SECTION 9–5
60
The Revelation of Theosophy—Sự Khải Thị của Thông Thiên Học
The Heritage of Man | Di sản của Nhân loại |
In this study we are concerned neither with the group of doctrines by which Theosophy is represented in the world at any particular epoch, nor with the presentations made at different times by various individuals and groups. We are concerned with the Eternal Wisdom, with abstract Truth, with pure theosophia. We are concerned with that Ancient Wisdom which Madame Blavatsky defines as follows: | Trong nghiên cứu này, chúng ta không quan tâm đến nhóm các học thuyết mà Thông Thiên Học được đại diện trên thế giới vào bất kỳ thời điểm cụ thể nào, cũng như không quan tâm đến các bài thuyết trình được thực hiện vào những thời điểm khác nhau bởi các cá nhân và nhóm khác nhau. Chúng ta quan tâm đến Minh Triết Vĩnh Cửu, với Chân Lý trừu tượng, với theosophia thuần túy. Chúng ta quan tâm đến Minh Triết Cổ Xưa mà Bà Blavatsky định nghĩa như sau: |
Theosophy in its abstract meaning is Divine Wisdom or the aggregate of the knowledge and wisdom that underlie the universe—the homogeneity of eternal good; in its concrete sense it is the sum total and the same as allotted to man by Nature on this earth and no more. From this definition and from a study of the history of man’s mental development we realize that Theosophy as ‘the aggregate of the knowledge and wisdom that underlie the Universe’ is first received by humanity as revelation from evolutionary Elders. These Teachers in Their turn first received and later Themselves discovered Divine Wisdom within the Divine Mind in Nature, with which They became consciously self-unified. After its revelation to man by superman, Theosophy gradually begins to be perceived direct by advanced human minds, and in due course by the majority of human beings. Finally, though still more gradually and much later, it is fully acknowledged and applied to every phase of human life, and the establishment of a golden age of brotherhood and peace is the natural result. Thereafter, deeper and deeper layers of truth are discovered, and the humanity of a planet moves on to the attainment of super-humanity. | Thông Thiên Học theo nghĩa trừu tượng của nó là Minh Triết Thiêng Liêng hoặc tổng hợp kiến thức và minh triết làm nền tảng cho vũ trụ—tính đồng nhất của điều thiện vĩnh cửu; theo nghĩa cụ thể của nó, nó là tổng số và giống như những gì được Thiên Nhiên phân bổ cho con người trên trái đất này và không hơn không kém. Từ định nghĩa này và từ việc nghiên cứu lịch sử phát triển trí tuệ của con người, chúng ta nhận ra rằng Thông Thiên Học là ‘tổng hợp kiến thức và minh triết làm nền tảng cho Vũ Trụ’ lần đầu tiên được nhân loại tiếp nhận như một sự mặc khải từ các Huynh Trưởng tiến hóa. Đến lượt Các Huấn Sư này lần đầu tiên nhận được và sau đó Tự Các Ngài khám phá ra Minh Triết Thiêng Liêng bên trong Thể Trí Thiêng Liêng trong Tự Nhiên, mà Các Ngài đã tự hợp nhất một cách có ý thức. Sau khi được siêu nhân mặc khải cho con người, Thông Thiên Học dần dần bắt đầu được nhận thức trực tiếp bởi những thể trí con người tiên tiến, và đến lượt nó được phần lớn con người nhận thức. Cuối cùng, mặc dù vẫn còn dần dần hơn và muộn hơn nhiều, nó được thừa nhận đầy đủ và áp dụng cho mọi giai đoạn của cuộc sống con người, và việc thiết lập một kỷ nguyên vàng của tình huynh đệ và hòa bình là kết quả tự nhiên. Sau đó, các lớp chân lý sâu hơn và sâu hơn được khám phá, và nhân loại của một hành tinh tiến tới việc đạt được siêu nhân tính. |
Such, it may be assumed, are the stages in the process by which the Wisdom Religion takes its full and rightful place upon a planet. It first comes as revelation, is later self-discovered and fully acknowledged. Eventually it takes its natural place as the dominant factor in the life of illumined humanity. For our planet, the last and culminating phase is still far off. As yet we are in a stage of revelation, though perhaps beginning to emerge therefrom. Intuitive perception is bringing a very small minority of the humanity of our globe to recognition and acknowledgement of the main teachings. The days of direct discovery and application by the race as a whole are not yet. | Có thể cho rằng, đó là những giai đoạn trong quá trình mà Tôn Giáo Minh Triết chiếm vị trí đầy đủ và chính đáng của nó trên một hành tinh. Đầu tiên nó đến như một sự mặc khải, sau đó được tự khám phá và thừa nhận đầy đủ. Cuối cùng, nó chiếm vị trí tự nhiên của nó như là yếu tố chi phối trong cuộc sống của nhân loại được soi sáng. Đối với hành tinh của chúng ta, giai đoạn cuối cùng và cao trào vẫn còn ở rất xa. Hiện tại chúng ta đang ở trong giai đoạn mặc khải, mặc dù có lẽ đang bắt đầu nổi lên từ đó. Nhận thức trực giác đang mang lại cho một thiểu số rất nhỏ của nhân loại trên địa cầu của chúng ta sự công nhận và thừa nhận những giáo lý chính. Những ngày khám phá và ứng dụng trực tiếp của toàn bộ nhân loại vẫn chưa đến. |
The Mission of Theosophists | Sứ Mệnh của Các Nhà Thông Thiên Học |
Our part as Theosophists today is in consequence quite clear. It is essentially that of pioneers, and our task, in our turn, is to offer Theosophy in its most acceptable and practical forms to our contemporaries. By so doing we are privileged to share in the work of the Elder Brethren, and we help to bring nearer the day of general acknowledgement by mankind of the Ancient Wisdom, and so hasten both the coming of the golden age of world unity and the attainment of perfection by man. For this, it would seem, is the general purpose of the Adept Teachers of the race, and therefore of all our work in Their name as Fellows of The Theosophical Society. Every truly Theosophical thought, conversation, study class and lecture, every Theosophical letter, article and book, every act of Theosophical service brings nearer humanity’s third and self-attained golden age,[1] hastens humanity’s attainment of the Christ Consciousness and later of Adeptship or Christhood. This, for humanity as a whole, is our supreme objective. This is the sublime purpose for everything we, Theosophists, are trying to do. This is our planetary and racial mission. | Do đó, vai trò của chúng ta với tư cách là các nhà Thông Thiên Học ngày nay là hoàn toàn rõ ràng. Về bản chất, đó là vai trò của những người tiên phong, và nhiệm vụ của chúng ta, đến lượt chúng ta, là cung cấp Thông Thiên Học ở những hình thức chấp nhận được và thiết thực nhất cho những người đương thời của chúng ta. Bằng cách đó, chúng ta có đặc ân được chia sẻ vào công việc của Các Huynh Trưởng, và chúng ta giúp mang ngày mà nhân loại nói chung thừa nhận Minh Triết Cổ Xưa đến gần hơn, và do đó đẩy nhanh cả sự xuất hiện của kỷ nguyên vàng của sự thống nhất thế giới và sự đạt được sự hoàn hảo của con người. Vì điều này, dường như, là mục đích chung của Các Huấn Sư Đắc Đạo của nhân loại, và do đó là tất cả công việc của chúng ta nhân danh Các Ngài với tư cách là Thành Viên của Hội Thông Thiên Học. Mọi suy nghĩ, cuộc trò chuyện, lớp học và bài giảng Thông Thiên Học thực sự, mọi lá thư, bài báo và cuốn sách Thông Thiên Học, mọi hành động phụng sự Thông Thiên Học đều mang kỷ nguyên vàng thứ ba và tự đạt được của nhân loại đến gần hơn, đẩy nhanh việc nhân loại đạt được Tâm Thức Christ và sau đó là Địa Vị Chân Sư hoặc Thân Christ. Đối với nhân loại nói chung, đây là mục tiêu tối thượng của chúng ta. Đây là mục đích siêu phàm cho mọi thứ mà chúng ta, các nhà Thông Thiên Học, đang cố gắng thực hiện. Đây là sứ mệnh hành tinh và chủng tộc của chúng ta. |
Three Factors | Ba Yếu Tố |
Since we, Theosophists, today are thus called to participate in the age long and continuing labours of our Elder Brethren, it will repay us to analyse, still further our great task, to examine the various factors involved. Let us therefore try to understand the process by which the humanity of a planet in its Fourth Chain and Fourth Round gradually becomes illumined with the light of Divine Wisdom, imbued with the Spirit of Theosophy. | Vì chúng ta, các nhà Thông Thiên Học, ngày nay được kêu gọi tham gia vào những công việc lâu đời và tiếp tục của Các Huynh Trưởng của chúng ta, nên sẽ đáng để chúng ta phân tích, hơn nữa nhiệm vụ vĩ đại của chúng ta, để kiểm tra các yếu tố khác nhau liên quan. Do đó, chúng ta hãy cố gắng hiểu quá trình mà nhân loại của một hành tinh trong Dãy Thứ Tư và Cuộc Tuần Hoàn Thứ Tư của nó dần dần được soi sáng bằng ánh sáng của Minh Triết Thiêng Liêng, thấm nhuần Tinh Thần của Thông Thiên Học. |
At least three factors are involved in the process of the projection of Theosophy from the Divine Mind into the human mind and by man to its full physical manifestation. | Ít nhất ba yếu tố liên quan đến quá trình phóng chiếu Thông Thiên Học từ Thể Trí Thiêng Liêng vào thể trí con người và bởi con người đến sự biểu hiện hồng trần đầy đủ của nó. |
The first factor is Theosophy itself as abstract Truth ever available to all minds as they are able to receive, perceive and eventually assimilate and apply it to life. | Yếu tố đầu tiên là bản thân Thông Thiên Học như Chân Lý trừu tượng luôn sẵn có cho tất cả các thể trí khi chúng có thể tiếp nhận, nhận thức và cuối cùng là đồng hóa và áp dụng nó vào cuộc sống. |
The second factor consists of the great Revealers, who, early in a world period, bring Truth to the young humanity of a man-bearing globe. In the case of our planet, these Revealers were, and still are in great part, the ever-to-be-revered and glorious Beings, who, some six and a half million years ago, brought Theosophy to earth from the planet Venus. | Yếu tố thứ hai bao gồm những Nhà Khải Thị vĩ đại, những người, vào đầu một kỷ nguyên thế giới, mang Chân Lý đến cho nhân loại non trẻ của một địa cầu mang con người. Trong trường hợp hành tinh của chúng ta, những Nhà Khải Thị này đã, và phần lớn vẫn là, Các Đấng vinh quang và đáng kính muôn đời, những người, cách đây khoảng sáu triệu rưỡi năm, đã mang Thông Thiên Học đến trái đất từ hành tinh Sao Kim. |
The third factor consists of the recipients of this ministration. In our case, this is earth’s humanity, at first in Adamic sleep and Eden innocence, but gradually awakening, and, being free, knowing and practising both good and evil. | Yếu tố thứ ba bao gồm những người tiếp nhận sự giúp đỡ này. Trong trường hợp của chúng ta, đây là nhân loại của trái đất, ban đầu trong giấc ngủ Adamic và sự ngây thơ của Vườn Địa Đàng, nhưng dần dần thức tỉnh, và, được tự do, biết và thực hành cả thiện và ác. |
The Great Revealers | Các Nhà Khải Thị Vĩ Đại |
Madame Blavatsky has defined for us the first of these three factors, which is Theosophy, abstract and concrete. Concerning the second, the great Revealers, we are informed that the Lords of the Flame, as They have been called, brought with Them from Venus certain precious gifts. Greatest amongst these is Their own living Presence upon our earth; for by Their exalted nature They are great leavening and awakening Centres of spiritual power and life. As long as They remain, They perpetually quicken from within it the world soul and the world mind. | Bà Blavatsky đã định nghĩa cho chúng ta yếu tố đầu tiên trong ba yếu tố này, đó là Thông Thiên Học, trừu tượng và cụ thể. Liên quan đến yếu tố thứ hai, những Nhà Khải Thị vĩ đại, chúng ta được thông báo rằng Các Chúa Tể của Ngọn Lửa, như Các Ngài đã được gọi, đã mang theo Các Ngài từ Sao Kim một số món quà quý giá. Lớn nhất trong số này là Sự Hiện Diện sống động của chính Các Ngài trên trái đất của chúng ta; vì bởi bản chất cao cả của Các Ngài, Các Ngài là những Trung Tâm đánh thức và men say vĩ đại của quyền năng và sự sống tinh thần. Chừng nào Các Ngài còn ở lại, Các Ngài liên tục làm sống động từ bên trong nó linh hồn thế giới và thể trí thế giới. |
With Them, physically, They are said to have brought science, the arts, certain cereals, notably wheat, and certain insects, including the ants and the bees. Culturally They brought the power to awaken and develop in man the capacity to express himself through the medium of the arts and sciences. Mentally They brought the fire of Their own awakened and highly developed Intellects. That is partly why They Are known as the ‘Lords of the Flame’. Directing the fire of mind into the embryo mental bodies of Third and Fourth Race man, as well as by a process of induction, the Lords of the Flame awakened man’s sleeping powers of thought. Intellectually and spiritually They brought and taught Their knowledge of the Wisdom Religion, Theosophia, and the wondrous power of Their own fully awakened intuitional and spiritual faculties. Thus equipped, thus empowered, these Mighty Ones Arrived on our planet, and throughout long ages of unbroken ministration They have transmitted Their various gifts to mankind. | Về mặt thể xác, Các Ngài được cho là đã mang đến khoa học, nghệ thuật, một số loại ngũ cốc nhất định, đặc biệt là lúa mì và một số loài côn trùng, bao gồm kiến và ong. Về mặt văn hóa, Các Ngài mang đến sức mạnh để đánh thức và phát triển trong con người khả năng thể hiện bản thân thông qua các phương tiện nghệ thuật và khoa học. Về mặt trí tuệ, Các Ngài mang đến ngọn lửa Trí Tuệ đã thức tỉnh và phát triển cao độ của chính Các Ngài. Đó là một phần lý do tại sao Các Ngài được biết đến với tên gọi ‘các Đấng Chúa Tể của Ngọn Lửa’. Các Đấng Chúa Tể của Ngọn Lửa đã hướng ngọn lửa của thể trí vào các thể trí phôi thai của nhân loại thuộc Chủng Dân Thứ Ba và Thứ Tư, cũng như thông qua một quá trình dẫn dắt, đã đánh thức những năng lực tư duy tiềm ẩn của con người. Về mặt trí tuệ và tinh thần, Các Ngài đã mang đến và giảng dạy kiến thức của Các Ngài về Tôn Giáo Minh Triết, Thông Thiên Học, và sức mạnh kỳ diệu của các năng lực trực giác và tinh thần đã được đánh thức hoàn toàn của chính Các Ngài. Được trang bị như vậy, được trao quyền như vậy, Các Đấng Cao Cả này đã đến hành tinh của chúng ta, và trong suốt những kỷ nguyên dài phụng sự không gián đoạn, Các Ngài đã truyền lại những ân huệ khác nhau của Các Ngài cho nhân loại. |
We are informed that most of these Divine Visitants have departed, though at least Four are said to remain. These are known and revered as the Four Kumaras. Theosophically They are regarded as the most divine and sacred Beings on our planet, the supreme Rulers and Directors of the evolution of life and form upon our globe. Of these Four, One is said to be greatest. His title is Sanat Kumara, and He is referred to, ever with the utmost reverence, as the Lord of the World, and sometimes as The King. | Chúng ta được biết rằng hầu hết những Vị Khách Thiêng Liêng này đã rời đi, mặc dù ít nhất Bốn vị được cho là vẫn còn ở lại. Những vị này được biết đến và tôn kính là Tứ Kumara. Về mặt Thông Thiên Học, Các Ngài được coi là những Đấng thiêng liêng và thiêng liêng nhất trên hành tinh của chúng ta, những Đấng Thống Trị và Điều Hành tối cao sự tiến hóa của sự sống và hình tướng trên địa cầu của chúng ta. Trong số Tứ vị này, có một vị được cho là vĩ đại nhất. Tước hiệu của Ngài là Sanat Kumara, và Ngài được nhắc đến, luôn với sự tôn kính tột độ, là Đức Chúa Tể Thế Giới, và đôi khi là Đức Vua. |
Such in part are the first great Revealers of the Wisdom Religion to man. The Lords of the Flame from Venus also performed another known service to mankind. Throughout successive ages, under Their guidance and inspiration, a considerable number of disciples, Initiates and Adepts have arisen from earth’s humanity. For They also opened for man on this earth the Way of Holiness, the Path of Discipleship. The Greater and Lesser Mysteries were instituted, transmitting the esoteric wisdom and bestowing the great Initiations upon those men and women who from that day to this prove worthy to pass through them. Certain of these advanced members of earth’s humanity later attained Adeptship, and some, though not all, of these Adepts have elected to remain upon the planet, and some of these to retain physical bodies. Throughout long ages, They have been the direct spiritual Teachers of mankind. It is these Great Ones and Their Initiated Disciples who now form the Inner Government of our world, the Occult Hierarchy, the Great White Brotherhood which exists from eternity to eternity. | Đó là một phần về những Vị Khai Thị vĩ đại đầu tiên về Tôn Giáo Minh Triết cho nhân loại. Các Đấng Chúa Tể của Ngọn Lửa từ Sao Kim cũng đã thực hiện một sự phụng sự được biết đến khác cho nhân loại. Trong suốt các thời đại kế tiếp, dưới sự hướng dẫn và cảm hứng của Các Ngài, một số lượng đáng kể đệ tử, điểm đạo đồ và chân sư đã xuất hiện từ nhân loại trên trái đất. Vì Các Ngài cũng đã mở ra cho con người trên trái đất này Con Đường Thánh Thiện, Con Đường Đệ Tử. Các Mật Truyền Lớn và Nhỏ đã được thiết lập, truyền lại minh triết huyền bí và ban tặng các cuộc điểm đạo vĩ đại cho những người nam và nữ từ ngày đó đến nay chứng tỏ xứng đáng vượt qua chúng. Một số thành viên tiến bộ này của nhân loại trên trái đất sau đó đã đạt được địa vị chân sư, và một số, mặc dù không phải tất cả, những chân sư này đã chọn ở lại trên hành tinh, và một số trong số này giữ lại thể xác. Trong suốt những kỷ nguyên dài, Các Ngài đã là những Huấn Sư tinh thần trực tiếp của nhân loại. Chính Các Đấng Cao Cả này và Các đệ tử đã được điểm đạo của Các Ngài hiện đang hình thành nên Chính Phủ Nội Bộ của thế giới chúng ta, Thánh Đoàn Huyền Bí, Huynh đệ Đoàn Chánh đạo vốn tồn tại từ vĩnh hằng đến vĩnh hằng. |
The Great Conflict | Đại Chiến |
Humanity owes a debt of undying and eternal gratitude to these its Elder Brethren. For all the real advances which it has made in every department of life mankind owes to Them. The present war has brought to light other immeasurable benefits bestowed upon humanity by the August Company of the Adepts. Evil, bestial and unashamed, has found unbridled expression throughout the present war. Man has shown and man has seen the depths to which man can descend under influences which evoke the sleeping animal and awake to vivid life the relatively dormant devil within him. | Nhân loại mang một món nợ lòng biết ơn vĩnh cửu và bất diệt đối với Các Huynh Trưởng này. Vì tất cả những tiến bộ thực sự mà nó đã đạt được trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, nhân loại đều nợ Các Ngài. Cuộc chiến hiện tại đã đưa ra ánh sáng những lợi ích vô lượng khác mà Đoàn thể cao quý của các chân sư ban tặng cho nhân loại. Cái ác, dã thú và trơ trẽn, đã tìm thấy sự thể hiện không kiềm chế trong suốt cuộc chiến hiện tại. Con người đã cho thấy và con người đã thấy những vực sâu mà con người có thể xuống dưới những ảnh hưởng gợi lên con vật đang ngủ và đánh thức một cách sinh động con quỷ tương đối ngủ yên bên trong y. |
These evils have long existed upon earth. On certain occasions, as in Atlantis, they are said to have found modes of expression even more dreadful and degenerate than those of today. Ceaselessly and with varying success demoniacal evil has tended to rise to the surface of human life. Ceaselessly the spiritual will in man, the Divine A tma, has opposed its arising. | Những điều ác này đã tồn tại từ lâu trên trái đất. Trong một số trường hợp nhất định, như ở Atlantis, chúng được cho là đã tìm thấy những phương thức biểu hiện thậm chí còn khủng khiếp và suy đồi hơn những phương thức ngày nay. Không ngừng nghỉ và với thành công khác nhau, cái ác quỷ quái có xu hướng trồi lên bề mặt cuộc sống con người. Không ngừng nghỉ, ý chí tinh thần trong con người, Atma Thiêng Liêng, đã phản đối sự trỗi dậy của nó. |
In this great conflict, this perpetual Armageddon, the Initiates and Adepts of the planet have ever fought against the primordial evil inherent as a possibility in matter and in man. Not for one moment or one hour have They, the Guardians of Humanity, rested from Their labours. Without intermission through innumerable ages, unthanked, unknown save by a few, They, from whom all evil has been extirpated and in whom all weakness has been overcome, have faced, fought and held at bay the evil forces and evil beings which sought the downfall and decay of the human race. Continuously through vast periods of time, They, the Self-perfected Ones, have evoked and quickened all that is highest in mankind. But for this ministration, but for this unbroken sacrificial service to the soul of man, far more sombre would have been the lives of all men. The periods of darkness, dark as they have been and are, would have been black as night, with no light to relieve the awful gloom. The periods of relative light would have been much less illumined and far shorter in duration, had it not been for Their Presence on earth, Their regular visitations to successive Races, and the steady and ever growing pressure upwards to the Light, which in every possible way the Members of the Inner Government of the world have not ceased to exert. | Trong cuộc xung đột vĩ đại này, Armageddon vĩnh viễn này, các điểm đạo đồ và chân sư của hành tinh đã luôn chiến đấu chống lại cái ác nguyên thủy vốn có như một khả năng trong vật chất và trong con người. Không một khoảnh khắc hay một giờ nào Các Ngài, những Người Bảo Vệ Nhân Loại, nghỉ ngơi khỏi công việc của Các Ngài. Không gián đoạn qua vô số kỷ nguyên, không được cảm ơn, không được biết đến ngoại trừ một số ít, Các Ngài, từ đó mọi điều ác đã bị tiêu diệt và trong đó mọi yếu đuối đã bị khắc phục, đã đối mặt, chiến đấu và ngăn chặn các thế lực xấu xa và những sinh vật xấu xa vốn tìm cách lật đổ và suy tàn của nhân loại. Liên tục trong những khoảng thời gian rộng lớn, Các Ngài, những Đấng Tự Hoàn Thiện, đã gợi lên và thúc đẩy tất cả những gì cao cả nhất trong nhân loại. Nhưng vì sự phụng sự này, nhưng vì sự phụng sự hiến tế không gián đoạn này cho linh hồn của con người, cuộc sống của tất cả mọi người sẽ còn ảm đạm hơn nhiều. Những giai đoạn tăm tối, tăm tối như chúng đã từng và đang là, sẽ đen như mực, không có ánh sáng nào xua tan bóng tối khủng khiếp. Những giai đoạn ánh sáng tương đối sẽ ít được chiếu sáng hơn nhiều và thời gian tồn tại ngắn hơn nhiều, nếu không có Sự Hiện Diện của Các Ngài trên trái đất, Các Ngài thường xuyên viếng thăm các Chủng Dân kế tiếp và áp lực ổn định và ngày càng tăng lên Ánh Sáng, mà theo mọi cách có thể, Các Thành Viên của Chính Phủ Nội Bộ của thế giới đã không ngừng nỗ lực. |
Under this inspiration, guidance and protection of its Elder Brethren, humanity has gradually developed during the past six and a half million years from primitive and almost senseless Lemurian giants, as partly represented by the statues on Easter Island, to its present state. Since the beginning of the Atlantean Race, through cycles of darkness and of light, no less than twelve sub-races have been evolved, twelve types of human beings, at least twelve major civilisations, and innumerable nations have by Their aid been developed on our earth. | Dưới sự cảm hứng, hướng dẫn và bảo vệ này của Các Huynh Trưởng, nhân loại đã dần dần phát triển trong sáu triệu rưỡi năm qua từ những người khổng lồ Lemuria nguyên thủy và gần như vô nghĩa, như được thể hiện một phần bởi các bức tượng trên Đảo Phục Sinh, đến trạng thái hiện tại của nó. Kể từ khi bắt đầu Chủng Dân Atlantis, qua các chu kỳ bóng tối và ánh sáng, không dưới mười hai giống dân phụ đã được tiến hóa, mười hai loại người, ít nhất mười hai nền văn minh lớn và vô số quốc gia đã được phát triển trên trái đất của chúng ta nhờ sự giúp đỡ của Các Ngài. |
Continents have sunk beneath the waters and are rising again, mighty mountain ranges have been upthrust towards the sky, vast seas have been drained dry and replaced by desert sands, thrice at least the ice-caps have advanced from the Poles towards the equator and receded, the axis of the earth has tilted, virile savage races have overrun more civilised nations and wiped out their effete populations; yet the ceaseless forward pressure of the spirit of man has continued to produce nations and individuals of higher and higher types. Demoniacally evil men have arisen as scourges of their contemporaries. Great sages, pure saints and fiery prophets by example and precept have brought the light of Truth and Beauty to the world, and behind this orderly progression has been the directing and inspiring influence of the Occult Hierarchy founded and directed upon earth by the great Venusian Adepts. Their presence and Their influence are with us now in this great day of scourging, purifying and nation building. As far as human blindness, selfishness and waywardness permit, They still direct the processes of human development including especially those of racial evolution. | Các lục địa đã chìm xuống dưới nước và đang trỗi dậy trở lại, những dãy núi hùng vĩ đã được đẩy lên bầu trời, những biển rộng lớn đã bị rút cạn và thay thế bằng cát sa mạc, ít nhất ba lần các chỏm băng đã tiến từ các Cực về phía đường xích đạo và rút đi, trục của trái đất đã nghiêng, các chủng dân man rợ cường tráng đã tràn qua các quốc gia văn minh hơn và xóa sổ dân số suy yếu của họ; tuy nhiên, áp lực tiến lên không ngừng của tinh thần con người vẫn tiếp tục tạo ra các quốc gia và cá nhân thuộc các loại hình ngày càng cao hơn. Những người đàn ông xấu xa quỷ quái đã trỗi dậy như những tai họa của những người đương thời với họ. Các nhà hiền triết vĩ đại, các vị thánh thuần khiết và các nhà tiên tri nhiệt thành bằng tấm gương và lời dạy đã mang ánh sáng của Chân Lý và Vẻ Đẹp đến thế giới, và đằng sau sự tiến triển có trật tự này là ảnh hưởng chỉ đạo và truyền cảm hứng của Thánh Đoàn Huyền Bí được thành lập và chỉ đạo trên trái đất bởi các chân sư Sao Kim vĩ đại. Sự hiện diện và ảnh hưởng của Các Ngài vẫn còn với chúng ta trong ngày trọng đại thanh tẩy, gột rửa và xây dựng quốc gia này. Trong chừng mực sự mù quáng, ích kỷ và ương bướng của con người cho phép, Các Ngài vẫn chỉ đạo các quá trình phát triển của con người, đặc biệt bao gồm cả những quá trình tiến hóa chủng tộc. |
Four Departments | Bốn Ban |
In recent years we have been permitted and privileged to know something of the work of the Inner Government of the world and how it is carried out. Students of Theosophy now know that Their activity is at least four-fold. One great department is concerned with the development of ethnological types through racial blendings and racial emigrations. These vast planetary operations, carried out unceasingly and with unbroken continuity for millions of years, are all directed by a great Official known as the Lord Manu. National building occurs under His direction and all nation builders serve under Him. | Trong những năm gần đây, chúng ta đã được phép và có đặc ân biết một điều gì đó về công việc của Chính Phủ Nội Bộ của thế giới và cách nó được thực hiện. Các đạo sinh Thông Thiên Học giờ đây biết rằng hoạt động của Các Ngài ít nhất là tứ phân. Một ban lớn liên quan đến sự phát triển của các loại hình dân tộc học thông qua sự pha trộn chủng tộc và di cư chủng tộc. Những hoạt động hành tinh rộng lớn này, được thực hiện không ngừng nghỉ và liên tục trong hàng triệu năm, đều được chỉ đạo bởi một Quan Chức vĩ đại được gọi là Đức Chúa Tể Manu. Việc xây dựng quốc gia diễn ra dưới sự chỉ đạo của Ngài và tất cả những người xây dựng quốc gia đều phụng sự dưới Ngài. |
The second department of Adept activity is concerned with the unfoldment of the life and consciousness with the gradually improving forms. This process is presided over and assisted by the great World Teachers, who, in close collaboration with the Racial Manus, both deliver to man age by age an aspect of Theosophy in the form of a great spiritual message and strike an ethical keynote for the guidance of the humanity of Their age. As a result world religions arise, each with its mystery or esoteric teachings for the guidance of the few. | Ban thứ hai trong hoạt động của chân sư liên quan đến sự khai mở sự sống và tâm thức với các hình tướng ngày càng được cải thiện. Quá trình này được chủ trì và hỗ trợ bởi các Huấn Sư Thế Giới vĩ đại, những Ngài, trong sự hợp tác chặt chẽ với các Manu Chủng Tộc, vừa truyền cho con người qua các thời đại một khía cạnh của Thông Thiên Học dưới hình thức một thông điệp tinh thần vĩ đại vừa đánh một nốt nhạc đạo đức để hướng dẫn nhân loại trong thời đại của Các Ngài. Kết quả là các tôn giáo thế giới trỗi dậy, mỗi tôn giáo đều có những giáo lý bí truyền hoặc huyền bí để hướng dẫn số ít. |
The third great Official in the Inner Government of the world is known by His title of Maha-Chohan (great Lord). Under Him all cultural, political and scientific progress is said to be directed and inspired. | Quan Chức vĩ đại thứ ba trong Chính Phủ Nội Bộ của thế giới được biết đến với tước hiệu Maha-Chohan (Đức Chúa Tể vĩ đại). Dưới Ngài, tất cả sự tiến bộ về văn hóa, chính trị và khoa học được cho là được chỉ đạo và truyền cảm hứng. |
Through and within the influence of the great Heads of these three departments in the Inner Government of the world and of Their Adept and Initiate collaborators, is the influence of the Feminine Aspect of the Deity. This mighty conserving, protective and awakening Power is said to have Its Representation on earth in and through a great Personage who is generally an Archangel Adept in feminine form. This wondrous Being is known as the World Mother, and, amongst many other activities, solar and planetary, She is said to preside over the processes of both national and individual gestation and birth. | Thông qua và bên trong ảnh hưởng của các vị đứng đầu vĩ đại của ba ban này trong Chính Phủ Nội Bộ của thế giới và các cộng sự chân sư và điểm đạo đồ của Các Ngài, là ảnh hưởng của Phương Diện Nữ Tính của Thượng Đế. Quyền Năng bảo tồn, bảo vệ và đánh thức mạnh mẽ này được cho là có Sự Đại Diện của Nó trên trái đất trong và thông qua một Nhân Vật vĩ đại, người thường là một Tổng Lãnh Thiên Thần chân sư trong hình tướng nữ tính. Đấng kỳ diệu này được biết đến với tên gọi Mẫu Thân Thế Giới, và, trong số nhiều hoạt động khác, thái dương và hành tinh, Bà được cho là chủ trì các quá trình thai nghén và sinh nở của quốc gia và cá nhân. |
Such are Those who constitute the second factor in the arrival and acceptance of Theosophy upon a planet, the great Revealers. Such are four of the modes of ministration included in the vast operations of the Inner Government of the world. Such, briefly, and very partially, is the organized assistance given to earth’s humanity by the Great White Brotherhood of Adepts. | Đó là Những Đấng cấu thành yếu tố thứ hai trong sự xuất hiện và chấp nhận Thông Thiên Học trên một hành tinh, những Vị Khai Thị vĩ đại. Đó là bốn trong số các phương thức phụng sự bao gồm trong các hoạt động rộng lớn của Chính Phủ Nội Bộ của thế giới. Đó, tóm tắt, và rất một phần, là sự hỗ trợ có tổ chức được Huynh đệ Đoàn Chánh đạo của các chân sư dành cho nhân loại trên trái đất. |
In the great creative and dynamic periods of planetary life such as is the present, when nation-building is the order of the day, like the fingers of one hand, these four great Officials and Their Adept Lieutenants direct Their power and Their inspiration upon all the members of the nation-to-be. | Trong những thời kỳ sáng tạo và năng động vĩ đại của sự sống hành tinh như hiện tại, khi việc xây dựng quốc gia là mệnh lệnh của thời đại, giống như những ngón tay của một bàn tay, bốn Quan Chức vĩ đại này và Các trung úy chân sư của Các Ngài hướng quyền năng và cảm hứng của Các Ngài lên tất cả các thành viên của quốc gia sắp hình thành. |
The Recipients | Những Người Tiếp Nhận |
This brings us to the third factor in the process of the illumination of the human mind with the light of Theosophy. This factor consists of the recipient who is man himself. As we have seen, one important and essential aspect of the ministration of the Adept is that of awakening the human mind to the Wisdom Religion. This gives us the key to the general significance in the world of The Theosophical Society and its members; for, despite our limitations, we Fellows of The Theosophical Society are offered the opportunity, the inexpressible privilege of collaboration with the Masters of Wisdom in these Their labours. | Điều này đưa chúng ta đến yếu tố thứ ba trong quá trình soi sáng thể trí con người bằng ánh sáng của Thông Thiên Học. Yếu tố này bao gồm người tiếp nhận vốn là chính con người. Như chúng ta đã thấy, một khía cạnh quan trọng và thiết yếu trong sự phụng sự của chân sư là đánh thức thể trí con người đối với Tôn Giáo Minh Triết. Điều này cho chúng ta chìa khóa để hiểu ý nghĩa chung trên thế giới của Hội Thông Thiên Học và các thành viên của nó; vì, bất chấp những hạn chế của chúng ta, chúng ta, các thành viên của Hội Thông Thiên Học, được trao cơ hội, đặc ân không thể diễn tả là hợp tác với các Chân sư Minh Triết trong những công việc của Các Ngài. |
If we study, by means of such historical information, physical and occult, as is available to us, the birth and rise of nations and civilisations, we perceive that, by the World Teacher in person, to each there has been delivered certain aspects of the Wisdom Religion. Although this teaching ultimately becomes crystallised into a set of dogmas and tends to degenerate into priestcraft and superstition, nevertheless, at the heart of every successive World Faith, there is to be found the true Theosophia delivered to the civilisation by the World Teacher and His inspired successors. | Nếu chúng ta nghiên cứu, bằng các thông tin lịch sử, vật lý và huyền bí có sẵn cho chúng ta, sự ra đời và trỗi dậy của các quốc gia và nền văn minh, chúng ta nhận thấy rằng, bởi chính Huấn Sư Thế Giới, cho mỗi quốc gia và nền văn minh đã có những khía cạnh nhất định của Tôn Giáo Minh Triết được truyền lại. Mặc dù giáo lý này cuối cùng trở nên kết tinh thành một tập hợp các giáo điều và có xu hướng thoái hóa thành thuật tu sĩ và mê tín dị đoan, tuy nhiên, ở trung tâm của mọi Tín Ngưỡng Thế Giới kế tiếp, có thể tìm thấy Thông Thiên Học chân chính được Huấn Sư Thế Giới và những người kế vị đầy cảm hứng của Ngài truyền lại cho nền văn minh. |
Thus it is clearly part of the Plan that humanity in both its racial and its individual evolution, and especially in its work of nation building, should unfailingly have placed at its disposal the light of the Ancient Wisdom. | Do đó, rõ ràng đó là một phần của Thiên Cơ rằng nhân loại trong cả sự tiến hóa chủng tộc và cá nhân của nó, và đặc biệt là trong công việc xây dựng quốc gia của nó, chắc chắn nên có sẵn ánh sáng của Minh Triết Cổ Đại. |
(A Convention Lecture, delivered in New Zealand.) | (Một Bài Giảng Hội Nghị, được trình bày ở New Zealand.) |
The Theosophist, Vol. 65, November 1943, p. 89 | Nhà Thông Thiên Học, Tập. 65, tháng 11 năm 1943, tr. 89 |
61
Studies in Occultism. [5]—Nghiên Cứu về Huyền Bí Học. [5]
SOME THOUGHTS ON ADEPTS FROM VENUS | MỘT SỐ SUY NGHĨ VỀ CÁC CHÂN SƯ TỪ SAO KIM |
The degree of diligence and zeal with which the hidden meaning is sought by the student, is generally the test—how far he is entitled to the possession of the so buried treasure’.—K.H. [Mahatma Kuthumi, see The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, Theosophical Publishing House, Adyar, India] | Mức độ siêng năng và nhiệt thành mà người đạo sinh tìm kiếm ý nghĩa ẩn giấu, thường là bài kiểm tra—y được quyền sở hữu kho báu được chôn giấu đó đến mức nào’.—Chân sư KH [Mahatma Kuthumi, xem The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, Theosophical Publishing House, Adyar, India] |
Theosophical literature teaches that before the humanity of this earth had produced its own Adepts, a number of such highly evolved Beings came to earth from the planet Venus, which is more advanced than our own. At least four of these great Adepts have stayed on the earth, as also have some of the human Beings who accompanied them. When the Earth humanity began to produce its own Initiates and Adepts, as it did in the Fourth Root Race, the work performed by the August Visitors was handed over to them. Some of those Beings from another planet then gradually withdrew, possibly to undertake similar work on other planets. So we learn that from that first group of Adepts Who came here from Venus over six million years ago, there has gradually developed the present Occult Hierarchy of Adepts and Initiates Who constitute the Inner or Spiritual Government of the World. | Văn học Thông Thiên Học dạy rằng trước khi nhân loại trên trái đất này tạo ra các chân sư của riêng mình, một số Đấng tiến hóa cao độ như vậy đã đến trái đất từ hành tinh Sao Kim, vốn tiến bộ hơn hành tinh của chúng ta. Ít nhất bốn trong số các chân sư vĩ đại này đã ở lại trên trái đất, cũng như một số người vốn đi cùng Các Ngài. Khi nhân loại Trái Đất bắt đầu tạo ra các điểm đạo đồ và chân sư của riêng mình, như đã làm trong Chủng Dân Gốc Thứ Tư, công việc do Các Vị Khách Cao Quý thực hiện đã được giao cho họ. Một số Đấng từ một hành tinh khác sau đó dần dần rút lui, có thể để thực hiện công việc tương tự trên các hành tinh khác. Vì vậy, chúng ta biết rằng từ nhóm chân sư đầu tiên đến đây từ Sao Kim cách đây hơn sáu triệu năm, Thánh Đoàn Huyền Bí hiện tại gồm các chân sư và điểm đạo đồ, những Đấng cấu thành Chính Phủ Nội Bộ hay Tinh Thần của Thế Giới, đã dần dần phát triển. |
So far as Their physical bodies are concerned, as I have just said, the Adepts of our Earth live in retreat either in the fastnesses of mountain chains or with Their residences protected from a humanity which, through lack of understanding, might render more difficult Their ministrations to mankind. Their consciousness is completely free of Their physical bodies, which They can leave and re-enter at will. It does not matter, therefore, where the body is, for the Adept Who uses it can be aware, active and, if desirable, physically visible at any place on the planet as becomes necessary for the fulfilment of His task. | Về thể xác của Các Ngài, như tôi vừa nói, các chân sư của Trái Đất chúng ta sống ẩn dật hoặc trong những vùng núi hiểm trở hoặc với nơi ở của Các Ngài được bảo vệ khỏi một nhân loại, do thiếu hiểu biết, có thể gây khó khăn hơn cho sự phụng sự của Các Ngài đối với nhân loại. Tâm thức của Các Ngài hoàn toàn thoát khỏi thể xác của Các Ngài, mà Các Ngài có thể rời đi và tái nhập theo ý muốn. Do đó, không thành vấn đề thể xác ở đâu, vì chân sư sử dụng nó có thể nhận thức được, hoạt động và, nếu muốn, có thể nhìn thấy được về mặt thể chất ở bất kỳ nơi nào trên hành tinh khi cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ của Ngài. |
In Space Ships or Spirit? | Trong Phi Thuyền hay Tinh Thần? |
‘Did they come to the Earth from home, the planet Venus, in spirit only or physical space ships?’, is a question that is often asked. They are said to have come in Their superphysical bodies and the greatest of Them formed perfect physical bodies using Their power of will and thought, whilst others took incarnation amongst the humanity, of that time, which greatly helped the evolution of the Race. I am aware this must sound strange to those for whom it is new, but please remember that Theosophical teaching is only offered to us for consideration, as food for thought. | “Các Ngài đến Trái Đất từ quê hương, hành tinh Sao Kim, chỉ bằng tinh thần hay bằng tàu vũ trụ vật lý?”, là một câu hỏi thường được đặt ra. Người ta nói rằng Các Ngài đã đến trong các thể siêu vật lý của Các Ngài và Đấng vĩ đại nhất trong Các Ngài đã tạo ra các thể xác hoàn hảo bằng cách sử dụng quyền năng ý chí và tư tưởng của Các Ngài, trong khi những người khác nhập thể vào nhân loại, vào thời điểm đó, vốn đã giúp ích rất nhiều cho sự tiến hóa của Nhân Loại. Tôi biết điều này nghe có vẻ lạ đối với những người mới biết đến nó, nhưng xin hãy nhớ rằng giáo lý Thông Thiên Học chỉ được cung cấp cho chúng ta để xem xét, như là thức ăn cho tư tưởng. |
The very highest of the Venusian Adepts Who were able to create bodies by the action of Their will and Their thought, YOGA, in fact, are, in consequence sometimes referred to in occult books, notably The Secret Doctrine, by H. P. Blavatsky, as ‘The Sons of Will and Yoga’. Their bodies never change, are not subject to birth and death, always retaining Their original youthful appearance. Such hidden powers of the mind, and the capacity of the mind to influence physical matter, are now being investigated. Some scientists are examining extra-sensory perception—chiefly telepathy, clairvoyance and clairaudience—while others are studying what is called telekinesis, or the power of the mind to influence physical matter. One of tests which has given evidence of the existence of this power in man concerned the capacity to influence the fall of dice by concentrated thought. | Những Chân sư Sao Kim cao cấp nhất vốn có thể tạo ra các thể bằng hành động của ý chí và tư tưởng của Các Ngài, YOGA, trên thực tế, do đó đôi khi được nhắc đến trong các cuốn sách huyền bí, đặc biệt là Giáo Lý Bí Nhiệm, của Bà H. P. Blavatsky, là “Những Người Con của Ý Chí và Yoga”. Các thể của Các Ngài không bao giờ thay đổi, không phải chịu sự sinh và tử, luôn giữ được vẻ ngoài trẻ trung ban đầu của Các Ngài. Những quyền năng ẩn giấu của thể trí, và khả năng của thể trí ảnh hưởng đến vật chất vật lý, hiện đang được nghiên cứu. Một số nhà khoa học đang kiểm tra nhận thức ngoại cảm—chủ yếu là viễn cảm, thông nhãn và thông nhĩ—trong khi những người khác đang nghiên cứu cái được gọi là dịch chuyển đồ vật, hay quyền năng của thể trí ảnh hưởng đến vật chất vật lý. Một trong những thử nghiệm đã đưa ra bằng chứng về sự tồn tại của quyền năng này ở con người liên quan đến khả năng ảnh hưởng đến sự rơi của xúc xắc bằng tư tưởng tập trung. |
Telekinesis | Dịch chuyển đồ vật |
A power can and will be developed by later Races which will enable man to move and shape primeval matter by the action of his thought alone. Even today, some people can make suspended needles swing by the power of their thought, and there is mention of such powers in the great Scriptures of the world. Elisha, for example, made an axe-head float. Christ walked on the water and stilled a storm by the sheer power of His conjoined will and thought and voice. Thus, it is not altogether incredible that the extremely highly evolved Beings of Whom we have been thinking could materialize bodies by the power of Will-Thought, or kriyashakti, as it is called in Sanskrit by Hindu occultists. | Một quyền năng có thể và sẽ được phát triển bởi các Nhân Loại sau này, vốn sẽ cho phép con người di chuyển và định hình vật chất nguyên thủy chỉ bằng hành động của tư tưởng của y. Ngay cả ngày nay, một số người có thể làm cho kim treo lơ lửng đung đưa bằng quyền năng tư tưởng của họ, và có đề cập đến những quyền năng như vậy trong các Kinh điển vĩ đại của thế giới. Ví dụ, Elisha đã làm cho một lưỡi rìu nổi lên. Đức Christ đã đi trên mặt nước và dẹp yên một cơn bão bằng chính quyền năng ý chí, tư tưởng và giọng nói kết hợp của Ngài. Vì vậy, không phải là hoàn toàn khó tin rằng Các Đấng tiến hóa cực kỳ cao vốn mà chúng ta đã nghĩ đến có thể vật chất hóa các thể bằng quyền năng Ý Chí-Tư Tưởng, hay kriyashakti, như nó được gọi trong tiếng Phạn bởi các nhà huyền bí học Hindu. |
They came, as I have been saying, from the planet Venus, whose Planetary Scheme is almost one and a half Chains in advance of the one to which we belong, namely, the Earth Planetary Scheme. The average humanity of Venus must therefore be presumed to be at least at the level of our Initiates, and the more advanced at the level of Earth’s Adepts. To those who wish to study this subject in detail, I would recommend the books, Man: Whence, How and Whither by Dr [Annie] Besant and C. W. Leadbeater, and The Solar System by A. E. Powell. There you will find much information about evolution on other planets, the arrival on Earth many ages ago of the Lords of the Flame from Venus and the different Races of men on this, our Globe. | Các Ngài đến, như tôi đã nói, từ hành tinh Sao Kim, vốn có Hệ Hành Tinh gần như trước Dãy mà chúng ta thuộc về một Dãy rưỡi, cụ thể là Hệ Hành Tinh Trái Đất. Do đó, nhân loại trung bình của Sao Kim phải được cho là ít nhất ở cấp độ Điểm Đạo Đồ của chúng ta, và những người tiến bộ hơn ở cấp độ Chân sư của Trái Đất. Đối với những người muốn nghiên cứu chủ đề này một cách chi tiết, tôi xin giới thiệu những cuốn sách, Con Người: Từ Đâu, Như Thế Nào và Đi Về Đâu của Tiến sĩ [Annie] Besant và C. W. Leadbeater, và Hệ Mặt Trời của A. E. Powell. Ở đó, bạn sẽ tìm thấy nhiều thông tin về sự tiến hóa trên các hành tinh khác, sự xuất hiện trên Trái Đất từ nhiều thời đại trước của các Đấng Chúa Tể Ngọn Lửa từ Sao Kim và các Nhân Loại khác nhau trên Địa Cầu của chúng ta. |
Ourselves in Former Lives | Bản Thân Chúng Ta Trong Các Kiếp Sống Trước |
When considering racial evolution upon Earth it should be remembered that the same spiritual individuals, the same human Egos, incarnate in successive Races. The Atlanteans, Egyptians and other ancient peoples were none other than ourselves in our former lives. Similarly, the Sixth sub-Race of our Aryan, Fifth Root Race and the Sixth and Seventh Root Races will only be new reincarnations of the same family of Egos, ourselves, for whom this Earth has been appointed as the evolutionary field. | Khi xem xét sự tiến hóa của nhân loại trên Trái Đất, cần nhớ rằng những cá nhân tinh thần giống nhau, những Chân Ngã nhân loại giống nhau, nhập thể trong các Nhân Loại kế tiếp. Người Atlantis, người Ai Cập và các dân tộc cổ đại khác không ai khác chính là chúng ta trong các kiếp sống trước đây của mình. Tương tự, Tiểu Nhân Loại thứ sáu của Arya, Ngũ Căn Nhân Loại của chúng ta và Lục và Thất Căn Nhân Loại sẽ chỉ là những tái sinh mới của cùng một gia đình Chân Ngã, chính chúng ta, vốn mà Trái Đất này đã được chỉ định là lĩnh vực tiến hóa. |
The Passage of Life from Planet to Planet | Sự Vận Chuyển Sự Sống từ Hành Tinh này sang Hành Tinh khác |
Students may encounter some difficulty in understanding how the Monads and the Monad-life bearing wave are transferred from one planet in a Round and Chain to its successor. Theosophy teaches that the life on each planet is in charge of a very mighty Intelligence, an Adept Member of the Solar Hierarchy of both Superhuman and Archangelic and Angelic Officers and servants of the Supreme Will and Law. The life of a single Round, during which the Life wave travels round the seven globes of a Planetary Chain, is in charge of a very great Being called a Round Manu. He holds the Round within His consciousness and through His subordinates, directs the whole process of involution and evolution that occurs in His Round. It is He, this very high Official, Who absorbs into His aura all the seeds of Life and all the Monad-Egos of men at the end of a World Period, and conveys them through the superphysical worlds to the next Globe, Round or Chain at the end of an epoch. | Các đạo sinh có thể gặp một số khó khăn trong việc hiểu làm thế nào các Chân Thần và làn sóng mang sự sống Chân Thần được chuyển từ hành tinh này trong một Vòng và Dãy sang hành tinh kế tiếp của nó. Thông Thiên Học dạy rằng sự sống trên mỗi hành tinh được phụ trách bởi một Trí Tuệ rất hùng mạnh, một Thành Viên Chân sư của Huyền Giai Thái Dương gồm cả các Sĩ quan và người hầu Siêu Nhân, Tổng Lãnh Thiên Thần và Thiên Thần của Ý Chí và Định Luật Tối Cao. Sự sống của một Vòng duy nhất, trong đó làn sóng Sự Sống đi vòng quanh bảy bầu hành tinh của một Dãy Hành Tinh, được phụ trách bởi một Đấng rất vĩ đại được gọi là Manu của Vòng. Ngài giữ Vòng trong tâm thức của Ngài và thông qua các cấp dưới của Ngài, chỉ đạo toàn bộ quá trình giáng hạ tiến hóa xảy ra trong Vòng của Ngài. Chính Ngài, Vị Quan Chức rất cao này, vốn hấp thụ vào hào quang của Ngài tất cả các hạt giống của Sự Sống và tất cả các Chân Ngã-Ego của con người vào cuối một Thời Kỳ Thế Giới, và chuyển chúng qua các cõi siêu vật lý đến Bầu Hành Tinh, Vòng hoặc Dãy tiếp theo vào cuối một kỷ nguyên. |
The Solar Logos | Thái dương Thượng đế |
All these great processes are under the direction of high Officials, and the Solar Logos is in charge of the evolution of Life and form throughout the whole Solar System. One of the Seven Mighty Spirits before the Throne, also referred to as the Archangels of the Face, is in charge of one of the seven Planetary Schemes. Within each Scheme, Lords of Chains and Rounds preserve and transfer Life and Consciousness from one Chain, Round or Globe to its successor. | Tất cả các quá trình vĩ đại này đều nằm dưới sự chỉ đạo của các Quan Chức cấp cao, và Thái dương Thượng đế phụ trách sự tiến hóa của Sự Sống và hình tướng trong toàn bộ Hệ Mặt Trời. Một trong Bảy Thánh Linh Hùng Mạnh trước Thánh Ngai, còn được gọi là Tổng Lãnh Thiên Thần của Diện Mạo, phụ trách một trong bảy Hệ Hành Tinh. Bên trong mỗi Hệ, các Đấng Chúa Tể của các Dãy và các Vòng bảo tồn và chuyển Sự Sống và Tâm thức từ Dãy, Vòng hoặc Bầu Hành Tinh này sang Dãy, Vòng hoặc Bầu Hành Tinh kế tiếp của nó. |
Noah and His Ark | Noah và Con Tàu của Ông |
This is hinted at in the Bible, if under an allegorical veil. In one meaning, Noah and his Ark is a symbol or glyph of a great Being Who, at the end of a period—onset of the Flood—receives into His aura—His ‘ark’—the seeds of Life and living beings. There He preserves them during a period of quiescence—the Flood—and then transfers them to the next and higher system of manifestation—Mount Ararat, the dry land after the flood had receded and the post-diluvian epoch. | Điều này được gợi ý trong Kinh Thánh, nếu dưới một bức màn ngụ ngôn. Theo một nghĩa nào đó, Noah và Con Tàu của ông là một biểu tượng hoặc ký hiệu của một Đấng vĩ đại vốn, vào cuối một thời kỳ—sự khởi đầu của Trận Lụt—tiếp nhận vào hào quang của Ngài—’con tàu’ của Ngài—các hạt giống của Sự Sống và các sinh vật sống. Ở đó, Ngài bảo tồn chúng trong một thời kỳ tĩnh lặng—Trận Lụt—và sau đó chuyển chúng sang hệ biểu hiện tiếp theo và cao hơn—Núi Ararat, vùng đất khô cằn sau khi trận lụt đã rút đi và kỷ nguyên sau trận lụt. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 17, No. 1 & 2, 1956, p. 10 | Thông Thiên Học ở New Zealand, Tập. 17, Số 1 & 2, 1956, tr. 10 |
62
The Logos Doctrine and the Creative Hierarchies[2]—Giáo Lý Thượng Đế và Huyền Giai Sáng Tạo
A three-fold objective is before us. We shall first study some Theosophical ideas concerning the formative Agency whether called Brahma, the Great Breath, the Logos or Word, or the spirit of God which first broods upon the face of the deep and then moves upon the face of the waters. The emanation and formation of a universe and the functions of the Creative Intelligences in Nature will then be considered. I shall use the word Logos in both a cosmic sense to denote an active, formative Principle and Power, more locally as the Spiritual Presence and Power behind the sun, the Solar Logos, and also as the core of man’s nature, the God within him, the Logos of the Soul. The title, Logos, or Word, implies the emanation and formation of the universe by an energy of the order or quality of sound, a soniferous creative force; for one translation of Logos from the Greek is Word, referring to the process by which the universe is fashioned through the agency of the Voice or Word of a Creative Deity. This procedure is not conceived as being either external or enforced. Rather is it an emergence from within a creative centre by a natural process like that of the germination and development of a seed or an egg, an expansion from within outwards, an unfoldment or growth of that which is inherent in the very nature of things. | Một mục tiêu tam phân đang ở trước mắt chúng ta. Trước tiên, chúng ta sẽ nghiên cứu một số ý tưởng Thông Thiên Học liên quan đến Cơ Quan hình thành, dù được gọi là Brahma, Đại Khí, Thượng đế hay Linh Từ, hay tinh thần của Thượng đế vốn đầu tiên ấp ủ trên mặt vực thẳm và sau đó di chuyển trên mặt nước. Sự xuất lộ và hình thành của một vũ trụ và các chức năng của các Trí Tuệ Sáng Tạo trong Tự Nhiên sau đó sẽ được xem xét. Tôi sẽ sử dụng từ Thượng đế theo cả nghĩa vũ trụ để biểu thị một Nguyên Khí và Quyền Năng hình thành, năng động, cục bộ hơn là Sự Hiện Diện và Quyền Năng Tinh Thần đằng sau mặt trời, Thái dương Thượng đế, và cả là cốt lõi bản chất của con người, Thượng đế bên trong y, Thượng đế của Linh Hồn. Danh hiệu, Thượng đế, hay Linh Từ, ngụ ý sự xuất lộ và hình thành của vũ trụ bởi một năng lượng thuộc trật tự hoặc phẩm chất của âm thanh, một mãnh lực sáng tạo âm thanh; vì một bản dịch của Thượng đế từ tiếng Hy Lạp là Linh Từ, đề cập đến quá trình vũ trụ được tạo ra thông qua cơ quan của Tiếng Nói hoặc Linh Từ của một Thượng đế Sáng Tạo. Thủ tục này không được hình dung là bên ngoài hoặc bị ép buộc. Đúng hơn, đó là một sự nổi lên từ bên trong một trung tâm sáng tạo bằng một quá trình tự nhiên như quá trình nảy mầm và phát triển của một hạt giống hoặc một quả trứng, một sự mở rộng từ bên trong ra bên ngoài, một sự mở ra hoặc phát triển của những gì vốn có trong chính bản chất của sự vật. |
Creative is really a misnomer, the word emanation being more acceptable to describe the process of the emergence, unfoldment and perfecting from within of universes and all they contain, an emergence from a cosmic seed, germ, metaphorically, from the egg of Brahma. The Hierarchies of Intelligences associated with this process are the Devarajas and the Devas, the Archangels and the angelic hosts, the armies of the Logos. They are the Sephiras of Hebraism, the Prajapatis of Hinduism, the Gods of Egypt, Greece and Rome, and the Mighty Spirits before the Throne of Christianity. | Sáng tạo thực sự là một tên gọi sai lầm, từ xuất lộ được chấp nhận hơn để mô tả quá trình nổi lên, mở ra và hoàn thiện từ bên trong của các vũ trụ và tất cả những gì chúng chứa đựng, một sự nổi lên từ một hạt giống vũ trụ, mầm, một cách ẩn dụ, từ quả trứng của Brahma. Các Huyền Giai Trí Tuệ liên kết với quá trình này là Devaraja và Deva, Tổng Lãnh Thiên Thần và các đạo quân thiên thần, các đạo quân của Thượng đế. Các Ngài là Sephira của Do Thái giáo, Prajapati của Ấn Độ giáo, Các Vị Thần của Ai Cập, Hy Lạp và La Mã, và Các Thánh Linh Hùng Mạnh trước Thánh Ngai của Cơ đốc giáo. |
The Scriptures of the world contain cosmogonies, heavily veiled beneath allegory and symbol, which suggest that sound was the formative power. In the Book of Genesis (1:1-5), we read: | Các Kinh điển của thế giới chứa đựng các vũ trụ luận, được che đậy kỹ lưỡng bên dưới hình tượng và biểu tượng, vốn gợi ý rằng âm thanh là quyền năng hình thành. Trong Sách Sáng Thế Ký (1:1-5), chúng ta đọc: |
In the beginning God created the heaven and the earth. And the earth was without form, and void; and darkness was upon the face of the deep. And the Spirit of God moved upon the face of the waters. And God said, Let there be light: and there was light. And God saw the light, that it was good; and God divided the light from the darkness. And God called the light Day, and the darkness he called Night. And the evening and the morning were the first day. | Ban đầu, Thượng đế tạo ra trời và đất. Và trái đất không có hình dạng và trống rỗng; và bóng tối bao trùm vực thẳm. Và Thần của Thượng đế di chuyển trên mặt nước. Và Thượng đế phán, Hãy có ánh sáng: và có ánh sáng. Và Thượng đế thấy ánh sáng, thấy nó tốt; và Thượng đế phân chia ánh sáng khỏi bóng tối. Và Thượng đế gọi ánh sáng là Ngày, và bóng tối Ngài gọi là Đêm. Và buổi tối và buổi sáng là ngày đầu tiên. |
This description implies that at the dawn of a near Manvantara, there first emanates from the Absolute a duality in Unity, the Spirit of God, the Word which was God, the masculine creative potency, the Great Breath, Purusha, and the face of the deep, the feminine creative potency, the Great Deep, pre-cosmic matter, the vast ocean of virgin space, the Great Abyss, Prakriti. Before this emergence, darkness brooded upon the face of the deep. Then the Spirit of God moves upon the face of the waters; the laws of number, alternation and cycles come into operation, and the processes of the emanation and formation of a universe are again initiated. | Mô tả này ngụ ý rằng vào buổi bình minh của một Giai kỳ sinh hóa gần kề, trước tiên xuất phát từ Tuyệt Đối một tính nhị nguyên trong Thống Nhất, Thần của Thượng đế, Linh Từ vốn là Thượng đế, tiềm năng sáng tạo nam tính, Đại Khí, Purusha, và mặt vực thẳm, tiềm năng sáng tạo nữ tính, Đại Vực Thẳm, vật chất tiền vũ trụ, đại dương bao la của không gian trinh nguyên, Đại Vực Thẳm, Prakriti. Trước sự xuất hiện này, bóng tối bao trùm mặt vực thẳm. Sau đó, Thần của Thượng đế di chuyển trên mặt nước; các định luật về số, luân phiên và chu kỳ đi vào hoạt động, và các quá trình xuất lộ và hình thành của một vũ trụ lại được khởi xướng. |
In the New Testament, St John also indicates the soniferous nature of that Power which ushers in the new day, writing in his first chapter: | Trong Tân Ước, Thánh John cũng chỉ ra bản chất âm thanh của Quyền Năng vốn báo hiệu ngày mới, viết trong chương đầu tiên của mình: |
In the beginning was the Word, and the Word was with | Ban đầu có Linh Từ, và Linh Từ ở cùng |
God, and the Word was God. The same was in the beginning with God. All things were made by Him; and without him was not anything made that was made. In Him was life and the life was the light of men. And the light shineth in darkness. | Thượng đế, và Linh Từ là Thượng đế. Điều tương tự cũng có từ ban đầu với Thượng đế. Mọi thứ đều do Ngài tạo ra; và không có Ngài thì không có gì được tạo ra. Trong Ngài có sự sống và sự sống là ánh sáng của con người. Và ánh sáng chiếu trong bóng tối. |
Theosophical cosmogony unveils the symbolism, stating that behind and beyond and within all existence is that Eternal, and Infinite Parent from which the temporary and the finite are born. This is Boundless Self-existence, ever unknowable and unknown, This is the Absolute. It is the changeless, Infinite, Eternal All, the self-existent Causeless Cause, the Rootless Root, the Unmanifest. This is an impersonal Unity, with no attributes conceivable by man. In Kabbalism it is referred to as negative existence, Ain or Nothing. During Maha-Pralaya, Ain is all, yet nothing. It is darkness, boundless night in relation to finite consciousness. Periodically, Creative Energy imbued with Divine Thought, Adam Kadmon of the Kabbalists, is emanated from the Absolute to become the active, formative, Deific Principle of the universe-to-be. Thus, out of the Infinite, if such an expression may be permitted, a finite formative Power, however vast, and lofty, emerges as the Cosmic Creative Logos. This is the ‘only Begotten Son’ of Christianity, who is really the ‘alone Begotten’ and is described as being of ‘one substance with the Father’, which is the absolute uncreated All. This first Emanation in its objective aspect, is called the Cosmic Christos and Christians are taught that by Him are all things made; ‘yea, all things both in heaven and earth; with Him as the indwelling Life, do all things exist and in Him as the transcendent Glory all beings live and move and have their being’. Such is the active, manifested Creative Deity, the Logos or Word of St John. This is the emanated Architect, Sustainer and Transformer of the universe which is about to be ‘born’. | Vũ trụ luận Thông Thiên Học tiết lộ biểu tượng, nói rằng đằng sau và vượt ra ngoài và bên trong tất cả sự tồn tại là Đấng Cha Mẹ Vĩnh Cửu và Vô Hạn đó, từ đó sinh ra những điều tạm thời và hữu hạn. Đây là Sự Tự Tồn Vô Biên, mãi mãi không thể biết và không ai biết, Đây là Tuyệt Đối. Đó là Tất Cả Vĩnh Cửu, Vô Hạn, Bất Biến, Nguyên Nhân Vô Nhân Tự Hữu, Cội Rễ Không Rễ, Vô Biểu Hiện. Đây là một Thống Nhất vô ngã, không có thuộc tính nào có thể hình dung được bởi con người. Trong Kabbalah, nó được gọi là sự tồn tại tiêu cực, Ain hay Hư Vô. Trong Đại Giai kỳ qui nguyên, Ain là tất cả, nhưng không là gì cả. Đó là bóng tối, đêm vô biên liên quan đến tâm thức hữu hạn. Định kỳ, Năng Lượng Sáng Tạo thấm nhuần Tư Tưởng Thiêng Liêng, Adam Kadmon của các nhà Kabbalah, được xuất lộ từ Tuyệt Đối để trở thành Nguyên Khí Deific, hình thành, năng động của vũ trụ sắp tới. Như vậy, từ Vô Hạn, nếu có thể cho phép một biểu thức như vậy, một Quyền Năng hình thành hữu hạn, dù rộng lớn và cao cả đến đâu, nổi lên như Thượng đế Sáng Tạo Vũ Trụ. Đây là ‘Con Trai Một’ của Cơ đốc giáo, vốn thực sự là ‘Đấng Duy Nhất Được Sinh Ra’ và được mô tả là ‘cùng bản chất với Cha’, vốn là Tất Cả tuyệt đối không được tạo ra. Sự Xuất Lộ đầu tiên này trong khía cạnh khách quan của nó, được gọi là Đức Christ Vũ Trụ và các Kitô hữu được dạy rằng nhờ Ngài mà mọi thứ được tạo ra; ‘phải, mọi thứ cả trên trời và dưới đất; với Ngài là Sự Sống nội tại, mọi thứ tồn tại và trong Ngài là Vinh Quang siêu việt, mọi sinh vật sống, vận động và tồn tại’. Đó là Thượng đế Sáng Tạo năng động, biểu hiện, Thượng đế hay Linh Từ của Thánh John. Đây là Kiến Trúc Sư, Đấng Duy Trì và Biến Đổi được xuất lộ của vũ trụ sắp ‘sinh ra’. |
The Secret Doctrine affirms the eternity of the universe in toto as a boundless plane, periodically the playground of numberless universes incessantly manifested and disappearing called the manifesting stars and the sparks of Eternity. This appearance and disappearance of worlds is like a regular tidal flow. The law of periodicity, of flux and reflux, ebb and flow, which physical science has observed and recorded in all departments of Nature is universal. An alternation such as that of Day and Night, Life and Death, Sleeping and Waking, is a fact so perfectly universal and without exception that it is easy to comprehend that in it we see one of the absolutely fundamental laws of the universe. This alternation is stated to be eternal, without conceivable beginning and without imaginable end. | Giáo Lý Bí Nhiệm khẳng định tính vĩnh cửu của vũ trụ trong tổng thể như một mặt phẳng vô biên, định kỳ là sân chơi của vô số vũ trụ liên tục biểu hiện và biến mất được gọi là các ngôi sao biểu hiện và tia lửa của Vĩnh Hằng. Sự xuất hiện và biến mất của các thế giới này giống như một dòng chảy thủy triều đều đặn. Định luật về tính tuần hoàn, về dòng chảy và dòng chảy ngược, thủy triều lên và xuống, vốn mà khoa học vật lý đã quan sát và ghi lại trong tất cả các lĩnh vực của Tự Nhiên là phổ quát. Một sự luân phiên như Ngày và Đêm, Sự Sống và Cái Chết, Ngủ và Thức, là một thực tế hoàn toàn phổ quát và không có ngoại lệ đến mức dễ dàng hiểu được rằng trong đó chúng ta thấy một trong những định luật hoàn toàn cơ bản của vũ trụ. Sự luân phiên này được tuyên bố là vĩnh cửu, không có khởi đầu có thể hình dung được và không có kết thúc có thể tưởng tượng được. |
The Logos Doctrine appears in the Scriptures of many World Faiths. | Giáo Lý Thượng Đế xuất hiện trong Kinh điển của nhiều Tín Ngưỡng Thế Giới. |
By the word of the Lord were the heavens made; and all the host of them by the breath of his mouth (Psalms, 33:6). | Bởi linh từ của Đức Chúa mà các tầng trời được tạo ra; và tất cả đạo quân của chúng bởi hơi thở từ miệng Ngài (Thánh Vịnh, 33:6). |
I am the great God Nu, who gave birth unto himself, and who made his name to become the company of the Gods (Book of the Dead, Budge, Ch. XVII). | Ta là vị Thần vĩ đại Nu, vốn đã sinh ra chính mình, và vốn đã làm cho tên mình trở thành công ty của Các Vị Thần (Sách của Người Chết, Budge, Ch. XVII). |
Thoth, (as) the divine intelligence which at the Creation uttered the words which resulted in the formation of the world. He was self-produced and was Lord of earth, air, sea and sky (Book of the Dead). | Thoth, (như) trí thông minh thiêng liêng vốn mà trong Sự Sáng Tạo đã thốt ra những lời vốn dẫn đến sự hình thành thế giới. Ngài tự tạo ra và là Chúa Tể của đất, khí, biển và trời (Sách của Người Chết). |
I-AM is the Hidden One of the mouth; it is the silence of his mouth whose uttered word is mystery, even the mouth of the Ruler of the Aeon, which grasps the eternity of ‘being in Peace’ (Book of the Dead). | I-AM là Đấng Ẩn Dấu của miệng; đó là sự im lặng của miệng Ngài, linh từ thốt ra của Ngài là bí ẩn, ngay cả miệng của Đấng Cai Trị Aeon, vốn nắm bắt sự vĩnh hằng của ‘tồn tại trong Bình An’ (Sách của Người Chết). |
In Hinduism, Devaki sees the whole universe in the mouth of the child Sri Krishna. The Creative Power or Voice is personified as a woman named Vach, meaning speech or the sound of the voice. She is the female Logos, being one with Brahma, who created her out of one-half of His body. She is the female Creator and associated with Brahma in the work of creation. This is an allegory of the union of power, Brahma, and intelligence, Vach, to operate the work of creation by sound. Vach is really the intelligent Creative force which, emanating from the Creative Deity, becomes manifested as the metaphysical Word or Logos. Thus the Great Breath sets up vibrations in primordial substance which becomes soniferous or capable of emitting audible energies. These form shapes according to the divine thought which is expressed by the motif and variations of the great Symphony of Creation. The emitted, creative agency is the outbreathed Breath of the Logos and is of the order of sound. It is the creative power of Vach, the active, manifested Logos or Word. It is God at Work and behind God at Work is God the conceiving Power. | Trong Ấn Độ giáo, Devaki nhìn thấy toàn bộ vũ trụ trong miệng đứa trẻ Sri Krishna. Quyền năng Sáng tạo hay Linh từ được nhân cách hóa như một người phụ nữ tên là Vach, có nghĩa là lời nói hoặc âm thanh của giọng nói. Bà là Logos nữ, là một với Brahma, Đấng đã tạo ra Bà từ một nửa cơ thể của Ngài. Bà là Đấng Sáng Tạo nữ và gắn liền với Brahma trong công việc sáng tạo. Đây là một ẩn dụ về sự hợp nhất của quyền năng, Brahma, và trí tuệ, Vach, để vận hành công việc sáng tạo bằng âm thanh. Vach thực sự là lực lượng Sáng tạo thông minh, xuất phát từ Thượng đế Sáng tạo, trở thành Biểu hiện như là Linh từ hay Logos siêu hình. Vì vậy, Đại Khí thiết lập các rung động trong chất nguyên thủy, chất này trở nên âm vang hoặc có khả năng phát ra các năng lượng có thể nghe được. Chúng tạo thành các hình dạng theo tư tưởng thiêng liêng được thể hiện bằng họa tiết và các biến thể của Bản Giao Hưởng Sáng Tạo vĩ đại. Cơ quan sáng tạo được phát ra là Hơi Thở được thở ra của Logos và thuộc trật tự của âm thanh. Đó là quyền năng sáng tạo của Vach, Logos hay Linh từ đang hoạt động, được biểu hiện. Đó là Thượng đế Đang Làm Việc và đằng sau Thượng đế Đang Làm Việc là Thượng đế, Quyền năng thụ thai. |
The concept is thus presented of the Logos as Musician, and the process of creation as the composition and performance of a symphony. A Divine Voice enunciates the motif of the new universe. This is heard or responded to, by pre-cosmic Matter, and the planes of Nature with their forms and inhabitants gradually appear. Into these the Logos pours forth perpetually His Life that they may live, this being His continuous sacrifice, His everlasting oblation. Metaphorically, He is voluntarily self-crucified upon the Cross of the material universe with its four directions of space, four streams of creative energy, four subtle elements and four Hierarchies of Creative Intelligences. Such in part are the Crucified Logos, the four-headed Brahma, and every other four-headed, four-armed Deity. | Do đó, khái niệm về Logos được trình bày như là Nhạc sĩ, và quá trình sáng tạo như là sự soạn nhạc và trình diễn một bản giao hưởng. Một Linh từ Thiêng Liêng công bố họa tiết của vũ trụ mới. Điều này được Vật chất tiền vũ trụ nghe thấy hoặc đáp ứng, và các cõi của Tự Nhiên với các hình tướng và cư dân của chúng dần dần xuất hiện. Vào những điều này, Logos liên tục tuôn đổ Sự Sống của Ngài để chúng có thể sống, đây là sự hy sinh liên tục của Ngài, lễ vật vĩnh cửu của Ngài. Theo nghĩa bóng, Ngài tự nguyện chịu đóng đinh trên Thập Giá của vũ trụ vật chất với bốn phương của không gian, bốn dòng năng lượng sáng tạo, bốn nguyên tố vi tế và bốn Huyền Giai của Trí Tuệ Sáng Tạo. Một phần như vậy là Logos Chịu Đóng Đinh, Brahma bốn đầu và mọi Thượng đế bốn đầu, bốn tay khác. |
The Universal Word when uttered becomes manifest as myriads of chords, each a coherent, self-existent sound with its force and light manifestations. Each chord appears in the higher, causal worlds of planets as a relatively changeless abstract form, an Archetype or divine idea, the pattern on the Mount of the Old Testament. These Archetypes in their turn sound their words relaying (in radio terms) into the lower worlds, the primal Word-force. Magnetic fields are set up therein, matter is drawn into them and, with the aid of the Creative Hierarchies, is moulded into evolving forms. These forms, vivified by Divine Life, become the abode of intelligences, the Monads, in the mineral, plant, animal, human and superhuman phases of development. As a result of experience in the forms, these intelligences, assisted by the Angelic Hosts, gradually unfold their innate faculties and powers until the degree of development set both for them and for the forms has been attained. Ultimately, at the eve of creative Day, all is withdrawn back into its source. Cosmic Night then falls, Darkness broods once more upon the face of the Deep. As Omar Khayyam says, ‘Lo! the phantom caravan reaches that no thing which it set out from’. | Linh từ Vũ Trụ khi được thốt ra sẽ biểu hiện như vô số hợp âm, mỗi hợp âm là một âm thanh mạch lạc, tự tồn tại với các biểu hiện lực và ánh sáng của nó. Mỗi hợp âm xuất hiện trong các cõi nhân quả cao hơn của các hành tinh như một hình thức trừu tượng tương đối bất biến, một Nguyên Mẫu hoặc ý tưởng thiêng liêng, mô hình trên Núi trong Cựu Ước. Đến lượt mình, những Nguyên Mẫu này phát ra những linh từ của chúng, chuyển tiếp (theo thuật ngữ radio) vào các cõi thấp hơn, Linh từ-lực nguyên thủy. Các trường từ tính được thiết lập ở đó, vật chất bị hút vào chúng và, với sự trợ giúp của các Huyền Giai Sáng Tạo, được đúc thành các hình tướng đang tiến hóa. Những hình tướng này, được Sinh Mệnh Thiêng Liêng làm cho sống động, trở thành nơi ở của các trí tuệ, các Chân Thần, trong các giai đoạn phát triển khoáng vật, thực vật, động vật, con người và siêu nhân. Do kinh nghiệm trong các hình tướng, những trí tuệ này, được các Đạo Binh Thiên Thần hỗ trợ, dần dần mở ra các khả năng và quyền năng bẩm sinh của chúng cho đến khi đạt được mức độ phát triển được thiết lập cho cả chúng và cho các hình tướng. Cuối cùng, vào buổi tối của Ngày sáng tạo, tất cả được rút trở lại nguồn của nó. Đêm Vũ Trụ sau đó buông xuống, Bóng Tối lại ấp ủ trên bề mặt Vực Thẳm. Như Omar Khayyam nói, ‘Kìa! đoàn lữ hành bóng ma đạt đến cái không có gì mà nó đã khởi hành từ đó’. |
The Gods or Creative Hierarchies are thus conceived to be builders of form and I now offer purely personal views concerning them and their functions. In doing so, I recognise that when an abstract idea, a continuing process and an ever-flowing force, are defined in term of time and form, limitation and even error are almost inevitable. The creative energies of which all forms are the product are first emitted as sound by the utterance of the Word and may be thought of as arising from a central, spiritual source. These primal, formative energies of the Word have tremendous potency and, from one point of view, the whole race of the Gods, from the universal Solar Creative Hierarchies to the relatively local planetary archangels and their hosts, collectively known as the Elohim in Kabbalism, serve somewhat as electrical transformers. They receive into themselves the primordial, creative power and, as if by resistance to its flow, reduce its voltage, as it were. From them it passes through their lesser brethren, rank upon rank, until it reaches the physical worlds. There, with the assistance of the nature spirits it draws and moulds matter into the geometrical shapes conceived by the Creative Mind. | Do đó, Các Thượng đế hay Huyền Giai Sáng Tạo được quan niệm là những người xây dựng hình tướng và giờ đây tôi đưa ra những quan điểm hoàn toàn cá nhân về Các Ngài và các chức năng của Các Ngài. Khi làm như vậy, tôi nhận ra rằng khi một ý tưởng trừu tượng, một quá trình tiếp diễn và một lực lượng luôn tuôn chảy, được xác định theo thời gian và hình tướng, thì sự giới hạn và thậm chí cả sai sót là gần như không thể tránh khỏi. Các năng lượng sáng tạo mà tất cả các hình tướng là sản phẩm đầu tiên được phát ra dưới dạng âm thanh bằng cách thốt ra Linh từ và có thể được coi là phát sinh từ một nguồn tinh thần trung tâm. Những năng lượng hình thành nguyên thủy này của Linh từ có tiềm năng to lớn và, từ một quan điểm, toàn bộ chủng tộc của Các Thượng đế, từ Huyền Giai Sáng Tạo Thái dương vũ trụ đến các tổng lãnh thiên thần hành tinh tương đối địa phương và các đạo binh của Các Ngài, được gọi chung là Elohim trong Kabbalah, phục vụ một phần như các máy biến áp điện. Các Ngài tiếp nhận vào bản thân quyền năng sáng tạo nguyên thủy và, như thể bằng sự kháng cự dòng chảy của nó, làm giảm điện áp của nó. Từ Các Ngài, nó truyền qua các huynh đệ nhỏ hơn của Các Ngài, hết cấp bậc này đến cấp bậc khác, cho đến khi nó đến được các cõi hồng trần. Ở đó, với sự hỗ trợ của các tinh linh tự nhiên, nó thu hút và đúc vật chất thành các hình dạng hình học được thể trí Sáng Tạo hình dung. |
Các thành viên của các cấp bậc cao hơn trong Dòng Người Xây Dựng—một chủng tộc trong số đó dường như tương ứng với các Deva được Ấn Độ giáo biết đến với tên gọi Gandharva hay Các Thượng đế Âm Nhạc, một lần nữa là gợi ý về âm thanh—nhận thức được ý định sáng tạo, nhận thức và biết các Nguyên Mẫu hoặc ý tưởng thiêng liêng. Bên trong Dòng Người Xây Dựng là các Huyền Giai tự thân là một tổng thể, và là các cá nhân, các biểu hiện Deva của những hợp âm đó trong Linh từ sáng tạo mà các Nguyên Mẫu và các hình tướng của Tự Nhiên là những biểu hiện khách quan. Bằng cách tự hợp nhất với Linh từ-lực ‘giáng hạ’, đặc biệt là với các dòng Nhánh đang rung động ở các tần số giống hệt với bản chất của chính Các Ngài, Các Ngài khuếch đại chúng và điều này làm tăng thêm quyền năng tạo ra hình tướng của Các Ngài. | |
Mutual resonance or affinity of vibration draw the particular Hierarchy of Devas into its appropriate field of work as form-builders in the four kingdoms of Nature. There is a hierarchy of Devas the chord of whose nature is identical with that of gold, for example. They might be described as ‘Deva-gold’ or the divine idea and spirit essence of gold manifest as an Order of living beings. Members of this Hierarchy are drawn by vibratory affinity into the streams of Gold force which are constantly descending—in a diagrammatic sense only, all occurs from within outwards—from the creative source into the physical world. The presence of the Gods of gold amplifies the creative energy, intensifies the component frequencies, and thereby augments the form-producing capacity of the thought-imbued Word-force. This, as far as my limited understanding goes, is part of the function of the Gods of gold as also of all Gods of the Order of the Builders. By self-unification with the formative force, they assist in the process of the production physical substances and forms by emitted Divine will-thought-sound or word. | Sự cộng hưởng lẫn nhau hoặc sự tương đồng về rung động thu hút Huyền Giai Deva cụ thể vào lĩnh vực làm việc thích hợp của nó với tư cách là người xây dựng hình tướng trong bốn giới của Tự Nhiên. Có một huyền giai Deva mà hợp âm bản chất của nó giống hệt với hợp âm của vàng, chẳng hạn. Các Ngài có thể được mô tả là ‘Deva-vàng’ hoặc ý tưởng thiêng liêng và tinh chất tinh thần của vàng biểu hiện như một Dòng các sinh vật sống. Các thành viên của Huyền Giai này bị thu hút bởi sự tương đồng rung động vào các dòng lực Vàng liên tục giáng xuống—chỉ theo nghĩa sơ đồ, tất cả xảy ra từ bên trong ra ngoài—từ nguồn sáng tạo vào cõi hồng trần. Sự hiện diện của Các Thượng đế vàng khuếch đại năng lượng sáng tạo, tăng cường các tần số thành phần và do đó làm tăng khả năng tạo ra hình tướng của Linh từ-lực thấm nhuần tư tưởng. Theo như sự hiểu biết hạn chế của tôi, đây là một phần chức năng của Các Thượng đế vàng cũng như của tất cả Các Thượng đế của Dòng Người Xây Dựng. Bằng cách tự hợp nhất với lực lượng hình thành, Các Ngài hỗ trợ trong quá trình sản xuất các chất và hình tướng vật chất bằng ý chí-tư tưởng-âm thanh hay linh từ Thiêng Liêng được phát ra. |
The ultimate fashioners of physical forms are the nature spirits mainly of the element of earth assisted by those of air. Earth nature spirits are associated with mineral forms, air elementals with plant forms. Unconsciously they aid the designer, Universal Thought, by playing in the geometrically flowing fields of force set up by the impact of creative energy as sound upon responsive, fructified matter, chiefly at the etheric level. This form producing sound establishes fields of force of varied geometrical designs, not at first in dense solid substance, but in the ether, which is both mould and matrix of all forms, Mother Nature’s womb. | Những người tạo hình cuối cùng của các hình tướng vật chất là các tinh linh tự nhiên chủ yếu thuộc nguyên tố đất được hỗ trợ bởi những người thuộc nguyên tố khí. Các tinh linh tự nhiên đất liên kết với các hình tướng khoáng vật, các hành khí với các hình tướng thực vật. Một cách vô thức, chúng hỗ trợ nhà thiết kế, Tư Tưởng Vũ Trụ, bằng cách chơi trong các trường lực chảy hình học được thiết lập bởi tác động của năng lượng sáng tạo như âm thanh lên vật chất phản hồi, được sinh hoa kết trái, chủ yếu ở cõi dĩ thái. Âm thanh tạo ra hình tướng này thiết lập các trường lực có thiết kế hình học khác nhau, ban đầu không phải ở chất rắn đậm đặc, mà ở dĩ thái, vừa là khuôn vừa là ma trận của tất cả các hình tướng, tử cung của Mẹ Thiên Nhiên. |
If we enter the magical and beautiful world of the nature-spirit builders of etheric and physical forms, and watch their lives, we see that pleasure is gained by them in moving, dancing and flying along the lines of force of which the forms first consist. This repeated fairy movement accentuates these lines in the ether, as does a pencil line drawn again and again on paper. Nature spirits thus assume considerable significance in Nature’s processes. Through play and movement along the lines of force, elementals of earth and air unconsciously play their part in the production of forms in etheric and solid matter and in all the processes of generation and regeneration in the organic kingdoms. The little workmen are everywhere present and ceaselessly at work. No smallest form of any kind appears unassociated with a builder of form, in none of whom can the thought of self arise; for Individuality is not born in them. Inwardly moved by the action within them of Universal Thought, which is their Mother Source, and of their Devic senior and overseer, the life of nature-spirits is one of thought-free, spontaneous play within the currents of creative energy which set up lines of force in the ether and also flow through them and their subtle element. | Nếu chúng ta bước vào thế giới kỳ diệu và tươi đẹp của những người xây dựng tinh linh tự nhiên của các hình tướng dĩ thái và vật chất, và quan sát cuộc sống của họ, chúng ta thấy rằng họ có được niềm vui khi di chuyển, nhảy múa và bay dọc theo các đường lực mà các hình tướng ban đầu bao gồm. Chuyển động cổ tích lặp đi lặp lại này làm nổi bật những đường này trong dĩ thái, giống như một đường bút chì được vẽ đi vẽ lại trên giấy. Do đó, các tinh linh tự nhiên có ý nghĩa đáng kể trong các quá trình của Tự Nhiên. Thông qua vui chơi và di chuyển dọc theo các đường lực, các hành khí của đất và khí một cách vô thức đóng vai trò của chúng trong việc sản xuất các hình tướng trong vật chất dĩ thái và rắn và trong tất cả các quá trình sinh sản và tái sinh trong các giới hữu cơ. Những người thợ nhỏ có mặt ở khắp mọi nơi và làm việc không ngừng nghỉ. Không có hình tướng nhỏ nhất nào xuất hiện mà không liên kết với một người xây dựng hình tướng, trong đó không ai có thể nảy sinh ý nghĩ về bản thân; vì Sự Biệt Ngã Hóa không được sinh ra trong họ. Được thúc đẩy bên trong bởi hành động bên trong họ của Tư Tưởng Vũ Trụ, vốn là Nguồn Mẹ của họ, và của người giám sát và cấp trên Devic của họ, cuộc sống của các tinh linh tự nhiên là một cuộc vui chơi tự phát, không cần suy nghĩ trong các dòng năng lượng sáng tạo, những dòng này thiết lập các đường lực trong dĩ thái và cũng chảy qua chúng và nguyên tố vi tế của chúng. |
Thus, the creative idea is first conceived within Universal Thought and then expressed as form-producing energy of the quality or order of sound. Geometrical designs and patterns based on the platonic solids are formed in the super-physical worlds and the physical ether. Creative Hierarchies of Devas amplify the Word-force and nature spirits play along the lines of force or dance to the divine symphony of creation, and thus assist in the building of Nature’s physical forms according to the Word. | Như vậy, ý tưởng sáng tạo ban đầu được hình thành trong Tư Tưởng Vũ Trụ và sau đó được thể hiện dưới dạng năng lượng tạo ra hình tướng có phẩm chất hoặc trật tự của âm thanh. Các thiết kế và mô hình hình học dựa trên các khối đa diện platonic được hình thành trong các cõi siêu vật chất và dĩ thái vật chất. Các Huyền Giai Sáng Tạo của Deva khuếch đại Linh từ-lực và các tinh linh tự nhiên vui chơi dọc theo các đường lực hoặc nhảy múa theo bản giao hưởng sáng tạo thiêng liêng, và do đó hỗ trợ xây dựng các hình tướng vật chất của Tự Nhiên theo Linh từ. |
One of the most profound of all the profound truths contained within the esoteric teachings are those of the unity of the Macrocosm or great world with the microcosm or individual man and of the close similarity between the processes by which both become manifest and evolve. Man, in very truth, was created in the image of God. The mystery of the earthly and mortal man is after the mystery of the supernal and immortal one. The universe is the manifestation of a Supreme, Deific Power, a ray of which is present in every man. Realisation of this presence as the true human Individuality, the real Self, behind the bodily veil leads to the further realisation that the Dweller in the innermost is itself forever at one with the Supreme Lord, is inseparably united with the eternal Source of light and life and power. | Một trong những chân lý sâu sắc nhất trong tất cả những chân lý sâu sắc chứa đựng trong các giáo lý huyền bí là những chân lý về sự hợp nhất của Đại thiên địa hay thế giới vĩ đại với Tiểu thiên địa hay con người cá nhân và về sự tương đồng chặt chẽ giữa các quá trình mà cả hai trở nên biểu hiện và tiến hóa. Con người, trong sự thật, đã được tạo ra theo hình ảnh của Thượng đế. Sự huyền bí của con người trần thế và phàm tục là theo sự huyền bí của con người siêu phàm và bất tử. Vũ trụ là sự biểu hiện của một Quyền Năng Tối Cao, Thần Thánh, một tia sáng của Quyền Năng này hiện diện trong mỗi con người. Nhận ra sự hiện diện này như là Sự Biệt Ngã đích thực của con người, Chân Ngã thực sự, đằng sau bức màn thân thể dẫn đến sự nhận ra hơn nữa rằng Kẻ Chận Ngõ ở bên trong nhất tự nó mãi mãi là một với Đức Chúa Tể Tối Cao, được hợp nhất không thể tách rời với Nguồn ánh sáng và sự sống và quyền năng vĩnh cửu. |
The Theosophist, Vol. 75, January 1954, p. 249 | Nhà Thông Thiên Học, Tập. 75, tháng 1 năm 1954, tr. [2]249[/h2] |
63
The Lords of the Flame—Các Đấng Chúa Tể của Ngọn Lửa
You will remember how, in the days of the first World War, Dr Besant frequently used such words as these: ‘Let us remember that over our darkness there ever shines the Star of the King, the Oriflamme of Victory’. Following that inspiring thought and those words of hers, I have chosen for our thought together those four inconceivably Mighty Beings on our earth Who are called the Lords of the Flame. One of these, as we know, is named the King and it is to His Star, the Star of the Spiritual Ruler of our Earth and the Director of its evolution, that Dr Besant was referring. | Bạn sẽ nhớ lại, vào những ngày của Thế Chiến Thứ Nhất, Bà Besant thường sử dụng những từ như sau: ‘Chúng ta hãy nhớ rằng trên bóng tối của chúng ta luôn chiếu sáng Ngôi Sao của Đức Vua, Ngọn Cờ Chiến Thắng’. Theo sau tư tưởng đầy cảm hứng đó và những lời nói của Bà, tôi đã chọn cho tư tưởng chung của chúng ta về bốn Đấng Vĩ Đại khôn lường trên trái đất của chúng ta, Những Đấng được gọi là Các Đấng Chúa Tể của Ngọn Lửa. Một trong số Các Ngài, như chúng ta biết, được gọi là Đức Vua và Bà Besant đang đề cập đến Ngôi Sao của Ngài, Ngôi Sao của Đấng Cai Trị Tinh Thần của Trái Đất chúng ta và là Giám Đốc sự tiến hóa của nó. |
From our theosophical studies we learn that there are now four Kumar as on earth, and that They came from the planet Venus during the Third Root Race, after the separation of the sexes, which occurred some eighteen million years ago. The Secret Doctrine says: ‘Out of the seven Virgin-men [Kumara] four sacrificed themselves for the sins of the world and the instruction of the ignorant.[3] At once we are in the presence of an occult principle, which is that of the ministration of the elder to the younger, which evidently obtains throughout the whole Solar System. Everyone who, in however small a way, ministers to someone weaker or less informed than himself, becomes part of a universal principle of loving, compassionate service to others which is finding expression through them. | Từ các nghiên cứu thông thiên học của chúng ta, chúng ta biết rằng hiện nay có bốn Kumara trên trái đất, và Các Ngài đến từ hành tinh Sao Kim trong Giống Dân Gốc Thứ Ba, sau sự phân chia giới tính, xảy ra cách đây khoảng mười tám triệu năm. Giáo Lý Bí Nhiệm nói: ‘Trong số bảy Trinh-nam [Kumara], bốn vị đã hy sinh bản thân vì tội lỗi của thế giới và sự hướng dẫn của những người thiếu hiểu biết. Ngay lập tức chúng ta hiện diện trước một nguyên tắc huyền bí, đó là sự giúp đỡ của người lớn tuổi cho người trẻ tuổi, điều này rõ ràng có được trong toàn bộ Hệ Mặt Trời. Bất kỳ ai, dù bằng cách nhỏ bé đến đâu, giúp đỡ một người nào đó yếu hơn hoặc ít hiểu biết hơn mình, đều trở thành một phần của nguyên tắc phổ quát về tình yêu thương, sự phục vụ từ bi đối với người khác, đang tìm thấy sự thể hiện thông qua họ. |
This expression of love is indeed universal, for it obtains from star to star and planet to planet. The Secret Doctrine also says: 6Every world has its parent Star and sister Planet. Thus Earth is the adopted child and younger brother of Venus.[4] | Sự thể hiện tình yêu này thực sự là phổ quát, vì nó có được từ ngôi sao này đến ngôi sao khác và từ hành tinh này đến hành tinh khác. Giáo Lý Bí Nhiệm cũng nói: 6Mọi thế giới đều có Ngôi Sao mẹ và Hành Tinh chị em của nó. Do đó, Trái Đất là đứa con nuôi và là em trai của Sao Kim. |
Since Venus is in its Seventh Round and Fifth Chain,[5] its Planetary Scheme is far in advance of ours and its humanity, even its ordinary humanity, is far more developed than are we of the Earth Planetary Scheme in its Fourth Chain and Fourth Round. | Vì Sao Kim đang ở Vòng Thứ Bảy và Dãy Thứ Năm, nên Hệ Hành Tinh của nó vượt xa chúng ta và nhân loại của nó, ngay cả nhân loại bình thường của nó, cũng phát triển hơn nhiều so với chúng ta thuộc Hệ Hành Tinh Trái Đất trong Dãy Thứ Tư và Vòng Thứ Tư. |
When this principle came into operation on behalf of the young humanity of our, Earth, that mighty descent occurred which Dr Besant describes so graphically in one of her writings: ‘Then, with the mighty roar of swift descent from incalculable heights, surrounded by blazing masses of fire which filled the sky with shooting tongues of flame, flashed through the aerial spaces the chariot of the Sons of the Fire, the Lords of the Flame from Venus; it halted, hovering over the ‘White Island’, which lay smiling in the bosom of the Gobi Sea; green was it, and radiant with masses of fragrant many coloured blossoms, Earth offering her best and fairest to welcome her coming King’.[6] | Khi nguyên tắc này đi vào hoạt động thay mặt cho nhân loại trẻ tuổi của Trái Đất chúng ta, sự giáng hạ vĩ đại đó đã xảy ra mà Bà Besant mô tả rất sinh động trong một trong những bài viết của Bà: ‘Sau đó, với tiếng gầm vĩ đại của sự giáng hạ nhanh chóng từ những độ cao khôn lường, được bao quanh bởi những khối lửa rực cháy lấp đầy bầu trời bằng những lưỡi lửa bắn ra, cỗ xe của Các Con của Lửa, Các Đấng Chúa Tể của Ngọn Lửa từ Sao Kim, lóe lên qua không gian trên không; nó dừng lại, lơ lửng trên ‘Đảo Trắng’, nằm mỉm cười trong lòng Biển Gobi; nó có màu xanh lục và rạng rỡ với vô số bông hoa thơm nhiều màu sắc, Trái Đất dâng lên những gì tốt đẹp nhất và đẹp nhất của nó để chào đón Đức Vua sắp đến của nó’. |
It was evidently springtime and the White Island was then an island in the Gobi Sea, now an oasis hidden from the eyes of mortal men in the Gobi Desert, though there are legends about travelers who have had strange visions and experiences there. | Rõ ràng là mùa xuân và Đảo Trắng khi đó là một hòn đảo ở Biển Gobi, giờ là một ốc đảo ẩn khỏi mắt người phàm trong Sa mạc Gobi, mặc dù có những truyền thuyết về những du khách đã có những tầm nhìn và trải nghiệm kỳ lạ ở đó. |
Then, with her matchless gift of words, Dr Besant continues: ‘There He stood, “the Youth of sixteen summers”, Sanat Kumara, the “Eternal Virgin-Youth”, the new Ruler of Earth, come to His kingdom, His Pupils, the three Kumaras, with Him, His Helpers around Him; thirty mighty Beings were there, great beyond Earth’s reckoning, though in graded order, clothed in the glorious bodies They had created by Kriyashakti, the first Occult Hierarchy, branches of the one spreading Banyan Tree, the nursery of future Adepts, the centre of all occult life. Their dwelling place was and is the Imperishable Sacred Land, on which ever shines down the Blazing Star, the symbol of Earth’s Monarch, the changeless Pole around which the life of our Earth is ever spinning’.[7] | Sau đó, với tài năng sử dụng ngôn từ vô song của Bà Besant tiếp tục: ‘Ở đó Ngài đứng, “Thiếu niên mười sáu trăng tròn”, Sanat Kumara, “Trinh-Nam Vĩnh Cửu”, Đức Chúa Tể mới của Trái Đất, đến vương quốc của Ngài, Các Môn Đệ của Ngài, ba Kumara, cùng với Ngài, Các Phụ Tá của Ngài xung quanh Ngài; ba mươi Đấng hùng mạnh đã ở đó, vĩ đại vượt quá sự tính toán của Trái Đất, mặc dù theo thứ tự phân cấp, khoác lên mình những thân thể vinh quang mà Các Ngài đã tạo ra bởi Kriyashakti, Thánh Đoàn Huyền Bí đầu tiên, các nhánh của Cây Đa lan rộng duy nhất, vườn ươm của các Chân sư tương lai, trung tâm của mọi sự sống huyền bí. Nơi ở của Các Ngài đã và đang là Vùng Đất Thiêng Bất Hoại, nơi Ngôi Sao Rực Lửa luôn chiếu xuống, biểu tượng của Quốc Vương Trái Đất, Cực bất biến, xung quanh đó sự sống của Trái Đất chúng ta luôn quay cuồng’. |
Our literature tells us in considerable detail about this descent and this arrival of the four Kumaras. We are told that there came the Lord of the World Himself, the three Lieutenants Who are the other three Lords of the Flame now remaining, twenty-five Adepts as assistants, and then about one hundred ordinary human beings especially linked with these Great Ones. | Văn học của chúng ta kể cho chúng ta một cách chi tiết đáng kể về sự giáng trần này và sự xuất hiện của bốn Kumara này. Chúng ta được cho biết rằng chính Đức Chúa Tể Thế Giới đã đến, ba vị Trung Úy vốn là ba Đấng Chúa Tể Ngọn Lửa còn lại, hai mươi lăm Chân sư làm phụ tá, và sau đó khoảng một trăm người phàm bình thường đặc biệt liên kết với Các Đấng Cao Cả này. |
Since the Venusian Planetary Scheme is in the Seventh Round of its Fifth Chain of Manasic and Buddhic development, the intellectual capacity of its humanity will have reached a very high degree of development. Fire is one symbol of the mind and its occult power, therefore the Venusian Adepts are called the Lords of the Flame. One part of Their mission was to project the spark of mind in the infant humanity, to awaken its nascent mental faculty. The germinal power of the intellect was there, of course, but asleep. The Mental Body and the primitive brain were like a musical instrument, the strings of which were silent. By direct action, doubtless, and probably by a process of induction resulting from Their very presence, the Sons of Mind, as They are also called, awoke the inherent but as yet unawakened mental power and thereby started humanity on its great evolutionary journey, which involved the development of the seven human principles, and particularly that of the mind. | Vì Hệ Hành Tinh Sao Kim đang ở Vòng Thứ Bảy của Dãy Thứ Năm về sự phát triển Trí tuệ và Bồ đề, nên năng lực trí tuệ của nhân loại sẽ đạt đến một mức độ phát triển rất cao. Lửa là một biểu tượng của thể trí và sức mạnh huyền bí của nó, do đó các Chân sư Sao Kim được gọi là Các Đấng Chúa Tể Ngọn Lửa. Một phần trong sứ mệnh của Các Ngài là phóng chiếu tia lửa của thể trí vào nhân loại sơ khai, để đánh thức năng lực trí tuệ non trẻ của nó. Tất nhiên, sức mạnh mầm mống của trí tuệ đã ở đó, nhưng đang ngủ. Thể Trí và bộ não nguyên thủy giống như một nhạc cụ mà dây đàn của nó im lặng. Bằng hành động trực tiếp, chắc chắn, và có lẽ bằng một quá trình cảm ứng do chính sự hiện diện của Các Ngài, Các Con của Trí Tuệ, như Các Ngài cũng được gọi, đã đánh thức sức mạnh trí tuệ vốn có nhưng chưa được đánh thức và do đó bắt đầu nhân loại trên hành trình tiến hóa vĩ đại của nó, vốn bao gồm sự phát triển của bảy nguyên lý của con người, và đặc biệt là của thể trí. |
None of the Lords of the Flame incarnated. They made bodies by Their occult power, which (translating the Sanskrit word) is called Will-thought, Kriyashakti. This is the same power, by the way, by which H.P.B. [H. P. Blavatsky] brought about the phenomenal appearance of some objects and changes in others, as told in Old Diary Leaves. It is said that these bodies of the Lords of the Flame resemble the highest ideal of human form in appearance, and that they do not undergo any change, being indestructible. The Great Lords therefore look now just as They did several million years ago, when their forms were first made. As great Monads in Causal Bodies—one hardly dares to say Egos, because They have long transcended the faintest possible limitation of Ahamkara, being completely universalised—Their great Causal Auras, particularly that of the King, are said to be so vast as to enfold the whole of our planet. Literally, therefore, ‘In Him we live and move and have our being’; and ‘He is closer to us than breathing and nearer than hands and feet’. We do well to think of Him, to try to conceive of Him, as a tremendous reality, as the incarnation of the Divine Atma of our planet, the focus of the First Aspect of the Blessed Trinity, the Solar Logos, and as the direct Representative on earth of the Sephirothal, Planetary Logos of our Earth Scheme, one of the Archangels of the Face, a Mighty Spirit before the Throne. | Không ai trong số Các Đấng Chúa Tể Ngọn Lửa hóa thân. Các Ngài tạo ra thân thể bằng sức mạnh huyền bí của Các Ngài, mà (dịch từ tiếng Phạn) được gọi là Ý-tưởng, Kriyashakti. Nhân tiện, đây là sức mạnh tương tự mà Bà H.P.B. [H. P. Blavatsky] đã mang lại sự xuất hiện phi thường của một số đồ vật và những thay đổi ở những đồ vật khác, như được kể trong Old Diary Leaves. Người ta nói rằng những thân thể này của Các Đấng Chúa Tể Ngọn Lửa giống với hình mẫu lý tưởng cao nhất của hình dạng con người về ngoại hình, và chúng không trải qua bất kỳ thay đổi nào, vì không thể phá hủy. Do đó, Các Đấng Chúa Tể Vĩ Đại trông bây giờ giống như Các Ngài đã từng trông cách đây vài triệu năm, khi hình dạng của Các Ngài được tạo ra lần đầu tiên. Là những Chân Thần vĩ đại trong Thể Nguyên Nhân—người ta khó dám nói là Chân ngã, bởi vì Các Ngài từ lâu đã vượt qua giới hạn nhỏ nhất có thể có của Ahamkara, hoàn toàn được phổ quát hóa—Hào quang Nhân Thể vĩ đại của Các Ngài, đặc biệt là của Đức Vua, được cho là rất lớn đến mức bao trùm toàn bộ hành tinh của chúng ta. Do đó, theo nghĩa đen, ‘Trong Ngài chúng ta sống, vận động và hiện hữu’; và ‘Ngài gần gũi với chúng ta hơn hơi thở và gần hơn tay và chân’. Chúng ta nên nghĩ về Ngài, cố gắng hình dung về Ngài, như một thực tại to lớn, như sự hóa thân của Atma Thiêng Liêng của hành tinh chúng ta, tiêu điểm của Phương Diện Thứ Nhất của Tam Vị Nhất Thể Chân Phúc, Thái dương Thượng đế, và là Đại Diện trực tiếp trên trái đất của Hành Tinh Thượng đế Sephirothal của Hệ Địa Cầu của chúng ta, một trong các Tổng lãnh thiên thần của Diện Mạo, một Đấng Tinh Thần Hùng Mạnh trước Ngai Vàng. |
‘Seven originally’, says H.P.B., and then quotes a catechism in which a Master addresses a Disciple or Lanoo, saying: ‘Out of the seven Virgin-men [Kumara] four sacrificed themselves for the sins of the world and the instruction of the ignorant, to remain till the end of the present Manvantara’.[8] | Bà H.P.B. nói: ‘Bảy vị ban đầu’, và sau đó trích dẫn một cuốn giáo lý trong đó một Chân sư nói với một Đệ tử hoặc Lanoo, nói rằng: ‘Trong số bảy Trinh-nam [Kumara], bốn vị đã hy sinh bản thân vì tội lỗi của thế giới và sự hướng dẫn của những người thiếu hiểu biết, để ở lại cho đến khi kết thúc Manvantara hiện tại’. |
She then names them wonderfully: ‘These are the Head, the Heart, the Soul, and the Seed of undying Knowledge [Jnana]. Thou shalt never speak, O Lanoo, of these great ones [Maha . . .] before a multitude, mentioning them by their names. The wise alone will understand’. | Sau đó, Bà đặt tên cho Các Ngài một cách tuyệt vời: ‘Đây là Đầu, Tim, Linh Hồn và Hạt Giống của Tri Thức bất diệt [Jnana]. Hỡi Lanoo, ngươi sẽ không bao giờ nói về những Đấng vĩ đại này [Maha . . .] trước đám đông, đề cập đến Các Ngài bằng tên của Các Ngài. Chỉ những người khôn ngoan mới hiểu được’. |
And there is added these words: ‘Higher than the “Four” is only ONE on Earth as in Heavens—that still more mysterious and solitary Being described in Volume 1 ’. Thus H.P.B., and the Masters Whose amanuensis she was, lift our thoughts to lofty spiritual levels and ideas. | Và có thêm những lời này: ‘Cao hơn “Bốn” chỉ có MỘT trên Trái Đất cũng như trên Thiên Đàng—Đấng bí ẩn và cô độc hơn vẫn được mô tả trong Tập 1’. Như vậy, Bà H.P.B., và các Chân sư mà Bà là thư ký, nâng suy nghĩ của chúng ta lên những cấp độ và ý tưởng tinh thần cao cả. |
We are also taught that He, the Great Lord of the World, established the Occult Hierarchy upon our planet. Thus was initiated on Earth the process of drawing ardent Aspirants from amongst the human family nearer to Themselves, giving them special counsel, special training, special guidance, until there came into existence what might be called the Mystery System whereby those who are pressing forward ahead of the Race may be drawn into an Occult School. . . | Chúng ta cũng được dạy rằng Ngài, Đức Chúa Tể Thế Giới Vĩ Đại, đã thiết lập Thánh Đoàn Huyền Bí trên hành tinh của chúng ta. Như vậy, trên Trái Đất đã khởi xướng quá trình thu hút những Người Chí Nguyện nhiệt thành từ giữa gia đình nhân loại đến gần Các Ngài hơn, ban cho họ những lời khuyên đặc biệt, sự huấn luyện đặc biệt, sự hướng dẫn đặc biệt, cho đến khi xuất hiện cái có thể được gọi là Hệ Thống Huyền Môn, theo đó những người đang tiến lên phía trước Nhân Loại có thể được đưa vào một Trường Huyền Bí. . . |
In olden days the preliminary Grades were open to the public. Then, as the higher Grades of the Lesser Mysteries were passed through, the First Great Initiation became a possibility. In consequence, a continual stream of human beings of our Earth started to flow towards the occult and spiritual heights on which the great Adepts are now standing. One result of this has been that our planet now has provided its own Occult Hierarchy from its own humanity. The Sacred Four and the Silent Watcher still remain, however, an assurance of safety and of the continuity of the development and unfoldment of form and life, however dark the successive dark ages, however deep and terrible the dangers. We in our lifetime have seen some of those dangers. They still exist potentially, and if they ever become realities it would seem possible that the evolution of the Race might be held up, delayed, as humanity came under the enslavement of a dictatorial regime. We have been tried twice in our lifetime by the terrible enemies of These Lords of Light, Who are called, in contradistinction, the Lords of the Dark Face Humanity will not be wiped out, however, no matter how dreadful the weapons which might be used against us. ‘Over our Earth shines the Star of the King, the Oriflamme of Victory’. Thus, like an undercurrent beneath this outer life, with its recurrent cycles of darkness and light on the surface of our globe, there exists the occult life of our planet which is unchanged and largely unaffected by outer changes and circumstances. This is the ‘Stream’, the river of the occult life of our globe, which unfailingly throughout all ages ever continues to flow. Men and women have continually experienced spiritual and intellectual awakenings and have set out determinedly upon that search which will bring them to direct, interior illumination, to their own knowledge, and to the solution of the problems and the mysteries of life. | Vào thời xưa, các Cấp Bậc sơ bộ được mở cho công chúng. Sau đó, khi các Cấp Bậc cao hơn của Các Bí Mật Nhỏ được thông qua, Cuộc Điểm Đạo Vĩ Đại Đầu Tiên trở thành một khả năng. Do đó, một dòng người liên tục từ Trái Đất của chúng ta bắt đầu chảy về phía những đỉnh cao huyền bí và tinh thần, nơi các Chân sư vĩ đại hiện đang đứng. Một kết quả của điều này là hành tinh của chúng ta hiện đã cung cấp Thánh Đoàn Huyền Bí của riêng mình từ chính nhân loại của mình. Tuy nhiên, Tứ Vị Thiêng Liêng và Người Quan Sát Thầm Lặng vẫn còn đó, một sự đảm bảo về sự an toàn và tính liên tục của sự phát triển và mở ra của hình tướng và sự sống, dù những thời đại đen tối kế tiếp có tối tăm đến đâu, những nguy hiểm có sâu sắc và khủng khiếp đến đâu. Chúng ta trong cuộc đời mình đã chứng kiến một số nguy hiểm đó. Chúng vẫn tồn tại một cách tiềm tàng, và nếu chúng trở thành hiện thực, có vẻ như sự tiến hóa của Nhân Loại có thể bị đình trệ, trì hoãn, khi nhân loại rơi vào ách nô lệ của một chế độ độc tài. Chúng ta đã bị thử thách hai lần trong cuộc đời mình bởi những kẻ thù khủng khiếp của Các Đấng Chúa Tể Ánh Sáng này, vốn được gọi, để phân biệt, là Các Đấng Chúa Tể của Khuôn Mặt Tối Tăm. Tuy nhiên, nhân loại sẽ không bị xóa sổ, cho dù những vũ khí khủng khiếp nào có thể được sử dụng chống lại chúng ta. ‘Trên Trái Đất của chúng ta, Ngôi Sao của Đức Vua chiếu sáng, Oriflamme của Chiến Thắng’. Như vậy, giống như một dòng chảy ngầm bên dưới cuộc sống bên ngoài này, với các chu kỳ bóng tối và ánh sáng tái diễn trên bề mặt địa cầu của chúng ta, tồn tại sự sống huyền bí của hành tinh chúng ta, vốn không thay đổi và phần lớn không bị ảnh hưởng bởi những thay đổi và hoàn cảnh bên ngoài. Đây là ‘Dòng Chảy’, dòng sông của sự sống huyền bí của địa cầu chúng ta, vốn không hề sai sót trong suốt mọi thời đại vẫn tiếp tục chảy. Những người nam và nữ đã liên tục trải qua những sự thức tỉnh tinh thần và trí tuệ và đã quyết tâm bắt đầu cuộc tìm kiếm sẽ mang họ đến sự soi sáng nội tại trực tiếp, đến kiến thức của chính họ và đến giải pháp cho các vấn đề và những bí ẩn của cuộc sống. |
The Lords of the Flame still guard all life on earth, and especially the Aspirants, and that is why They are called ‘the one spreading Banyan-Tree’ from Whose ‘branches’ air roots descend, as it were, and when they touch the earth, take root, so that the Banyan may go on growing and spreading. | Các Đấng Chúa Tể Ngọn Lửa vẫn bảo vệ tất cả sự sống trên trái đất, và đặc biệt là những Người Chí Nguyện, và đó là lý do tại sao Các Ngài được gọi là ‘Cây Đa lan rộng duy nhất’ từ ‘các nhánh’ của nó, các rễ khí rủ xuống, và khi chúng chạm vào đất, bén rễ, để Cây Đa có thể tiếp tục phát triển và lan rộng. |
Three Mighty Lords in turn rule throughout a World Period. The present Holder of that office is said to be the Third. The tremendous task of the Third Lord of the World is to round off satisfactorily that period of evolution and to deliver over the countless millions of evolving creatures into the hands of the Seed Manu. Having fulfilled that duty, the Third Lord of the World takes another Initiation entirely outside of our world and its Hierarchy and attains the level of the Silent Watcher. | Ba Đấng Chúa Tể Hùng Mạnh lần lượt cai trị trong suốt một Giai Đoạn Thế Giới. Người đương nhiệm hiện tại của chức vụ đó được cho là Đấng Thứ Ba. Nhiệm vụ to lớn của Đức Chúa Tể Thế Giới Thứ Ba là hoàn thành một cách thỏa đáng giai đoạn tiến hóa đó và giao vô số sinh vật đang tiến hóa vào tay Manu Hạt Giống. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ đó, Đức Chúa Tể Thế Giới Thứ Ba thực hiện một Cuộc Điểm Đạo khác hoàn toàn bên ngoài thế giới của chúng ta và Thánh Đoàn của nó và đạt đến cấp độ của Người Quan Sát Thầm Lặng. |
The Silent Watcher remains on guard for the whole period of the Round and it is only when the Life Wave has again occupied our planet and is again ready to leave it that He, the Silent Watcher, abandons His strange, self-imposed task and hands it over to His successor. Little is taught us of that office, but it is supposed that the Silent Watcher is the Direct Agent for the power of the Solar Logos. Should the Lord of the World and His Hierarchy of Adepts of any planet find a situation developing which might possibly be beyond His and Their power to control (inconceivable though that might be), then through the Silent Watcher additional Solar Force may be added to the planetary reservoir of power and the situation restored. I do not know whether the conditions in Atlantis at the time of its darkest and deepest cycle was such an occasion but I would hardly think so. The amount of occult power required to cause a tidal wave to overwhelm a continent in a night must have been tremendous. | Người Quan Sát Thầm Lặng vẫn canh giữ trong toàn bộ giai đoạn của Vòng Tuần Hoàn và chỉ khi Làn Sóng Sự Sống lại chiếm giữ hành tinh của chúng ta và lại sẵn sàng rời khỏi nó thì Ngài, Người Quan Sát Thầm Lặng, mới từ bỏ nhiệm vụ kỳ lạ, tự áp đặt của mình và giao nó cho người kế nhiệm của Ngài. Chúng ta được dạy rất ít về chức vụ đó, nhưng người ta cho rằng Người Quan Sát Thầm Lặng là Đặc Vụ Trực Tiếp cho sức mạnh của Thái dương Thượng đế. Nếu Đức Chúa Tể Thế Giới và Thánh Đoàn Chân sư của Ngài của bất kỳ hành tinh nào thấy một tình huống phát triển có thể vượt quá khả năng kiểm soát của Ngài và Các Ngài (mặc dù điều đó có thể không thể tưởng tượng được), thì thông qua Người Quan Sát Thầm Lặng, Lực Lượng Thái Dương bổ sung có thể được thêm vào hồ chứa năng lượng hành tinh và tình hình được khôi phục. Tôi không biết liệu các điều kiện ở Atlantis vào thời điểm chu kỳ đen tối và sâu sắc nhất của nó có phải là một dịp như vậy hay không, nhưng tôi khó có thể nghĩ như vậy. Lượng sức mạnh huyền bí cần thiết để gây ra một cơn sóng thần nhấn chìm một lục địa trong một đêm phải rất lớn. |
The Sanskrit word Kumar a means Virgin Youth and the Lords of the Flame appear as four Youths, being also referred to as the Chaste Ascetics. Actually there were seven Kumaras and there are various lists of them in Hinduism and in The Secret Doctrine. There were many Kapilas, which is generic title for the great Sages who appeared in India, though there was One Who was the Lord of the Flame. He is identified with the Second Aspect of the Blessed Trinity, with Vishnu. And seventh, there was one Kumar a known as PANCHASHIKHA. | Từ tiếng Phạn Kumar a có nghĩa là Trinh Nam và Các Đấng Chúa Tể Ngọn Lửa xuất hiện như bốn Thanh Niên, cũng được gọi là Các Nhà Khổ Hạnh Trong Sạch. Thực tế có bảy Kumara và có nhiều danh sách khác nhau về Các Ngài trong Ấn Độ giáo và trong The Secret Doctrine. Có nhiều Kapila, vốn là danh hiệu chung cho các Nhà Hiền Triết vĩ đại đã xuất hiện ở Ấn Độ, mặc dù có Một Đấng là Chúa Tể Ngọn Lửa. Ngài được xác định với Phương Diện Thứ Hai của Tam Vị Nhất Thể Chân Phúc, với Vishnu. Và thứ bảy, có một Kumar a được gọi là PANCHASHIKHA. |
One of these Great Ones incarnated as Shri Shankaracharya in the year 510 B.C., 51 years and 2 months after the date of the Lord Buddha’s Nirvana (Vide, Five Years of Theosophy). There is a mystery about Him. It was mistakenly thought that He was a reincarnation of the Lord Buddha, but the occult explanation given is that He used certain of the Lord Buddha’s superphysical bodies, the physical being naturally born in Southern India. He, this Great Lord of the Flame, appeared as Shri Shankaracharya to correct certain erroneous conceptions and He taught the Vedanta Philosophy. One of His great literary works is very important in the occult life. It is called Viveka Chudamani. Viveka means discrimination by wisdom, Chudamani means crest jewel; THE CREST JEWEL OF WISDOM. One of the early Theosophists, Mohini Chatterji translated it very beautifully. Those of you who have not read it might find it very helpful—a second Bhagavad Gita. | Một trong Các Đấng Vĩ Đại này đã hóa thân thành Shri Shankaracharya vào năm 510 trước Công nguyên, 51 năm và 2 tháng sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn (Xem, Five Years of Theosophy). Có một bí ẩn về Ngài. Người ta đã nhầm tưởng rằng Ngài là một hóa thân của Đức Phật, nhưng lời giải thích huyền bí được đưa ra là Ngài đã sử dụng một số thân thể siêu vật chất của Đức Phật, thân thể vật chất đương nhiên được sinh ra ở Nam Ấn Độ. Ngài, Đức Chúa Tể Ngọn Lửa Vĩ Đại này, đã xuất hiện với tư cách là Shri Shankaracharya để sửa chữa một số quan niệm sai lầm và Ngài đã dạy Triết học Vedanta. Một trong những tác phẩm văn học vĩ đại của Ngài rất quan trọng trong đời sống huyền bí. Nó được gọi là Viveka Chudamani. Viveka có nghĩa là phân biện bằng minh triết, Chudamani có nghĩa là viên ngọc trên đỉnh; VIÊN NGỌC TRÊN ĐỈNH CỦA MINH TRIẾT. Một trong những nhà Thông Thiên Học ban đầu, Mohini Chatterji đã dịch nó rất hay. Những ai chưa đọc nó có thể thấy nó rất hữu ích—một Bhagavad Gita thứ hai. |
All the Kumaras have left save the Sacred Four and Their home is Shamballa, from a Sanskrit root sham, meaning Quiet, Tranquility, and so Shamballa means the place of tranquility. H.P.B. says 6 Out of the seven Virgin-men [Kumara]four sacrificed themselves for the sins of the world and the instruction of the ignorant, to remain till the end of the present Manvantara’.[9] . . . Tt is the spirit of Divine Wisdom and chaste Asceticism itself which incarnates in these Elect’ [2-vol. ed.: Vol. 2, p. 282]. ‘This “Root-Base”,’ she goes on, ‘has a name which can only be translated into English by several compound words—the “Ever-Living-Human-Banyan”.’[10] | Tất cả các Kumara đã rời đi ngoại trừ Tứ Vị Thiêng Liêng và ngôi nhà của Các Ngài là Shamballa, từ một gốc tiếng Phạn sham, có nghĩa là Yên Tĩnh, Thanh Bình, và như vậy Shamballa có nghĩa là nơi thanh bình. Bà H.P.B. nói 6 Trong số bảy Trinh-nam [Kumara], bốn vị đã hy sinh bản thân vì tội lỗi của thế giới và sự hướng dẫn của những người thiếu hiểu biết, để ở lại cho đến khi kết thúc Manvantara hiện tại’. . . . Tt là tinh thần của Minh Triết Thiêng Liêng và chính Khổ Hạnh trong sạch hóa thân trong những Người Được Chọn này’ [2 tập: Tập 2, tr. 282]. Bà tiếp tục: ‘“Gốc Rễ” này có một cái tên chỉ có thể được dịch sang tiếng Anh bằng một số từ ghép— “Cây Đa-Người-Sống-Mãi”.’ |
Finally, what were and are the motives of a Great One? Here is the answer ‘Because the lonely, sore-footed Pilgrims, on their journey back to their home, are never sure, to the last moment, of not losing their way in this limitless desert of Illusion and Matter called Earth- Life. Because he would fain show the way to that region of freedom and light, from which he is a voluntary exile himself, to every prisoner who has succeeded in liberating himself from the bonds of flesh and illusion. Because, in short, he has sacrificed himself for the sake of Mankind, though but a few elect may profit by the GREAT SACRIFICE’.[11] | Cuối cùng, động cơ của một Đấng Vĩ Đại là gì và là gì? Đây là câu trả lời ‘Bởi vì những Người Hành Hương cô đơn, đau chân, trên hành trình trở về nhà của họ, không bao giờ chắc chắn, cho đến giây phút cuối cùng, về việc không bị lạc đường trong sa mạc Ảo Tưởng và Vật Chất vô tận này được gọi là Đời-Sống Trái Đất. Bởi vì Ngài muốn chỉ ra con đường đến vùng tự do và ánh sáng đó, từ đó chính Ngài là một người tự nguyện lưu vong, cho mọi tù nhân đã thành công trong việc giải phóng mình khỏi xiềng xích của xác thịt và ảo tưởng. Bởi vì, tóm lại, Ngài đã hy sinh bản thân vì lợi ích của Nhân Loại, mặc dù chỉ một số ít người được chọn có thể hưởng lợi từ SỰ HY SINH VĨ ĐẠI’. |
The last thought, my Brothers. Theosophy teaches us that the same power of attainment resides within each one of us and that the seeds of Christhood, Buddhahood, Lordship and Kingship are inherent within us as part of our very nature. | Suy nghĩ cuối cùng, thưa Các Huynh Đệ của tôi. Thông Thiên Học dạy chúng ta rằng sức mạnh đạt được tương tự nằm trong mỗi chúng ta và rằng hạt giống của Đức Kitô, Phật tính, Quyền Lãnh Đạo và Vương Quyền vốn có trong chúng ta như một phần bản chất của chúng ta. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 15, No. 1, 1954, p. 6 | Theosophy in New Zealand, Tập 15, Số 1, 1954, tr. 6 |
64
Creation and the Gods—Sáng Tạo và Các Vị Thần
A STUDY IN CREATIVE PROCESSES | NGHIÊN CỨU VỀ CÁC QUÁ TRÌNH SÁNG TẠO |
(From the cosmic dawn, ‘when the morning stars sang together and all the Sons of God shouted for joy’, Mr Hodson traces the evolution of a Solar System, and then, having built up a mental conception of it, describes how the full possibilities of macrocosmic self-expression are contained in microcosmic man, who is the Universe in epitome.[12]) | (Từ buổi bình minh vũ trụ, ‘khi các ngôi sao buổi sáng cùng nhau ca hát và tất cả Các Con của Thượng đế reo hò vì vui mừng’, Ông Hodson theo dõi sự tiến hóa của một Hệ Mặt Trời, và sau đó, sau khi xây dựng một quan niệm trí tuệ về nó, mô tả cách tất cả các khả năng thể hiện bản thân vĩ mô được chứa đựng trong con người vi mô, vốn là Vũ Trụ trong bản tóm tắt.) |
No one who has had even the slightest glimpse of the great processes of creation, has peered however blindly into the great Laboratory of the Master Chemist, heard only too dimly the ever-uttered World of the Master Musician, could but be humble, realizing the profundity of his ignorance in the presence of the mightiest of all creative works, that which brings into being, sustains and ultimately perfects a Universe and all that it contains. | Không ai dù chỉ thoáng thấy những quá trình sáng tạo vĩ đại, đã nhìn trộm dù mù quáng vào Phòng Thí Nghiệm vĩ đại của Nhà Hóa Học Bậc Thầy, chỉ nghe thấy quá mơ hồ Thế Giới luôn được thốt ra của Nhạc Sĩ Bậc Thầy, lại có thể không khiêm tốn, nhận ra sự sâu sắc của sự thiếu hiểu biết của mình trước sự hiện diện của tác phẩm sáng tạo vĩ đại nhất trong tất cả, tác phẩm mang lại sự tồn tại, duy trì và cuối cùng hoàn thiện một Vũ Trụ và tất cả những gì nó chứa đựng. |
Yet because man is a microcosmic God, a Logos-in- the-becoming, he dares to look, he presumes to try and comprehend, infinitesimally perhaps, some of the laws and processes governing the divine creative art. So it is as Gods-in-the-becoming, one day to be Gods-who-have-become, uttering Our Word, and bringing Our Solar Systems into being, that we study the Science of Creation. | Tuy nhiên, bởi vì con người là một Thượng đế vi mô, một Thượng đế-Logos-trong-quá-trình-trở-thành, y dám nhìn, y cho rằng mình cố gắng hiểu, có lẽ là vô cùng nhỏ, một số định luật và quá trình chi phối nghệ thuật sáng tạo thiêng liêng. Vì vậy, chính vì là Các Thượng đế-trong-quá-trình-trở-thành, một ngày nào đó sẽ là Các Thượng đế-đã-trở-thành, thốt ra Linh Từ của Chúng Ta và mang Hệ Mặt Trời của Chúng Ta vào tồn tại, mà chúng ta nghiên cứu Khoa Học Sáng Tạo. |
Rising above the phenomenal to the noumenal, we are lifted, as we study, nearer to the realm of the Real, we breathe under new heavens and we return enlightened and inspired, more nobly and effectively to play our essential part in the great drama of creation. | Vượt lên trên hiện tượng đến bản thể, khi nghiên cứu, chúng ta được nâng lên gần hơn với cõi Chân Thực, chúng ta hít thở dưới những tầng trời mới và chúng ta trở về được khai sáng và đầy cảm hứng, cao quý hơn và hiệu quả hơn để đóng vai trò thiết yếu của mình trong vở kịch vĩ đại của sự sáng tạo. |
Christian Cosmogenesis states that ‘In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was God’. Later we are told that God spake saying: ‘Let there be light’, and there was Light. Our starting point therefore is the Word. | Thuyết Sáng Thế Cơ Đốc giáo tuyên bố rằng ‘Ban đầu có Linh từ, và Linh từ ở cùng Thượng đế, và Linh từ là Thượng đế’. Sau đó, chúng ta được cho biết rằng Thượng đế đã phán rằng: ‘Hãy có ánh sáng’, và có Ánh Sáng. Vì vậy, điểm khởi đầu của chúng ta là Linh từ. |
Solar Systems Rise and Wane | Các Thái Dương Hệ Nổi Lên và Tàn Lụi |
Actually the word ‘creation’ is a misnomer, for the present Solar System is a cyclic reappearance of that which preceded it, the new ‘body’ in which the Solar Logos reincarnates. In the pre-Solar System, archetypes, modeled on the fruits of its predecessor, were projected perfectly at the close of its seventh cycle and sub-cycles. During the creative ‘night’ which followed, seeds of further developments and relatively new concepts must be presumed to have germinated in the, consciousness of the Solar Logos. Thus an archetypal concept, divine ‘idea’, gradually develops, and occupies divine consciousness at the dawn of a new creative ‘day’. The Solar System which is the manifestation of that ‘idea’ is not new. It is the reappearance at a higher level of that which preceded it. | Thực ra, từ ‘sáng tạo’ là một tên gọi sai, vì Thái Dương Hệ hiện tại là sự tái xuất hiện theo chu kỳ của những gì đã có trước nó, ‘thể’ mới trong đó Thái dương Thượng đế tái sinh. Trong tiền-Thái Dương Hệ, các nguyên mẫu, được mô phỏng theo thành quả của tiền thân của nó, đã được phóng chiếu một cách hoàn hảo khi kết thúc chu kỳ thứ bảy và các chu kỳ phụ của nó. Trong ‘đêm’ sáng tạo tiếp theo, hạt giống của những phát triển hơn nữa và những khái niệm tương đối mới phải được cho là đã nảy mầm trong tâm thức của Thái dương Thượng đế. Do đó, một khái niệm nguyên mẫu, ‘ý tưởng’ thiêng liêng, dần dần phát triển và chiếm giữ tâm thức thiêng liêng vào buổi bình minh của một ‘ngày’ sáng tạo mới. Thái Dương Hệ vốn là sự biểu hiện của ‘ý tưởng’ đó không phải là mới. Đó là sự tái xuất hiện ở một cấp độ cao hơn của những gì đã có trước nó. |
In this we observe the operation of the universal law known to physical science as the Law of Periodicity. This Law is found to operate throughout both the physical universe and its superphysical extension. Under the operation of this law, Solar Systems, their physical suns and planets, and their psychical, intellectual and spiritual content, cyclically emerge into material manifestation, exist objectively for a time, and then, passing into obscuration, return to the subjective state. | Trong điều này, chúng ta quan sát sự vận hành của định luật phổ quát mà khoa học vật lý gọi là Định luật Tuần hoàn. Định luật này được tìm thấy vận hành trong cả vũ trụ vật chất và sự mở rộng siêu vật chất của nó. Theo sự vận hành của định luật này, các Thái Dương Hệ, các mặt trời và hành tinh vật chất của chúng, và nội dung tâm linh, trí tuệ và tinh thần của chúng, tuần hoàn nổi lên trong sự biểu hiện vật chất, tồn tại một cách khách quan trong một thời gian, và sau đó, đi vào bóng tối, trở về trạng thái chủ quan. |
This Law of Periodicity may be likened to a force which maintains the ceaseless swing of a pendulum. It continues to operate on the Solar System and all that it contains, at every point of the swing, even though the system be reduced to its finest essence in the subjective unmanifest condition, which is the opposite extreme of full objective manifestation. According to occult science, the Solar System has thus its major night and day, its subjective and objective states, between which it oscillates continuously. | Định luật Tuần hoàn này có thể được ví như một lực duy trì sự dao động không ngừng của một con lắc. Nó tiếp tục vận hành trên Thái Dương Hệ và tất cả những gì nó chứa đựng, tại mọi điểm của sự dao động, ngay cả khi hệ thống được giảm xuống đến bản chất tốt nhất của nó trong điều kiện không biểu hiện chủ quan, vốn là cực đối lập của sự biểu hiện khách quan đầy đủ. Theo huyền bí học, Thái Dương Hệ do đó có ngày và đêm chính, trạng thái chủ quan và khách quan, giữa đó nó dao động liên tục. |
When, therefore, Cosmogenesis says Tn the beginning’, the statement must be taken to mean, ‘the beginning of a period of objective manifestation’, or ‘At the dawn of a new creative day’. | Vì vậy, khi Thuyết Sáng Thế nói Tn ban đầu’, tuyên bố này phải được hiểu là, ‘sự khởi đầu của một giai đoạn biểu hiện khách quan’, hoặc ‘Vào buổi bình minh của một ngày sáng tạo mới’. |
To this concept of perpetual oscillation must be added one further and exceedingly important principle. Unlike that of the pendulum, the universal swing is not back and forth along the same path. It is both ellipsoid and spiral. Any particular manifestation is not an exact duplicate of its predecessor; on the contrary, while the substance and content are similar, the condition is different. There is an ascent, or, in a word, there is growth. The Solar System, being alive, grows. | Vào khái niệm về sự dao động vĩnh viễn này, cần phải thêm một nguyên tắc quan trọng hơn nữa. Không giống như con lắc, sự dao động phổ quát không qua lại dọc theo cùng một con đường. Nó vừa có hình elip vừa có hình xoắn ốc. Bất kỳ sự biểu hiện cụ thể nào không phải là một bản sao chính xác của tiền thân của nó; ngược lại, trong khi chất liệu và nội dung tương tự nhau, thì điều kiện lại khác. Có một sự thăng lên, hay nói một cách khác, có sự tăng trưởng. Thái Dương Hệ, vốn sống động, phát triển. |
The Logos Utters the Word | Thượng đế Phát Ra Linh Từ |
The divine ‘idea’ of the Solar System is in this sense new; it probably includes one major creative concept as the central theme, as also every possible variation, digression and development. | ‘Ý tưởng’ thiêng liêng về Thái Dương Hệ theo nghĩa này là mới; nó có lẽ bao gồm một khái niệm sáng tạo chính như là chủ đề trung tâm, cũng như mọi biến thể, đi chệch hướng và phát triển có thể có. |
We must now go back to the ‘beginning’, to that ‘dawn when the morning stars sang together and the Sons of God shouted for joy’. The divine ‘hour’ strikes. The cosmic ‘moment’ arrives at which the silence of creative ‘night’ is broken by the utterance of the Word. The Logos begins to chant the mighty mantram of His being. Creative energy pours forth. The One becomes the Three, and then the Seven appear, the Sephiroth, the first fruits of the preceding Solar System. Creative energy is released, passing from the one Source, the Point, into and through the Three, the Triangle, and the Seven, the Sphere. Thence it impinges or is ‘breathed’ upon the ‘waters’ of primordial space. | Bây giờ chúng ta phải quay trở lại ‘khởi đầu’, đến ‘bình minh khi các vì sao buổi sáng cùng nhau ca hát và Các Con của Thượng đế reo mừng’. ‘Giờ’ thiêng liêng điểm. ‘Thời khắc’ vũ trụ đến khi sự im lặng của ‘đêm’ sáng tạo bị phá vỡ bởi sự phát ra của Linh từ. Thượng đế bắt đầu xướng lên mantram hùng mạnh về sự tồn tại của Ngài. Năng lượng sáng tạo tuôn chảy ra. Đấng Duy Nhất trở thành Tam Vị, và sau đó Thất Thánh xuất hiện, Sephiroth, những thành quả đầu tiên của Thái Dương Hệ trước đó. Năng lượng sáng tạo được giải phóng, đi từ một Nguồn, Điểm, vào và xuyên qua Tam Vị, Tam Giác và Thất Thánh, Hình Cầu. Từ đó nó tác động hoặc được ‘thở’ trên ‘vùng nước’ của không gian nguyên thủy. |
Space consists of matter unpolarised. It is called chaotic, formless, void and virginal, because within it order, form, fullness and fertility are subjective. Under the influence of the creative ‘breath’ or | Không gian bao gồm vật chất không phân cực. Nó được gọi là hỗn loạn, vô hình, trống rỗng và trinh nguyên, bởi vì bên trong nó trật tự, hình thức, sự viên mãn và khả năng sinh sản là chủ quan. Dưới ảnh hưởng của ‘hơi thở’ sáng tạo hoặc |
Word, these become objective, whereupon from chaos, cosmos is born, Time and the Cycles immediately reign. According to Egyptian cosmogony the seven planes of Nature are gradually formed by the seven peals of laughter by which Thoth created the Universe. | Linh từ, những điều này trở nên khách quan, khi đó từ sự hỗn loạn, vũ trụ được sinh ra, Thời Gian và các Chu Kỳ ngay lập tức ngự trị. Theo vũ trụ luận Ai Cập, bảy cõi của Tự Nhiên dần dần được hình thành bởi bảy tràng cười mà Thoth đã tạo ra Vũ Trụ. |
Chaos is perceived as the great opponent of Order, and there is ceaseless conflict between them during manifestation. They are negative and positive poles, and yet in the One Root the Two are one. Actually, manifestation is a ceaseless war between these two great antagonists. | Sự Hỗn Loạn được nhận thức là đối thủ vĩ đại của Trật Tự, và có một cuộc xung đột không ngừng giữa chúng trong quá trình biểu hiện. Chúng là các cực âm và dương, nhưng trong Một Gốc, Hai là một. Thực tế, sự biểu hiện là một cuộc chiến không ngừng giữa hai đối thủ vĩ đại này. |
At the dawn of creation Chaos reigns, master of the fields of space. At high noon the conflict is at its height, for then the opposing forces are equal in their power. Then follows the gradual defeat of chaos, which at solar nightfall is complete. Then Order reigns, and into it Chaos—in no sense destroyed—has been absorbed, its forces united and harmoniously working with those of Law. | Vào buổi bình minh của sự sáng tạo, Sự Hỗn Loạn ngự trị, làm chủ các lĩnh vực không gian. Vào giữa trưa, cuộc xung đột lên đến đỉnh điểm, vì khi đó các lực lượng đối lập ngang bằng về sức mạnh. Sau đó là sự thất bại dần dần của sự hỗn loạn, vốn hoàn toàn vào lúc mặt trời lặn. Sau đó Trật Tự ngự trị, và vào đó Sự Hỗn Loạn—không hề bị tiêu diệt—đã bị hấp thụ, các lực lượng của nó hợp nhất và hài hòa làm việc với các lực lượng của Định luật. |
War in Heaven | Chiến Tranh trên Thiên Đàng |
The war in Heaven is an everlasting war, waged continuously by the Great Opponents, Chaos and Order, Spirit and Matter, Life and Form, Universality and Individuality, Consciousness and Vehicle. Matter and Spirit share the victory equally, for Matter may be said to conquer in the sense that no permanent impress of the Spirit may be made upon it; though captured for a time, eventually it escapes. Spirit appears to conquer in that, in gradually increasing degree, matter becomes its servant; yet Spirit loses continually in that no final victory is ever attained. Only THAT, the One Alone, wins permanent victory and receives the victor’s crown. THAT which is beyond the conflict, yet is the conflict’s cause: THAT which is neither spirit nor matter yet is the essence of both: THAT from which both life and form emerge: THAT to which both return—THAT achieves completely its predetermined goal. | Cuộc chiến trên Thiên Đàng là một cuộc chiến vĩnh cửu, liên tục được tiến hành bởi Các Đối Thủ Vĩ Đại, Sự Hỗn Loạn và Trật Tự, Tinh Thần và Vật Chất, Sự Sống và Hình Tướng, Tính Phổ Quát và Tính Cá Nhân, Tâm thức và Vận cụ. Vật Chất và Tinh Thần chia sẻ chiến thắng một cách bình đẳng, vì Vật Chất có thể được cho là chiến thắng theo nghĩa là không có dấu ấn vĩnh viễn nào của Tinh Thần có thể được tạo ra trên nó; mặc dù bị bắt giữ trong một thời gian, cuối cùng nó cũng trốn thoát. Tinh Thần dường như chinh phục ở chỗ, ở mức độ tăng dần, vật chất trở thành tôi tớ của nó; tuy nhiên Tinh Thần liên tục thua cuộc ở chỗ không bao giờ đạt được chiến thắng cuối cùng. Chỉ CÁI ĐÓ, Đấng Duy Nhất, giành được chiến thắng vĩnh viễn và nhận được vương miện của người chiến thắng. CÁI ĐÓ vượt ra ngoài cuộc xung đột, nhưng lại là nguyên nhân của cuộc xung đột: CÁI ĐÓ không phải là tinh thần cũng không phải là vật chất nhưng là bản chất của cả hai: CÁI ĐÓ từ đó cả sự sống và hình tướng nổi lên: CÁI ĐÓ mà cả hai đều trở về—CÁI ĐÓ hoàn thành một cách trọn vẹn mục tiêu đã định trước của nó. |
In Christian symbology the Virgin Mare or sea of space divinely conceives, becomes pregnant with the Solar System which She continuously brings forth, Herself ever remaining immaculate. The creative energy is the Word which was ‘in the beginning’ and which ‘God spake’. | Trong biểu tượng Cơ Đốc giáo, Trinh Nữ Mare hay biển không gian thụ thai một cách thiêng liêng, mang thai Thái Dương Hệ mà Bà liên tục sinh ra, Bản Thân Bà mãi mãi vẫn còn tinh khiết. Năng lượng sáng tạo là Linh từ vốn ‘ở ban đầu’ và ‘Thượng đế đã phán’. |
The Word must be regarded as an energy-on-frequencies expression of the divine ‘idea’. It is therefore a chord, the keynote of which is part of a chord completed by the keynotes of the other Solar Systems in its group. The Word of that group, itself a chord, is in its turn a note in the chord which is the penultimate or cosmic Word, of which the whole sidereal system is a partial manifestation. | Linh từ phải được coi là một biểu hiện năng lượng-trên-tần số của ‘ý tưởng’ thiêng liêng. Do đó, nó là một hợp âm, âm chủ của nó là một phần của một hợp âm được hoàn thành bởi các âm chủ của các Thái Dương Hệ khác trong nhóm của nó. Linh từ của nhóm đó, bản thân nó là một hợp âm, đến lượt nó là một nốt trong hợp âm vốn là Linh từ áp chót hoặc vũ trụ, mà toàn bộ hệ thống sao là một biểu hiện một phần. |
Archetypal Forces | Các Lực Lượng Nguyên Mẫu |
The Solar Word-Force, relayed from cosmic servers, causes the matter of space to assume or produce at the causal level a ‘form’ which is the primordial archetype, probably a combined series of seven magnetic centres or points with radiating lines as fields. At each of these seven centres Divine Thought is focused or incarnate; from within each it governs the direction and range of the radiations and through them all subsequent development of form. For all ultimate expansion and development in the form worlds is expressive of the divine ‘idea’ centred in each of the seven centres of the archetype. Each of the seven centres or vortices is a manifestation of the creative power of the Logos, modified by transmission through one of the Sephiroth. These seven streams of power produce the vortices in the solar archetype and later the chakras—solar, scheme, chain, planetary, human and sub-human. Accordingly all chakras of the same type are linked, each being a manifestation at its own level of the same stream of creative energy, ray or note in the Word. The heart chakram of man, for example, is one with, even part of, the heart chakras of the planetary, chain, scheme and Solar Logoi. | Linh Từ-Mãnh Lực Thái Dương, được chuyển tiếp từ các người phụng sự vũ trụ, khiến vật chất của không gian đảm nhận hoặc tạo ra ở cấp độ nhân quả một ‘hình thức’ vốn là nguyên mẫu nguyên thủy, có lẽ là một loạt kết hợp gồm bảy trung tâm hoặc điểm từ tính với các đường bức xạ như các trường. Tại mỗi một trong bảy trung tâm này, Tư Tưởng Thiêng Liêng được tập trung hoặc nhập thể; từ bên trong mỗi trung tâm, nó chi phối phương hướng và phạm vi của các bức xạ và thông qua chúng tất cả sự phát triển hình tướng tiếp theo. Vì tất cả sự mở rộng và phát triển cuối cùng trong các thế giới hình tướng đều thể hiện ‘ý tưởng’ thiêng liêng tập trung trong mỗi một trong bảy trung tâm của nguyên mẫu. Mỗi một trong bảy trung tâm hoặc xoáy nước là một biểu hiện của quyền năng sáng tạo của Thượng đế, được sửa đổi bằng cách truyền qua một trong các Sephiroth. Bảy dòng năng lượng này tạo ra các xoáy nước trong nguyên mẫu thái dương và sau này là các luân xa—thái dương, hệ hành tinh, dãy, hành tinh, con người và dưới con người. Theo đó, tất cả các luân xa cùng loại được liên kết, mỗi luân xa là một biểu hiện ở cấp độ riêng của nó về cùng một dòng năng lượng sáng tạo, cung hoặc nốt trong Linh từ. Ví dụ, luân xa tim của con người là một với, thậm chí là một phần của, các luân xa tim của Hành Tinh Thượng đế, dãy, hệ hành tinh và Thái dương Thượng đế. |
The seven vortices in the archetype are the basic ‘forms’ in the formless worlds, form-producing agencies, essences or formulae of form in the form-worlds they are represented by the Platonic Solids. | Bảy xoáy nước trong nguyên mẫu là các ‘hình thức’ cơ bản trong các thế giới vô hình, các cơ quan sản xuất hình tướng, các yếu tố hoặc công thức của hình tướng trong các thế giới hình tướng, chúng được đại diện bởi các Khối Đa Diện Platon. |
Chakras differ in colour and number of petals, and the Platonic Solids differ in number of points and lines, because each is a product of one of the seven different groups of frequencies, types or Rays into which the one creative energy is divided by passage through the Three and Seven. | Các luân xa khác nhau về màu sắc và số lượng cánh hoa, và các Khối Đa Diện Platon khác nhau về số lượng điểm và đường, bởi vì mỗi luân xa là một sản phẩm của một trong bảy nhóm tần số, loại hoặc Cung khác nhau mà năng lượng sáng tạo duy nhất được chia ra do đi qua Tam Vị và Thất Thánh. |
Universe Based on Number | Vũ Trụ Dựa trên Số |
Thus Creation is based on numerical principles; thus God geometrizes. | Do đó, Sự Sáng Tạo dựa trên các nguyên tắc số học; do đó Thượng đế hình học hóa. |
Systemic archetypes are in no sense separate from their Creator; they are objective manifestations of His consciousness, incarnations of His Creative intent. Nor are they separate from their material expressions, the evolving forms. They are the links between the consciousness of the Great Designer and its objective expression as Nature’s varied forms; syntheses of the essence of both; modified manifestations of creative intent as expressed in the intermediate realm of abstract thought. | Các nguyên mẫu hệ thống không hề tách rời khỏi Đấng Sáng Tạo của chúng; chúng là những biểu hiện khách quan về tâm thức của Ngài, những hiện thân về ý định Sáng Tạo của Ngài. Chúng cũng không tách rời khỏi những biểu hiện vật chất của chúng, các hình tướng đang tiến hóa. Chúng là những liên kết giữa tâm thức của Nhà Thiết Kế Vĩ Đại và sự biểu hiện khách quan của nó như là các hình tướng đa dạng của Tự Nhiên; sự tổng hợp bản chất của cả hai; những biểu hiện đã được sửa đổi về ý định sáng tạo như được thể hiện trong cõi trung gian của tư tưởng trừu tượng. |
As transmitters of the Word-Force, the archetypes serve as relay stations between the Source and the physical plane; or as storage batteries continually discharging into the form-worlds and as constantly recharged from the formless. | Là những người truyền dẫn Linh Từ-Mãnh Lực, các nguyên mẫu đóng vai trò là các trạm chuyển tiếp giữa Nguồn và cõi hồng trần; hoặc như các pin lưu trữ liên tục phóng điện vào các thế giới hình tướng và liên tục được sạc lại từ thế giới vô hình. |
The archetype therefore is far more than a passive model copied by the Deva builders. It is also a positive form-producing agency. Creative energy, on the group of frequencies expressive of the divine ‘idea’ is focused in it on its way outwards or downwards to the form worlds. Its impact, first upon the fourth sub-plane of the mental plane, sets up a magnetic field therein, with radiating lines of force, the arrangement, direction of flow, and shape of which is governed by the frequencies on which the force is flowing, namely those of the archetype. | Do đó, nguyên mẫu không chỉ là một mô hình thụ động được sao chép bởi các nhà kiến tạo Deva. Nó cũng là một cơ quan sản xuất hình tướng tích cực. Năng lượng sáng tạo, trên nhóm tần số thể hiện ‘ý tưởng’ thiêng liêng được tập trung vào nó trên đường đi ra ngoài hoặc đi xuống các thế giới hình tướng. Tác động của nó, đầu tiên là trên cõi phụ thứ tư của cõi trí, tạo ra một trường từ tính ở đó, với các đường mãnh lực bức xạ, sự sắp xếp, hướng dòng chảy và hình dạng của nó được chi phối bởi các tần số mà mãnh lực đang chảy, cụ thể là các tần số của nguyên mẫu. |
This field, with its magnetic centre and radiating lines, is the basic form throughout Nature. Surrounded by an astro-mental envelope in the form-worlds it constitutes the first form: i.e. the ‘line’ and ‘pudding bag’ body of early cycles, the animalculae of later. | Trường này, với trung tâm từ tính và các đường bức xạ của nó, là hình thức cơ bản trong khắp Tự Nhiên. Được bao quanh bởi một lớp vỏ trí-cảm trong các thế giới hình tướng, nó cấu thành hình thức đầu tiên: tức là ‘đường’ và ‘túi bánh pudding’ của các chu kỳ ban đầu, các động vật nguyên sinh của các chu kỳ sau này. |
Matter of the plane in which the magnetic field is set up is drawn into the field and gradually a dense body is built. Thus, plane by plane, the Word-Force eventually reaches the physical world. Being related to sound and therefore form-producing, there it also causes etheric and later dense matter to assume shapes expressive of the archetype and divine ‘idea’. | Vật chất của cõi mà trường từ tính được thiết lập được hút vào trường và dần dần một thể đậm đặc được xây dựng. Do đó, cõi này qua cõi khác, Linh Từ-Mãnh Lực cuối cùng cũng đến được thế giới vật chất. Có liên quan đến âm thanh và do đó tạo ra hình tướng, ở đó nó cũng khiến vật chất dĩ thái và sau đó là vật chất đậm đặc đảm nhận các hình dạng thể hiện nguyên mẫu và ‘ý tưởng’ thiêng liêng. |
The Deva Builders | Các Nhà Kiến Tạo Deva |
In this process of the production of concrete evolving forms by the utterance of the Word, the Great Designer and Creator is assisted by those orders of beings among the Devic Hosts known as the | Trong quá trình sản xuất các hình tướng tiến hóa cụ thể bằng cách phát ra Linh từ này, Nhà Thiết Kế và Đấng Sáng Tạo Vĩ Đại được hỗ trợ bởi những trật tự chúng sinh trong số các Đạo Binh Deva được gọi là |
Builders. The members of the higher ranks in this order are aware of the creative intent, perceive and know the archetype, and by self-unification with the descending Word-Force, particularly with those groups of frequencies which are identical with those of their own nature, thereby augment its form-producing power. Representing as they do the feminine Aspect of the Logos, their presence within the magnetic fields accentuates Its influence. They unify themselves with the descending Creative Word-Force, the masculine Aspect, and blend themselves with its various rays; intensifies the component frequencies of those Rays and, as above stated, augments their power to produce form. | Các Nhà Kiến Tạo. Các thành viên của các cấp bậc cao hơn trong trật tự này nhận thức được ý định sáng tạo, nhận thức và biết nguyên mẫu, và bằng cách tự hợp nhất với Linh Từ-Mãnh Lực đi xuống, đặc biệt là với những nhóm tần số giống hệt với bản chất của chính họ, do đó làm tăng sức mạnh sản xuất hình tướng của nó. Đại diện cho Phương Diện nữ tính của Thượng đế, sự hiện diện của họ trong các trường từ tính làm nổi bật ảnh hưởng của Nó. Họ hợp nhất bản thân với Linh Từ-Mãnh Lực Sáng Tạo đi xuống, Phương Diện nam tính, và hòa trộn bản thân với các cung khác nhau của nó; tăng cường các tần số thành phần của các Cung đó và, như đã nêu ở trên, làm tăng sức mạnh của chúng để tạo ra hình tướng. |
Within the order of Deva Builders are Hierarchies which are themselves as a whole and as individuals, manifestations of those chords in the Word of which the archetypes and concrete forms are an expression. This affinity of vibration brings the particular hierarchy into the appropriate field of work as form builders in the four kingdoms of Nature. | Trong trật tự của Các Nhà Kiến Tạo Deva là các Huyền Giai, bản thân chúng là toàn bộ và là các cá nhân, những biểu hiện của những hợp âm trong Linh từ mà các nguyên mẫu và hình tướng cụ thể là một biểu hiện. Sự tương đồng về rung động này đưa huyền giai cụ thể vào lĩnh vực làm việc thích hợp với tư cách là những người xây dựng hình tướng trong bốn giới của Tự Nhiên. |
Gold for example may be regarded as the physical manifestation or end-product of the gold frequencies in the archetype, the ‘gold’ notes in the Word, and of the gold aspect of the Logos. Creative energy on gold wavelengths entering the form-worlds, by processes already described, causes matter to assume the particular molecular arrangement, crystalline form, and colour of gold. | Ví dụ, vàng có thể được coi là sự biểu hiện vật chất hoặc sản phẩm cuối cùng của các tần số vàng trong nguyên mẫu, các nốt ‘vàng’ trong Linh từ và khía cạnh vàng của Thượng đế. Năng lượng sáng tạo trên các bước sóng vàng đi vào các thế giới hình tướng, bằng các quy trình đã được mô tả, khiến vật chất đảm nhận sự sắp xếp phân tử, dạng tinh thể và màu sắc đặc biệt của vàng. |
Gold nature spirits at the etheric and astral levels and Devas above, in an ascending hierarchy right up to the Source, respond, when the Word is uttered to the gold ‘call’, because it is that of their own inherent nature; for they are themselves devic gold, manifestations in their kingdom of the gold aspect of the Supreme. | Các tinh linh tự nhiên vàng ở cõi dĩ thái và cõi cảm dục và Deva ở trên, trong một huyền giai tăng dần ngay đến Nguồn, đáp ứng, khi Linh từ được phát ra cho ‘tiếng gọi’ vàng, bởi vì đó là bản chất vốn có của chính họ; vì bản thân chúng là vàng devic, những biểu hiện trong giới của chúng về khía cạnh vàng của Đấng Tối Cao. |
In addition to their assistance from within the stream of force and the magnetic fields, the play of their consciousness and auric energies from without, all on gold wave lengths, increases the tendency of matter to respond to the Word and under its influence more readily to assume the gold atomic construction, gold molecular and crystalline arrangement, gold colour and consistency. | Ngoài sự hỗ trợ của họ từ bên trong dòng mãnh lực và các trường từ tính, sự tác động của tâm thức và năng lượng hào quang của họ từ bên ngoài, tất cả trên các bước sóng vàng, làm tăng xu hướng vật chất đáp ứng với Linh từ và dưới ảnh hưởng của nó dễ dàng hơn để đảm nhận cấu trúc nguyên tử vàng, sự sắp xếp phân tử và tinh thể vàng, màu sắc và độ đặc của vàng. |
The nature spirits perform their astro-etheric part of this work instinctively, the Devas consciously, and from within the Force aspect of Nature. This fact gives significance to the statement in Hindu philosophy that all natural scenery is the materialized aura of the Gods; for all the varied forms of Nature owe their existence and appearance to these creative processes and to the constant labours of the Gods. When we look upon Nature in Her varied aspects, Her metals and jewels, Her great landscapes, Her waterfalls, and Her rivers, when we gaze in awe upon Her great mountain ranges—God’s most glorious gesture, as they have been called, we are gazing indeed not only upon the Gods, but upon God himself. | Các tinh linh giới tự nhiên thực hiện phần dĩ thái-chiêm tinh của công việc này một cách bản năng, các thiên thần Deva một cách có ý thức, và từ bên trong phương diện Mãnh Lực của Tự Nhiên. Thực tế này mang lại ý nghĩa cho tuyên bố trong triết học Hindu rằng tất cả cảnh quan thiên nhiên là hào quang vật chất hóa của Các Thượng đế; vì tất cả các hình thái đa dạng của Tự Nhiên đều có sự tồn tại và diện mạo nhờ vào các quá trình sáng tạo này và những lao động không ngừng của Các Thượng đế. Khi chúng ta nhìn vào Tự Nhiên trong các khía cạnh đa dạng của Bà, các kim loại và châu báu của Bà, các cảnh quan vĩ đại của Bà, các thác nước và các dòng sông của Bà, khi chúng ta kinh ngạc ngắm nhìn các dãy núi vĩ đại của Bà—cử chỉ vinh quang nhất của Thượng đế, như chúng đã được gọi, chúng ta thực sự không chỉ ngắm nhìn Các Thượng đế, mà còn ngắm nhìn chính Thượng đế. |
For Nature is but God revealed, God’s dream made manifest with the assistance of the Gods. | Vì Tự Nhiên chẳng qua là Thượng đế được tiết lộ, giấc mơ của Thượng đế được biểu hiện với sự hỗ trợ của Các Thượng đế. |
The Symphony of Creation | Bản Giao Hưởng Sáng Tạo |
Before moving on to the end portion of this address, which is concerned with the creative processes as manifest by man the microcosm, let us briefly recapitulate. A concept has been presented of the Logos as Musician, of the act of creation as the performance of a composition which He conceived and developed in earlier creative ‘days’ and perchance perfected in the silence and darkness of intervening creative ‘nights’. When once more there is to be Light, He utters the Word, and that Word brings all things into being. This first sounding forth of the ‘motif of the new Universe is ‘heard’ by virgin matter, which under certain laws responds. Gradually, as a result, the archetypes and the planes of Nature with their forms appear. | Trước khi chuyển sang phần cuối của bài nói này, vốn liên quan đến các quá trình sáng tạo được biểu hiện bởi con người tiểu thiên địa, chúng ta hãy tóm tắt ngắn gọn. Một khái niệm đã được trình bày về Hành Tinh Thượng đế như một Nhạc Sĩ, về hành động sáng tạo như việc trình diễn một tác phẩm mà Ngài đã hình dung và phát triển trong những ‘ngày’ sáng tạo trước đó và có lẽ đã hoàn thiện trong sự tĩnh lặng và bóng tối của những ‘đêm’ sáng tạo xen kẽ. Khi một lần nữa có Ánh Sáng, Ngài thốt ra Linh từ, và Linh từ đó mang tất cả mọi thứ vào tồn tại. Âm thanh đầu tiên này của ‘mô típ của Vũ Trụ mới’ được ‘lắng nghe’ bởi vật chất nguyên sơ, vốn đáp ứng theo một số định luật nhất định. Dần dần, kết quả là, các nguyên mẫu và các cõi của Tự Nhiên với các hình tướng của chúng xuất hiện. |
This universal motif becomes manifest as myriads of chords, each a coherent self-existent sound with its force and light manifestation. Each chord appears as a relatively changeless abstract form, or archetype, in the Higher Mental world of a particular globe. These archetypes in their turn sound their ‘words’, relaying into the form worlds the primal Word-Force; magnetic fields are thereby set up, matter is drawn into and round them, and evolving forms appear. These forms become the abode of intelligences at varying stages of evolution, which, through experience in them, gradually unfold their innate faculties and powers and cause the forms to develop until the standard of development set for consciousness and forms has been attained. Thus ‘the Word was made flesh and dwelt among us’. | Mô típ vũ trụ này trở nên hiển nhiên như vô số hợp âm, mỗi hợp âm là một âm thanh tự tồn tại mạch lạc với sự biểu hiện mãnh lực và ánh sáng của nó. Mỗi hợp âm xuất hiện như một hình tướng trừu tượng tương đối bất biến, hay nguyên mẫu, trong cõi Thượng Trí của một địa cầu cụ thể. Đến lượt mình, các nguyên mẫu này phát ra ‘linh từ’ của chúng, chuyển tiếp Mãnh Lực-Linh từ nguyên thủy vào các thế giới hình tướng; các trường từ tính do đó được thiết lập, vật chất được hút vào và xung quanh chúng, và các hình tướng đang tiến hóa xuất hiện. Các hình tướng này trở thành nơi cư ngụ của các trí tuệ ở các giai đoạn tiến hóa khác nhau, vốn, thông qua kinh nghiệm trong chúng, dần dần mở ra các khả năng và quyền năng bẩm sinh của chúng và khiến các hình tướng phát triển cho đến khi đạt được tiêu chuẩn phát triển đặt ra cho tâm thức và các hình tướng. Như vậy ‘Linh từ đã trở thành nhục thể và ở giữa chúng ta’. |
When under the Law of Cycles the time limit of objective manifestation has been reached the whole Solar System is withdrawn | Khi theo Định luật Chu Kỳ, giới hạn thời gian của sự biểu hiện khách quan đã đạt đến, toàn bộ Hệ Mặt Trời được rút lui |
into the subjective state in which it remains until, under the same law, it is to reappear and continue the process of development or ascent from the point reached at the close of the preceding ‘days’. | vào trạng thái chủ quan, trong đó nó vẫn ở đó cho đến khi, theo cùng một định luật, nó sẽ xuất hiện trở lại và tiếp tục quá trình phát triển hoặc thăng lên từ điểm đã đạt được khi kết thúc ‘những ngày’ trước đó. |
We may now proceed to study these processes as they occur in microcosmic creation by man. | Bây giờ chúng ta có thể tiến hành nghiên cứu các quá trình này khi chúng xảy ra trong sự sáng tạo vi mô bởi con người. |
Perhaps the most profound of all the profound truths contained within the arcane teachings is that of the unity and identity of the Macrocosm and the Microcosm, and of the similarity between the processes by which both become manifest and evolved. | Có lẽ điều sâu sắc nhất trong tất cả những chân lý sâu sắc chứa đựng trong các giáo lý huyền bí là về sự hợp nhất và đồng nhất của Đại Thiên Địa và Tiểu Thiên Địa, và về sự tương đồng giữa các quá trình mà cả hai trở nên hiển nhiên và tiến hóa. |
Man the Microcosm | Con Người Tiểu Thiên Địa |
The Logos and man are one; all that is in the Logos, which includes the Solar System, is innate in man. Their constitution is precisely similar, that is to say sevenfold. Each, as Ego, is both immanent within and transcendent beyond their respective fields of manifestation. | Hành Tinh Thượng đế và con người là một; tất cả những gì có trong Hành Tinh Thượng đế, bao gồm cả Hệ Mặt Trời, đều bẩm sinh ở con người. Cấu tạo của chúng hoàn toàn tương tự nhau, nghĩa là thất phân. Mỗi bên, với tư cách là Chân Ngã, vừa thường trú bên trong vừa siêu việt ra ngoài các lĩnh vực biểu hiện tương ứng của chúng. |
The creative processes by which a Solar System comes into being and is sustained also govern procreation by man and his descent into material vehicles. True, therefore, is the statement that ‘the proper study of mankind is man’. Wise the injunction of the mystery schools of old: ‘Man, know thyself, for when man truly knows himself, he knows all. | Các quá trình sáng tạo mà qua đó một Hệ Mặt Trời hình thành và được duy trì cũng chi phối sự sinh sản của con người và sự giáng thế của y vào các vận cụ vật chất. Do đó, đúng là tuyên bố rằng ‘nghiên cứu thích hợp về nhân loại là con người’. Thật khôn ngoan lời răn dạy của các trường phái huyền môn thời xưa: ‘Hỡi con người, hãy tự biết mình, vì khi con người thực sự biết mình, y biết tất cả. |
As in the study of macrocosmic creative processes the starting place was the Word, so consideration must be given here to the opening of a new human incarnation and the microcosmic utterance of his ‘Word’ by the incarnating Ego. | Như trong nghiên cứu về các quá trình sáng tạo vĩ mô, điểm khởi đầu là Linh từ, vì vậy cần xem xét ở đây việc mở ra một kiếp nhân sinh mới và sự phát ra ‘Linh từ’ vi mô của y bởi Chân Ngã đang nhập thể. |
At conception, the Ego about to incarnate is attached by a Deva through his physical permanent atom to the twin cell then formed. Down the thread of life connecting the Causal Body with the mental, astral and physical permanent atoms, descends the microcosmic Word-force, or Egoic power, life and consciousness. This triple stream of creative energy—the Neptunian trident—vibrates on frequencies expressive of the Egoic ray, evolutionary standing, qualities of character and consciousness already developed, karma, both happy and unhappy in its outworking, and such future powers as are already being foreshadowed in the time-synthesising Causal Body. This Egoic | Vào lúc thụ thai, Chân Ngã sắp nhập thể được một thiên thần Deva gắn vào tế bào song sinh vừa hình thành thông qua nguyên tử trường tồn thể xác của y. Xuống theo sinh mệnh tuyến kết nối Thể Nguyên Nhân với các nguyên tử trường tồn trí tuệ, cảm dục và thể xác, Mãnh Lực-Linh từ vi mô giáng xuống, hay quyền năng, sự sống và tâm thức Chân Ngã. Luồng tam phân năng lượng sáng tạo này—đinh ba của Sao Hải Vương—rung động trên các tần số biểu thị cung chân ngã, vị thế tiến hóa, các phẩm chất tính cách và tâm thức đã phát triển, nghiệp quả, cả hạnh phúc và bất hạnh trong sự thể hiện của nó, và những quyền năng tương lai như vậy vốn đã được báo trước trong Thể Nguyên Nhân tổng hợp thời gian. |
Word is the spiritual name. All these are expressed as notes in the chord of the Egoic Word, and modify greatly the parental characteristics originally transmitted by ovum and spermatozoon. In normal humanity the Chord is incomplete, because certain qualities are still but germinal, consequently, in each of us there is the latent unstruck music of the soul, the notes not yet sounding forth. In the Adept the full chord is heard in all its beauty and its power. | Linh từ Chân Ngã này là tên tinh thần. Tất cả những điều này được thể hiện như các nốt trong hợp âm của Linh từ Chân Ngã, và sửa đổi rất nhiều các đặc điểm của cha mẹ ban đầu được truyền lại bởi trứng và tinh trùng. Ở nhân loại bình thường, Hợp Âm không hoàn chỉnh, vì một số phẩm chất vẫn còn ở dạng mầm mống, do đó, trong mỗi chúng ta đều có âm nhạc tiềm ẩn chưa được tấu lên của linh hồn, những nốt nhạc chưa vang lên. Ở Bậc Chân Sư, toàn bộ hợp âm được nghe thấy trong tất cả vẻ đẹp và quyền năng của nó. |
The Monadic Word | Linh Từ Chân Thần |
This creative power of the Ego originates in the Monad, by which the Word is primarily uttered. This Monadic word is a chord in the macrocosmic Verbum. This is in its turn a note in the chord of a larger unit, that also being a note in the cosmic Word of the whole sidereal system. Between that highest and this lowest in man there is a direct link; both are part of one great creative process. | Quyền năng sáng tạo này của Chân Ngã bắt nguồn từ Chân Thần, nhờ đó Linh từ được phát ra chủ yếu. Linh từ Chân Thần này là một hợp âm trong Verbum vĩ mô. Đến lượt nó, đây là một nốt trong hợp âm của một đơn vị lớn hơn, vốn cũng là một nốt trong Linh từ vũ trụ của toàn bộ hệ sao. Giữa cái cao nhất và cái thấp nhất này ở con người có một mối liên kết trực tiếp; cả hai đều là một phần của một quá trình sáng tạo vĩ đại. |
The Causal Body in this case may be thought of as the microcosmic archetype, the vehicle for and expression of Monadic creative power, which it relays into the form worlds to initiate a new descent into incarnation. The permanent atom on each plane would seem to correspond fairly closely to chaos or virgin space, for the permanent atom is the storehouse of the skandhas, and in inter-incarnation periods is in a relatively static subjective state—it is awakened by the descending Word-force from the relatively subjective, original condition of inter-incamation periods, to become the focus for and transmitter of the relayed creative energy. Magnetic fields are then set up, and matter capable of response to the emitted wavelengths is drawn into that field. The type of matter attracted, especially as to the preponderance of one or other of the three Gunas, is that which corresponds to the primary rays on Monad and Ego. Thus in the very matter of which man’s bodies are built, as also in every other particular, perfect justice is automatically meted out to him regarding the equipment with which life’s journey is begun. | Trong trường hợp này, Thể Nguyên Nhân có thể được coi là nguyên mẫu vi mô, là vận cụ cho và sự biểu hiện của quyền năng sáng tạo Chân Thần, vốn nó chuyển tiếp vào các thế giới hình tướng để khởi xướng một sự giáng thế mới vào kiếp nhân sinh. Nguyên tử trường tồn trên mỗi cõi dường như tương ứng khá chặt chẽ với sự hỗn mang hoặc không gian nguyên sơ, vì nguyên tử trường tồn là kho chứa của các uẩn, và trong các giai đoạn giữa các kiếp nhân sinh, nó ở trong một trạng thái chủ quan tương đối tĩnh—nó được đánh thức bởi Mãnh Lực-Linh từ giáng xuống từ trạng thái chủ quan, ban đầu tương đối của các giai đoạn giữa các kiếp nhân sinh, để trở thành tiêu điểm cho và bộ truyền dẫn năng lượng sáng tạo được chuyển tiếp. Các trường từ tính sau đó được thiết lập, và vật chất có khả năng đáp ứng với các bước sóng phát ra được hút vào trường đó. Loại vật chất bị thu hút, đặc biệt là về sự vượt trội của một hoặc một trong ba Gunas, là loại tương ứng với các cung chính trên Chân Thần và Chân Ngã. Như vậy, trong chính vật chất mà các thể của con người được xây dựng, cũng như trong mọi chi tiết khác, công lý hoàn hảo được tự động ban cho y liên quan đến trang bị mà cuộc hành trình cuộc đời được bắt đầu. |
This stage immediately following conception may perhaps be compared to that in macrocosmic processes at which the Word has produced the archetype, and through that the magnetic centres with their lines of force and fields, which constitute skeletal adumbrations of forms at the mental, astral and physical levels. The next step, therefore, is to trace the process of the gradual materialization of these forms at each level into the present human bodies. The foetus is known to pass through stages repetitive of mammalian, reptilian, invertebrate and simple-celled stages, each corresponding to stages in racial form-evolution, through the Rounds and Chains, with numerical relationship between them and the months of gestation. | Giai đoạn này ngay sau khi thụ thai có lẽ có thể so sánh với giai đoạn trong các quá trình vĩ mô, tại đó Linh từ đã tạo ra nguyên mẫu, và thông qua đó các trung tâm từ tính với các đường sức và trường của chúng, vốn cấu thành những bóng mờ khung xương của các hình tướng ở các cấp độ trí tuệ, cảm dục và thể xác. Do đó, bước tiếp theo là truy tìm quá trình vật chất hóa dần dần các hình tướng này ở mỗi cấp độ thành các thể con người hiện tại. Người ta biết rằng bào thai trải qua các giai đoạn lặp đi lặp lại các giai đoạn của động vật có vú, bò sát, động vật không xương sống và đơn bào, mỗi giai đoạn tương ứng với các giai đoạn trong quá trình tiến hóa hình tướng chủng tộc, thông qua các Cuộc Tuần Hoàn và Dãy, với mối quan hệ số giữa chúng và các tháng mang thai. |
Germination | Nảy Mầm |
The presence of the permanent atom attached to the newly formed twin-cell by the Deva at the moment of germination, vivified as it is by the descending Egoic creative energy, bestows upon the twin-celled organism its ordered biological impetus; causes it, in fact, to grow ‘according to the word’. | Sự hiện diện của nguyên tử trường tồn gắn liền với tế bào song sinh mới hình thành bởi thiên thần Deva vào thời điểm nảy mầm, được hồi sinh khi nó được tiếp thêm sinh lực bởi năng lượng sáng tạo Chân Ngã giáng xuống, ban cho sinh vật hai tế bào động lực sinh học có trật tự của nó; trên thực tế, khiến nó phát triển ‘theo linh từ’. |
The creative energy now emitted into and through the permanent atom and twin-cell at the physical level and its counterparts above into the surrounding ether, is found to produce (as far as my own studies have shown me) at least four results. | Năng lượng sáng tạo hiện được phát ra vào và thông qua nguyên tử trường tồn và tế bào song sinh ở cấp độ thể xác và các đối phần của nó ở trên vào dĩ thái xung quanh, được tìm thấy để tạo ra (theo như các nghiên cứu của riêng tôi đã chỉ ra) ít nhất bốn kết quả. |
First, the establishment of a field or sphere of influence within which the building is to occur. This corresponds to the Ring-pass-not of the Solar System in macrocosmic creation, represents the range of the emitted rays, and serves to insulate an area against foreign vibrations and substances. | Thứ nhất, việc thiết lập một trường hoặc phạm vi ảnh hưởng trong đó việc xây dựng sẽ xảy ra. Điều này tương ứng với Vòng-Giới-Hạn của Hệ Mặt Trời trong sự sáng tạo vĩ mô, đại diện cho phạm vi của các tia phát ra và có tác dụng cách ly một khu vực chống lại các rung động và chất ngoại lai. |
Second, the magnetization or attunement of the matter within this field. The play of creative energy brings surrounding matter more closely into vibrational harmony with the individual about to reincarnate. | Thứ hai, từ hóa hoặc điều chỉnh vật chất trong trường này. Sự tác động của năng lượng sáng tạo mang vật chất xung quanh đến gần hơn với sự hài hòa rung động với cá nhân sắp tái sinh. |
Third, the production of a form. This form, which might be regarded as the etheric mould into which the physical body will be built, must at this point be described in some detail, though delaying reference to the fourth effect of the emitted Word-force. Clairvoyantly examined, the etheric mould resembles a baby body built of etheric matter, somewhat self-luminous, vibrating slightly, a living being, the etheric projection of the archetype. | Thứ ba, việc tạo ra một hình tướng. Hình tướng này, có thể được coi là khuôn dĩ thái mà thể xác sẽ được xây dựng, phải được mô tả chi tiết ở điểm này, mặc dù trì hoãn việc đề cập đến tác động thứ tư của Mãnh Lực-Linh từ phát ra. Được kiểm tra bằng thông nhãn, khuôn dĩ thái giống như một cơ thể em bé được xây dựng bằng vật chất dĩ thái, hơi tự phát sáng, rung động nhẹ, một sinh vật sống, sự phóng chiếu dĩ thái của nguyên mẫu. |
Looking inside this etheric mould, there is seen in terms of flowing energy or lines of force, each on its specific wave-length, a sketch plan of the whole body. Each type of tissue is represented there, different from other types because the energy of which it is an end-product is itself on a different frequency. Thus the bony structure, muscular and vascular tissues, the nerves, the cortex of the brain and the rest, are all represented in the mould in terms of energy by their own specific frequencies. | Nhìn vào bên trong khuôn dĩ thái này, người ta thấy về mặt năng lượng chảy hoặc các đường sức, mỗi đường trên bước sóng cụ thể của nó, một kế hoạch phác thảo của toàn bộ cơ thể. Mỗi loại mô được đại diện ở đó, khác với các loại khác vì năng lượng mà nó là sản phẩm cuối cùng tự nó có tần số khác. Do đó, cấu trúc xương, các mô cơ và mạch máu, các dây thần kinh, vỏ não và phần còn lại, tất cả đều được thể hiện trong khuôn về mặt năng lượng bằng các tần số cụ thể của riêng chúng. |
The play of the emitted vibrations on the free surrounding matter may possibly be the factor which causes atoms to enter into differing molecular combinations to produce different types of tissues. These molecules are attracted towards the lines of force and ‘settle’ into their appropriate place by sympathetic vibration or mutual resonance. Thus again every part of the physical body in substance and in form exactly fits the incarnating Ego. Karmic deficiencies, which are to work out in terms of malformation, weakness and disease, are represented in the mould by dissonances or even breaks in the particular lines of force of the tissues concerned. | Sự tác động của các rung động phát ra trên vật chất tự do xung quanh có thể là yếu tố khiến các nguyên tử đi vào các tổ hợp phân tử khác nhau để tạo ra các loại mô khác nhau. Các phân tử này bị hút về phía các đường sức và ‘lắng xuống’ vào vị trí thích hợp của chúng bằng rung động đồng cảm hoặc cộng hưởng lẫn nhau. Như vậy, một lần nữa, mọi bộ phận của thể xác về chất và về hình tướng hoàn toàn phù hợp với Chân Ngã đang nhập thể. Những thiếu sót về nghiệp quả, vốn sẽ được giải quyết về mặt dị tật, suy nhược và bệnh tật, được thể hiện trong khuôn bằng những bất hòa hoặc thậm chí là những đứt gãy trong các đường sức cụ thể của các mô liên quan. |
Building the Bodies | Xây Dựng Các Thể |
Fourth of the effects of germination is the evocation of the devic builders of form. The class or order of these which is evoked is also determined by resonance. Thus nature spirits which are in vibrational attunement with the individual and therefore with the emitted rays which constitute the call, alone respond. Arriving on the scene they enter the sphere of influence and find themselves in an atmosphere utterly congenial to them because ruled by their own inherent chord. They then proceed instinctually to absorb into themselves, and thereby further to specialize, the free matter, after which they assist in its vibrationally governed deposition into its appropriate place in the growing structure of the body. | Thứ tư trong các tác động của sự nảy mầm là sự gợi lên của những người xây dựng hình tướng thuộc giới thiên thần Deva. Loại hoặc trật tự của những điều này được gợi lên cũng được xác định bởi sự cộng hưởng. Do đó, các tinh linh giới tự nhiên vốn có sự điều chỉnh rung động với cá nhân và do đó với các tia phát ra cấu thành lời kêu gọi, sẽ đáp ứng một mình. Đến hiện trường, chúng đi vào phạm vi ảnh hưởng và thấy mình trong một bầu không khí hoàn toàn phù hợp với chúng vì bị chi phối bởi hợp âm vốn có của chúng. Sau đó, chúng theo bản năng tiến hành hấp thụ vào bản thân, và do đó chuyên môn hóa hơn nữa, vật chất tự do, sau đó chúng hỗ trợ trong việc lắng đọng do rung động chi phối vào vị trí thích hợp của nó trong cấu trúc đang phát triển của cơ thể. |
The devas concerned at the astral and mental levels, in addition to the supervision of these processes through the instinctual response of the nature spirits to their consciousness, concern themselves also with the construction and extremely delicate adjustment of the mechanism of consciousness. This consists physically of the body itself with the seven nerve and glandular centres, situated at the sacrum, spleen, solar plexus, heart, throat, the pituitary and pineal glands; at the etheric level, of the etheric counterparts of these centres and glands, and in addition the etheric chakras, which must be perfectly attuned to each other and adjusted to the physical organs, whose health and efficiency they govern. Similarly in the astral and mental bodies, the seven chakras in their turn must be perfectly attuned to each other and perfectly adjusted to the etheric and physical parts of the mechanism. In this way is provided for the Ego by the chakras and physical centres a sevenfold mode of manifestation in his body, seven channels through which he can gain experience in the body. These human chakras are projections of the seven vortices in the archetype and are produced by the play of Word-force from them through the Causal Body into the growing bodies of man. | Các thiên thần Deva liên quan ở các cấp độ cảm dục và trí tuệ, ngoài việc giám sát các quá trình này thông qua phản ứng bản năng của các tinh linh giới tự nhiên đối với tâm thức của chúng, còn quan tâm đến việc xây dựng và điều chỉnh cực kỳ tinh tế cơ chế của tâm thức. Về mặt thể xác, điều này bao gồm chính cơ thể với bảy trung tâm thần kinh và tuyến, nằm ở xương cùng, lá lách, tùng thái dương, tim, cổ họng, tuyến yên và tuyến tùng; ở cấp độ dĩ thái, của các đối phần dĩ thái của các trung tâm và tuyến này, và ngoài ra là các luân xa dĩ thái, vốn phải được điều chỉnh hoàn hảo với nhau và điều chỉnh với các cơ quan thể xác, mà chúng chi phối sức khỏe và hiệu quả của chúng. Tương tự như vậy, trong các thể cảm dục và trí tuệ, bảy luân xa đến lượt chúng phải được điều chỉnh hoàn hảo với nhau và được điều chỉnh hoàn hảo với các bộ phận dĩ thái và thể xác của cơ chế. Bằng cách này, Chân Ngã được cung cấp bởi các luân xa và các trung tâm thể xác một phương thức biểu hiện thất phân trong cơ thể y, bảy kênh mà qua đó y có thể có được kinh nghiệm trong cơ thể. Các luân xa con người này là sự phóng chiếu của bảy xoáy nước trong nguyên mẫu và được tạo ra bởi sự tác động của Mãnh Lực-Linh từ từ chúng thông qua Thể Nguyên Nhân vào các thể đang phát triển của con người. |
Egoic Word-force is continuously emitted through the permanent atoms until the bodies are fully formed, when delivery occurs. Thereafter, up to the moment of the death of the physical and withdrawal into the superphysical, the Ego continually utters the Word. The disordered cell and bacterial activity known as decay is due to the absence of the controlling influence of the word. | Mãnh Lực-Linh từ Chân Ngã liên tục được phát ra thông qua các nguyên tử trường tồn cho đến khi các thể được hình thành đầy đủ, khi việc sinh nở xảy ra. Sau đó, cho đến thời điểm thể xác chết và rút lui vào siêu vật chất, Chân Ngã liên tục phát ra Linh từ. Hoạt động của tế bào và vi khuẩn mất trật tự được gọi là phân rã là do sự vắng mặt của ảnh hưởng kiểm soát của linh từ. |
Logoi-in-the-Becoming | Các Thượng Đế Đang Trở Thành |
As the astral and mental bodies are in their turn laid aside, the Word becomes silent and the Ego is withdrawn into the subjective condition of Egoic creative night. From this in due course it awakens again, utters the Word, and a new incarnation begins. | Khi đến lượt các thể cảm dục và trí tuệ được gác lại, Linh từ trở nên im lặng và Chân Ngã rút lui vào trạng thái chủ quan của đêm sáng tạo Chân Ngã. Từ đây, đến lượt nó, nó thức tỉnh trở lại, phát ra Linh từ, và một kiếp nhân sinh mới bắt đầu. |
Since man is an epitome of the Solar System, a microcosmic manifestation of the Macrocosm, we find in him close parallels to the creative processes of the Cosmos. In man the microcosm and the Macrocosm meet. In man the full possibilities of macrocosmic self-expression are contained. The purpose of his existence is his unfoldment from within of his latent macrocosmic powers that he may in his turn become the Logos of a Solar System, ‘perfect as His Father in Heaven is perfect’. He will become manifest on the higher planes, by the same principles which govern his incarnation in a human Personality. One might almost assume that since the same principles govern macrocosmic and microcosmic creative processes, repeated incarnation provides the training and practice necessary for the later macrocosmic manifestation of creative power. | Vì con người là một hình ảnh thu nhỏ của Hệ Mặt Trời, một biểu hiện vi mô của Đại Thiên Địa, chúng ta thấy ở y những điểm tương đồng chặt chẽ với các quá trình sáng tạo của Vũ Trụ. Ở con người, tiểu thiên địa và Đại Thiên Địa gặp nhau. Ở con người chứa đựng đầy đủ những khả năng tự biểu hiện của Đại Thiên Địa. Mục đích tồn tại của y là sự khai triển từ bên trong những năng lực Đại Thiên Địa tiềm ẩn để đến lượt y có thể trở thành Hành Tinh Thượng đế của một Hệ Mặt Trời, ‘hoàn hảo như Cha Ngài trên Thiên Đàng là hoàn hảo’. Ngài sẽ trở nên hiển lộ trên các cõi cao hơn, theo cùng những nguyên tắc vốn chi phối sự lâm phàm của y trong một phàm ngã con người. Người ta gần như có thể cho rằng vì các nguyên tắc tương tự chi phối các quá trình sáng tạo vĩ mô và vi mô, nên việc tái lâm phàm nhiều lần cung cấp sự huấn luyện và thực hành cần thiết cho sự biểu hiện vĩ mô sau này của năng lực sáng tạo. |
Man is indeed a Logos-in-the-becoming, a pilgrim God, destined one day to become the Creator, Preserver and Transformer of a Solar System of his own, he reigning as the Sun, physical and spiritual, he immanent throughout the whole of the solar fields, he also transcendent as the Logos which, having pervaded his universe with a fragment of himself, also remains. | Con người thực sự là một Hành Tinh Thượng đế đang-trong-quá-trình-trở-thành, một Thượng đế hành hương, định sẵn một ngày nào đó sẽ trở thành Đấng Sáng Tạo, Bảo Tồn và Biến Đổi của một Hệ Mặt Trời của riêng mình, Ngài trị vì như Mặt Trời, thể xác và tinh thần, Ngài ngự khắp các địa hạt thái dương, Ngài cũng siêu việt như Hành Tinh Thượng đế vốn, sau khi đã thấm nhuần vũ trụ của Ngài với một phần của chính Ngài, cũng vẫn tồn tại. |
The Theosophist, Vol. 57, Pt. 2, 1936, p. 185 | Nhà Thông Thiên Học, Tập 57, Phần 2, 1936, tr. 185 |
65
The Psychedelic and the Yogic Pathways to Reality [1]—Các Con Đường Dẫn Đến Thực Tại Bằng Chất Gây Ảo Giác và Yoga [1]
A psychedelic experience has been described as a journey to new realms of consciousness, some characteristic features of which are transcendence of verbal concepts, of space-time dimensions, and of the Ego, or limiting self-identity. Students of Theosophy in the widest meaning of the word know that such experiences of expanded consciousness can occur in a variety of other ways, among them yoga exercises, disciplined meditation, and religious, or aesthetic ecstasy. Such experiences may also come spontaneously, often quite unsought and quite unexpected. Recently, through the ingestion of psychedelic drugs such as LSD, psilocybin, and mescaline, they have become available to anyone at any time and without effort. Psychologists assert, however, that the hallucinogens do not themselves produce the experience of transcendence but merely act as chemical keys opening the mind and freeing the nervous system from its ordinary patterns and structures. | Một trải nghiệm gây ảo giác đã được mô tả như một cuộc hành trình đến những cõi tâm thức mới, một số đặc điểm tiêu biểu trong đó là sự siêu việt các khái niệm bằng lời nói, các chiều không-thời gian và Chân ngã, hoặc sự đồng nhất bản thân mang tính giới hạn. Các học viên Thông Thiên Học theo nghĩa rộng nhất của từ này biết rằng những trải nghiệm về tâm thức mở rộng như vậy có thể xảy ra theo nhiều cách khác, trong số đó có các bài tập yoga, tham thiền kỷ luật và sự xuất thần tôn giáo hoặc thẩm mỹ. Những trải nghiệm như vậy cũng có thể đến một cách tự phát, thường là không ai tìm kiếm và khá bất ngờ. Gần đây, thông qua việc nuốt phải các loại thuốc gây ảo giác như LSD, psilocybin và mescaline, chúng đã trở nên có sẵn cho bất kỳ ai vào bất kỳ lúc nào và không cần nỗ lực. Tuy nhiên, các nhà tâm lý học khẳng định rằng bản thân các chất gây ảo giác không tạo ra trải nghiệm siêu việt mà chỉ đóng vai trò là những chiếc chìa khóa hóa học mở mang thể trí và giải phóng hệ thần kinh khỏi các mô hình và cấu trúc thông thường của nó. |
Motives | Động cơ |
Here we may ask the question: ‘Deep down in the minds of drug-takers, what motive could there possibly be for seeking the psychedelic pathway to reality, or even reality itself?’ An answer may perhaps be found in the recognition of the fact that all human beings belong to one or another of two main categories. What are these? In the book, At the Feet of the Master,[13] it is stated that there are two kinds of people, those who know and those who do not know. Another possible classification might be the awakened and the unawakened, or the seekers and the non-seekers.[14] What, then, are the seekers looking for, and what is the difference between the awakened and the unawakened mind? It may be that the seekers, the awakened people, are looking for reason, sense, in man’s existence and experiences. Non-seekers, on the other hand, do not experience a pressing need for these. It does not seem to bother the majority of humanity that life does not appear to make sense at all, whereas for others this is an urgent question which must be answered; and so they seek. | Ở đây chúng ta có thể đặt câu hỏi: ‘Sâu thẳm trong tâm trí của những người dùng ma túy, có thể có động cơ gì để tìm kiếm con đường dẫn đến thực tại bằng chất gây ảo giác, hoặc thậm chí là chính thực tại?’ Một câu trả lời có lẽ có thể được tìm thấy trong việc nhận ra một thực tế là tất cả con người đều thuộc về một hoặc một trong hai phạm trù chính. Đây là những gì? Trong cuốn sách, Dưới Chân Thầy, có nói rằng có hai loại người, những người biết và những người không biết. Một cách phân loại khả dĩ khác có thể là những người đã thức tỉnh và những người chưa thức tỉnh, hoặc những người tìm kiếm và những người không tìm kiếm. Vậy thì, những người tìm kiếm đang tìm kiếm điều gì và sự khác biệt giữa thể trí đã thức tỉnh và chưa thức tỉnh là gì? Có thể là những người tìm kiếm, những người đã thức tỉnh, đang tìm kiếm lý do, ý nghĩa, trong sự tồn tại và những trải nghiệm của con người. Mặt khác, những người không tìm kiếm không trải qua nhu cầu cấp thiết đối với những điều này. Dường như không làm phiền phần lớn nhân loại rằng cuộc sống dường như không có ý nghĩa gì cả, trong khi đối với những người khác, đây là một câu hỏi cấp bách cần được trả lời; và vì vậy họ tìm kiếm. |
A further reason for the search is to gain understanding of man’s possible place in the scheme of things, on earth and amid the cosmos and the stars. Again, the non-seekers are not at all interested in this kind of knowledge, but the really awakened person feels an imperative urge to know, and the more he is awakened, the deeper his need to discover the causes of things and to find safety or a means of survival, not only here on earth but also after death, and in any future that there may be still further beyond. Another need is to find a pathway through life upon which to walk with a measure of security and stability, knowing where one is going and why one is travelling that path at all. This applies also to human relationships and the need for someone or something to take the place of the sure guide once possessed but now lost—to so many—the God of the Old Testament, to be adored through fear, potent to destroy. | Một lý do nữa cho việc tìm kiếm là để đạt được sự thấu hiểu về vị trí có thể có của con người trong sơ đồ vạn vật, trên trái đất và giữa vũ trụ và các vì sao. Một lần nữa, những người không tìm kiếm hoàn toàn không quan tâm đến loại tri thức này, nhưng người thực sự đã thức tỉnh cảm thấy một thôi thúc bắt buộc phải biết, và người đó càng thức tỉnh, thì nhu cầu khám phá nguyên nhân của mọi thứ và tìm kiếm sự an toàn hoặc một phương tiện sinh tồn càng sâu sắc, không chỉ ở đây trên trái đất mà còn sau khi chết, và trong bất kỳ tương lai nào có thể còn xa hơn nữa. Một nhu cầu khác là tìm một con đường xuyên qua cuộc đời để bước đi với một mức độ an toàn và ổn định, biết mình đang đi đâu và tại sao mình lại đi trên con đường đó. Điều này cũng áp dụng cho các mối quan hệ giữa con người và nhu cầu về một ai đó hoặc một điều gì đó thay thế cho người hướng dẫn chắc chắn đã từng có nhưng giờ đã mất—đối với rất nhiều người—Thượng đế của Cựu Ước, được tôn thờ qua nỗi sợ hãi, có khả năng hủy diệt. |
Awakened persons also seek mastery of self and of environment, so that they need no longer be at the mercy of every wind of destiny that blows. In other words, seekers are searching for self-knowledge, self-understanding, and for hope, beauty, mortal and immortal love. In general, I think it might be true to say that spiritually and intellectually awakening and awakened people experience that divine discontent which has been described as an inexpressible longing of the inner man for the Infinite. Non-seekers, on the other hand, feel no pressing need for any of these. Awakened people not only search for and find what is truth for them, but they can never be content with partial, surface knowledge alone. Like Oliver Twist, they always ask for more. They continue to probe ever deeper into the depths of reality, of truth, of wisdom. They cannot vegetate; they must know more and more fully in order to understand more and more completely. They aspire and they work hard, seeking for the highest attainment before their present life closes, and for still greater achievements in the ages which lie ahead. The unawakened, on the other hand, do not wonder or care about these things at all. If they have a philosophy of life it is: ‘Live today and let tomorrow take care of itself.’ | Những người đã thức tỉnh cũng tìm kiếm sự làm chủ bản thân và môi trường, để họ không còn phải chịu sự thương xót của mọi ngọn gió định mệnh thổi đến. Nói cách khác, những người tìm kiếm đang tìm kiếm sự tự tri, sự tự thấu hiểu và hy vọng, vẻ đẹp, tình yêu hữu tử và bất tử. Nói chung, tôi nghĩ có thể đúng khi nói rằng những người đang thức tỉnh và đã thức tỉnh về mặt tinh thần và trí tuệ trải nghiệm sự bất mãn thiêng liêng vốn đã được mô tả là một khát khao không thể diễn tả của con người bên trong đối với Vô Hạn. Mặt khác, những người không tìm kiếm không cảm thấy nhu cầu cấp thiết đối với bất kỳ điều nào trong số này. Những người đã thức tỉnh không chỉ tìm kiếm và tìm thấy chân lý cho họ mà họ không bao giờ có thể hài lòng với tri thức bề mặt, một phần mà thôi. Giống như Oliver Twist, họ luôn đòi hỏi nhiều hơn. Họ tiếp tục thăm dò ngày càng sâu hơn vào chiều sâu của thực tại, của chân lý, của minh triết. Họ không thể sống cuộc đời thực vật; họ phải biết ngày càng đầy đủ hơn để thấu hiểu ngày càng trọn vẹn hơn. Họ khao khát và họ làm việc chăm chỉ, tìm kiếm thành tựu cao nhất trước khi cuộc sống hiện tại của họ kết thúc và tìm kiếm những thành tựu lớn hơn nữa trong những kỷ nguyên phía trước. Mặt khác, những người chưa thức tỉnh hoàn toàn không thắc mắc hoặc quan tâm đến những điều này. Nếu họ có một triết lý sống thì đó là: ‘Hãy sống hôm nay và để ngày mai tự lo liệu.’ |
All that I have just said is by way of introduction to our subject, here advanced because whatever one may think of LSD takers, their varied motives and their methods, one must in fairness recognise that in certain cases—but definitely not in all—they may be awakening, aware of a feeling of discontent, and that, however gravely mistaken in their choice of method, they have undertaken a genuine search for reality. They are hopeful that the psychedelic drugs will solve their personal problems, provide them with deep religious insight, and break down the barriers of communication between individuals, thus providing them with a deeper love for mankind. According to published accounts, some of them do attain to this, if only temporarily, while with others the reverse is true. | Tất cả những gì tôi vừa nói là cách giới thiệu về chủ đề của chúng ta, ở đây được đưa ra vì bất kể người ta có thể nghĩ gì về những người dùng LSD, động cơ và phương pháp đa dạng của họ, người ta phải công bằng mà nhận ra rằng trong một số trường hợp nhất định—nhưng chắc chắn không phải trong tất cả—họ có thể đang thức tỉnh, nhận thức được cảm giác bất mãn và rằng, dù có sai lầm nghiêm trọng trong việc lựa chọn phương pháp, họ đã thực hiện một cuộc tìm kiếm thực sự về thực tại. Họ hy vọng rằng các loại thuốc gây ảo giác sẽ giải quyết các vấn đề cá nhân của họ, cung cấp cho họ cái nhìn sâu sắc về tôn giáo và phá vỡ các rào cản giao tiếp giữa các cá nhân, do đó mang lại cho họ tình yêu sâu sắc hơn đối với nhân loại. Theo các báo cáo đã công bố, một số người trong số họ đạt được điều này, dù chỉ là tạm thời, trong khi với những người khác thì ngược lại. |
Who Are the Drug Takers? | Những Người Dùng Ma Túy Là Ai? |
What kind of people are those who resort to hallucinatory drugs? According to an article in The Stanford Observer, California, March 1967, many of them are the children of soldiers who came back from World War II. They were born in the midst of a boom, at a time of affluence, and did not have to worry about where the next dollar would come from. There was no war in progress and they went to new and more permissive types of schools where they were told that the function of education is to think critically, to question, and to ask for proof. So they think, they look, and they see poverty, discrimination, war, and misery. They feel that the loss of Individuality brought on by automation and the computer age is almost unbearable. What is more they have never had to work for a living and do not acknowledge any need to do so. For the most part they show little or no willingness to contribute constructively to the welfare and progress of the people of their neighbourhood, of their country, of the world. | Những người dùng đến thuốc gây ảo giác là loại người nào? Theo một bài báo trên tờ The Stanford Observer, California, tháng 3 năm 1967, nhiều người trong số họ là con của những người lính trở về từ Thế chiến II. Họ sinh ra giữa thời kỳ bùng nổ, vào thời điểm sung túc và không phải lo lắng về việc kiếm đâu ra đồng đô la tiếp theo. Không có cuộc chiến nào đang diễn ra và họ đã đến những loại trường học mới và dễ dãi hơn, nơi họ được cho biết rằng chức năng của giáo dục là tư duy phản biện, đặt câu hỏi và yêu cầu bằng chứng. Vì vậy, họ suy nghĩ, họ nhìn và họ thấy nghèo đói, phân biệt đối xử, chiến tranh và khổ sở. Họ cảm thấy rằng sự mất mát Tính Cá Nhân do tự động hóa và kỷ nguyên máy tính mang lại là gần như không thể chịu đựng được. Hơn nữa, họ chưa bao giờ phải làm việc để kiếm sống và không thừa nhận bất kỳ nhu cầu nào phải làm như vậy. Phần lớn họ thể hiện ít hoặc không sẵn lòng đóng góp một cách xây dựng vào phúc lợi và sự tiến bộ của người dân trong khu phố, đất nước, thế giới của họ. |
Then LSD came on the scene, along with its handmaiden marijuana. There is little doubt that these drugs alter one’s perception of the world. People who are unable to make good in a world which seems to have no room for them can suddenly ‘take a trip’ which answers for them the questions ‘Who am I?’ ‘Where am I?’ ‘Why am I here?’ | Sau đó, LSD xuất hiện, cùng với người hầu gái cần sa. Có rất ít nghi ngờ rằng những loại thuốc này làm thay đổi nhận thức của một người về thế giới. Những người không thể thành công trong một thế giới dường như không có chỗ cho họ có thể đột nhiên ‘lên đường’ để trả lời cho họ những câu hỏi ‘Tôi là ai?’ ‘Tôi đang ở đâu?’ ‘Tại sao tôi ở đây?’ |
One sociologist calls these young people ‘the Freudian proletariat’. Another observer sees them as ‘expatriates living on our shores but beyond our society’. Historian Arnold Toynbee describes them as ‘a red warning light for the American way of life’. And ‘to their deeply worried parents throughout the country they seem more like dangerously deluded drop-outs, candidates for a very sound spanking and a cram course in civics—if only they would return home to receive either’.[15] | Một nhà xã hội học gọi những người trẻ này là ‘giai cấp vô sản theo Freud’. Một nhà quan sát khác coi họ là ‘những người sống lưu vong trên bờ biển của chúng ta nhưng vượt ra ngoài xã hội của chúng ta’. Nhà sử học Arnold Toynbee mô tả họ là ‘một ánh đèn cảnh báo đỏ cho lối sống của người Mỹ’. Và ‘đối với những bậc cha mẹ vô cùng lo lắng của họ trên khắp đất nước, họ có vẻ giống những người bỏ học bị ảo tưởng một cách nguy hiểm hơn, những ứng cử viên cho một trận đòn roi rất lành mạnh và một khóa học nhồi nhét về công dân—nếu họ chịu trở về nhà để nhận một trong hai điều đó’. |
Statistics | Số liệu thống kê |
How many psychedelics are there in the United States? Their own estimate of their nation wide number runs to some 300,000. Disinterested officials generally reduce that figure, but even the most sceptical admit that there are countless thousands of part-time, or ‘plastic’ hippies, who may ‘drop out’ only for a night or two each week. By all estimates the cult is a growing phenomenon that has not yet reached its peak and may not do so for years to come. | Có bao nhiêu người dùng chất gây ảo giác ở Hoa Kỳ? Ước tính của chính họ về con số trên toàn quốc của họ lên tới khoảng 300.000 người. Các quan chức không quan tâm thường giảm con số đó, nhưng ngay cả những người hoài nghi nhất cũng thừa nhận rằng có vô số hàng nghìn người theo chủ nghĩa hippie bán thời gian, hoặc ‘giả tạo’, những người có thể ‘bỏ học’ chỉ trong một hoặc hai đêm mỗi tuần. Theo mọi ước tính, giáo phái này là một hiện tượng đang phát triển vẫn chưa đạt đến đỉnh điểm và có thể không đạt được điều đó trong nhiều năm tới. |
San Francisco’s public health director, Dr Ellis D. Sox has said that the 10,000 hard-core hippies already in San Francisco are costing the city $35,000 a month for treatment of drug abuse. He warned that with a summer influx there was serious danger of epidemics in infectious hepatitis (from needles exchanged in shooting amphetamines), venereal disease (already up six times from the city’s 1964 rate), and other illnesses ranging from typhus to malnutrition.[16] | Giám đốc y tế công cộng của San Francisco, Tiến sĩ Ellis D. Sox cho biết rằng 10.000 người theo chủ nghĩa hippie cốt cán đã ở San Francisco đang khiến thành phố tốn 35.000 đô la mỗi tháng để điều trị lạm dụng ma túy. Ông cảnh báo rằng với dòng người đổ về vào mùa hè, có một mối nguy hiểm nghiêm trọng về dịch bệnh viêm gan truyền nhiễm (từ kim tiêm được trao đổi khi tiêm amphetamine), bệnh hoa liễu (đã tăng gấp sáu lần so với tỷ lệ năm 1964 của thành phố) và các bệnh khác từ bệnh sốt phát ban đến suy dinh dưỡng. |
Writing in the Daily News,[17] David Brestid stated:‘A Federal drug official testified… that the Mafia is moving in for a cut in “staggering” profits in the LSD trade’. | Viết trên tờ Daily News, David Brestid tuyên bố: ‘Một quan chức về ma túy liên bang đã làm chứng… rằng Mafia đang tham gia để cắt giảm lợi nhuận “đáng kinh ngạc” trong hoạt động buôn bán LSD’. |
The following extract is taken from the book LSD:[18] | Đoạn trích sau đây được lấy từ cuốn sách LSD: |
One of the all too few hopeful signs in the present LSD mess is that a handful of heavy users are beginning to say that LSD cannot do it all. They have either discontinued its use or have spaced the intervals between their LSD days to a half year or so. | Một trong số ít dấu hiệu đầy hy vọng trong mớ hỗn độn LSD hiện tại là một số ít người dùng nặng đang bắt đầu nói rằng LSD không thể làm được tất cả. Họ đã ngừng sử dụng nó hoặc đã giãn cách giữa những ngày dùng LSD của họ đến nửa năm hoặc lâu hơn. |
It must be recalled that spontaneous self-transcendence may not have taken place without internal chemical changes. Nevertheless, the element of proper life preparation is more likely to be present. The person is more apt to be ready for it. He is more likely to come back humbled from the awesome event rather than over inflated. The LSD shortcut has its pitfalls for the unprepared. The shortcut may get you to the same summit. The view may be the same, but what a difference between the one who sweated and struggled to get there, and the one who rode to the top on the back of a chemical carrier. So if it’s self-transcendence you are after, consider the hard way, the non-chemical route. Furthermore, no one will ever be able to take that freedom away. In the catalogue of LSD ‘trips’ there appears to be mainly an infinity of alternatives. One taker reports: ‘The greatest experience of my creative life’. Others have said: ‘A living hell I’ll never forget’; ‘restoring my vision of the infinite’; and ‘a shattering nightmare’. Dr Timothy Leary maintains—and many other psychologists agree—that the quality of the LSD experience is largely conditioned by the expectations of the person who takes it and the setting in which the drug is taken. | Cần phải nhớ lại rằng sự tự siêu việt tự phát có thể không xảy ra nếu không có những thay đổi hóa học bên trong. Tuy nhiên, yếu tố chuẩn bị cuộc sống thích hợp có nhiều khả năng hiện diện hơn. Người đó có nhiều khả năng sẵn sàng cho nó hơn. Y có nhiều khả năng trở về khiêm tốn từ sự kiện đáng kinh ngạc hơn là quá thổi phồng. Đường tắt LSD có những cạm bẫy của nó đối với những người chưa chuẩn bị. Đường tắt có thể đưa bạn đến cùng một đỉnh cao. Khung cảnh có thể giống nhau, nhưng thật khác biệt giữa người đã đổ mồ hôi và vật lộn để đến đó và người đã cưỡi lên đỉnh trên lưng một người vận chuyển hóa chất. Vì vậy, nếu bạn đang theo đuổi sự tự siêu việt, hãy xem xét con đường khó khăn, con đường không hóa chất. Hơn nữa, sẽ không ai có thể tước đi sự tự do đó. Trong danh mục ‘chuyến đi’ LSD, dường như chủ yếu là vô số lựa chọn thay thế. Một người dùng báo cáo: ‘Trải nghiệm tuyệt vời nhất trong cuộc đời sáng tạo của tôi’. Những người khác đã nói: ‘Một địa ngục trần gian mà tôi sẽ không bao giờ quên’; ‘khôi phục tầm nhìn của tôi về vô hạn’; và ‘một cơn ác mộng kinh hoàng’. Tiến sĩ Timothy Leary khẳng định—và nhiều nhà tâm lý học khác đồng ý—rằng chất lượng của trải nghiệm LSD phần lớn được điều kiện bởi những kỳ vọng của người dùng nó và bối cảnh mà thuốc được dùng. |
The LSD Experience | Trải Nghiệm LSD |
Let us now take a ‘trip’ vicariously, and only so, happily for our health’s sake. I have selected a few from the hundreds of available descriptions of what drug-takers go through. These also are taken from the book LSD.[19] | Bây giờ chúng ta hãy ‘lên đường’ một cách gián tiếp, và chỉ như vậy thôi, thật may mắn cho sức khỏe của chúng ta. Tôi đã chọn một vài trong số hàng trăm mô tả có sẵn về những gì người dùng ma túy trải qua. Chúng cũng được lấy từ cuốn sách LSD. |
‘Acid can be a beautiful nuclear reaction lighting up cities or it can be Hiroshima, an event that you must live with forever…‘It is like being in a snake pit . . .’; ‘My God, my body is disappearing!’; ‘Under LSD one has the overwhelming feeling that it is the real reality. . ‘Under LSD the world looks as it did on the morning of Creation. Every paradox is resolved and each opposite is so neatly reconciled. Every moment is expanded to infinity. One enlarges to encompass the All or contracts into nothingness. . . ‘In large amounts, the discriminating, critical capacity is lost. The ability to observe oneself, to evaluate the validity of one’s ideas and swift flowering fantasies, is lost… profound feelings of interpersonal communion and unity, which endow every action with beauty and significance . . .’; ‘It was so packed with intensity of feeling, ecstasy, light, colour, movement, laughter, tears and visions that I cannot describe it or remember much more than the overwhelming effect it had on me. It was indescribable, glorious, ineffable. . . .’; ‘As your body lies there in its sleeping bag, your soul is free, loses all sense of time, alert as it never was before, living an eternity in a night, seeing infinity in a grain of sand. What you have seen and heard is cut as with a burin in your memory, never to be effaced. At last you know what the ineffable is, and what ecstasy means. Ecstasy! The mind harks back to the origin of that word. For the Greeks ekstasis meant the flight of the soul from the body. Can you find a better word than that to describe the bemushroomed state?’ | ‘Acid có thể là một phản ứng hạt nhân tuyệt đẹp thắp sáng các thành phố hoặc nó có thể là Hiroshima, một sự kiện mà bạn phải sống chung mãi mãi… ‘Nó giống như đang ở trong một hố rắn . . .’; ‘Lạy Chúa, cơ thể tôi đang biến mất!’; ‘Dưới tác dụng của LSD, người ta có cảm giác áp đảo rằng đó là thực tại thực sự. . ‘Dưới tác dụng của LSD, thế giới trông giống như vào buổi sáng Tạo Thế. Mọi nghịch lý đều được giải quyết và mỗi điều đối lập đều được dung hòa một cách gọn gàng. Mọi khoảnh khắc đều được mở rộng đến vô cùng. Người ta mở rộng để bao trùm Tất cả hoặc co lại thành hư vô. . . ‘Với số lượng lớn, khả năng phân biện, phê phán bị mất đi. Khả năng quan sát bản thân, đánh giá tính hợp lệ của những ý tưởng và những ảo tưởng nở rộ nhanh chóng của một người, bị mất đi… những cảm xúc sâu sắc về sự hiệp thông và thống nhất giữa các cá nhân, vốn ban cho mọi hành động vẻ đẹp và ý nghĩa . . .’; ‘Nó chứa đựng quá nhiều cường độ cảm xúc, sự ngây ngất, ánh sáng, màu sắc, chuyển động, tiếng cười, nước mắt và những khải tượng đến nỗi tôi không thể mô tả nó hoặc nhớ nhiều hơn tác động áp đảo mà nó đã gây ra cho tôi. Nó không thể diễn tả được, vinh quang, không thể tả xiết. . . .’; ‘Khi cơ thể bạn nằm đó trong túi ngủ, linh hồn bạn được tự do, mất hết cảm giác về thời gian, tỉnh táo hơn bao giờ hết, sống một cõi vĩnh hằng trong một đêm, nhìn thấy vô cực trong một hạt cát. Những gì bạn đã thấy và nghe được khắc sâu như thể bằng một mũi khoan trong ký ức của bạn, không bao giờ bị xóa nhòa. Cuối cùng bạn cũng biết cái gì là không thể tả xiết và sự ngây ngất có nghĩa là gì. Sự ngây ngất! Thể trí quay trở lại nguồn gốc của từ đó. Đối với người Hy Lạp, ekstasis có nghĩa là linh hồn bay khỏi cơ thể. Bạn có thể tìm thấy một từ nào tốt hơn từ đó để mô tả trạng thái say sưa không?’ |
Here, however, are some very adverse experiences drawn from The LSD Story by John Cashman:[20] | Tuy nhiên, đây là một số trải nghiệm rất bất lợi được rút ra từ The LSD Story của John Cashman: |
‘I began to turn in on myself, to loop through my own flesh. I swirled and involuted and squirmed and tried to keep from screaming at the glory and the terror of it all. Then the eye appeared, a great shining eye suspended in space. The eye pulsated and shot rays of burning, sweet-sounding light through my body. But it wasn’t my body. Suddenly I was the great eye and I was everything there is to see. It was ecstasy and it was horrible and I saw it all and understood it all. . . g | Tôi bắt đầu hướng nội, cuộn tròn trong da thịt mình. Tôi xoáy, cuốn vào và quằn quại, cố gắng không thét lên trước vinh quang và kinh hoàng của tất cả. Rồi con mắt xuất hiện, một con mắt sáng rực lơ lửng trong không gian. Con mắt rung động và bắn ra những tia sáng ngọt ngào, thiêu đốt xuyên qua cơ thể tôi. Nhưng đó không phải là cơ thể tôi. Đột nhiên tôi là con mắt vĩ đại và tôi là tất cả những gì có thể thấy. Đó là sự ngây ngất và thật kinh khủng và tôi đã thấy tất cả và hiểu tất cả. . . g |
A man sits stunned for six hours and then says: T saw God. I don’t wish to talk about it! ’ A college girl is brought writhing and screaming into a California hospital convinced that she is shedding her skin like a snake. A psychiatrist shakes his head and explains why he will never take LSD again: ‘I saw things no man should ever see’. An alcoholic quits drinking cold one day, saying: ‘I saw myself and all the worms and I died and I knew everything was different’. A young man is pulled from under a train and claims he was pushed there ‘by my other, evil self. A woman with terminal cancer smiles and says: ‘My extinction is not of great consequence at this moment, not even for me. … I could die nicely now’. A man in New York City stabbed his mother-in-law to death, claiming he was high on LSD for three days. Two children, one in New York, the other in Chicago, accidentally swallowed LSD and were rushed to hospitals in what was called ‘critical’ condition. Both recovered quickly. A young high school co-ed in Sherman Oaks, California, was found unconscious on a street. Police said she had taken LSD. And there have been other reports, some documented, some not. There was a Harvard student who was left helpless for four days, convinced he was only six inches tall. There was a Long Island couple, hospitalised for psychiatric treatment because the husband thought he was Christ and the wife believed him. And there was the woman in Los Angeles who ripped off her clothes and ran naked through the streets looking for absolution. | Một người đàn ông ngồi bất động trong sáu giờ rồi nói: Tôi đã thấy Thượng đế. Tôi không muốn nói về điều đó! Một nữ sinh đại học quằn quại và la hét được đưa vào một bệnh viện ở California, tin rằng cô đang lột da như một con rắn. Một bác sĩ tâm thần lắc đầu và giải thích lý do tại sao Ông sẽ không bao giờ dùng LSD nữa: ‘Tôi đã thấy những điều mà không người đàn ông nào nên thấy’. Một người nghiện rượu bỏ uống ngay lập tức vào một ngày, nói: ‘Tôi đã thấy bản thân mình và tất cả những con sâu và tôi đã chết và tôi biết mọi thứ đã khác’. Một thanh niên bị kéo ra khỏi gầm tàu và tuyên bố rằng y bị đẩy vào đó ‘bởi bản ngã khác, tà ác của tôi’. Một phụ nữ mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối mỉm cười và nói: ‘Sự diệt vong của tôi không có hậu quả lớn vào lúc này, thậm chí không phải đối với tôi. … Bây giờ tôi có thể chết một cách tốt đẹp’. Một người đàn ông ở Thành phố New York đã đâm mẹ vợ đến chết, tuyên bố rằng y đã phê LSD trong ba ngày. Hai đứa trẻ, một ở New York, đứa còn lại ở Chicago, vô tình nuốt phải LSD và được đưa đến bệnh viện trong tình trạng được gọi là ‘nguy kịch’. Cả hai đều nhanh chóng hồi phục. Một nữ sinh trung học trẻ tuổi ở Sherman Oaks, California, được tìm thấy trong tình trạng bất tỉnh trên đường phố. Cảnh sát cho biết cô đã dùng LSD. Và đã có những báo cáo khác, một số được ghi lại, một số thì không. Có một sinh viên Harvard bị bỏ mặc bất lực trong bốn ngày, tin rằng mình chỉ cao sáu inch. Có một cặp vợ chồng ở Long Island, phải nhập viện điều trị tâm thần vì người chồng nghĩ mình là Đức Christ và người vợ tin y. Và có một phụ nữ ở Los Angeles đã xé quần áo và chạy trần truồng trên đường phố để tìm kiếm sự tha thứ. |
The following report is taken from the Los Angeles Times of February 1, 1967: | Báo cáo sau đây được lấy từ tờ Los Angeles Times ngày 1 tháng 2 năm 1967: |
LSD victim felt he was Devil stealing soulsl An 18-year-old musician who apparently shot himself to death after suffering LSD hallucinations believed ‘he was the devil stealing souls’, according to his roommate. … He thought ‘whenever he talked with anyone he’d steal his soul and any time he ate he devoured someone’s soul’. (His roommate said) he had been ‘confused about everything’ since taking LSD last summer. . . . [His older brother commented] ‘My brother was on a terrible trip’, and explained that the youth had been hysterical for several days after taking the drug. ‘He spent four days in the General Hospital psychiatric ward and showed great improvement’, the brother said. ‘But he never got back to normal’, he added. ‘He was in mental anguish. He felt as if he were of no use in the world. His ego was gone and he had confidence in nothing. . . .’ A family friend said that after taking the drug the youth ‘saw his head part from his body in a mirror. | Nạn nhân LSD cảm thấy mình là Ác quỷ đánh cắp linh hồnsl Một nhạc sĩ 18 tuổi, người dường như đã tự bắn mình đến chết sau khi bị ảo giác do LSD, tin rằng ‘y là ác quỷ đánh cắp linh hồn’, theo lời bạn cùng phòng của y. … Y nghĩ ‘bất cứ khi nào y nói chuyện với ai, y sẽ đánh cắp linh hồn của người đó và bất cứ khi nào y ăn, y sẽ nuốt chửng linh hồn của ai đó’. (Bạn cùng phòng của y nói) y đã ‘bối rối về mọi thứ’ kể từ khi dùng LSD vào mùa hè năm ngoái. . . . [Anh trai của y nhận xét] ‘Em trai tôi đã có một chuyến đi tồi tệ’, và giải thích rằng chàng trai trẻ đã phát cuồng trong vài ngày sau khi dùng thuốc. ‘Nó đã trải qua bốn ngày trong khu tâm thần của Bệnh viện Đa khoa và đã có những cải thiện đáng kể’, người anh trai nói. ‘Nhưng nó không bao giờ trở lại bình thường’, Ông nói thêm. ‘Nó đã phải chịu đựng nỗi đau tinh thần. Nó cảm thấy như thể mình vô dụng trên thế giới này. Phàm ngã của nó đã biến mất và nó không tin tưởng vào bất cứ điều gì. . . .’ Một người bạn của gia đình nói rằng sau khi dùng thuốc, chàng trai trẻ ‘đã thấy đầu mình lìa khỏi cơ thể trong gương. |
He saw milk pouring from his eyes. He felt he could float out of himself and look back at himself. John’s principal emotion was self-hatred. He thought the only answer to his snatching of souls was to destroy himself. | Y thấy sữa chảy ra từ mắt mình. Y cảm thấy mình có thể trôi ra khỏi bản thân và nhìn lại bản thân. Cảm xúc chính của John là sự căm ghét bản thân. Y nghĩ rằng câu trả lời duy nhất cho việc mình giật lấy linh hồn là tự hủy hoại bản thân. |
The next case was published in The Stanford Observer in April 1967: | Trường hợp tiếp theo được đăng trên tờ The Stanford Observer vào tháng 4 năm 1967: |
Dr Allan Cohen, a former researcher with Timothy Leary and now a staff psychologist at the University of Califomia-Berkeley, said he stopped taking LSD a year and a half ago when he realized it was 4 a fake’. While LSD is ‘powerful and dramatic’ in its effects, Dr Cohen said, ‘it did not develop me spiritually one bit and had no application to everyday life’. | Tiến sĩ Allan Cohen, một nhà nghiên cứu trước đây với Timothy Leary và hiện là nhà tâm lý học nhân viên tại Đại học Califomia-Berkeley, cho biết Ông đã ngừng dùng LSD một năm rưỡi trước khi Ông nhận ra nó là 4 một trò lừa bịp’. Tiến sĩ Cohen nói, trong khi LSD ‘mạnh mẽ và kịch tính’ về tác dụng của nó, ‘nó không phát triển tôi về mặt tinh thần một chút nào và không có ứng dụng gì cho cuộc sống hàng ngày’. |
‘In actuality’, he said, ‘LSD leads to spiritual egotism, not listening to others. Users think they’re transcending egos, when they’re actually extending them’. Dr Cohen added, ‘They’re very rarely willing to accept any master’. | ‘Trong thực tế’, Ông nói, ‘LSD dẫn đến sự ích kỷ tinh thần, không lắng nghe người khác. Người dùng nghĩ rằng họ đang vượt qua phàm ngã, trong khi thực tế họ đang mở rộng chúng’. Tiến sĩ Cohen nói thêm, ‘Họ rất hiếm khi sẵn sàng chấp nhận bất kỳ Chân sư nào’. |
Dr William McGlothlin (Ph.D.) who also serves as a research associate at the University of Southern California, disclosed that young LSD users . . . often fail to realize the satisfaction of achievement. ‘If you don’t have a discipline, a way to be creative, you won’t get it through the drug experience’, he declared. Dr McGlothlin also criticised ‘the very unrealistic attitude toward economic responsibility’ of young LSD users. ‘Neither the individual nor society can prove viable unless everyone pulls his own weight. | Tiến sĩ William McGlothlin (Tiến sĩ) cũng là một cộng sự nghiên cứu tại Đại học Nam California, tiết lộ rằng những người trẻ tuổi sử dụng LSD . . . thường không nhận ra sự hài lòng của thành tích. ‘Nếu bạn không có kỷ luật, một cách để sáng tạo, bạn sẽ không có được nó thông qua trải nghiệm dùng thuốc’, Ông tuyên bố. Tiến sĩ McGlothlin cũng chỉ trích ‘thái độ rất phi thực tế đối với trách nhiệm kinh tế’ của những người trẻ tuổi sử dụng LSD. ‘Cả cá nhân lẫn xã hội đều không thể chứng minh là khả thi trừ khi mọi người đều nỗ lực hết mình. |
Los Angeles Times (May 2, 1967) published the following report: | Los Angeles Times (2 tháng 5 năm 1967) đã đăng báo cáo sau: |
Four LSD Users Suffer Serious Eye Damage—Santa Barbara. | Bốn người dùng LSD bị tổn thương mắt nghiêm trọng—Santa Barbara. |
Four college students have suffered permanent impairment of vision as a result of staring at the sun while under the influence of LSD, according to a spokesman for the Santa Barbara Ophthalmological Society. One of the youths told his doctor he was ‘holding a religious conversation with the sun’. Another said he had gazed at the sun ‘to produce unusual visual displays’. The students, all males, suffered damage to the retina, the sensory membrane which receives the image formed by the lens. As a result, the victims have lost their reading vision completely and forever, the ophthalmological spokesman said. The four had no awareness of pain or discomfort while the sun was burning through the eye tissue, the spokesman said. The damage is permanent, because tissue so damaged does not regenerate itself. | Bốn sinh viên đại học đã bị suy giảm thị lực vĩnh viễn do nhìn chằm chằm vào mặt trời khi đang chịu ảnh hưởng của LSD, theo một phát ngôn viên của Hiệp hội Nhãn khoa Santa Barbara. Một trong những thanh niên nói với bác sĩ của mình rằng y đang ‘có một cuộc trò chuyện tôn giáo với mặt trời’. Một người khác nói rằng y đã nhìn vào mặt trời ‘để tạo ra những hình ảnh khác thường’. Các sinh viên, tất cả đều là nam giới, bị tổn thương võng mạc, màng cảm giác nhận hình ảnh được hình thành bởi thấu kính. Kết quả là, các nạn nhân đã mất hoàn toàn và vĩnh viễn thị lực đọc. Người phát ngôn của ngành nhãn khoa cho biết bốn người không nhận thức được cơn đau hay khó chịu nào khi mặt trời đốt cháy các mô mắt. Tổn thương là vĩnh viễn, vì các mô bị tổn thương như vậy không tự tái tạo. |
The following extracts are taken from an article by Warren R. Young,[21] published in The Readers Digest for September 1966: | Các đoạn trích sau đây được lấy từ một bài báo của Warren R. Young, được đăng trên The Readers Digest số tháng 9 năm 1966: |
THE TRUTH ABOUT LSD: LSD has its users and its fans on campuses and city streets all across the country who promise a new world of flashing lights, colourful patterns, memories out of a past, sharpened insights into the nature of humanity. A ‘trip’ to this fabulous land can be taken simply by chewing an inexpensive ($1 to $10) cube of sugar impregnated with a speck of the mysterious brain-affecting chemical.. . . Some of the less well known facts about LSD are simply horrifying. . . . The fact that LSD does not cause lethal poisoning itself made little difference to one student in Los Angeles, who ‘turned on’ with it two years ago to expand his outlook on life. As often happens, the drug gave him an overpowering sense of omnipotence. He strode directly in front of a fast-approaching car on Wilshire Boulevard and raised his hands in the obvious belief that he could ‘will’ the speeding vehicle to an instantaneous halt. He was wrong, and died—an ‘indirect’ casualty. At Bellevue, in fact, as at many other hospitals, a steady procession of persons in an intolerable state of panic appear for admission, after deliberately taking LSD and then finding themselves on a ‘bad trip’. | SỰ THẬT VỀ LSD: LSD có những người dùng và người hâm mộ trên các trường đại học và đường phố trên khắp đất nước, những người hứa hẹn một thế giới mới với ánh đèn nhấp nháy, hoa văn đầy màu sắc, những ký ức từ quá khứ, những hiểu biết sâu sắc hơn về bản chất của nhân loại. Một ‘chuyến đi’ đến vùng đất tuyệt vời này có thể được thực hiện đơn giản bằng cách nhai một viên đường rẻ tiền (1 đến 10 đô la) được tẩm một chút hóa chất bí ẩn ảnh hưởng đến não bộ. . . . Một số sự thật ít được biết đến về LSD chỉ đơn giản là kinh hoàng. . . . Việc LSD không gây ra ngộ độc chết người không có ý nghĩa gì đối với một sinh viên ở Los Angeles, người đã ‘bật’ nó hai năm trước để mở rộng quan điểm về cuộc sống. Như thường lệ, loại thuốc này đã mang lại cho y một cảm giác toàn năng áp đảo. Y bước thẳng trước một chiếc xe đang lao nhanh trên Đại lộ Wilshire và giơ tay lên với niềm tin rõ ràng rằng y có thể ‘muốn’ chiếc xe đang chạy nhanh dừng lại ngay lập tức. Y đã sai và chết—một thương vong ‘gián tiếp’. Trên thực tế, tại Bellevue, cũng như tại nhiều bệnh viện khác, một đoàn người liên tục trong tình trạng hoảng loạn không thể chịu đựng được xuất hiện để nhập viện, sau khi cố tình dùng LSD và sau đó thấy mình đang trong một ‘chuyến đi tồi tệ’. |
The excerpts below are from The Telegram, Toronto, June 3, 1967: | Các đoạn trích dưới đây được lấy từ The Telegram, Toronto, ngày 3 tháng 6 năm 1967: |
‘It’s a bad risk’, says Dr Heinz Lehmann, an internationally known authority on psycho-pharmacology who is director of research at Douglas Memorial Hospital in Verdun, a Montreal suburb. ‘About one per cent of all persons who take it have lasting bad effects that may never subside. Or else they might remain disturbed and require treatment for months. Some take it and beat people up. Others take it and commit suicide. Another 20 per cent have had bad trips that can require treatment and others have relapses several days after taking it. To take it is to deliberately unstructure your mind (italics mine G.H.), not a very good thing when you consider our minds are our proudest possessions’, he says. To take the drug without having a qualified psychiatrist present—and that is the way it is being used in most cases today—is unthinkable, according to Dr Lehmann. ‘It is difficult enough to control in a laboratory environment with experts present’, he says, ‘let alone in somebody’s apartment where your guide is a young inexperienced college student. | Tiến sĩ Heinz Lehmann, một chuyên gia nổi tiếng quốc tế về dược lý tâm lý, đồng thời là giám đốc nghiên cứu tại Bệnh viện Tưởng niệm Douglas ở Verdun, một vùng ngoại ô của Montreal, cho biết: ‘Đó là một rủi ro tồi tệ’. ‘Khoảng một phần trăm tất cả những người dùng nó đều có những tác động xấu kéo dài có thể không bao giờ giảm bớt. Hoặc nếu không, họ có thể vẫn bị xáo trộn và cần điều trị trong nhiều tháng. Một số người dùng nó và đánh người. Những người khác dùng nó và tự tử. 20% khác đã có những chuyến đi tồi tệ có thể cần điều trị và những người khác tái phát vài ngày sau khi dùng nó. Cố tình làm mất cấu trúc thể trí của bạn (chữ in nghiêng của tôi G.H.) là một điều không hay khi bạn xem xét thể trí của chúng ta là tài sản đáng tự hào nhất của chúng ta’, Ông nói. Theo Tiến sĩ Lehmann, việc dùng thuốc mà không có bác sĩ tâm thần có trình độ chuyên môn—và đó là cách nó đang được sử dụng trong hầu hết các trường hợp hiện nay—là điều không thể tưởng tượng được. ‘Việc kiểm soát nó trong môi trường phòng thí nghiệm với sự có mặt của các chuyên gia đã đủ khó khăn rồi’, Ông nói, ‘chứ đừng nói đến trong căn hộ của ai đó, nơi người hướng dẫn của bạn là một sinh viên đại học trẻ tuổi, thiếu kinh nghiệm. |
‘Some take it and become so anxious and terrified they cannot stay alone for a second. They are like infants. Their minds are in pieces. If that happens in a hospital we know what to do. We can give them something to counteract the LSD. But what happens when it occurs with college students? What happens if the guide panics and leaves the person alone? Suicide can and has been the result of these cases’. | ‘Một số người dùng nó và trở nên lo lắng và sợ hãi đến mức họ không thể ở một mình dù chỉ một giây. Họ giống như trẻ sơ sinh. Thể trí của họ tan thành từng mảnh. Nếu điều đó xảy ra trong bệnh viện, chúng ta biết phải làm gì. Chúng ta có thể cho họ thứ gì đó để chống lại LSD. Nhưng điều gì xảy ra khi nó xảy ra với sinh viên đại học? Điều gì xảy ra nếu người hướng dẫn hoảng sợ và bỏ mặc người đó? Tự tử có thể và đã là kết quả của những trường hợp này’. |
Dr Lehmann admits the drug can increase awareness, but is quick to add the gains are not worth the risk. Furthermore, he believes that LSD can’t do anything for you that you can’t get through other and safer ways (Yoga—G.H.). | Tiến sĩ Lehmann thừa nhận loại thuốc này có thể làm tăng nhận thức, nhưng nhanh chóng nói thêm rằng những lợi ích không đáng để mạo hiểm. Hơn nữa, Ông tin rằng LSD không thể làm bất cứ điều gì cho bạn mà bạn không thể có được thông qua những cách khác và an toàn hơn (Yoga—G.H.). |
‘The misuse of LSD today reflects the way we live’, he says. ‘We want awareness but it has to be an instant do-it-yourself kind of awareness. You don’t need LSD to appreciate the beauty of flowers. Just take time out to enjoy them. If you want to improve your mind, study. Work, hard work; that’s the answer. Not LSD (Yoga—G.H.). People who use it are guilty of unclear thinking, if not downright ignorance. They want their awareness on a silver platter’. Dr Lehmann says it is difficult to convince young persons of the dangers because ‘the drug will not make you less intelligent. You don’t become a slob and you may well become a nicer person by being less aggressive’. But he says it may turn you into ‘an utter parasite’. | Ông nói: ‘Việc lạm dụng LSD ngày nay phản ánh cách chúng ta sống’. ‘Chúng ta muốn nhận thức nhưng đó phải là một loại nhận thức tức thời, tự làm lấy. Bạn không cần LSD để đánh giá cao vẻ đẹp của hoa. Chỉ cần dành thời gian để thưởng thức chúng. Nếu bạn muốn cải thiện thể trí của mình, hãy học tập. Làm việc, làm việc chăm chỉ; đó là câu trả lời. Không phải LSD (Yoga—G.H.). Những người sử dụng nó có tội vì suy nghĩ không rõ ràng, nếu không muốn nói là hoàn toàn thiếu hiểu biết. Họ muốn nhận thức của mình trên một chiếc đĩa bạc’. Tiến sĩ Lehmann nói rằng rất khó để thuyết phục những người trẻ tuổi về những nguy hiểm vì ‘thuốc sẽ không làm bạn kém thông minh hơn. Bạn không trở thành một kẻ ngốc và bạn có thể trở thành một người tốt hơn bằng cách bớt hung hăng hơn’. Nhưng Ông nói nó có thể biến bạn thành ‘một kẻ ăn bám hoàn toàn’. |
The book LSD on Campus[22] contains the following statement: | Cuốn sách LSD on Campus có đoạn sau: |
By the late summer of 1963 the American Medical Association requested an editorial on LSD from Harvard’s campus physician, Dr Dana L. Farnsworth. In it he recounted some of the lamentable LSD experiences taken by Harvard students and said, in effect, that legal restrictions should be imposed. Dr Farnsworth warned: ‘Our accumulating day-to-day experience with patients suffering the consequences of the hallucinogens demonstrates beyond question that these drugs have the power to damage the individual psyche, indeed to cripple it for life’. | Đến cuối mùa hè năm 1963, Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ đã yêu cầu một bài xã luận về LSD từ bác sĩ của trường Harvard, Tiến sĩ Dana L. Farnsworth. Trong đó, Ông kể lại một số trải nghiệm LSD đáng tiếc mà sinh viên Harvard đã trải qua và nói rằng, trên thực tế, nên áp đặt các hạn chế pháp lý. Tiến sĩ Farnsworth cảnh báo: ‘Kinh nghiệm hàng ngày tích lũy của chúng ta với những bệnh nhân phải chịu hậu quả của các chất gây ảo giác chứng minh không còn nghi ngờ gì nữa rằng những loại thuốc này có khả năng gây tổn hại đến tâm lý cá nhân, thậm chí làm tê liệt nó suốt đời’. |
Such testimony evokes in one’s mind the question: How many of these drug-takers will be wasted by the time they find themselves? | Lời chứng thực như vậy gợi lên trong tâm trí người ta câu hỏi: Bao nhiêu người dùng ma túy này sẽ bị lãng phí vào thời điểm họ tìm thấy chính mình? |
The American Theosophist, Vol. 56, Issue 3, March 1968, p. 53 | Nhà Thông Thiên Học Hoa Kỳ, Tập. 56, Số 3, tháng 3 năm 1968, tr. 53 |
66
The Psychedelic and the Yogic Pathways to Reality [2]
Con Đường Ảo Giác và Yoga Đến Thực Tại [2]
(The next report is from The Province Vancouver, B.C.):[23] | (Báo cáo tiếp theo là từ The Province Vancouver, B.C.): |
LSD Writing A Tale of Horror | LSD Viết Một Câu Chuyện Kinh Dị |
Los Angeles—‘We just don’t know how to cope with it. .. .’ The speaker was a leading psychiatrist who has been battling with | Los Angeles—‘Chúng tôi chỉ không biết phải đối phó với nó như thế nào. .. .’ Người phát biểu là một bác sĩ tâm thần hàng đầu, người đã chiến đấu với |
North America’s dangerous new phenomenon: hallucinatory drug LSD (Lysergic acid diethylamide). His admission of helplessness is seconded by an array of other medical men and law enforcement officers who have watched aghast as the use and depredations of the drug have spread. | Hiện tượng mới nguy hiểm của Bắc Mỹ: thuốc gây ảo giác LSD (Lysergic acid diethylamide). Lời thừa nhận bất lực của Ông được hỗ trợ bởi một loạt các bác sĩ và nhân viên thực thi pháp luật khác, những người đã kinh hoàng chứng kiến việc sử dụng và tàn phá của loại thuốc này lan rộng. |
The chief hope they have at this point is spreading the word about how tricky and dangerous the seemingly innocuous white powder can be. A few months back any LSD victim in Los Angeles, gripped by the horrible psychoses the drug may induce, knew he could stagger to the neuro-psychiatric institute at the University of California, where there is 24-hour emergency service for the mentally disturbed. | Hy vọng chính mà họ có vào thời điểm này là truyền bá thông tin về mức độ xảo quyệt và nguy hiểm của loại bột trắng có vẻ vô hại này. Vài tháng trước, bất kỳ nạn nhân LSD nào ở Los Angeles, bị kìm kẹp bởi chứng rối loạn tâm thần kinh khủng mà thuốc có thể gây ra, đều biết rằng y có thể loạng choạng đến viện tâm thần kinh tại Đại học California, nơi có dịch vụ cấp cứu 24 giờ cho những người bị rối loạn tâm thần. |
‘But we had to shut the door on them’, says Dr J. Thomas Ungerleider, one of the foremost LSD researchers in the U. S. ‘It just became too much. We’re basically a teaching institution, and we didn’t have enough beds for all these people. Now we just tell them to go to the county hospital. Heaven knows we’ve enough cases to study’, the white jacketed psychiatrist said grimly. ‘We’ve got an out-patient, huddled in his room near here, who thinks he’s an orange, and that if anybody touches him, he’ll squirt juice’. He continued, ‘We’re got a mother of 23 and her baby. She was giving the baby LSD as a tranquilliser. The baby seems alright, but the mother is psychotically confused’. | Tiến sĩ J. Thomas Ungerleider, một trong những nhà nghiên cứu LSD hàng đầu ở Hoa Kỳ, cho biết: ‘Nhưng chúng tôi đã phải đóng cửa với họ’. ‘Nó chỉ trở nên quá nhiều. Về cơ bản, chúng tôi là một tổ chức giảng dạy và chúng tôi không có đủ giường cho tất cả những người này. Bây giờ chúng tôi chỉ bảo họ đến bệnh viện quận. Chúa biết chúng tôi có đủ trường hợp để nghiên cứu’, bác sĩ tâm thần mặc áo trắng nói một cách nghiệt ngã. ‘Chúng tôi có một bệnh nhân ngoại trú, co ro trong phòng của mình gần đây, người nghĩ rằng mình là một quả cam, và nếu ai đó chạm vào y, y sẽ phun nước’. Ông tiếp tục, ‘Chúng tôi có một người mẹ 23 tuổi và đứa con của cô ấy. Cô ấy đã cho đứa bé dùng LSD như một loại thuốc an thần. Đứa bé có vẻ ổn, nhưng người mẹ thì bị rối loạn tâm thần’. |
Science Digest, January 1967, reported: | Science Digest, tháng 1 năm 1967, báo cáo: |
LSD, the most potent psychedelic chemical, is now 28 years old and has been used in experiments for 23 years. The use of other mind-altering drugs may be older than civilisation. If the mind-altering properties are a potential force for ‘good’—bringing liberation, religious ecstasy, therapy, creative insights—why were we not designed by nature to go through life in a perpetual psychedelic state? Why are we not born with ‘widened’ minds? Guthrie’s character speaks again: ‘Why didn’t God make a man so he’d feel all the time like he does on a pleasant LSD trip? Ultimate Truth (whatever it is and assuming it exists at all) may be extra-logical, and during feelings of strong conviction, drug-induced or otherwise, we may transcend logic (as well as Individuality and time and space). But in the world we live in, our continuance is best furthered by a mind not so much widened as shaped to function along logical guidelines, shutting out or inhibiting certain data, allowing attention and concentration to be directed through responsibility to personal and social needs’. | LSD, hóa chất gây ảo giác mạnh nhất, hiện đã 28 tuổi và đã được sử dụng trong các thí nghiệm trong 23 năm. Việc sử dụng các loại thuốc thay đổi thể trí khác có thể lâu đời hơn cả nền văn minh. Nếu các đặc tính thay đổi thể trí là một lực lượng tiềm năng cho ‘điều tốt’—mang lại sự giải thoát, sự ngây ngất tôn giáo, trị liệu, những hiểu biết sáng tạo—tại sao chúng ta không được tạo ra bởi tự nhiên để trải qua cuộc đời trong một trạng thái ảo giác vĩnh viễn? Tại sao chúng ta không sinh ra với thể trí ‘mở rộng’? Nhân vật của Guthrie nói lại: ‘Tại sao Thượng đế không tạo ra một người đàn ông để y luôn cảm thấy như khi y đang trong một chuyến đi LSD dễ chịu? Chân Lý Tối Thượng (bất kể nó là gì và giả sử nó tồn tại) có thể là siêu logic, và trong những cảm giác tin chắc mạnh mẽ, do thuốc gây ra hoặc bằng cách khác, chúng ta có thể vượt qua logic (cũng như Tính Cá Nhân và thời gian và không gian). Nhưng trong thế giới chúng ta đang sống, sự tiếp tục của chúng ta được thúc đẩy tốt nhất bởi một thể trí không mở rộng nhiều mà được định hình để hoạt động theo các hướng dẫn logic, loại bỏ hoặc ức chế một số dữ liệu nhất định, cho phép sự chú ý và tập trung được hướng dẫn thông qua trách nhiệm đối với các nhu cầu cá nhân và xã hội’. |
On March 13,1967, the Vancouver, B.C. School Board published in The Province an ‘Open Letter to All Young People & Parents’: | Vào ngày 13 tháng 3 năm 1967, Hội đồng Trường học Vancouver, B.C. đã đăng trên The Province một ‘Thư ngỏ gửi tất cả thanh niên và phụ huynh’: |
DANGERS OF LSD (Lysergic Acid Diethylamide) | NHỮNG NGUY HIỂM CỦA LSD (Lysergic Acid Diethylamide) |
As the Vancouver City Medical Health Officer, I wish to make it very clear to all citizens that LSD is an extremely dangerous drug. | Với tư cách là Cán bộ Y tế Thành phố Vancouver, tôi muốn nói rõ với tất cả công dân rằng LSD là một loại thuốc cực kỳ nguy hiểm. |
I make this statement knowing that LSD is administered by some medical specialists for particular mental illnesses. | Tôi đưa ra tuyên bố này khi biết rằng LSD được một số chuyên gia y tế sử dụng để điều trị các bệnh tâm thần cụ thể. |
The dangers from LSD are so great that no one should allow it in his or her body. The only exception would be under the highly skilled | Sự nguy hiểm từ LSD là rất lớn đến nỗi không ai nên cho phép nó vào cơ thể mình. Ngoại lệ duy nhất là dưới sự kiểm soát có tay nghề cao của một chuyên gia y tế. |
The Psychedelic and the Yogic Pathways to Reality [2] 309 control of a medical specialist. | Con Đường Ảo Giác và Yoga Đến Thực Tại [2] 309 |
The following are five major dangers associated with LSD. The statements are based on scientific information obtained from the Narcotic Foundation of B.C. and from other reliable sources. | Sau đây là năm mối nguy hiểm lớn liên quan đến LSD. Các tuyên bố dựa trên thông tin khoa học thu được từ Tổ chức Ma túy của B.C. và từ các nguồn đáng tin cậy khác. |
I urge you to read these most carefully. | Tôi kêu gọi bạn đọc những điều này một cách cẩn thận nhất. |
First, the Individual | Thứ nhất, Cá nhân |
Persons who use LSD are often young. They cannot cope with the overpowering effects of the drug. | Những người sử dụng LSD thường còn trẻ. Họ không thể đối phó với những tác động áp đảo của thuốc. |
Second, Psychological and Physical Reactions | Thứ hai, Các Phản Ứng Tâm Lý và Thể Chất |
LSD can result in bodily harm to the users and to others. It can create a panic state of mind. It can cause distortions of shape, size, colours, distances, sounds and time. A second may seem an hour; an hour, a second. A person on the fourth story of a building may believe he is two feet from the ground and jump to his death. | LSD có thể gây ra tổn hại về thể chất cho người sử dụng và cho những người khác. Nó có thể tạo ra một trạng thái tinh thần hoảng loạn. Nó có thể gây ra sự biến dạng về hình dạng, kích thước, màu sắc, khoảng cách, âm thanh và thời gian. Một giây có vẻ như một giờ; một giờ, một giây. Một người ở tầng bốn của một tòa nhà có thể tin rằng y cách mặt đất hai feet và nhảy xuống chết. |
Contrary to what some users say, LSD is not a psychedelic drug. It produces hallucinations. LSD does not expand the mind; the drug shrinks it. | Trái với những gì một số người dùng nói, LSD không phải là một loại thuốc gây ảo giác. Nó tạo ra ảo giác. LSD không mở rộng thể trí; thuốc thu hẹp nó. |
The effects are not temporary. Repeat of these hallucinations can occur later at the most unexpected times with great danger to everyone around. Therefore, the brain damage may be permanent even after one single experience with LSD. | Các tác dụng không phải là tạm thời. Sự lặp lại của những ảo giác này có thể xảy ra sau đó vào những thời điểm bất ngờ nhất với sự nguy hiểm lớn cho mọi người xung quanh. Do đó, tổn thương não có thể là vĩnh viễn ngay cả sau một trải nghiệm duy nhất với LSD. |
Third, Impurities and Unknown Dosage | Thứ ba, Tạp Chất và Liều Lượng Không Xác Định |
The impurities and the impossibility of controlling the dosage in the commonly obtained form of LSD add to the dangers of this drug. The regular medical dosage is so small that one ounce of LSD would be sufficient to treat 300,000 patients. | Các tạp chất và việc không thể kiểm soát liều lượng trong dạng LSD thu được phổ biến làm tăng thêm sự nguy hiểm của loại thuốc này. Liều lượng y tế thông thường nhỏ đến mức một ounce LSD sẽ đủ để điều trị cho 300.000 bệnh nhân. |
Fourth, the Legal Consequences | Thứ tư, Hậu Quả Pháp Lý |
The sale of LSD in Canada is prohibited. It is even illegal to give or transfer LSD to any person. The only exception is for use at approved research centres, on the approval of the Minister of National Health and Welfare. | Việc bán LSD ở Canada bị cấm. Thậm chí, việc cho hoặc chuyển LSD cho bất kỳ người nào là bất hợp pháp. Ngoại lệ duy nhất là để sử dụng tại các trung tâm nghiên cứu được phê duyệt, khi có sự chấp thuận của Bộ trưởng Bộ Y tế và Phúc lợi Quốc gia. |
The penalty for any violation can be up to $500 fine and/or six month’s imprisonment if the conviction is by summary court procedure. The penalty on conviction by indictment procedure can be up to $5000 fine and/ or three years’ imprisonment. | Mức phạt cho bất kỳ hành vi vi phạm nào có thể lên tới khoản tiền phạt 500 đô la và/hoặc sáu tháng tù giam nếu bị kết tội theo thủ tục tố tụng tóm tắt. Mức phạt khi bị kết tội theo thủ tục truy tố có thể lên tới khoản tiền phạt 5000 đô la và/hoặc ba năm tù giam. |
If the prosecution proceeds by indictment and there is conviction, the offender then has a criminal record across Canada. This record will prevent him from emigrating in the future to a number of countries in the world. It will also prevent him from holding public office and other important positions in industry, business and the professions. | Nếu việc truy tố tiến hành bằng cáo trạng và có kết tội, thì người phạm tội sẽ có hồ sơ phạm tội trên khắp Canada. Hồ sơ này sẽ ngăn cản y di cư trong tương lai đến một số quốc gia trên thế giới. Nó cũng sẽ ngăn cản y giữ các chức vụ công và các vị trí quan trọng khác trong ngành, kinh doanh và các ngành nghề. |
Fifth, the Social Consequences | Thứ năm, Hậu Quả Xã Hội |
The possible social consequences are serious. Case histories show a slipping in achievement in every phase of life. Secrecy that surrounds the use of LSD and all illicit drugs tends to drive young people into groups separated from the rest of society. | Những hậu quả xã hội có thể xảy ra là nghiêm trọng. Các bệnh án cho thấy sự trượt dốc trong thành tích ở mọi giai đoạn của cuộc đời. Sự bí mật bao quanh việc sử dụng LSD và tất cả các loại thuốc bất hợp pháp có xu hướng đẩy những người trẻ tuổi vào các nhóm tách biệt khỏi phần còn lại của xã hội. |
The overwhelming evidence shows LSD to be an extremely dangerous drug. No one should allow it to enter his or her body. The only exception would be under the highly skilled control of a medical specialist at an approved research centre. | Bằng chứng áp đảo cho thấy LSD là một loại thuốc cực kỳ nguy hiểm. Không ai nên cho phép nó xâm nhập vào cơ thể mình. Ngoại lệ duy nhất là dưới sự kiểm soát có tay nghề cao của một chuyên gia y tế tại một trung tâm nghiên cứu được phê duyệt. |
J. L. GAYTON, M.D., D.P.H. Medical Health Officer, City of Vancouver, B.C. | J. L. GAYTON, M.D., D.P.H. Cán bộ Y tế, Thành phố Vancouver, B.C. |
March 10, 1967. | Ngày 10 tháng 3 năm 1967. |
LSD and the Chromosomes | LSD và Nhiễm Sắc Thể |
Genetic dangers which may result from the taking of psychedelic drugs are warned against in the following statements, the first of which is from an article by Harry Nelson as reported in the New York Post:[24] | Những nguy hiểm di truyền có thể phát sinh từ việc dùng thuốc gây ảo giác được cảnh báo trong các tuyên bố sau đây, tuyên bố đầu tiên trong số đó là từ một bài báo của Harry Nelson như đã được báo cáo trên tờ New York Post: |
Further evidence that LSD may damage chromosomes, the tiny structures in cells which carry genetic information, has been reported by two Oregon researchers. If further investigation confirms their preliminary findings, it could mean that users run a greater risk of having cancer and possibly of having defective children. ‘The damage seems to be related to the amount of LSD used’, Dr. Jose Egozcue said. He is a geneticist at the Oregon Regional Primate Centre in Portland. Dr. Egozcue and Dr. Samuel Irwin, a psycho-pharmacologist at the University of Oregon Medical School, found chromosomal abnormalities in six of the eight LSD users in their study. | Bằng chứng thêm nữa cho thấy LSD có thể làm hỏng nhiễm sắc thể, các cấu trúc nhỏ bé trong tế bào mang thông tin di truyền, đã được báo cáo bởi hai nhà nghiên cứu ở Oregon. Nếu điều tra thêm xác nhận những phát hiện sơ bộ của họ, điều đó có nghĩa là người dùng có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn và có thể có con bị dị tật. Tiến sĩ Jose Egozcue cho biết: ‘Sự tổn thương dường như có liên quan đến lượng LSD đã sử dụng’. Ông là một nhà di truyền học tại Trung tâm Linh trưởng Khu vực Oregon ở Portland. Tiến sĩ Egozcue và Tiến sĩ Samuel Irwin, một nhà tâm lý dược lý học tại Trường Y thuộc Đại học Oregon, đã tìm thấy những bất thường về nhiễm sắc thể ở sáu trong số tám người sử dụng LSD trong nghiên cứu của họ. |
The next extract is from an article in Time, August 11, 1967, entitled ‘Drugs’. | Đoạn trích tiếp theo là từ một bài báo trên tạp chí Time, ngày 11 tháng 8 năm 1967, có tựa đề ‘Thuốc’. |
LSD and the Unborn | LSD và Thai Nhi |
‘Researchers studying the multifarious effects of LSD had new and disturbing reports last week. Not only does LSD expose unstable trippers to the risk of a psychotic break. Not only does it break down the chromosomes in some blood cells. The latest evidence is that it causes cell changes suspiciously like those seen in one form of leukemia. Given to a rat early in pregnancy, it usually results in stillborn or malformed young. Worse, LSD may have similar effects on the human fetus. And those chromosome breaks have been found in the babies of LSD users … at least four babies of LSD-tripping mothers, now being studied in Buffalo, have broken chromosomes. | ‘Các nhà nghiên cứu nghiên cứu các tác động đa dạng của LSD đã có những báo cáo mới và đáng lo ngại vào tuần trước. LSD không chỉ khiến những người dùng không ổn định có nguy cơ bị rối loạn tâm thần. Nó không chỉ phá vỡ các nhiễm sắc thể trong một số tế bào máu. Bằng chứng mới nhất là nó gây ra những thay đổi tế bào đáng ngờ giống như những thay đổi được thấy trong một dạng bệnh bạch cầu. Nếu dùng cho chuột vào đầu thai kỳ, nó thường dẫn đến con non chết lưu hoặc dị dạng. Tệ hơn nữa, LSD có thể có tác dụng tương tự đối với thai nhi người. Và những đứt gãy nhiễm sắc thể đó đã được tìm thấy ở trẻ sơ sinh của những người sử dụng LSD… ít nhất bốn trẻ sơ sinh của các bà mẹ dùng LSD, hiện đang được nghiên cứu ở Buffalo, đã bị đứt gãy nhiễm sắc thể. |
Since this address was delivered, this possible effect of drugs has been further confirmed. An item in the Los Angeles Times of November 24, 1967 reports that University of Iowa paediatricians say they have encountered ‘the first documented case of a baby born with birth defects [a severely deformed right leg) because her mother had taken the hallucinatory drug LSD during pregnancy’. Laboratory tests revealed breaks in the chromosomes of both the mother and the father. ‘Medical literature’, says the report, ‘recently has contained several reports by investigators who found chromosome breaks among LSD users and said evidence indicated that the defects could be transmitted to offspring. . .’ | Kể từ khi bài phát biểu này được đưa ra, tác động có thể xảy ra của thuốc đã được xác nhận thêm. Một mục trên tờ Los Angeles Times ngày 24 tháng 11 năm 1967 báo cáo rằng các bác sĩ nhi khoa của Đại học Iowa cho biết họ đã gặp ‘trường hợp đầu tiên được ghi nhận về một em bé sinh ra bị dị tật bẩm sinh [một chân phải bị biến dạng nghiêm trọng] vì mẹ y đã dùng thuốc gây ảo giác LSD trong khi mang thai’. Các xét nghiệm trong phòng thí nghiệm cho thấy có sự đứt gãy trong nhiễm sắc thể của cả mẹ và cha. Báo cáo cho biết: ‘Tài liệu y học gần đây đã chứa một số báo cáo của các nhà điều tra, những người đã tìm thấy sự đứt gãy nhiễm sắc thể ở những người sử dụng LSD và cho biết bằng chứng chỉ ra rằng các khuyết tật có thể được truyền sang con cái. . .’ |
Apparently, however, there is a use for the drug in cancer cases. The following statements appeared in Science Digest for March 1967: | Tuy nhiên, rõ ràng là có một cách sử dụng loại thuốc này trong các trường hợp ung thư. Các tuyên bố sau đây đã xuất hiện trong Science Digest tháng 3 năm 1967: |
Patients dying of cancer were given the hallucination-provoking drug LSD to see if they could relate better to their environment and communicate with their families in the last months or weeks of their lives. | Bệnh nhân sắp chết vì ung thư được cho dùng thuốc LSD gây ảo giác để xem liệu họ có thể hòa nhập tốt hơn với môi trường của mình và giao tiếp với gia đình trong những tháng hoặc tuần cuối cùng của cuộc đời hay không. |
The drug was injected with full knowledge and consent to 80 patients by Dr Eric C. Kast of the Chicago Medical School. He found it caused them to ‘view events in and around them with greater clarity and with three dimensions. Through this insight communication was greatly facilitated. It eliminated their depressed state for as long as two weeks. Some had discovered a depth of feeling and perception they had not thought themselves capable of. | Tiến sĩ Eric C. Kast của Trường Y Chicago đã tiêm thuốc này với đầy đủ kiến thức và sự đồng ý cho 80 bệnh nhân. Ông nhận thấy nó khiến họ ‘nhìn nhận các sự kiện trong và xung quanh họ một cách rõ ràng hơn và với ba chiều. Thông qua sự thấu hiểu này, giao tiếp đã được tạo điều kiện rất nhiều. Nó loại bỏ trạng thái trầm cảm của họ trong khoảng thời gian hai tuần. Một số người đã khám phá ra một chiều sâu cảm xúc và nhận thức mà họ không nghĩ mình có khả năng. |
Although the experience was short-lived and transient, it was a welcome change in their monotonous and isolated lives, Dr Kast said. | Tiến sĩ Kast cho biết, mặc dù trải nghiệm này chỉ tồn tại trong thời gian ngắn và thoáng qua, nhưng đó là một sự thay đổi đáng hoan nghênh trong cuộc sống đơn điệu và cô lập của họ. |
The Yogic Pathway to Reality | Con Đường Yoga Đến Thực Tại |
From now on let us look at this subject from the point of view of the yogi, who claims to be able to achieve these ecstasies, these exaltations, and this liberation from the limitations of self-inhibiting mentality and circumstances by the practice of regular and disciplined contemplation of the Divine. Supposing we were watching with the seeing eye of a yogi deep in meditation who, by his own efforts and at any chosen time, is successfully achieving the higher consciousness. What would we see? Changes would be occurring, I suggest, in the physical body, and especially in the cerebrospinal system. We would note, for example, that the cells of the brain were being submitted to considerable strain, and so to some stimulation. This is caused primarily by their being forced to respond to thought upon abstract subjects, such as the oneness of life, universality, and absorption in God—God-consciousness. | Từ giờ trở đi, chúng ta hãy xem xét chủ đề này từ quan điểm của một yogi, người tuyên bố có thể đạt được những trạng thái cực lạc này, những sự thăng hoa này và sự giải thoát khỏi những hạn chế của tâm lý và hoàn cảnh tự kìm hãm bằng cách thực hành chiêm ngưỡng thường xuyên và kỷ luật về Đấng Thiêng Liêng. Giả sử chúng ta đang quan sát bằng con mắt nhìn thấu của một yogi đang thiền định sâu sắc, người, bằng nỗ lực của chính mình và vào bất kỳ thời điểm nào đã chọn, đang đạt được thành công tâm thức cao hơn. Chúng ta sẽ thấy gì? Tôi cho rằng, những thay đổi sẽ xảy ra trong thể xác, và đặc biệt là trong hệ thống não tủy. Ví dụ, chúng ta sẽ lưu ý rằng các tế bào của não đang phải chịu áp lực đáng kể, và do đó chịu một số kích thích. Điều này chủ yếu là do chúng bị buộc phải đáp ứng với tư tưởng về các chủ đề trừu tượng, chẳng hạn như tính duy nhất của sự sống, tính phổ quát và sự hòa mình vào Thượng đế—tâm thức Thượng đế. |
Then, in certain forms of yoga, particularly Laya Yoga,[25] and in deep meditation, the Serpent Fire or Kundalini,[26] normally asleep at the base of the spine, is aroused into abnormal activity and is drawn up into the head. At this point, however, I wish it to be clear that I warn, very seriously and strongly, against any attempts to arouse kundalini without the guidance and physical presence of a senior in occult science—a qualified teacher or guru. | Sau đó, trong một số hình thức yoga nhất định, đặc biệt là Laya Yoga, và trong thiền định sâu sắc, Xà Hỏa hay Kundalini, thường ngủ yên ở gốc cột sống, được đánh thức thành hoạt động bất thường và được kéo lên đầu. Tuy nhiên, tại thời điểm này, tôi muốn nói rõ rằng tôi cảnh báo, rất nghiêm túc và mạnh mẽ, chống lại bất kỳ nỗ lực nào để đánh thức kundalini mà không có sự hướng dẫn và sự hiện diện vật lý của một người thâm niên trong huyền bí học—một huấn sư hoặc guru có trình độ. |
What happens to the body and especially to the brain, biochemically as it were, when kundalini is aroused? The Serpent Fire is described as the creative life force in nature and in man, in whom it is sheathed with care within the spinal cord. There it is said to ‘sleep’ at the base of the spine in the region of the sacrum. When aroused by concentration, the action of a guru or a rite of initiation,[27] it divides into three currents: positive, negative, and neutral, called Pingala, Ida, and Sushumna respectively. These three currents then ascend, either swiftly and with heat or gradually and without heat, along three canals or nadis in the Etheric Double of the spinal cord. When this force reaches the head, the pituitary gland receives a continuous inflow of the positive current of Kundalini-Pingala; the pineal gland receives the negative current—Ida\ and the central neutral current—Sushumna—ascends into the middle of the head, the third ventricle, and rises through the anterior fontanelle and the etheric, astral, and mental brahmarandra chakras[28] By this time the individual has already begun to experience bliss-bestowing transcendence of bodily life and entry into a realm of light and freedom, later to deepen into realized identity with the life in all. Such, briefly described, is one yogic pathway to reality—that of Lay a Yoga. | Điều gì xảy ra với cơ thể và đặc biệt là với não bộ, về mặt sinh hóa, khi kundalini được đánh thức? Xà Hỏa được mô tả là sinh lực sáng tạo trong tự nhiên và trong con người, trong đó nó được bao bọc cẩn thận bên trong tủy sống. Ở đó, nó được cho là ‘ngủ’ ở gốc cột sống trong vùng xương cùng. Khi được đánh thức bằng sự tập trung, hành động của một guru hoặc một nghi lễ điểm đạo, nó chia thành ba dòng: dương, âm và trung tính, được gọi lần lượt là Pingala, Ida và Sushumna. Ba dòng này sau đó đi lên, hoặc nhanh chóng và có nhiệt hoặc dần dần và không có nhiệt, dọc theo ba kênh hoặc nadis trong Thể Dĩ Thái của tủy sống. Khi mãnh lực này đến đầu, tuyến yên nhận được một dòng chảy liên tục của dòng dương của Kundalini-Pingala; tuyến tùng quả nhận được dòng âm—Ida\ và dòng trung tính trung tâm—Sushumna—đi lên vào giữa đầu, tâm thất thứ ba, và đi lên qua thóp trước và các luân xa brahmarandra dĩ thái, cảm dục và trí tuệ. Đến thời điểm này, cá nhân đã bắt đầu trải nghiệm sự siêu việt ban phước lành của đời sống thể xác và bước vào một cõi ánh sáng và tự do, sau đó sẽ đi sâu hơn vào sự đồng nhất được nhận ra với sự sống trong tất cả. Tóm lại, đó là một con đường yoga dẫn đến thực tại—con đường của Lay a Yoga. |
Of some interest in this connection is the fact that quite recently certain doctors have found that the pineal gland manufactures a secretion which can possibly be associated with both schizophrenia and the psychedelic experience. Here is a brief report of their findings: | Một số điều thú vị liên quan đến vấn đề này là việc gần đây một số bác sĩ đã phát hiện ra rằng tuyến tùng quả sản xuất ra một chất tiết có thể liên quan đến cả bệnh tâm thần phân liệt và trải nghiệm ảo giác. Dưới đây là một báo cáo ngắn gọn về những phát hiện của họ: |
In 1958 a Yale Medical School Professor of Dermatology named Aaron B. Lemer published a paper on the pineal gland . . . which placed this elusive substance in some vague kind of historical perspective and provided for it a real functional role in the brains of mammals…. After an incredible four-year project, during which time he dissected over 250,000 cattle pineal glands supplied to him by the Armour Company, he finally isolated the substance responsible, calling it melatonin, since it caused the contraction of melanin-producing cells. | Năm 1958, một Giáo sư Da liễu của Trường Y Yale tên là Aaron B. Lemer đã công bố một bài báo về tuyến tùng quả . . . đã đặt chất khó nắm bắt này vào một loại viễn cảnh lịch sử mơ hồ nào đó và cung cấp cho nó một vai trò chức năng thực sự trong não của động vật có vú…. Sau một dự án kéo dài bốn năm đáng kinh ngạc, trong thời gian đó ông đã mổ xẻ hơn 250.000 tuyến tùng quả bò do Công ty Armour cung cấp cho ông, cuối cùng ông đã cô lập được chất chịu trách nhiệm, gọi nó là melatonin, vì nó gây ra sự co lại của các tế bào sản xuất melanin. |
He proved that melatonin was a hormone, that it was produced specifically by the pineal organ, and that therefore this organ was a true, functioning gland, not merely a vestigial sight organ, a relic from our reptilian past. He discovered, moreover, how melatonin was manufactured by the pineal—by the action of certain enzymes on a precursor chemical which must pre-exist in the pineal in order for it to be transformed into melatonin. This precursor chemical turned out to be serotonin…. | Ông đã chứng minh rằng melatonin là một hormone, rằng nó được sản xuất đặc biệt bởi cơ quan tùng quả, và do đó cơ quan này là một tuyến hoạt động thực sự, không chỉ đơn thuần là một cơ quan thị giác tàn tích, một di tích từ quá khứ bò sát của chúng ta. Hơn nữa, ông đã phát hiện ra cách melatonin được sản xuất bởi tuyến tùng quả—bằng tác động của một số enzyme nhất định lên một hóa chất tiền thân phải tồn tại trước trong tuyến tùng quả để nó được biến đổi thành melatonin. Hóa chất tiền thân này hóa ra là serotonin…. |
It has now been established that this organ produced a chemical which had, indirectly at least, been associated with psychedelic states.[29] | Giờ đây, người ta đã xác định rằng cơ quan này sản xuất ra một hóa chất có liên quan, ít nhất là gián tiếp, đến các trạng thái ảo giác. |
If this proves to be the case, then modem medical research appears to be linking up with certain teachings of occult science, and particularly with that aspect of it which is concerned with yoga and the higher consciousness. A stimulation similar to that produced by LSD could be brought about by the ascent of kundalini, the creative life force; for if this power touched with its fiery finger the pineal and the pituitary glands, it would expand the mind-brain awareness by exciting the glands to produce substances which render the brain sensitive to the Ego, and so to extended awareness. Transcendent mystical experience such as both mystics and drug takers describe could then follow. In successful meditation the whole brain is brought into this supersensitive state, partly induced by the ascent of kundalini. | Nếu điều này được chứng minh là đúng, thì nghiên cứu y học hiện đại dường như đang liên kết với một số giáo lý của huyền bí học, và đặc biệt là với khía cạnh của nó liên quan đến yoga và tâm thức cao hơn. Một sự kích thích tương tự như sự kích thích do LSD tạo ra có thể được tạo ra bởi sự đi lên của kundalini, sinh lực sáng tạo; vì nếu sức mạnh này chạm vào tuyến tùng quả và tuyến yên bằng ngón tay bốc lửa của nó, nó sẽ mở rộng nhận thức của não bộ bằng cách kích thích các tuyến sản xuất các chất khiến não nhạy cảm với Chân ngã, và do đó mở rộng nhận thức. Trải nghiệm thần bí siêu việt như cả nhà thần bí và người dùng ma túy mô tả sau đó có thể xảy ra. Trong thiền định thành công, toàn bộ não bộ được đưa vào trạng thái siêu nhạy cảm này, một phần là do sự đi lên của kundalini gây ra. |
The brain thus stimulated would then itself provide an open ‘gateway’ to the inner spiritual Self, the Ego[30] in the Causal Body.[31] Brain specialists and psychiatrists are reported to have discovered that body consciousness is expanded and increased in intensity and sensitivity by the production of serotonin. Thus the yogi in meditation produces, without the dangers and always at will and with the possibility of repetition, mental conditions similar to those which are effected by hallucination-producing chemicals. | Do đó, não bộ được kích thích sẽ tự cung cấp một ‘cổng’ mở đến Nội Tại Tinh Thần, Chân ngã trong Thể Nguyên Nhân. Các chuyên gia về não bộ và bác sĩ tâm thần được báo cáo là đã phát hiện ra rằng tâm thức cơ thể được mở rộng và tăng cường về cường độ và độ nhạy cảm nhờ việc sản xuất serotonin. Do đó, yogi trong thiền định tạo ra, mà không có những nguy hiểm và luôn luôn theo ý muốn và với khả năng lặp lại, các trạng thái tinh thần tương tự như những trạng thái bị ảnh hưởng bởi các hóa chất tạo ra ảo giác. |
Let us compare the effects produced by yoga and by the hallucinogens. Self-elevation produced by yoga enables the yogi to enter into causal, buddhic[32] and even atmic[33] consciousness, and thus to become aware at supersensory and spiritual levels. This is achieved, and repeatably, by the regular practice of yoga as a part of life. Drug-induced religious experience, on the other hand, is a chemical escape from physical actuality into a hallucinated state which without a mind-expanding chemical cannot be repeated at will. The psychedelist is wholly dependent upon a drug, and generally must use an ever larger dose to obtain results. | Chúng ta hãy so sánh những tác động do yoga và các chất gây ảo giác tạo ra. Sự tự nâng cao do yoga tạo ra cho phép yogi đi vào tâm thức nguyên nhân, bồ đề và thậm chí atma, và do đó trở nên nhận thức được ở các cấp độ siêu giác quan và tinh thần. Điều này đạt được, và có thể lặp lại được, bằng cách thực hành yoga thường xuyên như một phần của cuộc sống. Mặt khác, trải nghiệm tôn giáo do thuốc gây ra là một sự trốn thoát hóa học khỏi thực tế thể chất vào một trạng thái ảo giác mà nếu không có hóa chất mở rộng thể trí thì không thể lặp lại theo ý muốn. Người dùng ảo giác hoàn toàn phụ thuộc vào một loại thuốc và thường phải sử dụng liều lượng ngày càng lớn hơn để có được kết quả. |
The regular practice of yoga, I repeat, produces a self-stimulation into mystical experience, brought about by the extension of one’s own superphysical and physical awareness. Successful yoga leads to psychological self-freeing from sensory bondage, while drug-induced psychic stimulation is only the result of repeated recourse to hallucinogens. Yoga increases one’s self-reliance, whereas the use of a drug increases one’s dependence upon outside aids—and very dangerous ones at that. | Việc luyện tập yoga thường xuyên, tôi xin nhắc lại, tạo ra sự tự kích thích vào trải nghiệm huyền bí, do sự mở rộng nhận thức siêu hình và thể xác của một người. Yoga thành công dẫn đến việc tự giải phóng tâm lý khỏi sự trói buộc giác quan, trong khi sự kích thích tâm linh do thuốc gây ra chỉ là kết quả của việc liên tục dùng đến các chất gây ảo giác. Yoga làm tăng sự tự lực của một người, trong khi việc sử dụng thuốc làm tăng sự phụ thuộc của một người vào các trợ giúp bên ngoài—và rất nguy hiểm. |
The successful practice of yoga endows one with ever greater clarity of mind and thought, but the hallucinatory drugs tend to produce ever deeper confusion. For the yogi there is spirituality, morality, an increasing beauty of life and thought, intuitiveness, implicit insight and sensitivity toward—and consideration for—others born of realisation of unity with them. The drug-user, as abundant evidence demonstrates, descends into increasing degeneration, accompanied by a decreasing sense of moral obligation to contribute toward the welfare of the community at large. The yogi opens up for himself or herself a channel for the discovery of, and entry into, the realm of the Real, the unchanging and eternal reality which is behind the evanescent phenomena and events of the physical world. For the drug-taker there is only ultimate unreason, unreality, and delusion. | Việc thực hành yoga thành công mang lại cho một người sự minh mẫn và tư duy ngày càng lớn, nhưng các loại thuốc gây ảo giác có xu hướng tạo ra sự nhầm lẫn ngày càng sâu sắc. Đối với hành giả yoga, có tinh thần, đạo đức, vẻ đẹp ngày càng tăng của cuộc sống và tư tưởng, trực giác, cái nhìn sâu sắc ngầm và sự nhạy cảm đối với—và sự quan tâm đến—những người khác sinh ra từ sự nhận ra sự hợp nhất với họ. Người sử dụng ma túy, như bằng chứng phong phú chứng minh, rơi vào sự thoái hóa ngày càng tăng, đi kèm với cảm giác nghĩa vụ đạo đức ngày càng giảm để đóng góp vào phúc lợi của cộng đồng nói chung. Hành giả yoga mở ra cho chính y một kênh để khám phá và bước vào cõi Chân Thực, thực tại vĩnh cửu và bất biến vốn ở đằng sau những hiện tượng và sự kiện phù du của thế giới hồng trần. Đối với người dùng ma túy, chỉ có sự vô lý, phi thực tế và ảo tưởng tột cùng. |
This leads to further consideration of the after-effects of illumination attained by yoga and by drugs. The successful yogi becomes charged with bodily vitality or prana, the whole body at times overflowing with pranic energy and, to clairvoyant vision, shining with golden light. The habitual indulger in drugs, on the other hand, becomes devitalised and, moreover, descends into depressive mental states, frequently accompanied by tendencies to dangerously abnormal conduct, sometimes born of delusions of grandeur, as numerous accounts demonstrate. | Điều này dẫn đến việc xem xét thêm các ảnh hưởng sau đó của sự soi sáng đạt được bằng yoga và bằng thuốc. Hành giả yoga thành công được nạp đầy sinh lực thể xác hay prana, toàn bộ cơ thể đôi khi tràn đầy năng lượng prana và, đối với nhãn thông, tỏa sáng bằng ánh sáng vàng. Mặt khác, người nghiện ma túy kinh niên trở nên mất sinh lực và hơn nữa, rơi vào trạng thái tinh thần chán nản, thường đi kèm với xu hướng hành vi bất thường nguy hiểm, đôi khi sinh ra từ ảo tưởng về sự vĩ đại, như nhiều ghi chép đã chứng minh. |
Thus viewed, one hardly needs to ask the question as to which is preferable, the psychedelic or the yogic pathway to reality. In conclusion, may I warn most seriously against all use by young or old of any psychedelic drug, except for therapeutic purposes and under medical supervision. | Như vậy, người ta khó cần phải hỏi câu hỏi cái nào thích hợp hơn, con đường ảo giác hay con đường yoga đến thực tại. Tóm lại, tôi xin cảnh báo một cách nghiêm túc nhất chống lại mọi việc sử dụng bất kỳ loại thuốc gây ảo giác nào của người trẻ hay người già, ngoại trừ cho các mục đích trị liệu và dưới sự giám sát y tế. |
The American Theosophist, Vol. 56, Issue 4, April 1968, p. 71 | The American Theosophist, Tập. [56], Số [4], Tháng Tư năm 1968, trang [71] |


The first golden age was Lemurian and the product of innocence. The second was Atlantean and the product of Adept guidance. The third will be produced by humanity illumined by the Ancient Wisdom. ↑
The 78th International Convention, Adyar; public lecture delivered on December 27th, 1953. ↑
The Secret Doctrine II, pp. 294-295, 1908 [2-vol. ed.: Vol. 2, pp. 281-82]. ↑
The Secret Doctrine II, p. 36 (1908) [2-vol. ed.: Vol. 2, p. 33]. ↑
Textbook of Theosophy, by C.W.L., p. 131 (1914 Ed.). ↑
Man: Whence, How and Whither, Besant and Leadbeater, pp. 102-103. ↑
Ibid., p. 103. ↑
The Secret Doctrine II, pp. 294-295, 1908 [2-vol. ed.: Vol. 2, pp. 281-82]. ↑
The Secret Doctrine II, pp. 294-295, 1908 [2-vol. ed.: Vol. 2, pp. 281-82]. ↑
The Secret Doctrine I, p. 228, 1908 [2-vol. ed.: Vol. 1, p. 207]. ↑
The Secret Doctrine I, p. 229, 1908 [2-vol. ed.: Vol. 1, p. 208]. ↑
This was the fourth of the Diamond Jubilee Addresses delivered during the 1935 Convention. Mr Hodson prefaced it by offering the material ‘in the spirit of the student who postulates certain theories arising from investigations into the greatest of all fields of research—that of divine creative processes. Some of these theories are supported by exoteric religion, philosophy and science, and if anywhere a note of certainty is heard, let it be credited rather to the flame of enthusiasm kindled in the student by a glimpse of that which is truth for him, than to the faintest wish to dogmatize’. Such rare glimpses as are here given depend no less upon scientific deduction and imagination than upon the use of the clairvoyant faculty. ↑
J. Krishnamurti. ↑
There is no ingredient of judgment in this recognition of these two types, although they are probably indicative of evolutionary stature; for when a certain phase of evolution is entered, the individual feels that he must understand the meaning of life, and therefore begins to seek. ↑
Time, July 7, 1967, ‘Youth’ ↑
Ibid. ↑
Daily News, Wednesday, June 28, 1967. ↑
LSD by Richard Alpert, Sidney Cohen, and Laurence Schiller; The New American Library, Inc., 1966, p. 62. ↑
Ibid., pp. 7, 17, 27, 39, 58, 63. ↑
Fawcett Publications, Inc. 1966, pp. 5, 7, 10. ↑
Warren R. Young is former science editor of Life Magazine and is co-author, with Joseph Hixon, of LSD on Campus; Dell Publishing Company, 1966. ↑
‘LSD on Campus’, ‘The Acid Scene’. ↑
Monday, February 27, 1967, Reports, by Gladwin Hill, Special to The Province. ↑
Tuesday, May 23, 1967. Reports, by Harry Nelson, Los Angeles Times-Washington Post. ↑
Laya Yoga: That system of yoga in which the chief emphasis is laid upon awakening and directing the latent force of the kundalini which normally sleeps at the base of the spine. ↑
Kundalini (Sanskrit): ‘The coiled up, universal Life Principle’. A sevenfold, superphysical, occult power in the universe and in man, functioning in the latter by means of a spiral or coiling action, mainly in the spinal cord but also throughout the nervous system. It is represented in Greek symbology by the Caduceus. When supemormally aroused, this fiery force ascends into the brain by a serpentine path, hence its other name, the ‘Serpent Fire’. ↑
Initiation: A profound spiritual and psychological regeneration, as a result of which a new ‘birth’, a new beginning, and a new life are entered upon. The word itself, from the Latin initiatio, also implies the basic or first principles of any science, suggesting that initiates are consciously united with their own first principle, the Monad from which they emerged. Both the lesser and the greater mysteries, ancient and modem, confer initiations of various degrees upon successful candidates. ↑
Chakra (Sanskrit): A ‘wheel’ or ‘disc’. A spinning, vortical, funnel-shaped force-centre with its opening on the surfaces of the etheric and subtler bodies of man and its stem leading to the superphysical counterparts of the spinal cord and of nerve centres or glands. There are seven main chakras associated severally with the sacrum, the spleen, the solar plexus, the heart, the throat, and the pituitary and pineal glands. Chakras are both organs of superphysical consciousness and conveyors of the life-force between the superphysical and physical bodies. The Chakras, C. W. Leadbeater. ↑
‘LSD and the Third Eye’ by John N. Bleibtreu, The Atlantic Monthly. ↑
Ego: The threefold, immortal, unfolding spiritual Self of man in its vesture of light, the ‘Robe of Glory’ of the Gnostics and the Karana Sharira or Causal Body of Hindu philosophy. This higher triad evolves to adeptship by virtue of successive lives on earth, all linked together because they are reincarnations of the same spiritual Self Thus the Ego is an individualised manifestation of the Monad, which is the eternal Self in man, the Dweller in the Innermost, a unit of the Spirit-essence of the universe. ↑
Causal Body: The immortal body of the reincarnating Ego of man, built of matter of the ‘higher’ levels of the mental world. It is called Causal because it gathers up within it the results of all experiences, and these act as causes ^moulding future lives and influencing future conduct. ↑
Buddhi (Sanskrit): The sixth principle of man, that of intuitive wisdom, vehicle of the seventh, Atma, the supreme Soul in man. Universal Soul. The faculty which manifests as spiritual intuitiveness. The bliss aspect of the Trinity. ↑
Atma (Sanskrit) The ‘Self. The Universal Spirit, the seventh principle in the septenary constitution of man, the Supreme Soul. The Spirit-Essence of the Universe (Paramatman—‘the Self beyond’). ↑