa tinh vi hơn. Chúng ta cần chuẩn bị sẵn sàng cho những diễn biến này. |
|
We have seen that the Đức Christian revelation unified in itself the teachings of the past. This, Đức Christ Himself pointed out when He said, “Think not that I am come to destroy the law or the prophets: I am not come to destroy, but to fulfil.” [vii]5 He embodied all the past, and revealed the highest possibility to man. The words of Dr. Berdyaev, in Freedom and the Spirit, throw light on this: |
Chúng ta thấy rằng sự thiên khải của Thiên Chúa giáo đã hợp nhất các giáo huấn của thời gian trước. Chính Đức Christ nêu rõ điều này khi Ngài nói “Đừng nghĩ rằng ta đến để phá hủy giáo pháp hay các sách tiên tri: ta đến không để hủy diệt, mà để hoàn thành.”[5] Ngài tiêu biểu cho tất cả thời quá khứ, và hiển bày cho con người thấy những khà năng cao cả nhất có thể đạt. Trong quyển Tự do và Tinh thần,Ts. Berdyaev giải rõ vấn đề này như sau: |
|
“The Đức Christian revelation is universal, and everything analogous to it in other religions is simply a part of that revelation. Đức Christianity is not a religion of the same order as the others; it is, as Schleiermacher said, the religion of religions. What does it matter if within [11] Đức Christianity, supposedly so different from other faiths, there is nothing original at all apart from the coming of Đức Christ and His Personality; is it not precisely in this particular that the hope of all religions is fulfilled?” [viii]6 |
“Cuộc thiên khải của Thiên Chúa giáo có tính cách đại đồng, và mọi sự tương đồng của nó trong các tôn giáo khác đều chỉ là một phần của cuộc thiên khải đó. Thiên Chúa giáo không có cùng đẳng cấp như các tôn giáo khác. Schleiermacher cho rằng nó là tôn giáo của các tôn giáo. Vậy thì có vấn đề gì chăng khi trong (11) Thiên Chúa giáo, vốn được cho là quá khác biệt với các tín ngưỡng khác, lại chẳng có điều gì hoàn toàn mới ngoài sự giáng lâm của Đức Christ và Nhân cách của Ngài? Phải chăng chính vì lý do này mà niềm hy vọng của tất cả các tôn giáo sẽ được tựu thành?”[6] |
|
Each great period of time and each world cycle will have—through the loving-kindness of God—its religion of religions, synthesising all the past revelations and indicating the future hope. The world expectancy today shows that we stand on the verge of a new revelation. It will be a revelation which will in no way negate our divine spiritual heritage, but will add the clear vision of the future to the wonder of the past. It will express what is divine but has been hitherto unrevealed. It is therefore possible that an understanding of some of the deeper significances of the Gospel story may enable the modern seeker to grasp the wider synthesis. |
Do lòng yêu thương, nhân từ của Thượng Đế, mỗi thời đại và mỗi chu kỳ của thế giới đều có tôn giáo của các tôn giáo trong thời kỳ đó. Nó tổng hợp tất cả các cuộc thiên khải của quá khứ, và vạch ra nguồn hy vọng của tương lai. Sự mong chờ của thế giới ngày nay cho thấy rằng chúng ta đang đứng trên ngưỡng cửa của một cuộc thiên khải mới. Cuộc thiên khải đó sẽ không hề phủ nhận di sản tinh thần thiêng liêng của nhân loại, mà đem tầm nhìn sáng tỏ của tương lai bổ sung cho những điều kỳ diệu của quá khứ. Nó sẽ biểu đạt những gì thiêng liêng mà từ trước đến nay chưa hề được tiết lộ. Vì thế, rất có thể khi hiểu biết một số ý nghĩa sâu xa hơn của câu chuyện Phúc âm, người tìm chân lý thời nay khả dĩ thấu đáo được sự tổng hợp rộng lớn hơn. |
|
Some of these deeper implications were touched upon in a book published many years ago, entitled The Crises of the Đức Christ, by that veteran Đức Christian, Dr. Campbell Morgan. Taking the five major episodes in the life of the Saviour, around which the entire Gospel narrative is built, he gave them a wide and general application, leaving one with the realisation that Đức Christ had not only passed through these dramatic experiences, in deed and in truth, but had left us with the definite command that we should “follow His steps.” [ix]7 Is it not possible that these great facts in the experience of Đức Christ, these five personalised aspects of the universal myth, may have for us, as individuals, more than an historical and personal interest? Is it not possible that they may embody some experience and some initiated undertaking through which many Đức Christians may now pass, and thus obey His injunction to enter into new life? Must we not all be born again, baptised into the Spirit, and transfigured upon the mountain top of living experience? Does not the crucifixion lie ahead for many of us, leading on to the resurrection and the ascension? And is it not also possible [12] that we have interpreted these words in too narrow a sense, with too sentimental and ordinary an implication, whereas they may indicate to those who are ready a special way and a more rapid following in the footsteps of the Son of God? This is one of the points which concern us and with which this book will attempt to deal. If this more intensive meaning can be found, and if the drama of the Gospels can become in some peculiar way the drama of those souls who are ready, then we shall see the resurrection of the essentials of Đức Christianity and the revivifying of the form which is so rapidly crystallising. |
Một số hàm ý thâm sâu nói trên được trình bày trong một quyển sách xuất bản cách đây nhiều năm, nhan đề Những Cuộc Khủng hoảng của Đức Christ, tác giả Ts. Campbell Morgan, một tín đồ Thiên Chúa giáo lão thành. Để cập đến năm giai đoạn chính trong cuộc đời của Đấng Cứu thế làm cơ sở để dựng nên trọn cả câu chuyện Phúc âm, cho thấy chúng có ứng dụng rộng lớn và phổ quát. Nhờ đó, độc giả nhận thức được rằng không những Đức Christ đã thực sự trải qua năm kinh nghiệm đầy ấn tượng nói trên, mà Ngài còn để lại cho chúng ta lời huấn thị “hãy theo bước chân Ngài.”[7] Có phải chăng những sự kiện trọng đại vừa kể trong kinh nghiệm của Đức Christ – năm khía cạnh nhân cách hóa của huyền thoại phổ quát – đối với chúng ta, là những cá thể, khả dĩ còn mang nhiều ý nghĩa hơn là sự quan tâm về lịch sử và cá nhân? Có phải chăng chúng khả dĩ thể hiện một số kinh nghiệm và nhiệm vụ bước đầu mà nay nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo có thể trải qua, để theo đúng huấn thị của Ngài là hãy bước vào đời sống mới? Chẳng phải tất cả chúng ta đều sẽ được tái sinh, được rửa tội để bước vào thế giới tinh thần, và được biến dung trên đỉnh núi của trải nghiệm sống thực? Phải chăng nhiều người trong chúng ta sẽ đón nhận thập giá hình, dẫn đến sự phục sinh và thăng thiên? Và chẳng phải chúng ta đã (12) diễn giải những từ này theo ý nghĩa quá hẹp hòi, với hàm ý quá đỗi tầm thường và nhiều xúc cảm; trong khi đó, với những người đã chuẩn bị sẵn sàng, chúng cho thấy một con đường đặc biệt và nhanh chóng hơn để theo bước chân của Ngài, Người Con Thượng Đế? Đây là một trong những điểm liên quan đến chúng ta mà sách này sẽ cố gắng trình bày. Nếu chúng ta có thể thấu đóa ý nghĩa thâm diệu này, nếu bằng cách nào đó những màn kịch trong Phúc âm có thể áp dụng cho những linh hồn đã chuẩn bị sẵn sàng, thí bấy giờ người ta sẽ thấy sự phục sinh những điều cốt yếu của Thiên Chúa giáo, và hình thể đang nhanh chóng kết tinh của nó sẽ trở nên sống động. |
|
2 |
2 |
|
It is of interest to recall that other teachings besides that of Đức Christianity have emphasised these five important crises that occur, if so desired, in the life of those human beings who take their stand upon their essential divinity. Both the Hindu teaching and the Buddhist faith have emphasised them as evolutionary crises which we may not ultimately escape; and a right understanding of the interrelation of these great world religions may eventually bring about a truer understanding of all of them. The religion of the Buddha, though preceding that of the Đức Christ, expresses the same basic truths, but phrases them in a different manner, which can help us nevertheless to a larger interpretation of Đức Christianity. |
Thực là thú vị khi nhớ rằng những giáo huấn khác ngoài Thiên Chúa giáo cũng đã chú ý đến năm biến cố quan trọng này. Chúng xảy ra trong đời của những ai trụ vững vào thiên tính chính yếu nơi mình, nếu họ muốn. Cả kinh sách Ấn giáo và tín ngưỡng Phật giáo cũng đều xem đó là những khúc quanh trên đường tiến hóa mà rốt cuộc cả chúng ta đều phải trải qua. Vì thế, càng thấu đáo mối tương quan giữa các tôn giáo lớn trên thế giới, người ta càng hiểu rõ chúng hơn. Dù có trước Thiên Chúa giáo, Phật giáo vẫn đã đưa ra cùng những chân lý căn bản, nhưng dùng ngôn từ theo lối khác. Tuy nhiên, chúng lại giúp lý giải Thiên Chúa giáo một cách sâu rộng hơn. |
|
“Buddhism and Đức Christianity find their origins respectively in two inspired moments of history: the life of the Buddha, and the life of Đức Christ. The Buddha gave his doctrine to enlighten the world: Đức Christ gave his life. It is for Đức Christians to discern the doctrine. Perhaps in the end the most valuable part of the doctrine of the Buddha is its interpretation of his life.” [x]8 |
“Phật giáo và Thiên Chúa giáo mỗi tôn giáo đều đã bắt nguồn từ một trong hai thời kỳ lịch sử trọng đại: cuộc đời của Đức Phật và cuộc đời của Đức Christ. Đức Phật đưa ra giáo lý giúp thế gian khai ngộ; trong khi Đức Christ trao tặng cho đời cuộc sống của mình. Người Thiên Chúa giáo cần nhận rõ giáo lý này. Có lẽ, rốt cuộc phần giá trị nhất trong giáo lý của Đức Phật nói lên chính cuộc đời Ngài.”[8] |
|
The teaching of Lao-Tzu can also serve the same purpose. Religion must eventually be composite, gathered from many [13] sources and composed of many truths. Yet it is legitimate to feel that if one had to choose, at this time, one faith, one might choose Đức Christianity, and for this specific reason: the central problem of life is to lay hold upon our divinity and to make it manifest. In the life of Đức Christ we have the most complete and perfect demonstration and example of divinity lived successfully on earth, and lived—as most of us have to live—not in retirement, but in the full tide of storm and stress. |
Giáo huấn của Lão Tử cũng có cùng mục đích. Rốt cuộc, tôn giáo phải là sự phối hợp, tổng hợp từ nhiều (13) nguồn và bao gồm nhiều chân lý. Tuy nhiên, khả dĩ nói rằng hiện nay nếu cần phải chọn một tín ngưỡng, thì người ta có thể chọn Thiên Chúa giáo. Vì lý do cụ thể: vấn đề trọng tâm của đời sống là trụ vững vào thiên tính nơi mình, và làm cho nó hiển lộ. Cuộc đời của Đức Christ cho thấy tấm gương hoàn hảo của người đã sống với bản tính thiêng liêng nơi mình một cách thành công ở thế gian. Ngài đã sống –như hầu hết chúng ta phải sống – không lánh đời, ẩn dật, mà sống trong tình trạng đầy phong ba, bão tố và căng thẳng. |
|
Exponents of all faiths are today meeting to discuss the possibility of finding a platform of such universality and truth that upon it all men may unite, and on which the coming world religion may be based. This may perhaps be found in a clearer interpretation and understanding of these five outstanding episodes, and in their practical and unique relationship not only to the individual but to humanity as a whole. This realisation will bind us more definitely to the past, anchoring us in the truth that was; it will indicate to us our immediate goal and duty, which when understood will enable us to live more divinely, to serve more adequately, and thus to bring the will of God into fruition on earth. It is their inner meaning and our individual relation to them that are of importance. |
Những người theo tất cả các tín ngưỡng hiện đang gặp gỡ để bàn thảo khả năng tìm ra những điểm chung của tinh thần đại đồng và chân lý nói trên – là cơ sở để mọi người có thể kết hợp, và là căn bản của nền tôn giáo thế giới sắp đến. Có lẽ, khả dĩ tìm thấy cơ sở này khi chúng ta diễn giải và hiểu rõ hơn năm giai đoạn phát triển nói trên, cũng như thấu đáo mối liên quan thực tiễn và độc đáo của chúng không những với mỗi cá nhân mà còn với toàn nhân loại. Nhận thức này sẽ giúp chúng ta gắn kết nhiều hơn với quá khứ, và trụ vững vào chân lý đã được trình bày trong thời gian đó. Nó cũng giúp chúng ta thấy rõ mục tiêu và nhiệm vụ của mình ngay trước mắt – mà khi hiểu được, chúng ta sẽ có thể sống cuộc đời thánh thiện hơn, phụng sự mỹ mãn hơn, để giúp thực thi Thiên ý ở thế gian. Điều quan trọng là chúng ta cần nhận thức ý nghĩa sâu xa của chúng, và thấy chúng có liên quan đến cá nhân mình như thế nào. |
|
There is nothing but a valuable gain to us, an enriching of our consciousness, when we realise the unity, and at times the uniformity of the teaching as it is given in both the East and the West. For instance, the fourth event in Đức Christ’s life, the Crucifixion, finds a parallel in the fourth initiation of the Oriental teaching which is called the Great Renunciation. There is an initiation, called in the Buddhist terminology the “entering of the stream,” and there is in the life of Jesus an episode which we call the “baptism in Jordan.” The story of Đức Christ’s birth at Bethlehem can be paralleled in practically every detail in the lives of earlier messengers from God. These proved facts should surely evoke from us the recognition that though there are many messengers there is only one Message; but this recognition in no way [14] detracts from the unique task of the Đức Christ and the unique function which He came forth to fulfil. |
Chẳng có gì khác hơn là hoạch đắc những điều giá trị, và tâm thức trở nên phong phú, khi chúng ta nhận thức được tính duy nhất và những tương đồng trong các giáo huấn đã đượcđưa ra ở cả Đông và Tây. Ví dụ như, sự kiện thứ tư xảy ra trong cuộc đời của Đức Christ, khổ nạn Thập giá hình, vốn tương đồng với cuộc Điểm đạo thứ tư mà giáo huấn Đông phương gọi là Hoàn toàn Từ bỏ. Trong thuật ngữ Phật giáo có một cuộc điểm đạo gọi là “nhập lưu”; và trong cuộc đời của Đức Jesus cũng có sự việc gọi là “lễ rửa tội ở Jordan.” Câu chuyện giáng sinh của Đức Christ ở Bethlehem có thể đối chiếu, thực tế là trong từng chi tiết, với cuộc đời của các vị sứ giả thiêng liêng đến trước Ngài. Những sự kiện thực tế đã được chứng minh nói trên chắc hẳn sẽ giúp chúng ta thừa nhận rằng dù có nhiều vị sứ giả nhưng họ chỉ trao truyền một Thông điệp duy nhất. Tuy nhiên, sự thừa nhận vừa kể không hề (14) khiến người ta bỏ qua nhiệm vụ độc đáo của Đức Christ và chức năng duy nhất mà Ngài đến để hoàn thành. |
|
It is interesting also to bear in mind that these two outstanding Individualities, the Buddha and the Đức Christ, have set Their seal upon both hemispheres—the Buddha being the Teacher for the Orient, and Đức Christ the Saviour of the Occident. Whatever may be our personal conclusions as to Their relations to the Father in Heaven or to each other, the fact stands out past all controversy that They gave the revelation of divinity to Their particular civilisations, and that in a most significant manner They worked together for the eventual benefit of the race. Their two systems are interdependent, and Buddha prepared the world for the message and the mission of Đức Christ. |
Điều thú vị cần lưu ý là hai Đấng kiệt xuất nói trên, Đức Phật và Đức Christ, đã để lại dấu ấn của các Ngài ở cả hai bán cầu – Đức Phật là vị Huấn sư của phương Đông, và Đức Christ là vị Cứu thế của phương Tây. Dù mỗi chúng ta có kết luận thế nào về mối liên hệ giữa các Ngài với nhau và với Đấng Cha Lành ở cõi thiêng liêng, cũng chẳng sao. Sự thực hiển nhiên là mỗi Vị đã hiển lộ bản tính thiêng liêng cho nền văn minh đương thời, và các Ngài đã cùng nhau làm việc để rốt cuộc mang lại lợi ích cho toàn nhân loại. Hai hệ thống giáo huấn của các Ngài tùy thuộc lẫn nhau, và Đức Phật giúp chuẩn bị người đời để họ thấu hiểu thông điệp và sứ mệnh của Đức Christ. |
|
Both embodied in Themselves certain cosmic principles, and by Their work and sacrifice certain divine potencies poured through and upon mankind. The work done by the Buddha, and the message which He sounded, stimulated intelligence into wisdom. Wisdom is a cosmic principle, and a divine potency. This the Buddha embodied. |
Cả hai Ngài đều tự thể hiện một số nguyên khí vũ trụ. Nhờ công việc và sự hy sinh của các Ngài mà một số mãnh lực tinh thần đã tuôn rãi xuyên qua và cho nhân loại. Công tác được Đức Phật thực hiện, và giáo huấn Ngài truyền giảng, đã kích thích trí thông tuệ trở thành minh triết – một nguyên khí cấp vũ trụ và mãnh lực thiêng liêng, được Ngài thể hiện. |
|
But love came to the world through Đức Christ, and He, through His work, transmuted emotion into Love. As “God is Love,” the comprehension that Đức Christ revealed the love of God makes clear the magnitude of the task He undertook—a task far beyond the powers of any teacher or messenger who had preceded Him. The Buddha, when He achieved illumination, “let in” a flood of light upon life and upon our world problems, and this intelligent understanding of the causes of world distress He endeavoured to formulate into the Four Noble Truths. These are, as most of us well know: |
Thế nhưng, bác ái đến với thế gian thông qua Đức Christ, và công tác của Ngài đã giúp chuyển hóa những tình cảm thông thường thành Bác ái. Vì “Thượng Đế là Bác ái,” nên khi hiểu rằng Đức Christ đã hiển lộ nguồn bác ái của Thượng Đế, chúng ta sẽ thấy rõ tầm quan trọng của nhiệm vụ mà Ngài đảm nhận – một nhiệm vụ vượt ngoài khả năng của bất cứ huấn sư hay sứ giả nào đến trước Ngài. Khi Đức Phật đạt giác ngộ, Ngài “phóng chiếu” ánh sang chói rạng vào đời sống và những vấn đề khó khăn của thế giới chúng ta. Thấu hiểu nguyên nhân của những nỗi đau thương, thống khổ ở thế gian, Ngài minh giải chúng trong Tứ Diệu Đế (Bốn Chân lý Cao cả) mà hầu hết chúng ta đều biết rõ: |
|
1. That existence in the phenomenal universe is inseparable from suffering and from sorrow. |
1. Cuộc sống trong vũ trụ hiện tượng không thể tránh khỏi đau khổ. |
|
2. That the cause of suffering is desire for existence in the world of phenomena. |
2. Nguyên nhân của đau khổ là lòng ham sống trong thế giới hiện tượng. |
|
3. That cessation of suffering is brought about by eradicating all desire for existence in this universe of phenomena. |
3. Sự đau khổ ngưng dứt khi ta không còn ham sống trong cõi giới hiện tượng. |
|
[15] |
|
|
4. That the way to the cessation of suffering is by treading the noble Eightfold Path, wherein are expressed right belief, right intentions, right speech, right actions, right living, right endeavour, right-mindedness and right concentration. |
4. Phương cách ngưng dứt đau khổ là thực hành Bát Chánh Đạo, gồm chánh tín, chánh niệm, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh tư duy và chánh định. |
|
He provided a structure of truth, of dogma and of doctrine which has enabled many thousands, down the centuries, to see the light. Today Đức Christ and His disciples are occupied (as they have been for two thousand years) with the same task of bringing enlightenment and salvation to men; blows are being struck at the world illusion, and the minds of humanity are arriving, en masse, at an increasing clarity of thought. Through the message, therefore, of the Buddha, man can, for the first time, grasp the cause of his eternal discontent, of his constant distaste and dissatisfaction, and of his endless nostalgia. From the Buddha he can learn that the way of release is to be found in detachment, dispassion and discrimination. These are the first steps on the road to Đức Christ. |
Ngài đưa ra cấu trúc của chân lý, giáo lý và giáo huấn mà qua nhiều thế kỷ đã giúp cho biết bao người thấy được ánh sang. Ngày nay, Đức Christ và các đệ tử của Ngài đang chăm lo (như các vị đã làm trong hai ngàn năm qua) cũng chính nhiệm vụ mang lại sự khai ngộ và cứu rỗi cho nhân loại. Cố gắng này đang tác động mạnh vào những ảo tưởng của thế gian. Nhờ đó mà trí tuệ của nhân loại ngày càng có khả năng suy tư sáng tỏ. Thế nên, qua thông điệp của Đức Phật, lần đầu tiên người ta hiểu được vì sao họ cứ mãi cảm thấy không hài lòng, thường xuyên nhàm chán, bất mãn trong hiện tại, và triền miên nhớ tiếc những ngày vui đã qua. Từ giáo huấn của Ngài, họ biết tự giải thoát bằng cách thực hành hạnh từ bỏ, vô dục và phân biện. Đây là những bước đầu tiên trên đường đến với Đức Christ. |
|
Through the message of Đức Christ three general concepts emerged into the racial consciousness: |
Thông điệp của Đức Christ đưa ba khái niệm tổng quát vào tâm thức của nhân loại: |
|
First, that the individual, as an individual, is of value. This was a truth which the general Eastern doctrine of rebirth had tended to negate. Time was long; opportunity would endlessly recur; the evolutionary process would do its work. Let mankind therefore drift as a whole with the tide, and eventually all would be well. Hence the general attitude of the East was failure to emphasise the supreme value of any individual. But Đức Christ came and emphasised the work of the individual, saying, “Let your light so shine before men, that they may see your good works.” [xi]9 |
Thứ nhất, giá trị cao đẹp của mỗi người, với tư cách cá nhân. Đây là sự thực mà giáo lý chung của Đông phương về tái sinh có khuynh hướng phủ nhận. Trong dòng thời gian lâu dài, cơ hội cứ mãi đến rồi đi, và diễn trình tiến hóa thường xuyên tác động.Thế nên, toàn thể nhân loại cứ tiến lên theo triều sóng để rốt cuộc tất cả đều tốt đẹp. Vậy, thái độ chung của người phương Đông là không chú trọng đến giá trị cao tột của mỗi cá nhân. Thế nhưng, Đức Christ đến và nhấn mạnh việc làm của mỗi cá nhân qua câu nói “Hãy để ánh sáng của bạn chói rạng trước mắt mọi người, ngõ hầu họ có thể thấy những công trình tốt đẹp mà bạn đã làm.”[9] |
|
Second, the opportunity was presented to the race as a whole to take a tremendous step forward, to undergo the “new birth” or take the first initiation. This we shall deal with in our next chapter. |
Thứ hai, toàn nhân loại đã có cơ hội tiến tới một bước quan trọng, để đi vào “đời sống mới” hay là nhận cuộc điểm đạo lần thứ nhất. Điều này sẽ được bàn đến trong chương kế tiếp. |
|
[16] |
|
|
The third concept which was taught by the Đức Christ was that which embodied the technique of the new age, which was to come when individual salvation and the new birth had been properly grasped. This was the message or command to love our neighbour as ourselves. [xii]10 Individual effort, group opportunity, and identification with each other—this was the message of the Đức Christ. |
(16) Khái niệm thứ ba mà Đức Christ đã truyền dạy bao gồm kỹ thuật của thời đại mới, được thực hiện khi người ta hiểu rõ thế nào là sự cứu rỗi cho mỗi cá nhân và việc sinh ra trong đời sống mới. Đó là thông điệp hay huấn lệnh hãy yêu thương người láng giềng như chính mình.[10] Nỗ lực của mỗi cá nhân, cơ hội dành cho tập thể nhân loại, và mọi người cùng đồng nhất với nhau – đó là bức thông điệp của Đức Christ. |
|
In the teaching of the Buddha we have the three ways in which the lower nature can be changed and prepared to be a conscious expression of divinity. Through detachment man learns to withdraw his interest and his consciousness from the things of the senses, and to turn a deaf ear to the calls of the lower nature. Detachment imposes a new rhythm upon the man. Through learning the lesson of dispassion he becomes immune to the suffering of the lower nature as he detaches his interest from secondary things and the non-essentials, and centres it upon the higher realities. Through the practice ofdiscrimination the mind learns to select the good, the beautiful and the true. These three practices, leading to a changed attitude towards life and reality, will, when held sanely, bring in the rule of wisdom and prepare the disciple for the Đức Christ life. |
Qua giáo huấn của Đức Phật, chúng ta biết ba cách chuyển hóa phàm tính để chuẩn bị cho thiên tính được biểu lộ hữu thức. Thực hành hạnh buông xả, hành giả học cách không còn quan tâm đến, và đưa ý thức ra khỏi các sự vật của giác quan, và chẳng còn lắng nghe tiếng gọi của phàm tính. Buông xả mang lại cho y nhịp sống mới. Thực hành hạnh vô dục, y không bị ảnh hưởng bởi nỗi đau khổ của phàm nhân vì không còn để ý đến những điều phụ thuộc, không thiết yếu, mà tập trung chú ý vào các thực tại cao siêu. Nhờ trí phân biện, y biết cách tìm thấy những điều chân, thiện và mỹ. Ba lối thực hành này làm thay đổi thái độ của y đối với cuộc sống và thực tại. Khi được thực hiện đúng đắn, chúng sẽ khiến ánh sáng minh triết chói rạng, giúp người đệ tử sẵn sàng khai mở nguồn sống Christ. |
|
Upon this racial teaching follows the work of the Đức Christ with humanity, resulting in an understanding of the value of the individual and his self-initiated efforts at release and illumination, with the final objective of group love and group good. We learn to perfect ourselves in consonance with Đức Christ’s injunction, “Be ye therefore perfect,” [xiii]11 in order to have somewhat to contribute to the group good, and in order to serve Đức Christ perfectly. Thus that spiritual reality, spoken of by St. Paul as “Đức Christ in you, the hope of glory,” [xiv]12 is released in man and can manifest in full expression. When a sufficient number of people have grasped this ideal, the entire human family can stand for the first time before the portal [17] which leads to the Path of Light, and the life of Đức Christ will flower forth in the human kingdom. Personality then fades out, dimmed by the glory of the soul, which, like the rising sun, disperses the darkness, reveals the life-situation, and irradiates the lower nature. It leads to group activity, and self, as we usually understand it, disappears. This is already happening. The final result of the work of the Đức Christ can be seen portrayed for us in His words to be found in St. John XVII, which it would be of value to all of us to read. |
Tiếp theo giáo huấn nói trên dành cho nhân loại, Đức Christ đã đến để làm việc với mọi người. Cố gắng của Ngài giúp họ hiểu rõ giá trị của mỗi cá nhân, và nỗ lực y tự phát triển để được giải thoát và khai ngộ. Mục tiêu cuối cùng là tình thương tập thể và phúc lợi tập thể. Chúng ta học cách tự hoàn thiện theo huấn thị của Đức Christ, “Vậy, bạn hãy trở nên hoàn thiện,”[11] để góp phần nhỏ của mình cho phúc lợi tập thể, và để phụng sự Đức Christ một cách vẹn toàn. Nhờ đó, thực tại tinh thần mà Thánh Paul đã nêu trong câu “Đấng Christ ở trong bạn, nguồn hy vọng vinh quang,”[12] được khai phóng trong mỗi người và có thể biểu hiện viên mãn. Khi có đủ số người thấu hiểu được lý tưởng này, thì toàn nhân loại có thể lần đầu tiên đứng trước cánh cửa (17) đưa đến Con Đường Ánh sáng. Bấy giờ, nguồn sống Christ sẽ bừng nở trong giới nhân loại. Bấy giờ, phàm ngã trở nên phai mờ trước sự vinh quang của linh hồn. Như vầng thái dương đang lên, nó xua tan bóng tối, giúp hành giả thấy rõ hoàn cảnh sống, và soi sáng tính chất của phàm nhân. Nó đưa đến sinh hoạt tập thể, và cái tôi, như chúng ta thường hiểu, tan biến dần. Điều này đã và đang xảy ra. Tất cả chúng ta đều cần nên đọc những lời của Thánh John XVII, trong đó có mô tả những kết quả cuối cùng mà công tác của Đức Christ đã mang lại. |
|
Individuality, Initiation, Identification—in these terms the message of the Đức Christ can be expressed. This He epitomised when on earth in the words: “I and my Father are one.” [xv]13 That great Individuality, the Đức Christ, through the process of the five great Initiations, gave to us a picture of the stages and method whereby identification with God can be brought about. This sentence gives us the keynote of the entire Gospel story, and constitutes the theme of this book. |
Giá trị của Cá nhân, Điểm đạo, và Đồng nhất với Thượng Đế – đây là những từ có thể tiêu biểu cho bức thông điệp của Đức Christ. Khi còn tại thế, Ngài tóm lược điều này trong câu: “Ta và Cha ta là một.”[13] Qua quá trình năm cuộc Điểm đạo lớn, Đấng cao cả này, tức là Đức Christ, đã cho chúng ta thấy hình ảnh của các giai đoạn và phương pháp để đồng nhất với Thượng Đế. Câu nói vùa kể là trọng tâm của toàn câu chuyện Phúc âm, và là chủ đề của quyển sách này. |
|
The interrelation of the work of the past and of the present, as given to us by the great Teacher of the East and by the Saviour of the West, can be expressed as follows: |
Có thể nói lên mối tương quan trong công việc trước đây và hiện nay đã được thực hiện cho chúng ta bởi vị Đại Huấn sư của Phương Đông và vị Chúa Cứu thế của Phương Tây, như sau: |
|
The Buddha……….. The Method………. Detachment. Dispassion. Discrimination. |
Đức Phật … Phương pháp … Hạnh buông xả. Hạnh vô dục. Trí phân biện. |
|
The Đức Christ…………. The Result…………. Individualism. Initiation. Identification. |
Đức Christ … Kết quả … Giá trị của cá nhân. Điểm đạo. Đồng nhất với Thượng đế. |
|
Đức Christ lived His life in that small but significant strip of land which we call Palestine, the Holy Land. He came to prove to us the possibility of individual attainment. He emerged (as all the Teachers throughout the ages seem to have done) out of the Orient, and worked in that country which seems like a bridge between the Eastern and Western hemispheres, separating two most different civilisations. Modern thinkers would do well to remember that Đức Christianity is a bridging religion. Herein lies its great importance. Đức Christianity [18] is the religion of that transitional period which links the era of self-conscious individualistic existence to a future group-conscious unified world. It is outstandingly a religion of cleavage, demonstrating to man his duality, and thus laying the foundation for his effort to achieve unity or at-one-ment. The realisation of this duality is a most needed stage in man’s unfoldment, and the purpose of Đức Christianity has been to reveal this; also to point out the warfare between the lower and the higher man, between carnal man and spiritual man, united in one person, and to emphasise the necessity for that lower man to be saved by the higher. This, St. Paul points out in the words so familiar to all of us: “… to make in himself, of twain, one new man, so making peace; and that he might reconcile both unto God in one body, having slain the enmity in himself.” [xvi]14 This was His divine mission, and this is the lesson of the Gospel narrative. |
Đức Christ đã sống trên dải đất tuy bé nhỏ nhưng đầy ý nghĩa, có tên là Palestine, hay Thánh Địa. Ngài đến để chứng tỏ cho chúng ta thấy khả năng thành đạt của mỗi cá nhân. Ngài đã xuất thân từ Đông Phương (như trường hợp của hầu hết các Huấn sư qua mọi thời đại) và đã làm việc trong đất nước đó. Nó giống như chiếc cầu nối giữa hai bán cầu Đông và Tây, phân chia hai nền văn minh rất đỗi khác biệt. Các nhà tư tưởng ngày nay nên nhớ rằng Thiên Chúa giáo là tôn giáo có vai trò kết nối. Tầm quan trọng của nó là ở đó. Thiên Chúa giáo (18) là tôn giáo của thời kỳ chuyển tiếp, nối kết thời đại của cuộc sống cá nhân tự ngã thức với thế giới thống nhất trong ý thức tập thể ở tương lai. Chính yếu đây là tôn giáo có vai trò phân tách, chỉ rõ cho mỗi người thấy tính cách nhị nguyên của y. Từ cơ sở đó, y cố gắng đạt sự hợp nhất hay nhất quán. Nhận thức về tính nhị nguyên này là một giai đoạn rất cần thiết trong việc khai mở của mỗi người, và Thiên Chúa Giáo có mục đích giúp họ hiểu rõ điều đó. Đồng thời nó cũng nêu lên cuộc chiến đấu giữa cái ta thấp kém và chân ngã cao siêu, giữa con người phàm tục và con người tinh thần, rốt cuộc sẽ hợp nhất, và nhấn mạnh việc phàm nhân cần được chân nhân cứu rỗi. Thánh Paul nêu lên điều này qua những lời mà tất cả chúng ta đều biết: “…hợp nhất cả hai nơi chính mình thành một người mới, và đạt sự bình an; để y có thể hòa hợp cả hai trên đường về với Thượng Đế trong cùng một cơ thể, sau khi đã giải quyết sự đối nghịch nơi chính mình.”[14] Đây là sứ mệnh thiêng liêng của Ngài, và đây là bài học của câu chuyện Phúc âm. |
|
Đức Christ therefore not only unified in Himself the past “law and the prophets,” but He also provided that presentation of truth which could bridge the gap between Eastern belief and philosophy and our Western materialism and scientific attainment, both of them divine expressions of reality. At the same time He demonstrated to human beings the perfection of the task which each man could carry forward within himself, bridging that essential duality which is his nature, and bringing about that at-one-ment of the human and the divine which it is the task of all religions to aid. Each of us has to make “of twain, one new man, so making peace,” for peace is unity and synthesis. |
Thế là Đức Christ đã thống nhất nơi Ngài “các luật lệ và những sách tiên tri” của thời quá khứ. Đồng thời Ngài cũng trình bày chân lý để nối liền khoảng cách giữa các tín ngưỡng và triết lý Đông phương, và chủ nghĩa duy vật và thành tựu khoa học của Tây phương – cả hai đều là những biểu lộ thiêng liêng của thực tại. Đồng thời, Ngài cũng chứng tỏ cho nhân loại thấy rằng mỗi người đều có thể hoàn tất việc nối kết lưỡng tính hiện có nơi chính mình. Đó là hợp nhất nhân tính và thiên tính, vốn dĩ là điều mà tất cả các tôn giáo có nhiệm vụ trợ giúp. Mỗi chúng ta đều cần phải “kết hợp cả hai phương diện này thành một người mới, nhờ đó mà được bình an,” bởi vì bình an là hợp nhất và tổng hợp. |
|
But the lesson and message which Đức Christ brought to individual man He brought also to the nations, holding before them the hope of future world unity and world peace. He came at the beginning of that astronomical age which we call “the Piscean age” because, during this period of approximately two thousand years, our sun is passing through that sign in the zodiac which we call Pisces, or the Fishes. Hence the frequent references to fishes, and the appearance of the [19] symbol of the fish in Đức Christian literature, including the New Testament. This Piscean age comes between the previous Jewish dispensation (the two thousand years wherein the sun was passing through the sign Aries, the Ram) and the Aquarian age into which our sun is now in process of transiting. These are astronomical facts, for I am not here speaking of astrological conclusions. In the period when the sun was in Aries, we find the frequent appearance of the ram or the scapegoat in the Old Testament teaching, and the keeping of the Passover feast. In the Đức Christian age we use the fish symbology, even to eating fish on Good Friday. The symbol of the Aquarian age, as it appears in all the ancient zodiacs, is that of a man bearing a jar of water. The message of that age is one of unity, communion and our relationship as brothers, because we are all the children of the one Father. To this age Đức Christ pointed in His instructions to His disciples when He told them to go into the city, and said: “When ye are entered into the city, there shall a man meet you, bearing a pitcher of water; follow him into the house where he entereth in.” [xvii]15 This they did, and the great and holy feast of communion was later held in that house. The reference is undoubtedly to the future period wherein we enter into that house in the zodiac which is called “the Water-carrier,” and wherein also we shall all sit at the same table, and hold communion one with another. The Đức Christian dispensation comes between the two great world cycles, and just as Đức Christ consummated in Himself the message of the past, and gave the teaching for the present, so He also pointed to that future of unity and understanding which is our inevitable goal. We are today at the end of the age, and entering the period of Aquarian unity, as He foretold. The “upper room” is a symbol of that high point of achievement towards which we are, as a race, rapidly moving. Some day the great Communion Service will be held, of which every communion service is the forecast. We are slowly passing into this new sign. For more than two thousand years its potencies and [20] forces will play upon the race and will establish the new types, foster the new expansions of consciousness, and lead man on to a practical realisation of brotherhood. |
Bài học và bức thông điệp mà Đức Christ trao cho mỗi cá nhân, Ngài cũng mang đến cho các quốc gia, cho họ thấy nguồn hy vọng hợp nhất thế giới và hòa bình thế giới trong tương lai. Ngài đến vào thời gian đầu của thời đại thiên văn mà chúng ta gọi là “Song Ngư”. Bởi vì trong thời kỳ khoảng hai ngàn năm này, mặt trời đi ngang qua cung Hoàng đạo gọi là Song Ngư, tức là hai Con Cá. Do vậy mà người ta thường nói đến cá, và dùng (19) biểu tượng con cá trong các kinh sách Thiên chúa Giáo, cũng như trong Kinh Tân ước. Thời đại Song Ngư đến giữa giai đoạn của giáo phái Do Thái (là hai ngàn năm trước đó, khi mặt trời đi ngang qua cung Dương Cưu, Con Cừu) và thời đại Bảo Bình mà nay mặt trời đang di chuyển vào. Đây là những sự kiện thực tế của khoa thiên văn, chứ tôi không đề cập đến các kết luận của khoa Chiêm tinh. Vào thời kỳ mặt trời ở trong ảnh hưởng của cung Dương Cưu, thường có hình ảnh của con cừu hoặc con dê chuộc tội trong Kinh Cựu ước, và việc cử hành lễ Vượt qua. Trong kỷ nguyên Thiên Chúa, người ta sử dụng biểu tượng con cá, và thậm chí còn ăn cá vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Biểu tượng của thời đại Bảo Bình, như có ghi trong tất cả các vòng hoàng đạo cổ xưa, là hình ảnh người mang bình nước. Thông điệp của thời đại này là sự hợp nhất, cảm thông và mối liên giao huynh đệ giữa mọi người. Bởi vì tất cả chúng ta là con của Đấng Cha lành duy nhất. Đức Christ đã đề cập đến thời đại này trong lời hướng dẫn các môn đồ, khi Ngài bảo họ đi vào thành phố. Ngài nói “đi vào thành phố, các ngươi sẽ gặp một người có mang bình nước. Khi y bước vào một ngôi nhà thì hãy theo y.”[15]Họ làm đúng như thế, và sau đó bữa tiệc ban thánh thể trọng đại được tổ chức trong ngôi nhà ấy. Rõ ràng, điều này chỉ về thời kỳ tương lai khi thế giới đi vào cung “Bảo Bình” của hoàng đạo. Bấy giờ, mọi người ngồi chung một bàn, cùng nhau chia sẻ bữa tiệc thông đạt. Thiên Chúa giáo đến giữa hai chu kỳ lớn của thế giới. Đức Christ hoàn thành nơi Ngài bức thông điệp của quá khứ, và trao truyền giáo huấn cho hiện tại. Đồng thời, Ngài cũng chỉ về tương lai hợp nhất và thông hiểu, là mục tiêu mà chắc chắn chúng ta sẽ đạt. Ngày nay, chúng ta đến cuối thời đại cũ, và bước vào thời kỳ hợp nhất của Bảo Bình, như Ngài đã tiên đoán. “Căn phòng ở tầng trên” là biểu tượng của mức thành tựu cao mà cả nhân loại chúng ta đang tiến nhanh. Một ngày kia cuộc lễ Ban Thánh thể vĩ đại sẽ được tổ chức, mà những cuộc hành lễ này hiện nay là dự báo. Chúng ta đang dần dần bước vào thiên tượng chiêm tinh mới này. Trong hơn hai ngàn năm tới, mãnh lực và (20) sức mạnh của nó sẽ ảnh hưởng đến nhân loại, tạo nên ý thức mới, giúp mọi người mở mang tâm thức, và thực sự hiểu được thế nào là tình huynh đệ. |
|
It is interesting to note how it was that the energies playing upon our planet when the sun was in Aries, the Ram, produced in religious symbology the emphasis of the goat or ram, and how in our present age of Pisces, the Fishes, those influences have coloured our Đức Christian symbology so that the fish preponderates in our New Testament and in our eschatological symbology. The new incoming rays, energies and influences must surely be destined to produce equal effects, not only in the realm of physical phenomena but also in the world of spiritual values. The atoms of the human brain are being “awakened” as never before, and those millions of cells which, we are told, are to be found inactive and dormant in the human brain may be brought into functioning activity, bringing with them that intuitive insight which will recognise the coming spiritual revelation. |
Điều thú vị cần lưu ý là các năng lượng đã tác động thế nào khi mặt trời ở trong cung Dương Cưu, con Cừu, khiến khoa biểu tượng tôn giáo chú trọng đến dê hay cừu. Tương tự, trong thời đại Song Ngư, Hai con Cá, những ảnh hưởng khác đã chi phối khoa biểu tượng Thiên Chúa giáo, khiến cho hình ảnh con cá nổi bật nhiều trong Kinh Tân ước và trong biểu tượng hiện nay về sự phán xét cuối cùng. Các cung, các năng lượng và ảnh hưởng mới đang đến chắc hẳn là nhằm mang lại những hiệu ứng đồng đều, không những trong lĩnh vực hồng trần mà còn trong thế giới giá trị tinh thần. Các nguyên tử trong não bộ con người được “thức động” đến mức chưa từng có. Và chúng ta cũng biết rằng muôn triệu tế bào hiện chưa linh hoạt và còn ngủ yên trong não bộ con người. Chúng có thể được khởi hoạt để mang lại sự thấu hiểu trực giác, giúp nhận biết cuộc thiên khải tinh thần đang đến. |
|
Today the world is re-orienting itself to the newer influences, and in the processes of re-adjustment a period of temporary chaos is inevitable. Đức Christianity will not be superseded. It will be transcended, its work of preparation being triumphantly accomplished, and Đức Christ will again give us the next revelation of divinity. If all that we now know of God is all that can be known, the divinity of God is but a limited matter. What the new formulation of truth will be, who can say? But the light is slowly pouring into men’s hearts and minds, and in this lighted radiance they will vision the new truths and arrive at a fresh enunciation of the ancient wisdom. Through the lens of the illumined mind man will shortly see aspects of divinity hitherto unknown. May there not be qualities and characteristics of the divine nature which are as yet totally unrecognised and unknown? Can there not be revelations of God utterly unprecedented, and for which we have no words or adequate means of expression? The ancient mysteries, so shortly to be restored, must be re-interpreted in the light of Đức Christianity, and re-adapted[21] to meet modern need, for we can now enter into the Holy Place as intelligent men and women, and not as children looking on at dramatic stories and procedures in which we, as individuals, play no conscious part. Đức Christ enacted for us the dramatic story of the five initiations, and urged us to follow in His steps. For this the past era has prepared us, and we can now pass intelligently into the kingdom of God through the process of initiation. The fact that the historical Đức Christ existed and walked on earth is the guarantee to us of our own divinity and our ultimate achievement. The fact of the mythic Đức Christ, appearing again and again down the ages, proves that God has never left Himself without witness and that always there have been those who have achieved. The fact of the cosmic Đức Christ, manifest as the urge towards perfection in all the kingdoms of nature, proves the fact of God and is our eternal hope. Humanity stands at the portals of initiation. |
Ngày nay, thế giới đang hướng đến những ảnh hưởng mới mẻ hơn, và trong các tiến trình tái điều chỉnh không thể tránh khỏi một thời gian tạm thời xáo trộn. Thiên Chúa giáo sẽ không bị thay thế. Thiên Chúa giáo sẽ được nâng cao. Công tác chuẩn bị của Thiên Chúa giáo hoàn tất tốt đẹp, và một lần nữa Đức Christ sẽ mang lại cuộc thiên khải kế tiếp cho chúng ta. Nếu tất cả những gì hiện nay chúng ta biết về Thượng Đế là tất cả những điều có thể biết, thì hóa ra thiên tính của Thượng Đế cũng chỉ là vấn đề hữu hạn. Ai có thể nói cách trình bày mới về chân lý sẽ như thế nào không? Thế nhưng, ánh sáng đang từ từ tuôn rải vào tâm và trí của con người. Trong ánh quang huy họ sẽ thấy được những chân lý mới, và lý giải nguồn minh triết ngày xưa một cách mới mẻ hơn. Qua sự truyền đạt của các bậc trí giả khai ngộ, chẳng bao lâu nữa mọi người sẽ thấy được những khía cạnh của thiên tính mà từ trước đến nay họ chưa hề biết. Khả dĩ có hay chăng những phẩm tính và đặc trưng của thiên tính mà mãi cho đến nay người ta vẫn còn hoàn toàn chưa thể biết và nhận thức? Khả dĩ có hay không những điều thiên khải mà trước đây chưa từng thấy, và nay chúng ta vẫn chưa có đủ ngôn từ hay phương cách nào thỏa đáng để thuyết minh? Các bí nhiệm cổ xưa, chẳng bao lâu nữa sẽ phục hồi, phải được diễn giải lại theo ánh sáng của Thiên Chúa giáo, và (21) cần chuyển thể nhằm đáp ứng nhu cầu của thời nay. Lý do là vì giờ đây chúng ta có thể bước vào Thánh Điện với tư cách những người thông minh, sáng suốt. Chúng ta không còn là những đứa trẻ chỉ ngắm xem các câu chuyện và qui trình đầy ấn tượng mà chúng ta không hề hữu ý dự phần vào đó, với tư cách những cá nhân. Đức Christ phô diễn cho chúng ta câu chuyện tuyệt vời về năm cuộc điểm đạo, và khuyến khích chúng ta theo bước chân Ngài. Kỹ nguyên trước đã giúp chúng ta chuẩn bị điều này. Và nay chúng ta có thể bước vào Thiên giới một cách thông minh, sáng suốt qua quá trình điểm đạo. Đức Christ vốn đã hiện hữu cũng như đã du hành trên thế gian, và đó là sự kiện có thực trong lịch sử. Nó bảo đảm rằng trong chúng ta sẵn có thiên tính và rốt cuộc sẽ thành tựu. Đức Christ trong thần thoại đã xuất hiện hết lần này đến lần khác qua các thời đại. Sự kiện này chứng tỏ rằng Thượng Đế không bao giờ thôi biểu hiện, và luôn luôn vẫn có những người thành đạt. Thực tế là Đấng Christ vũ trụ, biểu lộ như sức thúc đẩy hướng về sự hoàn thiện trong tất cả các giới tiến hóa của thiên nhiên. Nó chứng tỏ sự thực về Thượng Đế và là nguồn hy vọng muôn đời của chúng ta. Nhân loại đang đứng trước cánh cửa điểm đạo. |
|
3 |
3 |
|
Always there have been temples and mysteries and holy places where the true aspirant could find what he sought, and the needed instruction as to the way he should go. The prophet of old said: |
Luôn luôn đã có những đền thờ, những bí nhiệm và thánh điện, nơi mà người chí nguyện chân thành có thể tìm thấy những điều mình tìm kiếm. Trong đó cũng có những hướng dẫn cần thiết về con đường mà họ nên đi. Cổ thư có ghi: |
|
“… a highway shall be there, and a way, and it shall be called the way of holiness; the unclean shall not pass over it, for he shall be with them; the wayfaring men, though fools, shall not err therein.” [xviii] 16 |
“… ở đó sẽ có con đường cao cả, con đường đạo hay con đường thánh thiện. Người chưa trong sạch không thể đi qua nó, vì sẽ vướng vào đó. Người khách lữ hành, dù còn khờ dại, khi vào đó sẽ hết lạc lầm.”[16] |
|
It is a way that leads from that which lies without to that which dwells within. It reveals, step by step, the hidden life which every form and symbol veils and hides. It assigns to the aspirant certain tasks which lead to his understanding, and produces an inclusiveness and wisdom which meet his deeply sensed need. He passes from the stage of enquiry to what the Tibetans call “straight knowledge.” Upon that path [22] vision and hope give place to realisation. Initiation after initiation is undergone, each one leading the initiate nearer to the goal of complete unity. Those who in the past thus worked, agonised and attained, constitute a long chain, reaching out of the remotest past into the present, for the initiates are still with us and the door still stands wide open. Through the agency of this hierarchy of achievement, men are lifted, step by step, up the long ladder reaching from earth to heaven, to stand eventually before the Initiator and in that high moment to find that it is the Đức Christ Himself Who thus greets them—the familiar Friend Who, having prepared them by example and precept, now receives them into the presence of God. Such has ever been the experience, the uniform experience down the ages, of all seekers. Revolting in the East from the wheel of rebirth, with its constantly re-iterated suffering and pain, or revolting in the West from the apparent monstrous injustice of the one sorrowful life which the Đức Christian allots himself, men have turned within to find the light and peace and release so ardently desired. |
Đó là con đường từ bên ngoài đưa vào các cấp đẳng nội môn. Từng bước một, nó làm hiển lộ sự sống ẩn tàng mà mọi hình tướng và biểu tượng đang che án và che giấu. Nó trao cho người chí nguyện một số công tác để nhờ đó y có thể thông hiểu, với tinh thần bao gồm và minh triết, nhằm đáp ứng nhu cầu mà y cảm thấy ở tận thâm tâm. Từ giai đoạn tìm kiếm, y đi đến mức mà người Tây Tạng gọi là “cái biết trực tiếp.” Trên con đường đó (22) thị kiến và hy vọng nhường chỗ cho nhận thức. Từ cuộc điểm đạo này đến cuộc điểm đạo khác, mỗi mỗi đều đưa người điểm đạo đồ đến gần hơn với mục tiêu hoàn toàn hợp nhất. Theo cách này, người thời xưa đã cố gắng trong đau khổ rồi thành đạt. Họ trở nên một chuỗi dài từ quá khứ xa xăm cho đến hiện tại, vì các điểm đạo đồ vẫn còn sống với chúng ta, và cửa đạo vẫn còn mở rộng. Nhờ những đẳng cấp điểm đạo đồ đã thành đạt, mọi người được nâng cao từng bước, trên chiếc thang tiến hóa xa xăm, từ cõi trần đến cảnh giới thiêng liêng. Rốt cuộc, họ đứng trước Đấng Điểm Đạo, và trong giây phút tuyệt vời ấy, họ thấy mình được chính Đức Christ đón mừng. Ngài là Người Bạn quen thuộc, đã giúp họ dọn mình qua tấm gương sáng, và giáo huấn của Ngài. Rồi giờ đây, Ngài tiếp nhận họ vào trong sự hiện diện thiêng liêng của Thượng Đế. Điều đó bao giờ cũng là cái kinh nghiệm chung và giống nhau của tất cả những người tìm đạo qua các thời đại. Con người đã ra đời ở phương Đông từ vòng tái sinh với nỗi đau thương, thống khổ thường xuyên tái diễn. Họ cũng ra đời ở phương Tây từ những gì mà bề ngoài có vẻ bất công và ghê tởm. Thế nhưng, người ta đã quay vào nội tâm để tìm ánh sáng, sự bình an và giải thoát mà họ tha thiết ước mong. |
|
Đức Christ gives us a definite picture of the entire process in His own life story, built around those major initiations which are our universal heritage and the glorious (and for many) the immediate opportunity. These are: |
Đức Christ cho ta thấy hình ảnh xác thực của trọn cả quá trình này trong câu chuyện cuộc đời Ngài. Nó xoay quanh năm cuộc điểm đạo chính yếu, vốn là di sản chung và là nguồn vinh quang chung của chúng ta (và đối với nhiều người) đó là cơ hội ngay trước mắt. Những cuộc điểm đạo này là: |
|
1. The Birth at Bethlehem, to which Đức Christ called Nicodemus, saying, “Except a man be born again, he cannot see the kingdom of God.” [xix]17 |
1. Sự giáng sinh ở Bethlehem. Về cuộc điểm đạo này, Đức Christ đã gọi Nicodemus, và bảo “Nếu không được sinh ra lần thứ hai thì không ai có thể thấy được Thiên giới.” [17] |
|
2. The Baptism in Jordan. This is the baptism to which John the Baptist referred us, telling us that the baptism of the Holy Spirit and of fire must be administered to us by Đức Christ. [xx]18 |
2. Lễ Rửa tội ở Jordan. Đây là phép rửa tội mà Thánh John Baptist cho chúng ta biết rằng phép rửa tội của Chúa Thánh Thần bằng lửa phải được Đức Christ ban bố cho chúng ta. [18] |
|
3. The Transfiguration. There perfection is for the first time demonstrated, and there the divine possibility of such perfection is proven to the disciples. The command [23] goes forth to us, “Be ye therefore perfect even as your Father which is in heaven is perfect.” [xxi]19 |
3. Sự Biến dung. Đây là lần đầu tiên sự hoàn thiện được biểu dương, và ở đây người đệ tử được cho thấy khả năng thiêng liêng của mình có thể đạt được sự hoàn thiện đó. Thế nên, chúng ta được lệnh (23) “Hãy trở nên hoàn thiện như Đấng Cha Lành của các bạn ở trên trời vốn hoàn thiện.”[19] |
|
4. The Crucifixion. This is called the Great Renunciation, in the Orient, with its lesson of sacrifice and its call to the death of the lower nature. This was the lesson which St. Paul knew and the goal towards which he strove. “I die daily,” he said, for only in the practice of death daily undergone can the final Death be met and endured.” [xxii] 20 |
4. Thập giá hình. Được gọi là Đại hạnh Từ bỏ ở Đông phương, cùng với bài học hy sinh và lời kêu gọi hãy xóa đi phàm tính. Đây là bài học mà Thánh Paul đã biết, và là mục tiêu mà ông hướng đến trong khi phấn đấu. Ông nói “Tôi chết dứt mỗi ngày.” Bởi vì chỉ nhờ thực hành chết dứt mỗi ngày, hành giả mới có thể thực hiện sự Chết dứt cuối cùng.[20] |
|
5. The Resurrection and Ascension, the final triumph which enables the initiate to sing and to know the meaning of the words: “Oh death, where is thy sting? Oh grave, where is thy victory?” [xxiii] 21 |
5. Sự Phục sinh và Thăng thiên, chiến thắng khải hoàn cuối cùng. Nó giúp người điểm đạo đồ có thể hát lên và hiểu ý nghĩa của lời ca: “Hỡi Thần chết, hãy cho ta biết đâu là nọc độc của ngươi? Hỡi nấm mồ, hãy chỉ cho ta ở trong ngươi đâu là chiến thắng?[21] |
|
Such are the five great dramatic events of the mysteries. Such are the initiations through which all men must some day pass. Humanity stands today upon the path of probation. The way of purification is being trodden by the masses, and we are in process of purging ourselves from evil and materialism. When this process is completed, many will find themselves ready to make preparation for the first of the initiations, and to undergo the new Birth. The disciples of the world are preparing for the second initiation, the Baptism, and for this must come a purification of the emotional desire nature and a dedication of the desire nature to the life of the soul. The initiates of the world are facing the Transfiguration initiation. Mind control and right orientation towards the soul, with a complete transmutation of the integrated personality, lies ahead of them. |
Đó là năm sự kiện tuyệt vời và trọng đại của những điều bí nhiệm. Đó là những cuộc điểm đạo mà một ngày nào đó tất cả mọi người đều phải đi qua. Nhân loại ngày nay đang trên con đường dự bị. Đại chúng đang dấn bước trên con đường tinh luyện, và chúng ta đang trong tiến trình tẩy sạch những điều tà vạy cũng như thói quen xu phụng vật chất nơi mình. Khi tiến trình này hoàn tất, nhiều người sẽ thấy mình sẵn sàng chuẩn bị cho cuộc điểm đạo thứ nhất, để được sinh ra lần thứ hai. Các đệ tử trên thế giới đang chuẩn bị cho cuộc điểm đạo thứ hai, tức là lễ Rửa tội. Để được như thế, hành giả phải tinh luyện bản chất cảm dục, và hiến dâng nó cho sự sống của linh hồn. Họ nhắm đến sự chế ngự thể trí, và tiến đến linh hồn đúng hướng, cùng cố gắng siêu hóa phàm nhân tích hợp một cách hoàn toàn. |
|
There is much foolishness talked these days in connection with initiation, and the world is full of people who are claiming to be initiates. They fail to remember that no initiate makes any claim or speaks about himself. Those who claim to be initiates give denial to their claim in so doing. Disciples and initiates are taught to be inclusive in their thoughts [24] and non-separative in their attitudes. They never set themselves apart from the rest of humanity by asserting their status and thus automatically placing themselves upon a pedestal. Nor are the requirements, as stated in many of the esoteric books, quite as simple as they are made out to be. To read some of them, one would think that as long as the aspirant has achieved a measure of tolerance, of kindness, devotion, sympathy, idealism, patience and perseverance he has fulfilled the major requirements. These are indeed primary essentials, but to these qualities must be added an intelligent understanding and a mental unfoldment which will lead to a sane and intelligent cooperation with the plans for humanity. It is the balance of head and heart that is required, and the intellect must find its complement and expression in and through love. This needs a most careful re-proclaiming. Love and sentiment and devotion are often confused with each other. Pure love is an attribute of the soul and is all-inclusive, and it is in pure love that our relation to God and to each other consists. “For the love of God is broader than the measure of man’s mind, and the heart of the Eternal is most wonderfully kind”—so runs the old hymn, and thus is expressed that love which is the attribute of Deity and also the hidden attribute of every son of God. Sentiment is emotional and unstable; devotion can be fanatical and cruel; but love blends and fuses, understands and interprets and synthesises all form and all expressions, all causes and all races, into one flaming heart of love, knowing no separateness, no division and no disharmony. To bring about this divine expression in our daily life takes the utmost that is in us. To be an initiate takes every power of every aspect of one’s nature. It is no easy task. To face the inevitable tests with which one will assuredly be confronted as one treads the path Đức Christ trod, takes courage of the rarer kind. To cooperate sanely and wisely with God’s Plan and to merge one’s will in the divine Will must call into activity not only the deepest love of one’s heart, but the keenest decisions of the mind. |
Ngày nay có nhiều điều khờ dại nói về điểm đạo, và trên thế giới có biết bao người tự xưng là điểm đạo đồ. Họ quên rằng không điểm đạo đồ nào lại khoe khoang hay nói về mình. Những ai quả quyết rằng mình là điểm đạo đồ tức là đã tự phủ nhận lời khẳng định đó. Các đệ tử và điểm đạo đồ đều học biết rằng mình cần có tư tưởng bao gồm (24) và thái độ không chia rẽ. Họ không bao giờ tách biệt với những người khác trong nhân loại bằng cách tự xưng địa vị của mình, để tự đặt mình lên cái bệ cao. Thực ra, những điều kiện điểm đạo cũng không hoàn toàn có vẻ đơn giản như đã nêu trong nhiều quyển sách gọi là nội môn. Khi đọc vài quyển sách đó, người ta có thể nghĩ rằng nếu người chí nguyện đã đạt được phần nào tính khoan dung, tử tế, sùng tín, thiện cảm, cố gắng thực hiện lý tưởng, kiên nhẫn và bền chí, tức là y đã đạt được những điều kiện chủ yếu cần phải có. Quả thực các đức tính vừa kể là cốt yếu và chính yếu. Thế nhưng, chúng phải được bổ sung bằng sự thấu hiểu thông minh và khai mở trí tuệ. Nhờ đó mà y có thể hợp tác với các kế hoạch dành cho nhân loại, một cách khôn ngoan và thích hợp. Chính sự cân bằng giữa trí óc với tâm hồn là điều cần phải có, và trí năng phải được tình thương bổ sung và biểu lộ thông qua tình thương. Điều này cần được tái khẳng định thật cẩn thận. Tình thương, tình cảm và lòng sùng đạo là những điều thường bị lẫn lộn. Tình thương thuần khiết là một thuộc tính của linh hồn, vốn bao gồm tất cả. Chính tình thương thuần khiết mang lại mối liên giao giữa chúng ta với Thượng Đế, và giữa mọi người. “Vì tình thương của Thượng Đế vốn rộng lớn hơn tầm trí tuệ của con người, và trái tim của Nguồn Sống Vĩnh cửu thật nhân từ và kỳ diệu” – như lời của một bài thánh ca ngày xưa. Trong đó có nói rằng tình thương là một thuộc tính của Thiêng liêng và cũng là thuộc tính ẩn tàng trong mọi người con của Thượng Đế. Tình cảm thì gây xúc động và thường thay đổi. Lòng sùng đạo có thể trở nên cuồng tín và tàn ác. Nhưng tình thương thì hòa đồng và hòa hợp, cảm thông, diễn giải và tổng hợp mọi hình tướng, mọi biểu hiện, mọi nguyên nhân và mọi chủng tộc, vào trong trái tim yêu thương duy nhất luôn bừng cháy. Nó không hề biết đến bất cứ điều gì phân chia, tách biệt hoặc bất hòa. Để có sự biểu lộ thiêng liêng này trong đời sống hằng ngày, chúng ta phải vận dụng tối đa nội lực của mình. Để làm một điểm đạo đồ, hành giả phải vận dụng mọi năng lực trong mọi phương diện của bản tính mình. Đó không phải là điều dễ làm. Để đối mặt với những thử thách không thể tránh mà nhất định hành giả sẽ gặp khi dấn bước trên con đường mà Đức Christ đã đi qua, y phải có tính can đảm, kiên cường thuộc loại rất hiếm hoi. Để hợp tác một cách khôn ngoan và lành mạnh với Thiên cơ, và hòa hợp ý chí của mình với Ý chí Thiêng liêng, hành giả phải khơi hoạt không những tình thương sâu xa trong tâm, mà còn phải vận dụng những quyết tâm kiên định của trí năng. |
|
[25] |
(25) |
|
Initiation might be regarded as a great experiment. There was perhaps a time, when this process of unfoldment was instituted, that it became possible to enact upon earth certain inner processes known at that time only to the few. Then that which was within could be put into symbolic form for the teaching of the “little ones,” and could later be undergone openly and expressed for us upon earth by the Son of God, the Đức Christ. Initiation is a living process, and through that process all who duly discipline themselves and voluntarily acquiesce may pass, scrutinised and aided by that band of initiates and knowers who are the guides of the race, and who are known to us under many names in different parts of the world and in different ages. They are called in the West, Đức Christ and His Church, the Elder Brothers of Humanity. Initiation is therefore a reality and not a beautiful and rather easily attained vision, as so many occult and esoteric books seem to claim. Initiation is not a process which a man undergoes when he joins certain organisations, and which can be understood only by joining such groups. It has nothing to do with societies, esoteric schools and organisations. All that they can do is to teach the aspirant certain well known and basic “rules of the road,” and then leave him to understand or not, as his earnestness and development permit, and to pass on through the portal as his equipment and destiny allow. The Teachers of the race, and the Đức Christ, Who is the “Master of all the Masters and the Teacher alike of angels and of men,” are not more interested in these organisations than They are in any movement in the world today which carries illumination and truth to men. The initiates of the world are to be found in every nation, in every church, and in every group where men of good will are to be found working, and where world service is rendered. The modern so-called esoteric groups are not the custodians of the teaching of initiation, nor is it their prerogative to prepare man for this unfoldment. The best of them can only prepare men for that stage in the evolutionary process which is called “discipleship.” The reason why this is sadly [26] the case, and why initiation seems so far away from the membership of most of the groups who claim an insight into the initiation processes, is that they have not laid the needed emphasis upon that mental illumination which perforce lights the way to the Gate leading to the “Secret Place of the Most High.” They have laid the emphasis upon personality devotion to the Masters of the Wisdom, and to their own organisation leaders; they have stressed adherence to authoritative teaching and rules of life, and have not primarily emphasised adherence to the still small voice of the soul. The way to the place of initiation and to the Centre where Đức Christ may be found is the way of the soul, the lonely way of self-unfoldment, of self-effacement and of self-discipline. It is the way of mental illumination and intuitive perception. |
Có thể xem điểm đạo là một cuộc thí nghiệm trọng đại. Khi quá trình khai mở này khởi đầu, khả dĩ đã có thể thực hành ở thế gian một số tiến trình mà bấy giờ chỉ dành riêng cho thiểu số. Từ đó những gì ở nội môn có thể được trình bày dưới dạng biểu tượng để giáo huấn “đàn em nhỏ.” Rồi về sau, chúng có thể được vị Thiên đế tử, là Đức Christ, công khai truyền đạt cho chúng ta ở thế gian. Điểm đạo là một tiến trình sống động mà tất cả những ai nghiêm trì giới luật và tự nguyện tuân hành đều có thể đi qua. Họ được xem xét kỹ và trợ giúp bởi đoàn thể các điểm đạo đồ và những vị thức giả. Đây là những vị hướng đạo của nhân loại mà chúng ta biết với nhiều danh hiệu, ở những vùng đất khác nhau trên thế giới, và trong nhiều thời đại khác nhau. Ở Tây phương, các vị được gọi là Đức Christ và Giáo hội của Ngài, những vị Huynh trưởng của nhân loại. Vì thế, điểm đạo là điều thực tế, chứ không phải là giấc mơ đẹp đẽ có thể đạt được khá dễ dàng, như quá nhiều sách vở huyền bí và nội môn dường như đã khẳng định. Điểm đạo không phải là tiến trình mà một người trải qua khi y gia nhập một tổ chức nào đó, và y chỉ có thể hiểu nó bằng cách gia nhập các đoàn nhóm đó. Điểm đạo không hề liên quan gì đến các hội đoàn, các trường và tổ chức nội môn. Tất cả những gì họ có thể làm là dạy người chí nguyện một số “quy luật của đường đạo,” có tính cách phổ thông và căn bản. Rồi sau đó để cho y thấu hiểu hay không là tùy theo lòng nhiệt thành và mức độ phát triển của mình, và bước qua cửa đạo tùy theo căn cơ và vận mệnh của mình. Các Huấn sư của nhân loại, và Đức Christ, “vị Chân sư của các Chân sư, vị Huấn sư của cả thiên thần và loài người,” không quan tâm đến các tổ chức nói trên hơn bất cứ phong trào nào trên thế giới ngày nay, đang mang ánh sáng khai ngộ và chân lý đến cho mọi người. Các điểm đạo đồ trên thế giới có trong mỗi quốc gia, trong mọi giáo hội và mọi đoàn nhóm. Trong đó những người có thiện chí đang làm việc, để cùng nhau phụng sự thế gian. Những tập thể hiện nay tự xưng là nội môn, sẽ không phải là những người nắm giữ giáo huấn và điểm đạo. Họ cũng không có đặc quyền chuẩn bị mọi người cho tiến trình khai mở này. Những nhóm giỏi nhất trong họ cũng chỉ có thể chuẩn bị môn sinh cho giai đoạn tiến hóa gọi là “con đường đệ tử.” Vì sao có tình trạng đáng buồn (26) như thế? Và vì sao điểm đạo dường như quá xa vời đối với những thành viên của hầu hết các đoàn nhóm tự cho rằng mình thấu hiểu tiến trình điểm đạo? Đó là vì họ không có sự chú trọng cần thiết vào việc khai sáng trí tuệ để soi tỏ con đường đi đến “Mật Điện của Đấng Chí Tôn.” Họ đã nhấn mạnh vào lòng tôn sùng của phàm nhân đối với các Chân sư Minh triết, và đối với nhà lãnh đạo tổ chức của riêng mình. Họ đã đặt nặng lòng trung thành với giáo huấn và các quy luật sống theo thẩm quyền, chứ không chính yếu là chú trọng vào việc nghe theo tiếng nói nhỏ bé và tĩnh lặng của linh hồn. Con đường đi đến nơi chốn điểm đạo và Trung tâm an ngự của Đức Christ là con đường của linh hồn. Đó là con đường đơn độc với cố gắng tự khai mở, tự thu mình, và nghiêm trì giới luật. Đó là con đường khai sáng trí tuệ và nhận thức trực giác. |
|
Initiation is the revelation of love, of the second great aspect of divinity, expressing itself in wisdom. This expression is found in its fullness in the life of Đức Christ. He revealed to us the nature of essential love, and then told us to love. He demonstrated to us what divinity is, and then told us to live divinely. In the New Testament this unfolding life of living divine love is held before us in three ways, each progressive in its definition of experience, and each giving us the sequence of the revelation of Đức Christ in the human heart. There is first of all the phrase “Đức Christ in you, the hope of glory.” [xxiv]22 This is the stage which precedes and immediately follows the new birth, the Birth at Bethlehem. It is the stage towards which the masses of men are slowly but steadily working, and it is the immediate goal for many of the aspirants in the world today. Secondly, there is the stage which is called that of a full-grown man in Đức Christ, indicating an increased experience of the divine life and a deeper unfoldment of the Đức Christ consciousness in the human being. Towards this the disciples of the world are now oriented. Then there is the stage of achievement, referred to by St. Paul in the following terms, “Till we all come, in the unity of the faith and of the knowledge of the Son of God, unto [27] a perfect man, unto the measure of the stature of the fullness of Đức Christ.” [xxv] 23 |
Điểm đạo là sự hiển lộ của bác ái, phương diện chính đại thứ hai của thiên tính tự biểu hiện trong minh triết. Sự biểu lộ này đến mức hoàn thành viên mãn trong cuộc đời của Đức Christ. Ngài cho ta thấy đặc tính cốt yếu của bác ái, và khuyên chúng ta hãy yêu thương. Ngài biểu dương thực chất của thiên tính, rồi khuyên chúng ta hãy sống với bản tính thiêng liêng. Trong kinh Tân ước, cuộc đời với nguồn bác ái thiêng liêng sống động đang khai mở được trình bày cho chúng ta theo ba lối. Mỗi lối đều tăng tiến với những kinh nghiệm ngày càng xác định hơn. Mỗi lối đều là trình tự hiển lộ của Đấng Christ trong tâm hồn con người. Trước hết là câu “Đấng Christ ở trong bạn, nguồn hy vọng vinh quang.”[22] Đây là giai đoạn xảy ra trước và sau khi Chúa chào đời, sự Giáng sinh của Ngài ở Bethlehem. Đó là giai đoạn mà đại chúng đang cố gắng đi đến một cách chậm chạp nhưng liên tục. Đó cũng là mục tiêu ngay trước mắt của nhiều người chí nguyện trên thế giới ngày nay. Thứ đến có giai đoạn được gọi là người trưởng thành viên mãn trong Christ. Tức là việc thể nghiệm sự sống thiêng liêng ngày càng tăng, và sự khai mở tâm thức Christ thâm sâu hơn trong mỗi người. Những người đệ tử trên thế giới hiện đang hướng đến điều này. Sau đó là giai đoạn thành tựu mà Thánh Paul đã nói: “cho đến khi tất cả chúng ta, trong niềm tin và hiểu biết của vị Thiên đế tử, trở thành (27) người hoàn thiện đến mức viên mãn của Đức Christ.”[23] |
|
Initiation is therefore a graded and realised series of expansions of consciousness, a steadily increasing awareness of divinity and of all its implications. Many so-called initiates today believe themselves to have reached this status because some occult leader or some psychic seer has told them that it is so; yet within themselves they know nothing of the process whereby they can pass (as Masonry teaches) through that mysterious door, between the two great pillars, in their search for light; they have no conscious knowledge of that self-initiated programme which has to be followed in full waking consciousness, being realised simultaneously by the indwelling divine soul and the mind and brain of the man in physical life. These expansions of consciousness progressively reveal to man the quality of his higher and his lower nature; it is this realisation which marks St. Paul as one of the first initiates to attain that status under the Đức Christian dispensation. Read what he says about this revelation of his duality: |
Vì thế, điểm đạo là một loạt các cấp độ hữu ý mở mang tâm thức, và sự liên tục tăng cường ý thức về thiên tính với tất cả các hàm nghĩa của nó. Nhiều người tự gọi mình là điểm đạo đồ ngày nay tin rằng mình đã đạt đến trình độ này, vì một nhà lãnh đạo nội môn hay nhà nhãn thông nào đó đã bảo họ rằng điểm đạo là như vậy. Thế nhưng, trong thâm tâm họ không biết gì về tiến trình mà nhờ đó họ có thể đi qua cánh cửa huyền nhiệm, giữa hai trụ thạch vĩ đại, trong cố gắng tìm ánh sáng của mình (như Hội Tam điểm đã dạy). Họ không hề biết chương trình tự đề xuất, cần được theo đúng một cách hoàn toàn tỉnh thức, đồng thời vẫn được chân ngã thiêng liêng nội tại, trí và não của phàm nhân ở cõi trần biết đến. Các triển khai tâm thức này ngày càng giúp hành giả thấy được bản tính cao siêu và phàm tính của mình. Chính sự nhận thức này cho thấy Thánh Paul là một trong những vị Điểm đạo đồ đã đạt đến trình độ vừa kể trong hệ thống Thiên Chúa giáo. Sau đây là lời ông nói về sự phát lộ lưỡng tính đó nơi mình: |
|
“I know that in me [that is, in my flesh] dwelleth no good thing: for to will is present with me; but how to perform that which is good I find not. |
“Tôi biết rằng trong tôi [tức là trong thân xác tôi] không có điều gì tốt đẹp: vì cho dù tôi có muốn, tôi cũng không biết cách nào thực hiện. |
|
“For the good that I would, I do not: but the evil which I would not, that I do. |
“Vì dù muốn điều tốt, tôi lại không làm: mà làm điều quấy, dù tôi không muốn. |
|
“For I delight in the law of God after the inward man: |
“Vì tôi hân hoan đi theo chân ngã ở nội tâm và tuân hành Thiên luật: |
|
“But I see another law in my members, warring against the law of my mind, and bringing me into captivity to the law of sin which is in my members. |
“Nhưng lại có một luật khác trong thân xác chống lại quy luật trí tuệ của tôi. Nó giam nhốt tôi trong thói quen tội lỗi của thể xác này. |
|
“Oh, wretched man that I am! who shall deliver me from the body of this death? |
“Ôi, tôi thật là khốn khổ! Có ai giúp tôi thoát khỏi xác thân chết chóc này chăng? |
|
“I thank God through Jesus Đức Christ our Lord.” [xxvi] 24 |
“Con cám ơn Thiên Chúa qua Jesus Christ là Chúa của chúng con.”[24] |
|
Only through the revelation of the Đức Christ within each human being can this at-one-ment be made. Only through the new birth, the baptism of spirit and of fire, and the transfiguration of the nature can deliverance be found, can unity [28] with God be achieved. Only through the sacrifice of humanity, which is the essence of the crucifixion, can the resurrection be undergone. |
Chỉ nhờ sự hiển lộ của Đấng Christ bên trong mỗi người mà sự nhất quán này mới xảy ra. Chỉ nhờ sinh ra lần thứ hai, được rửa tội bởi tinh thần và lửa, và siêu hóa phàm tính, hành giả mới được giải thoát và hợp nhất (28) cùng Thượng Đế. Chỉ nhờ hy sinh phàm tính, vốn là điều cốt yếu của thập giá hình, hành giả mới được phục sinh. |
|
What is true of the individual will be true ultimately of the entire human family. The plan for humanity concerns man’s conscious unfoldment. As mankind grows in wisdom and knowledge, and as the civilisations come and go, each bringing its needed lesson and its high point of attainment, men as a group approach the gate which leadeth unto life. All modern discovery, all psychological studies and knowledge, all group activity and all scientific achievement, as well as all real occult knowledge, are spiritual in nature, and these are aids to that expansion of consciousness which will make of mankind the Great Initiate. Just as soon as human beings can grasp in a large synthesis the necessity of entering more definitely into the world of true meaning and of value, we shall see the mysteries becoming universally recognised. The new values will be seen and the new techniques and methods of living will be evolved as a result of this perception. There are signs that this is already happening, that the destruction going on around us and the tearing down of the ancient institutions—political, religious and social—are only preparatory to this undertaking. We are on our way to “that which is within,” and many voices are today proclaiming this. |
Điều gì đúng với mỗi cá nhân thì rốt cuộc cũng đúng với toàn gia đình nhân loại. Thiên cơ dành cho nhân loại nhằm giúp mỗi người hữu ý khai mở tinh thần. Khi nhân loại gia tăng minh triết và hiểu biết, khi các nền văn minh đến rồi đi, mỗi mỗi đều mang theo bài học cần thiết và điểm cao thành đạt, thì mọi người cùng nhau tiến đến cánh cửa đưa vào nguồn sống. Tất cả những phát minh, nghiên cứu và hiểu biết về tâm lý, cũng như tất cả các kiến thức huyền môn đích thực, đều có tính cách tinh thần. Tất cả đều giúp mở mang tâm thức để nhân loại trở thành vị Đại Điểm đạo đồ. Ngày nào tuyệt đại đa số nhân loại thấu hiểu sự tất yếu phải dứt khoát đi vào thế giới các ý nghĩa và giá trị chân thực, thì bấy giờ mọi người sẽ nhận thức được những điều bí nhiệm. Nhờ kết quả của nhận thức này, họ sẽ thấy được những giá trị mới cũng như phát triển các phương pháp và kỹ thuật sống mới mẻ. Có nhiều dấu hiệu cho thấy điều này đã và đang xảy ra. Đồng thời chúng cũng cho thấy rằng sự hủy diệt đang tiếp diễn chung quanh ta, và sự phá đổ các thể chế – chính trị, tôn giáo và xã hội – đều cũng nhằm chuẩn bị cho công cuộc này. Chúng ta đang trên đường hướng đến nguồn sống tinh thần nội tại. Ngày nay nhiều người đang nói lên điều đó. |
|
We are on that path of transition (can we call it the Path of Discipleship?) which will lead us into a new dimension, into the interior world of true fact and right energy. It is a world in which only the spiritual body can function and only the eye of spirit can see. It cannot be perceived by those whose inner perception is unawakened and whose intuition sleeps. When the spiritual body begins to be organised and to grow, and when the eye of wisdom slowly opens and trains itself to see truly, then there will come the indications that the Đức Christ, latent in each son of God, is beginning to control and to lead man into the world of spiritual being, true meaning and essential values. This world is the kingdom of God, the world of souls, and—when manifested—is that expression [29] of divine life which we can call the fifth kingdom in nature. But it cannot yet be generally perceived. It is through the process of initiation that this world stands revealed. |
Chúng ta đang trong giai đoạn chuyển tiếp (có thể gọi đó là Con đường Đệ tử hay không?) để đi vào chiều đo mới, đi vào nội giới với những điều đúng thực và nguồn năng lượng chân chính. Đó là thế giới mà chỉ thể tinh thần mới khả dĩ vận hành và chỉ nhãn quan tinh thần mới thấy được. Những ai chưa khai mở nhận thức nội tâm và trực giác còn yên ngủ, thì chưa có thể ý thức được thế giới này. Thể tinh thần cần bắt đầu được tổ chức và tăng trưởng. Tầm nhìn minh triết cần từ từ rộng mở và tự đào luyện để nhìn thấy đúng thực. Bấy giờ sẽ có chỉ báo cho thấy rằng Đấng Christ, vốn tiềm ẩn trong mỗi người con của Thượng Đế, đang bắt đầu nắm quyền kiểm soát, và đưa họ vào thế giới của sự sống tinh thần, với những giá trị chính yếu và ý nghĩa chân thực. Đây là Thiên giới, tức là cõi giới của linh hồn. Khi xuất lộ, nó sẽ cho thấy (29) cấp biểu hiện của sự sống thiêng liêng, còn được gọi là giới thứ năm trong thiên nhiên. Nói chung, giới này chưa được mọi người nhận thức. Chính nhờ trải qua tiến trình điểm đạo, hành giả mới biết được thế giới này. |
|
Before initiation can be given, the significance of the above ideas must be grasped, and certain great developments are necessarily presupposed. These requirements can be seen working out in the life of every disciple at this time, and, for those who have eyes to see, they can be seen actively bringing changes in the race. |
Trước khi được điểm đạo, y phải thấu hiểu thâm nghĩa của các ý tưởng nói trên, và nhất thiết phải thực hiện một số bước phát triển quan trọng. Có thể thấy các yêu cầu này đang được thể hiện trong cuộc đời của mọi người đệ tử ngày nay. Với những người hiểu biết, họ có thể thấy chúng đang tích cực mang lại những thay đổi trong nhân loại. |
|
Aspiration is a basic requirement, both in the individual and in the race. Today humanity aspires to great heights, and this aspiration is responsible for the great national movements seen in so many countries. At the same time, individual disciples are striving anew towards illumination, incited thereto by their longing to meet world need. Spiritual selfishness, which has been such a characteristic of aspirants in the past, has to be transcended and transmuted into love of man and a sharing in the “fellowship of Đức Christ’s sufferings.” [xxvii]25 Self must be lost to sight in service. Service is rapidly becoming the keynote of the time, and one of the incentives in racial endeavour. The meeting of disaster and the undergoing of painful experiences is ever the lot of the individual disciple. It is becoming obvious that the world disciple, humanity itself, is now deemed worthy of such a testing. This universality of difficulty, in every department of human life and excluding no group, indicates that mankind as a whole is being prepared for initiation. There is purpose underlying what is happening today. The birth pangs of the Đức Christ within the race have begun, and the Đức Christ will be born in the “House of Bread” (which is the meaning of the word “Bethlehem”). The implications of our present world pain and suffering are too obvious to need further explanation. There is purpose underlying all world affairs at this time, and there is reward at the end of the way. Some day, sooner perhaps than many may think, the portals of initiation will open wide to the suffering world disciple (as they have ever [30] opened in the past to individuals), and humanity will enter into a new Kingdom and stand before that mysterious Presence Whose light and wisdom shone forth before the world through the Person of Đức Christ, and Whose voice was heard at each of the five crises through which Đức Christ passed. Then will mankind enter into the world of causes and of knowing. We shall dwell in the inner world of reality, and the outer appearance of physical living will be known to be only symbolic of inner conditions and happenings. Then we shall begin to work and live as those who are initiate in the mysteries, and our lives will be regulated from the realm of reality where Đức Christ and His Disciples of all time (the Church invisible) guide and control human affairs. |
Khát vọng là điều cơ bản cần có trong mỗi cá nhân và trong nhân loại. Ngày nay loài người đang mong tiến đến những đỉnh cao. Vì thế mà có những phong trào lớn trong rất nhiều nước. Đồng thời, cá nhân những người đệ tử cũng đang có cố gắng mới nhằm đạt sự giác ngộ với lòng thiết tha mong đáp ứng nhu cầu của thế gian. Tính ích kỷ tinh thần vốn đã là đặc trưng của người chí nguyện trong thời gian trước. Nay nó phải được siêu hóa và chuyển hóa thành lòng yêu thương mọi người và sẻ chia “nỗi niềm thống khổ của Đức Christ.”[25] Cái tôi bé nhỏ cần phải tan hòa trong phụng sự. Phụng sự đang ngày càng nhanh chóng trở thành chủ âm của hiện nay, và là một trong những động cơ thúc đẩy nỗ lực của nhân loại. Phải gánh chịu hoạn nạn, tai ương và trải qua những kinh nghiệm đau thương thống khổ, đó là số phận của mỗi người đệ tử. Điều hiển nhiên là nhân loại, tức là người đệ tử thế gian, nay dường như đã đủ khả năng trải qua cuộc thử thách đó. Sự khó khăn chung này trong mọi ngành hoạt động của nhân loại, không ngoại trừ bất cứ đoàn nhóm nào. Nó cho thấy toàn nhân loại đang chuẩn bị để được điểm đạo. Trong những điều đang xảy ra hiện nay vốn có mục đích tiềm ẩn. Sự giáng sinh của tâm thức Christ trong nhân loại đã bắt đầu, và Đấng Christ sẽ ra đời trong “Ngôi nhà Bánh mì” (tức là ý nghĩa của từ “Bethlehem”). Những hàm ý trong nỗi đau thương thống khổ của thế giới hiện nay đã quá rõ ràng nên không cần phải giải thích nhiều hơn. Có mục đích tiềm ẩn trong toàn cả thời sự thế giới ngày nay cũng như phần thưởng ở cuối con đường. Một ngày kia, có lẽ điều đó đến sớm hơn nhiều người tưởng, cánh cửa điểm đạo sẽ rộng mở cho người đệ tử thế gian đang đau khổ (như nó đã từng (30) mở ra cho những cá nhân trong thời gian trước). Bấy giờ, nhân loại sẽ bước vào một vương quốc mới trước sự Hiện diện nhiệm mầu của Đấng Thiêng liêng. Nguồn ánh sáng và minh triết của Ngài đã chói rạng trên thế giới thông qua Cá nhân Đức Christ, và tiếng nói của Ngài đã vang lên vào mỗi một trong năm khúc quanh quan trọng mà Đức Christ đã trải qua. Rồi nhân loại sẽ bước vào thế giới của những nguyên nhân và hiểu biết. Chúng ta sẽ trụ vào nội giới của thực tại, và biết rằng cái ngoại hình trong đời sống hồng trần chỉ là biểu tượng của các điều kiện và những gì xảy ra ở các tầm mức nội tâm. Ngày đó chúng ta sẽ bắt đầu sống và làm việc như những điểm đạo đồ trong các bí nhiệm. Bấy giờ cuộc đời của chúng ta sẽ được điều hòa từ lĩnh vực của thực tại, nơi mà qua mọi thời đại Đức Christ và các Đệ tử của Ngài (là Giáo hội vô hình) đang hướng dẫn và điều hành các sự vụ của loài người. |
|
The goal which They have in view and the end towards which They are working has been summed up for us in a commentary upon an ancient Tibetan scripture. The words are as follows: |
Mục tiêu mà các Ngài nhắm đến, và cứu cánh mà các Ngài đang nhằm thực hiện, được tóm lược trong phần luận giải một quyển kinh cổ xưa của Tây Tạng, như sau: |
|
“All beauty, all goodness, all that makes for the eradication of sorrow and ignorance upon earth must be devoted to the one Great Consummation. Then when the Lords of Compassion shall have spiritually civilised the Earth and made of it a Heaven, there will be revealed to the Pilgrims the Endless Path, which reaches to the heart of the universe. Man, then no longer man, will transcend Nature, and impersonally, yet consciously, in at-one-ment with all the Enlightened Ones, help to fulfil the Law of the Higher Evolution, of which Nirvana is but the beginning.” [xxviii] 26 |
“Mọi sự mỹ lệ, mọi sự lành thiện, và tất cả những gì giúp xóa tan vô mình và đau khổ ở thế gian đều phải được hiến dâng cho Đấng Hoàn thiện cao cả và duy nhất. Bấy giờ các vị Chúa Từ bi sẽ mang giá trị tinh thần đến cho thế gian, và biến nó thành Thiên giới. Và người khách hành hương sẽ được cho thấy Con Đường Vô tận để đi vào tâm vũ trụ. Con người bấy giờ không còn là kẻ phàm phu, và sẽ thắng phục Thiên nhiên. Một cách vô tư và tỉnh thức, họ hoạt động với các Bậc Giác ngộ, góp phần hoàn thành Định luật Tiến hóa Cao siêu, mà trong đó Niết-bàn chỉ là bước khởi đầu.”[26] |
|
Such is our goal. Such our glorious objective. How can we progress towards this consummation? What is the first step that we must take? In the words of an unknown poet: |
Đó là mục đích, là mục tiêu vinh quang của chúng ta? Làm sao chúng ta tiến bước để hoàn thành được điều này? Thế nào là bước đầu cần thực hiện? Sau đây là lời của một thi sĩ vô danh: |
|
“When thou canst see |
“Khi bạn có thể thấy |
|
Beneath the outer seeming |
Ần trong cái biểu kiến ở bên ngoài |
|
The causes which to all effects give birth, |
Những nguyên nhân sản sinh bao hậu quả, |
|
When thou canst feel, in warmth of sunlight streaming |
Khi bạn cảm thấy, trong hơi ấm luồng ánh sáng của vầng dương |
|
The Love of God, encircling all the earth, |
Tình thương của Thượng Đế bao trùm cả thế gian, |
|
Then know thyself initiate in the Mysteries |
Thì bấy giờ hãy biết mình là điểm đạo đồ của những điều bí nhiệm |
|
The wise men ever deemed of greatest worth.” |
Là bậc hiền minh, là vốn quý nhất trên đời.” |
|
[31] |
CHAPTER TWO – The First Initiation… The Birth at Bethlehem—CHƯƠNG HAI – Lần Điểm Đạo Thứ Nhất… Sự Sinh Ra tại Bethlehem
|
CHAPTER TWO |
CHƯƠNG HAI |
|
The First Initiation… The Birth at Bethlehem |
Cuộc Điểm đạo Thứ Nhất … Sự Giáng sinh ở Bethlehem |
|
KEY THOUGHT |
TƯ TƯỞNG GỐC |
|
“Except a man be born again, he cannot see the kingdom of God.” (St. John, III.3.) |
“Chỉ khi sinh ra lần thứ hai, hành giả mới thấy được Thiên giới.” (Thánh John, III, 3.) |
|
[33] |
(33) |
|
CHAPTER TWO |
|
|
The First Initiation… The Birth at Bethlehem |
|
|
1 |
1 |
|
In our discussion of these five major initiations we shall seek to do three things. First, we shall endeavour to realise that Christianity is the flower and the fruitage of the religions of the past, being the last to be given out, with the exception of the Mohammedan religion. We have seen that the emphasis of the Christian religion has been laid upon the unit in the human family, and also upon the unique mission of Christ Himself. Christ came to teach the supreme value of the individual, as I have already indicated in the previous chapter. [xxix]1 |
KHI BÀN về năm cuộc điểm đạo chính yếu, chúng ta sẽ cố gắng làm 3 việc. Trước hết, với nhận thức rằng Thiên Chúa giáo là tinh hoa và thành quả của các tôn giáo trong quá khứ, là tôn giáo ra đời mới nhất, ngoại trừ Hồi giáo. Như chúng ta biết, Thiên Chúa giáo nhấn mạnh đến giá trị của mỗi đơn vị trong đại gia đình nhân loại, cũng như sứ mệnh độc đáo của Đức Christ. Ngài giáng lâm để chỉ dạy về giá trị cao tột của mỗi cá nhân, như tôi đã trình bày trong chương trước.[1] |
|
It would appear that the emphasis laid by the followers of Mohammed upon the fact of God, the Supreme, the One and Only, was in the nature of a balancing pronouncement, coming forth as it did in the fifteenth century, in order to safeguard man from forgetfulness of God, as he drew nearer to his own latent and essential divinity as a son of the Father. The study of the relationships of these different faiths, and the manner in which they prepare for and complement each other, is of the deepest interest. This our Western theologians have often forgotten. Christianity may and does preserve secret within itself the sacred teaching, but it inherited that teaching from the past. It may personalise itself through the instrumentality of the greatest of the divine Messengers, but the way of that Messenger had been prepared beforehand, [34] and He had been preceded by other great Sons of God. His word may be the life-giving Word for our Western civilisation, and may embody the salvation which had to be brought to us, but the East had its own teachers, and each of the past civilisations upon our planet had had its divine Representative. As we consider the message of Christianity and its unique contribution, let us not forget the past, for if we do we shall never understand our own faith. |
Dường như sự nhấn mạnh bởi các tín đồ của Mohammed về Thượng Đế, Đấng Tối cao, Đấng Độc nhất và Duy nhất, là lời tuyên bố nhằm lập lại thế thăng bằng. Tuyên bố này được đưa ra vào thế kỷ mười lăm, nhằm giúp con người khỏi quên Thượng Đế khi họ ngày càng hiểu được thiên tính cốt yếu ẩn tàng nơi chính mình, với tư cách là con của Đấng Cha Lành. Thế nên, hẳn sẽ là điều rất hữu ích khi nghiên cứu mối liên quan giữa các tín ngưỡng khác nhau nói trên, và cách mà chúng chuẩn bị cho nhau và bổ sung lẫn nhau như thế nào. Các nhà thần học Tây phương thường không biết đến điều này. Thiên Chúa giáo có thể và vốn đang gìn giữ nơi mình các giáo huấn thiêng liêng, thánh triết. Thế nhưng, nó lại thừa hưởng giáo huấn ấy từ thời quá khứ. Thiên Chúa giáo có thể mang tính đặc thù nhờ có vị cao cả nhất của các Sứ giả thiêng liêng. Thế nhưng, con đường của vị Sứ giả này đã được dọn sẵn (34), và đến trước Ngài đã có những vị Thiên Đế tử cao cả khác. Lời dạy của Ngài có thể là Linh từ ban bố sự sống cho nền văn minh Tây phương, và thể hiện sự cứu rỗi đã được mang đến cho chúng ta. Nhưng phương Đông cũng có những huấn sư của riêng mình, và mỗi nền văn minh trước đây trên hành tinh này đều có vị Đại diện thiêng liêng. Khi xem xét bức thông điệp của Đức Christ, và sự góp phần độc đáo của thông điệp ấy, chúng ta đừng quên thời quá khứ, vì nếu thế chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được niềm tin của chính mình. |
|
Secondly, we must remember to think in terms of the whole and to realise that the great expansions of consciousness to which we shall constantly refer have their universal parallels. Some of these unfoldments in the race lie in past racial history. Some lie ahead. One lies immediately possible in the present. As man’s physical and mechanical equipment develops to meet his expanding consciousness, he is gradually led to experience more and more of the divine Immanence, to perceive more of the divine Transcendence, and to register with an increasingly illumined awareness the revelation which is sequentially presented for his education and his cultural growth. |
Thứ đến, chúng ta cần phải suy tư trên phương diện toàn thể, và nhận thức rằng những sự mở mang tâm thức quan trọng được thường xuyên nói đến đều đang diễn tiến song hành ở khắp nơi. Một số khai mở tâm thức đó của nhân loại đã xảy ra trong lịch sử của loài người vào thời quá khứ. Một số sẽ đến trong tương lai. Một sự khai mở khác khả dĩ xảy ra trong hiện tại. Khi trang bị thể chất và các thể khác của con người phát triển để đáp ứng nhu cầu của tâm thức đang rộng mở, họ sẽ ngày càng thể nghiệm được Đấng thiêng liêng hằng hữu ở nội tâm. Nhờ đó, họ nhận thức được nhiều hơn về Đấng Thượng Đế siêu việt, đồng thời ghi nhận với ý thức ngày càng sáng tỏ về cuộc thiên khải theo trình tự nhằm giúp giáo huấn và nâng cao trình độ văn hóa của mọi người. |
|
Today we stand at the very verge of the birth hour of the racial Christ, and out from the darkness of the womb of matter the Christ child can enter into the light of the kingdom of God. Another crisis is upon us, and for this Christ has prepared the race, for when He was born at Bethlehem, it was not simply the birth of another divine Teacher and Messenger, but the appearing of an Individual Who not only summed up in Himself the past achievement of the race, but Who was also the forerunner of the future, embodying in Himself all that it was possible for humanity to achieve. The appearance of Christ in the cave at Bethlehem was the inauguration of the possibility of a new cycle of spiritual unfoldment for the race, as well as for the individual. |
Ngày nay chúng ta đang đứng trước thời khắc chào đời của tâm thức Christ trong nhân loại. Từ bóng tối trong lòng vật chất, trẻ thơ Christ có thể đi vào ánh sáng của Thiên giới. Chúng ta sắp đến một khúc quanh quan trọng khác, mà Đức Christ đã chuẩn bị cho toàn nhân loại. Bởi vì khi Ngài giáng sinh ở Bethlehem, thì đó không chỉ là sự ra đời của thêm một Huấn sư và Sứ giả thiêng liêng khác, mà là sự giáng lâm của một Đấng siêu phàm. Ngài không những tổng hợp nơi mình các thành tựu của nhân loại trong quá khứ, mà cũng là người mở đường đi đến tương lai, thể hiện nơi Ngài những gì mà nhân loại có khả năng thành tựu. Sự giáng lâm của Đức Christ trong hang đá ở Bethlehem, mở ra sự khả hữu một chu kỳ khai mở tinh thần mới mẻ cho toàn nhân loại, cũng như cho mỗi cá nhân. |
|
Finally, we shall consider these unfoldments from the standpoint of the individual, and study those episodes related in the Gospel story which vitally concern the individual human being who, approaching the end of the long and weary [35] way of evolution, is ready to re-enact the same drama in his own experience. To him there comes the opportunity to pass from the stage of the new birth to that of the final resurrection, via the steep path of Mount Golgotha. In his innermost nature he must learn to understand the words of Christ, “Ye must be born again,” [xxx]2 and to express the death unto life which is the outstanding message of St. Paul. [xxxi]3 |
Cuối cùng, những cuộc khai mở này sẽ được xem xét từ quan điểm cá nhân. Đồng thời người ta cũng nghiên cứu các tình tiết trong câu chuyện Phúc âm, vốn liên quan đến mỗi người trong nhân loại đang đi đến gần cuối con đường tiến hóa (35) lâu dài và khó nhọc. Y sẵn sàng diễn lại lớp màn này theo kinh nghiệm của riêng mình. Y sẽ có cơ hội trải qua từ giai đoạn được sinh ra lần thứ hai cho đến cuối cùng được phục sinh, qua con đường dốc đứng lên Đỉnh Golgotha. Tận thâm tâm, y phải thấu hiểu lời dạy của Đức Christ “Ngươi phải sinh ra lần thứ hai,”[2] và biến sự chết thành sự sống, như đã nêu trong bức thông điệp tuyệt vời của Thánh Paul.[3] |
|
Each of us must sooner or later prove this for himself, because “living religious experience is the only legitimate way to the comprehension of dogmas.” [xxxii]4 Only by following the example of those who have achieved can we ourselves learn the meaning of achievement. Only by our living divinely can our hidden divinity find true expression. This involves a practical self-application which brings its own reward but which must at first be entered upon blindly. |
Sớm hay muộn gì mỗi người trong chúng ta đều phải tự mình chứng minh điều này. Bởi vì “sống thực những kinh nghiệm tôn giáo là cách duy nhất thích hợp và là cách duy nhất để hiểu rõ các huấn điều.”[4] Chỉ bằng cách noi gương những người đã thành tựu, thì chính chúng ta mới học được ý nghĩa của thành tựu đó. Chỉ bằng cách sống cuộc đời thánh thiện, thì hành giả mới thực sự biểu lộ được thiên tính tiềm tàng nơi chính mình. Tức là mỗi người phải tự áp dụng thực hành, và chính cố gắng đó sẽ mang lại phần thưởng của chính nó, dù trước hết y phải bước vào trong tình trạng mơ hồ. |
|
The history of humanity is therefore the history of this individual search for divine expression and light, and for the ultimate achievement of the new birth which releases a man into the service of the kingdom of God. Down the ages, individuals throughout the world have passed through these five expansions of consciousness, and have entered into a deeper life of fuller, richer service. Step by step, their sense of divinity has grown, and their awareness of the divine Life, immanent in nature, has led them to the recognition of the paralleling truth of God transcendent. God in the individual, and God in Christ. God in all forms, and God the informing life of the cosmos, and yet a God Who consciously informs a universe as well as a man and the minutest atom of substance. The evolution of this recognition of divinity in man has been gradual and slow, but at certain points in racial history (as in the history of the individual man) critical moments have been reached, and crises have emerged and have been transcended, each definite initiation leaving the [36] race with an expanded understanding. Today mankind is being prepared for just such a transition, and for the refocussing of the human consciousness in a higher dimension and in a richer field of experience. Humanity is ready to step on to a higher rung of the evolutionary ladder. Faced with a situation so peculiar and an experience so unparalleled, our present chaotic bewilderment need cause no surprise. We are trembling on the verge of another step forward; we are ready for another initiation; we are on the point of widening our horizon, and passing through an open door into a larger room. All that is transpiring is no indication of failure, of senseless confusion and blind upheaval. It is rather a process of temporary destruction for further rebuilding, and is but a correspondence in the racial life to those tests and trials which are always the lot of the disciple preparing for initiation. For this, Christianity has prepared numbers of the race. The new interpretation and the next revelation are imminent. |
Vì thế, lịch sử của nhân loại là nhằm nói về cuộc tìm kiếm nói trên của mỗi cá nhân để biểu lộ những điều thánh thiện và ánh sáng thiêng liêng. Nhờ đó rốt cuộc họ được sinh ra lần thứ hai và tự do phụng sự trong Thiên giới. Qua các thời đại, nhiều người trên khắp thế giới đã trải qua năm giai đoạn triển khai tâm thức này. Họ bước vào đời sống thâm sâu hơn, với công cuộc phụng sự phong phú và viên mãn hơn. Ý thức về thiên tính trong họ từ từ tăng trưởng. Nhận thức của họ về Sự Sống thiêng liêng ẩn tàng trong mỗi chúng sinh, giúp họ hiểu biết chân lý song hành về Đấng Thượng Đế siêu việt. Thượng Đế trong mỗi cá nhân, và Thượng Đế trong Đức Christ. Đấng Thượng Đế ẩn trong mọi hình hài sắc tướng, và Đấng Thượng Đế mang lại sự sống cho đại vũ trụ. Thượng Đế hữu thức phú linh cho cả vũ trụ, cũng như cho con người và cho hạt nguyên tử cực vi của vật chất. Sự nhận thức này về thiên tính nơi con người vốn tiến triển từ từ và chậm chạp. Thế nhưng, vào một số thời điểm trong lịch sử và của nhân loại (cũng như trong tiểu sử của mỗi cá nhân) đã có những phút giây trọng đại. Bấy giờ, nhân loại gặp phải và vượt qua những thời kỳ khủng hoảng, để rồi mỗi cuộc điểm đạo xác định giúp (36) họ càng thêm thông hiểu. Ngày nay, nhân loại đang chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chuyển tiếp như thế, để tái tập trung tâm thức của con người vào một chiều đo cao cả hơn, và trường kinh nghiệm phong phú hơn. Nhân loại nay đang sẵn sàng bước lên một bậc cao hơn trên thang tiến hóa. Đứng trước một tình thế quá lạ thường, và một loại kinh nghiệm chưa từng có, tình trạng hoang mang xáo trộn của nhân loại hiện nay chẳng phải là điều đáng ngạc nhiên. Chúng ta đang run sợ khi sắp tiến lên một bước. Chúng ta đang sẵn sàng để nhận thêm một cuộc điểm đạo. Chúng ta đang nới rộng tầm nhìn, đi qua cánh cửa rộng mở để bước vào không gian rộng lớn hơn. Tất cả những gì đang xảy ra đều không phải là dấu hiệu của thất bại, của xáo trộn vô nghĩa và biến động mù quáng. Đúng ra, đó là tiến trình tạm thời phá hủy để tái thiết nhiều hơn. Đó chỉ là điều trong đời sống nhân loại tương ứng với những trắc nghiệm và thử thách, mà bao giờ người đệ tử cũng phải trải qua khi chuẩn bị cho cuộc điểm đạo. Thiên Chúa giáo đã chuẩn bị nhiều người trong nhân loại cho cuộc điểm đạo này. Sắp có cách lý giải mới về chân lý, và cuộc thiên khải mới sắp xảy ra. |
|
This coming revitalisation of the essential and inner nature of humanity, with the consequent reorganisation of world affairs and of human life, is already sensed and awaited by the thinkers of the race, and they constantly isolate the present opportunity. The expectancy in the race is assuming vital proportions. |
Sức sống mới đang tuôn tràn vào tâm hồn nhân loại, với hậu quả là tái tổ chức các sự vụ trên thế giới và đời sống của con người. Những nhà tư tưởng trong nhân loại đã và đang cảm nhận và chờ đợi điều này. Họ luôn nhận biết cơ hội hiện tại. Sự chờ mong trong nhân loại đang đến mức chín muồi. |
|
In the words of an ancient Mexican aphorism, “Always in the centre shall come a new Word.” Every form has its positive centre of life. Every organism is constructed around a central nucleus of power. There is a centre in our universe from which the Word went forth, bringing into being our organised solar system as we now have it, and the planet on which we live, with its myriad forms of life. |
Người Mexico thời xưa có câu châm ngôn “Ở trung tâm bao giờ cũng phát ra Linh từ mới.” Mọi hình thể đều có trung tâm sự sống tích cực. Mọi tổ chức đều được xây dựng chung quanh một hạt nhân quyền lực ở trung ương. Từ trung tâm vũ trụ của chúng ta, Linh từ phát ra, giúp sản sinh tổ chức Thái dương hệ của chúng ta hiện nay, cũng như hành tinh này, nơi chúng ta đang sống với hình thể các sinh linh. |
|
“In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God. |
“Ban đầu có Ngôi Lời (Linh từ), và Ngôi Lời ở cùng Thượng Đế, đồng thời Ngôi Lời cũng là Thượng Đế. |
|
“The same was in the beginning with God. |
“Từ khởi thủy, Ngôi này đã có cùng Thượng Đế. |
|
“All things were made by Him, and without Him was not anything made that was made. |
“Cả chúng sinh đều do Ngài tạo dựng. Nếu không có ngài thì chẳng có bất cứ điều gì được tạo nên. |
|
“In Him was life; and the life was the light of men. |
“Trong Ngài có sự sống; và sự sống ấy là ánh sáng của thế nhân. |
|
[37] |
(37) |
|
“He was in the world, and the world was made by Him, and the world knew Him not.” [xxxiii]5 |
“Ngài hiện diện trong thế gian; thế gian do Ngài tạo dựng, nhưng người đời không hề biết đến Ngài.”[5] |
|
What is thus true of the Whole is true also of the part. Each civilisation, as an expression of the human consciousness, has had its Word. Two thousand years ago a Word was for us “made Flesh,” and around that dynamic centre of spiritual life our Western world revolves. Whether we accept this fact or question it matters not, as far as the results are concerned, for as Dr. Schweitzer tells us: |
Thế nên, điều gì đúng với Toàn thể thì cũng đúng với mỗi thành phần. Mỗi nền văn minh vốn là sự biểu lộ tâm thức của con người, nên cũng có Linh từ riêng. Cách đây 2.000 năm, một Linh từ đã được trao cho chúng ta “thể hiện.” Từ đó thế giới Tây phương đã xoay quanh tâm điểm tinh thần mạnh mẽ này. Dù chúng ta có chấp nhận hay ngờ vực sự kiện thực tế này thì cũng chẳng hề chi. Vì Ts. Schweitzer đã nói về kết quả của nó như sau: |
|
“The historical foundation of Christianity, as rationalism, liberalism, and modern theology count it, exists no longer—which, however, is not to say that Christianity has therefore lost its historical foundation. The work which historical theology believed it must carry out, and which it sees falling to pieces at the very moment when completion was near, is only the terra cotta veneer of the true indestructible, historical foundation, which is independent of any historical knowledge and proof—simply because it is there, it exists. |
“Nền tảng lịch sử của Thiên Chúa giáo, theo cách nhìn của chủ thuyết duy lý, chủ thuyết tự do, và khoa thần học hiện nay, thì không còn nữa – tuy nhiên, không phải vì thế mà cho rằng Thiên Chúa giáo đã mất đi nền tảng lịch sử của mình. Công trình mà khoa thần học lịch sử tin rằng nó phải thực hiện, và nó thấy vỡ tan vào ngay giây phút sắp hoàn thành, thì chỉ là lớp vỏ mỏng manh bên ngoài bằng đất nung của cái nền móng lịch sử đích thực và bất diệt, không phụ thuộc bất cứ kiến thức hay chứng cứ nào theo lịch sử – đơn giản là nó vẫn còn đó, và vẫn tồn tại. |
|
“Jesus is something to our world because a mighty stream of spiritual influence has gone forth from Him and has penetrated our age also. This fact will be neither shaken nor confirmed by an historical knowledge.” [xxxiv]6 |
“Đức Jesus có ý nghĩa quan trọng đối với thế gian, vì một nguồn ảnh hưởng tinh thần mãnh liệt đã phát ra từ nơi Ngài cũng như đã xuyên suốt thời đại chúng ta. Sự kiện thực tế này không hề bị lay chuyển hay được khẳng định bởi bất cứ kiến thức nào ghi trong lịch sử.”[6] |
|
Always the Word has sounded out which has enabled the race to see and recognise its next step. The Christ enabled man to hear this in the past; He will enable man to do so again today. Some day, as all Masons know, these Words which have been spoken periodically will be superseded by a WORD which is known among them as the “Lost Word.” When that Word is finally spoken humanity will be enabled to climb to the final peak of human achievement. The hidden divinity will then shine forth in its glory, through the medium of the race. The height of material achievement has perhaps been reached. Now comes the opportunity for that subtle divine Self to manifest through the agency of the experience which we call the “new birth,” [38] and which Christianity has ever taught. The effect of all that is now transpiring upon earth is to bring to the surface that which is hidden within the human heart, and to unveil to our eyes the new vision. Then we can pass through the gateway of the New Age into a world which will be characterised by newer awareness, a deeper understanding of the vital realities, and a truer and higher standard of values. The Word must again sound forth from the centre—the Centre in the Heavens, and the centre in every human heart. Each individual soul must hear it for itself alone. Each of us has to pass through that experience wherein we know ourselves to be a “Word made Flesh,” and until the Bethlehem experience is a part of our individual consciousness as souls, it remains a myth. It can become a fact—the major fact in the experience of the soul. |
Bao giờ linh từ cũng phát ra để giúp nhân loại có thể thấy và nhận thức được bước kế tiếp của mình. Trước đây, Đức Christ đã giúp con người nghe được linh từ này. Ngày nay, Ngài cũng sẽ giúp mọi người thực hiện điều đó thêm lần nữa. Như tất cả các hội viên Tam Điểm đều biết, một ngày nào đó những linh từ đã được xướng lên định kỳ trước đây sẽ được thay thế bởi một ĐẠI LINH TỪ mà họ biết là “Linh từ Thất truyền.” Khi cuối cùng Linh từ ấy được xướng lên thì nhân loại sẽ có thể leo lên đỉnh cao chung cuộc cho thành tựu của mình. Qua trung gian của nhân loại, bấy giờ thiên tính ẩn tàng sẽ chói ngời ánh vinh quang. Có lẽ chúng ta đã đạt được đỉnh cao của thành tựu vật chất. Nay đã đến cơ hội để Chân ngã thiêng liêng và cao cả biểu hiện qua cái kinh nghiệm gọi là “sinh ra lần thứ hai,” (38) như được giảng dạy trong Thiên Chúa giáo. Tác dụng của tất cả những gì đang xảy ra trên địa cầu là nhằm làm nổi rõ các yếu tố tiềm ẩn trong tâm hồn con người, và hé lộ cho thấy những điều mới mẻ. Bấy giờ chúng ta có thể đi qua cửa ngỏ của Thời đại Mới, bước vào thế giới ý thức mới, thấu hiểu sâu xa hơn về những điều thực tế quan trọng, cùng với tiêu chuẩn giá trị chân thực và cao đẹp hơn. Một lần nữa, Linh từ phải phát ra từ trung tâm – tức là Trung tâm của các cõi thiêng liêng, và tâm điểm trong tâm hồn mỗi người. Mỗi linh hồn cá nhân phải tự mình nghe được linh từ đó. Mỗi chúng ta đều phải trải qua cái kinh nghiệm tự biết mình là “Linh từ Hiện thể.” Ngày nào mỗi người chưa ý thức được kinh nghiệm giáng sinh ở Bethlehem với tính cách linh hồn, thì điều đó vẫn còn là huyền thoại. Nó có thể trở thành một điều thực tế trọng đại trong kinh nghiệm của linh hồn. |
|
I cannot here enter into a definition of the word “soul.” An extract from a book by Dr. Bosanquet expresses the idea in terms which link it up with individual experience, and yet preserve the cosmic implications in their beauty. An isolated soul is an impossibility. He says: |
Ở đây tôi không thể định nghĩa từ “linh hồn.” Một trích đoạn từ quyển sách của Ts. Bosanquet nói lên ý tưởng này trong phạm vi có liên quan đến kinh nghiệm cá nhân. Thế nhưng, nó vẫn giữ được vẻ đẹp của những hàm ý cấp vũ trụ. Một linh hồn riêng biệt là điều không khả hữu. Ông nói: |
|
“The Soul—I use the term in the most general sense to mean the centre of experience which as a microcosm has acquired or is acquiring a character of its own and a relative persistence—the soul is not to be contrasted as a detached agent either with its constituent externality on the one hand or with the life of the absolute on the other. Our idea has been throughout… that the soul is a range of externality `come alive’ by centring in mind. And when we speak of the soul as a will creatively moulding circumstance, this is another expression for the microcosm, including the centre which its circumstances stand around, remoulding and reshaping itself. It is, on the other hand, a thread or fibre of the absolute life,… a stream or tide within it of varying breadth, intensity, and separateness from the great flood within which it moves.” [The italics are mine. A. A. B.] [xxxv]7 |
“Tôi dùng thuật ngữ linh hồn theo ý nghĩa tổng quát nhất để chỉ về cái trung tâm kinh nghiệm mà nhờ đó mỗi người với tư cách tiểu vũ trụ đã đạt được hay đang đạt được cá tính của mình và cuộc sống tương đối liên tục. Không nên xem linh hồn là một tác nhân riêng biệt với các ngoại thể của nó, hoặc riêng biệt với nguồn sống tuyệt đối. Ý tưởng xuyên suốt quyển sách này … cho thấy rằng linh hồnlà một loạt các biểu hiện ‘trở nên sống động’ bằng cách tập trung vào thể trí. Và khi nói rằng linh hồn là ý chí nắn đúc, sáng tạo nên hoàn cảnh, tức là nói về tiểu vũ trụ theo cách khác. Đó là cái trung tâm mà các hoàn cảnh của nó xoay quanh, để tái nắn đúc và định hình cho chính nó. Mặt khác, nó là một sợi chỉ hay sợi tơ của nguồn sống tuyệt đối, … một dòng nước hay con sóng có kích thước, cường độ và sự riêng biệt luôn thay đổi đối với đợt triều cường vĩ đại mà trong đó nó đang lưu chuyển.”[7] [Những chữ nghiêng là của tôi. A. A. B] |
|
What this soul is, when unveiled and manifested (even through the limitations of the flesh), Christ made clear to us. The partial in us is complete in Him, a fact in full expression. He has linked us to Himself through His perfected humanity; He has linked us to God through His expressed divinity. |
Vậy linh hồn là gì, khi nó biểu lộ hay biểu hiện (dù là qua những giới hạn của xác thân)? Đức Christ đã giúp chúng ta hiểu rõ. (39) Những gì còn đang phát triển một phần trong chúng ta thì đã hoàn tất trong Ngài, một thực tế đã tựu thành viên mãn. Ngài liên kết chúng ta với Ngài qua nhân tính nơi Ngài đã trở nên hoàn thiện. Ngài cũng liên kết chúng ta với Thượng Đế qua thiên tính mà Ngài biểu lộ. |
|
Two thoughts must therefore be borne in mind by all of us at this time if we are not to be submerged in the apparent world chaos and thus lose our perspective. One is that each age provides its way out. This, Christ meant when He said, “I am the way, the truth and the life.” [xxxvi]8 He knew that He synthesised in Himself the soul of the past and the spirit of the future. And what is true of Him is true also of the teaching He gave. In Christianity the past is comprised and its best religious elements are included. |
Do đó, tất cả chúng ta đều cần phải ghi nhớ hai điều, nếu không muốn bị chìm đắm trong tình trạng hỗn loạn hiển nhiên trên thế giới, và vì thế mà bị mất đi tầm nhìn chân thực. Điều thứ nhất là mỗi thời đại đều chỉ cho chúng ta thấy con đường giải thoát. Đức Christ ngụ ý điều này khi Ngài nói “Ta là đường đi, là lẽ thật và sự sống.”[8] Ngài biết rằng đã tổng hợp nơi chính mình linh hồn của quá khứ và tinh thần của tương lai. Và điều gì đúng với Ngài thì cũng đúng với giáo huấn mà Ngài đã trao truyền. Thiên Chúa giáo có bao gồm quá khứ và những yếu tố tốt đẹp nhất của tôn giáo trong thời gian trước. |
|
The soul of man stands at the gates of revelation, and he must learn that this revelation will come through himself perfected. Browning expressed this in the well-known lines: |
Linh hồn con người đang đứng trước ngưỡng cửa của những khải thị thiêng liêng. Họ phải hiểu rằng sự thiên khải chỉ đến khi chính họ đã trở nên hoàn hảo. Browning nói lên điều này bằng những dòng thơ trác tuyệt sau đây: |
|
“Thus he dwells in all |
“Thế nên Ngài ngự trong tất cả |
|
From life’s minute beginnings, up at last |
Từ thuở ban đầu của đời sống, nhỏ bé li ti |
|
To man—the consummation of this scheme |
Đến con người –sự hoàn thành hệ thống các sinh linh |
|
Of being, the completion of this sphere |
Sự hoàn tất của tinh cầu cưu mang đời sống: |
|
Of life: whose attributes had here and there |
Những thuộc tính phô bày khắp nơi, khắp chốn, |
|
Been scattered o’er the visible world before, |
Rải rác đó đây trên thế giới hữu hình, |
|
Asking to be combined, dim fragments meant |
Trước khi những mảnh đời mờ nhạt hợp thành |
|
To be united in some wondrous whole, |
Cái toàn thể diệu kỳ trong niềm vui hợp nhất. |
|
Imperfect qualities throughout creation, |
Qua cuộc sáng tạo, những phẩm tính bất toàn cho thấy |
|
Suggesting some one creature yet to make, |
Mỗi chúng sinh còn phải cố tiến lên, |
|
Some point where all those scattered rays should meet |
Cho đến khi tất cả các tia rải rác đồng qui |
|
Convergent in the faculties of man. |
Vào những tính năng con người, chúng cùng hội tụ. |
|
When all the race is perfected alike |
Khi cả nhân loại trở nên hoàn thiện |
|
As man, that is; all tended to mankind, |
Như nhân tính vẹn toàn mà tất cả hướng về |
|
And, man produced, all has its end thus far: |
Để làm người, mục đích đã gần kề: |
|
But in completed man begins anew |
Nhưng trong con người hoàn chỉnh lại bắt đầu giai đoạn mới |
|
A tendency to God. Prognostics told |
Lòng ngưỡng vọng Thiêng liêng, như những lời tiên báo |
|
Man’s near approach; so in man’s self arise |
Khi đến gần Ngài, lòng người lại phát sinh |
|
August anticipations, symbols, types |
Những dự kiến với bao biểu tượng để tôn vinh |
|
[40] |
(40) |
|
Of a dim splendour ever on before |
Nguồn vinh quang còn lờ mờ nhưng mãi gia tăng từ trước |
|
In that eternal circle life pursues. |
Trong chiếc vòng vĩnh cửu, đời sống truy tìm và tiến bước. |
|
For men begin to pass their nature’s bound, |
Người bắt đầu vượt qua giới hạn của chính mình, |
|
And find new hopes and cares which fast supplant |
Những quan tâm, hy vọng thay nhau, liên tiếp thành hình |
|
Their proper joys and griefs; they grow too great |
Bao nỗi vui, buồn giúp người mau tăng trưởng |
|
For narrow creeds of right and wrong, which fade |
Chóng tàn phai, những thị phi hẹp hòi trong tín ngưỡng |
|
Before the unmeasured thirst for good: while peace |
Trước nỗi khát khao điều thiện vô cùng |
|
Rises within them ever more and more. |
Nguồn bình an càng tăng trưởng trong lòng |
|
Such men are even now upon the earth, |
Những người ấy nay đang còn trên trái đất, |
|
Serene amid the half-formed creatures round |
Tâm an vui giữa nhữngsinh linh còn non nớt |
|
Who should be saved by them and joined with them.” |
Để hộ trì và hợp đoàn cùng các anh em.”[9] |
|
Man the human being, a soul in incarnation, is on the verge of taking that step forward which will bring about that first of the great unfoldments which we call “the new birth.” Once that has been undergone, the life of the infant Christ will increase, and the momentum set up will carry him forward along that Way which leads from one high peak of attainment to another, until he himself becomes an illumined Light-bearer, and one who can light the way for others. The illuminati have ever led the race forward; the knowers, mystics and saints have ever revealed to us the heights of racial and individual possibility. |
Con người, một linh hồn nhập thế, đang tiến lên để được sự khai mở trọng đại đầu tiên, gọi là “sinh ra lần thứ hai.” Khi điều này xảy ra, sự sống của trẻ thơ Christ tăng trưởng. Bấy giờ động năng tích lũy sẽ giúp y tiến bước trên Đường Đạo, liên tiếp qua những đỉnh cao thành đạt, cho đến khi chính y trở thành Người mang Ánh sáng khai ngộ, có thể soi sáng đường đi cho kẻ khác. Bậc giác ngộ bao giờ cũng giúp mọi người tiến tới. Các thức giả, thần bí gia và thánh nhân bao giờ cũng tiết lộ cho chúng ta biết những trình độ cao siêu mà nhân loại và mỗi cá nhân đều có thể thành đạt. |
|
The Way from the Birth at Bethlehem to the Crucifixion Mount is a hard and a difficult one, but it is trodden with joy by the Christ and by those whose consciousness has been attuned to His. The joy of physical life is changed into the joy of understanding, and new values, new desires and a new love replace the old. |
Con Đường đi từ khi Giáng sinh ở Bethlehem đến Ngọn núi Thập giá hình vốn khó khăn, gian khổ. Nhưng trên đó Đức Christ và những người đã hòa hợp tâm thức với Ngài lại tiến bước với lòng hoan hỉ. Niềm vui của đời sống hồng trần trở thành sự hân hoan trong thông hiểu, những giá trị mới, ước vọng mới, và nguồn yêu thương mới, thay cho những gì cũ kỹ. |
|
The Birth at Bethlehem marked the beginning of the long way of tragedy of the Saviour. It made Him “a man of sorrows, and acquainted with grief.” [xxxviii]10 It was the beginning of the end, and marked His initiation into higher states of consciousness. This is apparent in the Gospel story. |
Sự Giáng sinh của Ngài ở Bethlehem là điểm bắt đầu con đường dài đầy bi kịch của Đấng cứu thế. Từ đó, Ngài trở thành “con người đau khổ, thường nặng mang nỗi ưu sầu.”[10] Nó là bước đầu dẫn đến kết cục bi thảm, giúp Ngài được điểm đạo để đi vào những trạng thái tâm thức cao siêu hơn. Điều này đã được câu chuyện Phúc âm ghi rõ. |
|
[41] |
(41) |
|
2 |
2 |
|
Before we take up a definite consideration of these great initiations, it might be of value to touch upon one or two points in connection with the subject as a whole. So much peculiar and unsound teaching on the matter is being given out at this time, and so wide is the general interest, that a measure of clear thinking is badly needed, and attention should be called to certain factors which are frequently overlooked. It might be asked at this point, “Who is the initiator? Who is eligible to stand before Him and to pass through an initiation?” |
Trước khi xem xét kỹ hơn về các cuộc điểm đạo chính yếu này, chúng ta nên bàn đôi điều liên quan đến toàn cả vấn đề. Hiện nay người ta đưa ra quá nhiều giáo huấn kỳ quặc và không lành mạnh về vấn đề này. Nó được sự quan tâm chung và rộng rãi đến đỗi hết sức cần giúp mọi người hiểu rõ, đồng thời họ cần chú ý đến một số yếu tố thường bị bỏ qua. Đến đây tưởng cũng nên đưa ra vài câu hỏi, “Đấng Điểm đạo là ai? Người nào có đủ tư cách đứng trước Ngài để nhận cuộc điểm đạo?” |
|
It cannot be too clearly emphasised that the first initiator with whom a man has to deal is, ever and always, his own soul. Many esoteric schools and teachers direct their teaching and their aspirants towards some great Master Who is supposed to prepare them for this step, and without Whom no progress is possible. They forget that it is not possible for such a Master even to contact a man in this relationship until he has made a clear and definite contact with his own soul. It is on the level of awareness which is that of the soul itself that those who can help are to be found, and until we have, as individuals, penetrated into that state, it is not possible for us to be brought into intelligent touch with those who normally function there. Initiation relates to consciousness and is merely a word which we use to express the transition which man can make out of the consciousness of the fourth or human kingdom, into the fifth or spiritual kingdom, the kingdom of God. Christ came to reveal the way into that kingdom. |
Có thể hoàn toàn nêu rõ rằng đấng điểm đạo đầu tiên, mà luôn luôn và bao giờ hành giả cũng cần phải tiếp xúc, là linh hồn của chính y. Nhiều trường và huấn sư nội môn cho rằng giáo huấn của họ là từ một vị Chân sư cao cả, và khuyên môn sinh của họ hướng đến Ngài. Họ cũng bảo rằng chính Ngài chuẩn bị các môn sinh cho bước tiến này, mà nếu không có Ngài thì người môn sinh không thể nào tiến bộ. Họ quên rằng thậm chí một vị Chân sư như thế cũng không thể tiếp xúc với hành giả trong mối quan hệ nói trên, nếu y chưa giao tiếp được với linh hồn của chính mình một cách rõ ràng, xác định. Chính trên cấp ý thức này, tức là cấp ý thức của linh hồn, người ta mới có thể tìm thấy những vị phù trợ. Thế nên, mỗi cá nhân đều phải đi vào trạng thái vừa kể, thì mới có thể giao tiếp một cách thông minh với những vị đang hoạt động ở đó một cách bình thường. Điểm đạo liên quan đến tâm thức, và chỉ là từ được dùng để nói lên sự chuyển tiếp mà hành giả có thể thực hiện để ra khỏi ý thức của giới thứ tư hay nhân loại và bước vào giới thứ năm tức là giới tinh thần hay Thiên giới. Đức Christ đã đến để chỉ con đường đi vào giới tiến hóa này. |
|
This initiating soul, as we have already seen, is called by many names in the New Testament, and in the other religions it is called by a terminology suited to the time and temperament of the aspirant. Where the Christian disciple speaks of “Christ in you, the hope of glory,” [xxxix]11 the Oriental disciple may speak of the Self or the Atman. The modern [42] schools of thought speak of the ego, or the higher self, the real man, or the spiritual entity, whilst in the Old Testament reference is made to the “Angel of the Presence.” A long list of these synonyms could be compiled, but for our purpose we shall confine ourselves to the word “soul” because of its wide use in the West. |
Như chúng ta đã thấy, linh hồn khai sáng này có nhiều tên gọi trong Kinh Tân ước. Trong các tôn giáo khác, nó được gọi theo những thuật ngữ thích hợp với từng thời kỳ và tùy theo tâm tính của người tìm đạo. Khi người đệ tử thuộc Thiên Chúa giáo đề cập đến “Đấng Christ trong bạn, nguồn hy vọng vinh quang,”[11] thì người đệ tử ở Đông phương có thể gọi đó là Chân ngã hay Atman. Các trường phái (42) tư tưởng hiện nay thì nói về chân nhân hay cái ta cao siêu, con người thật hay sự sống tinh thần. Trong khi đó, Kinh Cựu ước lại gọi linh hồn là “Thiên thần của Chân như.” Có thể liệt kê một danh sách dài các từ đồng nghĩa vừa kể. Nhưng theo mục đích của sách này chúng ta chọn từ “linh hồn” vì nó được dùng rộng rãi ở Tây phương. |
|
The immortal soul in man prepares him for the first initiation, for it is this soul which manifests upon earth as the “infant Christ” and appears in man. This is the new birth. That which has been slowly gestating in man comes at last to birth, and the Christ, or soul, is born consciously. Always the germ of the living Christ has been present, though hidden, in every human being. But in due time and season the infant soul makes its appearance, and the first of the five initiations is made possible. The work proceeds, and the Christ-life unfolds and develops in the man until the second and third initiations take place. At that time, as many believe, we are initiated through the instrumentality of the Christ, and in full waking consciousness the initiate stands in His Presence and sees Him face to face. Browning expresses this truth in the great poem Saul when he says: |
Linh hồn bất tử trong mỗi người chuẩn bị cho y được điểm đạo lần thứ nhất, bởi vì chính linh hồn này biểu hiện với tư cách trẻ thơ Christ và xuất hiện trong người ấy ở thế gian. Đây là sự sinh ra lần thứ hai. Những gì đã và đang dần dần thai nghén trong hành giả thì rốt cuộc được sinh ra. Bấy giờ, Đấng Christ, hay linh hồn, ra đời một cách tỉnh thức. Trong mỗi người bao giờ cũng sẵn có hạt giống Christ hằng sống, dù còn tiềm ẩn. Nhưng đúng lúc, đúng mùa tiết, trẻ thơ linh hồn xuất hiện, giúp hành giả được điểm đạo lần đầu trong năm cuộc điểm đạo. Khi y liên tục cố gắng, sự sống Christ khai mở và phát triển trong tâm cho đến khi cuộc điểm đạo lần thứ hai và thứ ba xảy ra. Nhiều người tin rằng bấy giờ hành giả được điểm đạo qua trung gian của Đức Christ. Trong ý thức hoàn toàn tỉnh táo, người điểm đạo đồ đứng trước Ngài và được diện kiến Ngài trực tiếp. Browning nói lên sự thực này trong bài thơ Saul rất hay của ông: |
|
“Oh, Saul, it shall be |
“Hỡi Saul, đó sẽ là |
|
A Face like my face that receives thee; a Man like to me |
Một Khuôn mặt giống gương mặt của tôi chào đón bạn; một Người giống tôi |
|
Thou shalt love and be loved by, for ever: A Hand like this hand |
Mà bạn sẽ yêu thương và được yêu thương mãi mãi: Một bàn tay giống bàn tay này |
|
Shall throw open the gates of new life to thee! |
Sẽ mở cửa cho bạn đi vào đời sống mới! |
|
See the Christ stand!” |
Trông kìa Đức Christ đang chờ!” |
|
After the third initiation, the Transfiguration, when the personality has been subordinated to the soul, or the indwelling Christ, and the glory of the Lord can shine forth through the medium of the flesh, we are faced with the supreme achievement of the Crucifixion and the Resurrection. Then, we are told, that mysterious Being, spoken of in the Old Testament as Melchizedek, and as the Ancient of Days, will play His part and initiate us into the still higher mysteries. Of Him we are told that: |
Sau lần điểm đạo thứ ba, tức là Sự Biến dung, phàm nhân đã phục tùng linh hồn hay là Đấng Christ ngự ở nội tâm, và nguồn vinh quang của Chúa chói rạng qua thể xác. Bấy giờ hành giả đạt mức thành tựu cao cả của Thập giá hình và Sự phục sinh. Chúng ta cũng được biết rằng bấy giờ Đấng huyền nhiệm, với danh hiệu là Melchizedek, hay là Đấng Thái cổ trong Kinh Cựu ước, sẽ thi hành phận sự của Ngài và giúp chúng ta đi vào các bí nhiệm còn cao siêu hơn nữa. Trong đó có đoạn nói về Ngài như sau: |
|
“This Melchizedek, King of Salem, Priest of the Most High God [43] … was, in the first place, as His Name means, King of Righteousness, and besides that, King of Salem (that is King of Peace). Being without father or mother or ancestry, having neither beginning of days nor end of life… He remains a priest in perpetuity.” [xl]12 |
Đấng này có danh hiệu là Melchizedek, Vua Salem, vị tăng sĩ của Thượng Đế Tối cao (43) … Trước hết Thánh danh của Ngài có nghĩa là Vị Vua Công chánh, đồng thời cũng là Vị Vua Hòa bình. Vì vốn là Đấng tự hữu, vô thủy, vô chung … nên Ngài mãi mãi vẫn là vị tăng sĩ qua mọi thời đại.”[12] |
|
He is the One Who receives the initiate and superintends the higher transitions of consciousness which are the reward of the tests triumphantly undergone. He is the One Whose “star shines forth” when the initiate enters into light. |
Ngài là Đấng tiếp nhận người điểm đạo đồ, và giám sát những kỳ chuyển tiếp nâng cao tâm thức, vốn là phần thưởng khi y vượt qua các thử thách một cách thành công. Ngài là Đấng có “ngôi sao bừng chiếu” khi người điểm đạo đồ đi vào ánh sáng. |
|
There are therefore three initiators: first, a man’s own soul, then the Christ of history, and finally the Ancient of Days, the one in Whom “we live, and move, and have our Being.” [xli]13 These ideas are interesting when we realise that out of the five initiations there are three which seem, and naturally so, to be of supreme importance. In the life of Christ there are episodes which represent great points of attainment, all climaxing cycles and initiating new ones. These are the first initiation, the Birth; the third initiation, the Transfiguration; and the fifth, the Resurrection. There is in nature some mysterious value which is connected with the first, the third, and the fifth—the beginning, the middle point and the climaxing consummation. As has been pointed out, “it is the intervals, not only between the base note, the major third and the perfect fifth, or those which distinguish the quaver from the semi-quaver, which enable us to build up a symphony or song.” Between these high points, in the intervals of which the details are given us in the Gospel story, the work is carried on which makes the later achievements possible. We are primarily considering in this book the technique of the entrance into the kingdom of God. That kingdom exists, and birth into it is as inescapable as birth into the human family. The process is a sequential proceeding from gestation until, in “the fullness of time,” the Christ Child is born; the soul begins to manifest on earth, and the life of the disciple and initiate begins. He passes from stage[44] to stage until he has mastered all the laws of the spiritual kingdom. Through birth, service and sacrifice the initiate becomes a citizen of that kingdom, and this is as much a natural process connected with his inner life as are the physical processes in their connection with his outer life as a human being. These two go on together, but the inner reality eventually comes into manifestation through the sacrifice of the human to the divine. |
Vì thế, có ba đấng điểm đạo: trước hết là linh hồn của chính hành giả, rồi đến Đức Christ như đã ghi trong lịch sử, và cuối cùng là Đấng Thái cổ – mà “chúng ta sống, di chuyển, và hiện tồn trong Ngài.”[13] Những ý tưởng này thật thú vị khi chúng ta hiểu rằng trong năm cuộc điểm đạo thì có ba cuộc điểm đạo dường như, và đương nhiên, là hết sức quan trọng. Trong cuộc đời của Đức Christ có những thời gian tượng trưng cho các cao điểm thành đạt, tất cả đều đánh dấu mức thành tựu của các chu kỳ và mở ra những chu kỳ mới. Đó là cuộc điểm đạo thứ nhất, Sự Giáng sinh; cuộc điểm đạo thứ ba, Sự Biến dung; và cuộc điểm đạo thứ năm, Sự Phục sinh. Trong thiên nhiên có một số giá trị bí nhiệm liên quan đến cuộc điểm đạo thứ nhất, thứ ba, và thứ năm – là điểm khởi đầu, điểm giữa, và sự hoàn thành viên mãn. Như chúng ta biết “chính những quãng, không những giữa nốt cơ bản, nốt chánh thứ ba, và nốt hoàn hảo thứ năm, mà còn có các quãng phân biệt những nốt móc đơn và móc kép, chúng giúp tạo nên bản giao hưởng hay bản nhạc.” Giữa những cao điểm đó, vào các thời khoảng được nêu chi tiết trong câu chuyện Phúc âm, công việc được tiến hành để mang lại những thành tựu về sau. Sách này chủ yếu xem xét phương cách để chúng ta có thể gia nhập vào Thiên giới. Giới tiến hóa này vẫn luôn hiện hữu, và việc chúng ta sinh ra trong giới này cũng đương nhiên như việc sinh ra trong gia đình nhân loại vậy. Đây là diễn tiến có trình tự, từ khi thai nghén cho đến khi “trọn ngày, trọn tháng,” và trẻ thơ Christ được sinh ra. Linh hồn bắt đầu biểu hiện ở thế gian, và hành giả bắt đầu sống cuộc đời của người đệ tử và điểm đạo đồ. Y đi từ giai đoạn này (44) sang giai đoạn khác cho đến khi thấu đáo các định luật của giới tinh thần. Người điểm đạo đồ trở thành công dân của vương quốc này nhờ được sinh ra lần thứ hai, phụng sự và hy sinh. Đây là tiến trình tự nhiên trong đời sống nội tâm của y, giống như tiến trình thể chất khi y sống với tư cách con người ở ngoại giới. Hai phương diện này cùng song hành với nhau, nhưng rốt cuộc sự sống nội tại biểu hiện, khi phàm nhân hy sinh cho chân ngã thiêng liêng. |
|
The initiate is not simply a good man. The world is full of good men who are probably a long way from being initiates. Neither is the initiate a well-meaning devotee. He is a man who has added a sound intellectual understanding to the basic qualifications of a sound moral character and devotion. Through discipline he has coordinated his lower nature, the personality, so that it is a “vessel meet for the master’s use,” [xlii]14 that master being his own soul. He knows that he walks in a world of illusion, but is training himself whilst doing this to walk in the light of the soul, realising that in service to his fellowmen and in forgetfulness of self he prepares himself to stand before the portal of Initiation. Upon that path he meets those who, like himself, are learning to be citizens of the kingdom. |
Điểm đạo đồ không chỉ đơn thuần là một người lương hảo. Trên thế gian có rất nhiều người lương hảo, nhưng có thể họ còn phải cố gắng nhiều trước khi trở thành điểm đạo đồ. Điểm đạo đồ cũng không phải là người sùng đạo với nhiều hảo ý. Đó là người đã có những phẩm tính cơ bản về đạo đức và lòng sùng đạo tốt đẹp, đồng thời còn có thêm sự thông hiểu trí tuệ uyên thâm. Qua việc nghiêm trì giới luật, y đã phối kết phàm tính, hay phàm ngã của mình, để nó trở thành một “chiếc thuyền thích hợp cho chủ nhân sử dụng,”[14] Chủ nhân ở đây là linh hồn của chính y. Biết rằng mình đang đi trong thế giới ảo tưởng, nhưng y vẫn tự rèn luyện để tiến bước trong ánh sáng của linh hồn. Đồng thời y nhận thức rằng khi phụng sự đồng bào của mình trong tinh thần vô kỷ tức là y dọn mình để đứng trước cánh cửa điểm đạo. Trên con đường đó, y gặp gỡ những người giống như mình, đang học cách làm công dân của Thiên giới. |
|
This has been the knowledge and the message of all true Christians down the centuries, and their united testimony bears witness to the reality of the kingdom, to the fact that those who seek it truly can find it, and that those who make enquiry as to its existence shall not be disappointed. The way into the kingdom is found by questioning and answering, by seeking and finding, and by the obedience to that inner voice which can be heard when all other voices are stilled. |
Trên đây là những điều hiểu biết và bức thông điệp của tất cả các tín đồ Thiên Chúa giáo chân thành qua nhiều thế kỷ. Họ cùng nhau làm chứng rằng Thiên giới vốn có thật. Người nào thành tâm tìm kiếm Thiên giới đều có thể tìm thấy nó. Những ai cố gắng tìm biết sự hiện hữu của nó đều sẽ không bị thất vọng. Hành giả tìm thấy đường vào Thiên giới bằng cách đặt câu hỏi và tìm lời giải đáp, truy tìm và phát hiện, và bằng cách tuân theo tiếng nói nội tâm mà y có thể nghe thấy khi tất cả những tiếng nói khác đã im lặng. |
|
When that voice is heard we come to a consciousness of the possibilities ahead and take the initial step towards that first initiation which leads to Bethlehem, there to find and meet with Christ. Within ourselves we find God. In the cave of the heart the divine life can be felt throbbing. Man discovers himself to be one of a vast number who have undergone the [45] same experience, and through the process of initiation he gives birth to the Christ. The “infant life,” newborn into the kingdom of God, starts on the struggle and the experience which will lead him step by step from one initiation to another till he too has attained. Then he also becomes a teacher and an expression of divinity, and follows in the footsteps of the Saviour, serving the race, sounding the needed note, and helping others to reach the point he has reached. The path of service and cooperation with the divine will become the purpose of his life. |
Khi nghe được tiếng nói nội tâm, hành giả ý thức những điều có thể xảy ra trong thời gian tới. Y dấn bước đầu tiên hướng về cuộc điểm đạo thứ nhất dẫn đến Bethlehem, là nơi y tìm thấy và diện kiến Đức Christ. Chúng ta tìm thấy Thượng Đế bên trong chính mình. Ở nơi sâu thẳm của tâm hồn, sự sống thiêng liêng đang reo vui, rộn rã. Hành giả thấy mình ở trong số đông đảo những người đã trải qua (45) cùng kinh nghiệm, và qua tiến trình điểm đạo y tạo điều kiện cho sự sống Christ sinh ra. “Sự sống trẻ thơ” mới sinh ra trong Thiên giới, bắt đầu phấn đấu và trải nghiệm, từng bước đi từ cuộc điểm đạo này đến cuộc điểm đạo khác, cho đến khi chính y cũng thành đạt. Rồi y cũng trở thành huấn sư, và có khả năng biểu lộ thiên tính. Y đi theo bước chân của Đấng Cứu thế, phụng sự nhân loại, xướng lên chủ âm cần thiết, và giúp những người khác đạt đến trình độ mà y đã đạt. Mục đích của đời y là phụng sự và hợp tác với ý chí thiêng liêng. |
|
Not all initiates can reach the altitude which Christ reached. His was a unique and cosmic mission. But experience of each stage of illumination, as portrayed in the Gospel story, is possible to the disciples of the world. Therefore, in summing up these ideas concerning the new birth into the kingdom, which at this time faces so many, it must be borne in mind that: |
Không phải mọi điểm đạo đồ đều có thể đạt đến trình độ cao siêu mà Đức Christ đã đạt. Sứ mệnh của Ngài thật là độc đáo và có tính cách thuộc về vũ trụ. Nhưng những người đệ tử trên thế gian đều có thể trải nghiệm mỗi giai đoạn khai ngộ như đã mô tả trong câu chuyện Phúc âm. Vì thế, khi tóm lược các ý tưởng liên quan đến việc sinh ra lần thứ hai vào trong Thiên giới, mà hiện nay đang đến với rất nhiều người, chúng ta cần phải lưu ý rằng: |
|
“At the first great Initiation the Christ is born in the disciple. It is then that he realizes for the first timein himself the outpouring of the divine Love, and experiences that marvellous change which makes him feel himself to be one with all that lives. This is the `Second Birth,’ and at that birth the heavenly ones rejoice, for he is born into `the kingdom of heaven,’ as one of the `little ones,’ as a `little child’—the names ever given to the new Initiates. Such is the meaning of the words of Jesus, that a man must become a little child to enter into the Kingdom.” [xliii] 15 |
“Vào cuộc Điểm đạo chính yếu lần thứ nhất, sự sống Christ sinh ra trong tâm người đệ tử. Bấy giờ lần đầu tiên y nhận thức được sự phóng rải nguồn Bác ái thiêng liêng nơi chính mình. Y cũng trải qua sự thay đổi kỳ diệu khiến y cảm thấy mình là một với cả chúng sinh. Đây là sự ‘Sinh ra lần Thứ hai,’ là dịp khiến cho những người trong cõi thiêng liêng đều hoan hỉ, vì y được sinh vào ‘thiên giới,’ như một người ‘em nhỏ,’ như một ‘trẻ thơ.’ – tên gọi này bao giờ cũng được dùng cho các tân Điểm đạo đồ. Đó là ý nghĩa những lời của Đức Jesus, khi Ngài nói rằng mỗi người phải trở thành trẻ thơ mới có thể đi vào Thiên giới.”[15] |
|
The same writer points out in another place that: |
Ở một chỗ khác, tác giả nói thêm: |
|
“The `second birth’ is another well-recognised term for Initiation; even now in India the higher castes are called `twice-born,’ and the ceremony that makes them twice-born is a ceremony of Initiation—mere husk truly, in these modern days, but the `pattern of things in the heavens.’ [xliv]16 When Jesus is speaking to Nicodemus he states that `Except a man be born again, he cannot see the kingdom of God,’ and this birth is spoken of as that `of water and the Spirit,’ [xlv]17 this is the first Initiation; a later one is that `of the Holy [46] Ghost and fire, [xlvi]18 the baptism of the Initiate in his manhood, as the first is that of birth, which welcomes him as the `Little Child’ entering the kingdom. [xlvii]19 How thoroughly this imagery was familiar among the mystics of the Jews is shown by the surprise evinced by Jesus when Nicodemus stumbled over His mystic phraseology: `Art thou a master of Israel, and knowest not these things?’“ [xlviii] 20 |
“‘Sinh ra lần thứ hai’ là một thuật ngữ khác được công nhận rộng rãi để chỉ về Điểm đạo. Thậm chí ngày nay những người thuộc giai cấp cao ở Ấn Độ cũng được gọi là ‘người được sinh hai lần,’ và cuộc lễ công nhận họ sinh ra lần thứ hai là một cuộc lễ Điểm đạo – thực ra, hiện nay đây chỉ là hình thức bên ngoài vô giá trị, nhưng nó vẫn theo ‘mô hình của các sự việc trong cõi thiêng liêng.’[16] Khi Đức Jesus nói với Nicodemus, Ngài bảo rằng ‘Ai không được sinh ra lần thứ hai thì không thể thấy Thiên giới.’ Lần sinh này được gọi là sinh ra ‘từ nước và Thánh linh,’[17] tức là cuộc Điểm đạo thứ nhất. Về sau còn có cuộc điểm đạo của ‘Chúa (46) Thánh Thần và lửa,’[18] tức là lễ thanh tẩy cho vị Điểm đạo đồ trong giai đoạn trưởng thành – giống như qua cuộc điểm đạo thứ nhất của kỳ giáng sinh, y được tiếp nhận vào Thiên giới với tính cách ‘Trẻ Thơ.’[19] Hình tượng này vốn rất quen thuộc với các nhà thần bí Do Thái đến đỗi Đức Jesus lấy làm ngạc nhiên khi thấy Nicodemus có vẻ không hiểu câu nói thần bí kể trên của Ngài: ‘Ông chẳng phải là một giáo sư của Israel hay sao, mà không biết những điều đó?’ ”[20] |
|
Facing these possible heights of attainment stand the disciples of the world at this time. Here also stands the weary world disciple, humanity as a whole, worn and distraught, bewildered and restless, yet conscious of divine potentialities and great dreams, visions and ideals which evoke a hope and a refusal to be defeated and are the guarantee of eventual success. The voice of all the world Saviours and the example of the Christ indicate to humanity the Way that must be trodden. This leads away from the superficial and the material, from the world of unreality to the world of reality. “Man has had enough of a life cut off from its religious centre, and a quest for a new religious balance, a spiritual deepening will begin; in no order of his activity can he carry on any longer merely on the surface, a purely external life.” [xlix]21 Deep calls unto deep, and from out the darkness of those depths, and through pain and suffering, the Christ child will emerge, and humanity as a whole will stand ready to make the great transition into the kingdom of God. Man can now pass on into the kingdom and commence making spiritual history. Up to the present, history has been preparatory. The race is only today, for the first time ready to take the great step on to the path of discipleship and of purification which precedes the path of initiation. Individuals have ever emerged out of the rank and file and lifted themselves to the pinnacles of attainment, and so climbed the mountain of initiation. But today this becomes possible for the many. The voice of those who have achieved, the clarion call of those who are [47] initiate in the mysteries of the kingdom of God, make the new step possible. The moment is unique and urgent. The call is to the individual but also, for the first time in history, it is sounded in the ears of the crowd, because the crowd is ready to respond. |
Hiện nay, những người đệ tử trên thế giới đang đứng trước những đỉnh cao thành đạt mà họ có khả năng vươn đến. Đây cũng là tình trạng của người đệ tử thế gian, tức là toàn nhân loại, đang mệt mỏi, rã rời, băn khoăn, bối rối và bất ổn. Nhưng nhân loại vẫn ý thức được những tiềm năng thiêng liêng, những ước mơ, viễn ảnh và lý tưởng cao đẹp.Tất cả mang lại nguồn hy vọng, khiến họ nhất quyết không lùi bước, và bảo đảm rằng rốt cuộc họ sẽ thành công. Tiếng nói của tất cả những Vị cứu thế và gương sáng của Đức Christ giúp nhân loại thấy rõ Con Đường họ phải bước lên. Nhờ đó họ rời xa lối sống hời hợt và ham mê vật chất, rời xa những gì giả trá để đi vào thế giới thực tại. “Con người đã chán ngấy cuộc sống tách biệt với trung tâm tôn giáo của mình, và họ sẽ bắt đầu tìm kiếm sự thăng bằng mới về tôn giáo và những tầm mức tinh thần sâu xa hơn. Không cấp độ hoạt động nào của họ còn có thể tiếp tục một cách nông cạn, trong cuộc sống chỉ thuần ở bề ngoài.”[21] Những gì sâu xa gợi lên sự ứng đáp sâu xa. Từ sự tối tăm của những nơi sâu thẳm, qua đau thương và thống khổ, trẻ thơ Christ chào đời. Toàn nhân loại sẽ sẵn sàng trải qua cuộc chuyển tiếp vĩ đại để đi vào Thiên giới. Nay con người có thể bước vào giới tiến hóa này, và bắt đầu viết nên trang sử tinh thần. Mãi cho đến nay, lịch sử vẫn chỉ có tính cách chuẩn bị, mở đầu. Chỉ đến ngày nay, lần đầu tiên nhân loại mới sẵn sàng tiến một bước dài trên con đường đệ tử và thanh luyện, trước khi đi vào con đường điểm đạo. Đã từng có những cá nhân ra khỏi cuộc đời thường, vượt lên những đỉnh cao thành đạt, đến đỉnh núi điểm đạo. Nhưng ngày nay, nhiều người có thể thực hiện điều này. Tiếng nói của những người đã thành đạt, và lời kêu gọi giục giã của các (47) điểm đạo đồ đã thấu hiểu những bí nhiệm của Thiên giới, giúp mọi người có thể tiến thêm bước mới. Đây là thời gian thật độc đáo và khẩn thiết. Lời kêu gọi này dành cho cá nhân, nhưng lần đầu tiên trong lịch sử nó cũng vang lên cho đại chúng, vì họ đang sẵn sàng đáp ứng. |
|
Such is the situation now. The voices of these individuals who have entered into the kingdom call to the multitude today in no uncertain terms, and the issue is sure, though to some the initiating of humanity may seem a slow process. Old truths enunciated by the world Teachers and Saviours are in process of re-interpretation, to meet the ancient needs in new terms and in a more vital way. Those Leaders who mould the spirits of men are holding the doors wide open, and through them mankind will be obliged to pass, rapidly if it will listen, but inevitably, whether it now hears or no. |
Tình hình hiện nay là như vậy. Những cá nhân đã bước vào Thiên giới giờ đây lên tiếng kêu gọi đại chúng với những lời lẽ rõ ràng, xác định. Vấn đề này thật là chắc chắn, dù một số người còn cho rằng việc điểm đạo của nhân loại dường như là một tiến trình chậm chạp. Những chân lý mà ngày xưa các vị Chưởng giáo Thế gian và các vị Cứu thế đã truyền đạt, nay đang được diễn giải theo lối khác, để đáp ứng các nhu cầu cổ xưa bằng những thuật ngữ mới, một cách sống động hơn. Những Nhà lãnh đạo có nhiệm vụ nắn đúc tinh thần con người, đang giữ cho những cánh cửa này mở rộng. Mọi người sẽ phải đi qua đó một cách nhanh chóng, nếu họ biết lắng nghe. Tất nhiên là họ sẽ đi qua, dù hiện nay họ có thể nghe thấy hay không. |
|
Our theme therefore gradually emerges in our consciousness. We can see that it must be approached from two major angles. We shall study these five initiations of Jesus from the angle, first of all, of the individual aspirant, so that it may become apparent that, as children of God, we can all participate in what the Christ went through. One of the interesting things which appear as we study the life of Christ and note how the divine Plan for that life was progressively registered in His consciousness, is that at first He only dimly sensed what He had to do. The ideas developed as He grew older. After the first initiation, the Birth at Bethlehem, His words to His mother were, “Wist ye not that I must be about my Father’s business?” [l]22 He knew that He was ordained to work and to serve, but the specifications of that work were only later made clear to His mind. He simply recognised a Plan, and to that Plan He dedicated Himself. This must also be done by those who follow in His steps. |
Thế là chủ đề của chúng ta đã trở nên rõ ràng. Nó sẽ được bàn thảo từ hai phương diện chính. Trước hết, chúng ta nghiên cứu năm cuộc điểm đạo của Đức Jesus từ phương diện cá nhân người chí nguyện. Nó cho thấy rõ rằng, với tư cách là con của Thượng Đế, tất cả chúng ta đều có thể tham dự những gì mà Đức Christ đã trải qua. Khi nghiên cứu cuộc đời của Đức Christ, chúng ta thấy một trong những điều thú vị là Kế hoạch thiêng liêng cho cuộc đời của Ngài đã ngày càng được Ngài ý thức rõ ràng hơn, trong khi lúc đầu Ngài chỉ lờ mờ cảm thấy những việc phải làm. Những ý tưởng đó phát triển dần khi Ngài trưởng thành hơn. Sau cuộc điểm đạo thứ nhất, tức là sự Giáng sinh ở Bethlehem, Ngài đã nói với thân mẫu của mình “Mẹ không biết rằng con phải lo công việc cho Cha của con hay sao?”[22] Ngài biết nhiệm vụ tiền định của mình là phải làm việc và phụng sự. Thế nhưng, chỉ về sau Ngài mới hiểu rõ trong trí các qui cách của công việc đó như thế nào. Ngài chỉ nhận thức được Thiên cơ và hiến mình cho Thiên cơ. Những ai đi theo bước chân Ngài cũng phải làm như thế. |
|
The second initiation, that of the Baptism, then took place. Christ had achieved manhood, and this attainment was followed immediately by a definite and conscious rejection of evil. Recognition of work to be done must be succeeded [48] by the purification of the one who must thus work, and a demonstration must be given of that purification and freedom from evil. This, Christ gave in the victory of the three temptations. Then, only after this evidenced preparation, do we read that He proceeded to teach. [li]23 |
Sau đó, xảy ra cuộc điểm đạo thứ hai, tức là Lễ Rửa tội. Đức Christ đã đến giai đoạn trưởng thành, ngay sau khi Ngài hữu ý và dứt khoát bác bỏ những điều tà vạy. Khi nhận thức được công việc cần phải làm, hành giả phải tự (48) tinh luyện, và chứng tỏ rằng mình đã được tinh luyện và không còn sai phạm. Đức Christ đã chứng tỏ điều này khi Ngài chiến thắng ba lần cám dỗ. Kinh sách còn ghi rằng sau khi đã tỏ ra chuẩn bị sẵn sàng, Ngài mới bắt đầu giảng dạy.[23] |
|
Recognition and preparation for participation in the divine Plan was next followed by dedication to that Plan. After the Transfiguration He entered into a full realisation of what lay ahead for Him, and He defined it clearly to His disciples, saying: |
Đã nhận thức và dọn mình để tham dự vào Thiên cơ, bước kế tiếp là Ngài hiến mình phụng sự Thiên cơ. Sau sự Biến dung, Ngài nhận thức đầy đủ về những điều sắp đến với Ngài và nói rõ cho các đệ tử biết: |
|
“… the Son of man must suffer many things, and be rejected of the elders and chief priests and scribes, and be slain, and be raised the third day…. If any man will come after me, let him deny himself, and take up his cross daily, and follow me.” [lii] 24 |
“. . . Con người phải chịu nhiều điều đau khổ, bị các trưởng lão, các thầy chủ tế, và các học giả chối bỏ, rồi bị giết, và ba ngày sau sống lại . . . Nếu ai đi theo ta, thì hãy từ bỏ chính mình, vác thập tự giá của mình mỗi ngày, và bước theo ta.”[24] |
|
Then we read later in the same chapter that “He steadfastly set His face to go” up to the place of suffering and of sacrifice. |
Rồi ở phần sau của chương này có viết “Ngài chăm chú đi” đến nơi mà Ngài sẽ chịu đau khổ và hy sinh. |
|
Finally came the realisation that He had accomplished what He had set out to do. He had fulfilled the Plan; the Father’s business had been done and the “many things” undergone. We read that even on the Cross the Plan still engrossed His attention, and with His final “It is finished,” [liii]25 He passed through the gates of death to a joyful resurrection. |
Cuối cùng, Ngài hiểu mình đã hoàn tất những gì mà trước đó Ngài đã bắt đầu. Ngài đã hoàn thành Kế hoạch thiêng liêng, đã làm xong công việc của Đấng Cha Lành, và đã trải qua “nhiều điều đau khổ.” Sách có ghi rằng thậm chí trong khi bị đóng đinh trên Thánh giá, Ngài vẫn chuyên chú vào Thiên cơ. Cuối cùng Ngài kêu lên “Mọi sự đã hoàn tất,”[25] và bước qua cửa tử để đến sự phục sinh đầy hân hoan. |
|
The gradual revelation of the Plan and its service always accompanies the initiation process; the individual learns to subordinate his life to the Will of the Father, and to become—as Christ became—the servant of that Will. The initiation process itself is only a part of the general Plan for the race, and the paths of discipleship and of initiation are but the final stages of the Path of Evolution. The earlier steps on the Path are concerned with human living and experiencing, but the final stages, after the new birth, are concerned with spiritual unfoldment. |
Sự hiển lộ dần dần của Thiên cơ và việc phụng sự Thiên cơ luôn luôn kèm theo tiến trình điểm đạo. Hành giả học cách đem cuộc đời mình phục vụ cho Ý chí của Đấng Cha Lành, và trở thành kẻ thừa sai của Thiên ý. Tiến trình điểm đạo chính nó chỉ là một phần của Kế hoạch chung dành cho nhân loại, và những chặng đường đệ tử và điểm đạo chỉ là các giai đoạn cuối của Con đường Tiến hóa. Những bước đầu trên Đường Đạo có liên quan đến cuộc sống và kinh nghiệm của nhân loại. Nhưng các giai đoạn cuối, sau khi hành giả được sinh ra lần thứ hai, thì liên quan đến sự khai mở tinh thần. |
|
What is true of the unfoldment of the individual is true [49] of the race; and all these stages must be worked out in the racial life. Those who see the vision clearly can trace the evidences of this unfolding Plan in the steady growth of several ideas that are now dominant in the world. Without going into detail or entering into lengthy expositions of the subject, the growth of the Plan and of the racial response can be traced quite clearly in the development of the God idea. First, God was a far-away, anthropomorphic Deity, unknown and unloved, but regarded with awe and fear, and worshipped as the Deity expressing Himself through the forces of nature. As time elapsed, this distant God drew a little nearer to His people, taking on a more human colouring until, in the Jewish dispensation, we find Him much like ourselves, but still the wrathful, ethical Ruler, and still obeyed and feared. |
Những gì đúng với sự khai mở của mỗi cá nhân thì cũng áp dụng (49) cho nhân loại, và tất cả những giai đoạn này đều phải được thực hiện trong đời sống của nhân loại. Những ai thấy rõ viễn ảnh này đều có thể tìm ra bằng chứng của Thiên cơ đang khai mở trong sự phát triển liên tục của một số ý tưởng đang nổi bật trên thế giới. Khỏi phải bàn luận dài dòng với nhiều chi tiết về vấn đề này, chúng ta vẫn có thể thấy khá rõ sự tăng tiến của Thiên cơ và sự đáp ứng của nhân loại, khi xem xét sự phát triển của ý niệm về Thượng Đế. Ban đầu, người ta cho rằng Thượng Đế là một vị Thần linh có nhân hình, không ai hiểu biết và mến thương, mà họ chỉ nhìn Ngài một cách băn khoăn và sợ hãi, đồng thời tôn thờ Ngài như một vị Thần linh tự biểu lộ qua các mãnh lực của thiên nhiên. Thời gian trôi qua, vị Thượng Đế xa cách này trở nên gần gũi với thần dân của Ngài hơn, mang sắc thái con người nhiều hơn, cho đến khi, trong Do Thái giáo, người ta thấy Ngài rất giống như mình. Thế nhưng, Ngài vẫn còn là Nhà cai trị đầy phẫn nộ, nắm giữ thẩm quyền về đạo đức, đòi hỏi con người phải vâng lời và kính sợ. |
|
He approached still nearer as time went on; and before the advent of Christianity men recognised Him as the beloved Krishna of the Hindu faith, and as the Buddha. Then the Christ came to the West. God Himself was seen incarnate among men. The distant had become the near, and the One Who had been worshipped in awe and wonder could now be known and loved. Today God is coming closer still, and the new age will not only recognise the truth of the past revelations and testify to their validity and their progressive revelation of divinity, but to all this will be added the ultimate revelation of the Presence of God in the human heart, of Christ born in man, and of each human being manifesting, in truth, as a son of God. |
Theo thời gian, Ngài càng đến gần hơn. Và trước khi Thiên Chúa giáo ra đời, người ta đã nhìn nhận Ngài là Đức Khristna thân yêu trong tín ngưỡng Ấn Độ giáo, và cũng là Đức Phật. Rồi Thiên Chúa giáo đến với phương Tây. Bấy giờ, xem như chính Thượng Đế hiện thể giữa loài người. Sự xa cách đã trở nên gần gũi, và Đấng mà trước đó người ta tôn thờ trong sự kính sợ và thán phục, thì nay họ có thể hiểu biết và yêu thương. Ngày nay, Thượng Đế còn trở nên mật thiết với chúng ta hơn nữa. Thời đại mới sẽ công nhận chân lý của các cuộc thiên khải trong quá khứ, cũng như xác nhận rằng những cuộc thiên khải đó rất có giá trị và làm hiển lộ thiên tính ngày một nhiều hơn. Ngoài ra, tất cả mọi người sẽ còn thấy được cuộc thiên khải tối hậu về sự hiện diện của Thượng Đế trong tâm hồn nhân loại, về Đấng Christ sinh ra trong con người, và về việc mỗi cá nhân thực sự biểu hiện như một người con của Thượng Đế. |
|
In a consideration of the unfoldment of consciousness the same emerging divine Plan appears. Though the race in its infancy was governed by instinct, as time elapsed the intellect began to show itself and is continuing to control human affairs, government and thought. Out of the intellect, rightly used and understood, something fairer and still more revealing is being evolved, and steadily we can trace the growth of this new force, the intuition, in modern intelligent man. This, in its turn, brings illumination, and so [50] man passes from glory to glory until the omniscient cosmic Son of God can be seen, expressing Himself through every son of man. |
Khi xem xét sự khai mở tâm thức, chúng ta ngày càng thấy rõ Thiên cơ tiến hóa nói trên. Dù rằng trong thời gian còn ấu trĩ nhân loại chịu sự chế ngự của bản năng, theo thời gian trí năng bắt đầu biểu lộ, và ngày càng chi phối các sự vụ, chính quyền, và tư tưởng của con người. Khi trí năng được hiểu đúng và sử dụng đúng, thì sẽ phát triển được một điều gì đó tốt đẹp hơn, giúp hiển lộ chân lý rõ ràng hơn. Chúng ta ngày càng có thể thấy sự tăng cường của mãnh lực mới này, tức là trực giác, trong những người thông minh hiện nay. Đến lượt trực giác mang lại sự khai ngộ. Nhờ đó (50) mà con người đi từ vinh quang này đến vinh quang khác, cho đến khi vị Thiên Đế tử cấp vũ trụ có thể tự biểu lộ qua mỗi người con của nhân loại. |
|
Again, the same unfoldment can be traced racially in the transition we have made through the various stages from that of the isolated savage to the family and the tribe, then to the unification of the tribes into nations under one central government, until today we live in a world which is beginning to respond to that which is greater than the nation—humanity itself—and to conceive its expression through the development of an international consciousness. No matter by what line we trace the growth of the Plan, we come from a distant, dark and ignorant past to a present point wherein truer values are seen emerging. We begin to see what that Plan is and whither we are going. We are entering steadily into the world of spiritual realities, because “there is a road from every natural group of facts to every spiritual reality in the universe; and the essential nature of mind forces it always in some degree to traverse this road….” [liv]26 |
Ngoài ra, cũng có thể nhận thấy sự khai mở nói trên của nhân loại trong sự chuyển tiếp mà chúng ta đã có qua những giai đoạn khác nhau, từ con người dã man sống biệt lập đến cơ cấu gia đình và bộ lạc. Rồi sự thống nhất các bộ lạc thành quốc gia dưới chính quyền trung ương duy nhất, cho đến ngày nay chúng ta sống trong một thế giới đang bắt đầu đáp ứng với phạm vi rộng lớn hơn quốc gia – tức là nhân loại – đồng thời nhận biết sự biểu lộ của nhân loại qua sự phát triển tâm thức quốc tế. Dù truy tìm dấu vết phát triển của Thiên cơ theo đường hướng nào, chúng ta cũng đi từ một quá khứ xa xăm, u tối, và vô minh, đến trình độ hiện nay, trong đó những giá trị chân thực hơn đang ngày càng biểu lộ rõ ràng. Chúng ta bắt đầu thấy thực nghĩa của Thiên cơ, và thấy mình sẽ đi về đâu. Chúng ta đang liên tục bước vào thế giới của các thực tại tinh thần. Đó là vì “vốn có một con đường từ mọi nhóm sự kiện tự nhiên đến mọi thực tại tinh thần trong vũ trụ; và tính chất cốt yếu của trí tuệ khiến nó bao giờ cũng phải đi ngang qua con đường này đến mức nào đó . . .”[26] |
|
At this “end of the age” man stands before the door of opportunity, and, because he is in process of discovering his own divinity, he will enter into the realm of real values and arrive at a truer knowledge of God. The mystery of the new birth confronts him, and through that experience he must pass. |
Vào “cuối thời đại này” con người đứng trước cánh cửa dẫn đến những cơ hội. Vì đang trong tiến trình khám phá ra thiên tính nơi mình, nên họ sẽ đi vào lĩnh vực của các chân giá trị và hiểu biết đúng thực hơn về Thượng Đế. Họ đang đứng trước bí nhiệm của sự sinh ra lần thức hai, và phải trải qua kinh nghiệm đó. |
|
This divinity in man must be brought to the birth, both in the individual and in the race, and thus can the kingdom of God on earth be brought into being. |
Thiên tính này trong con người phải được sinh ra, cả trong cá nhân và trong nhân loại. nhờ đó mà Thiên giới có thể hiện thực ở cõi trần. |
|
3 |
3 |
|
All of these five initiations have certain basic points in common, resemblances which in themselves are of real significance. There are factors which are germane to all of them. The Way into the kingdom is universal, and man himself is the symbol and the reality. He looks out at all [51] the myths and symbols of the world; he reads and knows the story of the world Saviours; at the same time he himself has to re-enact the same story and make myth a fact in his own personal experience; he must know Christ; he must also follow Christ stage by stage through the great experiences of the initiatory process. |
Tất cả năm cuộc điểm đạo nói trên đều có một số điểm chung cơ bản, và những điều tương đồng, với những ý nghĩa thực sự quan trọng. Có những yếu tố thích hợp với tất cả các cuộc điểm đạo này. Đường vào Thiên giới có tính cách đại đồng, và con người vừa có tính biểu tượng vừa là thực tại. Y xem xét kỹ tất cả (51) các huyền thoại và biểu tượng trên thế giới. Y đọc và biết câu chuyện của các vị Cứu thế. Đồng thời chính y cũng phải diễn lại câu chuyện đó, biến huyền thoại thành hiện thực trong kinh nghiệm của riêng cá nhân mình. Y phải biết Đức Christ. Y cũng phải theo bước chân Ngài từ giai đoạn này đến giai đoạn khác qua những kinh nghiệm trọng đại của tiến trình điểm đạo. |
|
Every initiation is preceded by a journey; each stage and each dramatic happening comes at the end of a period of travel. The symbolism of this is apparent. “The treading of the Path” is a familiar way of describing the approach of a human being to the mysteries. It is interesting to note that today the whole world is on the move. Everybody is travelling and journeying—a process symbolic of an inner condition of search and movement towards a preordained goal. Travel by rail, by steamship and by airplane is today the lot of everyone. Groups of people in many countries are being transferred from place to place as economic conditions make possible and destiny dictates. We are journeying hither and thither. We are on our way, widening our horizons. We are also preparing for expansions of consciousness which will enable us to live in two realms at once—the life which must be lived on earth and the life which we can live in the kingdom of God. Humanity is on the first stage of its journey towards the mystic Bethlehem where the Christ child will be born, and the first initiation is, at this time, an imminent happening for many. |
Mọi cuộc điểm đạo đều có trước nó là một hành trình. Mỗi giai đoạn và mỗi sự kiện quan trọng đều xảy ra vào lúc kết thúc một thời khoảng du hành. Ý nghĩa biểu tượng của điều này thật rõ ràng. “Tiến bước trên Đường Đạo” là lối nói quen thuộc để mô tả sự tiếp cận của con người với các bí nhiệm tinh thần. Điều thú vị cần lưu ý là ngày nay cả thế giới đều đang di chuyển. Mọi người đều đang du lịch và du hành. Tiến trình này là biểu tượng của tình trạng tìm kiếm và chuyển động nội tại, hướng đến một mục tiêu tiền định. Ngày nay ai cũng phải di chuyển bằng tàu lửa, tàu thủy, và máy bay. Những nhóm người trong nhiều nước đang di chuyển từ nơi này đến nơi khác, khi điều kiện kinh tế cho phép và vận mệnh an bài. Chúng ta cứ mãi đi đó đi đây. Chúng ta đang tìm cách mở rộng tầm mắt của mình. Chúng ta cũng đang chuẩn bị mở mang tâm thức để có thể sống đồng thời trong cả hai lĩnh vực – cuộc đời phải sống ở thế gian, và cuộc sống khả dĩ thực hiện trong Thiên giới. Nhân loại đang trên giai đoạn đầu của cuộc hành trình hướng về thành Bethlehem thần bí, nơi mà trẻ thơ Christ sẽ sinh ra. Và hiện nay cuộc điểm đạo thứ nhất đang sắp xảy ra cho nhiều người. |
|
“To every man there openeth |
“Trong tất cả mọi người đều đang khai mở |
|
A way, and ways and a WAY. |
Một CON ĐƯỜNG, hoặc nhiều đường lối khác nhau. |
|
And the high soul takes the high way |
Linh hồn trình độ cao tiến lên theo con đường cao, |
|
And the low soul gropes the low; |
Linh hồn trình độ thấp lần bước theo con đường thấp; |
|
And in between, on the misty flats, |
Khoảng trung gian, sương mù che nhiều cấp, |
|
The rest drift to and fro, |
Có những người đang tiến tới, thối lui, |
|
But to every man there openeth |
Với mỗi người đã khai mở sẵn rồi |
|
A high way and a low. |
Một con đường cao và một con đường thấp. |
|
And every man decideth |
Và bấy giờ mỗi người cần tự quyết |
|
The way his soul shall go.” |
Chọn con đường nào cho linh hồn họ đi theo.”[27] |
|
[lv]27 |
|
|
[52] |
(52) |
|
Again, every initiation is marked by the enunciation of a Word of Power. The initiate hears it, though the rest of the world may not. When Christ passed through these crises, in every case a Voice sounded out, and the sound which went forth “opened anew the gates of life.” Door after door is opened on the demand of the initiate and at the response by the Initiator, standing on the other side of the portal. We shall see what each Word signified. The Word always issues forth from the centre. Again and again in the New Testament we are told that “He that hath ears to hear, let him hear,” [lvi]28 and a study of the words spoken to the seven Churches in Revelations will bring much light upon the factor of the Word. |
Ngoài ra, mọi cuộc điểm đạo đều được đánh dấu bởi việc xướng lên một Quyền lực Từ. Người điểm đạo đồ nghe được linh từ này, dù rằng những người khác thì không thể. Khi Đức Christ trải qua những cuộc khủng hoảng này, trong mỗi trường hợp đều có Tiếng nói phát ra, và âm thanh của nó vang lên “mở thêm những cánh cửa của sự sống.” Từng cánh cửa mở ra theo yêu cầu của người điểm đạo đồ và khi có sự đáp ứng của Đấng Điểm đạo, đang đứng bên kia cửa Đạo. Chúng ta sẽ thấy mỗi Linh từ có ý nghĩa gì. Linh từ bao giờ cũng phát ra từ trung tâm. Nhiều lần trong Kinh Tân ước có nói rằng “Ai có tai, hãy nghe,”[28] Khi nghiên cứu những lời nói với bảy Giáo hội trong sách Khải huyền, chúng ta sẽ hiểu nhiều hơn về yếu tố Linh từ. |
|
Great racial Words have been sounded forth and have brought about needed changes, and have signified a potency of true spiritual value to the sensitive. |
Những Linh từ quan trọng của các giống dân đã được xướng lên và mang lại những thay đổi cần thiết. Đối với nhà tâm thông, chúng là mãnh lực có giá trị tinh thần thực sự. |
|
The Word or sound for ancient Asia in the past was TAO, or the Way. It stood for that ancient Way which the Initiates of the far East trod and taught. For our race the sound is AUM, which has degenerated in our Occidental vernacular into AMEN. The ancient scriptures of India regard this Word as peculiarly the indication of divinity, of the spirit of life, the breath of God. What the new Word will be which will “come forth from the centre” we do not know, for it will not be heard until the race is ready. But there is a common Word of Power which will be given into the custody of our race if we measure up to our opportunity and, through the new birth, enter into the kingdom of God. It is this Word which will quicken into life the hidden soul of man and galvanise him into a renewed spiritual activity. As the race grows in sensitivity, as the aspirants of the world in all the many religions cultivate the ability (through meditation) to hear the Voice which can tune out all other voices, and as they learn to register the Sound which will obliterate all other sounds, they will, as a group, record the new Word which will issue forth. |
Linh từ hay âm thanh cho Á châu cổ đại trong quá khứ là TAO, hay là Đường Đạo. Nó tiêu biểu cho con Đường Đạo cổ xưa mà các Điểm đạo đồ ở Viễn Đông đã bước lên và giảng dạy. Âm thanh cho giống dân hiện nay là AUM. Nó đã thoái hóa thành AMEN trong thổ ngữ phương Tây. Các thánh kinh thời xưa của Ấn Độ xem Linh từ này là đặc biệt chỉ về thiên tính, về tinh thần của sự sống, là hơi thở của Thượng Đế. Hiện nay chúng ta không biết Linh từ mới “phát ra từ trung tâm” sẽ là gì, vì nhân loại vẫn không nghe được nếu chưa chuẩn bị sẵn sàng. Thế nhưng, có một Quyền lực Từ sử dụng chung, sẽ được giao cho giống dân hiện nay gìn giữ, nếu chúng ta biết nắm lấy thời cơ của mình và bước vào Thiên giới, nhờ sinh ra lần thứ hai. Chính Linh từ này sẽ giúp cho linh hồn ẩn tàng trong mỗi người mau sống động, và khiến y đi vào hoạt động tinh thần mới mẻ. Nhân loại cần gia tăng khả năng nhạy cảm. Những người tìm đạo trong tất cả các tôn giáo cần vun bồi (qua tham thiền) khả năng nghe Tiếng Nhiệm mầu, nó có thể làm mờ đi tất cả những tiếng nói khác. Họ cũng cần học cách ghi nhận Huyền âm, nó sẽ xóa đi các âm điệu tầm thường. Bấy giờ, với tính cách một tập thể, họ ghi nhận được Linh từ mới sẽ phát ra. |
|
[53] |
(53) |
|
At each initiation of Jesus, as we shall see, a Sign was given; it was a Sign which registered upon the consciousness of those who were not initiate. Each time, a symbol or form was seen which was indicative of the revelation. Christ Himself tells us that at the end of the age the sign of the Son of Man will be seen in the Heavens. [lvii]29 Just as the Birth at Bethlehem was ushered in by a Sign, that of the Star, so shall that birth towards which the race is hastening be likewise ushered in by a heavenly Sign. The appeal which goes up from the hearts of all true aspirants to initiation is beautifully embodied in the following prayer: |
Như chúng ta thấy, vào mỗi cuộc điểm đạo của Đức Jesus, có một Thiên tượng được đưa ra. Đó là Thiên tượng phô bày cho tâm thức của những người chưa phải là điểm đạo đồ. Mỗi lần điểm đạo, hành giả thấy một biểu tượng hay hình thể, là dấu hiệu của thiên khải. Chính Đức Christ đã nói rằng vào cuối thời đại hiện nay, dấu hiệu của Con Người sẽ xuất hiện trên các Tầng trời.[29] Sự Giáng sinh tại Bethlehem đã được một Dấu hiệu, một Ngôi sao, dẫn đường. Tương tự như thế, sự sinh ra lần thứ hai mà nhân loại nhanh chóng đi đến, cũng sẽ được hướng dẫn bởi một Thiên tượng. Lời thỉnh cầu dâng cao từ trong tâm của tất cả những người chí nguyện điểm đạo được diễn tả một cách thi vị trong bài cầu nguyện sau đây: |
|
“There is a peace that passeth understanding; it abides in the hearts of those who live in the Eternal. There is a power which maketh all things new. It lives and moves in those who know the Self as One. May that peace brood over us; that power uplift us, till we stand where the One Initiator is invoked, till we see His star shine forth.” |
“Có sự bình an vượt ngoài tầm hiểu biết; nó ngự trong tâm những ai sống trong Vĩnh cửu. Có quyền năng đổi mới mọi sự. Nó linh hoạt trong những ai biết Chân ngã là Một. Cầu mong bình an thấm nhuần chúng ta; cầu mong quyền năng nâng đỡ chúng ta, cho đến khi chúng ta đứng ở nơi thỉnh cầu Đấng Điểm đạo Duy nhất, cho đến khi chúng ta thấy được ngôi sao chói rạng của Ngài.” |
|
When that Sign is seen and the Word is heard, the next step will be the recording of the Vision. The Plan and the part to be played by the initiate are shown to him, and he knows what he has to do. This Vision is spoken of as “the vision of God,” but it is expressed to man in terms of God’s will and the completeness of that which God intends. We are intended to be initiate into the mystery of that will. The vision of God is the vision of God’s Plan. No man has seen God at any time. The revelation of God comes through the revelation of Christ. |
Khi thấy được Thiên tượng, và nghe được Linh từ ấy, thì bước tiếp theo là ghi nhận Linh ảnh. Người điểm đạo đồ được cho thấy Thiên cơ, phần việc mà y cần thực hiện, và y cũng biết mình phải làm điều gì. Linh ảnh này được gọi là “Linh ảnh của Thượng Đế.” Tuy nhiên, nó được biểu lộ cho con người hiểu như là ý chí của Thượng Đế và sự hoàn tất những trù định của Ngài. Chúng ta muốn được điểm đạo để hiểu bí nhiệm của Thiên ý. Linh ảnh của Thượng Đế là tầm nhìn về Thiên cơ. Chưa bao giờ có ai thấy được Thượng Đế cả. Sự thiên khải của Ngài đến qua sự khải thị của Đức Christ. |
|
“Philip saith unto him, Lord, shew us the Father, and it sufficeth us. |
“Philip nói với Ngài, xin Chúa cho chúng con thấy được Đức Chúa Cha, để chúng con được thỏa nguyện. |
|
“Jesus saith unto him, Have I been so long time with you, and yet hast thou not known me, Philip? He that hath seen me hath seen the Father.” [lviii]30 |
“Chúa Jesus bèn nói với người môn đồ, ta đã ở với ngươi, thế mà ngươi chưa hề biết ta là ai sao, Philip? Ai đã thấy ta tức là đã thấy Cha ta.”[30] |
|
Christ revealed in Himself the will of God and gave to humanity a vision of God’s Plan for the world, this Plan [54] being the coming of the kingdom. He was God, and the word of God went forth from Him. |
Đức Christ tự biểu lộ ý chí của Thượng Đế nơi Ngài, và cho nhân loại thấy hình ảnh về Thiên cơ dành cho nhân loại. Thiên cơ (54) nhằm mang lại sự giáng trần của Thiên giới. Ngài là Thượng Đế, và lời của Thượng Đế phán ra từ Ngài. |
|
Man lives by the incarnation of God in himself. By passing through the gate of the new birth, he can redeem the flesh in which that divinity is encased, and can then help in the redemption of the world. For the race, too, there is the crisis, the initiation and the vision. “Where there is no vision, the people perish.” [lix]31 But that vision is never of the whole Plan. It is not of the ultimate experience nor of the unfathomable consummation. For that we are not as yet prepared. Christ Himself did not proclaim the final revelation. He saw and proclaimed the next step for the race. The events immediately ahead are sensed, to be later intelligently considered; there is a moment of prevision, a foretelling of movement and activity, of difficultly and service, and of the next unfolding glory. |
Con người sống được là nhờ có hiện thân của Thượng Đế trong y. Khi bước qua cửa Đạo và được sinh ra lần thứ hai, y có thể cứu chuộc cái thân xác mà trong đó thánh linh đang trú ngụ, và đồng thời có thể trợ giúp việc cứu rỗi thế gian.Cả nhân loại cũng trải qua những cơn khủng hoảng, được điểm đạo và thấy linh ảnh. “Ở đâu không có tầm nhìn tinh thần, thì dân chúng tiêu vong.”[31] Thế nhưng, linh ảnh ấy không bao giờ cho thấy trọn cả Thiên cơ. Đó không phải là cái kinh nghiệm tối hậu, hay là sự hoàn thành vô lượng. Vì chúng ta chưa chuẩn bị sẵn sàng để hiểu được điều đó. Chính Đức Christ cũng không hề tuyên bố về cuộc thiên khải cuối cùng. Ngài chỉ thấy và nói lên bước kế tiếp cho nhân loại. Những sự kiện sắp đến được Ngài cảm nhận, rồi sau đó xem xét một cách thông minh. Ngài thấy trước, tiên đoán những biến chuyển và hoạt động, những điều khó khăn và nhu cầu phụng sự, rồi sau đó là nguồn vinh quang rộng mở. |
|
Following the vision, as that followed initiation, comes a renewed cycle of test and of difficulty. The truths revealed and the revelation accorded have to be worked out in the experience of daily life. Moments of assimilation and reflection must succeed the periods of exaltation and of vision. Unless there is a practical experience of that which is known, it remains upon the mountain top of revelation. |
Giống như những gì tiếp theo việc điểm đạo, sau khi thấy được linh ảnh, hành giả sẽ trải qua một chu kỳ mới gồm thử thách và khó khăn. Y phải thực hiện trong đời sống hằng ngày những chân lý được hiển lộ và sự khải thị được ban cho y. Y phải cố gắng đồng hóa và suy ngẫm, sau thời gian hứng khởi và thấy được linh ảnh. Nếu y chưa thực nghiệm được những gì đã biết, thì điều đó vẫn còn bị giữ lại trên đỉnh núi thiên khải. |
|
Finally, every initiation leads to expanded service. Practical spiritual living must follow the moments on the mountain top. Self and its attainment must be forgotten in service to others. From this there is no escape. Every pinnacle of achievement is followed by a cycle of testing. Every new revelation grasped and appropriated has to be adapted to the needs of a consequent and strenuous life of service, and initiation ever calls forth renewed testing and enhanced power to serve. |
Cuối cùng, mỗi cuộc điểm đạo đều dẫn đến công tác phụng sự rộng lớn hơn. Sau những phút giây ở trên đỉnh núi, hành giả phải thực hành đời sống tinh thần. Y phải quên đi phàm ngã và sự thành đạt của nó để phụng sự tha nhân. Điều này áp dụng cho mọi điểm đạo đồ. Sau mọi đỉnh cao thành tựu đều phải có một thời kỳ thử thách. Y phải thích dụng mọi điều khải thị mới mẻ mà y đã thấu hiểu và thủ đắc để đáp ứng nhu cầu của cuộc sống phụng sự tích cực về sau. Vì thế, việc điểm đạo bao giờ cũng mang lại những thử thách mới, và tăng cường năng lực phụng sự. |
|
4 |
4 |
|
“And so it was, that, while they were there, the days were accomplished that she should be delivered. And she brought forth [55] her firstborn son, and wrapped him in swaddling clothes and laid him in a manger; because there was no room for them in the inn.” [lx]32 |
“Và thế là trong khi họ ở đó, đã đến đủ tháng ngày cho bà chuyển dạ. Bà sinh ra (55) con trai đầu lòng, và quấn con trong tả lót và đặt vào máng cỏ; vì không có chỗ cho họ trong lữ quán.”[32] |
|
In these simple words the momentous story begins—a story of such far-reaching consequences that only today are we beginning to register the results. Only today, two thousand years after the event, is the lesson of Christ’s life taking formative effect in the imaginations of men; only today is the unique lesson which He came to teach producing the needed changes in the capacity of men to apprehend. Only now are we becoming aware that the historical evidence of His arrival on earth is history itself, and that there is in the world the evidence of two great streams of endeavour or of activity—that which is the stream of the common, separative, unfolding consciousness of man, and that which is the steady application of the message of Christ to current affairs, modifying them, changing them and determining—far more than we can realise—the way that we should go. Christ came in the fullness of time, just as humanity was approaching maturity, and showed us, in Himself and through His life, what a man could be and was. |
Những lời đơn sơ mộc mạc này mở đầu một câu chuyện trọng đại – một câu chuyện có hậu quả sâu rộng đến đỗi chỉ đến ngày nay chúng ta mới bắt đầu ghi nhận được những kết quả của nó. Chỉ đến ngày nay, hai ngàn năm sau khi Ngài giáng lâm, cuộc đời của Đức Christ mới có hiệu quả định hình những suy tưởng của mọi người. Chỉ đến ngày nay bài học độc đáo mà Ngài đã đến giảng dạy mới tạo được những biến đổi cần thiết trong khả năng thấu hiểu của mọi người. Chỉ đến nay chúng ta mới ý thức được rằng bằng chứng lịch sử của việc Ngài giáng trần là chính lịch sử. Chúng ta cũng ý thức rằng trên thế giới có bằng chứng của hai dòng lớn gồm những nỗ lực hay hoạt động. Một dòng hoạt động do âm thức thông thường, có tính chia rẽ, và đang khai mở của con người. Dòng kia thì cố gắng áp dụng thông điệp của Đức Christ vào thế sự hiện nay, biến đổi chúng, thay đổi chúng, và xác định con đường chúng ta nên đi, nhiều hơn những gì mà chúng ta có thể biết. Giống như nhân loại đang đến mức trưởng thành, Đức Christ đến khi thời cơ chín muồi, và qua tấm gương của chính Ngài cũng như cuộc đời Ngài, đã cho chúng ta thấy tình trạng của con người bấy giờ, và họ có khả năng phát triển như thế nào. |
|
The Son of God is also the Son of Man! This fact has, perhaps, been forgotten in the emphasis laid upon His divinity. That divinity is there, and nothing can touch or hide it; it is radiance and pure white light. But the manhood is there also, a guarantee to us of our opportunity and of our potentialities, an endorsement of our faith. In the magnetic power, breathed out through the words of the Beloved Apostle as he portrayed Christ as the Son of God who speaks divinely, we have fallen down in love and adoration before that divinity. But His manhood is emphasised by St. Luke and St. Matthew, just as His life as the Great Server was emphasised by St. Mark. We have fought over the divinity of Christ. Had there been no Gospel but the Gospel of St. [56] John, only His divinity would have been known to us. Christ as man, and what He did and was as man, is not considered by this writer. |
Vị Thiên Đế Tử này cũng là Con Người! Có lẽ người ta đã quên sự kiện thực tế này khi chỉ nhấn mạnh đến thiên tính của Ngài. Thiên tính ấy vẫn có trong Ngài, mà không điều gì có thể ảnh hưởng hay che giấu được. Đó là sự chói rạng của ánh sáng trắng thuần khiết. Thế nhưng, trong Ngài cũng có nhân tính, nó bảo đảm rằng chúng ta có đủ cơ hội, có đủ tiềm năng, và củng cố niềm tin của chúng ta. Trước quyền năng hấp dẫn, tỏa ra qua lời của vị Tông đồ Thân yêu, người mô tả Đức Christ là vị Thiên Đế Tử nói lên những điều thiêng liêng, chúng ta quì lạy, tỏ lòng yêu thương, sùng kính đối với thiên tính của Ngài. Thế nhưng, nhân tính của Ngài lại được Thánh Luke và Thánh Matthew nhấn mạnh. Trong khi đó, Thánh Mark lại chú trọng đến cuộc đời của Ngài với tính cách Người phụng sự Cao cả. Chúng ta đã bàn cãi về thiên tính của Đức Christ. Giá mà không có sách Phúc âm nào khác ngoài sách Phúc âm của Thánh John, (56) thì hẳn là chúng ta chỉ biết có thiên tính nơi Ngài mà thôi. Tác giả này không xét đến Đức Christ với tính cách con người, và những gì Ngài đã làm và bày tỏ với tính cách con người. |
|
Any modern writer, when responsible for a biography of the Christ, would come under most serious criticism (from the theologians and the orthodox) had he omitted these important points. But evidently, in the opinion of the apostle, they were not of paramount importance. It was the Spirit of Christ that was vital and necessary. The other three apostles supplied the setting and the detail, and apparently did much to bring that detail into conformity with the teaching of the past, as to the environment and lives of the past world-teachers and saviours, for there is a curious identity in events and occurrences. |
Bất cứ văn sĩ nào hiện nay, khi viết về tiểu sử của Đức Christ, đều có thể bị chỉ trích hết sức nặng nề (của các nhà thần học và người theo chính thống giáo), nếu bỏ qua những điểm quan trọng nói trên. Thế nhưng, theo ý kiến của thánh tông đồ, những điều đó không phải là quan trọng nhất. Chính Đức Thánh linh trong Christ mới là hệ trọng và cần thiết. Ba vị tông đồ kia nói lên những hoàn cảnh và chi tiết. Và hiển nhiên là họ đã cố gắng rất nhiều để làm thế nào cho các chi tiết đó phù hợp với giáo huấn của thời quá khứ, về môi trường và đời sống của các vị chưởng giáo thế gian và những vị cứu thế ngày xưa. Lý do là vì những sự kiện và trường hợp của các vị trong thời kỳ trước và thời kỳ sau lại đồng nhất một cách lạ thường. |
|
We have fought over the detail connected with the phenomenal appearing of Christ, and have overlooked the emphasis laid in three of the initiations upon His words and their meaning. We have taken our stand upon the physical happenings of His life and have struggled to prove the authentic historicity of those physical events, and all the time God Himself speaks, “Hear ye Him.” |
Chúng ta đã tranh cãi về những chi tiết liên quan đến sự giáng lâm của Đức Christ xét theo hiện tượng, và đã bỏ qua, không chú trọng đến ba trong số các cuộc điểm đạo, dựa vào lời dạy của Ngài và ý nghĩa của lời giáo huấn. Chúng ta đã giữ lập trường dựa vào những sự việc xảy ra ở cõi trần trong đời Ngài. Đồng thời chúng ta cũng hết sức cố gắng chứng minh tính lịch sử xác thực của các sự kiện có tính cách hồng trần nói trên, và chứng minh rằng bao giờ đó cũng là lời của chính Thiên Chúa phán, “Hãy nghe Con Ta.” |
|
Another point which is frequently forgotten is that, in so coming to earth and taking human incarnation, God testified to His faith in the divinity which is in man. God had sufficient confidence in men and in their reaction to world conditions so that He gave His Son to demonstrate the possibility to man and thus save the world. In this He gave expression to His belief, and His conduct was dictated by that belief. In reverence I would like to say that man’s divinity warranted an expression of divinity. So God acted. Dean Inge, when writing upon the works of Plotinus, says very appositely that “the conduct of life rests on an act of faith which begins with an experiment and ends with an experience.” These words are true of God and of man. God had such faith in man’s innate spirituality—and what is spirituality but the expression, in form, of divinity?—that He ventured on a great [57] experiment which has led into the Christian experience. Faith in Christ! Faith in humanity! Faith in man’s responsiveness to the experiment! Faith that the vision given will be transmuted or developed into experience! Such was the faith of God in humanity. The Christian faith, in spite of dogma and doctrine, and in spite of the distortions of the academic theologian and the impositions of a few unintelligent churchmen, has brought together God and man, blended in the Christ, and so presented the truth that each human being can also have faith to venture the experiment and undergo the experience. This vital, dramatic, mystically pictured yet living truth, when grasped by the mind and understood by the heart, will enable each aspirant to the Christian Mysteries to pass through the gateway of the new Birth into light, and walk thenceforth increasingly in that light, for “the path of the just is as the shining light, that shineth more and more unto the perfect day.” [lxi]33 This truth is still a living truth and enriches and colours all our faith. |
Một điểm khác mà người ta thường hay quên là khi giáng trần và khoác lấy thân xác của con người, Thượng Đế chứng tỏ rằng Ngài tin vào bản tính thiêng liêng của con người. Thượng Đế đã đủ tin tưởng vào nhân loại và phản ứng của họ đối với các điều kiện trên thế giới, nên Ngài mới cho Con trai của Ngài đến để chứng tỏ khả năng đó cho con người thấy, và bằng cách đó mà cứu rỗi thế gian. Làm như thế, Ngài bày tỏ niềm tin của Ngài, và hành xử đúng theo niềm tin đó. Với lòng tôn kính, tôi xin nói rằng bản tính thiêng liêng của con người bảo đảm rằng họ có thể biểu lộ được thiên tính. Vì thế mà Thượng Đế đã hành động. Khi viết về các tác phẩm của Plotinus, Dean Inge đã nói rất thích đáng rằng “cách hành xử trong đời vốn dựa vào niềm tin, bắt đầu bằng việc thí nghiệm và kết thúc bằng sự trải nghiệm.” Những lời này đúng với cả Thượng Đế và con người. Thượng Đế đã rất tin tưởng vào bản tính tinh thần bẩm sinh của con người – và bản tính tinh thần là gì nếu không phải là sự biểu lộ của thiên tính trong hình thể? – đến mức Ngài mạo hiểm làm một cuộc (57) thí nghiệm vĩ đại, mà đã dẫn đến kinh nghiệm Thiên Chúa giáo. Tin vào Đức Christ! Tin vào nhân loại! Tin vào khả năng của con người có thể đáp ứng với cuộc thí nghiệm này! Tin rằng linh ảnh được trao truyền sẽ được chuyển hóa hay phát triển thành kinh nghiệm! Đó là niềm tin của Thượng Đế đặt vào nhân loại. Dù có những giáo lý, giáo điều, dù có những diễn giải méo mó của các nhà thần học theo lý thuyết, và dù có những áp đặt của một thiểu số giáo sĩ thiếu thông minh, niềm tin của Thiên Chúa giáo vẫn đã kết hợp Thượng Đế và con người, hòa hợp cả hai trong Christ. Từ đó nói lên sự thực là mỗi người đều có thể vững niềm tin để dám thí nghiệm và trải nghiệm. Chân lý thiết yếu, mạnh mẽ, được mô tả một cách thần bí nhưng sống động này, khi được trí và tâm thấu đáo và thông hiểu, sẽ giúp mỗi người chí nguyện tìm kiếm những bí nhiệm của Thiên Chúa giáo đi qua cánh cửa Sinh ra lần thứ hai và bước vào ánh sáng. Từ đó họ ngày càng đi vào ánh sáng ấy, vì “con đường của người công chính giống như ánh sáng rạng ngời, cứ mãi chói rạng cho đến ngày hoàn hảo.”[33] Chân lý này hiện nay vẫn còn sống động, làm phong phú và thấm nhuần trọn cả niềm tin của chúng ta. |
|
In this continuity (which is the basis of our faith in the love of God) there have been, as we have seen, many Words sent forth from the Centre. Many Sons of God, down the ages, have given to humanity a progressively revealing vision of the “heights of possibility,” interpreting God’s Plan to the race in terms suited to each age and temperament. The uniformity of their life story, the appearance again and again of the Virgin Mother (whose name is frequently a variation of the name Mary), the similarity in detail of the birth story, all indicate to us the constant re-enactment of a truth, so that from its dramatic quality and its repeated happening, God impresses upon the hearts of men certain great truths which are vital to their salvation. |
Trong diễn tiến liên tục này (vốn là cơ sở cho niềm tin của chúng ta vào tình thương của Thượng Đế), như chúng ta thấy, đã có nhiều Linh từ được phát ra từ Trung tâm. Qua các thời đại, nhiều vị Thiên Đế Tử đã trao cho nhân loại linh ảnh ngày càng rõ rệt về những “đỉnh cao của khả năng thành đạt.” Họ diễn giải Thiên cơ cho nhân loại hiểu, bằng những thuật ngữ thích hợp với từng độ tuổi và tùy theo tính khí. Câu chuyện cuộc đời của họ rất giống nhau; bao lần giáng lâm của Đức Mẹ Đồng trinh (với danh hiệu thường là sự biến đổi của thánh danh Mary); những chi tiết khi họ ra đời cũng tương tự; tất cả cho chúng ta thấy sự tái diễn của chân lý. Rồi nhờ phẩm tính đầy ấn tượng của nó, và nó được trình bày liên tục, Thượng Đế mới có thể ghi khắc vào tâm hồn con người một số chân lý chánh đại, rất cần yếu để giúp họ được cứu rỗi. |
|
One of these truths is that the love of God is eternal, and that His love for His people has been steadfast and unalterable. Whenever the time is ripe and the need of the people warrants it, He comes forth for the saving of the souls of men. [58] Krishna in ancient India proclaimed this truth in the majestic words: |
Một trong những chân lý nói trên là tình thương của Thượng Đế vốn vĩnh cửu, và tình thương của Ngài với dân Ngài vốn bền bỉ và không hề thay đổi. Khi thời cơ chín muồi, và khi sự kêu cầu của dân chúng có lý do chính đáng, Ngài đến để cứu rỗi linh hồn con người. (58) Đức Krishna vào thời kỳ Ấn Độ cổ đại, đã công bố chân lý này với những lời lẽ uy nghiêm: |
|
“Whenever there is a withering of the law… and an uprising of lawlessness on all sides, then I manifest Myself. |
“Bất cứ khi nào luật pháp suy đồi . . . và tình trạng vô luật lệ nổi lên trong mọi phương diện, lúc đó Ta tự biểu lộ. |
|
“For the salvation of the righteous and the destruction of such as do evil; for the firm establishing of the law I come to birth in age after age. |
“Để cứu vãn sự ngay chánh và xóa tan những gì tà vạy, để thiết lập luật pháp một cách vững vàng, Ta giáng lâm hết thời đại này đến thời đại khác. |
|
“He who thus perceives My birth and work as divine, as in truth it is… he goes to Me, Arjuna.” [lxii]34 |
“Vì vậy, hỡi Arjuna, những ai nhận thấy sự giáng sinh và công việc của Ta là thiêng liêng, và quả thật là như thế . . . thì người đó đến với Ta.”[34] |
|
Again and again such teachers have come forth, manifested as much of the divine nature as the racial development warranted, spoken those words which determined the culture and the civilisation of the peoples, and then passed on their way, leaving the seed sown, to germinate and bear fruit. In the fullness of time Christ came and, if evolution means anything at all and if the race as a whole has developed and unfolded its consciousness, the message He gave and the life He lived must necessarily sum up all the best in the past, completing and fulfilling it, and proclaim a possible future spiritual culture which will greatly transcend all that the past may have given. |
Các huấn sư nói trên đã giáng trần hết lần này đến lần khác, và biểu hiện bản tính thiêng liêng theo mức cần cho sự phát triển của nhân loại. Các vị cũng nói lên những lời xác định nền văn hóa và văn minh của các dân tộc, rồi tiếp tục lên đường, để lại những hạt giống đã gieo, nảy mầm và tạo quả. Đúng ngày giờ, Đức Christ đã đến. Nếu cuộc tiến hóa có ý nghĩa nào đó, và nếu toàn thể nhân loại đang phát triển và mở mang tâm thức, thì bức thông điệp Ngài đã đưa ra và cuộc đời Ngài đã sống nhất thiết phải tổng kết tất cả những gì tốt đẹp nhất trong quá khứ, hoàn tất và giúp chúng trở nên viên mãn. Đồng thời nó cũng công bố nền văn hóa tinh thần khả dĩ có trong tương lai, mà sẽ hoàn toàn vượt cao hơn tất cả những gì có thể đã có trong quá khứ. |
|
The majority of these great Sons of God were, curiously enough, born in a cave and usually of a virgin mother. |
Điều khá kỳ lạ là đa số những vị Thiên Đế Tử cao cả này lại sinh ra trong hang động và thường là từ người mẹ đồng trinh. |
|
“In regard to the Virgin Birth it is significant that there is no reference to it in the Epistles which form the earliest Christian documents; but, on the contrary, St. Paul speaks of Jesus as `made of the seed of David according to the flesh’ [lxiii]35 that is to say, of the seed of Joseph, David’s descendant. The earliest Gospel, that of St. Mark, dating between A.D. 70 and 100, does not mention it; nor does the Gospel of St. John, dating from some time not earlier than A.D. 100. The Book of Revelation, written between A.D. 69 and 93, is silent on the subject, though had the Virgin Birth then been an important tenet of the faith it would undoubtedly have figured in the mystical symbolism of that composition.” [lxiv] 36 |
“Nói về việc Sinh ra từ Mẹ Đồng trinh, điều có ý nghĩa là không hề có đề cập đến việc này trong các Bức thư của Sứ đồ, vốn là những tài liệu đầu tiên của Thiên Chúa giáo. Nhưng trái lại, Thánh Paul thì nói rằng Đức Jesus ‘được sinh ra từ hạt giống của David, xét về mặt thân xác’[35] tức là từ hạt giống của Joseph, hậu duệ của David. Sách Phúc âm đầu tiên, của Thánh Mark, có trong khoảng năm 70 đến 100 sau Công nguyên, cũng không đề cập đến việc này. Sách Phúc âm của Thánh John, có thời gian không sớm hơn năm 100 sau Công nguyên, cũng không hề nói đến. Sách Khải huyền, viết trong khoảng năm 69 và 93 sau Công nguyên, cũng không nói gì về vấn đệ này, dù rằng nếu vấn đề Giáng sinh từ Đức Mẹ Đồng trinh bấy giờ đã là giáo lý quan trọng của tín ngưỡng Thiên Chúa giáo thì hẳn nhiên nó sẽ được nêu lên trong phần biểu tượng thấn bí của tác phẩm ấy.”[36] |
|
[59] |
(59) |
|
Isis was often represented standing on the crescent moon, with twelve stars surrounding her head. In almost every Roman Catholic church on the continent of Europe may be seen pictures and statues of Mary, the “Queen of Heaven,” standing on the crescent moon, her head surrounded with twelve stars. |
Nữ thần Isis thường được mô tả đứng trên vầng trăng lưỡi liềm với mười hai ngôi sao vòng quanh đầu bà. Trong hầu hết mọi nhà thờ Công giáo La Mã ở châu Âu, chúng ta có thể thấy các bức tranh và tượng của Đức Mẹ Mary, vị “Nữ hoàng của Thiên đường,” đứng trên vầng trăng lưỡi liềm, và đầu bà có mười hai ngôi sao vòng quanh. |
|
“It would seem more than a chance that so many of the virgin mothers and goddesses of antiquity should have the same name. The mother of Bacchus was Myrrha; the mother of Mercury or Hermes was Myrrha or Maia; the mother of the Siamese Saviour—Sommona Cadom was called Maya Maria, i.e. `the Great Mary’; the mother of Adonis was Myrrha; the mother of Buddha was Maya; now, all these names whether Myrrha, Maia or Maria, are the same as Mary, the name of the mother of the Christian Saviour. The month of May was sacred to these goddesses, so likewise is it sacred to the Virgin Mary at the present day. She was also called Myrrha and Maria, as well as Mary….” [lxv]37 |
“Dường như không phải là điều ngẫu nhiên mà quá nhiều bà mẹ và nữ thần đồng trinh của thời xưa đều có cùng tên. Mẹ của Bacchus là Myrrha; mẹ của Mercury hay Hermes là Myrrha hay Maia; mẹ của vị Cứu tinh Thái Lan – Sommona Cadom – được gọi là Maya Maria, tức là ‘Mary Vĩ đại’; mẹ của Adonis là Myrrha; thân mẫu của Đức Phật la Maya. Hiện nay, tất cả các danh hiệu này dù là Myrrha, Maia hay Maria, đều cũng là Mary, danh hiệu của mẹ của vị Cứu thế Thiên Chúa giáo. Tháng Năm (May) được thánh hóa và dùng cho các vị nữ thần này, cũng như ngày nay nó được dùng cho Đức Mẹ Đồng trinh Mary. Bà cũng được gọi là Myrrha, và Maria, hay Mary . . . .”[37] |
|
In the symbolic language of esotericism, a cave is regarded as the place of initiation. This has always been so, and a very interesting study of the initiatory process and of the new birth could be made if the many references in the ancient writings to these events which have transpired in caves were collected and analysed. The stable in which Jesus was born was in all likelihood a cave, for many stables were, in those days, hollowed out of the ground. This was recognised by the early Church, and we are told that “it is well known that whereas in the Gospels Jesus is said to have been born in an inn stable, early Christian writers, as Justin Martyr and Origen, explicitly say He was born in a cave.” [lxvi]38 |
Trong ngôn ngữ biểu tượng của khoa nội môn, hang động được xem là nơi điểm đạo. Cho đến nay điều này vẫn đúng như thế. Chúng ta có thể làm một cuộc nghiên cứu rất thú vị về tiến trình điểm đạo, nếu thu thập và phân tích các đoạn tham khảo những áng văn cổ xưa về các sự kiện này, vốn đã xảy ra trong hang động. Chuồng ngựa nơi Chúa Jesus sinh ra hoàn toàn giống như một hang động, vì vào thời ấy nhiều chuồng ngựa được đào trong lòng đất. Điều này đã được Giáo hội trong thời kỳ ban đầu công nhận. Và người ta bảo “ai cũng biết rằng dù các sách Phúc âm đều nói Chúa Jesus được sinh ra trong một chuồng ngựa nơi lữ quán, nhưng các tác giả trong thời kỳ đầu của Thiên Chúa giáo, như Thánh tử đạo Justin và Origen, đều nói rõ rằng Ngài đã ra đời trong hang động.”[38] |
|
In studying these five initiations of the Gospel story, we find that two of them took place in a cave, two on a mountain top and one on the level between the deeps and the heights. The first and last initiations (the Birth into life and the Resurrection into “life more abundantly” [lxvii]39) took place in [60] a cave. The Transfiguration and the Crucifixion were enacted on the summit of a mountain or hill, whilst the second initiation, after which Christ entered upon His public ministry, took place in a river, in the plains around Jordan—symbolic perhaps of Christ’s mission to live and work down amongst men. The Masonic phrase to “meet on the level” takes on here an added significance. After each mountain experience, the Christ came down again on to the level of daily life and there manifested the effects or results of that high event. |
Khi nghiên cứu năm cuộc điểm đạo này trong câu chuyện Phúc âm, chúng ta thấy rằng hai trong số đó xảy ra trong hang động, hai lần khác xảy ra trên đỉnh núi, và một lần ở khoảng giữa vực sâu và đỉnh cao. Các lần điểm đạo đầu tiên và cuối cùng (kỳ Giáng sinh và Phục sinh vào “đời sống phong phú hơn”[39]) đã xảy ra trong (60) hang động. Cuộc điểm đạo Biến dung và Thập giá hình diễn ra trên đỉnh núi hay đỉnh đồi. Trong khi đó, cuộc điểm đạo thứ hai, sau khi Đức Christ bắt đầu nhiệm vụ truyền giảng cho công chúng, thì xảy ra trên sông, ở vùng đồng bằng chung quanh Jordan. Có lẽ đây là biểu tượng sứ mệnh của Đức Christ phải sống và làm việc trong cõi đời này, giữa mọi người. Câu nói của Hội Tam Điểm “gặp gỡ trong đời thường” cho thấy ý nghĩa ở đây rõ hơn. Sau mỗi lần kinh nghiệm trên núi, Đức Christ lại trở xuống tầm mức của đời thường để làm biểu lộ những hiệu quả hay kết quả của sự kiện cao siêu vừa kể. |
|
Mithras was born in a cave, and so were many others. Christ was born in a cave and entered, as did all the others, upon a life of service and of sacrifice, thus qualifying for the task of world Saviour. They brought light and revelation to mankind and were sacrificed, in the majority of cases, to the hatred of those who did not understand their message, or who objected to their methods. All of them “descended into hell and rose again on the third day.” There are twenty or thirty of these stories scattered through the centuries of human history, and the stories and the missions are ever identical. |
Mithras sinh ra trong hang động, và nhiều vị khác nữa cũng vậy. Đức Christ sinh ra trong hang động và, như tất cả những vị khác, Ngài bước vào cuộc đời phụng sự và hy sinh, vì thế mà đủ điều kiện làm nhiệm vụ của vị Cứu thế. Các Ngài mang ánh sáng và sự khải thị đến cho nhân loại, rồi sau đó chịu hy sinh. Đa số các trường hợp là do sự thù ghét của những kẻ không hiểu bức thông điệp của các Ngài, hoặc những kẻ phản đối phương pháp của các Ngài. Tất cả các Ngài đều “giáng xuống địa ngục rồi trở lên vào ngày thứ ba.” Có khoảng hai chục hay ba chục câu chuyên như thế, rải rác qua nhiều thế kỷ trong lịch sử của nhân loại, và những câu chuyện cũng như các sứ mệnh này bao giờ cũng giống nhau. |
|
“The Jesus-story, it will now be seen, has a greater number of correspondences with the stories of former Sungods and with the actual career of the Sun through the heavens—so many indeed that they cannot well be attributed to mere coincidence or even to the blasphemous wiles of the Devil! Let us enumerate some of these. There are (1) birth from a Virgin mother; (2) the birth in a stable (cave or underground chamber); and (3) on the 25th December (just after the winter solstice). There is (4) the Star in the East (Sirius) and (5) the arrival of the Magi (the `Three Kings’); there is (6) the threatened Massacre of the Innocents, and the consequent flight into a distant country (told also of Krishna and other Sungods). There are the Church festivals of (7) Candlemas (2nd February), with processions of candles to symbolise the growing light; of (8) Lent, or the arrival of Spring; of (9) Easter Day (normally on 25th March) to celebrate the crossing of the Equator by the Sun; and (10) simultaneously the outburst of lights at the Holy Sepulchre at Jerusalem. There is (11) [61] the Crucifixion and death of the Lamb-God, on Good Friday, three days before Easter; there are (12) the nailing to a tree, (13) the empty grave, (14) the glad Resurrection (as in the cases of Osiris, Attis and others); there are (15) the twelve disciples (the Zodiacal signs); and (16) the betrayal by one of the twelve. Then later there is (17) Mid-summer Day, the 24th June, dedicated to the birth of the beloved disciple John, and corresponding to Christmas Day; there are the festivals of (18) the Assumption of the Virgin (15th August) and of (19) the Nativity of the Virgin (8th September), corresponding to the movement of the god through Virgo; there is the conflict of Christ and his disciples with the autumnal asterisms, (20) the Serpent and the Scorpion; and finally there is the curious fact that the Church (21) dedicates the very day of the winter solstice (when any one may very naturally doubt the re-birth of the Sun) to St. Thomas, who doubted the truth of the Resurrection!” [lxviii] 40 |
“Nay chúng ta thấy rằng câu chuyện của Chúa Jesus có nhiều điều tương ứng hơn nữa với các câu chuyện của những vị Thần Thái dương đến trước Ngài, và tương ứng với hành trình của Mặt trời đi qua bầu trời – quả thực nhiều đến đỗi không thể nào cứ cho đó chỉ là những điều trùng hợp, hoặc thậm chí còn xem như những mưu mẹo báng bổ của Quĩ ma! Vậy chúng ta hãy kể ra một số điều tương ứng ấy. Đó là (1) sinh ra từ bà mẹ Đồng trinh; (2) sinh ra trong chuồng ngựa (hang động hay phòng dưới đất); và (3) vào ngày 25 tháng 12 (ngay sau đông chí). Có (4) Ngôi sao mọc ở phương Đông (Sirius) và (5) sự đến nơi của các Nhà thông thái (‘Ba Vua’); có sự đe dọa Tàn sát Trẻ con vô tội, và sau đó là việc chạy trốn về vùng xa (cũng như trường hợp Đức Krishna và các vị Thần Thái dương khác). Có những cuộc lễ của Giáo hội như (7) lễ Nến (ngày 02 tháng 02) có rước nến để tượng trưng cho ánh sáng ngày càng chói rạng; (8) Mùa chay, hay là đến Mùa Xuân; (9) lễ Phục sinh (thường vào 25 tháng 3) đánh dấu thời gian Mặt trời đi ngang qua Xích đạo; và đồng thời đèn bừng sáng lên tại Ngôi mộ Thánh của Chúa Jesus ở Jerusalem. Có (11) (61) lễ Thập giá hình và sự chết của Thượng Đế-Chiên Con, vào Thứ Sáu tuần Thánh, ba ngày trước lễ Phục sinh; có việc đóng đinh trên cây, (13) ngôi mộ trống không, (14) sự Phục sinh trong hoan hỉ (như trong trường hợp của Osiris, Attis và những vị khác); có (15) mười hai người môn đồ (các cung Hoàng đạo); và (16) sự phản bội của một trong mười hai người này. Rồi sau đó có (17) ngày lễ Giữa Mùa Hạ, 24 tháng 6, để kỷ niệm ngày sinh của John, vị môn đồ thân yêu, và tương ứng với Ngày lễ Giáng sinh; có những kỳ lễ (18) Thăng thiên của Đức Mẹ Đồng trinh (15 tháng 8) và (19) Ngày sinh của Đức Mẹ (08 tháng 9), tương ứng với sự di chuyển của vị thần này qua cung Trinh nữ; có sự bất đồng giữa Đức Christ và các môn đồ về những chòm sao vào mùa thu, (20) con Rắn và Bò cạp; và cuối cùng là điều kỳ lạ khi Giáo hội (21) dành chính ngày đông chí (khi bất cứ ai cũng đương nhiên nghi vấn về sự tái sinh của Mặt trời) cho Thánh Thomas, người đã nghi ngờ sự thực Phục sinh!”[40] |
|
Any student of comparative religion can investigate the truth of these statements, and at the end will stand amazed at the persistence of God’s love and the willingness to sacrifice Themselves which all these Sons of God manifest. |
Bất cứ ai học về tôn giáo đối chiếu đều có thể khảo sát sự đúng thực của những điều nói trên, và rốt cuộc sẽ ngạc nhiên về sự kiên định trong tình thương của Thượng Đế, và sự sẵn sàng tự hy sinh mà tất cả những vị Thiên Đế Tử này chứng tỏ. |
|
It is therefore wise and timely to remember that: |
Thế nên, nay đến lúc chúng ta cần sáng suốt lưu ý rằng: |
|
“These events are reproduced in the lives of the various Solar Gods, and antiquity teems with illustrations of them. Isis of Egypt, like Mary of Bethlehem, was our Immaculate Lady, Star of the Sea, Queen of Heaven, Mother of God. We see her, in pictures, standing on the crescent moon, star-crowned, she nurses her child Horus, and the cross appears on the back of the seat in which he sits on his mother’s knee. The Virgo of the zodiac is represented in ancient drawings as a woman suckling a child—the type of all future Madonnas with their divine Babes, showing the origin of the symbol. Devaki is likewise figured with the divine Krishna in her arms, as is Mylitta, or Istar, of Babylon, also with the recurrent crown of stars, and with her child Tammuz on her knee. Mercury and Aesculapius, Bacchus and Hercules, Perseus and the Dioscuri, Mithras and Zarathustra were all of divine and human birth.” [lxix]41 |
“Những sự kiện nói trên được tái diễn trong cuộc đời của các vị Thần Thái dương khác nhau, và thời xưa có rất nhiều minh họa về các vị ấy. Isis ở Ai Cập, cũng giống như Mary ở Bethlehem, đều là Đức Bà Vô nhiễm của chúng ta, là Ngôi sao trên Biển cả, vị Nữ hoàng của cõi Thiên đường, là Mẹ của Thượng Đế. Trong các tranh ảnh, chúng ta thấy bà đứng trên vầng trăng lưỡi liềm, đội vương miện với những ngôi sao. Bà chăm sóc con của bà là Horus, và thánh giá xuất hiện trên lưng ghế mà trong đó người con ngồi trên gối của mẹ mình. Cung Trinh nữ của hoàng đạo được trình bày trong các bức họa cổ xưa với hình người phụ nữ cho con bú – hình ảnh của tất cả các Đức Mẹ tương lai cùng với những Hài nhi thiêng liêng của mình, cho thấy nguồn gốc của biểu tượng này. Devaki cũng được vẽ có người con thiêng liêng là Krishna trong tay, giống như Mylitta, hoặc Istar ở Babylon, vị nào cũng đội vương miện gắn những ngôi sao, đang đặt con của bà là Tammuz trên gối. Mercury và Aesculapius, Bacchus và Hercules, Perseus và Dioscuri, Mithras và Zarathustra, tất cả đều sinh ra từ con người một cách thiêng liêng.”[41] |
|
It is apposite to recall that the cathedral of Notre Dame [62] in Paris is built upon the ancient site of a Temple of Isis, and that the early Church very frequently availed itself of a so-called heathen opportunity to determine a Christian rite or a day of sacred remembrance. Even the establishing of Christmas Day on December 25th was so determined. The same writer quoted above tells us that: |
Chúng ta nên nhớ rằng nhà thờ Đức Bà (62) ở Paris được xây dựng trên địa điểm cổ xưa của một Đền thờ Nữ thần Isis. Cũng nên nhớ rằng Giáo hội trong thời gian đầu rất thường khi tự ý dùng một điều gì đó gọi là của ngoại đạo để xác định một nghi lễ hoặc ngày kỷ niệm thánh lễ của Thiên Chúa giáo. Thậm chí việc lập ra Ngày lễ Giáng sinh vào 25 tháng 12 cũng đã được quyết định theo cách đó. Tác giả nói trên còn cho biết rằng: |
|
“On the fixing of the 25th December as the birthday of Jesus, Williamson has the following: `All Christians know that the 25th December is now the recognised festival of the birth of Jesus, but few are aware that this has not always been so. There have been, it is said, one hundred and thirty-six different dates fixed on by different Christian sects. Lightfoot gives it as September 15th, others as in February or August. Epiphanius mentions two sects, one celebrating in June, the other in July. The matter was finally settled by Pope Julius in 337 A.D., and St. Chrysostom, writing in 390, says: `On this day (i.e. 25th December) also the birth of Christ was lately fixed at Rome, in order that while the heathen were busy with their ceremonies (the Brumalia, in honour of Bacchus) the Christians might perform their rites undisturbed.’“ [lxx]42 |
“Williamson nói về việc ấn định ngày 25 tháng 12 là ngày sinh của Chúa Jesus như sau: ‘Tất cả các tín đồ Thiên Chúa giáo đều biết rằng hiện nay ngày 25 tháng 12 được công nhận là ngày lễ giáng sinh của Chúa Jesus, nhưng ít có ai biết rằng điều này không phải bao giờ cũng đúng. Người ta nói rằng đã có một trăm ba mươi sáu ngày tháng khác nhau được ấn định bởi các môn phái Thiên Chúa giáo khác nhau. Lightfoot thì cho đó là ngày 15 tháng 9, trong khi những phái khác thì cho là vào tháng 2 hay tháng 8. Epiphanius có nêu hai giáo phái, một phái cử hành lễ này vào tháng 6, còn phái kia vào tháng 7. Cuối cùng, Giáo hoàng Julius giải quyết vấn đề trong năm 337 sau Công nguyên, và Thánh Chrysostom viết trong năm 390 rằng: ‘Ngày này (tức là 25 tháng 12) cũng là ngày sinh của Đức Christ trong thời gian gần đây đã được ấn định ở La Mã, để cho dù người ngoại đạo có nhộn nhịp tổ chức những cuộc lễ của họ (lễ Brumalia, tôn vinh Bacchus) thì tín đồ Thiên Chúa giáo vẫn có thể ổn định cử hành các nghi lễ của mình.’”[42] |
|
The choice of this particular date is cosmic in its implications, and not unwittingly, we can be sure, did the wise men of earlier times make these momentous decisions. Annie Besant tells us that: |
Việc chọn lựa ngày tháng đặc biệt này vốn có hàm ý vũ trụ, và chúng ta có thể chắc rằng những con người khôn ngoan của thời xưa chẳng phải là không có chủ tâm khi đưa những quyết định quan trọng này. Bà Annie Besant nói rằng: |
|
“He is always born at the winter solstice, after the shortest day in the year, at the midnight of the 24th December when the sign Virgo is rising above the horizon; born as this Sign is rising, he is born always of a virgin, and she remains a virgin after she has given birth to her Sun-child as the celestial Virgo remains unchanged and unsullied when the Sun comes forth from her in the Heavens. Weak, feeble as an infant is he, born when the days are shortest and the nights are longest….” [lxxi] 43 |
“Ngài bao giờ cũng sinh ra vào kỳ đông chí, sau ngày ngắn nhất trong năm, vào nửa đêm 24 tháng 12 khi chòm sao Trinh nữ vừa lên khỏi chân trời. Sinh ra khi chòm sao này đang lên, Ngài bao giờ cũng sinh từ một trinh nữ. Và bà vẫn còn trinh bạch sau khi hạ sinh người con Thái dương của mình. Giống như chòm sao Trinh nữ trên trời vẫn không hề thay đổi và không bị ô nhiễm khi Mặt trời ra khỏi chòm sao này trên bầu trời. Ngài sinh ra như một trẻ thơ non nớt và yếu đuối, vào thời gian có ngày ngắn nhất và đêm dài nhất . . . .”[43] |
|
It is also interesting to remember that: |
Có một điều thú vị là: |
|
“The Venerable Bede, [lxxii]44 writing in the early part of the Eighth [63] Century, says that `the ancient people of the Anglian nation’, by which he means the pagan English before their settlement in Britain about A.D. 500, `began the year on December 25th, when we now celebrate the birthday of our Lord’; and he tells us that the night of December 24th-25th `which is the very night now so holy to us was called in their tongue Modranecht, that is to say “Mother’s Night,” by reason of the ceremonies which in that night-long vigil they performed.’ He does not mention what those ceremonies were, but it is clear that they were connected with the birth of the Sun-god. At the time when the English were converted to Christianity in the Sixth and Seventh Centuries the festival of the Nativity on December 25th had been already long established in Rome as a solemn celebration; but in England its identification with the joyous old pagan Yule—a word apparently meaning a `jollification’—gave it a merry character which it did not possess in the south. This character has survived, and is in marked contrast to its nature amongst the Latin races, with whom the northern custom of feasting and giving Christmas presents was unknown until recent years.” [lxxiii]45> |
“Thánh Bede Khả kính,[44] trong thời gian đầu Thế kỷ (63) Mười Tám, viết rằng ‘người dân thời xưa của quốc gia Anh’, tức là ông muốn nói đến những người Anh ngoại đạo trước khi họ định cư ở Anh Quốc vào khoảng năm 500 sau Công nguyên, ‘khởi đầu mỗi năm của họ vào ngày 25 tháng 12, là thời điểm mà hiện nay chúng ta kỷ niệm ngày sinh nhật của Chúa.’ Ông nói thêm rằng đêm 24 rạng ngày 25 tháng 12 ‘chính là đêm hiện nay rất linh thánh của chúng ta. Đêm này bấy giờ được gọi là Modranecht trong ngôn ngữ của họ, có nghĩa là “Đêm của Mẹ.” Lý do là vì có những cuộc lễ mà họ phải thức để cử hành trong suốt đêm đó.’ Ông không nêu rõ các nghi lễ ấy như thế nào, nhưng rõ ràng là chúng có liên quan đến sự giáng sinh của Thần Thái dương. Vào thời gian mà người Anh chuyển sang Thiên Chúa giáo trong Thế kỷ Thứ Sáu và Thứ Bảy, thì lễ Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12 đã được xác lập từ lâu tại La Mã như một cuộc lễ trang nghiêm. Thế nhưng ở xứ Anh, lễ này đồng hóa với lễ Yule của ngoại đạo có tính cổ xưa nhưng vui nhộn. Từ này dường như có nghĩa là ‘cuộc vui chơi’, khiến nó mang tính cách hân hoan mà nó không có ở miền nam. Đặc tính này vẫn còn tồn tại, tương phản rõ rệt với tính cách của nó trong các chủng tộc La Tinh. Mãi đến những năm gần đây, họ vẫn chưa biết đến tục lệ tiệc tùng và trao quà Giáng sinh của miền bắc.”[45] |
|
At the time of the birth of Christ, Sirius, the Star in the East, was on the meridian line, Orion, called “The Three Kings” by oriental astronomers, was in proximity; therefore the constellation Virgo, the Virgin, was rising in the east, and the line of the ecliptic, of the equator and of the horizon all met in that constellation. It is interesting also to note that the brightest and largest star in the constellation Virgo is called Spica; it is to be found in the “ear of corn” (sign of fertility) which the Virgin holds. Bethlehem means the “house of bread,” and there is therefore an obvious connection between these two words. This constellation is also composed of three stars in the shape of a cup. This is the true Holy Grail, that which contains the life blood, the repository of the sacred and the holy, and that which conceals divinity. These are astronomical facts. The interpretation of the symbolism attached from ancient days to these constellations is as old as religion itself. Whence came the signs, and how the [64] meanings and symbols associated with them came into being, is lost in the night of time. They have existed in men’s minds and thoughts and writings for thousands of years, and are our joint heritage today. The ancient zodiac of Dendera (antedating Christianity by several thousand years) is ample proof of this. In the sun’s journey around the zodiac, this “Man of the Heavens” eventually arrives at Pisces; this sign is exactly opposite the sign Virgo, and is the sign of all world Saviours. We have already seen that the age of Christianity is the Piscean Age, and Christ came to the Holy Land when our sun transitted into that sign. Therefore that which was started and had its being in Virgo (the birth of the Christ Child) is consummated in Pisces when that Christ Child, having attained maturity, comes forth as the world Saviour. |
Vào lúc Đức Christ sinh ra, Sirius, tức là Ngôi sao ở phương Đông, bấy giờ đang ở trên thiên đỉnh, còn Orion, được các nhà thiên văn đông phương gọi là sao “Ba Vua”, đang ở gần đó. Vì thế, chòm sao Trinh nữ, hay Xử nữ, đang lên ở phương Đông, và đường quỹ đạo của mặt trời, của xích đạo, và của đường chân trời, đều gặp nhau trong chòm sao ấy. Điểm thú vị cũng cần lưu ý là ngôi sao sáng nhất và lớn nhất trong chòm sao Trinh nữ được gọi là Spica. Ta thấy nó trong “bông lúa mì” (dấu hiệu của sự phong phú) mà Đức Mẹ Đồng trinh cầm trong tay. Bethlehem có nghĩa là “nhà làm bánh mì.” Vì thế, có mối liên kết hiển nhiên giữa hai từ này. Chòm sao này cũng gồm có ba ngôi sao với hình dáng chiếc cốc. Đây quả thực là Chén Thánh, chứa đựng máu huyết của sự sống, nơi gìn giữ những gì linh thánh, và nơi ẩn tàng thiên tính. Đây là những sự kiện thực tế của khoa thiên văn. Việc diễn giải của khoa biểu tượng áp dụng cho các chòm sao này từ thời cổ đại thì cũng xa xưa như chính tôn giáo vậy. Các thiên tượng này từ đâu đến, và bằng cách nào (64) mà có những ý nghĩa và biểu tượng gắn liền với chúng, thì đã bị chìm vào đêm tối của thời gian. Chúng đã hiện hữu trong tâm tưởng và sách vở của con người qua hàng ngàn năm, và ngày nay là di sản chung của chúng ta. Vòng hoàng đạo cổ xưa của Dendera (có trước Thiên Chúa giáo nhiều ngàn năm) là bằng chứng quá đủ cho điều này. Trong hành trình của mặt trời đi quanh vòng hoàng đạo, vị “Thiên Nhân” này rốt cuộc đến với Song ngư. Đây chính xác là cung đối của cung Trinh nữ, và nó là cung của tất cả những vị Cứu thế. Chúng ta đã thấy rằng thời đại của Thiên Chúa giáo là Thời đại Song ngư, và Đức Christ đi đến Thánh Địa khi mặt trời di chuyển vào cung ấy. Vì thế, điều đã bắt đầu và phát sinh trong cung Trinh nữ (sự sinh ra của Trẻ thơ Christ) thì được hoàn thành trong cung Song ngư khi Trẻ thơ Christ đã trưởng thành, và xuất hiện như một vị Cứu thế. |
|
One other astronomical fact is of interest in this connection. Closely associated with the constellation Virgo, and to be found in the same section of the Heavens, are three other constellations, and in these three there is portrayed for us symbolically the story of the Child which shall be born, suffer and die and come again. There is the group of stars called Coma Berenice, the Woman with the Child. There is Centaurus, the Centaur, and Boötes, whose name in the Hebrew language means the “Coming One.” First, the child born of the woman and that woman a virgin; then the centaur, ever the symbol of humanity in the ancient mythologies, for man is an animal, plus a god, and therefore a human being. Then He Who shall come looms over them all, overshadowing them, pointing to the fulfilment which shall come through birth and human incarnation. Truly the picture book of the heavens holds eternal truth for those who have eyes to see and the intuition developed rightly to interpret. Prophecy is not confined to the Bible but has ever been held before men’s eyes in the vault of heaven. |
Trong vấn đề này có một sự kiện thực tế về thiên văn học đáng quan tâm. Kết hợp chặt chẽ với chòm sao Trinh nữ, và ở trong cùng khu vực trên bầu trời, có ba chòm sao khác. Về mặt biểu tượng, ba chòm sao này phác họa cho chúng ta thấy câu chuyện của Trẻ thơ được sinh ra, chịu đau khổ và chết rồi sống lại. Có một nhóm sao gọi là Coma Berenice, Người mẹ bồng Con. Có sao Centaurus, Quái vật Người Ngựa, và sao Boötes, tên gọi này trong tiếng Do Thái có nghĩa là “Đấng Giáng lâm.” Trước hết, đứa trẻ được sinh ra từ người mẹ là một trinh nữ. Sau đó là quái vật người ngựa, bao giờ cũng là biểu tượng của nhân loại trong những câu chuyện thần thoại cổ xưa. Bởi vì con người là một con vật kết hợp với một vị thần, nhờ đó mà trở thanh người. Rồi Đấng Giáng lâm bao trùm ảnh hưởng lên chúng, chỉ rõ sự hoàn thành viên mãn qua sự giáng sinh và kiếp sống làm người. Quả thực là những ký ảnh thiêng liêng lưu giữ chân lý vĩnh cửu cho những ai có mắt thấy được, và có trực giác phát triển đúng đắn để diễn giải. Sự tiên tri không chỉ giới hạn trong Kinh thánh, mà bao giờ cũng được gìn giữ trên bầu trời, trong tầm nhìn của con người. |
|
Thus as “the heavens declare the glory of God, and the firmament sheweth His handiwork,” [lxxiv]46we have the prophecy [65] of that world event which took place when Christ was born in Bethlehem, the “house of bread,” and Virgo rose above the horizon, whilst the Star in the East shone forth. |
Giống như “các cõi thiêng liêng vinh danh Thượng Đế, và bầu trời phô bày công trình của Ngài,”[46] chúng ta cũng có lời tiên tri (65) về sự kiện này của thế giới đã xảy ra khi Đức Christ chào đời tại Bethlehem, “ngôi nhà làm bánh mì,” và chòm sao Trinh nữ mọc lên trên đường chân trời, trong khi Ngôi sao ở phương Đông chói rạng. |
|
Christ came, then, to His Own flesh and blood because the world of men drew Him and the love of the Father impelled Him. He came to give to life a purpose and fulfilment, and to indicate to us the Way: He came to give us an example, so that we could be galvanised by the hope that “maketh not ashamed” [lxxv]47 to “press toward the mark for the prize of our high calling.” [lxxvi]48 |
Bấy giờ Đức Christ đến, khoác lấy lớp áo nhục thân theo yêu cầu của thế giới loài người, và được thôi thúc bởi tình thương của Đấng Cha Lành. Ngài đến, giúp cho đời sống có mục đích và có thể hoàn thành, và chỉ cho chúng ta thấy Con Đường Đạo: Ngài đến nêu gương cho chúng ta, để chúng ta có thể trở nên mạnh mẽ với niềm hy vọng “không gây xấu hổ”[47] để “tiến bước đến mức nhận phần thưởng cho lời kêu gọi cao cả của chúng ta”[48] |
|
It should be noted here that the journey, preceding the birth, is also a part of the life-story of other teachers sent from God. For instance, we read: |
Ở đây cần lưu ý rằng cuộc hành trình trước khi sinh cũng là một phần trong câu chuyện cuộc đời của các huấn sư khác được Thượng Đế gửi đến. Ví dụ như, có đoạn nói: |
|
“Among the thirty-two signs which were to be fulfilled by the mother of the expected Messiah (Buddha), the fifth sign was recorded to be, `that she would be on a journey at the time of her child’s birth.’ Therefore, `that it might be fulfilled which was spoken by the prophets’ the virgin Maya, in the tenth month after her heavenly conception, was on a journey to her father, when lo, the birth of the Messiah took place under a tree. One account says that `she had alighted at an inn when Buddha was born.’ |
“Trong ba mươi hai dấu hiệu sẽ được hoàn thành bởi người mẹ của Đấng Cứu thế tương lai (Đức Phật), thì dấu hiệu thứ năm được ghi là ‘bà sẽ đang trong cuộc hành trình vào thời điểm bà sinh con.’ Vì thế, ‘với những gì có thể được thực hiện theo lời các nhà tiên tri’ thì bà mẹ đồng trinh Maya, trong tháng thứ mười sau khi bà thụ thai một cách thiêng liêng, bấy giờ đang trên đường về thăm cha, rồi bà sinh ra Đấng Cứu thế dưới một cội cây. Có sách viết rằng ‘bà đã đến ở một lữ quán khi sinh Đức Phật.’ |
|
“The mother of Lao-tse, the Virgin-born Chinese sage, was away from home when her child was born. She stopped to rest under a tree, and there, like the virgin Maya, gave birth to her son.” [lxxvii] 49 |
“Bà mẹ của Lão tử, nhà hiền triết sinh ra từ mẹ đồng trinh của Trung Hoa, cũng ở xa nhà khi sinh con bà. Bà dừng lại nghỉ ngơi dưới một cội cây và, giống như nữ đồng trinh Maya, bà hạ sinh con trai của mình ở đó.”[49] |
|
We are told in the Gospel story that the Virgin Mary, with her husband Joseph and bearing within herself the Christ Child, went up from Nazareth in Galilee to Bethlehem. Sometimes, through a study of the significances of the names we meet in the Bible and in tradition, we can throw much light on the episode itself and unveil some of its hidden meaning. In the study of the Bible story, I have used only the Bible itself and Cruden’s Concordance. The interpretation of the names is taken from Cruden’sConcordance. [66] Therein we find that “Nazareth” means “that which is consecrated” or set apart. “Galilee” means the “turning of the wheel”—that wheel of life and of death which turns continuously, carrying us all with it and keeping us upon the “wheel of existence,” as the Buddhists call it, until we have learnt life’s lessons and have become “a vessel unto honour, sanctified, and meet for the Master’s use.” [lxxviii]50 |
Trong câu chuyện Phúc âm có nói rằng Đức Mẹ Đồng trinh Mary, cùng với chồng bà là ông Joseph, và đang có mang Trẻ thơ Christ, đi từ Nazareth ở Galilee đến Bethlehem. Đôi khi, qua việc nghiên cứu ý nghĩa của các tên gọi gặp trong Kinh thánh và theo truyền thống, chúng ta có thể soi sáng rất nhiều cho chính các tình tiết, và khám phá ra vài ý nghĩa ẩn tàng của nó. Khi nghiên cứu câu chuyện Kinh thánh, tôi chỉ dùng chính Kinh thánh và Bảng chỉ mục của Cruden. Phần giải thích các tên gọi được lấy ra từ Bảng chỉ mục này. (66) Trong đó chúng tôi thấy rằng “Nazareth” có nghĩa là “nơi được hiến dâng” hay dành riêng. “Galilee” có nghĩa là “sự xoay chuyển của bánh xe.” Đó là bánh xe luân hồi sinh tử quay liên tục, mang theo tất cả chúng ta, và giữ tất cả chúng ta trên “vòng luân hồi,” như cách gọi của người Phật tử, cho đến khi chúng ta đã học được những bài học của đời sống, và đã trở thành “một chiếc thuyền được tôn vinh, thánh hóa, và thích hợp cho Chủ nhân sử dụng.”[50] |
|
The long journey of existence lies behind the Christ, and He, with His Mother, journeys the last part of the way. Consecrated from past aeons to this very work of world salvage, He has first of all to submit Himself to the ordinary processes of birth and childhood. Christ came forth from Nazareth, the place of consecration, and went up to Bethlehem, the House of Bread, where in a peculiar way He Himself was to become the “Bread of Life” [lxxix]51 to a hungry world. He was set apart, or set Himself apart (as do all awakened sons of God) for the work of redemption. He came to feed the hungry, and in this connection two verses in the Bible convey light upon His task and its preparation. Isaiah tells us that “Bread corn is bruised,” [lxxx]52 and Christ Himself told us that “Except a corn of wheat fall into the ground and die, it abideth alone, but if it die, it bringeth forth much fruit.” [lxxxi]53 This was the destiny awaiting Him when He came to the Birth in Bethlehem. Then He entered upon the career which eventually “bruised” Him and led Him to his death. |
Đức Christ đã trải qua cuộc hành trình lâu dài trong kiếp luân hồi và, cùng Mẹ, Ngài dấn bước trên đoạn cuối của con đường. Đã được dành riêng từ vạn kỷ cho công tác này nhằm cứu rỗi thế gian, trước hết, Ngài phải theo đúng các tiến trình bình thường, được sinh ra và trải qua thời thơ ấu. Đức Christ đến từ Nazareth, nơi được hiến dâng, rồi đi đến Bethlehem, Nhà làm Bánh mì, ở đó bằng một cách kỳ lạ Ngài đã tự trở thành “Bánh mì của Sự sống”[51] cho thế giới đang đói. Ngài đã được dành riêng, hay tự đứng riêng (như tất cả các những người con của Thượng Đế đã thức tỉnh) để làm công tác cứu rỗi. Ngài đến để nuôi dưỡng những người đói, và có hai câu trong Kinh thánh liên quan đến vấn đề này nói về nhiệm vụ của Ngài và việc chuẩn bị cho nhiệm vụ đó. Isaiah nói với chúng ta rằng “Hạt lúa mì bị bầm giập,”[52] chính Đức Christ cũng bảo chúng ta rằng “Hạt lúa mì vẫn ở một mình, trừ khi nó rơi rụng xuống đất và chết. Nhưng nếu nó chết, nó sẽ mang lại nhiều quả.”[53] Đây là vận mệnh đang chờ đợi Ngài khi Ngài giáng sinh ở Bethlehem. Sau đó, Ngài đi vào một sự nghiệp mà rốt cuộc làm cho Ngài “bị bầm giập” và khiến Ngài phải chết. |
|
According to the concordance, the name Mary means “the exalted of the Lord.” As one says these words, the famous picture, by Mulillo, of the Virgin, standing on the crescent moon and being gathered up into the clouds of Heaven, comes to mind. Such is the assumption of the Virgin into glory. There is another interesting point in connection with the constellation Virgo, upon which we might touch. Mary, the Virgin, in the symbolism of the ancient wisdom, stands [67] for virgin matter, for the substance which nurtures and nourishes and hides within itself the Christ child, the Christ consciousness. In the last analysis, it is through form and matter that God stands revealed. That is the story of the divine incarnation. Matter, overshadowed by the Holy Ghost, the third Person of the Trinity, brings to the birth the second Aspect of the Trinity, in the Person of Christ—cosmic, mythical and individual. |
Theo bảng chỉ mục nói trên, danh hiệu Mary có nghĩa là “người được Chúa ngợi khen.” Khi nói lên những lời này, chúng ta liên tưởng đến bức tranh nổi tiếng của Mullilo, vẽ Đức Mẹ Đồng trinh, đang đứng trên vầng trăng khuyết, và đang được đưa vào những đám mây trên bầu trời. Đó là sự thăng thiên của Đức Mẹ Đồng trinh đi vào nguồn vinh quang. Cũng có một điều thú vị khác liên quan đến chòm sao Trinh nữ, mà chúng ta có thể bàn ở đây. Trong khoa biểu tượng của nền minh triết ngàn xưa, Mary, Đức Mẹ Đồng trinh tượng trưng (67) cho vật chất trinh nguyên, cho cái chất liệu nuôi dưỡng, bồi dưỡng và che giấu trẻ thơ Christ, và tâm thức Christ bên trong nó. Xét cho cùng, chính là qua vật chất và hình thể mà Thượng Đế biểu hiện. Đó là câu chuyện lâm phàm thiêng liêng. Khi được phủ bóng bởi Chúa Thánh Thần, Ngôi thứ ba trong Ba Ngôi, thì vật chất sinh ra trạng thái thứ hai của Ba Ngôi, trong Ngôi Christ – theo ý nghĩa vũ trụ, huyền thoại và cá nhân. |
|
Associated with the story-book of the heavens there are three constellations (besides the constellation Virgo) which are symbolised by women. There is Cassiopeia, the Woman Enthroned. This is the constellation which is the symbol of the stage in human life at which matter and form are dominant and triumphant; when the inner divine life is so deeply hidden that it shows no sign, and only the material nature controls and rules. Then there comes the later stage in the history of the race and of the individual, when we find Coma Berenice symbolically emerging—the Woman bearing the Christ Child is seen. Here matter begins to reveal its true function, which is to bring to the birth the Christ in every form. When the turning of the great wheel of life has played its part, then Mary can come out of Galilee, from Nazareth, and journey to Bethlehem, there to give birth to the Saviour. Finally there is Andromeda, the Woman chained, or matter brought into subservience to the soul. The Soul or the Christ now rules. First, matter dominant, enthroned and triumphant. Then matter, the custodian of hidden divinity, beauty and reality, ready to bring them to the birth. Finally, matter as the servant of that which has been born, the Christ. However, none of this is brought about unless the journey is made from Nazareth, the place of consecration, and from Galilee, the place of the daily round of life; and this is true, whether one is speaking of the cosmic Christ, hidden by the form of a solar system; of the mythic Christ, hidden in humanity down the ages; of the historical Christ, concealed within the form of Jesus; or of the individual Christ, hidden within the ordinary man. For always the [68] routine is the same—the journey, the new birth, the experience of life, the service to be rendered, the death to be endured, and then the resurrection into more extended service. |
Trong sách chiêm tinh có ba chòm sao (ngoài chòm sao Trinh nữ) với biểu tượng là phụ nữ. Có chòm sao Cassiopeia, Người phụ nữ Lên ngôi. Đây là chòm sao tiêu biểu cho giai đoạn trong cuộc sống nhân loại, bấy giờ vật chất và hình thể còn thống trị và chế ngự. Bấy giờ sự sống thiêng liêng nội tại bị che giấu quá sâu đến đỗi nó không bày tỏ dấu hiệu nào, mà chỉ có bản tính vật chất chi phối và ngự trị. Rồi đến giai đoạn sau đó trong lịch sử của loài người và mỗi cá nhân, chúng ta thấy chòm sao Coma Berenice xuất lộ theo biểu tượng – cho thấy Người mẹ có mang Trẻ thơ Christ. Ở đây vật chất bắt đầu cho thấy chức năng thật của nó, là giúp cho sự sống Christ sinh ra trong mọi hình thể. Khi bánh xe vĩ đại của đời sống xoay vần, thì Mary có thể rời Galilee từ Nazareth, và du hành đến Bethlehem, ở đó bà sinh ra Đấng Cứu thế. Cuối cùng, có chòm sao Andromeda, Người phụ nữ bị xiềng xích, hay là vật chất được dùng để phục vụ cho linh hồn. Linh hồn hay sự sống Christ đang ngự trị. Trước hết, vật chất thống trị, lên ngôi và chiến thắng khải hoàn. Sau đó, vật chất, vốn gìn giữ sự sống thiêng liêng, sự mỹ lệ và thực tại ẩn tàng, sẵn sàng giúp chúng sinh ra. Cuối cùng, vật chất phục vụ cho sự sống Christ đã được sinh ra. Tuy nhiên, không điều nào nói trên được thực hiện, nếu không có cuộc hành trình từ Nazareth, nơi được dành riêng, và từ Galilee, nơi hoạt động đời thường. Điều này đúng, dù là khi nói về Đức Christ vũ trụ, ẩn trong hình thể của một thái dương hệ; khi nói về Đức Christ của thần thoại, ẩn trong nhân loại qua các thời đại; khi nói về Đức Christ lịch sử, ẩn trong hình thể của Jesus; hay là khi nói về sự sống Christ trong mỗi thường nhân. Bởi vì bao giờ (68) cũng có cùng một thông lệ – cuộc hành trình, sự sinh ra, kinh nghiệm sống, thực hiện công tác phụng sự, chịu tử nạn, và rồi phục sinh để đi vào công cuộc phụng sự rộng lớn hơn. |
|
Joseph’s name means “he who shall add”; he was a builder, a carpenter, a worker in the building trade, one who adds stone to stone, or beam to beam. He is the symbol of the building-creative aspect of God the Father. In these three people, Joseph, the infant Jesus, and Mary, we have the divine Triplicity symbolised and represented, God the Father, God the Son and God the Holy Spirit, or Matter informed by Deity, and therefore typified for us in the Virgin Mary. |
Tên của Joseph có nghĩa là “người gắn kết.” Ông là nhà kiến tạo, thợ mộc, công nhân ngành xây dựng, người gắn kết các tảng đá, hay những thanh gỗ. Ông tượng trưng cho phương diện xây dựng-sáng tạo của Đức Chúa Cha. Ba người này, Joseph, hài nhi Jesus, và Mary tượng trưng và tiêu biểu cho Ba Ngôi thiêng liêng, Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con, và Chúa Thánh Thần. Vật chất được Đấng thiêng liêng giáng nhập, và do thế mà biểu hiện trong Đức Mẹ Đồng trinh Mary. |
|
Today the masses are on a journey. Today the teaching of the Path and of the Way to God is engrossing the attention of the aspirants in the world. We are on the Path of return to the individual and to the racial Bethlehem. We are now on the point of entering the cave wherein the new birth can take place, and therefore one stage of life’s long journey is nearly completed. This symbolism is truer, perhaps, than we care to think it is. The world problem today is bread, and our anxieties, our bewilderments, our wars and our struggles are based upon the economic problem of how to feed the peoples. Today the whole world is occupied with the Bethlehem idea, with bread. In this subtle implication there surely comes to us a guarantee that as He came before to the House of Bread so will He again fulfil His word and fulfil Himself and return. The cave, a place of darkness and of discomfort, was for Mary the place of pain and weariness. This cave or stable story of the New Testament is perhaps as full of symbolism as any to be found in the Bible. The long and trying journey ended in a dark cave. The long and weary journey of humanity has brought us today to just such a hard and uninviting place. The life of the individual disciple, prior to taking initiation and passing through the experience of the new birth, is ever one of the utmost difficulty and hardness. But in the dark, and through difficulty, Christ is to be found, the Christ life can flower forth, and we can stand face to face before Him as the Initiator. The blind poet, [69]George Macdonald, sensed this when he wrote the beautiful words which have brought comfort to so many: |
Ngày nay, đại khối quần chúng đang trên cuộc hành trình. Ngày nay, giáo huấn về Đường Đạo và Con Đường đi đến Thượng Đế đang được những người tìm đạo trên thế giới rất quan tâm. Chúng ta đang trên Con Đường phản bổn hoàn nguyên, để trở về với thành Bethlehem của mỗi cá nhân, và thành Bethlehem của toàn nhân loại. Nay chúng ta đang đến mức đi vào hang đá để có thể được sinh ra lần thứ hai. Vì thế mà một giai đoạn trên cuộc hành trình lâu dài của đời sống đang gần hoàn tất. Có lẽ ý nghĩa biểu tượng này có tính cách đúng thực hơn chúng ta tưởng. Vấn đề khó khăn của thế giới hiện nay là bánh mì. Thế nên, những nối âu lo, băn khoăn, bối rối, chiến tranh và đấu tranh của chúng ta đang dựa vào vấn đề khó khăn về kinh tế, và làm cách nào để nuôi dân chúng. Ngày nay, toàn thế giới đều đang bận tâm về ý nghĩ Bethlehem, về bánh mì. Trong hàm ý tế nhị này, chắc chắn chúng ta được bảo đảm rằng như trước đây Ngài đã đến Nhà làm Bánh mì, thì một lần nữa Ngài sẽ hoàn thành lời hứa, và sẽ trở lại. Hang đá, nơi tối tăm và thiếu tiện nghi, đối với Mary là nơi đau khổ và mệt nhọc. Có lẽ câu chuyện về hang đá hay chuồng ngựa này cũng có đầy tính biểu tượng như bất cứ chi tiết nào khác ghi trong Kinh thánh. Cuộc hành trình lâu dài và khó nhọc đã kết thúc trong hang đá tối tăm. Cuộc hành trình lâu dài và mệt mỏi của nhân loại đã đưa chúng ta hôm nay đến một nơi khó khăn, không ai mong muốn. Cuộc đời của mỗi người đệ tử, trước khi được điểm đạo và đi qua kinh nghiệm sinh ra lần thứ hai, bao giờ cũng là cuộc đời hết sức khó khăn và gian khổ. Thế nhưng, trong bóng tối và qua những nỗi khó khăn, y có thể tìm thấy Đấng Christ, và sự sống Chrisst bừng nở, để y được đứng trước Ngài, là Đấng Điểm đạo. Nhà thơ mù, (69) là George Macdonald, cảm nhận được điều này khi ông viết những lời thi vị mang lại niềm an ủi cho biết bao người: |
|
“Challenge the darkness, whatsoe’er it be, |
“Đừng âu lo bóng tối, dù nó có ra sao, |
|
Sorrow’s thick darkness or strange mystery |
Bóng đêm dày đặc hay bí nhiệm kỳ lạ, thâm sâu |
|
Of prayer or providence. Persist intent, |
Khi cầu nguyện Đấng quan phòng, hãy bền lòng kiên định, |
|
And thou shalt find love’s veiled sacrament. |
Bạn sẽ thấy tình thương trong bí tích ẩn tàng. |
|
Some secret revelation, sweetness, light, |
Khải thị nhiệm mầu, vị ngọt ngào, ánh sáng huy hoàng, |
|
Waits to waylay the wrestler in the night. |
Trong đêm thâu, đón chờ người đang phấn đấu. |
|
In the thick darkness, at its very heart, |
Ở nơi dày đặc của trung tâm bóng tối, |
|
Christ meets, transfigured, souls He calls apart.” |
Gặp Đức Christ, được biến dung, linh hồn bạn Ngài kêu gọi lên đường.” |
|
In this cave of initiation, all the four kingdoms of nature can be seen unmistakably symbolised for us. In the rocky structure of the cave, the mineral kingdom appears. The fodder and the hay, naturally there, symbolise the vegetable kingdom. The ox and the ass represent the animal nature, but they represent also far more than that. The ox stood for that form of worship which should have been passing off the earth at the time Christ came. There were still many to be found who worshipped the bull, which was the worship prevalent in the age when our sun was passing through the age of Taurus, the Bull, and which was preserved at that time in the mysteries of Mithras and of Egypt. The sign immediately preceding the Christian era was that of Aries, the Ram or Lamb, and this is symbolised for us in the sheepfolds which surrounded Bethlehem. |
Trong hang đá điểm đạo này, chúng ta có thể thấy tượng trưng rõ ràng cả bốn giới tiến hóa của thiên nhiên. Giới khoáng vật có trong cấu trúc bằng đá của hang động. Cỏ khô và rơm rạ tự nhiên ở đó, tiêu biểu cho giới thực vật. Bò và lừa đại diện cho giới động vật, nhưng cũng còn mang nhiều ý nghĩa hơn nữa. Con bò tượng trưng cho hình thức thờ phụng mà lẽ ra đã không còn áp dụng vào thời điểm Đức Christ đến thế gian. Bấy giờ vẫn còn thấy nhiều người tôn thờ con bò đực, là lối thờ phụng rất thịnh hành trong thời đại mà mặt trời đi qua cung Kim ngưu, con Bò đực. Nó được duy trì vào thời gian đó trong các bí nhiệm của Mithras và Ai Cập. Ngay trước kỷ nguyên Thiên Chúa là thời kỳ của Dương cưu, con Cừu đực hay Cừu non. Điều này tượng trưng trong các trại cừu ở chung quanh Bethlehem. |
|
It is interesting also to bear in mind that asses are definitely associated with the story of Mary and her Child. Two asses are found mentioned in the Gospel story, one coming from the north and bearing Mary to Bethlehem, and the other taking her down into Egypt. These are symbols of the two constellations called the Northern Ass and the Southern Ass, which are in the neighbourhood of the constellation Virgo. |
Cũng thú vị khi lưu ý rằng con lừa có liên quan đến câu chuyện của Mary và Con bà. Câu chuyện Phúc âm có nói đến hai con lừa. Một con từ phía bắc chở Mary đến Bethlehem, và con kia chở bà xuống miền nam đi vào Ai Cập. Đây là biểu tượng của hai chòm sao có tên Con Lừa phương Bắc và Con Lừa phương Nam, ở trong vùng lân cận chòm sao Trinh nữ. |
|
We find the human kingdom represented in Mary and Joseph, with the human unity plus the duality which are so essential to existence itself. In the newborn Babe divinity [70] expresses itself. Thus, in that little cave, the cosmos is represented. |
Chúng ta thấy Mary và Joseph đại diện cho giới nhân loại, trong đó sự hợp nhất và lưỡng tính đều rất thiết yếu cho chính cuộc sinh tồn. Hài nhi sơ sinh của họ là (70) sự biểu lộ của thiên tính. Thế nên, trong hang động nhỏ ấy có tượng trưng cho cả vũ trụ. |
|
When Christ was born in Bethlehem, a threefold Word sounded forth. “Glory to God in the highest, and on earth peace, good will toward men.” [lxxxii]54 A triple Word was then given to us. It was chanted by angels in the night to the shepherds tending their flocks in the fields surrounding the stable-cave where the infant Child lay. A unique event had happened in the cosmos, and the hosts of heaven did honour to it. |
Khi Đức Christ sinh ra ở Bethlehem, có Linh từ tam phân được xướng lên. “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế, và thiện chí cho mọi người.”[54] Thế là Linh từ tam phân này bấy giờ được trao cho chúng ta. Nó được các thiên thần hát lên trong đêm ấy cho những người chăn cừu nghe khi họ đang trông nom đàn cừu của mình trên đồng ruộng chung quanh chiếc hang đá-chuồng ngựa, nơi Chúa Hài đồng đang nằm. Một sự kiện độc đáo đã xảy ra trong vũ trụ, được các thiên thần tôn vinh. |
|
This question of the earth’s uniqueness has often troubled thinking people. Can so infinitesimal an atom in space as our planet be indeed of such interest to God that He permitted this great experiment to be tried here? Is the mystery of man and the significance of our purpose of such importance that nowhere else can it be paralleled? |
Vấn dề độc đáo này của địa cầu thường làm cho những người biết suy nghĩ phải băn khoăn. Có thể nào một hạt nguyên tử vô cùng nhỏ trong không gian như hành tinh chúng ta lại thực sự được Thượng Đế quan tâm đến đỗi Ngài cho phép cuộc thí nghiệm vĩ đại này được diễn ra ở đây? Phải chăng sự bí nhiệm nơi con người và ý nghĩa trong mục đích sống của chúng ta có tầm quan trọng đến mức không ở đâu khác sánh kịp? |
|
Can anything really happen on this “ball of dust” of such vital import that it can warrant the angels in singing: “Glory to God in the highest, and on earth peace, good will towards men”? We like to think that it can be so. We dread the moment when our futility appears as we look upon the stars of heaven, realising that there are thousands of millions of universes and tens of thousands of millions of constellations! We are such specks in a great immensity. |
Có thể một điều gì đó thực sự xảy ra trên “quả cầu bụi” này có tầm quan trọng thiết yếu đến mức khiến các thiên thần ca ngợi: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bình an dưới thế, và thiện chí cho mọi người.”? Chúng ta thích nghĩ rằng có thể là như thế. Chúng ta kinh sợ phút giây mình cảm thấy vô nghĩa khi ngắm nhìn sao trên trời, và nhận thức rằng có hàng ngàn triệu vũ trụ và mấy mươi ngàn triệu chòm sao! Chúng ta chỉ là những hạt bụi li ti trong khoảng mênh mông vĩ đại. |
|
Perhaps we are of more importance than we had guessed. Perhaps what happens to us in the realm of consciousness really does matter in the cosmic scheme. We know that it does not much matter what happens to the body. It is what happens in and through that body which counts. Perhaps what happens in and through the body, which we call a planet, indwelt likewise by God, is of vital moment in the plans of God Himself. This would give meaning to life; it is only when we apprehend meaning and appreciate it that we can understand the significance of the Word spoken at the birth of Christ. Let us paraphrase the message of the angels. It came from a group of beings and was spoken to [71] a group of beings. It is therefore a world message, a message which still awaits response. When the consciousness which is Christ’s has been awakened in all men, then we shall have peace on earth and goodwill among men. When this has taken place, then will God be glorified. The expression of our divinity will bring to an end the hatred rampant upon earth and break down all the separating walls which divide man from man, group from group, nation from nation, religion from religion. Where there is goodwill there must be peace; there must be organised activity and a recognition of the Plan of God, for that Plan is synthesis; that Plan is fusion; that Plan is unity and at-one-ment. Then Christ will be all in all, and God the Father will be glorified. This must be brought about by a living union with God through Christ—through the historical Christ Who revealed God, and through the individual Christ, hidden in every human heart, Who must be brought to birth. None of the Epistles in the New Testament make this so clear as theEpistle to the Ephesians, for there is given the picture of possibility in terms that leave no excuse for misinterpretation. This epistle is: |
Có lẽ chúng ta có tầm quan trọng hơn là mình tưởng. Có lẽ những gì xảy ra cho chúng ta trong phạm vi tâm thức mới thực sự quan trọng trong cơ đồ vũ trụ. Chúng ta biết rằng những gì xảy ra trong thân xác thì không quan trọng lắm. Chính những gì xảy ra bên trong và xuyên qua thân xác ấy mới là đáng kể. Có lẽ những gì xảy ra bên trong và xuyên qua cơ thể, mà chúng ta gọi là hành tinh, cũng được Thượng Đế trú ngụ, thì thực sự có tầm quan trọng trong Thiên cơ của Ngài. Điều này hẳn sẽ mang lại ý nghĩa cho cuộc sống. Chỉ khi nào hiểu được ý nghĩa và đánh giá được nó, chúng ta mới thấu đáo được diệu nghĩa của Linh từ được xướng lên khi Đức Christ giáng sinh. Vậy chúng ta hãy diễn giải bức thông diệp của các thiên thần. Nó đến từ một nhóm sinh linh và xướng lên cho (71) một nhóm sinh linh. Vì thế, nó là bức thông điệp cho thế giới, một bức thông điệp vẫn còn đang chờ đáp ứng. Khi tâm thức Christ được thức tỉnh trong tất cả mọi người, thì bấy giờ chúng ta có hòa bình trên thế gian, và thiện chí trong mọi người. Bấy giờ Thượng Đế sẽ được tôn vinh. Sự biểu lộ thiên tính sẽ chấm dứt những hận thù đang lan tràn trên thế gian, và phá đổ tất cả các bức tường ngăn cách, chia rẽ người với người, đoàn nhóm với đoàn nhóm, quốc gia với quốc gia, và tôn giáo với tôn giáo. Ở đâu có thiện chí thì ở đó phải có hòa bình; ở đó phải có những hoạt động được tổ thức hoàn bị, và sự công nhận Thiên cơ. Bởi vì Thiên cơ là sự tổng hợp; Thiên cơ là hòa hợp; Thiên cơ là hợp nhất và nhất quán. Bấy giờ Đức Christ sẽ là tất cả trong tất cả, và Đức Chúa Cha sẽ được tôn vinh. Phải thực hiện điều này bằng sự hợp nhất sống động với Thiên Chúa qua Đức Christ. Tức là qua Đức Christ lịch sử, Ngài đã làm hiển lộ Thiên Chúa. Nó cũng được thực hiện qua sự sống Christ của mỗi cá nhân, tiềm ẩn trong tâm hồn mỗi người, và phải được sinh ra. Không Bức thư Sứ đồ nào trong Kinh Tân ước giải rõ điều này như Bức thư gửi tín đồ Thiên Chúa giáo ở thành Ephesus. Bởi vì trong đó có phác họa khả năng này với những thuật ngữ không hề gây nhầm lẫn, như sau: |
|
“… penetrated through by that idea of a living union with Christ, and indwelling in Him. It is expressed in many metaphors. We are rooted in Him as the tree in the soil, which makes it firm and fruitful. We are built into Him as the strong foundations of the Temple are bedded in the living rock. We live in Him as the limbs in the body…. The indwelling, we say, is reciprocal. He is in us and we are in Him. He is in us as the source of our being; we are in Him as filled with His fullness. He is in us all-communicative; we are in Him all-receptive. He is in us as the sunlight in the else darkened chamber; we are in Him as the cold green log cast into the flaming furnace glows through and through with ruddy and transforming heat. He is in us as the sap in the veins of the tree; we are in Him as the branches.” [lxxxiii]55 |
“. . . xuyên suốt bởi ý tưởng về sự hợp nhất sống động với Đức Christ, và an trú trong Ngài. Ý tưởng này được nói lên trong nhiều ẩn dụ. Chúng ta bắt rễ trong Ngài như cây trong lòng đất, giúp nó đứng vững và sai quả. Chúng ta gắn chặc trong Ngài như nền móng chắc chắn của Ngôi đền trồng vững trong tầng đá mẹ. Chúng ta sống trong Ngài như tay chân trong thân thể. . . . Có thể nói rằng sự an trú này có tính cách hỗ tương. Ngài ở trong chúng ta và chúng ta ở trong Ngài. Ngài ở trong chúng ta với tính cách là nguồn sống của chúng ta; chúng ta ở trong Ngài, được Ngài thấm nhuần bởi sự hoàn thành viên mãn. Ngài ở trong chúng ta hoàn toàn thông đạt; chúng ta ở trong Ngài hoàn toàn thụ nhận. Ngài ở trong chúng ta như ánh nắng mặt trời trong căn phòng mà thiếu ánh nắng sẽ bị tối tăm. Chúng ta ở trong Ngài như khúc củi tươi lạnh giá được ném vào lò lửa sáng rực, dần dần cháy lên nhờ nguồn nhiệt chuyển hóa đốt thiêu. Ngài ở trong chúng ta như nhựa lưu chuyển trong các bó mạch của thân cây; chúng ta ở trong Ngài như những cành cây.”[55] |
|
The realisation of this is needed today. Christ in God. God in Christ. Christ in you and Christ in me. This is [72] what will bring into being that one religion which will be the religion of love, of peace on earth, of universal goodwill, of divine understanding, and of the deep recognition of God. Then His impress and His life can be seen everywhere, in everybody and everything. The divine “signature” (as Boehme calls it) will everywhere be recognised. The life of God is today agitating the minds of men and causing them to move towards the birth chamber. From there they will pass into a new world where higher ideals and deeper contacts and richer understandings will characterise humanity. |
Ngày nay mọi người cần nhận thức được điều này. Đức Christ trong Thiên Chúa. Thiên Chúa trong Ngài. Đức Christ trong bạn và Đức Christ trong tôi. Đây là (72) đây là những gì sẽ mang lại nền tôn giáo chung nhất, nền tôn giáo của tình thương, của hòa bình trên thế gian, của thiện chí đại đồng, của sự thông hiểu thiêng liêng, và của nhận thức sâu xa về Thượng Đế. Bấy giờ, dấu ấn và sự sống của Ngài được thấy ở mọi nơi, trong mọi người, mọi vật. “Chữ ký” thiêng liêng (theo cách gọi của Boehme) sẽ được khắp nơi công nhận. Sự sống của Thượng Đế ngày nay đang lay động tâm trí con người, khiến họ tiến đến căn phòng giáng sinh. Từ đó, họ sẽ đi vào thế giới mới trong đó nhân loại sẽ có đặc trưng là những lý tưởng cao siêu, và thấu hiểu phong phú hơn. |
|
When Christ came, we read that those of vision who were prepared said, “We have seen his star in the East and are come to worship him.” [lxxxiv]56 This was the Sign given to the few who were ready, and who had made the necessary journey to Bethlehem. But another sign was seen by the many, and given by the angel of the Lord to the shepherds who were watching in the fields by night. “And this shall be a sign unto you, Ye shall find the babe, wrapped in swaddling clothes, lying in a manger.” [lxxxv]57 Here was a sign given to those watching ones, two or three, who were ready to consecrate their all, who perceived the star of initiation flashing forth and hastened to the initiation chamber. The larger number, who were interested and watching, needed a more concrete and more easily interpreted sign and were sent to see the infant with his mother. Their attitude is expressed in the words, “Let us now go even unto Bethlehem and see this thing which is come to pass.” [lxxxvi]58 But the three who understood came to worship and to give. |
Chúng ta đọc thấy rằng khi Đức Christ giáng lâm, có những người được chuẩn bị sẵn sàng với linh ảnh. Họ nói “Chúng ta đã thấy ngôi sao của Ngài ở phương Đông, vậy hãy đến thờ lạy Ngài.”[56] Đây là Dấu hiệu được ban cho một số ít người đã chuẩn bị sẵn sàng, và họ thực hiện cuộc hành trình cần thiết để đến Bethlehem. Nhưng một dấu hiệu khác đã được nhiều người thấy, mà các thiên thần của Chúa mang đến cho những người chăn cừu đang canh gác ban đêm trên cánh đồng. “Và đây sẽ là dấu hiệu cho các ngươi. Các ngươi sẽ tìm thấy hài nhi, quấn trong tả lót, và nằm trong máng cỏ.”[57] Đây là dấu hiệu được ban cho những người đang trông chừng, vài ba người, họ sẵn sàng hiến dâng tất cả những gì mình có. Họ nhận thấy ngôi sao bừng chiếu và vội vã đi đến căn phòng điểm đạo. Những người khác đông hơn cũng có quan tâm và trông chừng, họ cần có dấu hiệu cụ thể hơn và dễ giải thích hơn, và được chỉ đường đến với Chúa hài đồng và mẹ Ngài. Thái độ của họ được diễn tả trong câu nói “Bây giờ chúng ta hãy đi thậm chí đến Bethlehem để xem điều gì thực sự xảy ra.”[58] Nhưng ba người hiểu biết nói trên đã đến thờ lạy Ngài và dâng quà tặng. |
|
When they saw this star shine forth, the three Kings undertook a journey and, laden with gifts, came to Bethlehem. They are symbols of those disciples in the world today who are ready to prepare themselves for the first initiation, to transmute their knowledge into wisdom, and to offer all that they have to the Christ within. |
Khi Ba Vua thấy ngôi sao này chiếu sáng, thì họ lên đường, mang theo nhiều phẩm vật, đi đến Bethlehem. Họ tiêu biểu cho những người đệ tử trên thế giới ngày nay, là những người sẵn sàng dọn mình cho cuộc điểm đạo thứ nhất, chuyển hóa kiến thức của mình thành minh triết, và hiến dâng tất cả những gì mình có cho Đức Christ ở nội tâm. |
|
[73] |
(73) |
|
The gifts they brought teach us the specific type of discipline which must be undergone in order to present to the Christ, at the time of the new birth, gifts which will be symbolic of achievement. These three offered to the infant Jesus three presents—gold, frankincense and myrrh. Let us study for a minute the specific importance of these to the individual would-be initiate. We are told by the esotericists that man is a three-fold person in his human nature, and this truth is endorsed by the psychologists through their investigations and research. He is a physical living body, he is a sum total of emotional reactions, and he is also that mysterious something which we call a mind. These three parts of a man—physical, emotional and mental—have to be offered in sacrifice, worship and as a free gift to the “Christ within” before that Christ can demonstrate through the disciple and initiate as He wishes to do. Gold is a symbol of the material nature, which must be consecrated to the service of God and of man. Frankincense symbolises the emotional nature, with its aspirations, wishes and longing, and this aspiration must rise as incense to the feet of God. Incense is also a symbol of purification, of that burning which removes all dross and leaves only the essence for the blessing of God. Myrrh or bitterness relates to the mind. It is through the mind that we suffer as human beings, and the further the race progresses and the more the mind develops, the greater seems the capacity for suffering. But when suffering is seen in its true light and dedicated to divinity, it can be used as an instrument whereby we approach nearer to God. Then we can offer to God that rare and wonderful gift of a mind made wise through pain, and a heart made kind through distress and through difficulty surmounted. |
Những quà tặng họ mang đến dạy cho chúng ta loại giới luật cụ thể, phải được tuân thủ để được diện kiến Đức Christ, vào thời điểm sinh ra lần thứ hai, là những món quà tượng trưng cho sự thành tựu. Ba vị này dâng tặng cho hài nhi Jesus ba món quà – vàng, trầm hương và mộc dược. Chúng ta hãy xem qua trong giây lát để hiểu tầm quan trọng đặc biệt của các tặng phẩm này như thế nào đối với cá nhân người điểm đạo đồ tương lai. Nhà huyền bí học cho chúng ta biết rằng trong nhân tính của con người gồm ba phần, và sự thực này được các nhà tâm lý học tán đồng qua những khảo cứu và nghiên cứu của họ. Y có thể xác, y có toàn bộ các phản ứng tình cảm, và y có một phần bí ẩn được gọi là thể trí. Ba phần này của mỗi người – thân xác, tình cảm và trí năng – phải được hoàn toàn hiến dâng trong sự hy sinh và tôn thờ cho “Đấng Christ ở nội tâm” trước khi Ngài có thể biểu lộ qua người đệ tử và điểm đạo đồ, nếu Ngài muốn. Vàng là biểu tượng của bản tính vật chất, phải được hiến dâng để phụng sự Thượng Đế và con người. Trầm hương tiêu biểu cho bản tính tình cảm, với những khát vọng, mong ước, và thèm muốn. Khát vọng này dâng lên như mùi hương trầm đến dưới chân Thượng Đế. Trầm hương cũng là biểu tượng của sự tinh luyện, đốt tan và loại bỏ mọi cặn bã, chỉ còn lại phần tinh túy xứng đáng với ân huệ thiêng liêng. Mộc dược hay sự cay đắng liên quan đến thể trí. Vì có thể trí mà chúng ta thấy đau khổ với tư cách con người. Nhân loại càng tiến tới, thể trí càng phát triển, và dường như con người có khả năng đau khổ nhiều hơn. Thế nhưng, khi đau khổ được nhận thấy trong ánh sáng chân thực và được hiến dâng cho thiên tính, bấy giờ nó có thể được dùng làm phương tiện để chúng ta đến gần Thượng Đế hơn nữa. Bấy giờ chúng ta có thể hiến dâng cho Thượng Đế món quà tặng hiếm có và tuyệt vời của cái trí đã trở nên khôn ngoan qua đau khổ, và cái tâm đã trở nên nhân từ qua những đau buồn và khó khăn mà nó đã vượt qua. |
|
As we study the meaning of these three gifts brought by the disciples of old to the infant Jesus, and as we see their meaning as it applies to our individual situation, it becomes equally apparent that today humanity, as a race, stands before the infant Jesus, in the House of Bread, at the end of a [74] long journey, and can now offer, if it so will, the gifts of material life, of purification through the fires of adversity, and of the suffering to which it has been subjected. Humanity can journey from Galilee by way of Nazareth. Gold, the thing that today seems to be the very life-blood of the people, must be consecrated to the Christ. Frankincense, the dreams and visions and aspirations of the multitude, so real and deep that the nations everywhere are struggling for the expression of these dreams—these too must be dedicated and offered to the Christ, that He may be all in all. And the pain and suffering and agony of humanity, never before so acute as now, must surely be laid at the feet of Christ. We have learnt much. Let the meaning of it all penetrate into our hearts and minds, and let the reason of the pain drive us to offer it up as our ultimate gift to Christ. Pain is ever the accompaniment of birth. Suffering is found within every birth chamber. The realisation of this awakens the deepest and most constructive kind of optimism in the minds of those who ponder upon world suffering and agony. May it not indicate the birth pangs which precede the revelation of the Christ? When it is realised, then we can say with St. Paul: |
Chúng ta hãy nghiên cứu ý nghĩa của ba món quà tặng này mà các đệ tử ngày xưa đã mang đến cho hài nhi Jesus, để thấy được ý nghĩa của chúng cũng áp dụng cho tình huống của cá nhân mình. Bấy giờ chúng ta cũng thấy rõ rằng toàn thể nhân loại nay đang đứng trước hài nhi Jesus, trong Ngôi nhà làm Bánh mì, vào lúc kết thúc (74) một cuộc hành trình lâu dài. Nếu muốn, nay nhân loại có thể hiến dâng những món quà tặng của đời sống vật chất, sự tinh luyện qua ngọn lửa của tình huống khó khăn, và sự đau khổ mà họ phải chịu. Nhân loại có thể du hành từ Galilee theo con đường Nazareth. Vàng, thứ mà ngày nay có vẻ chính là huyết mạch của mọi người, cũng phải được hiến dâng cho Đức Christ. Trầm hương, những ước mơ, hoài bảo và khát vọng của biết bao người, có vẻ thực và sâu xa đến đỗi các quốc gia ở khắp nơi đều đang tranh đấu để thực hiện những ước mơ này. Tất cả đều phải được hiến dâng và trao tặng cho Đức Christ, để Ngài có thể là tất cả trong tất cả. Và nỗi đau thương, thống khổ của nhân loại, chưa bao giờ trầm trọng như hiện nay, đương nhiên phải được đặt dưới chân Đức Christ. Chúng ta đã học được rất nhiều. Hãy làm thế nào cho những điều đó thấm nhuần tâm trí của chúng ta, và lý do của đau khổ khiến chúng ta hiến tặng nó như món quà tối hậu cho Đức Christ. Đau đớn bao giờ cũng đi kèm theo sinh sản. Trong mọi phòng sinh lúc nào cũng có khổ đau. Nhận thức được điều đó làm bừng lên tinh thần lạc quan với tính cách sâu xa nhất và xây dựng nhất trong tâm trí của những ai đang suy ngẫm về những nỗi đau thương, thống khổ của thế gian. Chẳng phải đó là cơn đau chuyển dạ trước khi có sự hiển lộ của sự sống Christ hay sao? Khi nhận thức được điều đó, chúng ta có thể nói như Thánh Paul: |
|
“For His sake I have suffered the loss of everything, and reckon it all as mere refuse, in order that I may win Christ, and be found in Him, not having a righteousness of my own, derived from the Law, but that which arises from faith in Christ—the righteousness which comes from God through faith…. I do not say that I have already gained this knowledge or already reached perfection. But I press on, striving to lay hold of that for which I was also laid hold of by Christ Jesus…. But this one thing I do—forgetting everything which is past and stretching forward to what lies in front of me, with my eyes fixed on the goal, I push on to secure the prize of God’s heavenward call in Christ Jesus. Therefore let all of us who are mature believers cherish these thoughts; and if in any respect you think differently, that also God will make clear to you. But whatever be the point that we have already reached, let us persevere in the same course.” [lxxxvii] 59 |
“Vì Ngài mà tôi phải chịu buông bỏ mọi sự, và xem đó chỉ là những gì không cần thiết, để tôi có được Đức Christ, và an trú trong Ngài, dù tôi không có sự chính trực của riêng mình, theo luật pháp, mà là sự chính trực phát sinh từ niềm tin vào Đức Christ – sự chính trực qua đức tin, đến từ Thiên Chúa. . . . Tôi không nói rằng tôi đã đạt được sự hiểu biết này hay đã đạt được sự hoàn thiện. Nhưng tôi cứ tiến bước, cố gắng gìn giữ những gì mà Jesus Christ cũng đã gìn giữ cho tôi. . . . Nhưng tôi chỉ làm một việc – quên hết mọi điều đã qua và vươn tới những gì phía trước, mắt chăm chú vào mục tiêu, tôi cứ tiếp tục tiến lên để nhận phần thưởng là được Chúa gọi về thiên đường, trong Jesus Christ. Vì thế, tất cả những ai trong chúng ta đã có tín ngưỡng thuần thành, hãy gắn bó với những tư tưởng đó. Nếu có phương diện nào bạn nghĩ khác đi, thì Chúa cũng sẽ soi sáng điều đó cho bạn. Nhưng dù chúng ta đã đến trình độ nào, hãy cứ bền lòng đi theo con đường đã định.”[59] |
|
5 |
5 |
|
[75] |
|
|
The account of Christ’s childhood as given us in the Gospels is dismissed in a very few words. Only one episode is related, and that is the one in which Jesus, having reached the age of twelve years, was taken up by His Mother to the Temple of the Lord and there, for the first time, gave indication of His vocation, and evidenced the realisation that a mission was pre-ordained for Him. Prior to this, His parents had conformed to all the requirements of the Jewish ritual; they had also sojourned in Egypt. Of His time there, we are told nothing. All that we know is covered by the words: |
Phần tường thuật về tuổi thơ của Đức Christ ghi trong các sách Phúc âm được đề cập rất ngắn gọn. Chỉ một đoạn có liên quan, nói về khi Jesus mười hai tuổi, được Mẹ Ngài đưa đến Đền thờ của Chúa. Trong ngôi đền, lần đầu tiên Ngài cho thấy thiên hướng của mình, chứng tỏ Ngài có sứ mệnh tiền định. Trước đó, cha mẹ Ngài đã theo đúng tất cả những yêu cầu của nghi lễ Do Thái; họ cũng đến lưu trú ở Ai Cập. Không có chi tiết nào về thời gian Ngài ở đó. Tất cả những gì chúng ta biết chỉ gồm trong mấy câu: |
|
“They returned into Galilee to their own city Nazareth. And the child grew, and waxed strong in spirit, filled with wisdom, and the grace of God was upon Him.” [lxxxviii]60 |
“Họ trở lại Galilee và về thành phố quê nhà của mình là Nazareth. Đứa trẻ lớn lên với tinh thần mạnh mẽ, đầy minh triết, và ân sủng của Thượng Đế.”[60] |
|
Students would do well to remember that the number twelve is regarded by the esotericists of all faiths as signifying the number of completion; it recurs again and again in the various scriptures of the world. The following comments are of interest in this connection, showing as they do the significance of this number, and its relation to initiation: |
Các môn sinh nên nhớ rằng con số mười hai được các nhà huyền bí học thuộc mọi tín ngưỡng xem như có ý nghĩa là con số hoàn thiện. Nó được nhắc đi nhắc lại trong các kinh điển khác nhau trên thế giới. Về phương diện này, những lời nhận xét sau đây rất đáng quan tâm, cho thấy ý nghĩa của con số này, và mối liên quan đến điểm đạo: |
|
“The accomplishment of the age of twelve years signifies a full period of evolution when an initiation was undergone by the Christ soul. This took place in the inner mind (the temple) and corresponded to an awakening of the logical and intuition sides of the soul. These are the father-mother principle, indicated by the presence of the parents.” [lxxxix] 61 |
“Tròn mười hai tuổi có nghĩa là đã trải qua một thời kỳ tiến hóa đầy đủ, khi linh hồn là tâm thức Christ được điểm đạo. Cuộc điểm đạo này xảy ra bên trong thể trí (ngôi đền) và tương ứng với sự thức tỉnh các phương diện luận lý và trực giác của linh hồn. Đây là nguyên lý phụ-mẫu, ngụ ý trong sự hiện diện của cha mẹ Ngài.”[61] |
|
And again, |
Và có nhận xét thêm, |
|
“This number (of the twelve disciples) is typified by many things in the Old Testament; by the 12 sons of Jacob, by the 12 princes of the Children of Israel; by the 12 running springs in Helim; by the 12 stones in Aaron’s breastplate; by the 12 loaves of the shew-bred; by the 12 spies sent by Moses; by the 12 stones [76] of which the altar was made; by the 12 stones taken out of Jordan; by the 12 oxen which bare the brazen sea. Also in the New Testament, by the 12 stars in the bride’s crown, by the 12 foundations of Jerusalem which John saw, and her 12 gates.” [xc]62 |
“Con số (mười hai môn đồ) này được tiêu biểu bởi nhiều điều nói trong Kinh Cựu ước; qua 12 con trai của Jacob; 12 hoàng tử của Con dân Israel; 12 dòng suối chảy ở Helim; 12 phiến đá trên áo giáp che ngực của Aaron; 12 ổ bánh mì thánh; 12 điệp viên được Moses gửi đi; 12 viên đá (76) để xây bàn thờ; 12 khối đá mang ra khỏi Jordan; 12 con bò đực chở chiếc Bồn bằng Đồng thau. Ngoài ra, trong Kinh Tân ước cũng có son số 12 ngôi sao trên vương miện của cô dâu, 12 nền móng của thành Jerusalem mà Thánh John thấy, và 12 cổng thành.”[62] |
|
All these recurrences of twelve probably have their origin in the twelve signs of the zodiac, that imaginary belt in the heavens through which the sun appears to pass on its journey in the course of a year, and during its greater cycle of approximately 25,000 years. |
Tất cả những sự lặp lại con số mười hai này rất có thể là bắt nguồn từ mười hai cung hoàng đạo, vành đai tưởng tượng trong bầu trời mà mặt trời có vẻ du hành trên đó trong thời gian một năm, và trong chu kỳ lâu hơn khoảng 25.000 năm. |
|
Having completed the preparatory work, by His twelfth year Christ again underwent an intuitive experience, going up from Nazareth (the place of consecration) to the Temple, where that intuition led Him to a new realisation of His work. There is no sign that He knew in detail what that mission was; He went into no explanations to His Mother. He started to do the work that was the nearest duty, and to teach those whom He found in the Temple, astonishing them with His understanding and His answers. His mother, bewildered and distressed, called His attention to herself and to His father, but only received the calm answer, spoken with conviction, and so changing all life for her: “Wist ye not that I must be about my Father’s business?” [xci]63 That business, as it developed in His consciousness in the passing of the years, became far broader and wider in its all-embracing love than the average orthodox Church seems willing to admit. |
Khi đã hoàn tất công tác chuẩn bị, đến năm mười hai tuổi, Đức Christ trải qua một kinh nhiệm trực giác, từ Nazareth (nơi hiến dâng) Ngài đi lên Đền thờ. Ở đó, trực giác khiến Ngài có những nhận thức mới mẻ về công tác của mình. Không có chi tiết nào cho thấy Ngài biết rõ về sứ mệnh đó. Ngài không giải thích điều gì với thân mẫu. Ngài bắt đầu làm nhiệm vụ gần nhất của mình, là giảng dạy những người Ngài gặp trong Đền thờ, khiến họ ngạc nhiên trước sự thông hiểu thâm sâu và những lời giải đáp của mình. Mẹ Ngài bối rối và phiền não, bảo Ngài hãy chú ý nghe theo lời của bà và cha Ngài. Thế nhưng, bà chỉ nhận được câu trả lời điềm tĩnh, nói lên với sự xác tín, và do đó mà thay đổi toàn cả cuộc sống của bà: “Mẹ không biết là con phải lo công việc của Cha con hay sao?”[63] Công việc ấy, khi đã phát triển trong tâm thức của Ngài qua bao năm, với tình thương bao trùm tất cả, đã trở nên rộng lớn hơn là Giáo hội chính thống bình thường có vẻ sẵn lòng chấp nhận. |
|
The extent of this mission slowly dawned upon His young mind and He began, as all truly initiate sons of God must perforce do, to function as God’s messenger as soon as the Vision was recognised, and in the place where He was. Having thus indicated His grasp of the future work, we read that “He went down with them (His parents), and came to Nazareth (the place of renewed consecration), and was subject unto them…. And Jesus increased in wisdom and stature, and in favour with God and man.” [xcii] 64 |
Tầm mức của sứ mệnh này dần dần sáng tỏ hơn trong trí não non trẻ của Ngài, và Ngài bắt đầu – như mọi người con của Thượng Đế thực sự là điểm đạo đồ đều phải làm – thực hiện vai trò sứ giả của Thượng Đế, ngay khi nhận biết Linh ảnh, và ở nơi chốn Ngài đang sống. Chúng ta đọc thấy rằng sau khi đã tỏ ra hiểu biết công việc tương lai của mình, “Ngài đi cùng họ (cha mẹ Ngài) đến Nazareth (nơi hiến dâng tiếp tục), và theo lời cha mẹ. . . . Jesus ngày càng thêm khôn ngoan, gia tăng tầm vóc, có lòng thương mến Thượng Đế và con người.”[64] |
|
[77] |
(77) |
|
Frequently in the Gospel story, we find the word “down” occurring. Christ went with His mother “down into Egypt”; He went “down to Nazareth”; and again and again He comes down from the mountain-top or from the place of solitude to do His duty among men. After the hidden experience in Egypt (for no account of this is given to us in the Bible), and after the revelation in the Temple and the acceptance of the task to be accomplished, Christ returns to the place of duty. In this case, and after the Birth initiation, for a period of thirty years, we are told, He functioned as a man in the daily life of the carpenter’s shop and in the home with His parents. This home life constituted the test to which He was subjected, and its importance cannot be overrated. Does it sound blasphemous to say that had He failed in this immediate duty, the rest of His work would have been abortive? If He had not succeeded in demonstrating divinity in the home circle and in the little town where His lot was cast, is it not possible that He would never have functioned as the world Saviour? He came to reveal to us our humanity as it could be, and will be, when we have finished with the long journey to Bethlehem. This constituted the uniqueness of His mission. |
Trong câu chuyện Phúc âm, chúng ta thường gặp từ “xuống”. Đức Christ cùng mẹ đi “xuống Ai Cập”. Ngài đi “xuống Nazareth”; và nhiều lần Ngài đi xuống từ đỉnh núi hoặc từ nơi ẩn cư để làm nhiệm vụ của mình giữa mọi người. Sau kinh nghiệm ẩn cư ở Ai Cập (trong Kinh thánh không tường thuật việc này), và sau lần được thiên khải nơi Đền thờ, và chấp nhận nhiệm vụ cần phải hoàn thành, Đức Christ trở về nơi làm bổn phận. Trong trường hợp này, và sau cuộc điểm đạo Giáng sinh, chúng ta được biết, qua ba mươi năm Ngài làm việc hằng ngày như một công nhân xưởng mộc và ở nhà với cha mẹ. Đời sống gia đình này là thử thách mà Ngài phải trải qua, và không nên đánh giá tầm quan trọng của nó quá cao. Có phải là thất kính hay chăng khi nói rằng nếu Ngài không làm tròn bổn phận ngay trước mắt này, thì phần còn lại trong công tác của Ngài hẳn đã thất bại? Nếu Ngài đã không thành công khi biểu dương thiên tính trong vòng gia đình, thì khả dĩ hay chăng Ngài sẽ không bao giờ thực hiện được vai trò Đấng Cứu thế? Ngài đến để tiết lộ cho nhân loại chúng ta biết họ có thể như thế nào, và sẽ như thế nào, nếu chúng ta hoàn tất cuộc hành trình lâu dài đến Bethlehem. Đây là điều độc đáo trong sứ mệnh của Ngài. |
|
Christ lived quietly in His home with His parents, undergoing that most difficult experience of home life, with its monotony, with its unvarying usualness, with its needed subordination to the group will and need, with its lessons of sacrifice, of understanding and of service. This is ever the first lesson which every disciple must learn. Until he has learnt it, he can make no further progress. Until divinity has been expressed in the home, and among those who know us well and are our familiar friends, it cannot be expected to express itself elsewhere. We must live as sons of God in the setting—uninteresting, drab and sometimes sordid—in which destiny places us; there is nowhere else at this stage that is possible. The place where we are is the place from which our journey begins, and not the place from which we escape. If we cannot make good as disciples where we are, [78] and in the place where we discover ourselves, no other opportunity will be offered us until we do. Here lies our test, and here lies our field of service. Many true and earnest aspirants feel that they could indeed make an impression on their surroundings and manifest divinely, if they had a different kind of home, a different environment or setting. Had they married differently, or had they more money or more leisure, could they meet with more sympathy from their friends, or had they better physical health, there is no saying what they might not accomplish. A test is something which tries our strength to see of what sort it is; it calls forth the utmost that is in us, and reveals to us where we are weak and where we fail. The need today is for dependable disciples and for those who have been so tested that they will not break or crack when difficulties come and dark places in life are encountered. We have, if we could but realise it, exactly those circumstances and that environment in which this lesson of obedience to the highest which is in us can be learnt. We have exactly the type of body and physical conditions through which the divinity in us can be expressed. We have those contacts in the world and the kind of work which are required in order to enable us to take the next step forward upon the path of discipleship, the next step to God. Until aspirants grasp this essential fact and happily settle down to a life of service and of giving lovingly in their own homes, they can make no progress. Until the path of life is trodden, happily, silently and with no self-pity in the home circle, no other lesson or opportunity will be given. Many very well-meaning aspirants need also to understand that they themselves are responsible for many of the difficulties which they encounter. Puzzled as to why they seem to evoke so much antagonism from those around them, they complain of meeting with no sympathetic response as they attempt to lead the spiritual life, to study, read and think. The reason can usually be found in the fact of their spiritual selfishness. They talk too much about their aspirations, and about themselves. Because they fail in their first responsibility, they find no [79] understanding reaction to their demand for time to meditate. It must be recognised that they are meditating. The house must be quiet; they must not be disturbed; no one must break in on them. None of these difficulties would arise if aspirants would remember two things: First, that meditation is a process carried on secretly, silently and regularly in the secret temple of a man’s own mind. Secondly, that much can be done if people would not talk so much about what they are doing. We need to walk silently with God, to keep ourselves, as personalities, in the background; to organise our lives in such a way that we can live as souls, giving due time to the culture of our souls, yet at the same time preserving a sense of proportion, retaining the affection of those around us, and fulfilling perfectly our responsibilities and obligations. Self-pity and too much talk are the rocks on which many an aspirant temporarily founders. |
Đức Christ sống thầm lặng ở nhà với cha mẹ, trải qua cái kinh nghiệm khó khăn nhất của cuộc sống gia đình, với tính cách đơn điệu, với những điều thường lệ không hề thay đổi, cần phụ thuộc vào ý muốn và nhu cầu của tập thể, cùng những bài học hy sinh, cảm thông, và phụng sự. Đây bao giờ cũng là bài học đầu tiên mà mọi người đệ tử đều phải thuộc. Nếu chưa thuộc bài học này thì y không thể nào tiến xa hơn. Nếu chúng ta không thể biểu lộ thiên tính trong gia đình, và giữa những người biết rõ chúng ta, và bạn bè quen thuộc, thì đừng mong gì nó được biểu lộ ở nơi khác. Chúng ta phải sống với tư cách người con của Thượng Đế trong khung cảnh – không thú vị, tẻ nhạt, và đôi khi hạ tiện – mà vận mệnh đặt để. Vào giai đoạn này, không thể thực hiện điều đó ở nơi nào khác. Nơi chúng ta đang sống là nơi mà từ đó chúng ta bắt đầu cuộc hành trình; đó không phải là nơi chúng ta lẫn tránh. Nếu chúng ta không thể thực hiện tốt đẹp với tư cách người đệ tử ở nơi sinh sống hiện nay (78) và ở nơi mà chúng ta tự khám phá ra chính mình, thì sẽ không có được cơ hội nào khác, trước khi thực hiện điều đó. Cuộc thử thách của chúng ta là đây, và phạm vi phụng sự của chúng ta cũng là đây. Nhiều người chí nguyện thành thực và nhiệt tình cảm thấy rằng họ thực sự có thể tạo ấn tượng đối với môi trường sống chung quanh mình và biểu hiện thiên tính, nếu họ có loại nhà khác, một môi trường sống hay hoàn cảnh khác. Nếu họ kết hôn trong điều kiện khác, hay giá mà họ có nhiều tiền hoặc rảnh rỗi hơn, giá mà họ được bạn bè thiện cảm nhiều hơn, hoặc nếu họ có sức khỏe tốt hơn, thì chắc hẳn là không thể nói rằng có điều gì mà họ không thể hoàn thành. Sự thử thách là một điều gì đó thử sức mạnh của chúng ta để xem sức mạnh ấy như thế nào. Nó khiến chúng ta phải vận dụng hết tất cả những gì mình có, và cho ta thấy đâu là điểm yếu, là điều sai thất của mình. Ngày nay cần có những đệ tử đáng tin cậy, và cần những người đã qua thử thách, cho thấy họ không bị đổ vỡ hay rạn nứt khi gặp khó khăn, và khi đi vào những nơi tăm tối trong đời. Nếu nhận thức được, chúng ta sẽ thấy mình có chính xác những trường hợp và môi trường sống mà trong đó chúng ta có thể học thuộc bài học tuân hành theo những gì cao đẹp nhất trong ta. Chúng ta có chính xác loại cơ thể và điều kiện thể chất mà qua đó thiên tính trong ta có thể biểu lộ. Chúng ta có những mối liên giao trong đời và loại công việc cần để giúp chúng ta thực hiện bước kế tiếp tiến lên trên đường đạo, và thực hiện bước kế tiếp để về với Thượng Đế. Nếu người chí nguyện chưa thấu hiểu được sự kiện thực tế này, chưa có thể sống vui tươi, ổn định trong cuộc đời phụng sự, và chưa có thể cho ra một cách yêu thương trong gia đình của chính mình, thì họ không thể tiến bộ. Nếu họ chưa dấn bước trên đường đời một cách hạnh phúc, thầm lặng, không hề thương thân xót phận trong phạm vi gia đình, thì họ không thể học bài học nào khác, hay có được cơ hội khác. Nhiều người chí nguyện đầy hảo ý cũng cần hiểu rằng chính họ là nguyên nhân gây ra bao nỗi khó khăn mà họ gặp phải. Băn khoăn, bối rối, không thấy lý do tại sao dường như họ khơi dậy nhiều chống đối từ những người chung quanh, họ than phiền là phải chịu những đáp ứng không thiện cảm, khi họ cố gắng sống cuộc đời tinh thần, học hỏi, đọc sách và tư duy. Thường thì họ có thể thấy lý do thực tế là mình còn ích kỷ về mặt tinh thần. Họ nói quá nhiều về những nguyện vọng của mình, về chính mình. Vì họ không làm tròn được trách nhiệm đầu tiên của mình, nên họ thấy (79) không ai thông cảm khi họ yêu cầu có thời gian để tham thiền. Họ muốn trong nhà phải yên lặng. Không ai được quấy rầy họ. Không ai được làm xáo trộn công việc của họ. Không điều khó khăn nào vừa kể có thể xảy ra nếu người chí nguyện lưu ý hai điều: Thứ nhất, tham thiền là tiến trình được thực hiện một cách kín đáo, thầm lặng và đều đặn, trong ngôi đền tiềm ẩn là thể trí của hành giả. Kế đến là người ta có thể thực hiện được nhiều điều nếu họ không nói quá nhiều về những gì họ đang làm. Chúng ta cần bước đi với Thượng Đế trong im lặng; cần giữ phàm nhân của mình ở hậu trường; cần tổ chức cuộc sống của mình thế nào để có thể sống như linh hồn. Trong khi đó chúng ta vẫn có thể duy trì ý thức cân đối tỉ lệ, giữ được tình thân mến với những người chung quanh, đồng thời hoàn thành tốt đẹp các trách nhiệm và nghĩa vụ của mình. Tự thương thân xót phận và nói quá nhiều là những tảng đá mà biết bao người chí nguyện thường vấp phải. |
|
Through love and loving practice we prove ourselves initiate in the mysteries. Born into the world of love at Bethlehem, the keynote of our lives from then on must be obedience to the highest that is in us, love to all beings, and complete confidence in the power of the indwelling Christ to demonstrate (through the outer form of our personalities) the life of love. The life of Christ is a life to be lived today, eventually by all. It is a life of joy and happiness, of test and of problems, but its essence is love and its method is love. It leaves us an example that we should follow His steps, and carry on the work which He initiated. |
Qua tình thương và thực hành yêu thương, chúng ta chứng tỏ rằng mình là người điểm đạo đồ hiểu biết các bí nhiệm. Sinh ra trong thế giới của tình thương tại Bethlehem, từ đó trở đi chủ âm cuộc sống của chúng ta phải là tuân theo những gì cao cả nhất trong ta, yêu thương cả chúng sinh, và hoàn toàn tin vào quyền năng của Đấng Christ ở nội tâm có thể biểu dương cuộc sống đầy tình thương (qua ngoại thể của phàm nhân mình). Cuộc đời của Đức Christ là lối sống mà rốt cuộc mọi người hiện nay sẽ phải sống. Đó là cuộc sống vui tươi và hạnh phúc, chịu nhiều thử thách và khó khăn, thế nhưng tinh hoa của nó vẫn là tình thương, và phương pháp của nó là yêu thương. Cuộc sống ấy nêu gương cho chúng ta thấy rằng mình cần đi theo bước chân Ngài, và tiếp tục tiến hành công việc mà Ngài đã khởi đầu. |
|
As we have travelled with Christ from Bethlehem towards the time when the second initiation draws near, what is the lesson we have learnt? How can we sum up the significance of that episode in terms of practical individual application? Has this episode any personal significance? What are the requirements and the possibilities which confront us? If a study of these five developments in the life of Christ are of no profit to us, and if they concern an unfoldment which can have no possible human interpretation, then all that has been written and taught, down the centuries, proves futile and [80]unavailing. The ordinary theological applications no longer make an appeal to the developed intelligence of man. Christ Himself is ever powerful to attract human interest, and to draw to Himself those who have the vision to see truth as it is and to hear the Gospel message in terms which each new age demands. It is a waste of time to go on elaborating this ancient story of the living Christ if it contains for us no specific message, if all that is required of us is the attitude of the onlooker and of the man who simply says: “This is so.” This believing yet negative attitude has been held too long. Looking on at Christ from too great a distance, we have been so preoccupied with a realisation of His achievement that our own individual part to be played eventually and inevitably has been forgotten. We have allowed Him to do all the work. We have tried to copy Him, and He does not want to be copied. He seeks to have us prove to Him, to ourselves, and to the world, that the divinity which is in Him is in us also. We need to discover that we can be as He is, because we have seen Him. He has had boundless faith in us and in the fact that “we are all the children of God,” because “one is our Father,” and His call goes out for us to tread the Path of holiness, and to achieve that perfection to which His life challenges us and for which He Himself tells us to work. |
Chúng ta đã đồng hành cùng Đức Christ từ Bethlehem, hướng đến thời điểm mà cuộc điểm đạo thứ hai đã gần kề, vậy thì đâu là bài học mà chúng ta đã học? Làm thế nào chúng ta có thể tóm lược ý nghĩa của giai đoạn đó về mặt áp dụng thực hành cho mỗi cá nhân? Giai đoạn này có ý nghĩa nào đối với mỗi người chăng? Chúng ta đang đứng trước những yêu cầu và khả năng nào? Nếu việc khảo cứu năm sự phát triển này trong cuộc đời của Đức Christ không ích lợi gì cho chúng ta, và nếu chúng liên quan đến một sự khai mở mà con người không thể lý giải, thì bấy giờ tất cả những gì đã được viết ra và giảng dạy qua nhiều thế kỷ sẽ tỏ ra là vô nghĩa và (80) vô dụng. Các ứng dụng của thần học thông thường không còn hấp dẫn được trí thông minh đã phát triển của con người. Nhưng chính Đức Christ thì bao giờ cũng mạnh mẽ hấp dẫn sự quan tâm của mọi người, và thu hút về với Ngài những ai có khả năng thấy được thực tính của chân lý, và có thể nghe được bức thông điệp của Phúc âm trong phạm vi yêu cầu của mỗi thời đại. Thật là phí thời gian khi cứ tiếp tục giảng giải tỉ mỉ câu chuyện cổ xưa này của Đức Christ hằng sống, nếu nó không chứa đựng cho chúng ta bức thông điệp nào cụ thể, nếu tất cả những gì chúng ta cần có chỉ là thái độ của kẻ bàng quan, và của người chỉ nói “Điều này là như vậy.” Người ta đã giữ thái độ tin tưởng nhưng tiêu cực này quá lâu rồi. Chỉ ngắm nhìn Đức Christ từ khoảng cách quá xa, chúng ta chỉ bận bịu với nhận thức về sự thành tựu của Ngài, đến đỗi quên mất phần việc mà rốt cuộc chính mỗi cá nhân chúng ta tất phải thực hiện. Chúng ta đã để cho Ngài làm mọi việc. Chúng ta đã cố gắng bắt chước Ngài; nhưng Ngài không muốn được sao chép. Ngài muốn chúng ta hãy chứng tỏ cho Ngài thấy, cho chúng ta thấy, và cho thế gian thấy rằng thiên tính trong Ngài cũng có trong ta. Chúng ta cần khám phá ra rằng chúng ta có thể làm như Ngài, vì chúng ta đã thấy Ngài. Ngài đã có niềm tin vô biên vào chúng ta, và tin vào sự thực rằng “tất cả chúng ta đều là con của Thượng Đế,” vì “Đấng Cha Lành của chúng ta là duy nhất.” Vì thế, Ngài kêu gọi chúng ta hãy dấn bước lên con đường thánh thiện, và hãy đạt sự hoàn thiện mà cuộc đời của Ngài thôi thúc chúng ta đạt đến, và vì thế mà Ngài khuyên chúng ta hãy làm việc. |
|
One wonders sometimes how right it has been for men to have accepted the ideas of St. Paul as given through translation down the centuries. The thought of sin is very little dwelt upon by Christ. It was emphasised by St. Paul, and the slant which he gave to Christianity is perhaps largely responsible for the dominant inferiority complex of the average Christian—an inferiority which Christ in no way taught. He calls us to holiness of life and admonishes us to follow in His steps, and not to follow in the steps, or to accept the interpretation of His words, which any disciple of His may advocate, no matter how highly esteemed or valuable. |
Đôi khi chúng ta tự hỏi liệu người ta đã đúng đến đâu khi chấp nhận những ý tưởng mà Thánh Paul đã đưa ra và được diễn dịch qua nhiều thế kỷ. Đức Christ rất ít bận tâm đến ý tưởng về tội lỗi. Nhưng ý tưởng đó lại được Thánh Paul nhấn mạnh, và có lẽ thành kiến mà ông đưa ra cho Thiên Chúa giáo phần lớn đã khiến cho mặc cảm tự ti chế ngự người Thiên Chúa giáo có trình độ trung bình. Sự tự ti này Đức Christ không hề dạy. Ngài kêu gọi chúng ta hãy hướng đến sự thánh thiện trong đời sống và khuyên chúng ta hãy theo bước chân Ngài. Đó không phải là đi theo những bước, hay chấp nhận lối giải thích lời của Ngài, mà bất cứ môn đồ nào của Ngài cũng có thể chủ trương, dù lối giải thích đó có được đánh giá cao, hay có giá trị đến đâu. |
|
What is this holiness to which He calls us, when we take the first step toward the new birth? What is a holy man? |
Sự thánh thiện này là gì mà Ngài kêu gọi chúng ta nhắm đến, khi chúng ta thực hiện bước đầu tiên để được sinh ra lần thứ hai? Thế nào là một người thánh thiện? |
|
Wholeness, unity, at-one-ment, completeness—this is the [81] hall mark of a perfect man. Having once seen and with open eyes beheld the vision of divinity, what can we do? In this question our problem is voiced. What is the next step, the immediate duty of the man who knows that, in himself, the new birth has not yet taken place, but who feels in himself a readiness to go up to Bethlehem, from Galilee, via Nazareth? |
Toàn vẹn, hợp nhất, nhất quán, hoàn chỉnh – đó là (81) đặc điểm của người hoàn thiện. Khi đã thấy với tầm mắt rộng mở, chiêm ngưỡng sự tuyệt vời của thiên tính, thì chúng ta có thể làm gì? Đây là vấn đề khó khăn của chúng ta. Đâu là bước kế tiếp, là nhiệm vụ ngay trước mắt của người đã biết rằng trong y chưa xảy ra sự sinh ra lần thứ hai, nhưng y cảm thấy mình sẵn sàng đi dến Bethlehem, từ Galilee, qua Nazareth? |
|
It entails, in the first place, effort. It means initiative, the expenditure of energy, the overcoming of inertia, and the will to exert oneself so that the initial journey can be taken. It means listening for and obeying the insistent demand of the soul for a nearer approach to God and a fuller expression of divinity; and yet “every individual is at some point torn between the splendid urge to go on towards understanding, and the craving to go back to safety.” [xciii]65 |
Trước hết, cần phải nỗ lực. Tức là phải có sáng kiến, sử dụng năng lực, khắc phục sự trì trệ, và ý chí khẳng định mình để có thể thực hiện cuộc hành trình đầu tiên. Tức là phải lắng nghe và tuân theo mệnh lệnh kiên định của linh hồn để tiếp cận Thượng Đế, và biểu lộ thiên tính một cách viên mãn. Vậy mà “mọi cá nhân đến một trình độ nào đó vẫn còn bị giằng xé giữa sức thôi thúc cao đẹp để liên tục tiến đến sự thông hiểu, và tiếng kêu đòi hãy trở lại để được an toàn.”[65] |
|
For there is difficulty and danger in the outlined way to the centre. Much is to be overcome and faced. The lower nature (the Mary aspect) draws back from the issue, and prefers inertia and stability to the needed activity and to consequent relative and temporary uncertainty. |
Bởi vì có khó khăn, nguy hiểm trên đường vào trung tâm. Nhiều điều cần phải khắc phục và đối mặt. Phàm tính (khía cạnh Mary) thối lui, né tránh vấn đề, và ưa thích sự trì trệ và ổn định hơn là phải tiến hành những hoạt động cần thiết, và hơn là sau đó phải chịu tình trạng bất định tạm thời. |
|
This new birth is no mystical dream; neither is it a lovely vision of something that is possible but not probable; it is not simply a symbolic expression of some ultimate goal—lying ahead of us in some dim future, or in some other form of existence and some eventual heaven which we can attain if we fall back upon unthinking faith and blind acceptance of all that theology can tell us. Relatively easy to believe, this is the line of least resistance to the majority. It is difficult to fight one’s way to that stage of experience where the divine programme for man becomes clear, and the possibilities which Christ dramatised for us become something permitting us no rest until we have transmuted it into personal experience, through the experiment of initiation. The new birth is as much a natural event and as much a result of the evolutionary process as is the birth of a child into the world of physical life. Eternally, down the ages, men have made and will continue to make the great transition, proving the fact [82] of this experience. It is something which all must face at some time or other. |
Việc sinh ra lần thứ hai không phải là ước mơ có tính cách thần bí. Nó không phải là hình ảnh đáng yêu về một điều gì đó có thể có nhưng không khả dĩ xảy ra. Nó không đơn thuần là cách phát biểu tượng trưng về một mục tiêu tối hậu nào đó – đặt trước chúng ta trong một tương lai mờ mịt, hoặc dưới một dạng sinh tồn khác. Nó không phải là cõi trời nào đó mà rốt cuộc chúng ta đạt được nếu chúng ta cứ dựa vào niềm tin thiếu suy nghĩ, và mù quáng chấp nhận tất cả những gì mà khoa thần học có thể bảo cho chúng ta biết. Tin là điều tương đối dễ dàng, là con đường ít trở ngại nhất, dành cho đại chúng. Cái khó là phấn đấu tìm đường đi đến giai đoạn kinh nghiệm, trong đó chúng ta hiểu rõ cái chương trình thiêng liêng dành cho con người. Bấy giờ, những khả năng tuyệt vời mà Đức Christ phác họa cho ta trở thành một điều gì đó không cho phép chúng ta ngơi nghỉ, cho đến khi chúng ta đã chuyển hóa nó thành kinh nghiệm cá nhân, qua cuộc thí nghiệm điểm đạo. Sinh ra lần thứ hai cũng là một sự kiện tự nhiên, và cũng là kết quả của diễn trình tiến hóa, như việc đứa trẻ sinh ra vào thế giới của đời sống hồng trần vậy. Qua các thời đại, bao giờ con người cũng đã thực hiện và sẽ tiếp tục thực hiện cuộc chuyển tiếp vĩ đại, chứng minh sự thực (82) của kinh nghiệm này. Đó là điều mà mọi người đều phải có, vào thời điểm này hay thời điểm khác. |
|
Two recognitions must emerge into the thought-world of the aspirant of today. First, the presence of the soul, a living entity which can and must be known through the process of bringing it to the birth upon the plane of daily living; and, secondly, the determination to achieve the re-orientation of the entire nature so that a closer identification with that soul may become possible, until a complete unity has been achieved. We begin to see what must be done, we begin to assume the right attitude which will make it possible. The halves of our essential duality—soul and body, Christ and Mary, over-shadowed by the Holy Ghost, the material and the spiritual—face each other and approach nearer and nearer until complete union is achieved and the Christ is born through the instrumentality of the Mother. But the acceptance of this divine idea and the orientation of the life in order to make the idea a fact are the first and immediate steps. |
Ngày nay, trong thế giới tư tưởng của mình người chí nguyện phải có hai điều nhận thức. Một là sự hiện diện của linh hồn, thực thể sống động mà chúng ta có thể biết và phải biết qua tiến trình làm cho nó sinh ra trên cảnh giới của cuộc sống đời thường. Và hai là, nhất quyết chuyển hướng trọn cả tâm tính của mình, để có thể đồng hóa mật thiết hơn với linh hồn cho đến khi hoàn toàn hợp nhất. Chúng ta bắt đầu thấy điều gì phải làm. Chúng ta bắt đầu giữ thái độ đúng đắn để có thể thực hiện điều đó. Hai phân nửa trong lưỡng nguyên cốt yếu của chúng ta – linh hồn và cơ thể, Christ và Mary, được Chúa Thánh Thần phủ bóng, vật chất và tinh thần – đối diện với nhau, ngày càng tiến gần nhau hơn cho đến khi có sự hợp nhất hoàn toàn, và Đức Christ được sinh ra nhờ phương tiện của Đức Mẹ. Thế nhưng, những bước đầu tiên và ngay trước mắt là chấp nhận ý tưởng thiêng liêng này và định hướng cuộc sống để biến ý tưởng đó thành sự thực. |
|
This, Christ taught, and for this He prayed the Father. |
Đức Christ đã dạy điều này, và Ngài cầu nguyện với Đấng Cha Lành để có được điều này. |
|
“Neither pray I for these alone (His disciples), but for them also which shall believe on me through their word; that they all may be one; as thou, Father, art in me, and I in thee, that they all may be one in us: that the world may believe that thou hast sent me…. I in them, and thou in me, that they may be made perfect in one.” [xciv] 66 |
“Con không chỉ cầu nguyện cho những người này (các môn đồ của Ngài), mà còn mong họ tỏ lời tin tưởng nơi con; để tất cả họ có thể là một; thưa Cha, như Ngài đang ở trong con, và con trong Ngài, để họ cũng có thể là một với chúng ta: để thế gian có thể tin rằng Ngài đã sai con đến đây. . . . Con trong họ, và Ngài trong con, để họ có thể trở nên hoàn thiện trong hợp nhất.”[66] |
|
This is the doctrine of the At-one-ment; God, immanent in the universe—the cosmic Christ. God, immanent in humanity, revealed through the historical Christ. God, immanent in the individual, the indwelling Christ, the soul. |
Đây là giáo lý về sự Nhất quán. Thượng Đế hằng hữu trong vũ trụ – là Đấng Christ vũ trụ. Thượng Đế hằng hữu trong nhân loại, hiển lộ qua Đức Christ của lịch sử. Thượng Đế hằng hữu trong cá nhân, sự sống Christ nội tại, là linh hồn. |
|
How can this truth of the soul and the new birth be experienced, so simply and so practically that its meaning can appear, thus enabling us to do that which is needed? Perhaps from the following statements: |
Làm thế nào chân lý này về linh hồn và sự sinh ra lần thứ hai có thể được trải nghiệm, một cách hết sức giản dị và thực tế, để ý nghĩa của nó trở nên rõ ràng, nhờ đó mà chúng ta có thể thực hiện những gì cần thiết? Có lẽ từ những điều phát biểu sau đây: |
|
1. Hidden in every human being is the “Word incarnate,” [83] the Son of God made flesh. This is “Christ in us, the hope of Glory,” but as yet only a hope for the mass of men. Christ is not yet made manifest. He is hidden and veiled by the form. Mary is seen, not the Christ. |
1. Tiềm ẩn trong mỗi người là “Linh từ lâm phàm,” (83) người Con của Thượng Đế sống trong thân xác. Đây là “Đấng Christ trong chúng ta, nguồn hy vọng Vinh quang.” Tuy nhiên, đối với đại chúng, điều đó vẫn chỉ là hy vọng mà thôi. Sự sống Christ chưa được giúp cho biểu hiện. Ngài đang còn tiềm ẩn, và được che giấu trong hình thể. Chỉ thấy được Mary, nhưng chưa thấy được Đức Christ. |
|
2. As the wheel of life (the Galilee experience) carries us from one lesson to another, we approach nearer and nearer to the indwelling reality and the hidden deity. But the Christ Child is still hidden in the womb of the form. |
2. Khi bánh xe của đời sống (kinh nghiệm Galilee) giúp chúng ta học hết bài học này đến bài học khác, thì chúng ta ngày càng đến gần hơn với thực tại ở nội tâm, và thiên tính ẩn tàng. Nhưng Hài nhi Christ vẫn còn ẩn giấu trong lòng hình thể. |
|
3. In due time, the personality—physical, emotional and mental—is fused into one living whole. The Virgin Mary is ready to give birth to her Son. |
3. Vào thời điểm thích hợp, phàm nhân – gồm thân xác, tình cảm và trí tuệ – được hòa hợp thành một toàn thể sống động. Bà Mary Đồng trinh sẵn sàng sinh ra Con bà. |
|
4. The long journey draws to a close, and the hidden Christ Child is born at the first initiation. |
4. Cuộc hành trình lâu dài sắp kết thúc, và Hài nhi Christ ẩn tàng được sinh ra vào cuộc điểm đạo thứ nhất. |
|
This truth Dr. Inge touches upon in these words: |
Chân lý này được Ts. Inge nói lên trong đoạn sau đây: |
|
“Macarius, following Methodius, teaches that the very idea of the Incarnation includes the union of the Logos with pious souls, in whom He is well-pleased. In each of them a Christ is born. Thus besides the ideas of Ransom and Sacrifice of Christ for us, these theologians placed the ideas of sanctification and inner transformation of Christ in us, and they considered the latter as real and as integral a part of our redemption as the former. But the doctrine of Divine Immanence in the human heart never became quite the central truth of theology till the time of the medieval mystics. It is Eckhart who says: `The Father speaks the Word into the soul, and when the Son is born, every soul becomes Mary.’“ [xcv] 67 |
“Sau Methodius, Macarius dạy rằng chính cái ý tưởng về sự Lâm phàm bao gồm sự hợp nhất của Thượng Đế với những linh hồn thuần thành, mà Ngài thấy rất vui lòng với họ. Trong mỗi linh hồn đó, một Đấng Christ được sinh ra. Thế nên, ngoài ý tưởng về sự Chuộc tội và Hy sinh của Đức Christ cho chúng ta, các nhà thần học này còn đưa ra ý tưởng về thánh hóa và chuyển hóa nội tại của sự sống Christ trong chúng ta. Đồng thời họ xem ý tưởng sau cũng là thực và là một phần của sự cứu rỗi chúng ta như ý tưởng trước vậy. Thế nhưng, giáo lý về Sự Sống Thiêng liêng hằng hữu trong tâm hồn con người vẫn chưa bao giờ trở thành hoàn toàn là chân lý trọng tâm trong khoa thần học cho đến thời kỳ của các nhà thần bí thời trung cổ. Chính Eckhart đã nói: ‘Đức Chúa Cha thốt ra Linh từ cho vào linh hồn, và khi Chúa Con được sinh ra, mọi linh hồn đều trở thành Mary.’”[67] |
|
We are summoned to the new birth. Our personalities are now alive with potentiality. The hour is upon us. |
Chúng ta được kêu gọi để sinh ra lần thứ hai. Phàm nhân của chúng ta nay đang có tiềm năng sống động. Ngày giờ đã đến với chúng ta. |
|
The human soul must hear the challenge of the Christ soul, and realise that “Mary is blessed, not because she bore Christ bodily, but because she bore Him spiritually, and in this everyone can become like her.” (Eckhart.) |
Phàm tính phải lắng nghe tiếng gọi của linh hồn là sự sống Christ, và nhận thức rằng “Mary được ban ân huệ, không vì bà sinh ra thân xác cho Đức Christ, mà vì bà sinh ra Ngài về mặt tinh thần, và về phương diện này ai ai cũng có thể làm giống như bà.” (Eckhart.) |
|
[85] |
(tr. 84 để trắng) |
CHAPTER THREE – The Second Initiation… The Baptism in Jordan—
CHƯƠNG BA – Lần Điểm Đạo Thứ Hai… Lễ Rửa Tội ở Jordan
|
KEY THOUGHT |
TƯ TƯỞNG GỐC |
|
“It is a propitious moment to put the Christian life into serious practice…. At a time of catastrophe, a process of ascetic purification takes place, in the absence of which there can be no spiritual life, whether for society or for the individual….” |
“Nay là lúc thích hợp để thực hành nghiêm chỉnh đời sống Thiên Chúa giáo . . . Vào thời gian có tai biến, là lúc tiến trình tinh luyện khắc khổ xảy ra, nếu không thì không thể có cuộc sống tinh thần, dù là cho xã hội hay cho cá nhân . . .” |
|
Freedom of the Spirit, by Nicholas Berdyaev, p. 46. |
Sự Tự do của Tinh thần, tác giả Nicholas Berdyaev, tr. 46. |
|
[87] |
(tr. 86 để trắng) |
|
CHAPTER THREE |
CHƯƠNG BA |
|
The Second Initiation… The Baptism in Jordan |
Cuộc Điểm đạo Thứ Hai … Lễ Rửa tội ở Jordan |
|
1 |
1 |
|
“Wherever a thing is both perceived and felt, there is the experience of the soul; and whenever a thought and a feeling become indistinguishable, there is the soul. Soul means oneness, unity, union between the inner wish and outer reality. As man moves toward acceptance of the universe, toward compatibility between what he feels as a wish from within, and what he perceives as the arrangement without, and as both elements expand, the soul moves towards greatness.” (Italics are mine. A. A. B.) [xcvi] 1 |
“Bất cứ ở đâu có điều gì được nhận thức và cảm nhận, thì ở đó có kinh nghiệm của linh hồn. Và bất cứ khi nào tư tưởng và xúc cảm không còn phân biệt được, thì bấy giờ có sự hiện diện của linh hồn. Linh hồn có nghĩa là tính duy nhất, nhất như, hợp nhất giữa ước muốn ở nội tâm và thực tế ở bên ngoài. Khi con người ngày càng chấp nhận vũ trụ, ngày càng thấy sự tương thích giữa điều y cảm thấy là sự ước muốn ở nội tâm, và điều mà y nhận thấy là sự dàn xếp ở bên ngoài, và khi cả hai yếu tố này mở rộng, linh hồn tiến đến những điều trọng đại.”[1] (Những chữ nghiêng là của tôi. A.A.B.) |
|
The first initiation has taken place. Christ has been born in Bethlehem. The soul has come into outer expression, and now this soul—Christ (as the historical representative of all a soul can be), the individual initiate—moves on towards greatness. The mission of the Saviour definitely starts at this time, but for the sake of those who will follow after, He must sound the note of purification and conform to the ritual requirements and the general trend of thought of His time The initiate who has taken the first step must lay emphasis upon the purification of the lower nature which it is essential should preface the second initiation. The baptism of John was the symbol of this purification. Christ submitted Himself to the baptism, setting aside the protests of the Evangelist with His: “Suffer it to be so now; for thus it becometh us to fulfil all righteousness.” [xcvii] 2 |
CUỘC điểm đạo thứ nhất đã xảy ra. Đức Christ đã được sinh ra ở Bethlehem. Linh hồn đã đi vào kinh nghiệm ở ngoại giới. Và nay linh hồn này – tức là Đức Christ (đại diện lịch sử về những gì mà một linh hồn có thể có), người điểm đạo đồ với tư cách cá nhân – ngày càng hướng đến những điều trọng đại. Sứ mệnh của Đấng cứu thế bắt đầu rõ rệt vào thời điểm này. Thế nhưng, vì những người tiến bước theo sau, Ngài phải nêu cao sự tinh luyện và tuân thủ các yêu cầu về nghi lễ, cũng như xu thế chung về tư tưởng trong thời kỳ của Ngài. Người điểm đạo đồ đã thực hiện bước đầu, phải chú trọng đến sự tinh luyện phàm tính, mà nhất thiết phải có trước cuộc điểm đạo thứ hai. Lễ rửa tội của Thánh John là tiêu biểu cho sự tinh luyện này. Đức Christ chịu lễ rửa tội, không bận tâm đến lời phản đối của tác giả sách Phúc âm về việc làm này của Ngài: “Giờ đây, hãy làm theo điều đó; vì nhờ thế mà chúng ta có thể hoàn tất mọi điều đúng đắn.”[2] |
|
Christ had reached maturity. Tradition tells us that He [88] was thirty years old when He was baptised and started on His brief and spectacular public career. How true this may be historically, who can say? It is of no real importance. Christ was, is, and ever shall be. Speaking symbolically, it was necessary that He should be thirty years old, for there is significance in that number, where humanity is concerned. Thirty signifies the perfecting of the three aspects of the personality—the physical body, the emotional nature, and the mind. These three compose the form side of man, and veil or hide the soul. They are in reality his mechanism of contact with the outer world, the equipment whereby his consciousness unfolds and awakens. In their totality they constitute his “response apparatus,” as the psychologists call it. We know that man is a physical animal as well as an emotional, sentient being and a thinking entity. When these three parts of man’s lower nature are functioning smoothly, and together form a unit for the use of the inner man, an integrated personality, or an efficient lower self, is the result. To this the number thirty testifies. Ten is the number of perfection, and thirty testifies to perfection in all three parts of the equipment of the soul. |
Đức Christ đã đến tuổi trưởng thành. Tục truyền rằng Ngài (88) đã ba mươi tuổi khi Ngài được rửa tội, và khởi đầu sự nghiệp tuyệt vời nhưng ngắn ngủi của Ngài cho công chúng. Ai có thể nói về mặt lịch sử điều này đúng đến đâu? Nhưng đúng đến đâu cũng không có gì quan trọng. Đức Christ đã tồn tại, đang tồn tại, và bao giờ cũng tồn tại. Nói về mặt biểu tượng, nhất thiết bấy giờ Ngài cần phải đủ ba mươi tuổi, vì ý nghĩa của con số này có liên quan đến nhân loại. Ba mươi có nghĩa là sự hoàn thiện trong ba hạ thể của phàm nhân – thể xác, thể tình cảm, và thể trí. Cả ba hợp thành phương diện hình thể của con người và bao bọc hay che giấu linh hồn. thực sự chúng là cơ cấu để giao tiếp với thế giới bên ngoài, là phương tiện để tâm thức của y mở mang và thức tỉnh. Cả ba là khí cụ đáp ứng của y, theo cách gọi của nhà tâm lý học. Chúng ta biết rằng con người là một con thú ở cõi trần, đồng thời cũng là một sinh linh hữu tình, và biết tư duy. Khi cả ba thành phần này trong phàm tính của y hoạt động điều hòa, và cùng nhau hình thành một đơn vị duy nhất cho con người ở nội tâm sử dụng, thì đó là một phàm nhân tích hợp hay phàm ngã hữu hiệu. Con số ba mươi tiêu biểu cho điều này. Mười là con số hoàn thiện, và ba mươi cho thấy sự hoàn thiện của cả ba thành phần trong trang cụ của linh hồn. |
|
It is interesting to bear in mind that through these three aspects (or reflections of the divine being) man is brought en rapport with the existing universe, and therefore with God, immanent in nature. The physical body enables us to touch the tangible, visible world. The emotional, feeling nature enables us to say, “I lift up my heart unto the Lord.” Most people live in their heart nature and in the feeling body, and it is through the heart that we find our way to the Heart of God. Only through love can Love be revealed. When through right use and understanding the mind is definitely directed and properly oriented, it is brought en rapport with the Mind of God, the Universal Mind, the Purpose, the Plan and the Will of God. Through the illumined mind of man, the Mind of Deity stands revealed. Thus man is seen as “made in the image of God.” [xcviii]3 |
Điều thú vị và cần lưu ý là qua ba khía cạnh này (hay những phản ảnh của sự sống linh hồn), mỗi người có thể giao tiếp với vũ trụ hiện hữu, và do thế mà giao tiếp với Thượng Đế hằng hữu trong thiên nhiên. Thể xác giúp chúng ta giao tiếp với thế giới hữu hình. Bản tính tình cảm, xúc cảm khiến chúng ta có thể nói “Tôi dâng tâm hồn mình lên Thiên Chúa.” Hầu hết mọi người sống theo tính chất của cái tâm,và sống trong thể xúc cảm. Chính nhờ cái tâm mà chúng ta tìm thấy con đường đến Tâm của Thượng Đế. Chỉ qua tình thương mà nguồn Bác ái hiển lộ. Khi sử dụng và hiểu biết đúng, thể trí được vận dụng và định hướng thích hợp. bấy giờ nó có thể liên giao với Thiên trí, Trí tuệ Vũ trụ, là Mục đích, Kế hoạch, và Ý chí của Thượng Đế. Qua trí tuệ được khai ngộ, con người mới hiểu được Thiên trí. Vì thế, xem như con người “được tạo nên theo hình ảnh của Chúa.”[3] |
|
[89] |
(89) |
|
At the second initiation Christ stood before God, the Initiator, with all these aspects purified and matured; His mechanism was adjusted and ready for the task, and thus enabled to give proof of that purification and tension in attitude which would enable Him to carry through His mission to a satisfactory conclusion. This He had to prove to God and man through the purification which the baptism could give, and through the subsequent temptations in the wilderness. Ready for His work, He possessed what Dr. Sheldon calls “the three cardinal elements of a great mind, namely, enthusiasm, intuitive insight, and systematized factual equipment,” and it is further pointed out that the first two “are the more vital two, for they cannot be acquired if a person has reached adult life without them.” [xcix] 4 |
Vào cuộc điểm đạo thứ hai, Đức Christ đứng trước Thượng Đế, Đấng Điểm đạo, với cả ba phương diện này đã được tinh luyện và thành thục. Các thể của Ngài đã được điều chỉnh và sẵn sàng thi hành nhiệm vụ. Điều này cho thấy đã có sự tinh luyện và thái độ khẩn trương, giúp Ngài có thể thực hiện sứ mệnh của mình đến mức kết thúc thỏa đáng. Ngài đã phải chứng tỏ điều này cho Thượng Đế và con người thấy qua sự thanh tẩy mà lễ rửa tội có thể mang lại, và qua những sự cám dỗ sau đó trong hoang mạc. Sẵn sàng để tiến hành công việc, Ngài sở hữu phương tiện mà Ts. gọi là “ba thành tố chủ yếu của người có trí tuệ sâu rộng, bao gồm sự nhiệt tình, thông hiểu trực giác, và trang bị sự kiện có hệ thống.” Ông cũng nói thêm rằng hai thành tố đầu “có tính cách trọng yếu hơn, vì không thể đạt được chúng nếu một người đã đến tuổi trưởng thành mà chưa có chúng.”[4] |
|
Christ stood thus equipped. |
|
|
It may be of value if we study here for a few minutes the purpose for which He stood thus equipped. We saw in our last chapter that this planet we call the Earth, is regarded by many modern scientists of eminence as probably unique in its constitution and its purpose. It apparently provides a conditioning of life to be found on no other planet. This may or may not be so, and only the unfoldment of man’s consciousness can verify or negate this theory of uniqueness. Today, as we look out upon our planetary life, in all kingdoms the vision is discouraging. In all kingdoms we find death and disease, and in the animal and human kingdoms not only these, but also violence of many kinds. In the human family particularly the vision is saddening, so little have we learnt to understand that for which Christ stood, and so little have we gained from the purificatory processes of modern living. The will to betterment can be seen working in many fields where individuals are concerned, but the impulse is still weak in humanity as a whole. However, it can be aroused and we shall thus awaken to our environing responsibilities when we study anew the message of love which Christ gave. |
Đức Christ đã được trang bị như thế. Ở đây, chúng ta nên dành ra vài phút để xem xét mục đích mà vì đó Ngài được trang bị như trên. Trong chương trước, chúng ta thấy rằng hành tinh này mà chúng ta gọi là Địa cầu được nhiều nhà khoa học lỗi lạc hiện nay cho là khả dĩ có tính cách độc đáo trong sự cấu tạo và mục đích. Nó có vẻ cung ứng một điều kiện sống không hề có trên hành tinh nào khác. Điều này có thể đúng hoặc không đúng. Và chỉ sự khai mở tâm thức của con người mới có thể xác minh hay phủ nhận luận thuyết về tính cách độc đáo này. Ngày nay, khi chúng ta nhìn xem cuộc sống hành tinh này trong tất cả các giới tiến hóa, hình ảnh thật buồn nản. Đâu đâu cũng có chết chóc và bệnh tật. Trong giới động vật và nhân loại không những thế mà còn có đủ thứ bạo hành. Đặc biệt là trong gia đình nhân loại còn có những hình ảnh đáng buồn hơn. Chúng ta chẳng học hỏi bao nhiêu để hiểu những điều mà Đức Christ đã tiêu biểu, và cũng chẳng thu được bao nhiêu lợi ích từ những tiến trình thanh lọc của cuộc sống hiện nay. Trên nhiều lĩnh vực, chúng ta thấy có biểu hiện ý muốn cải thiện trong các cá nhân. Thế nhưng, trong toàn nhân loại thì ý muốn này hãy còn yếu ớt. Tuy nhiên, có thể khơi dậy ý chí này, và chúng ta sẽ ngày càng ý thức về trách nhiệm đối với cuộc sống chung quanh mình, khi nghiên cứu nhiều hơn bức thông điệp mà Đức Christ đã trao truyền. |
|
[90] |
(90) |
|
It is probably true that Christ came to us with a wider and deeper message than any previous Messenger from the Centre, but this in no way detracts from the status and work of Those Who preceded Him. He came at a crucial time, and in a period of world crisis, and embodied in Himself a cosmic principle—the principle of Love, which is the outstanding quality of God. Other aspects, qualities and purposes of the divine nature had been revealed by earlier incarnations of God, and appeared as the race reached the point in its development where a right reaction was possible. Zarathustra, to mention one such Messenger, had called the attention of mankind to the fact of the two basic principles to be found in the world—those of good and of evil—thus emphasising the basic dualities of existence. Moses revealed the Law, calling men to recognise God as the principle of justice, even if it may seem an unloving justice to those of us who live after the revelation which Christ gave. Buddha embodied in Himself the principle of divine wisdom and, with clear insight into the world of causes, saw mortal existence as it was and pointed the way out. But the principle of Love—the fundamental principle of the universe—had not been revealed before Christ came. God is love, and in the fullness of time this outstanding characteristic of the divine name had to be revealed and in such a manner that man could grasp it. It is thus that Christ embodied in Himself the greatest of the cosmic principles. This Law of Love can be seen functioning in the universe as the Law of Attraction, with all that is involved in that term—coherency, integration, position, direction and the rhythmic running of our solar system; it can be seen also in the disposition of God towards humanity, as revealed to us through Christ. This unique function of Christ as the custodian and the revealer of a cosmic principle or energy lies behind all He did; it was the basis and the result of His achieved perfection; it was the incentive and impulsion to His life of service, and it is the principle upon which the kingdom of God is founded. |
Chắc hẳn là đúng rằng Đức Christ đã đến với chúng ta, mang theo bức thông điệp sâu rộng hơn bất cứ vị Sứ giả nào của thời gian trước đến từ Trung tâm thiêng liêng. Thế nhưng, điều này không hề khiến ta xem nhẹ vị thế và công tác của những Vị đến trước Ngài. Ngài đến vào một thời kỳ rất quan trọng, đồng thời là một giai đoạn khủng hoảng trên thế giới, và thể hiện nơi Ngài một nguyên lý vũ trụ. Đó là nguyên lý Bác ái, một phẩm tính nổi bật của Thượng Đế. Những khía cạnh, phẩm tính và mục đích khác trong thiên tính, đã được hiển lộ trong những lần lâm phàm trước đó của Thượng Đế, và đã xuất hiện khi nhân loại đạt đến trình độ phát triển có thể phản ứng đúng. Đơn cử như Zarathustra đã kêu gọi nhân loại chú ý đến sự thực là có hai nguyên lý cơ bản trên thế giới – tức là thiện và ác. Từ đó ông nhấn mạnh đến các lưỡng nguyên cơ bản của cuộc sinh tồn. Moses đưa ra Thiên luật, kêu gọi mọi người hãy công nhận Thượng Đế là nguyên lý công bằng, cho dù đó là công lý không được ưa thích bởi những người sống sau cuộc thiên khải của Đức Christ. Đức Phật thể hiện nơi Ngài nguyên lý minh triết thiêng liêng và, với sự thấu hiểu rõ ràng về thế giới nguyên nhân, Ngài thấy thực chất của kiếp sống đưa đến tử vong, và chỉ rõ con đường giải thoát. Thế nhưng, nguyên lý Bác ái – nguyên lý cơ bản của vũ trụ – vẫn chưa được tiết lộ trước khi Đức Christ đến. Thượng Đế là ác ái, và đúng lúc đặc trưng nổi bật này của thiên tính phải được hiển lộ theo cách nào để con người có thể hiểu rõ. Thế nên, Đức Christ đã thể hiện nguyên lý vĩ đại nhất trong các nguyên lý vũ trụ. Có thể thấy Định luật Bác ái này tác động trong vũ trụ như là Luật Hấp dẫn, với tất cả những gì bao hàm trong thuật ngữ này – sự cố kết, tích hợp, thiên hướng, điều hướng, và sự vận hành nhịp nhàng của thái dương hệ chúng ta. Cũng có thể thấy luật này trong thiên hướng của Thượng Đế đối với nhân loại, như được hiển lộ qua Đức Christ. Chức năng độc đáo này của Đức Christ, với tư cách người quản thủ và làm hiển lộ một nguyên lý hay năng lượng vũ trụ, ẩn trong tất cả những gì mà Ngài đã thực hiện. Nó là cơ sở và là kết quả của sự hoàn thiện mà Ngài đã đạt. Nó là sự khích lệ và là sức thôi thúc trong cuộc đời phụng sự của Ngài, và cũng là nguyên tắc lập nên Thiên giới. |
|
[91] |
(91) |
|
That paganism knows no goal or purpose is today for many of us a statement which will not bear investigation. All that had transpired in the past had for its goal that which happened when Christ appeared; it prepared humanity for the opportunity then offered, forming the foundation upon which the present is based. Similarly, the imminent revelation of the coming century will constitute the foundation upon which the future will rest, and for this purpose all that is now transpiring is of supreme importance. |
Nói rằng ngoại đạo không hề có mục tiêu hay mục đích nào cả, thì ngày nay đối với nhiều người trong chúng ta đó không phải là lời phát biểu có nghiên cứu kỹ. Tất cả những đã xảy ra trong quá khứ đều có mục tiêu đưa đến những gì xảy ra khi Đức Christ giáng lâm. Nó đã chuẩn bị cho nhân loại sẵn sàng nắm lấy khi được trao cho cơ hội, hình thành cái nền móng mà giai đoạn hiện nay dựa vào đó. Tương tự, cuộc thiên khải sắp đến trong thế kỷ tới sẽ là nền tảng mà giai đoạn tương lai sẽ dựa vào đó. Và cho mục đích này, tất cả những gì hiện đang xảy ra đều hết sức quan trọng. |
|
Not only did Christ bridge the gap between the East and the West, summing up in Himself all that the East had of worth to contribute, but He gave to our occidental civilisation (at that time unborn) those great ideals and that example of sacrifice and of service which today (two thousand years after He walked among men) are becoming the keynote of the best minds of the age. The story of ideas, how they come and how they make their impact upon the human consciousness, thus changing the course of human affairs, is the story of history; but curiously enough, ideas constitute the one unpredictable element of the future. Some individual of outstanding personality steps out from the rank and file of the race, and thinks through into being some great and dynamic idea based on truth. He formulates it into such terms that his fellowmen can grasp it and eventually live by it. New trends, new incentives and new impulses then emerge, and thus history is made. It might be said with truth that without ideas there would be no history. In the enunciation of a cosmic idea, and in the capacity to make that idea an ideal of dynamic force, Christ stands alone. Through His life, He gave to us an idea which became in time the ideal of service, so that today the attention of many rulers and thinkers throughout the world is engrossed with the well-being of nations and men. That the technique employed and the methods used to enforce the sensed and visioned ideal are frequently wrong and undesirable, producing cruel and separative results, in no way alters the fact that behind all these idealistic experiments of the race lies this great ideal, [92]divinely inspired and summarised for us by Christ in His life and teaching. |
Không những Đức Christ tạo cầu nối giữa Đông và Tây, tổng kết trong Ngài tất cả những gì mà Đông phương đã có, xứng đáng để góp phần, mà Ngài còn trao cho nền văn minh Tây phương (vào thời đó chưa được sản sinh) những lý tưởng cao cả, và tấm gương hy sinh và phụng sự mà ngày nay (hai ngàn năm sau khi Ngài hoạt động giữa mọi người) đang trở thành chủ âm của những người có trí tuệ lỗi lạc nhất thời đại. Câu chuyện về các ý tưởng, chúng đến bằng cách nào, và làm thế nào chúng tác động vào tâm thức của con người, để thay đổi tiến trình của các sự vụ nhân loại, thì chính là câu chuyện của lịch sử. Thế nhưng, cũng khá kỳ lạ khi các ý tưởng lại là yếu tố không thể tiên đoán được của tương lai. Một cá nhân nào đó có cá tính nổi bật, vượt ra ngoài phạm vi bình thường của nhân loại, qua khả năng tư duy sáng suốt, đưa ra một ý tưởng cao đẹp và mạnh mẽ nào đó, dựa trên sự thực. Người ấy trình bày nó bằng những thuật ngữ thế nào để đồng bào của mình có thể thấu hiểu, và rốt cuộc thực hành nó. Bấy giờ những xu thế mới, sức kích thích mới, và sức thôi thúc mới xuất hiện, để làm nên lịch sử. Có thể nói đúng thực rằng nếu không có ý tưởng thì không có lịch sử. Riêng Đức Christ Ngài đã đưa ra một ý tưởng cấp vũ trụ, và có năng lực biến ý tưởng đó thành lý tưởng với mãnh lực lớn lao. Qua cuộc đời của Đức Christ, Ngài đã cho chúng ta một ý tưởng mà đúng lúc đã trở thành lý tưởng phụng sự. Do đó mà ngày nay nhiều nhà lãnh đạo và nhà tư tưởng trên khắp thế giới đều đang chú tâm vào phúc lợi của quốc gia và người dân của họ. Những kỹ thuật được vận dụng và những phương pháp được sử dụng để áp đặt việc thực hiện cái lý tưởng mà họ cảm thấy và nhận thấy thì thường sai lầm và bất hảo, dẫn đến những kết quả tàn ác, và gây chia rẽ. Tuy nhiên, điều đó vẫn không hề thay đổi được sự thực là ẩn trong tất cả các thí nghiệm và lý tưởng này của nhân loại, có lý tưởng vĩ đại này (92) được Đức Christ truyền cảm hứng một cách thiêng liêng và tóm lược cho chúng ta trong cuộc đời và giáo huấn của Ngài. |
|
Christ gave the greatest of all ideas—that God is Love and that love could manifest in human form, and, thus manifested, could constitute a possibility for all men. His life was the demonstration of a perfection such as the world had never previously seen. |
Đức Christ đã đưa ra ý tưởng cao cả nhất trong các ý tưởng – đó là Thượng Đế là Bác ái, và tình thương ấy có thể biểu hiện trong hình thể con người, nhờ đó mà tất cả mọi người đều có thể thực hiện. Cuộc đời của Ngài chứng tỏ một mức độ hoàn thiện mà trước đó thế gian chưa hề thấy được. |
|
The soul, which is the hidden Christ in all, mediates between the spirit (the Father) and the human being. Christ emphasised this when He called attention to man’s essential divinity, speaking of God as “our Father,” as He was the Father of Christ. It was the light which He came to show and which He saw also (hidden and veiled) in all, enjoining upon us that we should let that light shine forth.” [c]5 He challenged us to show, and commanded us to demonstrate the perfection of which He was the embodiment. He proved to us the possible, and called upon us to express it. In this uniqueness of revelation Christ stands alone, because He was the greatest, the highest and the truest that has ever appeared, but not because—dare I say it?—He was the greatest that ever could appear. One dare not so limit God. Under the evolutionary revelation of the nature of divinity it appears that Christ climaxed the past and indicated the future Is it not possible that there may be aspects and characteristics of the divine Nature of which we cannot as yet have the faintest conception? Is it not probable that our sentient apparatus is still inadequate to grasp the fullness of God? May not our mechanism of perception require further evolutionary unfoldment before still other divine and spiritual characteristics can be safely revealed to us and in us? There may be future revelations of such stupendous wonder and beauty that as yet we can form no faintest idea of their possible outline. Otherwise God would be limited and static, and unable to do more than He has already done. How dare we say that it is possible for us to envisage the limits of the nature of Deity? How can the human intellect arrogantly believe that [93] it can recognise, even through Christ, the ultimate objectives of the divine Will? The history of the unfoldment of the human consciousness proves that truth has been given out progressively, and that the brilliant galaxy of World Teachers gave an ever-widening interpretation of Deity, reaching, as time elapsed, an ever larger number. Christ has given us the highest and the most inclusive revelation to which the human consciousness can respond, up to the present era. But how shall we dare to say that no more is possible to God, when we are ready to receive it? For this we are fast preparing. Even Christ Himself told His disciples that “he that believeth on me, the works that I do shall he do also; and greater works than these shall he do.” [ci]6 Either these words express a truth, or the whole structure of our belief falls to the ground. There is more still to be revealed, or else past history loses its point; ancient beliefs lose their significance; and we have reached an impasse which God Himself would seem unable to transcend. This we cannot accept. |
Linh hồn, vốn là Đấng Christ ẩn tàng trong tất cả, là trung gian giữa tinh thần (Đấng Cha Lành) và con người. Đức Christ nhấn mạnh điều này khi Ngài kêu gọi hãy chú tâm vào thiên tính cốt yếu trong mỗi người, và nói đến Thượng Đế là “Đấng Cha Lành của chúng ta” cũng như của Ngài. Ngài đã đến để chỉ rõ ánh sáng mà Ngài cũng thấy (đang tiềm ẩn và bị che giấu) trong mọi người, và ra huấn thị cho chúng ta hãy để ánh sáng ấy chói rạng.[5] Ngài khuyến khích chúng ta hãy bày tỏ, và ra huấn lệnh cho chúng ta hãy chứng tỏ sự hoàn thiện mà Ngài đã thể hiện. Ngài chứng minh cho chúng ta thấy điều có thể thực hiện, và kêu gọi chúng ta hãy biểu lộ điều đó. Đức Christ có vị thế riêng biệt trong cuộc thiên khải độc đáo này, vì Ngài là Đấng cao cả nhất, cao siêu nhất và đích thực nhất đã từng giáng lâm. Nhưng tôi nào dám nói rằng vì Ngài là Đấng cao cả nhất đã từng có thể giáng lâm. Không ai dám đặt giới hạn đối với Thượng Đế. Trong cuộc hiển lộ ngày càng gia tăng của thiên tính, có vẻ là Đức Christ đã đạt đến tột đỉnh của quá khứ, và là chỉ dấu cho tương lai. Khả dĩ có hay chăng những phương diện và đặc trưng của thiên tính mà chúng ta chưa thể có chút khái niệm nào? Có phải chăng cái trang cụ cảm nhận của chúng ta còn khiếm khuyết nên chưa thấu đáo sự viên mãn của Thượng Đế? Phải chăng cơ cấu nhận thức còn cần thêm khai mở, tiến hóa trước khi những đặc tính thiêng liêng và tinh thần khác có thể được khải thị một cách an toàn cho chúng ta và trong chúng ta? Khả dĩ có những cuộc thiên khải trong tương lai huy hoàng và mỹ lệ đến mức hiện nay chúng ta chưa thể có chút ý niệm thoáng qua nào về thực chất của chúng. Vì nếu không thì chắc hẳn là Thượng Đế sẽ bị giới hạn và tĩnh tại, và không thể thực hiện nhiều hơn những gì Ngài đã làm. Làm sao chúng ta dám nói mình có thể dự kiến những giới hạn trong bản tính của Thánh linh? Làm sao cái trí của con người có thể kiêu căng, tự đắc tin tưởng rằng (93) nó có thể nhận thức được những mục tiêu tối hậu của Ý chí thiêng liêng, dù là qua Đức Christ? Lịch sử khai mở tâm thức của nhân loại chứng tỏ rằng chân lý đã được đưa ra một cách tăng tiến, và nhóm tinh hoa sáng chói của các Huấn sư trên thế giới đưa ra những diễn giải ngày càng mở rộng hơn về Thánh linh, mà theo thời gian đã đến với số người cứ mãi gia tăng. Cho đến thời đại hiện nay, Đức Christ đã cho chúng ta cuộc thiên khải cao siêu nhất và có tính bao gồm nhiều nhất mà tâm thức con người có thể ứng đáp. Nhưng làm sao chúng ta dám nói rằng không khả dĩ có điều gì thêm về Thượng Đế khi chúng ta sẵn sàng đón nhận điều đó? Vì đó mà chúng ta đang mau chóng chuẩn bị. Ngay cả Đức Christ cũng đã bảo các môn đồ của Ngài rằng “ai tin tưởng ta thì cũng sẽ làm những việc ta đang làm đây. Họ sẽ làm những việc còn lớn lao hơn nữa.”[6] Nếu những lời này không nói đúng sự thực, thì trọn cả niềm tin của chúng ta đổ vỡ tan tành. Còn có những điều khác sẽ được khải thị, mà nếu không thì lịch sử quá khứ sẽ chẳng có cơ sở nào vững chắc; những tín ngưỡng cổ xưa trở nên vô nghĩa; và chúng ta bước vào ngõ bí mà dường như chính Thượng Đế cũng không thể vượt lên. Điều này chúng ta không thể chấp nhận. |
|
The cosmic Christ, the mystic Christ, the historical Christ, and the individual Christ are to all eternity, and the revelation can therefore be progressive. If we can believe that God is inclusive of all forms and of that which the forms reveal, surely as our equipment develops and our mechanism of contact improves we shall be able to see more of divinity than at present and be deemed worthy, at a later date, of a greater revelation. It is only our limitations as human beings which prevent our seeing all that there is to be seen. |
Đức Christ của vũ trụ, Đức Christ của nhà thần bí, Đức Christ của lịch sử, và Đức Christ trong mỗi cá nhân, tất cả đều sống trong vĩnh cửu. Vì thế mà cuộc thiên khải có thể ngày càng tăng tiến. Nếu chúng ta có thể tin rằng Thượng Đế bao gồm tất cả mọi hình thể, và những gì mà hình thể biểu lộ, thì chắc hẳn rằng khi các thể trang bị và cơ chế liên giao của chúng ta được phát triển và cải thiện thì bấy giờ chúng ta sẽ có thể thấy biết về thiên tính nhiều hơn hiện nay. Bấy giờ chắc hẳn chúng ta sẽ xứng đáng có được cuộc thiên khải vĩ đại hơn về sau. Chính các hạn chế trong chính chúng ta như những con người khiến chúng ta không thể thấy được những gì cần thấy. |
|
The new birth brought us to the point where we became aware of a new world of light and of being. Through the process of that initiation we became citizens of the kingdom of God which Christ came to establish as a fact in the consciousness of men; we pass through the new birth into a world which is governed by a higher series of laws, the spiritual laws and new objectives open up before us, new aspects of our own hidden spiritual nature emerge and we begin to discover in ourselves the delineation of a new being, with a [94] different set of wishes, desires, ideals, and methods of world activity. |
Nhờ sinh ra lần thứ hai, chúng ta đạt đến trình độ khả dĩ ý thức được một thế giới của ánh sáng và sự sống mới mẻ. Qua tiến trình điểm đạo này, chúng ta trở thành công dân của Thiên giới mà Đức Christ đã giáng lâm để thiết lập thành một sự kiện thực tế trong tâm thưc con người. Cũng nhờ đó mà chúng ta đi vào một thế giới được quản trị bởi bộ luật cao siêu hơn, đó là luật tinh thần. Những mục tiêu mới mở ra trước mắt chúng ta; những khía cạnh mới trong bản tính tinh thần của chúng ta vốn tiềm ẩn thì nay xuất lộ; và chúng ta bắt đầu khám phá nơi chính mình những nét sơ khởi của đời sống mới với (94) một loạt gồm những mong ước, ý muốn, lý tưởng, và phương pháp khác để hoạt động trên thế gian. |
|
We speak much of the at-one-ment which Christ made within Himself and for man. We recognise the unity He felt with the Father, and that He has called us to a similar divine unity. But is it not possible that He established a synthesis broader than that of the individual and God—the synthesis of the kingdom of God? |
Chúng ta nói nhiều về sự nhất quán mà Đức Christ đã thực hiện bên trong chính Ngài và cho con người. Chúng ta công nhận sự hợp nhất mà Ngài cảm thấy với Đấng Cha Lành, mà Ngài đã kêu gọi chúng ta hãy thực hiện một sự hợp nhất thiêng liêng tương tự. Thế nhưng, phải chăng Ngài không thể thiết lập được một sự tổng hợp còn rộng lớn hơn sự hợp nhất giữa cá nhân và Thượng Đế – đó là sự tổng hợp của Thiên giới? |
|
What do these words mean? We have talked of the kingdom of Heaven in terms of separation. We are either in that kingdom or out of it. We are told that we must step out of the kingdom of men (controlled by the world, the flesh and the devil) into another kingdom which is pictured as utterly different. Yet is this so? All aspects of the three sub-human kingdoms—animal, vegetable and mineral—are found in man; and their synthesis, plus another factor, the divine intellect, we call the human kingdom. Man unifies in himself the so-called lesser manifestations of deity. In the sub-human kingdoms of nature we find three major types of consciousness: the mineral kingdom, with its subjective discriminating power, its capacity to grow, and its ultimate radio-activity; the vegetable kingdom, with its sensitivity or sentiency, and its developing response apparatus which is sensitive to sunlight, to warmth and cold, and to other environing climatic conditions; the animal kingdom with its greatly increased awareness, its capacity for free movement and for wider contacts through its instinctive nature. The human kingdom embodies all these types of awareness—consciousness, sentiency, instinct—plus that mysterious human faculty which we call “the mind,” and we sum up all these inherited qualities in the word “self-conscious.” |
Những lời nói trên có ý nghĩa gì? Chúng ta đã nói về Thiên giới theo lối phân tách. Hoặc là chúng ta ở trong giới đó, hoặc là ở ngoài nó. Chúng ta được bảo cho biết rằng chúng ta phải ra khỏi giới nhân loại (đang bị chi phối bởi đủ thứ cám dỗ trong đời) để bước vào một giới khác, được mô tả là hoàn toàn khác biệt. Nhưng có phải đúng thế không? Cả ba khía cạnh của ba giới hạ đẳng – động vật, thực vật, và khoáng vật – đều có trong con người khi chúng được tổng hợp lại, và cộng thêm một yếu tố khác, tức là trí năng thiêng liêng, thì kết quả được gọi là giới nhân loại. Con người thống nhất trong chính mình những sự biểu hiện gọi là hạ đẳng của sự sống thiêng liêng. Trong các giới hạ đẳng của thiên nhiên, chúng ta thấy có ba loại ý thức chính: Giới khoáng vật, với năng lực phân biệt nội tại, có khả năng tăng trưởng, và rốt cuộc đạt hoạt tính phóng xạ. Giới thực vật, với tính nhạy cảm hay cảm giác, và cơ chế ứng đáp đang phát triển, có khả năng cảm nhận ánh nắng, điều kiện ấm hay lạnh, và những điều kiện khác trong khí hậu chung quanh. Giới động vật có ý thức gia tăng rất nhiều, có khả năng di chuyển tự do để giao tiếp rộng hơn qua tính bản năng của chúng. Giới nhân loại thể hiện cả ba loại ý thức nói trên – tâm thức, cảm xúc, bản năng – cùng với cái tính năng huyền nhiệm của con người gọi là “thể trí.” Cả ba đặc tính thừa hưởng vừa kể được tổng kết trong từ “tự ý thức.” |
|
There comes, however, in the experience of the intelligent human being, a slowly dawning recognition that there is something still greater and of deeper value outside himself. He is sensitised to a subtler range of contacts and to impressions which he calls spiritual or ideal or mystical. Another type of consciousness begins to germinate in him, and at the [95] birth at Bethlehem this awareness becomes manifested and recognisable. Just as the human being synthesises in himself all that has been, plus his own peculiar constitution and qualities, so in him can also begin to emerge and demonstrate qualities which are not human. |
Tuy nhiên, người thông minh dần dần trải nghiệm và nhận thấy một điều gì đó có giá trị cao cả hơn và sâu xa hơn, ở bên ngoài mình. Y trở nên nhạy cảm với một khoảng giao tiếp và ấn tượng mà y gọi là tinh thần, lý tưởng, hay thần bí. Một loại ý thức mới bắt đầu nẩy nở trong y. Vào (95) lúc sinh ra tại Bethlehem, ý thức này biểu hiện và có thể nhận biết được. Con người đang tổng hợp trong y tất cả những gì đã có, cộng với sự cấu tạo đặc thù và những đặc tính của chính y. Tương tự như vậy, trong y cũng có thể bắt đầu xuất hiện và phô bày những phẩm tính không thuộc về nhân loại. |
|
Members of the kingdom of God will surely embody the heritage of four kingdoms, as man embodies the heritage of three. This higher citizenship involves the expression of the Christ consciousness, which is the consciousness of the group, of the relation of the part to the whole (something which Christ continuously emphasised) and of the human to the divine. The result of this realisation must surely be, under the evolutionary scheme, the appearance of another kingdom in nature. This constitutes the great task of Christ. Through the power of His realised divinity He produced the man who blended in Himself the best of all that had been, and revealed also what could be. He brought together into a functioning unity the higher and the lower, and made out of them “one new man.” He founded the kingdom of God on earth, and produced a synthesis of all the kingdoms in nature, thus causing the appearance of a fifth kingdom. We might sum up the at-one-ments which He brought about as follows: |
Các thành viên của Thiên giới chắc chắn sẽ thể hiện di sản của bốn giới kia, giống như con người thể hiện di sản của ba giới thấp hơn. Tư cách công dân cấp cao này gồm sự biểu lộ tâm thức Christ, vốn là ý thức về tập thể, về mối liên hệ của thành phần với toàn thể (là điều mà Đức Christ liên tục nhấn mạnh) và của nhân tính với thiên tính. Theo kế hoạch tiến hóa, chắc rằng kết quả của nhận thức này phải là sự xuất hiện của một giới tiến hóa khác trong thiên nhiên. Đây là nhiệm vụ trọng đại của Đức Christ. Qua quyền năng của thiên tính được thực hiện nơi mình, Ngài trở thành người hòa hợp nơi chính mình điều tốt đẹp nhất của tất cả những gì đã có, và cũng hiển lộ những gì khả dĩ có. Ngài kết hợp bản tính cao siêu và phàm tính thành một đơn vị hoạt động duy nhất và từ đó trở thành “con người mới.” Ngài thành lập Thiên giới trên thế gian, mang lại sự tổng hợp của tất cả các giới tiến hóa trong thiên nhiên, để giới thứ năm xuất hiện. Chúng ta có thể tổng kết những sự nhất quán mà Ngài đã thực hiện như sau: |
|
1. He unified in Himself to perfection the physical, emotional and mental aspects of man, and demonstrated therefore the perfect Individual. |
1. Ngài thống nhất nơi chính mình đến mức hoàn hảo, các phương diện thể chất, tình cảm và trí tuệ của con người, và vì thế mà chứng tỏ Cá nhân hoàn thiện. |
|
2. He unified in Himself soul and body, the higher and the lower aspects, and therefore produced a divine incarnation. |
2. Ngài thống nhất nơi chính mình, linh hồn và cơ thể, các phương diện cao siêu và phàm tính, và vì thế mà tạo được sự lâm phàm thiêng liêng. |
|
3. He unified in Himself the best of all the kingdoms in nature, mineral, vegetable, animal, which means in their synthesis, the human with the intellect functioning. |
3. Ngài thống nhất nơi chính mình, những gì tốt đẹp nhất của tất cả các giới tiến hóa trong thiên nhiên, tức là giới khoáng vật, thực vật, và động vật; điều này có nghĩa là khi tổng hợp được chúng, con người có trí năng mới hoạt động được. |
|
4. Then He blended this synthesis with a higher spiritual factor and brought to the birth another kingdom in nature, the fifth. |
4. Sau đó, Ngài hòa hợp kết quả tổng hợp nói trên với một yếu tố tinh thần cao cả hơn, và cho ra đời một giới tiến hóa khác trong thiên nhiên, là giới thứ năm. |
|
Christ, having produced in Himself one unification or at-one-ment after another, for the benefit of humanity, appears before John the Baptist, and passes through the second initiation, that of purification in the waters of Jordan. Through [96] the process of baptism, and through the temptations which followed, He evidenced His maturity, faced His mission, and demonstrated to the world His purity and His power. |
Đã thực hiện được nơi mình từ sự thống nhất hay nhất quán này đến sự thống nhất khác, vì lợi ích của nhân loại, Đức Christ đã đến trước John, Người làm phép báp-têm (lễ rửa tội), và trải qua cuộc điểm đạo thứ hai, được thanh tẩy trong nước sông Jordan. Qua (96) tiến trình của phép báp-têm, và những sự cám dỗ sau đó, Ngài chứng tỏ mình đã trưởng thành, chăm chú vào sứ mệnh của mình, và cho thế gian thấy sự thanh khiết và quyền năng của mình. |
|
The third initiation, that of the Transfiguration, testified to the fact of the at-one-ment which Christ made between soul and body. Integration was complete, and the consequent illumination was made apparent to His disciples. He appeared before them as Son of Man and Son of God, and having proved to them Who He was, He faced the death which lay ahead of Him, and the intervening service. |
Cuộc điểm đạo thứ ba, tức là cuộc điểm đạo Biến dung, chứng tỏ thực tế về sự nhất quán mà Đức Christ đã thực hiện giữa linh hồn và cơ thể. Ngài đã hoàn tất tích hợp, và sau đó cho các môn đồ thấy rõ sự khai ngộ của mình. Ngài đến trước họ với tư cách Người con của Nhân loại và cũng là Con của Thượng Đế. Sau khi chứng tỏ cho họ thấy Ngài là Ai, Ngài đối diện với sự chết gần đến, và công tác phụng sự trong thời gian đó. |
|
In the fourth initiation, He demonstrated this integration not only as God-Man, but as the One Who enfolded in His consciousness the entire world of men. He unified Himself with humanity, and portrayed the effectiveness of that divine energy which enabled Him to say in truth, “I, if I be lifted up from the Earth, will draw all men unto Me.” [cii]7 He was lifted up between Earth and Heaven, and for two thousand years these words of His have stood unchallenged. |
Trong cuộc tư điểm đạo thứ tư, Ngài chứng minh rằng sự tích hợp này không những được thực hiện với tư cách Con người vừa là Thượng Đế, mà còn là Đấng đã bao gồm cả thế giới loài người trong tâm thức của mình. Ngài tự thống nhất với nhân loại, và bày tỏ sự hiệu quả của năng lượng thiêng liêng giúp Ngài có thể thực sự nói rằng “Nếu ta được nâng cao lên khỏi Thế gian, Ta sẽ khiến mọi người đến với Ta.”[7] Ngài đã được nâng cao lên giữa Đất và Trời, và trong hai ngàn năm qua, những lời này của Ngài không hề thay đổi. |
|
2 |
2 |
|
“Then cometh Jesus from Galilee to Jordan unto John, to be baptised of him. But John forbade him, saying, I have need to be baptised of Thee and comest Thou to me? |
“Bấy giờ Jesus đi từ Galilee đến Jordan gặp John, để được làm phép báp-têm. Nhưng John ngăn Ngài lại và nói rằng tôi cần được Ngài làm phép báp-têm mới phải, cớ sao Ngài lại đến với tôi? |
|
“And Jesus answering said unto him, Suffer it to be so now, for it becometh us to fulfil all righteousness. Then he suffered Him. |
“Và Jesus đáp lại, nói với ông rằng Bây giờ hãy cứ làm như thế, nhờ đó mà chúng ta làm đầy đủ những điều ngay chánh. Vì vậy, ông để cho Ngài chịu phép báp-têm. |
|
“And Jesus, when He was baptised, went up straightaway out of the water: and, lo, the heavens were opened unto Him, and He saw the Spirit of God descending like a dove, and lighting upon Him. |
“Và Jesus, khi đã chịu phép báp-têm, liền ra khỏi nước: và, thật kỳ lạ, các tầng trời mở ra cho Ngài, và Ngài thấy Thánh linh của Thiên Chúa giáng xuống như chim bồ câu, và chói sáng trên Ngài. |
|
“And lo a voice from heaven, saying, This is my beloved Son, in Whom I am well pleased.” [ciii]8 |
“Và thật kỳ lạ, có tiếng nói từ trên trời phán rằng, Này là Con Trai yêu dấu của ta, được lòng ta mọi đàng.”[8] |
|
In these simple words we are told the story of this initiation. The keynote is purification, and it closed a period of preparation, of quiet service and inaugurated a cycle of strenuous [97] activity. The purification of the lower nature is a requirement which the Christian Church has ever emphasised as has also the Hindu faith. Christ held this ideal before His disciples and all men when He said, “Blessed are the pure in heart: for they shall see God.” [civ]9 |
Những lời đơn sơ trên đây cho chúng ta biết về cuộc điểm đạo này. Chủ âm của nó là tinh luyện. Nó kết thúc một thời kỳ chuẩn bị, phụng sự thầm lặng, và mở ra một chu kỳ (97) hoạt động tích cực. Sự tinh luyện phàm tính là một yêu cầu mà bao giờ Giáo hội Thiên Chúa giáo cũng nhấn mạnh, như trong tín ngưỡng Ấn giáo. Đức Christ nêu cao lý tưởng này trước các môn đồ, và tất cả mọi người khi Ngài nói “Diễm phúc thay cho kẻ nào có tâm thanh khiết: bởi vì họ sẽ thấy Thượng Đế.”[9] |
|
In an ancient treatise upon meditation, the Yoga Sutras of Patanjali, we find the teacher proclaiming, “Through purification comes also a quiet spirit… and ability to see the Self.” [cv]10 Purification is of many kinds and degrees. There is physical purity and moral purity, and there is also that magnetic purity which makes a man a channel for spiritual force. There is psychic purity, which is a rare thing to find, and mental purity. The word “purity” comes from the Sanskrit word pur, which means freedom from alloy, from limitation and from the imprisoning of the spirit in the chains of matter. There can be no achievement without purification; there is no possibility of our seeing and manifesting divinity without passing through the waters that cleanse. In the world today a great cleansing is going on. An “ascetic purification” and an enforced abstinence from much that has hitherto been deemed desirable, is going on in the world, and none of us can escape it. This is due to the breakdown of the economic system and the many other systems which are proving ineffectual in the modern world. Purification is being forced upon us, and as a consequence a truer sense of values must eventuate. A cleansing from wrong ideals, a racial purification from dishonest standards and undesirable objectives, is being powerfully applied at this time. Perhaps this means that many in the race today are going down to Jordan, to enter its purifying waters. A self-applied ascetic purification, and the recognition of its value by the pioneers of the human family, may succeed in leading them to the portal of initiation. |
Trong một bộ luận cổ xưa về tham thiền, bộ Yoga Điển tắc của Patanjali, vị huấn sư này có nói “Nhờ tinh luyện mà tinh thần an tịnh . . . và có khả năng thấy được Chân ngã.”[10] Tinh luyện có nhiều loại và nhiều mức độ. Có sự thanh khiết thể chất, và khiết bạch về đạo đức, và cũng có sự thanh khiết từ điện, khiến hành giả trở thành đường dẫn truyền mãnh lực tinh thần. Có sự thanh khiết của tâm hồn, là điều hiếm thấy, và sự thanh khiết của trí tuệ. Từ “purity” (thanh khiết) vốn bắt nguồn từ chữ pur trong tiếng Bắc Phạn, có nghĩa là không bị pha trộn, không giới hạn và giam nhốt tinh thần trong xiềng xích và gông cùm của vật chất. Không thể thành tựu được điều gì nếu không tinh luyện. Chúng ta không thể thấy và biểu hiện thiên tính, nếu không qua dòng nước thanh tẩy. Trên thế giới ngày nay, một cuộc thanh tẩy rộng lớn đang tiếp diễn. Một cuộc “thanh tẩy khắc khổ” và việc buộc phải kiêng cử nhiều điều mà từ trước đến nay người ta cho là tốt, đang tiếp diễn trên thế giới, và không ai trong chúng ta có thể lẩn tránh. Đây là do sự suy sụp của hệ thống kinh tế, và nhiều hệ thống khác đang tỏ ra kém hiệu quả trên thế giới ngày nay. Việc tinh luyện đang được áp dụng cho chúng ta, và hậu quả là rốt cuộc sẽ phải có ý thức giá trị chân thực hơn. Hiện nay, việc tẩy sạch những lề thói bất lương và những mục tiêu bất hảo đang được áp dụng mạnh mẽ. Có lẽ, điều này có nghĩa là nhiều người trong nhân loại ngày nay đang đi xuống sông Jordan, để bước vào làn nước tinh luyện. Những người tiền phong trong gia đình nhân loại tự tinh luyện một cách khắc khổ, và nhận thức được giá trị của nó; điều đó có thể dẫn họ đến cánh cửa điểm đạo. |
|
There is also to be found in this episode an interesting analogy to what is happening to the race today, from the [98] astrological standpoint. We are entering into the sign Aquarius, the Water Carrier. This sign stands symbolically for group purity and relationship, for the universality of experience and for the waters poured over all. When we began to enter this sign, about two hundred years ago, water became for the first time of general interest and of general use for sanitation and irrigation. The control of water and its utilisation as a means of transportation on a world-wide scale became possible. The use of water in our homes is now so universal that we hardly realise what the world must have been like prior to this use. |
Theo quan điểm chiêm tinh, trong giai đoạn này cũng có nhiều điều tương đồng với những gì đang xảy ra (98) cho nhân loại ngày nay. Chúng ta đang đi vào cung Bảo Bình, Người mang Bình nước. Cung này tượng trưng cho sự thanh khiết và mối liên giao tập thể, cho tính phổ quát trong kinh nghiệm, và những dòng nước tuôn chảy cho tất cả. Khi chúng ta bắt đầu đi vào cung này, cách đây hai trăm năm, lần đầu tiên nước có được sự quan tâm chung và sử dụng chung cho công tác vệ sinh và thủy lợi. Đã có thể thực hiện việc chế ngự nước và dùng nước làm phương tiện vận chuyển trên qui mô toàn thế giới. Hiện nay, việc sử dụng nước trong gia đình đã trở nên đều khắp, đến đỗi chúng ta khó lòng hiểu được thế giới đã ra sao trước khi có mức sử dụng này. |
|
Christ in this great initiation, entered into the stream, and the waters passed over Him. In India this initiation is called that of “entering the stream,” and he who undergoes it is regarded as having demonstrated both physical and psychic purity. In considering this initiation we must remember that two kinds of baptism are referred to in the story. |
Trong cuộc điểm đạo trọng đại này, Đức Christ đi vào dòng nước, và nước tuôn chảy qua mình Ngài. Ở Ấn Độ, cuộc điểm đạo này được gọi là cuộc điểm đạo “nhập lưu.” Người đã trải qua nó được xem như đã chứng tỏ có sự thanh khiết của thể chất và tâm hồn. Khi xem xét cuộc điểm đạo này, chúng ta cần lưu ý rằng có hai loại báp-têm được đề cập đến trong câu chuyện Phúc âm: |
|
“John answered, saying unto them all, I indeed baptise you with water: but one mightier than I cometh, the latchet of whose shoes I am not worthy to unloose: He shall baptise you with the Holy Ghost and with fire.” [cvi]11 |
“John trả lời, nói với cả bọn họ rằng, quả thực là tôi làm phép báp-têm cho các bạn bằng nước: thế nhưng, Đấng có nhiều quyền phép hơn tôi đã đến, mà tôi không đáng buộc giây giày cho Ngài: Ngài sẽ làm phép báp-têm cho các bạn với Chúa Thánh Thần và lửa.”[11] |
|
There are therefore two kinds of baptism: |
Vì thế, có hai loại báp-têm: |
|
1. That of John the Baptist, which is the baptism by water. |
1. Phép báp-têm do John thực hiện bằng nước. |
|
2. The baptism of Jesus Christ, which is that of the Holy Ghost and of fire. |
2. Phép báp-têm do Jesus Christ thực hiện, nhờ Chúa Thánh Thần và bằng lửa. |
|
In these two symbols much of the story of human development is summed up, and the joint work of John the Baptist and of Jesus produced a synthesis which is indicative of the immediate objective of our racial endeavour. The symbolism is exact according to the ancient mystery teaching. A close study of this symbolic rendering of a basic truth would greatly profit the seeker in all countries, and an understanding of the significance of the symbols employed would throw much light upon reality. |
Trong hai biểu tượng này, phần lớn câu chuyện phát triển của con người được tóm lược. Công việc kết hợp của John, Người làm phép Báp-têm, và của Jesus, tạo nên sự tổng hợp cho thấy mục tiêu trước mắt cho nỗ lực của nhân loại. Ý nghĩa biểu tượng rất chính xác, xét theo giáo huấn huyền bí cổ xưa. Khi nghiên cứu kỹ biểu tượng này, người tìm chân lý trong mọi nước sẽ tìm thấy một chân lý cơ bản giúp ích họ rất nhiều. Khi hiểu ý nghĩa của các biểu tượng được dùng, họ sẽ thấy nhiều ánh sáng chiếu rọi trên thực tại. |
|
In the evolution of the race the sentient feeling nature is [99] first developed, and water has ever been the symbol of that nature. The fluid nature of the emotions, the constant shifting between sentient pleasure and pain, the storms which arise in the world of feeling, and the peace and calm which can descend upon a man, make of water a most apposite symbol of this interior subtle world of the lower nature in which most of us live, and wherein our consciousness is predominantly focussed. The average man or woman is predominantly a blend of the physical and emotional natures; all early races have this characteristic and the probability is that, in old Atlantis, civilisation was entirely centred in the feelings and the desires, in the emotions, and—among its most advanced types—in the heart life. John the Baptist therefore gave the baptism of water which testified to the purification of the emotional nature, which must always be a preliminary step to the purification by fire. |
Trong cuộc tiến hóa của nhân loại, bản tính tri giác, xúc cảm (99) phát triển trước, và bao giờ nước cũng là biểu tượng của bản tính ấy. Tính chất uyển chuyển của tình cảm, sự thay đổi liên tục giữa xúc cảm vui sướng và đau khổ, những con bão tố phát sinh trong thế giới tình cảm, và sự thanh bình và an tĩnh có thể chi phối mỗi người. Vì thế, nước trở thành biểu tượng thích hợp nhất cho thế giới tế vi nội tại của phàm tính mà hầu hết chúng ta sống trong đó, và trong đó tâm thức của chúng ta được tập trung rõ rệt. Người nam hay nữ có trình độ trung bình thì chính yếu là sự pha trộn của các bản tính thể chất và tình cảm. Tất cả các chủng tộc sơ khai đều có đặc điểm này. Rất có thể là vào thời Atlantis cổ xưa, nền văn minh hoàn toàn tập trung vào xúc cảm, ham muốn, và tình cảm. Trong khi đó, những người tiến bộ nhất của họ thì tập trung vào đời sống nội tâm. Vì thế, John, Người làm phép Báp-têm, thực hiện lễ rửa tội bằng nước, chứng tỏ đó là sự thanh tẩy bản chất tình cảm, mà bao giờ cũng là bước đầu dẫn đến việc tinh luyện bằng lửa. |
|
The Jordan baptism is symbolic of the purification of the conscience in man, just as Christ and His baptism symbolised for us the divine in man and the purification which follows the activity of that divine spirit in the lower nature. Conscience, with its call to the recognition of the higher values, of the deeper truths and of the birth unto life, leads to Jordan, and so Christ went there to “fulfil all righteousness.” This experience ever precedes the baptism into Christ and through Christ. |
Lễ rửa tội tại Jordan là biểu tượng cho sự tinh luyện lương tâm của con người. Tương tự, Đức Christ và phép báp-têm của Ngài tiêu biểu cho chúng ta sự sống thiêng liêng trong con người, và sự tinh luyện sau khi tinh thần thiêng liêng ấy hoạt động trong phàm tính. Lương tâm với tiếng gọi của nó khiến ta nhận thức được những giá trị cao cả, những chân lý thâm sâu, và sự giáng nhập vào đời sống, dẫn đến kinh nghiệm ở Jordan. Vì thế, Đức Christ đi đến đó để “hoàn thành mọi điều chân chính.” Kinh nghiệm này bao giờ cũng có trước phép báp-têm, để đi vào sự sống Christ và qua Đức Christ. |
|
The baptism of John was a step upon the way into the centre, and of more general application than is the baptism of Jesus, for few are ready yet for the second initiation. It is preparatory to that final baptism, for the purification of the emotional nature must precede in time the purification of the mental nature, just as in the evolution of the race (and of a child, likewise) the feeling, sentient man is first developed, and then the mind comes into active life. The baptism which Christ gives His followers concerns the purification of the mind by fire. Fire, under the universal symbolism of religion, is ever symbolic of the mind nature. This baptism by fire is the baptism of the Holy Spirit. |
Lễ rửa tội của John là một bước trên đường đi vào trung tâm thiêng liêng. Nó có ứng dụng phổ thông hơn là phép báp-têm của Chúa Jesus, vì hãy còn ít ai sẵn sàng cho cuộc điểm đạo thứ hai. Nó chuẩn bị cho phép báp-têm cuối cùng, vì sự tinh luyện bản chất tình cảm phải xảy ra trước thời điểm tinh luyện bản chất trí tuệ. Giống như trong cuộc tiến hóa của nhân loại (tương tự của đứa trẻ) lúc đầu con người phát triển xúc cảm và tình cảm. Sau đó, thể trí mới trở nên linh hoạt. Phép báp-têm mà Đức Christ ban cho những người theo Ngài, liên quan đến sự tinh luyện thể trí bằng lửa. Theo khoa biểu tượng chung của tôn giáo, lửa bao giờ cũng tiêu biểu cho bản chất trí tuệ. Thanh luyện bằng lửa là phép báp-têm của Chúa Thánh Thần. |
|
[100] |
(100) |
|
Thus Jesus went up from Nazareth and Galilee to take the next step which was indicated in His experience. As the result of life experience and inner consecration, He was ready for the next initiation. This was taken in the river Jordan. Jordan means “that which descends,” but also, according to some commentators, that which “divides,” as a river divides and separates the land. In the symbolism of esotericism the word “river” frequently means discrimination. We have seen that water symbolises the emotional nature, and that the purification in Jordan, through baptism, typifies the complete cleansing of all feeling, of all wishes and of that desire life which is the determining factor with most people. The first initiation symbolises the dedication of the physical body and the physical plane life to the soul. The second initiation stands for the demonstrated control and consecration to divinity of the desire nature, with its emotional reactions and its potent “wish life.” |
Thế là Chúa Jesus đến từ Nazareth và Galilee để thực hiện bước kế tiếp như đã cho thấy trong kinh nghiệm của Ngài. Nhờ kết quả của kinh nghiệm sống và sự hiến dâng ở nội tâm, Ngài đã sẵn sàng cho cuộc điểm đạo tiếp theo. Cuộc điểm đạo này đã được thực hiện trên sông Jordan. Jordan có nghĩa là “điều gì giáng xuống.” Thế nhưng, theo một số nhà luận giải, nó cũng có nghĩa là điều “chia tách,” như con sông phân chia và phân tách đất liền. Trong khoa biểu tượng của huyền bí học, từ “sông” thường có nghĩa là phân biện. Chúng ta đã thấy rằng nước tiêu biểu cho bản tính tình cảm, cũng như thấy rằng sự thanh tẩy ở Jordan, qua lễ rửa tội, tiêu biểu cho việc hoàn toàn lọc sạch mọi xúc cảm, mọi ước vọng, và các dục vọng, vốn là yếu tố quyết định trong hầu hết mọi người. Cuộc điểm đạo thứ nhất tượng trưng cho việc hiến dâng thể xác và đời sống hồng trần cho linh hồn. Cuộc điểm đạo thứ hai cho thấy sự tự chủ rõ rệt, và hiến dâng bản tính dục vọng, với các phản ứng tình cảm và “ước vọng” mạnh mẽ của nó, cho thiên tính. |
|
A new factor now enters in, the discriminating faculty of the mind. By means of it, the disciple can bring the mental life under control and dedicate it to the life of the kingdom of God, which is consummated at the third initiation. Through the correct use of the mind, the disciple is led to make right choice, and to balance (with wisdom) the endless pairs of opposites. |
Giờ đây có thêm một yếu tố mới, là khả năng phân biện của cái trí. Nhờ đó mà người đệ tử có thể chế ngự hoạt động trí tuệ và hiến dâng nó cho cuộc sống của Thiên giới, đến mức hoàn thành vào cuộc điểm đạo thứ ba. Khi sử dụng đúng cái trí, người đệ tử có khả năng chọn lựa đúng, và (dùng minh triết) cân bằng những cặp đối cực bất tận. |
|
We pass through the Birth initiation somewhat unconsciously. The full significance of what we have undergone does not appear to us; we are “infants in Christ,” and as infants we just live and submit to discipline, gradually growing toward maturity. But there comes a time in the life of every initiate when choice must be made, and Christ was faced with this. A clear, clean interior break is to be made with the past before we can face towards a future of service, consciously undertaken, and know that from that time on nothing will be the same. |
Chúng ta trải qua cuộc điểm đạo Giáng sinh hầu như không hề biết. Dường như chúng ta không hiểu đầy đủ ý nghĩa của những gì mà chúng ta đã trải qua. Chúng ta là “trẻ thơ trong Christ,” và vì là trẻ thơ nên chúng ta chỉ sống và tuân hành kỷ luật, để từ từ lớn lên cho đến trưởng thành. Thế nhưng, đến một thời điểm nào đó trong đời của mọi điểm đạo đồ bấy giờ y phải lựa chọn, và Đức Christ đã phải đứng trước sự chọn lựa đó. Phải có sự đoạn tuyệt rõ ràng, dứt khoát với quá khứ, trước khi chúng ta có thể tiến đến tương lai phụng sự, được hữu ý đảm nhận, và biết rằng từ đó trở đi không điều gì sẽ còn như cũ. |
|
This initiation marked a tremendous change in the life of Jesus of Nazareth. Up to that time, for thirty years, He had simply been the carpenter of the little town, and the son [101] of His parents. He was a personality doing much good in a small sphere. But after the purification in Jordan, having “fulfilled all righteousness,” [cvii]12 He became the Christ, and went about His country, serving the race and speaking those words which have moulded for centuries our Western civilisation. For each of us there must come the same great expansion, and it occurs when we are fitted to take the second initiation. Our desire-life is then confronted with essential choices which only the mind can enable us properly to handle. |
Cuộc điểm đạo này đánh dấu một sự thay đổi lớn lao trong cuộc đời của Jesus ở Nazareth. Mãi cho đến thời điểm đó, trong ba mươi năm, Ngài chỉ là một người thợ mộc ở tỉnh lẻ, và là con (101) của cha mẹ Ngài. Ngài là một người làm nhiều điều tốt trong phạm vi nhỏ hẹp. Nhưng sau khi được tinh luyện ở Jordan, đã “làm đầy đủ tất cả những điều chân chính,”[12] Ngài trở thành Đức Christ, đi khắp đất nước, phụng sự nhân loại, và nói lên những lời mà đã nắn đúc nền văn minh Tây phương trong nhiều thế kỷ. Mỗi người trong chúng ta đều phải đi đến sự mở mang rộng lớn nói trên, và nó xảy ra khi chúng ta đủ điều kiện thích hợp để nhận cuộc điểm đạo thứ hai. Bấy giờ, những ước muốn của chúng ta phải đứng trước những chọn lựa chính yếu, mà chỉ có cái trí mới giúp chúng ta có thể xử lý vấn đề thích hợp. |
|
We are told in Cruden’s Concordance that the name John means “which God gave,” and in the three names which appear together in this episode—John, Jesus and Christ—the whole story of the consecrated aspirant is summed up: John, symbolising the divine aspect deeply hidden in man, which prompts a man towards the needed purity; Jesus, in this case symbolising the consecrated, pledged disciple or initiate, ready for that process which will be the seal of his purification; Christ, the divine indwelling Son of God, able now to manifest in Jesus, because Jesus has submitted to the baptism of John. That submission and completed purification brought its reward. |
Bảng chỉ mục của Cruden cho biết danh hiệu John có nghĩa là “được Thượng Đế ban,” và trong ba danh hiệu cùng xuất hiện vào thời gian này – John, Jesus, và Christ – có tóm lược trọn cả câu chuyện của người chí nguyện đã hiến dâng: John tiêu biểu cho phương diện thiêng liêng tiềm ẩn sâu xa trong con người, nhắc nhở y thực hiện sự thanh khiết cần có. Jesus, trong trường hợp này, tương trưng cho người đệ tử hữu thệ, đã hiến dâng, hay là điểm đạo đồ, sẵn sàng áp dụng tiến trình có mang dấu ấn cho sự tinh luyện của mình. Christ, Người con của Thượng Đế thiêng liêng ở nội tâm, nay có thể biểu hiện trong Jesus, vì Jesus đã chịu phép báp-têm của John. Sự tuân phục và tinh luyện hoàn tất đã mang lại phần thưởng. |
|
It was at this initiation that God Himself proclaimed His Son to be the One in Whom He was “well pleased.” Every initiation is simply a recognition. It is a false idea, current in many schools of the mysteries and of esotericism, that initiation connotes a mysterious ceremony wherein, through the medium of the initiator and the rod of initiation, conditions are definitely changed in the aspirant, so that forever after he is altered and different. An initiation takes place whenever a man becomes, through his own self-effort, an initiate. Then having taken “the kingdom of Heaven by violence,” [cviii]13 and having “worked out” his “own salvation through fear and trembling,” [cix]14 his spiritual status is immediately recognised by his peers, and he is admitted to initiation. |
Chính là vào cuộc điểm đạo này Thiên Chúa đã tuyên bố “rất hài lòng” với Con của Ngài. Mọi cuộc điểm đạo đều chỉ là sự công nhận. Thật là ý tưởng sai lầm khi nhiều trường bí giáo và nội môn hiện nay cho rằng điểm đạo có nghĩa là một cuộc lễ huyền bí mà trong đó, nhờ trung gian của đấng điểm đạo và điểm đạo thần trượng, những điều kiện trong người chí nguyện được dứt khoát thay đổi, để mãi mãi sau đó y được thay đổi và trở nên khác đi. Cuộc điểm đạo xảy ra bất cứ khi nào hành giả trở thành điểm đạo đồ, qua nỗ lực của chính mình. Bấy giờ, sau khi đã chiếm được “Thiên giới bằng bạo lực,”[13] và đã “thực hiện sự cứu rỗi cho chính mình ra khỏi nỗi sợ hãi và run rẩy,”[14] địa vị tinh thần của y lập tức được các bạn đồng môn công nhận, và y được thu nhận vào cuộc điểm đạo. |
|
[102] |
(102) |
|
At initiation two things happen: the initiate discovers his fellow initiates, those with whom he can associate, and he finds out also the mission to which he is called. He becomes aware of his divinity in a new and factual sense, not just as a deeply spiritual hope, an intriguing hypothetical possibility and his heart’s desire. He knows himself to be a son of God, therefore recognition is accorded to him. This was strikingly the case with Jesus Christ. His task emerged in its dread implications before His eyes, and this must surely have been the reason why He was driven into the wilderness. The urge to solitude, the search for that quiet where reflection and determination can strengthen each other, was the natural outcome of this recognition. He saw what He had to do—to serve, to suffer and to found the kingdom of God. The expansion of consciousness was immediate and deep. Dr. Schweitzer says in this connection: |
Vào lúc điểm đạo có hai điều xảy ra: người điểm đạo đồ nhận biết các bạn điểm đạo đồ của mình, là những người mà y có thể cộng tác. Y cũng biết được sứ mệnh mà mình được kêu gọi đảm nhận. Y ý thức được thiên tính nơi mình theo ý nghĩa thực tế và mới mẻ. Đó không phải là niềm hy vọng sâu xa về tinh thần, hay một khả năng hấp dẫn theo giả thuyết, hay là sự ước muốn trong tâm. Y tự biết mình là một người con của Thượng Đế, vì thế mà y được công nhận. Jesus Christ là trường hợp nổi bật của việc này. Công tác của Ngài được trình bày cho Ngài thấy với hàm ý kinh khủng. Chắc hẳn vì thế mà Ngài có sự thôi thúc đi vào hoang mạc. Đương nhiên là sự nhận thức này khiến Ngài có ý muốn sống ẩn dật, tìm nơi yên tĩnh để việc quán tưởng và quyết định có thể tăng cường lẫn nhau. Ngài thấy những điều phải làm – là phụng sự, chịu đau khổ, và thiết lập Thiên giới. Sự mở mang tâm thức này thật sâu xa và xảy ra ngay tức khắc. Ts. Schweitzer nói về vấn đề này như sau: |
|
“About Jesus’ earlier development we know nothing. All lies in the dark. Only this is sure: at his baptism the secret of his existence was disclosed to him—namely, that he was the One whom God had destined to be the Messiah. With this revelation he was complete, and underwent no further development. For now he is assured that, until the near coming of the messianic age which was to reveal his glorious dignity, he was to labour for the Kingdom as the unrecognised and hidden Messiah, and must prove and purify himself together with his friends in the final Affliction.” [cx]15 |
“Chúng ta không biết điều gì về giai đoạn phát triển ban đầu của Jesus. Tất cả đều chìm trong bóng tối. Chỉ có điều này là chắc chắn: khi chịu phép báp-têm, Ngài được tiết lộ cho biết bí ẩn kiếp sống của mình – tức là Ngài đã được Thiên Chúa tiền định làm vị Cứu thế. Cuộc thiên khải này khiến Ngài trở nên đầy đủ, và không trải qua thêm sự phát triển nào nữa. Cho đến khi thời đại cứu thế sắp xảy ra để hiển lộ phẩm chất vinh quang của Ngài, Ngài phải làm việc nhọc nhằn cho Thiên giới, với tư cách Đấng cứu thế còn ẩn danh và chưa được công nhận, và phải chứng minh điều đó, và phải tự tinh luyện cùng bằng hữu của mình trong Khổ nạn cuối cùng.”[15] |
|
To the man Jesus this was probably a staggering disclosure. Dim anticipations of the path which He might have to tread must at times have entered His mind, but the full implications, and the picture of the way which lay ahead of Him could not have dawned upon His consciousness in their fullness until after the second initiation was undergone, when His purification was complete. He then faced the life of service and the difficulties which attend the path of every conscious son of God. The same writer says: |
Đối với phàm nhân Jesus thì rất có thể đây là sự tiết lộ gây kinh ngạc. Chắc hẳn rằng đôi khi trí Ngài cũng có những dự kiến lờ mờ về con đường mà Ngài có thể phải đi. Thế nhưng, những hàm ý đầy đủ, và hình ảnh con đường phía trước Ngài hẳn đã không hoàn toàn tỏ rõ trong tâm thức của Ngài cho đến sau khi Ngài trải qua cuộc điểm đạo thứ hai, khi việc tinh luyện của Ngài đã hoàn tất. Bấy giờ, Ngài đứng trước con đường phụng sự, và những nỗi khó khăn trên đường đi của mọi người con hữu thức của Thượng Đế. Tác giả này cũng nói thêm: |
|
“In Jesus’ messianic consciousness the thought of suffering acquired [103] now, as applied to himself, a mysterious significance. The Messiahship which he became aware of at his baptism was not a possession, nor a mere object of expectation; but in the eschatological conception, it was implied as a matter of course that through the trial of suffering he must become what God had destined him to be. His messianic consciousness was never without the thought of the Passion. Suffering is the way to the revelation of Messiahship!” [cxi] 16 |
“Trong ý thức là đấng cứu thế của Jesus, ý nghĩ về nỗi đau khổ (103) áp dụng cho chính Ngài, giờ đây có ý nghĩa mầu nhiệm. Vai trò cứu thế mà Ngài ý thức được khi chịu phép báp-têm thì không phải là một điều sở hữu, hay chỉ là một mục tiêu kỳ vọng. Nhưng theo quan niệm tận thế, tất nhiên nó có hàm ý rằng qua thử thách trong đau khổ, Ngài phải trở thành điều mà Thiên Chúa tiền định cho Ngài. Ý thức là đấng cứu thế của Ngài không bao giờ thiếu vắng ý nghĩ về khổ nạn. Đau khổ là con đường dẫn đến sự hiển lộ vai trò Đấng Cứu thế!”[16] |
|
Christ’s entire life was one long via dolorosa, but it was illumined always by the light of His soul and by the recognition of the Father. Though, as recorded in the New Testament, it was divided into definite periods and cycles, and though obviously the detail of what He had to do was only progressively revealed to Him, His life constituted one great sacrifice, one great experience and one definite purpose. This definiteness of objective, and this consecration of the whole man to an ideal are conditions indicative of the state of initiation. All life’s happenings are related to the carrying forward of the life task. Life takes on true significance. This is a lesson which all of us, uninitiate and aspiring, can now learn. We can begin to say, “Life to me, as I look back on it, is not a succession of experiences but one great experience illumined here and there by moments of revelation.” [cxii]17 |
Trọn cả cuộc đời của Đức Christ là một chuỗi dài của con đường thương khó, nhưng bao giờ cũng được soi sáng bởi ánh sáng của linh hồn Ngài, và qua sự thừa nhận của Đấng Cha Lành. Dù rằng nó được chia thành những giai đoạn và chu kỳ rõ rệt, như đã ghi trong Kinh Tân ước, và dù rằng hiển nhiên là chi tiết về những gì Ngài phải làm chỉ được tiết lộ cho Ngài theo mức độ ngày càng tăng dần, cuộc đời của Ngài là một cuộc hy sinh lớn lao, với kinh nghiệm tuyệt vời, và mục đích xác định. Sự xác định này trong mục tiêu và sự hiến mình trọn vẹn cho lý tưởng, là các điều kiện cho thấy trạng thái điểm đạo. Mọi điều xảy ra trong đời đều liên quan đến việc tiến hành nhiệm vụ cả đời. Vì thế, cuộc sống có ý nghĩa thực sự. Đây là bài học mà nay tất cả chúng ta, người chưa được điểm đạo và người chí nguyện, có thể học tập. Chúng ta có thể bắt đầu nói “Khi nhìn lại, tôi thấy cuộc sống không phải là một chuỗi những kinh nghiệm, mà là một kinh nghiệm vĩ đại, được soi sáng đó đây trong những phút giây thiên khải.”[17] |
|
This illumination grows more constant as time goes on. The ancient Hindu teacher, Patanjali, taught that illumination is sevenfold, progressing by successive stages. [cxiii]18 It is as though he were dealing in thought with the seven illuminations which come to all the sons of God who are in process of awakening to their divine opportunities: the illumination which comes when we decide to tread the Path of probation, and to prepare ourselves for initiation. Then the light is shed on the distant vision, and we catch a fleeting glimpse of our goal. Next the light is shed upon ourselves, and we get a vision of what we are, and what we can be, and enter [104] upon the Path of discipleship, or—in the terminology of the Bible—we begin the long journey to Bethlehem. Then there are the five initiations which we are studying, each of which marks an increase of light which shines upon our way and develops that inner radiance which enables all God’s children to say, with Christ: “I am the Light of the World,” [cxiv]19 and to obey His command wherein He tells us to “let your light so shine before men that they may see.” [cxv]20 This light, in its seven stages, reveals God—God in nature, God in Christ, God in man. It is the cause of the mystical vision about which so much has been written and taught and to which the lives of God’s saints in both hemispheres have ever testified. |
Sự khai ngộ này tăng trưởng ngày càng đều đặn hơn theo thời gian. Patanjali, vị huấn sư Ấn giáo thời xưa, có dạy rằng sự khai ngộ có bảy cấp độ, tăng tiến qua các giai đoạn liên tiếp nhau.[18] Dường như ông nghĩ về bảy loại khai ngộ, đến với tất cả những người con của Thượng Đế đang trong tiến trình nhận thức được những cơ hội thiêng liêng của mình: là sự khai ngộ đến khi chúng ta quyết định dấn bước lên Con đường Dự bị, và tự chuẩn bị để được điểm đạo. Bấy giờ ánh sáng chiếu lên trên viễn ảnh xa xăm, và chúng ta thoáng thấy được mục tiêu của mình. Kế đến, ánh sáng chiếu ngay trên chúng ta. Chúng ta thấy được mình là ai, có thể phát triển như thế nào, và đi vào (104) Con đường Đệ tử, hoặc chúng ta bắt đầu con đường lâu dài đi đến Bethlehem, nói theo thuật ngữ của Kinh thánh. Sau đó là năm cuộc điểm đạo mà hiện chúng ta đang nghiên cứu. Mỗi cuộc điểm đạo đánh dấu sự tăng cường ánh sáng, soi tỏ con đường chúng ta đi, và phát triển sự chói rạng ở nội tâm. Nó giúp tất cả những người con của Thượng Đế có thể nói, với Đức Christ: “Ta là ánh sáng của Thế gian,”[19] và làm theo huấn lệnh của Ngài khi Ngài bảo chúng ta “hãy làm cho ánh sáng của các ngươi chói rạng trước mắt mọi người, để họ có thể thấy được.”[20] Trong bảy giai đoạn của nó, ánh sáng này làm hiển lộ Thượng Đế – Thượng Đế trong thiên nhiên, Thượng Đế trong Đức Christ, và Thượng Đế trong con người. Nó là nguyên nhân của linh ảnh thần bí. Linh ảnh này đã được viết ra và giảng dạy rất nhiều, và bao giờ cũng được chứng tỏ bởi cuộc đời của các vị thánh của Thượng Đế trên cả hai bán cầu. |
|
One wonders about the first man who received the first faint glimpse (with his dim inner light) of the infinite possibility lying ahead. He caught a glimpse of God, and from that minute the light from God waxed more and more intense. There is an ancient legend (and who shall say that it is not based on fact?) that Jesus of Nazareth was the very first of our humanity, in a dim and far distant past, to catch this glimpse, and that He was, through the consistency of His constantly directed effort, the first of our humanity to emerge into the very Light of God Himself. St Paul perhaps touched this truth when he spoke of Christ as the “Eldest in a vast family of brothers.” [cxvi]21 Whether this legend is true or not, Christ entered into light because He was light; and the history of man has been a gradually growing illumination, until today radiance is everywhere to be found. |
Người ta tự hỏi ai là người đầu tiên đã thoáng thấy lần đầu một cách lờ mờ (qua ánh sáng nội tâm còn mờ nhạt của mình) về cái khả năng vô tận ngay trước mắt. Người ấy thoáng thấy được Thượng Đế, và kể từ giây phút đó, ánh sáng đến từ Thượng Đế cứ ngày càng chói rạng hơn lên. Có truyền thuyết cổ xưa (và ai có thể bảo nó không dựa trên sự thực?) nói rằng Đức Jesus ở Nazareth chính là người đầu tiên của nhân loại đã có được cái nhìn thoáng qua này. Truyền thuyết ấy cũng nói rằng, qua sự nhất quán trong nỗ lực tăng cường liên tục của mình, Ngài là người đầu tiên trong nhân loại vượt lên đi vào ánh sáng của Thượng Đế. Có lẽ Thánh Paul đề cập đến chân lý này khi ông nói rằng Đức Christ là “Người huynh trưởng trong đại gia đình anh em đông đảo.”[21] Dù truyền thuyết này đúng hay không, Đức Christ vẫn đi vào ánh sáng vì Ngài chính là ánh sáng. Và lịch sử của con người đã là sự khai ngộ ngày càng gia tăng, cho đến hiện nay, khi ánh sáng đang rạng ngời ở khắp nơi. |
|
In this light, inherent and divine, latent and yet emanating from God, Christ saw the vision, and that vision demonstrated to Him His Sonship, His Messiahship and the path of His suffering. This vision is the heritage and the revelation of each individual disciple. This mystical revelation can be perceived, and once perceived, remains a fact—inexplicable often, but a definitely clear and inescapable reality. It gives the initiate the confidence and the power to go forward. It is affective in our experience and is the root of all our future consistency and service; it is also unassailable. Upon this basis we move with courage from the known towards the unknown. It is finally ineffable, for it emphasises our divinity, is founded upon divine quality, and emanates from God. It is a glimpse into the kingdom of God, and a revelation of the path to be trodden on our way there. It is an expansion which enables us to realise that “the Kingdom of God is a state of the soul, coming from the spirit and reflected in the body.” [cxvii]22 |
Trong ánh sáng này, vốn cố hữu và thiêng liêng, ẩn tàng nhưng vẫn phát sinh từ Thượng Đế, Đức Christ thấy được linh ảnh. Nó cho Ngài thấy tư cách của Ngài là con của Thượng Đế, với vai trò Đấng cứu thế và sẽ bước trên con đường đau khổ. Linh ảnh này là di sản và là sự thiên khải cho cá nhân người đệ tử. Có thể nhận thức được sự thiên khải thần bí này, và khi ta đã nhận thức, nó vẫn còn là sự thực – thường không thể giải thích, nhưng là một thực tế xác định rõ ràng và không thể nào phủ nhận. Nó giúp cho (105) người đệ tử có niềm tin và năng lực đi tới. Nó ảnh hưởng đến kinh nghiệm của chúng ta, và là nguồn gốc của trọn cả sự nhất quán và phụng sự của chúng ta trong tương lai. Nó cũng có tính cách bất khả xâm phạm. trên cơ sở này, chúng ta có can đảm đi từ những gì đã biết đến cái chưa biết. Nó không thể mô tả được đến mức rốt ráo, vì nó nhấn mạnh đến thiên tính của chúng ta, được tạo bởi phẩm tính thiêng liêng, và phát xuất từ Thượng Đế. Nó là sự thoáng nhìn vào Thiên giới, và là sự hiển lộ con đường chúng ta sẽ đi để đến đó. Nó là sự mở mang tâm thức giúp chúng ta có thể nhận biết rằng “Thiên giới là một trạng thái của chính linh hồn, đến từ tinh thần và phản ánh trong cơ thể.”[22] |
|
The first step into this kingdom is through the new Birth. The second step is through the baptism of Purification. It is a process of growth in the characteristics of the kingdom, and the gradual attainment of that maturity which marks the citizen of that kingdom. To this, Christ testified through the baptism when He attained maturity, setting us an example, and through His triumphant passing of the tests of the three temptations He demonstrated the needed purity. |
Bước đầu để đi vào Thiên giới là khi được sinh ra lần thứ hai. Bước thứ hai được thực hiện qua phép báp-têm hay Tinh luyện. Đó là một tiến trình tăng cường các đặc tính của Thiên giới, và dần dần đến mức trưởng thành, đánh dấu vai trò công dân của giới này. Đức Christ đã chứng thực điều này qua phép báp-têm khi Ngài đã trưởng thành và nêu gương cho chúng ta. Khi chiến thắng và vượt qua những thử thách của ba lần cám dỗ, Ngài cho thấy là đã đạt được sự thanh khiết cần phải có. |
|
The babe in Christ, the little child, the full-grown man, the perfected man! Through the Bethlehem experience the babe is born. The little child grows to maturity and manifests in his purity and power at the Baptism. He demonstrates at the Transfiguration as the full-grown man, and, on the Cross, he stands forth the perfected Son of God. An initiation is that moment in which a man feels and knows through every part of his being that life is reality and reality is life. For a brief moment his consciousness becomes all-enfolding; he not only sees the vision and hears the word of recognition, but knows that the vision is of himself, and that the word is himself made flesh. |
Từ hài nhi trong Christ, đến trẻ thơ, người trưởng thành, và người hoàn thiện! Qua kinh nghiệm Bethlehem, hài nhi được sinh ra. Rồi đứa trẻ thơ lớn lên đến tuổi trưởng thành, biểu lộ sự thanh khiết và năng lực của mình khi chịu phép Báp-têm. Y chứng tỏ rằng mình là người trưởng thành trong cuộc lễ Biến dung. Và khi ở trên thập tự giá, y cho thấy mình là người Con hoàn thiện của Thượng Đế. Điểm đạo là thời khắc mà hành giả cảm thấy và biết qua mọi thành phần trong bản thể của mình rằng sự sống là thực tại, và thực tại là sự sống. Trong phút giây ngắn ngủi, tâm thức của y bao gồm tất cả. Không những y thấy được linh ảnh và nghe linh từ công nhận, mà còn biết rằng linh ảnh đó là của chính y, và linh từ đó là được chính y thể hiện. |
|
This is the essential factor. An initiation is a blaze of illumination thrown upon the river of existence, and it is in the nature of a whole experience. There is no indefiniteness in it, and the initiate is never quite the same again in his consciousness. |
Đây là nhân tố chính yếu. Điểm đạo là sự bừng cháy của lửa khai ngộ chiếu rọi lên dòng sông sinh tồn, và có tính chất một kinh nghiệm trọn vẹn. Trong đó không có điều gì bất định, và trong tâm thức người điểm đạo đồ không bao giờ còn giữ y như trước. |
|
[106] |
(106) |
|
In the river Jordan the light from Heaven streamed upon the Christ, and His Father spoke those words which have sounded down the ages and have evoked response from all aspirants to the kingdom. The spirit of God descended as a dove upon him. The dove is ever a symbol of peace. For two reasons it was the chosen sign at this initiation. Water, as we have seen, is the symbol of the emotional nature, which nature when purified through initiation, becomes a peaceful limpid pool, capable of reflecting the divine Nature in its purity. Thus, in the form of a dove, the peace of God descended upon Jesus. |
Trên dòng sông Jordan, ánh sáng từ cõi Trời tuôn rải trên Đức Christ, và Đấng Cha Lành của Ngài truyền phán những lời đã được truyền tụng qua các thời đại. Chúng cũng mang lại sự ứng đáp từ tất cả những người chí nguyện hướng về Thiên giới. Thánh linh của Thiên Chúa giáng xuống Ngài như chim bồ câu. Bồ câu bao giờ cũng là biểu tượng của hòa bình. Nó được chọn làm biểu hiệu cho cuộc điểm đạo này vì hai lý do. Như chúng ta biết, nước là biểu tượng của bản chất tình cảm. Khi được tinh luyện qua điểm đạo, tính chất này trở thành hồ nước yên tĩnh và trong trẻo, có khả năng phản ánh Bản tính thiêng liêng, nhờ tinh khiết. Thế nên, sự bình an của Thiên Chúa giáng xuống Jesus, dưới dạng con chim bồ câu. |
|
Secondly, the essential dualities of existence are typified for us in the Bible. The Old Testament stands for the natural lower man, the virgin Mary aspect, carrying within itself the promise of the Messiah, of Him Who shall come. The New Testament stands for the spiritual man, for God made flesh, and for the birth of that which the material nature carried and veiled for so long. The Old Testament opens with the appearance of the raven at the time of the founding of the ancient world, as we can begin to know it. The New Testament opens with the appearance of a dove—one the symbol of the raging waters, the other the symbol of the waters of peace. Through Christ and the unfoldment of the Christ life in each human being will come “the peace which passeth understanding.” [cxviii] 23 |
Thứ hai, các lưỡng nguyên chính yếu của cuộc sinh tồn có nêu tiêu biểu trong Kinh thánh. Kinh Cựu ước tượng trưng cho phàm nhân tự nhiên, phương diện Mary đồng trinh, mang theo lời hứa về Đấng Cứu thế, về Đấng sẽ đến. Kinh Tân ước tượng trưng cho con người tinh thần, cho Thượng Đế lâm phàm, và cho sự sinh ra của điều mà bản tính vật chất đã cưu mang và che giấu quá lâu. Kinh Cựu ước mở đầu bằng sự xuất hiện của loài quạ lớn vào thời gian lập nên thế giới cổ xưa, như chúng ta có thể bắt đầu biết. Kinh Tân ước mở đầu bằng sự xuất hiện của chim bồ câu – một đàng là biểu tượng của dòng nước cuồng nộ, còn biểu tượng kia chỉ về dòng nước thanh bình. Qua Đức Christ và sự khai mở sự sống Christ trong mỗi người, sẽ có “sự thái hòa mà hiện nay chúng ta chưa thể hiểu.”[23] |
|
Standing there in the waters of Jordan, Christ faced the world as Man. Standing upon the top of the Mount of Transfiguration, He faced the World as God. But in this initiation, He stood on a level with His brethren and demonstrated purity and peace. Let us remember that “from the point of view of others only that man is original who can lead them beyond what they already know, but this he cannot do until he has become their equal in their knowledge.” [cxix]24 This is a point to be remembered. Christ was purified. But ahead of Him lay the temptations. He had [107] to become in His consciousness (either anew or through the recovery of an ancient past of test and trial) our equal in all points—of sin, of weakness and of human frailty, and of human success and achievement. Christ had to demonstrate His moral greatness as well as His divinity and His perfection as man attaining maturity. He had to pass through the tests to which every would-be citizen of the kingdom must be subjected when called upon to prove his fitness for the privileges of that kingdom. Of this kingdom the church is the outer and visible symbol, and though faulty and weak in the interpretation of its essential teachings, it symbolises the form of the kingdom of God. But this is not the kingdom of the theologians. It is not entered through the acceptance of certain formal beliefs. It is entered by those who have passed through the new birth, and gone down to Jordan. |
Đứng trong dòng nước ở Jordan, Đức Christ nhìn thế gian với tư cách Con người. Đứng trên Đỉnh núi Biến dung, Ngài nhìn thế giới với tư cách Thượng Đế. Nhưng trong cuộc điểm đạo này, Ngài đứng ngang hàng với huynh đệ của mình, đồng thời biểu hiện sự thanh khiết và thái hòa. Chúng ta cần lưu ý rằng “theo quan điểm của người khác, kẻ nào có tính độc đáo mới có thể hướng dẫn họ đi xa hơn những gì họ đã biết. Nhưng người ấy không thể làm điều đó nếu chưa có kiên thức ngang tầm với họ.”[24] Đây là điều cần lưu ý. Đức Christ đã được tinh luyện. Nhưng còn có những cám dỗ phía trước Ngài. Ngài phải (107) ngang bằng với chúng ta trong tâm thức (dù theo lối mới hoặc khơi lại một cuộc trắc nghiệm hay thử thách của thời quá khứ xa xưa) trong mọi điểm – từ sự tội lỗi, khuyết điểm, sự yếu đuối của con người, cho đến những thành công và thành tựu của họ. Đức Christ phải chứng tỏ sự cao cả về đạo đức cũng như thiên tính và sự hoàn thiện của mình như người đã trưởng thành. Ngài phải chịu những thử thách mà mọi công dân tương lai của Thiên giới phải trải qua, khi họ được yêu cầu chứng minh mức độ thích hợp để nhận các đặc quyền của Thiên giới. Giáo hội là biểu tượng hữu hình ở bên ngoài của giới này. Dù họ còn sai lầm và yếu kém trong việc lý giải các huấn điều của họ, họ vẫn tượng trưng cho hình thể của Thiên giới. Thế nhưng, đây không phải là Thiên giới của nhà thần học. Không thể đi vào Thiên giới bằng cách chấp nhận một số niềm tin theo hình thức. Những ai đã được sinh ra lần thứ hai, và đã đi xuống Jordan, mới được đi vào Thiên giới. |
|
The citizenship of this kingdom was on trial in the Person of Christ, and so He goes down into the wilderness, there to be tempted of the devil. |
Tư cách công dân của giới này đã được thử thách trong Đức Christ. Thế nên, Ngài đi vào hoang mạc, để ở đó chịu sự cám dỗ của quỹ ma. |
|
3 |
3 |
|
In this intimate episode in the life of Jesus Christ we are given perhaps the first real insight into the processes of His innermost mind. The following words open the story and are significant: |
Vào thời kỳ riêng tư này trong cuộc đời của Jesus Christ, có lẽ lần đầu tiên chúng ta thực sự hiểu được các tiến trình thâm sâu trong trí tuệ của Ngài. Những dòng sau đây mở đầu câu chuyện và rất có ý nghĩa: |
|
“And lo a voice from heaven, saying, This is my beloved Son, in whom I am well pleased. Then was Jesus led up of the spirit into the wilderness to be tempted of the devil.” [cxx] 25 |
“Và thật kỳ lạ, có tiếng nói từ trên trời phán rằng, Này là Con Trai yêu dấu của ta, được lòng ta mọi đàng. Sau đó, Jesus được dẫn dắt đi vào hoang mạc để chịu sự cám dỗ của ma quỹ.”[25] |
|
This story of the temptation in the wilderness is most controversial. Many questions have been propounded and much agony of soul has been experienced by the serious believer who endeavours to reconcile common sense, Christ’s divinity, and the devil. Was it possible that Christ could in reality[108] be tempted, and if so, could He have fallen into sin? Did He meet these temptations as the omnipotent Son of God, or did He meet them as a man and therefore subject to temptation? What is meant by the devil? And what was the relation of Christ to evil? Had this wilderness story never been told to us, what would have been our attitude to Christ? What really took place in the consciousness of Christ while in the wilderness? For what purpose are we permitted to share with Him this experience? |
Câu chuyện này về sự cám dỗ trong hoang mạc đã gây ra rất nhiều tranh luận. Nhiều câu hỏi đã được đưa ra, và người tín đồ thuần thành đã rất khổ tâm khi cố gắng hòa giải các yếu tố lương tri, thiên tính của Đức Christ, và ma quỹ. Phải chăng khả dĩ Đức Christ thực sự (108) đã bị cám dỗ, và nếu có, thì khả dĩ Ngài đã sa vào tội lỗi hay chăng? Có phải Ngài đã đáp lại những sự cám dỗ này như người Con toàn năng của Thượng Đế, hay là Ngài đáp ứng với chúng như một con người, và do thế mà bị cám dỗ? Ma quỹ có nghĩa là gì? Và Đức Christ có liên quan như thế nào với điều tà ác? Nếu câu chuyện về hoang mạc này không hề được kể cho chúng ta, thì thái độ của chúng ta đối với Đức Christ sẽ như thế nào? Điều gì đã thực sự xảy ra trong tâm thức của Đức Christ khi Ngài ở trong hoang mạc? Chúng ta được phép chia sẻ kinh nghiệm này với Ngài cho mục đích gì? |
|
Many such questions arise in the mind of the intelligent man, and many have been the commentaries written to prove the particular point of each writer. It is not the purpose of this book to deal with the difficult subject of evil, nor to define the times when Christ was functioning as a man, and when He was functioning as the Son of God. Some believe that He was simultaneously both, and was “very God of very God” [cxxi]26 and yet essentially and utterly human at the same time. People make these statements, but they are apt to forget the implications. They affirm with decision their point of view, and omit to carry their attitude to a logical conclusion. The inference is that we are allowed to know about the temptation in order to teach us, as human beings, a needed lesson; let us therefore study the story from the angle of Christ’s humanity, never forgetting that He had learned obedience to the divine spirit, the soul in man, and was in control of His body of manifestation. |
Nhiều câu hỏi như thế nảy sinh trong trí của người thông minh, và đã có nhiều bài luận giải được viết ra để chứng minh quan điểm riêng của mỗi tác giả. Sách này không có mục đích bàn về vấn đề hóc búa là điều tà ác. Sách này cũng không nhằm xác định khi nào Ngài hành động như con người, và khi nào Ngài hành động như người con Thượng Đế. Một số người tin rằng Ngài đồng thời là cả hai và “rất rất thánh thiện,”[26] vậy mà trong khi đó cốt yếu Ngài vẫn hoàn toàn là con người. Người ta cứ đưa ra những lời phát biểu, nhưng họ thường quên đi các hàm ý. Họ nhất quyết khẳng định quan điểm của mình, nhưng lại không có thái độ kết luận hợp lý. Có thể suy luận rằng chúng ta được phép biết về sự cám dỗ, để học bài học cần thiết với tư cách con người. Vì thế, chúng ta hãy nghiên cứu câu chuyện này từ phương diện nhân tính của Đức Christ. Tuy nhiên, chúng ta đừng bao giờ quên rằng Ngài đã học cách tuân phục đức thánh linh, là linh hồn trong con người, và đã chế ngự được thể biểu hiện của mình. |
|
He was “in all points tempted like as we are, yet without sin;” [cxxii]27 He came in a human body, and was subject to human conditions as also we are; He suffered and agonised; He felt irritation, and was conditioned by His body, His environment and the period, as we all are. But because He had learnt to master Himself, and because the wheel of life had done its work with Him, He could face this experience and meet evil face to face, and triumph. He taught us thereby how to meet temptation; what to expect, as disciples preparing [109] for initiation, and the method whereby evil can be turned into good. He met temptation with no great new technique or revelation. He simply fell back on what He knew, what He had been taught and told. He met temptation each time with “It is written,” [cxxiii]28 and employed no new powers to combat the devil. He simply utilised the knowledge which He had. He used no divine powers to overcome the Evil One. He simply used those which we all possess—acquired knowledge and the age-old rules. He conquered because He had taught Himself to overcome. He was the master of conditions at that time because He had learnt to master Himself. |
Ngài đã “bị cám dỗ trong mọi phương diện như chúng ta, nhưng không bị sa ngã;”[27] Ngài giáng trần trong cơ thể con người, và phải chịu những điều kiện của con người như chúng ta. Ngài phải chịu bao đau thương và thống khổ. Ngài cũng cảm thấy bực bội, và bị qui định bởi thân xác, môi trường sống và thời kỳ của Ngài, như tất cả chúng ta. Nhưng vì Ngài đã học cách tự chủ, và vì bánh xe luân hồi đã hoàn tất công việc đối với Ngài, nên Ngài đã có thể đối diện với kinh nghiệm này, trực tiếp đối ứng với điều tà vạy, và chiến thắng vẻ vang. Từ đó, Ngài dạy chúng ta cách đáp ứng với sự cám dỗ; dự kiến điều gì, với tư cách người đệ tử đang chuẩn bị (109) cho cuộc điểm đạo; và phương pháp nào để biến điều tà vạy thành tốt lành. Ngài đối ứng với sự cám dỗ mà không dùng kỹ thuật nào mới, hay sự thiên khải lớn lao, mới mẻ nào. Đơn giản là Ngài chỉ dựa vào những gì Ngài đã biết, đã được giáo huấn và truyền đạt. Mỗi lần đáp ứng với sự cám dỗ, Ngài nói “Có lời dạy rằng”[28] và không hề dùng quyền năng nào mới để chiến đấu với quỹ dữ. Ngài chỉ dùng sự hiểu biết Ngài đã có. Ngài không dùng quyền năng thiêng liêng để thắng phục Tà ma. Đơn giản là Ngài chỉ dùng những gì mà tất cả chúng ta đều có – những hiểu biết đã có, và những qui luật từ lâu đời. Ngài thắng phục được, vì đã tự học cách khắc phục. Ngài chế ngự được các điều kiện vào thời gian đó, vì Ngài đã học cách tự chủ. |
|
Such a mastery by the soul may indeed be utterly beyond our immediate attaining, but the command of Christ stands for all time: “Be ye therefore perfect;” [cxxiv]29 and some day we too shall meet the temptations in the wilderness and also come forth as He, unsullied and undefeated. Such experience is inevitable for all, and cannot eventually be escaped. Christ did not escape it, and neither shall we. “It is the possibility of being tempted,” says Dr. Selbie, “which shows the real greatness of human nature. Apart from it we should be merely unmoral creatures…. It is with the capacity to choose between ends, and the actions leading to them, that the possibility of sin emerges.” [cxxv]30 This calls for more than superficial consideration. Humanity itself is at stake, in the wilderness story. The whole world of material things, of desire and of ambition, was arrayed before Christ, and because He reacted as He did, and because none of these aspects of life could affect Him, we too can stand free, assured of our own ultimate victory. Christ as man achieved victory. We too can do the same. |
Thực ra, sự chế ngự nói trên của linh hồn còn hoàn toàn ở ngoài mức thành đạt hiện nay của chúng ta. Thế nhưng, huấn lệnh của Đức Christ bao giờ cũng ủng hộ chúng ta : “Vì thế, các ngươi hãy trở nên hoàn thiện.”[29] Và một ngày nào đó chúng ta cũng phải đối diện với những cám dỗ trong hoang mạc, và cũng tiến tới như Ngài, không bị bôi nhọ, và không bị thất bại. Tất cả mọi người đều phải trải qua kinh nghiệm này, và rốt cuộc không thể nào lẩn tránh. Đức Christ không thể lẩn tránh nó, và chúng ta cũng sẽ không thể. Ts. Selbie nói “Chính cái khả năng có thể bị cám dỗ cho thấy sự vĩ đại đích thực trong bản tính của con người. Nếu không có nó, thì chúng ta chỉ là những sinh vật không đạo đức . . . Chính cái năng lực chọn lựa giữa các mục tiêu, và thực hiện những hành động đưa đến mục tiêu ấy, khiến người ta có thể gây tội lỗi.”[30] Điều này đòi hỏi phải tìm hiểu sâu xa hơn là chỉ xem xét ở bề ngoài. Chính nhân loại hiện nay cũng đang đứng trước nguy cơ, như trong câu chuyện hoang mạc. Toàn thể cõi đời với những thứ vật chất, những ham muốn và tham vọng, phô bày trước mắt Đức Christ. Vì không có điều nào vừa kể trong đời có thể ảnh hưởng đến Ngài, nên chúng ta cũng có thể đứng vững vàng, tự do và tin chắc vào chiến thắng tối hậu của mình. Đức Christ đã chiến thắng với tính cách con người. Vì thế, chúng ta cũng có thể làm như vậy. |
|
To this triumph of the soul over matter and of reality over the unreal, Christ gave testimony in the wilderness experience, and it is towards the same goal that all who follow in His steps are moving. The triumph which was His will [110] be ours when we meet the problem in the spirit in which He met it, turning the light of the soul upon it, and resting back upon past experience. |
Đức Christ cho ta bằng chứng trong kinh nghiệm ở hoang mạc về chiến thắng khải hoàn này của linh hồn đối với vật chất, và của sự thực đối với điều giả trá. Đó chính là mục tiêu mà tất cả những ai đi theo bước chân Ngài đều đang tiến đến. Sự chiến thắng khải hoàn của Ngài cũng sẽ (110) là chiến thắng của chúng ta, khi chúng ta đối phó với vấn đề khó khăn trong tinh thần mà Ngài đã gặp, chiếu rọi ánh sáng của linh hồn vào đó, và dựa vào kinh nghiệm đã qua. |
|
In the Baptism initiation, Christ’s purity and freedom from evil had been demonstrated before men. Now they have to undergo a different test. From the crowd and from the experience He went to the solitary place and for forty days and nights He was alone with Himself, standing between God and the Evil One. Through What agency could this evil force reach Him? Through the agency of His own human nature, through the medium of loneliness, of hunger and of His own visions. Christ was thrown back upon Himself, and there, in the silence of the desert, alone with His thoughts and desires, He was tested throughout all the parts of His nature which might be vulnerable. “As He is, so are we in this world,” [cxxvi]31 vulnerable in all points. The difficulty with most of us is that we are vulnerable in so many petty ways, and in every trifling situation we are apt to fall. The crux of the situation, as far as Christ was concerned, was that these three temptations were climaxing tests, in which the three aspects of the lower nature were involved. They were synthetic temptations. In them was no petty, trifling, silly tempting, but the gathering up of the forces of the threefold lower man—physical, emotional and mental—into one last effort to control the Son of God. Evil is thus constituted, and we shall all some day have to face this testing—this triple evil, this devil, such as Christ faced. Three times He was tempted, and three times He resisted, and only after this capacity to react to form and to material benefit had been finally put aside was it possible for Christ to pass on to His world service and the Mount of Transfiguration. One of the finest thinkers in the field of Christian interpretation today tells us that “all they who are destined for the Kingdom must win forgiveness for the guilt contracted in the earthly aeon by encountering steadfastly the world-power as it collects itself for a last attack. For through this guilt they were still subject to the power [111] of ungodliness. This guilt constitutes a counterweight which holds back the coming of the Kingdom.” [cxxvii] 32 |
Trong kỳ điểm đạo qua Phép Báp-têm, sự thanh khiết và hoàn toàn sạch mọi điều tà ác của Đức Christ đã được phô bày trước mắt mọi người. Giờ đây, các phẩm tính đó phải trải qua một trắc nghiệm khác. Rời đám đông và kinh nghiệm đời thường, Ngài đến nơi thanh vắng, và trong bốn mươi ngày, sống một mình, đứng giữa Thượng Đế và Tà ma. Vậy thì qua tác nhân nào mà tà lực đến với Ngài? Qua nhân tính nơi chính Ngài, qua sự cô đơn, đói khát, và những hình ảnh mà Ngài thấy. Đức Christ chỉ còn nương tựa vào chính mình. Ở đó, trong sự tĩnh lặng của sa mạc, sống cô đơn với những ý nghĩ và ý muốn của mình, Ngài chịu sự thử thách toàn diện qua những thành phần nào trong bản tính của Ngài khả dĩ bị tổn thương. “Ngài như thế nào thì chúng ta trong cõi đời này cũng vậy,”[31] có thể bị tổn thương trong mọi phương diện. Cái khó đối với hầu hết chúng ta là chúng ta dễ bị tổn thương trong nhiều lối vụn vặt, và trong mọi tình huống tầm thường chúng ta vẫn có thể bị vấp ngã. Riêng đối với Đức Christ, điểm then chốt của vấn đề là ba sự cám dỗ này đều lên đến tột đỉnh, trong đó có bao gồm cả ba khía cạnh của phàm tính. Chúng là những sự cám dỗ tổng hợp. Trong chúng không có gì vụn vặt, tầm thường, quyến rũ ngờ nghệch, mà đó là sự gom lại các mãnh lực của ba hạ thể phàm nhân – thể xác, thể tình cảm, và thể trí – thành nỗ lực cuối cùng để chế ngự Người Con của Thượng Đế. Điều tà ác được tạo thành như thế, và một ngày nào đó tất cả chúng ta đều phải đối mặt với thử thách này – tức là sự tà ác gồm ba phương diện này, là quỹ dữ này, mà Đức Christ đã đối mặt. Ba lần Ngài bị cám dỗ, và ba lần Ngài đã chống lại. Và chỉ sau khi khả năng phản ứng với sắc tướng và với lợi ích vật chất cuối cùng đã bị gạt sang một bên, thì bấy giờ Đức Christ mới có thể tiếp tục đi tới trong công tác phụng sự thế giới của Ngài, và đến Đỉnh núi Biến dung. Một trong những nhà tư tưởng lỗi lạc nhất trong lĩnh vực luận giải Thiên Chúa giáo ngày nay có nói rằng “tất cả những ai có vận mệnh đi vào Thiên giới, đều phải xin được tha thứ cho những tội lỗi đã tích tập trong những kỳ gian lâu dài ở cõi trần, bằng cách kiên quyết đương đầu với quyền lực của thế gian, khi nó tập trung vào lần công kích cuối cùng. Vì qua tội lỗi này họ vẫn còn bị chi phối bởi quyền lực (111) của những điều không thánh thiện. Tội lỗi này là đối trọng, ngăn cản việc đi đến Thiên giới.”[32] |
|
Christ faced this last attack and emerged victorious, thus guaranteeing to us our ultimate victory. |
Đức Christ đã đối mặt với sự tấn công sau cùng này và vượt lên trong chiến thắng, vì thế mà bảo đảm rằng rốt cuộc chúng ta cũng chiến thắng. |
|
The devil approached Jesus when the forty days of solitary communion were over. We are not told what Christ did in those forty days. No account is given to us of His thought and determinations. His realisation and consecration at that time. Alone, He faced the future, and at the end, encountered the tests which released Him from the power of His human nature. |
Ma quỹ đến gần Chúa Jesus khi Ngài đã qua bốn mươi ngày thông công với thiêng liêng trong cô đơn, hiu quạnh. Chúng ta không được cho biết Đức Christ đã làm gì trong bốn mươi ngày đó. Không có bài tường thuật nào về những ý nghĩ và quyết tâm của Ngài, sự nhận thức và hiến dâng của Ngài trong thời gian đó. Trong cô đơn, Ngài đối diện với tương lai, và cuối cùng gặp phải những thử thách khiến Ngài thoát ra khỏi quyền chi phối của phàm tính nơi mình. |
|
As we study the life of Jesus this solitariness emerges ever more clearly. The great souls are always lonely souls. They tread uncompanioned the most difficult parts of the long way of return. Christ was ever lonely. His spirit drove Him again and again into isolation. “The great religious conceptions which haunt the imaginations of civilized mankind are scenes of solitariness: Prometheus chained to his rock, Mahomet brooding in the desert, the meditations of the Buddha, the solitary Man on the Cross. It belongs to the depth of the religious spirit to have felt forsaken, even by God.”[cxxviii]33 |
Khi nghiên cứu cuộc đời của Chúa Jesus, chúng ta thấy sự cô đơn, hiu quạnh này ngày càng rõ nét hơn. Những linh hồn cao cả bao giờ cũng là linh hồn cô đơn. Trên những đoạn khó khăn nhất của con đường phản bổn hoàn nguyên, họ dấn bước cô đơn, không có bạn đồng hành. Đức Christ bao giờ cũng cô đơn. Hết lần này đến lần khác, tinh thần của Ngài đã đưa Ngài vào sự cô đơn, biệt lập. “Các quan niệm tôn giáo chi phối những điều tưởng tượng của loài người trong thế giới văn minh, là các quang cảnh cô đơn: Prometheus bị xiềng xích vào tảng đá, Mahomet suy tưởng trong sa mạc, những cơn thiền định của Đức Phật, Con Người cô đơn trên Thập tự giá. Nó thuộc về độ sâu của tinh thần tôn giáo, cảm thấy rằng mình bị bỏ rơi, thậm chí còn bị Thượng Đế bỏ rơi.”[33] |
|
Christ’s life alternated between the crowd whom He loved and the silence of the solitary places. First He is to be found in the daily life of the family experience, where the intimacies of personalities can so sadly imprison the soul; thence He passed into the solitary desert and was alone. He returned, and His public life began, until the publicity and noise and clamour of this were succeeded by the deep and interior silence of the Cross, where, forsaken of all, He went through the deep dark night of the soul—utterly alone. Yet it is in these moments of complete silence, when the soul is thrown back upon itself and there is no one to help, no hand to aid and no voice to strengthen, that those revelations come and that clear insight is developed which enable a Saviour to emerge for the helping of the world. |
Cuộc đời của Đức Christ thay đổi luân phiên giữa đám dân chúng mà Ngài yêu mến, và sự tĩnh lặng của những nơi cô đơn, hiu quạnh. Trước hết, Ngài ở trong cuộc sống thường nhật của kinh nghiệm gia đình, nơi mà sự thân cận của phàm nhân có thể giam nhốt linh hồn một cách hết sức đáng buồn. Từ đó, Ngài đi vào sa mạc quạnh hiu và sống một mình. Khi Ngài trở lại, cuộc sống của Ngài với công chúng bắt đầu, cho đến khi tiếp theo những hoạt động công cộng cùng những tiếng ồn ào, huyên náo của sinh hoạt đó, là sự tĩnh lặng sâu xa ở nội tâm trên Thập tự giá. Bấy giờ, bị tất cả bỏ rơi, Ngài trải qua đêm đen sâu thẳm của linh hồn – hoàn toàn đơn độc. Vậy mà vào những phút giây hoàn toàn tĩnh lặng này, khi linh hồn bị đẩy lùi về với chính mình, không có ai trợ giúp, không có bàn tay nào nâng dỡ, và không có tiếng nói nào khích lệ, thì những điều thiên khải lại đến. Bấy giờ, với sự thông hiểu tinh thần sáng tỏ, vị Cứu thế trỗi dậy để trợ giúp thế gian. |
|
[112] |
(112) |
|
Christ was tempted of the devil. Is it necessary in a book such as this to give an interpretation of the devil? Is it not apparent that there are in the world today two dominant concepts, both of them passing out as factors in the consciousness of the young, and therefore determining their later beliefs—the devil and Saint Nicholas, or Father Christmas? These names embody opposing ideas. Each of them symbolises one of the two major problems with which man has, in his daily life, to deal. These are called by Oriental philosophers the “pairs of opposites,” and surely it is the manner in which man handles these two aspects of life, and his subjective attitude to them, which determine whether his life reacts to evil or to good. The devil is the symbol of that which is not humanly divine, for there are evil things done by man which, when done by an animal, are not so regarded. A man or a fox, for instance, may raid a chicken coop, but in the one case a moral law is broken, and in the other a natural instinct is followed. An animal may kill another animal in rage or in defense of its female, but when a man does the same thing it is called murder, and he is duly punished. |
Đức Christ đã bị quỹ ma cám dỗ. Trong một quyển sách như thế này, có cần phải đưa ra sự lý giải về ma quỹ hay không? Có phải hiển nhiên là trên thế giới ngày nay có hai khái niệm nổi bật, cả hai xuất hiện như những yếu tố trong tâm thức của người trẻ, và vì thế mà qui định niềm tin của họ về sau – đó là quỹ dữ và Thánh Nicholas, hay Ông già Noel. Các danh hiệu này thể hiện những ý tưởng đối nghịch. Mỗi ý tưởng tiêu biểu cho một trong hai vấn đề chính yếu mà con người phải xử lý trong đời sống hằng ngày. Những vấn đề này được các triết gia Đông phương gọi là “các cặp đối cực.” Và chắc hẳn rằng chính cái cung cách mà mỗi người xử lý hai phương diện này của đời sống, và thái độ nội tâm của y đối với chúng, sẽ qui định liệu cuộc đời của y sẽ phản ứng với điều tà vạy hay lành thiện. Ma quỹ là biểu tượng của những gì không có tính cách thiêng liêng đối với con người, vì có những điều tà ác do con người làm, lại không bị xem là tà ác khi do con thú gây ra. Ví dụ như, một người hay con chồn có thể vào ăn trộm chuồng gà, nhưng với trường hợp của con người thì đó phạm luật đạo đức, còn trong trường hợp kia của con thú thì xem như nó đi theo bản năng tự nhiên. Một con thú có thể giết một con thú khác do tức giận, hay để bảo vệ bạn tình, nhưng khi một người làm điều đó thị bị gọi là sát nhân, và bị trừng trị thích đáng. |
|
Father Christmas is the embodiment of that which is selfless; he is the symbol of giving and of the Christ spirit; he therefore stands to man as a reminder of God, just as this other figment of the imagination, the devil with horns and tail, is a reminder of that which is not God, that which is not divine. |
Ông già Noel là hiện thân của những gì vô kỷ. Ông là biểu tượng của sự cho ra và của tinh thần Christ. Vì thế đối với con người, ông là lời nhắc nhở về Thượng Đế. Tương tự, điều không tưởng kia, về quỹ dữ có sừng và có đuôi, nhắc nhở chúng ta về những gì không phải là Thượng Đế, những gì không thiêng liêng. |
|
“The key is supplied by mythology. The myths demand a serious interpretation in correspondence with objective reality, they must not be treated as pure poetry without any solid truth behind them, a mere play of the imagination! The garment which clothes the substance may be as fabulous, as fantastic, as inconsistent and as patchy as you please. But this does not alter the fact that popular mythology tells of an invisible reality, and of mysterious `figures,’ `figures’ remember, not `forces’ at work everywhere. Everything is alive and possesses a soul. The world is full of spirits, of souls. The myths speak of them. Who invented these myths? Nobody. For inventions are arbitrary, are fiction. But these tales are accepted [113] by those who tell them and by their audience as unquestioned truth. The psychology of the primitive compels him to regard things in this way ‘magically.’ What in our more developed and more individual psychology has become a ‘sub-conscious’ in which the collective life of our ancestors is still operative is the normal psychology of the primitive, a state of ‘natural somnambulism’ with its distinctive forms of sensitiveness, telepathy, and second-sight, a direct apprehension akin to the artist’s of the whole in its parts, of the essential in a multiplicity of detail.” [cxxix]34 |
“Có thể giải thích vấn đề theo khoa thần thoại. Các chuyện thần thoại đòi hỏi phải được lý giải nghiêm túc tương ứng với thực tế khách quan. Không được xem chúng chỉ thuần là thi ca mà không có ẩn chứa bất cứ chân lý vững chắc nào, hay chỉ là trò chơi của trí tưởng tượng. Có thể xem lớp áo bên ngoài bao bọc thực chất của chúng là điều không tưởng, là điều kỳ quái, là không nhất quán, hoặc là chắp vá, hay là thế nào tùy bạn thích. Nhưng cách nhìn này cũng khôngthay đổi được sự thực là các câu chuyện thần thoại trong dân gian đều có nói về một điều thực tế vô hình, và về ‘những nhân vật’ huyền bí, xin nhớ là ‘những nhân vật’ chứ không phải là ‘các mãnh lực’ đang hoạt động ở khắp nơi. Mọi vật đều sống động và có một linh hồn. Thế giới có rất nhiều thần linh, nhiều linh hồn. Các chuyện thần thoại là nói về họ. Ai đã dựng nên những chuyện thần thoại ấy? Không ai cả. Vì những điều bịa đặt đều có tính cách tùy tiện, là hư cấu. Nhưng những câu chuyện này lại được chấp nhận (113) bởi những người kể chúng, và bởi những người nghe chuyện kể. Điều kiện tâm lý của người nguyên thủy khiến họ xem các sự vật theo lối này ‘một cách huyền nhiệm.’ Những gì mà trong điều kiện tâm lý phát triển hơn và thuộc về cá nhân nhiều hơn của chúng ta, đã trở thành ‘tiềm thức’ trong đó đời sống tập thể của tổ tiên chúng ta hãy còn hoạt động, thì vốn là điều kiện tâm lý bình thường của người nguyên thủy, một trạng thái ‘mộng du tự nhiên’ với những dạng rõ rệt của tính nhạy cảm, viễn cảm, và nhãn quan thứ hai, một sự lãnh hội trực tiếp, giống như cái hiểu của nhà nghệ sĩ về cái toàn thể trong những thành phần của nó, và về cái cốt yếu trong vô vàn chi tiết.”[34] |
|
To this the symbols of the devil and of Father Christmas bear testimony—embodiments of the primal dualities in the realm of quality. Man’s entire existence, as man, is spent swinging between these pairs of opposites, until eventually the balance is achieved and, from then on, he moves towards that which is divine. It might profit all of us if we pondered long and deeply at times upon these two extremities of human existence—good and evil, light and dark, life and form, spirit and matter, the self and the not-self, the real and the unreal, truth and falsehood, right and wrong, pleasure and pain, the urge and the drag, the soul and the personality, Christ and the devil. In these last two the problem of the three temptations is summed up. These dualities have also been defined as finiteness and infinity which are the characteristics, one of man and the other of God. That which emphasises our finite nature is of humanity, that which is comprehensive is of God. We shall see, in our study of these three temptations, how clearly the distinctions between the dualities emerge. Christ, in the temptations, could not contradict Himself; and thus identifying Himself with perfection, He gives us a presentation of a human being “in the world, and yet not of the world,” [cxxx]35 tempted of the devil yet free from wrong reaction to the devil’s suggestions. Thus He was a free soul, which is a divine soul, untrammelled by desire and its tests, undefiled by the flesh and its temptations, and liberated from the sins of the mental processes. Such is [114] the will of God for each and all of us, and the writer quoted above says: “There cannot be freedom… unless the divine will is genuinely one with that of finite beings in a single personality.” [cxxxi]36 Such a Personality was Christ. Good is the contradiction of evil, and Christ’s attitude to the devil was one of uncompromising contradiction. In this He clarified the issue and did what all souls can do. Herein, as I have earlier pointed out, lies His uniqueness and His distinction—it consists in the basic fact of His utilising those methods of service, triumph and sacrifice which are available to any of us. Many in the past have died for others; many have faced evil with uncompromising opposition; many have dedicated their lives to service, but none have succeeded with the completeness and the perfection of Christ. |
Các biểu tượng ma quỹ và Ông già Noel này là bằng chứng cho những điều nói trên – là hiện thân của những lưỡng nguyên chính yếu trong phạm vi phẩm tính. Toàn thể đời người, với tính cách con người, cứ mãi dao động giữa các cặp đối cực này, cho đến khi cuối cùng họ đạt được sự thăng bằng. Rồi từ đó về sau, họ cứ đi tới hướng về những điều thiêng liêng. Có lẽ rất hữu ích nếu đôi khi tất cả chúng ta bỏ thời gian suy ngẫm sâu xa về các đối cực này trong đời sống con người. Đó là thiện và ác, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sắc tướng, tinh thần và vật chất, ngã và phi ngã, điều thật và không thật, chân lý và giả trá, phải và quấy, lạc thú và đau khổ, sự thúc đẩy và trở ngại, linh hồn và phàm ngã, Christ và ma quỹ. Hai đối cực sau cùng này tóm lược vấn đề khó khăn của ba điều cám dỗ. Các đối cực cũng được định nghĩa là tính hữu hạn và vô hạn, vốn là đặc trưng của một đàng là con người, và đàng kia là Thượng Đế. Khi nghiên cứu ba sự cám dỗ này, chúng ta sẽ thấy những khác biệt giữa các đối cực rõ ràng đến mức nào. Khi bị cám dỗ, Đức Christ không thể mâu thuẫn với chính mình. Thế nên, Ngài tự đồng nhất với sự hoàn thiện. Ngài cho chúng ta thấy hình ảnh của một người “ở thế gian, nhưng không thuộc về thế gian,”[35] bị ma quỹ cám dỗ, nhưng không có phản ứng nào sai theo gợi ý của quỹ ma. Do đó, Ngài là linh hồn đã giải thoát, là linh hồn thiêng liêng – không hề bị chi phối bởi dục vọng và những thử thách của nó, không bị xác thịt và những cám dỗ của nó làm lem ố, và thoát khỏi những tội lỗi của tiến trình trí tuệ. Đó là (114) ý chí của Thượng Đế cho mỗi người và cho tất cả chúng ta. Và tác giả nói trên viết thêm: “Không thể có tự do . . . trừ phi ý chí thiêng liêng thực sự hòa hợp làm một với ý chí của con người hữu hạn trong mỗi phàm nhân.”[36] Đức Christ là một Phàm nhân như thế. Điều thiện vốn trái lại với điều ác, và thái độ của Đức Christ đối với ma quỹ là thái độ đối lập không thỏa hiệp. Trong thái độ này, Ngài soi sáng vấn đề, và làm những gì mà tất cả những linh hồn khác đều có thể làm. Như tôi đã nêu ở phần trước trong sách này, về tính cách độc đáo và đặc biệt của Ngài – gồm sự thực cơ bản là Ngài dùng những phương pháp phụng sự, để chiến thắng và hy sinh, mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đều có thể sử dụng. Nhiều người trong quá khứ đã chết cho những người khác. Nhiều người đã đối đầu với điều tà ác một cách không khoan nhượng. Nhiều người đã hiến dâng đời mình cho công việc phụng sự. thế nhưng, chưa ai đã thành công với sự hoàn thành và hoàn thiện như Đức Christ. |
|
His greatness, it cannot be too often reiterated, lies in His universality. Dr. Bosanquet deals with this question of personality as follows: |
Thiết tưởng không thể lặp lại nhiều hơn rằng sự cao cả của Ngài là do Ngài có tinh thần đại đồng. Ts. Bosanquet bàn về vấn đề phàm tính này như sau: |
|
“What I am urging is rather that our true personality lies in our concrete best, and that in desiring its development and satisfaction we are desiring an increase of our real individuality, though a diminution of our formal exclusiveness…. It will be rejoined that true individuality—greatness of range and organization—augments personal distinction as well as comprehensiveness. Undoubtedly, but it decreases exclusiveness. The great world-men are not born simply of their earthly parents. Whole ages and countries are focussed in them…. In desiring a highly developed perfection we are desiring to be something which can no longer be identified either with or by the incidents of the terrestrial life.” [cxxxii] 37 |
“Điều chúng ta cần làm là tốt hơn nên đặt con người thật của mình vào những gì cụ thể và tốt đẹp nhất. Và trong khi mong muốn con người này phát triển và hài mãn, chúng ta nên mong muốn tăng cường cá tính chân thực của mình, bằng cách giảm bớt thái độ loại trừ theo hình thức . . . Sẽ có lời phản biện rằng cá tính chân thực – có phạm vi và tổ chức rộng lớn – thì làm gia tăng sự tách biệt cũng như sự toàn diện của cá nhân. Hiển nhiên là với điều kiện nó phải giảm bớt thái độ loại trừ. Những nhân vật vĩ đại trên thế giới không chỉ sinh ra từ cha mẹ của họ ở thế gian. Tất cả các thời đại và các quốc gia đều hội tụ trong họ . . . Khi mong muốn sự hoàn thiện phát triển cao tức là chúng ta mong muốn một điều gì không còn đồng hóa với hay bị đồng hóa bởi các sự cố trong cuộc sống trần gian.”[37] |
|
If these words are studied in connection with Christ’s temptations, the wonder of what He did emerges, and is encouraging for all of us, His younger brothers, equally sons of God. |
Nếu những lời nói trên được nghiên cứu liên quan đến những sự cám dỗ của Đức Christ, thì chúng ta sẽ thấy sự kỳ diệu của những điều Ngài đã làm. Nó khích lệ tất cả chúng ta như những người em nhỏ của Ngài, nhưng cũng là những người con của Thượng Đế. |
|
Therefore as a whole man and yet utterly divine, Christ entered into final combat with the devil. As a human being, [115] in whom the divine spirit was fully expressing itself, He faced the evil in His own humanity (when viewed apart from God) and emerged victorious. Let us not attempt to divorce these two—God and man—when we think of Christ. Some thinkers emphasise His humanity and ignore His divinity. Therein they are surely in error. Others emphasise His divinity and regard as blasphemous and wrong all those who have placed Him on an equality with other human beings. But if we regard Christ as the flower of the human race, because the divine spirit had full control and showed forth through the medium of the human form, we in no way belittle Him or His achievements. The further men progress upon the Path of Evolution, the more they become conscious of their divinity and of the Fatherhood of God. At the same time, the more deeply they appreciate the Christ, the more convinced are they of His perfected divinity and His mission, and the more humbly do they seek to follow in His steps, knowing Him to be the Master of all the Masters, very God of very God, and the Teacher alike of Angels and of men. |
Do đó, vì tư cách hoàn toàn là con người nhưng vẫn hoàn toàn thiêng liêng, Đức Christ đi vào cuộc chiến cuối cùng với ma quỹ. Với tư cách là con người (115) có tinh thần thiêng liêng biểu lộ viên mãn, Ngài đối mặt với điều tà vạy trong nhân tính của chính mình (khi xem như tách biệt với Thượng Đế), và chiến thắng vẻ vang. Vậy, chúng ta đừng cố tách rời hai phương diện – Thượng Đế và con người – khi nghĩ đến Đức Christ. Một số nhà tư tưởng nhấn mạnh đến nhân tính của Ngài, mà quên đi thiên tính nơi Ngài. Trong điểm này, chắc chắn là họ sai lầm. Những người khác lại nhấn mạnh đến thiên tính của Ngài, và cho rằng tất cả những ai đặt Ngài bình đẳng với những người khác là bất kính và sai trái. Thế nhưng, nếu chúng ta xem Đức Christ là tinh hoa của nhân loại, vì Ngài có tinh thần thiêng liêng đã hoàn toàn chế ngự và biểu lộ qua trung gian hình hài con người, thì chúng ta không hề xem nhẹ Ngài hay sự thành tựu của Ngài. Khi mọi người càng đi xa hơn trên đường tiến hóa, thì họ càng ý thức được thiên tính nơi mình, và tư cách Đấng Cha Lành của Thượng Đế. Đồng thời, họ càng thấu hiểu được chân giá trị của Đức Christ một cách sâu xa hơn, tin phục nhiều hơn về thiên tính hoàn thiện và sứ mệnh của Ngài. Họ càng khiêm tốn hơn, khi cố gắng theo bước chân Ngài, vì hiểu rằng, Ngài là vị Thầy của các Chân sư, vị thánh thiện nhất trong những vị thánh thiện, là Huấn sư của Thiên thần và loài người. |
|
This perfected divinity is now to be tested and approved. He has now to demonstrate to God, to the devil and to humanity the nature of His achievement and how the powers of the lower nature can be overcome by the powers of the soul. These temptations can be understood very simply by all aspirants and disciples, because they embody universal tests which are applied to the human nature in which we all share and with which We all wrestle in some form and in some measure. It matters not whether we do so from the promptings of conscience, from the control of the higher nature, or through the clear light of divinity. This, all disciples have ever recognised. |
Thiên tính hoàn thiện này nay phải được thử thách, để được chấp thuận. Nay Ngài phải chứng tỏ cho Thượng Đế, cho ma quỹ, và nhân loại thấy sự thành tựu của Ngài như thế nào. Và bằng cách nào mà quyền lực của phàm tính có thể được khắc phục bởi quyền năng của linh hồn. Những sự cám dỗ này có thể được những người chí nguyện tìm đạo và những người đệ tử hiểu rất đơn giản. Bởi vì chúng thể hiện những sự thử thách chung, được áp dụng cho tính chất của con người mà tất cả chúng ta đều cùng có như nhau, mà tất cả chúng ta đều cố gắng khắc phục bằng cách nào đó và đến mức nào đó. Dù chúng ta khắc phục nó do sự nhắc nhở của lương tâm, do sự kiểm soát của chân tính cao siêu, hay qua ánh sáng tỏ rạng của thiên tính, thì cũng chẳng hề chi. Vấn đề này tất cả những người đệ tử bao giờ cũng nhận thức được. |
|
We shall consider these three temptations in the order given by St. Matthew, which is different from that given by St. Luke. St. Mark simply mentions that Christ was tempted of the devil, whilst St. John does not refer to them at all. These three temptations tested out all the three aspects of [116] the lower human nature—the physical, the emotional-desire nature, and the mind or mental nature We read that: |
Chúng ta sẽ xem xét ba sự cám dỗ này theo thứ tự mà Thánh Matthew đã đưa ra, khác với thứ tự của Thánh Luke. Thánh Mark thì chỉ nói rằng Đức Christ đã bị ma quỹ cám dỗ. Trong khi đó, Thánh John không hề nói gì đến chúng. Ba sự cám dỗ này thử thách cả ba phương diện trong (116) phàm tính của con người – tính chất của thân xác, tính chất tình cảm-dục vọng, và thể trí hay tính chất trí tuệ. Chúng ta đọc thấy như sau: |
|
“When he had fasted forty days and forty nights he was afterwards anhungered. And when the tempter came to him, he said, If thou be the Son of God command that these stones be made bread. But he answered and said, It is written, Man shall not live by bread alone, but by every word that proceedeth out of the mouth of God.” [cxxxiii]38 |
“Khi đã nhịn ăn bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, sau đó Ngài đói lã. Và khi ma quỹ đến cám dỗ Ngài, nó nói Nếu Ngài là Con của Thượng Đế thì hãy ra lệnh cho những viên đá này biến thành bánh mì xem. Nhưng Ngài đáp, Có lời dạy rằng Con Người không chỉ sống bởi bánh mì, mà bởi mọi lời phán truyền của Thiên Chúa.”[38] |
|
There are two interesting facts connected with all these temptations. Each of them begins with “If” on the lips of the devil, and each is met by Christ with the words “It is written.” These two phrases link all three episodes and give the clue to the whole process. The ultimate temptation is doubt. The test we have all to face eventually, and which climaxed in Christ’s life until He vanquished it upon the Cross, is the test of our divinity. Are we divine? How must our divine powers express themselves? What can we do, or not do, because we are sons of God? That the details of each difficulty, test and trial may differ is relatively immaterial. That the tests may first be focussed in one aspect of our lower nature or another is equally unimportant. It is the general lifelong urge to divinity which is on trial. To the man who is but a little evolved the problem of divinity as a whole does not present itself. He can be preoccupied only with the detail, with the problem in the immediate foreground of his life. This he handles or not, as the case may be by the light of conscience. For the disciple, the detail assumes less importance, and the general truth of his sonship begins slowly to concern him. He then handles his life conditions from the angle of that theory. For a perfected son of God, such as the Christ, or for the man nearing perfection, the problem must be handled as a whole, and the life problem must be considered from the angle of divinity itself. Such was the issue with Christ, and such the implications hidden in the devil’s threefold “If.” |
Có hai điều thú vị liên quan đến ba sự cám dỗ này. Mỗi sự cám dỗ đều bắt đầu bằng chữ “Nếu” do ma quỹ thốt ra. Và mỗi lần như thế đều được Đức Christ đáp lại bằng câu “Có lời dạy rằng.” Hai câu nói vừa kể liên kết cả ba giai đoạn cám dỗ và cho ta manh mối của toàn thể tiến trình. Sự cám dỗ tối hậu là lòng nghi ngờ. Sự thử thách mà rốt cuộc tất cả chúng ta đều phải đối đầu, mà đã lên đến tột đỉnh trong cuộc đời của Đức Christ, cho đến khi nó bị Ngài đánh bại trên Thập tự giá, là sự thử thách thiên tính nơi con người. Chúng ta có bản tính thiêng liêng không? Các quyền năng thiêng liêng của chúng ta phải biểu lộ ra cách nào? Điều gì chúng ta có thể làm, hay không thể làm, vì chúng ta là con của Thượng Đế. Nói rằng những chi tiết trong mỗi sự khó khăn, thử lòng, và thử thách này có thể khác nhau, thì tương đối không quan trọng. Nói rằng những thử thách này có thể trước hết tập trung vào khía cạnh này hay khía cạnh khác trong phàm tính của chúng ta thì cũng không quan trọng nốt. Chính sức thôi thúc chung cả đời hướng về thiên tính là đang chịu thử thách. Với người còn kém tiến hóa, y hoàn toàn không thấy gì về vấn đề thiên tính. Y chỉ có thể bận tâm đến những chi tiết, đến vấn đề ngay trước mắt trong đời sống của mình. Tùy trường hợp mà y xử lý vấn đề này theo ánh sáng của lương tâm hay không. Với người đệ tử thì chi tiết trở nên ít quan trọng, và y bắt đầu dần dần quan tâm đến các chân lý chung về tư cách của mình là con của Thượng Đế. Bấy giờ, y xử lý các điều kiện trong đời sống của mình theo góc độ của lý thuyết đó. Đối với người con đã hoàn thiện của Thượng Đế, như Đức Christ, hoặc đối với những người gần đến mức hoàn thiện, thì vấn đề này phải được xử lý một cách toàn thể, và những vấn đề khó khăn của đời sống phải được xem xét từ góc nhìn của chính thiên tính. Đó là vấn đề của Đức Christ, và đó là những hàm ý ẩn trong ba lần nói “Nếu” của ma quỹ. |
|
[117] |
(117) |
|
Rightly or wrongly, it seems to me that we have erred in interpreting all truth from the angle of the mediocre. That is what has been done. Truth is capable of interpretation in many ways. Those who are simply physical-emotional beings, with therefore little vision, require the protection of theology, despite its imperfections and dogmatic or untenable assertions. This they need, and the responsibility of those who administer dogmas to the “little ones” of the race is great. Truth must also be given in a wider form, and with a more general connotation to those who are beginning to live consciously as souls, and who can therefore be trusted to see the meaning behind the symbol and the significance behind the outer appearance of theology. Truth, for the perfected sons of God, must be something beyond our dreams, of so deep a significance and of such comprehensiveness that it is futile for us to speculate upon it, for it is something to be experienced and not to be dreamed; something to enter into and not to vision. |
Dù đúng hay sai, dường như đối với tôi thì chúng ta đã sai lầm khi giải thích mọi chân lý theo góc nhìn tầm thường. Đó là điều chúng ta đã làm cho đến nay. Chân lý có thể được diễn giải theo nhiều lối. Những ai chỉ đơn thuần sống về mặt thể chất và tình cảm, vì thế mà có tầm nhìn yếu kém, thì cần được sự bảo vệ của khoa thần học, dù rằng khoa này còn những bất toàn, hoặc những khẳng định có tính cách giáo điều và không thể biện minh được. Họ cần sự bảo vệ này, nên những ai đưa ra giáo điều cho “đàn em nhỏ” trong nhân loại, đều có trách nhiệm rất nặng nề. Cũng phải đưa ra chân lý dưới dạng rộng rãi hơn, với hàm nghĩa tổng quát hơn cho những ai bắt đầu sống một cách hữu thức như là linh hồn. Vì thế, họ được tín nhiệm vì có thể thấy được ý nghĩa ẩn trong biểu tượng, và cái thâm nghĩa bên trong lối trình bày theo bề ngoài của khoa thần học. Đối với những người con đã hoàn hảo của Thượng Đế, chân lý phải là điều cao xa hơn những mơ ước của chúng ta. Nó có ý nghĩa thâm sâu và toàn diện đến đỗi dù chúng ta có cố gắng suy đoán đến mấy cũng chỉ hoài công. Bởi vì chân lý là điều cần trải nghiệm, không phải để mơ tưởng. Nó là điều chúng ta cần thâm nhập vào, chứ không chỉ để nhìn ngắm. |
|
Christ’s reply each time should be viewed in this triple manner. “It is written,” He says, and the unthinking and small-minded regard this as endorsing the verbal inspiration of the Scriptures. But surely, He was not referring back only to the ancient sayings of the Jewish Scriptures, beautiful as they are. The possibilities of error are too great to warrant our unquestioning acceptance of every word in any scripture in the world. When the processes of translation are studied this becomes glaringly apparent. Christ meant something much deeper than “The Bible says.” He meant that the signature of God was upon Him; that He was the Word, and that that Word was the expression of truth. It is the Word of the soul (which is the influx of divinity) that determines our attitude in temptation and our response to the problem presented by the devil. If that Word is remote, deep-hidden by the veiling form, only distorted sounds will issue forth, and the Word will not be potent enough to withstand the devil. The Word is written in the flesh, defaced and almost invisible though it may be through the activity[118] of the lower nature; it is upon the mind that the Word sounds forth, carrying illumination and insight, distorted as yet though the vision may be, and the light scarcely seen. But the Word is there. Some day each of us can say with power: “It is written,” and see that Word expressed in every part of our human nature as individuals and—at some distant date—in humanity itself. This is the “lost Word” of the Masonic tradition. |
Mỗi lần đáp lại của Đức Christ cần được xem xét theo ba cách. Ngài bảo “Có lời nói rằng,” và những ai suy nghĩ nông cạn, hẹp hòi thì cho rằng câu nói này là tán thành những lời truyền cảm hứng trong các Thánh kinh. Nhưng chắc hẳn rằng Ngài không tham chiếu lại chỉ những lời trong các Thánh kinh của Do Thái thời xưa, dù chúng có hay đẹp thế nào. Có rất nhiều khả năng sai lầm khi chúng ta cứ chấp nhận vô điều kiện mọi lời lẽ trong bất cứ thánh kinh nào trên thế giới. khi nghiên cứu quá trình dịch thuật, chúng ta sẽ thấy điều này hết sức rõ ràng. Ý Đức Christ muốn nói đến điều sâu xa hơn là “Kinh thánh nói” rất nhiều. Ý Ngài muốn nói rằng nơi Ngài có dấu ấn của Thượng Đế; rằng Ngài chính là Linh từ; và rằng Linh từ đó là sự biểu lộ của chân lý. Chính Linh từ của linh hồn (vốn là sự lưu nhập của thiên tính) mới quyết định thái độ của chúng ta khi bị cám dỗ, và cách mà chúng ta ứng đáp với vấn đề mà ma quỹ đặt ra. Nếu Linh từ ấy còn xa xôi, bị chìm sâu và chôn giấu bởi hình thể, thì chỉ những âm thanh lệch lạc phát ra, và Linh từ sẽ không đủ mạnh để đối phó với ma quỹ. Linh từ được viết trong thân xác, mờ đi, và hầu như trở nên vô hình dù có thể qua các hoạt động (118) của phàm tính. Linh từ phát ra chính là ngay trên thể trí, mang theo ánh sáng khai ngộ và thấu ngộ, dù linh ảnh có thể còn lệch lạc, và ánh sang rất ít khi thấy rõ. Thế nhưng, Linh từ vẫn còn ở đó. Một ngày kia mỗi chúng ta đều có thể mạnh mẽ nói ra: “Có lời nói rằng,” và thấy Linh từ biểu lộ trong mọi thành phần của cá nhân chúng ta – và biểu lộ trong chính nhân loại vào một ngày xa hơn. Đây là “Linh từ thất truyền” của truyền thống Hội Tam điểm. |
|
Oriental philosophy refers frequently to four spheres of life or four problems which all disciples and aspirants have to face, and which constitute in their entirety the world in which we live. There are the world of Maya, the world of glamour and the world of illusion. There is also that mysterious “Dweller on the Threshold” to which Bulwer Lytton refers in Zanoni. All of these four Christ met and vanquished in the desert-experience. |
Triết lý Đông phương thường đề cập đến bốn lĩnh vực của đời sống, hay bốn vấn đề mà tất cả những người đệ tử và những người chí nguyện tìm đạo đều phải đối đầu. Chúng hợp thành toàn thế giới mà trong đó chúng ta đang sống. Có thế giới Ảo ảnh, thế giới ảo cảm và thế giới ảo tưởng. Cũng có “Kẻ chặn Cửa” bí ẩn mà Bulwer Lytton nói đến trong Zanoni. Cả bốn thứ vừa kể, Đức Christ đều đã gặp và đánh bại trong kinh nghiệm ở sa mạc. |
|
Maya refers to the world of physical forces in which we dwell, and with this the first temptation concerned itself. Modern science has told us that there is nothing visible or invisible which is not energy, and that every form is simply an aggregate of energy units in constant ceaseless motion, to which we have to adjust ourselves and in which we “live and move and have our being.” [cxxxiv]39 Such is the outer form of Deity, and we are part of it. Maya is vital in character, and we know little of its effect upon the physical plane (with all that that term connotes), and upon the human being. |
Ảo ảnh chỉ về thế giới của các mãnh lực vật chất mà trong đó chúng ta đang sống, và có liên quan đến sự cám dỗ thứ nhất. Khoa học hiện đại cho chúng ta biết rằng không có sự vật gì dù vô hình hay hữu hình mà không phải là năng lượng. Mọi hình thể đều đơn thuần là tập hợp các đơn vị năng lượng liên tục chuyển động không ngừng không nghỉ. Chúng ta phải điều chỉnh theo chúng, và trong đó chúng ta “sống, di chuyển và hiện tồn.”[39] Đó là hình thể bên ngoài của Thượng Đế, và chúng ta là thành phần trong đó. Ảo ảnh có tính chất thuộc về sinh lực, và chúng ta còn biết rất ít về tác dụng của nó đối với cõi trần (cùng tất cả những gì mà từ này hàm ý), và đối với con người. |
|
“Glamour” refers to the world of emotional being and of desire, in which all forms dwell. It is this glamour which colours all our lives and produces false values, wrong desires, needless so-called necessities, our worries, anxieties and cares; but glamour is age-old, and has us in so close a grip that there seems little we can do. The desires of men, down the centuries, have brought about a situation before which we turn back appalled; the rampant nature of our longings and wishes, and their glamorous effect upon the individual, provide psychological laboratories with all their material; the[119] wish life of the race has been wrongly oriented and human desire has been turned outward to the material plane, thus producing the world of glamour in which we all habitually struggle. It is by far the most potent of our delusions or mistaken orientations. But once the clear light of the soul is thrown into it, this miasma of forces is gradually dissipated. This work constitutes the major task of all aspirants to the mysteries. |
“Ảo cảm” chỉ về thế giới sinh hoạt tình cảm và ham muốn, mà mọi hình thể đều ở trong đó. Chính ảo cảm này chi phối toàn cuộc sống chúng ta, tạo nên những giá trị sai lầm, những ham muốn sai quấy, những điều tuy có vẻ là thiết yếu nhưng thực ra không cần thiết, những âu lo, phiền phức, và bận tâm. Nhưng ảo cảm đã có tự lâu đời, và bám chặt chúng ta đến đỗi dường như chúng ta ít có thể làm được điều gì để hóa giải. Qua nhiều thế kỷ, những ham muốn của con người đã đưa đến tình trạng thật là kinh khủng. Những mong muốn, ước vọng của mọi người ở khắp nơi, và tác dụng gây ảo cảm của chúng đối với mỗi cá nhân, là tất cả những tài liệu mà các nhà nghiên cứu tâm lý có thể sử dụng. (119) Những mong cầu, ao ước của nhân loại đã bị định hướng sai lầm, và những ham muốn của con người được quay ra cõi đời vật chất. Vì thế chúng tạo nên thế giới ảo cảm mà trong đó tất cả chúng ta đều phải thường xuyên phấn đấu. Cho đến nay, nó là lực mạnh nhất trong những điều hoang tưởng hay định hướng sai lầm của chúng ta. Nhưng khi ánh sáng trong trẻo của linh hồn chiếu vào, thì chướng khí của các mãnh lực này dần dần tan biến. Đây là công tác chính yếu của tất cả những người chí nguyện đang đi tìm các bí nhiệm. |
|
“Illusion” is more mental in its impact. It concerns the ideas whereby we live, and the thought life which more or less (although mostly less) governs our daily undertakings. We shall see, as we take up the consideration of these three temptations, how in the first temptation Christ was confronted by maya, with physical forces of such strength that the devil could take advantage of them in an effort to confound Him. We shall see how in the second temptation He was tempted by glamour, and with the submergence of His vital spiritual life by a misconception and an emotional use of His divine powers. The sin of the mind, which is pride, was called into activity by the devil in the third temptation, and the illusion of temporal power to be used for right ends we may be sure was presented to Him. Thus the possible interior weakness of the three aspects of Christ’s nature was tested, and through them the vast sum total of the world maya, glamour and illusion was poured in on Him. Thus He was confronted with the Dweller on the Threshold, which is only another name for the personal lower self, regarding it as a unified whole, as is only the case in advanced people, disciples and initiates. In these three words—maya, glamour and illusion—we have synonyms for the flesh, the world and the devil, which constitute the threefold test that confronts every son of God on the verge of liberation. |
“Ảo tưởng” có tác động về mặt tư tưởng nhiều hơn. Nó liên quan đến những ý tưởng mà chúng ta sống dựa vào đó, và hoạt động suy tưởng (dù hầu như với mức độ ít hơn) đang chi phối những nhiệm vụ hằng ngày của chúng ta. Khi xem xét ba sự cám dỗ này, chúng ta sẽ thấy trong sự cám dỗ thứ nhất, Đức Christ đã chạm trán với ảo ảnh như thế nào. Đó là những mãnh lực hồng trần rất mạnh mẽ mà ma quỹ có thể lợi dụng để cố đánh bại Ngài. Chúng ta sẽ thấy trong sự cám dỗ thứ hai, Ngài bị cám dỗ bởi ảo ảm, nó toan nhận chìm sự sống tinh thần cốt yếu của Ngài do quan niệm sai lầm, và việc sử dụng các quyền năng thiêng liêng của Ngài cho nhu cầu tình cảm. Trong sự cám dỗ thứ ba, ma quỹ làm khơi hoạt tội lỗi của cái trí, tức là sự kiêu căng. Chắc hẳn nó đã mang đến cho Ngài ảo tưởng về quyền lực thế tục, được dùng cho các mục tiêu chính đáng. Thế nên, những khuyết điểm nội tại khả dĩ có trong ba phương diện phàm tính của Đức Christ đều đã được thử thách. Và qua chúng, cái tổng thể rộng lớn của ảo ảnh, ảo cảm và ảo tưởng của thế giới đã tuôn đổ lên Ngài. Thế là Ngài đối đầu với Kẻ chặn Cửa, vốn chỉ là tên gọi khác của phàm ngã cá nhân. Nó được xem như một toàn thể thống nhất, như chỉ trong trường hợp của người tiến hóa cao, các đệ tử, và điểm đạo đồ. Ba từ ngữ này – ảo ảnh, ảo cảm và ảo tưởng – là đồng nghĩa với tất cả những sự đòi hỏi của thân xác, những cám dỗ và quyến rũ trong đời. Chúng là ba phương diện tử thách mà mọi người con của Thượng Đế sắp giải thoát đều phải đối đầu. |
|
“If thou be the Son of God command that these stones be made bread.” Let us use our divine powers for personal physical ends. Let us put the material physical nature first. Let us assuage our hunger, whatever it may be, and do it because we are divine. Let us use our divine powers so as [120] to gain for ourselves perfect health, long desired financial prosperity, popularity for our personality, for which we crave, and those physical surroundings and conditions which we want. We are sons of God and are entitled to all these things. Command that these stones be made bread for the satisfaction of our supposed need. Such were the specious arguments used then, and being used today by many teachers and schools of thought. These are peculiarly the temptations of the aspirants of the world today. Upon this theory many teachers and groups thrive, and curiously enough, they do so quite sincerely and entirely convinced of the rightness of their position. The temptations which come to the advanced souls in the world are most subtle. The use of divine powers for the meeting and satisfaction of purely personal, physical needs can be presented in such a manner that they may seem entirely right. Yet we do not live by bread alone, but by means of the spiritual life which (coming forth from God) pours into, and is the life of, the lower man. This is the first essential for understanding. Upon that soul life and upon that inner contact the emphasis should be laid. The healing of the physical body, when diseased, would be satisfactory to the individual, but living as a soul is of more importance. The emphasis upon a divinity which must express itself entirely through the meeting of a physical need, in a monetary manner, most definitely limits divinity to an attribute of itself. When we live as souls, when our inner life is oriented to God, not because of what we can receive but because we have the developed sense of divinity, then the forces of divine life will pour through us and produce what is needed. This may not necessarily bring about complete immunity from disease or produce financial affluence; but it will mean a sweetening of the lower nature, a tendency to self-forgetfulness, and unselfishness which puts others first, a wisdom which concerns itself with the teaching and helping of others, a freedom from hatred and suspicion which will make life pleasanter for those with whom we associate, and a kindness and inclusiveness which leave no time for the separated [121] self. That this type of inner nature will make for a sound body and freedom from physical ills is quite possible, but not inevitably so. In time and space, in a particular life and at a special time, illness has its uses and may be a profoundly desirable blessing. Poverty and financial stringency may re-establish a lost sense of values and enrich the heart with compassion. Money and perfect health may be disasters to many. But the use of divine power for selfish ends, and the affirming of the divine nature for purposes of individual healing, seem a prostitution of reality, and constitute the temptation which Christ so triumphantly met. We live by the life of God. Let that life flow in “more abundantly” upon us and we shall become, as Christ became, living centres of radiant energy for the service of the world. Probably what may happen will be better physical health, because we shall not be so preoccupied with ourselves. Freedom from self-centredness is one of the first laws of good health. |
“Nếu ngươi là Con của Thượng Đế thì hãy ra lệnh cho những viên đá này biến thành bánh mì xem.” Chúng ta hãy dùng quyền năng thiêng liêng của mình cho các mục tiêu thể chất của cá nhân. Chúng ta hãy dành ưu tiên cho bản tính thể chất và vật chất. Chúng ta hãy xoa dịu bất cứ sự đói khát nào của mình, và làm thế vì chúng ta vốn thiêng liêng. Chúng ta hãy dùng quyền năng thiêng liêng của mình để (120) cho mình được sức khỏe hoàn hảo, được sự giàu sang thịnh vượng mà ta đã mong muốn từ lâu, cá nhân chúng ta được nhiều người mến mộ, là điều mà chúng ta khao khát, cũng như được những điều kiện và hoàn cảnh vật chất mà chúng ta muốn có. Chúng ta là con của Thượng Đế nên chúng ta có quyền hưởng tất cả những thứ này. Hãy ra lệnh cho những viên đá này biến thành bánh mì để thỏa mãn những nhu cầu mà chúng ta cho rằng mình phải có. Đây là những lý lẽ chỉ có vẻ đúng ở bề ngoài được dùng vào thời gian đó, và ngày nay cũng đang được dùng bởi nhiều huấn sư và trường phái tư tưởng. Đặc biệt đây là những cám dỗ đối với những người chí nguyện trên thế giới hiện nay. Dựa vào luận thuyết này, nhiều huấn sư và đoàn nhóm trở nên phát đạt. Và cũng khá lạ lùng là họ làm như thế một cách rất thành thật, và hoàn toàn tin rằng quan điểm của mình là đúng đắn. Những cám dỗ đến với các linh hồn tiến hóa cao trên thế giới thì rất tinh vi. Người ta có thể trình bày việc sử dụng các quyền năng thiêng liêng để đáp ứng và thỏa mãn những nhu cầu vật chất hoàn toàn cho cá nhân, theo cách nào để họ dường như có vẻ hoàn toàn đúng. Dù vậy, chúng ta không sống chỉ bằng bánh mì, mà nhờ vào sự sống tinh thần (phát xuất từ Thượng Đế). Sự sống này tuôn đổ vào phàm nhân, và chính là sự sống của phàm nhân. Đây là điều cốt yếu đầu tiên cần hiểu. Cần chú trọng đến sự sống ấy của linh hồn và mối liên giao ấy ở nội tâm. Khi một người bị bệnh, việc chữa lành thân xác hẳn sẽ làm cho cá nhân đó hài lòng. Thế nhưng, sống như một linh hồn là điều còn quan trọng hơn. Khi nhấn mạnh rằng thiên tính phải tự biểu lộ hoàn toàn qua việc đáp ứng một nhu cầu vật chất, bằng cách sử dụng tiền bạc, thì hầu như là dứt khoát giới hạn thiên tính vào trong chỉ một thuộc tính của nó mà thôi. Khi đã sống như là linh hồn, khi đời sống nội tâm của chúng ta hướng về Thượng Đế, không vì những gì mà chúng ta có thể thọ hưởng, mà vì chúng ta có ý thức về thiên tính đã phát triển, thì bấy giờ sự sống thiêng liêng sẽ tuôn tràn qua chúng ta, và tạo nên những gì cần thiết. Đây có thể không nhất thiết là mang lại sự hoàn toàn miễn dịch đối với bệnh tật, hoặc sự sung túc về tài chính. Nhưng nó sẽ làm cho phàm tính trở nên tốt đẹp, dịu dàng, có khuynh hướng quên mình, bất vị kỷ, và dành ưu tiên cho người khác. Nó mang lại nguồn minh triết để giáo huấn và trợ giúp tha nhân, hoàn toàn không còn thù hận hay nghi ngờ, khiến cuộc sống vui tươi, thú vị hơn cho những ai mà chúng ta giao tiếp, cùng với lòng nhân từ, tử tế và thái độ bao gồm, không dành thời gian nào cho cái tôi chia rẽ. (121) Rất có thể là bản tính nội tâm này sẽ giúp cơ thể khỏe mạnh và không bệnh tật, nhưng không nhất định là như thế. Trong thời gian và không gian, trong một kiếp sống nào đó và vào thời điểm nào đó, bệnh tật cũng có công dụng và khả dĩ là một ân huệ hết sức tốt. Nghèo khó và eo hẹp về tài chính có thể giúp tái xác lập ý thức giá trị đúng đắn đã mất, khiến tâm hồn trở nên giàu lòng nhân ái. Đối với nhiều người, lắm tiền bạc và sức khỏe tốt có thể là tai họa. Thế nhưng, việc sử dụng quyền năng thiêng liêng cho các mục tiêu ích kỷ và khẳng định bản tính thiêng liêng cho mục đích chữa trị cá nhân, thì dường như là sự bán rẻ thực tại, và là sự cám dỗ mà Đức Christ đã gặp phải và chiến thắng vẻ vang. Chúng ta sống nhờ nguồn sống của Thượng Đế. Hãy để cho nguồn sống ấy tuôn tràn vào chúng ta “một cách sung mãn hơn”. Từ đó, chúng ta sẽ trở thành, cũng như Đức Christ đã trở thành, trung tâm năng lượng sáng ngời cho công cuộc phụng sự thế gian. Rất có thể điều khả dĩ xảy ra sẽ là sức khỏe thể chất tốt hơn, vì chúng ta không còn bận tâm đến chính mình. Hoàn toàn không còn tập trung vào cái tôi, là một trong những qui luật đầu tiên của phép dưỡng sinh. |
|
The question of healing, engrossing the attention of so many thousands at this time, is too broad to be considered here, and far more complicated than the average healer or healing group realises. Two things only would I point out: |
Vấn đề trị liệu, vốn được sự quan tâm, chú ý của muôn ngàn người hiện nay, là vấn đề quá rộng lớn nên không thể xem xét ở đây. Nó còn phức tạp nhiều hơn sự nhận thức của nhà trị liệu, hay nhóm trị liệu có trình độ trung bình. Tôi sẽ nêu lên chỉ hai điều: |
|
One is that the affirmation that all disease is the result of wrong thought does not warrant too hasty acceptance. There is much disease in the other kingdoms of nature; animals, plants and minerals suffer from disease as do human beings, and these kingdoms antedate the appearance of the human family upon Earth. Secondly, the affirmation that one is divine and therefore entitled to good health may be ultimately true when divinity is really expressed, but it is not expressed by affirmation, but by conscious intelligent organised soul contact. This results in living as Christ lived, with no thought of self but only concern and interest in others. |
Thứ nhất, sự khẳng định rằng mọi loại bệnh tật đều là kết quả của tư tưởng sai lầm, thì không chắc sẽ được mọi người quá vội vàng chấp nhận ngay. Có nhiều loại bệnh tật trong các giới khác của thiên nhiên. Loài động vật, thực vật, và khoáng vật đều bị bệnh như con người. Các giới này đã có trước khi gia đình nhân loại xuất hiện trên Địa cầu. Thứ hai, sự khẳng định rằng mỗi người đều có bản tính thiêng liêng, và vì thế mà có quyền được sức khỏe tốt, thì khả dĩ đúng ở mức tối hậu, khi thiên tính thực sự biểu lộ. Nhưng thiên tính không biểu lộ chỉ bằng cách khẳng định, mà qua sự giao tiếp có tổ chức một cách thông minh và hữu thức với linh hồn. Kết quả là cuộc đời mà Đức Christ đã sống, không còn nghĩ gì đến mình, mà chỉ chú ý, quan tâm đến kẻ khác. |
|
Christ met this temptation to use His divine powers for selfish ends by the quiet reiteration of His divinity—a divinity which was based on the universality of the Word. It is perhaps apposite here to remind ourselves that upon the Cross He was taunted by the words, “He saved others; Himself [122] He cannot save.” [cxxxv]40 The maya or delusion of the physical nature could not hold Him; from that He stood free. |
Trước sự cám dỗ sử dụng quyền năng thiêng liêng của Ngài cho các mục tiêu ích kỷ, Đức Christ đáp ứng bằng cách âm thầm quán tưởng về thiên tính nơi Ngài – vốn dựa vào tính phổ quát của Linh từ. Ở đây, có lẽ chúng ta nên nhớ rằng khi ở trên Thập tự giá, Ngài đã bị chế nhạo “Ngài cứu rỗi kẻ khác; (122) nhưng Ngài không thể cứu nổi chính mình.”[40] Ảo ảnh hay là sự lừa dối có bản chất hồng trần đều không thể cầm giữ Ngài. Ngài hoàn toàn tự do đối với chúng. |
|
Today the World Aspirant, humanity, stands confronted with this temptation. Its problem is economic. It is concerned basically and definitely with bread, just as, symbolically speaking, Christ’s problem was the problem of food. The world is faced with a material issue. That there is no evading this issue is true, and that men must be fed is equally true. Upon what basis shall the problem be met? Will one be regarded as too idealistic and as an impractical mystic and visionary if one falls back, as Christ did, upon the fundamentals of life, and takes the position that when man is readjusted and reoriented as a spiritual being his problem will automatically take care of itself? One surely will be so regarded. If one feels, as do many today, that the solution of the problem lies in a revaluation of life and a re-education in the underlying principles of living, is one entirely astray and to be regarded as a fool? Many will so regard one. But the solving of man’s problem solely in terms of his physical needs may only succeed in plunging him more deeply in a material marsh. Meeting his demands entirely from the angle of bread and butter may be much needed. It is. But it should be accompanied with something which will meet the need of the whole man, and not simply that of his body and its desires. There are things which matter essentially to man, which are of greater moment and value than the things which concern the form, even if he himself does not realise it. Christ gave a little time to the feeding of the multitude. He gave much time to teaching them the rules of the kingdom of God. Men can be trusted to take what they want. They are doing so at this time on every hand. But the things which truly matter must at the same time be emphasised and taught, or the end will be disastrous. When we have cleaned the human house of abuses, as the revolutionaries in every country and land claim to be doing, unless that house is beautiful as a result, and unless its inhabitants have ideas based on divine [123] essentials, the last state will be worse than the first. Seven devils may enter into the house, according to Christ’s parable. [cxxxvi]41 Unless God indwells the house, when cleaned, and unless our revaluations and national adjustments lead to that leisure and peace of mind wherein the soul of man can come to flower, we are headed towards still worse disasters. “Man shall not live by bread alone, but by every word that proceedeth out of the mouth of God.” |
Ngày nay, Người Chí nguyện Thế gian, tức là nhân loại, đang đối mặt với sự cám dỗ này. Vấn đề khó khăn của nhân loại là kinh tế. Trong cơ bản, nó có liên quan rõ rệt đến bánh mì, giống như vấn đề của Đức Christ là vấn đề thực phẩm. Thế giới đang đứng trước vấn đề thuộc về vật chất. Đúng là không thể nào lẩn tránh được vấn đề này; và cũng đúng là mọi người đều phải được nuôi sống. Vậy phải giải quyết ván đề này trên cơ sở nào? Người ta có bị xem là quá duy tâm, là nhà thần bí không thực tế và hoang tưởng hay chăng, nếu họ dựa vào những điều cơ bản của cuộc sống, như Đức Christ đã làm, và đưa ra quan điểm rằng khi mọi người được tái điều chỉnh và tái định hướng với tư cách con người tinh thần, thì vấn đề khó khăn của họ sẽ tự động được an bài? Chắc chắn rằng người đó sẽ bị xem là như thế. Nếu chúng ta nghĩ, như nhiều người hiện nay đang nghĩ, rằng giải pháp cho vấn đề gồm việc đánh giá lại cuộc sống, và cải tạo những nguyên lý tiềm ẩn trong đời sống, thì có phải là chúng ta hoàn toàn đi lệch hướng, và sẽ bị xem là khờ dại hay không? Những người khác sẽ xem chúng ta là như thế. Nhưng nếu giải quyết vấn đề của con người chỉ trong phạm vi nhu cầu thể chất của họ, thì khả dĩ chỉ thành công trong việc đẩy họ chìm sâu vào vũng lầy vật chất. Việc đáp ứng nhu cầu của họ hoàn toàn theo phương diện ăn sống, thì có thể là rất cần thiết. Đúng vậy. Nhưng việc đó cần kèm theo những điều đáp ứng được nhu cầu của con người toàn diện, chứ không chỉ nhu cầu của thân xác họ, cùng những ham muốn của nó. Có những điều quan trọng thiết yếu đối với con người, vốn trọng đại và giá trị hơn những gì liên quan đến phần hình thể, cho dù họ chưa nhận thức được. Đức Christ chỉ bỏ rất ít thời gian để nuôi ăn cho đám dân chúng theo Ngài. Nhưng Ngài lại dành nhiều thời gian để thuyết giảng cho họ hiểu các qui luật của Thiên giới. Mọi người đều đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của mình. Hiện nay, họ đang làm điều này ở khắp nơi. Thế nhưng, những điều thực sự quan trọng thì đồng thời phải được nhấn mạnh và truyền bá, nếu không thì chung cuộc sẽ rất bi đát. Khi chúng ta đã tẩy sạch những điều lạm dụng trong ngôi nhà của nhân loại, như các nhà cách mạng trong mọi nước và mọi xứ sở tuyên bố là họ đã làm, thì trừ phi kết quả khiến cho ngôi nhà ấy trở nên tốt đẹp, và trừ phi những người ở trong đó có các ý tưởng dựa vào những điều cốt yếu (123) tinh thần, thì tình trạng cuối cùng sẽ còn tồi tệ hơn là tình trạng ban đầu. Theo câu chuyện ẩn dụ của Đức Christ, thì bảy con quỹ có thể đi vào ngôi nhà ấy.[41] Nếu không có Thượng Đế ngự trong ngôi nhà đã dọn sạch, và nếu việc đánh giá lại cũng như những điều chỉnh quốc gia chúng ta không giúp cho tâm trí người dân được thư thả, an vui, trong đó linh hồn của họ có thể bừng nở, thì cố gắng nói trên sẽ dẫn đến những tai ách còn tồi tệ hơn. “Con người không chỉ sống bằng bánh mì, mà bởi mọi lời phán truyền từ Thượng Đế.” |
|
“Then the devil taketh him up into the holy city, and setteth him upon a pinnacle of the temple, and saith unto him, If thou be the Son of God, cast thyself down; for it is written, He shall give His angels charge concerning thee, and in their hands they shall bear thee up, lest at any time thou dash thy foot against a stone. Jesus said unto him, It is written again, Thou shalt not tempt the Lord thy God.” [cxxxvii] 42 |
“Sau đó, ma quỹ đưa Ngài vào thánh địa, và đặt Ngài trên đỉnh tháp của đền thờ, rồi bảo Ngài, Nếu ngươi là Con của Thượng Đế, thì hãy nhảy xuống đi. Vì kinh sách có ghi rằng Ngài sẽ cho các thiên thần đến phù trợ ngươi, dùng tay nâng đỡ ngươi lên, vì e rằng có lúc chân ngươi chạm vào đá. Jesus bèn nói với nó, Cũng có lời dạy rằng, Ngươi không được thử Chúa Trời ngươi.”[42] |
|
It is essential for the right understanding of this temptation that we remember our earlier distinction that such passages in the Bible are interpreted from the angle of the souls involved. Christ meets the devil on the ground of His divine nature. If thou art the Son of God, take advantage of the Fatherhood of God, and cast thyself down. This temptation is different from the first, though it appears to embody the same type of test. The clue to this is found in Christ’s answer, where He takes His stand upon His divinity. This He did not do in the earlier temptation. The devil in this test quotes scripture to his own ends. He also takes Christ into the Holy Place, the battle-ground, and it is upon this that the devil casts doubt. The glamour of doubt descends upon the Christ. Hungry, lonely, and weary of conflict, He is tempted to question the very roots of His being. I do not question the fact that Christ was assailed by doubt. The first traces of that glamour which descended upon Him like a great darkness in the Crucifixion assailed Him now. Was He the Son of God? Had He a mission, after all? Was His attitude one of self-delusion?[124] Was it all worth while? He was attacked where He was the strongest, and in this lies the potency of this temptation. |
Để hiểu đúng sự cám dỗ này, nhất thiết chúng ta cần phải nhớ sự phân biệt trước đây rằng những đoạn như trên trong Kinh thánh đều được lý giải theo góc nhìn của linh hồn có liên quan. Đức Christ đối ứng với ma quỹ dựa trên bản tính thiêng liêng của Ngài. Nếu ngươi là Con của Thượng Đế, thì hãy dựa vào Tình phụ tử của Ngài, và nhảy xuống đi. Sự cám dỗ này khác với sự cám dỗ thứ nhất, dù nó thể hiện cùng loại thử thách. Câu đáp của Đức Christ cho ta manh mối của điều này, khi Ngài giữ lập trường trên thiên tính của mình. Trong lần cám dỗ trước thì Ngài không làm như vậy. Trong lần thử thách này, ma quỹ trích dẫn lời trong thánh kinh cho mục tiêu riêng của nó. Nó còn đưa Đức Christ vào Thánh Điện, là bãi chiến trường, từ đó nó làm cho lòng nghi ngờ nổi dậy. Ảo cảm nghi ngờ bao phủ lên Đức Christ. Đói khát, cô đơn, và mệt mỏi vì xung đột, Ngài bị cám dỗ nghi vấn về chính nguồn gốc sự sống của Ngài. Tôi không hề thắc mắc về việc Đức Christ bị lòng nghi ngờ tác động. Những dấu vết đầu tiên của ảo cảm ấy giáng xuống Ngài như bóng tối dày đặc bao phủ lên Ngài trong thời gian chịu Thập giá hình. Có phải Ngài là Con của Thượng Đế hay chăng? Rốt cuộc thì Ngài có sứ mệnh gì chăng? Thái độ của Ngài có phải là tự (124) lừa dối mình hay chăng? Có đáng nên làm thế hay không? Ngài bị tấn công khi đang trong tình trạng mạnh mẽ nhất, do đó mãnh lực của sự cám dỗ này rất lớn. |
|
In an ancient scripture of India, The Bhagavad Gita, the disciple Arjuna stands faced with the same issue. He is involved in a great battle between two branches of the same family—really between the higher and the lower self—and he, too, questions what he shall do. Shall he go ahead with the battle and the test, and so triumph as the soul? Shall he assert his divinity and defeat the lower and the non-divine? In a commentary on The Bhagavad Gita these words occur: |
Trong Chí Tôn Ca, một thánh kinh cổ xưa của Ấn Độ, người đệ tử Arjuna cũng đối mặt cùng với vấn đề này. Y dính líu vào một trận đánh lớn giữa hai chi phái của một dòng tộc – đúng ra là giữa chân ngã và phàm ngã – và chính y cũng đang thắc mắc, không biết phải làm gì. Phải chăng y sẽ xung trận, vượt qua thử thách, và bằng cách đó mà chiến thắng vẻ vang với tư cách linh hồn? Phải chăng y sẽ khẳng định thiên tính nơi mình và đánh bại phàm tính, vốn không có tính cách thiêng liêng? Trong một bản luận giải về Chí Tôn Ca, có những câu sau đây: |
|
“There is a spiritual significance to all this and the situation of Arjuna is well chosen to bring out great spiritual truths. He stands for the personal self beginning to grow conscious of the Higher Self; touched and enkindled with the spiritual light of that higher self, yet full of dismay and terror from the realisation of what obedience to the Higher Self must mean. The contests of the brothers is now concentrated within a single nature, the life of a single man. A war must be waged within himself, a war long and arduous for the life of the Soul. Nothing but high courage, joined with faith and aspiration, makes the contest possible, and even then there will be shrinking and dismay.” [cxxxviii]43 |
“Trọn cả vấn đề này đều có ý nghĩa tinh thần, và tình huống của Arjuna được chọn đúng để làm sáng tỏ những chân lý tinh thần trọng đại. Y tiêu biểu cho phàm ngã đang bắt đầu ngày càng ý thức được chân ngã. Y được tiếp xúc và bừng cháy với ánh sáng tinh thần của Chân ngã. Tuy nhiên, y lại bàng hoàng, sợ hãi vì nhận thức được những gì cần phải làm khi tuân theo Chân ngã. Cuộc chiến đấu giữa những người huynh đệ, thì giờ đây tập trung vào chỉ một tâm tính, vào cuộc sống của chỉ một người. Cuộc chiến phải phát khởi trong nội tâm y, một cuộc chiến gian khổ và lâu dài cho cuộc sống của linh hồn. Không điều gì khác ngoài lòng can đảm sắt đá, cùng niềm tin và khát vọng mới giúp y có thể chiến đấu. Vậy mà bấy giờ y vẫn còn rụt rè, e ngại.”[43] |
|
A greater than Arjuna (who stands as the symbol of the disciple on his way towards perfection) faced a similar issue with courage, faith and aspiration, but the question was the same: Is the life of the soul a reality? Am I divine? Christ faced this issue without dismay, and triumphed by the use of an affirmation of such power (because it stated a truth) that the devil temporarily could not reach Him. He practically said: “I am the Son of God. Thou mayest not tempt me.” He took His stand upon His divinity and vanquished the doubt. |
Một người đệ tử khác cao cả hơn Arjuna (tượng trưng cho người đề tử đang trên đường đi đến sự hoàn thiện) đã đối phó với vấn đề tương tự, bằng lòng can đảm, đức tin và khát vọng tinh thần, nhưng sự băn khoăn, thắc mắc cũng như nhau: Có phải sự sống của linh hồn là điều thực tế? Tôi có bản tính thiêng liêng không? Đức Christ đối phó với vấn đề này mà không hề nao núng, và chiến thắng vẻ vang, bằng cách khẳng định quyền năng đó (vì nó nói lên chân lý) đến đỗi ma quỹ tạm thời không thể chạm đến Ngài. Ngài nói một cách thực tế: “Ta là Con của Thượng Đế. Ngươi không thể cám dỗ ta.” Ngài dựa vào thiên tính, và xóa tan sự nghi ngờ. |
|
It is interesting to realise that humanity today stands in the glamour of doubt. Doubt is on every hand. It is an emotional matter. The clear, cool, analysing and synthesising intellect does not doubt in this sense; it questions and waits. [125] But it is in the Holy Place, with a full knowledge of what is written, and frequently after victory, that doubt descends upon the disciple. Perhaps, after all, that sense of divinity which has hitherto upheld the disciple is itself but glamour and not reality. That there have been experiences of a divine and supernatural nature the disciple cannot doubt. There have been moments when there has been “a sense of Divine access as different from other experiences, as original and inexplicable, as Sex or as the sense of Beauty—as hunger or thirst,” [cxxxix]44 for there is no question that “at the heart of all religion and all religions there is an experience unique, and not to be accounted for by evolution from other experience.” [cxl]45 But perhaps that too is simply phenomenal, and not real; something that passes, with no immortal basis; something that is experienced as part of the world glamour, but does not and cannot endure. Perhaps God is just a name for everything that is, and, for the individual conscious soul, there is no definite persistence, no essential divinity, and nothing real—only a momentary flash of an awareness. Let us put this sense of divinity to the test and see if, with the change of physical destruction, something lasts which is spirit and is immortal. |
Cần nên hiểu rằng nhân loại ngày nay đang đứng trước ảo cảm về sự nghi ngờ. Đâu đâu cũng có nghi ngờ. Đó là vấn đề tình cảm. Khi trí tuệ trong sáng, điềm tĩnh, có khả năng phân tích và tổng hợp, thì không hề nghi ngờ theo ý nghĩa này. Nó chỉ đặt câu hỏi và chờ đợi. (125) Nhưng chính trong Thánh điện, với sự hiểu biết đầy đủ về những lời giáo huấn trong kinh điển, và thường là sau khi chiến thắng, mối nghi ngờ mới giáng lên người đệ tử. Có lẽ, nói cho cùng, ý thức về thiên tính mà cho đến nay đã nâng đỡ người đệ tử, thì chính nó cũng là ảo cảm chứ không có thực. Người đệ tử không thể nghi ngờ rằng vốn đã có những kinh nghiệm với tính cách thiêng liêng và siêu nhiên. Đã có những phút giây bừng lên “ý thức tiếp cận Thiêng liêng, không giống như những kinh nghiệm khác, có tính cách độc đáo, sáng tạo, và không thể giải thích, như Giới tính hay ý thức Mỹ lệ – như đói ăn, khát uống.”[44] Vì không còn nghi vấn gì khi nói rằng “ở tâm điểm của toàn thể tôn giáo, và tất cả các tôn giáo, có một kinh nghiệm độc đáo, không thể được giải thích bằng cách phát triển từ kinh nghiệm khác.”[45] Thế nhưng, có lẽ chính kinh nghiệm đó cũng chỉ là hiện tượng, chứ không phải là thực tính. Nó là điều gì đó có tính cách thoáng qua, không có cơ sở bất tử. Nó là điều được trải nghiệm như một phần ảo cảm của thế gian, vốn không lâu bền, và không thể tồn tại. Có lẽ Thượng Đế chỉ là tên gọi cho mọi sự vật đang hiện hữu. Đồng thời, đối với linh hồn cá nhân hữu thức, không có điều gì trường tồn rõ rệt, không có thiên tính cốt yếu, và không điều gì có thật – chỉ là tia chớp thoáng qua của ý thức. Chúng ta hãy trải nghiệm ý thức về thiên tính này, để xem liệu có điều gì tồn tại, có tính tinh thần và bất tử hay chăng, sau những cơn biến đổi và hủy diệt ở cõi trần. |
|
As one studies the way in which Christ met this temptation one is inclined to believe that (having affirmed His belief in His Own Divinity) He simply ignored the temptation. His method was so brief and concise, and remains undeveloped as to detail. The way out, in this particular temptation, is dual: to recognise it for what it is, unreal, simply a glamour which has no true and lasting existence, just a delusion which assails us; and then to rest back upon the experience of God. If for one brief minute we have been in the Presence of God and known it, that is real. If the Presence of God in the human heart has at any moment, for an instant, been a reality, then let us take our stand upon that known and felt experience, refusing to deal with the [126] detail of the glamour of doubt, of emotion, of depression or of blindness in which we may temporarily find ourselves. |
Khi nghiên cứu cách mà Đức Christ đối ứng với sự cám dỗ này, người ta có khuynh hướng tin rằng (khi đã khẳng định niềm tin của Ngài vào Thiên tính của chính mình) Ngài chỉ cần không bận tâm đến sự cám dỗ đó là xong. Phương pháp của Ngài thật là vắn tắt và ngắn gọn, không có chi tiết rõ ràng. Phương cách thoát ra khỏi sự cám dỗ này, có hai phần: nhận biết bản chất của nó, là không có thực, chỉ là ảo cảm, không thực sự hiện hữu lâu bền, chỉ là sự dối lừa đến tấn công chúng ta. Rồi sau đó, chúng ta trụ vào kinh nghiệm về Thượng Đế. Nếu trong phút giây ngắn ngủi chúng ta ở trong sự Hiện diện của Thượng Đế và biết rõ điều đó, thì nó là sự thật. Nếu sự hiện diện của Thượng Đế nơi tâm con người trong phút giây, chốc lát nào đó là điều thực tế, thì chúng ta hãy trụ vững vào kinh nghiệm đã biết và cảm nhận ấy, không còn bận tâm gì đến (126) chi tiết của ảo cảm nghi ngờ, xúc cảm, buồn nản hay mù quáng mà tạm thời chúng ta ở trong đó. |
|
But the doubt in the world today will be solved only when men bring to bear upon the problems of humanity, of God and of the soul, not only the clear cool light of the intellect, illumined by the intuition, but also the potency of past experience. If the sense of God has persisted in the world for untold ages, and if the testimony of the mystics and saints, the seers and the Saviours of all time is historical and verifiable—as it is—then that testimony, in its wealth and universality, constitutes a fact as scientific as any other. These are days when a scientific fact seems to have some glamorous appeal. Cycles of mysticism, cycles of philosophy, cycles of scientific expression, cycles of rank materialism—such is the cyclic way we walk, and such is our history. But persistent through them all runs the thread of God’s Plan. Steadily through them all, the soul of man marches from one unfoldment of consciousness to another, and our concept of divinity constantly gains in richness and reality. That is the fact upon which humanity can stand, the divine soul in man. That is the fact upon which Christ took His stand when the devil tempted Him a second time. |
Nhưng sự nghi ngờ trên thế giới ngày nay chỉ được giải quyết khi con người soi rọi vào những vấn đề của nhân loại, về Thượng Đế và linh hồn, không những bằng ánh sáng trong trẻo, bình thản của trí tuệ, được trực giác khai ngộ, mà còn dùng những kinh nghiệm của thời quá khứ. Nếu cảm nhận về Thượng Đế đã tồn tại trên thế giới qua vô số thời đại, và nếu bằng chứng của các nhà thần bí và các vị thánh, của các nhà nhãn thông và các vị Cứu thế đều có tính lịch sử và có thể xác minh – hẳn nhiên là như thế – thì bấy giờ, bằng chứng ấy, vốn rất phong phú và phổ quát, sẽ là sự kiện thức tế và có tính khoa học như bất cứ điều nào khác. Hiện nay là những tháng ngày mà các sự kiện khoa học dường như đang có sự hấp dẫn mang tính chất ảo cảm. Chu kỳ huyền bí học, chu kỳ triết học, chu kỳ phát biểu khoa học, chu kỳ xu phụng vật chất – đó là cách tiến tới của chúng ta theo chu kỳ, và đó cũng là lịch sử của chúng ta. Nhưng xuyên suốt tất cả các chu kỳ vừa kể là sợi chỉ vàng của Thượng Đế. Qua tất cả các chu kỳ này, linh hồn của con người liên tục tiến lên, từ sự khai mở này đến sự khi mở khác của tâm thức. Từ đó, khái niệm của chúng ta về thiên tính ngày càng phong phú và thực tế. Đó là sự kiện thực mà nhân loại có thể dựa vào, là linh hồn thiêng liêng trong mỗi người. Đó là sự kiện mà Đức Christ dựa vào khi ma quỹ cám dỗ Ngài lần thứ hai. |
|
“Again, the devil taketh him up into an exceeding high mountain, and sheweth him all the kingdoms of the world and the glory of them; and saith unto him, All these things will I give thee if thou wilt fall down and worship me. Then saith Jesus unto him, Get thee hence, Satan, for it is written Thou shalt worship the Lord thy God, and him only shalt thou serve.” [cxli] 46 |
“Ma quỹ lại đưa Ngài lên ngọn núi hết sức cao, và chỉ cho Ngài thấy tất cả các vương quốc trên thế giới và sự vinh quang của chúng. Rồi nó bảo Ngài, Tất cả những thứ này ta sẽ cho ngươi, nếu ngươi phục tùng và thờ lạy ta. Bấy giờ Jesus bèn nói, Satan, hãy đi đi, vì có lời dạy rằng Ngươi hãy thờ lạy Đức Chúa Trời ngươi, và chỉ phụng sự Ngài mà thôi.”[46] |
|
Christ has been tested in His physical nature and has triumphed. He has been tried in His emotional-desire nature, and we have found that neither the forces of the physical nature nor the glamours which the emotional-feeling nature inevitably bring could cause him to swerve the slightest from the path of spiritual living and expression. All His desires were directed towards God; every activity of His [127]nature was rightly adjusted and divinely expressed. This triumph must have been known to Him, and this realisation carried in itself the seeds of the final temptation. He had triumphed over materialism and over doubt. He knew that the form side of life could not attract Him, and He had fought through to a full recognition of His divinity. Therefore He had conquered the extremes of His nature, its highest and lowest aspects. He expressed now the quality of divinity. The divine reality which He sensed and upon which He relied was potent to penetrate the maya and dispel the glamour. Pure desire was left—desire for God. He had been tried in two aspects of His nature—the material and the divine—and as God-Man He overcame the evil one. Primarily, both temptations lay in the region of desire. The call is to personal desirelessness. |
Đức Christ đã chịu thử thách bản chất thân xác, và Ngài đã chiến thắng. Ngài đã chịu thử thách bản chất tình cảm-dục vọng. Qua đó, chúng ta thấy rằng không mãnh lực nào có bản chất thân xác, hay những ảo cảm là kết quả tất nhiên của bản chất tình cảm-xúc cảm, đã có thể làm cho Ngài đi lệch chút nào ra khỏi con đường sinh hoạt và biểu lộ tinh thần. Mọi ý muốn của Ngài đều hướng về Thượng Đế. Mọi hoạt động trong tâm tính của Ngài (127) đều được điều chỉnh đúng và biểu lộ một cách thiêng liêng. Chắc hẳn rằng Ngài đã biết sự chiến thắng ấy, và chính sự nhận thức đó đã dẫn đến sự cám dỗ cuối cùng. Ngài đã chiến thắng sự ham mê vật chất và lòng nghi ngờ. Ngài biết rằng phương diện hình thể của đời sống không thể hấp dẫn Ngài. Ngài đã chiến đấu thành công, và nhận thức đầy đủ về thiên tính nơi mình. Do đó, Ngài đã thắng phục được những cực đoan trong tâm tính của mình, từ những phương diện cao nhất hay thấp nhất. Thực tại thiêng liêng mà Ngài cảm nhận được và dựa vào đó, mạnh mẽ đến mức xuyên thấu ảo ảnh và giải tán ảo cảm. Chỉ còn lại ý muốn thuần khiết – mong muốn có Thượng Đế. Ngài đã chịu thử thách hai phương diện trong bản tính của mình – phần vật chất và phần thiêng liêng – và với tư cách Con người vừa là Thượng Đế, Ngài khắc phục được những gì tà vạy. Chính yếu, cả hai sự cám dỗ này đều thuộc phạm vi dục vọng. Cho nên, mỗi người đều cần thực hành hạnh vô dục. |
|
So with Christ, desire was transmuted into power, though victory achieved led to developments which had in them the possibility of danger. It was in the realm of power that Christ was next tried. A character that has been carried to a high degree of perfection and which has established a unity between the source of power, the soul, and the instrument of power, the personal lower self, produces what we call a personality. That personality can be a definite source of danger to its owner. The sense of power, the knowledge of achievement, the realisation of capacity and the sensed ability to rule others because one rules oneself, have in them the germs of temptation, and it was here that the devil next attempted to ensnare the Christ. People are apt to be astonished when it is pointed out to them that a fine character can itself be a source of difficulty. It is difficulty of a peculiar kind, in that the things done and the words spoken by a highly developed person whose character is outstandingly fine and whose personality is well rounded out can do much harm—even when the motive is right or apparently so. Such persons wield much more power than the average. |
Thế là với Đức Christ, dục vọng được chuyển hóa thành quyền lực, dù rằng chiến thắng đã đạt dẫn đến những phát triển gây nguy hiểm. Thử thách kế tiếp của Đức Christ là chính trong phạm vi quyền lực. Một đặc tính đã đến mức hoàn thiện cao, và đã tạo được sự hợp nhất giữa nguồn của quyền năng, linh hồn, và khí cụ của quyền năng ấy là phàm ngã cá nhân, thì sẽ tạo ra một phàm nhân. Phàm nhân ấy có thể là mối nguy rõ rệt cho chủ nhân của nó. Ý thức về quyền lực, hiểu biết về sự thành tựu, nhận thức về năng lực và khả năng có thể chế ngự kẻ khác, vì người ấy đã tự chế ngự được mình, tất cả đều mang những mầm mống của cám dỗ. Và chính ở điểm này, mà lần kế tiếp ma quỹ đã cám dỗ để Ngài rơi vào cạm bẫy. Người ta thường ngạc nhiên khi biết rằng một đức tốt có thể chính nó trở thành một nguồn khó khăn, trở ngại. Đó là nỗi khó khăn đặc biệt, ở chỗ những điều đã thực hiện và những lời lẽ thốt ra của một người phát triển cao với đức tính hết sức tốt, và phàm nhân rất vẹn toàn, vẫn có thể gây nhiều điều tai hại – thậm chí khi y có động cơ đúng đắn. Vì người ấy vận dụng nhiều quyền lực hơn mức trung bình. |
|
Just what is a fine character, and how is it produced? First, of course, it is produced by the wheel of life and the Galilee [128] experience; then by conscious effort and self-initiated discipline; and finally by the processes of integrating the various aspects of the lower nature into a synthetic whole, into a unity for purposive use. |
Vậy đức hạnh tốt là gì, và bằng cách nào nó được tạo ra? Dĩ nhiên, trước hết là nó được tạo ra qua vòng luân hồi và kinh nghiệm Galilee. (128) Rồi đến nỗ lực hữu thức, và kỷ luật tự giác. Cuối cùng là các quá trình tích hợp những phương diện khác nhau của phàm tính thành một toàn thể tổng hợp, một đơn vị duy nhất để dùng cho mục đích đã định. |
|
In the case of Christ in the third temptation, His “conscious values or purposes” were being tried. His integrity must be undermined, if possible, and the unity for which He stood must be forced to disintegrate. If this could be done, and if the standard which He set could be upset, His mission was, from the start, destined to fail. If He could be deceived by the illusion of power, if ambition of a personal nature could be developed in His consciousness, the founding of the kingdom of God might be indefinitely delayed. This temptation was an attack at the very root of the personality. The mind, the integrating factor, with its ability to think clearly, to formulate definite purpose and to choose, was under test. Such temptations do not come to the little-developed, and because of the strength of the character involved they are of the fiercest kind and the most difficult to handle. The call of the devil was to Christ’s ambition. Ambition is, par excellence, the problem of the developed aspirant and disciple—personal ambition, love of popularity, worldly ambition, intellectual ambition, and the dictatorship of power over others. The subtlety of this temptation consists in the fact that appeal is made to right motive. It would—such is the implication—be good for the world of human affairs if it all belonged to Christ. By simply recognising the power of the devil, the material force in the world, as being supreme, that control over the kingdoms of the world could be given to Christ. He was offered it as the reward of a single recognition—given alone and unseen on the top of a high mountain—to the power which represented, or symbolised, the triple world of external living. If Christ would briefly fall down and worship that great power, the kingdoms of the world and the glory of them would be His; and we know enough about Him to realise that there would have been no selfish motive in this gesture, could He have [129] been induced to make it. What stood between Him and the acceptance of this opportunity? His reply indicates it clearly, but needs understanding. What intervened was His knowledge that God was One and God was All. The devil showed Him a picture of diversity, of many kingdoms, much division, of multiplicity, plurality, separated units. Christ came to unify, to bring together and to unite in one all kingdoms, all races and all men, so that the words of St. Paul could be true in deed and in fact: |
Trường hợp của Đức Christ trong lần cám dỗ thứ ba, các giá trị hay mục đích hữu thức của Ngài đã bị thử thách. Phải xói mòn tính trung thực của Ngài, nếu có thể, và phải làm tan rã sự hợp nhất mà Ngài trụ vào đó. Nếu thực hiện được điều này, và nếu có thể làm xáo trộn các tiêu chuẩn mà Ngài đã ấn định, thì sứ mệnh của Ngài hẳn đã thất bại ngay từ đầu. Nếu Ngài bị lừa gạt bởi ảo tưởng về quyền lực, nếu tham vọng cá nhân có thể phát triển trong tâm thức của Ngài, thì việc thành lập Thiên giới hẳn đã bị chậm trễ vô thời hạn. Sự cám dỗ này tấn công ngay cội rễ của phàm nhân. Cái trí, yếu tố tích hợp, với khả năng suy nghĩ rõ ràng, nêu lên mục đích xác định và chọn lựa, thì nay đang chịu thử thách. Những cám dỗ như thế không đến với những người còn kém phát triển, và vì sức mạnh của đức tính có liên quan, chúng thuộc loại mãnh liệt nhất và khó xử lý nhất. Ma quỹ cố gợi lên lòng tham vọng nơi Đức Christ. Ở mức cao nhất, lòng tham vọng là vấn đề của người chí nguyện và người đệ tử đã phát triển – tham vọng cá nhân, ưa thích được nhiều người mến mộ, tham vọng trần gian, tham vọng tri thức, và thái độ độc tài áp đặt quyền lực trên kẻ khác. Sự tinh vi của lối cám dỗ này là ở chỗ nó hấp dẫn bằng động cơ chính đáng. Nó đưa ra hàm ý rằng chắc hẳn là sẽ tốt cho các sự vụ của nhân loại, nếu tất cả đều thuộc về Đức Christ. Chỉ bằng cách công nhận quyền lực của ma quỹ, công nhận rằng mãnh lực vật chất trên thế giới là tối cao, thì Đức Christ sẽ được giao cho ngự trị tất cả các vương quốc trên thế giới. Ngài được trao quyền kiểm soát ấy, là phần thưởng cho chỉ một sự công nhận – được đưa ra một mình, và không ai thấy, trên đỉnh núi cao – đối với quyền lực đại diện, hay tượng trưng cho, ba phương diện đời sống ở ngoại giới. Nếu Đức Christ chỉ cần phục tùng và thờ lạy quyền lực to lớn ấy, thì các vương quốc trên thế giới và sự vinh quang của chúng sẽ thuộc về Ngài. Và chúng ta đã hiểu biết về Ngài đủ để nhận thức rằng chắc hẳn không hề có động cơ ích kỷ nào trong động thái này, nếu Ngài đã (129) bị xúi giục làm như thế. Điều gì khiến Ngài không chấp nhận cơ hội đó? Câu đáp của Ngài cho thấy rõ ràng. Yếu tố can thiệp là sự hiểu biết của Ngài rằng Thượng Đế là Duy nhất, và Thượng Đế là Tất cả. Ma quỹ cho Ngài thấy hình ảnh đa dạng, gồm nhiều vương quốc, nhiều sự phân chia, về tính vạn thù, đa nguyên, gồm những đơn vị riêng biệt. Đức Christ đến để thống nhất, gom lại, và kết hợp tất cả các vương quốc, mọi chủng tộc, và mọi người về một mối. Do đó, lời của Thánh Paul có thể đúng và thực tế: |
|
“There is one body and one Spirit, even as ye are called in one hope of your calling; one Lord, one faith, one baptism, one God and Father of all, who is above all, and through all, and in you all.” [cxlii]47 |
“Chỉ có một cơ thể và Thánh linh duy nhất, ngay cả bạn được kêu gọi với nguồn hy vọng duy nhất về sự kêu gọi đó. Chỉ có vị Chúa duy nhất, niềm tin duy nhất, phép báp-têm duy nhất, Thượng Đế và là Đấng Cha Lành duy nhất của cả chúng sinh. Ngài là Đấng chí tôn, hoạt động xuyên qua tất cả, và ở trong tất cả.”[47] |
|
Had Christ succumbed to the enticements of the devil and, from apparent right motive and love of humanity, accepted the proffered gift, these words would never have been fulfilled, as they surely will be at some date, perhaps not so distant as the chaotic present might lead us to think. Christ held His values true and His purpose unchanged. The illusion of power could not touch Him. That which was real had such a grip of His mind that the unreal and the immediate could not delude His consciousness. He saw the picture whole. He saw the vision of a world wherein there could be no duality but only unity, and from His efforts to bring that future world into being He could not be swerved. |
Giá mà Đức Christ nghe theo lời mê hoặc của ma quỹ và, từ động cơ có vẻ đúng và tình thương nhân loại mà Ngài chấp nhận món quà đề nghị, thì những lời hứa đó hẳn cũng không bao giờ được thực hiện. Vì chắc hẳn rằng vào ngày nào đó có lẽ không xa, những xáo trộn trong hiện tại khả dĩ khiến chúng ta suy nghĩ. Đức Christ giữ các tiêu chuẩn gia trị của Ngài đúng thực, và mục đích của Ngài không thay đổi. Vì thế, ảo tưởng về quyền lực không thể ảnh hưởng được Ngài. Những điều chân thực đã gắn chặt vào trí tuệ của Ngài đến đỗi những gì không thực, và ngay trước mắt không thể lừa gạt tâm thức của Ngài. Ngài thấy toàn thể bức tranh của đời sống. Ngài thấy hình ảnh của một thế giới mà trong đó không thể có nhị nguyên, mà chỉ có nhất nguyên. Và Ngài không hề chao đảo trong nỗ lực giúp cho thế giới tương lai ấy trở thành hiện thực. |
|
Where this vision exists, lesser values and smaller issues cannot hold the ardent heart. Where the whole as a possibility is grasped, the part falls into its rightful place. Where the purpose of God stands clearly revealed to the mind of the seer, the lesser ends or motives, and the tiny wishes and desires for and of the personal self fade out of the picture. At the end of the road of evolution lies the consummation, the kingdom of God, not the kingdoms of the world. They are parts of a future whole, and will be later welded into a spiritual synthesis. But that kingdom, as we shall see in our final chapter, when we sum up the results of initiation, is [130] not brought into being through personal ambition, personal effort and personal desire. It comes through the submergence of the part in the whole and of the individual in the group. But this is brought about willingly and intelligently, with no loss of personal prestige, usefulness or sense of identity. It is not enforced or demanded by the group or state or kingdom, as is so frequently the case today. Dr. van der Leeuw tells us: |
Ở đâu có linh ảnh này, thì ở đó những giá trị thấp thỏi và những vấn đề hẹp hòi sẽ không được người có tâm hồn nhiệt thành lưu ý. Khi người ấy thấy rõ khả năng thực hiện cho toàn thể, thì những thành phần sẽ được an bài. Khi Thiên ý được hiển lộ rõ ràng cho nhà thông nhãn, thì những mục tiêu và động cơ thấp kém, những mong ước và ham muốn nhỏ nhoi của phàm ngã sẽ phai mờ dần ra khỏi cái thấy của y. Ở cuối con đường tiến hóa là sự hoàn thành viên mãn, là Thiên giới, chứ chẳng phải các vương quốc ở thế gian. Chúng là thành phần của cái toàn thể tương lai, và về sau sẽ được hòa nhập vào sự tổng hợp tinh thần. Thế nhưng, như chúng ta có thể thấy trong chương cuối, khi tổng kết các kết quả của điểm đạo, Thiên giới (130) không trở thành hiện thực qua tham vọng cá nhân, nỗ lực cá nhân, và ý muốn cá nhân. Thiên giới đến, khi cái thành phần hòa nhập vào trong toàn thể, và cá nhân hòa hợp với tập thể. Nhưng điều này được thực hiện một cách thông minh và tự nguyện, mà không gây tổn thất uy tín, sự hữu dụng, hay ý thức đồng nhất của mỗi cá nhân. Nó cũng không do sự cưỡng chế hay đòi hỏi của đoàn nhóm, tiểu bang, hay vương quốc, như thường thấy hiện nay. Ts. van der Leeuw nói: |
|
“If we would enter the kingdom this attitude must change to that of Christ whose love has become radiating, ever giving out to the surrounding world, whether deserving or not, whose life is centred in the Divine, common to all. In Him there is no remnant even of a separated personality, battling for its own existence or aggrandizement; the cup of His existence is emptied of all that is personal and become filled with the wine of the divine life, shared by all. We, by continuous though possibly unconscious effort, may maintain the centre of separate life which we call our personality; if we would follow Christ, we have to give up the laborious struggle for individual assertion in the desire to be the life of the Whole rather than that of a part. Thus alone can we enter the Kingdom where no separateness can be.” [cxliii] 48 |
“Nếu chúng ta muốn bước vào Thiên giới, thì phải thay đổi thái độ này thành thái độ của Đức Christ. Tình thương của Ngài đã chói rang, cứ mãi tuôn tràn ra thế giới chung quanh, dù họ có xứng đáng hay không. Sự sống của Ngài tập trung vào Nguồn sống Thiêng liêng, vốn có trong tất cả chúng ta. Trong Ngài, thậm chí không còn dấu vết gì của phàm ngã chia rẽ, chiến đấu cho nó được sinh tồn hay trở nên vĩ đại. Ngài đã uống cạn chén đắng cay trong cuộc sống, sạch hẳn tất cả những gì thuộc cá nhân, và đã chứa đầy chất rượu quý của Sự sống Thiêng liêng, mà tất cả chúng ta đều sẵn có. Dù có thể là không cố ý, chúng ta vẫn liên tục duy trì cái trung tâm của đời sống riêng rẽ mà chúng ta gọi là phàm nhân. Nếu muốn đi theo Đức Christ, chúng ta hãy từ bỏ cuộc tranh đấu khó nhọc nhằm khẳng định cá nhân mình, để chỉ muốn sống cuộc đời của Toàn thể hơn là thành phần. Nhờ thế, chúng ta mới có thể đi vào Thiên giới, nơi không hề có tính chia rẽ, phân ly.”[48] |
|
Christ’s temptation consisted of a demanded recognition of duality. But to Him, there was only one kingdom and one way into the kingdom, and one God Who was bringing, slowly indeed but surely, that kingdom into being. His mission was to reveal the method whereby unity could be brought about; to proclaim that inclusive love and that technique of at-one-ment which all who would study His life and react to His spirit could follow. He could not therefore fall into the error of diversity. He could not identify Himself with multiplicity when He embraced in His consciousness, as God, the larger synthesis. Pope, in his famous Essay on Man, sensed this, and expressed it in words familiar to all of us: |
Sự cám dỗ đối với Đức Christ gồm có yêu cầu phải công nhận tính nhị nguyên. Thế nhưng, đối với Ngài chỉ có vương quốc duy nhất, và con đường duy nhất đi vào Thiên giới, và Đấng Thượng Đế duy nhất. Ngài đang làm cho Thiên giới trở thành hiện thực, một cách thật là chậm chạp nhưng chắc chắn. Sứ mệnh của Đức Christ là đưa ra phương pháp để có thể mang lại sự hợp nhất. Đồng thời Ngài cũng công bố tình bác ái bao trùm vạn loại, và kỹ thuật nhất quán mà tất cả những ai muốn nghiên cứu cuộc đời Ngài và muốn đáp ứng với tinh thần của Ngài, có thể làm theo. Vì thế, Ngài không thể nào phạm sai lầm về cái bề ngoài đa dạng. Ngài cũng không thể tự đồng hóa với cái vạn thù khi, như Thượng Đế làm, Ngài ôm trọn cái tổng hợp rộng lớn trong tâm thức của mình. Trong quyển sách nổi tiếng của ông Tiểu luận về Con Người, Đức Giáo hoàng cảm nhận được điều này, và nói lên bằng những lời mà tất cả chúng ta đều quen thuộc: |
|
“God loves from whole to parts, but human soul |
“Thượng Đế yêu thương từ toàn thể đến thành phần |
|
Must rise from individual to the whole. |
Nhưng con người phải vươn lên từ cá nhân đi vào toàn thể. |
|
[131] |
(131) |
|
Self-love but serves the virtuous mind to wake, |
Tự yêu thương chỉ cho cái trí tự hào bừng tỉnh, |
|
As the small pebble stirs the peaceful lake; |
Như viên sỏi kia xoáy vào hồ nước trong veo; |
|
The centre moved, a circle straight succeeds, |
Khuấy động trung tâm, một vòng tròn rồi vòng nữa tiếp theo, |
|
Another still, and still another spreads; |
Một vòng nữa lan ra, rồi thêm vòng nữa; |
|
Friend, parent, neighbour, first it will embrace; |
Trước hết, nó bao gồm gia đình, láng giềng, bằng hữu; |
|
His country next; and next all human race; |
Rồi đất nước mến yêu, và cả loài người; |
|
Wide and more wide, th’ o’erflowings of the mind |
Tiếp tục mở mang, nó ôm trọn cuộc đời |
|
Take every creature in, of every kind; |
Gồm cả chúng sinh, muôn loài, vạn vật; |
|
Earth smiles around, with boundless bounty blest, |
Vui khắp đó đây, ân huệ dâng tràn Trái đất, |
|
And Heaven beholds its image in his breast.” |
Và cõi Thiên đường soi bóng ở tâm y.” |
|
Then the devil leaves Him. He could do no more, and Christ “departed into Galilee,” [cxliv]49 going back again to the round of daily living. The Galilee experience can never be evaded by any Son of God whilst incarnate in the flesh. He then did three things: first, hearing that John the Baptist had been cast into prison, Christ took up the task laid down by him, and went on with the preaching of repentance. Next, He chose with care those who were to work with Him, and whom He had to train to carry forward the mission of the kingdom, and then He began that increased service which is ever the signal to the world that a man has become more inclusive and has passed through another initiation. Even though the world may not at the time recognise that signal, it is never again just the same world as it was before the initiation is taken and the service rendered. The emergence of an initiate into the field of the world makes that field different. |
Rồi ma quỹ rời khỏi Ngài. Nó không thể làm gì hơn nữa, và Đức Christ “lên đường đi Galilee.”[49] Ngài trở về với vòng sinh hoạt đời thường. Bất cứ ai là Con của Thượng Đế đều không bao giờ có thể lẩn tránh kinh nghiệm Galilee, khi họ còn ở cõi trần, trong thân xác. Bấy giờ, Ngài làm ba điều: thứ nhất, nghe tin John, Nhà làm phép Báp-têm, đã bị bắt giam, Đức Christ bèn nhận nhiệm vụ đã được đặt để cho Ngài, và tiếp tục rao giảng về sự ăn năn, hối cải. Kế đến, Ngài thận trọng chọn lựa những người sẽ làm việc với Ngài, và Ngài phải huấn luyện cho họ thi hành sứ mệnh của Thiên giới. Rồi sau đó, Ngài bắt đầu công việc phụng sự ngày càng tăng, mà bao giờ cũng là tín hiệu cho thế gian thấy người hành giả đã mở tâm hồn bao gồm nhiều hơn, và đã trải qua một cuộc điểm đạo khác. Cho dù bấy giờ thế gian có thể không nhận biết tín hiệu đó, họ cũng không bao giờ còn y như trước khi có cuộc điểm đạo ấy, và trước khi y tiến hành phụng sự. Khi một điểm đạo đồ xuất hiện vào trong phạm vi của thế gian, y sẽ khiến cho thế gian thay đổi. |
|
Christ went about doing good, “teaching in the synagogues, preaching the gospel of the kingdom, and healing all manner of disease among the people.”[cxlv]50 He had registered before God and man, and to Himself, His perfection. He emerged from the wilderness experience tried, tested, and with His divinity completely vindicated. He knew Himself to be God; He had demonstrated to Himself His divine humanity. And yet as is the way with all the [132] liberated sons of God, He could not rest until He had shown us the way. He had to transmit the great energy of the Love of God. |
Đức Christ đi khắp nơi và hành thiện, “giảng dạy trong các giáo đường Do Thái, rao giảng phúc âm về Thiên giới, và chữa mọi loại bệnh tật trong dân chúng.”[50] Ngài xác nhận sự hoàn thiện của mình với Thượng Đế, mọi người, và chính mình. Ngài xuất thân từ kinh nghiệm trong sa mạc, chịu thử lòng, thử thách, và thiên tính nơi Ngài đã được hoàn toàn chứng minh. Ngài tự biết mình là Thượng Đế. Ngài đã tự chứng tỏ nhân tính thiêng liêng của mình. Dù vậy, cũng giống như tất cả (132) những người con đã được giải thoát của Thượng Đế, Ngài không hề ngơi nghỉ cho đến khi nào Ngài đã chỉ cho chúng ta thấy con đường. Ngài phải truyền chuyển năng lượng vĩ đại của nguồn Bác ái Thiêng liêng. |
|
Perfected, serving and with a full knowledge of His mission, Christ now enters into the period of active work which must precede the next initiation, that of the Transfiguration. |
Đã đạt sự hoàn thiện, phụng sự với sự hiểu biết đầy đủ về sứ mệnh của mình, nay Đức Christ đi vào giai đoạn hoạt động tích cực, trước khi có cuộc điểm đạo tiếp theo, là cuộc điểm đạo Biến dung. |
|
[133] |
CHAPTER FOUR – The Third Initiation: The Transfiguration on a High Mountain—CHƯƠNG BỐN – Cuộc Điểm Đạo Thứ Ba: Biến Hình trên Núi Cao
|
CHAPTER FOUR |
CHƯƠNG BỐN |
|
The Third Initiation: The Transfiguration on a High Mountain |
Cuộc Điểm Đạo Thứ Ba: Biến Hình trên Núi Cao |
|
KEY THOUGHT |
TƯ TƯỞNG GỐC |
|
Arjuna said: |
Arjuna nói: |
|
“The word which Thou hast spoken through love of me, the supreme mystery named the Oversoul—through it my delusion is gone. |
“Linh từ mà Ngài đã thốt ra vì yêu thương con, là bí nhiệm tối thượng gọi là Đại hồn – nhờ đó mà hoang tưởng nơi con tan biến. |
|
“For the birth and the passing of beings have been heard by me at length from Thee, whose eyes are lotus petals; I have heard also of the Great Spirit, which passes not away. |
“Vì con đã nghe nhiều về bao lần sinh diệt của cả chúng sinh từ lời của Ngài, với đôi mắt của Ngài là những cánh hoa sen. Con cũng đã nghe về Sự sống Tinh thần Vĩ đại, đời đời bất tử. |
|
“So I would see that Self as it has been spoken by Thee, Mighty Lord; that divine form of Thine, O best of men! |
“Thế nên, con muốn thấy Chân ngã như Ngài đã dạy, hỡi vị Chúa Đại hùng, là thánh thể thiêng liêng của Ngài, là Đấng tuyệt hảo của loài người! |
|
“If Thou thinkest it can be seen by me, Lord, Master of union, then reveal to me the Self everlasting!” |
“Nếu người cho rằng con có thể thấy, thì hỡi Đấng Chí Tôn, vị Thầy của hợp nhất, xin hãy hiển lộ cho con thấy Chân ngã đời đời!” |
|
Bhagavad Gita, XI.1-4. |
Chí Tôn Ca, XI, 1-4. |
|
[135] |
(tr. 134 để trắng) |
|
CHAPTER FOUR |
(135) CHƯƠNG BỐN |
|
The Third Initiation: The Transfiguration on a High Mountain |
Cuộc Điểm đạo Thứ Ba … Sự Biến dung trên Núi Cao |
|
1 |
1 |
|
Another period of service is ended. Christ faced another interior crisis, and this time, according to the story, one which He shared with His three favourite disciples, with the three people closest to Him. His demonstrated self-control, and henceforth His immunity from temptation, as we can understand it, had been succeeded by a period of intense activity. He had also laid the foundation of the kingdom of God which it was His mission to found, and whose inner structure and skeleton outline were built upon the twelve apostles, the seventy disciples whom He chose and trained, and the groups of men and women everywhere which responded to His message. So far He was successful. Now He faced another initiation and a further expansion of consciousness. These initiations, to which He subjected Himself on our behalf, and to which we may all in due time aspire, constitute in themselves a living synthesis of revelation which it may profit us to study before we consider the detail of the stupendous revelation which was accorded to the three apostles on the mountain-top. Three of these crises are perhaps of greater significance than has hitherto been grasped by humanity, which is prone to lay the emphasis mainly upon one of them only, the Crucifixion. |
MỘT giai đoạn phụng sự khác đã chấm dứt. Đức Christ đã đối diện với một cuộc khủng hoảng khác ở nội tâm. Theo câu chuyện phúc âm, lần này Ngài chia sẻ tâm trạng đó với ba người môn đồ mà Ngài yêu mến, với ba người thân cận nhất bên Ngài. Ngài đã tỏ ra tự chủ, và từ đó trở đi, Ngài không còn bị cám dỗ, như chúng ta có thể hiểu, và sau đó là một giai đoạn hoạt động tích cực. Ngài cũng đã đặt nền móng cho Thiên giới mà Ngài có sứ mệnh thành lập. Cấu trúc nội tại và cương yếu của Thiên giới đã được xây dựng trên mười hai tông đồ, bảy mươi môn đồ được chọn và huấn luyện, và những nhóm người nam và nữ ở khắp nơi đáp lại bức thông điệp của Ngài. Cho đến nay, Ngài đã thành công tốt đẹp. Giờ đây, Ngài đứng trước một cuộc điểm đạo khác, và việc mở mang tâm thức rộng lớn hơn. Những cuộc điểm đạo này, mà Ngài trải qua, thay mặt cho chúng ta, mà tất cả chúng ta có thể ước vọng khi đúng lúc, hợp thành một sự tổng hợp sinh động của các cuộc thiên khải. Thiết tưởng chúng ta nên nghiên cứu sự tổng hợp này trước khi đi vào chi tiết của cuộc thiên khải tuyệt vời, được dành cho ba vị tông đồ trên đỉnh núi. Có lẽ ba trong số các cuộc khủng hoảng này mang ý nghĩa trọng đại hơn là từ trước đến nay nhân loại đã hiểu. Vì họ có khuynh hướng chú trọng chính yếu vào chỉ một trong ba, đó là cuộc khủng hoảng Thập giá hình. |
|
One wonders sometimes whether the other tremendous experiences through which Christ passed would have been relatively overlooked in favour of the Crucifixion had the [136] Epistles never been written and had we only the Gospel story upon which to base our Christian belief. This is a point to consider, and worthy of serious speculation. The bias thrown on Christian theology by St. Paul has perhaps over-balanced the structure of the presentation of Christ as we were meant to get it. The three initiations which, in the last analysis, may mean the most to the seeker after truth, are the birth into the kingdom, that august moment when the entire lower nature is transfigured and one realises the fitness of God’s sons to be citizens of that kingdom, and the final crisis wherein the immortality of the soul is demonstrated and recognised. The Baptism and the Crucifixion have other values, emphasising as they do purification and self-sacrifice. This may surprise the reader, in that it seems to belittle the Christ, but it is profoundly necessary for us to see the picture as the Gospels present it, uncoloured by the interpretations of a later son of God, no matter if brilliant and sincere, as was St. Paul. In dealing with the subject of Deity, we have always been told that we know God through His nature, and that nature is Spirit or Life, Soul or conscious love, and Form intelligently motivated. Life, quality, and appearance—these are the three major aspects of divinity, and we know no others; but that does not mean that we shall not contact other aspects when eventually we provide the mechanism of knowledge and the intuition to penetrate deeper into the divine Nature. We do not yet know the Father. Christ revealed Him, but the Father Himself remains as yet behind the scenes, inscrutable, unseen and unknown, except as He is revealed through the life of His sons, and by the revelation given peculiarly to the Occident by Jesus Christ. |
Đôi khi chúng ta tự hỏi liệu những kinh nghiệm phi thường khác mà Đức Christ đã trải qua, hẳn đã bị tương đối xem nhẹ hơn kinh nghiệm Thập giá hình hay không, nếu (136) Thư của các Sứ đồ không hề được viết ra, và chúng ta chỉ có câu chuyện Phúc âm để đặt niềm tin Thiên Chúa giáo của mình vào đó. Đây là điểm cần xem xét, và đáng cho chúng ta suy ngẫm nghiêm túc. Có lẽ thành kiến mà Thánh Paul đưa vào thần học Thiên Chúa giáo đã làm mất cân bằng cấu trúc trình bày chân lý của Đức Christ mà chúng ta mong đón nhận. Xét cho cùng, ba cuộc điểm đạo khả dĩ có ý nghĩa nhất đối với người tìm chân lý, là sự giáng sinh vào Thiên giới, là phút giây trọng đại khi trọn cả phàm tính được chuyển hóa và hành giả thấy mình là người con của Thượng Đế đủ điều kiện trở thành công dân của Thiên giới, và cuộc khủng hoảng cuối cùng trong đó tính bất tử của linh hồn được chứng minh và công nhận. Lễ Rửa tội và Thập giá hình thì có những giá trị khác, chính yếu là chú trọng vào sự tinh luyện và tự hy sinh. Điều này có thể khiến cho độc giả ngạc nhiên, vì nó có vẻ hạ thấp giá trị của Đức Christ. Thế nhưng, chúng ta rất cần xem xét bức tranh mà các sách Phúc âm đã trình bày, mà không hề bị ảnh hưởng bởi các lý giải của một người con của Thượng Đế về sau này, dù lý giải ấy có sắc sảo và thành thực đến đâu, như trường hợp của Thánh Paul. Khi bàn về vấn đề Thánh linh, người ta luôn luôn nói rằng chúng ta biết được Thượng Đế qua bản tính thiêng liêng của Ngài, tức là Tinh thần hay Sự sống, Linh hồn hay tình thương hữu thức, và Hình thể được phát động một cách thông minh. Sự sống, phẩm tính, và hình tướng – đây là ba phương diện chính của thiên tính, và chúng ta chưa biết thêm những phương diện khác. Thế nhưng, nói như vậy không có nghĩa là chúng ta sẽ không tiếp xúc được với những phương diện khác, khi rốt cuộc chúng ta tạo được cơ cấu hiểu biết và trực giac để đi sâu hơn vào Bản tính thiêng liêng. Chúng ta chưa biết được Đức Chúa Cha. Đức Christ làm hiển lộ Ngài, nhưng Đức Chúa Cha vẫn còn ẩn ở hậu trường, một cách huyền bí, vô hình, và bất khả tri, trừ khi Ngài hiển lộ qua cuộc đời của con Ngài, và qua cuộc thiên khải mà Jesus Christ đặc biệt trao cho Tây phương. |
|
As we consider these initiations, the three mentioned above stand out clearly. At the Birth in Bethlehem we have the appearance of God, God is made manifest in the flesh. At the Transfiguration we have thequality of God revealed in its transcendent beauty, whilst at the Resurrection initiation the life aspectof divinity makes its presence felt. |
Khi xem xét các cuộc điểm đạo này, thì ba cuộc điểm đạo nói trên rất rõ nét. Vào kỳ Giáng sinh tại Bethlehem, chúng ta có ngoại hình của Thượng Đế, Ngài lâm phàm trong thân xác. Vào cuộc điểm đạo Biến dung, chúng ta có phẩm tính của Thượng Đế được hiển lộ trong vẻ mỹ lệ siêu phàm. Trong khi đó, vào cuộc điểm đạo Phục sinh, phương diện sự sống trong thiên tính được cảm nhận rõ ràng. |
|
[137] |
(137) |
|
In His earthly life, therefore, Christ did two things: |
Thế nên, trong cuộc sống của Ngài ở thế gian, Đức Christ đã làm hai việc: |
|
1. He revealed the triple nature of Deity in the first, third, and fifth initiations. |
1. Ngài hiển lộ bản tính tam phân của Thánh linh trong các cuộc điểm đạo thứ nhất, thứ ba, và thứ năm. |
|
2. He demonstrated the expansions of consciousness which come when the requirements are duly met—purification and self-sacrifice. |
2. Ngài chứng tỏ sự mở mang tâm thức, xảy ra khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu – tinh luyện và tự hy sinh. |
|
In these five episodes the whole story of initiation is told; birth, subsequent purification in order that right manifestation of Deity may follow, revelation of the nature of God through the medium of a transfigured personality, and finally the goal—life eternal and unending because decentralised and freed from the self-imposed limitations of form. |
Năm giai đoạn này bao gồm toàn cả câu chuyện điểm đạo: sự giáng sinh; sự tinh luyện sau đó để biểu hiện thực sự của Thánh linh có thể xảy ra tiếp theo; sự hiển lộ bản tính của Thượng Đế qua trung gian của phàm nhân đã chuyển hóa; và cuối cùng là mục tiêu – sự sống vĩnh cửu và bất tận, vì không còn tập trung vào, và thoát ra khỏi, các giới hạn tự áp đặt của hình thể. |
|
These three major initiations, the first, the third and the fifth, constitute the three syllables of the Word made flesh; they embody the musical chord of Christ’s life, as they will be embodied in the life of all who follow in His steps. Through re-orientation to new modes of living and of being we pass through the necessary stages of adaptation of the vehicles of life, up to that mountain-top where the divine in us is revealed in all its beauty. Then we pass to a “joyful Resurrection,” and to that eternal identification with God which is the everlasting experience of all who are perfected. We might depict the process as follows: |
Ba cuộc điểm đạo chính yếu này, cuộc điểm đạo thứ nhất, thứ ba, và thứ năm, hợp thành ba âm tiết của Linh từ hiện thể. Chúng thể hiện hòa âm của sự sống Christ, cũng như chúng sẽ được thể hiện trong cuộc đời của bất cứ ai đi theo bước chân Ngài. Khi chuyển hướng về những phương thức sinh hoạt và đời sống mới, chúng ta đi qua những giai đoạn cần thiết để tạo sự thích nghi cho các thể, cho đến đỉnh núi, nơi mà bản tính thiêng liêng trong chúng ta được hiển lộ với sự mỹ lệ hoàn toàn. Bấy giờ, chúng ta đi vào “Sự Phục sinh đầy hoan hỉ,” để vĩnh viễn hòa đồng với Thượng Đế, cái kinh nghiệm trường tồn dành cho tất cả những người hoàn thiện. Tiến trình này được mô tả như sau: |
|
1st Initiation 3rd Initiation 5th Initiation |
Điểm đạo thứ nhất Điểm đạo thứ ba Điểm đạo thứ năm |
|
New Birth Transfiguration Resurrection |
Sinh ra lần thứ 2 Biến dung Phục sinh |
|
Initiation Revelation Completion |
Điểm đạo Thiên khải Hoàn thành |
|
Beginning Transition Consummation |
Khởi đầu Chuyển tiếp Viên mãn |
|
Appearance Quality Life |
Hình thể Phẩm tính Sự sống |
|
This is the first of the mountain experiences. We have had the cave experience and the stream initiation. Each of them has done its work, each revealing more and more divinity in the Man, Christ Jesus. The experience of Christ, as we have been seeing, was to pass from one process of at-one-ment to another. One of the prime objectives of His [138] mission was to resolve the dualities in Himself, producing unity and synthesis. What are these dualities which are to be resolved into unity before the spirit in man can shine forth in its radiance? We might list five of them in order to gain an idea of what must be done and in order to understand the magnitude of Christ’s achievement. Transfiguration is not possible until these unifications have been made. |
Đây là kinh nghiệm đầu tiên trong các kinh nghiệm trên đỉnh núi. Chúng ta đã có kinh nghiệm trong hang động và cuộc điểm đạo nhập lưu. Mỗi kinh nghiệm đều đã phát huy tác dụng; mỗi kinh nghiệm đều làm hiển lộ ngày càng nhiều thiên tính trong Con Người, tức là của Jesus Christ. Như chúng ta đã thấy, kinh nghiệm của Đức Christ là đi từ sự nhất quán này đến sự nhất quán khác. Một trong những mục tiêu chính yếu trong sứ mệnh của Ngài (138) là giải quyết những lưỡng tính nhị nguyên nơi chính mình, để đưa đến nhất nguyên và tổng hợp. Vậy, những lưỡng nguyên này là gì mà phải được phân giải thành nhất nguyên, trước khi tinh thần trong mỗi người có thể bừng lên chói rạng? Chúng ta có thể kể ra năm lưỡng nguyên trong số đó để có ý niệm về điều cần phải làm, và để hiểu được sự thành tựu của Đức Christ lớn lao đến đâu. Không thể có sự chuyển hóa, biến dung, nếu những sự thống nhất này chưa được thực hiện. |
|
First, man and God must be fused and blended into one functioning whole. God, made flesh, must so dominate and control the flesh that it constitutes no hindrance to the full expression of divinity. Such is not the case with the average man. With him divinity may be present, but it is deeply hidden. However, today, through our psychological investigations, much is being discovered as to this higher and lower self, and the nature of that which is called at times the “subliminal self” is emerging through a study of the reaction of the outer active self to the activities of that inner subjective guidance. That man is dual has been recognised everywhere, and this in itself presents a problem with which psychologists are constantly confronted. Personalities seem to function in a “split” manner; people are distraught because of this cleavage. We hear of multiple personalities, and the necessity for integration, for coordination of the different aspects of man, and the fusing of his nature in one functioning whole becomes more and more urgent. The recognition of man’s reach and the constant pull of the world of transcendental values have produced an acute problem for the world. The primitive and the transcendental; the outer conscious man and the inner subjective subliminal man; the higher and the lower self; the personality and the individuality; the soul and the body—how are these to be reconciled? Of the higher values, man is ceaselessly conscious. Of the man who wills to do good, and of the nature which in opposition causes him to perform evil, all the saints testify. |
Trước hết, con người và Thượng Đế phải được hòa hợp và phối hợp thành một toàn thể vận hành duy nhất. Thượng Đế ngự trong thân xác, phải chế ngự và kiểm soát thân xác ấy đến mức nó không còn gây trở ngại nào cho thiên tính biểu lộ tự do. Nhưng đó không phải là trường hợp của người có trình độ trung bình. Trong những người này, thiên tính vẫn hiện hữu nhưng còn tiềm ẩn. Tuy nhiên, qua những khảo cứu của khoa tâm lý ngày nay, đã có khám phá nhiều điều về chân ngã và phàm ngã. Người ta cũng thấy rõ tính cách của cái mà đôi khi được gọi là “cái ngã tiềm thức” qua nghiên cứu phản ứng của cái ngã năng động ở bên ngoài với những hoạt động của sự hướng dẫn ấy ở nội tâm. Ở đâu người ta cũng đều công nhận rằng con người là nhị nguyên. Đây là vấn đề mà các nhà tâm lý học đang lo giải quyết. Phàm nhân dường như hoạt động theo lối “chia tách.” Sự chia rẽ này khiến cho mọi người điên đảo. Chúng ta có nghe nói về tình trạng đa nhân cách, và sự tất yếu phải tích hợp, phải phối hợp những phương diện khác nhau của con người. Đồng thời, sự hòa hợp tâm tính của con người thành một toàn thể vận hành duy nhất, trở nên ngày càng khẩn thiết hơn.Nhận thức về khả năng tầm với của con người, và sự hấp dẫn liên tục của thế giới các giá trị siêu việt, đã tạo nên vấn đề nghiêm trọng trên thế giới. Con người nguyên thủy và con người siêu việt; con người hữu thức ở bên ngoài, và con người tiềm ẩn, nội tại; chân ngã và pham ngã; phàm nhân và chân nhân; linh hồn và cơ thể – làm thế nào để dung hòa các yếu tố này? Con người vẫn không ngừng ý thức được các giá trị cao cả. Tất cả các vị thánh đều là bằng chứng của những người muốn hành thiện, nhưng lại có tính chất đối kháng khiến y làm quấy. |
|
The entire human family today is split on the rock of duality. Either the personality is dual and therefore unmanageable [139] or groups and nations are divided into opposing camps, and again duality emerges in intense dynamic difficulty. |
Toàn thể gia đình nhân loại ngày nay đang bị chia chẻ trên tảng đá nhị nguyên. Liệu phàm nhân có phải là nhị nguyên hay không, và vì thế mà không thể (139) quản trị được, hay phải chăng các đoàn nhóm và những quốc gia đều bị phân chia thành những phe phái chống đối nhau, và nhị nguyên lại trỗi dậy, gây thêm bao khó khăn nghiêm trọng. |
|
It is integration which Christ so fully exemplified, thus resolving the dualities of higher and lower in Himself, making “of twain one new man,” [cxlvi]1 and it was this “new man” which shone forth at the Transfiguration before the startled gaze of the three apostles. It is this basic integration or unification which religion should aim to produce, and it is this coordination between two fundamental aspects of human nature—the natural and the divine—which education should effect. |
Đức Christ là điển hình đầy đủ cho sự tích hợp. Ngài phân giải tình trạng nhị nguyên của chân ngã và phàm ngã nơi mình, để làm cho “cặp song sinh trở thành con người mới và duy nhất.”[1] Và chính con người mới này chói rạng khi Biến dung trước cái nhìn kinh ngạc của ba vị tông đồ. Tôn giáo nhằm mang lại chính sự tích hợp hay thống nhất cơ bản này. Và ngành giáo dục cũng nhằm thực hiện sự phối hợp này giữa hai phương diện nền tảng trong bản tính con người – khía cạnh tự nhiên và khía cạnh thiêng liêng. |
|
This problem of the two selves, which Christ so strikingly synthesised in Himself, is the strictly human problem. The secondary self, in contradistinction to the divine self, is a fact in nature, however we may try to evade the issue and refuse recognition of its existence. The “natural man” exists, as does the “spiritual man,” and in the interaction of the two the human problem is focussed. Man himself makes this clear. In speaking of man, Dr. Bosanquet says that: |
Vấn đề hai cái ngã này, mà Đức Christ đã tổng hợp một cách tốt đẹp nơi chính Ngài, vốn là vấn đề hoàn toàn của nhân loại. Cái tôi thứ yếu, vốn mâu thuẫn với chân ngã thiêng liêng, là điều có tính cách thực tế. Nhưng người ta lại cố lẩn tránh vấn đề, và không chịu nhìn nhận nó là có thật. “Con người tự nhiên” cũng như “con người tinh thần” đều hiện hữu, và khi cả hai tương tác đã gây ra biết bao khó khăn của cho mọi người. Chính con người làm cho vấn đề này nổi rõ. Khi bàn về con người, Ts. Bosanquet nói: |
|
“… his innate self-transcendence, his ineradicable passion for the whole, makes it inevitable that out of the superfluity which he cannot systematise under the good, he will form a secondary and negative self, a disinherited self, hostile to the imperative domination of the good which is, ex hypothesi, only partial. And this discord is actually necessary to the good; for it sets it its characteristic problem, the conquest of the bad. And the good is necessary to the evil, for beyond rebellion against the good, the would-be totality of the disinherited self can find no other unity.” [cxlvii]2 |
“. . . bẩm sinh bao giờ cũng muốn vượt lên chính mình, và nhiệt vọng không thể xóa nhòa của y hướng đến cái toàn thể, khiến cho tất nhiên từ những gì thừa thải mà y không thể hệ thống hóa theo điều thiện, y sẽ hình thành một cái ngã thứ yếu và tiêu cực, không do di truyền, đối nghịch với sự thống trị qua mệnh lệnh của điều thiện, mà theo giả thuyết, cũng chỉ có một phần. Và sự bất hòa này thực sự cần cho điều thiện; vì nó tự đặt cho nó vấn đề đặc trưng là chinh phục điều ác. Và điều thiện cũng cần cho cái ác, vì ngoài việc chống lại điều thiện, thì tổng thể tương lai của cái ngã không di truyền không thể thấy có sự hợp nhất nào khác.”[2] |
|
Here lies man’s problem, and here lie his triumph and the expression of his essential divinity. The higher self exists, and finally and inevitably must gain the victory over the lower self. One of the things that is happening today is the [140] discovery of the existence of this higher self, and many are the testimonies to its nature and qualities. Through a consideration of the self in every man we are steadily approximating an understanding of divinity. |
Vấn đề khó khăn của con người là ở đây, và sự chiến thắng vẻ vang cũng như sự biểu lộ thiên tính cốt yếu của y cũng là ở đây. Vốn có chân ngã cao siêu, và cuối cùng tất nhiên nó phải chiến thắng phàm ngã. Một trong những điều đang xảy ra hiện nay là (140) khám phá ra sự hiện hữu của cái ngã cao siêu này, và nhiều bằng chứng về bản tính cũng như phẩm tính của nó. Khi xem xét cái ngã trong mọi người, chúng ta ngày càng hiểu được thiên tính nhiều hơn. |
|
Behind the manifestation of Jesus Christ lay aeons of experience. God had been expressing Himself through natural processes, through humanity as a whole, and through specific individuals, as the ages slipped away. Then Christ came, and in process of time, as a definite fulfilment of the past and as a guarantee of the future, He synthesized in Himself, in one transcendent Personality, all that had been achieved and all that was immediate in human experience. He was a Personality, as well as a divine Individuality. His life with its quality and its purpose has set its seal upon our civilisation, and His demonstrated synthesis is the inspiration of the present. This consummated Personality, synthesising in Itself all that preceded in human evolution, and expressing all that immediately may be, is God’s great gift to man. |
Đằng sau sự biểu hiện của Jesus Christ là biết bao kinh nghiệm của những thời kỳ lâu dài. Thượng Đế tự biểu lộ qua những quá trình tự nhiên, qua toàn thể nhân loại, và qua những cá nhân lỗi lạc, khi các thời đại trôi qua. Rồi Đức Christ đến, và theo thời gian, Ngài đã tổng hợp sự hoàn thành xác định của quá khứ nơi chính mình một cách siêu việt, và tất cả những gì đã thành tựu, và những kinh nghiệm sắp đến của nhân loại, như một sự bảo đảm cho tương lai. Ngài là một Cá nhân ưu việt, và cũng là một Đấng thiêng liêng. Cuộc đời Ngài, với phẩm tính độc đáo và mục đích cao đẹp, mang dấu ấn cho nền văn minh của chúng ta. Sự tổng hợp nổi bật của Ngài là nguồn cảm hứng cho thời gian hiện tại. Cá nhân hoàn thành viên mãn này, tổng hợp tất cả những gì đã có trong cuộc tiến hóa của nhân loại, và biểu lộ tất cả những gì khả dĩ có trong thời gian tới, là món quà quí giá của Thượng Đế cho con người. |
|
Christ, as the Personality that healed the division in human nature, and Christ, as the synthesis of the higher and the lower aspects of divinity, is the glorious heritage of mankind today. This is what was revealed at the Transfiguration. |
Đức Christ là người đã hàn gắn sự phân chia trong bản tính con người, và Đức Christ, sự tổng hợp các phương diện cao và thấp của thiên tính, là di sản vinh quang của nhân loại ngày nay. Điều này đã được hiển lộ trong giai đoạn Biến dung. |
|
However, it is useful to remember that only at a certain stage in human development does the expression of the indwelling Christ life and consciousness become possible. The fact of evolution, with its necessary distinctions and differences, is incontrovertible. All men are not the same. They vary in their presentation of divinity. Some are really sub-human as yet. Others are simply human, and still others are beginning to display qualities and characteristics which are super-human. The question might justifiably arise: when does the possibility come to man of transcending the human, and becoming divine? Two factors will at that time control. He will have transcended the emotional and physical natures, and, entering the realm of thought, he should be responding in some way to ideals as they are presented to him by the [141] thinkers of the world. There must come a time in the progress of each human being when the development of the triple human nature—physical, emotional and mental—reaches a point of possible synthesis. He then becomes a personality. He thinks. He decides. He determines. He assumes control of his life and becomes not only an originating centre of activity but an impressive influence in the world. It is the coming in, with power, of the mind quality, and the capacity to think, which make this possible. |
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng chỉ vào một giai đoạn nhất định trong cuộc phát triển của con người mới khả dĩ có biểu lộ của sự sống và tâm thức Christ nội tại. Sự thật hiển nhiên là cuộc tiến hóa vốn nhất thiết có những phân biệt và khác biệt. Không phải mọi người đều giống nhau. Họ có những mức độ khác nhau của thiên tính. Một số người thực sự còn chưa đủ trình độ làm người. Một số khác chỉ vừa đủ là người, trong khi đó còn có những người khác nữa đã bắt đầu phô bày những phẩm tính và đặc tính siêu nhân. Đương nhiên chúng ta tự hỏi: khi nào một người có thể vượt cao hơn trình độ nhân loại để đến trình độ thiêng liêng? Vào thời điểm đó cần hai yếu tố. Bấy giờ y phải đã tiến cao hơn bản chất tình cảm và thân xác. Đồng thời, khi bước vào lĩnh vực tư tưởng, y cần có khả năng đáp ứng theo cách nào đó với những lý tưởng được trình bày bởi (141) các nhà tư tưởng của thế giới. Rồi phải đến một thời điểm trên bước tiến của mỗi người, khi sự phát triển của nhân tính tam phân – thể chất, tình cảm và trí tuệ – đạt đến một mức độ tổng hợp khả dĩ thực hiện. Y suy tư. Y quyết định. Y xác định. Y làm chủ cuộc đời mình, và trở thành không những là một trung tâm hoạt động mà còn mang lại nhiều ảnh hưởng trên thế giới. Chính vì có thêm phẩm tính và năng lực của trí tuệ, và khả năng tư duy, y mới có thể thực hiện điều vừa kể. |
|
It is this insistence upon thought, and this determination to handle life from the angle of mind and not of emotion, which distinguish a “personality” from the rank and file of human beings. The man who thinks and who acts upon the resolutions and incentives which have their origin in duly considered thought-realities becomes, in time, a “personality,” and begins to sway other minds. He exercises a definite influence upon other people. Yet overseeing the personality is the inner spiritual man, which we might call the “individual.” It is here again that Christ achieved success, and the second duality, which He so significantly resolved, is that of the personal self and the “individuality.” The finite and the infinite must be brought into a close relation. This, Christ demonstrated in the Transfiguration, when, through the medium of a purified and developed personality, He manifested the nature and the quality of God. The finite nature had been transcended and could no longer control His activities. He had passed in His consciousness to the realm of inclusive realisation, and the ordinary rules governing the finite individual, with its petty problems and its small reaction to events and persons, could no longer influence Him nor determine His conduct. He had achieved contact with that realm of being in which there is not only understanding, but peace, through unity. |
Chính khả năng suy tư vững vàng, và quyết tâm xử lý cuộc sống từ phương diện trí tuệ chứ không từ phương diện tình cảm, cho thấy một “phàm nhân”đã trưởng thành từ trong hàng ngũ nhân loại. Những ai suy tư và hành động theo các quyết định và động cơ bắt nguồn từ thực tế-ý nghĩ đã xem xét kỹ, thì theo thời gian sẽ trở thành một “phàm nhân” trưởng thành, và bắt đầu ảnh hưởng đến trí tuệ của người khác. Y có ảnh hưởng rõ rệt đối với họ. Nhưng phàm nhân lại chịu sự giám sát của con người tinh thần ở nội tâm mà chúng ta có thể gọi là “chân nhân.” Đức Christ đã thành công chính ở điểm này, và tính nhị nguyên thứ hai mà Ngài đã giải quyết rất hiệu quả, là giữa phàm ngã và “chân nhân.” Cái hữu hạn và vô hạn phải được liên giao mật thiết với nhau. Đức Christ chứng tỏ điều này trong thời gian Biến dung. Bấy giờ, qua trung gian của phàm nhân đã tinh luyện và phát triển, Ngài biểu hiện bản tính và phẩm tính của Thượng Đế. Ngài đã vượt lên tính chất hữu hạn, và nó không còn chi phối hoạt động của Ngài. Trong tâm thức, Ngài đã đi vào lĩnh vực nhận thức bao gồm. Do đó, những qui luật thông thường chi phối cá nhân hữu hạn, với những vấn đề vụn vặt và phản ứng nhỏ nhen đối với các sự việc và người khác, không còn ảnh hưởng đến Ngài, hoặc qui định cách hành xử của Ngài. Ngài đã giao tiếp với phạm vi sinh tồn mà trong đó không những có hiểu biết, cảm thông, mà còn có sự an vui, qua hợp nhất. |
|
Rules and fixations and considerations Christ had surmounted, and consequently He functioned as an individual and not as a human personality. He was governed by the [142] rules which control in the realm of the spirit, and it was this which the three Apostles recognised at the Transfiguration, and which led to their submission to Him henceforth as the One Who represented to them Divinity. Christ, therefore, at the Transfiguration, unified in Himself God and Man, His developed Personality blending with His Individuality. He stood forth as the perfect expression of the uttermost possibility to which humanity could aspire. The dualities, of which mankind is so distressingly the expression, met in Him, and resulted in a synthesis of such perfection that, for all time, He determined the goal of our race. |
Đức Christ đã vượt cao hơn các qui luật, những định chế, và cân nhắc. Vì thế, Ngài hoạt động với tư cách chân nhân, chứ không còn là phàm nhân. Ngài theo (142) những qui luật chi phối lĩnh vực tinh thần. Ba vị Thánh Tông đồ nhận biết được chính điều này vào thời điểm Biến dung. Nó khiến cho từ đó trở đi họ phục tùng Ngài như là Đấng cho họ thấy được thiên tính. Thế nên, vào thời điểm Biến dung, Đức Christ đã thống nhất Thượng Đế và con người nơi Ngài. Rõ ràng, Ngài là sự biểu lộ hoàn hảo cho khả năng cao siêu nhất mà nhân loại có thể ước vọng. Các lưỡng tính, nhị nguyên mà loài người quá đeo đai, khốn khổ, thì nay kết hợp trong Ngài, với sự tổng hợp hoàn hảo đến đỗi bao giờ Ngài cũng xác định mục tiêu cho nhân loại. |
|
There is a still higher synthesis, and this Christ also summarised in Himself—the synthesis of the part with the Whole, of humanity with the ultimate Reality. Man’s history has been one of development from the state of mass unconscious reactions to that of a slowly recognised group responsibility. The low-grade human being or the unthinking individual has a collective consciousness. He may regard himself as a person, but he does no clear thinking as to human relations, or as to the place of humanity in the scale of being. He is easily swayed by the mass or collective thought, and is regimented and standardised by mass psychology. He moves in rhythm with the mass of men; he thinks as they think (if he thinks at all); he easily feels as the mass feels, and he remains undifferentiated from his kind. Upon this, orators and dictators base their success. Through their golden-tongued oratory or through their magnetic and dominant personalities, they swing the masses to their will because they work with the collective, though undeveloped, consciousness. |
Hãy còn có một sự tổng hợp cao siêu hơn nữa cũng được Đức Christ thực hiện nơi chính Ngài – sự tổng hợp của cái thành phần với cái toàn thể, của nhân loại với thực tại tối hậu. Lịch sử của loài người nhằm ghi lại sự phát triển từ tình trạng phản ứng vô thức của đại chúng đến mức từ từ nhận thức được trách nhiệm tập thể. Con người trình độ thấp hay là cá nhân chưa biết suy tư thì chỉ có ý thức đoàn nhóm. Y có thể xem mình là một con người, nhưng y chưa có tư duy sáng tỏ về các mối liên giao giữa mọi người, hoặc về vị trí của nhân loại trên thang tiến hóa. Y dễ dàng bị lôi cuốn bởi tư tưởng của đại chúng hay của đoàn nhóm, và bị qui định cũng như chuẩn hóa theo điều kiện tâm lý của đại chúng. Y đi theo nhịp điệu của đại khối quần chúng. Y suy nghĩ như họ suy nghĩ (nếu y đã biết suy nghĩ). Y dễ dàng cảm nhận theo cảm nhận của quần chúng, và y vẫn còn chưa biệt hóa đối với đồng loại của mình. Nhờ điều này, mà các nhà hùng biện và nhà độc tài mới thành công. Dùng tài ăn nói, hoặc với cá tính thu hút và lôi cuốn, họ lung lạc đại chúng theo ý mình, vì họ làm việc với ý thức đoàn nhóm, dù ý thức này còn chưa phát triển. |
|
From this stage we pass to that of the emerging personality who does his own thinking, makes his own plans and cannot be regimented or beguiled by words. He is a thinking individual, and the collective consciousness and the mass mind cannot hold him in thrall. These are the people who pass on to liberation, and who, from one expansion of awareness [143] to another, gradually become consciously integrated parts of the whole. Eventually, the group and its will (not the mass and its feeling) come to be of supreme importance, because they see the group as God sees it, become custodians of the divine Plan, and conscious, integral, intelligent parts of the whole. They know what they are doing, and why they do it. In Himself Christ blended and fused the part with the whole, and effected an at-one-ment between the will of God, synthetic and comprehensive, and the individual will, which is personal and limited. In a commentary on The Bhagavad Gita, that supreme argument for the life of the whole as fused and blended in divinity, Charles Johnston points out that: |
Từ giai đoạn nói trên, chúng ta đến giai đoạn của phàm nhân bắt đầu trưởng thành. Y tự mình suy nghĩ, tự đặt kế hoạch, và không thể bị lời lẽ của người khác qui định hay quyến rũ. Y là cá nhân biết tư duy, và ý thức đoàn nhóm cũng như trí năng của đại chúng không thể chi phối y. Đây là những người đang đi đến tự do, giải thoát. Mở mang ý thức từ giai đoạn này (143) đến giai đoạn khác, y dần dần trở nên thành phần hội nhập hữu thức của toàn thể. Rốt cuộc, tập thể và ý chí tập thể (chứ không phải đại chúng và xúc cảm của đại chúng) trở nên quan trọng nhất. Lý do là vì họ nhìn thấy tập thể như Thượng Đế thấy. Bấy giờ, tập thể trở thành người trông nom Thiên cơ, là thành phân thông minh, tích hợp hữu thức của cái toàn thể. Họ biết mình đang làm gì, và vì sao làm điều đó. Đức Christ hòa hợp và tổng hợp trong chính Ngài cái thành phần với cái toàn thể. Đồng thời, Ngài cũng thực hiện sự nhất quán giữa ý chí của Thượng Đế, có tính cách tổng hợp và toàn diện, và ý chí cá nhân, có tính cách riêng tư và hạn chế. Trong luận giải của ông về Chí Tôn Ca, giáo thuyết tối thượng về sự sống toàn thể được phối hợp và hòa hợp trong thiên tính, Charles Johnston đã viết: |
|
“The truth would seem to be that, at a certain point in spiritual life, the ardent disciple, who has sought in all things to bring his soul into unison with the great Soul, who has striven to bring his will to likeness with the Divine Will, passes through a marked spiritual experience, in which the great Soul draws him upward, the Divine Will raises his consciousness to oneness with the Divine Consciousness; for a time he perceives and feels, no longer as the person, but as the Oversoul, gaining a profound vision of the divine ways of life, and feeling with the infinite Power, which works through life and death alike, through sorrow and joy, through union and separation, through creation, destruction and recreation. The awe and mystery which surround that great unveiling have set their seal on all who have passed through it.” [cxlviii]3 |
“Dường như sự thật là, đến một trình độ nào đó trên đường phát triển tinh thần, sau khi đã tìm kiếm trong mọi sự vật để làm cho linh hồn mình hợp nhất với Linh hồn vĩ đại, sau khi đã cố gắng làm cho ý chí của mình hòa đồng với Ý chí Thiêng liêng, bấy giờ người đệ tử nhiệt thành trải qua kinh nghiệm tinh thần rõ rệt, trong đó Đại Hồn giúp y thăng tiến, và Ý chí Thiêng liêng nâng cao tâm thức của y đến mức hợp nhất với Tâm thức Thiêng liêng. Trong một thời gian, y nhận thức và cảm thấy mình không còn là một cá nhân mà là Đại hồn. Y có cái nhìn sâu xa về lối sống thiêng liêng, và cảm nhận với quyền năng vô hạn. Quyền năng này cùng tác động xuyên qua sự sống và sự chết, niềm vui và nỗi buồn, hợp nhất và phân ly, qua sáng tạo, hủy diệt, và tái tạo. Sự tuyệt vời và mầu nhiệm chung quanh tiết lộ vĩ đại này lưu lại dấu ấn trên tất cả những ai đã trải nghiệm nó.”[3] |
|
This realisation is far from the average man, and still further from the undeveloped. |
Nhận thức nói trên, người có trình độ trung bình không thể hiểu, chứ nói gì những người còn kém phát triển hơn. |
|
The divine is the Whole, informed and animated by the life and will of God; and in utter self-surrender and with all the power of His purified nature and His divine understanding and wisdom, Christ blended in Himself the collective consciousness, the human realisation and the divine Totality. Some day we shall understand this more clearly. It is as yet something which we cannot grasp, unless for us the Transfiguration is a reality and not a goal. |
Cái toàn thể là thiêng liêng, được sự sống và ý chí của Thượng Đế nhập thể và làm sinh động. Trong tâm thái hoàn toàn từ bỏ, và với quyền năng của bản tính đã tinh luyện, thông hiểu và minh triết thiêng liêng, Đức Christ hòa hợp trong chính Ngài cái ý thức đoàn nhóm, nhận thức của nhân loại, và cái Tổng thể thiêng liêng. Một ngày nào đó, chúng ta sẽ hiểu điều này rõ ràng hơn. Cho đến nay, nó là điều chúng ta chưa thể hiểu rõ, trừ phi chúng ta đã thực sự Biến dung, chứ nó không chỉ là mục tiêu mà ta nhắm đến. |
|
[144] |
(144) |
|
It is interesting to have in mind another at-one-ment which Christ made. He unified in Himself the past and the future, as far as humanity is concerned. This is significantly typified in the appearance with Him upon the Mount of Transfiguration of Moses and Elias, the representatives respectively of the Law and of the Prophets. In the one figure we find symbolised the past of man, with its summation in the Law of Moses, setting the limits beyond which man may not go, defining the injunctions which he must set upon his lower nature (the desire-nature), and emphasising the restrictions which the race as a whole must set upon its actions. Careful study will reveal that all these laws concern the government and control of the desire-nature, of the emotional, feeling body, to which we have already had need to refer. Curiously enough, the name “Moses,” according to Cruden’s Concordance, means “taken out of the water.” We have already seen that water is the symbol of the fluidic emotional desire-nature in which man habitually dwells. Moses therefore appeared with Christ as typifying man’s emotional past, and the technique of its control is to be later superseded when the message of Christ’s life is duly understood, pouring through man’s consciousness in ever greater fullness. Christ indicated the new synthetic commandment which is “to love one another.” This would render needless all the Law and the Prophets, and would relegate the Ten Commandments into the background of life, rendering them superfluous, because the love which will flow out from man to God, and from man to man, will automatically and positively produce that right action which will make the breaking of the commandments impossible. The “shalt not” of God, spoken from Mount Sinai through Moses, with its negative emphasis and its punitive interpretation, will give place to the radiance of love and the understanding of goodwill and light which Christ radiated upon the mount of Transfiguration. The past met in Him and was superseded by a living present. |
Cũng cần lưu ý thêm một sự nhất quán khác mà Đức Christ đã thực hiện. Ngài thống nhất nơi chính mình quá khứ và tương lai, liên quan đến nhân loại. điều này được tiêu biểu rất có ý nghĩa qua việc Moses và Elias cùng xuất hiện với Ngài trên Đỉnh núi Biến dung. Họ đại diện cho Luật pháp và các Nhà tiên tri, theo thứ tự. Một nhân vật tượng trưng cho quá khứ của con người. Quá khứ đó đã hoàn thành theo Luật của Moses, ấn định những giới hạn mà con người không được vượt qua. Luật này cũng đưa ra huấn thị mà con người phải áp dụng cho phàm tính (bản chất-dục vọng) của mình, và nhấn mạnh các hạn chế mà toàn nhân loại phải áp dụng cho các hành động của mình. Khi xem xét kỹ, chúng ta sẽ thấy rằng tất cả các luật này đều liên quan đến việc quản trị và chế ngự bản chất-dục vọng, thể tình cảm, và xúc cảm, mà tất cả chúng ta cần đề cập đến. Cũng lạ là từ “Moses,” theo Bảng chỉ mục của Cruden, có nghĩa là “lấy ra từ nước.” Chúng ta thấy rằng nước là biểu tượng của bản chất-dục vọng tình cảm thường thay đổi mà con người quen ẩn trú trong đó. Vì thế, Moses xuất hiện với Đức Christ như con người tiêu biểu của cái quá khứ sống tình cảm. Và kỹ thuật chế ngự tình cảm, xúc cảm về sau được thay thế khi mọi người hiểu rõ bức thông điệp của đời sống Đức Christ. Sự sống này tuôn đổ qua tâm thức của con người ngày càng sung mãn hơn. Đức Christ đưa ra điều răn tổng hợp là “các ngươi hãy yêu thương nhau.” Điều răn này khiến cho tất cả các Luật và sách Tiên tri trở nên không cần thiết. điều răn này cũng đưa Mười Điều răn vào hậu trường của đời sống, và khiến chúng trở nên thừa. Vì tình thương phát ra từ con người đến Thượng Đế, và từ người này đến người khác, sẽ tự động và tích cực mang lại hành động đúng đắn, khiến người ta không thể vi phạm các điều răn. Lời phán “ngươi không được …” của Thượng Đế, truyền ra từ núi Sinai qua Moses, với sự nhấn mạnh tiêu cực, và lý giải có ý nghĩa trừng phạt, sẽ nhường chỗ cho sự chói ngời của bác ái, giúp mọi người hiểu rõ về thiện chí và ánh sáng, mà Đức Christ đã phóng rải trên núi Biến dung. Người ta thấy quá khứ nơi Ngài được thay thế bởi hiện tại đầy sinh động. |
|
Elias, whose name means “the strength of the Lord,” stood [145] beside Jesus Christ as the representative of all the schools of the Prophets which had for centuries foretold the coming of the One Who would stand for perfect righteousness and Who, in His Own Person, would embody, as He does today, the future achievement and the goal of the human race. That the future holds reaches of consciousness and standards of achievement as much beyond those of Christ as His expression is beyond ours, is entirely possible. The nature of the Father remains still to be known; some of its aspects, such as the love and wisdom of God, have been revealed to us by Christ. For us today, and for our immediate goal, Christ stands as the Eternal Prophet, to whom Elias and all the Prophets bear witness. Therefore, as He stood upon the mountain top, the past and the future of humanity met in Him. |
Elias, tên của ông có nghĩa là “sức mạnh của Chúa,” đã đứng (145) bên cạnh Jesus Christ, với tư cách đại diện các trường phái Tiên tri. Qua nhiều thế kỷ, họ đã báo trước sự giáng lâm của Đấng sẽ tiêu biểu cho sự chính trực hoàn thiện. Ngài cũng là Đấng thể hiện nơi chính mình những thành tựu và mục tiêu của nhân loại trong tương lai. Hoàn toàn có thể nói rằng tương lai bao gồm những phạm vi tâm thức và tiêu chuẩn thành tựu còn cao hơn mức mà Đức Christ đã đạt. Điều này cũng giống như những gì Ngài đã làm thì vượt xa hơn thành quả của chúng ta ngày nay vậy. Về bản tính của Đức Chúa Cha, chúng ta còn cần tìm hiểu. Một số phương diện của bản tính này như tình bác ái và minh triết thiêng liêng, thì Đức Christ đã biểu lộ cho chúng ta rồi. Đối với chúng ta ngày nay và mục tiêu sắp đến của nhân loại, thì Đức Christ là Nhà tiên tri Vĩnh cửu mà Elias và tất cả những Nhà tiên tri khác đều là chứng nhân cho Ngài. Vì thế, khi Ngài đứng trên đỉnh núi, quá khứ và tương lai của nhân loại hội tụ trong Ngài. |
|
That He at-oned in Himself certain basic human cleavages is thus apparent, and to those above enumerated we can add one already considered, the blending in Himself of two great kingdoms in nature, the human and the divine, making possible the emergence into manifestation of a new kingdom upon earth—the kingdom of God, the fifth kingdom in nature. |
Rõ ràng là Ngài đã kết hợp nơi mình một số chia rẽ căn bản trong nhân loại. Ngoài ra, còn có thể nói thêm rằng Ngài đã hòa hợp nơi mình hai trường tiến hóa lớn trong thiên nhiên, là giới nhân loại và giới thiêng liêng. Từ đó, có thể xuất lộ một giới mới trên thế gian – giới thứ năm trong thiên nhiên, tức là Thiên giới. |
|
When considering the Transfiguration it is necessary to realise that it was not simply a great initiation, in which God revealed Himself in His radiance and glory to man, but that it had a definite relation to the medium of revelation—the material physical nature, which we call the “Mother aspect.” We saw, when studying the Birth initiation, that the Virgin Mary (even when recognising, as we do, the historicity of Christ’s existence) is the symbol of the form nature, of the material nature of God. She typifies in herself that which preserves the life of God, latent yet with infinite potentialities. Christ revealed the love-nature in the Father. Through His Person, He revealed the purpose and objective of the form-life of man. |
Khi xem xét sự Biến dung, chúng ta cần nhận thức rằng nó không đơn thuần là một cuộc điểm đạo lớn, trong đó Thượng Đế tự hiển lộ cho con người thấy ánh sáng chói rạng và nguồn vinh quang của Ngài. Nó còn có liên quan rõ rệt với phương tiện của cuộc thiên khải – là bản tính vật chất hồng trần, mà chúng ta gọi là “Trạng thái Mẹ.” Khi nghiên cứu cuộc điểm đạo Giáng sinh, chúng ta thấy rằng Đức Mẹ Mary Đồng trinh (cho dù chúng ta có công nhận, như hiện nay, tính cách lịch sử của cuộc đời Đức Christ) vốn là biểu tượng của bản chất hình thể, bản tính vật chất của Thượng Đế. Bà tiêu biểu nơi mình khả năng bảo tồn sự sống của Thượng Đế, vẫn còn ẩn tàng, nhưng có những tiềm năng vô hạn. Đức Christ đã biểu lộ bản tính bác ái của Đấng Cha Lành. Qua cá nhân Ngài, chúng ta được hiển lộ mục đích và mục tiêu cho đời sống sắc tướng của con người. |
|
[146] |
(146) |
|
In this mountain experience we see the glorification of matter as it reveals and expresses the divine, indwelling Christ. Matter, the Virgin Mary, reveals God. Form, the result of active material processes, must express divinity, and the revelation of this is God’s gift to us at the Transfiguration. Christ was “very God of very God,” but He was also “flesh of our flesh,” and in the interplay and the fusion of the two, God stood revealed in all His magnetic and radiant glory. |
Trong kinh nghiệm này trên đỉnh núi, chúng ta thấy vật chất được tôn vinh, vì nó làm hiển lộ và biểu lộ Đức Christ thiêng liêng nội tại. Vật chất, tức là Đức Mẹ Mary Đồng trinh, hiển lộ Thượng Đế. Sắc tướng, kết quả của các quá trình vật chất năng động, phải biểu lộ thiên tính, và sự biểu lộ điều này là quà tặng của Thượng Đế cho chúng ta vào kỳ Biến dung. Đức Christ là “chính Thượng Đế của chính Thượng Đế,” nhưng Ngài cũng là “máu thịt trong thân xác chúng ta.” Khi hai cái này tương tác và hòa hợp, thì Thượng Đế biểu hiện trong nguồn vinh quang chói ngời và đầy từ lực. |
|
When we, as human beings, realise the divine purpose, and come to regard our physical bodies as the means whereby the divine, indwelling Christ can be revealed, we shall gain a new vision of physical living and a renewed incentive for the proper care and treatment of the physical body. We shall cherish these bodies, through which we temporarily function, as the custodians of the divine revelation. We shall, each of us, regard them as the Virgin Mary regarded her body, as the repository of the hidden Christ, and we shall look forward to that momentous day when we, too, shall stand upon the Mount of Transfiguration, revealing the glory of the Lord through the medium of our bodies. Browning sensed this and gave us the thought in the following well-known phrases: |
Khi, với tính cách con người, chúng ta nhận thức được thiên ý, và bắt đầu xem thân xác của mình là phương tiện để Đức Christ thiêng liêng ở nội tâm có thể hiển lộ, bấy giờ chúng ta sẽ có cái nhìn mới về cuộc sống ở cõi trần, và sự khích lệ mới để chăm sóc và đối xử với thân xác một cách thích hợp. Chúng ta sẽ quí trọng các thể mà qua đó chúng ta tạm thời hoạt động, với tư cách phương tiện gìn giữ sự khải thị thiêng liêng. Mỗi chúng ta sẽ xem chúng như cách Đức Mẹ Mary Đồng trinh xem thân xác của bà, là nơi trú ngụ của sự sống Christ ẩn tàng. Chúng ta cũng hướng đến ngày trọng đại khi đến lượt chúng ta đứng trên Đỉnh núi Biến dung, hiển lộ nguồn vinh quang của Chúa qua các thể của mình. Browning cảm nhận được điều này, và nói lên ý nghĩ đó trong những vần thơ trác tuyệt sau đây: |
|
“Truth is within ourselves; it takes no rise |
“Chân lý bên trong chúng ta; không phát ra |
|
From outward things, whate’er you may believe. |
Từ ngoại vật, dù bạn tin tưởng thế nào chăng nữa. |
|
There is an inmost centre in us all |
Trong tất cả mọi người đều có trung tâm sâu thẳm |
|
Where truth abides in fullness; and around |
Nơi ẩn tàng của chân lý viên dung; và chung quanh |
|
Wall upon wall, the gross flesh hems it in. |
Là những bức tường, bao bọc nó trong lớp áo xác thân. |
|
…… And, to know |
. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . Bạn nên biết |
|
Rather consists in opening out a way |
Hãy mở ra một con đường thoát |
|
Whence the imprisoned splendour may escape |
Cho sự sống huy hoàng bị giam nhốt bên trong |
|
Than in effecting entry for a light |
Hơn là tạo lối đi cho ánh sáng chiếu vào |
|
Supposed to be without.” |
Và xem nó bắt nguồn từ ngoại cảnh.”[4] |
|
Thus, for humanity, Christ stood revealed as the expression of God. There is for us no other goal. Yet let us remember with humility and awe that the stupendous words spoken by Krishna, in The Bhagavad Gita, remain also true [147] as an ultimate statement concerning the transfiguration of the whole world: |
Thế nên, đối với nhân loại, Đức Christ làm hiển lộ và biểu lộ Thượng Đế. Không có mục tiêu nào khác cho chúng ta. Vậy chúng ta hãy nhớ lại một cách khiêm tốn và tôn kính những lời vàng ngọc của Đức Krishna, trong Chí Tôn Ca, mà nay vẫn còn đúng thực (147) như lời tuyên bố tối hậu về sự biến dung và chuyển hóa của toàn thế giới: |
|
“Nor is there any end of My divine form, O consumer of the foe; this I have told thee for thy instruction, as an enumeration of My manifold forms. Whatever being is glorious, gracious or powerful, thou shalt recognize that, as sprung from a fragment of my fire. But what need hast thou of this manifold wisdom, O Arjuna? With one part of My being I stand establishing this whole world.” [cl]5 |
“Hình thể thiêng liêng của Ta cũng không bao giờ chết dứt, Hởi kẻ hủy diệt oán thù. Ta đã nói lên điều này để giáo huấn con, khi kể ra nhiều hình tướng của Ta. Với bất cứ sinh linh nào có tính cách vinh quang, tốt đẹp và mạnh mẽ, thì con hãy hiểu đó là phát sinh từ một tia nhỏ trong nguồn lửa của Ta. Nhưng hỡi Arjuna, con cần điều gì trong nguồn minh triết phong phú này? Chỉ một phần sự sống của Ta cũng đủ tạo lập nên cả thế giới này.”[5] |
|
Under the impact of the evolutionary urge God moves towards fuller recognition. “Purification” is the word generally used to cover the process whereby the medium of divine expression is prepared for use. The Galilee experience, and the daily effort to live and meet the eventualities of human existence (which appear to grow more drastic and disciplinary as the great wheel of life turns, and, turning, carries humanity onward), bring man to the point where this purification is not simply the result of life itself, but is something which is definitely imposed by man upon his own nature. When this process is self-initiated, then the speed with which the work is carried forward is greatly accentuated. This produces a transformation of the outer man of great significance. The caterpillar becomes transformed into the butterfly. Deep in man lies this hidden beauty, unrealised, but struggling for release. |
Theo tác động của sự thôi thúc tiến hóa, Thượng Đế hoạt động để có nhận thức đầy đủ hơn. “Tinh luyện” là từ thường được dùng để chỉ tiến trình chuẩn bị phương tiện và dùng nó làm trung gian cho sự biểu lộ thiêng liêng. Kinh nghiệm Galilee là cố gắng hằng ngày để sinh sống và đáp ứng với những sự việc xảy ra trong đời sống con người (có vẻ ngày càng khốc liệt và gò bó, khi bánh xe vĩ đại của luân hồi, sinh tử cứ quay, và tiếp tục quay, đưa loài người đi tới). Nó giúp con người đạt đến trình độ mà sự tinh luyện không chỉ là kết quả của đời sống, mà còn là điều được hành giả áp dụng rõ rệt trên phàm tính của chính mình. Khi tiến trình này là tự đề xuất, thì công việc được tiến hành với tốc độ gia tăng nhanh chóng. Nó mang lại sự chuyển hóa/biến dung rất quan trọng của ngoại thể con người. Con sâu hóa bướm. Sự mỹ lệ này ẩn sâu trong tâm hồn mỗi người, dù y không nhận biết, nhưng nó đang phấn đấu để được khai phóng. |
|
The life of the indwelling Christ produces the transformation of the physical body, but deeper still, that life operates upon the emotional-feeling nature, and through the process of transmutation converts the desires and feelings, the pains and the pleasures, into their higher correspondences. Transmutation has been defined as “the passage across from one state of being to another, through the agency of fire.” [cli]6 It is appropriate in this connection to remember that the threefold lower man, with whom we have been dealing so often in these pages, is a dim reflection of [148] Deity Itself. The physical body is related to the third aspect of divinity, the Holy Ghost aspect, and the truth of this can be realised if we study the Christian concept of the Virgin Mary overshadowed by the Holy Ghost. The Holy Ghost is that aspect of divinity which is the active principle in matter, and of this the physical body is a correspondence. The emotional, sentient nature is a dim and distorted reflection of the love-nature of God which the cosmic Christ, the second Person in the Trinity, is engaged in revealing; and this aspect (transmuted through the agency of fire, the will or spirit of God) produces the transformation of the physical body. The mind in its turn is therefore the reflection of the highest aspect of deity, the Father, or Spirit, of Whom it is said that our “God is a consuming fire.” [clii]7 The releasing activity of this form of God’s spirit eventually produces that radiance (as a result of transformation and transmutation) which was the distinguishing characteristic of the Transfiguration initiation. ”Radiation is transmutation in process of accomplishment.” Transmutation being the liberation of the essence in order that it may seek a new centre, the process may be recognised as `radio activity’ as far as humanity is concerned.” [cliii] 8 |
Sự sống Christ nội tại giúp chuyển hóa thân xác. Nhưng còn sâu hơn nữa, nó vận hành bản chất tình cảm-xúc cảm, và qua tiến trình siêu hóa, nó biến đổi các ham muốn và xúc cảm, những nỗi đau khổ và lạc thú, thành những tính năng tương ứng với chúng ở cấp cao hơn. Siêu hóa được định nghĩa là “chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác qua tác nhân của lửa.”[6] Ở đây cần nên nhớ rằng phàm nhân tam phân, mà chúng ta đã bàn nhiều trong sách này, vốn là phản ảnh lờ mờ của (148) chính Thánh linh. Thể xác có liên quan đến phương diện thứ ba của thiên tính, là Chúa Thánh Thần. Chúng ta có thể nhận thức chân lý này khi nghiên cứu khái niệm của Thiên Chúa giáo về Đức Mẹ Đồng trinh được phủ bóng của Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là trạng thái của thiên tính vốn là nguyên khí hoạt động trong vật chất, và thể xác là một phần tương ứng của nguyên khí này. Bản chất tình cảm, xúc cảm là phản ảnh mờ nhạt, lệch lạc của bản tính bác ái của Thượng Đế mà Đức Christ vũ trụ, Ngôi thứ hai trong Ba Ngôi thiêng liêng, có nhiệm vụ hiển lộ. Trạng thái này (được siêu hóa nhờ lửa tức là ý chí hay tinh thần của Thượng Đế) giúp chuyển hóa thân xác. Đến lượt thể trí là phản ánh trạng thái cao nhất của thánh linh, là Đức Chúa Cha, hay Tinh thần, được đề cập trong câu “Thượng Đế của chúng ta là ngọn lửa đang thiêu hủy.”[7] Hoạt động khai phóng ra khỏi hình thức này của tinh thần Thượng Đế rốt cuộc tạo nên sự phóng quang (kết quả của sự chuyển hóa và siêu hóa) vốn là đặc trưng của cuộc điểm đạo Biến dung. “Phóng quang là siêu hóa đang trong quá trình hoàn tất.” Siêu hóa là giải phóng cái tinh hoa để nó có thể đến một trung tâm mới. Nên tiến trình nầy có thể gọi là ‘hoạt tính phóng xạ’ khi nói về nhân loại.”[8] |
|
It was these processes, carried on in the form nature, which led eventually to the revelation to the Apostles of the essential nature of the Master they loved and followed, and it is this aspect of Christ—the inner radiant reality—to which the mystics of all times bear testimony, not only in connection with Christ, but in lesser degree in connection with each other also. Once the world of the senses has been transcended, and the higher correspondences have become active, revealing the inner world of beauty and truth, there will come to the mystic a realisation of a subjective world whose characteristics are light, radiance, beauty and indescribable wonder. All the mystical writings are attempts to describe this world to which the mystics seem to have access, with [149] its forms varying according to the period, race and point of development of the seer. We know only that the divine stands revealed, while the outer form which has veiled and hidden it dissolves, or is so transformed that only the inner reality is registered. The temperament and tendencies of the mystic—his own innate quality—have also much to do with his description of what he sees. However, all are agreed on the essentially transcendent nature of the experience, and convinced of the divine nature of the person concerned. |
Chính những tiến trình này được tiếp diễn trong bản chất hình thể, rốt cuộc dần dần tự biểu lộ cho cácThánh Tông đồ thấy bản tính cốt yếu của vị Thầy mà họ yêu mến và theo bước. Chính trạng thái này của Đức Christ – thực tại chói rạng ở nội tâm – mà các nhà thần bí trong mọi thời đại làm chứng, không những liên quan đến Đức Christ, mà cũng liên quan đến mỗi người trong họ, ở mức độ ít hơn. Khi hành giả vượt cao hơn thế giới các giác quan, và các quan năng cấp cao đã linh hoạt, y thấy được nội giới của sự mỹ lệ và chân lý. Bấy giờ nhà thần bí sẽ nhận thức được thế giới chủ quan, với đặc trưng là ánh sáng, phóng quang, mỹ lệ, và những điều kỳ diệu không tả xiết. Tất cả các tác phẩm thần bí đều cố gắng mô tả thế giới này mà các nhà thần bí dường như đã đạt, với (149) những hình thức thay đổi tùy theo thời kỳ, chủng tộc và trình độ phát triển của người thấy được nó. Chúng ta chỉ biết rằng bấy giờ sự sống thiêng liêng hiển lộ, trong khi ngoại thể vốn đã che án và ẩn giấu nó nay bị tan rã, hoặc được chuyển hóa đến mức chỉ có thực tại bên trong được ghi nhận. Tính khí của nhà thần bí – phẩm tính bẩm sinh của chính y – cũng ảnh hưởng nhiều đến việc y mô tả những gì mình thấy. Tuy nhiên, tất cả đều đồng ý với nhau về tính chất tinh hoa siêu việt của kinh nghiệm đó, và khiến ta tin chắc vào bản tính thiêng liêng của nhà thần bí ấy. |
|
Great indeed was the power and mystery of divinity which Christ revealed to the astonished gaze of His three friends upon the Mount of Transfiguration. In one of the ancient scriptures of India, quoted by Dr. Otto, there is an attempt to express or reveal that divine essential Spirit manifested at the Transfiguration: |
Lớn lao thay quyền năng và bí nhiệm của thiên tính mà Đức Christ đã hiển lộ trước cái nhìn sững sờ, kinh ngạc của ba người bạn Ngài trên Đỉnh núi Biến dung. Trong một thánh kinh cổ xưa của Ấn Độ, được Ts. Otto trích dẫn, có cố gắng phát biểu hay hé lộ cái tinh thần cốt yếu thiêng liêng ấy được biểu hiện vào thời điểm Biến dung: |
|
“Finer than the fine yet am I greatest, |
“Tinh vi hơn cái tinh vi, thế mà Ta cực kỳ vĩ đại, |
|
I am the All in its complete fullness, |
Ta là Toàn thể tròn đầy, sung mãn, viên dung, |
|
I, the most ancient, the spirit, the Lord God. |
Là tinh thần, là Thượng Đế, Ta hết sức cổ xưa. |
|
The golden-gleaming am I, of form divine. |
Trong hình thể thiêng liêng Ta là ánh hoàng kim sáng chói. |
|
Without hand and foot, rich in unthinkable might, |
Chẳng cần tay chân, nhưng đại hùng, đại dũng, |
|
Sight without eyes, hearing without ears, |
Thấy và nghe, chẳng cần mắt, chẳng cần tai. |
|
Free from all form, I know. But me |
Ta biết mình tự do ngoài sắc tướng. Nhưng không ai |
|
None knows. For I am Spirit, am Being.” |
Biết được Ta. Vì ta là Thánh linh, và là Sự sống.”[9] |
|
The mass of literature that has been written in an attempt to portray the wonder of the transfiguration and the vision of God, is an outstanding phenomenon of the religious life, and one of the strongest testimonies to the fact of the revelations. |
Vô số kinh văn được viết ra để minh họa sự kỳ diệu của giai đoạn biến dung và linh ảnh về Thượng Đế. Đó là một hiện tượng nổi bật của sinh hoạt tôn giáo, và là một trong những bằng chứng vững chắc nhất cho sự thực về các cuộc thiên khải. |
|
The very simplicity of the story as related in the Gospels has a majesty and a convincing power of its own. The Apostles saw a vision and they participated in an experience wherein Christ Jesus stood before them as perfected Man, because fully divine. They had shared with Him His service; they had left their various vocations in order to be with Him; they had gone with Him from place to place and[150] helped Him in His work, and now, as a reward for faithfulness and recognition, they were permitted to see the Transfiguration. “When the mind,” says St. Augustine, “hath been imbued with the beginning of faith which worketh by love, it goes on by living well to arrive at sight also, wherein is unspeakable beauty known to high and holy hearts, the full vision of which is the highest happiness.” [clv]10 |
Chính sự đơn giản trong câu chuyện liên quan đến các sách Phúc âm khiến nó trở nên tuyệt vời và hết sức thuyết phục. Các Thánh Tông đồ đã thấy linh ảnh, và họ dự vào một kinh nghiệm mà trong đó Jesus Christ đứng trước họ là Con Người hoàn thiện, tuôn tràn sự sống thiêng liêng. Họ đã chia sẻ công việc phụng sự của Ngài. Họ đã từ bỏ những chức nghiệp khác nhau của mình để theo Ngài. Họ đồng hành với Ngài từ nơi này đến nơi khác và (150) trợ giúp công việc của Ngài. Và nay, như là phần thưởng cho lòng trung thành và được công nhận, họ được phép chứng kiến cuộc điểm đạo Biến dung. Thánh Augustine nói “Khi tâm trí thấm nhuần và phát khởi đức tin có động lực là tình thương, thì nó cứ tiếp tục sống tốt lành. Rồi đến lúc nó cũng thấy được sự mỹ lệ tuyệt vời không thể tả chỉ dành cho những tâm hồn cao thượng và thánh thiện, với linh ảnh tròn đầy mang lại nguồn hạnh phúc tối cao.”[10] |
|
2 |
2 |
|
“After six days Jesus taketh Peter, James and John, his brother, and bringeth them up into a high mountain apart, and was transfigured before them; and his face did shine as the Sun, and his raiment was white as the light. |
“Sau sáu ngày, Đức Jesus dắt Peter, James, và John là em trai Ngài, và đưa họ lên ngọn núi cao ở xa, rồi được biến dung trước mặt họ. Gương mặt Ngài chói rạng như Mặt trời, và y phục Ngài trắng tinh như ánh sáng. |
|
“And behold, there appeared unto them Moses and Elias talking with him. Then answered Peter, and said unto Jesus, Lord, it is good for us to be here: if thou wilt, let us make here three tabernacles; one for thee, and one for Moses, and one for Elias. |
“Rồi xem kìa, Moses và Elias xuất hiện, đến với họ, và hai vị đang nói chuyện với Ngài. Peter trả lời, và nói với Đức Jesus, thưa Chúa, chúng tôi có mặt ở đây thật là tốt: nếu Ngài muốn, thì hãy để chúng tôi xây dựng ba chiếc lều. Một cho Ngài, một cho Moses, và một cho Elias. |
|
“While he yet spake, behold, a bright cloud overshadowed them: and behold a voice out of the cloud, which said, This is my beloved Son, in whom I am well pleased; hear ye him. And when the disciples heard it, they fell on their face, and were sore afraid. And Jesus came and touched them, and said, Arise, and be not afraid. And when they had lifted up their eyes, they saw no man, save Jesus only.” [clvi]11 |
“Trong khi y nói thì xem kìa, một đám mây chói sáng bao phủ lên họ: và có tiếng nói phát ra từ đám mây, phán rằng, Này là Con trai yêu dấu của Ta, được lòng Ta mọi đàng; hãy nghe lời con Ta. Khi nghe tiếng nói này, ba vị môn đồ sấp mình phủ phục, và hết sức sợ hãi. Đức Jesus bèn đến và chạm vào họ, rồi Ngài nói, Hãy dậy, và đừng sợ. Và khi họ ngước nhìn lên, họ chẳng thấy ai ngoài Đức Jesus.”[11] |
|
A consideration of the various unifications which Christ had made in Himself will have prepared us for the stupendous phenomenon of the revelation which forced the three disciples to their faces. Three kneeling kings or magi attended the birth initiation. At this crisis there were three disciples prostrate upon the ground, unable to look upon the glory which had been revealed. They thought that they knew their Master, but the familiar Presence had been transformed, and they stood before The Presence. The sense of awe, of wonder and of humility is ever an outstanding [151] reaction of the mystics of all time to the revelation of light. This episode is the first one in which we contact the radiance and the light which shone from the Saviour, and which enabled Him to say with truth “I am the Light of the world.” Contact with God will ever cause a light to shine forth. When Moses came down from Mount Sinai, his countenance was so irradiated that men could not look upon it, and history tells that he had to use a veil to shield that radiance from others. But the light which was in Christ shone forth in fullness from His whole Person. Increasingly, I believe, as the evolutionary process goes forward, we shall come to a deeper understanding of the significance of light in relation to humanity. We talk of the light of knowledge, and towards that light and its furtherance all of our educational processes and institutions are consecrated. We desire profoundly the light of understanding, which expresses itself in wisdom, and characterises the sage and the wise upon earth; this light marks them off from the ordinarily intelligent person, making their words of moment, and giving value to their advice. We have been led to believe that there are in the world the illuminati, working quietly and silently behind the scenes in world affairs, shedding the light when needed into the dark places of the world, elucidating problems, and eventually bringing to light that which must be eradicated and that which is needed. We have also learnt to recognize the Light-bearers of all time, and we feel that in Christ the light of the ages is focussed, and the light of God is centred. His disciples came into the radius of this light for the first time on the mountain-top, after six days of work, so the story runs, and could not bear the sight of so much brilliance. Nevertheless, they felt that “it was good for them to be there.” Yet in our consideration of the light which was in Christ, and the rapture of the Apostles at its revelation, let us not lose sight of the fact that He Himself tells us that there is in us also a light, and that it too must blaze forth for the helping of the world and the glorification of our Father which is in [152] Heaven. [clvii]12 To this light the mystics testify, and it is this light into which they enter, and which enters into them, revealing the light which is latent and drawing it forth to potency. “In Thy light shall we see light.” This is the outstanding fact of scientific mysticism. God is light as well as life. This the mystic has proved, and to this he eternally testifies. |
Khi xem xét những sự thống nhất khác nhau mà Đức Christ đã thực hiện nơi chính Ngài, chúng ta dần dần hiểu được hiện tượng huy hoàng của thiên khải, khiến cho ba người môn đồ phải sững sờ, kinh ngạc. Ba vị vua hay ba nhà thông thái kính cẩn quì khi tham dự cuộc điểm đạo giáng sinh. Vào lúc khủng hoảng này, có ba người môn đồ sấp mình xuống đất, không dám nhìn ánh vinh quang hiển lộ. Họ cứ nghĩ rằng đã biết rõ Thầy của mình, nhưng nào ngờ Dung mạo quen thuộc của Ngài đã biến đổi, và họ đang đứng trước Thánh dung. Cảm thức kính sợ, kinh ngạc, và khiêm tốn bao giờ cũng là nét nổi bật (151) trong phản ứng của các nhà thần bí qua mọi thời đại khi họ nhìn thấy sự hiển lộ của ánh sáng thiêng liêng. Đây là thời kỳ đầu, trong đó chúng ta tiếp xúc với sự phóng quang, và ánh sáng chói rạng từ vị Cứu thế, khiến người có thể nói rằng “Ta là Ánh sáng của thế gian.” Giao tiếp với Thượng Đế bao giờ cũng khiến ánh sáng chói rạng. Khi Moses đi xuống núi Sinai, khuôn mặt của ông sáng rực đến đỗi mọi người không thể nhìn thẳng vào đó. Và lịch sử có ghi rằng ông phải dùng mạng che mặt để cho những người khác không bị chói. Thế nhưng, ánh sáng trong Đức Christ thì phóng phát một cách viên mãn từ toàn cả bản thể của Ngài. Tôi tin rằng, khi diễn trình tiến hóa phát triển, chúng ta sẽ ngày càng hiểu nhiều hơn về ý nghĩa của ánh sáng liên quan đến nhân loại. Chúng ta nói về ánh sáng hiểu biết, và tất cả các tiến trình giáo dục và cơ sở giáo dục trên thế giới đều dành cho ánh sáng ấy để làm cho nó ngày càng chói rạng. Chúng ta thiết tha muốn có ánh sáng thông hiểu, biểu lộ trong minh triết, vốn là đặc trưng của các nhà hiền triết và triết nhân trên thế giới. Ánh sáng đó khiến họ nổi bật hơn những người có trí thông minh thông thường. Vì thế mà lời nói và lời khuyên của họ có tầm quan trọng và chân giá trị. Chúng ta cũng được cho biết để tin tưởng rằng trên thế giới hiện có những bậc giác ngộ. Các vị làm việc trong tĩnh lặng và thầm lặng ở hậu trường của thế sự, chiếu rọi ánh sáng, khi cần, vào những nơi tăm tối trên thế gian, làm sáng tỏ những vấn đề khó khăn, và rốt cuộc phơi bày ra ánh sáng những gì cần phải xóa sạch, và những gì cần thiết. Chúng ta cũng học cách nhận biết những Người mang ánh sáng trong mọi thời kỳ, và cảm thấy rằng trong Đức Christ có tập trung và hội tụ ánh sáng của mọi thời đại, và ánh sáng của Thượng Đế. Các môn đồ của Ngài đi vào tầm ảnh hưởng của ánh sáng này lần đầu tiên trên đỉnh núi, sau sáu ngày làm việc. Câu chuyện chỉ có thế, chứ không cho thấy điều gì đặc biệt lắm. Tuy nhiên, họ lại cảm thấy rằng “họ có mặt ở đó là điều hay.” Thế nhưng, khi xem xét ánh sáng bấy giờ ở trong Đức Christ, và sự hân hoan không tả xiết của các Thánh Tông đồ khi thấy được ánh sáng đó, chúng ta đừng quên sự thực là chính Đức Christ bảo chúng ta rằng trong chúng ta cũng có ánh sáng. Ánh sáng đó cũng phải bừng chiếu để giúp đỡ thế gian và tôn vinh Đấng Cha Lành của chúng ta ở trên (152) Trời.[12] Các nhà thần bí mang bằng chứng của ánh sáng này, và họ thâm nhập vào nó. Nó cũng thâm nhập vào họ, làm hiển lộ ánh sáng ẩn tàng trong họ, khiến cho ánh sáng ẩn tàng phát huy mãnh lực. “Trong ánh sáng của mình, bạn sẽ thấy được ánh sáng cao siêu hơn.” Đây là điều thực tế nổi bật của khoa học huyền bí. Thượng Đế là ánh sáng và cũng là sự sống. Nhà thần bí đã chứng minh được điều này, và bao giờ y cũng là chứng nhân của nó. |
|
This awareness of the fact of divinity is established in our consciousness first of all through the recognition of the wonder latent in every human being. That man who sees no good in his fellowmen is he who is unaware of his own goodness; that man who sees only evil in those around him is he who is seeing them through the distorted lens of his own warped nature. But those who are awakening to the world of reality are constantly made aware of the divinity in man, through his unselfish acts, his kindness, his spirit of enquiry, his light-heartedness in difficulty, and his basic essential goodness. This awareness deepens as he studies the history of the race and the religious inheritance of the ages, and above all when he is brought face to face with the transcendent goodness and wonder which Christ revealed. From this realisation he passes on to the discovery of the divine in himself, and starts on that long struggle which carries him through the stages of intellectual awareness of possibility, and of intuitive perception of truth, to that illumination which is the prerogative and the gift of all the perfected sons of God. The radiant inner body of light is present both in the individual and in the race, unseen and unrevealed, but slowly and surely emerging. At the present hour a large number of mankind are engaged in the activities of the six days which precede the transfiguration experience. |
Ý thức sự thực về thiên tính này được xác lập trong tâm thức của chúng ta trước hết qua việc nhận thức điều kỳ diệu ẩn tàng trong tâm mọi người. Kẻ chỉ thấy điều không tốt trong huynh đệ của mình là người không thấy được tính bản thiện nơi chính mình. Kẻ chỉ thấy sự tà vạy trong những người chung quanh, là người nhìn họ qua cặp kính màu méo mó tức là bản chất lệch lạc của y. Trong khi đó, người ngộ được thế giới thực tại thì luôn luôn ý thức được thiên tính trong người khác. Thiên tính ấy biểu lộ qua những hành động bất vị kỷ của họ, lòng tử tế của họ, tinh thần ham học hỏi của họ, lòng cao thượng của họ trong lúc khó khăn, và tính bản thiện cốt yếu trong họ. Ý thức này sẽ sâu hơn khi y nghiên cứu lịch sử của nhân loại và di sản tôn giáo qua các thời đại, và nhất là khi y đối diện với sự lành thiện siêu việt và những điều kỳ diệu mà Đức Christ hiển lộ. Từ nhận thức này, y tiếp tục khám phá những gì thiêng liêng trong chính mình, và bắt đầu cuộc phấn đấu lâu dài đưa y qua các giai đoạn ý thức của trí tuệ về những khả năng, và nhận thức chân lý qua trực giác, cho đến sự khai ngộ vốn là đặc quyền và là món quà quí giá cho tất cả những người con đã hoàn thiện của Thượng Đế. Thể quang huy nội tại vốn có cả trong mỗi cá nhân và toàn nhân loại, vô hình vô ảnh và không hiển lộ, nhưng chắc chắn sẽ từ từ xuất lộ. Vào thời điểm hiện nay, phần đông nhân loại đang tham gia các hoạt động trong sáu ngày trước khi xảy ra kinh nghiệm biến dung. |
|
It is important here to study briefly the place of the disciples in the story of this experience. Down through Biblical history we meet this triplicity. Moses, Aaron and Joshua; Job and his three friends; Shadrach, Meschach and [153] Abednego, the friends of Daniel; the three kings at the cradle in Bethlehem; the three disciples at the Transfiguration; the three Crosses on Calvary! What accounts for this constant recurrence of three? What does it symbolise? Apart from their possible historical appearance, does there lie behind them some peculiar symbology which can, when understood, render clear the circumstances in which they played their part? A study of their names and the interpretation of them as given in the familiar Cruden’s Concordance may supply a clue. Take, for instance, the meaning of the names of Job’s friends. They were Eliphaz the Temanite, Bildad the Shuhite, and Zophar the Naamathite. Eliphaz the Temanite means “my God is gold,” and also “the southern quarter,” the opposite pole to the north. Gold is the symbol of material welfare, and the opposite pole to spirit is matter, therefore in this name we have symbolised the tangible outer form of man, actuated by desire for material possessions and comfort. Zophar the Naamathite means the “one who talks,” and his theme is pleasantness, which is the interpretation given to the word “Naamathite.” Here we have the desire body typified, with its longing for pleasantness, for happiness and for pleasure, and an indication of the constant and ceaseless call and voice of the sentient nature, to which we can all testify. Bildad the Shuhite represents the mental nature, the mind, signifying as he does “contrition,” which becomes possible only when the mind is beginning to be active (including the conscience). Shuhite means “prostration or helplessness,” signifying that alone and unaided the mind can reveal but cannot help. Remorse and sorrow, involving memory, are the result of mental activity. Thus, in Job’s three friends the three as aspects of his lower nature stand revealed. The same is the case when we study the names of Daniel’s three friends. Abednego means the “servant of the sun,” the server of the light; in that significance the whole duty and purpose of the physical outer man is summed up. Shadrach’s name has a definitely emotional sentient connotation, for it means [154] ”rejoicing in the way,” and wherever we find reference to the basic dualities of pleasure and pain we are considering the emotional-feeling nature. Meschach means “agile,” quick moving, which is in itself a very good description of the mental nature. Arjuna, in The Bhagavad Gita, [clviii]13 points this out in his words to Krishna: “This union through oneness which is taught by Thee,… I perceive not its firm foundation, owing to the wavering of the mind; for the mind wavers, Krishna, turbulent, impetuous, forceful; and I think it is as hard to hold as the wind.” |
Ở đây, chúng ta nên nghiên cứu sơ lược về vị trí của những người đệ tử trong giai thoại về kinh nghiệm này. Xuyên suốt lịch sử Kinh thánh, chúng ta gặp những bộ ba này. Moses, Aaron và Joshua; Job và ba người bạn; Shadrach, Meschach và (153) Abednego, các bạn của Daniel; ba vị vua bên chiếc nôi ở Bethlehem; ba người môn đồ tại cuộc lễ Biến dung; ba Thập tự giá trên đồi Calvary! Sự liên tục tái diễn của những bộ ba có ý nghĩa gì? Chúng tượng trưng cho điều gì? Đó có thể và có vẻ là những sự kiện thật trong lịch sử. Thế nhưng, liệu chúng có ẩn giấu ý nghĩa biểu tượng đặc biệt nào chăng, để khi hiểu được, sẽ làm sáng tỏ những hoàn cảnh mà trong đó chúng có dự phần? Khi nghiên cứu tên gọi của những nhân vật nói trên, và diễn giải các tên ấy theo Bảng chỉ mục của Cruden như đã nêu trước đây, chúng ta có thể tìm ra manh mối của vấn đề. Ví dụ như, hãy xem xét ý nghĩa tên những người bạn của Job. Đó là Eliphaz người Teman, Bildad người Shuah, và Zophar người Naamah. Eliphaz người Teman có nghĩa là “Thượng Đế của tôi là vàng,” và cũng có nghĩa là “phía nam,” đối lại với cực bắc. Vàng là biểu tượng của phúc lợi vật chất. Đối cực của tinh thần là vật chất. Vì thế, tên gọi này tượng trưng cho ngoại thể hữu hình của con người, bị thôi thúc bởi những ham muốn sở hữu và tiện nghi vật chất. Zophar người Naamah có nghĩa là “người nói chuyện.” Chủ đề của y là vui thích, tức là ý nghĩa của từ “người Naamah.” Ý nghĩa này tiêu biểu cho thể cảm dục, khi nó khao khát được vui thích, sung sướng và lạc thú. Ý nghĩa này chỉ về tiếng nói và sự kêu gọi không ngớt và liên tục của bản chất xúc cảm, mà tất cả chúng ta ai cũng có. Bildad người Shuah tượng trưng cho bản chất trí tuệ, tức là cái trí, có nghĩa là “ăn năn, hối cải” như y đã làm. Con người chỉ biết ăn năn, hối cải khi cái trí bắt đầu hoạt động (gồm cả lương tâm). Người Shuah có nghĩa là “kiệt lực hay bất lực,” tức là nếu hoạt động một mình, không được giúp đỡ, thì cái trí có thể cho thấy rõ sự việc, nhưng không thể giúp đỡ. Ân hận và buồn khổ, gồm cả ký ức, là kết quả của hoạt động trí tuệ. Thế nên, ba người bạn của Job tiêu biểu cho ba phương diện phàm tính của ông. Chúng ta cũng thấy như thế khi nghiên cứu tên ba người bạn của Daniel. Abednego có nghĩa là “tôi tớ của mặt trời,” hay người phục vụ ánh sáng. Ý nghĩa này tóm lược toàn thể nhiệm vụ và mục đích của con người hồng trần ở ngoại giới. Tên của Shadrach rõ ràng có hàm ý tình cảm, xúc cảm, vì nó có nghĩa là (154) “hoan hỉ trên đường.” Ở bất cứ đâu chúng ta thấy có đề cập đến tính nhị nguyên cơ bản của lạc thú và đau khổ, thì đó là bản chất tình cảm-xúc cảm. Meschach có nghĩa là “nhanh nhẹn,” di chuyển mau lẹ, đây là sự mô tả rất đúng về bản chất trí tuệ. Trong Chí Tôn Ca,[13] Arjuna nói lên điều này khi y thưa với Đức Krishna: “Sự hợp nhất qua nhất quán mà Ngài truyền dạy, . . . thì con không thấy có cơ sở vững chắc nào cả, do cái trí luôn xao động. Thưa Đức Krishna, vì cái trí vốn xao động, náo loạn, bốc đồng, mãnh liệt; và con nghĩ nó khó cầm giữ như là gió vậy.” |
|
Thus in the three friends, and in the various triplicities which we find in the Bible, we discover a symbolism which is vitally illuminating. The three aspects through which the soul must express itself, and through which it must shine, are thus portrayed. It is the same in connection with the three friends of Jesus Christ. I cannot here touch upon the friendships of Jesus Christ. They are very real and very deep, and universal in their inclusiveness. They are timeless and eternal, and the friends of Christ are to be found in every race (Christian or otherwise), in every clime and in both hemispheres. And be it remembered, it is only the friends of Christ who have any right to be dogmatic about Him, or who can speak with any authority of Him and His ideas, because theirs is the authority of love and of understanding. |
Bởi vậy, trong ba người bạn nói trên, và trong những bộ ba khác nhau đã ghi trong Kinh thánh, chúng ta thấy ý nghĩa biểu tượng làm sáng tỏ vấn đề. Ta có sự minh họa ba phương diện mà qua đó, linh hồn phải tự biểu lộ, và chói rạng. Điều này cũng đúng với ba người bạn của Đức Jesus Christ. Ở đây tôi không thể bàn về những tình bạn của Đức Jesus Christ. Những tình bạn ấy đều rất chân thật, sâu xa, phổ quát, và có tính cách bao gồm. Những tình bạn ấy đều phi thời gian và vĩnh cửu, và những người bạn của Ngài có trong mọi chủng tộc (là người Thiên Chúa giáo hay người khác), trong mọi đất nước, và trên cả hai bán cầu. Và xin lưu ý rằng chỉ những người bạn của Đức Christ mới có quyền đưa ra những giáo điều về Ngài, hoặc khả dĩ có thẩm quyền nói về Ngài và các ý tưởng của Ngài, vì đó là thẩm quyền của tình thương và sự cảm thông. |
|
We find also this basic triplicity in the persons of Peter and James and John, and in their names we find the same essential symbolism working out, thus giving us the clue to the meaning of this wonderful story. Peter, as we well know, means “rock.” Here is the foundation, the most concrete aspect, the outer physical form, which, at the Transfiguration, is transformed by the glory of God, so that the outer image disappears, and God Himself shines forth. James, we are told, signifies “illusion,” distortion. Here we have reference to the emotional-feeling body, with its power [155] to misrepresent and to deceive, to mislead and to delude. Where emotion enters in, and where the focus of attention is in sensitive and sensuous reaction, that which is not true rapidly appears, and the man becomes the subject of illusion. It is this body of illusion which is eventually transmuted, and so changed and stabilised that it provides a clear medium for the revelation of deity. John means “the Lord hath spoken,” and herein is the mind nature typified, because it is only when the mental aspect begins to manifest that we have the appearance of speech and of that thinking, speaking animal which we call “man.” So, in the apt symbology of the Scripture, Christ’s three friends stood for the three aspects of His human nature, and it was upon this integrated, focussed and consecrated personality that the transfiguration made its impact and produced revelation. Thus again the essential duality of humanity is revealed through Christ, and His threefold personality and His essential divinity are portrayed for us in such a way that the lesson (and the possibility) cannot be evaded. The Apostles recognised God in their Master, taking their stand upon the fact of this divinity, as have the mystics of all time. |
Chúng ta cũng thấy bộ ba căn bản này trong con người của Peter, James và John. Tên của họ cũng cho ta thấy cùng tính cách biểu tượng cốt yếu như trên, là manh mối để hiểu được ý nghĩa của câu chuyện kỳ diệu này. Như chúng ta đã biết, Peter có nghĩa là “khối đá.” Đây là nền tảng, là phương diện cụ thể nhất, là ngoại thể hồng trần, mà vào cuộc điểm đạo Biến dung được nguồn vinh quang của Thượng Đế biến đổi. Vì thế mà ngoại hình biến mất, và chính Thượng Đế chói rạng. Chúng ta cũng biết, James có nghĩa là “ảo cảm,” méo mó lệch lạc. Đây là chỉ về thể tình cảm-xúc cảm. Nó có khả năng (155) trình bày sai sự thật và lừa gạt, gây lầm lạc và lừa dối. Người nào để cho tình cảm lung lạc, và tập trung chú ý vào những phản ứng xúc động và khoái cảm, thì điều giả trá nhanh chóng xuất hiện, và y bị ảo cảm chi phối. Chính thể ảo cảm này rốt cuộc cũng được siêu hóa, được biến đổi và ổn định đến mức nó trở thành môi trường trong suốt cho thánh linh hiển lộ. John có nghĩa là “lời Chúa đã phán,” tức là tiêu biểu cho bản chất trí tuệ. Bởi vì chỉ khi phương diện trí tuệ bắt đầu biêu hiện, thì mới có lời nói, và con thú biết suy nghĩ, biết nói mới được gọi là “người.” Do đó, qua các biểu tượng thường thấy trong Thánh kinh này, ba người bạn của Đức Christ tiêu biểu cho ba phương diện trong nhân tính của Ngài. Và tiến trình biến dung đã tác động trên cái phàm nhân đã tích hợp, đã tập trung và đã hiến dâng này, để mang lại sự thiên khải. Ở đây, chúng ta lại thấy tính nhị nguyên cốt yếu của nhân loại biểu lộ qua Đức Christ. Phàm nhân tam phân của Ngài và thiên tính tinh túy của Ngài được trình bày theo cách khiến chúng ta có thể chấp nhận bài học (và thấy rõ khả năng) này. Các vị Tông đồ nhận ra Thượng Đế trong Thầy của họ, trụ vững trên sự kiện thực tế về thiên tính này, như các nhà thần bí qua mọi thời đại đã làm. |
|
They “knew Whom they had believed.” [clix]14 They saw the light which shone in the Person of Jesus Christ, and for them He was more than the Person they had known heretofore. Through this experience God became a reality to them. |
Họ “biết Đấng mà họ đã tin tưởng.”[14] Họ thấy ánh sáng chói ngời trong Con Người của Jesus Christ. Bấy giờ, đối với họ Ngài cao siêu hơn là Người mà họ đã biết từ trước đến nay. Qua kinh nghiệm nầy, họ thấy Thượng Đế là điều thực tế. |
|
In the synthesis of the past, the present and the future, Christ and those who were immediately His friends, met with God, and so potent was this combination that it evoked from God Himself an immediate response. When feeling and thought meet in a moment of realisation, there is a simultaneous precipitation of energy, and life is forever after different. That which has been believed is known as fact, and belief is no longer necessary. |
Trong sự tổng hợp quá khứ, hiện tại và tương lai, Đức Christ và những người bạn thân của Ngài đã hạnh ngộ với Thượng Đế. Sự kết hợp này mãnh liệt đến đỗi nó mang lại được sự đáp ứng tức thời của Ngài. Khi xúc cảm và tư tưởng gặp gỡ trong phút giây nhận thức, năng lượng được phóng rải đồng thời, và mãi mãi về sau cuộc đời của hành giả đổi khác. Những gì mà y đã tin, thì nay y biết là điều thực tế, và lòng tin không còn cần thiết nữa. |
|
3 |
3 |
|
[156] |
(156) |
|
The Transfiguration scene was the meeting-ground of significant factors, and since that moment the life of humanity has been radically changed. It was as potent a moment in racial history as the Crucifixion, of more potency perhaps than even that great and tragic happening. Seldom do such moments come. Usually we see only faint glimpses of possibility, rare flashes of illumination, and fleeting seconds wherein a synthesis appears and leaves us with a sense of fitness, of integration, of purpose and of underlying reality. But such moments are rare indeed. We know God is. We know reality exists. But life, with its emphasis directed on phenomena, its stresses and its strains, so preoccupies us that we have no time, after the six days’ labour, to climb the mountain of vision. A certain familiarity with God’s nature must surely precede the revelation of Himself which He can and does at times accord. Christ’s three friends had been admitted to a degree of intimacy with Him which warranted their being chosen as His companions at the scene of His experience, wherein He staged, for the benefit of humanity, a symbolic event as well as a definite experience for which arrangement had duly to be made with the participants correctly chosen and trained, so that the symbolism which they embodied might appear, and their intuitive reactions be rightly directed. It was necessary that Christ should have with Him those who could be depended upon to recognise divinity when it appeared, and whose intuitive spiritual perception would be such that—for all time—the inner meaning might be made apparent to those of us who have followed later in His steps. This is a point at times forgotten. Inevitably “we shall be like Him, for we shall see Him as He is.” [clx]15 |
Khung cảnh Biến dung là nơi tụ hội của những yếu tố có ý nghĩa quan trọng. Từ đó trở đi, cuộc sống của nhân loại đã thay đổi trong tận căn để. Đó là thời khắc cũng trọng đại trong lịch sử nhân loại như sự kiện Thập giá hình, dù có lẽ còn trọng đại hơn sự kiện lớn lao và bi thảm ấy. Những thời khắc như thế ít khi xảy ra. Thường thì chúng ta chỉ thoáng thấy những khả năng, những tia chớp khai ngộ hiếm hoi, và những phút giây bừng hiện sự tổng hợp, cho ta cảm nhận về sự xứng đáng, về sự tích hợp, về mục đích, và thực tại ẩn tàng. Nhưng những giây phút ấy quả là hiếm có. Chúng ta biết rằng Thượng Đế vốn hằng hữu. Chúng ta biết rằng thực tại đang hiện hữu. Thế nhưng, đời sống cứ mãi chú trọng vào những hiện tượng, những bức bách và căng thẳng, đã xâm chiếm tâm trí chúng ta đến đỗi, sau sáu ngày cố gắng vất vả, chúng ta không còn thời gian đâu để leo lên núi và nhìn thấy linh ảnh thiêng liêng. Chắc hẳn rằng chúng ta phải quen thuộc với Thượng Đế tính đến mức nào đó, mới nhận thức được sự thiên khải mà biết bao lần Ngài đã ban bố. Ba người bạn của Đức Christ đã khá thân cận với Ngài nên mới được chọn làm bạn đồng hành trong khung cảnh mà Ngài trải nghiệm. Trong đó, vì lợi ích của nhân loại, Ngài tiến hành một sự kiện có tính cách biểu tượng, cùng với kinh nghiệm xác định, đã dàn xếp kỹ, với những người tham dự được chọn lọc và rèn luyện đúng đắn. Bằng cách đó, họ khả dĩ thể hiện được ý nghĩa biểu tượng, cùng với những phản ứng trực giác vận dụng đúng. Đức Christ cần có những người tùy tùng đủ khả năng nhận biết được thiên tính khi nó xuất lộ, và có nhận thức trực giác tinh thần sao cho họ luôn có thể giải rõ ý nghĩa sâu xa cho những ai về sau theo bước chân Ngài. Đó là điều đôi khi chẳng ai để ý. Tất nhiên là “chúng ta sẽ giống như Ngài, vì chúng ta sẽ thấy được chân tính của Ngài.”[15] |
|
But to bring about this likeness two things are necessary to the consecrated and dedicated disciple. He must be able [157] to see clearly, meanwhile standing in the illumination which radiates from Christ, and his intuition must be active, so that he can rightly interpret what he sees. He loves his Master, and he serves with what faithfulness he can; but more than devotion and service are needed. He must be able to face the illumination, and at the same time he must have that spiritual perception which, reaching out beyond the point to which the intellect can carry him, sees and touches reality. It is love and intellect combined, plus the power to know, which is inherent in the soul, which recognises intuitively that which is holy, universal and real, and yet which is specific and true for all time to all people. |
Để giống như Ngài, người môn đồ đã hiến dâng và tận tụy cần có hai điều. Y phải có khả năng (157) thấy rõ, khi đang ở trong ánh sáng khai ngộ tỏa chiếu từ Đức Christ. Đồng thời, y phải có trực giác linh hoạt để lý giải đúng những gì y thấy. Y yêu thương Thầy của mình, và phụng sự với lòng trung thành tối đa mà y có thể. Y phải có khả năng đối diện với ánh sáng khai ngộ. Đồng thời, y phải có nhận thức tinh thần, vượt xa hơn tầm mức của trí tuệ, để thấy và chạm đến thực tại. Chính nhờ kết hợp tình thương và trí năng, cùng với năng lực hiểu biết, vốn sẵn có trong linh hồn, y mới có thể dùng trực giác để nhận thức những gì thánh thiện, phổ quát và chân thực, nhưng bao giờ cũng cụ thể và đúng với tất cả mọi người. |
|
Christ revealed the quality of the divine nature through the medium of matter, of form, and “was transfigured before them.” |
Đức Christ hiển lộ đặc điểm của bản tính thiêng liêng qua trung gian của vật chất, của sắc tướng, và “được biến dung trước mắt các môn đồ.” |
|
“The Greek word here used is `metamorphosed,’ the very word used by St. Paul to describe the transmutation of the mortal body into the resurrection body; for on the day of fulfilment, when the perfected disciple has attained masterhood, the `Robe of Glory’ shines forth with such splendour through the garment of the flesh that all the beholders perceive it, and, their eyes and ears attuned to finer subtle vibration, they behold their Master in all His divine humanity.” [clxi]16. |
“Từ Hy Lạp được dùng ở đây là ‘chuyển hóa,’ là chính từ ngữ mà Thánh Paul đã dùng để mô tả sự siêu hóa của cơ thể hữu tử thành thể phục sinh. Bởi vì đến ngày hoàn thành viên mãn, khi người môn đồ hoàn thiện đã đạt đến vị thế của chủ nhân, thì ‘Chiếc áo bào Vinh quang’ tỏa chiếu ánh sáng huy hoàng qua lớp áo thân xác. Bấy giờ tất cả những ai nhìn vào đều nhận thức được nguồn vinh quang ấy, đồng thời tai và mắt họ đón nhận sự rung động tinh tế, thanh bai, họ chiêm ngưỡng vị Thầy của mình trong trọn cả nhân tính thiêng liêng của Ngài.”[16] |
|
It is interesting to note that, in spite of their recognition of the significance of the event in which they were participating, the three Apostles, speaking through the mouth of St. Peter, were able to do no more than express their awe and their bewilderment, their recognition and belief. They could not explain or understand what they had seen, nor do we find any record of their ever having done so. The meaning of the Transfiguration is something which has to be wrought out in the life before it can be defined or explained. When humanity as a whole learns to transform the flesh through divine experience, to transmute the feeling nature through divine expression, and to transfer the consciousness [158] away from the world of mundane living into the world of transcendental realities, the true subjective values of this initiation will reveal themselves to the minds of men. Then will come a deeper expression of that which has been intuited. Dr. Sheldon tells us with truth that ”all of the finest human thought and feeling is carried for generations, probably for ages, in intuitional minds, long before it becomes articulate.” [clxii]17 Not yet are we articulate where this experience is concerned. We sense dimly and distantly its wonder and its finality. We have not yet, as a race, passed through the new birth; the Jordan experience is only attained as yet by the few. It is the rare and developed soul which has climbed the Mountain of Transfiguration, and there seen and met with God in the glorified Person of Jesus Christ. We have looked on at this episode through the eyes of others. Peter and James and John, through another apostle, Matthew, have told us about it. We remain as onlookers, but it is an experience in which we shall some day share. This we have forgotten. We have taken to ourselves the language of the fourth great event in Christ’s life, and many of us have attempted to share and enter into the meaning of the Crucifixion. We have looked on at the Transfiguration, but have not attempted to become actively transfigured. But that must some day happen to us, and only after the Transfiguration can we dare to climb Mount Golgotha. Only when we have achieved expression of divinity in and through the lower personal nature shall we have attained to that of worth and value which can be permitted, under the divine Plan, to be crucified. This is a forgotten truth. Yet it is all part of the evolutionary process whereby God is revealed through humanity. |
Điều thú vị cần lưu ý là, thay vì nhận thức được ý nghĩa sâu xa của sự kiện mà họ đang tham dự, theo lời kể của Thánh Peter, ba vị Tông đồ bấy giờ không thể làm gì hơn là tỏ ra kính sợ, bối rối, công nhận và tin tưởng. Họ không thể giải thích hay hiểu được những gì họ đã thấy, và ngày này chúng ta cũng không có bất cứ tài liệu nào về việc họ đã có thể làm điều đó. Ý nghĩa của sự Biến dung là điều phải được thể hiện trong đời sống, trước khi chúng ta có thể xác định hay giải thích nó. Khi toàn nhân loại biết cách chuyển hóa thân xác qua kinh nghiệm thiêng liêng, siêu hóa bản chất xúc cảm qua sự biểu lộ thiêng liêng, và chuyển di tâm (158) thức từ cuộc sống trần gian vào thế giới của các thực tại siêu việt, thì bấy giờ trí tuệ của họ mới thấu đáo được những giá trị đích thực thâm sâu của cuộc điểm đạo này. Bấy giờ sẽ có sự biểu lộ sâu xa hơn của những gì đã được trực nhận. Ts. Sheldon nói lên sự thực rằng “tất cả những tư tưởng và tình cảm cao đẹp nhất của con người được giữ trong tuệ trí qua nhiều thế hệ, rất có thể là qua nhiều thời đại, rất lâu trước khi người ta có thể nói lên.”[17] Chúng ta vẫn chưa nói lên được kinh nghiệm này liên quan đến điều gì. Chúng ta cảm nhận được sự kỳ diệu và tính hoàn thành chung cuộc của nó một cách lờ mờ và xa xôi. Nhân loại chúng ta vẫn chưa được sinh ra lần thứ hai. Kinh nghiệm ở Jordan chỉ mới một ít người đạt được. Một số linh hồn hiếm hoi phát triển cao đã leo lên Ngọn núi Biến dung. Ở đó, họ thấy và diện kiến Thượng Đế qua Con Người vinh quang của Jesus Christ. Chúng ta đã nhìn xem giai đoạn này qua nhãn quan của người khác. Peter, James và John, qua một vị tông đồ khác là Matthew, đã nói cho chúng ta biết về kinh nghiệm đó. Chúng ta vẫn còn là kẻ bàng quan; thế nhưng đó là kinh nghiệm mà một ngày nào đó chúng ta sẽ tham dự. Chúng ta đã quên điều này. Chúng ta nói theo ngôn ngữ của sự kiện lớn thứ tư trong đời của Đức Christ, và nhiều người trong chúng ta cố chia sẻ và thấu hiểu ý nghĩa của Thập giá hình. Chúng ta chỉ nhìn ngắm sự Biến dung, nhưng không cố gắng để được biến dung thực sự. Thế nhưng, một ngày nào đó kinh nghiệm này sẽ xảy ra cho chúng ta. Bởi vì, chỉ sau khi Biến dung, chúng ta mới đủ quả cảm để leo lên Đỉnh núi Golgotha. Chỉ khi chúng ta đã biểu lộ được thiên tính bên trong và qua phàm tính, bấy giờ chúng ta mới xứng đáng để được phép nhận thập giá hình, đúng theo Kế hoạch thiêng liêng. Đây là sự thực bị lãng quên. Dù vậy, nó vẫn là thành phần của diễn trình tiến hóa để nhờ đó mà Thượng Đế hiển lộ thông qua nhân loại. |
|
The great and natural phenomenon which humanity will some day—through self-expression and also under the law—reveal in itself includes the beauty which shone forth from Christ as He stood transfigured before His three [159] friends, was recognised by God His Father, and received the testimony of Moses and Elias, the Law and the Prophets, the past and that which bears witness to the future. |
Hiện tượng vĩ đại và tự nhiên mà một ngày nào đó nhân loại sẽ hiển lộ nơi chính mình – qua sự tự phát biểu và theo thiên luật – bao gồm sự mỹ lệ chói ngời từ Đức Christ khi Ngài được biến dung trước sự chứng kiến của ba (159) người bạn của Ngài. Bấy giờ, Ngài được Đức Chúa Cha công nhận, có sự làm chứng của Moses và Elisas, của Luật pháp và các Sách tiên tri, của quá khứ, và những gì mang chứng cứ cho tương lai. |
|
One point might here be brought out. In the Oriental correspondence to these five crises in the life of Jesus Christ, this third episode is called the “hut” initiation, and the words of St. Peter as he suggests that they should make three “huts,” one for Christ and one for Moses and one for Elias, link up this Christian happening with its ancient prototype. Always, in these rarely occurring events, God has been glorified by the light, ineffable and effulgent, shining forth through the raiment of flesh, and this mountain experience is not uniquely Christian. But Christ was the first to gather together into one sequential presentation all the possible experiences of divinity made manifest, and portrayed them for our edification and inspiration in His life history, and in the five Gospel episodes. More and more men will pass through the birth chamber, enter the stream and climb the mountain, furthering God’s work for humanity; and Christ’s example is rapidly bearing fruit and bringing results. Divinity cannot be gainsaid, and man is divine. If he is not, then the Fatherhood of God is but an empty form of words, and Christ and His Apostles were in error when They recognised, as They constantly did, the fact of our sonship. The divinity of man cannot be explained away. It is either a fact or it is not. God can be known in the flesh through the medium of His children or He cannot. All rests back on God, the Father, the Creator, the One in Whom we live and move and have our being. God is immanent in all His creatures, or He is not. God is transcendent and beyond manifestation, or else there is no basic reality, purpose or origin. Probably the growing recognition in men’s minds that He is both immanent and transcendent is true, and we can take our stand upon His Fatherhood, knowing ourselves to be divine because Christ and the Church of all ages have borne testimony to it. |
Ở đây có một điều cần nêu rõ. Trong giáo huấn Đông phương tương ứng với năm cuộc khủng hoảng trong đời của của Jesus Christ, giai đoạn thứ ba được gọi là cuộc điểm đạo “túp lều.” Vì thế, lời của Thánh Peter đề nghị rằng họ nên dựng ba “chiếc lều,” một cho Đức Christ, một cho Moses và một cho Elisas, đã liên kết sự kiện này của Thiên Chúa giáo với nguyên mẫu cổ xưa của nó. Bao giờ cũng vậy, trong những sự kiện hiếm hoi này, Thượng Đế được tôn vinh bởi ánh sáng, không thể tả, chói rạng và rực rỡ qua lớp áo xác thân. Do đó, sự trải nghiệm trên núi này không phải chỉ riêng của Thiên Chúa giáo. Nhưng Đức Christ là người đầu tiên tổng hợp lại tất cả các kinh nghiệm khả dĩ có về thiên tính biểu hiện, thành một diễn tiến có trình tự. Ngài minh họa chúng để giúp chúng ta mở mang trí tuệ và và có được nguồn hứng khởi trong lịch sử cuộc đời của Ngài và trong năm giai đoạn của câu chuyện Phúc âm. Sẽ ngày càng có nhiều người đi qua căn phòng giáng sinh, đi vào dòng nước tinh luyện và leo lên núi điểm đạo, để xúc tiến công trình của Thượng Đế dành cho nhân loại. Nhờ đó, tấm gương sáng của Đức Christ đang nhanh chóng đơm hoa kết trái với nhiều thành quả. Thiên tính là điều không thể nào chối bỏ, và con người là thiêng liêng. Nếu không, thì vai trò Đấng Cha Lành của Thượng Đế bất quá chỉ là hình thức sáo rỗng của ngôn từ. Nếu không, thì Đức Christ và các Tông đồ của Ngài đã sai lầm khi các vị công nhận, và vẫn thường công nhận, sự thực về tư cách con Thượng Đế của chúng ta. Không thể lý giải cách nào để phủ nhận thiên tính của con người. Nó có thực hoặc là không có thực. Người ta có thể biết được Thượng Đế trong thân xác qua trung gian các con của Ngài, hoặc là không thể. Tất cả cả đều qui về Thượng Đế, Đấng Cha Lành, Đấng sáng tạo, là Đấng mà chúng ta sống, di chuyển, và hiện tồn trong Ngài. Thượng Đế vốn hằng hữu trong mọi tạo vật của Ngài, hoặc không. Thượng Đế vốn siêu việt và cao siêu hơn cuộc biểu hiện; nếu không, thì chẳng có thực tại, mục đích hay nguồn gốc căn bản nào cả. Rất có thể điều nhận thức ngày càng rõ ràng trong tâm trí con người rằng Ngài vừa hằng hữu nội tại và vừa siêu việt, là đúng. Nên chúng ta có thể trụ vững vào vai trò Đấng Cha Lành của Ngài, và biết rằng chúng ta có bản tính thiêng liêng, vì Đức Christ và Giáo hội trong mọi thời đại đã làm chứng cho điều đó. |
|
[160] |
(160) |
|
This time the Word spoken differs from the previous one. The first part of the pronouncement made by the Initiator Who stands silently behind the scenes as Jesus takes initiation after initiation is practically the same as that at the Baptism initiation, except for one expressed command. He said, “This is my beloved Son, in whom I am well pleased,” but added this time, “Hear ye him.” At the first great episode, God the Father, of Whom the Initiator is the symbol, did not make His Presence known. The angels spoke the word, embodying Christ’s mission on His behalf. At the Baptism He accorded recognition, but that was all. At this Initiation, God commanded humanity to pay attention to this particular crisis in the life of Christ and to listen to His words. The power and the right to speak is now conferred upon the Christ, and it is interesting to note that the major part of the teaching (as given in St. John’s Gospel and in many of the parables) was given by Christ only after He had been through this experience. Again God gave evidence that He recognised Christ’s Messiahship, which word is man’s interpretation of the recognition. At the Baptism, He recognised Him as His Son, sent into the world, from the bosom of the Father, to carry out the will of God. That which Christ had recognised in the Temple as a child was later endorsed by God. This recognition is repeated, and the endorsement is strengthened, by the command to the world to hear the words of the Saviour, or perhaps from the esoteric and spiritual standpoint, to hear that Word which was God made Flesh. |
Lần này Linh từ phát ra khác với lần trước. Phần đầu được xướng lên bởi Đấng điểm đạo, Ngài đứng yên lặng đằng sau hiện trường trong khi Jesus nhận từ cuộc điểm đạo này đến cuộc điểm đạo khác, thì thực tế là giống như trong cuộc điểm đạo Báp-têm, chỉ trừ một mệnh lệnh được phát biểu rõ ràng. Ngài phán rằng “Này là Con trai yêu dấu của ta, được lòng ta mọi đàng.” Nhưng lần này thì có thêm “Hãy nghe con ta.” Vào giai đoạn trọng đại thứ nhất, Đức Chúa Cha, là Đấng Chí Tôn mà Đấng điểm đạo chỉ là biểu tượng của Ngài, không hề cho thấy sự Hiện diện của Ngài. Chỉ có các thiên thần xướng lên linh từ, nêu rõ sứ mệnh mà Đức Christ thực hiện thay mặt cho Ngài. Trong cuộc Điểm đạo Báp-têm, Ngài chuẩn nhận, nhưng tất cả chỉ có thế. Vào cuộc điểm đạo này, Ngài truyền cho nhân loại hãy chú ý đến cuộc khủng hoảng đặc biệt này trong đời của Đức Christ, và hãy lắng nghe lời giảng dạy của Ngài. Nay Đức Christ được ban cho năng lực và quyền thuyết giảng. Điều thú vị là phần lớn giáo huấn (ghi trong sách Phúc âm của Thánh John và trong nhiều câu chuyện ẩn dụ) đã được Đức Christ đưa ra sau khi Ngài trải qua kinh nghiệm này. Trong cuộc điểm đạo Báp-têm, Ngài nhìn nhận Đức Christ là Con của Ngài, từ trong lòng Đấng Cha Lành được gửi đến thế gian, để thực thi Thiên ý. Điều mà Đức Christ nhìn nhận tại Đền thờ khi Ngài còn là đứa trẻ, thì về sau được Thượng Đế chuẩn nhận. Sự nhìn nhận này được lặp lại, và sự chuẩn nhận được nhấn mạnh qua lệnh truyền cho thế gian hãy nghe lời giảng dạy của Đấng cứu thế. Có lẽ, nói theo quan điểm tinh thần và nội môn, tức là nghe Linh từ mà vốn là Thượng Đế lâm phàm. |
|
“There is in fact an inward connection between the Baptism and the Transfiguration. In both cases a condition of ecstasy accompanies the revelation of the secret of Jesus’ person. The first time the revelation was for him alone; here the Disciples also shared it. It is not clear to what extent they themselves were transported by the experience. So much is sure, that in a dazed condition, out of which they awake only at the end of the scene (St. Mark, IX:8.) the figure of Jesus appears to them illuminated by a supernatural light and glory, and a voice intimates that he is the Son of God. [161] The occurrence can be explained only as the outcome of great eschatological excitement.” [clxiii] 18 |
“Thực ra, vốn có mối liên kết nội tại giữa Lễ Rửa tội và Lễ Biến dung. Trong cả hai trường hợp, tình trạng thoát trần kèm theo sự thiên khải điều bí ẩn trong cá nhân Jesus. Lần thứ nhất, sự thiên khải chỉ dành cho riêng Ngài. Nhưng lần này có các môn đồ chia sẻ. Người ta không biết rõ là kinh nghiệm ấy đã ảnh hưởng đến chính họ như thế nào. Nhưng phần lớn chắc hẳn đó là sự sững sờ, kinh ngạc, mà chỉ đến thời gian cuối họ mới bừng tỉnh ra khỏi tâm thái đó (Thánh Mark IX, 8.). Hình ảnh của Jesus xuất hiện trước mặt họ, chói ngời ánh sáng và nguồn vinh quang siêu nhiên, đồng thời có tiếng nói cho biết rằng Ngài là Con của Thượng Đế. (161) Chỉ có thể lý giải sự việc xảy ra này là kết quả của sự phấn khích lớn lao về kỳ phán xét cuối cùng.”[18] |
|
The same writer goes on to point out: |
Tác giả này còn nói thêm: |
|
“We have therefore three revelations of the secret of messiahship, which so hang together that each subsequent one implies the foregoing. On the mountain near Bethsaida was revealed to the Three the secret which was disclosed to Jesus at his baptism. That was after the harvest. A few weeks later it was known to the Twelve, by the fact that Peter at Caesarea Phillippi answered Jesus’ question out of the knowledge which he had attained upon the mountain. One of the Twelve betrayed the secret to the High Priest. This last revelation of the secret was fatal, for it brought about the death of Jesus. He was condemned as messiah although he had never appeared in that role.” [clxiv]19 |
“Do đó, chúng ta có ba sự khải thị về bí ẩn của vai trò cứu thế, vốn liên kết chặt chẽ với nhau đến đỗi lần khải thị đến sau thì hàm chứa ý nghĩa của lần trước. Trên ngọn núi gần Bethsaida, ba người môn đồ được khải thị điều bí mật mà đã được tiết lộ cho Đức Jesus khi Ngài chịu phép báp-têm. Điều đó xảy ra sau mùa gặt hái. Vài tuần sau, Mười hai người môn đồ được cho biết điều bí mật này. Vì thực tế là Peter tại Caesarea Phillippi đã trả lời câu hỏi của Đức Jesus theo những điều mà ông hiểu biết trên núi. Một người trong Mười hai môn đồ phản bội và tiết lộ điều bí mật ấy cho Thầy Cả. Việc tiết lộ sau cùng điều bí mật này gây hậu quả thảm khốc, vì nó dẫn đến cái chết của Đức Jesus. Ngài bị cáo buộc là đấng cứu thế, dù Ngài chưa bao giờ xuất hiện trong vai trò đó.”[19] |
|
This evokes in its entirety the question as to the nature of that mission which Christ came to forward, and what constituted the Will of God which He came to fulfil. Three major points of view usually held by the orthodox Christian might be enumerated as follows: |
Trọn cả điều này đặt ra vấn đề về tính chất của sứ mệnh mà Đức Christ đến để xúc tiến, và thế nào là Thiên ý mà Ngài đến để hoàn thành. Người Thiên Chúa giáo chính thống thường có ba quan điểm sau đây: |
|
1. He came to die upon the Cross to appease the wrath of an angry God, and make it possible for those who believe in Him to go to Heaven. |
1. Ngài đến để chết trên Thập từ giá nhằm xoa dịu cơn thịnh nộ của một vị Thượng Đế đầy sân hận, nhờ đó mà những ai tin vào Ngài có thể lên Thiên đường. |
|
2. He came to show us the real nature of perfection and how, in human form, divinity might be manifested. |
2. Ngài đến để cho chúng ta thấy thực tính của sự hoàn thiện, và bằng cách nào mà thiên tính có thể biểu hiện trong hình hài con người. |
|
3. He came to leave us an example that we should follow in His steps. |
3. Ngài đến để nêu gương cho chúng ta thấy rằng chúng ta cần đi theo bước chân Ngài. |
|
Christ Himself laid no emphasis upon the death on the Cross as being the apex of His life work. It was the result of His life work, but not that for which He came into the world. He came that we might have “life abundantly,” and St. John tells us in his Gospel that the new birth is dependent [162] upon belief in Christ, when power is given to us to “become the Sons of God, even to them that believe on his name, which were born, not of blood, nor of the will of the flesh, nor of the will of man, but of God.” [clxv]20 |
Chính Đức Christ đã không hề nhấn mạnh rằng sự chết trên Thập tự giá là tột đỉnh công việc của cuộc đời Ngài. Đó chỉ là kết quả của công việc ấy, và không phải vì thế mà Ngài đến cõi đời này. Ngài đến để chúng ta khả dĩ có được “sự sống phong phú hơn.” Và trong sách Phúc âm của ông, Thánh John cho chúng ta biết rằng việc sinh ra lần thứ hai (162) tùy theo niềm tin vào Đức Christ, khi chúng ta được cho có quyền “trở thành Con của Thượng Đế, thậm chí cho những kẻ tin vào danh Ngài, họ được sinh ra lần thứ hai, chẳng phải do máu huyết, chẳng phải do ý muốn của nhục thể, hay do ý chí của con người, mà chỉ do Thượng Đế.”[20] |
|
Is it not reasonable for us to gather from these words that when a man reaches the point of recognising and believing in the cosmic Christ, “the Lamb slain from the foundation of the world,” [clxvi]21 then the new birth becomes possible, for the life of that universal Christ, animating every form of divine expression, can then consciously and definitely carry the man forward into a new manifestation of divinity? The “blood is the life,” [clxvii]22 and it is the living Christ that makes it possible for all to become citizens of that kingdom. It is the life of Christ in each of us which makes us sons of the Father, not His death which makes us sons. Nowhere in the Gospel story does an opposite statement find support. Christ, at the communion service, gave His disciples the cup to drink, saying “This is my blood of the new testament, which is shed for many for the remission of sins.” [clxviii]23 But these are His only references to blood in its remedial aspect, so strongly emphasised in the Epistles, and He Himself nowhere correlates blood with the Crucifixion. He speaks in the present tense, and does not relate the blood to the new birth or to the Crucifixion, or make it a factor in the exclusiveness which has so deeply coloured the presentation of Christianity in the world. |
Chẳng hợp lý hay sao khi từ những điều nói trên, chúng ta thấy rằng người đến trình độ nhận biết và tin vào Đấng Christ vũ trụ, là “Con Cừu chịu hy sinh từ khi hình thành thế giới,”[21] thì có thể được sinh ra lần thứ hai, vì sự sống của Đấng ấy, vốn làm sinh động mọi hình thể biểu lộ thiêng liêng, bấy giờ có thể hữu ý và chắc chắn đưa y đi tới để biểu hiện thiên tính một cách mới mẻ hơn? “Máu huyết là sự sống,”[22] và chính Đức Christ hằng sống giúp cho tất cả chúng ta trở thành công dân của Thiên giới. Chính sự sống của Đức Christ trong mỗi chúng ta khiến chúng ta là con của Đấng Cha Lành, chứ chẳng phải sự chết của Ngài đã làm điều đó. Không nơi nào trong câu chuyện Phúc âm lại tán thành lời phát biểu trái ngược vừa kể. Trong lễ ban thánh thể, Đức Christ trao chén rượu cho các môn đồ uống, và nói “Đây là máu huyết trong sự giao ước mới của ta, đổ ra cho nhiều người được xá tội.”[23] Thế nhưng, nói lên những lời này, Ngài chỉ nói đến máu huyết để cứu chuộc, vốn được nhấn mạnh rất nhiều trong Thư các Sứ đồ. Vì ở bất cứ đâu chính Ngài cũng không hề nói đến sự liên hệ của máu huyết ấy với Thập giá hình. Ngài cũng không khiến cho máu huyết ấy trở thành một yếu tố loại trừ mà vốn rất rõ nét trong việc trình bày Thiên Chúa giáo trên thế giới. |
|
It is the Christ life in all forms which constitutes the evolutionary urge. It is the Christ life which makes the steadily unfolding expression of divinity possible in the natural world. It is deep within the heart of every man. The Christ life brings him eventually to the point where he transits out of the human kingdom (when the work of normal evolution has done its part) and leads him into the [163] kingdom of spirit. The recognition of the Christ life within the form of man makes every human being, at some time, play the part of the Virgin Mary to that indwelling reality. It is the Christ life which, at the new birth, comes to fuller expression, and from crisis to crisis leads on the developing son of God until he stands perfected, having achieved “the measure of the stature of the fullness of Christ.” [clxix]24 |
Chính sự sống Christ trong mọi hình hài sắc tướng là sức thôi thúc muôn loài tiến hóa. Chính sự sống Christ khiến cho sự phát triển khai mở thiên tính có thể liên tục xảy ra trong cõi giới thiên nhiên. Sự sống này ẩn sâu trong tâm hồn mỗi người. Nhờ sự sống Christ mà rốt cuộc y đạt đến trình độ ra khỏi giới nhân loại (khi đã hoàn tất cuộc tiến hóa bình thường), rồi đi vào (163) giới tinh thần. Đến lúc nào đó, mỗi người sẽ nhận thức được sự sống Christ nơi chính mình, và đóng vai trò Đức Mẹ Đồng trinh đối với sự sống ấy. Vào lúc sinh ra lần thứ hai, chính sự sống Christ bắt đầu biểu lộ đầy đủ hơn. Từ cuộc khủng hoảng này đến cuộc khủng hoảng khác, sự sống này hướng dẫn những người con đang phát triển của Thượng Đế cứ tiếp tục đi tới cho đến mức “hoàn thành viên mãn của Đức Christ.”[24] |
|
We shall see later that upon the revelation of the risen Christ must the new world religion take its stand. Christ upon the Cross, as will appear when we study the next great crisis, showed us love and sacrifice carried to their extreme expression; but Christ alive from all time, and vitally alive today, is the keynote of the new age, and upon this truth must the new presentation of religion be built and, later, the new theology be constructed. The true meaning of the Resurrection and the Ascension has not yet been grasped; as a divine subjective reality those truths still await revelation. The glory of the new age will be the unveiling of those two mysteries, and our entrance into a fuller understanding of God as life. The true Church of Christ is the assembly of all who live through the life of Christ, and whose life is one with His. This will be increasingly realised and will bring forth into clearer and more radiant light the wonder and glory which lies, unrevealed as yet, in God the Father. |
Ở phần sau chúng ta sẽ thấy rằng nền tân tôn giáo của thế giới phải đứng trên lập trường sự hiển lộ của Đức Christ phục sinh. Khi nghiên cứu cuộc khủng hoảng lớn kế tiếp, chúng ta sẽ thấy Đức Christ trên Thập tự giá, Ngài biểu lộ tình bác ái và sự hy sinh đến mức cực kỳ sâu rộng. Thế nhưng, Đức Christ hằng sống qua mọi thời đại, và ngày nay Ngài đang cực kỳ sống động, là chủ âm của thời đại mới. Việc trình bày tôn giáo theo lối mới phải dựa trên sự thực này, và cũng dựa vào đó để về sau lập nên nền thần học mới. Người ta vẫn chưa hiểu được thực nghĩa của sự Phục sinh và sự Thăng thiên. Là thực tế nội tại thiêng liêng, các chân lý này sẽ đến lúc được hiển lộ. Nguồn vinh quang của thời đại mới sẽ là sự khai thị của hai điều bí nhiệm vừa kể, và chúng ta sẽ hiểu rõ hơn rằng Thượng Đế là sự sống. Giáo hội đích thực của Đức Christ là sự tụ hội những người đang sống với sự sống Christ, và đời sống của họ là một với đời sống của Ngài. Mọi người sẽ ngày càng nhận thức được điều này, nhờ đó mà những gì kỳ diệu và vinh quang trong Đức Chúa Cha còn chưa biểu lộ, sẽ sáng tỏ hơn với ánh quang huy ngày càng thêm chói rạng. |
|
It is only the man who has understood something of the value of the Transfiguration initiation and the nature of the perfection then revealed who can follow along with Christ, to the vision which was accorded Him as He came down from that high point of achievement, and can later share with Him an understanding of the nature of world service. This world service is rendered perfectly by those whose inner perfection is approximate to Christ’s and whose lives are controlled by the same divine impulses and subordinated to the same vision. This stage connotes that complete spiritual freedom which we must eventually reach. [164] Now the time has come for human beings to leave off believing, and pass on to true knowledge, through the method of thought, reflection, experiment, experience and revelation. The immediate problem for all who are seeking this new knowledge, and who desire to become conscious knowers instead of faithful believers, is that they should achieve it in the world of every-day. After each expansion of consciousness and each unfoldment of a deepened awareness we return, as Christ did, to the plains of every-day life, and there subject our knowledge to the test, discover its reality and truth, and find out also wherein lies for us our next point of expansion, and what new knowledge must be acquired. The task of the disciple is the understanding and the use of his divinity. The knowledge of God immanent, yet based on a belief in God transcendent, is our endeavour. |
Chỉ những ai đã hiểu được đôi điều về cuộc điểm đạo Biến dung, và tính chất của sự hoàn thiện bấy giờ được khai thị, mới có thể theo bước Đức Christ. Do đó, họ có thể thấy được linh ảnh đã chuẩn nhận cho Ngài khi Ngài xuống với thế gian từ mức độ thành tựu cao siêu ấy. Về sau họ mới có thể chia sẻ sự hiểu biết của Ngài về công cuộc phụng sự thế gian. Công cuộc này chỉ được thực hiện hoàn hảo bởi những ai có sự hoàn thiện nội tâm gần với sự hoàn thiện của Đức Christ. Đồng thời, cuộc sống của họ cũng chịu cùng sự thôi thúc thiêng liêng và theo cùng viễn ảnh thiêng liêng như Ngài. Giai đoạn này bao hàm sự giải thoát tinh thần trọn vẹn mà rốt cuộc chúng ta phải đạt. (164) Nay đã đến lúc mà mọi người không còn cần tin nữa. Họ tiến đến sự hiểu biết đích thực, qua phương pháp tư duy, quán tưởng, thực nghiệm, trải nghiệm, và hiển lộ. Tất cả họ đều tìm kiếm sự hiểu biết mới mẻ này, và muốn trở thành người tri giả hữu thức thay vì chỉ là người tín đồ thuần thành. Vấn đề khó khăn ngay trước mắt của họ là làm thế nào đạt được nó trong đời sống hằng ngày. Sau mỗi lần mở mang tâm thức, và mỗi lần khai mở ý thức thâm sâu, chúng ta đi xuống vùng bình nguyên của đời sống hằng ngày như Đức Christ đã làm. Ở đó, những gì chúng ta đã hiểu biết sẽ được trắc nghiệm, để chúng ta khám phá ra thực tính và chân lý của nó. Đồng thời chúng ta cũng tìm thấy trong đó trình độ mở mang kế tiếp, và những hiểu biết mới nào cần hoạch đắc. Nhiệm vụ của người đệ tử là thấu hiểu và sử dụng thiên tính của mình. Chúng ta cần cố gắng hiểu biết Đấng Thượng Đế hằng hữu nội tại, đồng thời vẫn trụ vững đức tin vào Đấng Thượng Đế siêu việt. |
|
This was the experience of the Apostles upon the mountain-top. We are told that “when they had lifted up their eyes, they saw no man, save Jesus only.” [clxx]25 The familiar appeared to them again. It is of real interest to compare a somewhat similar story related in The Bhagavad Gita, wherein Arjuna has had revealed to him the glorious form of the Lord. At the close of the revelation God, in the person of Krishna, says to him, with tenderness and understanding, “Let not fear nor confusion overcome thee, beholding My form so terrible! Behold my former shape once more, thy fear gone, thy heart at rest!” and then he goes on to tell him: |
Đây là kinh nghiệm của các vị Tông đồ trên đỉnh núi. Chúng ta đã biết rằng “khi họ ngước mắt nhìn lên, họ không thấy ai cả, ngoài Đức Jesus.”[25] Họ thấy trở lại điều quen thuộc. Thực là hữu ích khi so sánh với câu chuyện khá tương tự ghi trong Chí Tôn Ca, khi Arjuna được khai thị cho thấy hình thể huy hoàng của Đấng Chí tôn. Khi sự khai thị này kết thúc, Thượng Đế, với tư cách Đức Krishna, nói với Arjuna một cách dịu dàng và thông cảm “Con đừng để cho nỗi sợ hãi và bối rối làm lung lạc, mà nhìn hình thể này của Ta một cách kinh khủng! Hãy nhìn lại lần nữa hình thể trước đây của Ta, để con không còn sợ hãi, và thấy an tâm!” Rồi Ngài tiếp tục bảo y: |
|
“This form of Mine which thou hast seen is hard indeed to see! Even the Gods ever desire a sight of this form! Nor can I be seen thus through Vedas, penances, gifts, sacrifices, in the form which thou hast seen. But I can be known thus through single-hearted love, Arjuna, and seen as I truly am, and entered, O Consumer of the foe!” [clxxi]26 |
“Hình thể này của Ta mà con đã thấy, thì thực là khó nhìn! Vậy mà ngay cả các vị Thần cũng đã từng mong muốn thấy được hình thể này! Ta cũng không được thấy như thế qua kinh Vệ Đà, qua việc tự hành xác để ăn năn hối lỗi, qua lễ vật cúng dường, hoặc hy sinh, trong hình thể mà con đã thấy. Nhưng hỡi Arjuna, ai có lòng yêu thương trọn vẹn thì có thể biết Ta như thế, thấy được và nhập vào chân tính của Ta, hỡi Kẻ tiêu diệt hận thù!”[26] |
|
The Word of Recognition had gone forth, and the command to hear the Christ had been given. Jesus having returned [165] ”to His proper form,” the descent from the mountain had to follow. Then occurred what might be regarded as a great, sad, spiritual reaction, inevitable and terrible, expressed by Christ in the following words: |
Linh từ Công nhận đã được phán truyền, cùng với mệnh lệnh cho chúng ta hãy nghe lời dạy của Đức Christ. Jesus đã (165) trở về với “hình thể cố hữu của mình,” rồi xuống núi. Sau đó xảy ra điều có thể xem như là phản ứng tinh thần nặng nề và buồn thảm, kinh khủng và không thể tránh, mà Đức Christ đã nói lên: |
|
“The Son of Man shall be betrayed into the hands of men, and they shall kill him, and the third day he shall be raised again.” [clxxii] 27 |
“Con Người sẽ bị phản bội vào giao vào tay kẻ dữ. Họ sẽ giết Người, và đến ngày thứ ba Người Sẽ sống lại.”[27] |
|
Then comes the simple comment that the disciples “were exceedingly sorry.” This vision of Christ’s, if we trace it in the records, fell into two parts. First, He had a vision of achievement. The mountain-top achievement, a great spiritual experience, lay behind Him. Now He has a vision of a physical consummation in the form of the triumphal entry into Jerusalem. But this is accompanied by a presentiment or a prevision of the culmination of His life of service upon the Cross. He saw clearly, perhaps for the first time, what lay ahead of Him, and the direction in which His service to the world was leading Him. The via dolorosa of a World Saviour stretched out before Him; the destiny of all pioneering souls climaxed in His experience, and He saw Himself rejected, pilloried and killed, as have many lesser sons of God. World rejection always precedes world acceptance. Disillusionment is a stage on the way to reality. The hatred of those who are not yet ready to recognise the world of spiritual values is ever the lot of those who are. This, Christ faced, and yet “He steadfastly set His face to go to Jerusalem.” [clxxiii]28 |
Rồi đến lời nhận xét đơn giản là các môn đồ “hết sức hối tiếc.” Có lời ghi chép rằng linh ảnh này của Đức Christ gồm hai phần. Thứ nhất, Ngài nhìn thấy sự thành tựu. Sự thành tựu trên đỉnh núi, một kinh nghiệm tinh thần trọng đại mà Ngài đã trải qua. Giờ đây, Ngài lại thấy một thành quả hồng trần dưới hình thức đi vào thành Jerusalem một cách vẻ vang. Nhưng kèm theo đó là linh cảm cho Ngài thấy trước rằng cuộc đời phụng sự của mình lên đến tột đỉnh trên Thập tự giá. Có lẽ lần đầu tiên Ngài thấy rõ những gì đang chờ Ngài. Trước mắt Ngài trải dài con đường đau khổ của vị Cứu thế. Vận mệnh của tất cả các linh hồn tiền phong đi đến cực điểm trong kinh nghiệm của Ngài. Ngài thấy mình bị chối bỏ, bêu riếu, giết hại như nhiều người con của Thượng Đế ở trình độ thấp kém hơn đã từng phải chịu. Bao giờ họ cũng phải bị thế gian chối bỏ trước khi được mọi người chấp nhận. Bàn hoàn thất vọng là một giai đoạn trên đường đi đến thực tại. Những ai chưa nhận thức được thế giới các giá trị tinh thần thì bao giờ cũng thù ghét những người đã nhận thức được. Đức Christ phải đối mặt với điều này, nhưng “Ngài vẫn chăm chăm đi đến Jerusalem.”[28] |
|
As we consider these happenings, the particular test which Christ now encountered becomes clear in our minds. It was again a threefold test, as was that after the Baptism initiation; but this time it was of a far subtler nature. He was faced with the test as to whether He could endure and handle worldly success, and pass along the triumphant way of His entry into the Holy City, without deviating from[166] His purpose, without being attracted by material achievement and by being acclaimed King of the Jews. Success constitutes a far more drastic disciplining, and produces many more opportunities to forget God and reality than do failure and neglect. Self-pity, a sense of martyrdom, and resignation are potent and effective ways of handling one’s failure. But to rise upon the crest of the wave, to be accorded public recognition, and to seem to have achieved the earthly goal are far more difficult factors to face. These Christ did face, and He faced them with spiritual poise and with that far-sighted wisdom which produces a correct sense of values and a proper sense of proportion. |
Khi xem xét những sự việc xảy ra này, chúng ta thấy rõ sự thử thách đặc biệt mà nay Đức Christ phải chịu. Đây cũng là sự thử thách gồm ba phương diện, như trong cuộc điểm đạo Báp-têm. Nhưng lần này có tính cách tinh tế hơn nhiều. Ngài đối mặt với sự thử thách đó để cho thấy rõ liệu Ngài có thể chịu đựng và xử lý được chăng những thành công trong đời, và trong chuyến đi một cách vẻ vang vào Thánh Địa, mà không xa rời (166) mục đích của mình, hay bị hấp dẫn bởi thành tựu vật chất, và vì được tung hô là Vua dân Do Thái. Khi thành công, hành giả phải nghiêm trì giới luật nhiều hơn, vì nó cũng đưa đến những dịp khiến y quên đi Thượng Đế và thực tại nhiều hơn là khi y thất bại và bị bỏ rơi. Tư tưởng thương thân xót phận, cảm thức tuẫn đạo, nhẫn nhục là những cách dễ dàng và hiệu quả để xử lý sự thất bại của mình. Thế nhưng, lên đến đỉnh cao của triều sóng, được mọi người công nhận, và có vẻ đạt mục đích ở cõi trần, là những điều còn khó đối phó hơn nhiều. Đức Christ đã đối phó với những điều này, và đối phó với chúng trong sự thăng bằng tinh thần, và nguồn minh triết sâu rộng, kèm theo ý thức giá trị đúng đắn, và ý thức cân đối tỉ lệ thích hợp. |
|
The second phase of the test lay in His prevision as to His end. He knew He had to die, and He knew how He would die, and yet He went forward undeviatingly upon the course assigned Him, although prevision of disaster was His. Not only had He to demonstrate the power to endure success, but He had also to demonstrate the power to face disaster, balancing the two against each other and seeing in both of them simply opportunities for divine expression and fields for the demonstration of detachment—that outstanding characteristic of the man who has been born again, purified and transfigured. To these tests was added the one which He had before encountered in the desert, the test of utter loneliness. The power to endure success! The power to endure disaster! The power to stand utterly alone! This, Christ had to show the world, and this He did. He stood triumphant before the world, at an intermediate stage on His way to the Cross. The agony of loneliness in the Garden of Gethsemane was probably a far harder moment for Him than the publicity on Mount Golgotha. But in these more subtle tests the quality of God Himself was revealed, and it is God’s quality and meaning which save the world—the quality of His life, which is Love and Wisdom and Value and Reality. It was all of this which Christ accomplished. |
Giai đoạn hai trong cuộc thử thách của Ngài là Ngài thấy trước sự kết thúc của mình. Ngài biết mình phải chết và chết cách nào. Nhưng Ngài vẫn đi tới, không hề lay chuyển, trên cuộc hành trình đã định, dù đã thấy trước tai họa của mình. Không những Ngài phải chứng tỏ có năng lực bền lòng trước sự thành công, mà còn phải tỏ ra có năng lực đối diện với tai họa. Ngài cân đối hai điều này với nhau, xem cả hai đều chỉ là dịp để biểu lộ bản tính thiêng liêng, đồng thời là những trường hợp để bày tỏ hạnh từ bỏ – là đặc trưng nổi bật của người đã được sinh ra lần thứ hai, đã tinh luyện, và biến dung. Ngoài những thử thách vừa kể, còn có thử thách mà trước đây Ngài đã đối mặt trong sa mạc, thử thách về tình trạng hoàn toàn cô đơn. Năng lực bền lòng trước thành công! Năng lực vững lòng trước tai họa! Năng lực đứng vững khi hoàn toàn cô đơn! Đức Christ phải chứng tỏ năng lực này cho thế gian thấy, và Ngài đã làm. Ngài đứng vững vàng một cách vẻ vang trước mắt thế gian, trong giai đoạn trung gian, trên đường đi đến Thập tự giá. Rất có thể nỗi thống khổ, cô đơn trong vườn Gethsemane là thời khắc thương khó cho Ngài nhiều hơn là bị bêu riếu trên Đỉnh núi Golgotha. Nhưng trong những thử thách tinh tế hơn vừa kể, phẩm tính của chính Thượng Đế được hiển lộ. Và chính phẩm tính và chủ đích của Thượng Đế mới cứu rỗi thế gian – phẩm tính sự sống của Ngài, tức là Bác ái và Minh triết, Giá trị và Thực tại. Đức Christ đã hoàn thành tất cả những điều này. |
|
Immediately, on the descent from the mountain-top, Christ [167] began again to serve. He was met, as well we know, by a person in distress, and He at once responded to the need. One of the outstanding characteristics of each initiation is the increased capacity and ability of the initiate to serve. Christ demonstrated an entirely new and unique way in which to speak and to meet the masses, as well as to teach privately and personally His chosen few. His power to heal still continued, but His work shifted into a field of new values, and He spoke those words and enunciated those truths which have proved the foundation of the belief of those who have had the insight to penetrate the theological presentation of Christianity and there find reality. His service consisted primarily at the time in teaching and speaking. But such is the wisdom and the beauty of His presentation of truth, He couched divinity in forms which the average man could grasp. He bridged the old and the new, and gave out that new truth and that special revelation which were needed at the time to unite the ancient wisdom and the more modern hope. Keyserling has grasped the wonder of what the World-Saviour does, and voices it in words which I quote: |
Ngay sau khi đi xuống từ đỉnh núi, Đức Christ (167) lại bắt đầu phụng sự. Chúng ta biết rằng Ngài gặp một người đang khốn khổ, và Ngài liền đáp ứng ngay nhu cầu. Một trong những đặc trưng nổi bật của mỗi cuộc điểm đạo là làm gia tăng khả năng và năng lực phụng sự của người điểm đạo đồ. Đức Christ cho thấy một phương cách hoàn toàn mới và độc đáo. Ngài nói chuyện và gặp gỡ đại chúng, đồng thời vẫn giáo huấn riêng cho một số ít cá nhân mà Ngài chọn. Quyền năng chữa bệnh của Ngài vẫn tiếp tục, nhưng công việc của Ngài chuyển sang một lĩnh vực giá trị mới. Ngài đưa ra những lời dạy và phát biểu các chân lý mà vốn đã tỏ ra là nền tảng cho niềm tin của những người có khả năng thấu hiểu những trình bày thần học của Thiên Chúa giáo, và tìm thấy thực tính trong đó. Vào thời gian này, công tác phụng sự của Ngài chính yếu là gồm việc giảng dạy và trò chuyện. Nhưng nhờ sự minh triết và mỹ lệ trong cách Ngài trình bày chân lý, nên Ngài diễn đạt thiên tính theo hình thức mà người bình thường có thể hiểu. Ngài đưa ra chân lý mới với sự khải thị đặc biệt, cần thiết vào thời gian đó để kết hợp nền minh triết cổ xưa và những triển vọng mới mẻ hơn. Keyserling hiểu được sự kỳ diệu trong những gì mà Đấng Cứu thế thực hiện, và diễn tả trong những lời trích dẫn dưới đây: |
|
“… the great mind is essentially the Awakener. If such a mind were to utter the entirely new, the unique, this would mean nothing to other men. His social value depends entirely on his ability to utter clearly what all feel in their innermost hearts to be true—for could he otherwise be understood?—and to utter it in so universal a manner, that is, so much in tune with the objective laws in question, that his ideas become organs for the others.” [clxxiv]29 |
“. . . bậc đại trí này chính yếu là Vị khai ngộ. Nếu Ngài nói lên điều hoàn toàn mới và độc đáo thì người khác sẽ không hiểu gì cả. Giá trị xã hội của Ngài hoàn toàn dựa vào khả năng Ngài có thể nêu rõ những điều gì mà tất cả mọi người đều cảm thấy là đúng thực trong tận thâm tâm của họ – vì Ngài có thể làm cho họ hiểu mình bằng cách nào khác chăng? Ngài cũng nói lên điều đó theo cách hết sức phổ quát, hết sức phù hợp với các luật khách quan và hiện hành, đến đỗi các ý tưởng của Ngài trở thành cơ sở ngôn luận cho người khác.”[29] |
|
Christ gave us a great idea. He gave us the new concept that God is Love, no matter what might be happening in the world of immediacy. All great ideas come forth from the world of divinity through the medium of the great Intuitives, and the history of humanity is essentially the history of ideas—their coming forth through the medium of some intuitive thinker, their recognition by the few, their growth[168] in popularity, and their eventual integration in the thought world, the pattern world of the thinkers of the race. Then their fate is determined, and eventually the new and unique idea becomes the popularly and publicly accepted model of human conduct. “To the question, then, whether it is personalities or ideas which decide the fate of an age, the answer is that the age get its ideas from personalities.” [clxxv]30 Christ embodied a great idea, the idea that God is Love, and that love is the motivating power of the universe. This constitutes the illumination which Christ as the Light of the World refracted upon all world events. The majesty of this realisation cannot be over-emphasised. We need to realise it far more deeply and potently than we do, for it constitutes the basic, fundamental character and quality of all events, no matter what the outer appearance may be. Christ illumines life. This was one of His most important contributions to life as it is lived today. He said in effect: God loves the world; all that happens is along the line of love. If this is realised as fact and fundamental truth, it illumines all of life and lightens all burdens; cause and effect are brought together, and God’s purpose and His method are seen as one. Theologians have often forgotten this as they have struggled over the more technical aspects of Christ’s life. What He illumined in His function as the “Light of the World,” what He received of divine Light and poured forth for the world, what He refracted, is often overlooked in the struggle to prove such doctrines as the fact that the Virgin Mary was an immaculate virgin, and Christ was therefore born through the medium of an immaculate conception. Today only a few of the younger generation care much about such points of doctrine. Let us state that quite emphatically. But we do care that the love which He expressed should be demonstrated in the world and that the illumination He carried should “lighten our darkness.” |
Đức Christ trao cho chúng ta một ý tưởng vĩ đại. Ngài đưa ra khái niệm mới rằng Thượng Đế là Bác ái, dù điều gì có xảy ra trên thế giới ngay trước mắt. Tất cả các ý tưởng vĩ đại đều đến từ thế giới của thiên tính qua trung gian của những Bậc huệ giác cao cả. Thế nên, lịch sử của nhân loại chính yếu là lịch sử của các ý tưởng – chúng được phát biểu qua một số nhà tư tưởng có khả năng trực giác. Lúc đầu chúng được một số ít người nhận thức, rồi ngày càng (168) trở nên phổ biến, để rốt cuộc tích hợp vào thế giới tư duy và các mô hình của những nhà tư tưởng trong nhân loại. Sau đó, chúng được đánh giá, rồi rốt cuộc với tính cách những ý tưởng mới và độc đáo trở nên kiểu mẫu ứng xử của con người, được chấp nhận rộng rãi và công khai. “Vậy, với câu hỏi rằng liệu những nhân vật lỗi lạc hay các ý tưởng có quyết định vận mệnh của một thời đại hay không, thì câu trả lời là thời đại ấy quả có nhận những ý tưởng của mình từ các nhân vật lỗi lạc.”[30] Đức Christ là hiện thân của một ý tưởng vĩ đại, cho thấy rằng Thượng Đế là Bác ái, và bác ái là quyền năng phát động vũ trụ. Quyền năng này là sự soi sáng mà Đức Christ, với tư cách là Ánh sáng của Thế gian, đã chiếu rọi vào tất cả các sự kiện trên thế giới. Không thể nào nhấn mạnh nhiều hơn về sự huy hoàng trong nhận thức này. Cho nên, chúng ta cần phải nhận thức sâu xa hơn và chuyên chú nhiều hơn hiện nay, vì ý tưởng đó vốn là đặc tính và phẩm tính cơ bản và nền tảng của mọi sự kiện, dù bề ngoài của chúng có ra sao. Đức Christ thực sự soi sáng cuộc sống. Đây là một trong những góp phần quan trọng nhất của Ngài cho cuộc sống của mọi người hiện nay. Ngài xác quyết: Thượng Đế yêu thương thế gian; và tất cả những gì xảy ra đều đi theo đường hướng yêu thương này. Nếu người ta nhận thức rằng đây là điều thực tế và chân lý nền tảng, thì nó sẽ soi sáng toàn cuộc sống, và khiến cho mọi gánh nặng trở nên nhẹ nhõm. Nguyên nhân và hậu quả kết hợp lại, đồng thời chúng ta thấy mục đích và phương pháp của Thượng Đế vốn là một. Các nhà thần học thường hay quên điều này khi họ cứ mãi tranh cãi về những điều có tính cách kỹ thuật hơn trong cuộc đời của Đức Christ. Những gì Ngài đã soi sáng trong chức năng của Ngài là “Ánh sáng của Thế gian,” những gì Ngài đã nhận được từ Ánh sáng thiêng liêng và phóng rải nó cho thế gian, và những gì Ngài đã truyền đạt, thì thường bị bỏ qua. Vì họ cứ cố gắng chứng minh sự thực của các giáo điều như Đức Mẹ Đồng trinh là trinh nữ vô nhiễm; và vì thế mà Đức Christ được sinh ra từ sự thụ thai vô nhiễm. Ngày nay, chỉ một ít người trong thế hệ trẻ là còn bận tâm nhiều vào những điểm đó trong giáo lý. Chúng ta hãy nhấn mạnh như thế. Điều chúng ta quan tâm là tình thương mà Ngài biểu lộ cần được biểu dương trên thế giới, và ánh sáng khai ngộ nơi Ngài cần “chiếu vào để xua tan những gì tăm tối của chúng ta.” |
|
Christ sounded with clarity the note which can usher in the new civilisation and the new order, and a close study of [169] the ideals and ideas which today, without exception, underlie every one of the great experiments undertaken by the various nations, will show that they are based, in essence, upon some definitely Christlike concept. That their method of application and the techniques employed are frequently un-Christlike is sadly true, but the foundational concepts will bear with equanimity the light which Christ can throw upon them. The principal difficulty has been that our intellectual grasp of the concepts runs ahead of our own personal development, and therefore colours disastrously our application of them. When these basic ideas are transmuted into world ideals by the consecrated thinkers of the race, and applied in the spirit in which Christ conceived of them, then we shall indeed inaugurate a new world order. |
Đức Christ dõng dạc xướng lên âm điệu có thể dẫn đến nền văn minh mới và trật tự mới. Thế nên, khi nghiên cứu kỹ (169) tất cả các lý tưởng và ý tưởng ngày nay tiềm ẩn trong mọi cuộc thí nghiệm to lớn được những quốc gia khác nhau đang thực hiện, chúng ta sẽ thấy rằng trong tinh túy chúng đều dựa vào một khái niệm nào đó thực sự giống như của Đức Christ. Buồn thay, cũng thực sự là những phương pháp mà họ áp dụng và những kỹ thuật mà họ sử dụng lại không hề giống như của Đức Christ. Thế nhưng, những khái niệm nền tảng thì vẫn mang một cách cân đối, bình thường cái ánh sáng mà Đức Christ có thể chiếu rọi lên chúng. Điều khó khăn chính yếu là sự thấu hiểu trí tuệ của chúng ta về các khái niệm thì lại vượt xa hơn sự phát triển của cá nhân mình, khiến chúng ta áp dụng chúng một cách tai hại. Khi các ý tưởng cơ bản này được những nhà tư tưởng của nhân loại tận tâm chuyển hóa thành lý tưởng cho thế giới, và áp dụng chúng trong tinh thần mà Đức Christ đã thai nghén ra chúng, thì bấy giờ chúng ta sẽ thực sự mở màn một trật tự mới trên thế giới. |
|
It is of supreme value for us to realise that what Christ really did was to usher in the era of Service, even if we are only beginning today (two thousand years after He set us an example) to grasp the implications of that word so widely used. We have been apt to regard salvation in terms of the individual, and to study it from the angle of individual salvation. This attitude must end if we are ever to understand the Christ spirit. A great Japanese asks the poignant question “What is the primary aim of a religion worthy of existence?” and goes on to tell us that it is salvation, but a salvation that “is pregnant with relief and redress of life and of the world.” [clxxvi]31 Service is becoming more and more an objective in all human affairs. Even modern business is coming to the recognition that it must be a motivating agency if business, as we understand it in the modern sense, is to survive. Upon what is this general trend based? Surely upon our universal relation to Deity and upon our subjective relationships to each other, which have their root in our relationship to God. |
Chúng ta cần nhận thức rằng những gì mà Đức Christ thực sự đã làm là nhằm dẫn đến thời đại Phụng sự. Dù rằng chỉ đến ngày nay (hai ngàn năm sau khi Ngài nêu gương sáng) chúng ta mới bắt đầu hiểu rõ hàm ý của từ này, mà nay đang được dùng hết sức rộng rãi. Chúng ta vẫn thường xem sự cứu rỗi trong phạm vi cá nhân. Cần từ bỏ thái độ này nếu chúng ta muốn hiểu được tinh thần của Đức Christ. Một nhân vật lỗi lạc người Nhật đặt câu hỏi chỉ thẳng vào vấn đề này “Mục tiêu chính yếu nào của tôn giáo đáng được tồn tại?” rồi nói thêm cho chúng ta biết rằng đó là sự cứu rỗi. Thế nhưng, đó là sự cứu rỗi vốn “hàm chứa sự nâng cao và chuyển hóa cuộc sống và thế giới.”[31] Phụng sự đang ngày càng trở thành một mục tiêu trong tất cả các sự vụ nhân loại. Ngay cả ngành kinh doanh ngày nay cũng bắt đầu nhận thức rằng phụng sự/phục vụ phải là lực phát động nếu doanh nghiệp, như chúng ta hiểu theo ý nghĩa hiện nay, muốn được tồn tại. vậy xu thế chung này đang dựa vào đâu? Chắc chắn là dựa vào mối liên giao phổ quát của chúng ta với Nguồn sống Thiêng liêng, và dựa vào mối quan hệ nội tại của chúng ta với nhau, mà vốn bắt nguồn từ mối quan hệ của chúng ta với Thượng Đế. |
|
That of course is the basis of service. It must be, as it was in the case of Jesus Christ, a spontaneous outcome of [170] divinity. One of the strongest arguments for the divine unfoldment of man is the emergence on a large scale of this tendency to serve. We are just beginning to get a faint vision of what Christ meant by service. He “carried this actuating motive of service to the extent of saying that when the common good and your personal success or welfare conflicted, you must sacrifice and not sacrifice the other man.” [clxxvii]32 This idea of service is of course in complete conflict with the usually competitive attitude to life and the selfishness generally shown by the average man. But to the man who seeks to follow Christ, and who aims eventually at climbing the Mount of Transfiguration, service leads inevitably to increased illumination, and illumination in its turn must find its expression in renewed and consecrated service, and thus we find our way—through service to our fellowmen—into the Way that Christ trod. Following in His steps, we achieve eventually the power to live as illumined and Christlike men and women in our normal everyday surroundings. |
Dĩ nhiên, đó là căn bản của phụng sự. Như trong trường hợp của Đức Christ, nó phải là kết quả đương nhiên của (170) thiên tính. Một trong những luận chứng mạnh mẽ nhất cho sự khai mở thiên tính nơi con người là khuynh hướng phụng sự này đang xuất lộ trên qui mô lớn. Chúng ta chỉ vừa bắt đầu thoáng thấy được những gì mà Đức Christ muốn nói về phụng sự. Ngài “nâng cao động cơ thúc đẩy phụng sự này đến mức cho rằng khi có gì mâu thuẫn giữa hạnh phúc chung và sự thành công cũng như lợi lạc của bạn, thì bạn phải hy sinh, chứ không hy sinh người khác.”[32] Dĩ nhiên, ý tưởng phụng sự này là hoàn toàn trái ngược với thái độ cạnh tranh thường thấy trong đời, và tính ích kỷ mà kẻ thường nhân thường biểu lộ. Nhưng với người muốn đi theo Đức Christ, và nhắm đến việc rốt cuộc leo lên Đỉnh núi Biến dung, thì phụng sự tất sẽ dẫn đến sự khai ngộ ngày càng tăng. Rồi chính sự khai ngộ lại phải biểu lộ thành công tác phụng sự hiến dâng và đổi mới. Bằng cách này, qua việc phụng sự đồng bào của mình, chúng ta tìm thấy Con Đường mà Đức Christ đã đi qua. Theo bước chân Ngài, rốt cuộc chúng ta có khả năng sống với tư cách những người được khai ngộ, giống như Đức Christ, trong hoàn cảnh đời thường của mình. |
|
What, therefore, is the gift that each of us can make to the world as we study the life of Christ and travel with Him in our minds from one initiation to another? We can aim at that greatness in action which will redeem our natural mediocrity and reveal progressively the divinity in each of us. Each can stand as a beacon light, pointing the way to the centre from which the Word goes forth; and each can begin to express in his daily living some of the quality of God which Christ so perfectly portrayed and which carried Him in triumph from the Mount of Transfiguration down into the valley of duty and of service, and which enabled Him to go forward with staunch determination to the Cross experience, through the triumphal way of acclamation and the sorrowful ways of desertion and of loneliness. |
Vậy, mỗi người trong chúng ta có thể trao tặng những gì cho thế gian khi chúng ta nghiên cứu cuộc đời của Đức Christ, và du hành cùng Ngài trong trí từ cuộc điểm đạo này đến cuộc điểm đạo khác? Chúng ta hãy nhắm đến sự cao cả trong hành động, xóa đi những gì tầm thường từ bấy lâu nay của mình, và ngày càng hiển lộ thiên tính nơi mỗi người. Mỗi người đều có thể dứng vững vàng như một ngọn hải đăng, chỉ đường đi đến trung tâm mà từ đó Linh từ phát khởi. Và mỗi người có thể bắt đầu biểu lộ trong đời sống hằng ngày những phẩm tính của Thượng Đế mà Đức Christ đã biểu dương hết sức hoàn hảo. Chúng đã giúp Ngài ca khúc khải hoàn từ Ngọn núi Biến dung, xuống thung lũng của cuộc đời thường để làm nhiệm vụ và phụng sự. Chúng cũng đã giúp Ngài tiến tới với quyết tâm kiên định để trải qua kinh nghiệm trên Thập tự giá, qua con đường khải hoàn được dân chúng tung hô, và con đường đau buồn bị bỏ rơi và cô đơn. |
|
The impulse is strong to close with some words of Arjuna, spoken to Krishna, long before the Christian era, after the revelation of the unveiled beauty to which he had been admitted. Their relevance is unquestionable. One can almost [171] imagine St. Peter or St. John saying them to Christ when they opened their eyes and “saw Jesus only.” Perhaps they may apply to us also as we consider Christ and our relation to Him: |
Có thể kết thúc động lực mạnh mẽ này với những lời của Arjuna nói với Đức Krishna, sau khi y được phép chiêm ngưỡng vẻ mỹ lệ hiển lộ của Ngài. Sự tương ứng thật là rõ rệt. Chúng ta có thể (171) tưởng tượng ra đây là những lời mà Thánh Peter hay Thánh John nói với Đức Christ khi họ mở mắt ra và “chỉ thấy có Jesus.” Có lẽ những lời này cũng áp dụng cho chúng ta khi xét đến Đức Christ và mối liên hệ của chúng ta với Ngài: |
|
“If thinking Thee my comrade, I addressed Thee brusquely… not knowing this greatness of Thine, or carelessly, or through affection, or whatever I have done to make a jest of Thee, unseemly, in journeying, resting, or seated, or at the banquet, whether alone, O, unfallen One! or in presence of these, for all this I ask forgiveness from Thee, Immeasurable One! Thou art the Father of the world, of things moving and unmoving; Thou art worthy of honour, the reverend Teacher of the world. None equal Thee; how could any be greater? even in the three worlds there is none like Thee in might. |
“Nếu nghĩ rằng Ngài là người đồng tâm, đồng chí với con, thì con đã nói với Ngài những lời thô lỗ . . . mà không hề biết sự cao cả của Ngài, hoặc là do bất cẩn hoặc vì yêu thương, hay những điều con đã làm để bỡn cợt Ngài, thật bất lịch sự, khó coi, trong khi du hành, ngơi nghỉ, an tọa, hay dự tiệc tùng, dù là một mình hay không, hỡi Đấng không hề vấp ngã! hoặc dù con đã phạm những lỗi này, con xin Ngài tha thứ cho tất cả, hỡi Đấng Vô lượng! Ngài là Đấng Cha Lành của thế giới, của vạn vật dù đang hoạt động hay bất động. Ngài xứng đáng được tôn vinh là vị Thầy khả kính của thế gian. Ngài là vô song; làm sao có gì cao cả hơn Ngài? Dù là trong tam giới sự uy dũng của Ngài cũng không ai sánh kịp. |
|
“Therefore bowing down, prostrating my body before Thee, I seek Thy grace, O worthy Lord! As the Father his son, the comrade his comrade, the beloved his beloved, so deign Thou, Lord, to pardon me! I exult, beholding what was never seen before, and my heart trembles with fear; show me, Lord, the former form; Lord of Gods, be gracious, upholder of worlds.” [clxxviii] 33 |
“Thế nên, con cúi lạy, sấp mình trước Ngài, mong Ngài ban ân huệ, hỡi Đấng Chí Tôn! Là Đấng Cha Lành của chúng con, là người đồng chí của những người đồng chí, là đấng yêu thương của những kẻ yêu thương, hỡi Đấng Chí Tôn, xin hạ cố tha thứ cho con! Con hân hoan chiêm ngưỡng điều chưa từng thấy, và tim con run lên với niềm kính sợ thiêng liêng. Hỡi Đấng Chí Tôn, xin cho con chiêm ngưỡng hình thể trước đây của Ngài. Hỡi vị Chúa tể các Thiên thần, Đấng bảo tồn các bầu thế giới, xin hãy ban ân huệ thiêng liêng.”[33] |
|
[173] |
(172 trắng) |