SECTION 13–2
164
The Call to Humaneness—Lời Kêu Gọi về Lòng Nhân
The need for compassion is most urgent at this present time in human history. A deep-seated disharmony exists in the world and, unfortunately, is being continually deepened. Discord reigns on earth. Countless millions of human beings and many more millions of animals have suffered, are now suffering, and inevitably will suffer and die unnecessarily and in the greatest pain at the hands of man. | Nhu cầu về lòng bi mẫn là khẩn thiết hơn bao giờ hết trong thời điểm hiện tại của lịch sử nhân loại. Một bất hoà ăn sâu tồn tại trong thế giới và, thật không may, đang liên tục bị khoét sâu. Bất hòa ngự trị trên đất. Hằng hà sa số con người và còn nhiều triệu sinh linh thuộc giới thú vật đã chịu khổ, đang khổ, và tất yếu sẽ khổ và chết một cách không cần thiết, trong nỗi đau cùng cực, bởi tay con người. |
Blood-guilt and so blood-stain must be eliminated from the conscience, soul, and life of mankind. For as long as cruelty persists, spiritual progress is retarded, spiritual activity hampered, and every reform is delayed by obstacles erected by man himself under the Law of Cause and Effect. | Máu tội và do đó vết nhơ của máu phải được gột khỏi lương tâm, linh hồn và đời sống của nhân loại. Vì bao lâu tàn ác còn tồn tại, thì bước tiến tinh thần bị trì trệ, hoạt động tinh thần bị ngăn trở, và mọi cuộc cải cách đều bị trì hoãn bởi những chướng ngại do chính con người dựng lên dưới Định luật Nhân Quả. |
Non-injury is not merely non-killing, however. In its comprehensive meaning, non-injury means the entire abstinence from causing any pain or harm whatsoever to any living creature, either by thought, word, or deed. Non-injury demands a harmless mind, harmless words, and harmless hands. It is not a negative virtue, however: it is a positive expression of the spiritual love that arises from a mental attitude in which hatred has been entirely replaced by love. | Vô tổn hại không chỉ là không sát sinh. Theo nghĩa bao quát, vô tổn hại có nghĩa là hoàn toàn kiêng tránh gây bất kỳ đau đớn hay tổn hại nào cho bất kỳ sinh vật nào, bằng tư tưởng, lời nói hay hành vi. Vô tổn hại đòi hỏi một thể trí vô tổn hại, lời nói vô tổn hại và đôi tay vô tổn hại. Tuy nhiên, đó không phải là một đức tính tiêu cực: nó là sự biểu đạt tích cực của tình yêu tinh thần nảy sinh từ một thái độ tinh thần trong đó hận thù đã được thay thế hoàn toàn bằng tình thương. |
The American Theosophist, Vol. 64, Issue 3, March 1976, p. 55 | Nhà Thông Thiên Học Hoa Kỳ, Tập 64, Số 3, Tháng Ba 1976, tr. 55 |
The Theosophist, Vol. 98, November 1976, p. 57 | Nhà Thông Thiên Học, Tập 98, Tháng Mười Một 1976, tr. 57 |
165
Theosophy and Statecraft—Thông Thiên Học và Nghệ thuật Trị quốc
Equally with the religious leader and educator, the statesman and politician must be a dedicated human being. The welfare of constituency, nation, race is his first preoccupation as self-advancement for personal profit is his last. The elimination of self-interest is the discipline required of him, and self-examination and direction as to motive in every public and private act is its most efficient form. Only when self-interest is entirely eliminated can a public servant reach his greatest heights of both character development and service to his Cause. Group and class interest must follow self-interest until the intellect can never be influenced by a hair’s breadth for such considerations. | Cũng như nhà lãnh đạo tôn giáo và nhà giáo dục, chính khách và chính trị gia phải là một con người tận hiến. Phúc lợi của cử tri, quốc gia, nhân loại là mối bận tâm đầu tiên của y, còn sự thăng tiến bản thân vì tư lợi là điều sau rốt. Loại bỏ vị kỷ là kỷ luật được đòi hỏi nơi y, và tự xét mình cũng như quán chiếu động cơ trong mọi hành vi công và tư là hình thức hữu hiệu nhất của kỷ luật ấy. Chỉ khi vị kỷ được loại bỏ hoàn toàn, một công bộc mới có thể đạt tới những đỉnh cao nhất cả về phát triển Tính cách lẫn phụng sự cho Đại Nghĩa của mình. Quyền lợi nhóm và giai cấp phải theo sau tư lợi, cho tới khi trí năng không còn có thể bị ảnh hưởng dù trong đường tơ kẽ tóc bởi những cân nhắc như thế. |
Universality of outlook, therefore, is the characteristic of the ideal statesman. He sees the world as a whole and all mankind as one. He accentuates unity and diminishes disunity wherever they exist. Party may be necessary to preserve balance and fair representation, but political allegiances must never over-ride public welfare. Small groups to advance aspects of the general cause may be useful, but political cliques, plotting the benefit of the few at the expense of the many, are anathema. | Vì vậy, tầm nhìn phổ quát là đặc trưng của chính khách lý tưởng. Y thấy thế giới như một toàn thể và toàn thể loài người như một. Y nhấn mạnh hợp nhất và làm giảm bất hoà ở bất cứ nơi nào chúng hiện diện. Đảng phái có thể cần thiết để duy trì cân bằng và đại diện công bằng, nhưng trung thành chính trị không bao giờ được lấn lướt phúc lợi công. Nhóm nhỏ để thúc đẩy các phương diện của đại nghĩa có thể hữu ích, nhưng các phe phái chính trị âm mưu mưu lợi cho thiểu số với cái giá của đa số là điều đáng ghét. |
Knowledge is essential to successful statesmanship in the New Age, and man himself is the chief subject of which knowledge is required. The threefold nature of man—body, intellect and spirit—must be understood, and that understanding must be the foundation of all statesmanship. The body is the temporary vehicle, in the physical world, of the mento-spiritual Being who is the true man. Bodily welfare, health and security are therefore important. Intellect and Spirit conjoined constitute the true man for whose benefit evolutionary progress—physical conditions are planned. | Tri thức là thiết yếu cho nghệ thuật trị quốc trong Kỷ nguyên Mới, và chính con người là chủ đề chính mà tri thức được đòi hỏi. Bản tánh tam phân của con người—thân, trí và tinh thần—phải được thấu hiểu, và sự hiểu biết đó phải là nền tảng của mọi công cuộc trị quốc. Thân xác là vận cụ tạm thời, trong thế giới hồng trần, của Hữu thể trí‑tinh thần là con người chân thực. Do đó, phúc lợi, sức khoẻ và an ninh của thân xác là quan trọng. Trí và Tinh thần kết hợp tạo thành con người chân thật vì lợi ích của y mà tiến trình tiến hoá—các điều kiện vật chất—được hoạch định. |
This true Man, of whom the statesman is the servant, is an unfolding being. Age by age, race by race, and life by life, the Inner Self of man evolves nearer to the stature of the perfect man. In order that evolution may be hastened for humanity, physical existence and experience the major means of progress—must be made as educative to the Inner Self as possible. Inner unfoldment is marked by expansion of consciousness, widening of outlook, development of faculty, capacity, aptitude, by fine character, and in general an ever-increasing spiritual power, wisdom and intelligence. | Con Người chân thật—mà chính khách là người phục vụ—là một hữu thể đang khai mở. Qua từng thời đại, từng giống dân, và từng kiếp sống, Tự Ngã bên trong của con người tiến hoá gần hơn tới tầm vóc của con người hoàn hảo. Để có thể tăng tốc tiến hoá cho nhân loại, đời sống thể xác và kinh nghiệm—những phương tiện chính của tiến bộ—phải được khiến trở nên giáo dục Tự Ngã bên trong nhiều nhất có thể. Sự khai mở nội tâm được đánh dấu bằng sự mở rộng tâm thức, mở rộng tầm nhìn, phát triển năng khiếu, năng lực, sở trường, bởi Tính cách cao quý, và nói chung là một quyền năng, minh triết và trí tuệ tinh thần ngày càng gia tăng. |
One of the first major causes for which the modem statesman should labour is the reduction and final elimination, as a characteristic of human life, of cruelty and pain and fear of these. For pain and fear drive back the Inner Self from manifestation, through the body, constrict the psychical development, and coarsen the nervous constitution—all of which experiences are most undesirable. The statesman of the New Age is above all things a humanitarian, and the banishment of the fiend of cruelty and the spectre of fear is his major vocation. | Một trong những đại sự nghiệp đầu tiên mà chính khách hiện đại nên làm việc là giảm thiểu và sau cùng loại trừ, như một đặc tính của đời sống con người, sự tàn ác và nỗi đau cũng như nỗi sợ về những điều đó. Vì đau đớn và sợ hãi đẩy lùi Tự Ngã bên trong khỏi sự biểu lộ qua thân xác, thu hẹp sự phát triển tâm linh, và làm thô kệch cấu trúc thần kinh—tất cả những trải nghiệm này đều hết sức bất lợi. Chính khách của Kỷ nguyên Mới trước hết là một nhà nhân bản, và trừ khử ác quỷ tàn bạo cùng bóng ma sợ hãi là thiên chức lớn của y. |
Fear of economic as well as domestic insecurity, of adverse discrimination in law and the social structure, fear of disease major and minor, fear of personal failure—these fears psychically constrict the bodily man and therefore delay the inner unfoldment. They may be removed from human life by wise legislation to ensure security for all, as happily is becoming the trend, health for all, a suitable field of work for all, and a sound preparation for life for all. | Nỗi sợ bất an kinh tế cũng như gia đình, sợ bị kỳ thị bất lợi trong luật pháp và cấu trúc xã hội, sợ bệnh tật lớn và nhỏ, sợ thất bại cá nhân—những nỗi sợ này bóp nghẹt người mang thân xác về mặt tâm linh và do đó làm chậm trễ sự khai mở bên trong. Chúng có thể được loại khỏi đời sống con người bằng lập pháp khôn ngoan để đảm bảo an ninh cho mọi người—điều đang may mắn trở thành xu thế—sức khoẻ cho mọi người, một lĩnh vực công việc thích hợp cho mọi người, và một sự chuẩn bị vững vàng cho cuộc đời cho mọi người. |
Education therefore assumes almost supreme importance in modern planning for human welfare. Education is undoubtedly both foundation and keystone of any ideal state as of an ideal world. Ministers and Directors of Education, Principals, Professors, tutors and teachers are the builders of that ideal; human beings are the stones, and human character is the cement by which all is stably erected and held in place. | Vì thế, giáo dục hiển nhiên đảm nhận tầm quan trọng gần như tối thượng trong việc hoạch định hiện đại cho phúc lợi con người. Không nghi ngờ, giáo dục vừa là nền móng vừa là viên đá khoá đỉnh của bất kỳ quốc gia lý tưởng nào cũng như của một thế giới lý tưởng. Bộ trưởng và Cục trưởng Giáo dục, Hiệu trưởng, Giáo sư, giảng sư và giáo viên là những người xây dựng lý tưởng ấy; con người là những viên đá, và Tính cách con người là chất kết dính nhờ đó tất cả được dựng nên vững vàng và giữ đúng vị trí. |
Education is of two orders, namely, that for the limited, temporary, bodily man, and that for the limitless, eternal Self within. The former accentuates acquisitiveness and a separative personal outlook. The latter accentuates contribution and the unifying impersonal attitude towards life. Education for the unfoldment of the Inner Self is the highest educational ideal, and the statesman’s task is to plan a system designed to that end whilst still fitting the scholar for successful living. | Giáo dục có hai trật tự: một, dành cho con người thân xác giới hạn, tạm thời; và hai, dành cho Tự Ngã vô hạn, vĩnh cửu bên trong. Cái trước nhấn mạnh vào tính tích luỹ và cái nhìn cá nhân phân ly. Cái sau nhấn mạnh vào đóng góp và thái độ vô ngã hợp nhất đối với đời sống. Giáo dục nhằm khai mở Tự Ngã bên trong là lý tưởng giáo dục cao nhất, và nhiệm vụ của chính khách là hoạch định một hệ thống hướng tới mục tiêu ấy trong khi vẫn giúp học sinh thích ứng để sống thành công. |
The relationship between capital and labour is still the subject of disagreement and conflict. The problem urgently needs to be solved. The two principles already enunciated provide the solution. The spiritual unity of all human beings, and spiritual unfoldment as the purpose of life—if kept to the forefront of all conferences and discussions by all parties—would unfailingly provide the correct and practical solution. The policy which conforms to unity, and the practice which provides conditions helpful to inner unfoldment, are always the right policy and practice. Mutual consideration and the general welfare should be the prime characteristic of all conditions of human labour and the use of the power of money; so also every other department of human activity and inter-relationship which is under the direction of National Law and the National Lawmakers. | Mối liên hệ giữa tư bản và lao động vẫn là chủ đề bất đồng và xung đột. Vấn đề này cần được giải quyết khẩn trương. Hai nguyên tắc đã nêu cung cấp lời giải. Sự hợp nhất tinh thần của mọi con người, và sự khai mở tinh thần là mục đích của đời sống—nếu luôn được tất cả các bên đặt lên hàng đầu trong mọi cuộc hội nghị và bàn luận—ắt sẽ không sai chạy mà đem lại giải pháp đúng đắn và thực tiễn. Chính sách phù hợp với hợp nhất, và thực hành tạo nên các điều kiện hữu ích cho sự khai mở bên trong, luôn luôn là chính sách và thực hành đúng đắn. Tương kính lẫn nhau và phúc lợi chung nên là đặc điểm chủ chốt của mọi điều kiện lao động của con người và việc sử dụng quyền lực của tiền tệ; cũng như vậy đối với mọi lĩnh vực hoạt động và tương quan của con người khác vốn nằm dưới sự điều hành của Luật pháp Quốc gia và những Nhà lập pháp Quốc gia. |
The Theosophist, Vol. 71, April 1950, p. 48 | Nhà Thông Thiên Học, Tập 71, Tháng Tư 1950, tr. 48 |
166
‘Histories Make Men Wise’—“Sử học khiến con người trở nên khôn ngoan”
As standing on the threshold of the second century of the life of The Theosophical Society, one reviews the more occult events of the past hundred years, one impression among many others will surely be that of the remarkable prescience of its Adept inspirers. Evidently they possessed a foreknowledge of the invaluable contributions to be made by Helena Petrovna von Hahn Blavatsky, co-founder-to-be. From early childhood the clairvoyant child had seen the majestic figure of a Hindu in a white turban, always one and the same. She knew him as well as she knew her own relatives and called him her Protector, saying that it was he who saved her in times of danger. | Khi đứng trên ngưỡng cửa của thế kỷ thứ hai trong đời sống của Hội Thông Thiên Học, nếu người ta duyệt lại những biến cố huyền bí hơn của trăm năm đã qua, một ấn tượng trong số nhiều ấn tượng khác hẳn sẽ là sự tiên tri phi thường của những Đấng Chân sư đã linh hứng cho Hội. Hiển nhiên Các Ngài sở hữu tri kiến tiên tri về những đóng góp vô giá sẽ được thực hiện bởi Helena Petrovna von Hahn Blavatsky, người đồng sáng lập tương lai. Từ thuở ấu thơ, đứa trẻ thông nhãn đã nhìn thấy hình tướng uy nghi của một người Ấn Độ đội khăn trắng, luôn luôn là cùng một vị. Bà biết Ngài cũng như biết thân nhân mình và gọi Ngài là Đấng Bảo Hộ, nói rằng chính Ngài đã cứu bà trong những khi hiểm nguy. |
One of those incidents happened when she was thirteen years of age. A horse she was riding became frightened and ran away. The child was unseated and, becoming entangled in the stirrup, hung on to it; instead of being killed, however, she felt strong arms around her body, which supported her until the horse was stopped. Another accident happened much earlier, when she was quite a baby. She wished very much to examine a picture hanging high up on a wall and covered by a white curtain. She asked someone to uncover the picture, but her wish was not gratified. Once, in the room alone, she pushed a table to the wall, put another small table on top of it, and a chair over this again, and succeeded in climbing to the picture, balancing with one hand on the dusty wall and the other reaching out to the curtain. She lost her balance and remembered nothing else. ‘Coming to, she found herself lying on the floor safe and sound, both tables and the chair standing in their usual places, the curtain drawn over the picture, and the only proof of all this having really happened was a little trace of the small hand, left on the dusty wall under the picture’.[1] | Một trong những biến cố đó xảy ra khi bà mười ba tuổi. Con ngựa bà cưỡi bị hoảng sợ và lồng lên. Đứa trẻ bị bật khỏi yên và vì vướng vào bàn đạp, nên bị kéo lê; tuy nhiên thay vì bị giết, bà cảm thấy có những cánh tay mạnh mẽ vòng quanh thân, đỡ bà cho đến khi con ngựa dừng lại. Một tai nạn khác xảy ra sớm hơn nhiều, khi bà còn là một em bé. Bà rất muốn xem một bức tranh treo cao trên tường và được phủ bởi một tấm rèm trắng. Bà xin ai đó kéo rèm, nhưng ước muốn không được đáp ứng. Một lần, khi ở một mình trong phòng, bà đẩy một cái bàn vào sát tường, đặt một bàn nhỏ lên trên, và một chiếc ghế lên trên nữa, rồi trèo lên đến bức tranh, tay này bấu vào bức tường phủ bụi để giữ thăng bằng, tay kia với đến tấm rèm. Bà mất thăng bằng và không nhớ gì nữa. “Khi tỉnh lại, bà thấy mình nằm trên sàn bình an vô sự, cả hai cái bàn và chiếc ghế đều ở vị trí cũ, rèm đã được kéo che bức tranh, và bằng chứng duy nhất cho thấy mọi việc thật sự đã xảy ra là một dấu nhỏ của bàn tay bé xíu còn lưu trên bức tường phủ bụi dưới bức tranh.” |
The possibility also exists that her life was miraculously saved after she was most seriously wounded when participating in a military action in October 1867 in the army of the Italian Liberator, Garibaldi. She nevertheless did recover![2] | Cũng có khả năng là mạng sống bà đã được cứu một cách kỳ diệu sau khi bị thương cực kỳ nghiêm trọng khi tham gia một trận hành quân vào tháng Mười 1867 trong quân đội của nhà Giải phóng nước Ý, Garibaldi. Dẫu vậy bà vẫn hồi phục! |
The next mysterious event in her life occurred on August 2, 1851, when, in London, she saw her Master in his physical body riding with members of the Nepalese Embassy who were going to present their respects to Queen Victoria.[3] On that same day, apparently, came that momentous physical meeting at which she was granted the opportunity to make practicable the plans which far earlier had been conceived by the Masters to win a favourable response from humanity to a further presentation of the age-old truths of Brahma Vidya. This incident again reveals, (does it not?) foreknowledge of the occult powers she was later to possess on receipt of training at the Master’s Ashram in Tibet. | Biến cố bí nhiệm kế tiếp trong đời bà xảy ra ngày 2 tháng Tám, 1851, khi, tại Luân Đôn, bà nhìn thấy vị Thầy của mình trong thể xác, đang cưỡi ngựa cùng các thành viên của Phái đoàn Nepal đi yết kiến Nữ hoàng Victoria. Cũng trong ngày hôm ấy, hình như, đã diễn ra cuộc gặp gỡ thể xác trọng đại, tại đó bà được ban cơ hội để làm khả thi những kế hoạch đã được các Chân sư hoài thai từ rất sớm nhằm giành một sự hồi ứng thuận lợi từ nhân loại cho một cuộc trình bày tiếp nữa các chân lý cổ xưa của Brahma Vidya. Biến cố này lại một lần nữa cho thấy (phải chăng vậy?) tri kiến tiên tri về các năng lực huyền bí mà sau này bà sẽ sở hữu sau khi nhận được sự đào luyện tại Ashram của Vị Thầy ở Tây Tạng. |
At the time of her physical meeting with her Master (1851), however, no visibly organized effort had begun. No Society existed. Nevertheless, knowledge of the formation of The Theosophical Society far in the future must surely be deduced from these preparations so successfully made. Let us follow in thought certain events of vital importance to the founding of the Society twenty-four years later. Among these were the emergence of H. P. Blavatsky from her second visit to Tibet, endowed with very great occult powers, with knowledge of Theosophy and of the English language.[4] She received direction from the Masters to go to New York,[5] where she would meet the co-founder-to-be of The Theosophical Society, Col. H. S. Olcott. The founding of the Society on November 17, 1875 in New York then came about and from this meeting there followed the most remarkable events leading to the completion of the first century of the life of The Theosophical Society. | Vào thời điểm Bà gặp mặt thân xác với Chân sư của mình (1851), tuy nhiên, chưa có nỗ lực tổ chức nào hiển lộ. Chưa có Hội nào hiện hữu. Dẫu vậy, hiểu biết về việc thành lập Hội Thông Thiên Học rất xa trong tương lai ắt hẳn có thể được suy luận từ những chuẩn bị đã thực hiện thành công này. Chúng ta hãy theo dõi trong tư tưởng một số sự kiện có tầm quan trọng sinh tử đối với việc sáng lập Hội hai mươi bốn năm sau. Trong số này có việc H. P. Blavatsky xuất hiện trở lại từ chuyến thăm Tây Tạng lần thứ hai, được phú cho những quyền năng huyền thuật rất lớn, với sự hiểu biết về Thông Thiên Học và tiếng Anh. Bà nhận chỉ thị từ các Chân sư phải đi New York, nơi Bà sẽ gặp vị đồng sáng lập tương lai của Hội Thông Thiên Học, Đại tá H. S. Olcott. Việc thành lập Hội vào ngày 17 tháng 11 năm 1875 tại New York rồi diễn ra và từ cuộc gặp gỡ này đã tiếp nối những sự kiện kỳ diệu nhất dẫn tới việc hoàn tất thế kỷ thứ nhất của đời sống Hội Thông Thiên Học. |
During the time following the founding of the Society, she was inspired to write her world-famous, immortal works and instructed and empowered in the repeated performance of remarkable occult phenomena. Her life was again saved by her Master after physicians had despaired of it. In 1888, her major work, The Secret Doctrine, appeared. | Trong thời gian sau khi Hội được thành lập, Bà được cảm hứng để viết những trước tác bất hủ lừng danh thế giới và được chỉ dạy, trao quyền để lặp đi lặp lại việc biểu hiện các hiện tượng huyền bí phi thường. Mạng sống của Bà lại một lần nữa được Chân sư của Bà cứu sau khi các y sĩ đã tuyệt vọng. Năm 1888, tác phẩm chủ yếu của Bà, Giáo Lý Bí Nhiệm, xuất bản. |
Col. Olcott also was the richly blessed recipient of Adeptic ministration, first in meeting with and becoming well acquainted with his co-founder, H.P.B. [Helena P. Blavatsky], and later in being personally visited by his Master in his room at 302 West 47th Street, in New York.[6] Informed then of the opportunity which was his, he accepted it and thereafter received chelaship and appointment to the office of President of The Theosophical Society. He held his office with distinction until his death. | Đại tá Olcott cũng là người thọ nhận vô cùng phong phú sự trợ giúp của bậc Chân sư, trước là trong việc gặp gỡ và trở nên rất quen biết với vị đồng sáng lập của mình, H.P.B. [Helena P. Blavatsky], và sau đó là được Chân sư của Ông đích thân thăm viếng trong phòng của Ông tại số 302 West 47th Street, ở New York. Khi ấy được cho biết về cơ hội thuộc về Ông, Ông đã chấp nhận và sau đó được nhập vào địa vị đệ tử và bổ nhiệm vào chức vụ Hội trưởng Hội Thông Thiên Học. Ông giữ chức vụ với nhiều thành tựu cho đến lúc qua đời. |
Two—among others—of those who were to follow as leaders of the Society were similarly instructed and inspired by the Masters. Events of special significance in the life of Dr Annie Besant were her meeting in London with H. P. Blavatsky and her election in her turn as President of The Theosophical Society. She too, held this position for life. World travels, as a most effective exponent of Theosophy, the production of valuable theosophical literature, and her great services to the land of India contributed to the reawakening in countless numbers of minds of the lost or forgotten knowledge of Gupta Vidya and Brahma Vidya. | Hai người — trong số những người khác — vốn sẽ tiếp nối làm lãnh đạo của Hội cũng được các Chân sư chỉ giáo và cảm hứng tương tự. Những sự kiện có ý nghĩa đặc biệt trong đời Tiến sĩ Annie Besant là cuộc gặp gỡ ở London với H. P. Blavatsky và việc Bà đến lượt mình được bầu làm Hội trưởng Hội Thông Thiên Học. Bà cũng giữ chức vụ này trọn đời. Những chuyến du hành thế giới, với tư cách là một người trình bày vô cùng hiệu quả Thông Thiên Học, việc sản xuất các trước tác Thông Thiên Học có giá trị, và những cống hiến lớn lao của Bà đối với đất nước Ấn Độ đã góp phần đánh thức lại trong vô số tâm trí tri thức bị đánh mất hay lãng quên về Gupta Vidya và Brahma Vidya. |
C. W. Leadbeater, in his turn, long before he began to make his contributions to the development of The Theosophical Society, received the privilege of discipleship[7] of another of the great Masters. | Đến lượt mình, C. W. Leadbeater, rất lâu trước khi Ông bắt đầu cống hiến cho sự phát triển của Hội Thông Thiên Học, đã được vinh phúc thọ nhận địa vị đệ tử của một vị Chân sư vĩ đại khác. |
As a result of the dedicated selfless services of these great leaders and their many devoted colleagues and fellow members—certain of them also disciples of the Masters—the Society has grown to its present stature of forty-six organized Sections, plus groups of members in seven other countries, a world membership of 34,000, and three very progressive publishing houses. A Trust Fund established by the late Mr Herbert Kern in the United States Section, functioning as the Kern Foundation, is producing quite extraordinary and totally unforeseen developments. From this Fund, grants are made for approved programs for the promulgation of the theosophical philosophy. One of these programs has been the publication of Quest Books in reasonably priced paperback format, making theosophical literature available on an ever-widening scale throughout the English speaking world. Since the inception of this program in 1966, more than a million Quest books have been sold. | Là kết quả của các phụng sự tận hiến vô ngã của những vị lãnh đạo vĩ đại này và nhiều đồng sự tận tâm cùng hội viên của họ — một số vị cũng là đệ tử của các Chân sư — Hội đã phát triển đến tầm vóc hiện nay gồm bốn mươi sáu Khu bộ đã tổ chức, cùng các nhóm hội viên ở bảy quốc gia khác, tổng số hội viên toàn cầu là 34.000, và ba nhà xuất bản rất tiến bộ. Một Quỹ Tín thác do ông Herbert Kern quá cố thiết lập tại Khu bộ Hoa Kỳ, hoạt động dưới tên Quỹ Kern, đang tạo ra những phát triển hết sức khác thường và hoàn toàn không lường trước. Từ Quỹ này, các khoản tài trợ được cấp cho các chương trình được duyệt nhằm truyền bá triết lý Thông Thiên Học. Một trong những chương trình ấy là xuất bản dòng Quest Books ở dạng bìa mềm giá hợp lý, làm cho sách Thông Thiên Học có sẵn trên quy mô ngày càng rộng khắp trong thế giới nói tiếng Anh. Kể từ khi khởi xướng chương trình này vào năm 1966, đã bán được hơn một triệu cuốn Quest. |
Is it not permissible—almost inevitable—to assume, at least in principle, as well as from many factual developments, that most, if not all, of these events—then in the future—were foreknown to those great Adepts who were responsible for the events which were to come? Their purposes have been well stated, two of them being clearly affirmed: ‘we have to Popularise a Knowledge of Theosophy’,[8] and ‘The only object to be striven for is the amelioration of the condition of MAN by the spread of truth suited to the various stages of his development and that of countries he inhabits and belongs to’.[9] | Chẳng lẽ lại không cho phép — gần như tất yếu — giả định, ít nhất là về nguyên tắc, cũng như từ nhiều diễn biến thực tế, rằng hầu hết, nếu không phải tất cả, những sự kiện này — khi ấy còn ở tương lai — đã được biết trước bởi những bậc Chân sư vĩ đại là các Ngài chịu trách nhiệm về những sự kiện sẽ đến? Mục đích của Các Ngài đã được phát biểu rõ, trong đó có hai điều được khẳng định dứt khoát: “chúng ta phải Phổ biến Sự Hiểu Biết về Thông Thiên Học”, và “Mục đích duy nhất đáng phấn đấu là cải thiện tình trạng của CON NGƯỜI bằng cách truyền bá chân lý phù hợp với các giai đoạn phát triển khác nhau của y và của các quốc gia nơi y cư trú và thuộc về”. |
I now proceed to consider what may presumably be regarded as an almost infinitely greater example of Adeptic foreknowledge of the future. In the May 1889 issue of her magazine, Lucifer, H. P. B. wrote these words: | Giờ đây tôi tiến tới xem xét điều có thể được coi là một ví dụ gần như vô lượng về sự biết trước tương lai của bậc Chân sư. Trong số tháng Năm năm 1889 của tạp chí Lucifer, H. P. B. đã viết những lời này: |
‘But if not (if Theosophy does not prevail) then the storm will burst and our boasted Western Civilisation and enlightenment will sink into such a sea of horror that its parallel in history has never yet been recorded’. | “Nhưng nếu không phải vậy (nếu Thông Thiên Học không thắng thế) thì cơn bão sẽ bùng nổ và nền Văn Minh và sự soi sáng phương Tây mà chúng ta hãnh diện sẽ chìm vào một biển kinh hoàng đến mức chưa từng được ghi lại trong lịch sử”. |
In those days, such a pronouncement must have appeared as totally impossible of fulfilment, for the world was reasonably at peace, the more modem weapons had not been invented, and mankind’s capacity for cruelty, violence, and other forms of evil for personal gain could hardly have been envisaged. But, living as we do in this 20th century, it must be recognized that the utterance was a prodigious understatement, for events then in the future, now occurring and still being planned on an increasing scale demonstrate that. . . civilisation has sunk into a ‘sea of horror’ of unprecedented proportions. | Vào thời đó, lời tuyên bố như vậy hẳn phải có vẻ hoàn toàn bất khả xảy ra, bởi thế giới tương đối yên bình, các vũ khí hiện đại hơn chưa được phát minh, và năng lực tàn ác, bạo lực, cùng các hình thái ác độc khác vì tư lợi của nhân loại khó lòng được hình dung. Nhưng, sống như chúng ta trong thế kỷ 20 này, phải thừa nhận rằng lời tuyên ấy là một sự nói giảm ghê gớm, vì những sự kiện khi ấy còn ở tương lai, nay đang xảy ra và vẫn đang được hoạch định trên quy mô ngày càng tăng đã chứng tỏ rằng… nền văn minh đã chìm vào một “biển kinh hoàng” với quy mô chưa từng có. |
‘What may be done?’ the student of recent history and lover of his or her fellowmen well may ask. May it not be believed, even affirmed, that the more immediate future of the human race depends upon the extent to which the teachings of Theosophy are so effectively and acceptably presented as to cause mankind to follow up the founding of The Theosophical Society, the International Red Cross, the League of Nations, United Nations, and all similar international organisations founded by governments and accepted by communities and individuals in accordance with the principles enumerated in the First Object of The Theosophical Society? | “Có thể làm gì?” người học giả sử gần đây và người yêu thương đồng loại của mình hẳn sẽ hỏi. Há chẳng phải có thể tin — thậm chí khẳng định — rằng tương lai gần hơn của chủng người tùy thuộc vào mức độ mà các giáo lý của Thông Thiên Học được trình bày hiệu quả và được chấp nhận đến nỗi khiến nhân loại tiếp nối việc thành lập Hội Thông Thiên Học, Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, Hội Quốc Liên, Liên Hiệp Quốc, và tất cả các tổ chức quốc tế tương tự do các chính phủ sáng lập và được cộng đồng và cá nhân chấp nhận phù hợp với các nguyên tắc được liệt kê trong Tôn chỉ Thứ nhất của Hội Thông Thiên Học? |
In spite of these the present world situation is indeed critical in the extreme. Violence and crime are greatly on the increase in many countries of the world. Cruelty and torture have become accepted judicial procedures. Prisoners, including a Catholic Bishop, a poet, and a theology professor, recently were freed from cold, dark cells, having obviously paid for their ‘reconciliation’ with severe mental and physical torture at the hands of a dreaded Intelligence Agency. Aside from beatings, water torture, and electric shock treatment, allegedly used to extract false confessions, agents reportedly kept prisoners awake for prolonged periods and then hung them from the ceilings and spun them around in a form of torture known as ‘air-warfare’. | Bất chấp những điều này, tình thế thế giới hiện nay thực sự vô cùng nghiệt ngã. Bạo lực và tội phạm gia tăng mạnh ở nhiều quốc gia trên thế giới. Sự tàn ác và tra tấn đã trở thành các thủ tục tư pháp được chấp nhận. Tù nhân, bao gồm một Giám mục Công giáo, một thi sĩ, và một giáo sư thần học, gần đây được phóng thích khỏi những xà lim lạnh lẽo, tăm tối, hiển nhiên là đã trả giá cho sự “hòa giải” bằng những tra tấn tinh thần và thể xác nghiêm trọng dưới tay một Cơ quan Tình báo khét tiếng. Ngoài những trận đòn, tra tấn bằng nước, và sốc điện, được cho là dùng để moi những lời thú tội giả, các nhân viên bị cáo buộc đã khiến tù nhân thức trắng trong thời gian dài rồi treo họ lên trần và quay vòng trong một hình thức tra tấn gọi là “chiến tranh trên không”. |
Further demoniac malignancies include indescribably and incredibly brutal infliction upon animals of suffering, up to acutest agonies, for motives of financial gain and ‘benefits’ to humanity, while extremely harmful criminal conduct against fellowmen, motivated by self-gain at no matter what cost to others, is at this time tragically rampant upon earth. It would seem to be inescapable that these possibilities were clearly foreseen more than a century ago when the forecast was published. Indeed, the ‘storm’ has burst and the ‘sea of horror’ is claiming ‘civilisation and enlightenment’. | Những ác hại quỷ quái hơn nữa bao gồm sự giáng chịu đau đớn không thể tả và khó tin lên súc vật, đến mức cực hình gay gắt nhất, vì động cơ lợi nhuận tài chính và “lợi ích” cho nhân loại; trong khi đó, hành vi tội ác vô cùng tai hại chống lại đồng loại, thúc đẩy bởi tư lợi bất kể cái giá người khác phải trả, hiện đang hoành hành một cách bi thảm trên địa cầu. Có vẻ không thể phủ nhận rằng những khả thể này đã được nhìn thấy rõ ràng hơn một thế kỷ trước khi lời dự báo được công bố. Thật vậy, “cơn bão” đã bùng nổ và “biển kinh hoàng” đang nhận chìm “văn minh và sự soi sáng”. |
The two World Wars and their numerous successors during this century alone demonstrate the accuracy of the prophecy. In truth, humanity has sunk into such a ‘sea of horror’ that its parallel in history has never yet been recorded. To the armed conflicts must now be added the fact, inconceivable to any normal mind of the nineteenth century, that the world’s fastest growing business—arms sales—has now increased 6000 percent since 1952, from 300 million dollars to 18 billion per annum, for there are now more customers than ever before. | Hai cuộc Thế chiến và vô số cuộc chiến kế tiếp của chúng chỉ riêng trong thế kỷ này đã cho thấy độ chính xác của lời tiên tri. Thật vậy, nhân loại đã chìm vào một “biển kinh hoàng” đến mức chưa từng có đối sánh trong lịch sử. Vào các cuộc xung đột vũ trang nay phải cộng thêm một sự thật không thể tưởng tượng đối với bất kỳ tâm trí bình thường nào của thế kỷ XIX, rằng ngành kinh doanh tăng trưởng nhanh nhất thế giới — buôn bán vũ khí — đã tăng 6000 phần trăm kể từ năm 1952, từ 300 triệu đô la lên 18 tỷ mỗi năm, vì hiện có nhiều khách hàng hơn bao giờ hết. |
Arms expert Anne Hessing Cahn, former research associate at M.I.T’s Centre for International Studies, affirms that ‘those arms have brought not only violence and destruction but death to more than 10 million people’. The architects of electronic warfare face no greater challenge than to devise a defence against MIRV (for multiple independently targeted re-entry vehicles) nuclear missiles, which scatter warheads toward several different targets after the rocket re-enters the atmosphere. As a result, the life span of each new kind of weaponry becomes shorter; even the ‘smartest’ electronic devices may be obsolescent soon after they reach the battlefield. | Chuyên gia vũ khí Anne Hessing Cahn, cựu cộng tác nghiên cứu tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế của M.I.T., khẳng định rằng “những vũ khí đó đã mang tới không chỉ bạo lực và hủy diệt mà còn cả cái chết cho hơn 10 triệu người”. Các kiến trúc sư của chiến tranh điện tử đối mặt với thách thức không gì lớn hơn là nghĩ ra một hệ thống phòng thủ trước các tên lửa hạt nhân MIRV (tức các phương tiện tái xâm nhập có thể nhắm mục tiêu độc lập, đa mục tiêu), vốn rải nhiều đầu đạn về phía các mục tiêu khác nhau sau khi hỏa tiễn tái nhập khí quyển. Hệ quả là tuổi thọ của mỗi loại vũ khí mới trở nên ngắn hơn; thậm chí các thiết bị điện tử “thông minh” nhất có thể đã lạc hậu ngay sau khi đến chiến trường. |
Such, in part—unfortunately in part only—are the conditions of life that we human beings have now created for ourselves in many countries. Efforts by world statesmen and world idealists to change conditions so that the earth may become a reasonably safe and happiness-giving planet upon which to live, tragically continue to prove almost totally ineffectual. | Đó, một phần — đáng tiếc chỉ là một phần — là những điều kiện sống mà chúng ta, con người, đã tạo ra cho chính mình ở nhiều quốc gia. Nỗ lực của các chính khách và các nhà lý tưởng thế giới nhằm thay đổi điều kiện để trái đất trở thành một hành tinh tương đối an toàn và đem lại hạnh phúc để sống, thật bi thảm, vẫn tiếp tục tỏ ra hầu như hoàn toàn bất hiệu. |
Children see and hear and learn a very large amount of violence from television and the World Press. It is estimated that the average child, in the ten years between ages five and fifteen, will witness the violent destruction of 13,400 human beings. | Trẻ em nhìn thấy, nghe và học một lượng rất lớn bạo lực từ truyền hình và Báo chí Thế giới. Ước tính rằng một đứa trẻ trung bình, trong mười năm từ tuổi năm đến mười lăm, sẽ chứng kiến cảnh hủy diệt bạo lực của 13.400 con người. |
Content analyses of large numbers of programs broadcast during children’s viewing hours suggest that the major message taught in T. V. entertainment is that violence is the way to get what you want. The evidence is clear: a child’s mind can be polluted and corrupted just as easily as his body can be poisoned by contaminants in the environment. Children are essentially powerless to deal with such problems. This means that the responsibility for effecting change rests with every adult citizen. Meaning you. Meaning me. Meaning us. | Phân tích nội dung của số lượng lớn các chương trình phát sóng trong giờ trẻ em xem cho thấy thông điệp chủ yếu mà giải trí truyền hình truyền dạy là bạo lực là cách để đạt điều mình muốn. Bằng chứng rõ ràng: tâm trí trẻ em có thể bị ô nhiễm và băng hoại cũng dễ dàng như thân thể em có thể bị đầu độc bởi các chất ô nhiễm trong môi trường. Trẻ em về căn bản bất lực trước những vấn đề như vậy. Điều này có nghĩa rằng trách nhiệm thực hiện thay đổi đặt lên mỗi công dân trưởng thành. Nghĩa là bạn. Nghĩa là tôi. Nghĩa là chúng ta. |
These, I submit, are far from being all the ‘Seeds of Dividedness’ now increasingly being sown ‘upon’ the human mind. Unfortunately, they have taken deep root and continue day by day to grow extravagantly. One becomes deeply aware of the necessity—the immediate necessity—for their replacement by ‘seeds of synthesis’, the reaping from which will be that universal brotherhood of man accepted by The Theosophical Society as its First Object and objective. | Những điều này, theo tôi, còn xa mới là tất cả các “Hạt giống của Sự Chia rẽ” hiện đang ngày càng được gieo “lên trên” tâm trí con người. Đáng buồn thay, chúng đã bén rễ sâu và tiếp tục mỗi ngày vươn lớn phung phí. Người ta cảm nhận sâu sắc sự cần thiết — sự cần thiết tức thời — phải thay thế chúng bằng các “hạt giống của tổng hợp”, mà mùa gặt của chúng sẽ là tình huynh đệ phổ quát của con người được Hội Thông Thiên Học chấp nhận làm Tôn chỉ và mục tiêu thứ nhất. |
H.P. Blavatsky describes both species of seeds in her words: | H.P. Blavatsky mô tả cả hai chủng hạt giống bằng những lời sau: |
‘It is a fundamental doctrine of Theosophy that the “separateness” which we feel between ourselves and the world of living beings around us is an illusion, not a reality. In very deed and truth, all men are one, not in a feeling of sentimental gush and hysterical enthusiasm, but in sober earnest. As all Eastern philosophy teaches, there is but One Self in all the infinite universe, and what we men call “self’ is but the illusionary reflection of the One Self in the heaving waters of earth. True occultism is the destruction of the false idea of self, and therefore true spiritual perfection and knowledge are nothing else but the complete identification of our finite selves with the Great All’.[10] | “Đó là một giáo lý nền tảng của Thông Thiên Học rằng ‘tính tách biệt’ mà chúng ta cảm thấy giữa bản thân mình và thế giới các sự sống quanh ta là một ảo tưởng, không phải thực tại. Thật vậy và chân thật, tất cả con người là một, không phải trong một cảm xúc ủy mị và nhiệt hứng cuồng loạn, mà là một cách đứng đắn trang nghiêm. Như tất cả triết học phương Đông dạy, chỉ có Một Ngã trong toàn thể vũ trụ vô tận, và cái mà chúng ta gọi là ‘ngã’ chỉ là phản chiếu hão huyền của Một Ngã trong những làn nước dậy sóng của trần gian. Huyền bí học chân chính là sự phá hủy ý niệm ngã sai lầm, và do đó sự hoàn thiện tinh thần chân thật và tri thức không là gì khác ngoài sự đồng nhất hoàn toàn của các ngã hữu hạn của chúng ta với Đại Toàn Thể”. |
I close with an appropriate story. Somewhat recently, a Scottish schoolmaster in a small town in Scotland found himself unable satisfactorily to answer the questions of his pupils about such subjects as are referred to in this article. Deeply concerned, he was encouraged when he learned from a friend that a new shop had been opened in High Street, with an angel behind the counter who was offering to each customer all he desired. The schoolmaster at once hopefully called at the shop. The angel asked him: ‘What may we provide for you?’ | Tôi khép lại bằng một câu chuyện phù hợp. Cách đây không lâu lắm, một thầy giáo người Scotland ở một thị trấn nhỏ tại Scotland thấy mình không thể trả lời thỏa đáng các câu hỏi của học sinh về những chủ đề được đề cập trong bài này. Quan tâm sâu sắc, Ông phấn khởi khi được một người bạn cho biết rằng một cửa hàng mới đã mở trên phố High, với một thiên thần đứng sau quầy, đang chào mời mỗi khách hàng mọi điều y muốn. Thầy giáo lập tức đầy hy vọng tìm đến cửa hàng. Thiên thần hỏi Ông: “Chúng tôi có thể cung cấp gì cho Ông?” |
‘Health, happiness, and peace for every human being on earth’, instantly replied the schoolmaster. | “Ngay tức khắc, sức khỏe, hạnh phúc và hòa bình cho mọi con người trên trái đất”, thầy giáo đáp. |
‘I fear there has been a misunderstanding’, said the angel. ‘Here, we do not supply fruits—only seeds’. | “Tôi e đã có sự hiểu lầm”, thiên thần nói. “Ở đây, chúng tôi không cung cấp trái — chỉ cung cấp hạt giống”. |
The seeds, of course, are the fundamental doctrines of theosophia from which alone there can be a harvesting of health, happiness, and peace for all mankind. In very truth, throughout the second century in the life of The Theosophical Society, theosophists must continue to prepare the ground to sow these very seeds of synthesis. | Những hạt giống, dĩ nhiên, là các giáo lý nền tảng của theosophia mà chỉ từ đó mới có thể gặt hái sức khỏe, hạnh phúc và hòa bình cho toàn thể nhân loại. Thật vậy, xuyên suốt thế kỷ thứ hai trong đời sống của Hội Thông Thiên Học, các nhà Thông Thiên Học phải tiếp tục chuẩn bị đất để gieo chính những hạt giống của tổng hợp này. |
The American Theosophist, Vol. 63, Issue 11, November 1975, p. 286 | The American Theosophist, Tập 63, Số 11, Tháng 11, 1975, tr. 286 |
167
Putting Humaneness into Humanity—Đưa Lòng Nhân Ái vào Nhân loại
Compassion, kindness, humaneness, these are the hallmarks of the cultured individual, as also of a truly great civilisation. All important, therefore, is the humanitarian cause. Great and noble is this cause. And there are at least seven ways in which humanitarians may serve their fellow men and the members of the Animal Kingdom. | Từ bi, tử tế, nhân ái — đó là dấu ấn của người được giáo hóa, cũng là của một nền văn minh thực sự vĩ đại. Vì thế, sự nghiệp nhân đạo là tối quan trọng. Sự nghiệp này cao cả và cao quý. Và có ít nhất bảy cách để những người yêu nhân đạo có thể phụng sự đồng loại và các thành viên của Giới Động Vật. |
One is by adopting the ideal of harmlessness as a guiding principle in life, by being themselves truly humane in thought, feeling, word and deed. Speech is most important; for words are potent either to injure or to heal. | Một là chấp nhận lý tưởng vô tổn hại như một nguyên tắc dẫn đường trong đời, bằng cách tự mình thực sự nhân ái trong tư tưởng, cảm xúc, lời nói và hành động. Lời nói là vô cùng quan trọng; vì lời có quyền năng hoặc gây tổn thương, hoặc chữa lành. |
A second method of diminishing the amount of cruelty in the world is by ever watchful care never, unnecessarily to injure any living creature, and a steadfast refusal to eat flesh, fowl or fish, to wear furs or feathers, to participate in or pleasurably discuss any cruel or any blood sport, to be entertained by performing animals, leaving at once a theatre in which they appear, and to be doctored by any product of vivisection, especially sera and gland extracts or transplantations. Cruelty is inseparable from all of these. | Phương cách thứ hai để giảm bớt số lượng tàn ác trên thế giới là luôn luôn cảnh giác cẩn trọng để không bao giờ, một cách không cần thiết, làm hại bất kỳ sinh vật nào, và kiên định từ chối ăn thịt, gia cầm hay cá, mặc lông thú hay lông vũ, tham gia hoặc bàn luận một cách khoái trá bất kỳ trò thể thao tàn bạo hay đẫm máu nào, giải trí bằng các tiết mục động vật biểu diễn — rời khỏi ngay một nhà hát nơi chúng xuất hiện — và được chữa trị bằng bất kỳ sản phẩm nào từ giải phẫu thực nghiệm trên sinh thể sống, đặc biệt là các loại huyết thanh và chiết xuất tuyến hay cấy ghép. Sự tàn ác gắn liền với tất cả những điều này. |
A third way of helping consists of joining and working for and with truly humanitarian movements. Amongst the most effective of these are: | Cách thứ ba để trợ giúp là gia nhập và làm việc cho và với các phong trào thật sự nhân đạo. Trong số những phong trào hiệu quả nhất có: |
The British Union for the Abolition of Vivisection. | Liên hiệp Anh về Xóa bỏ Giải phẫu Thực nghiệm trên Sinh thể Sống. |
Societies for the Protection of Women Children. | Các Hội Bảo vệ Phụ nữ và Trẻ em. |
The Royal Society for the Prevention of Cruelty to Children. | Hiệp hội Hoàng gia Phòng ngừa Tàn ác đối với Trẻ em. |
The Royal Society for the Prevention of Cruelty to Animals. | Hiệp hội Hoàng gia Phòng ngừa Tàn ác đối với Súc vật. |
All Vegetarian Societies. | Tất cả các Hội Ăn Chay. |
All Animal Welfare Societies. | Tất cả các Hội Phúc lợi Động vật. |
The League of Mothers. | Liên đoàn Các Bà Mẹ. |
The Howard League for Penal Reform. | Liên đoàn Howard về Cải cách Hình phạt. |
The League of Nations Union (or its successor). | Liên minh Hội Quốc Liên (hoặc tổ chức kế thừa). |
A fourth means of advancing the cause of humaneness is by advocating and working for the humane education of children. This means the unfailing extension to all children of the kindest possible treatment at home and at school and direct instruction in the humane care and treatment of all creatures. Corporal punishment is neither justifiable nor beneficial. It creates psychological difficulties and encourages the development of cruelty. Children need to be carefully instructed and watched in the care and handling of pets. If they are treated and taught with unfailing kindness, children will learn through all their lives to walk in the way of kindness and of love. Cruelty to children is the most heartrending of all forms of inhumanity. All who work for its abolition render service to the world of incalculable value. | Phương tiện thứ tư để tiến triển sự nghiệp nhân ái là cổ xúy và làm việc cho giáo dục nhân ái của trẻ em. Điều này có nghĩa là luôn luôn dành cho tất cả trẻ em sự đối đãi tử tế nhất có thể tại nhà và ở trường, và chỉ dạy trực tiếp về việc chăm sóc và đối xử nhân ái với mọi sinh vật. Trừng phạt thân thể không thể biện minh cũng chẳng có lợi ích. Nó tạo ra những khó khăn tâm lý và khuyến khích sự phát triển của tàn ác. Trẻ em cần được chỉ dạy cẩn trọng và trông nom trong việc chăm sóc và cầm nắm thú cưng. Nếu chúng được đối đãi và dạy dỗ bằng lòng tử tế không ngơi nghỉ, trẻ em sẽ học suốt đời để bước đi trên con đường tử tế và yêu thương. Sự tàn ác đối với trẻ em là hình thái vô nhân đạo khiến người ta đau lòng nhất. Tất cả những ai làm việc để xóa bỏ nó đều đem lại cho thế giới một phụng sự vô giá. |
A fifth method is ‘to become a voice’. Tactfully, wisely and in due season, knowing when to be silent and when to speak, advocate loving kindness to all that lives as the noblest mode of life and the highest ideal of human conduct. | Phương cách thứ năm là “trở thành một tiếng nói”. Một cách khéo léo, khôn ngoan và đúng thời điểm, biết khi nào nên im lặng và khi nào nên lên tiếng, hãy cổ xúy lòng yêu thương tử tế đối với mọi sự sống như lối sống cao quý nhất và lý tưởng cao cả nhất của hạnh kiểm con người. |
The Church offers a field in which a sixth method could be used. Humanitarians should press for the continual furtherance of the cause of humaneness in their Church. In this our Lord Christ in His Divine Love for all who suffer, for the fallen and especially for little children, gave to all Christendom, nay to the whole world, a perfect example. | Giáo hội cung cấp một lĩnh vực mà trong đó có thể sử dụng phương cách thứ sáu. Những người yêu nhân đạo nên thúc đẩy việc liên tục phát triển sự nghiệp nhân ái trong Giáo hội của mình. Trong việc này, Đức Christ, trong Tình Thương thiêng liêng của Ngài đối với tất cả những ai đau khổ, với kẻ sa ngã và đặc biệt là với các trẻ thơ, đã nêu cho toàn thể Ki-tô giáo, thậm chí cho cả thế giới, một tấm gương hoàn hảo. |
During World Week for Animals, and especially on St Francis’ Day, October 4, all clergymen should be asked to dedicate their services and preach upon the cause of compassion and kindness to all animals. | Trong Tuần Lễ Thế Giới vì Súc vật, và đặc biệt vào Lễ Thánh Francis, ngày 4 tháng 10, tất cả hàng giáo sĩ nên được mời gọi hiến dâng lễ nghi và thuyết giảng về sự nghiệp từ bi và lòng nhân ái đối với mọi súc vật. |
A seventh method of banishing cruelty from the earth and evoking the spirit of compassion is the use of prayer and mental affirmation. Here is a Prayer which all humanitarians might use: | Phương cách thứ bảy để xua tan tàn ác khỏi mặt đất và khơi dậy tinh thần từ bi là sử dụng cầu nguyện và khẳng định tâm linh. Dưới đây là một Lời Nguyện mà mọi người yêu nhân đạo có thể dùng: |
O Holy Lord Christ | Ôi Đức Chúa Thánh Christ |
Lord of Compassion and of Love, | Chúa của Lòng Từ bi và của Tình Thương, |
May the Power of Thine all embracing | Nguyện Quyền năng của Tình Thương bao dung của Ngài |
Love descend into the hearts of men, | giáng vào trái tim của loài người, |
Awakening them to love and to compassion for all that lives. | Đánh thức họ biết yêu thương và từ bi với mọi sự sống. |
— AMEN. | — AMEN. |
Affirmations of spiritual truth and law may be made mentally, verbally, or in both ways. They may be repeated three times each day, at early morning, at noon, and in the evening. Here are some suggestions: | Các khẳng định về chân lý và định luật tinh thần có thể được thực hiện trong tư tưởng, bằng lời, hoặc theo cả hai cách. Chúng có thể được lặp lại ba lần mỗi ngày, vào buổi sớm, buổi trưa và buổi tối. Sau đây là vài gợi ý: |
The Life in all beings is One Life. Harm to one brings harm to all. | Sự Sống trong mọi hữu thể là Một Sự Sống. Làm hại một là mang hại đến tất cả. |
May all mankind realize the unity of Life. | Nguyện toàn thể nhân loại nhận ra nhất thể của Sự Sống. |
May compassion, tenderness and pity fill the hearts of all men, | Nguyện lòng từ bi, sự dịu dàng và lòng thương xót tràn đầy trái tim của mọi người, |
May cruelty disappear from the face of the earth. | Nguyện tàn ác biến mất khỏi bề mặt trái đất. |
May Divine and all-embracing Love fill every human heart. | Nguyện Tình Thương thiêng liêng và bao trùm trọn khắp lấp đầy mọi trái tim con người. |
— AMEN. | — AMEN. |
Each of the above thoughts, when being affirmed, should be deeply felt and clearly and strongly sent out into the mental world. For this purpose a pause of half a minute should be allowed between each affirmation. | Mỗi tư tưởng trên đây, khi được khẳng định, nên được cảm nhận sâu sắc và được phát ra một cách rõ ràng, mạnh mẽ vào thế giới tư tưởng. Vì mục đích này, nên tạm ngưng nửa phút giữa mỗi lời khẳng định. |
A great Light Bringer and Servant of the Race has written: | Một Đấng Đem Ánh sáng Vĩ đại và Người Phụng Sự của Nhân loại đã viết: |
“Let thy Soul lend its ear to every cry of pain like as the lotus bares its heart to drink the morning sun. | “Hãy để Linh hồn của ngươi lắng nghe mọi tiếng kêu đau đớn như hoa sen mở lòng để uống ánh bình minh. |
‘Let not the fierce sun dry one tear of pain before thyself hast wiped it from the sufferer’s eye. | ‘Đừng để mặt trời gay gắt hong khô một giọt lệ đau nào trước khi chính ngươi đã lau nó khỏi mắt người chịu khổ. |
‘But let each burning human tear drop on thy heart and there remain; nor ever brush off, until the pain that caused it is removed. | ‘Nhưng hãy để mỗi giọt lệ nhân sinh nóng bỏng rơi trên tim ngươi và ở lại đó; đừng bao giờ lau đi, cho đến khi nỗi đau đã gây ra nó được cất bỏ. |
‘These tears, O thou of heart most merciful, these are the streams that irrigate the fields of charity immortal’ (The Voice of the Silence). | ‘Những giọt lệ này, hỡi ngươi có trái tim từ mẫn nhất, chính là các dòng sông tưới tắm những cánh đồng của đức bác ái bất tử’ (Tiếng Nói của Im Lặng). |
The Theosophist, Vol. 67, January 1946, p. 178 | The Theosophist, Tập 67, Tháng 1, 1946, tr. 178 |
168
A Call to Save the Human Race—Lời Kêu Gọi Cứu Nhân Loại
The first and most serious of all problems besetting mankind on Earth at this time—and I might add, up to this time—is the increase of separative nationalism instead of the development of unifying internationalism. In consequence, humanity is now—not unnaturally—self-divided into mentally disunified nations. The truth is, however, that spiritually all the peoples of the Earth emerge from and remain united within One Cosmic Identity, One Single Source, the Universal Divine Life-Principle. In themselves, all Monads[11] it is taught, are eternally and therefore unchangeably as one. | Vấn đề đầu tiên và nghiêm trọng nhất trong mọi vấn đề đang bủa vây nhân loại trên Đất vào thời điểm này — và tôi có thể nói thêm, cho đến lúc này — là sự gia tăng của chủ nghĩa dân tộc chia rẽ thay vì sự phát triển của chủ nghĩa quốc tế hợp nhất. Hệ quả là, nhân loại giờ đây — không phải không tự nhiên — tự phân chia thành các quốc gia bất nhất về mặt trí tuệ. Tuy nhiên, sự thật là, về tinh thần tất cả các dân tộc trên Địa cầu đều phát xuất từ và vẫn hợp nhất trong Một Bản Thể Vũ trụ, Một Cội Nguồn Duy Nhất, Nguyên Lý Sự Sống Thiêng Liêng Phổ Quát. Theo giáo lý, tự thân tất cả các Chân thần là vĩnh cửu và vì thế bất biến như một. |
Mentally and physically, closely identified groups of individuals, may legitimately experience nationhood. This resultant growth has arisen from and long been maintained within certain differences, particularly concerning degrees of evolutionary progress and the consequent ways of life. When compared with the more advanced, the Aboriginals, for example, are amongst the less sophisticated of Earth’s population. Other Races are passing through more developed stages of personal, social, artistic and governmental ways of life. Variations of appearance—colours of skin and facial modelling—in their turn contribute to the gathering of peoples into social and national bodies founded upon such divisive factors, which include modes of life, styles of dress and personal names. | Về trí tuệ và thể xác, các nhóm cá nhân gắn bó chặt chẽ với nhau có thể hợp pháp trải nghiệm tính quốc gia. Sự tăng trưởng này phát sinh từ và từ lâu được duy trì trong những khác biệt nhất định, đặc biệt liên quan đến các mức độ tiến bộ tiến hóa và những lối sống hệ quả. Khi so với những nhóm tiến bộ hơn, thí dụ, những người Thổ dân ở trong số những cộng đồng kém tinh luyện hơn của dân cư Địa cầu. Các Giống Dân khác đang đi qua các giai đoạn phát triển hơn về lối sống cá nhân, xã hội, nghệ thuật và chính quyền. Những dị biệt về diện mạo — màu da và dáng nét khuôn mặt — đến lượt chúng góp phần tập hợp con người vào các cộng đồng xã hội và quốc gia được đặt nền trên những yếu tố phân chia như vậy, bao gồm lối sống, kiểu y phục và tên gọi cá nhân. |
Opposing Political Views and Their Potential Dangers to Mankind | Quan điểm Chính trị Đối nghịch và Nguy cơ Tiềm ẩn đối với Nhân loại |
An extreme and most dangerous form of dividedness consists of the imposition upon nations of governmental autocracy on the one hand and the choice of democratic freedom on the other. Definite evidence exists at this time—would seem to be increasing—that these oppositions could lead to disastrous warfare and even to the reduction of the population of the Globe to a very small number of people—if any at all, might I say? Acute political differentiation must, and its effects therefore, be regarded as by far the most serious of all the many dangers now confronting the whole of humanity. This is clearly evinced by the tragically but all too truthfully named Arms Race, on which more than $400,000 million dollars a year are now being expended—twice what is spent on either health or education. No less than 53 million people are now serving in armed forces or related activities, whilst half a million scientists and engineers are working on the development of weapons[12] of ever greater destructiveness. | Một hình thái cực đoan và nguy hiểm nhất của chia rẽ là sự áp đặt lên các quốc gia nền chuyên chế chính quyền ở một phía, và ở phía kia là chọn lựa tự do dân chủ. Ở thời điểm này có sự chứng thực rõ ràng — dường như đang gia tăng — rằng những đối nghịch này có thể dẫn đến chiến tranh thảm khốc và thậm chí đến mức giảm dân số Địa cầu xuống một con số rất nhỏ — nếu còn ai chăng, tôi có thể nói thế không? Sự phân hóa chính trị gay gắt hẳn phải, và vì thế những hệ quả của nó, được coi là nghiêm trọng hơn far so với tất cả những nguy cơ khác hiện đang đối đầu toàn thể nhân loại. Điều này được chứng thực rõ ràng bởi cái tên bi thảm nhưng quá đỗi đúng sự thật là Cuộc chạy đua vũ trang, mà hiện nay hơn 400.000 triệu đô la mỗi năm đang được chi dùng — gấp đôi số chi cho y tế hoặc giáo dục. Không dưới 53 triệu người hiện đang phục vụ trong quân ngũ hoặc các hoạt động liên quan, trong khi nửa triệu nhà khoa học và kỹ sư đang làm việc phát triển các vũ khí có sức hủy diệt ngày càng lớn. |
Pathways of Salvation | Những Con đường Cứu nguy |
A possible solution for most if not all of these problems—the only one in some minds consists of the appearance on Earth—or reappearance, as may be thought—of a mighty Being, an Avatar,[13] or other lofty spiritual Intelligence, whose influence would be so overwhelming as to cause all who hear His voice to reunite in recognition of that Divine Wholeness which is at the root of the existence of every human being. Such an exalted Personage would lead mankind out of the illusion of Individuality and distinctive separateness, by awakening within the human mind a realisation of the two truths of interior oneness and the supreme importance of compassionate love. | Một giải pháp khả dĩ cho hầu hết nếu không phải tất cả những vấn đề này — theo một số tâm trí là giải pháp duy nhất — bao gồm sự xuất hiện trên Đất — hoặc tái lâm, như có thể nghĩ — của một Đấng hùng mạnh, một Đấng Hoá Thân, hoặc một Trí tuệ tinh thần cao siêu khác, có ảnh hưởng áp đảo đến mức khiến tất cả ai nghe tiếng Ngài đều tái hiệp nhất trong sự nhận biết Toàn Thể thiêng liêng vốn ở cội rễ sự hiện hữu của mỗi con người. Một Nhân Vị siêu phàm như vậy sẽ dẫn dắt nhân loại ra khỏi ảo tưởng về Tính cá thể và tách biệt đặc thù, bằng cách đánh thức trong tâm trí con người một nhận thức về hai chân lý của nhất thể nội tại và tầm quan trọng tối thượng của tình thương từ bi. |
This ministration by One Who had become completely emancipated from the delusions that separates humanity may well be regarded as a possible solution of the present pressing world problems. The conviction may, however, exist in other minds that the divisiveness that threatens the continued existence of all peoples is at the very present time far too serious for delay; for this grave dilemma demands the immediate application by man himself of remedies leading rapidly to total solution. | Sự cứu độ này bởi Một Vị đã hoàn toàn giải thoát khỏi những ảo giác phân ly nhân loại có thể được coi là một giải pháp khả dĩ cho các vấn đề cấp bách hiện nay của thế giới. Tuy nhiên, nơi những tâm trí khác có thể hiện hữu xác tín rằng tình trạng chia rẽ đang đe dọa sự tồn tại liên tục của mọi dân tộc vào ngay thời khắc hiện tại là quá nghiêm trọng để trì hoãn; vì nghịch lý nghiêm trọng này đòi hỏi con người tự mình áp dụng tức thời những phương dược dẫn mau lẹ đến giải trừ toàn diện. |
Such a realistic approach —justifiable, I submit—withdraws the responsibility from lofty Superhuman Beings, and places it distinctly, decisively and inevitably upon humanity itself. The provision and practical application of a remedy at this time depends entirely upon the mankind of today—the causative agents—and by them must effectively be applied. Indeed the danger is acute. Neutron bornbs, laser and other more horrifyingly destructive weapons now available could almost annihilate the human Race or leave behind but a small number to rebuild a world civilisation. | Cách tiếp cận hiện thực như vậy — theo tôi là chính đáng — rút trách nhiệm khỏi các Đấng Siêu nhân tôn quý, và đặt nó một cách dứt khoát, quyết liệt và tất yếu lên chính nhân loại. Việc cung ứng và áp dụng thực tiễn một phương dược ở thời điểm này hoàn toàn tùy thuộc vào nhân loại ngày nay — các tác nhân gây ra — và do chính họ phải được áp dụng hiệu quả. Thực vậy, nguy cơ là gay gắt. Bom nơtron, laser và các vũ khí hủy diệt kinh hoàng hơn nữa hiện sẵn có có thể gần như tận diệt loài người hoặc để lại chỉ một số ít để xây dựng lại nền văn minh thế giới. |
Should readers here find me to be dwelling unduly upon adverse world conditions, may I reply that I increasingly find myself unable to remain silent when such extremely grave disasters threaten and have become part of the life of certain—if not all—nations and individuals, the official practice of torture being one of them. | Nếu độc giả thấy rằng tôi đang lưu trú quá lâu vào các điều kiện bất lợi của thế giới, cho tôi được hồi đáp rằng tôi ngày càng thấy mình không thể giữ im lặng khi những thảm họa cực kỳ nghiêm trọng như thế đe dọa và đã trở thành một phần đời sống của một số — nếu không phải tất cả — quốc gia và cá nhân, trong đó có việc tra tấn được thực thi chính thức. |
Potential Remedies Available to Mankind | Những Phương dược Tiềm năng dành cho Nhân loại |
How may such ‘prescriptions’ for the world’s present ‘ill-health’—mental, emotional and physical—be described and administered? Of what ‘medicines’ may they consist? I presume to suggest: first and above all, the increasing intuitive acceptance and application by ever growing numbers, of the truth that despite physical and mental differences, in their spiritual nature every member of the human Race belongs to One Single Family. | Những “toa thuốc” cho “tật bệnh” hiện thời của thế giới — trí tuệ, cảm xúc và thể xác — có thể được mô tả và ban hành ra sao? Chúng có thể bao gồm những “dược phẩm” gì? Tôi xin mạo muội đề nghị: trước hết và trên hết, là sự chấp thuận trực giác ngày càng tăng và sự áp dụng bởi số lượng ngày càng đông, chân lý rằng bất chấp những khác biệt về thể xác và trí tuệ, về bản tính tinh thần, mỗi thành viên của loài người đều thuộc về Một Gia đình Duy Nhất. |
Supposing this sublime verity were to be acknowledged and applied as the one essential ‘treatment’, then by what means and in what effective forms could it be administered? First of all, a transcendence by a sufficient number of people of the differences of formal Religions, and the founding and direction of a Movement such as The Theosophical Society with its First Object—free from all distinctions of Race, Creed, Sex, Caste or colour. The members of such an ideal Organisation must of necessity be dedicated to the all-important great work of the convincing—and so practically effective—enunciation of the One Great Truth concerning man himself, namely Oneness, Brotherhood and therefore Familyhood. The world most urgently—may I not say, most grievously—needs at the present time the ever deepening realisation of this fundamental fact; for the dividedness referred to at the opening of this Article is almost certain to increase to an extent at which the bridging of the continually widening chasm separating nations from nations, becomes quite impossible. Fortunately, this is beginning to be realized, although as yet by an all too small number of Organisations and individuals. | Giả như chân lý siêu việt này được thừa nhận và áp dụng như “phác đồ” thiết yếu duy nhất, thì bằng cách nào và dưới những dạng hiệu quả nào nó có thể được ban hành? Trước hết, là sự vượt thoát bởi một số lượng đủ lớn người khỏi những dị biệt của các Tôn giáo hình thức, và việc thành lập, điều hướng một Phong trào như Hội Thông Thiên Học với Tôn chỉ Thứ nhất — không phân biệt Chủng tộc, Tín ngưỡng, Giới tính, Đẳng cấp hay màu da. Các hội viên của một Tổ chức lý tưởng như vậy tất yếu phải tận hiến cho công việc vô cùng trọng yếu là sự tuyên xưng thuyết phục — và vì thế có hiệu lực thực tiễn — về Một Đại Chân lý liên quan đến chính con người, tức là Nhất thể, Tình Huynh đệ và do đó là Tính Gia quyến. Thế giới hiện khẩn thiết — tôi có thể nói, hết sức đau đớn — cần vào thời điểm này sự nhận thức ngày càng sâu của sự thực nền tảng này; bởi vì tình trạng chia rẽ được nói tới ở phần mở đầu Bài này gần như chắc chắn sẽ gia tăng đến mức việc bắc cầu qua vực thẳm không ngừng rộng ra ngăn cách quốc gia với quốc gia trở nên hoàn toàn bất khả. May mắn thay, điều này bắt đầu được nhận ra, dẫu mới chỉ bởi một số lượng còn quá ít ỏi các Tổ chức và cá nhân. |
The dawning of spiritual understanding is therefore of supreme importance. The increase and co-ordination of the number of existing movements and groups already giving expression to this Principle of Oneness is the great essential; for only when a majority of Earth’s citizens lives according to this ideal, may both peace and the assured safety of mankind from the horrors now so dangerously threatening, become permanently established. | Vầng hửng của hiểu biết tinh thần do đó có tầm quan trọng tối thượng. Việc gia tăng và phối hợp số lượng các phong trào và nhóm hiện hữu vốn đã biểu đạt Nguyên lý Nhất thể là điều cốt yếu lớn lao; vì chỉ khi đa số công dân của Địa cầu sống theo lý tưởng này, thì cả hòa bình lẫn sự bảo đảm an toàn cho nhân loại khỏi những kinh hoàng nay đang đe dọa hiểm nghèo, mới có thể được thiết lập vĩnh cửu. |
As I proceed, I recognise that—particularly within the Parent Theosophical Society and similar organisations—these principles are already accepted and by their Members put into practice. In the world at large, however, the difficulties remain critical; for they arise from marked political differences and methods of government and, unfortunately, are intensified by the existence of world-wide criminal and terrorist organisations. The murder of the Italian leader, Aldo Moro, that has recently shocked the world, has proved to be a warning against the danger not only of an exterminating World War but also of a wide-spreading international campaign of murder, kidnapping, bornbing and vandalism. As I thus think and share my thoughts, I become more and more convinced that the need is most urgent that domination must disappear and that freedom and humaneness must reign. | Khi tôi tiếp tục, tôi nhận thấy rằng — đặc biệt trong Hội Thông Thiên Học Mẹ và các tổ chức tương tự — những nguyên lý này đã được chấp nhận và được các Hội viên thực thi. Tuy nhiên, trong thế giới nói chung, các khó khăn vẫn ở mức nguy kịch; vì chúng phát sinh từ những khác biệt chính trị nổi bật và các phương thức chính quyền, và, thật đáng tiếc, còn bị tăng cường bởi sự hiện hữu của các tổ chức tội phạm và khủng bố xuyên thế giới. Việc sát hại nhà lãnh đạo Ý, Aldo Moro, gần đây đã gây chấn động thế giới, đã chứng tỏ là một cảnh báo chống lại nguy cơ không chỉ của một cuộc Thế chiến hủy diệt mà còn của một chiến dịch quốc tế lan rộng về ám sát, bắt cóc, đánh bom và phá hoại. Khi suy tư và chia sẻ những ý nghĩ này, tôi càng ngày càng xác tín rằng nhu cầu là khẩn cấp nhất rằng áp đặt thống trị phải biến mất và tự do cùng lòng nhân ái phải ngự trị. |
A Confraternity of Humanity-Loving Peoples of All Nations | Một Huynh đệ đoàn những Người Yêu Nhân loại thuộc Mọi Quốc gia |
The wonderfully idealistic and essentially valuable United Nations Organisation has proved up to this time to be not wholly capable of achieving World Peace and this for many reasons. Chief amongst these is that its Constitution is presumably founded upon the necessity for avoiding the withdrawal and non-compliance of nations who are in disagreement. Fortunately, other international movements such as The Red Cross, Amnesty, Corso, World Vision, Y.W.C.A., Boy Scouts and Girl Guides, are not under such restriction. Has not the time arrived, however, when the thousands of millions of people on Earth, themselves, perceiving these dangers, must combine in an international effort which might be named ‘A Call To Save The Human Race From Extinction?’ I am aware that this may sound extreme; for myself, however, the appeal is imperative for all who—moved by deep concern for the welfare of every individual—could and would respond and effectively collaborate. Within our International Organisation, the Theosophical Order of Service is one example of the fulfilment of this ideal, born as it has been from within the Parent Theosophical Society. I therefore find myself seriously questioning whether the Parent Theosophical Movement itself could be developed into a practically active international organisation, spreading and applying the concept of World Service Born of World Humaneness. | Tổ chức Liên Hiệp Quốc vô cùng lý tưởng và thực chất có giá trị đã chứng tỏ cho đến nay là không hoàn toàn đủ khả năng đạt tới Hòa bình Thế giới và điều này vì nhiều lý do. Chủ yếu trong số đó là Hiến chương của tổ chức này dường như được đặt trên nhu cầu tránh việc rút lui hoặc bất tuân của những quốc gia bất đồng. May mắn thay, các phong trào quốc tế khác như Hồng Thập Tự, Amnesty, Corso, World Vision, Y.W.C.A., Hướng đạo sinh Nam và Nữ, không bị những hạn chế như vậy. Tuy nhiên, há chẳng phải thời khắc đã đến khi hàng nghìn triệu con người trên Địa cầu, tự mình nhận thấy những nguy cơ này, phải kết hợp trong một nỗ lực quốc tế có thể mang tên “Một Lời Kêu Gọi Cứu Nhân Loại Khỏi Tuyệt chủng”? Tôi ý thức rằng điều này có thể nghe có vẻ cực đoan; riêng tôi, tuy vậy, lời kêu gọi là cấp bách đối với tất cả những ai — được thúc đẩy bởi quan tâm sâu sắc tới phúc lợi của mỗi cá nhân — có thể và sẽ đáp ứng và cộng tác hiệu quả. Trong Tổ chức Quốc tế của chúng ta, Theosophical Order of Service là một ví dụ cho sự thành tựu lý tưởng này, bởi vì nó được sinh ra từ chính trong lòng Hội Thông Thiên Học Mẹ. Do đó, tôi thấy mình nghiêm túc tự hỏi liệu chính Phong trào Thông Thiên Học Mẹ có thể được phát triển thành một tổ chức quốc tế hoạt động thực tiễn, lan rộng và áp dụng khái niệm Phụng Sự Thế Giới Khởi từ Lòng Nhân Tính Toàn Cầu hay không. |
I recognise, of course, that The Theosophical Society is largely if not entirely a philosophic Organisation founded in order 6 To Popularise a Knowledge of Theosophy’. Is this definition of purpose beyond the possibility of modification and extension? At this highly critical time in planetary history, should the Theosophical Society itself— all members being free—conceivably become an increasingly active inspirer, co-ordinator and even leader of Movements designed to set in motion the reforms and ministrations now so urgently in demand? As the Society moves into its Second Century could a clause be added to The First Object, somewhat as follows? To encourage the practical application of the ideal of a Universal Brotherhood of Humanity as a means of reducing World Dividedness, the threat of a Third World War and the ever mounting sufferings of fellow human beings?’ | Dĩ nhiên tôi nhận thức rằng Hội Thông Thiên Học phần lớn nếu không phải hoàn toàn là một Tổ chức triết học được thành lập để “Phổ biến Sự Hiểu Biết về Thông Thiên Học”. Mục đích định nghĩa như vậy có nằm ngoài khả thể sửa đổi và mở rộng không? Vào thời khắc cực kỳ nguy kịch này trong lịch sử hành tinh, liệu chính Hội Thông Thiên Học — tất cả hội viên đều tự do — có thể trở thành một nguồn cảm hứng, phối hợp và thậm chí dẫn dắt ngày càng năng động các Phong trào được thiết kế để khởi động những cải cách và phụng sự hiện đang khẩn cấp được kêu gọi? Khi Hội bước vào Thế kỷ Thứ hai, có thể bổ sung một điều khoản vào Tôn chỉ Thứ nhất, đại để như sau chăng? Khuyến khích áp dụng thực tiễn lý tưởng về Tình Huynh đệ Phổ quát của Nhân loại như một phương tiện giảm bớt Sự Chia rẽ của Thế giới, mối đe dọa của một Thế chiến Thứ ba và những đau khổ ngày càng tăng của các đồng loại?” |
Theosophy in New Zealand, Vol. 40, No. 1, 1979, p. 1 | Theosophy in New Zealand, Tập 40, Số 1, 1979, tr. 1 |
169
Theosophy and the World’s Economists—Thông Thiên Học và các Nhà Kinh tế của Thế giới
Money has been given an altogether false and unreal position by modern man. From being a mere means of interchange of goods it has become the master ruling the flow of the products of the earth and of man’s activity. This despotism must be destroyed as must that of the men by whom it is wielded. | Con người hiện đại đã đặt tiền bạc vào một vị thế hoàn toàn sai lầm và phi thực. Từ chỗ chỉ là phương tiện trao đổi hàng hóa, nó đã trở thành kẻ thống trị sự lưu thông các sản vật của đất và hoạt động của con người. Sự chuyên quyền này cũng phải bị tiêu diệt như sự chuyên quyền của những kẻ vận dụng nó. |
Money tends to become to modem civilisation what the heart is to the body, the regulator of the flow of the means of life. Human need alone should decide that flow. Financial balances between the nations, rather than the needs of communities and individuals, have governed the transference and receipt of supplies. This situation must be reversed. Human needs, human capacity to absorb and to use the products of the earth and of the labours of man should alone decide and regulate world trade. | Tiền bạc có xu hướng trở thành đối với nền văn minh hiện đại điều mà trái tim là đối với thân thể, tức là bộ điều tiết dòng chảy các phương tiện của sự sống. Chỉ riêng nhu cầu con người phải quyết định dòng chảy ấy. Cán cân tài chính giữa các quốc gia, hơn là nhu cầu của cộng đồng và cá nhân, đã chi phối sự chuyển giao và tiếp nhận nguồn cung. Tình trạng này phải đảo chiều. Nhu cầu con người, năng lực con người để hấp thụ và sử dụng các sản vật của đất và của lao động con người phải là những yếu tố duy nhất quyết định và điều chỉnh thương mại thế giới. |
Under present conditions, human needs themselves become opportunities to be exploited both in the withholding and the supplying of goods for the benefit of the few. Thus modem civilisation is based upon a topsy-turvy economic system. Values have been reversed. Money, the means of interchange, has been made the master and the means of rule. Human necessities, human convenience, culture, ease, recreation and well being have all become the subjects and means of profit. Both labour and capital over-emphasise the factor of personal gain, under-emphasise that of the meeting of human needs and the spiritual, intellectual, cultural and material progress of the race. | Trong điều kiện hiện tại, chính các nhu cầu con người lại trở thành cơ hội để bị trục lợi cả trong việc giữ lại lẫn cung ứng hàng hóa vì lợi ích của số ít. Do đó, nền văn minh hiện đại được đặt nền trên một hệ thống kinh tế lộn ngược. Giá trị bị đảo lộn. Tiền bạc, phương tiện trao đổi, đã bị biến thành ông chủ và phương tiện cai trị. Các nhu yếu của con người, tiện nghi của con người, văn hóa, sự thư nhàn, giải trí và phúc lạc đều đã trở thành đối tượng và phương tiện kiếm lợi. Cả lao động lẫn tư bản đều nhấn quá mạnh yếu tố tư lợi, xem nhẹ yếu tố thỏa mãn các nhu cầu của con người và sự tiến bộ tinh thần, trí tuệ, văn hóa và vật chất của giống người. |
The science of economics itself, the laws and practices of finance, are all operated for personal benefit instead of for racial happiness and progress. This is the basic error of modem economics. It is absurd that natural human necessities and desirable human opportunities should be made the means of profit for, and be controlled by, a financial oligarchy. | Chính khoa kinh tế, các định luật và thực hành tài chính, tất cả đều đang được vận hành vì tư lợi thay vì vì hạnh phúc và sự tiến bộ của chủng người. Đó là sai lầm căn bản của kinh tế học hiện đại. Thật phi lý khi các nhu yếu tự nhiên của con người và những cơ hội đáng ao ước của con người lại bị biến thành phương tiện lãi lợi cho, và bị kiểm soát bởi, một thiểu số tài phiệt. |
A vision is needed by world economists, financiers, manufacturers and traders, of the human race as one great family of peoples all advancing to one great goal. Of that advance, interdependence of units, groups, classes and nations is the dominating characteristic. Neither restriction to raise prices nor expansion with the inevitable pressure to buy is permissible in the light of the unity of the race. Both violate that unity. Both deny the principle of human Brotherhood. | Thế giới cần một viễn kiến nơi các nhà kinh tế, tài chính, nhà sản xuất và thương nhân nhìn nhân loại như một đại gia đình các dân tộc cùng tiến tới một mục đích vĩ đại chung. Về cuộc tiến tới đó, sự tương thuộc giữa các đơn vị, các nhóm, các giai tầng và các quốc gia là đặc tính chủ đạo. Cả việc hạn chế để nâng giá lẫn việc mở rộng với áp lực tất yếu buộc phải mua đều không thể cho phép trong ánh sáng của nhất thể loài người. Cả hai đều vi phạm nhất thể đó. Cả hai đều phủ nhận nguyên lý Tình Huynh đệ nhân loại. |
The provision of supplies fully to meet the world’s needs that none may be denied the advantages and products of human progress, a return for effort commensurate with the value of that effort, the exercise of skill in planning, directing, organising, producing and distributing—these also should be recognized as the due rewards well worthy of every human endeavour. The development of power, the attainment of faculty, the acquirement of capacity and character, skill, efficiency—these are the true purposes for all human effort, and these are the real rewards received by those by whom effort is made. The visible reward, whilst necessary and worthy of pursuit, is nevertheless far inferior in importance to the invisible results of the labour of man. | Việc cung ứng đầy đủ để đáp ứng nhu cầu của thế giới để không ai bị từ chối những lợi ích và sản phẩm của sự tiến bộ nhân loại, phần thưởng cho nỗ lực tương xứng với giá trị của nỗ lực ấy, việc vận dụng kỹ năng trong hoạch định, điều phối, tổ chức, sản xuất và phân phối — những điều này cũng nên được nhìn nhận như là phần thưởng xứng đáng cho mọi nỗ lực của con người. Sự phát triển quyền năng, sự đạt được năng lực, sự thâu nhận khả năng và Tính cách, kỹ xảo, hiệu suất — đó là mục đích đích thực cho mọi nỗ lực của con người, và đó là các phần thưởng thực sự mà những ai nỗ lực nhận lãnh. Phần thưởng hữu hình, tuy cần thiết và đáng theo đuổi, nhưng vẫn kém xa về tầm quan trọng so với các kết quả vô hình của lao động con người. |
The true riches of the human race are non-material. They are the power, the wisdom, the comprehension, the capacity and the character which result from human endeavour. They are the real objectives, and modem man has forgotten this truth. Whilst it is but just that the labourer should receive his hire in every field, it is most unwise to elevate the value of a temporary material gain to a position in which it is more highly prized than the everlasting riches which are the interior powers of man. | Sự giàu có chân thật của loài người là phi vật chất. Đó là quyền năng, minh triết, sự thấu triệt, năng lực và Tính cách, vốn là kết quả của nỗ lực con người. Đó là những mục tiêu thực sự, và con người hiện đại đã quên mất chân lý này. Trong khi điều công chính là người lao động nên nhận tiền công của mình trong mọi lĩnh vực, thì cực kỳ dại dột khi nâng giá trị của lợi ích vật chất tạm thời lên vị trí được quý trọng cao hơn các của cải bất tận là những quyền năng bên trong của con người. |
The feverish thirst for wealth and the surrender of man’s highest powers to wealth gaining purposes have led mankind into activities, practices and procedure which debase and betray the soul within him and therefore delay that soul’s progress to perfection. Where conscience and moneymaking are in conflict, all too often it is the latter which wins. Subtle and deeply penetrating are the power and lure of worldly possessions. | Cơn khát cuồng nhiệt đối với giàu sang và sự buông hiến những quyền năng cao nhất của con người cho mục đích làm giàu đã dẫn nhân loại vào các hoạt động, thực hành và thủ tục làm hạ phẩm và phản bội linh hồn nơi y và vì thế làm chậm trễ sự tiến lên hoàn thiện của linh hồn ấy. Khi lương tâm và việc kiếm tiền xung đột, quá thường khi điều sau lại thắng. Quyền lực và mồi nhử của của cải thế tục thật tinh vi và thấm sâu. |
The craftsman no longer labours as an artist imbued with joy in the practice of his art; for that joy comes from his soul wherein it lives. The joy of making things which is part of the joy of Creative Life itself is submerged, lost and almost forgotten by modem manufacturer and mechanic unduly absorbed in perpetual concern, striving and strife, for greater material reward. | Người thợ không còn lao động như một nghệ sĩ thấm nhuần niềm vui trong việc thực hành nghệ thuật của mình; vì niềm vui ấy đến từ linh hồn y, nơi nó trú ngụ. Niềm vui tạo tác — vốn là một phần của niềm vui của Chính Sự Sống Sáng Tạo — bị vùi lấp, đánh mất và gần như bị lãng quên bởi nhà sản xuất và thợ máy hiện đại vốn bị cuốn hút thái quá trong nỗi bận tâm triền miên, trong phấn đấu và xung đột để có phần thưởng vật chất lớn hơn. |
Not the welfare of the whole but the profit of the individual becomes the rule under these conditions. Not the development of intellectual and cultural powers and qualities but cupidity and a grim struggle between labour and capital, each seeking higher rewards even if at cost of the other, characterise modem business activity. Not the creation and shedding upon the world for the benefit of fellow men of objects of beauty and perfect craftsmanship, but the obtaining of the highest possible price for every product has become the driving power and motive for man’s creative activity. Yet a high degree of skill is employed in conceiving, planning the manufacture and carrying out the construction of the products of human creative ability which in themselves quite frequently are beautiful. The very perfection of the workmanship, the high degree of precision, even to a ten-thousandth part of an inch, the highly polished surface, the scientific choice of materials for each part according to the work to be done, the remarkable co-ordination of parts as for the multi-cylinder aero engine, all this is achievement of the very highest and most estimable character. | Không phải phúc lợi của tổng thể mà là lợi nhuận của cá nhân trở thành quy luật dưới những điều kiện ấy. Không phải sự phát triển các quyền năng trí tuệ và văn hóa mà là lòng tham lam và cuộc tranh đấu khốc liệt giữa lao động và tư bản, mỗi bên đều mưu cầu phần thưởng cao hơn dù là phải trả giá bằng phía kia, là điều đặc trưng cho sinh hoạt kinh doanh hiện đại. Không phải sáng tạo và rải trên thế giới — vì lợi ích của đồng loại — những vật phẩm đẹp đẽ và công nghệ hoàn hảo, mà là việc thu được giá cao nhất có thể cho mỗi sản phẩm đã trở thành lực thúc đẩy và động cơ cho hoạt động sáng tạo của con người. Tuy nhiên, một mức độ kỹ năng cao được vận dụng trong việc hình thành ý tưởng, hoạch định chế tạo và tiến hành cấu tạo các sản phẩm của khả năng sáng tạo của loài người — mà tự thân không hiếm khi chúng là đẹp. Ngay chính sự hoàn mỹ của tay nghề, mức độ chính xác cao, đến cả một phần mười nghìn của một inch, bề mặt đánh bóng kỹ, sự chọn lựa chất liệu một cách khoa học cho mỗi bộ phận tùy theo công việc phải làm, sự phối hợp phi thường của các bộ phận như ở động cơ máy bay nhiều xy lanh — tất cả những điều này là thành tựu thuộc hàng cao nhất và đáng trân trọng nhất. |
How tragic, therefore, that this should be besmirched by the all-prevailing motive of personal profit, monetary gain, acquisition, cupidity. Even if inventor, designer and craftsman do take high pride in their labour and its products, the economist will seek to turn the whole to the unworthy purpose of personal gain at the cost of the competitors and the consumers. The profit motive as the driving power for human activity must gradually, but as soon as possible, be reduced as the incentive to labour. Inevitable, perhaps even a necessity as spur to effort, in this cycle, the profit motive will gradually be outgrown. | Vậy thì bi kịch dường nào khi tất cả điều ấy bị vấy bẩn bởi động cơ tràn lan là tư lợi, lợi nhuận tiền bạc, tích lũy, lòng tham. Ngay cả khi nhà phát minh, nhà thiết kế và người thợ tự hào cao độ về lao động của mình và các sản phẩm của nó, nhà kinh tế sẽ tìm cách bẻ hướng toàn bộ để phục vụ cho mục đích bất xứng là tư lợi bằng cái giá phải trả của đối thủ và người tiêu dùng. Động cơ lợi nhuận như là lực thúc đẩy hoạt động của con người phải dần dần, nhưng càng sớm càng tốt, được giảm thiểu như động lực cho lao động. Có thể là tất yếu, thậm chí cần như một chiếc roi thúc trong chu kỳ này, song động cơ lợi nhuận rồi sẽ dần dần được vượt qua. |
A new cycle opens in which mutual co-operation, world service and a deepening recognition of true values will be developed. The economist, financier and trader, instead of slowing up, if not entirely blocking, this progress as at present, could lead the way by bending their efforts to a decentralisation of the world’s money power. When that is achieved, a new age will truly be born and world peace be assured, but not till then. Very great is the responsibility of those who hold and wield the power of the world’s wealth. For they can be either Satan or Saviour to mankind. To the newly born and gradually developing racial Christ consciousness, the economist can either be as a Herod and a Judas or a Joseph and a John, can either seek to destroy and betray, or wisely to guide, to love and to serve. History in the future will record which of the two parts our present time world economists chose to play in the great world drama. | Một chu kỳ mới mở ra trong đó hợp tác lẫn nhau, phụng sự thế giới và sự nhận thức ngày càng sâu về các giá trị chân thật sẽ được phát triển. Nhà kinh tế, nhà tài chính và nhà buôn, thay vì làm chậm lại, nếu không muốn nói là chặn hẳn, sự tiến bộ này như hiện tại, có thể dẫn đường bằng cách hướng nỗ lực của họ tới việc phi tập trung hóa quyền lực tiền tệ của thế giới. Khi điều đó đạt được, một kỷ nguyên mới sẽ thật sự chào đời và hòa bình thế giới được bảo đảm, nhưng chưa thể trước khi đạt tới. Rất lớn lao là trách nhiệm của những ai nắm giữ và vận dụng quyền lực của của cải thế giới. Bởi vì họ có thể là Sa-tan hoặc là Đấng Cứu rỗi đối với nhân loại. Đối với tâm thức Christ của nhân loại mới khai sinh và đang dần phát triển, nhà kinh tế có thể là một Hêrốt và một Giuđa hoặc là một Giuse và một Gioan, có thể tìm cách hủy diệt và phản bội, hoặc khôn ngoan dẫn dắt, yêu thương và phụng sự. Lịch sử mai sau sẽ ghi lại rằng các nhà kinh tế thế giới đương thời của chúng ta đã chọn đóng vai nào trong đại kịch trường thế giới. |
The Theosophist, Vol. 70, November 1948, p. 105 | The Theosophist, Tập 70, Tháng 11, 1948, tr. 105 |
170
World Enslavement or World Freedom?—Nô dịch Thế giới hay Tự do Thế giới?
(Broadcast Talk over 2GB, Sydney, June, 1951.) | (Bài nói chuyện phát thanh trên 2GB, Sydney, Tháng 6, 1951.) |
The problem of my title is, I suggest, the most important single question before mankind today. Which is before us? World enslavement or world freedom? In answer, I am going to enunciate two fundamental ideas which I shall then develop. | Vấn đề nêu trong tiêu đề của tôi, tôi xin đề nghị, là câu hỏi đơn lẻ quan trọng nhất trước nhân loại ngày nay. Điều gì đang ở trước mặt chúng ta? Nô dịch thế giới hay tự do thế giới? Để trả lời, tôi sẽ tuyên xưng hai ý tưởng căn bản mà tôi sẽ triển khai sau đó. |
These two ideas are, first, that world peace will eventually arrive as a result of the development in the human mind of the power to perceive unity amidst diversity. When a sufficient number of people are able to recognise in the human race a shared life and a common goal of spiritual excellence, then lasting world peace will have become a possibility. | Hai ý tưởng này là, thứ nhất, hòa bình thế giới cuối cùng sẽ đến như kết quả của sự phát triển trong tâm trí con người quyền năng nhận ra nhất thể giữa đa tạp. Khi một số lượng đủ lớn người có thể nhận ra trong chủng loại con người một sự sống chung và một mục tiêu chung là ưu thắng tinh thần, lúc ấy hòa bình thế giới bền vững sẽ trở thành khả thể. |
The second idea is that the part which the individual person can and does play is of the greatest importance. | Ý tưởng thứ hai là phần mà một cá nhân đơn lẻ có thể và thực sự đóng góp là có tầm quan trọng lớn lao nhất. |
Concerning the first of these two ideas, the necessity for the intellectual perception of the shared life in all human beings, there are indications that intense, competitive individualism is, very slowly, giving place to a recognition of the mutual interdependence of man upon man and of nation upon nation. True, the formal, analytical mind of man is naturally individualistic and competitive, but as the higher attributes of the human intellect develop, the sense of self-separateness diminishes. The concepts of unity and co-operation for the welfare of all assume an increasing dominance. This growing recognition of unity will culminate in the ultimate establishment on earth of a world government founded upon the principles of brotherhood, justice and peace. The League of Nations, the United Nations Organisation and all the other numerous movements towards international co-operation are signs of this mental development in man which has been aptly described as a hunger for wholeness. | Về ý tưởng thứ nhất này, tức là sự cần thiết của nhận thức trí tuệ về sự sống chung trong mọi con người, có những dấu hiệu cho thấy chủ nghĩa cá nhân cạnh tranh khốc liệt, rất chậm, đang nhường chỗ cho sự nhận ra tính tương thuộc lẫn nhau của người với người và của quốc gia với quốc gia. Đúng vậy, cái trí phân tích hình thức của con người vốn tự nhiên là cá nhân chủ nghĩa và cạnh tranh, nhưng khi các thuộc tính cao hơn của trí năng con người phát triển, cảm thức tự tách biệt giảm đi. Các khái niệm về nhất thể và hợp tác vì phúc lợi của tất cả dần chiếm ưu thế. Sự nhận thức ngày càng tăng về nhất thể này sẽ đạt đến đỉnh điểm trong sự thiết lập tối hậu trên địa cầu một chính quyền thế giới đặt nền trên các nguyên lý huynh đệ, công lý và hòa bình. Hội Quốc Liên, Tổ chức Liên Hiệp Quốc và tất cả các phong trào hướng đến hợp tác quốc tế khác là những dấu hiệu của sự phát triển trí năng này trong con người, vốn đã được mô tả rất thích đáng là một cơn đói khát cho tính toàn thể. |
In consequence of that longing for world friendship, the time is certain to come when the people of the earth will agree that the advancement of man in both spiritual excellence and physical welfare is the common goal of all mankind. Universal peace will then be seen as essential to the attainment of that goal. Justice will in its turn be recognised as the prerequisite of peace; for peace and justice stand or fall together. The nations will one day decide to order their separate sovereignties in one government of justice and of peace. | Do lòng mong mỏi bằng hữu thế giới ấy, thời khắc chắc chắn sẽ đến khi con người trên địa cầu đồng ý rằng sự tiến bộ của con người cả về ưu thắng tinh thần lẫn phúc lợi thể xác là mục tiêu chung của toàn thể nhân loại. Hòa bình phổ quát khi ấy sẽ được nhìn như thiết yếu để đạt mục tiêu đó. Công lý lần nữa sẽ được nhận ra là điều kiện tiên quyết của hòa bình; vì hòa bình và công lý cùng đứng hoặc cùng ngã. Một ngày kia các quốc gia sẽ quyết định sắp đặt các chủ quyền riêng của mình trong một chính quyền của công lý và hòa bình. |
Let us follow this idea of international co-operation a little further. The underlying principle of such a world government would be that the rights of man consist of the duty of everyone everywhere to serve with word and deed the spiritual and physical advancement of the living and of those to come. This would be accepted as the common cause of all generations of men. Man will have then learned to do unto others as he would like others to do unto him, and especially to abstain from violence except for the repulse of violence as commanded or granted under law. The duty of everyone, everywhere, will be to serve with word and deed the spiritual and physical advancement of the living and of those to come. This will be the common cause of all generations of men. Acceptance and fulfilment by individuals and nations of this their duty towards each other is said by leading men to be the heart and crux of the problem of world unity and world peace. | Chúng ta hãy theo đuổi thêm ý tưởng về hợp tác quốc tế này. Nguyên lý nền tảng của một chính quyền thế giới như vậy sẽ là quyền của con người bao hàm bổn phận của mọi người khắp nơi phải phụng sự bằng lời nói và việc làm cho sự thăng tiến tinh thần và thể xác của người đang sống và của những người sẽ đến. Điều này sẽ được chấp nhận như sự nghiệp chung của mọi thế hệ loài người. Con người khi ấy sẽ học làm cho người khác điều mình muốn người khác làm cho mình, và đặc biệt là kiêng bạo lực ngoại trừ để đẩy lùi bạo lực như được luật định truyền lệnh hoặc cho phép. Bổn phận của mọi người, ở mọi nơi, sẽ là phụng sự bằng lời nói và việc làm cho sự thăng tiến tinh thần và thể xác của người đang sống và của những người sẽ đến. Đây sẽ là sự nghiệp chung của mọi thế hệ loài người. Việc cá nhân và các quốc gia chấp nhận và hoàn thành bổn phận của họ đối với nhau được các bậc lãnh đạo cho là tim điểm và cốt lõi của vấn đề nhất thể thế giới và hòa bình thế giới. |
David Lilienthal, Chairman of the U.S. Atomic Energy Commission, put it like this: ‘It is important for us to recognise that neither the atomic weapon nor any other form of power and force constitutes the true source of American strength. Nothing could be more misleading, further from reality, or more dangerous to the future security of our nation and the peace of the world than that myth. For if we embrace the myth of the atomic bornb we will tend to relax when we need to be eternally vigilant in recognising and reinforcing the wellspring of our great strength. What, then, is the source of our strength? That source is our ethical and moral standards of precepts, and our democratic faith in man. This faith is the chief armament of our democracy. It is the most potent weapon ever devised. Compared with it, the atomic bornb is a firecracker’. So says Mr Lilienthal. | Chủ tịch Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Hoa Kỳ, David Lilienthal, đã diễn đạt như sau: “Điều quan trọng đối với chúng ta là nhận ra rằng vũ khí nguyên tử cũng như mọi hình thức quyền lực và mãnh lực khác đều không cấu thành nguồn sức mạnh chân chính của nước Mỹ. Không gì có thể sai lạc hơn, xa rời thực tại hơn, hay nguy hiểm hơn cho an ninh tương lai của quốc gia chúng ta và hòa bình thế giới, bằng huyền thoại ấy. Vì nếu chúng ta ôm lấy huyền thoại về quả bom nguyên tử, chúng ta sẽ có xu hướng buông lỏng khi chính lúc cần phải tỉnh giác vĩnh viễn để nhận ra và củng cố mạch nguồn sức mạnh vĩ đại của mình. Vậy, nguồn sức mạnh của chúng ta là gì? Nguồn ấy chính là các chuẩn tắc đạo đức và luân lý của chúng ta, và niềm tin dân chủ vào con người. Niềm tin này là vũ khí chủ lực của nền dân chủ chúng ta. Đó là vũ khí hiệu lực nhất từng được phát minh. So với nó, bom nguyên tử chỉ như pháo tép.” Ấy là lời của Ông Lilienthal. |
Such is the ideal. What is actually found when from such information as is available one examines what Lilienthal calls ‘the ethical and moral standards of precepts’ of modem man? Apparently two main attitudes and standards exist; they are held by those who do perceive the truth of unity and brotherhood and those who do not. Those who do are men and women who know, or are beginning to know, unity by instinct and intuition. These people perceive disunity as a denial of truth and feel impelled to labour in order to reveal their vision to the rest of their race and so bring about world unification. Such people are responsible for the League of Nations, U.N.O. and Rotary, Scouts, Y.M.C.A., the Inter-national Red Cross, and the many other movements based on brotherhood and service. | Đó là lý tưởng. Còn thực tế ra sao khi, dựa trên các dữ kiện hiện có, người ta khảo sát điều Lilienthal gọi là “các chuẩn tắc đạo đức và luân lý” của con người hiện đại? Rõ ràng tồn tại hai thái độ và chuẩn tắc chính; một thuộc về những ai thấy được chân lý của hợp nhất và tình huynh đệ, và một thuộc về những ai không thấy. Những người ở nhóm thứ nhất là những người nam và nữ biết, hoặc đang bắt đầu biết, tính hợp nhất bằng bản năng và trực giác. Họ nhận thấy sự chia rẽ là sự phủ nhận chân lý và cảm thấy thôi thúc phải lao tác để tỏ lộ viễn kiến của mình cho phần còn lại của giống dân, nhờ đó đem lại sự thống nhất thế giới. Chính những con người như vậy đã khởi xướng Hội Quốc Liên, Liên Hiệp Quốc, Rotary, Hướng Đạo, Y.M.C.A., Hồng Thập Tự Quốc tế, và nhiều phong trào khác đặt nền trên tình huynh đệ và phụng sự. |
Happily, the number of those enlightened concerning unity steadily increases. They are to be found everywhere, in homes, businesses, factories, professions, town and city councils and in Parliaments. They are also at work in International Organisations. These men and women in whom the vision of the Oneness of Life has dawned, who are imbued with the spirit of unity, are regarded as the potential saviours of mankind, threatened as it is with atomic and bacteriological warfare and guided missiles. These world unifiers are the little leaven that leaveneth the whole. | May thay, số người giác ngộ về hợp nhất đang đều đặn gia tăng. Họ hiện diện khắp nơi, trong gia đình, thương cuộc, xưởng máy, giới nghề nghiệp, hội đồng thị xã và thành phố, cũng như trong Nghị viện. Họ cũng đang làm việc trong các Tổ chức Quốc tế. Những người nam nữ ở nơi họ bình minh của Viễn Kiến về Sự Sống Nhất Như đã mọc lên, những người thấm nhuần tinh thần hợp nhất, được coi là những vị cứu tinh tiềm năng của nhân loại, vốn đang bị đe dọa bởi chiến tranh nguyên tử, vi trùng và tên lửa điều khiển. Những người hợp nhất thế giới ấy là “nhúm men nhỏ làm dậy cả khối bột”. |
The salvation of the world from enslavement, it is now being said, will be brought about by the action of men and women of vision in every walk of life. For these people, whether consciously or unconsciously, exert a pressure in the direction of co-ordination, collaboration, harmonious co-operation in the cause of human welfare. Here lies the heart of the problem of world freedom, namely, in the mind, in the motive for living of individual men and, therefore, individual nations. But, at present, there is another and darker side to the picture. Unhappily, selfish individuals combine into groups ruthlessly determined to exploit their fellow men for their own profit. These ruthless exploiters also exist in homes, factories, businesses, professions, town and city councils, Parliaments, and even in International Organisations. These selfish men are the initiators and wagers of class warfare, commercial, financial and political warfare. They are ruthlessly determined to obtain for themselves and their group the largest possible shares of world power and wealth. One example of their methods is the destruction of food to keep up prices. | Người ta hiện đang nói rằng sự cứu rỗi thế giới khỏi ách nô lệ sẽ được đem đến bằng hành động của những người nam và nữ có viễn kiến trong mọi nẻo đường đời. Vì những con người này, dù tự ý thức hay vô thức, đều tạo áp lực theo chiều hướng phối hợp, cộng tác, hiệp lực hài hòa vì phúc lợi con người. Trọng tâm của vấn đề tự do thế giới nằm chính ở đây, tức là trong tâm trí, trong động cơ sống của từng cá nhân, và do đó, của từng quốc gia. Nhưng hiện tại, bức tranh còn một mặt khác u ám hơn. Đáng buồn thay, những cá nhân vị kỷ kết hợp thành các nhóm với quyết tâm tàn nhẫn nhằm bóc lột đồng loại vì lợi nhuận riêng. Những kẻ tàn nhẫn bóc lột này cũng hiện diện trong gia đình, xưởng máy, thương cuộc, giới nghề nghiệp, hội đồng thị xã và thành phố, nghị viện, và thậm chí cả trong các Tổ chức Quốc tế. Những kẻ ích kỷ ấy là người khởi phát và tiến hành chiến tranh giai cấp, chiến tranh thương mại, tài chính và chính trị. Họ quyết liệt mưu toan giành về cho bản thân và phe nhóm phần quyền lực và tài sản thế giới lớn nhất có thể. Một ví dụ về phương cách của họ là hủy hoại lương thực để duy trì giá cao. |
Thus humanity is divided in this age into two classes of people: On the one hand there are those who have perceived the truth of unity, have outgrown the passion for personal power and possessions and have genuinely and seriously dedicated their lives to the service of their fellow men. And, on the other hand, there exist the dark fanatics of selfishness, the ruthless individualists who acknowledge no god but self, and no goal but self-interest, and pursue that goal relentlessly without regard for the interests of others. If these hear a voice of conscience or see a light of idealism, they silence the one and deny and scorn the other. It is these who hold up progress to world peace. Someone has said very succinctly: ‘Peace begins with the United Nations but the United Nations begins with you’. This brings us to the place of the individual in world progress. | Vì thế, trong thời đại này, nhân loại bị chia thành hai hạng người: Một bên là những người đã nhận ra chân lý của hợp nhất, đã vượt lên khỏi đam mê quyền lực và của cải cá nhân, và đã chân thành, nghiêm túc hiến trọn đời mình vào việc phụng sự đồng loại. Và ở bên kia là những kẻ cuồng tín u ám của lòng ích kỷ, những cá nhân chủ nghĩa tàn nhẫn không thừa nhận vị thần nào ngoài bản ngã, không theo đuổi mục tiêu nào ngoài tư lợi, và truy đuổi mục tiêu đó không khoan nhượng, bất chấp lợi ích của người khác. Nếu họ nghe tiếng nói lương tâm hay thấy ánh sáng lý tưởng, họ sẽ bịt tiếng nói kia và phủ nhận, nhạo báng ánh sáng nọ. Chính họ là những kẻ cản trở tiến trình đi đến hòa bình thế giới. Có người đã nói rất cô đọng: “Hòa bình khởi đầu từ Liên Hiệp Quốc nhưng Liên Hiệp Quốc khởi đầu từ bạn”. Điều này đưa chúng ta đến vị trí của cá nhân trong tiến trình tiến bộ thế giới. |
If the historical process leading to the birth of the great ideal of One World is to be quickened, that quickening can only come as a sufficient number of men and women desire one world, think it, seek it, and diligently work for it. Therein lies the responsibility of every thinking individual; for the regeneration of human society depends very largely upon the regeneration of the individual. The world problem is the individual problem. A person who is at war with himself, his conscience, his family, his fellow citizens, cannot be a peacemaker for the world. A measure of peace within is essential to a positive contribution to world peace. Personal conflict with the outer world of society and the inner world of ideas and ideals inevitably renders one helpless, if not harmful, in the process of reconstruction, for all true reform begins with self-reform. | Nếu tiến trình lịch sử dẫn đến sự ra đời của lý tưởng vĩ đại về Một Thế giới cần được gia tốc, thì sự gia tốc đó chỉ có thể đến khi một số lượng đủ lớn những người nam và nữ khao khát một thế giới nhất thể, nghĩ về nó, tìm kiếm nó và chuyên cần làm việc vì nó. Ở đó nằm trách nhiệm của mọi cá nhân biết suy tư; vì sự tái sinh của xã hội loài người phần lớn tùy thuộc vào sự tái sinh của từng cá nhân. Vấn đề của thế giới chính là vấn đề của cá nhân. Người đang chiến tranh với chính mình, với lương tâm mình, gia đình mình, đồng bào mình, thì không thể là người kiến tạo hòa bình cho thế giới. Một mức độ hòa bình nội tâm là điều cốt yếu để đóng góp tích cực cho hòa bình thế giới. Xung đột cá nhân với thế giới bên ngoài của xã hội và thế giới bên trong của tư tưởng, lý tưởng tất yếu khiến người ta bất lực, nếu không nói là gây hại, trong tiến trình kiến thiết, vì mọi cuộc cải cách chân chính đều bắt đầu từ tự cải cách. |
Thus, we have come full circle from the world to the individual and from the individual again to the world. As the individual grows out of his own enslavement into freedom, so on the vast scale of mankind the world will grow out of the danger of world enslavement into freedom and enduring world peace. | Thế là, chúng ta đã đi một vòng tròn trọn vẹn từ thế giới đến cá nhân và từ cá nhân trở lại thế giới. Khi cá nhân vượt thoát khỏi ách nô lệ của chính mình để tiến vào tự do, thì trên bình diện bao la của nhân loại, thế giới cũng sẽ vượt thoát khỏi hiểm họa nô lệ toàn cầu để tiến vào tự do và hòa bình bền vững. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 12, No. 4, 1951, p. 46 | Thông Thiên Học tại New Zealand, Tập 12, Số 4, 1951, tr. 46 |
171
The Came of Human Sorrow—Nguồn Cơn của Nỗi Khổ Con Người
No one at all sensitive to the pain of others can fail to be deeply concerned both by the immeasurable sufferings of mankind and by the unnecessary suffering continually inflicted upon animals by man. Concern is deepened by realisation that the motives for the latter are those of profit and pleasure. The meat, fur, serum, animal extract and animal experimentation industries are all extremely profitable. | Không ai có độ nhạy cảm trước nỗi đau của kẻ khác mà không cảm thấy mối bận tâm sâu xa trước những khổ đau khôn lường của nhân loại, cũng như trước nỗi khổ không cần thiết mà con người liên tục gây ra cho loài vật. Mối bận tâm càng sâu đậm hơn khi nhận ra rằng các động cơ của điều sau là lợi nhuận và khoái lạc. Các ngành công nghiệp thịt, lông thú, huyết thanh, chế phẩm từ động vật và thí nghiệm trên động vật đều cực kỳ sinh lợi. |
Yet their ultimate cost to man in both money and misery of body, soul and spirit is so great and so far reaching as to be beyond computation. For, although these trades do produce immediate profit and pleasure, they are the cause of ever-mounting loss and misery. How and why is this? Because man’s suffering is the result of his infliction of unnecessary suffering upon animals and fellowmen. | Thế nhưng, chi phí sau cùng mà con người phải trả, cả bằng tiền bạc lẫn nỗi thống khổ của thân, linh hồn và tinh thần, lại lớn đến mức và lan xa đến độ vượt ngoài tính toán. Bởi lẽ, dù những ngành nghề ấy có đem lại lợi nhuận và khoái lạc tức thời, chúng lại là nguyên nhân của sự tổn thất và khổ đau ngày càng chồng chất. Vì sao và thế nào? Bởi nỗi khổ của con người là hậu quả của việc y gây ra nỗi khổ không cần thiết cho loài vật và cho đồng loại. |
All of the above activities of man bring excruciating agony upon animals. The animal kingdom in this Age is continually forced by man to endure infinite pain without known limits, pain beyond imagination and beyond description. | Tất cả những hoạt động nói trên của con người đều đem nỗi thống khổ khôn xiết đến cho loài vật. Giới động vật trong Thời đại này liên tục bị con người ép phải chịu đựng nỗi đau vô hạn không ranh giới, nỗi đau vượt ngoài tưởng tượng và vượt ngoài ngôn từ. |
From the torture of animals it is but a short step to the similar treatment of man. Man’s inhumanity to man is proverbial. | Từ cực hình gây cho loài vật đến đối xử tương tự với con người chỉ là một bước ngắn. “Con người vô nhân với con người” đã trở thành ngạn ngữ. |
Immutable Law | Định luật Bất biến |
The appalling cruelty so prevalent at this time not only offends The Cause of Human Sorrow common decency as well as every principle of justice and compassion, not only is it utterly useless in the prevention of ill-health, it also serves as a continuing source of human suffering and sorrow. For a mighty power, which no man can evade, rules this Universe. It is the power of Immutable Law. | Sự tàn nhẫn khủng khiếp lan tràn trong thời buổi này không chỉ xúc phạm lương tri thông thường cũng như mọi nguyên tắc công chính và từ bi, không chỉ hoàn toàn vô ích trong việc ngăn ngừa bệnh tật, mà còn là nguồn cơn thường trực của nỗi khổ và sầu não nhân sinh. Vì một quyền lực vĩ đại, không ai lẩn tránh được, đang chi phối Vũ trụ này. Ấy là quyền lực của Định luật Bất biến. |
The Apostle accurately described the operation of this Law upon man in his words, ‘Whatsoever a man soweth, that shall he also reap’. | Vị Tông Đồ đã mô tả chính xác sự vận hành của Định luật này trên con người qua lời: “Người gieo giống chi, thì cũng gặt giống ấy”. |
Knowledge of the sowing reveals the nature of the inevitable reaping. One has but to observe the sufferings of man during the past fifty years alone to see that reaping taking place. For the reaping is always exactly appropriate to the sowing, so perfect is the Law. Cruelty begets cruel pain. Kindness and mercy beget happiness and freedom from pain. Man’s continual infliction of cruelty afflicts the human race with cruel suffering, just as the expression of kindness generates happiness and health. Such is the Law which rules not only physically but mentally and spiritually as well. | Biết điều đã gieo sẽ phơi bày bản chất của cái gặt tất yếu. Chỉ cần quan sát những khổ đau của nhân loại trong năm mươi năm gần đây cũng thấy cuộc gặt ấy đang diễn ra. Vì sự gặt luôn xứng hợp chính xác với điều đã gieo, đến mức hoàn hảo của Định luật. Tàn nhẫn sinh ra nỗi đau tàn nhẫn. Nhân từ và xót thương sinh ra hạnh phúc và thoát khổ. Sự tàn nhẫn liên tục của con người giáng lên loài người nỗi thống khổ tàn khốc, cũng như sự biểu lộ lòng nhân từ tạo ra hạnh phúc và sức khỏe. Định luật cai quản không chỉ phương diện thể xác mà cả phương diện trí tuệ và tinh thần cũng vậy. |
The barbarous treatment of animals is a crime against Nature for which humanity is paying very dearly in the form of precisely similar suffering. If any doubt this, remembering that full health and strength are attainable without meat, let them first visit abattoirs and watch the killing and dismemberment, and vivisectors’ laboratories and watch the more cruel experiments. Then let them read the full reports of wartime concentration camps and war casualties, visit military and civil hospitals and homes for incurables, asylums, prisons, leper colonies spread like a scourge about the planet, and famine-stricken districts and scenes of catastrophes. Is the cause of all this indescribable and heart-piercing human suffering not abundantly clear and so also the cure? Is it not also perfectly plain that immediate preventative action is needed if the cycle of cause, effect and continuing cause is to be cut? Of course it is. Here is the opportunity of the world’s humanitarians and their Societies. Even more positively and powerfully than heretofore, both cause and cure need to be put before the whole world. Still more effective steps need to be taken to have done with these debauches of cruelty which sully human life and make of the earth a planet of unnecessary pain and premature death. | Sự đối xử dã man với loài vật là tội ác chống lại Tự Nhiên mà nhân loại đang phải trả giá rất đắt bằng những khổ đau tương ứng và chính xác. Nếu ai còn hoài nghi điều đó, lại tin rằng sức khỏe và thể lực trọn vẹn vẫn đạt được không cần ăn thịt, thì hãy trước hết đến lò mổ và quan sát cảnh giết hại, phân thây; hãy vào phòng thí nghiệm của những người giải phẫu sinh thể mà xem những thí nghiệm tàn nhẫn hơn. Rồi hãy đọc đầy đủ các báo cáo về trại tập trung thời chiến và thương vong chiến tranh, thăm viếng các bệnh viện quân y, dân y, các trại dưỡng bệnh nan y, nhà thương điên, nhà ngục, các trại cùi trải khắp địa cầu như một tai ương, và những vùng đói kém, những nơi xảy ra thảm họa. Chẳng phải nguyên nhân của tất cả khổ đau nhân sinh không thể tả và xé lòng ấy đã quá rõ ràng, và phương thuốc cứu chữa cũng vậy sao? Chẳng phải cũng hết sức hiển nhiên rằng cần có hành động ngăn ngừa tức thời nếu muốn chặt đứt vòng luân chuyển nhân—quả—nhân nối tiếp đó sao? Dĩ nhiên là vậy. Đây là cơ hội của những nhà nhân đạo trên thế giới và các Hội của họ. Cần phải trình bày trước toàn thế giới, mạnh hơn và rõ hơn nữa so với trước nay, cả nguyên nhân lẫn phương thuốc. Cần có những bước hiệu quả hơn để chấm dứt những cơn sa đọa tàn nhẫn đang làm ô uế đời sống con người và biến địa cầu thành một hành tinh của nỗi đau không cần thiết và cái chết yểu. |
Mankind must by some means be brought to recognise the great truth that givers of happiness and happy individuals are one and the same people. They create their own serenity and peace under Law. | Nhân loại phải bằng cách nào đó được dẫn đến chỗ nhận ra chân lý lớn lao rằng những người ban phát hạnh phúc và những cá nhân hạnh phúc chính là một. Họ tạo ra sự an nhiên và bình an của riêng mình trong khuôn khổ Định luật. |
Similarly, the inflictors of suffering and the sufferers are one. | Tương tự, kẻ gây ra khổ đau và người chịu khổ cũng là một. |
The Way of Sorrow’s Ceasing | Con Đường Diệt Khổ |
In one way alone, as far as the author can discover, may the vicious circle be broken. | Theo như tác giả có thể tìm thấy, chỉ bằng một con đường duy nhất vòng luẩn quẩn này mới có thể bị phá vỡ. |
That way is to outlaw cruelty—the unnecessary infliction of pain—on earth as man is now seeking to outlaw war. Abolish torture and needless killing; replace them with humaneness in every department of life, especially the choice of recreation, food, clothing and in the practise of medicine. Then, with right thinking, the reverent use of the soil, correct nutrition and hygiene, by prevention the problem of disease will be solved. | Con đường ấy là đặt ngoài vòng pháp luật sự tàn nhẫn—tức sự gây đau đớn không cần thiết—trên địa cầu, cũng như con người hiện đang tìm cách đặt chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật. Hãy bãi bỏ tra tấn và sát sinh vô ích; thay thế chúng bằng lòng nhân trong mọi lĩnh vực của đời sống, nhất là trong việc chọn lựa hình thức giải trí, thực phẩm, y phục và trong thực hành y học. Rồi, với nếp nghĩ đúng, việc sử dụng đất đai một cách cung kính, dinh dưỡng và vệ sinh thích đáng, bằng phòng ngừa, vấn nạn bệnh tật sẽ được giải quyết. |
The immediate task before all humane individuals and Humanitarian Societies is abundantly clear. Would that the numbers of both were multiplied a thousand-fold! For the task is well nigh impossible of fulfilment by the present hard-working and honoured few. Humanity must be led towards humaneness. | Nhiệm vụ trước mắt của tất cả các cá nhân nhân ái và các Hội Nhân đạo đã quá rõ ràng. Mong sao số lượng của cả hai được nhân lên gấp ngàn lần! Vì nhiệm vụ này hầu như bất khả hoàn thành bởi số ít người hiện đang lao tác cần mẫn và đáng tôn vinh. Nhân loại phải được dẫn dắt tiến về lòng nhân. |
World Wide Suffering Calls for World Wide Action | Nỗi Khổ Tràn Địa Cầu Kêu Gọi Hành Động Trên Quy Mô Địa Cầu |
Individual humaneness, vegetarianism and healthy living are magnificent first steps towards a solution of this world problem. Active Societies advocating these three essentials to health and happiness render far-reaching service to the Race. Means must immediately be found of strengthening them and of increasing their effectiveness. The gospels of humaneness, food reform and the healthy life must be spread throughout the whole world and with ever greater diligence and efficiency. Totality of attack is demanded. | Lòng nhân của mỗi người, việc ăn chay và lối sống lành mạnh là những bước đi đầu tiên tuyệt vời hướng tới giải pháp cho vấn đề toàn cầu này. Những Hội tích cực cổ xúy ba yếu tố thiết yếu đối với sức khỏe và hạnh phúc này đã cống hiến một phụng sự sâu rộng cho Nhân loại. Cần ngay lập tức tìm các phương cách để gia cường họ và tăng hiệu quả hoạt động của họ. “Phúc âm” của lòng nhân, cải cách thực phẩm và đời sống lành mạnh phải được phổ truyền khắp thế giới, với tinh cần và hiệu năng ngày càng tăng. Một cuộc tổng công kích là điều đang được đòi hỏi. |
—Extracts from the ‘Humanitarian’ | —Trích từ “Humanitarian” |
The New Zealand Vegetarian Society, March/May 1958, p. 5 | Hội Ăn Chay New Zealand, Tháng 3/Tháng 5, 1958, tr. 5 |
172
What Are We Going to Build?—Chúng Ta Sẽ Xây Gì?
The root cause of human frustration and failure is erroneous thinking. Wrong thought, founded on wrong concepts, has led humanity into a morass. One of the basic errors of man is his concept of the separated duality of the universe, of the material world as being disconnected from the spiritual. Gravity, for example, is regarded as a law governing matter only, and having nothing to do with spirit, which presumably is unaffected by gravity. The truth is that attraction and repulsion, like all fundamental laws, obtain throughout the Cosmos from highest spirit to lowest matter. | Căn nguyên sâu xa của sự bế tắc và thất bại của con người là tư duy sai lạc. Tư tưởng sai, đặt trên những quan niệm sai, đã dẫn nhân loại lún vào vũng lầy. Một trong những sai lầm căn bản của con người là quan niệm về nhị nguyên tách rời của vũ trụ, rằng thế giới vật chất tách biệt khỏi cái tinh thần. Lực hấp dẫn, chẳng hạn, được xem như một định luật chỉ cai quản vật chất, không liên can gì đến tinh thần, vốn mặc nhiên không bị ảnh hưởng bởi hấp dẫn. Sự thật là lực hấp dẫn và đẩy, như mọi định luật nền tảng, hiện hữu khắp Càn khôn từ tinh thần cao nhất đến vật chất thấp nhất. |
Mathematical laws and facts, Euclidean and geometrical principles are thought to apply to the material worlds alone—the Deity, if seriously considered at all, being regarded as extra-mathematical and supra-Euclidean. The truth, as Pythagoras taught, is that the whole universe is built and sustained by the law of numbers, the Logos being, above all, Divine Geometrician. Man, however, will not acknowledge either this truth or the Hermetic axiom, ‘As above, so below’. | Các định luật và dữ kiện toán học, các nguyên lý Euclid và hình học được cho là chỉ áp dụng cho những thế giới vật chất—Còn Thượng đế, nếu có được xét đến nghiêm túc chăng nữa, thì được xem là ngoài toán học và vượt trên Euclid. Sự thật, như Pythagoras đã dạy, là toàn vũ trụ được kiến tạo và duy trì bởi định luật của những con số, và Ngài Logos, trên hết thảy, là Nhà Hình Học Thiêng liêng. Tuy nhiên, con người không chịu thừa nhận cả chân lý ấy lẫn châm ngôn Hermetic: “trên sao, dưới vậy”. |
One result of this basic error of human thought is that man deliberately performs material acts which contravene moral and spiritual law. He imagines the two separate, believes apparently that spirit is not involved in material affairs. Modem man seems to regard the material world as a cover, a cave, a God-raid shelter, within which God cannot either see him or get at him, and where what he does is either unknown to the Deity or outside that jurisdiction. God (apparently thinks modem man) comes in only in matters religious and spiritual. God’s power, God’s law, and God’s Presence are recognized only in things connected with religion, with worship, with prayer. God is thought to be concerned with man’s soul but not his body. | Một hệ quả của sai lầm căn để ấy trong tư duy của con người là y cố tình làm những hành vi vật chất vi phạm định luật đạo đức và tinh thần. Y tưởng hai phương diện ấy tách rời nhau, hình như tin rằng tinh thần không dính líu gì đến các sự vụ vật chất. Con người hiện đại dường như xem thế giới vật chất như một lớp che, một hang động, một “hầm trú ẩn chống Thượng đế”, ở đó Thượng đế không thể thấy y hoặc chạm đến y, và những gì y làm ra hoặc là Ngài không hay biết, hoặc ở ngoài thẩm quyền của Ngài. Thượng đế (có vẻ con người hiện đại nghĩ như vậy) chỉ can dự vào những vấn đề tôn giáo và tinh thần. Quyền năng của Thượng đế, Định luật của Thượng đế, và Sự Hiện Diện của Thượng đế chỉ được công nhận trong những chuyện liên quan đến tôn giáo, đến thờ phượng, đến cầu nguyện. Người ta cho rằng Thượng đế quan tâm đến linh hồn của con người chứ không phải thân xác của y. |
The body of man, with all organic forms, is believed to be evolving, however slowly, towards a higher type; but the soul was created once for all at birth as it now is and ever shall be. If any soul improvement is possible to man, such development is the concern of the Church and its Spiritual Fathers, and above all of the Redeemer of Men. If salvation is gained, it will be gained through meditation and in any case only after bodily death.—These are the great and tragic fallacies the acceptance of which throughout Christendom has been a calamity of planetary proportions. From these errors two world wars and an intervening depression have arisen; and unless man’s outlook on life is corrected, a third world war and another world depression will inevitably inflict mankind. | Thân xác con người, cùng với mọi hình thể hữu cơ, được tin là đang tiến hóa, dẫu chậm chạp, hướng đến một kiểu mẫu cao hơn; còn linh hồn thì đã được tạo ra một lần cho mãi mãi từ khi sinh ra, như hiện tại và sẽ mãi như thế. Nếu có sự cải thiện nào cho linh hồn là khả hữu đối với con người, thì sự phát triển ấy là việc của Giáo hội và các Đấng Cha tinh thần của Giáo hội, và trên hết là của Đấng Cứu Rỗi Nhân Loại. Nếu cứu rỗi đạt được, thì chỉ đạt được qua chiêm niệm và dù sao cũng chỉ sau khi thân xác chết.—Đấy là những ngộ nhận lớn lao và bi thảm, việc chấp nhận chúng khắp giới Cơ Đốc đã là một tai họa tầm cỡ hành tinh. Từ những sai lầm này đã nảy sinh hai cuộc đại chiến và một cuộc khủng hoảng ở giữa; và trừ phi cái nhìn về đời sống của con người được sửa chữa, một cuộc đại chiến thứ ba và một cuộc khủng hoảng nữa sẽ tất yếu giáng xuống nhân loại. |
The truth is that the soul of Nature (and of man also) evolves to a higher state. This unfoldment occurs in parallel with the evolution of the body, the two being mutually interdependent. Bodily conduct, therefore, is of supreme importance to soul life and soul growth. The Redeemer of Men and His ordained Ministers mightily assist the unfoldment of the soul, but its coronation and salvation depend in essence upon man himself. | Sự thật là linh hồn của Tự nhiên (và của con người) cũng tiến hóa lên trạng thái cao hơn. Sự khai mở này diễn ra song song với tiến hóa của thân xác, và hai bên tương thuộc lẫn nhau. Vì thế, hạnh kiểm nơi thân xác có tầm quan trọng tối thượng đối với đời sống và sự tăng trưởng của linh hồn. Đấng Cứu Rỗi Nhân Loại và các Thừa tác viên được Ngài ủy sai trợ giúp mạnh mẽ cho sự khai mở của linh hồn, nhưng triều thiên và cứu rỗi của linh hồn tự thâm căn là tùy nơi chính con người. |
This working out by man of his own salvation, for and by himself, is done in the home, the workshop, the office, the studio, the consulting room, the law courts, the House of Parliament. In other words, salvation must be won by worship and by work in that Temple which is the material world. | Cái việc con người tự mình làm nên ơn cứu rỗi của chính mình, vì mình và bởi mình, là được thực hiện nơi mái ấm, nơi xưởng thợ, nơi văn phòng, nơi họa thất, nơi phòng mạch, nơi tòa án, nơi Nghị viện. Nói cách khác, cứu rỗi phải được đoạt lấy bằng sự thờ phượng và bằng công việc trong ngôi Đền vốn là thế giới vật chất này. |
Spirit and matter cannot be separated. They are the back and the front of one existence. They are the inside and the outside of everything. They are consistent and interdependent—as inseparable as are the inside and the surface of any object. They interact continually and both are governed by precisely the same laws. Spirit and matter are in fact one single creation, one existence. | Tinh thần và vật chất không thể bị tách rời. Chúng là mặt sau và mặt trước của một hữu thể duy nhất. Chúng là bề trong và bề ngoài của vạn sự. Chúng nhất quán và tương thuộc—bất khả tách như bề trong và bề mặt của bất kỳ sự vật nào. Chúng tương tác không ngừng và cả hai đều bị chi phối bởi cùng những định luật chính xác như nhau. Thực vậy, tinh thần và vật chất là một tạo tác duy nhất, một hiện hữu duy nhất. |
What are the practical, day by day implications of this fact? In the simplest terms one—can say that our week-days are just as much God-days as are our Sundays; that every day is equally a holy day; that in our conduct at home, at work, and at play, our soul welfare is equally involved with our bodily welfare. Our material and our spiritual natures are intimately interwoven. | Những hệ quả thực tiễn, từng ngày, của chân lý này là gì? Nói thật giản dị, ta có thể nói rằng những ngày thường trong tuần của chúng ta cũng là những “ngày của Thượng đế” như Chủ nhật; rằng mỗi ngày đều là ngày thiêng như nhau; rằng trong cách cư xử tại gia, nơi việc làm và lúc giải trí, phúc lợi cho linh hồn cũng được liên can như phúc lợi cho thân xác. Bản tính vật chất và tinh thần của chúng ta đan xen mật thiết. |
Everything, in the management and conduct of life is of spiritual significance! The government of nations, of cities, of towns, and the management and conduct of professions, businesses and homes are all spiritual activities, all of immediate Divine significance. The building of the post-war world, therefore, is a spiritual as well as a material undertaking. | Mọi sự, trong quản trị và điều hành đời sống, đều mang thâm nghĩa tinh thần! Việc cai trị các quốc gia, thành phố, thị trấn, và việc quản trị, điều hành các nghề nghiệp, thương cuộc và gia đình—tất cả đều là những hoạt động tinh thần, đều mang thâm nghĩa Thiêng liêng tức thì. Vậy nên, kiến thiết thế giới hậu chiến là một công cuộc tinh thần cũng như vật chất. |
All our daily activities from rising to retiring—all planning, all thought, feeling, speech and action—all these are of profound spiritual importance both to ourselves and to all our fellow men. Every human activity, collective and individual, is Divine activity, an expression of the Divine life, ruled by Divine Law. This is the great truth which humanity as a whole must one day acknowledge. This truth of the spiritual nature of material life is inescapable, inexorable, basic. When man orders his life as if it were a wholly spiritual undertaking, then and then alone will war, disease, and the selfishness, ugliness and cruelty which cause them, be banished. Then alone will peace, health, humaneness, and therefore beauty, reign upon the earth. | Mọi hoạt động hàng ngày của chúng ta từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ—mọi hoạch định, mọi tư tưởng, cảm xúc, lời nói và hành vi—tất cả đều có tầm quan trọng tinh thần sâu xa, vừa đối với bản thân, vừa đối với mọi đồng loại. Mọi hoạt động nhân sinh, tập thể và cá nhân, đều là hoạt động Thiêng liêng, là sự biểu lộ của Sự sống Thiêng liêng, chịu sự chi phối của Định luật Thiêng liêng. Đây là Đại Chân lý mà nhân loại, như một toàn thể, một ngày kia phải thừa nhận. Chân lý về bản tính tinh thần của đời sống vật chất là bất khả lẩn tránh, bất khả cưỡng, căn để. Khi con người sắp đặt đời mình như thể đó là một công cuộc hoàn toàn tinh thần, thì khi ấy và chỉ khi ấy, chiến tranh, bệnh tật, và sự ích kỷ, xấu xí, tàn nhẫn—là những thứ sinh ra chúng—mới bị xua tan. Chỉ khi ấy, hòa bình, sức khỏe, lòng nhân và do đó là cái đẹp, mới trị vì trên địa cầu. |
One word best expresses the attitude towards the material world and all that it contains, especially one’s fellow men, which recognition of this truth produces. That word is REVERENCE. What the human race so greatly needs is a return to reverence—in thought, in plans, in word and deed. | Một từ diễn đạt đúng nhất thái độ đối với thế giới vật chất và mọi điều nó bao gồm, đặc biệt là đồng loại, mà sự thừa nhận chân lý này tạo ra. Từ đó là SỰ KÍNH NGƯỠNG. Điều mà nhân loại vô cùng cần đến là trở về với sự kính ngưỡng—trong tư tưởng, trong hoạch định, trong ngôn và hạnh. |
This intimate interrelation of spirit and matter, of soul and body, of the sacred and the secular, is the single principle upon which, without evasion or equivocation, post-war reconstruction must be founded; by which, if it is to endure, the new age must be planned and established. | Mối tương liên mật thiết này giữa tinh thần và vật chất, giữa linh hồn và thân xác, giữa điều thánh thiêng và điều thế tục, là nguyên lý độc nhất mà, không né tránh hay lưỡng lự, công cuộc tái thiết hậu chiến phải được đặt nền trên đó; và nếu muốn bền vững, Kỷ nguyên mới phải được hoạch định và kiến lập theo nguyên lý ấy. |
Since building is the task before us, it is of supreme importance that we decide correctly just what we propose to build. Are we going to build a better shelter and hiding-place from the Divine Presence? or are we going to build a Temple in which that Presence is recognized and revered? Are we going to build an armament factory, a barracks, a police station and a bank vault, in them worship force and gold, and regard such erection as a new world or are we going to build a veritable Temple in which Divinity is enshrined, Divine Law obeyed, the Divine Presence revered? Is the religion of the future to be one of lip service and observances, or a religion of noble deeds, of sincere devotion, of duty to God and our neighbour, honourably performed day by day and hour by hour? Is the keynote of the new civilisation to be ‘GET’ or is it to be ‘GIVE’? | Vì xây dựng là nhiệm vụ trước mắt, việc quyết định cho đúng rốt cuộc ta định xây gì là tối quan trọng. Chúng ta sẽ xây một nơi trú ẩn tốt hơn để trốn Sự Hiện Diện Thiêng liêng, hay sẽ xây một ngôi Đền trong đó Sự Hiện Diện ấy được nhận ra và tôn kính? Chúng ta sẽ xây một nhà máy vũ khí, một trại lính, một đồn cảnh sát và một hầm ngân khố, để thờ phụng sức mạnh và vàng bạc nơi đó, và coi sự kiến thiết như thế là một “thế giới mới”; hay chúng ta sẽ xây một ngôi Đền đích thực, trong đó Thần Tính được thờ tự, Định luật Thiêng liêng được tuân phục, Sự Hiện Diện Thiêng liêng được tôn kính? Tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo của nghi thức môi miệng và lễ nghi, hay là tôn giáo của nghĩa cử cao quý, của lòng sùng kính chân thành, của bổn phận đối với Thượng đế và tha nhân được thi hành một cách trọn nghĩa, mỗi ngày và từng giờ? Chủ âm của nền văn minh mới sẽ là “NHẬN” hay sẽ là “CHO”? |
This is the burning question at this critical hour in which victory and peace draw near. It must be answered by all who would be the builders, the law makers and the planners of the New Age; in other words, by every one of us. Unless we give the right answer, the new laws will be broken as freely as the old; the new towns will again be destroyed and humanity again be decimated by war. For man can by no means whatever hide away from God, or evade the operation of Divine Law. | Đây là câu hỏi nóng bỏng vào giờ khắc hiểm yếu khi chiến thắng và hòa bình đang đến gần. Nó phải được trả lời bởi tất cả những ai muốn là người xây dựng, lập pháp và hoạch định cho Kỷ nguyên Mới; nói cách khác, bởi từng người trong chúng ta. Nếu không đưa ra câu trả lời đúng, những luật mới sẽ lại bị vi phạm như luật cũ; các thành phố mới sẽ lại bị hủy diệt, và nhân loại lại bị tàn sát bởi chiến tranh. Vì con người không thể, bằng bất kỳ cách nào, trốn tránh Thượng đế, hay lẩn tránh sự vận hành của Định luật Thiêng liêng. |
Wordsworth truly said: | Wordsworth đã nói thật chí lý: |
Our destiny, our being’s heart and home, | Định mệnh ta, trái tim và quê nhà của hữu thể ta, |
Is with infinitude and only there. | Ở nơi vô cùng, và chỉ ở nơi ấy thôi. |
May this fundamental truth be recognized by the builders of the New Age! | Mong sao chân lý căn để này được các nhà kiến thiết Kỷ nguyên Mới nhận ra! |
The American Theosophist, Vol. 32, Issue 5, May 1944, p. 97 | Nhà Thông Thiên Học Hoa Kỳ, Tập 32, Số 5, Tháng 5, 1944, tr. 97 |
173
World Humaneness—Tính Nhân Loại Trên Quy Mô Thế Giới
I submit that one of the greatest needs in the world today is the adoption and continual increase of humanitarianism in the minds, hearts and lives of all mankind, this is the great need of this time. | Tôi xin trình rằng một trong những nhu cầu lớn nhất của thế giới hôm nay là sự chấp nhận và không ngừng gia tăng tinh thần nhân đạo trong tâm trí, con tim và đời sống của toàn thể nhân loại; đây là nhu cầu trọng đại của thời đại này. |
The increase of cruelty and killing threatens mankind’s entry into the new age of intuitive recognition of the unity of the ONE DIVINE LIFE in all beings and creatures, and an increased compassionate concern for all that suffers. | Sự gia tăng của tàn nhẫn và sát hại đang đe dọa việc nhân loại bước vào kỷ nguyên mới của nhận biết trực giác về tính hợp nhất của SỰ SỐNG THIÊNG LIÊNG DUY NHẤT trong muôn loài hữu thể và thọ sinh, cũng như về mối quan tâm từ bi ngày càng lớn đối với mọi điều đang chịu khổ. |
How, can we permit, ‘the shudder-producing horror of the abattoirs?’ | Làm sao chúng ta có thể dung thứ “nỗi kinh hoàng rùng mình nơi các lò mổ”? |
Fortunately, humanitarianism, in all its applications to the relationships between man and man and man and animal (in the broadest sense) is finding an increasing footing, a position of growing influence in the world-mind and in some of the activities of modem man. | May thay, tinh thần nhân đạo, trong mọi ứng dụng của nó vào các mối tương liên giữa người với người và người với vật (theo nghĩa rộng nhất), đang tìm được chỗ đứng ngày càng vững, một vị thế ảnh hưởng tăng dần trong thể trí thế giới và trong một số hoạt động của con người hiện đại. |
The word ‘humanitarianism’, the ideal of humaneness in all human inter-relationships as well as those between animals and men, greatly needs to become the Gospel of the new age as far as the application of religious ideals to conduct is concerned. | Từ “chủ nghĩa nhân đạo”, lý tưởng về lòng nhân trong mọi mối tương liên nhân sinh cũng như giữa người và vật, cần phải trở thành Phúc âm của Kỷ nguyên mới xét về phương diện áp dụng các lý tưởng tôn giáo vào nếp sống. |
Whilst this gradual—microscopic in some areas—development is however, slowly occurring, it very greatly needs to be hastened, quickened and expressed in human thought and conduct. To this end, all Adept ministrations in the worlds of spiritual, intellectual and purely mental awareness: the ever-positive and ever-productive aid of the Great Brotherhood of the Adepts—is continuously given to mankind. This aid may be thought of as a current of compassion-evoking influence with which the world of human thought is continually being flooded. | Trong khi sự phát triển tiệm tiến—chỉ như hạt bụi ở vài nơi—này dẫu sao vẫn đang diễn ra chậm rãi, thì lại rất cần được gia tốc, thúc đẩy và biểu lộ trong tư tưởng và hành vi của con người. Vì mục đích ấy, mọi sự trợ giúp của các Bậc Chân sư trên các cõi nhận biết tinh thần, trí tuệ và thuần túy thể trí—sự gia trợ luôn tích cực và luôn hiệu quả của Đại Huynh đệ Đoàn các Chân sư—đang liên tục được ban xuống cho nhân loại. Sự trợ giúp này có thể được xem như một dòng ảnh hưởng khơi dậy lòng từ bi, mà nhờ đó thế giới tư tưởng của con người được liên tục thấm ngập. |
Human collaborators in this extremely important activity are greatly needed. Prayers and prayer-thought are able to evoke from divine sources powers and tendencies which, when they find entry into the human mind, move its possessor to greatly increased kindness in tiptoed and action throughout all relationships. | Cộng tác viên nhân loại trong hoạt động vô cùng trọng yếu này đang rất cần thiết. Lời nguyện và tư tưởng cầu nguyện có khả năng khẩn cầu từ các nguồn thiêng liêng những quyền năng và xu thế, vốn khi tìm được lối nhập vào tâm trí con người, sẽ thúc đẩy người sở hữu chúng đến với lòng nhân từ lớn lao thêm trong tư tưởng và hành động, xuyên suốt mọi mối tương giao. |
In itself, deeply sincere because deeply felt, humaneness arising from compassion is one of the most beautiful, even resplendent, of human qualities. | Tự thân, lòng nhân phát nguồn từ từ bi—vì được cảm rất sâu nên thật chân thành—là một trong những phẩm chất tuyệt đẹp, thậm chí rạng ngời, của nhân tính. |
Thus, in homes and in schools throughout the earliest possible years, children from childhood to adulthood greatly need and could most valuably receive counsel and example from parents, teachers and other associates which would lead towards—build in actually—the presence of the spirit of kindness and natural repulsion towards thoughts and deeds which inflict pain. A CRUSADE FOR COMPASSION, already born and active to some extent greatly and gravely needs to be inaugurated on a world scale and chiefly, it is repeated, in the homes and educational Institutions through which young people pass and in which their attitudes towards life become established. | Do đó, trong gia đình và học đường, suốt những năm sớm nhất có thể, trẻ em từ tuổi ấu thơ đến khi trưởng thành rất cần và sẽ vô cùng lợi lạc nếu nhận được lời khuyên và gương mẫu từ cha mẹ, thầy cô và các bạn hữu, nhằm dẫn dắt—thực sự gây dựng nên—sự hiện hữu của tinh thần nhân ái và sự ghê sợ tự nhiên đối với những tư tưởng và hành vi gây đau đớn. CẦN PHẢI PHÁT ĐỘNG MỘT CUỘC THẬP TỰ CHINH CHO LÒNG TỪ BI—vốn đã được khởi xướng và hiện hữu phần nào—TRÊN QUY MÔ TOÀN CẦU, và chủ yếu, xin được nhắc lại, là trong gia đình và các Cơ sở Giáo dục nơi thanh thiếu niên học tập và lớn lên, và trong đó thái độ sống của các em được hình thành. |
Granted, kindness in general is finding increasing expression but unfortunately, so also is its opposite—cruelty. So great, so serious, so calamitous is this evil in the world and in the minds and lives of human beings that an immensely powerful WORLD CAMPAIGN against it is urgently necessary. | Thừa nhận rằng, nói chung, lòng nhân đang được biểu lộ ngày càng nhiều, nhưng thật không may, điều đối nghịch—sự tàn nhẫn—cũng vậy. Cái ác này trong thế giới và trong tâm trí, đời sống con người lớn đến thế, nghiêm trọng đến thế, tai hại đến thế, nên một CHIẾN DỊCH TOÀN CẦU cực kỳ hùng hậu chống lại nó là điều khẩn cấp. |
No need beyond these statements for further commentary is here necessary. Let those who hear and respond take part in the extremely— nay extraordinarily necessary-action; for HERE IS A WORK FOR THE BENEFIT OF ALL LIFE UPON THIS PLANE WHICH IS MOST URGENTLY NEEDED. Here, however, it may perhaps permissibly be repeated that not only the inflicted suffering itself but the reactions upon the creators, producers of that suffering—the karma of cruelty—are immeasurably serious—urgently so. | Không cần gì hơn những lời phát biểu trên cho phần bình luận thêm ở đây. Ai nghe thấy và đáp ứng, xin hãy tham gia vào hành động cực kỳ—không, phải nói là phi thường—cần kíp này; bởi VÌ ĐÂY LÀ MỘT CÔNG TRÌNH VÌ LỢI ÍCH CỦA MỌI SỰ SỐNG TRÊN CÕI NÀY, ĐANG CẦN ĐẾN MỘT CÁCH KHẨN THIẾT. Tuy nhiên, cũng có thể được phép nhắc lại rằng không chỉ nỗi khổ bị gây ra tự nó là vấn đề, mà còn cả những phản lực giáng lên những kẻ tạo tác, sản sinh ra nỗi khổ ấy—nghiệp quả của tàn nhẫn—là vô cùng nghiêm trọng—đến mức khẩn thiết. |
World Humaneness is, perhaps the greatest need in the world today. Hatred is a basic cause of all human sorrow. Hatred, it must be recognised, however unready one is to do so, is one of the worlds great evils and one of the most difficult to eradicate from human nature. Cruelty is a basic cause of human sorrow and the two combined—hatred and human sorrow—are the most difficult to eradicate and that is why surely every great Teacher has stressed the over-riding importance of the opposite and positive virtue of love, Universal and personal. When considered as a virtue love should as far as possible be non-possessive. Its development and expression—the two being intimately related—being the all-important phase of human development for this epoch, especially in the field of the evolution of human morality. Eventually love and kindness or loving kindness must become so deeply developed in human nature that their expression is immediate, instinctual, natural and idealistic. | Lòng Nhân Loại Toàn Cầu, có lẽ, là nhu cầu lớn nhất của thế giới hôm nay. Hận thù là một căn nguyên cơ bản của mọi khổ đau nhân sinh. Cần phải thừa nhận rằng, mặc cho sự miễn cưỡng đến đâu, hận thù là một trong những ác tính lớn của thế gian và là một trong những điều khó loại trừ nhất khỏi bản tính con người. Tàn nhẫn là một căn nguyên cơ bản của nỗi khổ nhân sinh, và khi kết hợp với hận thù—hai thứ ấy—lại càng khó loại trừ hơn; đó là lý do chắc chắn vì sao mọi vị Đại Huấn sư đều nhấn mạnh tầm quan trọng vượt trội của đức hạnh đối nghịch và tích cực là tình thương, vừa phổ quát vừa cá nhân. Khi được xét như một đức hạnh, tình thương nên càng ít chiếm hữu càng tốt. Sự phát triển và biểu lộ của tình thương—hai điều gắn bó mật thiết—là phương diện tối quan trọng của sự phát triển con người trong thời kỳ này, đặc biệt nơi lĩnh vực tiến hóa của đạo đức nhân loại. Sau rốt, tình thương và lòng nhân, hay “từ ái”, phải được bồi đắp sâu đến độ sự biểu lộ của chúng là tức thời, theo bản năng, tự nhiên và lý tưởng. |
This is the task before mankind, hence the importance of humaneness stressed in THE VEGETARIAN SOCIETY. We have to humanise our natures with compassion for ALL THAT LIVES. | Đó là nhiệm vụ trước mặt nhân loại, vì vậy trong HỘI ĂN CHAY, tầm quan trọng của lòng nhân được nhấn mạnh. Chúng ta phải “nhân hóa” bản tính của chính mình bằng lòng từ bi dành cho MỌI SỰ SỐNG. |
This is what U.N.O. [United Nations] and its agencies should also be working at in addition to the results of the opposite of Universal Love. | Đó cũng là điều Liên Hiệp Quốc và các cơ quan của tổ chức này nên nỗ lực thực hiện, ngoài việc xử lý các hậu quả của điều đối nghịch với Tình Thương Phổ Quát. |
How could hatred be reduced and eventually eliminated being replaced by love? To answer this question, let us name the two tendencies which lead up to hatred, namely irritation and then anger! Since these so often mark the beginning of both hatred and cruelty then at home, at school and within oneself the two evils should be warned against and the virtue of loving kindness be extolled to the very highest degree; for there is none so high. The ‘ASSURED PREVENTION’ is AH IMS A—NOT HURTING. But Ahimsa itself arises from a natural and developed loving kindness. Finally if MAN DOES NOT BECOME MERCIFUL then war and disease will continue to be his self-created experience until that time and epoch at which Buddhic or Christ consciousness makes men naturally compassionate, merciful and kind. | Làm sao có thể giảm thiểu, rồi rốt ráo triệt tiêu hận thù để thay thế bằng tình thương? Để trả lời, hãy nêu tên hai xu hướng dẫn đến hận thù, tức là bực bội rồi giận dữ! Vì hai điều này thường đánh dấu khởi đầu của cả hận thù lẫn tàn nhẫn, nên ngay tại gia đình, học đường và trong chính mình, cả hai ác tính ấy cần được cảnh báo chống lại, còn đức hạnh của lòng “từ ái” thì nên được tán dương đến mức cao nhất có thể; bởi chẳng có gì cao hơn nó. “BIỆN PHÁP NGĂN NGỪA ĐƯỢC BẢO ĐẢM” là AH IMS A—KHÔNG LÀM HẠI. Nhưng Ahimsa tự thân nảy sinh từ lòng “từ ái” tự nhiên và được bồi dưỡng. Sau cùng, nếu CON NGƯỜI KHÔNG TRỞ NÊN NHÂN TỪ thì chiến tranh và bệnh tật sẽ tiếp tục là kinh nghiệm do chính y tạo ra cho đến thời điểm và thời kỳ mà tâm thức Bồ đề hay tâm thức Christ khiến con người một cách tự nhiên trở nên từ bi, nhân ái và tốt lành. |
IN THIS DEVELOPMENT YOU AND I HAVE OUR PARTS TO PLAY EVEN NOW, as we make non-injury, harmlessness the Gospel of our own personal lives. | TRONG SỰ TRIỂN NỞ ẤY, BẠN VÀ TÔI HIỆN NAY ĐỀU CÓ PHẦN, khi chúng ta lấy vô tổn hại, không làm tổn hại, làm Phúc âm cho chính đời sống cá nhân mình. |
New Zealand Vegetarian Society, March/May, 1974, p. 1 | Hội Ăn Chay New Zealand, Tháng 3/Tháng 5, 1974, tr. 1 |
Mary K. Neff, Personal Memoirs ofH. P. Blavatsky, p. 15. Ibid., p. 155 ↑
Ibid., p. 155. ↑
Ibid., p. 55. ↑
The Mahatma Letters of A. P. Sinnett, Letter 140. ↑
Ibid., p. 169. ↑
Henry Steel Olcott, Old Diary Leaves. ↑
Jinarajadasa, Ed., Letters of the Masters of the Wisdom, Letters 7 and 8. ↑
Ibid., Letter 1. ↑
Mahatma Letters, Letter 85. ↑
Boris de Zirkoff, Ed., H. P. Blavatsky Collected Writings, pp. 104-5. ↑
Monad (Greek) ‘Alone, Man’s eternal, innermost, unitary Life-Centre, the ‘Divine Spark’. ↑
Revealed after the opening of the United Nations General Assembly in 1978. Recorded in The Auckland Star, 25/5/78. ↑
Avatar (Sanskrit) Divine Incarnation. The descent of an exalted Being. ↑