Từ Bethlem Đến Calvary – Chương 5 -7

CHAPTER FIVE – The Fourth Initiation… The Crucifixion—CHƯƠNG NĂM – Cuộc Điểm Đạo Thứ Tư… Sự Đóng Đinh

KEY THOUGHT

TƯ TƯỞNG GỐC

A fire-mist and a planet,

Một hành tinh mịt mù lửa khói,

A crystal and a cell,

Tinh thể hình thành, sinh sản tế bào,

A jelly-fish and a saurian,

Đến loài sứa và loài bò sát,

And caves where the cave-men dwell;

Và con người ở hang động buổi sơ khai;

Then a sense of law and beauty,

Rồi ý thức luật công bằng và mỹ lệ,

And a face turned from the clod—

Họ không còn bận bịu với đeo đai –

Some call it Evolution,

Có người gọi đó là Tiến hóa,

And others call it God.

Cũng có người gọi là Thượng Đế Chí Tôn.

Like tides on a crescent sea-beach

Như triều sóng trên bờ biển hình cong vút

When the moon is new and thin,

Trăng thượng tuần trăng khuyết trăng lưỡi liềm,

Into our hearts high yearnings

Niềm mong ước tuôn tràn trong tâm khảm

Come welling and surging in:

Mãi trào dâng và cứ mãi trào dâng:

Come from the mystic ocean

Từ đại dương bao la, huyền bí

Whose rim no foot has trod—

Bờ cát tinh khôi chưa một vết chân –

Some of us call it Longing,

Có người gọi đó là Niềm khao khát,

And others call it God.

Cũng có người gọi là Thượng Đế Chí Tôn.

A picket frozen on duty,

Trong giá rét người lính canh làm nhiệm vụ,

A mother starved for her brood,

Người mẹ hiền chịu đói khát vì con,

Socrates drinking the hemlock,

Socrates uống ly độc cần, điềm tĩnh,

And Jesus on the rood;

Và Jesus trên thánh giá, bình an

And millions who, humble and nameless,

Muôn triệu người không tên và khiêm tốn,

The straight, hard pathway plod—

Lê bước trên đường chân chánh, gian nan

Some call it Consecration,

Có người gọi đó là Dâng hiến,

And others call it God.

Cũng có người gọi là Thượng Đế Chí Tôn.

William Herbert Carruth.

William Herbert Carruth.

[175]

(174 trắng)

(175)

1

1

We now come to the central mystery of Christianity, and to the climaxing initiation to which men, as human beings, can aspire. Of the next initiation, the Resurrection, and of the Ascension connected with it, we know practically nothing, beyond the fact that Christ rose from the dead. The Resurrection initiation is veiled in silence. All that is recorded is the reaction of those who knew and loved the Lord, and the after-effects upon the history of the Christian Church. But the Crucifixion has always been the outstanding, dramatic episode upon which the entire structure of Christian theology has been founded. Upon this has the emphasis been laid. Millions of words have been written about it, and thousands of books and commentaries have attempted to elucidate its meaning and to explain the significance of its mystery. Down the ages a myriad points of view have been presented for the consideration of men. There has been much misinterpretation, but much also that is divinely real has been expressed. God has been misrepresented many times, and the interpretation of what Christ did has been travestied in terms of men’s small views. The wonder of the happening on Mount Calvary has been unveiled through the illumined experiences of the believer and the knower.

GIỜ đây, chúng ta đi đến bí nhiệm trọng tâm của Thiên Chúa giáo, và đến cuộc điểm đạo cao cấp mà mọi người trong nhân loại đều có thể ngưỡng vọng. Về cuộc điểm đạo kế tiếp, tức là cuộc điểm đạo Phục sinh, có kèm theo sự Thăng thiên, thì thực tế là chúng ta không biết được điều gì, ngoài hiểu biết rằng Đức Christ đã sống lại từ cõi chết. Cuộc điểm đạo Phục sinh bị che giấu trong bức màn im lặng. Tất cả những gì được ghi lại là phản ứng của những người đã biết và yêu thương Chúa, cũng như những hậu quả sau đó đối với lịch sử của Giáo hội Thiên Chúa. Nhưng cuộc điểm đạo Thập giá hình vẫn luôn luôn là giai thoại nổi bật, và bi tráng mà toàn thể cấu trúc thần học Thiên Chúa giáo đã hình thành trên đó. Giai thoại này đã được chú trọng. Vô số ngôn từ đã được viết ra về nó. Hàng ngàn cuốn sách và bài bình luận đã cố gắng minh giải ý nghĩa của nó cũng như cái diệu lý sâu xa của bí nhiệm này. Qua nhiều thời đại, biết bao quan điểm đã được trình bày cho mọi người xem xét. Có nhiều lối lý giải sai lạc, nhưng người ta cũng đã nói lên được nhiều điều chân thực, thiêng liêng. Biết bao lần đã có những trình bày sai về Thượng Đế. Và những điều Đức Christ đã thực hiện, thì bị diễn giải rập khuôn theo quan điểm nhỏ hẹp của con người. Sự tuyệt vời của những điều xảy ra trên Đồi Calvary đã được hé lộ qua kinh nghiệm của các tín đồ và thức giả được khai ngộ.

A new world order came into being when Christ came to earth, and from that time on we have moved steadily forward towards a new age wherein men inevitably will live as brothers because Christ died, and the true nature of the kingdom of God will find expression on earth. Of this, past [176] progress is the guarantee. The immediacy of this happening is already faintly understood by those who, as Christ has said, have the eyes to see and the ears to hear. Inevitably we are moving forward towards greatness, and Christ emphasised this in His life and work. We have not yet achieved this greatness, but the signs of it can be seen. Already there are indications of the coming of this new era, and the dim outlines of a new and more nearly ideal social structure, based on perfected humanity, are discernible. It is this perfection which is of importance.

Khi Đức Christ đến thế gian, một trật tự mới ra đời trên thế giới. Kể từ đó, chúng ta liên tục hướng đến thời đại mới. Trong đó mọi người tất sẽ sống với nhau như huynh đệ vì Đức Christ đã hy sinh cho họ. Bấy giờ, thế gian sẽ thực sự hiểu rõ thế nào là Thiên giới. Những (176) tiến bộ đã qua là bảo đảm cho điều này. Tính cách liên quan mật thiết của biến cố này thì vẫn chưa được hiểu bao nhiêu bởi những người mà Đức Christ gọi là có mắt để thấy và có tai để nghe. Tất nhiên, chúng ta đang tiến đến những điều vĩ đại mà Đức Christ đã nhấn mạnh trong cuộc đời và công việc của Ngài. Chúng ta vẫn chưa đạt đến điều vĩ đại đó, nhưng chúng ta đã thấy được những dấu hiệu của nó. Đã có những chỉ báo cho thấy thời đại mới này đang đến. Và có thể nhận biết được những nét sơ khởi của cấu trúc xã hội mới và gần với lý tưởng hơn, dựa vào nhân loại đã hoàn thiện. Chính sự hoàn thiện này mới là quan trọng.

One of the first things that it seems essential to recognise is the fact, the definite fact, that Christ’s Crucifixion must be lifted out of the realm of its purely individual application, into the realm of the universal and the whole. It may perhaps cause some consternation when we emphasise the necessity of realising that the death of the historical Christ upon the Cross was not primarily concerned with each individual man who claims to profit by it. It was a great cosmic event. Its implications and its results concern the masses of humanity, and do not concern specifically the individual. We are so apt to take to ourselves, as a personal affair, the many implications of Christ’s sacrifice. The selfishness of the spiritual aspirant is often very real.

Một trong những điều đầu tiên mà chúng ta cần nhận thức là sự thực, sự thực xác định rằng cuộc điểm đạo Thập giá hình của Đức Christ vốn thuộc về lĩnh vực đại đồng và toàn thể, chứ không chỉ ứng dụng riêng cho cá nhân. Có lẽ mọi người sẽ ngạc nhiên khi biết rằng nhất thiết phải hiểu sự chết của Đức Christ trên Thánh giá như đã ghi trong lịch sử, thì không chính yếu là liên quan đến mỗi cá nhân khẳng định mình được hưởng lợi ích từ đó. Đó là một sự kiện vũ trụ vĩ đại. Hàm ý và kết quả của nó liên quan đến đại khối nhân loại, chứ không liên quan đến riêng mỗi cá nhân. Chúng ta quá thường lấy những hàm ý trong cuộc hy sinh của Đức Christ để áp dụng cho cá nhân mình, với tính cách sự việc cá nhân. Tính ích kỷ của người chí nguyện trên đường tinh thần thật rất rõ ràng.

It is surely evident, if one approaches the subject intelligently, that Christ did not die in order that you and I might go to heaven. He died as the result of the very nature of the service which He rendered, of the note which He struck, and because He inaugurated a new age and told men how to live as sons of God.

Nếu tìm hiểu vấn đề này một cách thông minh, thì chắc hẳn chúng ta thấy rõ rằng Đức Christ không chết để bạn và tôi có thể lên cõi thiên đường. Ngài chịu chết do chính tính chất của công việc phụng sự mà Ngài thực hiện, của âm điệu mà Ngài gióng lên, và cũng vì Ngài mở màn một thời đại mới, và nói cho mọi người biết làm thế nào để sống với tư cách những người con của Thượng Đế.

In considering the story of Jesus upon the Cross, it is essential, therefore, that we see it in broader and more general terms than is usually the case. Most of the treatises and writings upon the subject are controversial and argumentative, usually defending or attacking the evidence or the theology associated with the theme. Or they may be of a purely mystical or sentimental nature in tone and object, concerning themselves with the relation of the individual [177] to the truth or with his personal salvation in Christ. But in so doing, it is possible that the real elements of the story and their highest meaning have been lost. Two things emerge, however, from the research and the questioning of the past century. One is that the Gospel story is not unique, but has been paralleled in the lives of other Sons of God; secondly, that Christ was unique in His particular Person and mission, and that, from a specific angle, His appearance was unprecedented. No student of comparative religion will question the Christian parallels to earlier events. No man who has truly investigated with an open mind will deny that Christ was an integral part of a great continuity of revelation. God has never “left Himself without witness.” [clxxix]1 And the salvation of mankind has always been close to the heart of the Father. To quote one writer who seeks to prove this continuity:

Do đó, khi xem xét câu chuyện của Jesus trên Thập tự giá, nhất thiết chúng ta phải thấy nó trong phạm vi rộng lớn và phổ quát hơn quan niệm thông thường. Hầu hết những luận giải và sách vở về vấn đề này đều nhằm tranh cãi và biện luận. Thường thì chúng bênh vực hay chống đối bằng chứng hoặc khoa thần học kết hợp với chủ đề này. Hoặc chúng có tính cách thuần là thần bí hay xúc cảm trong luận điệu hoặc đối tượng, chỉ đề cập đến sự liên quan của cá nhân (177) với chân lý này, hoặc sự cứu rỗi cá nhân họ trong Đức Christ. Nhưng khi người ta làm như thế, thì khả dĩ những yếu tố thực của câu chuyện này và ý nghĩa cao xa nhất của chúng đã bị mai một. Tuy nhiên, từ những cố gắng nghiên cứu và tìm hiểu trong thế kỷ trước, người ta thấy rõ hai điều. Một là, câu chuyện Phúc âm không phải là duy nhất, mà vốn đã có những câu chuyện tương tự của những vị Thiên đế tử khác. Hai là, Đức Christ lại có tính cách duy nhất trong Ngôi vị và sứ mệnh của Ngài. Và từ một góc độ đặc thù, sự giáng lâm của Ngài là chưa từng có. Không ai nghiên cứu tôn giáo đối chiếu mà lại thắc mắc gì về việc Thiên Chúa giáo cũng có những điều tương tự với những sự kiện trong thời gian trước. Không ai đã thực sự nghiên cứu với tinh thần cởi mở mà lại phủ nhận việc Đức Christ là thành phần của cuộc thiên khải liên tục và vĩ đại. Thượng Đế không bao giờ “không để lại bằng chứng của chính Ngài.”[1]  Và sự cứu rỗi nhân loại vẫn luôn luôn là điều thiết tha trong lòng Đấng Cha Lành. Sau đây là trích dẫn lời của một tác giả cố gắng chứng minh tính liên tục này:

“At the time of the life or recorded appearance of Jesus of Nazareth and for some centuries before, the Mediterranean and neighbouring world had been the scene of a vast number of pagan creeds and rituals. There were Temples without end dedicated to gods like Apollo or Dionysus among the Greeks, Hercules among the Romans, Mithra among the Persians, Adonis and Arris in Syria and Phrygia, Osiris and Isis and Horus in Egypt, Baal and Astarte among the Babylonians and Carthaginians, and so forth. Societies, large or small, united believers and the devout in the service or ceremonials connected with their respective deities, and in the creeds which they confessed concerning these deities. And an extraordinarily interesting fact, for us, is that, notwithstanding great geographical distances and racial differences in the details of their services, the general outlines of their creeds and ceremonials were—if not identical—so markedly similar as we find them.

“Vào thời gian có cuộc sống và sự giáng lâm của Jesus người Nazareth, và trong vài thế kỷ trước đó, vùng Địa Trung Hải và những khu vực lân cận đã có rất nhiều tín điều và nghi lễ của ngoại giáo. Có vô số đền thờ được hiến dâng cho các vị thần như Apollo hay Dionysus của người Hy Lạp, Hercules của người La Mã, Mithra của người Ba Tư, Adonis và Arris ở Syria và Phrygia, Osiris và Isis và Horus ở Ai Cập, Baal và Astarte của người Babylon và Carthage, và v.v. Các xã hội, lớn hoặc nhỏ, đã hợp nhất các tín đồ và những người sùng đạo trong những nghi lễ hay nghi thức liên quan đến các vị thần của mỗi địa phương, và trong những tín điều mà họ cho là liên quan đến các vị thần linh đó. Điều hết sức thú vị đối với chúng ta là, dù có khoảng cách địa lý rất xa, và những khác biệt giữa các chủng tộc trong chi tiết hành lễ của họ, những nét khái quát trong tín ngưỡng và nghi lễ của họ đều rất giống nhau, như chúng ta thấy – nếu không nói là đồng nhất.

“I cannot of course go at length into these different cults, but I may say roughly that of all or nearly all the deities above-mentioned it was said and believed that:

“Dĩ nhiên là tôi không thể bàn nhiều về các trường phái khác nhau này, mà chỉ có thể nói vắn gọn rằng người ta cho biết hay tin rằng tất cả hay gần như tất cả các vị thần thánh nói trên đều:

1. They were born on or very near our Christmas Day.

1. Đã được sinh ra vào ngày hoặc rất gần Ngày Giáng sinh.

2. They were born of a Virgin-Mother.

2. Họ được sinh ra bởi một Người Mẹ Đồng trinh.

[178]

(178)

3. And in a Cave or Underground Chamber.

3. Và ở trong Hang động hay Căn phòng Dưới đất.

4. They led a life of toil for Mankind.

4. Họ sống cuộc đời gian khổ vì Nhân loại.

5. And were called by the names of Light-bringer, Healer, Mediator, Saviour, Deliverer.

5. Và được gọi với danh hiệu Người mang Ánh sáng, Nhà trị liệu, Người hòa giải, Đấng cứu thế, Đấng cứu rỗi.

6. They were, however, vanquished by the Powers of Darkness.

6. Tuy nhiên, họ bị Quyền lực Bóng tối giết hại.

7. And descended into Hell or the Underworld.

7. Và giáng xuống Địa ngục hay cõi Âm ty.

8. They rose again from the dead, and became the pioneers of mankind to the Heavenly world.

8. Họ sống lại từ cõi chết, và trở thành người tiền phong của nhân loại đi đến Thiên giới.

9. They founded Communions of Saints and Churches into which disciples were received by Baptism.

9. Họ sáng lập Cộng đồng các vị Thánh và các Giáo hội mà những môn đồ được thu nhận qua Lễ rửa tội.

10. And they were commemorated by Eucharistic meals.

12. Và họ được tưởng niệm qua những bữa tiệc Ban Thánh thể.”[2]

 [clxxx]2

These facts can be checked by anyone who cares to do so and who is sufficiently interested to trace the growth of the doctrine of world Saviours in world idealism. Edward Carpenter goes on to say, in the same book:

Nếu muốn, bất cứ ai có đủ quan tâm theo dõi sự tăng tiến của giáo lý về các Đấng cứu thế trong cố gắng thực hiện những lý tưởng trên thế giới, đều có thể kiểm chứng những sự kiện thực tế này. Cũng trong quyển sách nói trên, Edward Carpenter tiếp tục nói thêm:

“The number of pagan deities (mostly virgin-born and done to death in some way or other in their efforts to save mankind) is so great as to be difficult to keep account of. The god Krishna in India, the god Indra in Nepal and Tibet spilt their blood for the salvation of men; Buddha said, according to Max Müller, `Let all the sins that were in the world fall on me, that the world may be delivered;’ the ChineseTien the Holy One—`one with God and existing with him from all eternity’—died to save the world; The Egyptian Osiris was called Saviour, so was Horus; so was the Persian Mithra; so was the GreekHercules who overcame Death though his body was consumed in the burning garment of mortality, out of which he rose into heaven. So also was the Phrygian Attis called Saviour, and the Syrian Tammuz orAdonis likewise—both of whom, as we have seen, were nailed or tied to a tree, and afterwards rose again from their biers or coffins. Prometheus, the greatest and earliest benefactor of the human race, was nailed by the hands and the feet, and with arms extended, to the rocks of Mount Caucasus.Bacchus or Dionysus, born of the virgin Semele to be the Liberator of mankind (Dionysus Eleutherios as he was called) was torn to pieces, not unlike Osiris. Even in far Mexico [179] Quetzalcoatl, the Saviour, was born of a virgin, was tempted, and fasted forty days, was done to death, and his second coming looked for so eagerly that (as is well known) when Cortes appeared, the Mexicans, poor things, greeted him as the returning god! In Peru and among the American Indians, North and South of the Equator, similar legends are, or were, to be found.” [clxxxi]3

“Con số những vị thánh thần ngoại đạo (hầu hết được sinh ra từ người mẹ đồng trinh, và bị giết hại bằng cách nào đó trong cố gắng của mình nhằm cứu rỗi nhân loại) thì nhiều vô kể. Thần Krishna ở Ấn Độ, thần Indra ở Nepaul và Tây Tạng đã đổ máu để cứu rỗi con người. Theo lời của Max Müller thì Đức Phật có nói  ‘Hãy đổ dồn tất cả tội lỗi trong đời về cho ta, để thế gian được giải thoát.’ Thiên theo quan niệm của người Trung Hoa là Đấng Cao cả – vốn hợp nhất với Thượng Đế và cùng tồn tại với Ngài từ vô thủy – đã chết để cứu vớt thế gian. OsirisHorus của Ai Cập cũng như Mithra của Ba Tư đều được gọi là Đấng cứu thế. Tương tự, Hercules của Hy Lạp đã thắng phục sự Chết dù thân xác bị thiêu đốt trong lớp áo tử vong bừng cháy, để từ đó người thăng lên trời. Attis của Phrygia được gọi là vị Cứu thế, và Tammuz hoặc Adonis của Syria cũng vậy – như chúng ta đã thấy, cả hai đều bị đóng đinh hoặc trói vào một cội cây, và sau đó sống lại từ quan tài hay áo quan của mình. Prometheus, vị ân nhân cao cả nhất và vào thời xa xưa nhất của nhân loại, đã bị đóng đinh vào các bàn tay và bàn chân, hai cánh tay bị căng ra, trên tảng đá trên Ngọn núi Caucasus. Bacchus hay là Dionysus, sinh ra từ mẹ đồng trinh Semele để làm Người giải thoát nhân loại (ông còn được gọi là Dionysus Eleutherios) đã bị phân thây, cũng không khác gì Osiris. Ngay cả ở vùng xa xôi hẻo lánh của Mexico, (179) Quetzalcoatl, vị Cứu thế, cũng đã sinh ra từ người mẹ đồng trinh. Ông bị cám dỗ, nhịn ăn trong bốn mươi ngày, và bị hành hạ cho đến chết. Người ta mong đợi sự trở lại của ông thiết tha đến đỗi (như mọi người biết) khi Cortes xuất hiện thì người dân Mexico, tội nghiệp thay, đã chào đón ông như một vị thần tái giáng lâm!  Ở Peru và trong những người Da đỏ ở Châu Mỹ, cả ở các vùng Bắc và Nam Xích đạo, đều hiện có, hay đã có những huyền thoại tương tự.”[3]

Into the argument for and against these ideas it is no part of this book to enter. The only question which is of importance for us is what part Christ really played as the World Saviour, and what constituted the uniqueness of His mission. What was this world to which He came; and what is the significance of His death to the average human being today? Are the facts of His life historically true; and was there a period in our racial history wherein He walked and talked and lived an ordinary human life? Did He serve His race and return to the Source whence He came?

Sách này không nhằm đưa ra lý lẽ để bênh vực hay bác bỏ các ý tưởng nói trên. Câu hỏi quan trọng duy nhất đối với chúng ta là Đức Christ đã thực đóng vai trò nào với tư cách Đấng Cứu thế, và trong sứ mệnh của Ngài có gì độc đáo. Khi Ngài đến, thế giới như thế nào?  Và sự chết của Ngài có ý nghĩa gì đối với những người bình thường ngày nay?  Những sự kiện về cuộc đời Ngài có đúng thực trong lịch sử hay không?  Và đã có hay chăng một thời kỳ trong lịch sử nhân loại mà Ngài đã hoạt động, giảng dạy và sống cuộc đời của người bình thường?  Có phải Ngài đã phụng sự chủng tộc của mình rồi trở về với Nguồn cội mà từ đó Ngài giáng lâm?

The fact of Christ constitutes no problem to those who know Him. They realise, past all controversy, that He exists. They know Whom they have believed. [clxxxii]4 For them, His reality cannot be disproved. They may differ among themselves as to the emphasis to be laid upon the various theological interpretations of His life story, but Christ they know, and with Him they tread life’s pathway. They may argue about whether He was God or man, or God-Man, or Man-God, but on one point they all agree, and that is that He was God and Man, manifesting in one body. They may struggle to perpetuate the memory of the dead Christ upon the Cross, or they may endeavour to live by the life of the risen Christ, but to the reality of Christ Himself they all bear testimony, and by the multitude of witnesses the fact is surely established. The one who knows cannot doubt.

Đối với những người đã biết Ngài, thì sự kiện thực tế về Đức Christ là điều đương nhiên. Họ hiểu rằng Ngài đang hiện hữu, và không còn gì phải tranh cãi. Nay họ biết Đấng mà họ đã tin.[4]  Với họ, điều thực tế này không thể nào phủ nhận. Họ khả dĩ có khác biệt nhau trong những điều nhấn mạnh, do lối diễn giải của thần học về câu chuyện cuộc đời Ngài. Thế nhưng, họ đều biết có Đức Christ, và đồng hành với Ngài trong đời. Họ có thể tranh cãi với nhau về việc liệu Ngài là Thượng Đế hay con người, là Con người mang Thiên tính, hoặc là Thượng Đế mang Nhân tính. Nhưng tất cả họ đều đồng ý với nhau một điểm: Ngài là Thượng Đế vừa là Con người, biểu hiện trong cùng một cơ thể. Họ có thể hết sức cố gắng để khiến mọi người nhớ mãi về Đức Christ đã chết trên Thập tự giá, hoặc cũng có thể cố gắng sống cuộc đời của Đức Christ phục sinh. Nhưng tất cả họ đều mang bằng chứng về sự thực của chính Đức Christ, và qua vô số chứng nhân, sự thực này đã được xác lập vững vàng. Người đã biết thì không thể nghi ngờ điều đó.

Christianity is the restatement of a very old doctrine. It is not new. It is so essential to the salvation and to the happiness of the world that God has always proclaimed it. [180] The Gospel narratives are dependable and true, just because they are integrated with the spiritual revelation of the past, and are being reinterpreted today in terms of Christ. Therefore, mankind being more evolved and intelligent, that reinterpretation will more readily and adequately meet humanity’s need. But it is no new thing, and Christ never proclaimed Himself in such terms. He foretold a new age and a coming kingdom of God. Out of the wide sweep of time and out of the aeonian grasp of God’s consciousness, mankind is only today beginning to see a world and a humanity ready for the new revelation—a revelation which will be based upon truly Christian ethics and vital Christian truths. That for which Christ stood, the truth which He embodies, is so old that there has never been a time when it was not present as a need in the human consciousness, and yet it is so new that there will never be a time when the story of the birth and the death of the world Saviour will not be of the utmost moment to man. Edward Carpenter points this out, throwing light upon this ceaseless and age-old focussing of the love of God and the desire of man in the person of a son of God. He says:

Thiên Chúa giáo phát biểu lại một giáo lý rất cổ xưa. Nó không phải là mới. Giáo lý ấy hết sức thiết yếu cho sự cứu rỗi và hạnh phúc của thế gian đến đỗi Thượng Đế bao giờ cũng công bố nó cho chúng ta. (180) Những chuyện kể trong các sách Phúc âm đều có thực và đáng tin cậy. Lý do là vì chúng kết hợp với cuộc thiên khải tinh thần của thời quá khứ, và ngày nay đang được diễn giải lại trong phạm vi của Đức Christ. Vì nhân loại ngày càng tiến hóa và thông minh hơn, nên sự diễn giải lại này sẽ đáp ứng nhu cầu của họ một cách thích hợp hơn và đầy đủ hơn. Nhưng nó không phải là giáo lý mới, và Đức Christ chưa bao giờ tuyên bố như thế. Ngài báo trước một thời đại mới, và Thiên giới sắp đến. Qua những thời kỳ lâu dài loài người đã tìm hiểu tâm thức của Thượng Đế, và chỉ đến ngày nay họ mới bắt đầu thấy một thế giới và một nhân loại sẵn sàng đón nhận một cuộc thiên khải mới – một cuộc thiên khải sẽ dựa vào nền đạo đức thực sự của Thiên Chúa giáo và những chân lý quan trọng được Thiên Chúa giáo trình bày. Những gì mà Đức Christ dựa vào, và chân lý được Ngài thể hiện thì hết sức cổ xưa đến đỗi chưa hề có thời gian nào mà nó không hiện diện như một nhu cầu trong tâm thức của nhân loại. Dù vậy, nó lại hết sức mới mẻ đến đỗi sẽ không bao giờ có thời gian nào mà câu chuyện giáng sinh và từ trần của Đấng cứu thế lại không có tầm quan trọng bậc nhất đối với con người. Edward Carpenter nói lên điều này, và soi sáng sự không ngừng hội tụ tình thương của Thượng Đế tự ngàn xưa, và ước vọng của con người mong muốn sự giáng trần của một người con Thượng Đế. Ông viết như sau:

“If the historicity of Jesus, in any degree, could be proved, it would give us reason for supposing—what I have personally always been inclined to believe—that there was also a historical nucleus for such personages as Osiris, Mithra, Krishna, Hercules, Apollo and the rest. The question, in fact, narrows itself down to this, Have there been in the course of human evolution certain, so to speak, nodal points or periods at which the psychologic currents ran together and condensed themselves for a new start, and has each such node or point of condensation been marked by the appearance of an actual and heroic man (or woman) who supplied a necessary impetus for the new departure, and gave his name to the resulting movement? or is it sufficient to suppose the automatic formation of such nodes or starting-points without the intervention of any special hero or genius, and to imagine that in each case the myth-making tendency of mankind created a legendary and inspiring figure and worshipped the same for a long period afterwards as a god?

“Nếu có thể chứng minh tính cách lịch sử của Đức Jesus đến mức nào đó, thì chúng ta sẽ có lý do để giả định – điều mà cá nhân tôi bao giờ cũng có khuynh hướng tin tưởng – rằng vốn cũng đã có cơ sở lịch sử cho những nhân vật như Osiris, Mithra, Krishna, Hercules, Apollo, và những vị khác. Thực ra, tồn trung câu hỏi chỉ là, Có hay chăng, cái gọi là, những thời điểm quan trọng hay những lúc giao thời trong cuộc tiến hóa của nhân loại, mà bấy giờ những dòng tâm lý đến với nhau và cùng ngưng tụ thành một bước khởi đầu mới?  Và phải chăng vào lúc giao thời hay thời điểm ngưng tụ ấy đã đánh dấu bởi sự xuất hiện của một người nam (hay nữ) anh hùng có thật, vị này mang lại sức thúc đẩy cần thiết cho sự khởi hành mới và để lại tên tuổi cho phong trào từ đó sinh ra?  hoặc Có đủ hay chăng khi cho rằng các giao điểm hay khởi điểm ấy được tự động hình thành mà không có sự can thiệp của bất cứ vị anh hùng hay thiên tài đặc biệt nào, và tưởng tượng rằng trong mỗi trường hợp cái khuynh hướng thần thoại hóa của loài người đã tạo ra một nhân vật huyền thoại, mang lại nguồn linh cảm, rồi tôn thờ vị ấy trong thời gian dài về sau như thần thánh?

[181]

(181)

“As I have said before, this is a question which, interesting as it is, is not really very important. The main thing being that the prophetic and creative spirit of mankind has from time to time evolved those figures as idealisations of its `heart’s desire’ and placed a halo round their heads. The long procession of them becomes a real piece of History—the history of the evolution of the human heart, and of human consciousness.” [clxxxiii] 5

 “Như tôi đã nói trên, đây là câu hỏi, dù có thú vị, nhưng thực sự không mấy quan trọng. Điều chính yếu là cái tinh thần tiên tri và sáng tạo của loài người theo từng thời gian đã phát triển những nhân vật như là sự lý tưởng hóa ‘điều mong muốn trong tâm hồn’ họ, rồi đặt vòng hảo quang quanh đầu mỗi vị. Chuỗi dài những nhân vật ấy trở nên một phần có thật trong Lịch sử – lịch sử tiến hóa của tâm hồn và tâm thức của nhân loại.”[5]

The Crucifixion and the Cross of Christ are as old as humanity itself. Both are symbols of the eternal sacrifice of God as He immerses Himself in the form aspect of nature and thus becomes God immanent as well as God transcendent.

Thập giá hình và Thập tự giá của Đức Christ có nguồn gốc hết sức xa xưa. Cả hai đều tượng trưng cho sự mãi mãi hy sinh của Thượng Đế khi Ngài hòa mình vào phương diện hình thể của thiên nhiên. Bằng cách này, Ngài trở thành Đấng Thượng Đế hằng hữu nội tại trong tâm vạn vật và đồng thời cũng là Đấng Thượng Đế siêu việt trên vạn vật.

We have seen that Christ must be recognised, first of all, in the cosmic sense. The cosmic Christ has existed from all eternity. This cosmic Christ is divinity, or spirit, crucified in space. He personifies the immolation or sacrifice of spirit upon the cross of matter, of form or substance, in order that all divine forms, including the human, may live. This has ever been recognised by the so-called pagan faiths. If the symbolism of the cross is traced far back, it will be found that it antedates Christianity by thousands of years, and that finally, the four arms of the cross will be seen to drop away, leaving only the picture ofthe living Heavenly Man, with His arms outspread in space. North, south, east and west stands the cosmic Christ upon what is called “the fixed cross of the heavens.” Upon this cross God is eternally crucified.

Chúng ta đã thấy rằng Đức Christ phải được công nhận, trước hết, theo ý nghĩa cấp vũ trụ. Đấng Christ của vũ trụ vốn đã hiện hữu từ vô thủy. Đấng Christ vũ trụ này là thiên tính, hay tinh thần, chịu khổ hình thập tự trong không gian. Ngài thể hiện sự hiến mình hay là hy sinh của tinh thần trên thập tự giá của vật chất, của hình thể hay thể chất. Nhờ đó mà mọi hình thể thiêng liêng, gồm cả con người, mới có thể sống. Điều này bao giờ cũng đã được công nhận bởi các tín ngưỡng gọi là ngoại đạo. Nếu tìm hiểu ý nghĩa biểu tượng của thập tự giá trở về thời xưa, chúng ta sẽ thấy rằng nó có trước Thiên Chúa giáo hàng ngàn năm. Chúng ta cũng sẽ hiểu rằng cuối cùng bốn cánh của thập tự giá sẽ rơi rụng đi mất, chỉ còn lại hình ảnh của vị Thiên Nhân hằng sống, với hai cánh tay dang rộng trong không gian. Nam, bắc, đông và tây tiêu biểu cho cái gọi là “thập tự cố định trên trời.”  Thượng Đế mãi mãi chịu khổ hình trên thập tự giá này.

“The sky is mystically spoken of as the Temple and the eternal consciousness of God. Its altar is the sun, whose four arms or rays typify the four corners or the cardinal cross of the universe, which have become the four fixed signs of the Zodiac, and as the four powerful sacred animal signs, are both cosmical and spiritual…. These four are known as the consecrated animals of the Zodiac, while the signs themselves represent the basic fundamental elements of life, Fire, Earth, Air and Water.” [clxxxiv] 6

“Bầu trời được gọi theo lối thần bí là Thánh điện và là tâm thức vĩnh cửu của Thượng Đế. Bàn thờ của nó là mặt trời, với bốn cánh hay bốn tia tượng trưng cho bốn góc trời hay là thập tự cơ bản của vũ trụ. Chúng đã trở thành bốn cung cố định của Hoàng đạo. Là bốn cung với linh vật có ảnh hưởng mạnh mẽ, chúng vừa ở cấp vũ trụ và tinh thần . . . Bốn linh vật này được gọi là các con vật được hiến dâng của Hoàng đạo. Trong khi đó chính các cung này thì tiêu biểu cho các nguyên tố cơ bàn và nền tảng của đời sống, tức là Địa, Thủy, Hỏa, Phong.”[6]

[182]

(182)

These four signs are Taurus, Leo, Scorpio and Aquarius, and they constitute pre-eminently the cross of the soul, the cross upon which the second Person of the divine Trinity is crucified. Christ personified in His mission these four aspects, and as the cosmic Christ He exemplified in His Person the qualities for which each sign stood. Even primitive man, unevolved and ignorant, was aware of the significance of the cosmic spirit, immolated in matter and crucified upon the four-armed cross. These four signs are to be found unequivocally in the Bible, and are regarded in our Christian belief as the four sacred animals. The Prophet Ezekiel refers to them in the words:

 Bốn cung vừa kể là Kim ngưu, Mãnh sư, Hổ cáp và Bảo bình. Chính yếu chúng là thập tự giá của linh hồn, là thập tự mà trên đó Ngôi hai của Ba Ngôi thiêng liêng đang chịu khổ hình. Trong sứ mệnh của Ngài, Đức Christ thể hiện bốn phương diện nói trên, và với tư cách Đấng Christ vũ trụ Ngài điển hình nơi chính mình những phẩm tính mà mỗi cung này biểu lộ. Ngay cả con người nguyên thủy, còn chưa tiến hóa và thiếu hiểu biết, cũng nhận thức được ý nghĩa của tinh thần vũ trụ, chịu hy sinh trong vật chất và chịu khổ hình trên thập tự bốn cánh nói trên. Bốn cung kể trên cũng được đề cập rõ rệt trong Kinh thánh, và trong tín ngưỡng Thiên Chúa giáo chúng được xem là bốn con vật linh thánh. Nhà tiên tri Ezekiel nói đến chúng như sau:

“As for the likeness of their faces, they four had the face of a man, and the face of a lion, on the right side; and they four had the face of an ox on the left side; they four also had the face of an eagle.” [clxxxv]7

“Vì các mặt của chúng đều giống nhau, nên cả bốn đều có hình mặt người, và hình mặt sư tử, ở bên phải; và cả bốn đều có hình mặt bò đực ở bên trái; cả bốn cũng có hình mặt chim ưng.”[7]

And again in the Book of Revelations, we find the same astrological symbology:

Ở chỗ khác, trong Sách Khải huyền, cũng có nói đến các biểu tượng chiêm tinh kể trên:

“And before the throne there was a sea of glass like unto crystal: and in the midst of the throne, and round about the throne, were four beasts full of eyes, before and behind.

“Và phía trước chiếc ngai có một biển thủy tinh trong như pha lê: ở giữa chiếc ngai và chung quanh chiếc ngai, có bốn con thú với đầy đủ mắt, phía trước và phía sau.

“And the first beast was like a lion, and the second beast was like a calf, and the third beast had a face as a man, and the fourth beast was like a flying eagle.” [clxxxvi]8

“Con thú thứ nhất giống như sư tử, con thú thứ hai giống như con bê, con thú thứ ba có khuôn mặt người, và con thú thứ tư giống như chim ưng đang bay.”[8]

The “face of the man” is the ancient sign of Aquarius, the sign of the man carrying the water-pot, to which Christ referred when He sent His disciples into the city, saying: “Behold, when ye are entered into the city, there shall a man meet you, bearing a pitcher of water; follow him into the house where he entereth in.” [clxxxvii]9 This is the zodiacal sign into which we are entering. It might be as well to point out that this is astronomically true and not simply a pronouncement [183] of the astrologers. The symbol which stands for the zodiacal sign Leo, is the Lion. This sign is the symbol of individuality, and under its influence the race arrives at self-consciousness and men can function as individuals. Christ, in His teaching, emphasised the significance of the individual and in His life demonstrated the supreme value of the individual, his perfecting, his service and his ultimate sacrifice in the interests of the whole. The constellation Aquila is always regarded as interchangeable with the sign Scorpio, the serpent, and it is therefore frequently used in this connection when considering the fixed cross of the cosmic Saviour. Scorpio is the serpent of illusion from which the Christ nature finally frees us, and it is to the illusory wiles of this serpent Scorpio that Adam succumbed in the garden of Eden. The “face of the ox” is the biblical symbol for the sign Taurus, the Bull, which was the religion immediately antedating the Jewish revelation, and which found its exponents in Egypt and in the Mithraic Mysteries. Upon this fixed cross all the world Saviours, not excepting the Christ of the West, have been eternally crucified, as reminders to man of the divine intent based upon the divine sacrifice.

“Khuôn mặt người” là biểu tượng cổ xưa của Bảo bình. Đó là biểu tượng người mang bình nước mà Đức Christ nói đến khi Ngài bảo các môn đồ đi vào thành phố: “Này, khi đi vào thành phố, các ngươi sẽ gặp một người đàn ông đang mang bình nước. Hãy theo y để vào ngôi nhà mà y đi vào.”[9]  Đây là cung hoàng đạo mà chúng ta đang đi vào. Có thể nói thêm rằng điều này cũng đúng theo khoa thiên văn, chứ không chỉ là lời tuyên bố suông (183) của các nhà chiêm tinh. Biểu tượng của cung hoàng đạo Mãnh sư, là Sư tử. Cung này tiêu biểu cho cá tính. Dưới ảnh hưởng của nó, nhân loại đạt được ngã thức, và con người có thể hoạt động như những cá nhân. Trong giáo huấn của Ngài, Đức Christ nhấn mạnh ý nghĩa quan trọng của cá nhân. Và trong đời sống, Ngài cũng biểu dương giá trị cao tột của cá nhân, khi y trở nên hoàn thiện, phụng sự, và cuối cùng hy sinh vì lợi ích của toàn thể. Chòm sao Aquila bao giờ cũng được xem là có thể dùng thay đổi cho cung Hổ cáp, con rắn. Do đó, nó thường được dùng trong phương diện này khi xét đến thập tự giá cố định của vị Cứu tinh vũ trụ. Hổ cáp là con rắn ảo tưởng mà cuối cùng bản tính Christ giúp chúng ta thoát khỏi. Chính thủ đoạn gian trá gây ảo tưởng của con rắn Hổ cáp này đã khiến Adam bị cám dỗ trong vườn Địa đàng. “Khuôn mặt bò đực” là biểu tượng trong Kinh thánh chỉ về cung Kim ngưu, con Bò đực. Nó thuộc về tôn giáo có ngay trước cuộc thiên khải của người Do Thái, có tín đồ ở Ai Cập và tiêu biểu trong các Bí nhiệm của Mithra. Trên thập tự cố định này, tất cả những vị Cứu thế, không ngoại trừ Đức Christ của phương Tây, đã mãi mãi chịu khổ hình. Nó nhắc nhở con người về chủ đích thiêng liêng, dựa vào sự hy sinh thiêng liêng đó.

The early Fathers recognised this truth, and realised that the story written in the heavens had a definite relation to humanity and to the evolution of human souls. Clement of Alexandria tells us that “the path of souls to ascension lies through the twelve signs of the zodiac,” and the church festivals today are based, not upon historical dates in connection with the outstanding religious figures to which they refer, but upon the times and the seasons. We saw how in the Birth at Bethlehem the date was fixed astronomically nearly four centuries after Christ was born. The combination of Virgo with the Star in the East (Sirius), and the Three Kings (symbolised by Orion’s belt) was the determining factor. The Virgin was seen in the east, with the line of the horizon passing through her centre, and this is one of the factors determining the doctrine of the Virgin birth.

Các vị Linh mục trong thời kỳ đầu đã công nhận chân lý này. Họ nhận thức rằng câu chuyện viết trên bầu trời vốn có liên quan rõ rệt đến nhân loại, và đến cuộc tiến hóa của linh hồn con người. Thánh Clement ở thành Alexandria nói rằng “con đường thăng thượng của các linh hồn đi qua mười hai cung hoàng đạo.”  Đồng thời, các cuộc lễ của giáo hội ngày nay được dựa vào những thời điểm và mùa tiết, mà không dựa vào những ngày tháng ghi trong lịch sử liên quan đến các nhân vật nổi tiếng trong tôn giáo mà các cuộc lễ ấy đề cập đến. Chúng ta đã thấy bằng cách nào mà ngày Chúa Giáng sinh ở Bethlehem đã được ấn định theo khoa thiên văn, gần bốn thế kỷ sau khi Đức Christ ra đời. Sự kết hợp của cung Trinh nữ với Ngôi sao ở phương Đông (Sirius), và Ba vị Vua (tiêu biểu bởi vành đai của chòm sao Orion) là yếu tố dùng để xác định. Chúng ta thấy chòm sao Trinh nữ ở phía đông, với đường chân trời đi ngang qua tâm của nó. Và đây là một trong những yếu tố xác định giáo lý về việc sinh ra từ Mẹ đồng trinh.

[184]

(184)

Another instance can here be given to illustrate the astronomical background of our Christian festivals. There are two festivals kept in the Roman Catholic and the higher Anglican Churches, called the Assumption of the Virgin and the Birth of the Virgin Mary. One is celebrated on August 15th and the other on September 8th. Each year, the sun can be seen entering the sign Virgo about the time of the Assumption, and the entire constellation is enveloped and lost to sight in the radiant glory of the sun. About September 8th the constellation Virgo can be seen slowly reappearing as it emerges from the rays of the sun. This is spoken of as the birth of the Virgin.

 Ở đây có thể đưa ra một ví dụ khác để minh họa cái bối cảnh thuộc khoa thiên văn của các cuộc lễ trong Thiên Chúa giáo. Có hai cuộc lễ được cử hành trong Giáo hội Công giáo La Mã và Giáo hội Anh giáo miền thượng, gọi là lễ Thăng thiên của Đức Mẹ Đồng trinh, và sự Giáng sinh của Đức Mẹ Đồng trinh Mary. Một cuộc lễ được cử hành vào ngày 15 tháng Tám, và cuộc lễ kia vào ngày 8 tháng Chín. Mỗi năm, chúng ta có thể thấy mặt trời đi vào ảnh hưởng của chòm sao Trinh nữ trong khoảng thời gian lễ Thăng thiên. Bấy giờ trọn cả chòm sao này được bao phủ và chìm trong ánh quang huy chói rạng của mặt trời. Vào khoảng ngày 8 tháng Chín, chúng ta có thể thấy chòm sao Trinh nữ từ từ tái hiện, khi nó ra khỏi các tia sáng của mặt trời. Điều này được gọi là sự giáng sinh của Đức Mẹ Đồng trinh.

Easter Day is always decided astronomically. These facts warrant the most careful consideration. This information should be in the hands of all Christian people, because then and only then can they arrive at a full and clear understanding of what, in His cosmic nature, Christ came to Earth to do. That event was of far greater importance than simply bringing about the salvation of any individual human being. It signified far more than the basis of the belief of several million people in their heavenly future. Christ’s incarnation, apart from its historical value, and apart from the keynote which He sounded, marked the closing of a great cosmic cycle, but it marked also the opening of that door into the kingdom which had opened only occasionally theretofore, in order to permit the entrance of those sons of God who had triumphed over matter. After the advent of Christ, the door stood wide open for all time, and the kingdom of God began to form on Earth. In the long processes of time four great expressions of divine life, four forms of God immanent in nature, have appeared upon our planet. We call them the four kingdoms of nature. They constitute, symbolically, the planetary reflection of the four arms of the zodiacal cross upon which the cosmic Christ can be seen crucified. Down the ages human beings have symbolised the cosmic Christ immolated upon the cross of matter, and thus have perpetuated in the[185] consciousness of the race the knowledge of that event; so in a planetary sense, the four kingdoms of nature do the same, portraying the spirit of God stretched upon a cross of material form, in order eventually to make possible the appearance of the kingdom of God on Earth. This connotes the spiritualisation of matter and form, the assumption of matter into heaven, and the release of God from the cosmic crucifixion. The poet, Joseph Plunkett, makes this beautifully clear in the following verses:

Lễ Phục sinh thì bao giờ cũng được quyết định theo khoa thiên văn. Những sự kiện thực tế này đáng cho chúng ta xem xét kỹ. Tất cả những người Thiên Chúa giáo đều nên biết các thông tin này. Vì chừng đó và chỉ chừng đó họ mới có thể hiểu đầy đủ, rõ ràng về những gì mà Đức Christ đã đến Thế gian để thực hiện, trong bản tính vũ trụ của Ngài. Sự kiện đó vốn có tầm quan trọng lớn lao rất nhiều hơn là chỉ mang lại sự cứu rỗi cho bất cứ cá nhân riêng rẽ nào. Nó có ý nghĩa sâu rộng nhiều hơn điều căn bản trong niềm tin của bao nhiêu triệu người về tương lai của họ được lên cõi thiên đàng. Sự lâm phàm của Đức Christ, ngoài giá trị lịch sử của nó, và ngoài chủ âm mà Ngài đã xướng lên, còn đánh dấu sự kết thúc một đại chu kỳ vũ trụ. Nó cũng đánh dấu việc mở ra cánh cửa đi vào Thiên giới, mà từ đó trở về trước chỉ đôi khi mới mở ra để thu nhận những người con của Thượng Đế đã chiến thắng vật chất một cách vẻ vang. Sau khi Đức Christ giáng lâm, cánh cửa này luôn rộng mở, và Thiên giới bắt đầu hình thành ở Thế gian. Trong những diễn trình lâu dài của thời gian, bốn sự biểu lộ vĩ đại của sự sống thiêng liêng, bốn hình thể trong thiên nhiên của Thượng Đế hằng hữu nội tại, đã xuất hiện trên hành tinh chúng ta. Chúng được gọi là bốn trường tiến hóa của thiên nhiên. Về mặt biểu tượng, chúng là phản ánh trên hành tinh này bốn cánh của thập tự hoàng đạo, mà trên đó chúng ta có thể thấy Đấng Christ vũ trụ đang chịu khổ hình. Qua các thời đại, con người đã là biểu tượng của Đấng Christ vũ trụ chịu hy sinh trên thập tự giá của vật chất. Bằng cách này, đã duy trì trong (185) tâm thức của nhân loại sự hiểu biết về sự kiện đó. Vì thế, theo ý nghĩa hành tinh, bốn trường tiến hóa của thiên nhiên cũng có vai trò tương tự. Chúng cho thấy hình ảnh tinh thần của Thượng Đế bị gắn chặt vào thập tự giá của hình thể vật chất. Nhờ thế mà rốt cuộc Thiên giới mới có thể xuất hiện ở Thế gian. Điều này có hàm ý tinh thần hóa vật chất và hình thể, nâng cao vật chất lên cõi trời, và giải thoát Thượng Đế khỏi thập giá hình của vũ trụ. Thi sĩ Joseph Plunkett diễn tả điều này thật hay trong những vần thơ dưới đây:

“I see His blood upon the rose

“Tôi thấy máu huyết Ngài trên những đóa hoa hồng

And in the stars the glory of His eyes,

Trong các vì sao, ánh mắt Ngài chói rạng,

His body gleams amid eternal snows,

Giữa băng tuyết vạn niên, thân xác Ngài rực sáng,

His tears fall from the skies.

Lệ Ngài rơi xuống từ mấy tầng không.

I see His face in every flower,

Tôi thấy Ngài lộ diện trong mọi đóa hoa,

The thunder and the singing of the birds

Tiếng của Ngài là sấm rền, và chim ca lãnh lót,

Are but His voice—and carven by His power

Hang động thâm u, quyền năng Ngài cao tột.

Rocks are His written words.

Đá núi chênh vênh in bút tự của Ngài.

All pathways by His feet are worn,

Bước chân Ngài trên bao quãng đường dài

His strong heart stirs the ever-beating sea,

Biển rộng triều dâng theo nhịp tim Ngài thánh thiện,

His crown of thorns is twined with every thorn,

Vòng gai nhọn Ngài bện thành vương miện

His cross is every tree.”

Mọi thân cây là thập tự giá của Ngài.”[10]

 [clxxxviii]10

The wonder of Christ’s mission lay in the fact that, though He was one of a long continuity of perfected divine men, He had a unique function. He summed up in Himself and brought to a conclusion the symbolic presentation of God’s eternal sacrifice upon the fixed cross of the heavens, to which the stars bear testimony and which the history of religion has so successfully veiled, and today refuses to recognise. The Heavenly Man is today pendant in the Heavens, as He has been since the creation of the solar system, and as Christ said, “I, if I be lifted up from the earth, will draw all men unto Me,” [clxxxix]11 and not all men only, but eventually all forms of life in all kingdoms will render up their life, not as an imposed sacrifice, but as a willing offering to the [186] final glory of God. “He that loseth his life for my sake shall find it,” [cxc]12 is a fact which is often forgotten and one which has a definite bearing upon the story of the crucifixion in its wider implications. It is, however, through the achievement of the last of the manifesting kingdoms, the human, that the cross and its purpose is completed, and to this the death of Christ bears testimony.

Sứ mệnh của Đức Christ thật là kỳ diệu vì tuy rằng Ngài là một trong chuỗi dài những bậc thiêng liêng hoàn thiện đã đến thế gian, Ngài lại có chức năng độc đáo. Ngài tổng kết nơi chính mình và kết thúc sự trình bày biểu tượng về việc Thượng Đế mãi mãi chịu hy sinh trên thập tự giá cố định của các cõi trời. Điều này mang chứng tích trên các ngôi sao, nhưng lịch sử tôn giáo đã hoàn toàn che đậy, và ngày nay họ vẫn không chịu công nhận. Vị Thiên Nhân này ngày nay vẫn còn bị treo lơ lửng trên các tầng trời như tự ngàn xưa, kể từ khi thành lập thái dương hệ. Đức Christ có nói “Nếu ta được nâng cao lên khỏi thế gian, ta sẽ hấp dẫn tất cả mọi người đến với ta.”[11]  Và không những con người mà rốt cuộc tất cả các hình thái sống trong mọi trường tiến hóa sẽ hiến dâng sự sống của mình, không do bị buộc phải hy sinh, mà là tự nguyện hiến dâng cho (186) sự vinh quang cuối cùng của Thượng Đế. “Ai từ bỏ sự sống của mình vì Ta, thì sẽ tìm thấy nó,”[12]  là điều thực tế mà người ta thường hay quên. Điều này có liên quan rõ rệt đến hàm ý rộng lớn của câu chuyện thập giá hình. Tuy nhiên, chính là qua sự thành tựu trong giới biểu hiện cuối cùng, giới nhân loại, mà vai trò và mục đích của thập tự giá mới hoàn tất. Sự chết của Đức Christ là bằng chứng cho điều này.

But the important point is not His death, though that was climactic in the evolutionary process, but the subsequent Resurrection, symbolising as it did the formation and the precipitation upon Earth of a new kingdom in which men and all forms would be free from death—a kingdom of which the Man released from the Cross should be the symbol. We thus complete the entire circle, from the Man in space, with arms outspread in the form of a cross, through the sequence of crucified Saviours, telling us again and again what God had done for the universe until we arrive at the culminating Son of God Who carried the symbolism down on to the physical plane, in all its stages. He then rose from the dead to tell us that the long task of evolution had at last reached its final phase—if we so choose, and if we are ready to do as He did—pay the price, and, passing through the gates of death, attain to a joyful resurrection. St. Paul sought to bring this truth home to us, though his words have been so often distorted through translation and theological misinterpretation:

Thế nhưng điều quan trọng không phải là sự chết của Ngài, dù nó là đỉnh cao của diễn trình tiến hóa, mà là sự Phục sinh sau đó. Nó tượng trưng cho sự hình thành và biểu hiện ở thế gian một trường tiến hóa mới, trong đó con người và tất cả các hình thể khác sẽ thoát khỏi sự chết – trường tiến hóa này sẽ có biểu tượng là Con người được giải thoát khỏi Thập tự giá. Thế là chúng ta đã đi trọn một vòng, từ Con người ở trong không gian, với đôi tay dang ra dưới dạng thập tự giá, qua trình tự của các vị Cứu thế chịu khổ hình thập tự, bao lần cho ta thấy những gì mà Thượng Đế đã làm cho vũ trụ. Cuối cùng chúng ta đến Người Con của Thượng Đế đạt được đỉnh cao. Ngài mang ý nghĩa biểu tượng đó xuống đến cõi trần, trong tất cả các giai đoạn của nó. Sau đó, Ngài sống lại từ cõi chết để cho chúng ta biết rằng cuộc tiến hóa lâu dài đã đạt đến giai đoạn cuối cùng. Nếu muốn, và nếu sẵn sàng, chúng ta có thể làm như Ngài đã làm, là trả giá và đi qua cửa tử để đạt được sự phục sinh đầy hoan hỉ. Thánh Paul cố gắng giải rõ điều này cho chúng ta, dù rằng lời của ông quá thường bị lệch lạc do chuyển dịch và những diễn giải sai lầm của thần học:

“I long to know Christ and the power which is in His resurrection, and to share in His suffering and die even as He died; in the hope that I may attain to the resurrection from the dead. I do not say that I have already gained this knowledge or already reached perfection, but I press on.” [cxci]13

“Tôi thiết tha muốn biết Đức Christ và quyền năng có trong sự phục sinh của Ngài, muốn chia sẻ nỗi đau khổ của Ngài, và thậm chí chịu chết như Ngài đã chết. Hy vọng rằng nhờ đó mà tôi có thể được phục sinh từ cõi tử. Tôi không cho rằng mình đã biết được điều này hay đã đạt sự hoàn thiện, nhưng tôi cứ tiến.”[13]

It would not appear from this passage that St. Paul regarded it as sufficient to salvation that one should simply believe that Christ died for one’s sins.

Dường như trong đoạn này Thánh Paul không cho rằng chỉ cần tin vào việc Đức Christ đã chết vì tội lỗi của chúng ta là đủ để được cứu rỗi.

[187]

(187)

Let me state here, briefly and succinctly, what it would appear really transpired when Christ died upon the Cross. He rendered up the form aspect and identified Himself as Man with the life aspect of Deity. He thereby liberated us from the form side of life, of religion and of matter, and demonstrated to us the possibility of being in the world and yet not of the world, [cxcii]14 living as souls, released from the trammels and limitations of the flesh, while yet walking on earth. To the very deeps of its being humanity is tired of death. Its only rest lies in the belief that the ultimate victory is over death, and that some day death will be abolished. This we shall go into more definitely in our next chapter, but in passing, it may be said that the race is so imbued with the thought of death that it has been the line of least resistance for theology to emphasise the death of Christ, and to omit to lay the major emphasis upon the renewal of life to which that death was the prelude. This practice will end because the world today demands a living Christ rather than a dead Saviour. It demands an ideal so universal in its implications—so inclusive of time and space and life—that the constant explanations and the endless attempts to make theology conform to the requirements of a deeply sensed vital truth will no longer be needed. The world has outlived the thought of a wrathful God who demands a blood sacrifice. Intelligent people today must agree that “… modern thought does not clash with primitive Christian ideas; but in regard to the propitiation for these evil inclinations the case is different. We can no longer accept the appalling theological doctrine that for some mystic reason a propitiatory sacrifice was necessary. It outrages either our conception of God as almighty or else our conception of Him as all-loving.” [cxciii]15 Humanity will accept the thought of a God who so loved the world that He sent His Son to give us the final expression of the cosmic sacrifice and to say to us, as He did [188] upon the Cross: “It is finished.” [cxciv]16 We can now “enter into the joy of the Lord.” [cxcv]17 Men are learning to love, and they will, and do, repudiate a theology which makes of God a force of hardness and cruelty in the world, unparalleled by men.

Ở đây tôi xin nói lên điều gì có vẻ thực sự đã xảy ra khi Đức Christ chết trên Thập tự giá. Ngài từ bỏ phương diện hình thể và, với tư cách Con người, Ngài tự đồng nhất với phương diện sự sống của Thánh linh. Bằng cách này, Ngài đã giải thoát chúng ta ra khỏi phương diện hình thể của cuộc sống, của tôn giáo và của vật chất, và cho chúng ta thấy khả năng có thể sống trên thế gian nhưng không thuộc về thế gian.[14]  Chúng ta cũng có thể sống với tư cách linh hồn, thoát khỏi mọi ràng buộc và hạn chế của thân xác, trong khi vẫn hoạt động trong đời. Ở tận thâm tâm, nhân loại rất chán ghét sự chết. Họ chỉ dựa vào niềm tin rằng rốt cuộc họ sẽ chiến thắng sự chết, và một ngày nào đó sự chết sẽ bị xóa bỏ. Điều này sẽ được bàn kỹ hơn trong chương kế tiếp. Nhân đây, có thể nói rằng vì nhân loại quá bận bịu đến ý nghĩ về sự chết, nên khoa thần học dễ dàng nhấn mạnh về sự chết của Đức Christ. Nó bỏ qua, không chú trọng đến điều chính yếu là việc đổi mới cuộc sống mà trong đó sự chết chỉ là điểm khởi đầu. Quan niệm này sẽ chấm dứt vì thế giới ngày nay đang cần có Đức Christ hằng sống hơn là vị Cứu thế đã chết. Thế giới đang cần có một lý tưởng với hàm nghĩa hết sức đại đồng – và hoàn toàn bao gồm cả thời gian, không gian và cuộc sống. Do đó, những sự liên tục giảng giải và cố gắng bất tận nhằm khiến cho khoa thần học đáp ứng các yêu cầu của chân lý trọng yếu, sẽ không còn cần thiết nữa. Thế giới đã tiến xa hơn cái ý nghĩ về một vị Thượng Đế đầy sân hận, đòi hỏi phải có hy sinh bằng máu huyết. Những người có trí thông minh ngày nay đều phải đồng ý rằng “… tư tưởng hiện nay không hề mâu thuẫn với các ý tưởng nguyên thủy của Thiên Chúa giáo. Nhưng về những sở thích độc ác nói trên thì lại khác. Chúng ta không còn có thể chấp nhận cái giáo lý khủng khiếp của thần học, cho rằng vì một lý do thần bí nào đó mà cần phải tế vật hy sinh để làm nguôi cơn giận của quỹ thần.”[15]   Nhân loại sẽ chấp nhận ý niệm về một vị Thượng Đế yêu thương thế gian đến đỗi Ngài đã gửi Con Trai của Ngài đến để giúp chúng ta hiểu được thế nào là sự biểu lộ cuối cùng của sự hy sinh cấp vũ trụ, và để nói với chúng ta, như Người đã nói (188) trên Thập tự giá: “Mọi sự đã hoàn tất.”[16]   Nay chúng ta có thể “đi vào niềm hân hoan của Chúa.”[17]  Mọi người đang học cách yêu thương, và họ sẽ, và nhất định sẽ, bác bỏ một khoa thần học biến Thượng Đế thành một sức mãnh chai rắn và độc ác trên thế giới, mà con người không sánh nỗi.

The whole trend of human life tends to repudiate those ancient tenets which were founded in fear, and instead, courageously faces the facts and the responsibilities which are inherent in its spiritual birthright.

Xu thế chung của toàn cuộc sống nhân loại là có khuynh hướng bác bỏ những giáo lý cũ kỹ dựa vào sự sợ hãi. Thay vào đó, họ can đảm đối diện với những sự kiện thực tế và trách nhiệm, vốn là quyền hạn sẵn có của mình về mặt tinh thần.

2

2

When the Church lays its emphasis upon the living Christ, and when it recognises that its forms and ceremonies, its festivals and rituals are inherited from a very ancient past, we shall then have the emergence of a new religion which will be as much divorced from form and the past as the kingdom of God is divorced from matter and the body nature. Orthodox religion, as a whole, can be regarded as a cross upon which we have crucified Christ; it has served its purpose as the custodian of the ages and the preserver of ancient forms, but it must enter into new life and pass through the resurrection if it is to meet the need of the deeply spiritual humanity of today. “Nations, like individuals,” we are told, “are made, not only by what they acquire but by what they resign, and this is true also of religion at this time.” [cxcvi]18 Its form must be sacrificed upon the Cross of Christ in order that it may be resurrected into true and vital life for the meeting of the people’s need. Let a living Christ be its theme, and not a dying Saviour. Christ has died. About that let there be no mistake. The Christ of history passed through the gates of death for us. The cosmic [189] Christ is still dying upon the Cross of Matter. There He hangs fixed until the last weary pilgrim shall find his way home. [cxcvii]19 The planetary Christ, the life of the four kingdoms of nature, has been crucified on the four arms of the planetary Cross down the ages. But the end of this period of crucifixion is close upon us. Mankind can descend from the cross as Christ did, and enter into the kingdom of God, a living spirit. The sons of God are ready to be manifested. Today as never before:

Khi Giáo hội chú trọng đến Đức Christ hằng sống, và khi họ công nhận rằng các lễ hội và nghi lễ của mình đều vốn kế thừa từ thời quá khứ rất xa xưa, thì bấy giờ chúng ta sẽ thấy sự xuất lộ của nền tôn giáo mới. Nền tôn giáo này sẽ đoạn tuyệt với hình tướng và quá khứ, giống như Thiên giới cũng hoàn toàn đoạn tuyệt với vật chất và phương diện hình thể vậy. Có thể xem toàn cả nền tôn giáo chính thống là chiếc thập tự giá mà Đức Christ đã phải chịu khổ hình trên đó. Nó đã phục vụ xong mục đích là người trông nom qua các thời đại và bảo tồn các hình thức cổ xưa. Nhưng nó phải bước vào đời sống mới và trải qua sự phục sinh, nếu nó muốn đáp ứng nhu cầu hiện nay của nhân loại có tính tinh thần sâu sắc. Người ta nói rằng “Giống như những cá nhân, các quốc gia được hình thành không chỉ bởi những thứ họ thủ đắc, mà còn bởi những thứ họ từ bỏ, và điều này cũng đúng với tôn giáo hiện nay.”[18]  Hình thể của nó phải chịu hy sinh trên Thập tự giá của Đức Christ, để nó có thể được phục sinh vào đời sống thực và sinh động, nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi người. Tôn giáo hãy lấy chủ đề là Đức Christ hằng sống, chứ không phải là vị Cứu thế đã chết. Đức Christ đã chết. Chúng ta đừng nhầm lẫn điều đó. Đức Christ của lịch sử đã đi qua cửa tử vì chúng ta. Đấng Christ (189) vũ trụ đang chịu tuẫn nạn trên Thập tự giá Vật chất. Ngài mãi mãi bị treo ở đó cho đến khi người khách hành hương mệt mỏi cuối cùng tìm thấy con đường trở lại quê xưa.[19]  Đức Christ hành tinh, tức là sự sống của bốn giới tiến hóa trong thiên nhiên, đã chịu khổ hình trên bốn cánh của Thập tự giá hành tinh qua các thời đại. Thế nhưng, giai đoạn thập giá hình này nay đang kết thúc với chúng ta. Nhân loại có thể xuống khỏi thập tự giá như Đức Christ đã làm, và đi vào Thiên giới, với tư cách tinh thần hằng sống. Những người con của Thượng Đế đang sẵn sàng biểu hiện. Ngày nay, với những điều kiện chưa hề có trước đây:

“The Spirit Himself bears witness with our own spirits that we are children of God; and if children, then heirs too—heirs of God and co-heirs with Christ; if indeed we share Christ’s sufferings, in order to share also His glory….

“Chính Đức Thánh linh chứng tỏ cho tinh thần nơi chúng ta thấy rằng chúng ta là con của Thượng Đế. Và nếu là con thì cũng là người thừa kế – người thừa kế của Thượng Đế và là người đồng thừa kế với Đức Christ. Nếu quả thật như thế, thì chúng ta chia sẻ nỗi thống khổ của Đức Christ, để cùng chia sẻ sự vinh quang của Ngài …

“All creation is yearning, longing to see the manifestation of the sons of God. For the Creation was made subject to futility, not of its own choice, but by the will of Him who so subjected it; yet with the hope that at last the Creation itself would be set free from the thraldom of decay to enjoy the liberty that comes with the glory of the children of God.

“Toàn cuộc sáng tạo đang khát khao, mong mỏi thấy sự biểu hiện của những người con Thượng Đế. Vì Cuộc sáng tạo được lập ra mà không thể làm gì khác hơn, hay tự chọn lựa, mà phải tùy theo ý chí của Đấng đã áp đặt ý chí ấy; nhưng với hy vọng rằng cuối cùng chính Cuộc sáng tạo sẽ được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ của sự hư hoại và hưởng được sự tự do đến từ nguồn vinh quang của các con Thượng Đế.

“For we know that the whole of Creation is moaning in the pangs of childbirth until this hour. And more than that, we ourselves, though we possess the Spirit as a foretaste of bliss, yet we ourselves moan as we wait for full sonship in the redemption of our bodies.” [cxcviii] 20

“Vì chúng ta biết rằng cho đến giờ này toàn Cuộc sáng tạo vẫn đang quằn quại trong đau khổ chờ sự giáng sinh. Và hơn thế nữa, chính chúng ta, dù chúng ta sẵn có tinh thần để nếm trải trước phần nào chân phúc, nhưng chính chúng ta cũng kêu than chờ đợi được đầy đủ tư cách người con của Thượng Đế để cứu chuộc các thể của mình.”[20]

Towards this glorification of God we are all moving. Some of the sons of men have already achieved, through the realisation of their divinity.

Chúng ta đang tiến đến nguồn vinh quang này của Thượng Đế. Một số người con của nhân loại đã đạt được điều này, nhờ nhận thức được thiên tính nơi mình.

It is of interest to note how the two great branches of orthodox Christianity, the Eastern, as expressed through the Greek Church, and the Western, as expressed through the Roman Catholic and the Protestant Churches, have preserved two great concepts which the spirit of the race needed on its great evolutionary journey away from God and back to God. The Greek Church has always emphasised the[190] risen Christ. The West has emphasised the crucified Saviour. Eastern Christianity looks to the resurrection as its pivotal teaching.

Thiên Chúa giáo chính thống có hai chi nhánh lớn: chi nhánh phía Đông biểu lộ qua Giáo hội Hy Lạp, và chi nhánh phía Tây biểu lộ qua Giáo hội Công giáo La mã và Giáo hội Tin Lành. Chúng ta nên lưu ý đến cách nào mà họ đã bảo tồn hai khái niệm chính đại mà tinh thần của nhân loại cần có trên con đường tiến hóa lâu dài, từ Thượng Đế họ ra đi rồi trở về với Ngài. Giáo hội Hy Lạp luôn nhấn mạnh (190) việc Đức Christ đã sống lại. Trong khi đó, Giáo hội phía Tây lại chú trọng đến Đấng cứu thế đã chịu khổ hình thập tự. Thiên Chúa giáo phía Đông xem sự phục sinh là giáo huấn then chốt của mình.

The need of a death unto things material, the tendency of man to sin and to forget God, and the necessity for a change of heart or of intention have been the contribution of Western Christianity to the religious beliefs in the world. But we have been so preoccupied with the subject of sin that we have forgotten our divinity; and we have been so intensely individual in our consciousness that we have depicted a Saviour Who gave His life for us as individuals, believing that had He never died we could never enter heaven. On these truths the Eastern Christian has placed little emphasis, stressing the living Christ and the divine nature of man. Assuredly, only when the best of the two lines of presented truths are brought together and then reinterpreted shall we arrive at the basic concept upon which we can take our stand without questioning, and also with the certainty that it is inclusive enough to be really divine. Sin exists, and there is sacrifice involved in the process of adjusting our sinful natures. There is a death unto life, and a need to “die daily,” [cxcix]21 as St. Paul says, in order that we may live. Christ died to all that had its existence in form, leaving us an example that we should follow His steps. But we in the West have forgotten the Transfiguration and lost touch with divinity, and we should now stand ready to accept from the Eastern Christian what he has so long believed.

Con người cần phải chết dứt đối với những thứ vật chất, cũng như phải từ bỏ cái khuynh hướng gây tội lỗi và thường quên Thượng Đế, đó là những đóng góp của Thiên Chúa giáo phía Tây cho niềm tin tôn giáo trên thế giới. Nhưng chúng ta đã quá bận tâm đến vấn đề tội lỗi mà quên đi thiên tính của mình. Chúng ta có thái độ quá đỗi cá nhân trong tâm thức, nên đã vẽ ra một vị Cứu thế ban tặng sự sống của Ngài cho chúng ta với tính cách những cá nhân, và tin rằng nếu không có sự chết của Ngài thì chúng ta không bao giờ có thể đi vào cõi thiên đàng. Trái lại, Thiên Chúa giáo phía Đông thì không mấy chú trọng đến những điều nói trên, mà nhấn mạnh về Đức Christ hằng sống và bản tính thiêng liêng của con người. Chắc hẳn rằng, cần phải kết hợp và diễn giải lại những gì tốt đẹp nhất của hai đường hướng trình bày chân lý kể trên. Chỉ chừng ấy, chúng ta mới có được lập trường vững vàng, không còn nghi vấn, đồng thời biết chắc rằng nó có khả năng bao gồm đến mức thực sự thiêng liêng. Tội lỗi vẫn hiện hữu, và cần phải hy sinh trong quá trình điều chỉnh tính chất tội lỗi của mình. Có sự chết trong đời sống, và cần phải “chết dứt mỗi ngày,”[21]  như lời của Thánh Paul, để chúng ta có thể sống. Đức Christ chết dứt với tất cả những gì hiện hữu trong hình thể, nêu gương sáng để chúng ta có thể đi theo bước chân Ngài. Thế nhưng, người Thiên Chúa giáo phía Tây đã quên mất sự Biến dung và không còn giao tiếp với thiên tính, nên nay họ cần sẵn sàng chấp nhận những gì mà người Thiên Chúa giáo phía Đông đã tin tưởng.

This gnosis has always been in the world. Long before Christ came the divinity of man was affirmed and divine incarnations were recognised.

Kiến thức tinh thần này bao giờ cũng có trên thế giới. Từ lâu trước khi Đức Christ giáng trần, thiên tính nơi con người đã được khẳng định, và những cuộc lâm phàm thiêng liêng đã được công nhận.

The Gnostics themselves claimed to be the custodians of a revelation which was not uniquely theirs, but which had always been present in the world. G.R.S. Mead, an authority on these matters, remarks that: “The claim of these Gnostics was practically that the good news of Christ (the Christos) [191] was the consummation of the inner doctrine of the Mystery-Institutions of all the nations; the end of them all being the revelation of the Mystery of Man. In Christ the Mystery of Man was unveiled.” [cc]22

Chính những người theo Trí huệ phái tự cho rằng mình nắm giữ một cuộc thiên khải vốn không phải của chỉ riêng họ, mà bao giờ cũng có trên thế giới. G. R. S. Mead, người am hiểu nhiều về vấn đề nói trên, nhận xét rằng: “Sự khẳng định của những người Trí huệ phái này thực ra nói rằng tin mừng về Đức Christ (Đức Kitô) (191) là sự hoàn thành viên mãn giáo lý nội môn của những Trường phái gìn giữ các Bí nhiệm trong tất cả các quốc gia. Điều cuối cùng của tất cả các bí nhiệm là sự khải thị về Bí nhiệm của Con người. Trong Đức Christ, Bí nhiệm về Con người đã được tiết lộ.”[22]

In view of the proven fact that there has been a continuity of revelation, and that Christ was one of the long line of manifesting Sons of God, wherein did His Person and His mission differ from that of the others? We can and must agree with Pfleger when he says: “The Incarnation of God in Christ is but a greater and more perfect theophany in a series of other more imperfect theophanies, which prepared the way for it by moulding the human nature which received them… the Incarnation is not a miracle in the strict and crude sense of the term, any more than the Resurrection, which is the inner union of matter with spirit, is foreign to the universal order of existence.” [cci]23 In what, therefore, did the mission of Christ differ from the others?

Với thực tế đã chứng minh rằng đã có cuộc thiên khải liên tục, và Đức Christ là một người trong chuỗi dài những người con Thượng Đế, vậy thì Con người và sứ mệnh của Ngài khác với những vị kia như thế nào?  Chúng ta có thể và phải đồng ý với Pfleger khi ông nói: “Sự Lâm phàm của Thượng Đế trong Đức Christ là một sự hiện thể thiêng liêng vĩ hơn và hoàn hảo hơn trong một loạt những sự hiện thể khác còn bất toàn, nhằm dọn đường cho Ngài bằng cách nắn đúc nhân tâm khi họ đón nhận chúng . . . Sự Lâm phàm này không phải là một phép lạ theo nghĩa đen và thô sơ của từ này, mà là Sự Phục sinh – tức là sự hợp nhất nội tại của vật chất với tinh thần, vốn khác lạ với những gì thường thấy trong cuộc hiện tồn.”[23]  Thế thì, sứ mệnh của Đức Christ khác với các vị kia thế nào?

The difference lay in the point in evolution which humanity itself had reached. The cycle which Christ inaugurated has been one in which men have become strictly human. Up till that Incarnation there had always been those who, having achieved humanity, had then passed on to demonstrate divinity. But now the whole race is at the point of so doing. Although today men are predominantly animal-emotional, yet through the success of the evolutionary process—leading as it has to our widespread educational systems and the general high level of mental awareness—men have reached the point where the masses themselves, given proper encouragement, can “enter into the kingdom of God.” Who can say that it is not this realisation, dim and uncertain as it may be, which prompts the universal unrest and the widespread determination to better conditions? That we interpret the kingdom of God in terms of the material is inevitable at first, but it is a hopeful and spiritual sign that we are today so [192] busy cleaning house, and thus attempting to raise the level of our civilisation. Christ incarnated when, for the first time, humanity was a complete whole, as far as the form side of its nature was concerned, with all the qualities manifesting—physical, psychic and mental—which distinguish the human animal. He brought to us a manifestation of what the perfect man could be who, regarding that form side as the temple of God, but recognising his innate divinity, strives to bring it to the foreground, first of all in his own consciousness and then before the world. This Christ did. The mysteries had always been revealed to the individual who fitted himself to penetrate into a hidden arcanum or temple, but Christ revealed them to humanity as a whole, and enacted the whole drama of the God-Man before the race. This was His major achievement, and this we have forgotten—the living Christ—in the emphasis we have laid upon man himself, on his relation to himself as a sinner, and to God as the One against Whom he has sinned.

Khác ở chỗ trình độ tiến hóa mà chính nhân loại bấy giờ đã đạt. Chu kỳ được Đức Christ khai sáng là thời kỳ mà con người đã trở nên thực sự là người. Mãi cho đến cuộc Lâm phàm của Ngài, vẫn có những người, đã đạt được nhân tính, rồi tiến lên để biểu lộ thiên tính. Nhưng giờ đây thì toàn nhân loại đều đến trình độ thực hiện điều này. Dù ngày nay con người hãy còn nhiều xúc cảm và thú tính, nhưng nhờ sự thành công của diễn trình tiến hóa – đã dẫn đến những hệ thống giáo dục rộng khắp, và nói chung là họ có ý thức trí tuệ cao – nên mọi người đã đến trình độ mà đại khối quần chung, nếu được khích lệ thích hợp, đều có thể “đi vào Thiên giới.”  Phải chăng có thể nói rằng chính sự nhận thức này, dù còn mờ nhạt và bất định đến đâu, cũng đã gây ra tình trạng bất ổn chung, và khiến cho ai ai cũng quyết tâm đạt được điều kiện sống tốt đẹp hơn?  Tất nhiên, lúc đầu chúng ta diễn giải Thiên giới trong phạm vi vật chất. Nhưng có dấu hiệu tinh thần đầy triển vọng là ngày nay chúng ta đang (192) cố gắng dàn xếp mọi sự để nhằm nâng cấp nền văn minh của mình. Đức Christ đã lâm phàm khi, lần đầu tiên, toàn thể nhân loại biểu lộ được tất cả các đặc tính về phương diện hình thể – của thể xác, tâm lý và trí năng – cho thấy rõ con thú nay đã thành người. Ngài cho chúng ta thấy con người hoàn thiện có thể như thế nào. Xem phương diện hình thể của mình là đền thờ của Thượng Đế, nhưng vẫn nhận thức được thiên tính bẩm sinh nơi mình, người ấy cố gắng làm cho nó phát lộ, trước hết là trong tâm thức của chính mình, rồi sau đó cho thế gian thấy. Đức Christ đã thực hiện điều đó. Các bí nhiệm bao giờ cũng được hiển lộ cho cá nhân nào đủ điều kiện thích hợp đi vào thánh điện hay mật điện ẩn tàng. Nhưng Đức Christ đã hiển lộ các bí nhiệm ấy cho toàn nhân loại, và phô diễn trọn cả lớp màn của vị Thiên-Nhân cho nhân loại thấy. Đây là thành tựu chính yếu của Ngài, và chúng ta đã quên mất Đức Christ hằng sống. Vì chúng ta đã chú trọng đến chính con người là kẻ tội lỗi, và Thượng Đế là Đấng mà đối với Ngài y đã phạm tội.

Again, every great organisation or group religion or cult of any kind has originated with a person, and from that person the idea has spread out into the world, gathering adherents as time elapsed. Christ in this way precipitated the kingdom of God upon earth. It had always existed in the heavenly places. He caused it to materialise, thus becoming a fact to the consciousness of men.

Ngoài ra, mọi tổ chức lớn hay bất cứ đoàn nhóm tôn giáo hoặc giáo phái nào cũng đều phát xuất từ một người. Từ người đó, ý tưởng được truyền bá trên thế giới, thu hút tín đồ theo thời gian. Theo cách này, Đức Christ làm cho Thiên giới biểu lộ trên thế gian. Thiên giới bao giờ cũng hiện hữu trên cõi thiêng liêng. Ngài đã làm cho nó biểu hiện, và trở thành một sự kiện thực tế trong tâm thức của mọi người.

Preparedness for the Kingdom, and the arrival of the time when men in large numbers could be initiated into the mysteries, required from them a recognition of an unworthiness and a sinfulness which only the development of the mind could give. The age of Christianity has been an age of mental unfoldment. It has been an age also wherein much emphasis has been laid upon sin and evil doing. There is no consciousness of sin in the animals, though there may be indications of a conscience among the domesticated animals, due to their association with man. Mind produces the power to analyse and observe, to differentiate and distinguish; and so with the advent [193] of mental development there has been, for a long time, a growing sense of sinfulness, of contrition, and of an almost abject attitude to the Creator, producing in humanity that strongly marked inferiority complex with which today psychologists have to deal. Against this sense of sin, with its concomitants of propitiation, atonement and the sacrifice of Christ for us, there has been a revolt; and in this really wholesome reaction there is the normal tendency to go too far. Fortunately, we are never able to get too far from divinity; and that, as a race, we shall swing back into a state of greater spirituality than ever before is the sincere belief of all who know. Theology over-reached itself with its “miserable sinner” complex and its emphasis upon the necessity for the purification by blood. This teaching of purification through the blood of bulls and of rams (or lambs) was part of the ancient mysteries, and was inherited by us primarily from the Mysteries of Mithra. These mysteries, in their turn, inherited the teaching, and thus formulated their doctrine, which Christianity absorbed. When the sun was in the zodiacal sign of Taurus the Bull, the sacrifice of the bull was offered as a forecast of that which Christ came later to reveal. When the sun passed (in the precession of the equinoxes) into the next sign, that of Aries the Ram, we find the lamb was sacrificed and the scapegoat sent into the wilderness. Christ was born into the next sign, Pisces the Fishes, and it is for this reason that we eat fish on Good Friday, in commemoration of His coming. Tertullian, one of the early Church Fathers, speaks of Jesus Christ as the “Great Fish,” and of us, His followers, as the “little fishes.” These facts are well known, as the following extract will indicate:

Để sẵn sàng đón nhận Thiên giới, và để đến thời điểm mà đông đảo mọi người có thể được khai thị các bí nhiệm, họ cần nhận thức được những điều không xứng đáng và tội lỗi, mà chỉ nhờ phát triển trí năng họ mới có thể. Kỷ nguyên Thiên Chúa đã là thời kỳ khai mở trí tuệ. Đó cũng là thời kỳ mà người ta nhấn mạnh về tội lỗi và hành vi sai quấy. Loài vật không hề biết đến tội lỗi, dù khả dĩ có dấu hiệu của lương tri trong những con vật đã thuần hóa, vì chúng được giao tiếp với con người. Trí tuệ mang lại năng lực phân tích và quan sát, biện biệt và phân biệt. Cũng vì (193) sự phát triển trí tuệ mà trong thời gian dài người ta ngày càng ý thức nhiều hơn về tội lỗi, ăn năn hối hận, và hầu như có thái độ tuyệt vọng đối với Đấng sáng tạo. Nó tạo nên mặc cảm tự ti rõ rệt trong nhân loại, mà ngày nay các chuyên gia tâm lý đang lo giải quyết. Đã có sự phản đối cái cảm thức tội lỗi này, cùng với những điều kèm theo như cúng lễ để thánh thần nguôi giận, sự chuộc tội, và sự hy sinh của Đức Christ cho chúng ta. Nhưng phản ứng thực sự lành mạnh này thường có khuynh hướng đi quá xa. Cũng may là chúng ta không bao giờ có thể rời quá xa thiên tính. Và tất cả những người hiểu biết đều thành thực tin rằng nhân loại sẽ quay về trạng thái tinh thần cao cả hơn bao giờ hết. Khoa thần học đã chuốc lấy thất bại khi tạo mặc cảm “kẻ tội lỗi khốn khổ” và nhấn mạnh sự cần thiết phải thanh tẩy bằng máu huyết. Giáo huấn này về sự thanh tẩy qua máu huyết của bò đực và cừu đực (hoặc cừu non) là một phần của các bí nhiệm cổ xưa, và được chúng ta kế thừa chính yếu là từ các Bí nhiệm của Mithra. Rồi đến lượt các bí nhiệm này đã kế thừa giáo huấn, và đưa ra giáo lý mà Thiên Chúa giáo hấp thu. Khi mặt trời ở trong cung hoàng đạo Kim ngưu hay là Bò đực, thì bò đực được hiến tế làm vật hy sinh, với tính cách dự báo những gì mà về sau Đức Christ đã đến để khải thị. Khi mặt trời (theo tiến động của các điểm phân) đi vào cung kế tiếp, tức là cung Dương cưu hay là Cừu đực, thì cừu non là vật hy sinh và con dê chuộc tội bị đưa vào hoang mạc. Đức Christ được sinh ra trong cung tiếp theo, là Song ngư hay Hai con Cá. Vì lý do này mà người ta ăn cá vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh, để tưởng nhớ sự giáng lâm của Ngài. Tertullian, một trong các Linh mục của Giáo hội ban đầu, gọi Đức Jesus Christ là “Cá Lớn,” và gọi chúng ta, tín đồ của Ngài, là “cá nhỏ.”  Nhiều người biết những sự kiện thực tế này, như được đề cập trong trích đoạn dưới đây:

“The ceremonies of purification by the sprinkling or drenching of the novice with the blood of bulls or rams were widespread, and were to be found in the rites of Mithra. By this purification a man was `born again’ and the Christian expression `washed in the blood of the Lamb’ is undoubtedly a reflection of this idea, the reference thus being clear in the words of the Epistle to the Hebrews: `It is not possible that the blood of bulls and of goats should take away [194] sins.’ In this passage the writer goes on to say: `Having boldness to enter into the holiest by the blood of Jesus, by a new and living way which he hath consecrated for us through the veil, that is to say his flesh… let us draw near… having our hearts sprinkled from an evil conscience, and our bodies washed with pure water.’  But when we learn that the Mithraic initiation ceremony consisted in entering boldly into a mysterious underground `holy of holies’ with the eyes veiled, and there being sprinkled with blood, and washed with water, it is clear that the author of the Epistle was thinking of those Mithraic rites with which everybody at that time must have been so familiar.” [ccii] 24

“Các cuộc lễ thanh tẩy bằng cách vẩy hay tưới máu của bò đực hay cừu đực lên người tân tín đồ vốn rất phổ biến, và đã được cử hành trong các nghi lễ của thần Mithra. Qua sự thanh tẩy này, y được ‘sinh ra lần thứ hai.’  Và câu nói của người Thiên Chúa giáo ‘rửa sạch trong máu Cừu non’ hiển nhiên là phản ánh ý tưởng nói trên. Điều này thấy rõ trong Thư sứ đồ gửi cho người Do Thái: ‘Không thể nào máu của bò đực và dê lại tẩy sạch được (194) tội lỗi.’ Trong đoạn này, tác giả còn nói thêm: ‘Có can đảm đi vào thánh điện nhờ máu huyết của Jesus, theo lối mới mẻ và sống động Ngài đã hiến mình cho chúng ta qua bức màn sinh tử, tức là hiến thân xác của Ngài . . . chúng ta hãy đến gần . . . để tâm hồn ta được tẩy sạch những điều sai quấy, và thân thể ta được rửa sạch trong dòng nước tinh khiết.’ Nhưng khi chúng ta biết rằng cuộc lễ điểm đạo của Mithra gồm việc hành giả can đảm đi vào ‘nội điện’ huyền bí ở dưới đất với đôi mắt bị bịt kín, và ở đó y được rưới máu vào mình, rồi được rửa sạch bằng nước, thì chúng ta thấy rõ rằng tác giả của Bức thư bấy giờ có nghĩ đến các nghi lễ của Mithra mà chắc hẳn là rất quen thuộc với mọi người vào thời gian đó.”[24]

Christ came to abolish these sacrifices by showing us their true meaning, and in His Person as perfect man He died the death of the Cross to show us (in picture form and through actual demonstration) that divinity can be manifested and can truly express itself only when man, as man, has died in order that the hidden Christ may live. The lower carnal nature (as St. Paul loved to call it) must die in order that the higher divine nature may show forth in all its beauty. The lower self must die in order that the higher self can manifest on earth. Christ had to die in order that once and for all mankind might learn the lesson that by the sacrifice of the human nature the divine aspect might be “saved.” Thus Christ summed up in Himself the significance of all the past world sacrifices. That mysterious truth which had been revealed only to the pledged and trained initiate when he was ready for the fourth initiation was given out by Christ to the world of men. He died for all so that all might live. But this is not the doctrine of the vicarious atonement which was pre-eminently St. Paul’s interpretation of the Crucifixion, but the doctrine which Christ Himself taught—the doctrine of divine immanence (see St. John XVII), and the doctrine of the God-Man.

Đức Christ đã đến để xóa bỏ những lối tế vật hy sinh này bằng cách cho ta thấy thực nghĩa của chúng. Và với tư cách con người hoàn thiện Ngài đã chết trên Thập tự giá để cho chúng ta thấy (qua hình ảnh và chứng minh thực tế) rằng thiên tính có thể được biểu hiện và biểu lộ thực sự chỉ khi nào con người, với tư cách phàm nhân, đã chết để cho Đấng Christ ẩn tàng có thể sống. Bản chất thân xác thấp thỏi (như Thánh Paul thường nói) phải chết để cho sự mỹ lệ của bản tính thiêng liêng cao cả có thể bộc lộ viên mãn. Phàm ngã phải chết để cho chân ngã có thể biểu hiện ở thế gian. Đức Christ đã phải chết dể nhân loại có thể dứt khoát học được bài học là khi hy sinh nhân tính, thì thiên tính có thể được “cứu rỗi.”  Thế nên, Đức Christ tổng kết nơi Ngài ý nghĩa của tất cả các cuộc hy sinh trong quá khứ trên thế giới. Cái chân lý bí nhiệm mà trước đó đã được tiết lộ chỉ cho người điểm đạo đồ hữu thệ đã qua huấn luyện khi y sẵn sàng nhận cuộc điểm đạo thứ tư, thì bấy giờ được Đức Christ trao truyền cho cả thế giới loài người.  Ngài chết cho tất cả để tất cả có thể sống. Nhưng đây không phải là sự chuộc tội thay thế mà Thánh Paul thường nói đến khi ông diễn giải về Thập giá hình. Đây là giáo lý mà chính Đức Christ đã truyền dạy – giáo lý về sự sống thiêng liêng hằng hữu trong tâm mỗi người (xem Thánh John XVII), và giáo lý về Con người vừa là Thượng Đế.

Christianity inherited many of its interpretations, and the teachers and interpreters of the early Christian times were no more free from the thraldom of ancient beliefs than are we [195] from the interpretations given to Christianity during the past two thousand years. Christ did give us the teaching that we must die in order to live as Gods, and therefore He died. He did sum up in Himself all the traditions of the past for He “not only fulfilled the Judaic Scriptures, but He also fulfilled those of the pagan world, and therein lay the great appeal of early Christianity. In Him a dozen shadowy Gods were condensed into a proximate reality; and in His crucifixion the old stories of their ghastly atoning sufferings and sacrificial deaths were made actual and given a direct meaning.” [cciii]25 But His death was also the consummating act of a life of sacrifice and service, and the logical outcome of His teaching. Pioneers and those who reveal to men their next step, those who come forth as the interpreters of the divine Plan, inevitably are repudiated, and usually die as the result of their courageous pronouncements. To this rule Christ was no exception. “Advanced Christian thinkers now regard the Crucifixion of our Lord as the supreme sacrifice made by Him for the sake of the principles of His teaching. It was the crowning act of His most heroic life, and it affords such a sublime example to mankind that meditation upon it may be said to produce a condition of at-one-ment with the Fountainhead of all goodness.” [cciv]26

Thiên Chúa giáo vốn kế thừa phần lớn các diễn giải giáo lý của mình từ quá khứ. Và các huấn sư cùng các nhà luận giải trong những thời kỳ đầu của Thiên Chúa giáo cũng chịu ảnh hưởng của các tín ngưỡng cổ xưa giống như chúng ta (195) chịu chi phối bởi các lý giải đưa ra cho Thiên Chúa giáo trong hai ngàn năm qua vậy. Đức Christ trao cho chúng ta giáo huấn rằng chúng ta phải chết để sống như cácvị Thượng Đế, và vì thế mà Ngài đã chết. Ngài tổng kết nơi mình tất cả các truyền thống của thời quá khứ, vì Ngài “không những hoàn thành các Thánh kinh Do Thái giáo, mà Ngài cũng hoàn thành thánh kinh của các tôn giáo khác. Vì thế mà khiến cho Thiên Chúa giáo buổi sơ khai có sức hấp dẫn rất lớn. Trong Ngài, hình ảnh lờ mờ của nhiều vị Thần thánh khác được hội tụ đến mức gần như thực tế. Và trong thập giá hình của Ngài, những câu chuyện xưa về nỗi đau khổ khủng khiếp và sự chết hy sinh của họ nhằm để chuộc tội, đã trở thành hiện thực, với ý nghĩa xác định rõ ràng.”[25]  Nhưng sự chết của Ngài cũng là bước hoàn thành một cuộc sống hy sinh và phụng sự, và cũng là hậu quả hợp lý cho giáo huấn của Ngài.  Những người tiền phong, những ai tiết lộ cho con người biết bước kế tiếp của họ, và những ai cố gắng diễn giải Thiên cơ, đều tất phải bị từ khước, và thường phải chết do hậu quả những lời tuyên bố can đảm của mình. Đức Christ cũng không ở ngoài thông lệ này.  “Những nhà tư tưởng tiên tiến của Thiên Chúa giáo hiện nay xem Thập giá hình của Chúa là sự hy sinh tối thượng mà Ngài đã thực hiện theo những nguyên lý trong giáo huấn của Ngài.  Đó là giai đoạn trọn vẹn và hoàn hảo nhất trong cuộc đời hết sức hào hùng của Ngài. Nó cũng nêu tấm gương tuyệt vời cho nhân loại thấy rằng suy ngẫm về nó sẽ mang lại một tình trạng hợp nhất với Nguồn cội của mọi sự lành thiện.”[26]

How then is it that today we have such an emphasis upon the blood sacrifice of Christ and upon the idea of sin? It would appear that two causes are responsible for this:

Thế thì bằng cách nào mà ngày nay chúng ta nhấn mạnh đến thế về sự hy sinh bằng máu huyết của Đức Christ và ý tưởng về tội lỗi?  Dường như có hai nguyên nhân dẫn đến điều này:

1. The inherited idea of blood sacrifice. As Dr. Rashdall tells us:

1. Ý tưởng được kế thừa về sự hy sinh bằng máu huyết. Như lời của Ts. Rashdall:

“The various authors of the canonical books in fact were so accustomed to the pre-Christian ideas of an expiatory sacrifice and atonement that they accepted it without going to the roots of the matter. But this vagueness was not to the liking of the early Christian Fathers. In the Second Century A.D., Irenaeus, and after him other writers, explained the doctrine by what is called the `Ransom Theory,’ which states that the Devil was lawful lord of [196] mankind owing to Adam’s fall, and that God, being unable with justice to take Satan’s subjects from him without paying a ransom for them, handed over His own incarnate Son in exchange.” [ccv]27

“Thực ra, những tác giả khác nhau của các kinh điển đã quá quen thuộc với các ý tưởng có trước Thiên Chúa giáo về sự hy sinh để chuộc tội đến đỗi họ chấp nhận nó mà không tìm hiểu căn nguyên của vấn đề. Nhưng sự mơ hồ này không làm hài lòng các Linh mục trong thời gian đầu của Thiên Chúa giáo. Vào Thế kỷ thứ Hai sau Công nguyên, Irenaeus, và các tác giả khác sau ông, đã giải thích giáo lý bằng cái gọi là ‘Thuyết Chuộc tội.’ Thuyết này nói rằng Satan là chúa tể hợp pháp của (196) nhân loại vì sự sa ngã của Adam. Đồng thời nói thêm rằng Thượng Đế, theo luật công bằng, không thể lấy đi thần dân của Satan nếu không trả tiền chuộc cho họ. Vì thế, Ngài đã giao Con Trai lâm phàm của mình để trao đổi.”[27]

In this thought we have a definite demonstration of the way in which all ideas (intuitively perceived and infallibly right) are distorted. Men’s minds and preconceived notions colour them. The idea becomes the ideal, and serves a useful purpose and leads men on (as the idea of sacrifice has always led men nearer to God) until it becomes an idol, and consequently limiting and untrue.

Tư tưởng này cho chúng ta thấy rõ bằng cách nào mà tất cả các ý tưởng (được nhận thức qua trực giác và đúng đắn không thể sai lầm) bị làm cho lệch lạc. Cái trí của con người và những ý niệm theo định kiến làm cho chúng bị nhuộm màu. Ý tưởng trở thành lý tưởng, phục vụ một mục đích hữu ích và giúp con người đi tới (như ý tưởng về sự hy sinh bao giờ cũng đưa con người đến gần Thượng Đế hơn). Khi lý tưởng ấy biến thành thần tượng, thì nó bị giới hạn và không còn đúng thực.

2. The growth of the consciousness of sin in the race, due to its increasing sensitivity to divinity and its consequent recognition of the shortcomings and the relative evil of the lower human nature.

2. Sự gia tăng ý thức về tội lỗi trong nhân loại, vì họ ngày càng nhạy cảm với thiên tính. Do đó họ nhận ra những khuyết điểm và sự tương đối tà vạy trong phàm tính của mình.

We have seen that one of the factors responsible for the sin-complex of the West has been the development of the mind faculty, with its consequent aftermath of a developed conscience, a capacity to have a sense of values, and (as the result of that) the ability to see the higher and the lower natures in opposition to each other. When the higher self with its values and its range of contacts is instinctivelycontacted, and the lower self, with its lesser values and its more material range of activities is also realised, it necessarily follows that a sense of division and of failure is developed; men realise their lack of achievement; they become aware of God and humanity, of the world, of the flesh and the devil, but at the same time of the kingdom of God. As man develops, his definitions alter, and the crude so-called sins of the unevolved man, and the faults and failings of the average “nice” citizen of modern times involve different attitudes of mind and judgment, and surely different punitive approaches. As our sense of God changes and develops, and as we approach nearer to reality, our entire outlook upon life, ourselves and our fellowmen is apt to alter and widen, and become more divine as well as more human. It is a human [197] characteristic to be conscious of sin, and to realise that when a man has offended he must, in some form or other, pay a price. The germ of mind, even in infant humanity, gives rise to this realisation, but it took nearly two thousand years of Christianity to raise sin to a position of such importance that it occupied (as it still does) a primary place in the thought of the entire race. We have a situation wherein the law and the Church and the educators of the race are almost entirely occupied with sin and how to prevent it. One wonders sometimes what the world would have been like today if the exponents of the Christian faith had occupied themselves with the theme of love and loving service instead of with this constantly reiterated emphasis upon the blood sacrifice and upon the wickedness of man.

Chúng ta đã thấy rằng một trong những yếu tố gây ra mặc cảm tội lỗi ở Tây phương, là sự phát triển trí tuệ. Hệ quả của nó khiến họ ngày càng phát triển lương tri, tức là khả năng có được ý thức về giá trị. Vì thế, họ có thể thấy bản tính cao siêu và bản chất thấp hèn đối chọi nhau. Bản năng tinh thần giúp hành giả tiếp xúc với chân ngã cùng các giá trị tinh thần và phạm vi giao tiếp của chân ngã. Đồng thời y cũng nhận thức được phàm ngã với những giá trị thấp hèn và phạm vi hoạt động của nó thiên về vật chất nhiều hơn. Tất nhiên, bấy giờ y sẽ cảm thấy có sự phân chia, và thất bại. Y thấy mình thiếu khả năng thành tựu. Y ý thức được Thượng Đế và nhân tính, và những sự cám dỗ trong đời, nhưng đồng thời cũng có ý thức về Thiên giới. Khi con người phát triển, những định nghĩa của họ cũng thay đổi. Giữa những cái gọi là tội lỗi thô thiển của người kém tiến hóa, và những lầm lỗi, sai thất của người “tử tế” có trình độ trung bình thời nay, bao gồm những thái độ khác nhau trong trí tuệ và phán đoán, và chắc hẳn cũng kèm theo những lối trừng phạt khác nhau. Khi ý thức của chúng ta về Thượng Đế thay đổi và phát triển, và khi chúng ta đến gần với thực tại hơn, thì trọn cả quan niệm của chúng ta về cuộc sống, về chính mình và đồng bào của mình thường thay đổi và rộng mở, trở nên thiêng liêng hơn cùng với nhân tính viên mãn hơn. Con người (197) vốn có đặc tính là ý thức về tội lỗi, và nhận thức rằng ai đã sai phạm đều phải trả giá cho hành động ấy, dưới hình thức này hay hình thức khác. Mầm mống của trí năng, dù trong nhân loại còn ấu trĩ, vẫn khiến người ta có nhận thức này. Thế nhưng, phải qua gần hai ngàn năm của Thiên Chúa giáo, tội lỗi mới trở nên có tầm quan trọng đến đỗi nó chiếm vị trí chính yếu trong tư tưởng của toàn nhân loại (như hiện nay vẫn vậy). Chúng ta đã đi đến tình trạng mà luật pháp và Giáo hội, và các nhà giáo dục trong nhân loại đều hầu như hoàn toàn bận tâm đến tội lỗi và cách nào để phòng ngừa tội lỗi. Đôi khi người ta tự hỏi thế giới ngày nay sẽ như thế nào nếu các tín đồ Thiên Chúa giáo đã chú tâm đến tình thương và phụng sự do lòng yêu thương, thay vì cứ mãi nhấn mạnh sự hy sinh bằng máu huyết và và sự độc ác của con người.

The theme of sin runs naturally and normally throughout human history; and the effort to expiate it, in the form of animal sacrifice, has always been present. The belief in an angry deity, who exacted penalties for all that was done by man against a brother, and who demanded a price for all that was given to man as a product of the natural processes of the earth, is as old as man himself. It has passed through many phases. The idea of a God Whose nature is love has battled for centuries with the idea of a God Whose nature is wrath. The outstanding contribution of Christ to world progress was His affirmation, through word and example, of the thought that God is love and not a wrathful deity, inflicting jealous retribution. The battle still rages between this ancient belief and the truth of God’s love which Christ expressed, and which Shri Krishna also embodied. But the belief in an angry, jealous God is still strongly entrenched. It is rooted in the consciousness of the race, and only today are we slowly beginning to realise a different expression of divinity. Our interpretation of sin and its penalty has been at fault, but the reality of God’s love can now be grasped and can thus offset the disastrous doctrine of an angry God Who sent His Son to be the propitiation for the world evil. Of this [198] belief Calvinism is perhaps the best and purest interpretation, and a brief statement as to that theological doctrine will present the concept in understandable terms.

Một cách đương nhiên và bình thường, chủ đề tội lỗi đã xuyên suốt lịch sử nhân loại. Và bao giờ cũng có cố gắng chuộc tội, dưới hình thức hy sinh loài vật. Từ thời nguyên thủy, người ta đã tin vào một vị thần linh đầy sân si thịnh nộ, đòi hỏi phải trừng phạt con người vì tất cả những điều quấy mà họ đã gây ra cho anh em của mình, và bắt họ phải trả giá cho tất cả những gì mà họ nhận được như là sản phẩm của các quá trình trong thiên nhiên. Niềm tin ấy đã trải qua nhiều giai đoạn. Ý tưởng về một vị Thượng Đế có bản tính bác ái đã chiến đấu trong nhiều thế kỷ với cái ý tưởng về một vị Thượng Đế đầy sân hận. Đóng góp tuyệt vời của Đức Christ cho sự tiến bộ của thế giới là khẳng định của Ngài, qua lời giảng và nêu gương, về tư tưởng nói rằng Thượng Đế là bác ái, chứ không phải là một vị thần linh nóng nảy, giáng xuống những hình phạt do lòng ghen tỵ. Cuộc chiến vẫn còn tiếp diễn giữa sự tin tưởng xa xưa này và chân lý về tình bác ái của Thượng Đế mà Đức Christ đã phát biểu, và Đức Shri Krishna đã thể hiện. Nhưng lòng tin về một vị Thượng Đế nóng giận, đầy ghen tị, vẫn còn thâm căn cố đế. Nó bám chặt vào tâm thức của nhân loại, và chỉ đến nay chúng ta mới bắt đầu nhận thức được một cách phát biểu khác về thiên tính. Cách lý giải của chúng ta về tội lỗi và hình phạt vốn dĩ sai lầm. Nhưng nay chúng ta có thể hiểu được sự thực về tình thương của Thượng Đế. Vì thế mà có thể hóa giải cái giáo lý tai hại về một vị Thượng Đế giận dữ, đã gửi Con trai của mình đến để cứu chuộc những điều sai quấy của thế gian. Về niềm (198) tin này, có lẽ giáo lý của Calvin là lối diễn giải khá nhất và tinh thuần nhất. Những điều trình bày vắn tắt sau đây giúp chúng ta hiểu được cái quan niệm của giáo lý thần học này.

“Calvinism is built upon the dogma of the absolute sovereignty of God, including omnipotence, omniscience and eternal justice—a common Christian doctrine, but developed by Calvinists with relentless logic to extreme conclusions. Calvinism is often summarised in five points. (1) Every human being as a descendant of Adam (whom all Christians in those times supposed to be an historical character) is guilty from his birth of original sin, in addition to later sins committed in his own lifetime. A man can do nothing to remove his own sin and guilt; that can only be done by the grace of God, mercifully vouchsafed to him through the atonement of Christ, and without any merit whatever on his own part; (2) So only those certain persons can be saved (particular redemption); (3) To whom God gives an effectual calling, strengthening their wills, and enabling them to accept salvation; (4) Who shall, and who shall not be saved is thus a matter of divine election, or predestination; (5) God will never fail those who are his elect: they shall never fall from ultimate salvation (perseverance of the saints). Calvinists insisted with great heat, and endeavoured with much subtility to demonstrate, that their doctrine fully provides for human freedom, and that God is in no way responsible for human sin.” [ccvi]28

“Giáo lý Calvin được xây dựng trên giáo điều về chủ quyền tuyệt đối của Thượng Đế, bao gồm sự toàn năng, toàn tri, và công lý vĩnh cửu. Đây là giáo lý thông thường của Thiên Chúa giáo, nhưng được người theo phái Calvin triển khai với những lý lẽ nghiêm khắc, dẫn đến kết luận cực đoan. Thuyết Calvin thường được tổng kết thành năm điểm. (1) Mọi người đều là con cháu của Adam (mà tất cả những người Thiên Chúa giáo vào thời đó đều cho là một nhân vật có thật trong lịch sử) nên từ lúc sinh ra đều đã mang tội lỗi nguyên thủy, cùng với những tội lỗi về sau họ phạm phải trong đời. Không ai có thể làm điều gì để xóa đi tội lỗi của mình. Họ chỉ có thể được xá tội nhờ ơn Thượng Đế. Do lòng nhân từ Ngài ban ơn cho họ qua sự chuộc tội của Đức Christ, chứ về phần họ chẳng có công lao gì cả; (2) Thế nên, chỉ một số người nào đó là có thể được cứu rỗi (sự cứu rỗi đặc biệt); (3) Những người ấy được Thượng Đế kêu gọi một cách hiệu quả, Ngài tăng cường ý chí của họ, và giúp họ có thể chấp nhận sự cứu rỗi; (4) Vì thế, ai sẽ được cứu rỗi và ai không được, đều do sự chọn lựa, hay tiền định của thiêng liêng; (5) Thượng Đế sẽ không bao giờ bỏ rơi những người được Ngài chọn: họ sẽ không bao giờ bị mất đi sự cứu rỗi cuối cùng (lòng kiên trì của các vị thánh). Người theo giáo phái Calvin cứ mãi khăng khăng, và tìm cách khôn khéo chứng tỏ rằng giáo lý của họ là đầy đủ để giải thoát nhân loại, và Thượng Đế không chịu trách nhiệm gì về tội lỗi của con người.”[28]

In view, therefore, of this emphasis upon human sinfulness, and as a result of the age-old habit of offering sacrifice to God, the true mission of Christ was long ignored. Instead of His being recognised as embodying in Himself an eternal hope for the race, He was incorporated into the ancient system of sacrifices, and the ancient habits of thought were too strong for the new idea which He came to give. Sin and sacrifice ousted and supplanted the love and service which He sought to bring to our attention through His life and His words. That is also why, from the psychological angle, Christianity has produced such sad, weary, and sin-conscious men. Christ, the sacrifice for sin, and the Cross of Christ as the [199] instrument of His death, have absorbed men’s attention, whilst Christ the perfect man and Christ the Son of God have been less emphasised. The cosmic significance of the cross has been entirely forgotten (or never known) in the West.

Thế nên, cũng vì sự nhấn mạnh này về tính cách tội lỗi của con người, và cũng do thói quen bao đời dâng cúng vật hy sinh cho Thượng Đế, mà từ lâu người ta đã không quan tâm gì đến sứ mệnh đích thực của Đức Christ. Thay vì công nhận Ngài là hiện thân cho nguồn hy vọng muôn đời của nhân loại, họ lại đưa Ngài vào trong hệ thống dâng cúng vật hy sinh của thời xưa. Thói quen suy tư cũ kỹ này quá mạnh, nên át hẳn ý tưởng mới mà Ngài đến để trao truyền. Tội lỗi và việc cúng tế vật hy sinh đã chiếm chỗ và thay thế cho tình thương và công tác phụng sự mà Ngài muốn chúng ta chú ý qua cuộc đời Ngài và những lời thuyết giảng của Ngài. Cũng vì thế mà xét theo góc độ tâm lý, Thiên Chúa giáo đã tạo nên những con người buồn rầu, mệt mỏi, và cứ mãi nghĩ đến tội lỗi. Người chỉ chú ý đến sự hy sinh của Đức Christ cho tội lỗi, chú ý đến Thập tự giá của Ngài là (199) khổ hình khiến Ngài phải chết. Trong khi đó họ chẳng mấy chú trọng đến Đức Christ là con người hoàn thiện, và Đức Christ là Con của Thượng Đế. Ở Tây phương, người ta đã quên hẳn (hoặc chưa hề biết) ý nghĩa của thập tự giá ở cấp vũ trụ.

Salvation is not primarily connected with sin. Sin is a symptom of a condition, and when a man is “truly saved” that condition is offset, and with it the incidental sinful nature. It was this that Christ came to do—to show us the nature of the “saved” life; to demonstrate to us the quality of the eternal Self which is in every man; this is the lesson of the Crucifixion and the Resurrection: the lower nature must die in order that the higher may be manifested, and the eternal immortal soul in every man must rise from the tomb of matter. It is interesting to trace the idea that men must suffer in this world as the result of sin. In the East, where the doctrines of reincarnation and of karma hold sway, a man suffers for his own deeds and sins and “works out his own salvation, with fear and trembling.” [ccvii]29 In the Jewish teaching a man suffers for the sins of his forebears and of his nation, and thus gives substance to a truth which is only today beginning to be a known fact—the truth of physical inheritance. Under the Christian teaching, Christ, the perfect man, suffers with God, because God so loved the world that, immanent in it as He is, He could not divorce Himself from the consequences of human frailty and ignorance. Thus humanity gives a purpose to pain, and thus evil is eventually defeated.

Sự cứu rỗi không chính yếu liên quan đến tội lỗi. Tội lỗi là triệu chứng của một tình trạng, và khi người ta “thực sự được cứu rỗi” thì tình trạng ấy cùng với bản chất tội lỗi kèm theo, được hóa giải. Đây chính là điều mà Đức Christ đã đến để thực hiện. Ngài cho chúng ta thấy tính chất của đời sống được “cứu rỗi.” Ngài cho thấy phẩm tính của Chân ngã vĩnh cửu sẵn có trong mỗi người. Đây là bài học của Thập giá hình và sự Phục sinh: phàm tính phải chết dứt để chân tính cao siêu có thể biểu hiện, và linh hồn bất tử vĩnh cửu trong mỗi người phải sống dậy từ nấm mồ của vật chất. Ở đây đáng nên truy tìm nguồn gốc của cái ý tưởng cho rằng con người phải chịu đau khổ trong cõi đời này vì họ đã gây tội lỗi. Ở Đông phương, nơi mà giáo lý về luân hồi và nghiệp quả rất phổ biến, nói rằng mỗi người phải chịu đau khổ do những hành động và tội lỗi của chính mình, và họ “tự thực hiện sự cứu rỗi cho chính mình, với nỗi lo âu và sợ hãi.”[29]  Theo giáo huấn Do Thái, mỗi người chịu đau khổ do tội lỗi của tổ tiên mình và của quốc gia mình. Từ đó mà tạo cơ sở cho chân lý mà chỉ đến ngày nay mới bắt đầu trở nên điều thực tế mà ai cũng biết – sự thực về di truyền thể chất. Theo giáo huấn Thiên Chúa giáo, Đức Christ, con người hoàn thiện, chịu đau khổ cùng với Thượng Đế, vì Thượng Đế yêu thương thế gian đến đỗi, vốn hằng hữu nội tại trong thế gian, Ngài không thể nào tự tách rời khỏi các hậu quả do sự vô minh và yếu đuối của con người. Thế nên, vì thực hiện nhân tính mà người ta phải chịu đau khổ, và rốt cuộc sẽ thắng phục được điều tà vạy.

The thought and idea of sacrifice for the sins of the people was not the original and basic idea. Originally, infant humanity offered sacrifices to God to appease His wrath, displayed in the elements through storms and earthquakes and physical disasters. When, instinctively, men turned on each other, when they offended and hurt one another, and so transgressed a dimly sensed realisation of human relationships and intercourse, sacrifice was offered again to God so that He too would not hurt mankind. Thus little by little [200] the idea grew until, at last, the salvation concept might be briefly summarised in the following terms:

Cái ý nghĩ và quan niệm về việc dùng vật hy sinh để chuộc tội cho con người vốn không phải là điều gì mới có trong thời gian gần đây. Từ thời khởi thủy, nhân loại ấu trĩ đã dâng cúng vật hy sinh cho Thượng Đế để làm nguôi cơn thịnh nộ của Ngài, phô diễn qua các sức mạnh của thiên nhiên như bão tố, động đất, và những tai họa ở cõi trần. Khi do bản năng mà con người xung đột với nhau, khi họ làm điều quấy và gây hại lẫn nhau, vì thế mà vi phạm những mối quan hệ và giao hảo giữa mọi người mà họ chỉ mới nhận thức được một cách lờ mờ, thì bấy giờ họ lại dâng cúng vật hy sinh cho Thượng Đế, để Ngài không làm hại loài người. Bằng cách đó, (200) quan niệm này phát triển cho đến cuối cùng khái niệm về sự cứu rỗi có thể được tóm lược qua những điều sau:

1. Men are saved from the wrath of God in natural phenomena through animal sacrifices, preceded in still more ancient times by the sacrifice of the fruits of the earth.

1. Con người được cứu khỏi những cơn thịnh nộ của Thượng Đế qua các hiện tượng trong thiên nhiên, nhờ dâng cúng những con vật hy sinh. Vào thời xa xưa hơn, thì họ dâng cúng các loại hoa quả của địa cầu.

2. Men are saved from God’s wrath and from each other by the sacrifice of that which is valued, leading eventually to human sacrifices.

2. Con người được cứu khỏi những cơn thịnh nộ của Thượng Đế, và khỏi bị người khác làm hại, bằng cách hy sinh những gì có giá trị, rốt cuộc dẫn đến sự hy sinh chính con người.

3. Men are saved by the sacrifice of a recognised Son of God, hence the vicarious atonement, for which the many crucified world Saviours prepared the way for Christ.

3. Con người được cứu rỗi nhờ sự hy sinh của một Người Con Thượng Đế được công nhận. Tức là sự chuộc tội thay thế, vì đó mà nhiều vị Cứu thế đã chịu khổ hình thập tự, để dọn đường cho Đức Christ.

4. Men are definitely saved from eternal punishment for their sins by the death of Christ upon the Cross, the sinner guilty of an unkind word being as much responsible for the death of Christ as the vilest murderer.

4. Con người dứt khoát được cứu khỏi hình phạt đời đời do tội lỗi của mình, nhờ sự chết của Đức Christ trên Thập tự giá. Vì thế mà từ người gây tội do lời lẽ bất hảo cho đến kẻ sát nhân đồi bại nhất cũng đều có trách nhiệm về sự chết của Đức Christ.

5. Finally, the gradually emerging recognition that we are saved by the living risen Christ—historically presenting to us a goal, and present in each of us as the eternal omniscient soul of man.

5. Cuối cùng, dần dần có sự công nhận rằng chúng ta được cứu rỗi nhờ Đức Christ đã sống lại và hằng sống – về mặt lịch sử, Ngài cho chúng ta thấy mục tiêu, và cũng hiện diện trong mỗi chúng ta với tính cách là linh hồn toàn tri và vĩnh cửu của con người.

Today it is the risen Christ who is emerging into the forefront of men’s consciousness, and because of this we are on our way towards a period of greater spirituality and a truer expression of religion than at any other time in the history of man. The religious consciousness is the persistent expression of the indwelling spiritual man, the Christ within; and no outer earthly happenings, and no national situations, no matter how temporarily material they may appear to be in their objectives, can dull or obliterate the Presence of God in us. We are learning that that Presence can be released in us only by the death of the lower nature, and this is what Christ has always proclaimed to us from His Cross. We are realising increasingly that the “fellowship of His sufferings” means that we mount the Cross with Him and share constantly in the Crucifixion experience. We are coming to the knowledge that the determining factor in human life is love, and that “God is love.” [ccviii]30 Christ came to show us that love was the motivating [201] power of the universe. He suffered and died because He loved and cared enough for human beings to demonstrate to them the Way that they must go—from the cave of Birth to the mount of Transfiguration, and on to the agony of the Crucifixion—if they too are to share in the life of humanity and become, in their turn, saviours of their fellowmen.

Ngày nay, Đức Christ sống lại đang nổi rõ trong tâm thức sáng tỏ của mọi người. Vì thế mà chúng ta đang trên đường đi đến một thời kỳ mang phẩm tính tinh thần cao đẹp hơn, cùng với sự biểu lộ tôn giáo chân thực hơn bất cứ thời gian nào khác trong lịch sử của nhân loại. Ý thức tôn giáo là sự kiên trì biểu lộ của con người tinh thần, tức là Đấng Christ ngự trong tâm. Không điều gì xảy ra ở ngoại giới trên cõi trần, không tình thế nào của quốc gia, dù tạm thời mục tiêu của chúng có vẻ quan trọng đến đâu, khả dĩ làm lu mờ hay xóa nhòa sự Hiện diện của Thượng Đế trong chúng ta. Chúng ta học hiểu rằng có thể khai phóng sự Hiện diện thiêng liêng đó trong ta chỉ bằng sự chết dứt đi phàm tính. Đây là điều mà Đức Christ luôn công bố cho chúng ta biết từ Thập tự giá của Ngài. Chúng ta ngày càng nhận thức rõ rằng “đồng cam cộng khổ với Ngài” có nghĩa là chúng ta cùng lên Thập tự giá với Ngài, và thường xuyên chia sẻ kinh nghiệm Thập giá hình. Dần dần chúng ta biết rằng yếu tố quyết định trong đời sống nhân loại là tình thương, và hiểu rằng “Thượng Đế là bác ái.”[30]  Đức Christ đến để cho chúng ta biết rằng bác ái là quyền năng phát (201) động vũ trụ. Ngài chịu đau khổ và tử vong vì Ngài yêu thương và hết lòng chăm lo cho mọi người nên chỉ cho họ thấy Con Đường mà họ cần phải đi – từ hang động Giáng sinh đến đỉnh núi Biến dung và tiếp theo là sự đau khổ của Thập giá hình – nếu họ cũng muốn chia sẻ đời sống nhân loại và, đến phiên họ, trở thành người cứu rỗi huynh đệ mình.

How then shall we define sin? First let us look at the words which are used in the Bible and in theological works and commentaries dealing with the theme of sin, transgression, iniquity, evil, separation. All of these are expressions of man’s relation to God and to his fellowmen and, according to the New Testament, these terms—God and our fellowmen—are interchangeable terms. What do these words mean?

Vậy chúng ta định nghĩa tội lỗi như thế nào?  Trước hết, chúng ta hãy xem các từ ngữ được dùng trong Kinh Thánh, cũng như trong các tác phẩm và luận giải thần học, bàn về chủ đề tội lỗi, vi phạm, bất công, độc ác, chia rẽ. Tất cả những từ này nói lên mối liên giao của con người với Thượng Đế và với đồng bào của mình. Theo kinh Tân ước, thì Thượng Đế và đồng bào là những từ có thể dùng thay đổi. Vậy các từ vừa kể có ý nghĩa gì?

The real meaning of the word sin is very obscure. It signifies literally “the one who it is.” [ccix]31 Literally, therefore, the one who is in existence, just in so far as he sets himself up against the divine aspect hidden in himself, is a sinner. Some words by Dr. Grensted are illuminating in this connection. He says:

Thực nghĩa của từ tội lỗi thì rất khó hiểu. Nghĩa đen của nó là “kẻ chính là …”[31]  Vì thế, kẻ tội lỗi là người đang sống mà làm trái lại bản tính thiêng liêng tiềm ẩn nơi chính mình. Sau đây là lời của Ts. Grensted, giúp cho vấn đề này thêm sáng tỏ:

“`Men turned away from God,’ says Athanasius, `when they began to give heed to themselves.’ Augustine identifies sin with the love of self. Dr. Williams has argued that the underlying principle from which sin arises is to be found in `the self-assertion of the individual against the herd, a principle which we can only designate by the inadequate titles of selfishness, lovelessness and hate.’ And Dr. Kirk declares that `sin may be said to begin with self-regard.’“ [ccx] 32

“Athanasius nói ‘Con người quay lưng với Thượng Đế, khi họ bắt đầu chú ý đến bản thân mình.’ Thánh Augustine xác định rằng tội lỗi là yêu thương cái tôi. Ts. Williams biện luận rằng cái nguyên lý tiềm ẩn từ đó tội lỗi phát sinh là ‘cá nhân tự khẳng định mình chống lại đoàn nhóm, nguyên lý mà chúng ta chỉ có thể gọi một cách thiếu sót là ích kỷ, thiếu tình thương và thù ghét.’ Và Ts. Kirk tuyên bố rằng ‘có thể nói tội lỗi là bắt đầu quan tâm đến chính mình.’ ”[32]

These thoughts bring us directly to the central problem of sin which is (in the last analysis) the problem of man’s essential duality, before he has made the at-one-ment for which Christ stood. When man, before he awakens to his dual nature, does that which is wrong and sinful, we cannot and do not regard him as a sinner—unless we are old-fashioned [202] enough to believe in the doctrine that every man is irretrievably lost unless he is “saved” in the orthodox sense of the term. To St. James, sin is acting against knowledge, and he says “To him that knoweth to do good, and doeth it not, to him it is sin.” [ccxi]33 There we have a real definition of sin. It is to act against light and knowledge, and with deliberation to do that which we know is wrong and undesirable. Where there is no such knowledge there can be no sin; therefore animals are regarded as free from sin, and men acting in equal ignorance should likewise be so regarded. But the moment a man becomes aware that he is two persons in one form, that he is God and man, then responsibility steadily increases, sin becomes possible, and it is here that the mystery aspect of sin enters in. It consists in the relation between the “hidden man of the heart” [ccxii]34 and the outer, tangible man. Each has its own life and its own field of experience. Each therefore remains a mystery to the other. The at-one-ment consists in resolving the relationship between these two, and when the wishes of the “hidden man” are violated, the sin occurs.

Những tư tưởng này đưa chúng ta thẳng đến vấn đề trọng tâm của tội lỗi. Xét cho cùng, đó là vấn đề nhị nguyên cốt yếu của con người, trước khi người ấy thực hiện được việc chuộc tội mà Đức Christ đã tượng trưng. Khi một người chưa ý thức được tính chất nhị nguyên của mình, nếu y làm điều gì sai trái hay tội lỗi, thì chúng ta cũng không thể và không xem y là kẻ tội lỗi – trừ phi chúng ta có quan niệm cũ (202) kỹ, lỗi thời mà tin vào giáo lý nói rằng mọi người đều bị chết mất vô phương cứu vãn, nếu y không “được cứu rỗi” theo nghĩa chính thống của thuật ngữ này. Theo Thánh James, tội lỗi là hành động trái với sự hiểu biết. Ông nói thêm “Người đã biết làm điều tốt, mà không làm, thì đối với y đó là tội lỗi.”[33]  Đây là định nghĩa thực sự về tội lỗi. Đó là hành động trái với ánh sáng và sự hiểu biết, và cố ý làm điều mà chúng ta biết là sai trái và bất hảo. Khi chưa có sự hiểu biết đó, thì không thể có tội lỗi. Vì vậy, người ta xem loài vật là vô tội, và những ai hành động trong sự vô minh tương tự, thì cũng được xem là như thế. Nhưng kể từ khi họ ý thức rằng có hai người trong cùng một hình thể, tức là họ biết mình vừa là Thượng Đế vừa là con người, thì trách nhiệm tăng dần, và họ có thể gây tội lỗi. Đây chính là khía cạnh bí ẩn của tội lỗi. Nó nằm trong mối liên giao giữa “con người ẩn tàng ở nội tâm”[34]  và con người hữu hình bên ngoài. Mỗi bên có đời sống riêng và trường kinh nghiệm riêng. Vì thế mỗi bên vẫn còn là điều bí ẩn đối với bên kia. Chuộc tội tức là giải quyết mối liên giao này giữa hai bên, và khi ý muốn của “con người nội tâm” bị vi phạm, thì tội lỗi xảy ra.

When these two aspects of man are united and function together as a unity, and when the spiritual man controls the activities of the carnal man, sin becomes impossible, and man moves on towards greatness.

Khi hai phương diện nói trên của hành giả kết hợp lại và cùng hoạt động như một đơn vị duy nhất, và khi con người tinh thần kiểm soát được các hoạt động của con người thể chất, thì y không thể nào gây tội lỗi, và y tiến đến những điều cao cả.

The word “transgression” signifies the walking across a boundary; it involves the displacing of a landmark, as it is called in Masonry, or the infringement of one of the basic principles of living. There are certain things which are recognised by all as having a controlling relation to man. Such a compilation of principles as the Ten Commandments might be cited as a case in point. They constitute the boundary which ancient custom, ordained right habits, and the social order have imposed upon the race. To step across these boundaries, which man, from experience, has himself instituted, and to which God has accorded divine recognition, [203] is to transgress, and for every transgression there is an inevitable penalty. We pay the price of ignorance every time, and thereby learn not to sin; we are penalised when we do not keep the rules, and in time we learn not to transgress them. Instinctively we keep certain rules; probably because we have often paid the price, and certainly because we care too much about our reputations and public opinion to transgress them now. There are boundaries across which the average right-minded citizen does not step. When he does, he joins the large group of sinners. Controlled action in every department of human life is the ideal, and this action must be based on right motive, be actuated by unselfish purpose, and be carried forward in the strength of the inner spiritual man, the “hidden man of the heart.”

Từ “xâm phạm” có nghĩa là băng ngang qua đường ranh giới. Hội Tam điểm gọi đó là di dời cột mốc, hay là vi phạm một trong các nguyên tắc cơ bản của đời sống. Có một số điều được tất cả mọi người công nhận là chi phối sự liên giao của nhân loại. Ở đây, có thể đơn cử Mười Điều răn như một sự kết hợp các nguyên tắc đó. Chúng là ranh giới mà tập quán của thời xưa, những thói quen đúng đắn được tiền định, và trật tự xã hội đã áp dụng cho loài người. Những ranh giới này đã được con người tự đặt ra theo kinh nghiệm, và được sự chuẩn nhận thiêng liêng của Thượng Đế. (203) Vượt qua chúng là vi phạm, và mọi sự vi phạm đều tất phải bị hình phạt. Bao giờ chúng ta cũng phải trả giá cho sự vô minh của mình. Nhờ đó mà biết cách không gây tội lỗi. Chúng ta bị trừng phạt khi không theo đúng qui luật, và đúng lúc chúng ta sẽ biết cách không phạm luật. Trong bản năng, chúng ta đang tuân thủ một số qui luật. Rất có thể vì chúng ta đã thường phải trả giá, và chắc hẳn cũng vì chúng ta quá bận tâm đến danh tiếng của mình và lời dư luận, nên giờ đây không còn vi phạm. Có những ranh giới mà người có trí năng đúng đắn bình thường không hề vượt qua. Khi làm thế, họ liền bị liệt vào con số đông đảo những người tội lỗi. Điều lý tưởng là hành động có kiểm soát trong mọi lĩnh vực sinh hoạt của cuộc sống nhân loại. Hành động này phải có động cơ chính đáng, với mục đích bất vị kỷ, tiến hành nhờ vào sức mạnh của con người tinh thần “ẩn ngự ở nội tâm.”

“Iniquity” is a word with a seemingly innocuous meaning. It signifies simply an unevenness, an inequality. An iniquitous man is therefore technically an unbalanced man, one who tolerates some unevennesses in his daily life. A definition such as this is broadly inclusive, and even if we do not regard ourselves as sinners and transgressors, we surely come under the category of those whose lives show certain inequalities in conduct. We are not always the same. We are fluid in our expression of living. We are some days one thing and some days another, and because of this lack of balance and of equilibrium, we are iniquitous people in the true sense of the word. These things are good to remember, for they prevent that dire sin, self-satisfaction.

“Bất công” là từ có ý nghĩa dường như vô hại. Nó chỉ có nghĩa là thiếu thăng bằng và không bình đẳng. Vì thế, một người bất công thực ra là người thiếu thăng bằng, để cho xảy ra một số điều chênh lệch trong đời sống hằng ngày của mình. Định nghĩa như thế thì bao gồm rất rộng, và cho dù chúng ta không xem mình là kẻ tội lỗi hay người vi phạm, chắc hẳn chúng ta vẫn thuộc về hạng người có một số hành xử bất bình đẳng trong cuộc sống. Chúng ta không phải bao giờ cũng chừng mực. Có ngày chúng ta như thế này; có ngày chúng ta như thế khác. Và vì thiếu thăng bằng và quân bình, nên chúng ta là người bất công theo đúng nghĩa của nó. Cần nên nhớ những điều vừa kể, vì chúng giúp ta tránh được sự tự mãn, là loại tội lỗi nguy hại.

The question of evil is too large to elucidate at length, but it might be defined simply as adherence to that which we should have outgrown, the grasping of that which we should have left behind. Evil is, for the bulk of us, simply and solely an effort to identify ourselves with the form life when we have a capacity for soul consciousness; and righteousness is the steady turning of the thought and life towards the soul, leading to those activities which are spiritual and harmless and helpful. This sense of evil and this reaction to good is again latent in the relationship between the two [204] halves of man’s nature—the spiritual and the strictly human. When we turn the light of our awakened consciousness into the lower nature, and then with deliberation do, “in the light,” those things which are determined and vitalised from the lower levels of our existence, we are throwing the weight of our knowledge on the side of evil, and are retrogressing. It is not always expedient from the point of view of the “carnal man” to do, or to reject, certain things, and when we choose the lower, and do it, making a specific choice, then the evil which is in us is dominating.

Vấn đề điều ác thì quá rộng, nên không thể diễn giải nhiều. Nó có thể được định nghĩa một cách đơn giản là còn gắn bó với những gì mà lẽ ra chúng ta đã vượt qua, và bám chặt vào những gì mà lẽ ra chúng ta đã buông bỏ. Với phần đông trong chúng ta, điều ác đơn giản là và chỉ là cố gắng tự đồng hóa với cuộc sống hình thể. Đồng thời, sự chân chính là thường xuyên hướng tư tưởng và cuộc sống đến linh hồn, dẫn đến những hoạt động có tính cách tinh thần, không gây hại và hữu ích. Ý thức về điều ác, và ý hướng đến điều thiện này cũng tiềm ẩn trong mối quan hệ giữa hai (204) nửa trong tâm tính của con người – bản tính thiêng liêng và tính chất hoàn toàn thuộc về phàm nhân. Khi chúng ta hướng ánh sáng cái tâm tỉnh thức của mình vào phàm tính và, “trong ánh sáng này,” cố ý làm những điều được quyết định và thôi thúc từ những mức độ thấp hèn trong đời sống của mình, tức là đặt nặng sự hiểu biết của mình về phương diện tà vạy, và đang thoái hóa. Theo quan điểm của “con người trong thân xác” thì không phải lúc nào cũng có lợi khi làm, hay từ bỏ một điều gì đó. Nên khi chúng ta dứt khoát chọn làm điều thấp hèn, tức là cái ác trong ta đang chế ngự.

It is gradually dawning on the human consciousness that a separative attitude has in it the elements of sin and of evil. When we are separative in our attitudes or do anything which produces separation, we are transgressing a fundamental law of God. What we are really doing is breaking the Law of Love, which knows no separation, but sees only unity and synthesis, brotherhood and interrelation everywhere. Herein lies our major problem. Our study in connection with sin and evil will, as Dr. Grensted tells us, serve….

Tâm thức con người dần dần nhận thấy rằng trong thái độ chia rẽ có những yếu tố tội lỗi và tà vạy. Khi chúng ta có thái độ chia rẽ, hoặc làm điều gì gây chia rẽ, tức là chúng ta vi phạm một định luật cơ bản của Thượng Đế. Điều chúng ta thực sự đang làm là trái với Luật Yêu thương. Luật này không hề biết đến chia rẽ, mà chỉ thấy sự hợp nhất và tổng hợp, tình huynh đệ và sự liên giao ở khắp nơi. Bởi vậy, đây là vấn đề khó khăn chính yếu của chúng ta. Như Ts. Grensted có nói, khi nghiên cứu về tội lỗi và điều ác . . .

“in the main to reveal the fundamental character of our problem as resulting from a failure of faith and a refusal of love. The psychologists do not escape from this view of sin when they deal with it as moral disease, for their one hope of treating such moral disease successfully rests in an attempt to awaken the latent personal resources of the ego, through processes in themselves personal. Where, as in certain of the major psychoses, this appeal cannot be made, there is no human hope of a cure. The key to psychological healing lies in the transference and there is the closest possible parallel between this and the Christian way of forgiveness. Both methods are wholly personal, both depend upon a readjustment of relationships which begins at priest or physician and passes out into every relationship of the social environment.” [Italics are mine. A.A.B.] [ccxiii]35

“chính yếu chúng ta sẽ thấy đặc điểm cơ bản trong vấn đề của chúng ta là thiếu đức tin và từ chối tình thương. Các nhà tâm lý cũng không đi ra ngoài quan điểm này về tội lỗi khi họ đối trị nó như một loại bệnh thuộc về đạo đức. Hy vọng duy nhất của họ để điều trị loại bệnh đạo đức này một cách thành công là cố gắng đánh thức các nguồn lực cá nhân tiềm tàng của cái tôi người đó, qua những tiến trình cũng có tính cách cá nhân. Khi, như trong một số ca bệnh tâm thần nặng, không thể thực hiện sự kêu gọi này, thì con người không có hy vọng chữa lành. Điều then chốt trong việc trị bệnh tâm lý là chuyển di cảm xúc, và khả dĩ điều này hầu như tương tự với phương cách tha thứ của Thiên Chúa giáo. Cả hai phương pháp đều hoàn toàn có tính cá nhân. Cả hai đều dựa vào việc tái điều chỉnh các mối liên giao, bắt đầu từ vị linh mục hoặc người thầy thuốc và đi vào mọi mối liên giao khác trong môi trường xã hội.”[35]  [Các chữ nghiêng là của tôi. A. A. B.]

The sense of responsibility for one’s actions grows as one progresses from stage to stage upon the Path of Evolution. [205] In the early stages there is little or no responsibility. There is little or no knowledge, no sense of relationship to God, and very little sense of relationship to humanity. It is this sense of separateness, this emphasis upon personal and individual good, which is of the nature of sin. Love is unity, at-one-ment and synthesis. Separateness is hatred, aloneness and division. But man, being divine in nature, has to love, and the trouble has been that he has loved wrongly. In the early stages of his development he places his love in the wrong direction, and turning his back on the love of God, which is of the very nature of his own soul, he loves that which is connected with the form side of life, and not with the life side of form.

Ý thức trách nhiệm về hành động của mình ngày càng tăng, khi mỗi người đi lên từ giai đoạn này đến giai đoạn khác trên Đường Tiến hóa. (205) Trong những giai đoạn đầu, người ta ít có hoặc không có ý thức trách nhiệm. Họ cũng không biết hoặc ít hiểu biết về mối liên giao với Thượng Đế, và rất ít khi cảm thấy có mối quan hệ nào với nhân loại. Chính trong ý thức chia rẽ này, và sự chú trọng vào lợi ích riêng của cá nhân, có mang tính chất tội lỗi. Tình thương vốn hợp nhất, nhất quán và tổng hợp. Tính chia rẽ bao gồm sự thù ghét, cô độc, và phân cách. Nhưng con người vốn có bản tính thiêng liêng, nên cần phải yêu thương, và vấn đề khó khăn là y đã yêu thương một cách sai lầm. Trong những giai đoạn đầu trên đường phát triển, y đặt tình thương của mình theo chiều hướng sai lầm. Y quay lưng đối với nguồn yêu thương của Thượng Đế, mà đó chính là bản tính linh hồn của y. Y yêu mến những gì liên quan đến phương diện hình thể của đời sống, chứ không liên quan đến sự sống trong hình thể.

Sin is therefore a definite infringement of the Law of Love, as we show it in our relation with God or with our brother, a son of God. It is the doing of those things from purely selfish interest which brings suffering to those we have in our immediate surroundings, or to the group with which we may be affiliated—a family group, a social group, a business group, or just the group of human beings with whom our general destiny casts us.

Vì thế, tội lỗi là dứt khoát vi phạm Luật Yêu thương, khi chúng ta biểu lộ nó trong mối liên giao với Thượng Đế hoặc với huynh đệ của mình, họ vốn là con của Thượng Đế. Đó là làm những điều do mối quan tầm thuần vị kỷ, gây đau khổ cho những người ở ngay chung quanh mình, hoặc cho đoàn nhóm mà chúng ta có thể liên hệ – như nhóm gia đình, nhóm xã hội, nhóm kinh doanh, hoặc chỉ là nhóm người mà vận mệnh chung đã đặt để chúng ta trong đó.

This brings us to the realisation that, in the last analysis, sin signifies wrong relation to other human beings. It was the sense of this wrong relation which in the early days of man’s history gave rise to the sacrifice of worldly goods upon the altar, for primitive man seemed to feel that by making an offering to God he succeeded in making redemption of his character possible with his fellowmen.

Đến đây, chúng ta nhận thấy rằng, xét cho cùng, tội lỗi là có liên giao sai lầm với người khác. Chính vì ý thức về mối liên giao sai lầm này mà trong thời gian đầu của lịch sử nhân loại người ta đã dâng cúng những phẩm vật của thế gian trên bàn thờ. Dường như người thời nguyên thủy cảm thấy rằng khi thờ cúng Thượng Đế họ có thể chuộc lại những điều sai quấy trong tính tình mà họ khả dĩ gây ra đối với đồng bào của mình.

It is beginning to dawn upon the race today that the only real sin is to hurt another human being. Sin is the misuse of our relationships with each other, and there is no evading these relationships. They exist. We live in a world of men, and our lives are spent in contact with other human beings. The way in which we handle this daily problem demonstrates either our divinity or our erring lower nature. Our task in life is to express divinity. And that divinity manifests itself [206] in the same way that the divinity of Christ expressed itself; in harmless living and ceaseless service to our fellowmen; in a careful watchfulness over words and deeds lest in any way we should “offend one of these little ones”; [ccxiv]36 in the sharing with Christ of the urgency which He felt to meet the world’s need and to act the part of a saviour to men. It is gloriously true that this basic concept of Deity is beginning to grip humanity.

Ngày nay nhân loại bắt đầu nhận thức rằng tội lỗi thực sự và duy nhất là làm tổn thương người khác. Tội lỗi là sử dụng sai mối liên giao của mình với người khác, trong khi không cách nào lẩn tránh các liên giao đó. Chúng luôn hiện hữu. Chúng ta sống trong thế giới loài người, và trong đời sống chúng ta giao tiếp với những người khác. Cách mà chúng ta xử lý vấn đề giao tiếp này hằng ngày cho thấy thiên tính của mình hoặc phàm tính dễ sai lầm của mình. Vì vậy, nhiệm vụ của chúng ta trong đời là biểu lộ thiên tính. Thiên tính ấy biểu hiện (206) theo cùng cách như thiên tính của Đức Christ đã biểu lộ. Nó biểu lộ trong cuộc sống không gây tổn hại, và không ngừng phụng sự đồng bào của mình. Nó cũng biểu lộ trong sự thận trọng trông chừng lời nói và việc làm, vì e rằng bằng cách nào đó mình có thể “làm hại một trong những con người bé mọn này.”[36]  Đồng thời nó cũng biểu lộ trong việc chia sẻ với Đức Christ sự khẩn trương mà Ngài cảm thấy trong cố gắng đáp ứng nhu cầu của thế gian, và làm phận sự cứu giúp mọi người. Điều thực sự đáng mừng là nhân loại đang bắt đầu hiểu được khái niệm cơ bản này về Thiên tính.

Christ’s major task was the establishing of God’s kingdom upon earth. He showed us the way in which humanity could enter that kingdom—by subjecting the lower nature to the death of the cross, and rising by the power of the indwelling Christ. Each one of us has to tread the way of the cross alone, and enter God’s kingdom by right of achievement. But the way is found in service to our fellowmen, and Christ’s death, viewed from one angle, was the logical outcome of the service which He had rendered. Service, pain, difficulty and the cross—such are the rewards of the man who puts humanity first and himself second. But having done so, he discovers that the door into the kingdom is flung wide open and that he can enter in. But he has first to suffer. It is the Way.

Nhiệm vụ chính yếu của Đức Christ là thành lập Thiên giới trên thế gian. Ngài chỉ cho chúng ta thấy con đường để nhân loại có thể đi vào Thiên giới. Đó là để cho phàm tính chết dứt trên thập tự giá, và phục sinh nhờ quyền năng của Đức Christ ngự trong tâm. Mỗi người trong chúng ta đều phải tự mình dấn bước trên con đường thập tự giá, và đi vào Thiên giới nhờ quyền hạn của sự thành tựu. Nhưng chúng ta chỉ tìm thấy con đường này khi phụng sự đồng bào mình. Và nhìn từ một góc độ nào đó thì sự chết của Đức Christ là kết cục hợp lý của công việc phụng sự mà Ngài đã làm. Phụng sự, đau khổ, khó khăn, và thập tự giá – đó là phần thưởng cho những ai xem nhân loại là ưu tiên, và cá nhân mình chỉ là thứ yếu. Nhưng khi đã làm như thế, y lại thấy cửa vào Thiên giới rộng mở để y có thể bước vào. Tuy nhiên, trước hết y phải chịu đau khổ. Đó là Đường Đạo.

It is through supreme service and sacrifice that we become followers of Christ and earn the right to enter into His kingdom, because we do not enter alone. This is the subjective element in all religious aspiration, and this all the sons of God have grasped and taught. Man triumphs through death and sacrifice.

Chính vì công tác phụng sự và hy sinh cao cả khiến chúng ta trở thành người đi theo bước chân Đức Christ, và được quyền đi vào Thiên giới, bởi chúng ta không vào đó một mình. Đây là yếu tố nội tại của trọn cả nguyện vọng tinh thần trong tôn giáo, là điều mà tất cả những người con của Thượng Đế đều thấu hiểu và giảng dạy. Con người chiến thắng khải hoàn qua sự chết và hy sinh.

That superhuman Spirit, Christ, did this perfectly. In Him was no sin because He had perfectly transcended the ephemeral lower self. His personality was subordinated to His divinity. The laws of transgression touched Him not, because He crossed no boundaries and infringed no principles. He embodied in Himself the principle of love and therefore it was not possible for Him, at the stage in evolution [207] which He had reached, to hurt a human being. He was perfectly balanced and had achieved that equilibrium which released Him from all lower impacts and set Him free to ascend to the throne of God. For Him there was no holding on to the lower and to that which was humanly desirable but divinely rejected. Evil therefore passed Him by, and he had no traffic with it. “He was in all points tempted like as we are, yet without sin.” [ccxv]37 He knew no separateness. Rich men, publicans, fishermen, learned professors, harlots and simple folk were all His friends, and the “great heresy of separateness” was completely overcome by His all-inclusive spirit. Thus He fulfilled the law of the past, emphasised the type for the humanity of the future, and entered for us within the veil, leaving us an example that we should follow His steps—an example of sacrifice unto the death, of service rendered ceaselessly, of self-forgetfulness, and of a heroism that led Him from point to point upon the way, and from altitude to altitude, until no bonds could hold Him (not even the barriers of death). He remains the eternal God-Man, the Saviour of the world. In perfection He fulfilled the will of God, and said to us the words which give us a simple rule with a great reward: “If any man will do his will, he shall know of the doctrine, whether it be of God.” [ccxvi] 38

Tinh thần siêu nhân ấy, là Đức Christ, đã thực hiện hoàn hảo điều này. Trong Ngài không hề có tội lỗi, vì Ngài đã vượt lên cái phàm ngã phù du. Phàm nhân của Ngài đã tuân phục thiên tính nơi Ngài. Luật vi phạm không hề ảnh hưởng đến Ngài, vì Ngài không vượt qua đường ranh giới nào, và không vi phạm nguyên tắc nào cả. Ngài tự thể hiện nguyên lý bác ái. Vì thế, ở giai đoạn tiến hóa (207) đã đạt, Ngài không khả dĩ làm tổn thương bất cứ người nào cả. Ngài đã hoàn toàn thăng bằng. Ngài đã đạt sự quân bình nên không còn bị bất cứ tác động nào thấp kém, và được tự do lên đến ngôi Thượng Đế. Ngài không còn bị chi phối bởi những gì thấp hèn, và những gì mà mọi người mong muốn, nhưng lại bị từ bỏ về mặt thiêng liêng. Thế nên, điều Ác đi qua Ngài, và Ngài không có gì liên quan đến nó.  “Ngài bị cám dỗ trong mọi phương diện như chúng ta vậy, nhưng không hề phạm tội.”[37]  Ngài không thấy có chia rẽ. Người giàu có, chủ quán rượu, dân chài lưới, các giáo sư uyên bác, gái điếm, và người dân bình dị đều là bạn Ngài. Tinh thần bao gồm tất cả nơi Ngài đã hoàn toàn khắc phục “đại tà thuyết chia rẽ.”  Thế là Ngài đã hoàn thành luật pháp của thời quá khứ, nhấn mạnh mẫu người cho nhân loại trong tương lai, và vì chúng ta mà đi vào bức màn bí mật. Ngài nêu gương sáng để chúng ta có thể đi theo bước chân Ngài. Đó là tấm gương hy sinh cho đến chết, là cố gắng phụng sự không ngừng, là quên mình trọn vẹn, là hùng tâm đại chí đã đưa Ngài từ trình độ này đến trình độ khác trên đường đạo, từ đỉnh cao này đến đỉnh cao khác, cho đến khi không điều gì có thể ràng buộc được Ngài (dù đó là chướng ngại của tử vong).  Mãi mãi Ngài vẫn là Con người vừa là Thượng Đế, là người Cứu giúp Thế gian. Trong sự hoàn thiện, Ngài hoàn thành Thiên ý, và nói với chúng ta những lời vừa là qui tắc đơn giản và cũng là phần thưởng lớn lao: “Những ai thực thi Thiên ý, sẽ hiểu biết giáo lý có phải là từ Thượng Đế hay không.”[38]

The simplicity of this instruction is almost baffling. We are told simply to do God’s will and then truth will be revealed to us. There were times in Christ’s life, as in the Garden of Gethsemane, when He fought with Himself to do God’s will. There were moments when His human flesh quailed before the prospect which opened up before Him. He therefore knew the difficulty of this simple rule.

Tính cách đơn giản của huấn thị này hầu như khiến chúng ta khó hiểu. Chúng ta được dạy rằng chỉ cần thực thi Thiên ý, và rồi chân lý sẽ được hiển lộ cho chúng ta. Có những thời gian trong cuộc đời của Đức Christ, khi Ngài phải tự tranh đấu với chính mình để thực thi Thiên ý. Có những thời khắc mà thân xác con người của Ngài run sợ trước viễn cảnh mở ra trước mắt. Vì thế Ngài hiểu nỗi khó khăn của qui tắc đơn giản này.

3

3

In turning our attention to the story of the Crucifixion it is obvious that there is no need to recount the details of it. [208] It is so well known and so familiar that the words in which it is couched are apt to mean little. The tale of Christ’s triumphant entry into Jerusalem, of His gathering the disciples together into the upper room, and there sharing with them the communion of bread and of wine and of the desertion of those who supposedly loved Him, with His subsequent agony in the Garden of Gethsemane, is as familiar to us as our own names, and much less arresting. That is the tragedy of Christ. He did so much, and we have recognised so little. It has taken us twenty centuries to begin to understand Him and His mission and career. The Crucifixion itself was only an anticipated and expected consummation of that career. No other end was possible. It was predetermined from the beginning, and really dated from the time when, after the Baptism initiation, He started out to serve humanity, and to teach and preach the good tidings of the kingdom of God. That was His theme, and we have forgotten it and have preached the Personality of Jesus Christ—one theme which He Himself ignored and which seemed to Him of small importance in view of the greater values involved. This again is the tragedy of Christ. He has one set of values and the world has another.

Trở về câu chuyện Thập giá hình, hiển nhiên là chúng ta thấy không cần phải kể lại từng chi tiết. (208) Mọi người đều biết rõ và quen thuộc với câu chuyện này đến đỗi họ không hiểu bao nhiêu về những lời được dùng để diễn đạt. Chuyện kể Đức Christ đi vào thành Jerusalem một cách vẻ vang; việc Ngài qui tụ các môn đồ trong phòng trên căn gác, ở đó Ngài thực hiện phép ban thánh thể bằng cách chia sẻ bánh mì và rượu vang cho họ; việc Ngài bị bỏ rơi bởi những người mà trước đó được xem như đã yêu mến Ngài, và sau đó Ngài chịu đau khổ trong Vườn Gethsemane; tất cả đều quá quen thuộc đối với chúng ta nên không còn mấy ai quan tâm, chú ý. Đó là bi kịch của Đức Christ. Ngài đã làm quá nhiều điều, mà chúng ta nhận thức được quá ít. Chúng ta phải mất hai mươi thế kỷ mới bắt đầu hiểu được Ngài, sứ mệnh và sự nghiệp của Ngài. Chính Thập giá hình chỉ là mức hoàn thành của sự nghiệp ấy, được dự kiến và mong đợi. Không khả dĩ có kết cục nào khác. Nó đã được định trước ngay từ đầu. Nó thực sự đã được xác định thời gian từ khi, sau cuộc điểm đạo Báp-têm, Ngài ra đi phụng sự nhân loại, giáo huấn và truyền giảng tin lành về Thiên giới. Đó là chủ đề của Ngài, nhưng chúng ta lại quên mất. Chúng ta đã rao giảng về Phàm nhân của Jesus Christ – là chủ đề mà chính Ngài không hề bận tâm, và dường như đối với Ngài không mấy quan trọng so với những giá trị cao cả hơn có liên quan. Đây cũng lại là bi kịch của Đức Christ. Ngài có những tiêu chuẩn giá trị cao đẹp, nhưng thế gian lại đi theo những giá trị khác.

We have made of the Crucifixion a tragedy, whereas the real tragedy was our failure to recognise its true significance. The agony in the Garden of Gethsemane was based upon the fact that He was not understood. Many men have died violent deaths. In this, Christ was in no wise different from thousands of other far-seeing men and reformers, down the ages. Many people have passed through the Gethsemane experience and prayed with the same fervour as Christ that God’s will might be done. Many men have been deserted by those who might have been expected to understand and participate in the work and service visioned. In none of these respects was Christ really unique. But His suffering was based upon His unique vision. The lack of comprehension of the people, and the distorted interpretations which future theologians would give to His message must surely have been a part of[209] the pre-vision, as likewise the knowledge that the emphasis accorded to Him as the Saviour of the world would retard for centuries the materialising of the kingdom of God on earth, which it was His mission to found. Christ came that all mankind might have “life… more abundantly.” [ccxvii]39 We have so interpreted His words that only the “saved” are credited with having taken the necessary steps towards that life. But the abundant life is surely not a life to be lived hereafter, in some distant heaven where those who are believers shall enjoy an exclusive life of happiness, whilst the rest of God’s children are left outside. The Cross was intended to indicate the line of demarcation between the kingdom of men and the kingdom of God, between one great kingdom in nature which had reached maturity, and another kingdom in nature which could now enter upon its cycle of activity. The human kingdom had evolved to the point where it had produced the Christ and those other children of God whose lives bore constant testimony to the divine nature.

Chúng ta đã biến Thập giá hình thành một bi kịch. Trong khi đó, bi kịch thực sự là chúng ta không nhận thức được thực nghĩa của nó. Ngài đau khổ trong Vườn Gethsemane vì không ai hiểu Ngài. Nhiều người khác đã hứng chịu những cái chết khủng khiếp. Nhưng về mặt này, Đức Christ cũng không hề khác với hàng ngàn người khác, những nhà cải cách, những người nhìn xa thấy rộng, qua các thời đại. Nhiều người đã trải qua kinh nghiệm Gethsemane, và đã cầu nguyện với lòng nhiệt thành như Đức Christ, cầu xin Thiên ý được thực thi. Nhiều người khác đã bị bỏ rơi bởi những kẻ mà lẽ ra đã được mong đợi là sẽ cảm thông và tham gia công tác và việc phụng sự được đề ra. Thế nên, Đức Christ không thực sự đặc biệt trong bất cứ phương diện nào vừa kể. Nhưng Ngài đau khổ là do một viễn ảnh đặc biệt. Sự thiếu hiểu biết của dân chúng, và những diễn giải lệch lạc mà các nhà thần học trong tương lai có thể sẽ gán cho bức thông điệp của Ngài, chắc hẳn đã góp phần (209) vào dự kiến cũng như biết trước rằng sự chú trọng vào vai trò Đấng cứu thế của Ngài có thể sẽ làm chậm trễ việc thực hiện Thiên giới trên thế gian, mà Ngài có sứ mệnh thành lập. Đức Christ đã đến để cho toàn nhân loại khả dĩ có được “cuộc sống . . . phong phú hơn.”[39]  Chúng ta đã quá thường giải thích lời của Ngài rằng chỉ những ai  “được cứu rỗi”  mới được cho là đã thực hiện những bước cần thiết hướng đến cuộc sống ấy. Nhưng chắc hẳn rằng cuộc sống phong phú không phải là cuộc đời mà chúng ta sẽ sống ở kiếp sau, hoặc trên một cõi trời xa xăm nào, trong đó những người có đức tin sẽ hưởng một cuộc sống đặc biệt hạnh phúc, trong khi những người con khác của Thượng Đế lại bị bỏ ra ngoài. Thập tự giá được nhằm để chỉ rõ đường ranh giới giữa giới nhân loại và Thiên giới. Tức là giữa một trường tiến hóa cao cả trong thiên nhiên đã đạt trình độ trưởng thành, và một trường tiến hóa khác trong thiên nhiên mà nay đã có thể đi vào chu kỳ hoạt động. Giới nhân loại đã tiến hóa đến mức sản xuất được Đức Christ và những người con khác của Thượng Đế. Đời sống của các vị này mãi mãi mang bằng chứng của bản tính thiêng liêng.

Christ assumed the ancient symbol and burden of the cross, and, taking His stand beside all the previous crucified Saviours, embodied in Himself the immediate and the cosmic, the past and the future, rearing the Cross on the hill outside Jerusalem (the name of which signifies the “vision of peace”), thus calling attention to the kingdom which He died to establish. The work had been completed, and in that strange little country called the Holy Land, a narrow strip of territory between the two hemispheres, the East and the West, the Orient and the Occident, Christ mounted the Cross and fixed the boundary between the kingdom of God and the kingdoms of the world, between the world of men and the world of Spirit. Thus He brought to a climax the ancient Mysteries, which had prophesied the coming of that kingdom, and instituted the Mysteries of the kingdom of God.

Đức Christ mang biểu tượng cổ xưa, và đảm đương gánh nặng của thập tự giá. Ngài kề cận tất cả những vị Cứu thế đã chịu khổ hình thập tự trong thời gian trước. Ngài tự thể hiện những gì ở cõi trần và ở cấp vũ trụ, cả quá khứ và tương lai. Ngài dựng Thập tự giá trên đồi bên ngoài thành Jerusalem (có nghĩa là “viễn ảnh bình an”), khiến mọi người chú ý đến Thiên giới mà Ngài chịu chết để thành lập. Công việc đã hoàn tất. Trên đất nước nhỏ bé và kỳ lạ ấy được gọi là Thánh Địa, một dải đất hẹp giữa hai bán cầu, Đồng và Tây, Đức Christ đã dựng lên chiếc Thập tự giá. Đồng thời Ngài cũng ấn định ranh giới giữa Thiên quốc và các vương quốc trên thế gian, giữa thế giới loài người và thế giới tinh thần.

The effort to carry out to perfection the will of God brought to an end the most complete life that had been lived on earth.  The attempt to found the kingdom, preordained [210] for all time, and the antagonism it evoked, brought Christ to the place of crucifixion. The hardness of men’s hearts, the weakness of their love, and their failure to see the vision, broke the heart of the Saviour of the world—a Saviour because He opened the door into the kingdom.

Nỗ lực hoàn thành Thiên ý đã dẫn đến sự chấm dứt một cuộc đời hoàn hảo nhất đã từng có trên thế gian này. Cố gắng thành lập Thiên giới, luôn luôn đã được (210) định trước, và sự chống đối vì thế mà phát sinh, đã đưa Đức Christ đến chỗ phải chịu thập giá hình. Sự chai rắn của tâm hồn con người, sự yếu đuối trong tình thương của họ, và việc họ không thấy được viễn ảnh tinh thần, đã làm tan vỡ trái tim của Đấng cứu thế – là Đấng cứu thế, vì Ngài đã mở ra cánh cửa đi vào Thiên giới.

It is time that the Church woke up to its true mission, which is to materialise the kingdom of God on earth, today, here and now. The time is past wherein we can emphasise a future and coming kingdom. People are no longer interested in a possible heavenly state or a probable hell. They need to learn that the kingdom is here, and must express itself on earth; it consists of those who do the will of God at any cost, as Christ did, and who can love one another as Christ loved us. The way into that kingdom is the way that Christ trod. It involves the sacrifice of the personal self for the good of the world, and the service of humanity instead of the service of one’s own desires. In the course of enunciating these new truths concerning love and service Christ lost his life. Canon Streeter tells us that “the significance and value of the death of Christ springs from its inner quality. It is the expression in external act of a freely chosen self-dedication, ungrudging, and without reserve, to the highest service of God and man. The suffering incidental to such self-offering is morally creative.” [ccxviii] 40

Nay đã đến lúc Giáo hội hãy thức tỉnh để thấy được sứ mệnh đích thực của mình. Đó là thực hiện Thiên giới trên thế gian, hôm nay, ở đây và ngay bây giờ. Đã qua rồi thời gian mà chúng ta có thể nhấn mạnh về một Thiên giới sẽ đến trong tương lai. Dân chúng nay không còn quan tâm đến một trạng thái thiên đường có thể đạt, hoặc một hỏa ngục khả dĩ có. Họ cần học hỏi để biết rằng Thiên giới có ngay ở đây, và phải biểu lộ trên thế gian này. Thiên giới gồm những người thực thi Thiên ý bằng mọi giá, như Đức Christ đã làm, và gồm những người có thể yêu thương nhau như Đức Christ đã yêu thương chúng ta. Đường vào Thiên giới là con đường mà Đức Christ đã đi. Nó bao gồm việc hy sinh cái tôi cá nhân cho phúc lợi của toàn thế giới, và phụng sự nhân loại thay vì phục vụ cho những ham muốn của riêng mình. Trong cố gắng nói lên những chân lý mới này về tình thương và phụng sự, Đức Christ đã hy sinh mạng sống của Ngài. Canon Streeter nói rằng “ý nghĩa và giá trị của sự chết của Đức Christ bắt nguồn từ phẩm chất nội tại của nó. Đó là sự biểu lộ bằng hành động bên ngoài của sự tự hiến dâng được tự do chọn lựa, không hề miễn cưỡng, và không hề do dự, cho công tác phụng sự cao cả nhất đối với Thượng Đế và con người. Sự đau khổ kèm theo việc tự hiến dâng này rất hữu ích về phương diện đạo đức.”[40]

Is it not, perhaps, a fact that the Crucifixion of Christ, with its great preceding events—the communion and the Gethsemane experience—is a tragedy which has its basis in the conflict between love and hate? It is not the intention of this book to belittle the world event which took place upon Calvary. But today as one looks back upon that event, a certain truth begins to emerge, and this is that we have interpreted that sacrifice and that death in purely selfish terms. We are concerned with our individual interest in the matter. We have emphasised the importance of our individual salvation and feel it to be of tremendous importance. But the world view and what Christ was destined to [211] do for humanity down the ages, and the attitude of God towards human beings from the earliest times, through the period of Christ’s life in Palestine and on until the present time, are subordinated to the factor of our belief or non-belief in the efficacy of the Crucifixion upon Calvary to save our individual souls. Yet in His conversation with the repentant thief Christ admitted him into the kingdom of God on the basis of his recognition of divinity. Christ had not yet died, and the blood sacrifice of Christ had not yet been made. It was almost as if Christ had foreseen the turn which theology would give to His death, and endeavoured to offset it by making the recognition of the dying thief one of the outstanding events at His death. He made no reference to the remission of sins through His blood as the reason for that admission.

Có lẽ, phải chăng Thập giá hình của Đức Christ, với những sự kiện quan trọng xảy ra trước đó – lễ ban thánh thể và trải nghiệm Gethsemane – là một bi kịch do sự xung đột giữa tình thương và thù hận?  Quyển sách này không hề xem nhẹ sự kiện thế giới nói trên vốn đã xảy ra trên đồi Calvary.  Thế nhưng, ngày nay khi nhìn lại sự kiện đó, chúng ta bắt đầu thấy rõ sự thật là chúng ta đã diễn giải sự hy sinh và sự chết của Ngài trong phạm vi thuần vị kỷ. Chúng ta chỉ quan tâm đến lợi ích của cá nhân mình trong vấn đề đó. Chúng ta đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc cứu rỗi cá nhân mình, và xem đó là điều hết sức hệ trọng. Ngoài ra thì tầm nhìn thế giới, những gì đã được tiền định để Đức Christ (211) thực hiện cho nhân loại qua các thời đại, và thái độ của Thượng Đế đối với con người kể từ thời khởi thủy, qua thời gian Đức Christ ở Palestine và tiếp tục cho đến hiện nay, tất cả đều bị cho là phụ thuộc vào việc chúng ta có tin hay không vào hiệu quả của Thập giá hình trên đồi Calvary có thể cứu rỗi linh hồn cá nhân chúng ta đến đâu. Thế mà trong lời đối đáp của Ngài với tên trộm biết ăn năn, hối cải, Đức Christ đã nhận y vào Thiên giới vì y nhận thức được thiên tính. Bấy giờ Đức Christ vẫn chưa chết, và sự hy sinh bằng máu huyết của Ngài chưa xảy ra. Hầu như thể là Đức Christ đã thấy trước cái chiều hướng mà giới thần học sẽ đi theo khi nói về sự chết của Ngài, nên Ngài đã cố gắng hóa giải điều đó bằng cách khiến cho việc công nhận tên trộm đang chờ chết trở thành một trong những sự kiện nổi bật vào lúc Ngài từ trần. Ngài không hề nói gì đến sự xá tội qua máu huyết của Ngài là lý do khiến y được thu nhận.

The real issue was the issue between love and hate. Only St. John, the beloved Apostle, the one closest to Jesus, really understood; and in his Epistles the emphasis is entirely upon love, and the usual orthodox interpretation is nowhere to be found. Just love and hate; the desire to live as children of God and the inclination to live as ordinary human beings: herein lies the distinction between the citizen of the kingdom of God and a member of the human family. It was love which Christ endeavoured to express, but it is hate and separation and war, culminating in the World War, which have characterised the official rendering of His teaching, down the age. Christ died in order to bring to our notice that the way into the kingdom of God was the way of love and of service. He served and loved and wrought miracles, and gathered together the poor and the hungry. He fed them, and sought in every possible way to call attention to the principle of love as the major characteristic of divinity, only to find that this life of loving service brought Him trouble and eventually the death of the Cross.

Vấn đề đích thực lúc bấy giờ là sự xung đột giữa tình thương và thù hận. Chỉ có Thánh John, người đệ tử thân yêu, thân cận nhất với Đức Jesus, mới hiểu được. Các Thư sứ đồ của ông hoàn toàn nhấn mạnh đến tình thương, mà không hề có lối diễn giải thường thấy theo chính thống. Chỉ có tình thương và thù hận; ý muốn sống với tư cách những người con của Thượng Đế, và khuynh hướng sống như kẻ thường nhân. Đây là sự khác biệt giữa người công dân Thiên giới và một thành viên trong gia đình nhân loại. Chính tình thương là điều Đức Christ đã cố gắng biểu lộ. Thế nhưng, chính thù hận, chia rẽ và chiến tranh, lên đến tột đỉnh trong Thế Chiến, lại là đặc trưng cho việc người ta chính thức đưa ra giáo huấn của Ngài, qua các thời đại. Đức Christ đã chịu chết để cho chúng ta thấy rằng đường vào Thiên giới là con đường của tình thương và phụng sự. Ngài đã phụng sự, yêu thương và làm phép lạ, và quy tụ lại những người nghèo đói. Ngài cho họ ăn, và tìm đủ mọi cách có thể để khiến họ chú ý đến nguyên lý tình thương là đặc trưng chính yếu của thiên tính. Nhưng rồi ra cuộc sống phụng sự yêu thương này đã khiến cho Ngài đau khổ và rốt cuộc phải chịu chết trên Thập tự giá.

We have fought for the theological doctrine of the Virgin Birth. We have fought over the doctrines whereby men shall be saved. We have fought over the subject of baptism, and [212] over the atonement. We have fought over the fact and the denial of immortality, and what man must do in order to be raised from the dead. We have regarded half the world as lost and only the Christian believer as saved, yet all the time Christ has told us that love is the way into the kingdom, and that the fact of the presence of divinity in each of us makes us eligible for that kingdom. We have omitted to realise that the “vicarious atonement is the harmonising of the disharmony of others by the power of a spiritual presence, which brings about the great transmutation; evil is absorbed and transmuted into good or equilibrised.” [ccxix]41 This constitutes the endeavour of Christ, and the fact of His Presence is the harmonising medium in life. Men are not saved by belief in the formulation of a theological dogma, but by the fact of His living Presence, of the living immediate Christ. It is the realisation of the fact of the presence of God in the human heart which is the basis of the mystical vision, while the knowledge that one is a son of God gives one the strength to follow the Saviour’s footsteps from Bethlehem to Calvary. That which will eventually reorganise our human life is the presence in the world of those who know Christ as their example, and recognise that they possess the same divine life, just as the affirmation of the basic law of the kingdom of God, the Law of Love, will finally save the world. It is the substitution of the life of Christ for the life of the world, the flesh and the devil, which will inject a meaning and a value into life.

Chúng ta đã chiến đấu cho giáo lý thần học về sự Giáng sinh qua Đức Mẹ Đồng trinh. Chúng ta đã chiến đấu cho giáo lý về cách mà con người sẽ được cứu rỗi. Chúng ta đã chiến đấu cho vấn đề rửa tội, và (212) vấn đề chuộc tội. Chúng ta đã chiến đấu về sự thực và lời phủ nhận tính bất tử, và về những gì mà con người phải làm để được sống lại từ cõi chết. Chúng ta đã cho rằng phân nửa thế giới sẽ bị chết mất, và chỉ người tín đồ Thiên Chúa giáo mới được cứu rỗi. Trong khi đó bao giờ Đức Christ cũng nói với chúng ta rằng tình thương là đường vào Thiên giới. Ngài cũng nói rằng sự hiện diện của thiên tính trong ta khiến ta có đủ điều kiện để bước vào Thiên giới. Chúng ta đã không nhận thức được rằng “sự chuộc tội thay thế là làm hài hòa sự bất hòa với người khác nhờ quyền năng của sự sống thiêng liêng hiện diện trong ta. Sự sống này giúp siêu hóa mọi sự, nó hấp thu điều ác, chuyển hóa thành điều thiện hoặc làm cho quân bình.”[41]  Đó là cố gắng của Đức Christ, và sự Hiện diện thực tế của Ngài là trung gian làm hài hòa trong đời sống. Con người không được cứu rỗi nhờ tin vào cách trình bày của giáo điều thần học, mà nhờ vào sự Hiện diện sống động thực sự của Ngài, của Đức Christ hằng sống ngay trong họ. Chính vì Thượng Đế thực sự hiện diện trong tâm hồn con người nên họ có được linh thị thần bí. Trong khi đó, vì biết mình là con của Thượng Đế nên hành giả mới có đủ sức mạnh để theo bước Đấng cứu thế từ Bethlehem đến Calvary. Thế giới sẽ được tái tổ chức nhờ sự hiện diện của những người biết rằng Đức Christ là tấm gương sáng cho mình, và nhận thức rằng mình cũng có cùng sự sống thiêng liêng như Ngài. Đồng thời, sự khẳng định về luật cơ bản của Thiên giới là Luật Yêu thương, cuối cùng sẽ cứu vớt thế gian này. Khi sự sống Christ thay thế cho đời sống ở thế gian với bao cám dỗ của nó, cuộc đời này sẽ có ý nghĩa và giá trị chân thực.

A sense of the failure of love constitutes the outstanding problem in the agony in the Garden; it was this sense of travail with world forces which enabled Christ to join the company of all His brothers. Men had failed Him, just as men fail us. In the moment when He most needed understanding, and all the strength which companionship gives, His nearest and dearest either deserted Him or slept, unaware of His agony of mind. “The Promethean conflict is the [213] strife which takes place in the human mind between the yearning for understanding, and the nearer more immediate pull of those living affections and desires which are conditioned upon the goodwill and the support of fellow beings; desires for the happiness of loved ones; for the alleviation of pain and disappointment in minds that cannot understand the inner dream; and for the warm reassurance of mundane honours. This conflict is the rock upon which the religious mind founders and is split against itself.” [ccxx]42 Upon this rock Christ did not founder, but He had His moments of intensest agony, finding relief only in the realisation of the Fatherhood of God and its corollary, the brotherhood of man. “Father,” He said. It was this sense of unity with God and His fellowmen which led Him to institute the Last Supper, to originate that communion service, the symbolism of which has been so disastrously lost in theological practice. The keynote of that communion service was fellowship. “It is only thus that Jesus creates fellowship among us. It is not as a symbol that he does it… in so far as we with one another and with him are of one will, to place the Kingdom of God above all, and to serve in behalf of this faith and hope, so far is there fellowship between him and us and the men of all generations who lived and live in the same thought.” [ccxxi] 43

Vấn đề rõ nét gây ra nỗi đau khổ của Ngài trong Vườn Gethsemane là do cảm nhận sự thất bại của tình thương. Hợp đoàn cùng các huynh đệ của mình, Ngài phải làm việc rất khổ nhọc với các mãnh lực của thế gian. Con người đã từ bỏ Ngài, như họ bỏ rơi chúng ta. Vào phút giây Ngài hết sức cần sự cảm thông, và trọn cả sức mạnh của tình bằng hữu, thì những người thân cận nhất của Ngài lại bỏ đi hoặc say ngủ, không hề biết Ngài đang lao tâm khổ trí đến mức nào.  “Sự xung đột của Prometheus là (213) sự tranh đấu xảy ra trong tâm trí con người. Nó xảy ra giữa lòng khao khát hiểu biết và sự lôi kéo của những mến thương và ý muốn do thiện chí, tìm cách trợ giúp đồng bào mình. Đó là ý muốn được hạnh phúc cho những người thân yêu; muốn được giảm bớt khổ đau và thất vọng khi cái trí không thể hiểu những ước mơ ở nội tâm; và muốn được vuốt ve ấm áp bởi những danh vọng trần gian.  Sự xung đột này là tảng đá mà trên đó trí tuệ theo tôn giáo bị đổ vỡ và chia tách.”[42]  Trên tảng đá này, Đức Christ không hề bị đổ vỡ. Nhưng Ngài đã trải qua những thời khắc cực kỳ đau khổ, và chỉ được an ủi khi tưởng nghĩ đến vai trò Từ Phụ của Thượng Đế và điều tất yếu là tình huynh đệ của con người.  Ngài thốt lên “Hỡi Cha.”  Chính cảm nhận này về sự hợp nhất với Thượng Đế và với đồng bào của mình khiến Ngài tổ chức Bữa ăn Cuối cùng, và bắt đầu cử hành lễ ban thánh thể, nhưng ý nghĩa biểu tượng của nó đã bị mất đi một cách thảm hại do lối thực hành thần học. Chủ âm của lễ ban thánh thể là tình bằng hữu.  “Chỉ bằng cách đó mà Jesus tạo nên tình bằng hữu giữa chúng ta. Ngài làm thế không với tính cách biểu tượng . . . vì chúng ta với nhau và với Ngài đều chỉ có ý muốn duy nhất, là đặt Thiên giới lên trên mọi sự, và phụng sự trong niềm tin và hy vọng đó, vì thực sự có tình bằng hữu giữa Ngài và chúng ta, và với mọi người thuộc mọi thế hệ, đã sống và đang sống trong cùng ý nghĩ này.”[43]

4

4

1. “Father, forgive them; for they know not what they do.” [ccxxii]44

1. “Lạy Cha xin tha thứ cho họ vì họ chẳng hiểu biết việc họ làm.”[44]

2. “To day thou shalt be with me in paradise.” [ccxxiii] 45

2. “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.”[45]

3. “Woman, behold thy son! Then saith He to the disciple, Behold thy mother!” [ccxxiv]46

3. “Thưa Bà, đây là con Bà! Rồi Ngài nói với người môn đồ, Này là mẹ của ngươi![46]

4. “My God, my God, why hast thou forsaken me?” [ccxxv] 47

4. “Lạy Thiên Chúa! lạy Thiên Chúa của con! sao Ngài bỏ rơi con?[47]

[214]

(214)

5. “I thirst.” [ccxxvi] 48

5. “Ta Khát.[48]

6. “It is finished.” [ccxxvii] 49

6. “Mọi sự đã hoàn tất.[49]

7. “Father, into thy hands I commend my spirit.” [ccxxviii]50

7. “Lạy Cha! con phó thác linh hồn con trong tay Cha.[50]

The thought of the kingdom coloured all that He said upon the Cross. The Word of Power which emanated from the Cross was spoken by Jesus Christ Himself and not, this time, by the Father. Christ spoke a sevenfold word, and in that word summed up for us the Word that inaugurated the kingdom of God. Each of His utterances had relation to that kingdom, and not the usual small, individual or selfish relation which we have so often ascribed to them. What were those seven words? Let us consider them, realising while doing so that the causes which gave rise to them produced the manifestation of the kingdom of God on earth.

Ý nghĩ về Thiên giới xuyên suốt tất cả những gì Ngài nói trên Thập tự giá. Lần này, Quyền lực Từ phát ra từ Thập tự giá là do Đức Christ thốt ra, chứ không phải do Đức Chúa Cha. Ngài nói lên di ngôn gồm bảy phần, và di ngôn ấy là tóm lược của Linh từ phát khởi Thiên giới. Mỗi lời Ngài thốt ra đều liên quan đến Thiên giới, chứ không phải là mối liên hệ thông thường, nhỏ nhoi của cá nhân hay ích kỷ mà chúng ta quá thường cho là như vậy. Bảy di ngôn này như thế nào?  Chúng ta hãy xem xét kỹ để hiểu vì sao những nguyên nhân làm phát sinh các di ngôn này lại làm cho Thiên giới biểu hiện trên thế gian.

In every case the seven words have been interpreted as having either an individual application in connection with the person to whom they were supposedly spoken, or as having a personal significance to Christ Himself. We have always read the Bible in this manner, with the personal significance in our minds. But these words of Christ are of too great importance to be thus interpreted. They have a meaning far wider than those usually given. The wonder of all He said (as it is the wonder of all the world scriptures) is that the words are capable of various meanings. The time has come when the meaning that Christ gave should be more generally understood by us in the light of the kingdom of God, and with a wider connotation than the individual one. His words were Words of Power, evoking and invoking, potent and dynamic.

Trong trường hợp nào bảy di ngôn này cũng đã được giải thích là có ứng dụng cá nhân hoặc liên quan đến người mà ta xem như được nói đến, hoặc là có ý nghĩa với chính Đức Christ mà thôi. Chúng ta vẫn luôn luôn đọc Kinh thánh theo cách này, và cứ nghĩ đến những gì thuộc về cá nhân. Nhưng những lời của Đức Christ quá đỗi quan trọng nên không thể giải thích như thế được. Chúng có ý nghĩa rất rộng lớn hơn những gì mà người ta thường nói đến. Tất cả những lời Ngài nói đều rất tuyệt diệu (như sự kỳ diệu của tất cả các thánh kinh trên thế giới) vì chúng khả dĩ có nhiều ý nghĩa khác nhau. Nay đã đến lúc chúng ta cần hiểu ý nghĩa tổng quát của những điều mà Đức Christ đã truyền đạt, theo ánh sáng của Thiên giới. Chúng có hàm nghĩa sâu rộng hơn là ý nghĩa với tính cách cá nhân. Lời của Ngài là Quyền lực Từ, có tính khơi dậy, thỉnh cầu, mạnh mẽ và năng động.

One of the first things which emerges in one’s consciousness as one studies the first word from the Cross was the fact that Jesus requested His Father to forgive the people who crucified Him; He evidently, then, did not regard His death upon the Cross as adequate to that need. There was [215] no remission of sins through the shedding of blood; but there was the need to ask God’s pardon for the sin committed. The two facts which come to the fore in this word are the Fatherhood of God, and the fact that ignorance, if productive of wrong-doing, does not make a man guilty and therefore punishable. Sin and ignorance are frequently synonymous terms, but the sin is recognised as such by those who know and who are not ignorant. Where there is ignorance there is no sin. In this word from the Cross Christ tells us two things:

Một trong những điều đầu tiên mà chúng ta nhận thức được khi nghiên cứu di ngôn thứ nhất từ Thập tự giá là Chúa Jesus đã thực sự thỉnh cầu Đức Chúa Cha tha thứ cho những kẻ hành hình Ngài. Hiển nhiên là bấy giờ Ngài không xem sự chết của mình trên Thập tự giá là đủ để thực hiện lời yêu cầu đó. Thế nên (215) không có việc chuộc tội bằng máu huyết. Nhưng cần phải thỉnh cầu Thượng Đế tha thứ cho tội lỗi đã phạm. Có hai điều thực tế nổi rõ trong di ngôn này, đó là vai trò Đấng Cha Lành của Thượng Đế, và thực sự là nếu do vô minh mà làm điều quấy thì người đó không hề có tội, và do vậy không bị trừng phạt. Tội lỗi và vô minh thường là hai từ đồng nghĩa. Nhưng người ta cho là tội lỗi, khi kẻ sai phạm có biết việc mình làm, chứ không hề ngu dốt. Khi có vô minh, thì không có tội lỗi. Trong di ngôn này từ Thập tự giá, Đức Christ nói với chúng ta hai điều:

1. That God is our Father, and that we approach Him through Christ. It is the inner hidden man of the heart, the unrealised Christ who can approach the Father. Christ had earned this right because of His proven divinity and because He had passed through the third initiation, the Transfiguration; when we too are transfigured (for only the transfigured Christ can be crucified) then we too can invoke the Father and call on the spirit, which is God, the life of all forms, to adjust relationships, and to bring about that forgiveness which is the very essence of life itself.

1. Thượng Đế là Cha của chúng ta, và chúng ta đến với Ngài qua Đức Christ. Chính con người ẩn tàng ở nội tâm, là Đấng Christ mà chúng ta chưa nhận thức được, mới có thể đến với Đức Từ Phụ. Đức Christ đã có được quyền này vì thiên tính nơi Ngài đã được chứng minh, và vì Ngài đã qua cuộc điểm đạo thứ ba, sự Biến dung. Khi chúng ta cũng được biến dung (vì chỉ khi Đức Christ đã biến dung, Ngài mới có thể nhận thập giá hình) thì bấy giờ chúng ta cũng có thể thỉnh cầu Đấng Cha Lành và thỉnh cầu đức thánh linh, tức là Thượng Đế, sự sống trong các hình hài sắc tướng. Nhờ đó mà điều chỉnh các mối liên giao, và mang lại sự tha thứ/ xá tội, vốn là tinh hoa của chính sự sống.

2. That forgiveness is the result of life. This is a hard truth for the Western believer to accept. He is so used to resting back upon the activity of the Christ in the distant past. Forgiveness is, however, a result of living processes which bring adjustment, cause restitution, and produce that attitude wherein a man is no longer ignorant and therefore not in need of forgiveness. Life and experience do this for us, and nothing can arrest the process. It is not a theological belief that puts us right with God, but an attitude to life and an attitude to the Christ dwelling in the human heart. We learn through pain and suffering (that is, through experience) not to sin. We pay the price of our sins and mistakes, and cease to make them. We arrive eventually at the point where we no longer make our earlier errors or commit our former sins. For we suffer and agonise, and learn that sin brings retribution and causes suffering. But suffering[216] has its uses, as Christ knew. In His Person He was not only the historical Jesus Whom we know and love, but He was also the symbol to us of the cosmic Christ, God suffering through the sufferings of His created beings.

2. Tha thứ/ xá tội là kết quả của sự sống. Đây là điều mà người tín hữu ở Tây phương thấy khó lòng chấp nhận. Họ quá quen nương tựa vào hoạt động của Đức Christ trong thời quá khứ xa xưa. Tuy nhiên, xá tội là kết quả của các quá trình sống, mang lại sự điều chỉnh, phục hồi, cùng với thái độ của người không còn vô minh, và vì thế mà không còn cần được xá tội. Cuộc sống và kinh nghiệm giúp chúng ta đạt đến trình độ này, và không điều gì có thể ngăn cản tiến trình đó. Không phải niềm tin theo thần học giúp chúng ta có được mối liên giao tốt đẹp với Thượng Đế, mà nhờ vào thái độ đúng đắn trong cuộc sống và thái độ đúng đắn đối với Đấng Christ ngự trong tâm hồn mỗi người. Qua bao đau thương và khốn khổ (tức là qua kinh nghiệm) chúng ta học biết cách không còn gây tội lỗi. Chúng ta phải trả giá cho những tội lỗi, nhầm lẫn của mình, và không còn sai phạm. Rốt cuộc chúng ta đến trình độ không còn phạm phải những sai lầm đã có hay tái phạm những tội lỗi trước đây của mình. Vì chúng ta đã phải chịu đau thương, thống khổ, và hiểu rằng tội lỗi mang lại sự trừng phạt và gây đau khổ. Thế nhưng, đau khổ cũng (216) có công dụng của nó, như Đức Christ đã hiểu. Trong Ngôi vị của mình, Ngài là Đức Jesus trong lịch sử mà chúng ta đã biết và hằng yêu mến. Nhưng đối với chúng ta, Ngài cũng là biểu tượng của Đấng Christ vũ trụ, là Thượng Đế chịu đau khổ qua nỗi đau khổ của chúng sinh mà Ngài đã tạo nên.

Justice can be forgiveness when the facts of the case are rightly understood, and in this demand of the crucified Saviour we have the recognition of the Law of Justice, and not that of Retribution, in an act at which the whole world stands aghast. This work of forgiveness is the age-long work of the soul in matter or form. The Oriental believer calls this karma. The Western believer talks of the Law of Cause and Effect. Both, however, are dealing with the working out by a man of his soul’s salvation, and the constant paying of the price which the ignorant pay for mistakes made and so-called sins committed. A man who deliberately sins against light and knowledge is rare. Most “sinners” are simply ignorant. “They know not what they do.”

Sự công bằng cũng có thể là xá tội khi người ta hiểu đúng những sự kiện thực tế của vụ việc ấy. Và trong lời yêu cầu này của Đấng cứu thế đang chịu khổ hình thập tự, chúng ta thấy có thừa nhận Luật Công bằng, chứ không phải sự Trừng phạt. Một hành động khiến cả thế gian phải kinh ngạc. Tha thứ là công việc nghìn đời của linh hồn ở trong vật chất hay hình thể. Người tín đồ tôn giáo ở Đông phương gọi đó là nghiệp quả. Trong khi người tín hữu ở Tây phương lại nói về Luật Nhân Quả. Tuy nhiên, cả hai đều đề cập đến việc mỗi người thực hiện sự cứu rỗi của linh hồn mình, và việc người còn vô minh phải liên tục trả giá cho các sai lầm mà y đã mắc phải và những cái gọi là tội lỗi mà y đã phạm.  Hiếm khi có ai cố ý phạm tội đi ngược lại ánh sáng và sự hiểu biết. Hầu hết “những kẻ tội lỗi” đều chỉ do họ còn vô minh.  “Họ không hiểu biết việc họ làm.”

Then Christ turned to a sinner, to a man who had been convicted of wrong-doing in the eyes of the world—and who himself recognised the correctness of the judgment and of his punishment. He stated that he received the due reward of his sins, but at the same time there was something in the quality of Jesus which arrested his attention and forced from him the admission that this third Malefactor had “done nothing amiss.” The factor which accorded him admission into paradise was a two-fold one. He recognised the divinity of Christ. “Lord,” he said. And he also had a realisation of what Christ’s mission was—to found a kingdom. “Remember me when Thou comest into Thy kingdom.” The significance of his words is eternal and universal, for the man who recognises divinity, and who at the same time is sensible of the kingdom, is ready to take advantage of the words, “To day, thou shalt be with me in paradise.”

Rồi Đức Christ quay sang một tội nhân. Người này đã bị kết án phạm tội theo cách nhìn của thế gian. Chính y cũng công nhận bản án và hình phạt của mình là đúng. Y nói rằng mình đã nhận hậu quả đích đáng cho tội lỗi của mình. Đồng thời có điều gì đó trong phẩm cách của Jesus khiến y chú ý, và buộc phải thừa nhận rằng Phạm nhân thứ ba này đã “không làm điều gì sai quấy cả.”  Có hai yếu tố khiến y được nhận vào cõi thiên đàng.  Y nhận biết thiên tính nơi Đức Christ.  “Hỡi Chúa,” y nói.  Và đồng thời y cũng nhận thức được sứ mệnh của Đức Christ là thành lập Thiên giới.  “Xin hãy nhớ đến tôi khi Ngài vào cõi giới của Ngài.”  Ý nghĩa lời nói của y có tính cách vĩnh cửu và đại đồng, vì người nào nhận thức được thiên tính và đồng thời hiểu được Thiên giới, thì sẵn sàng hưởng được lợi ích của câu nói “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng.

In the first word from the Cross, Jesus considered the ignorance and the feebleness of man. He was as helpless as a little child, and in His words He testified to the reality of the first initiation and to the time when He was a “babe in [217] Christ.” The parallels between the two episodes are significant. The ignorance, helplessness and consequent maladjustment of human beings evoked from Jesus the demand that forgiveness be accorded. But when life experience has played its part, we have again the “babe in Christ,” ignorant of the laws of the spiritual kingdom, yet released from the darkness and ignorance of the human kingdom.

Trong di ngôn thứ nhất từ Thập tự giá, Chúa Jesus xét đến sự vô minh và yếu đuối của con người. Bấy giờ Ngài yếu ớt như một đứa trẻ, và lời của Ngài cho thấy thực tế của cuộc điểm đạo thứ nhất, và thời gian Ngài còn là một “trẻ thơ trong (217) Christ.”  Sự tương ứng giữa hai thời gian sống này thật có ý nghĩa.  Sự vô minh, yếu đuối, và do đó mà điều chỉnh sai lầm của con người đã khiến Jesus thỉnh cầu cho họ được xá tội. Thế nhưng, khi kinh nghiệm sống đã đủ đầy, đến lượt chúng ta trở thành “trẻ thơ trong Christ,” chưa hiểu biết các luật của giới tinh thần, nhưng đã thoát khỏi sự tối tăm và vô minh của giới nhân loại.

In the second word from the Cross we have the recognition of the Baptism episode, which signified purity and release through the purification of the waters of life. The waters of John’s Baptism released from the thraldom of the personality life. But the Baptism to which Christ was subjected through the power of His Own life, and to which we are also subjected through the life of Christ within us, was the Baptism of fire and of suffering, which finds its climax of pain upon the Cross. That climax of suffering, for the man who could endure unto the end, was his entrance to “paradise”—a name connoting bliss. Three words are used to express this power to enjoy—happiness, joy and bliss. Happiness has a purely physical connotation, and concerns our physical life and its relationships; joy is of the nature of the soul and reflects itself in happiness. But bliss, which is of the nature of God Himself, is an expression of divinity and of the spirit. Happiness might be regarded as the reward of the new birth, for it has a physical significance, and we are sure that Christ knew happiness, even though He was a “man of sorrows”; joy, being more especially of the soul, reaches its consummation at the Transfiguration. Though Christ was “acquainted with sorrow,” He knew joy in its essence, for the “joy of the Lord is our strength,” and it is the soul, the Christ in every human being, which is strength and joy and love. He knew also bliss, for at the Crucifixion the bliss which is the reward of the soul’s triumph was His.

Trong di ngôn thứ hai từ Thập tự giá, chúng ta nhận thức được giai đoạn của lễ Rửa tội, nó có nghĩa là sự thanh khiết và khai phóng qua sự thanh tẩy nhờ nước của sự sống. Nước phép Rửa tội của John giúp giải thoát khỏi vòng nô lệ của đời sống phàm nhân. Thế nhưng, sự Rửa tội mà Đức Christ nhận được là qua quyền năng của sự sống nơi chính Ngài. Chúng ta cũng nhận được nó qua sự sống Christ bên trong chúng ta. Đó là phép Rửa tội bằng lửa và qua đau khổ, lên đến tột đỉnh thống khổ trên Thập tự giá. Đối với người có thể chịu đựng đến cùng, thì tột đỉnh của nỗi đau khổ ấy là bước vào “cõi thiên đàng” – một tên gọi có hàm nghĩa là chân phúc. Có ba từ được dùng để chỉ năng lực vui sống này – đó là hạnh phúc, hoan hỉ, và chân phúc. Hạnh phúc có hàm ý hoàn toàn thuộc về hồng trần, và liên quan đến cuộc sống của chúng ta ở cõi trần và những mối liên giao trong đó. Hoan hỉ là bản tính của linh hồn và tự phản ánh trong hạnh phúc. Nhưng chân phúc, vốn là bản tính của Thượng Đế, là sự biểu lộ của thiên tính và của sự sống tinh thần.  Có thể xem hạnh phúc là phần thưởng của việc sinh ra lần thứ hai, vì nó có ý nghĩa hồng trần. Cho nên chắc hẳn là Đức Christ đã hiểu được hạnh phúc, cho dù Ngài là “con người đau khổ.”  Đặc biệt hơn nữa, niềm hoan hỉ là thuộc về linh hồn, lên đến mức mỹ mãn vào thời điểm Biến dung.  Dù Đức Christ vốn “quen với nỗi đau khổ,” Ngài vẫn biết được niềm hoan hỉ trong tinh túy, qua câu nói “sự hoan hỉ của Thiên Chúa là sức mạnh của chúng ta.”  Vì vậy, chính linh hồn, sự sống Christ trong mỗi người, là sức mạnh, là nguồn vui và tình thương.  Ngài cũng biết được chân phúc, vì vào thời gian Thập giá hình Ngài có chân phúc là phần thưởng cho linh hồn đã chiến thắng vẻ vang.

Thus in these two Words of Power “Father, forgive them for they know not what they do,” and “To day thou shalt be with me in paradise,” we have the significances of the first two initiations summarised for us.

Thế là hai Quyền lực từ này “Lạy Cha xin tha thứ cho họ vì họ chẳng hiểu biết việc họ làm,”  và  “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng,”  nói lên ý nghĩa tóm lược của hai cuộc điểm đạo đầu tiên.

[218]

(218)

Now we come to the extraordinary and much debated episode between Christ and His mother, summed up in the words: “Woman, behold thy son,” and followed by the words spoken to the beloved apostle: “Behold thy mother.” What did these words mean? Below Christ stood the two people who meant the most to Him, and from the agony of the Cross He spoke to them a special message, relating them to each other. Our consideration of the previous initiations may make the meaning clear. John typifies the personality which is reaching perfection and whose nature is becoming irradiated by divine love, the major characteristic of the second Person of the divine Triplicity, the soul, the son of God, whose nature is love. As we have seen, Mary represents the third Person of the Trinity, the material aspect of nature which cherishes and nurtures the son and gives birth to him in Bethlehem. In these words Christ, utilising the symbolism of these two persons, relates them to each other, and practically says: Son, recognise who is to give thee birth at Bethlehem, the one who shelters and guards the Christ life. To His mother, He says: Recognise that in the developed personality there is latent the Christ child. Matter, or the virgin Mary, is glorified through her son. Therefore the words of Christ have a definite reference to the third initiation, that of the Transfiguration.

 Giờ đây chúng ta bàn đến thời khắc đặc biệt giữa Đức Christ và mẹ Ngài, vốn gây nhiều tranh luận, được tóm tắt bằng những lời sau đây:  “Thưa Bà, đây là con Bà,”  và sau đó là lời Ngài nói với người tông đồ thân yêu:  “Đây là mẹ anh.”  Những lời này có ý nghĩa như thế nào?  Đứng bên dưới Đức Christ là hai người mà Ngài yêu thương nhất.  Từ nỗi đau khổ trên Thập tự giá, Ngài nói với họ những lời đặc biệt, nối kết họ với nhau.  Việc nghiên cứu các cuộc điểm đạo trước giúp chúng ta hiểu rõ những lời này. John tiêu biểu cho phàm nhân đã đến mức hoàn thiện, với bản chất chói rạng nguồn bác ái thiêng liêng. Đó là đặc trưng chính yếu của Ngôi hai trong Ba Ngôi thiêng liêng, tức là linh hồn, người con của Thượng Đế, với bản tính bác ái. Như chúng ta đã thấy, Mary tiêu biểu cho Ngôi ba trong Ba Ngôi, là phương diện vật chất bảo dưỡng, nuôi dưỡng và sinh ra người con tại Bethlehem. Bằng những lời vừa kể, Đức Christ dùng ý nghĩa biểu tượng của hai người này để nối kết họ với nhau. Thực sự Ngài nói: Này Người con, hãy nhìn nhận người sinh ra anh tại Bethlehem, người bảo bọc và bảo dưỡng sự sống Christ. Với mẹ, Ngài nói: Xin hãy nhận thức rằng trong phàm nhân đã phát triển này có ẩn tàng trẻ thơ Christ. Vật chất, hay là Đức Mẹ đồng trinh, được tôn vinh qua con của bà. Thế nên, lời của Đức Christ rõ ràng là chỉ về cuộc điểm đạo thứ ba, tức là cuộc điểm đạo Biến dung.

Thus in His first three Words from the Cross He refers to the first three initiations, and recalls to our minds the synthesis revealed in Himself and the stages which we must cover if we are to follow in His steps. It is possible also that the thought was in the consciousness of the crucified Saviour that matter itself, being divine, was capable of infinite suffering; and in these words there was wrung from Him the recognition that though God suffers in the Person of His Son, He also suffers with similar acute agony in the person of that Son’s mother, the material form which has given Him birth. Christ stands midway between the two—the mother and the Father. Therein is His problem, and therein is [219] found the problem of every human being. Christ draws the two together—the matter aspect and the spirit aspect, and the union of these two produces the son. This is humanity’s problem and humanity’s opportunity.

Với ba di ngôn đầu tiên từ Thập tự giá, Ngài đề cập đến ba cuộc điểm đạo đầu tiên. Từ đó, chúng ta nhớ lại sự tổng hợp mà Ngài đã biểu lộ và những giai đoạn mà chúng ta phải đi qua, nếu chúng ta muốn đi theo bước chân Ngài. Cũng có thể trong tâm của Đấng cứu thế đang chịu khổ hình thập tự có ý nghĩ rằng chính vật chất, dù là thiêng liêng, vẫn khả dĩ chịu đau khổ vô hạn. Những lời này nói lên nhận thức của Ngài rằng dù Thượng Đế chịu đau khổ trong Cá nhân của Con Ngài, Ngài cũng chịu mức đau khổ tương tự trong người mẹ của Con Ngài, tức là hình thể vật chất đã sinh ra người Con. Đức Christ đứng giữa hai ngôi này – đức mẹ và Đấng Từ Phụ. Đó là vấn đề của Ngài, và đó cũng là (219) vấn đề của mọi con người. Đức Christ nối kết hai ngôi này với nhau – phương diện vật chất và phương diện tinh thần, và cả hai kết hợp tạo nên người con. Đây là vấn đề khó khăn của nhân loại, mà cũng là cơ hội cho nhân loại.

The fourth Word from the Cross admits us into one of the most intimate moments of Christ’s life—a moment that has a definite relation to the kingdom, just as had the three previous Words. One always hesitates to intrude upon this episode in His life, because it is one of the deepest and most secret and perhaps most sacred phases of His life on earth. We read that there was “darkness on the face of the earth” for three hours. This is a most significant interlude. From the Cross, alone and in the dark, He symbolised all that was embodied in this tragic and agonised Word. The number three is, of course, one of the most important and sacred numbers. It stands for divinity, and also for perfected humanity. Christ, the perfect Man, hung upon the Cross for “three hours,” and in that time each of the three aspects of His nature was carried to the highest point of its capacity for realisation and for consequent suffering. At the end, this triple personality gave vent to the cry, “My God, my God, why hast thou forsaken me?”

Di ngôn thứ tư từ Thập tự giá đưa chúng ta vào những giờ phút riêng tư nhất của Đức Christ – thời khắc có liên quan rõ rệt đến Thiên giới, cũng như ba Di ngôn trước đó. Người ta luôn luôn ngần ngại, không dám xâm phạm vào thời khoảng này của cuộc đời Ngài, vì đó là một trong những giai đoạn thâm sâu nhất, bí ẩn nhất và có lẽ là linh thánh nhất trong cuộc đời Ngài ở thế gian. Kinh sách có ghi rằng “mặt đất tối tăm” trong ba giờ.  Đây là thời gian trầm lắng có ý nghĩa nhất. Từ trên Thập tự giá, cô đơn trong bóng tối, Ngài tượng trưng cho tất cả những gì thể hiện trong lời Di ngôn bi thương và thống khổ này. Dĩ nhiên, số ba là một trong những con số linh thánh và quan trọng nhất. Nó tiêu biểu cho thiên tính, và cũng tiểu biểu cho nhân loại đã hoàn thiện. Đức Christ, Con người hoàn thiện, bị treo trên Thập tự giá trong “ba giờ,” và trong thời gian đó mỗi một trong ba phương diện phàm tính của Ngài đều được vận dụng với năng lực tối đa để nhận thức, với hậu quả đau khổ. Cuối cùng, phàm nhân tam phân của Ngài phải kêu lên “Lạy Thiên Chúa! lạy Thiên Chúa của con! sao Ngài bỏ rơi con?”

Christ had passed through all the climaxing episodes of adjustment. The Transfiguration experience was only just over. Let us not forget that fact. In that experience God had been near, and the transfigured Christ had seemed in His initiation to link God and man. He had just uttered the Word which had testified to the relation of the body nature, the Mary aspect, and the personality, in the person of St. John—the symbol of a personality carried to a very high state of perfection and realisation. Then for three long hours He wrestled in the dark with the problem of the relation of God and the soul. Spirit and soul had to be fused and blended to one great unity—just as He had already fused and blended the soul and the body, and had testified to that consummation in the Transfiguration. Suddenly He discovered [220]that all the achievement of the past, all that He had done, was but the prelude to another atonement which He had to make as a human being; and there on the Cross, in the full blaze of publicity, He had to renounce that to which He had hitherto held, His soul, and realise for a brief instant that in this renunciation everything was at stake. Even the consciousness that He was the Son of God, the soul incarnate in the flesh (for which He had fought and sacrificed), had to disappear, and He be left bereft of all contacts. All sense of feeling and all possible reactions failed to fill the sensed void. He seemed deserted, not only by humanity, but by God. That upon which He had relied, the divinity of which He had felt assured, was found to be related to feeling. That feeling He must also transcend. All had therefore to be relinquished.

Đức Christ đã trải qua tất cả những giai đoạn điều chỉnh đến mức rất cao. Kinh nghiệm Biến dung chỉ vừa mới trôi qua. Chúng ta đừng quên điều đó. Trong kinh nghiệm ấy, Thượng Đế đã trở nên gần gũi, và trong khi Ngài được điểm đạo, Đức Christ đã biến dung dường như liên kết Thượng Đế và con người. Ngài vừa nói lên lời Di ngôn chứng tỏ mối liên hệ của bản chất thân xác, tức là phương diện Mary, và phàm nhân, trong cá nhân Thánh John – là biểu tượng của phàm nhân đã đạt trạng thái hoàn thiện và nhận thức rất cao. Rồi qua ba giờ dài lê thê trong bóng tối Ngài cố gắng hết sức để giải quyết vấn đề mối liên giao của Thượng Đế và linh hồn. Tinh thần và linh hồn phải hòa hợp và phối hợp thành một đơn vị cao cả duy nhất – cũng giống như Ngài đã hòa hợp và phối hợp linh hồn và thân xác, và đã chứng tỏ điều đó trong sự Biến dung. Bỗng nhiên, Ngài thấy (220) rõ rằng tất cả những thành tựu trong quá khứ, tất cả những gì Ngài đã thực hiện, đều chỉ là mở đầu cho một sự hợp nhất khác mà Ngài cần phải thực hiện với tư cách một con người. Và ở đó, trên Thập tự giá, hoàn toàn trước mắt công chúng, Ngài phải từ bỏ điều mà từ trước đến giờ Ngài vẫn nắm giữ, đó là linh hồn Ngài. Trong phút giây ngắn ngủi Ngài hiểu rằng việc từ bỏ này khiến mọi sự lâm nguy. Ngay cả ý thức rằng Ngài là Con của Thượng Đế, là linh hồn nhập thể (vì đó mà Ngài đã chiến đấu và hy sinh), cũng đã phải tan biến, và Ngài hoàn toàn trơ trọi, không còn bất cứ sự giao tiếp nào cả. Mọi cảm nhận xúc cảm và mọi phản ứng khả dĩ có đều không thể lấp đầy sự trống trải của tâm hồn. Dường như không chỉ nhân loại mà Thượng Đế cũng bỏ rơi Ngài. Điều mà Ngài đã dựa vào, là thiên tính mà Ngài đã tin tưởng, nay Ngài thấy có liên quan đến xúc cảm. Xúc cảm ấy Ngài cũng phải vượt lên. Vì thế mà tất cả đều phải bị từ bỏ.

It was through this experience that Christ blazed the trail to the very heart of God Himself. Only when the soul has learnt to stand alone, assured of divinity, and yet with no outer recognition of that divinity, can the very centre of spiritual life be recognised as stable and eternal. It was in this experience that Christ fitted Himself for the Resurrection initiation, and so proved to Himself, and to us, that God existed, and that the immortality of divinity is an established and unalterable fact. This experience of loneliness, of being bereft of all that protects, all that has hitherto been regarded as essential to one’s very being, is the hallmark of achievement. Disciples are apt to forget this, and one wonders for a brief moment, as one listens to Christ thus veiling His agony, whether He was not again “in all points tempted like as we are,” and whether at this moment He did not descend into the deepest recesses of the valley and feel that utter aloneness which is the reward of those who mount the Cross on Golgotha.

Chính qua kinh nghiệm này mà Đức Christ đã soi sáng con đường đưa đến tâm của Thượng Đế. Chỉ khi linh hồn đã biết cách tự đứng vững, tin chắc vào thiên tính, nhưng không có sự nhìn nhận hời hợt nào bên ngoài về thiên tính ấy, bấy giờ chính tâm điểm của sự sống tinh thần bên trong mới được công nhận là ổn định và vĩnh cửu. Với kinh nghiệm này, Đức Christ trở nên thích hợp cho cuộc điểm đạo Phục sinh. Do đó, Ngài chứng tỏ cho chính mình, và cho chúng ta, rằng Thượng Đế vốn hiện hữu, và sự bất tử của thiên tính là điều thực tế đã xác lập và không hề thay đổi. Trải nghiệm về nỗi cô đơn này, cảm thấy mình bị mất tất cả sức mạnh bảo vệ, và mất tất cả những gì từ trước đến nay được xem như thiết yếu cho đời sống, đó là dấu hiệu của sự thành tựu. Những người đệ tử thường hay quên điều này. Và khi nghe nói rằng Đức Christ che giấu sự thương khó của Ngài, thì người ta thường có những băn khoăn thoáng qua rằng liệu Ngài cũng “bị cám dỗ trong mọi phương diện như chúng ta,” hay không, và trong giây phút ấy liệu Ngài có đi xuống những hố thẳm hang sâu của thung lũng trần gian và cảm thấy hoàn toàn cô đơn hay chăng, vì đó vốn là phần thưởng cho những ai bước lên Thập tự giá trên đồi Golgotha.

Although each son of God at different stages upon his way of initiation prepares for this final loneliness by phases of utter rejection, when the final crisis comes he must experience [221] moments of loneliness such as he could not previously conceive. He follows in the footsteps of his Master, being crucified before men and deserted both by his fellowmen and by the comforting presence of the divine self upon which he has learnt to rely. Yet because Christ entered thus into the place of outer darkness, and felt entirely deserted of all that had hitherto meant so much to Him, both humanly and from the angle of divinity, He has enabled us to gauge the value of the experience, and has shown us that only through this place of outer darkness, which the mystics have justifiably called “the dark night of the soul,” can we truly enter into the blessed companionship of the kingdom. Many books have been written about this experience, but it is rare—far rarer than the literature of the mystics would have us believe. It will become more frequent, as more and more men pass through the gates of suffering and of death into the kingdom. Christ hung pendent between heaven and earth, and although He was surrounded by crowds, and although at His feet stood those whom He loved, He was utterly alone. It is the loneliness whilst accompanied, the utter sense of being forsaken whilst surrounded by those who seek to understand and help, which constitutes the darkness. The light of the Transfiguration is suddenly obliterated; and because of the intensity of that light, the night appears more dark. But it is in the dark that we know God.

Dù mỗi người con của Thượng Đế ở những giai đoạn khác nhau trên con đường điểm đạo đều chuẩn bị cho cảm thức cô đơn cuối cùng này bằng những giai đoạn hoàn toàn từ bỏ, nhưng đến cuộc khủng hoảng cuối cùng y vẫn phải nếm (221) trải những phút giây đơn độc mà trước đó y chưa hề biết. Y đi theo bước Chân sư của mình, chịu khổ hình thập tự trước mắt mọi người, bị bỏ rơi bởi cả đồng bào của mình, và sự hiện diện đầy an ủi của chân ngã thiêng liêng mà y đã quen nương tựa vào đó. Như thế, Đức Christ đã đi vào nơi tối tăm ở ngoại giới, và cảm thấy hoàn toàn bị mất đi tất cả những gì mà Ngài đã hết lòng yêu mến, cả về con người cũng như thiên tính. Nhờ đó, chúng ta có thể lượng giá cái kinh nghiệm nói trên, và thấy rằng chỉ qua nơi chốn tối tăm này ở ngoại cảnh, mà các nhà thần bí đã gọi một cách đúng đắn là “đêm tối của linh hồn,”  chúng ta mới có được tình bằng hữu đầy ân phước của Thiên giới. Nhiều sách vở đã viết về kinh nghiệm này, nhưng nó vẫn còn hiếm – rất hiếm hơn mức mà sách vở của các nhà thần bí muốn chúng ta tin. Nó sẽ thường xảy ra hơn khi ngày càng có thêm nhiều người đi ngang qua các cánh cửa đau khổ, tử vong đi vào Thiên giới. Đức Christ bị treo lơ lửng giữa trời và đất. Dù có đám đông ở chung quanh, và dù dưới chân Ngài đang đứng những người mà Ngài yêu thương, Ngài vẫn hoàn toàn đơn độc. Chính nỗi niềm cô đơn trong khi có nhiều người ở kế bên, chính cảm nhận hoàn toàn bị bỏ rơi trong khi ở chung quanh là những người muốn cảm thông và giúp đỡ, đã tạo nên bóng tối. Ánh sáng của sự Biến dung bỗng nhiên lịm tắt. Chính vì sự chói rạng của ánh sáng ấy, mà bóng đêm có vẻ đen tối hơn. Nhưng chính trong bóng tối mà chúng ta thấy được Thượng Đế.

Four Words of Power had now been uttered by the Christ. He had spoken the Word for the plane of everyday life, the Word of forgiveness, and in it He indicated the principle upon which God works in relation to the evil done by men. Where there is ignorance and no defiance or wrong intent, then forgiveness is assured, for sin consists of definite action in the face of the warning voice of conscience. He had spoken the Word which brought peace to the dying thief, and had told him that he was assured, not only of forgiveness, but of peace and happiness. He had spoken the Word which brought together the two aspects which were being symbolically crucified [222] upon the Cross—matter and soul, the matter of the form and the perfected lower nature. These are the three Words of the physical, the emotional, and the mental planes, whereon man habitually lives. The sacrifice of the entire lower nature had been completed, and there was silence and darkness for three hours. Then was uttered that stupendous Word which indicated that Christ had reached the stage of the final sacrifice, and that even the consciousness of divinity, the consciousness of the soul itself, with its strength and power, its light and understanding, had also to be laid upon the altar. He had to undergo the experience of an utter renunciation of all that had constituted His very being. This brought the cry of protest and of questioning: “My God, my God! Why hast Thou forsaken me?”

Cho đến đây, Đức Christ đã thốt ra bốn Quyền lực Từ. Ngài nói lên Di ngôn cho cảnh giới của cuộc sống đời thường, về sự tha thứ hay xá tội. Trong đó Ngài nêu rõ nguyên tắc mà Thượng Đế áp dụng đối với điều ác mà con người phạm phải. Khi có sự vô minh nhưng không có thái độ bất tuân hành hay ý định sai quấy, thì đương sự được tha thứ, vì tội lỗi bao gồm hành động dứt khoát bất chấp tiếng nói cảnh cáo của lương tâm. Ngài nói lên những Lời mang lại sự bình an cho tên trộm đang chờ chết, và cho y biết rằng không những y được tha thứ, mà còn được bình an và hạnh phúc. Ngài đã nói lên những Lời nối kết hai phương diện mà theo ý nghĩa biểu tượng đang chịu khổ (222) hình trên Thập tự giá – đó là vật chất và linh hồn, vật chất của hình thể và phàm tính đã hoàn thiện. Đây là ba Di ngôn của cõi trần, cõi tình cảm, và cõi trí, trên đó con người quen sinh sống. Sự hy sinh trọn cả phàm tính đã hoàn tất, rồi đến sự im lặng và tối tăm trong ba giờ. Sau đó, Đức Christ thốt ra lời Di ngôn khẩn thiết cho thấy Ngài đã đến mức hy sinh cuối cùng. Bấy giờ, ngay cả ý thức về thiên tính, ý thức về chính linh hồn, với sức mạnh và quyền năng, với ánh sáng và sự thông hiểu của nó, cũng phải được đặt lên bàn thờ hy sinh. Ngài phải trải qua kinh nghiệm hoàn toàn từ bỏ tất cả những gì hợp thành chính sự sống của Ngài. Vì thế, phàm nhân kêu la phản đối và nghi vấn: “Lạy Thiên Chúa! lạy Thiên Chúa của con! sao Ngài bỏ rơi con?

Then followed three Words of a different quality altogether. In the words, “I thirst,” He expressed the motivating power of every Saviour. This was misinterpreted by the onlookers, who have given it most naturally a physical connotation; but it surely had a deeper meaning, and must have reference to that divine thirst which sweeps through the consciousness of every son of God who has achieved divinity, and which indicates his willingness to undertake the task of Saviour. It is characteristic of all who have attained that they cannot rest satisfied with their achievement which brought them liberation and freedom, but immediately reorient themselves to the world of men and stay with humanity, working for the salvation of human beings until all the sons of God shall have found their way back to the Father’s home. This thirst for the souls of men forced Christ to open the door into the kingdom, and to hold it open Himself, so that it might be His hand and His aid which should lift us over the threshold. This is the redemption, and in this redemption we all share, not from the selfish angle of our individual salvation, but from the consciousness that, as we redeem are we redeemed, as we save are we ourselves salvaged, and that as we help others to achieve, we too are [223] admitted as citizens into the kingdom. But this is the way of Crucifixion. Only when we can utter the five Words of Power do we really understand the meaning of God and His love. The way of the Saviour becomes then our way. God’s life and purpose stand revealed.

Rồi tiếp theo là ba Di ngôn có tính chất hoàn toàn khác nhau.  Với những lời “Ta khát,” Ngài nói lên nguyên động lực của mọi vị Cứu thế. Động lực này bị những kẻ bàng quan diễn giải sai; họ xem nó đương nhiên có hàm ý thuộc về thân xác. Nhưng chắc chắn là nó có ý nghĩa sâu xa hơn, hẳn phải chỉ về nỗi khao khát thiêng liêng, ray rứt trong tâm thức của mọi người con Thượng Đế khi đã đạt được thiên tính. Nó cho thấy họ sẵn lòng đảm nhận nhiệm vụ cứu giúp thế gian. Nó là đặc trưng của tất cả những ai đã thành đạt, khiến họ không chỉ hài lòng với sự thành tựu của mình, đưa đến tự do và giải thoát. Họ lập tức hướng về thế giới loại người, và ở lại với nhân loại. Họ cố gắng trợ giúp sự cứu rỗi con người, cho đến khi tất cả những người con Thượng Đế đã tìm thấy con đường trở về nhà của Đấng Cha Lành. Sự khao khát này cho linh hồn con người đã khiến Đức Christ mở ra cánh cửa đi vào Thiên giới, và giữ nó rộng mở. Nhờ đó Ngài có thể đưa tay trợ giúp và nâng đỡ chúng ta bước qua cửa Đạo. Đây là cuộc cứu rỗi mà tất cả chúng ta đều góp phần. Nhưng không phải góp phần từ góc độ vị kỷ nhằm cứu rỗi cá nhân mình, mà do ý thức rằng khi cứu rỗi người khác thì chính chúng ta cũng được cứu rỗi, và khi giúp họ thành đạt, thì chúng ta cũng (223) được thu nhận làm công dân Thiên giới. Nhưng đây là con đường của Thập giá hình. Chỉ khi chúng ta có thể phát ra năm Quyền lực Từ nói trên, bấy giờ chúng ta mới hiểu được ý định của Thượng Đế và nguồn bác ái của Ngài. Bấy giờ đường chúng ta đi trở thành con đường cứu giúp thế gian. Chúng ta được hiển lộ cho biết sự sống của Thượng Đế và Thiên ý.

It is this thirst which we share with the Saviour, and the world need (of which our own is a part, though relatively incidental) that unite us with Him. It is the “fellowship of His sufferings” to which He calls us, and the demand which we hear as He hears it. This aspect of the Cross and its lesson has been summed up in the following words, which warrant our careful consideration, and our consequent consecration to the service of the Cross, which is the service of humanity.

Đây là nỗi khao khát mà chúng ta có chung với Đấng cứu thế, và nhu cầu của thế gian (trong đó có một phần của chúng ta, dù tương đối không quan trọng) nối kết chúng ta với Ngài. Ngài kêu gọi chúng ta hãy “đồng cam cộng khổ với Ngài” và hãy nghe những lời kêu cầu mà Ngài đang nghe. Khía cạnh này của Thập tự giá và bài học của nó được tóm lược bằng những lời sau đây, rất đáng cho chúng ta xem xét kỹ. Từ đó, chúng ta sẽ hiến mình cho con đường phụng sự của Thập tự giá, tức là phụng sự nhân loại vậy.

“When I… turned from that world-appealing sight, Christ crucified for us, to look upon life’s most perplexed and sorrowful contradictions, I was not met as in intercourse with my fellow-men by the cold platitudes that fall so lightly from the lips of those whose hearts have never known one real pang, nor whose lives one crushing blow. I was not told that all things were ordered for the best, nor assured that the overwhelming disparities of life were but apparent, but I was met from the eyes and brow of Him who was indeed acquainted with grief, by a look of solemn recognition, such as may pass between friends who have endured between them some strange and secret sorrow, and are through it united in a bond that cannot be broken.” [ccxxix] 51

“Khi, từ quang cảnh khiến cả thế giới xót thương, của Đức Christ chịu thập giá hình cho chúng ta, tôi . . . quay nhìn về những mâu thuẫn hết sức phức tạp và đáng buồn của đời sống, tôi không được chào đón khi giao tiếp với đồng bào tôi, bởi những điều vô vị lạnh lùng, buông ra quá hờ hửng từ đôi môi của những người mà con tim chưa bao giờ biết đến nỗi đau thực sự, và cuộc sống chưa hề bị nghiền nát qua va chạm. Họ cũng không nói với tôi rằng mọi sự đều được sắp đặt để đạt đến toàn hảo, hay tin rằng những khác biệt nhan nhãn khắp nơi chẳng qua cũng chỉ ở bề ngoài. Thế nhưng, tôi lại được chào đón từ ánh mắt của Đấng đã thực sự quen với đau khổ, bởi cái nhìn công nhận một cách trang trọng, như những gì có thể trao đổi giữa những người bạn đã cùng chung chịu những nỗi buồn khổ sâu kín, lạ lùng, và qua đó mà có sự gắn bó keo sơn không thể nào bẻ gãy.”[51]

Then there burst upon Christ’s consciousness the wonder of accomplishment. He had succeeded, so that, with full realisation of the significance of the statement, He could say, “It is finished.” He had done what He came into incarnation to do. The gate into the kingdom stood open. The boundary between the world and the kingdom was clearly defined. He had given us an example of service unparalleled in history. He had shown us the way that we should go. He had demonstrated to us the nature of perfection. There was [224] no more that He could then do, and so we hear the triumphant cry, “It is finished.”

Rồi trong tâm thức của Đức Christ bừng lên sự kỳ diệu của công cuộc đã hoàn thành viên mãn. Ngài đã thành công. Do đó, với nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của câu nói này, Ngài thốt lên “Mọi sự đã hoàn tất.”  Ngài đã làm xong những gì mà Ngài đã giáng trần để thực hiện. Cánh cửa đi vào Thiên giới đã rộng mở. Ranh giới giữa thế gian và Thiên giới đã được xác định rõ. Ngài nêu cho chúng ta tấm gương phụng sự vô song trong lịch sử. Ngài chỉ con đường mà chúng ta nên đi. Ngài biểu dương cho chúng ta thấy tính chất của sự hoàn thiện. Bấy giờ không có (224) điều gì thêm mà Ngài có thể làm. Nên chúng ta nghe Ngài kêu lên một cách vẻ vang “Mọi sự đã hoàn tất.

Only one more Word of Power came forth from the darkness which shrouded the dying Christ. The moment of His death was prefaced by the words, “Father, into Thy hands I commend my spirit.” His first word and His last begin with the appeal: “Father”—for ever we are the children of God, and “If children, then heirs; heirs of God, and joint heirs with Christ; if so be that we suffer with Him, that we may be also glorified together;” [ccxxx]52 joint heirs of glory, but also joint heirs in the suffering which must be ours if the world is to be saved and humanity as a whole is to pass into the kingdom. The kingdom is in existence. Through the work of Christ and His living Presence in all of us there exists today, subjective as yet, but awaiting immediate tangible expression….

Chỉ còn thêm một Quyền lực Từ nữa phát ra từ bóng tối khâm liệm Đức Christ đang hấp hối. Giây phút Ngài từ trần được mở đầu bằng những lời “Lạy Cha! con phó thác linh hồn con trong tay Cha.”  Di ngôn đầu tiên và cuối cùng của Ngài đều bắt đầu với lời kêu gọi: “Lạy Cha” – vì bao giờ chúng ta cũng là con cái của Thượng Đế. Và “Nếu là con, thì tất là người thừa kế, những người thừa kế của Thượng Đế, và cũng là đồng thừa kế với Đức Christ. Nếu là thế, thì tất chúng ta cùng chia đau sớt khổ với Ngài, và do đó mà cùng được vinh hiển với Ngài.”[52]  Là đồng thừa kế nguồn vinh quang, chúng ta cũng phải là người đồng thừa kế những nỗi đau thương, thống khổ, nếu chúng ta muốn cứu vớt thế gian, và nếu toàn nhân loại muốn bước vào Thiên giới. Thiên giới đang hiện hữu. Qua công việc của Đức Christ và sự hiện diện hằng sống của Ngài trong tất cả chúng ta, ngày nay hiện có, dù hãy còn ở cấp nội tại, nhưng đang chờ biểu lộ ngay ở cấp hữu hình . . .

“One body, and one Spirit, even as ye are called in one hope of your calling; One Lord, one faith, one baptism, One God and Father of all, who is above all, and through all, and in you all.” [ccxxxi] 53

“Một cơ thể, và Tinh thần duy nhất, ngay cả các bạn được Ơn Trên kêu gọi trong nguồn hy vọng duy nhất của ơn kêu gọi ấy; Một vị Chúa duy nhất, đức tin duy nhất, phép báp-têm duy nhất, Đấng Thượng Đế duy nhất và là Đấng Cha Lành của cả chúng sinh; Ngài là Đấng Chí Tôn, hoạt động xuyên qua cả chúng sinh, và hằng hữu trong tất cả các bạn.”[53]

Furthermore, in words later used by Christ, the psalmist says, “Into thine hand I commit my spirit, for thou hast redeemed me.” [ccxxxii]54 The implication here is clear. It is the spirit of life in Christ and in us which makes us sons of God, and it is that sonship (with its quality of divinity) which is the guarantee of our final accomplishment and entrance into the kingdom of spirit. The sign given is expressed in the words: “Behold, the veil of the temple was rent in twain from the top to the bottom.” [ccxxxiii]55 Access to God was established, and the inner spiritual forces could pass out without hindrance into manifestation. This was an act of God, a stupendous recognition by the Father of what His [225] Son had done. Spirit and matter were now one. All separating barriers were abolished, and man and God could meet and hold intercourse.

Ngoài ra, theo những lời mà Đức Christ đã thốt ra trong giai đoạn sau, người biên soạn thánh ca cũng viết “Con phó thác linh hồn con trong tay Ngài, vì Ngài đã cứu rỗi con.”[54]  Hàm nghĩa ở đây rất rõ ràng. Chính tinh thần của sự sống trong Đức Christ và trong chúng ta khiến chúng ta trở thành những người con của Thượng Đế. Và cũng chính tư cách Thiên đế tử này (với phẩm chất của thiên tính) là bảo đảm cho chúng ta đạt sự hoàn thành viên mãn cuối cùng, và đi vào Thiên giới hay giới tinh thần. Dấu hiệu được cho thấy là: “Xem kìa, bức màn của đền thờ bị xé làm đôi từ trên xuống dưới.”[55]  Sự tiếp cận với Thượng Đế đã được thiết lập, và các mãnh lực tinh thần nội tại có thể biểu hiện ra ngoài không trở ngại. Đây là một hành động của Thượng Đế, sự công nhận kỳ diệu của Đấng Cha Lành về những gì (225) mà Con của Ngài đã thực hiện. Mọi hàng rào ngăn cách đã bị loại bỏ. Con người và Thượng Đế nay có thể gặp gỡ trong mối liên giao tốt đẹp.

In an ancient scripture of India we read these words, spoken thousands of years ago, yet capable of being applied in a most significant manner to this act of Christ, which linked Him up not only with ourselves and all past believers prior to His advent, but with the Cosmic Christ, so unmistakably speaking here:

Trong một quyển thánh kinh cổ xưa của Ấn Độ có ghi những lời sau, đã được nói lên cách đây hàng ngàn năm. Nhưng chúng vẫn có thể được áp dụng một cách hết sức có ý nghĩa cho hành động này của Đức Christ. Chúng liên kết Ngài không những với chúng ta và tất cả những tín đồ của thời quá khứ trước khi Ngài giáng lâm, mà còn với Đấng Christ vũ trụ, bằng những lời hoàn toàn đúng đắn sau đây:

“Brahma, the self-effulgent meditated. He considered… Come, let me sacrifice myself in living things and all living things in Myself… He thus acquired greatness, self-effulgence, lordship and mastery.”

“Brahma, Đấng tự tỏa sáng, bấy giờ trong cơn thiền định. Ngài cân nhắc . . . Này, ta hãy tự hy sinh ở trong cả chúng sinh, và cả chúng sinh ở trong Ta . . . Bằng cách đó, Ngài trở nên vĩ đại, tự phóng quang, đạt ngôi vị chúa tể và là chủ nhân của vạn vật.”

In concluding this chapter upon the Crucifixion, let us consider what really was the purpose of Christ’s sacrifice. Why did He die? We are told why most clearly in St. John’s Gospel, and yet very little emphasis has been laid upon the statement. Only today are we beginning to understand the meaning of what He did. Only today is the wonder of His sacrifice beginning to dawn upon the minds of those whose intuition is awakened. He came primarily to do two things, upon both of which we have already touched: first of all, He came to found, or to materialise upon the earth, the kingdom of God; secondly, to show us what the love of God signified and how it expressed itself in service and in the eternal sacrifice of divinity upon the cross of matter. Christ stood as a symbol and also as an example. He revealed to us God’s Mind, and showed us the pattern upon which we should mould our lives.

Để kết luận chương này về Thập giá hình, chúng ta hãy xét xem sự hy sinh của Đức Christ thực sự có mục đích gì. Vì sao Ngài chịu tử vong? Sách Phúc âm của Thánh John cho chúng ta biết rất rõ lý do. Nhưng người ta vẫn còn chưa chú trọng mấy vào lời phát biểu của ông. Chỉ đến ngày nay chúng ta mới bắt đầu hiểu được ý nghĩa của những gì Ngài đã thực hiện. Chỉ đến ngày nay, điều kỳ diệu trong sự hy sinh của Ngài mới bắt đầu sáng tỏ trong tâm trí của những người đang khai mở trực giác. Ngài đến chính yếu để làm hai điều, mà cả hai điều chúng ta đều đã bàn thảo. Trước hết, Ngài đến để thành lập, hay thể hiện Thiên giới ở thế gian. Thứ hai, Ngài cho chúng ta thấy tình bác ái của Thượng Đế có ý nghĩa gì, và bằng cách nào nó tự biểu lộ trong phụng sự, và trong sự mãi mãi hy sinh của thiên tính trên thập tự giá vật chất. Đức Christ là một biểu tượng và cũng là tấm gương sáng. Ngài cho chúng ta thấy Thiên Trí, và mô hình để dựa vào đó chúng ta nắn đúc cuộc đời mình.

The kingdom and the service! These are the keynotes which today have in them that rallying power which the believers of the world demand. Christ shared with us, as a human being, the path of world experience. He mounted the Cross and showed us in His sacrifice and example what we had to do. He shared with us the way of life, because there was nothing else for Him to do, as He was a human [226]being. But He threw upon this life experience the radiant light of divinity itself, telling us also to “let our light shine.” [ccxxxiv]56 He proclaimed Himself Man, and then told us that we were the children of God. He was with us then, and He is with us now, for He is in us all the time, although very often unrecognised and unapproached.

Thiên giới và phụng sự!  Đây là hai chủ âm ngày nay đang có năng lực tập hợp, rất cần cho các tín hữu trên thế giới. Là một con người, Đức Christ đã chia sẻ với chúng ta con đường kinh nghiệm trần gian. Ngài bước lên Thập tự giá, cho chúng ta thấy sự hy sinh và tấm gương mà chúng ta cần phải noi theo. Ngài chia sẻ với chúng ta con đường của đời sống, vì không có điều gì khác Ngài cần thực hiện, khi Ngài là một (226) con người. Nhưng Ngài chiếu rọi vào kinh nghiệm sống này với ánh sáng rạng ngời của chính thiên tính, và bảo chúng ta “hãy để cho ánh sáng của mình chói rạng.”[56]  Ngài tuyên bố rằng Ngài là một Con người, rồi nói với chúng ta rằng chúng ta là con của Thượng Đế. Ngày ấy Ngài sống với chúng ta, và ngày nay Ngài vẫn sống với chúng ta, vì Ngài luôn ở trong ta, dù rất thường khi không được chúng ta nhận biết và tiếp cận.

The outstanding lesson with which we are confronted is the fact that “… human nature as we know it can neither attain happiness without suffering, nor perfection without the sacrifice of itself.” [ccxxxv]57 For us the kingdom constitutes the vision, but for Christ it was a reality. The service of the kingdom is our duty and also our method of release from the thraldom of human experience. We must grasp this; we must realise that we shall find release only in the service of the kingdom. We have been held too long by the dogmas of the past, and there is today a natural revolt against the idea of individual salvation through the blood sacrifice of Christ. This latter is the outer and more obvious teaching—but it is the inner meaning which really concerns us, and this we can sense only when we ourselves come face to face with that which dwells within. As the outer forms lose their power it frequently happens that the true significance emerges. This we have each to prove for himself. Frequently fear prevents us from being truthful and from facing facts. It is essential that today we face the problem of the relation of Christ to the modern world, and dare to see the truth, without any theological bias. Our personal experience of Christ will not suffer in this process. No modern view and no theology can take Christ away from the soul which has once known Him. That is outside the range of possibility. But it is quite possible that we may find the ordinary orthodox theological interpretation at fault. It is quite possible that Christ is far more inclusive than we have been led to believe, and that the heart of God the Father is far kinder [227] than those who have sought to interpret it. We have preached a God of love and have spread a doctrine of hate. We have taught that Christ died to save the world and have endeavoured to show that only believers could be saved— though millions live and die without ever hearing of Christ. We live in a world of chaos, endeavouring to build a kingdom of God divorced from current daily life and the general economic situation, and at the same time postulate a distant heaven which we may some day attain. But Christ founded a kingdom on earth, wherein all God’s children would have equal opportunity of expressing themselves as sons of the Father. This, many Christians find impossible to accept, and some of the best minds of the age have repudiated the idea.

Bài học sâu sắc mà chúng ta cần phải thuộc là sự kiện thực tế rằng “. . . nhân tính như chúng ta biết, nó không thể đạt được hạnh phúc mà không đau khổ. Nó cũng không thể trở nên hoàn thiện mà không tự hy sinh.”[57]  Đối với chúng ta thì Thiên giới là một viễn ảnh, nhưng đối với Đức Christ thì đó là điều thực tế. Phụng sự Thiên giới là nhiệm vụ của chúng ta, và cũng là phương pháp để chúng ta thoát khỏi tình trạng nô lệ của kinh nghiệm đời người. Chúng ta phải hiểu rõ điều này. Chúng ta phải nhận thức rằng chúng ta sẽ chỉ được giải thoát khi phụng sự Thiên giới. Chúng ta đã bị cầm giữ quá lâu bởi giáo điều của quá khứ. Thế nên, ngày nay đương nhiên có sự chống đối cái ý tưởng cho rằng mỗi cá nhân được cứu rỗi là nhờ sự hy sinh máu huyết của Đức Christ. Ý tưởng này là phần giáo huấn dễ thấy ở bên ngoài – nhưng chúng ta chỉ thực sự quan tâm đến diệu nghĩa ở bên trong. Chúng ta chỉ có thể hiểu được nó khi tự đối diện với sự sống thiêng liêng ẩn ngự ở nội tâm. Khi các ngoại thể mất đi sức chi phối của chúng, thì thường chúng ta hiểu được thực nghĩa này. Mỗi người trong chúng ta đều phải tự mình chứng tỏ điều này. Thường thì nỗi sợ hãi khiến chúng ta không sống thành thực, và không dám đối diện với sự thực. Điều thiết yếu là ngày nay chúng ta cần đối diện với vấn đề mối liên giao của Đức Christ với thế giới hiện đại, và dám nhìn thẳng vào sự thực, mà không mang bất cứ thành kiến nào của thần học. Kinh nghiệm cá nhân của chúng ta về Đức Christ sẽ không bị ảnh hưởng trong tiến trình này. Với linh hồn đã một lần hiểu biết Ngài, thì không quan điểm nào hiện nay và không khoa thần học nào có thể khiến họ xa rời Ngài được. Đó là điều không thể. Nhưng lại hoàn toàn khả dĩ chúng ta có thể thấy rằng lối diễn giải thông thường của thần học chính thống là sai lầm. Hoàn toàn có thể là Đức Christ có tinh thần bao gồm rộng lớn hơn những gì mà người khác đã khiến chúng ta tin theo, và tâm của Thượng Đế, Đấng Cha Lành, thì rất mực nhân từ (227) hơn là sự nhân từ mà người ta tìm cách diễn giải. Chúng ta đã rao giảng về một vị Thượng Đế bác ái, nhưng cũng đã truyền bá giáo lý về hận thù. Chúng ta giảng dạy rằng Đức Christ đã chết để cứu rỗi thế gian, và cũng cố gắng cho thấy chỉ các tín hữu mới được cứu rỗi – dù rằng muôn triệu người đang sống và chết mà chưa bao giờ nghe nói về Đức Christ. Chúng ta đang sống trong một thế giới đầy xáo trộn, và cố gắng xây dựng một Thiên giới tách biệt với cuộc sống đời thường và tình trạng kinh tế chung hiện nay. Đồng thời ta cũng mặc nhiên nói đến một cõi thiên đàng xa xăm nào đó mà một ngày kia chúng ta có thể đạt. Thế nhưng, Đức Christ đã thành lập Thiên giới trên thế gian, mà trong đó tất cả con cái của Thượng Đế đều có cơ hội như nhau để nói rằng mình là con của Đấng Cha Lành. Nhiều người Thiên Chúa giáo thấy không thể chấp nhận điều này, và những người có trí tuệ giỏi giang nhất của thời đại hiện nay đã khước từ ý tưởng vừa kể.

Individual salvation is surely selfish in its interest and its origin. We must serve in order to be saved, and only can we serve intelligently if we believe in the divinity of all men and also in Christ’s outstanding service to the race. The kingdom is a kingdom of servers, for every saved soul must without compromise join the ranks of those who ceaselessly serve their fellowmen. Dr. Schweitzer, whose vision of the kingdom of God is so rare and real, points out this truth and its gradations of recognition in the following words:

Nguồn gốc và mối quan tâm đến sự cứu rỗi cá nhân chắc hẳn là vị kỷ. Chúng ta phải phụng sự để được cứu rỗi. Và chúng ta chỉ có thể phụng sự một cách thông minh nếu chúng ta tin vào thiên tính trong tất cả mọi người, và tin vào công tác phụng sự cao đẹp của Đức Christ cho nhân loại. Thiên giới là cõi giới của những người phụng sự. Vì thế, mọi linh hồn được cứu rỗi đều đương nhiên ở trong hàng ngũ những người không ngừng phụng sự đồng bào mình. Với tầm nhìn hiếm có và chân thực về Thiên giới, Ts. Schweitzer nêu rõ sự thực này trong những cấp độ nhận thức sau đây:

“The descending stages of service correspond to the ascending stages of rule.

“Những giai đoạn phụng sự càng xuống thấp thì mức độ ngự trị càng tăng cao.

1. Whosoever would become great among you, shall be your servant. Mark X.43.

1. Người nào muốn trở nên cao cả trong các bạn, thì phải là tôi tớ của các bạn.  Mark X.43.

2. Whosoever of you would be first, shall be bondservant of all (others). Mark X.44.

2. Người nào trong các bạn muốn ở vị trí hàng đầu, thì phải làm đầy tớ không công cho tất cả (những người khác).  Mark X.44.

3. Therefore the Son of Man expected the post of highest rule because he was not come to be served but to serve, in giving his life as ransom for many. Mark X.45.

3. Bởi vậy, Con Người sẽ ở ngôi vị cao trọng nhất vì người đến không để được phụng sự mà để phụng sự, trao tặng sự sống của người làm món tiền cứu chuộc nhiều người.  Mark X.45.

“The climax is a double one. The service of the Disciples extended only to their circle: the service of Jesus to an unlimited number, namely, to all such as were to benefit by his suffering and death. In the case of the Disciples it was merely a question of [228] unselfish subjection: in the case of Jesus it meant the bitter suffering of death. Both count as serving, inasmuch as they establish a claim to a position of rule in the Kingdom.” [ccxxxvi]58

“Cao điểm này có hai phần. Việc phụng sự của các Môn đồ chỉ dành cho đoàn nhóm của họ. Trong khi đó công cuộc phụng sự của Jesus là cho vô số người, tức là những người hưởng được lợi ích nhờ nỗi đau khổ và sự chết của Ngài. Trong trường hợp các Môn đồ, đó chỉ là vấn đề (228) tuân phục bất vị kỷ. Nhưng trong trường hợp của Jesus đó là nỗi thống khổ đắng cay của sự chết. Cả hai đều có giá trị là phụng sự, vì đều khẳng định một địa vị quyền lực trong Thiên giới.”[58]

Love is the beginning, and love the end, and in love we serve and work. The long journey ends thus, in the glory of the renunciation of personal desire, and in the dedication to living service.

Tình thương là khởi đầu, và tình thương là chung cuộc, và trong tình thương chúng ta phụng sự và làm việc. Cuộc hành trình lâu dài kết thúc như thế, trong nguồn vinh quang của sự từ bỏ dục vọng cá nhân,và trong hiến dâng cho công tác phụng sự sinh động.

[229]

(229)

CHAPTER SIX – The Fifth Initiation… The Resurrection and Ascension—CHƯƠNG SÁU – Lần Điểm Đạo Thứ Năm… Sự Phục Sinh và Thăng Thiên

KEY THOUGHT

TƯ TƯỞNG GỐC

“Apart from Christ we know neither what our life nor our death is; we do not know what God is nor what we ourselves are.” —

“Nếu không có Đức Christ, chúng ta sẽ không hiểu được sự sống và sự chết của mình có ý nghĩa gì; chúng ta sẽ không hiểu được Thượng Đế tính, và bản tính của chính mình.”

Pascal: Pensées

     Pascal: Tư tưởng

“There is a Soul above the soul of each,

“Trên nhân hồn của mỗi người có Chân hồn ngự trị,

A mightier soul which yet to each belongs!

Là linh hồn uy mãnh nhưng vẫn thuộc về ta!

There is a sound made of all human speech,

Có âm thanh bao gồm tiếng nói của toàn nhân loại,

And numerous as the concourse of all songs:

Là suối nguồn của muôn vạn bài ca:

And in that Soul lives each, in each that Soul,

Ta sống trong Chân hồn, Chân hồn ở trong ta,

Tho’ all the ages are its lifetime vast;

Với thọ mạng vô cùng qua vạn kỷ;

Each soul that dies in its most sacred whole

Khi nhân hồn chết trong thánh thiện và hoàn mỹ

Receiveth life that shall for ever last.” —

Sẽ nhận sự sống thiêng liêng vĩnh cửu trường tồn.”

Richard Watson Dixon

    Richard Watson Dixson

[231]

(231)

CHAPTER SIX

CHƯƠNG SÁU

The Fifth Initiation… The Resurrection and Ascension

Cuộc Điểm đạo Thứ Năm . . . Sự Phục sinh và Thăng thiên

This initiation is divided into two halves, and of neither of them do we know very much. The detail of the Resurrection episode, or crisis, in Christ’s life is left untold by the writers of the New Testament. It was not possible for them to know more. After the Crucifixion we are told little of Christ’s own life, or what occupied Him between the time He rose again until He left the company of the Apostles, and “ascended into Heaven”—a symbolic phrase which can mean very little to any of us. The crucial initiation for humanity to understand at this time is the fourth. Only when we have mastered the significance of service and sacrifice can the fact of immortality and its true meaning be revealed to us. How Christ rose, what were the processes undergone, in exactly what body He appeared, we cannot tell. We are assured by the Apostles that it resembled the one He had previously employed, but whether it was the same body miraculously resurrected; whether it was His spiritual body, which appeared to be the same to the physical eyes of those who loved Him, or whether He had constructed an entirely new body on the same general lines as the previous one, it is not possible for us to say; neither is it possible for us to be confident that the vision of the disciples was not supernormal or that, through the intensification of His expressed divinity, Christ had so stimulated their inner vision that they saw clairvoyantly, or in another dimension. The important matter was that He did rise again, that He was seen of many, [232] and that the fact of His resurrection was credited in the minds of His friends and for the two or three centuries after His departure.

CUỘC điểm đạo này được chia làm hai phần. Trong đó, không phần nào chúng ta hiểu thật rõ. Các tác giả Kinh Tân ước đều không nêu chi tiết về giai đoạn Phục sinh, hay thời gian khủng hoảng này trong cuộc đời của Đức Christ. Họ không thể hiểu nhiều hơn. Sau giai đoạn Thập giá hình, chúng ta chỉ biết rất ít về cuộc sống của Đức Christ, hay những gì Ngài đã làm trong khoảng thời gian từ khi Ngài sống lại cho đến khi Ngài rời đoàn Tông đồ và “thăng Thiên” – một cụm từ biểu tượng mà chúng ta chẳng hiểu được bao nhiêu. Cuộc điểm đạo quan trọng mà hiện nay nhân loại cần hiểu biết là cuộc điểm đạo thứ tư. Chỉ khi đã thấu đáo ý nghĩa của phụng sự và hy sinh, bấy giờ chúng ta mới được hiển lộ cho thấy sự thực về tính bất tử và thực nghĩa của nó. Chúng ta không thể biết bằng cách nào Đức Christ đã sống lại, Ngài đã trải qua những quá trình nào, và chính xác là Ngài đã xuất hiện trong một cơ thể như thế nào. Các vị Tông đồ đều đoan chắc rằng nó giống hệt như cơ thể mà Ngài đã dùng trong thời gian trước. Thế nhưng, chúng ta không thể khẳng định liệu nó có phải là cùng cơ thể ấy đã được phục sinh một cách mầu nhiệm hay chăng; liệu nó có phải là thể tinh thần của Ngài xuất hiện giống như thể cũ, trước nhãn quan hồng trần của những người yêu thương Ngài hay chăng; hoặc phải chăng Ngài đã kiến tạo một thể hoàn toàn mới với những đường nét chung giống như thể cũ. Đồng thời chúng ta cũng không thể tin chắc rằng nhãn quan của các môn đồ có trở nên phi thường hay chăng. Hoặc khả dĩ sức tăng cường khi Ngài biểu lộ thiên tính đã kích thích nội nhãn của họ khiến họ thấy được bằng nhãn thông, hoặc thấy trong một chiều đo không gian khác. Nhưng điều quan trọng vẫn là Ngài đã sống lại, và nhiều người đã thấy Ngài. (232) Thực tế về sự phục sinh của Ngài đã được ghi khắc trong tâm trí của các bằng hữu Ngài, và trong mấy thế kỷ sau khi Ngài ra đi.

The psychology of the disciples is the best proof we have of the reality of their conviction that death could not hold the Saviour, and that after death He was present and living among them. It is difficult for us to gain this high achievement in consciousness which they showed. Apparently their world had come to an end upon the Cross. Christ had apparently failed them, and instead of being the divine Son of God, and King of the Jews, He was nothing but an ordinary man, convicted of treason and punished as a common malefactor. What they must have endured during the three days of His absence it is not hard for us to imagine. Hopelessness, despair, the loss of confidence in themselves and of prestige among their friends; the cause for which they had been so ready to dedicate themselves, as they tramped with Christ from place to place in the Holy Land, had ended and collapsed. Their Leader was discredited. Then something happened to alter the whole trend of their thought. All that had been lost of confidence and hope and purpose was restored, and the first few centuries of the Christian history (before theology gave a turn to interpretation, and so altered the Gospel of love into a cult of separation) reveal to us

Trạng thái tâm lý lành mạnh của các môn đồ là bằng chứng vững chắc nhất cho thấy thực tế là họ tin chắc rằng sự chết không thể cầm giữ Đấng cứu thế. Họ cũng thấy rằng sau khi chết, Ngài vẫn hiện diện và sống ở giữa họ. Khó có ai đạt được mức thành tựu này trong tâm thức mà họ đã bày tỏ. Dường như thế giới của họ đã cáo chung trên Thập tự giá. Dường như Đức Christ đã rời bỏ họ. Và thay vì là Người Con thiêng liêng của Thượng Đế, dường như Ngài chỉ là một kẻ thường nhân, bị kết tội phản nghịch, và bị trừng phạt như một kẻ bất lương thường thấy. Chúng ta khó lòng tưởng tượng được họ đã phải chịu đựng những gì trong ba ngày Ngài vắng mặt. Tuyệt vọng, thất vọng, mất niềm tin nơi chính mình và mất uy tín với bạn bè. Sự nghiệp mà họ đã hết lòng hiến mình vào đó, khi họ lặn lội cùng Đức Christ hết nơi này đến nơi khác trong vùng Thánh Địa, thì nay đã chấm dứt và sụp đổ. Vị Lãnh đạo của họ đã bị vu nhục. Rồi một điều gì đó đã xảy ra làm thay đổi trọn cả xu thế trong tư tưởng của họ. Tất cả những gì đã bị mất đi trong niềm tin, hy vọng và mục đích, thì bấy giờ được phục hồi. (Trước khi thần học chuyển hướng lý giải, và do đó biến Phúc âm của tình thương thành sự sùng bái tính chia rẽ) Mấy thế kỷ đầu trong lịch sử của Thiên Chúa giáo cho chúng ta thấy

“… a company of men and women full of confidence, enthusiasm and courage, ready to face persecution and death, eager missionaries. What has given them this new character? Not long before some of them had fled in dismay at the first threat of personal danger. When Jesus was crucified they had lost the last glimmer of hope that he might prove to be the Christ. When he was placed in the tomb, Christianity was dead and buried too. Now we meet these men and women a few weeks later and they are utterly changed. It is not that there is some faint return of hope among a few of them. All are completely certain that Jesus is indeed the Christ. What has happened to cause this transformation? Their answer is unanimous: on the third day he rose from the dead.” [ccxxxvii]1

“. . . một đoàn người nam và nữ đầy đủ đức tin, nhiệt tâm và can đảm, sẵn sàng đối diện với sự ngược đãi và sự chết, những nhà truyền giáo nhiệt thành. Điều gì đã cho họ tính cách mới mẻ này?  Không bao lâu trước đó, một số người trong họ đã chạy trốn trong cơn hoảng sợ khi có sự đe dọa đầu tiên dẫn đến nguy cơ cho cá nhân mình. Khi Jesus bị khổ hình thập tự, họ mất đi tia hy vọng mong manh cuối cùng rằng Ngài khả dĩ tự chứng tỏ là Đức Christ. Khi Ngài bị đưa vào hầm mộ, thì Thiên Chúa giáo cũng chết và bị chôn theo Ngài. Nhưng nay, một vài tuần sau đó, cũng những người nam và nữ ấy, nhưng họ hoàn toàn đổi khác. Chẳng phải một số người trong họ đã có trở lại vài tia hy vọng yếu ớt, mà tất cả họ đều hoàn toàn tin chắc rằng Jesus quả thực là Đức Christ. Điều gì xảy ra đã mang lại sự chuyển hóa này?  Họ đều nhất trí trả lời:  vào ngày thứ ba Ngài đã sống lại từ cõi chết.”[1]

[233]

“Christ is risen,” is their cry, and because He has risen the kingdom of God can go forward upon earth, and His message of love can be widely distributed. They know now, past all controversy, that He has overcome death, and that in the years that lie ahead they will see death vanquished. That they expected an immediate kingdom and that they looked to see the fact of immortality universally recognised is evident from their writings and their enthusiasm. That they were mistaken, nearly two thousand years of Christianity has proved. We are not yet citizens of a divine kingdom definitely manifesting upon earth, the fear of death is as strong as ever, and the fact of immortality is still but a source of speculation to millions. But it was their sense of time that was at fault, and their failure to understand the slow processes of nature. Evolution moves slowly, and it is only today that we are truly on the verge of the demonstration of God’s kingdom upon earth. Because this is the end of an age, we know that before long the hold death has on the human being, and the terror which the angel of death inspires, will disappear. They will vanish because we shall regard death as only another step on the way towards light and life, and shall realise that, as the Christ life expresses itself in and through human beings, they will demonstrate to themselves, and in the world, the reality of immortality.

(233) Họ kêu lên “Đức Christ đã sống lại.”  Và vì Ngài đã sống lại nên Thiên giới có thể xúc tiến ở thế gian, và bức thông điệp tình thương của Ngài có thể được phổ truyền. Giờ đây họ biết, hoàn toàn không còn gì phải bàn cãi, rằng Ngài đã thắng phục được sự chết, và rằng trong những năm tới họ sẽ thấy sự chết bị đánh bại. Những sách vở, tài liệu và lòng nhiệt thành của họ cho thấy rõ rằng họ đã mong rằng Thiên giới có ngay, và mong rằng sự kiện thực tế về tính bất tử được mọi người đồng công nhận. Gần hai ngàn năm qua của Thiên Chúa giáo đã chứng tỏ rằng họ sai lầm. Chúng ta vẫn chưa là công dân của một Thiên giới biểu hiện rõ rệt ở cõi trần. Nỗi sợ chết vẫn còn mạnh như thuở nào. Trong khi đó, sự kiện thực tế về tính bất tử thì vẫn chỉ là điều suy đoán đối với hàng triệu người. Thế nhưng họ chỉ sai trong ý thức về thời gian, và vì họ không hiểu được những tiến trình chậm chạp của thiên nhiên. Cuộc tiến hóa đi tới một cách chậm rãi, và chỉ đến ngày nay chúng ta mới sắp sửa thấy được Thiên giới bắt đầu biểu hiện ở thế gian. Vì nay đã đến cuối một thời đại, nên chúng ta biết rằng chẳng bao lâu nữa ảnh hưởng của sự chết đối với con người, và nỗi kinh khủng mà thần chết mang lại, sẽ tiêu tan. Chúng sẽ tan biến vì bấy giờ người ta sẽ xem sự chết chỉ là một bước tiến trên đường đi đến ánh sáng và sự sống. Họ sẽ nhận thức rằng, vì sự sống Christ tự biểu lộ bên trong và xuyên qua con người, nên họ sẽ chứng tỏ cho mình và cho thế gian thấy tính bất tử là điều thực tế.

The key to the overcoming of death and to the processes of realising the meaning and nature of eternity and the continuity of life can with safety be revealed only when love holds sway over the human consciousness, and where the good of the whole, and not the selfish good of the individual, comes to be the supreme regard. Only through love (and service as the expression of love) can the real message of Christ be understood and men pass on towards a joyful resurrection. Love makes us humbler, and at the same time wiser. It penetrates to the heart of reality and has a faculty of discovering the truth hidden by a form. The early Christians were simple in this way because they loved one another, because [234]they loved Christ and the Christ within each other. Dr. Grensted points this out in the following words, giving us a fine summation of the attitude of the early Christians and of their approach, in those enthusiastic days, to Christ and to life in the world:

Vốn có bí quyết để thắng phục sự chết, và nhận thức được ý nghĩa cũng như tính chất của sự sống vĩnh cửu và tính liên tục của nó. Nhưng bí quyết ấy chỉ có thể được tiết lộ một cách an toàn khi tình thương ngự trị tâm thức của con người, và khi họ xem sự phúc lạc của toàn thể là tối quan trọng, chứ không phải là lợi ích vị kỷ của cá nhân. Chỉ qua tình thương (và phụng sự với tính cách biểu lộ của tình thương) người ta mới hiểu được bức thông điệp thực sự của Đức Christ, và tiếp tục đi đến sự phục sinh đầy hoan hỉ. Tình thương khiến chúng ta khiêm tốn hơn và đồng thời cũng khôn ngoan sáng suốt hơn. Người Thiên Chúa giáo vào buổi sơ khai có tính cách giản dị như thế, vì họ yêu thương nhau, và cũng vì (234) họ yêu thương Đức Christ, và sự sống Christ bên trong người huynh đệ của mình. Ts. Grensted nêu rõ điều này bằng những lời lẽ sau đây. Ông tóm lược rất hay về thái độ của người Thiên Chúa giáo vào buổi sơ khai và, trong những tháng ngày đầy hứng khởi ấy, quan niệm của họ về Đức Christ và về cuộc sống ở thế gian:

“They spoke in plain terms of God. They did not think of Jesus of Nazareth as a crucial experiment. They knew Him as Friend and Master, and they flung their whole being into the enthusiasm of His friendship and service. Their preaching was the good news about Jesus. They assumed that men already meant something when they spoke of God, and, without challenging the inheritance which they received from Judaism, they set side by side with it the Jesus whom they had known living, and dead, and alive again. They had been through much more than a time of inexplicable miracles, healings, and voices, and a strange mastery over Nature itself, and at the end a conquest of death. If they had told  the world, and us, these things alone, they would have been believed. Such stories have always found a hearing. And men would still have known nothing more of the meaning of God. But their experience had been one of such a Friendship as man had never known, of disastrous failure and a forgiveness beyond all believing, and of a new, a free, a creative life. Nothing of all this was of their own achievement. They knew they were men remade, and they knew that the mode of their remaking was love. This was a providence, a deliverance, greater and more significant than anything that the Jew had ever claimed for the Creator-God. Yet they could not think of it as other than His work, since God, as all their national tradition taught, is One. It interpreted for them, as we might put it in our more cautious way, the creative reality to which they, with all men, had looked with uncertainty and even with fear. Henceforth the central hypothesis which men call God was known as love, and everywhere He was made manifest just in so far as love had passed out from Christ to the fellowship of the Christian community.” [ccxxxviii] 2

“Họ dùng những lời bình dị khi nói về Thượng Đế. Họ không nghĩ rằng Jesus người Nazareth là một cuộc thí nghiệm quan trọng. Họ biết Ngài là Bạn và là Thầy. Nên trọn cả đời sống của họ thấm nhuần lòng nhiệt thành khi được làm bạn với Ngài và phụng sự Ngài. Họ rao giảng tin lành về Jesus. Họ cho rằng khi người ta nói đến Thượng Đế, thì tất có ngụ ý nào đó, mà không hề thách thức những gì thừa hưởng từ Do Thái giáo. Họ đặt bên cạnh nó Đức Jesus là Đấng mà họ biết đã sống, đã chết và sống lại. Họ đã trải qua một khoảng thời gian còn tuyệt vời hơn là những điều không thể giải thích như các phép lạ, những trường hợp chữa lành bệnh, những tiếng nói nhiệm mầu, và sự chế ngự Thiên nhiên một cách kỳ lạ, để rốt cuộc thắng phục sự chết. Nếu họ kể cho thế gian, và cho chúng ta, chỉ những điều ấy, thì hẳn là họ đã được tin theo. Những câu chuyện như thế bao giờ cũng có người nghe. Và nếu thế thì mọi người hẵn là vẫn không biết gì hơn về ý nghĩa của Thượng Đế. Nhưng kinh nghiệm của họ là Tình bằng hữu mà con người chưa bao giờ biết, là sự thất bại thảm hại và lòng khoan thứ mà người ta không thể tin là có thực, và cuộc sống sáng tạo, mới mẻ, và tự do. Không điều nào trong tất cả những điều này là do họ đạt được. Họ biết mình là những người được tái tạo, và phương thức tái tạo họ là tình thương. Đây là sự quan phòng, là sự cứu rỗi, cao cả hơn và nhiều ý nghĩa hơn bất cứ điều gì mà người Do Thái đã từng khẳng định về Thượng Đế-Đấng Sáng tạo. Dù vậy, họ không thể nghĩ đến điều đó là gì khác hơn công việc của Ngài, vì Thượng Đế vốn là Duy nhất, như tất cả truyền thống quốc gia của họ đã dạy. Chúng ta có thể nói một cách thận trọng rằng nó giúp họ hiểu về thực tại sáng tạo mà họ, cũng như tất cả mọi người, đều không biết chắc và thậm chí còn sợ hãi. Từ đó trở đi, cái giả thuyết trung tâm mà mọi người gọi là Thượng Đế đã được hiểu là bác ái, và họ hiểu rằng Ngài biểu hiện ở khắp nơi, giống như tình thương đã tuôn rải từ Đức Christ đến các tín hữu trong cộng đồng Thiên Chúa giáo vậy.”[2]

Christ had risen, and by His Resurrection proved that humanity had in it the seed of life, and that there was no death for the man who could follow in the steps of the Master.

Đức Christ đã sống lại, và sự Phục sinh của Ngài đã chứng tỏ rằng nhân loại có nơi mình hạt giống của sự sống, và không hề có sự chết đối với người có thể đi theo bước chân của Đức Thầy.

[235]

In the past, being wholly engrossed with consideration of the Crucifixion, we have been apt to forget the fact of the Resurrection. Yet on Easter Day, throughout the world, believers everywhere express their belief in the risen Christ and in the life beyond the grave. They have argued along many lines as to the possibility of His rising, and whether He rose as a human being or as the Son of God. They have been deeply concerned to prove that because He rose again, so shall we rise, provided we believe in Him. In order to meet the theological need of proving that God is love, we have invented a place of discipline, called by many names, such as purgatory, or the various stages of the different faiths on the road of departed spirits to heaven, because so many millions die, or have died, without ever having heard of Christ. Therefore belief in Him as an historical figure is not possible for them. We have evolved such doctrines as conditional immortality, and the atonement through the blood of Jesus, in an endeavour to glorify the personality of Jesus and safe-guard Christian believers, and to reconcile human interpretations with the truth in the Gospels. We have taught the doctrine of hell-fire and eternal punishment, and then tried to fit it in to the general belief that God is love.

(235) Trước đây, vì quá bận tâm xem xét về Thập giá hình nên chúng ta thường quên điều thực tế về sự Phục sinh. Dù vậy, vào Ngày Lễ Phục sinh, các tín hữu ở khắp nơi trên toàn thế giới đều bày tỏ niềm tin vào Đức Christ đã sống lại, và tin vào đời sống bên kia cửa tử. Họ đã bàn cãi về những lối nào mà khả dĩ Ngài đã sống lại, và liệu Ngài đã sống lại: như một con người hay với tư cách Người Con của Thượng Đế. Họ hết sức cố gắng để chứng tỏ rằng vì Ngài đã sống lại, nên chúng ta cũng sẽ sống lại, miễn là chúng ta tin vào Ngài. Để làm cho giáo lý thần học thích hợp với việc cần phải chứng tỏ rằng Thượng Đế là bác ái, người ta đã đặt ra một nơi để trừng phạt. Nó có nhiều tên gọi như hỏa ngục luyện tội, hoặc những giai đoạn khác nhau trong các tín ngưỡng khác nhau nói về con đường của linh hồn từ trần đi lên trời, vì muôn triệu người đã và đang chết, mà chưa hề nghe nói điều gì về Đức Christ cả. Vì thế mà họ không thể tin vào Ngài như một nhân vật lịch sử. Người ta đã bày đặt ra các giáo lý như sự bất tử có điều kiện, và sự chuộc tội qua máu huyết của Jesus. Họ làm thế để cố tôn vinh phàm nhân của Jesus, để bảo vệ các tín hữu Thiên Chúa giáo, và để hòa hợp những lý giải của con người với chân lý trong các sách Phúc âm. Người ta đã giảng dạy giáo lý về hỏa ngục và hình phạt đời đời, rồi lại cố làm cho nó thích hợp với niềm tin chung rằng Thượng Đế là bác ái.

Yet the truth is that Christ died and rose again because He was divinity immanent in a human body. Through the processes of evolution and initiation He demonstrated to us the meaning and purpose of the divine life present in Him and in us all. Because Christ was human, He rose again. Because He was also divine, He rose again, and in the enacting of the drama of resurrection He revealed to us that great concept of the continuity of unfoldment which it has ever been the task of the Mysteries of all time to reveal.

Thế nhưng, sự thực là Đức Christ đã chết và đã sống lại, vì Ngài là thiên tính hằng hữu trong cơ thể con người. Qua các diễn trình tiến hóa và điểm đạo, Ngài đã chứng minh cho chúng ta thấy ý nghĩa và mục đích của sự sống thiêng liêng ở trong Ngài và trong tất cả chúng ta. Vì Đức Christ là con người, Ngài đã sống lại. vì Ngài cũng có bản tính thiêng liêng, nên Ngài đã sống lại. Và trong khi phô diễn lớp màn phục sinh, Ngài hé lộ cho chúng ta thấy ý niệm trọng đại về sự liên tục khai mở tâm thức. Đó là điều mà các Bí nhiệm của mọi thời đại đều nhằm hiển lộ.

Again and again we have found that the three episodes related in the Gospel story are not isolated happenings in the life of Jesus of Nazareth, but that they have been repeatedly undergone in the secret places of the Temples of the Mysteries, from the dawn of time. The Saviours of the past were all [236]subjected to the processes of death in some form or other, but they all rose again or were translated to glory. In the initiation ceremonies this burial and resurrection at the end of three days was a familiar ceremonial. History tells us of many of these Sons of God who died and rose again, and finally ascended into Heaven. We find, for instance, that “the Obsequies of Adonis were celebrated in Alexandria (in Egypt) with the utmost display. His image was carried with great solemnity to a tomb, which served the purpose of rendering him the last honours. Before singing his return to life, there were mournful rites celebrated in honour of his suffering and his death. The large wound which he received was shown, just as the wound was shown which was made to Christ by the thrust of the spear. The feast of his resurrection was fixed at the 25th of March.” [ccxxxix]3 There is the same legend attached to the names of Tammuz, to Zoroaster, to Esculapius. To the latter, Ovid addressed the following words:

Hết lần này đến lần khác, chúng ta nhận thấy rằng ba giai đoạn liên quan đến câu chuyên Phúc âm đều vốn không phải là những điều xảy ra riêng biệt trong đời của Jesus người Nazareth. Từ thời khởi thủy, biết bao người đã lần lượt trải qua các sự kiện này ở những nơi bí mật trong các ngôi Đền có ẩn tàng các Bí nhiệm. Tất cả những vị Cứu thế của thời xưa (236) đều phải trải qua các quá trình tử vong dưới hình thức này hay hình thức khác. Nhưng tất cả họ đều sống lại hoặc đi vào vinh quang. Trong các cuộc lễ điểm đạo, việc chôn cất và phục sinh này sau ba ngày vốn là một nghi thức rất quen thuộc. Lịch sử đã ghi lại nhiều người Con vừa kể của Thượng Đế, đã chết và sống lại, và cuối cùng thăng lên Trời. Ví dụ như, chúng ta thấy rằng “Lễ tang của Adonis được cử hành ở thành Alexandria (Ai Cập) với sự trưng bày hoành tráng. Hình ảnh của ông được trang trọng đưa đến một ngôi mộ, với mục đích nói lên niềm vinh dự cuối cùng của ông. Trước khi ca mừng ông sống lại, có cử hành những nghi thức tang chế để tôn vinh nỗi đau khổ và sự chết của ông. Người ta cũng phô bày vết thương lớn mà ông phải hứng chịu, giống như việc phô bày vết thương của Đức Christ do ngọn giáo đâm. Lễ hội mừng phục sinh của ông được ấn định vào ngày 25 tháng Ba.”[3]  Cũng có huyền thoại giống như vậy gắn liền với các danh hiệu như Tammuz, Zoroaster, và Esculapius. Về vị sau cùng, Ovid có những dòng thơ sau đây:

“Hail, Great Physician of the world! All hail!

“Xin kính chào, vị Lương y Cao cả của thế gian!

Hail, mighty Infant who in years to come

Xin chào, Trẻ thơ oai hùng trong những năm tháng tới

Shall heal the nations and defraud the tomb.

Sẽ loại bỏ nấm mồ và chữa lành cho các quốc gia.

Swift be Thy growth, Thy triumphs unconfined

Ngài nhanh chóng trưởng thành, vinh quang không biên giới

Make kingdoms thicken and increase mankind.

Cho các vương quốc thêm dân, và nhân loại gia tăng.

Thy daring art shall animate the dead,

Y thuật tuyệt vời Ngài cứu sống kẻ tử vong,

And draw the thunder on Thy guilty head;

Khiến sấm sét giáng vào Ngài vì tội ấy;

Then shalt Thou die, but from the dark abode

Rồi Ngài chết, nhưng từ trong bóng tối

Shalt rise victorious and be twice a God.”

Ngài phục sinh vẻ vang, thành Thượng Đế vinh hiển bội phần.”[4]

 [ccxl]4

These words might have been appropriately addressed to Christ, and they serve to indicate the antiquity of the Mystery Teaching which, with unbroken continuity, has revealed the divinity in Man and shown him the Way of a Saviour. But in ancient times these mysteries were enacted in [237] secret, and the rites of initiation were administered only to those who were fitted to pass through the five great experiences from the Birth to the Resurrection. The uniqueness of Christ’s work lay in the fact that He was the first to enact the whole of the initiation ceremonial rites and ritual publicly, before the world at large, thus giving to humanity a demonstration of divinity centred in one person, so that all could see, could know, believe and follow in His steps.

Có thể dùng những lời nói trên một cách thích hợp để tôn xưng Đức Christ. Chúng cho thấy tính chất cổ xưa của Giáo huấn về các Bí nhiệm, vốn liên tục khải thị thiên tính nơi Con người và chỉ cho họ thấy Con đường của vị Cứu thế. Vào thời xưa, các bí nhiệm này chỉ được phô diễn ở nơi (237) bí mật, và các nghi lễ điểm đạo chỉ được ban bố cho những ai đủ điều kiện thích hợp đi qua năm kinh nghiệm trọng đại từ Giáng sinh cho đến Phục sinh. Sở dĩ công việc của Đức Christ có tính cách độc đáo vì thực tế Ngài là người đầu tiên công khai phô bày toàn bộ các nghi thức và nghi lễ điểm đạo trước mắt cả thế gian. Bằng cách này, Ngài biểu dương cho nhân loại thấy thiên tính tập trung nơi một người. Do đó, tất cả đều có thể thấy, có thể biết, tin tưởng và đi theo bước chân Ngài.

The same stories are told of Hercules, of Baldur, of Mithra, of Bacchus, and of Osiris, to mention only a few of a large number. One of the early Church Fathers, Firmicus Maternus, tells us that the mysteries of Osiris bear a close resemblance to the Christian teaching, and that after the resurrection of Osiris his friends rejoice together, saying, “We have found him.” Annie Besant points out in an illuminating passage that:

Người ta cũng kể những câu chuyện tương tự về Hercules, Baldur, Mithra, Bacchus, và Osiris. Ở đây chỉ đơn cử một số ít trong số đông đảo các vị này. Một trong những Linh mục của Giáo hội buổi sơ khai là Firmicus Maternus, có nói rằng các bí nhiệm của Osiris rất giống với giáo huấn Thiên Chúa giáo, vì sau khi Osiris sống lại, bạn bè của ông cùng vui mừng bảo rằng “Chúng ta đã tìm lại được người rồi.”  Trong một đoạn văn, bà Annie Besant đã nêu lên và làm sáng tỏ vấn đề này như sau:

“In the Christian Mysteries—as in the  ancient Egyptian, Chaldean, and others—there was an outer symbolism which expressed the stages through which the man was passing. He was brought into the chamber of Initiation, and was stretched on the ground with his arms extended, sometimes on a cross of wood, sometimes merely on the stone floor, in the posture of a crucified man. He was then touched with the thyrsus on the heart—the `spear’ of the crucifixion—and, leaving the body, he passed into the worlds beyond, the body falling into a deep trance, the death of the crucified. The body was placed in a sarcophagus of stone, and there left, carefully guarded. Meanwhile the man himself was treading first the strange obscure regions called `the heart of the earth,’ and thereafter the heavenly mount, where he put on the perfected bliss body, now fully organised as a vehicle of consciousness. In that he returned to the body of flesh, to re-animate it. The cross bearing that body, or the entranced and rigid body, if no cross had been used, was lifted out of the sarcophagus and placed on a sloping surface, facing the east, ready for the rising of the sun on the third day. At the moment that the rays of the sun touched the face, the Christ, the perfected Initiate or Master, re-entered the body, glorifying it by the bliss body He was wearing, changing the body of flesh by contact with the body of bliss, giving [238] it new properties, new powers, new capacities, transmuting it into His own likeness. That was the Resurrection of the Christ, and thereafter the body of flesh itself was changed, and took on a new nature.” [ccxli] 5

“Trong các Bí nhiệm của Thiên Chúa giáo – như vào thời cổ Ai Cập, Chaldea, và những nơi khác – có những biểu tượng ngoại môn nói lên các giai đoạn mà người hành giả trải qua. Y được đưa đến căn phòng Điểm đạo, để cho nằm dài trên mặt đất, hai tay dang rộng, đôi khi nằm trên một thập tự giá bằng gỗ, đôi khi chỉ nằm trên nền đá, trong tư thế của người bị thập giá hình. Sau đó y được thần trượng chạm vào tim – tức là ‘ngọn giáo’ trong thập giá hình – và, rời thân xác, y lên các cõi cao. Bấy giờ thể xác rơi vào trạng thái xuất thần sâu xa, tức là sự chết của người bị thập giá hình. Thể xác được đặt vào chiếc quan tài bằng đá, và để ở đó, được canh giữ cẩn thận. Trong khi đó, thì chính hành giả trước hết đi đến những vùng kỳ lạ và thâm u được gọi là ‘tâm của địa cầu’. Rồi y lên ngọn núi trên trời, ở đó y được nhập vào thể chân phúc hoàn thiện, giờ đây hoàn toàn được dùng làm thể của tâm thức. Trong tình trạng này, y trở về thể xác, để làm cho nó tái sinh động. Thập tự giá mang thể xác ấy, hoặc thân xác đã được nhập thể và còn cứng đờ, nếu trước đó không dùng thập tự giá, được đưa ra khỏi chiếc quan tài bằng đá, và đặt trên một bề mặt nghiêng, quay mặt về hướng đông, sẵn sàng chờ mặt trời mọc vào ngày thứ ba. Ngay phút giây những tia sáng mặt trời chạm vào mặt, thì Đấng Christ, vị Điểm đạo đồ hay Chân sư, trở vào thể xác, tỏa ánh vinh quang cho nó bởi thể chân phúc mà Ngài đang khoác, biến đổi thân xác khi nó tiếp xúc với thể chân phúc, cho (238) nó những đặc tính mới, quyền năng mới, năng lực mới, và chuyển hóa nó thành giống như chính Ngài. Đó là sự Phục sinh của Đức Christ. Từ đó trở đi, chính thể xác đã được thay đổi, với bản chất mới.”[5]

Thus we find that the resurrection story is of very ancient date, and that God has always held before humanity, through the Mysteries and through His illumined Sons, the fact of immortality, as before our Christian world, through the death and resurrection of His beloved Son, Jesus Christ.

Vậy, chúng ta thấy rằng câu chuyện phục sinh có nguồn gốc rất cổ xưa. Chúng ta cũng thấy rằng qua các Bí nhiệm và qua những Người Con đã giác ngộ của Ngài, Thượng Đế luôn nêu cao sự thực về tính bất tử trước mắt nhân loại. Ngài cũng làm điều đó trước mắt thế giới Thiên Chúa giáo qua sự chết và sự phục sinh của Người Con yêu dấu của Ngài, là Jesus Christ.

This whole problem of death and immortality is engrossing a great deal of public attention at this time. The World War brought the fact of death before the public consciousness in a new and arresting manner. There was scarcely a family in over twenty nations which had not been bereft by death, in some form or other. The world has passed through a process of dying, and at the present time the mystery of the Resurrection is becoming a theme of major importance in men’s minds. The thought of the Resurrection is coming closer, and its significance has been the central idea of the Masonic Fraternity down the ages, forming the focal point of the work of the sublime Third Degree. In close relation to this Masonic “raising” can be placed a little-known sermon of the Buddha, in which He teaches His disciples the significance of the “five points of Friendship,” and thus links up these five points, the five crises in the life of Christ and the five points in the Masonic legend. All these references serve to show the continuity of revelation of which the Resurrection (with its subsequent Ascension) was the climaxing event for the Occident.

Hiện nay, trọn cả vấn đề sự chết và tính bất tử này đang được rất nhiều người trong công chúng quan tâm. Thế Chiến đưa vấn đề sự chết ra trước tâm thức của công chúng theo lối mới, thu hút sự chú ý. Hiếm có gia đình nào trong hai mươi quốc gia mà không bị mất mát do thương vong, dưới hình thức này hay hình thức khác. Thế giới đã trải qua một tiến trình tử vong, và hiện nay bí nhiệm Phục sinh đang trở thành chủ đề hết sức quan trọng trong tâm trí mọi người. Tư tưởng về sự Phục sinh đang ngày càng gần gũi hơn. Trong khi đó, ý nghĩa của nó đã là ý tưởng trọng tâm của Hội Tam Điểm qua các thời đại, là tiêu điểm công việc của Cấp Thứ Ba thánh thiện. Liên quan mật thiết với sự “sống lại” này của Hội Tam Điểm, có một bài thuyết pháp ít người biết, của Đức Phật. Trong đó, Ngài dạy các đệ tử về ý nghĩa “năm điểm của tình bằng hữu.”  Thế là có sự liên kết năm điểm này, với năm cuộc khủng hoảng trong đời của Đức Christ, và năm điểm trong huyền thoại của Hội Tam Điểm. Tất cả những điều tham khảo vừa kể cho thấy sự thiên khải liên tục, trong đó sự Phục sinh (với sự Thăng thiên tiếp theo) là sự kiện tột đỉnh đối với người Tây phương.

The outstanding need of Christianity today is to emphasise the living, risen Christ. We have argued too long over the death of Christ, seeking to impose a narrow sectarian Christ upon the world. We have fed the fires of separation by our Christian divisions, churches, sects and “isms.” “Their name [239] is legion,” and most of them are founded upon some sectarian presentation of the dead Christ, and of the earlier aspects of His story. Let us now unite on the basis of the risen Christ—Christ alive today, Christ the source of inspiration and the founder of the kingdom of God; Christ, the cosmic Christ, eternally on the Cross, yet eternally alive; Christ, the historical Saviour, the founder of Christianity, watching over His Church; Christ, the mystic, mythic Christ, portraying upon the canvas of the Gospels the episodes of unfoldment so that all who live may know and follow; and Christ, alive today in every human heart, the guarantee of, and the urge towards divinity, which humanity so constantly exhibits. Because of the presence of Christ in man, the conviction of divinity and of man’s consequent immortality seem to be inherent in the human consciousness. It will inevitably occupy more and more of man’s attention until it is demonstrated and proven; meanwhile that something apparently persists beyond physical death has been demonstrated. The fact of immortality has not been proven as yet, though it constitutes a basic belief in the minds of millions, and where such a belief is universally found, there must indubitably be a basis for it.

Điều hết sức cần thiết cho Thiên Chúa giáo ngày nay là nhấn mạnh về Đức Christ đã phục sinh và hằng sống. Chúng ta đã bàn cãi quá lâu về sự chết của Đức Christ, tìm cách áp đặt lên thế giới một Đức Christ bè phái, hẹp hòi. Chúng ta đã nuôi dưỡng ngọn lửa chia rẽ qua các chi nhánh, giáo hội, giáo phái và “học thuyết” của Thiên Chúa giáo. “Có vô số (239) những tổ chức như thế,” và hầu hết đều dựa vào một lối trình bày bè phái về Đức Christ đã chết, và những khía cạnh ban sơ trong câu chuyện của Ngài. Giờ đây, chúng ta hãy kết hợp nhau trên cơ sở Đức Christ đã phục sinh. Đó là Đức Christ đang sống ngày nay, Đức Christ, nguồn hứng khởi và là vị sáng lập Thiên giới. Đó là Đức Christ, Đấng Christ vũ trụ, mãi mãi chịu khổ hình trên Thập tự giá, nhưng vẫn hằng sống. Đó là Đức Christ, Đấng Cứu thế của lịch sử, vị sáng lập Thiên Chúa giáo, đang trông nom Giáo hội của Ngài. Đó là Đức Christ, nhà thần bí, Đức Christ thần bí, phác họa trên nền các sách Phúc âm những giai đoạn khai mở tinh thần, nhờ đó mà tất cả những người đang sống hiện nay đều có thể hiểu và noi theo. Và đó là Đức Christ, ngày nay đang sống trong tâm hồn mọi người, là bảo đảm cho thiên tính, và là sức thôi thúc hướng về thiên tính, mà nhân loại thường xuyên bày tỏ. Vì Đức Christ hiện diện trong mỗi người, nên niềm xác tín về thiên tính, với hậu quả là tin vào sự bất tử của con người, dường như sẵn có trong tâm thức của nhân loại. Tất nhiên, nó sẽ được mọi người ngày càng chú ý nhiều hơn, cho đến khi nó được biểu dương và chứng minh. Trong thời gian chờ đợi, đã chứng tỏ có điều gì đó dường như vẫn tồn tại sau cái chết của thân xác. Sự thực về tính bất tử vẫn chưa được chứng minh, dù nó là niềm tin căn bản trong tâm trí của muôn triệu người. Và khi niềm tin như thế có ở khắp nơi, thì rõ ràng là nó phải có cơ sở.

The entire question of immortality is closely linked with the problem of divinity and of the unseen, subjective world, which seems to underlie the tangible and visible, frequently making its presence felt. Working therefore on the premise of the unseen and invisible, it is probable that we shall eventually penetrate to it and discover that it has always been with us, but that we have been blinded and unable to recognise its presence. Always some have done so, and their note sounds forth, strengthening our belief, endorsing our hope, and guaranteeing to us the eventual experience.

Tất cả những băn khoăn, thắc mắc về tính bất tử vốn liên quan mật thiết với vấn đề thiên tính, và thế giới vô hình, nội tại. Thế giới này dường như ẩn trong cái hữu hình, cái có thể thấy, và thường xuyên được cảm nhận. Do đó, nếu bắt đầu bằng tiên đề về cái không thể thấy và vô hình, thì rất có thể rốt cuộc chúng ta sẽ thâm nhập vào nó. Rồi chúng ta khám phá ra rằng nó vẫn luôn kề cận bên chúng ta, nhưng vì chúng ta đã bị mù lòa và không nhận biết được sự hiện diện của nó đấy thôi. Bao giờ cũng có một số người đã thực hiện được điều này. Âm điệu của họ vang lên, tăng cường lòng tin của chúng ta, củng cố niềm hy vọng của chúng ta, và bảo đảm rằng rốt cuộc chúng ta sẽ có được kinh nghiệm ấy.

How then shall we recognise truth or reality when we meet it? How shall we know that a doctrine is of God, or not? It is so easy to make mistakes, to believe what we want to believe, and to deceive ourselves in the desire to have our own ideas endorsed by other minds. The words of Dr. [240] Streeter have here a definite note of encouragement because they indicate requirements that are possible for us to follow:

Vậy làm thế nào chúng ta nhận biết được chân lý hay sự thực khi tiếp xúc?  Làm sao chúng ta biết rằng một giáo lý là của Thượng Đế hay không?  Thật quá dễ mắc phải sai lầm, cả tin vào những cái mình muốn tin, và tự lừa dối mình khi muốn thấy ý tưởng của mình được người khác ủng hộ. Những lời sau đây của Ts. (240) Streeter có tính cách rất khích lệ, vì có đưa ra những yêu cầu mà chúng ta khả dĩ đáp ứng được:

“Even self-deception, the last stronghold of the enemy, will lose its power in proportion as the individual conforms to certain conditions which (in the view of the biblical writers) must be fulfilled to qualify him for the reception of an authentic message from the Divine—whether at the level of the epoch-creating prophet or of the simple person rightly guided on the path of everyday duty.

“Ngay cả sự tự dối mình, thành trì cuối cùng của kẻ thù, cũng mất đi quyền lực của nó, tương ứng với mức độ mỗi cá nhân tuân thủ một số điều kiện mà (theo quan điểm của những người viết Kinh thánh) phải được hoàn toàn đáp ứng để có đủ tư cách đón nhận bức thông điệp chân thực từ Thiêng liêng – dù ở tầm mức của nhà tiên tri có tầm quan trọng, hay ở mức của người bình dị được hướng dẫn đúng đắn trên con đường thi hành bổn phận hằng ngày.

“These are mainly four:

“Có bốn điều kiện chính yếu:

“(1) `I would fain be to the Eternal Goodness what his own right hand is to a man.’ Absolute devotion or surrender of the self to the Divine. `Here am I, send me,’ says Isaiah; and when Christ addressed to his earliest followers the words `Follow Me,’ we are told they left all and followed Him.

“(1)  ‘Tôi vui mừng hiến dâng cho Đấng Thượng Đế Vĩnh cửu những gì mà chính Ngài ban bố cho con người.’ Tuyệt đối hiến dâng hay phó thác cái tôi nhỏ bé cho Thiêng liêng.  Isaiah nói ‘Con ở đây, xin hãy phái con đi.’  Và khi Đức Christ phán với các tín hữu ban sơ của Ngài rằng ‘Hãy theo Ta,’ thì kinh sách có ghi rằng họ bỏ tất cả và đi theo Ngài.

“(2) Self-knowledge, and the consequent admission of failure. The promise `I will guide thee with mine eye,’ in the Psalm quoted above, is given to the man who has confessed his iniquity and thereby established a right relationship with God. The first response of Isaiah to the divine call was that flash of self-knowledge which brings home to a man a conviction of unworthiness and sin: `I am a man of unclean lips.’…

“(2)  Sự tự biết mình, và do đó thừa nhận sự thất bại. Lời hứa ‘Ta sẽ hướng dẫn con với tầm mắt của ta,’ trong Thánh ca trích dẫn trên đây, là dành cho người đã thú nhận sự bất công của mình, và do đó thiết lập được mối liên giao đúng đắn với Thượng Đế. Sự đáp ứng đầu tiên của Isaiah với tiếng gọi thiêng liêng là tia sáng tự biết mình, cũng dễ hiểu đối với người tin rằng mình chưa xứng đáng và còn tội lỗi: ‘Tôi là kẻ có lời nói chưa trong sạch.’ . . .

“(3) `Tarry ye… until ye be clothed with power from on high’ (St. Luke XXIV.49). But this life of power, a power instinct with love and joy and peace, can only with difficulty be lived continuously except in a fellowship, within which mutual challenge, mutual encouragement and mutual confession of failure are easy….

“(3)  ‘Hãy bền lòng . . . cho đến khi bạn được bao bọc bởi quyền năng từ trên trời’ (Thánh Luke XXIV.49).  Thế nhưng, khó có thể liên tục sống cuộc đời đầy quyền năng này, với khuynh hướng bẩm sinh là tình thương, niềm hoan hỉ và bình an, nếu không có tình bằng hữu, trong đó mọi người dễ dàng kích thích lẫn nhau, khuyến khích lẫn nhau và cùng nhau thú nhận sự thất bại. . . .

“(4) Entrance into such a life and such a fellowship involves some measure of suffering, sacrifice, or humiliation. `Whosoever doth not bear his own cross, and come after me, cannot be my disciple’ (Luke XIV.27). It is perhaps not an accident that already in the Old Testament the promise `Thine eyes shall hear a word behind thee, saying This is the way, walk ye in it,’ is preceded by the words `and though the Lord give you the bread of adversity and the water of affliction.’“ [ccxlii] 6

“(4)  Muốn đi vào cuộc sống như thế và tình bằng hữu như thế, cần có một mức độ chịu đau khổ, hy sinh, hoặc khiêm nhượng.  ‘Kẻ nào không vác thập tự giá của chính mình, và đi theo ta, thì không thể là môn đồ của ta’ (Luke XIV.27).  Có lẽ, không phải ngẫu nhiên mà trong Kinh Cựu ước có lời hứa ‘Mắt ngươi sẽ nghe lời nói phía sau ngươi, rằng Đây là con đường, ngươi hãy đi theo,’ nhưng trước đó có câu ‘và dù Chúa có cho ngươi bánh mì của ưu phiền, và nước uống của đau khổ.’ ”[6]

It takes courage to face the fact of death, and to formulate with definiteness one’s beliefs upon the subject. It is a statistical fact that about fifty million people die every year. [241] Fifty million people are more than the entire population of Great Britain, and constitute a large group of human beings who make the great adventure. If this is so, the establishing of the verity of Christ’s Resurrection and the truth of immortality are of far greater importance than the individual may deem. We are too apt to study these problems either from the scientific angle or from a purely selfish individual one. Death is the only event which we can predict with absolute certainty, and yet it is the event about which the majority of human beings refuse to think at all until faced with the imminent and personal issue. People face death in many different ways; some bring to the adventure a feeling of self-pity, and are so occupied with what they have to leave behind, what is about to end for them, and the relinquishing of all they have gathered in life, that the true significance of the inevitable future fails to arrest their attention. Others face it with courage, making the best of what may not be evaded, and look up into the face of death with a gallant gesture because there is nothing else they can do. Their pride helps them to encounter the event. Still others refuse altogether to consider the possibility; they hypnotise themselves into a condition wherein the thought of death is refused all lodgement in their consciousness, and they will not consider its possibility, so that when it comes, it catches them unawares; they are left helpless and unable to do more than simply die. The Christian attitude, as a rule, is more definitely an acceptance of the will of God, with the resolution to regard the happening as therefore the best of happenings, even if it does not seem so from the angle of environment and circumstance. A steadfast belief in God and His predestined purpose for the individual carries them triumphantly through the gate of death, but if one told them that this was simply another form of the fatalism of the Eastern thinker, and a fixed belief in an unalterable destiny, they would regard it as untrue. They hide behind the name of God.

Cần phải can đảm mới có thể đối diện với thực tế về sự chết, và có được niềm tin xác định về vấn đề này. Con số thống kê cho thấy khoảng năm chục triệu người chết mỗi năm. (241) Năm chục triệu người tức là đông hơn toàn dân số của Vương quốc Anh. Nó cho thấy một nhóm người đông đảo đang bước vào cuộc phiêu lưu vĩ đại này. Nếu quả như thế thì việc xác lập thực tế về sự Phục sinh của Đức Christ và sự thực về tính bất tử vốn có tầm quan trọng to tát hơn là mỗi cá nhân chúng ta có thể nghĩ. Chúng ta quá thường nghiên cứu các vấn đề này hoặc là từ góc nhìn khoa học, hoặc từ phương diện cá nhân thuần vị kỷ. Chết là sự kiện mà chúng ta có thể dự đoán một cách tuyệt đối chắc chắn. Tuy nhiên, nó lại là sự kiện mà đa số mọi người đều hoàn toàn không chịu nghĩ đến, mãi đến khi vấn đề đó sắp xảy ra cho cá nhân họ. Người ta đối diện với sự chết theo nhiều lối khác nhau. Một số người nghĩ đến cuộc phiêu lưu này và cảm thấy thương thân xót phận. Họ quá bận tâm về những gì họ phải bỏ lại, về những gì sắp chấm dứt đối với họ, và về việc phải buông bỏ tất cả những gì họ đã gom góp trong đời. Vì thế mà họ không chú ý gì đến thực nghĩa của cái tương lai tất yếu này. Những người khác can đảm nhìn thẳng vào sự chết, khai thác những gì hay nhất trong cái mà họ không thể tránh. Họ cũng giáp mặt sự chết với thái độ quả cảm, vì họ không thể làm cách nào khác. Họ đối diện với sự kiện này trong niềm tự hào. Cũng có những người khác hoàn toàn không chịu xét đến cái khả năng này. Họ tự thôi miên mình đến độ không có bất cứ ý nghĩ gì về sự chết được ghi vào ý thức của họ. Họ không bao giờ nghĩ rằng mình có thể chết. Vì thế, đến lúc chết, họ bị nó cuốn đi trong tình trạng vô ý thức. Họ rơi vào trong vô vọng, và không thể làm gì khác hơn là chỉ chịu chết. Thông thường, thái độ của người Thiên Chúa giáo rõ ràng chấp nhận đó là ý Chúa. Vì thế, họ quyết xem sự việc xảy ra này là điều tốt nhất, cho dù nó có vẻ không đúng như thế, theo góc độ của môi trường sống và hoàn cảnh của họ. Vững tin vào Chúa và tin vào mục đích định sẵn của Ngài cho mỗi cá nhân giúp họ đi qua cửa tử một cách vẻ vang. Thế nhưng, nếu ai đó nói với họ rằng niềm tin này chỉ là một dạng khác của thuyết định mệnh ở phương Đông, và là khư khư tin vào số mệnh không thể thay đổi, thì họ sẽ không cho là đúng. Họ lẩn trốn phía sau danh hiệu của Chúa.

Death can, however, be more than these things, and can be met in a different way. It can be made to hold a definite [242] place in life and thought, and we can prepare for it as something which cannot be evaded, but which is simply the Bringer of Changes. Thus we make the process of death a planned part of our entire life purpose. We can live with the consciousness of immortality, and it will give an added colouring and beauty to life; we can foster the awareness of our future transition, and live with the expectation of its wonder. Death thus faced, and regarded as a prelude to further living experience, takes on a different meaning. It becomes a mystical experience, a form of initiation, finding its culminating point in the Crucifixion. All previous lesser renunciations prepare us for the great renunciation; all earlier deaths are but the prelude for the stupendous episode of dying. Death brings us release—temporary perhaps, though eventually permanent—from the body nature, from existence on the physical plane and its visible experience. It is a setting free from limitation; and whether one believes (as many millions do) that death is only an interlude in a life of steadily accumulating experience, or the end of all such experience (as many other millions hold), there is no denying the fact that it marks a definite transition from one state of consciousness into another. If one believes in immortality and the soul, this transition may make for an intensification of consciousness; while if the materialistic point of view dominates, it may indicate the end of conscious existence. The crucial question is, therefore: Is that which we call the soul immortal? What is the meaning of immortality?

Tuy nhiên, sự chết khả dĩ có nhiều ý nghĩa hơn những điều vừa kể, và chúng ta có thể đối diện với nó theo lối khác. Ta có thể cho nó một vị trí xác định (242) trong cuộc sống và tư tưởng. Ta có thể chuẩn bị đón nhận nó như một điều không thể tránh, nhưng đơn thuần chỉ là một Tác nhân mang lại Thay đổi. Bằng cách này, chúng ta làm cho tiến trình tử vong trở nên một thành phần được trù liệu trong toàn mục đích cuộc sống của mình. Chúng ta có thể sống với ý thức về sự bất tử, nó khiến cho cuộc sống thêm nhiều màu sắc và mỹ lệ. Chúng ta có thể tăng cường ý thức về giai đoạn chuyển tiếp của mình trong tương lai, và sống với dự kiến về điều kỳ diệu của nó. Khi đối diện với sự chết như thế, và xem nó là phần mở đầu cho kinh nghiệm sống động hơn, ta thấy được một ý nghĩa khác. Nó trở thành một kinh nghiệm thần bí, một hình thức điểm đạo, đi đến tột đỉnh trong Thập giá hình. Tất cả những sự từ bỏ nho nhỏ trước đây là nhằm chuẩn bị cho chúng ta đến sự từ bỏ lớn lao. Tất cả những lần chết trước đây đều chỉ là khúc dạo đầu cho giai đoạn chết một cách kỳ diệu. Sự chết giúp chúng ta giải thoát – có lẽ chỉ tạm thời, dù rốt cuộc thì vĩnh viễn – khỏi bản chất thân xác, khỏi đời sống và kinh nghiệm hữu hình ở cõi trần. Nó giúp chúng ta thoát ra khỏi các giới hạn. Người ta tin (như muôn triệu người khác tin) rằng chết chỉ là một thời gian ngơi nghỉ trong cuộc sống liên tục tích lũy kinh nghiệm. Trong khi muôn triệu người khác thì tin rằng chết là chấm dứt tất cả các kinh nghiệm đó. Dù sao, không ai phủ nhận rằng nó là một sự chuyển tiếp rõ rệt từ một trạng thái ý thức này đến một trạng thái ý thức khác. Nếu người ta tin vào sự bất tử và linh hồn, thì sự chuyển tiếp này có thể giúp cho tâm thức tăng cường và rộng mở hơn. Nếu theo quan điểm duy vật, thì chết là chấm dứt sự hiện hữu có ý thức. Vì thế, câu hỏi quan trọng là: Cái mà chúng ta gọi là linh hồn thì có tính bất tử hay chăng?  Sự bất tử có ý nghĩa gì?

It is urgent today that we recover some form of faith in the inner subjective world, and in our relation to it. Upon this, the success of the work and message of Christ must rise or fall. These are days wherein everything is being questioned—and the fact of the soul and its immortality perhaps most of all. This is a necessary and valuable stage, provided we go on seeking answers to these questions.

Ngày nay chúng ta cần mau chóng phục hồi một hình thức tin tưởng nào đó vào thế giới chủ quan nội tại, và tin vào mối liên hệ của chúng ta với nó. Công việc và bức thông điệp của Đức Christ đạt mức thành công nhiều hay ít là tùy theo sự tin tường này. Nay là những ngày tháng mà mọi sự đều được tìm hiểu – và trong đó có lẽ sự thực về linh hồn và tính bất tử của linh hồn là câu hỏi lớn nhất. Đây nhất thiết là một giai đoạn rất có giá trị, miễn là chúng ta tiếp tục tìm kiếm đáp án cho các câu hỏi nói trên.

Many may regard these “moral disturbances” as hopeful indications of an emergence from the static condition in all [243] realms of human thought which marked the early part of the last century, and that we are today on the verge of a new era of truer spiritual values. But the newer structures of faith and conduct must have their foundations deep in the best that the past has to give. The ideals which Christ enunciated still remain the highest yet given in the continuity of revelation, and He Himself prepared us for the emergence of those truths which will mark the time of the end and the overcoming of the last enemy, whose name is Death.

Nhiều người có thể xem “những rối loạn về đạo đức” này là dấu hiệu đầy triển vọng về sự vượt ra khỏi tình trạng tĩnh tại trong tất cả (243) các lĩnh vực tư tưởng của nhân loại, rất rõ rệt trong đầu thế kỷ trước. Nó cũng cho thấy rằng ngày nay chúng ta đang sắp bước vào một thời đại mới của những giá trị tinh thần chân thực hơn. Nhưng các cấu trúc mới mẻ hơn của niềm tin và hạnh đức phải đặt nền móng sâu xa trong những gì tốt đẹp nhất mà quá khứ đã cho ta. Các lý tưởng mà Đức Christ đã đưa ra, cho đến nay vẫn là những lý tưởng cao cả nhất đã được đưa ra trong cuộc thiên khải liên tục. Đồng thời chính Ngài chuẩn bị cho chúng ta đón nhận những chân lý sẽ đánh dấu thời kỳ chấm dứt và thắng phục kẻ thù cuối cùng, tức là sự Chết.

This questioning of belief, and this wrestling with an inherent hope must go on until assurance has been gained, belief has become knowledge, and faith, certainty. Man knows incontrovertibly that there is a goal greater than his petty aims, and that a life exists which will embrace his widest reach, enabling him eventually to attain his highest, though dimly sensed, ideal. A consideration of the Resurrection may provide a greater surety, provided we keep in mind the long continuity of revelation given out by God, and realise that we can know little as yet beyond the fact that Sons of God have died and risen again, and that behind that fact lies a cause which is basic.

Sự băn khoăn thắc mắc về niềm tin này, và sự phấn đấu có mang nguồn hy vọng cố hữu này phải tiếp tục cho đến khi có được sự bảo đảm chắc chắn, niềm tin trở thành hiểu biết, và tín ngưỡng trở thành xác tín. Bấy giờ người ta thấy rõ rằng có mục đích lớn lao hơn những mục tiêu nhỏ bé của mình. Họ cũng biết rằng hiện có nguồn sống bao trùm cả phạm vi thấu hiểu sâu rộng nhất của mình. Nguồn sống ấy rốt cuộc giúp họ đạt được lý tưởng cao nhất có thể, dù hiện nay họ chỉ cảm thấy lờ mờ. Khi xem xét kỹ về sự phục sinh, chúng ta có thể cảm thấy bảo đảm chắc chắn hơn, khi ghi nhớ cuộc thiên khải lâu dài và liên tục của Thượng Đế. Đồng thời chúng ta cũng nhận thức rằng cho đến nay chúng ta chưa thể biết nhiều hơn sự thực về những Người Con của Thượng Đế đã chết và đã sống lại, và ẩn trong sự thực ấy có ẩn tàng một nguyên nhân cơ bản.

The Tibetans speak of the process of death as that of “entering into the clear cold light.” [ccxliii]7 It is possible that death can be best regarded as the experience which frees us from the illusion of form; and this brings clearly to our minds the realisation that when we speak of death we are referring to a process which concerns the material nature, the body, with its psychical faculties and its mental processes. This therefore can be narrowed down to a query as to whether we are the body and nothing but the body, or whether the ancient scripture of India was right when it pointed out that:

Người Tây Tạng nói rằng tiến trình tử vong là “đi vào vùng ánh sáng lạnh lẽo và trong trẻo.”[7]  Có thể xem khía cạnh tốt nhất của sự chết là cái kinh nghiệm giúp chúng ta thoát khỏi ảo tưởng về hình thể. Điều này khiến chúng ta nhận thức rõ rằng khi nói đến sự chết tức là chỉ về một quá trình liên quan đến phương diện vật chất, đến thân xác, cùng với các tính năng tâm lý và tiến trình trí tuệ của nó. Vì thế, khả dĩ tóm gọn vấn đề này vào câu hỏi liệu chúng ta có phải là thân xác và chẳng là gì khác ngoài thân xác hay không, hoặc phải chăng thánh kinh cổ xưa của Ấn Độ đã đúng khi nói rằng:

“Certain is the death of what is born, and certain is the birth of what dies; therefore, deign not to grieve in a matter that is inevitable…. This lord of the body dwells ever immortal in the body of each.” [ccxliv]8

“Chắc hẳn rằng những gì có sinh tất có diệt, và chắc hẳn rằng những gì có diệt tất có sinh. Thế nên, đừng nên đau buồn về một vấn đề không thể tránh. . . . Vị chúa tể này của thân xác vốn bất tử, và ẩn ngự trong thân xác của mỗi người.”[8]

[244]

(244)

A modern Christian poet has expressed the same idea in the following beautiful words:

Một thi sĩ Thiên Chúa giáo thời nay cũng nói lên cùng ý tưởng này trong những dòng đầy thi vị sau đây:

“Death is to life as marble to the sculptor,

“Với đời sống, chết là cẩm thạch của nhà điều khắc,

Waits for the touch that lets the soul go free;

Chờ nhát đục chạm vào để khai phóng linh hồn;

Death is that moment when the swimmer feels

Chết là phút giây mà tay bơi cảm thấy

The swift pain of the plunge into the pool,

Cái nhói đau khi lao vút vào hồ

Followed by laughter where the bubbles flow

Rồi cười vang trong dòng tung bọt trắng

From the divided water and the sun

Khi mặt trời và mặt nước chia đôi

Turns them to crystal: life and light are one.”

Cùng biến thành pha lê: sự sống và ánh sáng trong nhất thể.”[9]

 [ccxlv]9

It might here be pertinent to enquire what it is that we seek to see endure. An analysis of one’s attitude to the whole question of death and immortality can frequently serve to clear one’s mind of indefiniteness and vagueness, with their base in fear, in mental inertia, and in confused thinking. The following questions therefore come to one’s mind, and warrant consideration.

Đến đây, câu hỏi thích hợp là điều gì mà chúng ta mong muốn thấy tồn tại mãi. Khi mỗi người phân tích thái độ của mình đối với trọn cả vấn đề sự chết và tính bất tử, họ thường có thể tẩy sạch ra khỏi tâm trí mình những điều mơ hồ và bất định. Chúng vốn dựa vào nỗi sợ hãi, sự trì trệ trong trí tuệ, và suy tư lẫn lộn. Vì thế, những câu hỏi sau đây được đặt ra, đáng cho chúng ta xem xét.

How do we know that the process of death brings about such definite changes in our consciousness that it proves fatal to us, as sentient beings, and renders futile all previous effort of thought, development and understanding? The wonder of Christ’s Resurrection, as far as His Personality was concerned, consisted in the fact that, after having passed through death and risen again, He was essentially the same Person, only with added powers. May it not be the same with ourselves? May not death simply remove limitation in the physical sense, leaving us with enhanced sensibilities and a clearer sense of values? This life has moulded us and wrought us into certain definite expressions in form and quality, and these, rightly or wrongly, constitute that which is the Self, that which is the real man, from the angle of human life. There is something in us that refuses final identification with the physical form, in spite of what science and the inexperienced may tell us. An intuitive, substantial inner Self steadily and universally repudiates annihilation, and holds firmly to the belief that the search and the goal, the values [245]perceived and for which we struggle, must somewhere, some time, in some manner, prove themselves worth while. Any other point of view argues for the utter lack of an intelligent plan in existence, and leads to the despair which St. Paul expressed in the words: “If in this life only we have hope in Christ, we are of all men most miserable.” [ccxlvi]10 We are surely on our way towards something of value and dynamic worth; otherwise life is a futile process of aimless wanderings; of caring for a body and educating a mind which have no worth of any kind, and are of no value to God or men. This, we know, cannot be the case.

Làm sao chúng ta biết rằng quá trình tử vong mang lại những thay đổi rõ rệt trong tâm thức chúng ta đến đỗi đối với chúng ta, những chúng sinh hữu tình, nó có vẻ thật tai hại, làm vô hiệu tất cả các cố gắng trước đó trong tư tưởng, phát triển và thông hiểu?  Sự Phục sinh của Đức Christ, liên quan đến Cá nhân Ngài, có tính cách kỳ diệu vì sau khi đã đi qua cửa tử và sống lại, chính yếu Ngài vẫn là một, chỉ khác là có thêm quyền năng. Vậy rồi chúng ta cũng có thể như thế sao?  Phải chăng sự chết chỉ loại bỏ những giới hạn hiểu theo nghĩa hồng trần, giúp chúng ta thêm nhạy bén, tinh tế, và ý thức về giá trị rõ rệt hơn?  Cuộc sống này đã nắn đúc chúng ta và khiến chúng ta có những biểu lộ nào đó trong hình thể và đặc tính. Dù đúng hay sai, những biểu lộ này cũng tạo thành cái Ngã, là con người thực, hiểu theo phương diện đời sống nhân loại. Trong chúng ta có một điều gì đó không chịu cuối cùng đồng hóa với hình thể hồng trần, dù khoa học và những người thiếu kinh nghiệm có thể nói với chúng ta như thế nào. Mọi cái Ngã có khả năng trực giác, và mạnh mẽ ở nội tâm đều mãi mãi phủ nhận sự hủy diệt. Nó tin chắc rằng việc tìm kiếm mục tiêu, các giá trị (245) nhận thức được và vì đó mà chúng ta phấn đấu, hẳn phải là những điều đáng làm ở một nơi nào đó, trong thời gian nào đó, bằng cách nào đó. Bất cứ quan điểm nào khác lập luận rằng cuộc sống này hoàn toàn không có một kế hoạch nào thông minh cả, đều dẫn đến sự tuyệt vọng mà Thánh Paul nói đến trong câu: “Nếu trong cuộc đời này chúng ta không có niềm hy vọng vào Đức Christ, thì chúng ta là những người thật khốn khổ.”[10]  Chắc chắn rằng chúng ta đang trên đường tiến đến một điều gì đó thực có giá trị và đáng cho chúng ta nỗ lực. Nếu không, thì cuộc đời này chỉ là một tiến trình vô ích, đi lang thang không mục đích. Trong đó chúng ta lo cho thân xác và rèn luyện trí tuệ không với mục tiêu nào xứng đáng, và không có giá trị gì đối với Thượng Đế hay con người. Chúng ta biết rằng không thể nào như thế được.

It is the prolongation of value, of that which is worth while, and the continuation of the persistent, inner, divine incentive to progress, to create and to benefit others, that seem, to those who have reached the point where thought is consecutively possible, to hold the clue to the problem of immortality. The entire story of Christ goes to prove this. He had, throughout His life of consecrated service and devotion to His fellowmen, proved that He had reached the point in His evolution wherein He had somewhat to contribute to the good of the whole; He had attained altitude on the evolutionary ladder, and His humanity was lost to sight in the divinity which He expressed. He had that which was of worth to offer to God and man, and He offered it upon the Cross. It cost Him His life to make His contribution to the source of the whole body corporate, but He made it. Because of the worth of what He had achieved, and the value of the livingness of His contribution, He could demonstrate immortality. It is the immortal value which survives, and where that value exists the soul needs no more the school of human experience.

Những ai đã đến trình độ có khả năng tư duy liên tục đều có thể biết được manh mối của vấn đề bất tử. Dường như đó là những giá trị lâu bền, xứng đáng, và động lực thiêng liêng, bền bỉ ở nội tâm để tiến bộ, sáng tạo và giúp ích người khác. Toàn cả câu chuyện cuộc đời của Đức Christ đều nhằm chứng tỏ điều này. Trong suốt cuộc đời hiến mình phụng sự và trợ giúp đồng bào mình, Ngài chứng tỏ đã đạt đến trình độ tiến hóa có khả năng góp phần mang lại lợi ích cho toàn thể. Ngài đã đạt đến đỉnh cao trên thang tiến hóa, và nhân tính nơi Ngài tan hòa trong thiên tính đã biểu lộ. Ngài đã có những điều xứng đáng để hiến dâng cho Thượng Đế và cho con người, và Ngài đã làm điều đó trên Thập tự giá. Ngài phải hy sinh mạng sống của mình để góp phần vào nguồn cội của cái toàn thể, nhưng Ngài vẫn hy sinh. Ngài có thể biểu dương tính bất tử qua những gì xứng đáng mà Ngài đã thành tựu, và qua giá trị sống động mà Ngài đã góp phần. Giá trị bất tử vốn còn mãi, và khi có được giá trị đó thì linh hồn không còn cần học thêm những kinh nghiệm của đời người.

This thought gives rise to the question: What is it, therefore, that we seek to see survive? What part of ourselves do we regard as desirably immortal? What in each of us warrants persistence? Surely none of us seek to see the physical body resurrected, nor are we anxious again to be trammelled [246] and confined by the present limiting vehicle in which most of us find ourselves. Its value seems inadequate for the experience of resurrection and for the gift of immortality. Nor are we desirous, surely, of seeing the same psychic nature, with its aggregate of moods and feelings and sentient reactions to environing condition, hold sway over us again. Equally surely, none of us are pleased to contemplate the old idea of a sugary heaven wherein we pass our time clothed in white robes, singing and talking upon religious matters. We have outgrown these ideas, and to them Christ Himself is a direct refutation. He rose from the dead and entered upon a life of increased active service. The “other sheep” which He had to gather must be sought and shepherded; [ccxlvii]11 His disciples must be trained and taught; His followers must be guided and helped; the kingdom of God must be organised on earth. And still the risen Christ moves among us, often unrecognised, but busy with the task of world salvage and service. There is no heaven of peace and rest and inactivity for Christ whilst we remain unsaved; there is surely none for us who seek to follow in His footsteps.

Tư tưởng này làm phát sinh câu hỏi: Vậy, chúng ta muốn thấy điều gì còn sống mãi?  Điều gì nơi mình mà chúng ta xem là đáng nên bất tử?  Điều gì nơi mỗi người đáng được tồn tại?  Chắc hẳn không ai muốn thấy thể xác được phục sinh. Và cũng không ai muốn bị trở ngại (246) và giảm hãm trong cái cơ thể hữu hạn mà hầu hết chúng ta hiện đang ở trong đó. Dường như nó chưa đủ giá trị để được phục sinh cũng như để được bất tử. Chắc chắn rằng chúng ta cũng không muốn thấy cái bản chất tâm lý, với tập hợp những tâm trạng, xúc cảm và phản ứng tình cảm đối với điều kiện chung quanh, lại tiếp tục lung lạc mình thêm nữa. Cũng chắc là không ai trong chúng ta lại muốn suy ngẫm cái ý tưởng cũ kỹ về một cõi thiên đàng ngọt ngào, nơi mà chúng ta mặc áo choàng trắng, cứ mãi ca hát và nói về những vấn đề tôn giáo. Chúng ta đã trưởng thành nhiều hơn những ý tưởng ấu trĩ này, và chính cuộc đời của Đức Christ cũng cho thấy chúng là vô giá trị. Ngài đã sống lại từ cõi chết, và bước vào cuộc sống phụng sự ngày càng linh hoạt. Ngài phải tìm kiếm “những bầy cừu khác,” gom chúng lại và chăn dắt.[11]  Ngài phải giáo huấn các môn đồ. Ngài phải hướng dẫn và trợ giúp các tín hữu. Cần phải tổ chức Thiên giới trên thế gian. Và Đức Christ sống lại vẫn còn hoạt động giữa chúng ta, thường thì không ai hay biết, nhưng Ngài vẫn bận rộn với công việc cứu rỗi và phụng sự thế gian. Đối với Đức Christ, không hề có cõi thiên đàng nào để an nghỉ và ngưng hoạt động trong khi con người vẫn chưa được cứu vớt. Với những người cố gắng đi theo bước chân Ngài, thì chắc hẳn cũng không có cõi thiên đường nào như thế.

When a man’s life has gained significance, then he is ready to tread the path of purification and probation in preparation for the mysteries; as his significance and influence increase he can pass, stage by stage, through the processes of initiation, and tread the path of holiness. He can be “born in Bethlehem,” because the germ of that which is dynamic and living is awakened and is gaining potency and significance, and must therefore make its appearance; he can pass through the waters of purification, and attain the mountain-top of transfiguration where that which is of worth shines forth in all its glory. Having achieved that moment of heightened experience, and that which he has of value being recognised by God as worth while, he is then, and then only, ready to offer his life upon the altar of sacrifice and of service, and can set his face to go up to Jerusalem, there to be crucified. It is the inevitable end to that which is of worth. It is the underlying [247] purpose of the whole process of perfecting, as there is now something worthy to be offered. But though this may be the end of the physical expression of worth, it is essentially the moment of the triumph of value, and the demonstration of its immortality. For that which is of value, the divine and hidden beauty which life-experience and initiation have served to reveal, cannot die. It is essentially immortal, and must live. This is the true resurrection of the body. When the consciousness of value and of worth, and the recognition of man’s reach, as well as his grasp, are considered, the life of service (leading to death) and of resurrection (leading to full citizenship in the kingdom of God) begin to gain in meaning. The body which we now have is relatively worthless; the sum total of moods and mental reactions to which we now submit is of no value to anyone but ourselves; the environment in which we live and move has in it surely nothing to warrant its endless perpetuation. In short, a continuance of the personal self in some heaven which is the extension of our own individual consciousness, and the concept of an endless eternity lived with oneself, have for most of us no allurement whatsoever. Yet an aspect of oneself longs for immortality and the sense of infinity. The “endless prolongation in time of a self’s career” has led to much confusion of thought. Few of us, if asked seriously to consider the problem and seriously to give an answer, would feel that as individuals we warrant arrangements being made for our endless persistence. A sense of truth and justice might lead us honestly to the conclusion that our value to the universe is practically nil. And yet we know that there is a value and a reason behind all our life experience, and that the phenomenal world, of which we are indubitably a part, veils or hides something of infinite value, of which we are also a part.

Khi cuộc sống của hành giả bắt đầu có ý nghĩa, thì bấy giờ y sẵn sàng tiến bước lên con đường tinh luyện và thử thách, dọn mình để đón nhận các bí nhiệm. Khi ý nghĩa và ảnh hưởng của y trong đời sống gia tăng, y có thể, từng giai đoạn, đi qua các tiến trình điểm đạo, và bước vào con đường thánh đạo. Y có thể được “sinh ra ở Bethlehem,” vì hạt mầm thiêng liêng, sống động đã bừng tỉnh, đang gia tăng mãnh lực để hiển lộ. Y có thể đi qua những dòng nước tinh luyện, và đạt đến đỉnh núi biến dung, nơi mà những gì xứng đáng đều chói ngời trong ánh vinh quang. Bấy giờ y đến giây phút trải nghiệm cao siêu, và những gì có giá trị trong y đều được Thượng Đế công nhận là xứng đáng. Chừng đó, và chỉ chừng đó, y mới sẵn sàng hiến dâng đời mình trên bàn thờ hy sinh và phụng sự. Và chừng đó y mới có thể chăm chăm đi đến thành Jerusalem, để chịu khổ hình thập tự. Đó là kết cục tất nhiên của những gì đáng làm. Đó là mục đích (247) ẩn tàng trong toàn tiến trình hoàn thiện, vì giờ đây không có điều gì khác đáng được hiến dâng. Dù điều này có thể là sự chấm dứt những biểu lộ xứng đáng ở cõi trần, chính yếu nó vẫn là thành tựu vẻ vang của giá trị cao đẹp, và biểu dương tính bất tử. Bởi vì chân giá trị, sự sống thiêng liêng, và sự mỹ lệ ẩn tàng thì không thể nào mai một. Chính yếu nó vốn bất tử và hằng sống. Đây là sự phục sinh đích thực của xác thân. Hành giả cần xem xét kỹ ý thức của mình về những điều giá trị và xứng đáng, và nhận thức được khả năng cũng như tầm hiểu biết của chính mình. Bấy giờ y mới bắt đầu thấy được ý nghĩa của cuộc đời phụng sự (đưa đến sự chết) và sự phục sinh (với đầy đủ tư cách công dân của Thiên giới). Thân xác mà chúng ta hiện có vốn tương đối không có bao nhiêu giá trị. Tất cả các tính khí và phản ứng trong tâm trí với những gì mà chúng ta đang chịu chi phối thì không có giá trị gì đối với bất cứ ai khác ngoài chúng ta. Môi trường mà chúng ta đang sống và hoạt động trong đó thì chắc hẳn là không có gì đáng được trường tồn vĩnh cửu. Nói tóm lại, đối với phần đông chúng ta, sự tiếp tục tồn tại của phàm ngã trong một cõi trời nào đó, vốn là sự kéo dài ý thức của cá nhân mình, và ý tưởng về việc sống mãi với cái tôi của mình, thì chẳng có gì thú vị. Vậy mà một phương diện trong ta vẫn khao khát sự bất tử và cảm thức về cái vô hạn. Cho rằng “cuộc sống của cái tôi kéo dài vô tận theo thời gian” đã khiến nhiều người nhầm lẫn trong suy nghĩ. Nếu được yêu cầu nghiêm túc xem xét vấn đề và đưa ra câu trả lời nghiêm túc, thì ít có ai trong chúng ta cảm thấy rằng với tư cách cá nhân chúng ta đáng được những sắp xếp để tồn tại mãi. Với ý thức chân thật và công bằng, chúng ta có thể thành thực kết luận rằng giá trị của chúng ta so với vũ trụ thực tế là con số không. Vậy mà chúng ta biết rằng ẩn trong toàn thể kinh nghiệm sống của mình vốn có một giá trị và lý do. Chúng ta cũng biết rằng thế giới hiện tượng mà hiển nhiên chúng ta là thành phần trong đó, lại che giấu hay ẩn giấu điều vốn có giá trị vô hạn mà chúng ta cũng là thành phần trong đó.

We seek assurance that those whom we love and value are not lost to us. We seek to share with them some state of happiness which will have in it truer values than any we [248] have known on earth; we long to prolong, in time and space, the familiar state which we love and cherish. We desire compensation for what we have endured, and the realisation that everything has had a purpose and has been worth while. It is this longing, this belief, this determination to persist, which lies behind all achievement and which is the incentive and impulse upon which we base all effort. Socrates pointed out this basic argument for immortality when he said that “no-one knows what death is, and whether it is not the greatest of all good things. Nevertheless, it is feared as if it were the supreme evil…. When death comes near to man that which is mortal in him is scattered; that which is immortal and incorruptible withdraws intact.”

Chúng ta mong muốn biết chắc rằng mình không hề bị mất những người mà mình yêu thương và quí trọng. Chúng ta tìm cách chia sẻ với họ một trạng thái hạnh phúc nào đó vốn có giá trị đích thực hơn bất cứ điều gì chúng ta (248) đã biết ở thế gian. Chúng ta mong muốn duy trì tình trạng quen thuộc mà chúng ta yêu thương, tríu mến, trong thời gian và không gian. Chúng ta mong được đền bù cho những gì mà chúng ta đã phải gánh chịu, và nhận thức rằng mọi sự đều có mục đích, và đáng làm. Chính sự mong mỏi này, niềm tin này, và quyết tâm này vẫn tồn tại. Chúng ẩn trong tất cả mọi thành tựu, là sức kích thích và thôi thúc cho mọi nỗ lực của chúng ta. Socrates nêu rõ luận điểm cơ bản này về sự bất tử khi ông nói rằng “không ai biết được chết là như thế nào, và phải chăng nó là điều trọng đại nhất trong mọi sự tốt lành. Tuy nhiên, người ta lại sợ nó như thể nó là điều ác hại nhất. . . . Khi một người sắp từ trần, những gì hữu tử trong y bị tan rã; trong khi những gì bất tử và bất hoại thì rút lui và vẫn còn nguyên vẹn.”

Three thoughts are of importance in considering this problem of value, which is so amazingly evidenced by Christ, and which was the true reason why He rose again. His immortality was based upon His divinity. His divinity expressed itself through human form, and in that form evidenced value, destiny, service and purpose. All of these He demonstrated perfectly, and therefore death could not hold Him, nor could the chains of the grave prevent His liberation.

Có ba điều quan trọng khi xem xét vấn đề giá trị này. Nó được Đức Christ chứng tỏ hết sức tuyệt vời, và là lý do thực sự cho thấy vì sao Ngài sống lại. Ngài bất tử là nhờ thiên tính của Ngài. Thiên tính ấy tự biểu lộ qua hình thể con người, và chứng tỏ giá trị, vận mệnh, công tác phụng sự và mục đích tinh thần trong hình thể ấy. Ngài biểu dương tất cả những điều này một cách hoàn hảo. Vì thế mà sự chết không thể cầm giữ Ngài, và xiềng xích của nấm mồ không thể ngăn cản Ngài trên đường giải thoát.

The first thought is that immortality is the safeguarding of what we really care about. The factor on which we place the emphasis in our daily lives survives and functions on some level of consciousness. We must, and do, eventually attain what we demand. When we care for that which is eternal in value, then eternal life, free from the limitations of the flesh, is ours. Dean Inge tells us that “in so far as we can identify ourselves with the absolute values, we are sure of immortality.” What we really care about, then, in our highest moments, when free from the illusions of the emotional nature, determines our immortal life.

Trước hết, sự bất tử là bảo đảm cho tất cả những gì chúng ta thực sự quan tâm. Yếu tố mà chúng ta chú trọng trong đời sống hằng ngày của mình, vẫn tồn tại và hoạt động trên một cấp độ ý thức nào đó. Nhất định và đương nhiên rốt cuộc chúng ta sẽ đạt được điều mình yêu cầu. Khi chúng ta quan tâm đến điều có giá trị vĩnh cửu, thì chúng ta có sự sống vĩnh cửu, hoàn toàn tự do đối với các giới hạn của thân xác. Dean Inge nói rằng “ngày nào chúng ta có thể tự đồng nhất với các giá trị tuyệt đối, thì chắc chắn chúng ta là bất tử.”  Thế nên, điều chúng ta thực quan tâm, trong những phút giây tinh thần dâng cao nhất, không còn bị chi phối bởi ảo tưởng và bản chất xúc cảm, sẽ là yếu tố quyết định sự sống bất tử của mình.

The question then arises as to what occurs when the sense of values is distorted or temporarily nonexistent. In an attempt to meet this question millions of people have accepted [249] the Oriental doctrine of rebirth, which states the world to be the “vale of soul-making,” as Keats calls it, and which teaches that we return again and again to physical life, until the time comes when our values are properly adjusted, and we can pass through the five initiations into liberation. Much of the teaching given in the occult and esoteric books is distorted and fanciful, but that there is much to be said for the doctrine of rebirth is evident to the unprejudiced student. In the last analysis, if perfection is to be ultimately achieved, the question is merely one of time and location. The Christian may believe in a sudden perfecting through the process of death itself, or in a mental acceptance of the death of Jesus, which he calls “conversion”; he may regard death as the door into a place of discipline and development which he calls “purgatory,” where a purificatory process goes on; or he may believe that in heaven itself adjustments are made and expansions of consciousness are undergone which render him a different man from what he was before. The Oriental may believe that the earth provides adequate facilities for the training and developing processes, and that again and again we return, until we have reached perfection. The goal remains one. The objective is identical. The school is in a different place, and the consciousness is unfolded in varying localities. But that is all. Plato held that:

Vậy điều gì xảy ra khi chúng ta tạm thời mất đi ý thức về giá trị hoặc khi nó bị lệch lạc?  Để trả lời câu hỏi này, muôn triệu người đã chấp (249) nhận giáo lý về tái sinh của Đông phương. Giáo lý này nói rằng thế giới chúng ta là “thung lũng rèn luyện linh hồn,” theo cách gọi của Keats. Nó cũng dạy rằng hết lần này đến lần khác, chúng ta trở lại sống ở cõi trần, cho đến khi các giá trị sống của mình được điều chỉnh thích hợp, và chúng ta có thể trải qua năm cuộc điểm đạo đưa đến giải thoát. Phần nhiều giáo huấn đưa ra trong các sách vở huyền bí và nội môn đều bị lệch lạc và hoang tưởng. Thế nhưng hầu hết những gì nói về giáo lý tái sinh đều trở nên hiển nhiên đối với người môn sinh không thành kiến. Xét cho cùng, nếu rốt cuộc ai cũng sẽ đạt được sự hoàn thiện, thì vấn đề chỉ là thời gian và nơi chốn. Người Thiên Chúa giáo có thể tin vào việc bỗng nhiên hoàn thiện qua chính quá trình tử vong, hoặc nhờ trong tâm trí chúng ta chấp nhận sự chết của Jesus, mà họ gọi là “được hoán cải.”  Họ cũng có thể xem sự chết là cánh cửa đi vào nơi trừng giới và phát triển, được gọi là “luyện ngục,” ở đó có tiến trình thanh tẩy liên tục. Hoặc họ cũng có thể tin rằng ngay trên thiên đàng sẽ có những điều chỉnh và họ được mở mang tâm thức để trở thành người khác với trước kia. Người Đông phương có thể tin rằng thế gian này có đủ phương tiện cho các tiến trình rèn luyện và phát triển. Họ tin rằng chúng ta trở lại cõi đời hết lần này đến lần khác, cho đến khi đạt được sự hoàn thiện. Vậy mục tiêu vẫn là một. Các trường phái ở những nơi chốn khác nhau, và tâm thức được khái mở trong những địa phương khác nhau. Nhưng tất cả chỉ có thế. Plato cho rằng:

“Confined in the body as in a prison… the soul seeks its pristine sphere of pure rationality by pursuing the philosophic life, by thinking the universal, by loving and living according to reason. The bodily life is but an episode in the eternal career of the soul, which precedes birth and proceeds after death. Life in the flesh is a trial and a probation; death, the release and the return to the soul’s destiny; to another term of probation, or to the realm of pure reason.”

“Bị giam hãm trong thân xác như trong ngục tù . . . linh hồn tìm lại phạm vi thuần lý bản sơ của mình bằng cách sống cuộc đời triết lý, suy tư trong lĩnh vực đại đồng, mở lòng yêu thương, và sống theo lý trí. Cuộc sống trong thân xác chỉ là một giai đoạn trong cuộc hành trình vĩnh cửu của linh hồn, vốn có trước khi chúng ta sinh ra và vẫn tiếp diễn sau khi ta từ giả cõi trần. Cuộc sống trong xác thân là một sự thử nghiệm và thử thách. Chết tức là được giải thoát và trở về với vận mệnh của linh hồn. Rồi ta đến một thời kỳ thử thách khác, hoặc đi vào lĩnh vực thuần lý.”

In some place, consciously and willingly, we must learn to enter and work in the world of values, and so fit ourselves for citizenship in the kingdom of God. It was the demonstration of this that Christ gave.

Ở một nơi nào đó, chúng ta phải hữu ý và tự nguyện học tập để đi vào và hoạt động trong thế giới của chân giá trị, để đủ điều kiện trở thành công dân của Thiên giới. Đức Christ đã chứng tỏ điều này.

[250]

(250)

The second thought which should be considered is that man’s effort, his struggle to achieve, his sense of God, innate and true, his constant effort to better conditions and to master himself as well as the natural world, must have an objective; else all that we see going on around is void, futile and senseless. It was this command of Himself and of the elements of nature, and the undeviating direction of His purpose, that led Christ from point to point and enabled Him to open the door into the kingdom and to rise from the dead, the “first fruits of them that slept.” [ccxlviii] 12

 Thứ đến, cần xem xét để thấy rằng nỗ lực của con người, sự phấn đấu của họ để thành tựu, cảm thức của họ về Thượng Đế, vốn bẩm sinh và chân thực, và cố gắng của họ nhằm đạt đến những điều kiện tốt hơn, cũng như để tự chủ và làm chủ thiên nhiên, đều phải có một mục tiêu nào đó. Nếu không, thì tất cả những gì chúng ta thấy đang tiếp diễn chung quanh mình đều hư ảo, vô ích, và vô nghĩa. Chính năng lực này của Đức Christ, và các mãnh lực của thiên nhiên, cũng như định hướng không dời đổi trong mục đích của Ngài, đã đưa Đức Christ từ trình độ này đến trình độ khác. Chúng giúp Ngài mở cánh cửa đi vào Thiên giới, và sống lại từ cõi chết, trở thành “quả ngọt đầu tiên của những người đã yên ngủ.”[12]

Purpose must underlie pain. An objective must be sensed under all human activity. The idealism of the leaders of the race cannot all be hallucination. The realisation of God must have some basis in fact. Human beings are convinced that the apparent injustice of the world provides legitimate assurance of a hereafter wherein the integrity of the divine purpose will be vindicated. There is a basic belief that good and evil are in combat in man’s nature, and that good must inevitably triumph. Down the ages, man has asserted this. Humanity has evolved many theories to account for man and his future, for his preparation for the after-life, and for his reason here on earth. With the detail of these theories there is no need, or time, to deal. They are in themselves proof of the fact of immortality and of man’s divinity. He has intuited the ultimate possibility, and will not rest until he has achieved it. Whether it is plurality of lives upon our planet, leading to an ultimate perfection, or the Buddhistic theory leading to Nirvana, the goal is one. This latter theory is beautifully summarised in a book dealing with the secret doctrines of the Tibetan philosophy:

Trong đau khổ hẳn phải có mục đích. Cần cảm nhận một mục tiêu nào đó ẩn trong tất cả các hoạt động của nhân loại. Cố gắng thực hiện lý tưởng của các nhà lãnh đạo nhân loại không thể toàn là ảo tưởng. Nhận thức về Thượng Đế hẳn phải có cơ sở thực tế nào đó. Con người ngày càng tin chắc rằng cái vẻ bất công bề ngoài trên thế gian thực ra vốn có bảo đảm hợp lý cho kiếp sống mai sau trong đó sẽ chứng tỏ sự vẹn toàn của mục đích thiêng liêng. Thường thì ai cũng cho rằng điều thiện và điều ác đang chiến đấu trong tâm tính mỗi người, và tin rằng điều thiện tất phải chiến thắng vẻ vang. Qua các thời đại, con người đã khẳng định điều này. Nhân loại đã đưa ra nhiều luận thuyết để giải thích về con người và tương lai của họ, về việc chuẩn bị cho đời sống bên kia cửa tử, và nêu lý do vì sao họ đến thế gian này. Không cần phải dành thời gian để bàn chi tiết về các luận thuyết này. Chúng có mang chứng cứ về thực tính bất tử và thiên tính nơi mỗi người. Họ đã trực nhận được cái khả năng tối hậu này, và cứ mãi cố gắng cho đến khi nào đạt được nó. Dù cho rằng mỗi người phải trải qua nhiều kiếp sống trên hành tinh này để rốt cuộc đến mức hoàn thiện, hay nói theo luận thuyết của Phật giáo về con đường đưa đến Niết bàn, mục tiêu cũng vẫn là một. Luận thuyết này được tóm lược rất hay trong một quyển sách bàn về các giáo lý bí nhiệm của triết học Tây Tạng:

“… when the Lords of Compassion shall have spiritually civilised the Earth and made of it a Heaven, there will be revealed to the Pilgrims the Endless Path, which reaches to the Heart of the Universe. Man, then no longer man, will transcend Nature, and impersonally, yet consciously, in at-one-ment with all the Enlightened [251] Ones, help to fulfil the Law of the Higher Evolution, of which Nirvana is but the beginning.” [ccxlix]13

“. . . khi các vị Chúa Từ bi đã khai hóa tinh thần cho Địa cầu và biến nó thành cõi Thiên đường, thì bấy giờ những Khách hành hương sẽ được tiết lộ Con Đường Đạo Vô tận, đưa đến Tâm Vũ trụ. Bấy giờ con người không còn là phàm nhân, sẽ thắng phục Thiên nhiên. Một cách vô tư nhưng hữu thức, họ hợp nhất với tất cả các Bậc Giác (251) ngộ, và giúp hoàn thành Luật Tiến hóa Cao siêu, mà Niết bàn chỉ là bước đầu.”[13]

Here we have the idea of the kingdom of God appearing on earth because humanity is spiritually civilised, and the attainment of the perfection which Christ inculcated.

Ở đây, có ý tưởng về Thiên giới xuất hiện ở thế gian vì nhân loại được khai hóa tinh thần, và việc đạt đến sự hoàn thiện mà Đức Christ đã minh định.

There is also the doctrine of eternal recurrence, in which both Nietzsche and Heine believed, with its emphasis upon a ceaseless, recurrent, earthly existence by each unit of force, until a soul has been evolved. The dreary doctrine of our survival as influences perpetuated in the race to which we belong has also been developed, emphasising a selflessness which is admirable, but is also the negation of the individual. The orthodox Christian doctrines are three in number, and consist of the doctrine of eternal retribution, of universal restoration, and of conditional immortality. To these we must add the speculations of the Spiritualists, with their various spheres, corresponding somewhat to the subtle worlds, seven in number, of the Theosophists and the Rosicrucians; and also the extreme theory of annihilation, which does not find much response from the healthy-minded. The value of all these doctrines consists in attracting attention to the eternal interest of man in the hereafter, and his many speculations as to his future and his immortality.

Cũng có giáo lý về sự tái sinh liên tục mà cả Nietzsche và Heine đều tin tưởng. Nó nhấn mạnh việc mỗi đơn vị mãnh lực giáng trần nhiều lần, liên tục cho đến khi tiến hóa thành một linh hồn. Cũng đã phát triển một giáo lý tẻ nhạt về việc chúng ta tồn tại như những ảnh hưởng được duy trì trong chủng tộc của mình. Nó nhấn mạnh tính cách vô kỷ, nghe cũng hay, nhưng lại phủ nhận vai trò của cá nhân. Có ba giáo lý chính thống của Thiên Chúa giáo, đó là giáo lý về hình phạt đời đời, về sự phục hồi chung của mọi người, và về sự bất tử có điều kiện. Tưởng cũng nên kể thêm những suy đoán của các nhà Thông thần học và phái Hồng hoa Thập tự; cũng như thuyết cực đoan về sự hủy diệt mà những ai có trí tuệ lành mạnh đều chẳng thấy có ý nghĩa gì cả. Giá trị của tất cả các giáo lý vừa kể là chúng khiến người ta chú ý đến mối quan tâm thường xuyên của con người về kiếp sau, và nhiều suy đoán của họ về tương lai của mình và sự bất tử của mình.

Christ died and rose again. He lives. And some people in the world today do not need to have this fact proven to them. They know He is alive, and that because He lives we shall live also. In us is the same germ of essential life which flowered forth to perfection in Him, overcoming the tendency to death inherent in the natural man. Surely, then, we can say that immortality consists for us in three stages:

Đức Christ đã chết và đã sống lại. Ngài vẫn hằng sống. Và một số người trên thế giới ngày nay thấy không còn cần phải chứng minh sự kiện thực tế này cho mình nữa. Họ biết rằng Ngài vốn hằng sống, và vì Ngài hằng sống, nên chúng ta cũng hằng sống như Ngài. Trong ta cũng có cùng mầm sống tinh hoa mà đã bừng nở đến mức hoàn thiện trong Ngài. Nó thắng phục cái khuynh hướng tử vong sẵn có trong con người bình thường. Vậy, chắc hẳn chúng ta có thể nói rằng sự bất tử trong chúng ta gồm ba giai đoạn:

First, as that livingness which we call the urge to evolution, the impulse to progress, to push forward, to live, and to know that one lives. This is the incentive behind man’s determination [252] to know himself an individual, with his own life cycle, his own innate purpose and his eternal future.

Thứ nhất, nó là sức sống động mà chúng ta gọi là xung lực tiến hóa, sự thôi thúc tiến lên, đi tới, để sống và biết mình đang sống. Đây là sự kích thích ẩn trong quyết (252) tâm của mỗi người muốn biết mình là một cá nhân, có chu kỳ sống riêng, có mục đích bẩm sinh riêng, và tương lai vĩnh cửu.

Secondly, as that dynamic spiritual awareness which manifests in the re-orientation to eternity and the eternal values, which is the distinguishing feature of the man who is ready to take the necessary steps to demonstrate his spiritual life and to function as an immortal. Then the resurrection which lies ahead of him, and which Christ expressed, is seen to be something different from what had earlier been supposed. The following definition of the true resurrection, as it begins to dawn on the eyes of the man who is awakening to the glory of the Lord within his own heart and immanent in every form, finds place:

Thứ hai, nó là ý thức tinh thần năng động, biểu hiện trong sự tái định hướng về sự sống vĩnh cửu và các giá trị vĩnh cửu. Đó là đặc điểm nổi bật của người sẵn sàng thực hiện những bước cần thiết để biểu dương sự sống tinh thần nơi mình và hoạt động như một sinh linh bất tử. Rồi y thấy sự phục sinh sắp đến, mà Đức Christ đã biểu lộ, là điều khác với những gì mà trước đây y đã giả định. Sau đây là định nghĩa về sự phục sinh đích thực bắt đầu hiển lộ trước mắt của người đang nhận thức được nguồn vinh quang của vị Chúa ở trong tâm hồn mình, và hằng hữu trong mọi hình thể:

“The resurrection is not the rise of the dead from their tombs but the passage from the death of self-absorption to the life of unselfish love, the transition from the darkness of selfish individualism to the light of universal spirit, from falsehood to truth, from the slavery of the world to the liberty of the eternal. Creation `groaneth and travaileth in pain’ `to be delivered from the bondage of corruption into the liberty of the glory of the children of God.’“ [ccl]14

“Phục sinh không phải là việc người chết sống lại từ nấm mồ. Đó là chuyển từ sự chết dứt tính vị kỷ đến cuộc sống yêu thương vô kỷ, chuyển từ bóng tối của tính cá nhân duy ngã đến ánh sáng của tinh thần đại đồng, từ sự dối trá đến chân thật, từ tình trạng nô lệ ở thế gian đến sự tự do trong vĩnh cửu. Toàn cuộc sáng tạo ‘đang kêu than và quằn quại trong đau khổ’ ‘sẽ được giải thoát khỏi ngục tù, hư hoại để được tự do đi vào nguồn vinh quang của những người con Thượng Đế.’ ”[14]

The third and final thought which must be emphasised is that we are resurrected to life eternal and become of the company of the immortals when we have fitted ourselves to be co-workers with Christ in the kingdom. It is when we lose the consciousness of the separative individual and become divinely aware of the whole of which we are a part that we have learnt life’s final lesson and need “no more return.” It is the death of the individual which we fear and dread, and the loss of personal consciousness. We do not realise that when the vision of the kingdom is ours, when the whole of creation shines forth before our eyes, it is that Whole which matters to us, and we lose sight of our personal selves.

Điều thứ ba và là điều cuối cùng cần chú trọng là chúng ta chỉ được phục sinh vào đời sống vĩnh cửu và bước vào hàng ngũ những sinh linh bất tử, khi chúng ta đủ điều kiện cộng sự với Đức Christ trong Thiên giới. Chỉ khi chúng ta buông bỏ ý thức cá nhân riêng rẽ, và trực nhận một cách thiêng liêng về cái toàn thể mà mình là một phần trong đó, bấy giờ chúng ta mới thấu đáo được bài học cuối cùng của đời sống, và không còn cần “trở lại thêm nữa.”  Chính cái chết của cá nhân và sự mất đi ý thức cá nhân là điều chúng ta sợ hãi và kinh khủng. Chúng ta không nhận thức được rằng khi ta có được tầm nhìn của Thiên giới, khi toàn cuộc sáng tạo chói rạng trước mắt chúng ta, thì ta thấy cái Toàn thể ấy mới là quan trọng, và không còn bận tâm đến cái tôi bé nhỏ của cá nhân mình.

The resurrection therefore might be defined as the persistence [253] on into the future of that which is the divine aspect, and which is integrated with the life and consciousness of that sum total which we call God. That life and that consciousness flow through all parts of God’s manifestation, the natural world. The kingdoms of nature have one by one evolved, and in so doing have expressed some aspect of His life as it informs and animates His creation. One by one, they have steadily progressed from the inert consciousness and slow, heavy rhythm of the mineral kingdom, and have revealed sequentially more and more of the hidden divine nature, until we come to man whose consciousness is of a much higher order and whose divine expression is that of the self-conscious, self-determined Deity. From automatic forms of consciousness, the life of God has carried the forms of life through sentient consciousness to the instinctive consciousness of the animal; then it has progressed on into the human kingdom, wherein self-consciousness holds sway, until the higher members of that kingdom begin to show a disposition towards divinity. The faint, dim signs of a still higher kingdom can now be seen, in which self-consciousness will give place to group-consciousness, and man will know himself to be identified with the Whole, and not to be simply a self-sufficient individual. Then the life of the whole body of God can flow consciously into and through him, and the life of God becomes his life and he is resurrected into life eternal.

Vì thế, có thể nói rằng phục sinh là phương diện thiêng liêng trong ta tiếp tục (253) tồn tại và đi vào tương lai, rồi hợp nhất với sự sống và tâm thức của tổng thể mà chúng ta gọi là Thượng Đế. Sự sống và tâm thức ấy lưu chuyển qua tất cả các thành phần biểu hiện của Thượng Đế, tức là thế giới thiên nhiên. Các giới tiến hóa trong thiên nhiên đã lần lượt tiến hóa. Trong khi tiến hóa, các giới này biểu lộ một phương diện nào đó trong sự sống của Ngài khi nó thâm nhập vào và làm sinh động những gì Ngài đã sáng tạo. Dần dần và liên tục, chúng tiến lên từ tâm thức trì trệ và nhịp rung động chậm chạp, nặng nề của giới khoáng vật. Sau đó, bản tính thiêng liêng hiển lộ ngày càng nhiều hơn cho đến trình độ của con người. Nhân loại có tâm thức phát triển cao hơn nhiều, với sự biểu lộ của Thánh linh trong tự thức và tự quyết. Từ những dạng tự động của tâm thức, sự sống của Thượng Đế đã đưa các hình thể sống qua ý thức tri cảm đến tâm thức theo bản năng của loài động vật. Sau đó, sự sống này tiếp tục đi vào giới nhân loại với ngã thức biểu lộ rõ rệt, cho đến khi những người tiến hóa cao trong giới này bắt đầu dứt khoát hướng về thiên tính. Giờ đây, ta có thể thấy những dấu hiệu thoảng qua, còn mờ nhạt của một giới tiến hóa còn cao siêu hơn nữa, trong đó ngã thức nhường chỗ cho tâm thức tập thể. Bấy giờ hành giả biết mình đồng nhất với Toàn thể, chứ không chỉ là một cá nhân tự mãn. Rồi sự sống toàn cơ thể của Thượng Đế hữu ý lưu nhập và lưu chuyển qua y. Sự sống của Thượng Đế trở thành sự sống của y, và y được phục sinh vào nguồn sống vĩnh cửu.

Therefore the trend in human affairs at this time towards synthesis, cooperation, fusion and amalgamation is a sign of the advanced stage humanity has reached. It is a portent of promise, and indicates that the resurrection to life, to which all the Sons of God, down the ages, have testified, is now a general possibility. Humanity today, as a whole, faces towards life because its values are real, its integrity is being steadily assured, and the world indications (as manifested through the nations and groups) are oriented towards synthesis and cooperation. The present world turmoil is simply the result of this process of re-orientation, and has its parallel in the process of Christian “conversion” and the adjustments incident to that happening, which usually alter and re-arrange a man’s entire life programme. The world programme is thus being re-adjusted, and the immediate result is chaos. But the new direction is assured, and nothing can arrest the progress of humanity’s entrance into life. Hence the world crisis—the readjustments, the tendency to fusion and synthesis. The new race, which is immortal, is coming into being, and yet it is the same race at a new and high point of achievement. The Great Expectation then is that Birth into the Deathless Race may be realised here and now, as it has been realised already by those of humanity who have been made Divine.

Do đó, xu thế trong các sự vụ nhân loại hiện nay là hướng về sự tổng hợp, hợp tác, hòa hợp và hợp nhất, một dấu hiệu cho thấy giai đoạn tiên tiến mà nhân loại đã đạt. Đây là điềm báo đầy triển vọng, cho thấy rằng sự phục sinh, mà tất cả những Người Con của Thượng Đế đã chứng thực qua các thời đại, thì nay là khả năng chung của mọi người. Toàn nhân loại ngày nay đang đối diện với sự sống, vì nó có giá trị chân thực, với sự toàn vẹn ngày càng rõ rệt. Đồng thời những chỉ báo trên thế giới (biểu hiện qua các quốc gia và các đoàn nhóm) đều đang hướng về sự tổng hợp, và hợp tác. Những xáo trộn trên thế giới hiện nay chỉ là (254) kết quả của quá trình tái định hướng này. Nó tương ứng với quá trình “hoán cải” của Thiên Chúa giáo và những điều chỉnh kèm theo. Nó thường thay đổi và sắp xếp lại trọn cả chương trình sống của mỗi người. Vì thế mà chương trình của thế giới cũng đang được tái điều chỉnh, với kết quả ngay trước mắt là xáo trộn. Nhưng phương hướng mới là chắc chắn, và không điều gì có thể ngăn bước tiến của nhân loại đi vào nguồn sống. Vì thế mà có những cuộc khủng hoảng trên thế giới – do tái điều chỉnh, với khuynh hướng phối hợp và tổng hợp. Giống dân mới đang đến, có tính bất tử, thực ra cũng chính là giống dân hiện nay, nhưng đạt mức thành tựu mới mẻ và cao siêu. Vậy, sự Kỳ vọng Chung muốn được Sinh ra trong Giống dân Bất tử có thể được thực hiện ở đây và ngay bây giờ, như nó đã được thực hiện bởi những người trong nhân loại đã trở thành Sự sống Thiêng liêng.

The kingdom of God moves on to fulfilment. The purpose of Christ’s life, death and resurrection is on the verge of achieving consummation. A new kingdom is coming into being; a fifth kingdom in nature is materialising, and already has a nucleus functioning on earth in physical bodies. Therefore let us welcome the striving and struggling of the present time, for it is a sign of resurrection. Let us understand the upheaval and the chaos, as humanity breaks out of the tomb of selfishness and individualism and comes to the place of living light and unity, for it is the resurrection. Let us penetrate into the darkness with what light we have, and see humanity stirring, the dead bones coming to life, and the wrappings and bands being discarded, as spiritual strength and life pour into the race of men, for this is the resurrection.

Thiên giới đang tiếp tục hoàn thành. Mục đích của đời sống, sự chết và phục sinh của Đức Christ sắp đến mức thành tựu viên mãn. Một giới tiến hóa mới sắp ra đời. Giới thứ năm trong thiên nhiên đang hiện thể, và đã có hạt nhân gồm những người đang hoạt động ở thế gian trong thân xác. Thế nên, chúng ta hãy chào đón những nỗ lực và phấn đấu trong thời gian hiện nay, vì đó là dấu hiệu phục sinh. Chúng ta hãy hiểu thế nào là xáo trộn và hỗn loạn, khi nhân loại phá vỡ nấm mồ của tính ích kỷ và chủ nghĩa cá nhân, để đi vào ánh sáng sống động và hợp nhất, vì đó là phục sinh. Chúng ta hãy dùng ánh sáng mình đang có để chiếu rọi vào bóng tối, để thấy nhân loại trỗi dậy, kẻ chết sống lại, vải liệm bị xé tan, khi sức mạnh và sự sống tinh thần tuôn rải vào nhân loại, vì đó là phục sinh.

We are privileged to be present at a moment of great crisis for the race. We are seeing the birth of a new and deathless race—a race in which the germ of immortality will flower, and in which divinity can express itself through the transfiguration of mankind. That which is of value is coming to the fore. It has always been there, but today it can be seen, ushering in the consummation of Christ’s work, and bringing to realisation His vision.

Chúng ta vinh dự có mặt vào thời gian mà nhân loại đang trải qua tình trạng cực kỳ khủng hoảng. Chúng ta đang thấy sự ra đời của giống dân mới và bất tử. Trong họ, hạt mầm bất tử sẽ nở hoa, và thiên tính có thể tự biểu lộ qua sự biến dung của loài người. Những giá trị cao đẹp đang ngày càng nổi rõ. Chúng bao giờ cũng sẵn có, nhưng ngày nay đang hiển lộ. Chúng đưa đến sự hoàn thành công việc của Đức Christ, và thực hiện tầm nhìn cao cả của Ngài.

[255]

(255)

CHAPTER SEVEN – Our Immediate Goal… The Founding of the Kingdom—CHƯƠNG BẢY – Mục Tiêu Ngay Lập Tức của Chúng Ta… Sự Thành Lập của Vương Quốc

KEY THOUGHT

TƯ TƯỞNG GỐC

“Any given moment of life must choose between two gods, psychologically incompatible. On the one hand, the peace of the hermit, the silence of the forest, the exaltation of sacrifice, the mightiness of simplification and unity, the joy of self-abandonment, the calm of absolute contemplation, the vision of God. On the other hand, the variety and stress of life, the zest of common ends, the mastery of means, the glory of infinite enterprise, the pride of creativity and self-possession. The modern world as a whole has made its choice. But there is a better choice; namely, the choice of both. For the life of each is that it may lose itself, from time to time, in the life of the other. And this, which is obvious in things partial, is true—and even chiefly true—in things total.”

“Vào bất cứ lúc nào trong đời, chúng ta cũng phải chọn lựa giữa hai vị thần, vốn không tương hợp nhau trong tâm lý. Một mặt là sự bình an của nhà ẩn sĩ, sự tĩnh lặng của núi rừng, niềm hoan hỉ của đức hy sinh, sức mạnh của lối sống đơn giản và hợp nhất, niềm vui khi tự từ bỏ, sự an tĩnh của trạng thái chiêm ngưỡng hoàn toàn, tuyệt đối, và linh ảnh về Thượng Đế. Mặt khác là sự đa dạng và căng thẳng của đời sống, niềm yêu thích những mục tiêu chung, sự thủ đắc các phương tiện, niềm vinh quang của lòng dũng cảm vô hạn, và niềm tự hào trong khả năng sáng tạo và điềm tĩnh. Toàn thế giới ngày nay đã chọn lựa rồi. Thế nhưng, còn có sự chọn lựa tốt hơn nữa; tức là chọn cả hai. Vì đôi khi cuộc sống bên này lại có thể hòa nhập vào cuộc sống bên kia. Và điều này hiển nhiên là đúng trong một phần các sự vật – và thậm chí chính yếu vẫn đúng – trong tất cả các sự vật.”

The Meaning of God in Human Experience, by W.E. Hocking, p. 427.

Ý nghĩa của Thượng Đế trong Kinh nghiệm Nhân loại, tác giả W. E. Hocking, tr. 427.

[257]

(257)

CHAPTER SEVEN

CHƯƠNG BẢY

Our Immediate Goal… The Founding of the Kingdom

Mục tiêu Trước mắt Chúng ta . . . Sự Thành lập Thiên giới

1

1

We have followed Christ from Bethlehem to Calvary, and through the Resurrection to the episode wherein He disappeared from tangible worldly view and entered the world of subjective values, therein to function as the “Master of all the Masters and the Teacher alike of angels and of men.” We approached the subject of the five crises in His life from the angle of their world importance far more than from that of their significance to us as individuals. We have seen that there has been a revolt (and rightly so) from the emphasis laid by past theologians upon the blood sacrifice of Christ; and have arrived at the conclusion that the need of the world today is for the recognition of a risen Saviour. We have noted the fact that the uniqueness of His mission consisted in the fact that in “the fullness of time”  He came to found the kingdom of God, to bring into being upon earth another kingdom of nature, and so set up the boundary line between that which is objective and illusory and that which is subjective and real. His coming marked the line of demarcation between the world of forms or symbols and that of values or of meaning. Into the latter world we are entering with great rapidity. Science, religion and philosophy are today occupied with significance, and their investigations are carrying them out of the world of appearances; governments and the allied sciences—politics and economics and sociology—are, in their turn, dealing with ideas and ideals. Even in [258] the realm of social disorders and wars—general, sporadic or civil—we see the conflict of differing ideals, and no longer wars of aggression or for the defense of property. These distinctions between the objective and the subjective, between the tangible and the intangible, the visible and the invisible, Christianity has fostered, because it was these differences which the kingdom of God and the kingdom of man presented. Christ came to give to life a meaning and a value, just as the Buddha came to make clear to us the false values upon which our modern world is based.

CHÚNG TA đã đi theo Đức Christ từ Bethlehem đến Calvary. Và qua sự Phục sinh đến thời điểm Ngài biến mất khỏi tầm nhìn của thế giới hữu hình để đi vào thế giới của các giá trị chủ quan, nội tại. Ở đó Ngài hoạt động với tư cách “vị Thầy của tất cả các Chân sư, và Huấn sư của cả thiên thần và loài người.”  Chúng ta đã khảo sát năm cuộc khủng hoảng trong cuộc đời Ngài theo tầm quan trọng của chúng đối với thế gian, hơn là theo ý nghĩa của chúng đối với chúng ta như những cá nhân. Chúng ta thấy rằng đã có sự phản đối (đúng thực) việc các nhà thần học của thời trước nhấn mạnh về sự hy sinh bằng máu huyết của Đức Christ. Rồi chúng ta đi đến kết luận rằng thế giới ngày nay cần nhận biết được Đấng cứu thế đã phục sinh. Chúng ta cũng lưu ý rằng sứ mệnh của Ngài có tính cách độc đáo ở chỗ “khi thời cơ chín muồi” Ngài đã đến để thành lập Thiên giới, để cho ra đời một giới tiến hóa khác của thiên nhiên. Bằng cách đó, Ngài vạch rõ đường ranh giới giữa những gì ảo hóa ở ngoại giới và những điều chân thực ẩn bên trong. Sự giáng lâm của Ngài đánh dấu đường phân cách giữa thế giới của hình tướng hay biểu tượng và thế giới của các giá trị hay ý nghĩa. Chúng ta đang nhanh chóng bước vào thế giới ý nghĩa này. Ngày nay, khoa học, tôn giáo và triết học đang quan tâm đến thực nghĩa, với những khảo cứu đưa họ ra khỏi thế giới của biểu hiện ngoại hình. Rồi các chính phủ và những khoa học có liên quan – chính trị học, kinh tế học và xã hội học – cũng đang nghiên cứu các ý tưởng và lý tưởng. Ngay cả trong (258) phạm vi rối loạn xã hội và chiến tranh – toàn diện, cục bộ hay nội chiến – cũng thấy có sự xung đột của các lý tưởng khác nhau. Nay không còn chiến tranh xâm lấn hoặc để bảo vệ đất đai, tài sản quốc gia. Thiên Chúa giáo đã làm rõ những khác biệt giữa cái khách quan và chủ quan, giữa cái cụ thể, hữu hình và trừu tượng, vô hình. Bởi vì đó là những khác biệt của Thiên giới và giới nhân loại. Đức Christ đã đến mang lại ý nghĩa và giá trị cho đời sống, cũng như Đức Phật đã đến để vạch rõ cho chúng ta thấy những giá trị sai lầm mà thế giới hiện nay đang dựa vào đó.

A study of the teachings earlier given will show that every teaching, and every suffering Son of God who antedated Christ, did two things:

Khi nghiên cứu các giáo huấn đã được trao truyền trước đây, chúng ta sẽ thấy rằng mọi giáo huấn, và mọi người con đau khổ của Thượng Đế đến trước Đức Christ, đều đã làm hai điều:

First of all, He prepared the way for Christ, giving out the teaching that His particular age, period and civilisation required; and secondly, He enacted in His life the teaching of the Mysteries, which however, before Christ’s time, was confined to the very few who were being prepared for initiation, or who could penetrate by right of initiation into the temples of those Mysteries.

Trước hết, vị ấy dọn đường cho Đức Christ, đưa ra giáo huấn mà thời đại, thời kỳ và nền văn minh của mình cần có. Thứ đến, vị ấy phô diễn trong đời mình giáo huấn về các Bí nhiệm. Tuy nhiên, trước thời Đức Christ, giáo huấn đó chỉ giới hạn trong số rất ít người bấy giờ đang được chuẩn bị cho cuộc điểm đạo. Hoặc nó chỉ dành cho những người có quyền thấu hiểu vì họ đã được điểm đạo vào các đền thờ giữ gìn các Bí nhiệm ấy.

Then the Buddha came and spoke to the multitude, telling them what was the source of their misery and discontent, and giving them, in the Four Noble Truths, a concise statement of the human situation. He outlined to them the Noble Eightfold Path governing right conduct, and gave in reality the rules which should control one upon the Path of Discipleship. Then, having Himself achieved Illumination, He entered into the “Secret Place of the Most High,” to come forth once a year, so legend tells us, in order to bless the world. That day of blessing (the day of the full moon of May) is preserved in the East as a general holiday, and in the West many hundreds also keep it as a day of spiritual remembrance.

Rồi Đức Phật đến và thuyết giảng cho đại chúng, nêu rõ đâu là nguyên nhân khiến họ khổ đau và phiền não. Đồng thời Ngài cũng đưa ra Tứ Diệu Đế, mô tả ngắn gọn tình trạng của con người. Ngài phác họa cho họ thấy Bát Chánh Đạo để có thể hành xử đúng, và thực tế là đưa ra những qui luật cần tuân thủ trên Con Đường Đệ tử. Sau khi đã đạt sự giác ngộ, Ngài đi vào “Mật điện của Đấng Tối cao.”  Theo truyền thuyết, kể từ đó, mỗi năm Ngài trở lại một lần để ban ân huệ cho thế gian. Ngày Ngài ban ân huệ (vào ngày trăng tròn tháng Năm) được duy trì làm ngày lễ chung ở Đông phương. Ở Tây phương, hàng trăm ngàn người cũng xem đây là ngày kỷ niệm tinh thần.

Then Christ came, and presented to the world, and made public in His life and through its critical points, the great processes of initiation (five in number) which lie ahead of [259] all who keep the rules which His great Brother laid down. He carried the teaching forward the next step, and made it available to the masses. Thus the continuity of revelation was perpetuated. The Buddha taught us the rules for disciples in preparation for the Mysteries of initiation, whilst Christ gave us the next stage, and showed us the process of initiation from the moment of the new birth into the kingdom to that of the final resurrection into life. His work was unique in its time and place, for it marked a consummation of the past, and an entrance into something utterly new, as far as humanity as a whole was concerned.

Sau đó Đức Christ đến. Ngài trình bày cho thế gian, và cho mọi người thấy trong đời Ngài và qua những thời điểm quan trọng trong đó, các quá trình điểm đạo chánh đại (gồm năm cuộc điểm đạo). Những bước này được đặt trước (259) tất cả những ai tuân hành các qui luật mà vị đại Sư huynh của Ngài đã đề ra. Ngài đưa giáo huấn tiến tới thêm một bước, và dành nó cho đại chúng. Bằng cách này, cuộc thiên khải được tiến hành liên tục. Đức Phật đã dạy chúng ta các qui luật để đệ tử của Ngài chuẩn bị bước vào các Bí nhiệm của điểm đạo. Trong khi đó Đức Christ giúp chúng ta tiến thêm một bước. Ngài cho thấy quá trình điểm đạo từ lúc sinh ra lần thứ hai vào Thiên giới cho đến cuối cùng được phục sinh đi vào nguồn sống. Công tác của Ngài thật độc đáo trong thời gian và không gian đó, vì nó đánh dấu sự hoàn thành viên mãn của quá khứ, và nhờ đó mà toàn nhân loại có thể đi vào một điều hoàn toàn mới.

Humanity had also reached a unique stage in its development. The race had become intelligent, and the personality of man—physical, emotional and mental—had been carried forward to a definite point of integration and coordination. This, on a scale so immense, was unique. There had been isolated personalities. Now, in the Christian era, we live in an age of personalities. So high is the general level of integrated personality life that we are apt to feel we have reached an era where there are no outstanding figures. This is probably due to the fact that the general average of human development is so high that the power to stand out dominantly is much more limited. Because of this development, humanity (regarding it as a kingdom in nature) has reached a point where something new can emerge, as has always happened in analogous circumstances in other kingdoms. We can produce, and as a race give birth to, the next kingdom in nature, which Christ called the kingdom of God; this is the kingdom of souls, the kingdom of spiritual lives, and herein, uniquely, Christ emerges. He is the founder of that kingdom. He proclaimed its existence and He indicated its nature. In Himself He gave us an expression of its qualifications, and showed us the characteristics of the citizen of that kingdom.

Nhân loại cũng đã đến một giai đoạn phát triển độc đáo. Nhân loại đã trở nên thông minh, và phàm nhân của họ – gồm thể chất, tình cảm và trí tuệ – đã tiến đến trình độ tích hợp và phối hợp rõ rệt. Điều này cũng độc đáo vì đang xảy ra trên qui mô hết sức rộng lớn. Từ trước đến nay đã có những phàm nhân trưởng thành, rải rác ở nơi này nơi khác. Nay, trong kỷ nguyên Thiên Chúa, có rất nhiều phàm nhân đã trưởng thành. Trình độ chung của cuộc sống phàm nhân tích hợp nay đã lên cao đến mức chúng ta thường cảm thấy rằng thời đại này không có nhân vật nào lỗi lạc cả. Có lẽ vì thực tế là mức trung bình chung trong trình độ phát triển của nhân loại đã cao đến đỗi khả năng vượt lên và nổi bật trở nên hạn chế hơn trước rất nhiều. Nhờ sự phát triển này mà nhân loại (xem như một giới tiến hóa trong thiên nhiên) đã đến trình độ có thể mang lại những điều mới mẻ, như luôn luôn đã xảy ra trong các trường hợp tương tự trong các trường tiến hóa khác. Toàn nhân loại nay có thể sản sinh ra trường tiến hóa kế tiếp trong thiên nhiên, mà Đức Christ gọi là Thiên giới. Đây là trường tiến hóa của linh hồn, của các sinh linh tinh thần, với sự thị hiện một cách độc đáo của Đức Christ. Ngài là vị sáng lập nên Thiên giới. Ngài tuyên bố sự hiện hữu của giới này và nêu rõ bản chất của nó. Ngài biểu lộ những phẩm tính của nó nơi chính mình cho chúng ta thấy, đồng thời cho biết công dân của Thiên giới cần có những đặc tính như thế nào.

Through the example of its Founder, Christianity has also had a unique mission in inaugurating the era of service. World service, world welfare, world interest, world inter-communication [260] and the importance of the general good are all products of the emphasis Christ laid upon human divinity and on the brotherhood of man, based upon the Fatherhood of God. No other religion or era has thus emphasised these points. They still remain in many ways ideals, but are slowly in process of becoming facts.

Qua tấm gương Vị sáng lập tôn giáo này, Thiên Chúa giáo cũng có sứ mệnh độc đáo là mở màn kỷ nguyên phụng sự. Công cuộc phụng sự thế giới, phúc lợi của thế giới, mối quan tâm chung của thế giới, sự liên (260) thông trên thế giới, và tầm quan trọng của những điều tốt đẹp chung, tất cả đều là sản phẩm của việc Đức Christ nhấn mạnh về thiên tính nơi con người, về tình huynh đệ giữa mọi người, dựa vào vai trò Đấng Cha Lành của Thượng Đế. Không tôn giáo hay thời đại nào khác đã nhấn mạnh về những điểm này như thế. Theo nhiều lối, họ vẫn là những lý tưởng, nhưng đang trong quá trình từ từ trở thành hiện thực.

Christ therefore achieved through His work the following things:

Vì thế, qua công việc của Ngài, Đức Christ đã thành tựu được những điều sau đây:

1. He externalised the Mysteries so that they have become known to humanity as a whole, and are not only the secret possession of the Initiates.

1. Ngài làm hiển lộ các Bí nhiệm để toàn nhân loại có thể hiểu, chứ không chỉ là sở hữu riêng được giữ kín của các Điểm đạo đồ.

2. He enacted the drama of initiation before the world, so that its symbolism could penetrate into the human consciousness.

2. Ngài phô diễn tiến trình điểm đạo trước mắt thế gian, để ý nghĩa biểu tượng của nó có thể đi vào tâm thức của con người.

3. He gave us a demonstration of perfection so that we can no longer question the nature of God, yet at the same time He gave us the guarantee that we too are the children of God, and can likewise achieve divinity if we follow in His steps.

3. Ngài biểu dương cho chúng ta thấy thế nào là hoàn thiện, để chúng ta không còn băn khoăn, thắc mắc về bản tính của Thượng Đế. Nhưng đồng thời Ngài lại bảo đảm với chúng ta rằng chúng ta cũng là con của Thượng Đế, và cũng có thể đạt được thiên tính nếu đi theo bước chân Ngài.

4. He revealed to us the world of meaning, and, in the Person of the historical Christ, showed us the significance of the cosmic Christ, the mythic Christ, and the mystical Christ in the heart of every man. He revealed the nature of God transcendent and of God immanent.

4. Ngài hiển lộ cho chúng ta thấy thế giới ý nghĩa. Trong tư cách Đức Christ của lịch sử, Ngài cho chúng ta hiểu ý nghĩa sâu xa của Đấng Christ vũ trụ, Đấng Christ của huyền thoại, và Đấng Christ thần bí trong tâm mọi người. Ngài hiển lộ bản tính của Đấng Thượng Đế siêu việt, và của Đấng Thượng Đế hằng hữu trong mỗi chúng sinh.

5. The past of humanity culminated in Him; the present finds in Him its solution, and the future is symbolised in His life and death. Therefore all three lines of past, present and future meet in Him, and give Him His unique significance.

5. Quá khứ của nhân loại tựu thành nơi Ngài. Ngài mang giải pháp cho thế giới hiện tại. Cuộc sống và sự chết của Ngài là biểu tượng của tương lai. Do đó, cả quá khứ, hiện tại và tương lai đều kết hợp nơi Ngài. Ý nghĩa độc đáo của Ngài là như thế.

6. He founded the kingdom of God in due time when the human kingdom was reaching maturity. He demonstrated the values of that kingdom in His Own life, portraying for us the character of its citizenship, and He opened the door wide for all who could fit themselves (through service and discipline) to pass out of the human kingdom into the spiritual kingdom.

6. Ngài thành lập Thiên giới đúng lúc, khi giới nhân loại đã đến độ trưởng thành. Ngài biểu dương các giá trị của Thiên giới trong cuộc đời mình. Ngài minh họa đặc tính của tư cách công dân Thiên giới, và mở rộng cửa cho tất cả những ai có đủ điều kiện (qua công tác phụng sự và nghiêm trì giới luật) để họ ra khỏi giới nhân loại và đi vào trường tiến hóa tinh thần. (261)

[261]

7. He reared His Cross as a boundary, a symbol, and an example of method, between the world of tangible values and the world of spiritual values, and called us to the death of the lower nature in order that the Spirit of God may have full sway.

7. Ngài dựng lên Thập tự giá của mình để làm ranh giới, biểu tượng, và phương pháp thực hiện, giữa thế giới các giá trị hữu hình và thế giới các giá trị tinh thần. Đồng thời Ngài kêu gọi chúng ta hãy chết dứt phàm tính để Thánh linh của Thượng Đế có thể hoàn toàn chế ngự.

8. He taught us that death must end, and that the destiny of humanity is the resurrection from among the dead. Immortality must take the place of mortality. For our sakes, therefore, He rose from the dead and proved that the bonds of death cannot hold any human being who can function as a Son of God.

8. Ngài dạy chúng ta rằng sự chết phải chấm dứt, và vận mệnh của nhân loại là phục sinh từ trong cõi chết. Sự bất tử phải thay thế sự tử. Thế nên, vì chúng ta Ngài đã sống lại từ cõi chết, và chứng tỏ rằng xiềng xích của sự chết không thể cầm giữ bất cứ ai có thể hoạt động như người con của Thượng Đế.

Many sons of God had passed through the Temples of the Mysteries; many had learnt to function divinely and had, in the process of expressing divinity, lived and served and died. But none of them came at the particular period of unfoldment which made possible the universal recognition which Christ has evoked, nor was the intellect of the masses sufficiently developed to profit by their teaching on a large scale until that time. In these respects Christ and His mission were uniquely important. He taught us to work towards unity and to bring to an end isolation and hatred and separation, telling us to love our neighbour as ourselves. He gave a message which was universal in its implications, for the kingdom of God stands wide open to all who love and serve and who purify the lower nature, irrespective of creed and dogma. He taught the unity of the faith, the Fatherhood of God, and the necessity not only to walk with God, but to walk with each other in love and understanding. He emphasised the necessity for cooperation, indicating that if we truly follow the Way, we shall put an end to competition, and substitute for it cooperation. He urged us to live by principles, divine, basic and fundamental, and to lay no emphasis upon personalities.

Nhiều người con của Thượng Đế đã đi qua các Đền thờ gìn giữ những Bí nhiệm. Nhiều người biết hoạt động một cách thiêng liêng và, trong quá trình biểu lộ thiên tính, đã sống, phụng sự, và đã chết. Nhưng không ai trong họ đã đến trình độ khai mở có thể được mọi người công nhận như Đức Christ đã đạt. Đồng thời trí tuệ của đại chúng chưa đủ phát triển để ích dụng được giáo huấn của họ trên qui mô lớn, mãi cho đến thời kỳ của Ngài. Trong những khía cạnh này, Đức Christ và sứ mạng của Ngài có tầm quan trọng thật độc đáo. Ngài dạy chúng ta hãy làm việc hướng đến sự hợp nhất, chấm dứt tình trạng cô lập, thù ghét và chia rẽ, và yêu thương người láng giềng của mình như chính mình. Ngài đưa ra bức thông điệp có tính cách đại đồng. Bởi vì Thiên giới vốn rộng mở cho tất cả những ai yêu thương, phụng sự, và tinh luyện phàm tính, không phân biệt tín ngưỡng và giáo điều. Ngài dạy tính duy nhất của các tín ngưỡng, tư cách Đấng Cha Lành của Thượng Đế, và không những chúng ta đồng hành với Thượng Đế mà còn cần phải đồng hành với nhau trong thông cảm và yêu thương. Ngài nhấn mạnh sự cần thiết phải hợp tác, vì nếu chúng ta muốn thực sự tiến bước trên Đường Đạo thì chúng ta hãy thôi cạnh tranh, và thay thế bằng hợp tác. Ngài khuyên chúng ta hãy sống theo những nguyên tắc thiêng liêng, cơ bản và nền tảng, và đừng bận tâm gì đến phàm nhân.

Love, brotherhood, cooperation, service, self-sacrifice, inclusiveness, freedom from doctrine, recognition of divinity—these are the characteristics of the citizen of the kingdom, [262] and these still remain our ideals. Therefore the question of importance facing humanity today is, just what must be done in order to bring about the attainment of the three major objectives which Christ held before us. They remain objectives for all mankind, and are generally so recognised, even when their Christian interpretation is ignored, or when Christ remains unrecognised. How shall we perfect the human being, so that his handling of life, and his attitude to people and his environment, are correct and constructive? How shall we materialise on earth that state of consciousness, accompanied by that condition of living, the result of which would deserve to be recognised as the kingdom of God? How shall we arrive at an understanding of the problem of death, with the surmounting of the process of dying, and the achieving of resurrection? Christ has provided a definite answer and programme for the solution of the problem of human perfection, the problem of a new world, and the problem of immortality.

Yêu thương, tình huynh đệ, hợp tác, phụng sự, tự hy sinh, tinh thần bao gồm, không bám chấp giáo lý, nhận thức được thiên tính – đây là những đặc điểm của người công dân Thiên giới, (262), và đây vẫn còn là lý tưởng của chúng ta. Vì thế, câu hỏi quan trọng đặt ra cho nhân loại ngày nay là chúng ta phải làm gì để đạt được ba mục tiêu chánh đại mà Đức Christ đề ra cho chúng ta. Chúng vẫn còn là những mục tiêu cho toàn nhân loại, và được mọi người công nhận như thế, dù là khi họ chưa hề biết đến cách lý giải của Thiên Chúa giáo, và chưa từng nhận biết Đức Christ. Làm sao chúng ta giúp con người trở nên hoàn thiện, để cách ứng xử của họ trong đời sống, thái độ của họ đối với người khác và môi trường sống của mình, đều đúng đắn và với tinh thần xây dựng?  Làm sao chúng ta thực hiện ở thế gian một trạng thái tâm thức, kèm theo điều kiện sống, sao cho kết quả đáng được công nhận là Thiên giới?  Làm sao chúng ta thấu hiểu được vấn đề sự chết, khắc phục được tiến trình tử vong, và đạt được sự phục sinh?  Đức Christ đã đưa ra đáp án và chương trình rõ ràng để giải quyết vấn đề hoàn thiện của con người, vấn đề thế giới mới, và vấn đề bất tử.

That humanity is on its way to great and vital events is generally recognised. We have in the past progressed through varying civilisations to the important present, and we are on our way to still greater achievements. The question, however, arises whether we may hasten the process; whether, by a right understanding of Christ and His teaching, we could so expedite matters that the kingdom and its laws may hold sway earlier than would otherwise be the case. No sacrifice on our part would be too great, if Christ was right in the position He took and in the teaching He gave as to the nature of man. The decision rests with us. The choice is ours. Therefore in the last analysis what is the decision we have to make? What is the question that we have to answer? Christ has said that man is divine. Was He right? If man is divine and a son of the Father, then let us proceed to express that divinity and claim our birthright. We have been occupied with much thought and discussion about God in the past. God transcendent has been both recognised and denied. God immanent is on the verge of recognition, and in that recognition [263] may surely lie the way out for man. Are we divine? That is the all-important question.

Nói chung, ai cũng công nhận rằng nhân loại đang trên đường đi đến những sự kiện lớn lao và trọng đại. Trong quá khứ, chúng ta đã tiến qua những nền văn minh khác nhau cho đến bước quan trọng hiện nay, và đang đi đến những thành tựu còn vĩ đại hơn nữa. Tuy nhiên, liệu chúng ta có thể đẩy nhanh tiến trình này không?  Và khi hiểu đúng về Đức Christ và giáo huấn của Ngài, liệu chúng ta có thể xúc tiến những vấn đề sao cho Thiên giới và Thiên luật có hiệu lực sớm hơn là trong trường hợp khác?  Không sự hy sinh nào về phần chúng ta sẽ là quá lớn, nếu Đức Christ đã đúng trong vị thế của Ngài, và trong giáo huấn mà Ngài đưa ra về bản tính của con người. Quyết định thế nào là tùy chúng ta. Chọn lựa thế nào cũng là phần chúng ta. Vì thế, xét cho cùng chúng ta phải quyết định ra sao?  Câu hỏi nào mà chúng ta phải giải đáp?  Đức Christ đã nói rằng con người có bản tính thiêng liêng. Vậy Ngài nói đúng hay chăng?  Nếu con người là thiêng liêng và là con của Đấng Từ Phụ, vậy thì chúng ta hãy có gắng biểu lộ thiên tính ấy và khẳng định quyền bẩm sinh của mình. Chúng ta đã bận tâm đến nhiều ý nghĩ và bàn cãi về Thượng Đế trong quá khứ. Đấng Thượng Đế siêu việt đã vừa được người ta công nhận và phủ nhận. Đấng Thượng Đế hằng hữu trong tâm mỗi chúng sinh đang dần dần được công nhận, và chắc hẳn rằng sự công nhận đó (263) là con đường giải thoát cho mọi người. Phải chăng chúng ta có bản tính thiêng liêng?  Đó là câu hỏi quan trọng cho tất cả.

If man is divine, if the testimony of the ages is true, and if Christ came to show us divinity in expression and to found the new kingdom, then the breaking down today of the old forms, and the widespread destruction of the familiar structures of society and religion, may simply be part of the process of instituting the new processes of life and the planned work of a vital evolving spirit. A reaction to the appearance of the kingdom may account for the unrest of the masses, and the general sensitive response to the new ideals may be due to the impact of the force of the kingdom upon the minds of the more advanced people of the world. The mystic and the Christian may talk in terms of the kingdom of God; philanthropists and philosophers may talk in terms of the world community, of the new civilisation, of the world federation of nations, of humanity as a body corporate, of community living and of internationalism and economic interdependence and world unity; but these are mere words and names which differing types of mind apply to the one great emerging fact of a new kingdom in nature arising out of the human kingdom, with its own principles of living, its laws of group welfare, and its brotherhood of man.

Nếu con người là thiêng liêng, nếu bằng chứng của các thời đại là đúng thực, và nếu Đức Christ đã đến để cho chúng ta thấy thiên tính đang biểu lộ, và để thành lập vương quốc mới, thì việc hiện nay phá vỡ những hình thức cũ, cũng như sự hủy diệt ở khắp nơi các cấu trúc quen thuộc của xã hội và tôn giáo, có thể chỉ là một phần trong cố gắng tạo nên những tiến trình mới trong cuộc sống và công việc có kế hoạch của tinh thần sống động đang tiến hóa. Có thể những phản ứng đối với sự xuất hiện của Thiên giới là nguyên nhân gây bất ổn trong đại chúng. Và sự đáp ứng nhạy bén chung với các lý tưởng mới có thể là do tác động bởi các lực của Thiên giới đối với những người có trí tuệ cao trên thế giới. Nhà thần bí và người Thiên Chúa giáo có thể nói trong phạm vi Thiên giới. Nhà hoạt động từ thiện và triết gia có thể nói về cộng đồng thế giới, về nền văn minh mới, về liên bang các quốc gia trên thế giới, về nhân loại như một đoàn thể hợp nhất, về sinh hoạt cộng đồng, tinh thần quốc tế, sự tùy thuộc lẫn nhau về kinh tế, và hợp nhất thế giới. Thế nhưng, đây chỉ là những từ ngữ và tên gọi mà những người có trí tuệ khác nhau đem áp dụng cho sự kiện trọng đại đang xuất lộ của một giới tiến hóa mới trong thiên nhiên. Nó phát sinh từ trong giới nhân loại, với những nguyên tắc sống, các luật về phúc lợi tập thể, và tình huynh đệ của nó cho mọi người.

In the unfoldment of the human consciousness we are passing out of the necessary stage of individualism; we have temporarily lost sight of the deeper truths, the mystical values, and the one Life behind all forms. We have been too much occupied with material and selfish interests. But this has been a needed stage, even though it may well be that it has persisted too long. It is time for us to end the period of selfish individualism, permitting it no longer to be a controlling factor in our lives, time for us to begin to blend and unify the deeper elements of the world of reality with the outer life. The best minds of the age are now appreciating this, and on every hand the call is going out for a deepening of life, a recognition of the nature of and the need for a coherent understanding of the world processes, and their conscious intelligent [264] integration into a recognisable world order. The disintegration in the world at this time is right and good, provided we understand why it is taking place and by what it should be succeeded. Destruction which is carried on with a view to eventual construction is right and proper, but the plans for the coming building must be somewhere understood, and some idea must exist as to subsequent reconstruction.

Trong sự khai mở tâm thức của con người, chúng ta đang ra khỏi giai đoạn cần thiết của chủ nghĩa cá nhân. Chúng ta đã tạm thời không thấy được những chân lý thâm sâu, các giá trị thần bí, và Sự sống duy nhất ẩn trong mọi hình thể. Chúng ta đã quá bận tâm đến những quyền lợi vật chất và ích kỷ. Nhưng đây đã là một giai đoạn cần thiết, cho dù có thể đúng là nó đã tồn tại quá lâu. Nay đã đến lúc chúng ta chấm dứt thời kỳ theo nhủ nghĩa cá nhân vị kỷ, không còn cho nó làm yếu tố chi phối cuộc đời ta. Đã đến lúc chúng ta bắt đầu hòa hợp và thống nhất các yếu tố thâm sâu của thế giới thực tại với ngoại giới. Những người có trí tuệ cao nhất của thời đại nay đang đánh giá được điều này. Ở khắp nơi đang vang lên tiếng gọi hãy tìm vào những độ sâu của đời sống, hãy nhận thức bản chất và nhu cầu thấu hiểu các quá trình của thế giới một cách rõ ràng, minh bạch, và hữu ý (264) kết hợp chúng một cách thông minh vào trật tự thế giới để có thể được mọi người công nhận. Sự tan rã trên thế giới hiện nay là đúng và tốt đẹp, miễn là chúng ta hiểu vì sao nó xảy ra, và sau đó có những gì cần kế tục. Điều đúng đắn và thích hợp là việc phá hủy được thực hiện nhằm để rốt cuộc xây dựng. Nhưng cần phải hiểu được phần nào những kế hoạch xây dựng sắp tới, đồng thời phải có ý tưởng cho việc tái thiết về sau.

Our need today is to see the hidden thread of purpose which will lead us out of the apparent impasse; to isolate, out of the many theories, that basic theory which not only has its roots in the past, but is capable of application in a new way, in new terms, by those who are permeated with the new vision. We need what Dr. Schweitzer calls “… the recognition that civilization is founded on some sort of theory of the universe, and can be restored only through a spiritual awakening and a will for ethical good in the mass of mankind.” [ccli]1 This awakening is already here, and the will to good is present. The teaching of Christ is not obsolete and out of date. It needs only to be rescued from the interpretations of the theologies of the past, and taken at its simple face value, which is an expression of the divinity of man, of his participation in the kingdom which is in process of being brought into recognition, and of his immortality as a citizen of that kingdom. What we are in reality passing through is “a religious initiation into the mysteries of Being,” [cclii]2 and from that we shall emerge with a deepened sense of God immanent in ourselves and in all humanity. The need for this revaluation is being impressed upon us constantly. It might be of value to us, therefore, to admit this possibility and consider practically our individual relation to the work which Christ expressed and inaugurated, and to deal with the problem of our individual perfecting, in order that we may help to found [265] the kingdom and to develop those values which will warrant immortality.

Ngày nay, chúng ta cần thấy được cái mục đích ẩn tàng mà sẽ dắt chúng ta ra khỏi tình trạng có vẻ như ngõ bí. Cũng cần tìm ra cái lý thuyết cơ bản, không những bắt nguồn từ quá khứ, mà còn có thể áp dụng theo lối mới, và trong phạm vi mới, bởi những người thấm nhuần tầm nhìn mới mẻ. Chúng ta cần điều mà Ts. Schweitzer gọi là “. . . nhận thức rằng nền văn minh được thành lập trên một loại lý thuyết nào đó về vũ trụ, và chỉ có thể phục hồi qua sự thức tỉnh tinh thần và ý chí muốn có sự lành thiện về đạo đức trong đại khối nhân loại.”[1]  Sự thức tỉnh này hiện nay đã có, và ý chí hướng thiện cũng sẵn sàng. Giáo huấn của Đức Christ không hề cũ kỹ và lỗi thời. Chỉ cần đưa giáo lý này ra khỏi những lối giải thích của khoa thần học trong thời quá khứ. Đồng thời hãy làm bộc lộ giá trị thực và đơn sơ của nó. Đó là lời phát biểu về thiên tính của con người, về việc họ tham dự vào trong Thiên giới, là điều đang dần dần được thừa nhận, và về tính bất tử của con người với tư cách công dân Thiên giới. Những gì mà chúng ta thực sự đang đi qua là “sự dẫn nhập của tôn giáo vào các bí nhiệm của Đời Sống.”[2]  Từ đó, chúng ta có được ý thức sâu xa về Đấng Thượng Đế hằng hữu nơi chính mình và trong toàn nhân loại. Chúng ta cần phải thường xuyên thực hiện việc tái lượng giá này. Do đó, chúng ta cần chấp nhận cái khả năng vừa kể, và thực tế xem xét sự liên quan của mình với công việc mà Đức Christ đã công bố và phát khởi. Đồng thời, chúng ta cũng cần phải hoàn thiện bản thân, để có thể giúp thành lập (265) Thiên giới, và phát triển những giá trị cho thấy thực tính bất tử của mình.

Someone has remarked that our troubles at this time are due largely to the lack of intuitive perception on the part of those who can impress the masses and lead people forward. They seek to guide by mental processes and enforcements, and not by that intuitive presentation of reality which the child and the wise man can simultaneously recognise. It is vision that is needed, for “where there is no vision the people perish.” [ccliii]3 We have not lacked idealism, nor have we been too greatly unintelligent. Most people, faced with issues and problems, act with sincerity, even if their line of action may seem mistaken. But our outstanding error has been a failure to make those personality adjustments and sacrifices which would render realisation possible.

Có người nhận xét rằng những khó khăn của chúng ta hiện nay phần lớn là do thiếu nhận thức trực giác nơi những ai có thể ảnh hưởng đến đại chúng và hướng dẫn mọi người đi tới. Họ tìm cách hướng dẫn bằng những tiến trình trí tuệ, và bắt buộc thi hành. Họ không hướng dẫn bằng cách trình bày thực tại qua trực giác mà cả trẻ con và người khôn ngoan sáng suốt đều có thể đồng thời nhận hiểu. Chính tầm nhìn tinh thần là điều cần thiết, vì “ở đâu không có tầm nhìn tinh thần thì dân chúng tiêu vong.”[3]  Chúng ta không thiếu những lý tưởng cao đẹp, hay là quá kém thông minh. Hầu hết mọi người khi đối diện với những vấn đề khó khăn, đều hành động một cách thành thực, cho dù đường hướng hành động của họ có thể dường như nhầm lẫn. Nhưng cái sai rõ nét nhất của chúng ta là không thực hiện những điều chỉnh về mặt phàm nhân và những hy sinh để có thể nhận thức đúng.

People ask for guidance; they demand right leadership; they hope to be led in the way that they should go; and yet all the time the guidance, leadership and direction have been given them. Christ blazed the trail and is still waiting for us to follow, not one by one, but—under inspired disciples—as a race. Like the children of Israel under Moses, we must go forth and find the “holy land.” How then can those who have vision (and they are many) train themselves to aid in the right orientation of humanity? How can they become the leaders so sorely needed? By learning to be led themselves by Christ, and by following the guidance of the inner mystical Christ which will inevitably lead them direct to Christ the Initiator. As aspirants to the mysteries we must learn the way through obedience to the light which we may have, by love, and by becoming sensitive to inspiration from on high. There is no other way. We have no genuine excuse for failing, for others have gone ahead, and Christ made it all so clear and simple.

Dân chúng cần được hướng dẫn. Họ yêu cầu tư cách lãnh đạo đúng, để hy vọng được hướng dẫn đi đúng đường. Vậy mà bao giờ họ cũng đã được trao cho những lời hướng dẫn, sự lãnh đạo và đường hướng đúng. Đức Christ soi sáng con đường, và vẫn còn chờ chúng ta nối bước, không lần lượt từng người mà với tư cách toàn nhân loại, theo các vị môn đồ được truyền cảm hứng. Giống như những người con dân Israel đi theo Moses, chúng ta cũng phải đi tới để tìm ra “thánh địa.”  Vậy thì làm thế nào những người có tầm nhìn tinh thần (số người này rất nhiều) có thể tự rèn luyện để giúp nhân loại định hướng đúng?  Làm thế nào họ có thể trở thành những nhà lãnh đạo mà hiện đang hết sức cần thiết?  Bằng cách học để biết tự mình đi theo sự hướng dẫn của Đức Christ, và đi theo sự hướng dẫn của vị Christ thần bí ở nội tâm. Vị này tất sẽ đưa họ thẳng đến Đức Christ, Đấng Điểm đạo. Là những người chí nguyện đi tìm các bí nhiệm, chúng ta phải học theo lối này qua việc tuân hành ánh sáng nội tâm mà khả dĩ mình đang có, bằng cách yêu thương, và nhanh nhạy đón nhận nguồn cảm hứng cao siêu. Không cách nào khác. Chúng ta không có lý do thực sự nào để không làm thế, vì những người khác đã đi tới, và Đức Christ đã nói lên mọi điều quá rõ ràng, đơn giản.

Obedience to the highest one knows, in small things as well as in great, is too simple a rule for many to follow, but it is the secret of the Way. We demand so much, and when a [266] simple rule is given us, and we are told merely to obey the voice of conscience and to follow the glimmer of light which we can see, we do not find it sufficiently interesting to call forth prompt obedience. But this rule was the first which Christ followed, and even when a child, He said that He came to occupy Himself with His Father’s business. He obeyed the call. He did as God told Him; He followed step by step the inner voice—and it led Him from Bethlehem to Calvary. But it took Him eventually to the Mount of Ascension. He has shown us what results from obedience, and He “learned obedience by the things which He suffered.” He paid the price, and revealed to us what God in man could be and do.

Tuân hành những gì cao cả nhất mà mình biết, trong việc nhỏ cũng như việc lớn, là qui tắc quá đơn giản cho nhiều người thực hành, nhưng đó là bí quyết để tiến bước trên Đường Đạo. Chúng ta đòi hỏi quá nhiều, và khi (266) được trao cho một qui tắc đơn giản, và được cho biết chỉ cần tuân theo tiếng nói của lương tâm và đi theo ánh sáng còn mờ nhạt hiện nay có thể thấy, thì chúng ta không cảm thấy thú vị gì khi phải lập tức tuân hành như thế. Nhưng đây là qui tắc đầu tiên mà Đức Christ đã tuân theo. Ngay khi còn là một đứa trẻ, Ngài đã cho biết là đang chăm lo công việc của Cha Ngài. Ngài tuân theo lời kêu gọi. Ngài thực hành những điều được Thượng Đế truyền dạy. Ngài từng bước đi theo tiếng nói nội tâm – và nó dắt Ngài từ Bethlehem đến Calvary. Nhưng rốt cuộc nó đưa Ngài đến Đỉnh núi Thăng thiên. Ngài cho chúng ta thấy kết quả của sự tuân hành. Ngài “học cách tuân hành qua những điều mà Ngài phải gánh chịu.”  Ngài đã trả giá, và cho chúng ta thấy những gì mà vị Thượng Đế trong mỗi người có thể biểu lộ và thực hiện.

The achievement of human perfection is not the simple matter of building a good character and being nice and kind. More than that is involved. It is a question of understanding and of a new and regulated inner attitude, one which is oriented to God because it is oriented to the service of man, in whom God is expressing Himself. “If we do not love our brother whom we have seen, how can we love God whom we have not seen?” [ccliv]4 This is the question which St. John, the beloved Apostle, asks and which we have not yet, as a race, attempted to answer. The vital need is to return to the simple fundamental instruction which Christ gave, and to learn to love our brother. Love is not a sentimental, emotional state of consciousness. It takes into account the point in evolution and the development of character of those to be loved; but in spite of all, it is a love which sees truly, and which, because it sees so truly can act wisely. It is a love which realises that the world needs love, and that a spirit of love (which is a spirit of inclusiveness, of tolerance, of wise judgment and far-sighted vision) can draw all men together into that outward unity which is based upon a recognised inner relationship.

Hành giả đạt sự hoàn thiện không chỉ đơn thuần là lập đức hạnh tốt, cũng như tỏ ra nhân từ và tử tế. Sự hoàn thiện còn bao gồm nhiều điều hơn nữa. Đó là sự thông hiểu, và thái độ mới mẻ, hài hòa, hướng về Thượng Đế vì nó nhằm phục vụ con người mà trong đó Thượng Đế tự biểu lộ.  “Nếu chúng ta không yêu thương huynh đệ của mình là những người mà chúng ta đã thấy, thì làm sao chúng ta có thể yêu thương Thượng Đế là Đấng mà chúng ta chưa thấy?”[4]  Đây là câu hỏi mà Thánh John, vị Tông đồ thân yêu, đặt ra mà chúng ta, với tư cách toàn nhân loại, chưa cố gắng trả lời. Điều hết sức cần thiết là trở về với giáo huấn đơn giản và nền tảng mà Đức Christ đã trao cho chúng ta, và học cách yêu thương người huynh đệ của mình. Yêu thương không phải là tâm trạng thuộc về xúc cảm hay tình cảm. Nó xét đến trình độ tiến hóa và sự phát triển đức hạnh của người được yêu thương. Nhưng dù sao chăng nữa, đó là tình thương thấy rõ sự thực, và vì thấy được đúng thực nên có thể hành động một cách khôn ngoan. Đó là tình thương với nhận thức rằng thế giới cần được yêu thương. Nó hiểu rằng tinh thần yêu thương (vốn là tinh thần bao gồm, khoan dung, phán đoán khôn ngoan, sáng suốt, và tầm nhìn xa thấy rộng) có thể đưa mọi người đến với nhau trong sự hợp nhất ở bên ngoài, dựa vào mối liên hệ nhận thức được ở bên trong.

We are all so ready to take love. We are all so eager to be loved, because we realise, unconsciously if not consciously, [267] that love means service, and we like to be served. The time has come when that selfish attitude to life must change, and we must learn to give love and not to ask love, to go out in service to all whom we contact day by day, and expect and exact nothing for the separated self. When this spirit (which is outstandingly the spirit of Christ and of those who know Him best) becomes more general, then we shall see a more rapid consummation of the desired changes. Theologically, we have said that “God is love,” and then have interpreted Him in terms of our own hatreds, our own limited ideals, our narrow theologies, and our separative attitudes. We have recognised Christ as the great Server of the race, and have pointed to Him as the example of what is possible. But we accord no general service, and that quality is not yet the motivating power in the life of the world. It is motivating life more definitely than ever before, but the efforts that are now being made—twenty centuries after Christ left us with the command to follow in His steps—only serve to show how slow we have been, how much remains to be done, and how desperately men need to be served by those who have vision and the love of God in their hearts. It is obvious how little love there is used in the world at this time. The essential thing to remember is that the reason we can recognise God as a God of love is that we are ourselves, basically and potentially, God-like in quality. This in itself constitutes a problem, for unless the divine in us is somewhat awakened it is difficult for us to interpret love correctly, and it is impossible for the masses of men, who are yet upon the path of becoming, and in many cases are scarcely human beings, to understand the real significance of love.

Tất cả chúng ta đều rất sẵn sàng đón nhận tình thương. Tất cả chúng ta đều thiết tha muốn được yêu thương, vì hiểu, dù hữu thức hay vô thức, (267) rằng tình thương có nghĩa là phụng sự, và chúng ta muốn được phụng sự. Đã đến lúc phải thay đổi thái độ vị kỷ đối với cuộc sống. Chúng ta phải học cách cho ra tình thương mà không đòi hỏi tình thương, hướng ra ngoài phụng sự tất cả những người mà chúng ta giao tiếp hằng ngày, mà không mong đợi hay đòi hỏi điều gì cho cái ta riêng rẽ. Khi tinh thần này (mà vốn rõ ràng là tinh thần của Đức Christ và của những ai biết Ngài rõ nhất) ngày càng trở nên phổ biến, thì bấy giờ chúng ta sẽ thấy những sự thay đổi cần có được thực hiện nhanh chóng hơn. Theo thần học, chúng ta đã nói rằng “Thượng Đế là bác ái,” rồi lại lý giải về Ngài theo những thù ghét của chính mình, những lý tưởng còn giới hạn của mình, khoa thần học hạn hẹp của mình, và thái độ chia rẽ của mình. Chúng ta đã công nhận Đức Christ là Người phụng sự vĩ đại của nhân loại, và xem Ngài là tấm gương của những điều có thể thực hiện. Nhưng chúng ta không hề đồng ý phụng sự chung, và phẩm tính này vẫn chưa là động lực của cuộc sống trên thế giới. Nó đang thúc đẩy cuộc sống rõ rệt hơn trước. Thế nhưng – đã hai mươi thế kỷ qua sau khi Đức Christ rời chúng ta với mệnh lệnh hãy theo bước chân Ngài – những cố gắng hiện nay chỉ cho thấy rằng chúng ta đã làm việc chậm chạp đến đâu, có bao nhiêu điều còn cần phải làm, và dân chúng hết sức cần như thế nào công tác phụng sự bởi những người đang có tầm nhìn tinh thần và tình thương của Thượng Đế trong tâm. Rõ ràng là tình thương đang được sử dụng ít đến đâu trên thế giới hiện nay. Cốt yếu cần ghi nhớ rằng sở dĩ chúng ta có thể nhận biết Thượng Đế là vị Thượng Đế của bác ái vì chúng ta, trong cơ bản và tiềm năng, có phẩm tính giống như Thượng Đế. Đây chính là vấn đề, vì nếu bản tính thiêng liêng trong chúng ta không được đánh thức phần nào thì chúng ta khó có thể diễn giải đúng được tình thương. Và với đại chúng, đang trên đường trở thành người, trong nhiều trường hợp hiếm khi biểu lộ nhân tính, thì họ chưa thể hiểu được thực nghĩa của tình thương.

The understanding of love and the expression of love are strictly personal matters. Love can remain indefinitely a theory or an emotional experience. It can become a motivating factor in life and something which we contribute to the whole. If each would think out for himself the meaning of love in his life, and if all would decide to give love and understanding (not emotional reactions, but steady, [268]steadfast, understanding love), then the tangles in this troubled world of ours would straighten out, and it would be an easier place in which to live. The present chaos and turmoil would then more rapidly disappear. Love is essentially the realisation of brotherhood. It is the recognition that we are all the children of the One Father; it is pity and compassion and understanding and patience. It is the true expression of the life of God.

Thấu hiểu tình thương và biểu lộ tình thương là vấn đề hoàn toàn cá nhân. Tình thương có thể vẫn còn là lý thuyết chưa xác định, hoặc là kinh nghiệm tình cảm. Nó cũng có thể trở thành lực phát động trong đời sống, và một điều gì đó mà chúng ta đóng góp cho toàn thể. Nếu mỗi người tự suy ngẫm về ý nghĩa của tình thương trong cuộc sống, và nếu tất cả mọi người đều quyết định cho ra tình yêu thương và thông cảm (không phải là những phản ứng tình cảm, mà là tình thương yêu (268) cảm thông, thường xuyên, bền bỉ), thì bấy giờ mớ bòng bong trên thế giới khốn khổ này của chúng ta sẽ được tháo gỡ, và nó sẽ là nơi sinh sống tốt đẹp hơn. Bấy giờ tình trạng xáo trộn và hỗn loạn hiện nay sẽ tan biến nhanh chóng hơn. Cốt yếu tình thương là sự nhận thức được tình huynh đệ. Đó là sự công nhận rằng tất cả chúng ta đều là con của Đấng Cha Lành duy nhất. Đó là lòng xót thương, từ ái, thông cảm và kiên nhẫn. Đó là biểu lộ thực sự của sự sống Thượng Đế.

If the first requirement of the man who seeks to prepare himself for the Mysteries of Jesus is obedience to the highest which he can sense and know, and the second is the practice of love, the third is the development of that sensitivity and inner attention by means of which he can arrive at the significance and the condition of inspiration. This is not in any sense the development of psychic faculty as usually understood; it is present among God’s children in many forms, from that of attention to the inner voice of conscience and duty (two of the lowest forms of inspiration) to that high spiritual attainment which finds expression in the inspired scriptures of the world.

Với người muốn dọn mình để đón nhận các Bí nhiệm của Đức Jesus, thì yêu cầu thứ nhất là tuân theo những gì cao cả nhất mà y cảm nhận và hiểu biết. Hai là cần thực hành tình thương. Ba là cần phát triển sự nhạy bén và chuyên chú ở nội tâm, nhờ đó y có thể thấu hiểu ý nghĩa và điều kiện để đón nhận nguồn linh cảm. Đây không hề có nghĩa là phát triển quan năng thần thông như người ta thường hiểu. Nó có trong những người con của Thượng Đế dưới nhiều hình thức, từ sự chú ý lắng nghe tiếng nói ở bên trong của lương tâm và bổn phận (hai dạng thấp nhất của linh cảm) đến sự thành đạt tinh thần cao siêu, được bày tỏ trong các thánh kinh đầy cảm hứng trên thế gian.

Unless there is this inspiration, it is not possible for a man to enter into the temple and to commune with That which is introducing him to the subtle processes of initiation. The first Initiator is the soul itself, the divine self in man, the spiritual man, who stands behind the screen of the outer man, and who struggles to control and work through the outer personality. It is that soul or self which opens to man the door of inspiration and reveals to him the nature of his divine consciousness, attuning his ear to catch the sound of that “Voice which speaks in the silence”—when a man has quieted all the outer voices.

Nếu không có nguồn cảm hứng tinh thần này, hành giả không thể đi vào thánh điện và hiệp thông với Đấng đưa y vào các tiến trình tinh vi của điểm đạo. Đấng điểm đạo đầu tiên chính là linh hồn, là chân ngã thiêng liêng trong y, là con người tinh thần ẩn ngự bên trong ngoại thể, cố gắng kiểm soát và làm việc qua phàm nhân ở ngoại giới. Chính linh hồn hay chân ngã này mở ra cho y cánh cửa của nguồn linh cảm, cho y thấy bản tính của tâm thức thiêng liêng nơi mình. Nhờ đó mà tai y có thể ghi nhận được “Tiếng nói thốt ra trong im lặng” – khi y đã để cho lắng xuống tất cả những tiếng nói ở bên ngoài.

The attainment of the faculty of inspiration is essential to any progress upon the path of initiation, and it presupposes a development of intelligence which will enable a man to make the necessary differentiations. True inspiration is not in any sense the welling-up of the subconscious self or mind; nor is it the releasing in man of the flood of ideas and [269] thoughts which are his—racial, national or family; it is not the tuning in on the world of thought which can so easily be done by those in whom a certain quality of telepathic rapport is developed. Nor is it listening to the many voices which can make themselves heard when a man succeeds in becoming so utterly negative and so emptied of all intelligent thought that the sounds, the ideas and the suggestions of the world of psychic phenomena very easily intrude. This happens usually when the standard of intelligence is of a relatively low order. Inspiration is something entirely different. It is a penetration into the world of thought and ideas to which Christ listened when He heard a Voice, and the Father spoke to Him. It is the intuitive response of an intelligent mind to impressions coming from the soul and from the world of souls. The speech of the kingdom then becomes familiar to us. We are in touch with those liberated souls who are functioning in that kingdom, and the waves of thought and the ideas which they seek to impress upon the minds of men find their way into circulation through the attuned minds of the disciples of the world. This is inspiration, and this is the faculty for which aspirants everywhere should begin to train themselves, and which must be attained in the world of everyday living. It is a power which is generated through the processes of right meditation; it is an expression of the soul, working through the mind, and thus actuating the brain with impulses which are purely spiritual. Inspiration is responsible for all the new ideas and the developing ideals of our modern world. The age of inspiration is not gone and past; it is present here and now. God still speaks to men, for this world of ours still provides adequate facilities for the development of those qualities which are characteristic of the Christ in the human heart, the soul, the son of God in incarnation, dwelling in this vale of tears, or as it has been called, this “vale of soul-making.”

Đạt được năng lực đón nhận nguồn linh cảm là điều thiết yếu để tiến bước trên con đường điểm đạo. Đương nhiên trước đó hành giả phải phát triển trí thông minh để khả dĩ có được những sự phân biệt cần thiết. Linh cảm đích thực không hề có nghĩa là sự trào dâng của cái ngã hay cái trí ẩn trong tiềm thức. Nó cũng không phải là sự tuôn tràn trong y các ý tưởng và (269) ý nghĩ vốn của y – về chủng tộc, quốc gia, hay gia đình. Nó không phải là sự hòa nhập vào thế giới tư tưởng mà những ai đã phát triển khả năng giao tiếp thần giao cách cảm đến mức nào đó đều có thể thực hiện dễ dàng. Nó cũng không phải là việc đón nhận những tiếng nói khác nhau, có thể nghe được khi một người làm cho mình trở nên hoàn toàn tiêu cực, và loại bỏ tất cả các tư tưởng thông minh, đến mức để cho những ý tưởng và dẫn dụ từ cõi giới hiện tượng tâm thông quá dễ dàng xâm nhập. Tình trạng này thường xảy ra khi mức độ thông minh của y tương đối thấp. Linh cảm là điều hoàn toàn khác hẳn. Đó là sự thâm nhập vào thế giới của tư tưởng và ý tưởng mà Đức Christ lắng nghe khi Ngài nghe Tiếng nói của Đức Chúa Cha phán bảo Ngài. Đó là ứng đáp trực giác của trí tuệ thông minh với các ấn tượng đến từ linh hồn và thế giới của linh hồn. Bấy giờ, lời nói của Thiên giới trở nên quen thuộc đối với chúng ta. Chúng ta giao tiếp với những linh hồn đã giải thoát, họ đang hoạt động trong Thiên giới. Các sóng tư tưởng và những ý tưởng mà họ muốn tạo ấn tượng lên thể trí của mọi người, đang tìm đường lưu hành qua trí tuệ hòa hợp của những người đệ tử trên thế giới. Đó là linh cảm, là quan năng mà những người chí nguyện ở khắp nơi cần bắt đầu tự rèn luyện, và phải đạt được nó trong đời sống hằng ngày. Đó là năng lực có được qua tiến trình tham thiền đúng đắn. Đó là sự biểu lộ của linh hồn, hoạt động qua thể trí, và bằng cách đó kích hoạt não bộ với các xung lực hoàn toàn từ cấp độ tinh thần. Nhờ linh cảm mà có các ý tưởng mới và những lý tưởng đang phát triển trên thế giới ngày nay. Thời đại của linh cảm không hề đi qua hay thuộc về quá khứ. Nó đang xảy ra ở đây và ngay bây giờ. Thượng Đế vẫn còn nói với con người, bởi vì thế giới của chúng ta vẫn còn cung ứng những phương tiện nhằm phát triển các phẩm tính đặc trưng của Đấng Christ trong tâm hồn con người – tức là linh hồn, người con của Thượng Đế đang nhập thế, và trú ngụ trong thung lũng đầy nước mắt này, hay còn gọi là “thung lũng đào tạo linh hồn.”

But to achieve this definite and conscious soul contact, the aspirant has to learn obedience through the things which he [270] suffers, and he has also to practise the task of loving. This is not easy. It calls for discipline, for ceaseless effort and striving, for that conquest of self which means a daily crucifixion, and for that close attention which never takes its eyes from the goal, but which is always conscious of purpose, of progress and of orientation. The wonder of the process is that it can be carried forward here and now, in the situation in which we find ourselves, without demanding the least deviation from the place of duty and responsibility.

Thế nhưng, để có được sự giao tiếp hữu thức và rõ rệt này với linh hồn, người chí nguyện phải học cách tuân hành qua những gì mà y phải (270) gánh chịu, đồng thời y cũng phải thực hành yêu thương. Điều này không phải dễ. Nó đòi hỏi y phải nghiêm trì giới luật, nỗ lực và phấn đấu không ngừng, và phải thắng phục cái ngã tức là phải chịu thập giá hình mỗi ngày. Đồng thời y phải hoàn toàn chuyên chú, mắt không bao giờ rời mục tiêu, và luôn ý thức về mục đích, quyết tiến và định hướng. Tiến trình này thật tuyệt vời, vì nó có thể được tiến hành ở đây và ngay bây giờ, trong hoàn cảnh chúng ta đang sống, mà không cần phải xa rời bổn phận và trách nhiệm của mình.

Such is the goal for the man who seeks to stand with Christ in the founding of the kingdom, thus fulfilling the will of God. There is no other objective worthy of man’s attention, nor one which will so absorb every power he has, every gift and talent he possesses, and every moment of his being. Today the call is going forth for Servers of the race, and for men and women who will work at the task of perfecting the self in order that they may be better equipped to serve their fellowmen and God in man.

Đó là mục tiêu cho những ai muốn đứng về phía Đức Christ để thành lập Thiên giới, và bằng cách đó mà hoàn thành Thiên ý. Không có mục tiêu nào khác đáng cho y chú ý, hoặc điều gì khác khiến y phải gom vào đó mọi nỗ lực y đang có, mọi năng khiếu và tài năng y đang có, và tận dụng từng phút từng giây trong cuộc sống của mình. Ngày nay, đang có lời kêu gọi những Người phụng sự nhân loại, kêu gọi những người nam và nữ hãy tự hoàn thiện nhằm được trang bị tốt hơn để phụng sự đồng bào mình, và phụng sự Thượng Đế trong mỗi người.

We are told that when we enter the world of ideals, “the differences between religions become negligible and the agreements striking. There is only one ideal for man, to make himself profoundly human. `Be ye perfect.’ The whole man, the complete man, is the ideal man, the divine man.” On the path of purification we discover how weak and faulty is the lower personal man; on the path of discipleship we work at the unfoldment of those qualities which are characteristic of the man who is ready to tread the Way and be born in Bethlehem. Then we shall know the truth about ourselves and God, shall know through attainment whether what we are told is fact or not. We are told that “… no one can rightly understand the historic truth of such documents as the Gospels unless he has first experienced within himself the mystical meaning which they contain….” Angelus Silesius of the seventeenth century has already expressed the whole of the critical attitude toward this kind of investigation:

Người ta nói rằng khi đi vào thế giới các lý tưởng thì “những khác biệt giữa các tôn giáo trở thành không đáng kể, và những điều tương hợp trở nên nổi bật. Chỉ có một lý tưởng duy nhất cho con người để họ trở thành người với ý nghĩa thâm sâu. ‘Bạn hãy trở nên hoàn thiện.’ Con người toàn vẹn, mỹ mãn, là con người lý tưởng, con người thiêng liêng.” Trên con đường tinh luyện, chúng ta nhận thấy phàm nhân yếu đuối và dễ lầm lỗi đến đâu. Trên con đường đệ tử, chúng ta khai mở những phẩm tính vốn là đặc trưng của người sẵn sàng dấn bước trên Đường Đạo, và để được sinh ra tại Bethlehem. Bấy giờ chúng ta sẽ biết sự thực về chính mình và Thượng Đế. Nhờ thành đạt, chúng ta biết những điều mình được giảng dạy là đúng thật hay không. Người ta nói rằng “. . . không ai có thể hiểu đúng sự thực lịch sử của những tài liệu như các sách Phúc âm, nếu họ chưa trước tự thể nghiệm cái ý nghĩa thần bí ghi trong sách . . .”  Angelus Silesius vào thế kỷ mười bảy đã nói lên với thái độ hoàn toàn phê phán về lối khảo cứu này:

“Though Christ were yearly born in Bethlehem and never

“ ‘Dù Đức Christ có ra đời hằng năm tại Bethlehem mà chưa bao giờ

Had birth in you yourself, then were you lost for ever;

Sinh ra trong bạn, thì bạn vẫn bị chết mất mãi mãi;

[271]

(271)

And if within yourself it is not reared again

Và nếu nó chưa được dựng lại bên trong bạn

The Cross at Golgotha can save you not from pain.”

Thì Thập tự giá ở Golgotha cũng không thể cứu bạn khỏi khổ đau’  ”[5]

 [cclv]5

Self knowledge leads one to God knowledge. It is the first step. Purification of the self leads one up to the portal of initiation, and then one can tread the Way that Christ trod from Bethlehem to Calvary.

Khi tự biết mình, chúng ta sẽ biết được Thượng Đế. Đó là bước đầu tiên. Khi tinh luyện cái ngã, hành giả đi đến cánh cửa điểm đạo, và sau đó có thể bước lên con đường mà Đức Christ đã đi từ Bethlehem đến Calvary.

We are human beings, but we are also divine. We are citizens of the kingdom, although we have not yet claimed and entered into our divine heritage. Inspiration is pouring in all the time; love is latent in every human heart. Only obedience is required at the first step, and when that is rendered, service, which is the expression of love, and inspiration, which is the influence of the kingdom, become a definite part of our life expression. This is what Christ came to reveal; it is the Word which He sounded forth. He has demonstrated to us our human and divine possibilities, and by accepting the fact of our dual but divine nature we can begin to aid in the founding and expressing of the kingdom.

Chúng ta là người, nhưng chúng ta cũng có bản tính thiêng liêng. Chúng ta là công dân của Thiên giới, dù chúng ta chưa khẳng định và đi vào di sản thiêng liêng của mình. Nguồn linh cảm bao giờ cũng tuôn rải. Tình thương vốn ẩn tàng trong tâm hồn mọi người. Chỉ cần có sự tuân hành ở bước đầu. Khi đã có tuân hành, thì phụng sự, vốn là biểu lộ của tình thương, và linh cảm, vốn là ảnh hưởng của Thiên giới, sẽ trở nên thành phần xác định được biểu lộ ra trong cuộc sống chúng ta. Đây là những gì mà Đức Christ đã đến để làm hiển lộ, là Linh từ mà Ngài đã thốt ra. Ngài đã biểu dương cho chúng ta thấy những khả năng của con người và khả năng thiêng liêng. Khi chấp nhận rằng mình hiện là lưỡng nguyên nhưng vẫn có bản tính thiêng liêng, chúng ta có thể bắt đầu trợ giúp việc thành lập và biểu lộ Thiên giới.

The realisation must come to us that “the highest, purest and absolutely adequate expression of the mystery of man is Christ the God-man. He alone really and finally places human nature in the right light. His appearance in history entitles man to regard himself as more than a mere creature. If there is really a God-man there is also a Man-god, that is `man’ who has received the godhead into himself… the Man-god is collective and universal, that is to say, mankind as a whole or a world-church. For it is only in communion with all his fellowmen that man can receive God.” [cclvi] 6

Chúng ta cần phải nhận thức rằng “sự biểu lộ cao cả nhất, thuần khiết nhất, và tuyệt đối đầy đủ của bí nhiệm nơi mỗi người là Đức Christ, là con người mà cũng là Thượng Đế. Chính Ngài cuối cùng đã thực sự đưa nhân tính đi vào ánh sáng đúng nghĩa. Sự xuất hiện của Ngài trong lịch sử khiến con người có quyền xem mình có giá trị cao chứ không chỉ là một sinh vật. Nếu thực sự có con người vừa là Thượng Đế, thì tất cũng có Thượng Đế trong con người, tức là ‘người’ đã nhận sự sống của Thượng Đế vào trong chính mình. Vị Thượng Đế trong hình hài con người có tính cách tập thể và phổ quát, tức là toàn nhân loại hay là giáo hội của cả thế gian. Vì chỉ khi đã hiệp thông với tất cả các huynh đệ mình, bấy giờ hành giả mới có thể đón nhận Thượng Đế.”[6]

The individual attitude to the example of Christ is therefore obedience to the command that we achieve perfection. But the motive must be the one that incited Christ to all His divine activity—the founding of the new kingdom and the attainment of that state of consciousness on a universal and human scale which will make out of the human being [272] a citizen of the kingdom, consciously functioning therein, voluntarily subject to its laws, and striving steadfastly for its extension on earth. He is the messenger of the kingdom; and the raising of the consciousness of his fellowmen, so that they can transcend themselves, becomes his self-appointed task. The sharing with them of the benefits of the kingdom, and the strengthening of them as they tread the difficult path to the gate which admits into that kingdom, become the only dear and immediate duty. The soul who has made contact with the lower expression, the personal self, sweeps that self on to the path of Service. The man cannot then rest until he has led others into the Way and toward the freedom of the sons of God which distinguishes the new and coming kingdom.

Do đó, thái độ của mỗi cá nhân đối với tấm gương của Đức Christ là tuân hành huấn lệnh của Ngài rằng chúng ta hãy trở nên hoàn thiện. Nhưng nguyên động lực phải là động lực đã thôi thúc Đức Christ thực hiện tất cả các hoạt động thiêng liêng của Ngài – đó là thành lập trường tiến hóa mới, và đạt được một trạng thái tâm thức mới trên qui mô đại đồng và nhân loại, để biến con người (272) thành công dân của Thiên giới. Y hữu thức hoạt động trong đó, tự nguyện tuân thủ luật lệ của nó, và quyết tâm cố gắng mở rộng Thiên giới trên thế gian. Y là sứ giả của Thiên giới, và y tự đặt cho mình nhiệm vụ giúp nâng cao tâm thức của các huynh đệ, để họ có thể tự thăng tiến. Bổn phận duy nhất mà y thiết tha muốn làm ngay là chia sẻ với họ những lợi ích của Thiên giới, và giúp họ thêm sức mạnh khi họ dấn bước trên con đường khó khăn đưa đến cánh cửa đi vào Thiên giới. Khi linh hồn đã giao tiếp với biểu lộ cấp thấp là phàm ngã, thì đưa phàm ngã đi vào con đường Phụng sự. Bấy giờ hành giả không hề ngơi nghỉ mãi đến khi y đã giúp những người khác bước vào Đường Đạo hướng về sự tự do của những người con của Thượng Đế, là đặc trưng của vương quốc mới và sắp đến.

The new religion is on the way, and it is one for which all previous religions have prepared us. It differs only in that it will no longer be distinguished by dogmas and doctrines, but will be essentially an attitude of mind, an orientation to life, to man and to God. It will also be a living service. Selfishness and self-centred interests will finally be ruled out, for the kingdom of God is the life of the corporate whole, sensed and desired by all its citizens, and worked for and expressed by all who tread the Way. Initiation is nothing more than the process of developing within us the powers and faculties of this new and higher kingdom, which powers release one into a wider world, and tend to make one sensible of the organic whole in place of the part. Individualism and separateness will disappear as that kingdom comes into being. The collective consciousness is its major expression and quality. It is the next definite and clearly indicated step upon the evolutionary Path, and there is no escape from this issue. We cannot prevent ourselves from finally becoming conscious of the larger whole, or actively participating in its unified life. However, it is possible to hasten the coming of the kingdom, and the need of the world at this time, and the general turning of men towards the world of ideas, would seem to indicate that the time has come for the making of [273] that extra effort which will precipitate the appearance of the kingdom and bring forth into manifestation that which is awaiting immediate revelation. This is the challenge which today confronts the Christian Church. The need is for vision, wisdom and that wide tolerance which will see divinity on every hand and recognise the Christ in every human being.

Nền tân tôn giáo đang trên đà phát triển, và vì thế mà tất cả các tôn giáo trước đây đã giúp chúng ta chuẩn bị sẵn sàng. Chỉ khác là nó không còn đặc trưng của giáo điều và giáo lý, mà cốt yếu sẽ là thái độ của trí tuệ, hướng về cuộc sống, hướng về con người và hướng về Thượng Đế. Nó cũng sẽ là công cuộc phụng sự sinh động. Tính ích kỷ và quyền lợi vị kỷ cuối cùng sẽ bị loại bỏ, vì Thiên giới là cuộc sống của toàn thể. Nó được cảm nhận và mong muốn bởi tất cả các công dân của nó, đồng thời được phục vụ và biểu lộ bởi tất cả những người đang tiến bước trên Đường Đạo. Điểm đạo không gì khác hơn là tiến trình phát triển bên trong chúng ta các quyền năng và năng lực của giới tiến hóa cao siêu và mới mẻ này. Quyền năng ấy giúp ta đi vào thế giới rộng lớn hơn, và giúp ta nhận thức được cái toàn thể hữu cơ thay vì cái thành phần. Chủ nghĩa cá nhân và tính chia rẽ sẽ tan biến khi Thiên giới ra đời. Tâm thức tập thể là biểu lộ và phẩm tính chính yếu của Thiên giới. Nó là bước kế tiếp xác định và được nêu rõ trên Đường tiến hóa, mà ai ai tất cũng phải đi qua. Đương nhiên, cuối cùng chúng ta sẽ trở nên ý thực được cái toàn thể rộng lớn, hoặc tích cực tham gia cuộc sống thống nhất của nó. Tuy nhiên, có thể đẩy nhanh sự xuất lộ của Thiên giới. Và nhu cầu của thế giới hiện nay, cũng như nói chung mọi người đang chuyển hướng về thế giới ý tưởng, dường như là dấu hiệu cho thấy rằng đã đến lúc có (273) thêm nỗ lực để giúp Thiên giới sớm ra đời, và làm biểu hiện nhanh hơn những gì đang chờ để hiển lộ ngay. Đây là thách thức mà Giáo hội Thiên Chúa ngày nay đang đối mặt. Điều cần thiết là phải có tầm nhìn tinh thần, minh triết, và lòng khoan dung rộng rãi, nhìn thấy thiên tính ở khắp nơi, và nhận biết Đấng Christ có bên trong mọi người.

As we grasp the significance of the kingdom of God we begin to understand what is meant by the Church of Christ, and the meaning of that “cloud of witnesses” [cclvii]7 by which we are so constantly surrounded. The kingdom of God is not some one particular church with its own peculiar doctrines, its particular formulations of truth, its specialised method of government upon earth and of approach to God.

Khi thấu hiểu ý nghĩa của Thiên giới, chúng ta bắt đầu hiểu Giáo hội của Đức Christ có nghĩa là gì, và ý nghĩa của “đám mây mang chứng cứ”[7]  vốn thường xuyên bao quanh chúng ta. Thiên giới không phải là một giáo hội riêng biệt nào với giáo lý đặc thù, cách trình bày riêng biệt về chân lý, phương pháp chuyên biệt về việc quản trị trên thế gian, và cách tiếp cận riêng rẽ về Thượng Đế.

The true Church is the kingdom of God on earth, divorced from all clerical government and composed of all, regardless of race or creed, who live by the light within, who have discovered the fact of the mystical Christ in their hearts, and are preparing to tread the Way of Initiation. The kingdom is not composed of orthodox theologically minded people. Its citizenship is wider than that, and includes every human being who is thinking in larger terms than the individual, the orthodox, the national and the racial. The members of the coming kingdom will think in terms of humanity as a whole; and as long as they are separative or nationalistic, or religiously bigoted, or commercially selfish, they have no place in that kingdom. The word spiritual will be given a far wider connotation than that which has been given in the old age which is fortunately now passing. All forms of life will be regarded from the angle of spiritual phenomena, and we shall no longer regard one activity as spiritual and another as not. The question of motive, purpose and group usefulness will determine the spiritual nature of an activity. To work for the whole; to be occupied with the aiding of the group; to be cognisant of One Life pulsing through all forms, and to work in the consciousness that all men are brothers—these are the initial qualities which a citizen of the kingdom [274] must show. The human family is individually self-conscious and this stage of the separative consciousness has been a needed and useful one; but the time has arrived when we are aware of greater contacts, of wider implications, and of a more general inclusiveness.

Giáo hội đích thực là Thiên giới trên thế gian, không liên quan gì đến việc quản trị của các hàng giáo sĩ. Không phân biệt chủng tộc và tín ngưỡng, nó bao gồm tất cả những người sống theo ánh sáng nội tâm, đã khám phá ra sự thật là Đấng Christ thần bí đang ở trong tâm mình,và đang chuẩn bị tiến bước lên Con Đường Điểm đạo. Thiên giới không gồm những người suy nghĩ theo lề lối thần học chính thống. Tư cách công dân Thiên giới rộng lớn hơn nhiều, và bao gồm bất cứ ai tư duy trong phạm vi cao rộng hơn lĩnh vực cá nhân, chính thống, quốc gia, và chủng tộc. Các thành viên của Thiên giới sắp đến sẽ suy tư trong phạm vi toàn nhân loại. Người nào còn tính chia rẽ, theo chủ nghĩa dân tộc, cố chấp về tôn giáo, hoặc ích kỷ trong thương mại, thì không có chỗ trong Thiên giới. Từ tinh thần sẽ có hàm ý rộng lớn hơn nhiều so với những gì đã có trong thời đại cũ, mà may thay hiện đang đi qua. Tất cả các hình thể của sự sống sẽ được xem như những hiện tượng tinh thần, và chúng ta sẽ không còn cho rằng một hoạt động này là tinh thần và một hoạt động khác thì không. Vấn đề động cơ thúc đẩy, mục đích, và mức hữu ích cho tập thể sẽ xác định tính chất tinh thần của một hoạt động. Làm việc cho toàn thể; hết lòng trợ giúp nhóm của mình; nhận thức được Sự sống Duy nhất đang rung động nhịp nhàng qua mọi hình thể, và ghi nhớ trong tâm thức rằng tất cả mọi đều là huynh đệ – đây là những đặc tính đầu tiên mà người công dân Thiên giới (274) cần phải có. Gia đình nhân loại đang tự thức ở cấp độ cá nhân, và giai đoạn ý thức riêng rẽ này đã rất cần thiết và hữu ích. Nhưng nay đã đến lúc chúng ta biết được những giao tiếp rộng lớn hơn, với những hàm nghĩa sâu rộng hơn, và tinh thần bao gồm phổ quát hơn.

How will this condition of God’s kingdom materialise on earth? By the gradual and steady increase of the numbers of those who are citizens of that kingdom living their lives on earth and demonstrating the qualities and the consciousness which is characteristic of such citizens; by men and women everywhere cultivating the wider consciousness, and becoming more and more inclusive. “Any reflection,” Dr. Hocking tells us, “that can infallibly break the walls of the Self, opens up at once an infinite World-field. Set a second to my One, and I have given all the numbers.” [cclviii]8 And he gives us the clue to the process which must be cultivated in this work of essential unity by saying that “… the true mystic is he who holds to the reality of both worlds, and leaves to time and effort the understanding of their union.” [cclix]9 The kingdom of God is not divorced from practical daily living upon the level of everyday affairs. The citizen of the kingdom is world-conscious and God-conscious. His lines of contact are clearly delineated in both directions: he is interested not in himself, but in God and his fellowmen, and his duty to God is worked out through the love he feels and shows for those around him. He knows no barriers and recognises no divisions; he is living—as a soul—in every aspect of his nature, through his mind and his emotions, and on the physical plane of life. He works through love and in love; and because of the love of God.

Làm thế nào điều kiện này của Thiên giới trở thành hiện thực trên thế gian?  Bằng cách từ từ gia tăng liên tục con số những người trở thành công dân Thiên giới, nhưng đang sống ở cõi trần, biểu dương các đặc tính và tâm thức đặc trưng của mình; bằng cách mọi người nam và nữ ở khắp nơi mở mang tâm thức cao rộng hơn, với tinh thần ngày càng bao gồm nhiều hơn. Ts. Hocking nói “Bất cứ sự tư duy quán tưởng nào dứt khoát phá vỡ được những tường rào của cái Ngã, đều lập tức mở ra một phạm vi Thế giới vô hạn. Cộng thêm cái thứ hai vào cái Một của tôi, tức là tôi đã có tất cả các con số.”[8]  Và trao cho ta manh mối của tiến trình cần được bồi đắp trong công tác hợp nhất thiết yếu này, ông nói thêm “. . . nhà thần bí đích thực nắm giữ sự thực của cả hai thế giới, và hiểu được sự hợp nhất của chúng qua thời gian và nỗ lực.”[9]  Thiên giới không hề tách biệt với sinh hoạt thực tế hằng ngày, trên cấp độ các sự vụ thường nhật. Người công dân của Thiên giới vừa có ý thức về thế gian và ý thức về Thượng Đế. Đường lối giao tiếp của y được vạch ra rõ rệt trong cả hai chiều hướng. Y không hề bận tâm đến cá nhân mình, mà chỉ chú tâm vào Thượng Đế và đồng bào mình. Do đó, nhiệm vụ của y đối với Thượng Đế được thể hiện qua tình thương mà y bày tỏ với những người chung quanh. Y không biết đến những hàng rào ngăn cách và không công nhận những ranh giới phân chia. Là linh hồn, y sống trong mọi phương diện bản tính của mình, qua trí tuệ, tình cảm, và trong đời sống ở cõi trần. Y làm việc qua tình thương, trong tình thương, và vì tình thương của Thượng Đế.

A close study of the Gospel story and a spirited attention to the words of Christ will make apparent that the three outstanding characteristics of His work and the three main lines of His activity are intended to be ours also. These three are, as we have seen, first, the achieving of perfection and its demonstrating[275] through the five great events which we call the crises in the life of Christ, the five major initiations of the Orient and of the esoteric schools; secondly, the founding of the kingdom—a responsibility which rests upon each of us, because, though Christ certainly opened the door into the kingdom, the rest of the work rests upon our shoulders; thirdly, the attaining of immortality, based on the development of that within ourselves which is of the nature of the real, which has true value and which deserves to stand the test of immortality. This last thought is one which warrants our attention. Arresting in its implication, it is sadly and deeply true that “… man, as he exists today, is not capable of survival. He must change or perish. Man, as he is, is not the last word of creation. If he does not, if he cannot, adapt himself and his institutions to the new world, he will yield his place to a species more sensitive and less gross in its nature. If man cannot do the work demanded of him, another creature who can, will arise.” [cclx] 10

Khi nghiên cứu kỹ câu chuyện Phúc âm và chuyên chú tinh thần vào lời dạy của Đức Christ, chúng ta thấy rõ rằng ba đặc trưng nổi bật trong công việc của Ngài và ba đường lối hoạt động chính yếu của Ngài là cũng nhằm dành cho chúng ta. Như chúng ta đã biết về ba đường lối này, thứ nhất là đạt được sự hoàn thiện và biểu (275) dương nó qua năm sự kiện trọng đại, được gọi là năm cuộc khủng hoảng trong cuộc đời của Đức Christ, là năm cuộc điểm đạo chính yếu của Đông phương và các trường nội môn. Hai là sự thành lập Thiên giới – trách nhiệm này là của mỗi người trong chúng ta, vì dù chắc rằng Đức Christ đã mở cánh cửa đi vào Thiên giới, nhưng phần việc còn lại vẫn cần chúng ta gánh vác. Ba là đạt được sự bất tử, nhờ phát triển bên trong chúng ta những gì có bản tính chân thật, với giá trị chân thật, đủ để vượt qua cuộc trắc nghiệm về tính bất tử. Tư tưởng sau cùng này đáng cho ta suy ngẫm. Theo hàm ý của nó, điều đáng buồn và hết sức đúng là “. . . con người, như hiện hữu ngày nay, thì không có khả năng tồn tại. Nếu không thay đổi, họ phải chịu chết mất. Con người như tình trạng hiện nay thì chưa phải là chặng cuối của cuộc sáng tạo. Nếu họ không, và không thể, tự thích nghi và làm cho thể chế của mình thích ứng với thế giới mới, thì họ phải nhường chỗ cho một nhân loại có bản tính nhạy cảm hơn và ít thô kệch hơn. Nếu con người không thể thực hiện công việc theo yêu cầu, thì một sinh vật khác có khả năng, sẽ phát sinh.”[10]

Such has always been the evolutionary plan. The life of God has constructed for itself vehicle after vehicle, in order to manifest, and kingdom has succeeded kingdom. The same great expansion is imminent today. Man, the self-conscious being, can differ radically from the forms of life in the other kingdoms because he can go forward upon the wave of God’s life in full consciousness. He can share in the “joy of the Lord” as the wider reaches of consciousness become his; he can know the nature of that bliss which is the outstanding condition of God’s nature. There is no need for human failure, nor for a definite break in the continuity of revelation. There is that in man which can enable him to bridge the gap between the kingdom in which he finds himself and the new kingdom on the horizon. Human beings who are citizens of both kingdoms—the human and the spiritual—are with us today as always. They move with freedom in either world, and Christ Himself gave us the perfect demonstration [276] of that citizenship and told us that we could do “even greater things” than He had done. Such is the glorious future towards which man is oriented today, and for which all world events are preparing him.

Kế hoạch tiến hóa bao giờ cũng vậy. Sự sống của Thượng Đế đã tạo nên cho mình hết hình thể này đến hình thể khác để biểu hiện, và các trường tiến hóa cũng được tạo lập nối tiếp nhau. Cuộc triển khai rộng lớn này ngày nay sắp xảy ra. Con người, sinh linh hữu ngã thức, có thể khác biệt trong căn bản với những hình thể của sự sống trong các trường tiến hóa khác, vì họ có thể tiến tới trên triều sóng của sự sống Thiêng liêng với ý thức đầy đủ. Họ có thể chia sẻ “niềm vui của Chúa” khi tâm thức của họ mở ra rộng lớn hơn. Họ có thể biết được tính chất của chân phúc, vốn là điều kiện nổi bật trong bản tính Thiêng liêng. Không nhất thiết là con người phải chịu thất bại, hoặc cuộc thiên khải liên tục phải bị gián đoạn. Trong con người có năng lực nối liền khoảng cách giữa trường tiến hóa mà họ đang sống với trường tiến hóa mới, đang ló dạng ở chân trời. Những người là công dân của cả hai giới tiến hóa – giới nhân loại và giới tinh thần – ngày nay vẫn đang sống với chúng ta như tự bao giờ. Họ hoạt động tự do trong cả hai cảnh giới, và chính Đức Christ đã biểu dương hoàn hảo (276) tư cách công dân này, và cho biết rằng chúng ta có thể thực hiện “những điều thậm chí còn lớn lao” hơn những gì Ngài đã làm. Đó là tương lai huy hoàng mà ngày nay con người đang hướng đến, và tất cả các sự kiện trên thế giới đều giúp họ chuẩn bị sẵn sàng.

The preparation for this kingdom is the task of discipleship and constitutes the arduous discipline of the five-fold way of initiation. The work of the disciple is the founding of the kingdom, and the primary characteristic of its citizens is immortality. They are members of a Deathless Race, and the final enemy which they overcome is death; they function consciously in or out of the body and care not which it is; they have life everlasting because there is in them that which cannot die, being of the nature of God. To be immortal because one’s sins are forgiven seems an inadequate reason to an intelligent mind; to have everlasting life because Christ died two thousand years ago does not prove satisfactory to the man who is conscious of his own responsibility and his own identity; to live for ever because one is religious, or has accepted certain forms of belief, is a reason repudiated by the man who is aware of his own inner power and nature; to base one’s faith in survival upon tradition or even upon an innate sense of persistence does not seem sufficient. We know much about the power and tenacity of self-preservation and the creative urge to self-perpetuation. Perhaps these two are simply carried forward in an idealistic sense as man faces finality.

Chuẩn bị cho Thiên giới là nhiệm vụ trên con đường đệ tử, và là giới luật gian lao trên con đường điểm đạo gồm năm giai đoạn. Công tác của người đệ tử là thành lập Thiên giới, và đặc trưng chính yếu của công dân Thiên giới là bất tử. Họ là thành viên của một Giống dân Bất tử, và kẻ thù cuối cùng mà họ thắng phục là sự chết. Họ hoạt động hữu thức ở trong và ở ngoài thân xác, và không hề bận tâm đến thân xác ấy như thế nào. Họ có đời sống vĩnh cửu, vì trong họ có một yếu tố không hề bị mai một, đó là bản tính của Thượng Đế. Trở nên bất tử vì tội lỗi của mình được tha thứ, thì dường như là lý do còn thiếu sót, đối với người có trí tuệ thông minh. Có được đời sống vĩnh cửu vì Đức Christ đã chết cách đây hai ngàn năm, thì cũng không tỏ ra thỏa đáng đối với người ý thức được trách nhiệm của mình và lai lịch của mình. Được sống mãi mãi vì mình theo tôn giáo, hoặc đã chấp nhận một dạng tín ngưỡng nào đó, là lý do bị bác bỏ bởi người ý thức được năng lực và bản tính nội tâm của mình. Đặt niềm tin vào sự vĩnh tồn của mình theo truyền thống, hay thậm chí dựa vào ý thức bẩm sinh về sự vĩnh tồn, thì cũng dường như chưa đủ. Chúng ta đã biết nhiều về sức mạnh và sự bám víu của bản năng tự bảo tồn và sức thôi thúc tự tạo muốn mình còn sống mãi. Có lẽ hai sức mạnh này tiến triển theo ý nghĩa duy tâm khi người ta đối mặt với giây phút cuối của cuộc đời mình.

Yet there is innate in humanity the sense of belonging elsewhere; there is a divine discontent which must surely have a basis in some natural inheritance which is the guarantee of our origin. This reaching out towards a larger and fuller life is just as much a human characteristic as the normal tendency of the individual to reach toward family life and social contacts. It is therefore just as capable of achievement as that tendency, and to this the testimony of the ages contributes. Personal salvation is, after all, of small importance unless it has place in a more general and universal salvaging. Promise is held out in the Bible that “he that doeth the will [277] of God abideth for ever,” [cclxi]11 and in these words we have the clue. There has been a tendency to think that when God created man His will to expression had been perfectly satisfied. There is surely no real basis for this belief. If God is not capable of producing something of far greater perfection than humanity, and if the life which pours through the natural world is not working towards something greater, finer and more beautiful than anything yet produced, then God is not divine in the sense in which this term is usually accepted. We demand of God far more than this—greatness beyond anything that has yet been shown us. We believe that this is possible. We rest back upon divinity, and are assured that it will not fail us. But revelation of the ultimate perfection, whatever that may be (and we should not limit God by any of our own pre-conceived ideas), may require the unfolding in man of powers and a mechanism which will enable him to recognise it, to share in its wonder and its larger sphere of contacts. We ourselves may have to change in order to express the divine as Christ expressed it, before God can go on to the manifestation of the beauty of the hidden kingdom. God needs man’s cooperation. He calls for men to do His will. We have looked upon this as a way to our own individual good, which perhaps has been a wrong attitude. We may arise and carry forward the inner Plan by equipping ourselves towards perfection, in order that God may “see of the travail of His soul, and shall be satisfied.” [cclxii]12 We may constitute God’s crucial experiment. The germ of divine life is in us, but we ourselves have something to do about it, and the time has come when humanity as a whole must apply itself to the fostering of the divine life within the racial form.

Vậy mà trong nhân loại vẫn có ý thức bẩm sinh rằng mình thuộc về một nơi nào khác. Có một sự bất mãn thiêng liêng chắc hẳn là dựa vào một sự kế thừa tự nhiên nào đó bảo đảm cho nguồn gốc của chúng ta. Sự vươn ra hướng về cuộc sống rộng lớn hơn và đầy đủ hơn là một đặc trưng của con người, giống như khuynh hướng bình thường của mỗi cá nhân về cuộc sống gia đình và các giao tiếp trong xã hội. Vì thế, nó cũng có khả năng thành tựu như khuynh hướng đó, và bằng chứng qua các thời đại đã cho thấy khả năng này. Nói cho cùng, sự cứu rỗi cá nhân thì không mấy quan trọng, trừ phi nó được đặt vào sự cứu rỗi chung và phổ quát hơn. Trong Kinh Thánh có lời hứa rằng “kẻ nào làm theo Thiên (277) ý sẽ được sống đời đời.”[11]  và những lời này cho ta manh mối. Đã có khuynh hướng cho rằng khi Thượng Đế tạo nên con người thì ý muốn biểu lộ của Ngài đã được hoàn toàn thỏa mãn. Chắc hẳn là không có cơ sở thực sự cho niềm tin này. Nếu Thượng Đế không có khả năng tạo nên điều gì còn hoàn thiện nhiều hơn là nhân loại, và nếu sự sống tuôn đổ qua thế giới thiên nhiên không hoạt động hướng đến điều cao cả hơn, tinh tế hơn và mỹ lệ hơn những gì đã được tạo ra, thì Thượng Đế không còn thiêng liêng theo ý nghĩa mà thuật ngữ này thường được chấp nhận. Chúng ta mong rằng Thượng Đế còn tuyệt vời hơn những điều này – cao cả hơn bất cứ điều gì mà chúng ta từng biết. Chúng ta tin rằng điều này có thể thực hiện. Chúng ta vững tin vào thiên tính, và chắc rằng nó không phụ lòng mong đợi của chúng ta. Nhưng việc hiển lộ sự hoàn thiện tối hậu, dù như thế nào (và chúng ta không nên bằng bất cứ cách nào giới hạn Thượng Đế theo những ý tưởng mà mình đã nhận thức), cũng có thể cần khai mở những năng lực và cơ cấu nơi mỗi người để y có thể nhận biết nó, chia sẻ sự kỳ diệu của nó, và dự vào phạm vi giao tiếp rộng lớn hơn của nó. Chính chúng ta có thể phải thay đổi để biểu lộ bản tính thiêng liêng như Đức Christ đã biểu lộ, trước khi Thượng Đế có thể tiếp tục biểu hiện sự mỹ lệ của Thiên giới ẩn tàng. Thượng Đế cần được con người hợp tác. Ngài kêu gọi con người hãy thực thi Thiên ý. Chúng ta đã xem điều này là một lối để mang lại lợi ích cho cá nhân mình, mà có lẽ đó là thái độ sai lầm. Chúng ta có thể phát khởi và xúc tiến Thiên cơ nội tại bằng cách tự trang bị hướng về sự hoàn thiện, để Thượng Đế có thể “thấy sự khó nhọc của linh hồn Ngài, và sẽ hài lòng.”[12]  Chúng ta có thể là cuộc thí nghiệm quan trọng của Thượng Đế. Trong ta có mầm mống của sự sống thiêng liêng, nhưng chính chúng ta cần giúp nó phát triển, và đã đến lúc toàn nhân loại phải cố gắng nuôi dưỡng sự sống thiêng liêng này trong hình thể con người.

It is our immediate duty therefore, in the interests of the kingdom whose citizens are immortal, to unfold that which in ourselves is divine, and whose characteristics can be known by the sense of value, by the attribute of light, and by the nature of its love and loves. Full expression of the “Hidden [278] Man of the Heart” is the need today. The revelation of the Self within the self is the demand. It is this self, nurtured, fostered, then trained and developed, which is the immortal aspect in man, and for this self are we responsible. There is no evading this, nor is there evading of the fact that we are part of a whole, and that only as Christ enters into recognition by the entire race and is expressed by humanity as a whole, shall we achieve that for which we have been created—the fulfilling of the will of God, as Christ fulfilled it. We need to transcend the inferiority complex which rises up in questioning when such words occur as the above phrase: “As Christ fulfilled it.” A book earlier quoted states that this idea of a personal Christ must be eclipsed and superseded by Christ as the life and hope in all of us. It is only the uniquely significant who understand the true inner meaning of immortality. Those in whom the sense of values is subordinated to the values of the soul, whose consciousness is that of eternity, are eternal in their living processes. This we must remember.

Thế nên, vì Thiên giới cùng với các công dân bất tử trong đó, chúng ta có nhiệm vụ ngay trước mắt là khai mở sự sống thiêng liêng nơi chính mình. Sự sống này có đặc trưng là ý thức về giá trị tinh thần, những thuộc tính của ánh sáng, và bản chất của tình thương và những gì được yêu thương. Sự biểu lộ viên mãn của “Con người (278) Ẩn tàng ở Nội tâm” là điều cần thiết hiện nay. Sự hiển lộ của Chân ngã bên trong phàm ngã là điều cần yếu. Chính cái phàm ngã này, được chăm sóc, bồi dưỡng, rồi đào luyện và phát triển, là khía cạnh bất tử trong mỗi người,  và chúng ta chịu trách nhiệm về cái ngã đó. Không thể lẩn tránh trách nhiệm này, hoặc lẩn tránh sự thực chúng ta là một thành phần của toàn thể, và sự thực là chỉ khi Đức Christ được toàn nhân loại công nhận và tâm thức Christ được mọi người biểu lộ, bấy giờ chúng ta mới đạt được điều mà vì đó chúng ta được tạo ra – sự hoàn thành Thiên ý, như Đức Christ đã hoàn thành. Chúng ta hãy vượt qua mặc cảm tự ti khi nó nổi lên, băn khoăn, thắc mắc về câu nói: “Như Đức Christ đã hoàn thành.”  Một quyển sách được trích dẫn trước đây có nói rằng Đức Christ cá nhân phải trở nên mờ đi và được thay thế bởi Đấng Christ là sự sống và nguồn hy vọng trong tất cả chúng ta. Chỉ có điều quan trọng duy nhất là cần hiểu được thực nghĩa sâu xa của sự bất tử. Những ai đã dùng các giá trị của linh hồn thay cho ý thức giá trị thông thường, có tâm thức thuộc về sự vĩnh cửu, tức là đang sống trong những tiến trình vĩnh cửu. Chúng ta cần ghi nhớ điều này.

Are we interested in the vital whole? Is the welfare of the race of real moment to us? Are we willing to sacrifice everything to the good of the whole? These are questions which are of importance to the individual aspirant, and which he must answer if he is to understand clearly what he is attempting to do. This process of giving deference to the whole has been summed up for us by Dr. Schweitzer, who presents to us such a wonderful picture of the kingdom of God. He says that:

Có phải chúng ta đang quan tâm đến cái toàn thể sinh động?  Có phải phúc lợi của nhân loại là điều thực sự quan trọng đối với chúng ta?  Chúng ta có sẵn lòng hy sinh mọi thứ hay không cho sự tốt lành của toàn thể?  Đây là những câu hỏi quan trọng đối với mỗi cá nhân người chí nguyện, và y phải trả lời nếu y muốn hiểu rõ những gì y đang cố gắng thực hiện. Tiến trình tôn trọng cái toàn thể này đã được Ts. Schweitzer tóm lược, khi ông trình bày cho chúng ta hình ảnh tuyệt vời về Thiên giới, như sau:

“Civilization, put quite simply, consists in our giving ourselves, as human beings, to the effort to attain the perfecting of the human race and the actualization of progress of every sort in the circumstances of humanity and of the objective world. This mental attitude, however, involves a double predisposition: firstly, we must be prepared to act affirmatively toward the world and life; secondly, we must become ethical.

“Nói thật đơn giản, văn minh gồm việc chúng ta, với tư cách con người, hiến mình vào nỗ lực nhằm đạt sự hoàn thiện cho nhân loại, và thực hiện mọi loại tiến bộ trong các hoàn cảnh sống của nhân loại và ngoại giới khách quan. Tuy nhiên, thái độ trí tuệ này gồm hai điều kiện cần yếu: một là chúng ta cần phải chuẩn bị sẵn sàng để hành động một cách khẳng định hướng về thế giới và cuộc sống; hai là chúng ta phải sống đạo đức.

“Only when we are able to attribute a real meaning to the world and to life shall we be able also to give ourselves to such action as [279] will produce results of real value. As long as we look on our existence in the world as meaningless, there is no point whatever in desiring to effect anything in the world. We become workers for that universal spiritual and material progress which we call civilization only in so far as we affirm that the world and life possess some sort of meaning, or, which is the same thing, only in so far as we think optimistically.

“Chỉ khi nào chúng ta có thể thấy được thực nghĩa của thế giới và cuộc sống, bấy giờ chúng ta mới có thể hiến mình hành động (279) nhằm mang lại những kết quả có giá trị đích thực. Ngày nào chúng ta còn thấy cuộc sống của mình trong đời này là vô nghĩa, thì không có bất cứ lý do gì để thực hiện điều gì ở thế gian. Chúng ta trở thành người hoạt động cho sự tiến bộ chung về tinh thần và vật chất, mà chúng ta gọi là văn minh, khi khi chúng ta khẳng định rằng thế giới và cuộc sống có một ý nghĩa nào đó, hay nói cách khác, chỉ khi nào chúng ta suy tư một cách lạc quan.

“Civilization originates when men become inspired by a strong and clear determination to attain progress, and consecrate themselves, as a result of this determination, to the service of life and of the world. It is only in ethics that we can find the driving force for such action, transcending as it does, the limits of our own existence.

“Nền văn minh phát sinh khi con người trở nên hứng khởi với quyết tâm mạnh mẽ và sáng tỏ muốn đạt tiến bộ, và do quyết tâm ấy mà hiến mình phụng sự cuộc sống và thế giới. Chỉ với tinh thần đạo đức chúng ta mới có được động lực cho hành động vừa kể, vì nó vốn vượt cao hơn các giới hạn đời sống của chính chúng ta.

“Nothing of real value in the world is ever accomplished without enthusiasm and self-sacrifice.” [cclxiii] 13

“Không điều gì có giá trị thực sự trên thế giới được hoàn thành mà thiếu nhiệt tâm và sự tự hy sinh.”[13]

No man who cannot attain to the consciousness of the true values is yet ready for the immortality which is the prerogative of the sons of God. The building of that inner structure which is the spiritual body is carried on by means of purification, perfecting, meditation and initiation, and above all else, by service. There is no other way. The true values to which the initiate gives his life are those of the spirit, of the kingdom of God, those which concern the whole and which lay no primary emphasis upon the individual. They are expressed through expansion, service and conscious incorporation in the whole. They are to be summed up in the one word Service. They are expressed through inclusiveness and non-separateness. It is here that the Church, as usually understood, meets its major challenge. Is it spiritual enough to let go of theology and become truly human? Is it interested enough to widen its horizon and recognise as truly Christian all who demonstrate the Christ spirit, whether they be Hindu, Mohammedan, or Buddhist, whether they are labelled by any name other than that of orthodox Christian?

Không ai là không thể đạt được ý thức về các giá trị chân thực hiện đang sẵn sàng mang lại sự bất tử, vốn là đặc quyền của những người con Thượng Đế. Việc kiến tạo cái cấu trúc nội tại tức là thể tinh thần, được tiến hành nhờ tinh luyện, trở nên hoàn thiện, tham thiền và điểm đạo, và trên hết mọi sự, là nhờ phụng sự. Không có cách nào khác. Những giá trị chân thật mà người điểm đạo đồ cống hiến cuộc đời mình vào đó là những giá trị của tinh thần, của Thiên giới, những giá trị liên quan đến toàn thể, và không chú trọng chính yếu vào cá nhân. Chúng được biểu lộ qua sự mở rộng tâm thức, phụng sự, và hữu ý hội nhập vào toàn thể. Có thể tóm lược chúng trong từ Phụng sự. Chúng được biểu lộ qua tinh thần bao gồm, và không chia rẽ. Chính ở đây mà Giáo hội, hiểu theo nghĩa thông thường, đứng trước sự thách thức quan trọng. Họ có đủ giá trị tinh thần hay chăng để buông bỏ khoa thần học và trở nên thực sự là con người?  Họ có đủ quan tâm hay chăng để mở rộng tầm mắt của mình, và công nhận là người Thiên Chúa giáo thuần thành, tất cả những ai biểu dương tinh thần Christ, dù họ là người Ấn giáo, Hồi giáo hay Phật giáo, cho dù họ đang mang bất cứ nhãn hiệu nào khác với nhãn hiệu Thiên Chúa giáo chính thống?

Another basic thought emerges out of all that we have considered. It is whether or not we are today transiting out of the age of authority into the age of experience, and whether [280] this transition does not indicate that the race is rapidly preparing for initiation. We are revolting from doctrines, having very little use for them, and the reason, Dr. Dewey tells us, is that “… adherence to any body of doctrines and dogmas based upon a specific authority signifies distrust in the power of experience to provide, in its own ongoing movement, the needed principles of belief and action. Faith in its newer sense signifies that experience itself is the sole ultimate authority.” [cclxiv]14 It is obvious that this connotes not uniformity but a recognition of our essential unity.

Từ tất cả những điều xem xét trên đây, còn có một tư tưởng cơ bản khác nữa. Đó là liệu hiện nay chúng ta có đang chuyển ra khỏi thời đại của thẩm quyền để bước vào thời đại của thể nghiệm hay không, và phải chăng (280) sự chuyển tiếp này không cho thấy rằng nhân loại đang nhanh chóng chuẩn bị để được điểm đạo.  Chúng ta phản đối giáo lý/giáo điều, thấy chúng không mấy hữu ích, và Ts. Dewey cho biết lý do “. . . tuân theo bất cứ hệ thống giáo lý và giáo điều nào dựa vào một thẩm quyền cụ thể đều có nghĩa là không tín nhiệm vào năng lực tự thể nghiệm để cung cấp, trong sự vận động tiếp diễn của chính nó, những nguyên tắc cần thiết của niềm tin và hành động. Niềm tin, theo ý nghĩa mới hơn có nghĩa là chính kinh nghiệm, thì nay chính là thẩm quyền duy nhất và tối hậu.”[14]  Hiển nhiên điều này không có hàm nghĩa là sự đồng dạng, mà là nhận thức về tính duy nhất cốt yếu của chúng ta.

2

2

Thus step by step we have followed the Christ in His stupendous task, and we have studied the task in its uniqueness. He did something of such significance for the race that only today are we in a position to grasp it. So occupied have we been with our own individual salvation and our own hope of heaven that the really unique things which Christ did have largely escaped our observation. That He followed in the steps of many of God’s children who, in their day and generation, had served, suffered, and brought the world salvation, remains unquestioned; that He gave us an example of perfected humanity such as the world had never previously seen is equally unchallenged. The greatest of the previous sons of God, the Buddha, after much struggle arrived at illumination, and blazed the trail for humanity up to and through the portal of initiation. But Christ was perfect, having (dare we say during some previous cycle of lives?) learned obedience through the things which He had suffered. That He overcame death and opened the gates of immortality to all humanity is likewise true. But since the first dawn of human history men have always suffered for each other; they have again and again, here one and there another, achieved perfection and disappeared from human view. The divine spark in man has always rendered him immortal. Men have always [281] sensed their divinity, and they have always reached out their hands and their hearts to God. The sons of the Father have never forgotten the Father’s home, no matter how far away they may have wandered. God has always equally sought after us, and from century to century He has sent His messengers as an embodiment of His remembrance.

Thế là từng bước một chúng ta đã đi theo Đức Christ trong nhiệm vụ kỳ diệu của Ngài, và đã khảo sát tính cách độc đáo của nhiệm vụ đó. Ngài đã làm một điều gì đó có ý nghĩa lớn lao cho nhân loại đến đỗi chỉ đến ngày nay chúng ta mới bắt đầu hiểu được. Chúng ta đã quá bận tâm đến việc cứu rỗi cá nhân mình và hy vọng được lên thiên đàng, đến mức hầu như không thấy được những điều thực sự độc đáo mà Đức Christ đã làm. Nói rằng Ngài đã nối bước nhiều người con Thượng Đế, mà trong thời kỳ và thế hệ của mình họ đã phụng sự, chịu đau khổ, và mang lại sự cứu rỗi cho thế gian, thì cho đến nay vẫn không còn gì phải băn khoăn, thắc mắc. Nói rằng Ngài đã cho chúng ta tấm gương sáng về nhân tính hoàn thiện mà từ trước thế gian chưa hề thấy, thì cũng không có gì phải bàn cãi. Đấng cao cả nhất trong trong số những người con của Thượng Đế trước đó, là Đức Phật, sau biết bao phấn đấu gian lao, Ngài đã đạt sự giác ngộ và soi sáng con đường cho nhân loại đi đến và ngang qua cánh cửa điểm đạo. Nhưng Đức Christ đạt sự hoàn thiện khi đã biết cách tuân theo Thiên ý, qua những đau khổ mà Ngài phải gánh chịu (dám bảo hay chăng rằng điều đó đã xảy ra trong một số tiền kiếp của Ngài?)  Nói rằng Ngài đã thắng phục sự chết, và mở ra cánh cửa bất tử cho toàn nhân loại, thì cũng quả là đúng. Nhưng kể từ thời gian đầu của lịch sử nhân loại, con người vẫn luôn chịu đau khổ cho nhau. Hết lần này đến lần khác, rải rác đó đây, họ đã đạt sự hoàn thiện và biến mất khỏi tầm nhìn của nhân loại. Điểm linh quang thiêng liêng trong con người bao giờ cũng khiến họ trở thành bất tử. Con người bao giờ cũng (281) cảm nhận được thiên tính nơi mình. Bao giờ họ cũng hướng tâm hồn đến Thượng Đế, và cầu xin Ngài cứu giúp. Những đứa con của Đấng Từ Phụ không bao giờ quên ngôi nhà của Cha mình, dù họ có đi lang thang xa cách đến đâu. Thượng Đế cũng luôn tìm kiếm chúng ta. Hết thế kỷ này đến thế kỷ khác, Ngài đã gửi các sứ giả đến với chúng ta, để thể hiện lòng Ngài tưởng nhớ.

But Christ came as a special Messenger. He came to found the kingdom of God on earth and to institute a new and tangible expression of Deity upon our planet. His mission has not failed. The kingdom is now organised upon earth and is composed of those men and women everywhere who have lost sight of their own individual salvation and hope of heaven because they know that unless heaven can express itself here and now it is but a futile hope. They are occupied with the processes of self-perfection and self-purification because they seek to serve their fellowmen more efficiently and adequately, and thus “glorify their Father which is in heaven.” [cclxv]15 They are not interested in self-aggrandisement nor with the making of claims of any kind—beyond the one stupendous claim that they are sons of God, as are we all; they do not prate of initiation or call themselves initiates; they are satisfied to walk among men as those who serve and who are citizens of the kingdom of God. They are the world servers, and their only interest is in following the steps of Him Who went about doing good and proclaiming the tidings of the kingdom. They do not say that theirs is the only way into the kingdom, but to those who do not know Christ they say: “Little children, love one another.” They do not condemn those who know nothing of Christ’s sacrifice upon the Cross, but they say to those who seek the way; “Take up thy cross” and follow Christ. To their fellow disciples they bring constantly the reminder that “except a corn of wheat fall into the ground and die, it abideth alone,” and they set themselves the goal of the new birth. The bulk of the thinking, well-meaning men and women of the world are today [282] going up from Nazareth in Galilee to Bethlehem. Some, perhaps more than one can estimate, are passing on their way to the Baptism in Jordan, whilst a few are valiantly climbing the Mount of Transfiguration. One here and there may be steadfastly setting his face to go to Jerusalem, there to be crucified; but these are rare. Most of us are learning, in the daily dying to self, to fit ourselves for the final Crucifixion initiation, and by the constant renunciation of everything that holds back the expression of divinity qualifying for that tremendous spiritual experience which ever preceded the Resurrection, and which is called the Great Renunciation.

Nhưng Đức Christ đã đến với tư cách vị Sứ giả đặc biệt. Ngài đến để thành lập Thiên giới trên thế gian, và mang lại một sự biểu lộ mới mẻ và hữu hình của Thiêng liêng trên hành tinh chúng ta. Sứ mệnh của Ngài không hề thất bại. Thiên giới nay đang được tổ chức trên thế gian, và gồm những người nam và nữ ở khắp nơi, là những người không còn bận tâm đến sự cứu rỗi của cá nhân mình và hy vọng về cõi thiên đàng. Họ biết rằng nếu cõi thiên đàng không thể tự biểu lộ ở đây và ngay bây giờ, thì nó chỉ là điều hy vọng hão huyền. Họ chú tâm vào các tiến trình tự hoàn thiện và tự tinh luyện, vì họ tìm cách phụng sự đồng bào mình hiệu quả hơn và đầy đủ hơn. Bằng cách đó, họ “vinh danh Đức Chúa Cha ở trên trời.”[15]  Họ không hề có thái độ tự cao tự đại hay tự xưng bất cứ điều gì, ngoài sự khẳng định tuyệt vời rằng họ là con của Thượng Đế, như tất cả chúng ta. Họ không khoa trương về điểm đạo hoặc tự xưng mình là điểm đạo đồ. Họ vui lòng khi sống giữa mọi người với tư cách người phụng sự, và là công dân của Thiên giới. Họ là những người phụng sự thế gian. Họ chỉ quan tâm đến việc theo bước của Đấng đã đến thế gian, đi khắp nơi làm điều thiện, và công bố tin lành về Thiên giới. Họ không cho rằng con đường mình đi là lối duy nhất để vào Thiên giới. Với những người chưa biết về Đức Christ, họ bảo: “Này các bạn trẻ, hãy thương mến lẫn nhau.”  Họ không lên án những ai chưa biết gì về sự hy sinh của Đức Christ trên Thập tự giá. Nhưng với người tìm Đạo thì họ nói “Hãy vác thập tự giá của bạn” và đi theo Đức Christ. Với các bạn đồng môn, họ thường nhắc nhở “nếu hạt lúa mì không rơi xuống đất và chết, thì nó phải chịu sống một mình,” và họ tự đặt mục tiêu được sinh ra lần thứ hai. Phần đông những người nam và nữ đang suy tư, và có nhiều thiện ý trên thế giới ngày nay đều đang (282) đi từ Nazareth ở Galilee đến Bethlehem. Một số người, có lẽ nhiều hơn chúng ta tưởng, đang trên đường đi đến nhận phép Báp-têm ở Jordan. Trong khi đó, một số ít người đang dũng cảm leo lên Ngọn núi Biến dung. Rải rác đó đây khả dĩ cũng có những người chăm chú đi đến Jerusalem, nhưng số người này hãy còn hiếm. Trong việc hằng ngày để cho chết dứt cái tư ngã, hầu hết chúng ta đều trở nên thích ứng để cuối cùng nhận cuộc điểm đạo Thập giá hình. Bằng cách liên tục từ bỏ bất cứ điều gì ngăn trở sự biểu lộ thiên tính, chúng ta đủ điều kiện có được trải nghiệm tuyệt vời, gọi là đại hạnh Từ bỏ, bao giờ cũng đến trước sự Phục sinh.

Let us vision clearly just where we stand upon the Path of Evolution. Have we yet set our feet upon the Path of Probation, that difficult path of purification which is a necessary first step? Or are we definitely upon the Path of Discipleship, knowing what we are doing, cultivating the finer values and those distinctive qualities which are the hall mark of manifesting divinity?

Chúng ta hãy nhận thức rõ mình đang ở đâu trên Con đường Tiến hóa. Chúng ta đã dấn bước hay chưa trên Con đường Dự bị, là đoạn đường tinh luyện khó khăn, và là bước đầu cần thiết?  Hay rõ ràng là chúng ta đang trên Con đường Đệ tử, biết mình đang làm điều gì, vun bồi những giá trị cao đẹp hơn, và những đức tính đặc biệt là dấu hiệu của thiên tính đang biểu hiện?

The only incentive which will be strong enough (or which ever has been strong enough) to enable a man to tread the fivefold way to the Centre from which the Word goes forth is a realisation of the deep and distressing need of our modern world for revelation, for pure example and for loving service. There is no way by which this sad and war-torn world of ours can be saved and men’s lives transfigured except by a manifestation of the spirit of God. Instead of waiting for God to take action and send some Saviour (Who would probably not be recognised any more than Christ was), the time has come, and mankind has evolved sufficiently, for the divine life within it to surge forth and up to God, calling forth His response, His recognition, which we have seen Him repeat time and time again. He is willing to accord. We are His children and we are beginning to live divinely, thinking (as He thinks) in terms of the whole and not in terms of the separative and selfish individual. Now is a time of crisis when all human beings are needed, and the call goes forth for each [283] to make that extra effort towards unselfishness, and that mental push towards clarity of thought, which will transform us from well-meaning aspirants into clear-sighted disciples animated by a spirit of love and goodwill to all men, irrespective of race or creed or colour.

Để có thể tiến bước trên con đường năm giai đoạn đưa đến Trung tâm, nơi Linh từ phát ra, chúng ta cần động lực duy nhất đủ mạnh (hoặc bao giờ cũng đủ mạnh). Đó là nhận thức được nhu cầu sâu xa và khẩn thiết của thế giới ngày nay, cần được thiên khải, cần có những tấm gương thuần khiết, và cần được phụng sự với lòng yêu thương. Không có cách nào để thế giới đau buồn và bị tàn phá bởi chiến tranh này của chúng ta có thể được cứu rỗi, và cuộc sống con người được biến dung, nếu thiếu vắng sự biểu hiện tinh thần của Thượng Đế. Đừng nên chờ đợi Thượng Đế hành động và gửi đến cho chúng ta một vị Cứu thế nào đó (mà rất có thể sẽ không được công nhận nhiều hơn Đức Christ trước đây). Thay vào đó, nay đã đến lúc nhân loại đủ trình độ tiến hóa cho sự sống thiêng liêng trong tâm phát lộ, hướng về Thượng Đế, để được Ngài đáp ứng, được Ngài thừa nhận. Điều này chúng ta đã thấy Ngài thực hiện biết bao lần. Ngài sẵn lòng chấp nhận. Chúng ta là con của Ngài và đang bắt đầu sống một cách thiêng liêng, suy nghĩ (như Ngài suy nghĩ) trong phạm vi toàn thể, chứ không ở trong phạm vi cá nhân riêng rẽ và ích kỷ. Nay là thời gian khủng hoảng mà tất cả mọi người đều cần có. Mỗi người đều được kêu gọi (283) hãy cố gắng thêm nữa để không còn vị kỷ, với nỗ lực trí tuệ tư duy sáng tỏ. Nó sẽ chuyển đổi chúng ta từ người chí nguyện với thiện tâm hảo ý thành người đệ tử có tầm nhìn tỏ rõ, được phát động bởi tinh thần yêu thương và thiện chí đối với mọi người, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng hay màu da.

This religious will is in expression now, not turned to theology or to the formation of doctrines and occupied with their enforcement, but to love and service, forgetting self, giving the uttermost that is possible for the helping of the world. This will breaks down all barriers and elevates the children of men wherever the will to be so helped is found. And it is something that is organising slowly in the world today, its quality that of universality, and its technique that of loving service. Men everywhere are responding to the same inner spiritual impulse which is illustrated for us in the beautiful tale which is related of the Buddha. It runs as follows:

Ý hướng tôn giáo này nay đang biểu lộ, nhưng không quay về với khoa thần học hoặc nhằm hình thành các giáo lý và cố gắng buộc thi hành. Nó hướng đến tình thương và phụng sự, quên đi tư ngã, và trao tặng đến mức tối đa có thể để trợ giúp thế gian. Cố gắng này sẽ phá bỏ mọi rào cản, và nâng cao những người con của nhân loại ở bất cứ nơi nào có quyết tâm trợ giúp ấy. Nó cũng là điều đang từ từ tổ chức trên thế giới ngày nay. Nó có phẩm tính đại đồng, và kỹ thuật phụng sự trong tình yêu thương. Mọi người ở khắp nơi đang đáp ứng với cùng khuynh hướng tinh thần nội tại này, được minh họa cho chúng ta trong câu chuyện tuyệt hay kể về Đức Phật, như sau:

“In the belief that He had attained unto the last stage of perfection the Buddha was about to abandon existence in finite space and time, to relinquish all sorrow and suffering for the pure being of bliss universal and eternal.

“Tin rằng Ngài đã đạt đến giai đoạn cuối cùng của sự hoàn thiện, Đức Phật sắp sửa từ bỏ cuộc sống trong thời gian và không gian hữu hạn này, để đoạn tuyệt mọi ưu phiền, đau khổ và hoàn toàn sống trong chân phúc đại đồng và vĩnh cửu.

“At that moment a buzzing gnat was snapped up by a passing bat.

“Bấy giờ, một con muỗi mắt kêu vo ve bị con dơi bay ngang qua đớp lấy.

“`Stay,’ mused the Enlightened One, `the state of perfection I am entering is but perfection of myself, a unique perfection, my wholeness is a unique wholeness; not yet then am I a being universal. Other beings still suffer imperfection, existence, and resultant death. Compassion unto these still awakes within me when I contemplate their suffering.

“Đấng Giác ngộ trầm ngâm suy tưởng ‘À, trạng thái hoàn thiện mà ta đang nhập vào chỉ là sự hoàn thiện của chính ta, một sự hoàn thiện độc nhất, sự viên mãn của ta là sự viên mãn độc nhất; vì vậy ta chưa phải là một sinh linh đại đồng. Các sinh linh khác vẫn còn phải chịu đau khổ do sự bất toàn, trong đời sống, và rốt cuộc phải chết. Khi suy ngẫm những nỗi khổ đau của họ, lòng từ bi đối với họ vẫn còn bừng dậy trong ta.

“`The way of life unto perfection I have, in truth and in deed, illuminated for them: but can they tread that way without me?

“ ‘Qủa thực, ta đã soi sáng cho họ con đường sống đưa đến sự hoàn thiện: nhưng họ có thể tiến bước trên con đường ấy hay không khi thiếu vắng ta?

“`The unique perfection of myself I dreamed, the perfection of my own character and personality is but imperfection while one other being—one single gnat—still suffers imperfection of its identical kind.

“ ‘Ta đã mơ ước sự hoàn thiện độc nhất của chính mình, sự hoàn thiện trong đức hạnh và nhân cách của chính mình vẫn là điều bất toàn khi một chúng sinh khác – một con muỗi mắt đơn lẻ – còn chịu sự bất toàn trong dòng loài của nó.

“`No being may reach bliss alone: all must reach it together, and that, the unique bliss proper to each. For am I not in every other being and is not every other being in me?’

“ ‘Không chúng sinh nào một mình đạt đến chân phúc: tất cả phải cùng nhau, và bấy giờ, mỗi chúng sinh sẽ nhận được chân phúc của riêng mình. Vì phải chăng ta không ở trong mọi chúng sinh khác, và phải chăng mọi chúng sinh khác không ở trong ta?’

[284]

(284)

“With still small voice in every self thus speaketh the Buddha, by its inspiration to inner character, its aspiration to outer personality, perpetually transmuting this self into not-self, each reality dependent on the other, an everlasting way of life to tread to perfection of each, of all.” [cclxvi]16

 “Đức Phật nói như thế với tiếng thì thầm trong mọi cái ngã, với nguồn hứng khởi cho đức hạnh viên mãn bên trong, và ước vọng cho nhân cách toàn vẹn bên ngoài, mãi mãi siêu hóa cái ngã thành vô ngã, mỗi mỗi thực tại đều tùy thuộc lẫn nhau, một lối sống không ngừng hướng đến sự hoàn thiện của mỗi, và mọi chúng sinh.”[16]

Christ emphasises the same lesson, and always His disciples have sought, in their place and time, to teach the law of service.

Đức Christ cũng nhấn mạnh bài học nói trên , và bao giờ các môn đồ của Ngài, ở nơi nào và bất cứ lúc nào, cũng cố gắng giảng dạy luật phụng sự.

Sometimes it seems as if the two extremes lived on in the consciousness of man—the notorious and ambitious, and the great world servers. Hitherto the sequence has been: service of ourselves, of our family, of those we love, of some leader, some cause, some school of politics or religion. The time has come when service must expand and express itself on broader and more inclusive lines, and we must learn to serve as Christ served, to love all men as He loved them and, by the potency of our spiritual vitality and the quality of our service, stimulate all we meet so that they too can serve and love and become members of the kingdom. When this is seen clearly, and when we are ready to make the needed sacrifices and renunciations, there will be a more rapid manifestation of the kingdom of God on earth. The call is not for fanatics or for the rabid devotee who, in attempting to express it, has so marred divinity. The call is for sane and normal men and women who can comprehend the situation, face what must be done, and then give their lives to expressing for the world the qualities of the citizens of the kingdom of Souls: love, wisdom, silence, non-separativeness and freedom from hatreds and partisan, creedal beliefs. When such men can be gathered together in large numbers (and they are gathering rapidly) we shall have the fulfilment of the angels’ song at Bethlehem, “On earth peace, good will toward men.”

Đôi khi dường như trong tâm thức mỗi người có cả hai thái cực – kẻ mang thành tích xấu xa, tham vọng, và con người cao cả phụng sự thế gian. Từ trước đến nay, trình tự vẫn là: phụng sự chính mình, gia đình mình, những người mình yêu thương, một nhà lãnh đạo, một sự nghiệp, một trường phái chính trị hay tôn giáo. Nay đã đến lúc công tác phụng sự phải mở rộng và tự biểu lộ theo những đường hướng rộng lớn và bao gồm nhiều hơn. Chúng ta phải học cách phụng sự như Đức Christ đã phụng sự, yêu thương tất cả mọi người như Ngài đã yêu thương họ. Và với mãnh lực của sức sống tinh thần nơi mình, và phẩm chất phụng sự của mình, chúng ta hãy khích lệ tất cả những ai mình gặp, để họ cũng có thể phụng sự, yêu thương, và trở thành công dân của Thiên giới. Khi thấy rõ điều này, và khi chúng ta sẵn sàng thực hiện những gì cần hy sinh và từ bỏ, thì Thiên giới sẽ biểu hiện nhanh chóng hơn trên thế gian. Lời kêu gọi này không dành cho những kẻ cuồng tín, hoặc những kẻ sùng đạo hung hăng, họ gây hại cho thiên tính khi cố gắng biểu lộ nó ra. Lời kêu gọi này dành cho những người nam và nữ bình thường và lành mạnh, họ am hiểu tình hình, thấy được những điều cần phải làm, rồi hiến cuộc đời mình để biểu lộ cho thế gian thấy các phẩm tính của người công dân ở cõi giới Linh hồn: Đó là tình thương, minh triết, im lặng, không chia rẽ, không còn thù ghét và niềm tin theo bè phái hay tín ngưỡng. Khi những người như thế có thể họp đoàn với con số đông đảo (và nay họ đang nhanh chóng hợp đoàn), thì bấy giờ chúng ta sẽ thấy sự thực hiện hoàn thành bài ca của các thiên thần ở Bethlehem “Bình an dưới thế cho người thiện tâm.”


Scroll to Top