SECTION 13–1
An Analysis of World Problems with Some Theosophical Solutions—Một Phân Tích về Các Vấn Đề Thế Giới với Vài Giải Pháp Thông Thiên Học
154
The Burning Question—Câu Hỏi Nóng Bỏng
Concerning A New World… | Về Một Thế Giới Mới… |
One of the basic errors of modem man is his concept of the separated duality of the Universe, that the material is disconnected from the spiritual. For example, gravity is regarded as a material natural law having nothing to do with spirit, which presumably is unaffected by gravity. The truth is that attraction and repulsion rule throughout the Cosmos from highest spirit to lowest matter. | Một trong những sai lầm căn bản của con người hiện đại là quan niệm về nhị nguyên tách rời của Vũ trụ, rằng vật chất tách biệt với tinh thần. Thí dụ, trọng lực được xem như một định luật tự nhiên vật chất chẳng liên quan gì đến tinh thần, vốn được cho là không bị trọng lực tác động. Sự thật là hấp dẫn và đẩy lùi cai quản khắp Càn khôn từ tinh thần cao nhất đến vật chất thấp nhất. |
Mathematical laws and facts, Euclidean and geometrical principles are thought to apply to the material worlds only, God being extra-mathematical and supra-Euclidean, away, beyond. The truth is that the whole universe is built and sustained by the law of numbers, and God is above all a Grand Geometrician. The result of this error is that man deliberately, both wantonly and heedlessly, performs material acts which contravene spiritual law. He thinks the two separate, and that spirit is not involved in material matters. He seems to regard the material world as a cover, a cave, a God-raid shelter or hiding place within which God cannot either see him or get at him, and where what he does is either unknown to God or outside of God’s jurisdiction. | Các định luật và sự kiện toán học, các nguyên lý Euclid và hình học được cho là chỉ áp dụng cho các thế giới vật chất, còn Thượng đế thì ngoài toán học và vượt trên Euclid, ở xa, bên kia. Sự thật là toàn vũ trụ được xây dựng và duy trì bằng định luật của các con số, và Thượng đế trên hết là một Nhà Hình học Vĩ đại. Hậu quả của sai lầm này là con người một cách cố tình, vừa phung phí vừa thiếu suy xét, thực hiện những hành vi vật chất đi ngược định luật tinh thần. Con người nghĩ hai điều ấy tách biệt, và rằng tinh thần không can dự vào các vấn đề vật chất. Dường như người ta xem thế giới vật chất như một tấm che, một hang động, một hầm trú ẩn chống Thượng đế hay chỗ ẩn náu, bên trong đó Thượng đế không thể thấy họ hay chạm tới họ, và nơi những gì họ làm thì hoặc là Thượng đế không biết hoặc là nằm ngoài thẩm quyền của Thượng đế. |
God, thinks modem man, comes in only in matters religious and spiritual. God’s power, God’s law and God’s Presence are recognized only in things connected with religion, with prayer. God is thought to be deeply concerned with man’s soul, but not his body. | Người hiện đại nghĩ rằng Thượng đế chỉ can dự trong các vấn đề tôn giáo và tinh thần. Quyền năng của Thượng đế, luật pháp của Thượng đế và Sự Hiện Diện của Thượng đế chỉ được thừa nhận trong những điều liên hệ với tôn giáo, với cầu nguyện. Người ta nghĩ rằng Thượng đế bận tâm sâu sắc với linh hồn của con người, chứ không phải thân xác của y. |
The body of man, with all organic forms, is believed to be evolving towards a higher type and state. But the soul of man, we tend to think, if we think about it at all, was created once and for all at birth as it is and ever will be. Any soul improvement possible to man is the concern of the Church and its Spiritual Fathers, and above all of the Redeemer of Men. If salvation is gained, it can only be after bodily death. | Thân xác con người, cùng với mọi hình thể hữu cơ, được tin là đang tiến hóa hướng tới một kiểu loại và trạng thái cao hơn. Nhưng linh hồn con người, chúng ta có khuynh hướng nghĩ (nếu ta nghĩ gì về nó), đã được tạo ra một lần cho mãi mãi khi sinh ra như nó vốn là và sẽ mãi là như vậy. Bất kỳ sự cải thiện nào của linh hồn mà con người có thể đạt được là mối quan tâm của Giáo hội và các Cha tinh thần của Giáo hội, và trên hết là của Đấng Cứu Thế của nhân loại. Nếu sự cứu rỗi đạt được, thì chỉ có thể sau khi thân xác chết. |
This is indeed a great and tragic fallacy. The truth is that the soul of Nature and of man also evolves to a higher state. This evolution occurs in parallel with the evolution of the body, and the two are mutually interdependent. Therefore bodily conduct is of supreme importance to soul life and soul growth. The Redeemer of Men and His ordained Ministers mightily assist the unfoldment of the soul, but its coronation and salvation depend in essence upon man himself, who must ‘work out’ his ‘own salvation’. This working out is done in the workshop, studio and Temple, which is the material world. | Quả thật đây là một ngụy thuyết lớn và bi thảm. Sự thật là linh hồn của Tự nhiên và của con người cũng tiến hóa tới trạng thái cao hơn. Sự tiến hóa này xảy ra song hành với tiến hóa của thân xác, và cả hai tương liên tương thuộc. Do đó hạnh kiểm nơi thân xác có tầm quan trọng tối thượng đối với sự sống linh hồn và sự tăng trưởng của linh hồn. Đấng Cứu Thế của nhân loại và các Thừa tác viên được Ngài ủy nhiệm trợ giúp mạnh mẽ cho sự khai mở của linh hồn, nhưng sự đăng quang và cứu rỗi của nó về bản chất tùy thuộc vào chính con người, người phải ‘tự làm trọn’ ‘sự cứu rỗi của chính mình’. Sự làm trọn này được thực hiện trong xưởng làm việc, phòng vẽ và Đền thờ, tức là thế giới vật chất. |
Mutual Dependence | Sự Tương Thuộc Lẫn Nhau |
Spirit and matter, soul and body, cannot be separated. They are the front and the back of one existence. They are the inside and the outside of everything. They are mutually dependent. They interact continually, and are governed by precisely the same law. | Tinh thần và vật chất, linh hồn và thân xác, không thể tách rời. Chúng là mặt trước và mặt sau của một hiện hữu. Chúng là bên trong và bên ngoài của mọi vật. Chúng tương liên tương thuộc. Chúng tương tác liên tục, và bị chi phối bởi chính xác cùng một định luật. |
What are the practical, day by day implications of this fact? In the simplest terms one can say that our week days are just as much God-days as are our Sundays, that in our conduct at home, at work and at play our soul welfare is equally involved with our bodily welfare—in fact more so. The two are as inseparable as are the inside and the surface of any object. | Những hệ quả thực tiễn, từng ngày, của sự thật này là gì? Nói một cách giản dị nhất, người ta có thể nói rằng các ngày trong tuần của chúng ta cũng là những ngày của Thượng đế như các ngày Chủ nhật của chúng ta, rằng trong hạnh kiểm của chúng ta ở nhà, ở chỗ làm và lúc vui chơi, phúc lợi linh hồn cũng dính dự ngang bằng với phúc lợi thân xác—thật ra còn hơn thế. Hai điều ấy bất khả phân như là bên trong và bề mặt của bất kỳ vật thể nào. |
Everything in the management and conduct of life is of spiritual significance. The government of nations, of cities, of towns, and the management of businesses and homes are all spiritual activities, are of immediate divine significance and of soul concern. The building of a war-free world is a spiritual as well as a material undertaking. | Mọi điều trong quản trị và xử sự cuộc sống đều mang ý nghĩa tinh thần. Việc cai trị của các quốc gia, của các thành phố, của thị trấn, và việc quản lý doanh nghiệp lẫn gia đình đều là những hoạt động tinh thần, đều có ý nghĩa thiêng liêng trực tiếp và là mối quan tâm của linh hồn. Việc xây dựng một thế giới không chiến tranh vừa là công trình tinh thần vừa là công trình vật chất. |
Divine Activity | Hoạt Động Thiêng Liêng |
All individual activities from rising to retiring, all planning, all thought, feeling, speech and action, all these are of profound spiritual importance both to ourselves and to all our fellow men. Every human activity, collective and individual, is divine activity, is an expression of the divine life, and is under divine law. This is the great truth which humanity as a whole, which the nations through their governments, and we individuals in our hourly, daily lives, must acknowledge. This truth is inescapable, inexorable, basic. When we acknowledge that the material and the spiritual are one, and order our lives as if they were wholly spiritual undertakings, then and then alone will war, disease, and the selfishness, ugliness and cruelty which cause them be banished; then alone will peace, health, beauty and humaneness reign upon earth. This is the single principle upon which, without evasion or equivocation, the foundations of the future must be built. | Mọi hoạt động cá nhân từ lúc thức dậy đến lúc nghỉ ngơi, mọi hoạch định, mọi tư tưởng, cảm xúc, lời nói và hành động, tất cả đều có tầm quan trọng tinh thần sâu xa đối với chính chúng ta và với tất cả đồng loại. Mọi hoạt động của con người, tập thể và cá nhân, đều là hoạt động thiêng liêng, là sự biểu hiện của sự sống thiêng liêng, và đều nằm dưới định luật thiêng liêng. Đây là chân lý vĩ đại mà toàn thể nhân loại, mà các quốc gia qua các chính phủ của họ, và cả chúng ta trong từng giờ, từng ngày của đời sống cá nhân, phải thừa nhận. Chân lý này là điều không thể tránh, không thể cưỡng, căn bản. Khi chúng ta thừa nhận rằng vật chất và tinh thần là một, và sắp đặt đời sống của mình như thể chúng hoàn toàn là những công trình tinh thần, thì và chỉ khi đó chiến tranh, bệnh tật, và sự ích kỷ, xấu xí, tàn nhẫn vốn gây ra chúng mới bị trục xuất; chỉ khi đó hòa bình, sức khỏe, vẻ đẹp và tính nhân bản mới ngự trị trên đất. Đây là nguyên tắc duy nhất, trên đó, không lẩn tránh hay mập mờ, nền móng của tương lai phải được xây dựng. |
What, it may be asked, are we going to build? Are we going to try and build a better shelter and hiding place from the Divine Presence, or are we going to build a Temple in which that Presence is recognised and revered? Are we going to build an armament factory, a police station and a bank vault, and in them worship force and gold, and call it the new world? Or are we going to build a veritable Temple of love, of reverence, of justice and of beauty in which Divinity is enshrined, Divine Law obeyed and the Divine Presence worshipped? Is the religion of the future going to be one of lip service and observances, or a religion of noble deeds, of devotion, of duty to our neighbour day by day and hour by hour? | Người ta có thể hỏi, chúng ta sẽ xây dựng điều gì? Chúng ta sẽ cố gắng xây một nơi trú ẩn và ẩn náu tốt hơn khỏi Sự Hiện Diện Thiêng Liêng, hay chúng ta sẽ xây một Đền thờ trong đó Sự Hiện Diện ấy được nhận biết và tôn kính? Chúng ta sẽ xây một nhà máy vũ khí, một đồn cảnh sát và một hầm ngân khố, rồi trong đó thờ phụng sức mạnh và vàng, và gọi đó là thế giới mới? Hay chúng ta sẽ xây một Đền thờ chân chính của tình thương, của tôn kính, của công chính và của vẻ đẹp, trong đó Thiên tính được tôn thờ, Luật Thiêng được tuân phục và Sự Hiện Diện Thiêng được phụng thờ? Tôn giáo của tương lai sẽ là tôn giáo của khẩu lễ và nghi thức, hay là tôn giáo của những hành động cao quý, của sùng mộ, của bổn phận với tha nhân từng ngày từng giờ? |
This is the burning question of this critical hour. It must be answered by all who would be the builders, the law makers and the town planners of the New Age—in other words by everyone of us. Unless we give the right answer, the new laws will be as freely broken as the old, and the new towns will again be destroyed by war. For man can by no means whatever either hide away from God or evade the operation of Divine Law. In his Prelude Book VI., Wordsworth truly said: | Đây là câu hỏi nóng bỏng của giờ phút then chốt này. Nó phải được trả lời bởi tất cả những ai muốn trở thành người xây dựng, người lập pháp và người quy hoạch đô thị của Tân Thời—nói cách khác là bởi mỗi người trong chúng ta. Trừ khi chúng ta đưa ra câu trả lời đúng, các luật mới sẽ lại bị vi phạm thản nhiên như các luật cũ, và các thành phố mới sẽ lại bị chiến tranh hủy diệt. Bởi con người không thể, bằng bất kỳ phương cách nào, vừa trốn tránh Thượng đế vừa lẩn thoát sự vận hành của Luật Thiêng. Trong Prelude Quyển VI, Wordsworth đã nói rất đúng: |
“Our destiny, our being’s heart and home, | “Định mệnh ta, trái tim và quê nhà của hữu thể ta, |
Is with infinitude and only there”. | Là ở với vô tận, và chỉ ở đó.” |
Theosophy in New Zealand, Vol. 44, No. 1, 1983, p. 1 | Theosophy in New Zealand, Tập 44, Số 1, 1983, tr. 1 |
155
Service—Phụng Sự
Although Theosophy neither rules nor binds, it does offer an ideal to mankind. That ideal is Service, and its method of ratification by those of differing temperaments and vocations may perhaps be described as follows: | Dẫu Thông Thiên Học không cai quản cũng không ràng buộc, nó vẫn hiến tặng một lý tưởng cho nhân loại. Lý tưởng ấy là Phụng Sự, và phương thức phê chuẩn của nó bởi những người có khí chất và thiên hướng khác nhau có lẽ có thể được mô tả như sau: |
The king must evoke the kingliness inherent in man. | Nhà vua phải khơi dậy tính vương giả vốn có trong con người. |
The sage must call forth the innate wisdom present in the soul of every man. | Bậc hiền triết phải đánh thức minh triết bẩm sinh hiện diện trong linh hồn mọi người. |
The teacher must evoke desire to know more. | Người thầy phải khơi gợi ước muốn biết nhiều hơn. |
The religious ministrant must evoke aspiration to know, comprehend and ultimately become one with God who is the Divine within all, encompassing and containing all and beyond all. | Vị giáo sĩ phải gợi lên hoài bão được biết, được thấu triệt và sau cùng trở nên nhất thể với Thượng đế, Đấng là Tính Thiêng bên trong tất cả, bao trùm và dung chứa tất cả và vượt trên tất cả. |
The philosopher must evoke determination to comprehend more deeply. | Triết gia phải khơi dậy quyết tâm thấu hiểu sâu hơn. |
The artist, through man’s longing for loveliness, must elevate humanity into the presence of Beauty’s self which is God. | Nghệ sĩ, qua khát vọng đối với cái mỹ lệ của con người, phải nâng nhân loại vào trong sự Hiện diện của chính Vẻ đẹp, tức là Thượng đế. |
The scientist must not only reveal the fruits of his own researches, but lead men to that scientific direction of life by which each may become a knower for himself. | Nhà khoa học không những phải phơi bày kết quả các khảo cứu của riêng mình, mà còn dẫn dắt con người tới sự định hướng khoa học trong đời sống, nhờ đó mỗi người có thể trở thành một thức giả cho chính mình. |
The devotee must serve and save by evoking from within man the self-same fire of sacrificial love which brings him to his goal of union. | Người sùng tín phải phụng sự và cứu độ bằng cách đánh thức từ bên trong con người cùng ngọn lửa bác ái hiến dâng vốn đưa người ấy tới cứu cánh hợp nhất. |
The magician must awaken in man the will to mastery which is the self-same will by which the Universe is ruled by the Master Magician who is enthroned in majesty at its heart. | Nhà huyền thuật phải đánh thức nơi con người ý chí làm chủ, vốn chính là ý chí nhờ đó Vũ trụ được cai quản bởi Đấng Huyền Thuật Sư Tối Thượng đang ngự trị uy nghi nơi tâm điểm của nó. |
The Theosophist, Vol. 70, April 1949, p. 50 | The Theosophist, Tập 70, Tháng Tư 1949, tr. 50 |
156
An Animals’ Bill of Rights—Tuyên Ngôn Nhân Quyền cho Động Vật
(Since ‘from the torture of animals it is but a short step to the torture of man’ and since ‘all cruelty is abhorrent to civilised man’, Mr Hodson has written this proposed Bill of Rights, published by The Council of Combined Animal Welfare Organisations of New Zealand. Ed.) | (Vì “từ tra tấn động vật chỉ là một bước ngắn đến tra tấn con người” và vì “mọi sự tàn ác đều đáng ghê tởm đối với người văn minh”, Ông Hodson đã viết bản Tuyên ngôn Nhân Quyền đề nghị này, do Hội đồng Các Tổ chức Phúc lợi Động vật Liên hợp của New Zealand xuất bản. BBT.) |
Whereas the animal kingdom in this age is continually forced by man to endure infinite pain…therefore be it enacted: | Bởi vì giới động vật trong thời đại này liên tục bị con người buộc phải chịu đựng vô vàn đau đớn… do đó ban hành rằng: |
1) THAT APPROPRIATE RIGHTS OF CITIZENSHIP BE GRANTED TO ALL ANIMALS. | RẰNG NHỮNG QUYỀN CÔNG DÂN THÍCH ĐÁNG PHẢI ĐƯỢC TRAO CHO MỌI ĐỘNG VẬT. |
Ideal: Animals to have all rights from which they can benefit. | Lý tưởng: Động vật có tất cả các quyền mà chúng có thể thụ hưởng. |
Compromise: E.G.S. [Effective Government Supervision]* | Thỏa hiệp: E.G.S. [Giám sát hiệu quả của Chính phủ]* |
2) THAT STATE PROTECTION FROM CRUELTY BE AFFORDED TO EVERY ANIMAL. | RẰNG SỰ BẢO VỆ CỦA NHÀ NƯỚC KHỎI TÀN ÁC PHẢI ĐƯỢC DÀNH CHO MỌI ĐỘNG VẬT. |
Ideal: A Ministry and Minister of Animal Welfare in every State. | Lý tưởng: Một Bộ và một Bộ trưởng Phúc lợi Động vật ở mỗi quốc gia. |
Compromise: E.G.S.* | Thỏa hiệp: E.G.S.* |
3) THAT COMPULSORY EDUCATION IN HUMANE TREATMENT OF ANIMALS BE MADE UNIVERSAL. | RẰNG GIÁO DỤC BẮT BUỘC VỀ ĐỐI XỬ NHÂN ĐẠO VỚI ĐỘNG VẬT PHẢI ĐƯỢC ÁP DỤNG PHỔ QUÁT. |
Ideal: The teaching of the principles and practice of humaneness to animals to be made compulsory as an active part of the daily curriculum of every school. | Lý tưởng: Việc giảng dạy các nguyên tắc và thực hành tính nhân đạo đối với động vật phải được đưa vào bắt buộc như một phần hoạt động trong chương trình học hàng ngày của mọi trường học. |
4) THAT ALL UNNECESSARY KILLING BE PROHIBITED. | RẰNG MỌI HÀNH VI GIẾT CHÓC KHÔNG CẦN THIẾT PHẢI BỊ CẤM. |
Ideal: World wide compassion for, and active protection of, animals by man. | Lý tưởng: Lòng trắc ẩn trên toàn thế giới đối với động vật, và sự bảo vệ tích cực của con người dành cho chúng. |
Compromise: Pain-free slaughter for every animal put to death. | Thỏa hiệp: Giết mổ không gây đau đớn cho mọi con vật bị đưa đến chỗ chết. |
5) THAT CRUELTY IN THE BREEDING, UPKEEP, TRANSPORT AND SLAUGHTER OF ALL FOOD ANIMALS, FISHES AND BIRDS BE PROHIBITED. | RẰNG MỌI SỰ TÀN ÁC TRONG VIỆC NHÂN GIỐNG, CHĂN NUÔI, VẬN CHUYỂN VÀ GIẾT MỔ TẤT CẢ ĐỘNG VẬT, CÁ VÀ CHIM LÀM THỰC PHẨM PHẢI BỊ CẤM. |
Ideal: Meat-free dietary for man. | Lý tưởng: Chế độ ăn không thịt cho con người. |
Compromise: E.G.S.* of every stage from breeding on farms to killing in slaughterhouses. | Thỏa hiệp: E.G.S.* đối với mọi giai đoạn từ gây giống ở nông trại đến giết mổ tại lò mổ. |
6) THAT THE USE OF ANAESTHETICS FOR ALL PAINFUL OPERATIONS ON ANIMALS, NCLUDING SUCH PRACTICES AS BRANDING, CASTRATING, DEHORNING, OCKING AND TATTOOING RACEHORSES’ LIPS BE MADE COMPULSORY. | RẰNG VIỆC DÙNG THUỐC TÊ CHO MỌI THỦ THUẬT GÂY ĐAU TRÊN ĐỘNG VẬT, BAO GỒM NHỮNG THỰC HÀNH NHƯ ĐÓNG DẤU SẮT NUNG, THIẾN, CẮT SỪNG, CẮT ĐUÔI VÀ XĂM MÔI NGỰA ĐUA PHẢI ĐƯỢC LÀM THÀNH BẮT BUỘC. |
Ideal: Abolition of all cruelty on farms, especially in connection with the training and care of sheepdogs. | Lý tưởng: Xóa bỏ mọi tàn ác trên nông trại, đặc biệt liên quan đến huấn luyện và chăm sóc chó chăn cừu. |
Compromise: Instruction of farmers in human methods; and E.G.S.* | Thỏa hiệp: Hướng dẫn nông dân về các phương pháp nhân đạo; và E.G.S.* |
7) THAT ALL CRUELTY IN SPORT BE PROHIBITED. | RẰNG MỌI SỰ TÀN ÁC TRONG THỂ THAO PHẢI BỊ CẤM. |
Ideal: Total abolition of all blood sports, including hunting, fishing, shooting, bull fighting, cock fighting and other animal fighting, also stag and fox hunting and live hare and rabbit coursing. | Lý tưởng: Xóa bỏ hoàn toàn mọi môn thể thao đẫm máu, bao gồm săn bắn, câu cá, bắn súng, đấu bò, chọi gà và các cuộc đấu giữa động vật khác, cũng như săn hươu và săn cáo, và đuổi bắt thỏ rừng và thỏ sống. |
8) THAT ANIMAL PERFORMANCES FOR PROFIT BE PROHIBITED. | RẰNG CÁC MÀN TRÌNH DIỄN ĐỘNG VẬT VÌ LỢI NHUẬN PHẢI BỊ CẤM. |
Ideal: Total abolition of the practice. | Lý tưởng: Xóa bỏ hoàn toàn thực hành này. |
Compromise: E.G.S.* Abolition of all cruelty in training and showing performing animals on stage or film and at rodeos and circuses. | Thỏa hiệp: E.G.S.* Xóa bỏ mọi tàn ác trong huấn luyện và biểu diễn các động vật trên sân khấu hay phim và tại các cuộc cưỡi bò tót và rạp xiếc. |
9) THAT ZOOS AND ALL OTHER FORMS OF UNNATURAL CONFINEMENT OF ANIMALS BE ABOLISHED. | RẰNG VƯỜN THÚ VÀ MỌI DẠNG GIAM CẦM PHI TỰ NHIÊN ĐỐI VỚI ĐỘNG VẬT PHẢI BỊ BÃI BỎ. |
Ideal: The establishment of animal sanctuaries for their protection, and the instruction of visitors who may see the animals under happy and natural conditions—as in the Kruger Game Reserve, South Africa, and the National Parks of America and other countries. | Lý tưởng: Thiết lập các khu bảo hộ động vật để che chở chúng, và hướng dẫn cho du khách có thể nhìn thấy động vật trong những điều kiện hạnh phúc và tự nhiên—như tại Khu Bảo tồn Động vật Hoang dã Kruger, Nam Phi, và các Công viên Quốc gia của Mỹ và các nước khác. |
10) THAT THE USE OF ANIMALS AND BIRDS FOR MEDICAL AND WAR RESEARCH BE PROHIBITED. | RẰNG VIỆC SỬ DỤNG ĐỘNG VẬT VÀ CHIM CHO NGHIÊN CỨU Y HỌC VÀ CHIẾN TRANH PHẢI BỊ CẤM. |
Ideal: Abolition of vivisection and all other research upon animals, involving physical, psychological and mental suffering and death. | Lý tưởng: Xóa bỏ giải phẫu sinh thể và mọi nghiên cứu khác trên động vật, vốn gây đau khổ về thể xác, tâm lý và tinh thần và dẫn đến cái chết. |
11) THAT ALL INDUSTRIAL EXPLOITATION OF ANIMALS FOR PROFIT BE PROHIBITED. | RẰNG MỌI SỰ KHAI THÁC ĐỘNG VẬT VÌ LỢI NHUẬN TRONG CÔNG NGHIỆP PHẢI BỊ CẤM. |
Ideal: Abolition of the fur, feather, serum and gland extract industries. | Lý tưởng: Xóa bỏ các ngành công nghiệp lông, lông vũ, huyết thanh và chiết xuất tuyến. |
Compromise: Elimination from all such industries of all pain producing practices. E.G.S.[1] Under no conditions must the unborn young be taken from the mother, or explosive missiles be fired into the bodies of sentient creatures; this clause includes cruel trapping and killing of furred and feathered animals, and the use of pit ponies and other draught animals now employed under pain producing conditions. | Thỏa hiệp: Loại trừ khỏi tất cả các ngành công nghiệp như vậy mọi thực hành gây đau đớn. E.G.S. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được lấy bào thai khỏi mẹ, hoặc bắn các đầu đạn nổ vào thân thể những sinh vật có cảm giác; điều khoản này bao gồm việc bẫy và giết tàn nhẫn các động vật có lông và chim, và việc sử dụng ngựa nhỏ kéo mỏ và các loài súc vật kéo khác hiện đang làm việc trong những điều kiện gây đau đớn. |
12) THAT PROTECTIVE FREEDOM BE AFFORDED TO EVERY BIRD. | RẰNG TỰ DO BẢO HỘ PHẢI ĐƯỢC DÀNH CHO MỌI LOÀI CHIM. |
Ideal: parallel of #9. | Lý tưởng: song song với #9. |
Compromise: E.G.S.* of all caging of birds, to ensure adequate space, shade, food, water, cleanliness and care. | Thỏa hiệp: E.G.S.* đối với mọi việc nuôi nhốt chim trong lồng, để bảo đảm không gian, bóng mát, thức ăn, nước, vệ sinh và chăm sóc đầy đủ. |
13) THAT MAN BE COMPELLED TO ACCEPT RESPONSIBILITY FOR THE WELFARE, HAPPINESS AND DEVELOPMENT OF ALL MEMBERS OF THE ANIMAL KINGDOM. | RẰNG CON NGƯỜI PHẢI BỊ BUỘC CHỊU TRÁCH NHIỆM CHO PHÚC LỢI, HẠNH PHÚC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MỌI THÀNH VIÊN THUỘC GIỚI ĐỘNG VẬT. |
Ideal: Worldwide humaneness. | Lý tưởng: Tính nhân đạo trên toàn thế giới. |
Compromise: None. | Thỏa hiệp: Không có. |
The American Theosophist, Vol. 38, Issue 1, January 1950, p. 18 | The American Theosophist, Tập 38, Số 1, Tháng Giêng 1950, tr. 18 |
157
Atomic Energy and World Peace—Năng Lượng Nguyên Tử và Hòa Bình Thế Giới
Far from destroying humanity, the atom bornb may achieve what the United Nations has so far failed to achieve—the outlawing of war. Vast sums of money now spent on armaments could then be available for peaceful purposes and world tension would be relieved. How important these are! What an opportunity for human progress in every department of life would be provided by the abolition of war. This is not a mere idealistic dream. Any Nation which now embarks on war risks annihilation, and in the face of annihilation any Nation, or rather the leaders of any Nation, would pause. Thus we are on the threshold of a new era. | Trái với việc hủy diệt nhân loại, bom nguyên tử có thể đạt được điều mà Liên Hiệp Quốc cho tới nay đã chưa làm được—đặt chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật. Những khoản tiền khổng lồ hiện đang chi cho vũ trang khi ấy có thể dành cho các mục đích hòa bình và căng thẳng thế giới sẽ được giảm bớt. Những điều này quan trọng biết bao! Việc hủy bỏ chiến tranh sẽ cung cấp cơ hội nào cho tiến bộ của con người trong mọi lĩnh vực của đời sống. Đây không chỉ là một giấc mơ duy tâm. Bất kỳ quốc gia nào giờ đây khởi sự chiến tranh đều liều lĩnh đối diện với hủy diệt, và trước nguy cơ hủy diệt, bất kỳ quốc gia nào, hay đúng hơn là các nhà lãnh đạo của bất kỳ quốc gia nào, cũng sẽ phải dừng lại. Như vậy chúng ta đang ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên mới. |
I say the leaders of the Nations, because the masses of humanity are longing for peace. They are experiencing what has been called a ‘hunger for wholeness’. Yet so far the terrible financial toll upon tax-payers for accelerated preparedness for war continues to be exacted. This has been admittedly forced upon mankind up to now. Adequate defences against threatened wanton aggression must be built up, as also effective resistance to it when it occurs. The certainty of disaster for both winners and losers in any future atomic war could however, through fear, bring about the abolition of war on Earth. | Tôi nói là các nhà lãnh đạo các Quốc gia, bởi quần chúng nhân loại đang khát khao hòa bình. Họ đang trải nghiệm điều đã được gọi là “cơn đói khát sự toàn vẹn.” Thế nhưng cho đến nay, gánh nặng tài chính khủng khiếp đè lên người đóng thuế cho việc tăng tốc chuẩn bị chiến tranh vẫn tiếp tục bị áp đặt. Điều này quả thật cho tới lúc này đã bị bắt buộc đối với nhân loại. Phải xây dựng phòng thủ đủ mạnh chống lại cuộc xâm lược bừa bãi bị đe dọa, cũng như kháng cự hiệu quả khi nó xảy ra. Tuy nhiên, sự chắc chắn về tai họa cho cả kẻ thắng lẫn người thua trong bất kỳ cuộc chiến tranh nguyên tử tương lai nào có thể, qua nỗi sợ, đưa đến việc bãi bỏ chiến tranh trên Trái Đất. |
Thus the scientific discovery of the potentially annihilating atom, the hydrogen and the cobalt bornbs may prove to be greatest material blessing the world has known. Rightly used as deterrents, they may lead to the abolition of War on earth to an era of peace and prosperity, and to a world civilization founded upon recognition of the unity and solidarity of the human race, of the brotherhood of all men. This would also bring about the fulfilment of the First Object of the Theosophical Society which is: ‘To form a nucleus of the Universal Brotherhood of humanity, without distinction of race, creed, sex, caste or colour’. It would be tragic if this came about only through fear. Idealists have seen a better way—the unifying of humanity through love and understanding This is the dream of Theosophists, and would seem that, despite the grave danger of the misuse of atomic energy, the world is moving steadily towards the fulfilment of the First Object of the Theosophical Society. | Như vậy, phát kiến khoa học về nguyên tử có khả năng hủy diệt, các bom hydro và cobalt có thể hóa ra là phúc lành vật chất lớn nhất mà thế giới từng biết. Nếu được dùng đúng như những rào cản, chúng có thể dẫn tới việc bãi bỏ Chiến tranh trên Trái Đất, tới một kỷ nguyên hòa bình và thịnh vượng, và tới một nền văn minh thế giới đặt trên sự thừa nhận tính nhất thể và tình liên đới của nhân loại, tình huynh đệ của mọi người. Điều này cũng sẽ mang lại sự viên mãn của Mục tiêu Thứ nhất của Hội Thông Thiên Học là: “Hình thành một hạt nhân của Tình Huynh Đệ Phổ Quát của nhân loại, không phân biệt chủng tộc, tín ngưỡng, giới tính, giai cấp hay màu da.” Thật bi kịch nếu điều này chỉ xảy ra qua nỗi sợ. Những người duy tâm đã thấy một con đường tốt hơn—hợp nhất nhân loại qua tình thương và sự thấu hiểu. Đây là giấc mơ của các nhà Thông Thiên Học, và dường như, bất chấp mối nguy hiểm nghiêm trọng của việc lạm dụng năng lượng nguyên tử, thế giới đang tiến một cách vững vàng tới sự viên mãn của Mục tiêu Thứ nhất của Hội Thông Thiên Học. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 16, No. 3 & 4, 1956, p. 2 | Theosophy in New Zealand, Tập 16, Số 3 & 4, 1956, tr. 2 |
158
Modern Materialism—Chủ Nghĩa Vật Chất Hiện Đại
One of the most perplexing questions before mankind today is: Why is not mankind happy and prosperous on an earth that can supply prodigal abundance of everything he needs for a full life, and everything for recreational, cultural and mental happiness and expansion? | Một trong những câu hỏi gây bối rối nhất trước nhân loại hôm nay là: Tại sao nhân loại không hạnh phúc và thịnh vượng trên một quả đất có thể cung cấp dư dật tất cả mọi thứ y cần cho một đời sống viên mãn, và mọi điều cho hạnh phúc giải trí, văn hóa và tinh thần, cũng như cho sự khai mở trí tuệ? |
The answer apparently is: Because Science has advanced man’s power far in advance of his wisdom and moral development. | Câu trả lời dường như là: Bởi vì Khoa học đã nâng quyền năng của con người vượt xa trước sự minh triết và phát triển đạo đức của y. |
Twentieth century man, despite the efforts of numbers of idealists, reformers, crusaders, is held down, chained down, bogged down, by an enormous preponderance of material power, material things, material cravings, and imagined material needs. The vast material and financial body of modem civilisation lacks an adequate soul, a moral idealistic mind, and an active spirit. It is all ballast and no real cargo. It sails marvellously and swiftly under and on the sea and flies like a bird in the air above; but it has no enduring port, no harbour of beauty, spirituality and peace, to which it should be journeying. Therefore it arrives nowhere so far as tme cultural, intellectual and spiritual progress is concerned. | Con người thế kỷ hai mươi, bất chấp nỗ lực của nhiều người duy tâm, nhà cải cách, nhà vận động, vẫn bị đè nặng, xích chặt, sa lầy bởi một ưu thế khổng lồ của quyền lực vật chất, của vật phẩm vật chất, của ham muốn vật chất và những nhu cầu vật chất tưởng tượng. Thân thể vật chất và tài chính đồ sộ của nền văn minh hiện đại thiếu một linh hồn xứng hợp, một tâm trí lý tưởng mang đạo đức, và một tinh thần năng động. Tất cả chỉ là dằn tàu mà không có hàng hóa thực sự. Nó đi biển tuyệt diệu và nhanh chóng ở dưới và trên mặt nước, và bay như chim trên bầu trời; nhưng nó không có hải cảng bền vững, không có bến đỗ của vẻ đẹp, của tinh thần và của hòa bình, nơi nó đáng lẽ nên hướng tới. Vì vậy nó chẳng đến đâu cả xét về tiến bộ văn hóa, trí tuệ và tinh thần chân chính. |
What is the great lack? The answer is so revolutionary, so diametrically opposed to the prevalent spirit of the time (with notable exceptions) that one almost hesitates to pronounce it. The great lack, the great absence, is of readiness to give freely of one’s best without counting the reward. This absence arises from failure by humanity to realize one basic spiritual law. Expressed in three words that law is: give, to live. Always using common sense to govern the degree or extent of self-giving, its direction and nature, anyone who freely gives of his best will win a reward far greater than any which the material world will provide. Self-giving alone brings happiness, inner contentment, free conscience, and the comradeship of all truly great men and women. | Điều thiếu vắng lớn lao là gì? Câu trả lời mang tính cách mạng đến thế, đối nghịch hoàn toàn với tinh thần phổ biến của thời đại (trừ những ngoại lệ đáng kể) đến nỗi người ta hầu như ngần ngại nói ra. Sự thiếu vắng lớn ấy, sự vắng mặt lớn ấy, là sự sẵn sàng tự do hiến dâng điều tốt nhất của mình mà không tính toán phần thưởng. Sự vắng mặt này phát sinh từ thất bại của nhân loại trong việc nhận ra một định luật tinh thần căn bản. Diễn đạt trong ba từ, định luật ấy là: cho, để sống. Luôn dùng lương tri để điều phối mức độ hay phạm vi tự hiến, hướng nhắm và bản chất của nó, bất kỳ ai tự do hiến dâng điều tốt nhất của mình sẽ nhận phần thưởng lớn hơn rất nhiều so với bất kỳ điều gì thế giới vật chất có thể cung cấp. Chỉ có sự tự hiến mới đem lại hạnh phúc, sự mãn nguyện nội tâm, lương tâm thanh thản và tình bằng hữu của mọi người nam và nữ thật sự vĩ đại. |
For kings, presidents, and prime ministers, throughout all government positions, through all professions and trades and other human activities, true success depends upon selfless giving of one’s best. This is the secret of happiness, which mankind will one day be obliged to learn and acknowledge. | Đối với vua chúa, tổng thống và thủ tướng, xuyên suốt mọi vị trí trong chính phủ, qua mọi ngành nghề và thương nghiệp và các hoạt động khác của con người, thành công chân chính tùy thuộc vào sự vô ngã mà hiến dâng điều tốt nhất của mình. Đây là bí quyết của hạnh phúc, điều mà nhân loại một ngày kia sẽ buộc phải học và thừa nhận. |
Granted, this spiritual attitude is not easy to adopt and to maintain in the face of a grossly materialistic civilisation and a grossly greedy humanity; but it is the only way to peace. We must accept this truth sooner or later, and above all must we hand on to our children knowledge of this law. | Thừa nhận rằng thái độ tinh thần này không dễ áp dụng và duy trì trước một nền văn minh hết sức vật chất và một nhân loại hết sức tham lam; nhưng đây là con đường duy nhất dẫn tới hòa bình. Chúng ta phải chấp nhận chân lý này sớm hay muộn, và trên hết chúng ta phải truyền trao cho con em kiến thức về định luật này. |
Humanity needs to experience an overmastering inner pressure to serve, to assist in producing the physical and cultural well being and the intellectual and spiritual progress of all men. The supremely worthy objective for all human effort is world progress, world prosperity, world happiness. These blessings are attainable only by obedience to the law of ‘give, to live’. | Nhân loại cần trải nghiệm một áp lực nội tâm chế ngự thôi thúc phải phụng sự, giúp tạo ra phúc lợi vật chất và văn hóa, cùng tiến bộ trí tuệ và tinh thần cho tất cả mọi người. Mục tiêu xứng đáng tối thượng cho mọi nỗ lực của con người là tiến bộ thế giới, thịnh vượng thế giới, hạnh phúc thế giới. Những phúc lành này chỉ có thể đạt được bằng sự vâng phục định luật “cho, để sống”. |
How can the child perceive this shining peak of human attainment when from birth to death it is surrounded by commercialised adult humanity, absorbed with self-advertising, with gaining possessions and living self-centred lives? The child is brought up and trained amidst all this, receives an education which is eighty percent materialistic, in which true religion has only a minute part. The scholar is taught to memorise facts and ideas in order that, by repeating them correctly at examinations, he will win educational rewards, defeat his fellow pupils, shine over them, and then sell to the highest bidder the whole result of education in the market place. | Làm sao trẻ thơ có thể thấy được đỉnh sáng chói của thành tựu nhân loại khi từ lúc sinh ra đến chết đi, trẻ bị vây bủa bởi một thế giới người lớn thương mại hóa, mải mê với tự quảng bá, với việc chiếm hữu và sống đời sống vị kỷ? Trẻ được nuôi dạy và huấn luyện giữa tất cả những điều này, nhận một nền giáo dục vốn tám mươi phần trăm mang tính vật chất, trong đó tôn giáo chân chính chỉ giữ một phần nhỏ xíu. Học sinh được dạy ghi nhớ sự kiện và ý tưởng để rồi, bằng việc lặp lại đúng tại các kỳ thi, trẻ sẽ giành phần thưởng giáo dục, đánh bại bạn học, tỏa sáng hơn họ, và rồi đem bán toàn bộ kết quả của nền giáo dục cho người trả giá cao nhất nơi chợ đời. |
All this, I submit, is a crime against the child; it is therefore a crime against adults, against humanity as a whole. This situation is, I am forced to conclude, the greatest single cause of the unhappiness of man amidst a plethora of this world’s goods. Modem youth cannot be blamed for such lack of responsibility and pleasure-seeking as it may display. For youth has little chance under present conditions. In adolescence, youth inevitably grows up like its surroundings and its fellowmen, is irresistibly moulded by them into a self-centred acquisitive animal, bereft of spirituality and culture. | Tất cả điều này, tôi xin thưa, là một tội ác đối với trẻ em; vì thế, đó là một tội ác đối với người lớn, đối với nhân loại như một toàn thể. Tình trạng này, tôi buộc phải kết luận, là nguyên nhân đơn lẻ lớn nhất cho sự bất hạnh của con người giữa bội thực những tiện nghi vật chất. Thanh niên hiện đại không thể bị trách cứ về sự thiếu trách nhiệm và việc chạy theo khoái lạc mà có thể các em biểu lộ. Vì thanh niên hầu như không có cơ hội dưới những điều kiện hiện tại. Trong thời kỳ thiếu niên, thanh niên tất yếu trưởng thành giống như môi trường và đồng loại quanh mình, bị họ khuôn đúc không cưỡng lại được thành một sinh vật vị kỷ, ham chiếm hữu, thiếu vắng tinh thần và văn hóa. |
If it here be asked why religion does not attract and save modem man from himself, one answer presents itself: because orthodox religion demands blind faith in the face of incredibility of dogma, and offers the stone of dogmatism and tradition to a world seeking the bread of spiritual truth and intellectually acceptable answers to the problems of life. | Nếu ở đây người ta hỏi vì sao tôn giáo không thu hút và cứu con người hiện đại khỏi chính mình, một câu trả lời hiện ra: bởi vì tôn giáo chính thống đòi hỏi niềm tin mù quáng bất chấp tính khó tin của tín điều, và trao đá tảng giáo điều và truyền thống cho một thế giới đang tìm kiếm bánh của chân lý tinh thần và những câu trả lời có thể chấp nhận về mặt trí tuệ cho các vấn đề của đời sống. |
The tragedy is not physical. Physical ills are only symptoms of a grave disorder. The tragic cause is moral and spiritual. The treatment, therefore, is moral and spiritual education both in and after school. Thereby the youth of today can become the good citizens of tomorrow, and good citizenship is the secret of happiness. | Bi kịch không nằm ở phương diện thể xác. Những tật bệnh thể xác chỉ là triệu chứng của một rối loạn trầm trọng. Nguyên nhân bi kịch là thuộc về đạo đức và tinh thần. Vì vậy, phương thuốc là giáo dục đạo đức và tinh thần, cả trong và sau thời gian đến trường. Nhờ đó, thanh thiếu niên hôm nay có thể trở thành những công dân tốt ngày mai, và công dân tốt là bí quyết của hạnh phúc. |
The American Theosophist, Vol. 32, Issue 8, August 1944 pp. 171-179 | The American Theosophist, Tập 32, Số 8, Tháng Tám 1944, tr. 171-179 |
159
Eight Reasons for Humaneness—Tám Lý Do cho Lòng Nhân Ái
The second World War has ended. Mankind stands at the threshold of a New Age. An ideal is needed as heart and core of the New World Order which now must be built. No finer ideal could be chosen by individuals and nations than that of humaneness. There are at least eight reasons for this choice. | Cuộc Chiến tranh Thế giới thứ hai đã chấm dứt. Nhân loại đứng ở ngưỡng cửa của một Kỷ nguyên Mới. Một lý tưởng được cần đến như trái tim và lõi của Trật tự Thế giới Mới mà giờ đây phải được xây dựng. Không có lý tưởng nào tốt đẹp hơn có thể được cá nhân và các quốc gia lựa chọn hơn là lòng nhân ái. Có ít nhất tám lý do cho sự lựa chọn này. |
1. To end War and ensure Peace. All life, all manifestation and all human experience are governed by immutable Law. Effect invariably follows cause. Appropriate reaction always follows every action. The existence and operation of this Law has been affirmed by every great Teacher of the race. | Để chấm dứt Chiến tranh và bảo đảm Hòa bình. Mọi sự sống, mọi biểu lộ và mọi kinh nghiệm của con người đều bị chi phối bởi Luật bất biến. Hậu quả luôn luôn theo sau nguyên nhân. Phản ứng thích đáng luôn theo sau mọi hành động. Sự hiện hữu và sự vận hành của Luật này đã được mọi Bậc Thầy vĩ đại của nhân loại khẳng định. |
God said: 4 Whoso sheddeth man’s blood, by man shall his blood be shed’ (Genesis 9:6). | Thượng đế phán: “Kẻ nào đổ máu người, thì bởi người mà máu nó sẽ bị đổ” (Sáng Thế Ký 9:6). |
Christ said: | Đức Christ phán: |
‘For verily I say unto you, till heaven and earth pass, one jot or one tittle shall in no wise pass from the law, till all be fulfilled’ (Matthew 5:18). | “Vì quả thật Ta nói với các ngươi, cho tới khi trời đất qua đi, một nét nhỏ hay một chấm nhỏ của luật pháp cũng không hề qua đi, cho đến khi mọi sự được nên trọn” (Ma-thi-ơ 5:18). |
‘And it is easier for heaven and earth to pass than one tittle of the law to fail’ (Luke 16:17). | “Trời đất qua đi còn dễ hơn là một nét của luật pháp bị bỏ đi” (Lu-ca 16:17). |
‘Judge not, that ye be not judged. For with what judgment ye judge, ye shall be judged: and with what measure ye mete, it shall be measured unto you again’ (Matthew 7:1-2). | “Chớ xét đoán, để khỏi bị xét đoán. Vì các ngươi xét đoán người ta thể nào, thì các ngươi cũng sẽ bị xét đoán thể ấy; và các ngươi lường cho người ta mực nào, thì họ cũng sẽ lường lại cho các ngươi mực ấy” (Ma-thi-ơ 7:1-2). |
Therefore all things whatsoever ye would that men should do unto you, do ye even so to them: for this is the Law and the Prophets’ (Matthew 7:12). | “Vậy tất cả điều chi các ngươi muốn người ta làm cho mình, hãy làm cho người ta như vậy; vì ấy là luật pháp và lời các đấng tiên tri” (Ma-thi-ơ 7:12). |
St Paul said: ‘God is not mocked; whatsoever a man soweth that shall he also reap’. | Thánh Phao-lô nói: “Thượng đế không bị nhạo báng; vì ai gieo giống chi, lại gặt giống ấy.” |
Carlyle writes: ‘All work is as seed sown, it grows and spreads, and sows itself anew and so in endless palingenesis lives and works’. | Carlyle viết: “Mọi công việc đều như hạt giống gieo xuống, nó lớn lên và lan tỏa, và lại gieo mình một lần nữa và cứ thế trong cuộc tái sinh vô tận mà sống và hành động.” |
Those are not threats but statements of Law under the operation of which those who inflict pain receive pain, those who live by cruelty receive the same. Wholesale exploitation, torture, and especially murder of animals by man helps to bring upon mankind the horrors of war. Only a truly humane humanity can hope for permanent peace on earth. | Đó không phải là lời đe dọa mà là những tuyên ngôn về Luật, theo sự vận hành của Luật ấy thì kẻ nào gây đau khổ sẽ nhận đau khổ, kẻ nào sống bằng tàn ác sẽ nhận điều tương tự. Sự khai thác hàng loạt, tra tấn, và đặc biệt là sát hại loài vật của con người góp phần đưa những kinh hoàng của chiến tranh giáng xuống nhân loại. Chỉ một nhân loại thực sự nhân ái mới có thể hy vọng về hòa bình vĩnh viễn trên mặt đất. |
2. To banish disease and ensure health. Disease arises from two main causes. The first is the infliction of pain upon sentient beings, whether animals or men. The second is the wrong conduct of life, which includes wrong care of the body and wrong use of its powers. Meat eating, for example, contributes to both of these causes. First, it depends upon the wanton infliction of pain, and secondly it intrudes into the body highly toxic, rapidly putrefying and pain-poisoned substances. The eater suffers both under the Law of Cause and Effect and from the poison introduced into the body. | Để xua bệnh tật và bảo đảm sức khỏe. Bệnh tật phát sinh từ hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là việc gây đau đớn cho các sinh linh có cảm giác, dù là động vật hay con người. Thứ hai là sự xử sự sai lầm trong đời sống, bao gồm chăm sóc sai lầm đối với thân xác và sử dụng sai lầm các năng lực của nó. Ăn thịt, thí dụ, góp phần vào cả hai nguyên nhân này. Trước hết, nó dựa trên việc cố ý gây đau đớn, và thứ hai, nó đưa vào thân thể những chất độc cao, mau phân hủy và bị nhiễm độc bởi đau đớn. Người ăn phải chịu đựng cả dưới Luật Nhân Quả, lẫn từ chất độc đưa vào thân thể. |
All infliction of unnecessary suffering upon animals, as by trapping, vivisection and slaughter for sport, for food and for profit, contributes to the ill health of mankind. | Mọi hành vi gây đau khổ không cần thiết cho động vật, như bẫy, giải phẫu sinh thể và giết mổ vì thể thao, vì thực phẩm và vì lợi nhuận, đều góp phần vào tình trạng sức khỏe kém của nhân loại. |
Health depends on humaneness, without which it cannot be permanently enjoyed. | Sức khỏe tùy thuộc vào lòng nhân ái, thiếu nó thì không thể thụ hưởng bền vững. |
3. To advance his spiritual evolution by cleansing the soul of man of cruelty and blood guilt. ‘The measure of the stature of the fullness of Christ’ was declared by St Paul to be the supreme human attainment, the objective of human evolution. To co-operate with the evolutionary purpose is to hasten its fulfilment in oneself and others. Attainment of Christhood depends upon living a Christ-like life, which means a life to love and of service and a life free from the indulgence of animal passions and blood guilt. Furthermore, to extirpate the characteristics of cruelty from human nature by ceasing to be cruel and by expressing and so developing compassion is one of the greatest services which man can render to God, to his fellow men, and to the Animal Kingdom of Nature. | Để thúc đẩy tiến hóa tinh thần bằng cách gột sạch linh hồn con người khỏi tính tàn ác và oan khiên máu. “Khuôn mẫu thước tấc của sự viên mãn trong Đức Christ” đã được Thánh Phao-lô tuyên bố là thành tựu tối thượng của nhân loại, cứu cánh của tiến hóa con người. Hợp tác với mục đích tiến hóa là làm mau sự viên mãn của mục đích ấy trong chính mình và nơi người khác. Đạt tới Christ tính tùy thuộc vào việc sống một đời sống như Đức Christ, tức là đời sống của tình thương và phụng sự, và một đời sống thoát ly việc nuông chiều các dục vọng thú tính và oan khiên máu. Hơn nữa, việc bứng rễ đặc tính tàn ác khỏi bản tính con người bằng cách ngừng tàn ác và biểu lộ, phát triển lòng từ bi là một trong những phụng sự vĩ đại nhất mà con người có thể hiến dâng cho Thượng đế, cho đồng loại và cho Giới Động vật của Tự nhiên. |
Thus purified, thus co-operating with the spiritual purpose in Nature, and thus serving, man advances rapidly towards his goal of perfection or Christhood. | Nhờ thế được thanh lọc, nhờ thế hợp tác với mục đích tinh thần trong Tự nhiên, và nhờ thế phụng sự, con người tiến nhanh tới cứu cánh hoàn thiện hay Christ tính. |
4. To assist animal evolution by replacing fear producing cruelty by trust evoking humaneness. The Divine Life is also present and is also unfolding to a higher state in animals as it is in man. Cruelty retards, humaneness quickens the evolutionary progress of those animals that receive cruelty or humane treatment from man. | Để trợ giúp tiến hóa của động vật bằng cách thay thế sự tàn ác gây sợ hãi bằng lòng nhân ái khơi gợi niềm tin. Sự Sống Thiêng cũng hiện diện và cũng đang khai mở tới trạng thái cao hơn nơi loài vật như nơi con người. Sự tàn ác kìm hãm, lòng nhân ái làm mau tiến trình tiến hóa của những động vật nhận lãnh tàn ác hay nhân ái từ con người. |
As an elder in evolution, it is man’s bounden duty to help forward by every means within his power the evolutionary advancement of his younger brethren of the Animal Kingdom. By this ministration he also hastens his own progress to perfected manhood. | Là bậc trưởng thượng trên đường tiến hóa, con người có bổn phận nghiêm cẩn phải hỗ trợ bằng mọi phương tiện trong quyền năng của mình sự tiến bộ tiến hóa của các đàn em thuộc Giới Động vật. Bằng sự chăm sóc này, y cũng làm mau bước tiến tới nam nhi hoàn thiện của chính mình. |
5. To banish ugliness from the face of the earth and to increase the beauty of civilisation. Beauty is the hallmark of a civilised and cultured individual or race. Cruelty is ugly. Humaneness is beautiful. A humanitarian life is a beautiful life. | Để xóa xấu xí khỏi mặt đất và tăng vẻ đẹp cho nền văn minh. Vẻ đẹp là dấu ấn của một cá nhân hay một dân tộc được văn minh và được trau dồi. Tàn ác là xấu xí. Nhân ái là đẹp. Một đời sống nhân đạo là một đời sống đẹp. |
An increase in the beauty of human surroundings and civilisation is an urgent necessity. The meat trade is one of the most prolific sources in the world of ugliness, coarseness, brutality. Vegetarianism promotes beauty, refinement, culture. Comparison of the ghastly sights, sounds and smells of an abattoir with the beauty and fragrance of an orchard, leaves no room for doubt upon this question. It reveals the contrast between utter ghoulishness and sheer beauty and delight. The clean simplicity and beauty of sun-ripened fruits, of oranges, grapes, nuts, com, honey is surely infinitely preferable to the horror and ugliness of the meat trade and of the meat market, which has been described as the ‘domain of the carcase and the blood-sustained porter’. For beauty’s sake mankind must become humane. | Việc tăng vẻ đẹp cho môi trường sống của con người và cho nền văn minh là một nhu cầu khẩn thiết. Thương nghiệp thịt là một trong những nguồn phong phú nhất trên thế giới của xấu xí, thô lậu, tàn bạo. Ăn chay thúc đẩy vẻ đẹp, sự tinh luyện, văn hóa. So sánh các cảnh tượng, âm thanh và mùi ghê rợn của lò mổ với vẻ đẹp và hương thơm của một vườn cây ăn trái, thì không còn chỗ cho nghi ngờ. Nó phơi bày sự tương phản giữa tính ma quái tột cùng và vẻ đẹp thuần túy cùng hoan lạc. Sự đơn giản sạch sẽ và vẻ đẹp của hoa trái chín dưới nắng, của cam, nho, hạt, bắp, mật ong hẳn là đáng chuộng vô cùng so với nỗi kinh hoàng và xấu xí của thương nghiệp thịt và chợ thịt, vốn đã từng được mô tả là “cõi của xác chết và người phu khuân vác được nuôi bằng máu.” Vì vẻ đẹp, nhân loại phải trở nên nhân ái. |
6. To save animals, children, women, the aged, the weak and dependent from suffering and sorrow. Evolutionary purpose and religious idealism apart, pain is of immense direct significance in animal and human experience. Pain matters tremendously. It is a discord constantly marring the song of life. To cause unnecessary suffering is a crime against the Creator, against Creation, against Divine Love and against one’s fellow creatures. | Để cứu động vật, trẻ em, phụ nữ, người già, người yếu đuối và người phụ thuộc khỏi đau khổ và sầu não. Bỏ qua mục đích tiến hóa và lý tưởng tôn giáo, đau đớn có ý nghĩa trực tiếp to lớn trong kinh nghiệm của động vật và con người. Đau đớn là điều hệ trọng vô cùng. Nó là một âm nghịch liên tục làm hoen ố bản nhạc của sự sống. Gây ra đau khổ không cần thiết là một tội ác chống lại Đấng Tạo Hóa, chống lại Tạo Vật, chống lại Tình Yêu Thiêng Liêng và chống lại các sinh linh đồng loại. |
Men and animals are dependent upon each other for their happiness and well being, Yet man’s inhumanity to man is proverbial and Man is by far the worst enemy the Animal Kingdom has to fear. The life in all creatures being One Life, when man unnecessarily injures a sentient being, he injures all life; for all beings are akin. He therefore injures himself as surely, if less immediately, as if he deliberately hurt his own body. | Con người và loài vật nương tựa lẫn nhau cho hạnh phúc và phúc lợi của mình. Thế nhưng sự bất nhân của con người với con người đã thành tục ngữ, và Con người là kẻ thù tệ hại nhất mà Giới Động vật phải sợ. Sự sống trong mọi sinh linh là Một Sự Sống, khi con người gây thương tổn không cần thiết cho một sinh linh có cảm giác, y gây thương tổn cho toàn thể sự sống; vì mọi sinh vật đều là bà con. Do đó y làm tổn thương chính mình chắc chắn, dẫu ít tức thời hơn, như thể y cố ý gây đau cho chính thân xác mình. |
The abattoir represents the apex of savagery. Every moment of every day, in screaming agony and in shuddering fear, hundreds of thousands of helpless animals are dying unnecessarily. They are bred and killed for the two purposes of satisfying man’s appetite for flesh and blood and of swelling his bank balance. Every abattoir is as an animal Buchenwald. Every vivisector’s laboratory is as a Belsen or a Dachau, and they exist and are in continual operation in thousands throughout the world. | Lò mổ đại diện cho đỉnh cao của man rợ. Mỗi khoảnh khắc của mỗi ngày, trong nỗi thống khổ gào thét và trong cơn run rẩy vì sợ hãi, hàng trăm ngàn con vật bất lực đang chết một cách không cần thiết. Chúng được nuôi và giết chỉ vì hai mục đích là thỏa mãn khẩu vị của con người đối với thịt và máu, và làm dày tài khoản ngân hàng của y. Mỗi lò mổ là như một Buchenwald dành cho loài vật. Mỗi phòng thí nghiệm của nhà giải phẫu sinh thể là như một Belsen hay Dachau, và chúng hiện hữu, hoạt động liên miên hàng ngàn nơi trên khắp thế giới. |
If man could but attune his inner ear to the song of life, he would find it marred by the cry of millions of tortured animals. This cry constantly arises as screams and moans of agony from the whole earth. Those who have once heard it can never forget the experience. Yet they must try and shut the memory of it out of their minds, as knowledge of the intensity of suffering which is its cause and the horror of the sound are unendurable. | Nếu con người có thể điều chỉnh nội nhĩ của mình cho phù hợp với bản nhạc của sự sống, y sẽ nhận ra nó bị hoen ố bởi tiếng kêu của hàng triệu con vật bị tra tấn. Tiếng kêu này liên tục dâng lên thành tiếng thét và rên rỉ của nỗi thống khổ từ khắp mặt đất. Những ai đã một lần nghe thấy nó sẽ chẳng bao giờ quên trải nghiệm ấy. Dẫu vậy họ phải cố gắng gạt ký ức ấy ra khỏi tâm trí, vì nhận thức về cường độ đau khổ là nguyên nhân của nó và sự kinh hoàng của âm thanh ấy là không thể chịu đựng nổi. |
The unnecessary suffering, mental, emotional, physical, inflicted by man upon fellow man is also world wide and continuous. Cries and moans of agony arise from human victims of human cruelty. Uniting with those evoked by the pain of cruel punishment, accidents, ill health and disease, they produce an appeal for aid which is irresistible to the heart at all sensitive to suffering. For such it is all important, nay, it is an impelling necessity, that this suffering should cease. Unnecessary suffering is an evil which must be banished from the earth. The New World Order must be characterised by immense diminution of the world’s pain and an immense increase in the world’s happiness and peace. | Nỗi khổ không cần thiết—tinh thần, cảm xúc, thể xác—mà con người gây cho đồng loại cũng lan khắp thế giới và liên tục. Tiếng kêu thét và tiếng rên xiết của những nạn nhân loài người bị tàn ác bởi loài người nổi lên. Hợp cùng những tiếng kêu dấy lên vì nỗi đau của hình phạt tàn nhẫn, tai nạn, sức khỏe kém và bệnh tật, chúng tạo thành một lời khẩn cầu cứu giúp không thể cưỡng lại với trái tim nào còn mẫn cảm trước đau khổ. Đối với những người như thế, điều hệ trọng khôn cùng, đúng hơn, là một nhu cầu bức thiết, rằng nỗi khổ này phải chấm dứt. Đau khổ không cần thiết là một điều ác phải bị xóa khỏi mặt đất. Trật tự Thế giới Mới phải được đặc trưng bởi sự giảm thiểu to lớn nỗi đau của thế giới và sự gia tăng to lớn hạnh phúc và hòa bình của thế giới. |
To render mankind responsive to spiritual impulses and Divine assistance. By this means the evolution of the whole human race can be quickened. Spirit perpetually seeks to refine matter, to bring it to greater responsiveness. Life ever seeks to mould form to greater beauty. Consciousness ever seeks more effective and less resistant vehicles. | Để làm cho nhân loại đáp ứng với các xung lực tinh thần và sự trợ giúp Thiêng Liêng. Bằng phương tiện này, tiến hóa của toàn thể nhân loại có thể được thúc đẩy. Tinh thần không ngừng tìm cách tinh luyện vật chất, làm cho vật chất trở nên đáp ứng hơn. Sự sống luôn tìm cách khuôn đúc hình tướng tới vẻ đẹp cao hơn. Tâm thức luôn tìm kiếm các vận cụ hiệu quả hơn và ít kháng trở hơn. |
Cruelty and the pain and fear which it causes coarsen, deaden, make spiritually insensitive the body, emotions and mind of man. Cruelty therefore delays his evolution. Humaneness and the happiness, trust and freedom which it bestows refine and make spiritually responsive the nature of those by whom they are received. Humaneness therefore quickens evolution. | Sự tàn ác và nỗi đau, nỗi sợ mà nó gây ra làm thô kệch, làm tê liệt, làm vô cảm về mặt tinh thần thân thể, cảm dục và trí của con người. Tàn ác vì thế làm chậm tiến hóa của y. Lòng nhân ái và hạnh phúc, niềm tin và tự do mà nó ban tặng thì tinh luyện và làm cho bản chất của những người nhận trở nên đáp ứng về mặt tinh thần. Nhân ái vì vậy thúc đẩy tiến hóa. |
Because the Divine quality of love is denied by cruelty and given expression by humaneness. Mankind now stands at the dawn of a New Age and at the threshold of a new level of consciousness. The New Age will be an age of unity, and the new level of consciousness will be that of the intuitive perception of the unity of the life of all beings. Cruelty, like a monstrous Devil, bars the way to both attainments. It is the great enemy of mankind. Cruelty must be banished and displaced by compassion. | Bởi vì phẩm tính Thiêng Liêng là tình thương bị chối bỏ bởi tàn ác và được biểu lộ bởi lòng nhân ái. Nhân loại giờ đây đang đứng ở bình minh của một Kỷ nguyên Mới và ở ngưỡng cửa của một cấp độ tâm thức mới. Kỷ nguyên Mới sẽ là kỷ nguyên của nhất thể, và cấp độ tâm thức mới sẽ là trực giác nhận thức được nhất thể của sự sống trong mọi sinh linh. Tàn ác, như một Ác Ma khổng lồ, chặn đường tới cả hai thành tựu ấy. Nó là kẻ thù lớn của nhân loại. Tàn ác phải bị xóa bỏ và được thay thế bởi lòng từ bi. |
The Divine in man shrinks back repelled from and by the cruelty of which the material in man causes him to be guilty. He who works for the cause of compassion labours for the cause of the progress of civilisation and the spiritual unfoldment of man. | Thiêng tính trong con người rút lui, bị đẩy lùi khỏi, và bởi sự tàn ác mà phần vật chất trong con người khiến y mang tội. Ai làm việc cho sự nghiệp của lòng từ bi là người lao tác cho sự nghiệp tiến bộ của nền văn minh và sự khai mở tinh thần của con người. |
Such are eight reasons for humaneness. | Đó là tám lý do cho lòng nhân ái. |
The Theosophist, Vol. 67, March 1946, p. 255 | Nhà Thông Thiên Học, Tập 67, Tháng Ba 1946, tr. 255 |
160
Theosophy for the Artist—Thông Thiên Học cho người nghệ sĩ
The artist is a true saviour of the world. That is the keynote of his life, his power, and the guiding principle in the exercise of his divine faculties. | Người nghệ sĩ là một đấng cứu thế chân thực của thế gian. Đó là chủ âm của đời y, quyền năng của y, và là nguyên tắc dẫn đạo trong việc vận dụng các năng lực thiêng liêng của mình. |
As beauty in the Universe and every loveliness in Nature represent the manifested Deity, so the beauty which makes manifest is an expression of the divine in him. Recognition of this truth brings to the artist and his art that reverence without which he cannot wholly achieve. | Như vẻ đẹp trong Vũ trụ và mọi vẻ khả ái trong Thiên nhiên biểu hiện Thượng đế đã hiển lộ, thì vẻ đẹp làm cho hiển lộ ấy là sự diễn đạt điều thiêng liêng trong y. Sự nhận biết chân lý này mang đến cho người nghệ sĩ và nghệ thuật của y niềm tôn kính mà nếu thiếu nó y không thể hoàn toàn thành tựu. |
Reverence is the heart, soul and source of artistic genius. It is that quality of soul and attribute of character which lifts the human mind across the bridge leading from the outer to the inner worlds, from the concrete to the abstract. The true artist, therefore, needs the quality of reverence as does the percipient of his art. A work of art produced and performed in reverence is irradiated thereby breathes the subtle influence of those abstract worlds wherein Beauty dwells. Exhaling thus the power from on high, the true work of art exalts to those selfsame heights those by whom it is perceived and received. | Tôn kính là trái tim, linh hồn và nguồn mạch của thiên tài nghệ thuật. Đó là phẩm tính của linh hồn và thuộc tính của Tính cách vốn nâng thể trí con người vượt qua cây cầu dẫn từ ngoại giới vào nội giới, từ cụ thể đến trừu tượng. Vì vậy, người nghệ sĩ chân chính cần phẩm tính tôn kính như người cảm thụ nghệ thuật của y cũng cần. Một tác phẩm nghệ thuật được sáng tạo và cống hiến trong tâm thế tôn kính thì nhờ đó được thấm nhuần, thở ra ảnh hưởng vi tế của những thế giới trừu tượng nơi Cái Đẹp cư ngụ. Phát lộ như thế quyền lực từ cõi cao, một tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ tôn thăng đến chính những đỉnh cao ấy những ai tri nhận và tiếp nhận nó. |
This is the true function of the artist as of the work of art, to lift the human mind to Beauty’s abode. Thereto uplifted, not once but many many times, by works of art from all the branches of the arts, man is aided gradually to discover and so revere the Beauty, and therefore the Divinity, within himself. ‘Uplift the race, exalt the consciousness of man, awaken to reverence, train to revere’, This is the duty the vocation of the follower of the Arts. | Đây là chức năng đích thực của người nghệ sĩ cũng như của tác phẩm nghệ thuật: nâng thể trí con người đến cư sở của Cái Đẹp. Được nâng lên đó, không chỉ một lần mà nhiều lần, bởi những tác phẩm thuộc mọi ngành nghệ thuật, con người dần được trợ giúp để khám phá và do đó tôn kính Cái Đẹp, và vì thế là Thiên tính, vốn ở trong chính mình. “Nâng cao nhân loại, tôn thăng tâm thức con người, đánh thức lòng tôn kính, rèn luyện biết tôn kính.” Đó là bổn phận, là thiên chức của người theo đuổi Nghệ thuật. |
Slowly and with immense toil, with suffering beyond all power to describe, mankind slowly travels the long winding road which spirally ascends the evolutionary mount. Each completed cycle leads through one plane of consciousness. The first great curve represents the condition of primeval man, Adam and Eve in One, learning to know the physical world and to use a physical form. He was a mentally somnolent soul in a huge, clumsy physical form. The sexes divided. Eve was born, symbolically from Adam’s side. Emotion sprang to life. Desire was born. The second circuit was entered and later travelled to its end. | Chậm rãi và bằng lao nhọc vô biên, với những khổ đau vượt ngoài mọi lời mô tả, nhân loại chậm chạp đi trên con đường quanh co dài dặc vốn xoắn ốc đi lên ngọn núi tiến hoá. Mỗi chu kỳ hoàn tất dẫn qua một cõi tâm thức. Đường cong lớn thứ nhất tượng trưng cho trạng thái của con người nguyên thủy, A‑đam và Ê‑va trong Một, học biết thế giới vật chất và sử dụng một hình thể vật chất. Y là một linh hồn mơ ngủ về trí tuệ trong một thân xác đồ sộ, vụng về. Giới tính phân chia. Ê‑va được sinh ra, biểu tượng từ cạnh sườn của A‑đam. Cảm xúc bừng sống. Dục vọng sinh ra. Vòng thứ hai được bước vào và sau đó đi đến tận cùng. |
The soul, having slowly awakened from its mental torpor, as symbolically Adam woke in Eden’s groves, was then self manifest and self-conscious in vestures both of physical substance, coats of skin and of desire. Memory, anticipation, the first dawnings of the power to plan that which was demanded by desire, marked the dawning of mental power. The mind awoke; the third circle was entered upon and is still being trodden by the majority of men. In its higher attributes that mind becomes strictly logical, a marvellous tool in the hand of the thinker within. | Linh hồn, sau khi chậm rãi tỉnh khỏi hôn mê trí tuệ, như A‑đam biểu trưng đã tỉnh giấc trong vườn Ê‑đen, rồi tự hiển lộ và tự ý thức trong những y phục vừa bằng chất liệu vật chất—“áo da”—vừa bằng dục vọng. Ký ức, mong cầu tương lai, những lóe rạng đầu tiên của năng lực hoạch định điều được dục vọng đòi hỏi, đánh dấu bình minh của quyền năng trí tuệ. Thể trí tỉnh thức; vòng thứ ba được bước vào và vẫn còn đang được đa số người thế gian dẫm bước. Ở những thuộc tính cao hơn, thể trí ấy trở nên nghiêm ngặt duy lý, một dụng cụ kỳ diệu trong tay vị hành giả tư tưởng bên trong. |
A new phase dawns. A fourth cycle now begins. When trodden to its end, it will have brought mankind to the full use of the higher intellect whereby abstractions are clearly grasped, principles perceived with ease, and the Divine as Beauty discovered and revealed. | Một thời kỳ mới rạng. Vòng thứ tư nay khởi đầu. Khi đi trọn đến cuối, nó sẽ đưa nhân loại đến việc sử dụng trọn vẹn thượng trí nhờ đó các trừu tượng được nắm bắt rõ ràng, các nguyên lý được tri nhận dễ dàng, và Thiêng liêng như Cái Đẹp được khám phá và hiển lộ. |
The artist is he who has crossed whatever bridge separates the future from the present. His mission, therefore, is to reveal that which is the source of his power and faculty, the consciousness of a higher realm than that in which humanity normally abides. By this revealing, he elevates human consciousness, leads the mind across the bridge. That craving for loveliness and unity which leads undeveloped man into undesirable paths is the very activity within him which, rightly directed, leads him by desirable paths to pure Beauty and everlasting union therewith. | Người nghệ sĩ là kẻ đã vượt qua bất kỳ cây cầu nào phân cách tương lai với hiện tại. Vì vậy, sứ mệnh của y là hiển lộ điều vốn là nguồn gốc quyền năng và năng lực của y—tâm thức về một cõi cao hơn cõi mà nhân loại thông thường đang cư trú. Nhờ sự hiển lộ này, y nâng cao tâm thức con người, dẫn thể trí vượt qua cây cầu. Khát vọng đối với vẻ khả ái và sự hợp nhất—vốn khiến người chưa phát triển đi vào những nẻo bất thiện—chính là hoạt lực trong y mà nếu được hướng dẫn đúng đắn, sẽ đưa y theo những nẻo đáng theo đến Cái Đẹp thuần tịnh và sự hợp nhất vĩnh cửu với Cái Đẹp. |
A true work of art evokes wonder, at both the artist’s skill and that fragment of ever-existent beauty which it reveals. Wonderment opens the doors of the mind, passing through which discoveries are made. Wonderment is of many kinds concerning many things. Each opens a door leading to a discovery appropriate to its nature. Wonderment at Beauty, and therefore Truth—those inseparable companions heavenly twins—opens doors passing through which the human discovers more glorious beauty and profounder truths. The artist and the work of art must therefore evoke wonder. | Một tác phẩm nghệ thuật chân chính khơi dậy kinh ngạc: vừa trước tay nghề của nghệ sĩ, vừa trước mảnh vụn của vẻ đẹp hằng hữu mà nó hiển lộ. Sự kỳ kinh mở ra những cánh cửa của thể trí; nhờ bước qua đó, các khám phá được thực hiện. Sự kỳ kinh có nhiều loại, liên quan đến nhiều điều. Mỗi loại mở một cánh cửa dẫn đến một khám phá phù hợp với bản tính của nó. Sự kỳ kinh trước Cái Đẹp, và do đó trước Chân Lý—hai bạn đồng hành bất khả phân, đôi song sinh thiên thượng—mở ra những cánh cửa mà khi bước qua, con người khám phá những vẻ đẹp huy hoàng hơn và những chân lý sâu nhiệm hơn. Vì thế, người nghệ sĩ và tác phẩm nghệ thuật phải khơi dậy sự kỳ kinh. |
The soul of modem man is sunk deep in self-indulgence. The lower overshadows the higher in him so that he knows it not. The longing for beauty and the craving for union, innate in every human soul, are sources of debasement because wrongly directed. Rightly understood and rightly expressed, they would, and eventually will, inspire to the heights. Transmutation therefore is the pressing necessity for modem man. Sublimation of the creative instinct from the temporary to the eternal and from the momentary to the continuous expression, is the pressing need. | Linh hồn của con người hiện đại lún sâu trong sự tự phóng túng. Phần thấp che phủ phần cao trong y đến mức y không hay biết. Khao khát Cái Đẹp và thèm muốn hợp nhất—tự hữu trong mọi linh hồn người—trở thành nguồn gốc sa đoạ vì bị hướng lạc. Nếu được thấu hiểu đúng và biểu đạt đúng, chúng sẽ, và rốt cuộc tất sẽ, truyền cảm hứng đưa lên những đỉnh cao. Vậy nên, chuyển hoá là điều khẩn thiết đối với con người hiện đại. Thăng hoa bản năng sáng tạo từ cái tạm bợ đến cái vĩnh cửu, và từ biểu lộ chốc lát đến biểu lộ liên tục, là nhu cầu cấp bách. |
A philosopher’s stone must be provided for modem man. A well versed alchemist must train him in its use. The philosopher’s stone is Beauty, and the artist is the alchemist by whose aid the transmutation of desire to will, of selfishness to selflessness, of the impure to purity, may be achieved. Works of art which exalt, which instruct, inspire and render pure human consciousness are of incalculable value to the human race. Each, when at last produced, becomes and lives as a spiritualising power, a centre of spiritual radiance uplifting all who can respond, | Một hòn đá của triết gia phải được đem đến cho con người hiện đại. Một nhà giả kim sành thạo phải luyện tập cho y cách sử dụng nó. Hòn đá của triết gia là Cái Đẹp, và người nghệ sĩ là nhà giả kim mà với sự trợ giúp của y, sự chuyển hoá từ dục vọng thành ý chí, từ vị kỷ thành vô ngã, từ ô uế thành thanh tịnh, có thể được thành tựu. Những tác phẩm nghệ thuật có thể tôn thăng, giáo huấn, truyền cảm và làm cho tâm thức con người trở nên thanh khiết có giá trị không gì đo lường được đối với nhân loại. Mỗi tác phẩm, khi cuối cùng được tạo thành, trở thành và sống như một mãnh lực tinh thần hoá, một trung tâm của quang huy tinh thần nâng đỡ tất cả những ai có thể đáp ứng. |
How dark the picture produced by that debasement of the arts and of the artist’s power all too common in modem times. There is not one branch in which, side by side with worthy proficients, selfish men do not debase their power. Through this woeful debasement of the arts comes the debasement of mankind, for such art does not lead men across the bridge from lower to higher. Rather does it turn them backwards into the lower and leave them chained in the dark, dank dungeons of desire, | Bức tranh tối tăm biết bao do sự sa đoạ của nghệ thuật và của quyền năng nghệ sĩ—điều quá đỗi phổ biến trong thời hiện đại—đã vẽ ra. Không có một bộ môn nào mà, bên cạnh những bậc tinh thông xứng đáng, lại không có những kẻ vị kỷ làm hạ thấp quyền năng của mình. Qua sự sa đoạ đáng buồn này của nghệ thuật mà sự sa đoạ của nhân loại diễn ra, bởi nghệ thuật như thế không dẫn con người vượt qua cây cầu từ thấp lên cao. Trái lại, nó quay họ trở lại phần thấp và để mặc họ bị xiềng trong những ngục thất ẩm tối, hôi hám của dục vọng. |
To cleanse the arts in modem days, a great crusade is needed. To rescue music, dancing, painting, drama, and all these in cinema and radio, from the gross and lurid depths to which they have been brought by selfish, money-getting men demands cmsaders of the highest types. | Để tịnh hoá nghệ thuật trong thời nay, cần một cuộc thập tự chinh lớn. Để giải cứu âm nhạc, vũ đạo, hội hoạ, kịch nghệ, và tất cả những thứ ấy trong điện ảnh và phát thanh, khỏi những vực sâu thô tục và lòe loẹt mà chúng đã bị lôi xuống bởi những kẻ vị kỷ ham tiền của, đòi hỏi những chiến sĩ thập tự thuộc hạng ưu tú nhất. |
Urgent is the necessity in order that together with world statesmanship, religion, science and philosophy, the arts and the artists may help to save mankind from the destructiveness of war and the debasing power of sensuality. For these are the five fingers of that hand by which mankind may be raised through self-discipline to self-illumination and so to entry upon the fifth great cycle of its evolutionary ascent. Intuition then will reveal as from within that Beauty and Truth which are mother and father of that Goodness or right direction of life by which alone lasting human happiness may be attained. For the soul of man is pregnant with mighty powers, big with spiritual potentialities. | Nhu cầu là vô cùng khẩn cấp, để cùng với nghệ thuật trị quốc tầm thế giới, tôn giáo, khoa học và triết học, nghệ thuật và nghệ sĩ có thể giúp cứu nhân loại khỏi tính hủy diệt của chiến tranh và quyền lực làm sa đoạ của nhục dục. Vì đó là năm ngón tay của bàn tay nhờ đó nhân loại có thể được nâng dậy, từ tự kỷ luật đến tự soi sáng, và như thế đến việc bước vào chu kỳ lớn thứ năm của cuộc thăng tiến tiến hoá. Khi ấy, trực giác sẽ hiển lộ từ bên trong Cái Đẹp và Chân Lý—mẹ và cha của cái Thiện, tức hướng đi đúng đắn của đời sống—nhờ đó một mình mới có thể đạt đến hạnh phúc bền lâu của con người. Vì linh hồn con người mang thai những mãnh lực hùng vĩ, chất chứa những tiềm năng tinh thần to lớn. |
The hour of birth draws near. A racial Nativity is at hand. The new humanity, the men and women of the new cycle and new age will be men of direct spiritual perception, of penetrating vision, for whom Beauty will be another name for God and the pursuit and practice of the Beautiful will be their Religion. In that day the artist will be the true high priest, self-ordained. | Giờ sinh đang gần kề. Một Cuộc Giáng Sinh của giống dân đang đến. Nhân loại mới, những người nam và nữ của chu kỳ mới và thời đại mới sẽ là những con người có tri giác tinh thần trực tiếp, có tầm nhìn xuyên thấu, đối với họ Cái Đẹp sẽ là một tên gọi khác của Thượng đế và sự theo đuổi cũng như thực hành Cái Đẹp sẽ là Tôn giáo của họ. Trong ngày ấy, người nghệ sĩ sẽ là vị đại tư tế chân thật, tự xứng phong. |
May this vision inspire the artist of today! | Nguyện viễn kiến này truyền cảm hứng cho người nghệ sĩ của hôm nay! |
The Theosophist, Vol. 68, January 1947, p. 251 | Nhà Thông Thiên Học, Tập 68, Tháng Giêng 1947, tr. 251 |
161
Theosophy and the Modern World [3]—Thông Thiên Học và Thế giới Hiện đại [3]
AN INTERVIEW | MỘT CUỘC PHỎNG VẤN |
Question 1: Do you agree that nowadays man’s problems have to do mostly with matters of survival more than with the pursuit of happiness? | Câu hỏi 1: Ông có đồng ý rằng ngày nay các vấn đề của con người phần lớn liên quan đến sự sinh tồn hơn là theo đuổi hạnh phúc? |
Answer: The answer depends entirely upon your definition of man. If he is only a material, physical being with a name, then I would say that survival probably does in many people’s minds indeed precede even the quest for happiness, very important though that is. But Theosophy regards man as essentially a spiritual being, incarnated in a physical body, the two being united by the functions of the intellect. Thus defined, man in his true nature is himself immortal, imperishable, eternal. St Paul: ‘Know ye not that ye are the temple of God and that the Spirit of God dwelleth in you?’ (Corinthians 3:16). | Trả lời: Câu trả lời hoàn toàn tuỳ thuộc vào định nghĩa của ông về con người. Nếu y chỉ là một hữu thể vật chất, hồng trần, có một cái tên, thì tôi sẽ nói rằng sinh tồn quả thật có lẽ trong tâm trí nhiều người đứng trước cả sự kiếm tìm hạnh phúc, dẫu điều ấy rất quan trọng. Nhưng Thông Thiên Học xem con người là một hữu thể tinh thần về bản chất, đang nhập thể trong một thân xác vật chất, hai phần được kết nhất bởi các chức năng của trí năng. Định nghĩa như vậy, con người trong bản tánh chân thực của mình là bất tử, bất hoại, vĩnh cửu. Thánh Phao‑lô: “Há các ngươi chẳng biết rằng các ngươi là đền thờ của Thượng đế, và Thần Linh của Thượng đế ngự trong các ngươi sao?” (Cô‑rinh‑tô I 3:16). |
The problem of survival for the real man does not arise, since as St Paul also says: ‘Christ in you the hope of glory’ (Collosians 1:27). ‘Work out your own salvation with fear and trembling for it is God which worketh in you’ (Philippians 2: 13). | Vấn đề sinh tồn đối với con người chân thực không đặt ra, vì như Thánh Phao‑lô cũng nói: “Đấng Christ ở trong các ngươi là niềm hy vọng về vinh quang” (Cô‑lô‑se 1:27). “Hãy tự làm nên sự cứu rỗi của chính mình với lòng kính sợ và run rẩy, vì ấy là Thượng đế đang tác động trong các ngươi” (Phi‑líp 2:13). |
Question 2: In the midst of such menaces, like overpopulation, low economic production, civil strife—would you say that there is a scientific way to end all these problems that man faces? | Câu hỏi 2: Giữa những mối đe doạ như bùng nổ dân số, sản xuất kinh tế thấp, xung đột nội bộ—ông có cho rằng có một con đường khoa học để chấm dứt mọi vấn đề mà con người đang đối mặt? |
Answer: Yes, decidedly, but again the inner man, the true spiritual man, has to be considered. At this level, each man knows that he is a member of one spiritual Race which is without divisions of any kind. I suggest that is Self-realisation as a divine Being, one with all other men, that man must also plan all his problems, particularly that of strife. Our Lord Christ said ‘Whosoever would be greatest amongst you let him be as him that serveth’ (Matthew 20:26). Service, especially sacrificial service, comes from hearts and minds that feel and know the spiritual brotherhood of man, that ‘all are but parts of one stupendous whole’. ‘War’, says the Preamble to UNESCO, ‘begins in the mind’. Therein, also, in the intellectual and spiritual parts of man resides the true and ultimate solution of the problems which you mention. | Trả lời: Có, nhất quyết là có, nhưng một lần nữa phải xét đến con người bên trong, con người tinh thần chân thực. Ở cấp này, mỗi người biết rằng mình là một thành viên của một Chủng tộc tinh thần, không có phân chia nào cả. Tôi đề nghị rằng tự‑chứng là một Hữu thể thiêng liêng, đồng nhất với mọi người khác, chính là trên nền tảng ấy mà con người cũng phải hoạch định mọi vấn đề của mình, đặc biệt là vấn đề xung đột. Đức Chúa của chúng ta, Đức Christ, đã nói: “Ai muốn làm lớn giữa các ngươi, thì phải làm đầy tớ các ngươi” (Ma‑thi‑ơ 20:26). Phụng sự, nhất là phụng sự hy sinh, xuất phát từ những trái tim và khối óc cảm thấy và biết tình huynh đệ tinh thần của nhân loại, rằng “tất cả chỉ là những phần của một toàn thể hùng vĩ duy nhất”. “Chiến tranh,” Lời nói đầu của UNESCO nói, “bắt đầu trong tâm trí.” Ở đó, trong các phần trí tuệ và tinh thần của con người, cũng ngự trị giải pháp chân thực và tối hậu cho các vấn đề mà ông nêu. |
Question 3: What do the Theosophists say of the new morality, the permissiveness in life that is evident in the generation’s books, art, movies and lifestyle? Do you think it is bad for humanity? | Câu hỏi 3: Những người Thông Thiên Học nói gì về luân lý mới, sự dễ dãi phóng túng trong đời sống thể hiện trong sách vở, nghệ thuật, phim ảnh và lối sống của thế hệ? Ông có nghĩ nó xấu cho nhân loại không? |
Answer: In Theosophy and so in the Theosophical Society, there are no dogmas and so no dogmatists. All students and all members are entirely free to apply the teachings according to their own judgement and not upon the word of others. The bond which unites Theosophists is not a common belief, but a common search for Truth. For myself, as an individual, I can answer however, and say: Yes. I think that, when carried too far, as in pornography for example, the so-called new morality and permissiveness are definitely harmful to the human Race. History tells us that the great civilisations of ancient days declined and fell because of these selfsame self-indulgences. We, Theosophists, are not puritanical in the narrow sense, but we do believe strongly in the value of a clean life, an open mind, a pure heart, an eager intellect and an unveiled spiritual perception as assurances of well-being throughout such periods in human life. | Trả lời: Trong Thông Thiên Học, và vì thế trong Hội Thông Thiên Học, không có giáo điều và vì vậy không có kẻ giáo điều. Mọi đạo sinh và mọi hội viên đều hoàn toàn tự do áp dụng các giáo lý theo phán đoán của riêng mình, chứ không dựa vào lời người khác. Mối dây liên kết những người Thông Thiên Học không phải là niềm tin chung mà là cuộc tìm kiếm chung Chân Lý. Về phần tôi, với tư cách cá nhân, tôi có thể trả lời rằng: Có. Tôi nghĩ khi đi quá xa, như trong văn hoá phẩm khiêu dâm chẳng hạn, thì cái gọi là luân lý mới và sự dễ dãi phóng túng quả thật có hại cho Nhân loại. Lịch sử cho biết các nền văn minh vĩ đại thời xưa suy tàn và sụp đổ vì chính những thói tự phóng túng ấy. Chúng ta, những người Thông Thiên Học, không khắc kỷ theo nghĩa hẹp, nhưng chúng ta tin mạnh mẽ vào giá trị của một đời sống trong sạch, một tâm trí rộng mở, một trái tim thanh khiết, một trí tuệ hăm hở và một tri giác tinh thần không che phủ như là những bảo đảm cho phúc lạc xuyên suốt các thời kỳ đời người. |
Question 4: Can Theosophy provide the answers to many of man’s basic problems? | Câu hỏi 4: Thông Thiên Học có thể cung cấp lời giải cho nhiều vấn đề căn bản của con người không? |
Answer: Definitely yes. How? By supplying the answers to the five basic questions concerning man. What are they? Whence; what; why here; whither going; by what means? | Trả lời: Chắc chắn là có. Bằng cách nào? Bằng cách cung cấp câu trả lời cho năm câu hỏi căn bản liên quan đến con người. Chúng là gì? Từ đâu đến; là gì; vì sao ở đây; sẽ đi về đâu; bằng phương tiện nào? |
Question 5: What can Theosophy suggest to man, so that he can attain peace and happiness? | Câu hỏi 5: Thông Thiên Học có thể gợi ý gì để con người đạt được hòa bình và hạnh phúc? |
Answer: First, may I offer an answer to the natural question—what is Theosophy? | Trả lời: Trước hết, tôi xin đưa ra một câu trả lời cho câu hỏi tự nhiên—Thông Thiên Học là gì? |
It is the total spiritual and philosophic wisdom concerning the Deity, the Universe, man and the relationships between them. Brahma Vidya. | Đó là toàn bộ minh triết tinh thần và triết học về Thượng đế, Vũ trụ, con người và những tương quan giữa chúng. Brahma Vidya. |
I suggest that peace on earth will only be established when a sufficient number of human beings discover by experience the fact which I advanced above, that each man is a member of one Spiritual whole. | Tôi đề nghị rằng hoà bình trên đất chỉ được thiết lập khi một số lượng đủ lớn con người khám phá bằng kinh nghiệm điều mà tôi đã nêu ở trên, rằng mỗi người là một thành viên của một Toàn thể Tinh thần duy nhất. |
This can be attained by means of purifying one’s life, regularly contemplating one’s own divine nature, or in St Paul’s words, knowing by experience of ‘the Christ in you, the hope of glory’, and Our Lord Christ’s words: ‘I am in my Father and ye in Me and I in you’ (John 14:20). This is a spiritual experience in which the unity of the life of God in every human being is known beyond dispute, beyond all doubt. Once this unity is experienced, then its expression in service, not in strife, and as recognition of the Brotherhood of man becomes perfectly natural, ‘There is no other way at all to go’. | Điều này có thể đạt được bằng việc thanh lọc đời sống của mình, đều đặn chiêm ngưỡng bản tánh thiêng liêng của chính mình, hoặc theo lời Thánh Phao‑lô, biết bằng trải nghiệm “Đấng Christ ở trong các ngươi, niềm hy vọng về vinh quang”, và lời Đức Chúa của chúng ta, Đức Christ: “Ta ở trong Cha Ta, các ngươi ở trong Ta, và Ta ở trong các ngươi” (Giăng 14:20). Đây là một kinh nghiệm tinh thần trong đó sự hợp nhất của Sự sống của Thượng đế nơi mọi con người được biết một cách không còn tranh cãi, vượt mọi hoài nghi. Một khi sự hợp nhất này được kinh nghiệm, thì sự biểu lộ của nó trong phụng sự, chứ không phải trong xung đột, và trong sự thừa nhận Tình Huynh đệ của nhân loại trở nên hoàn toàn tự nhiên. “Không hề có con đường nào khác cả.” |
The Theosophical Society was founded 100 years ago for this purpose: to form a nucleus of the Brotherhood of man without distinction of race, creed, sex, caste or colour. | Hội Thông Thiên Học được sáng lập cách đây 100 năm với mục đích này: hình thành một hạt nhân của Tình Huynh đệ của nhân loại không phân biệt chủng tộc, tín điều, giới tính, giai cấp hay màu da. |
Since then it has spread throughout the entire Free World, and is a very active Organisation. | Từ đó Hội đã lan rộng khắp toàn Thế giới Tự do, và là một Tổ chức rất năng động. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 39, No. 4, 1978, p. 74 | Thông Thiên Học tại Tân Tây Lan, Tập 39, Số 4, 1978, tr. 74 |
162
Theosophy Applied—Ứng Dụng Thông Thiên Học
THE SOLE SALVATION FOR A CIVILISATION IN DANGER OF DECLINE | SỰ CỨU RỖI DUY NHẤT CHO MỘT NỀN VĂN MINH ĐANG NGUY CƠ SUY TÀN |
A Master of the Wisdom has stated that the fundamental mission of the Theosophical Society is to spread Theosophy throughout the world.[2] The fulfilment of this mission has now become an urgent necessity; for Theosophy applied to international, national and personal relationships is the sole solution of the problems that, for some time, have been and are mounting in intensity at a very disturbing rate. Whilst ever remembering the complete freedom of thought—and therefore of resultant action—that is granted to every member, the present world situation is so grave and so dangerous to human life and security, that very great—I am inclined to say extraordinary efforts are called for. | Một Chân sư của Minh Triết đã tuyên bố rằng sứ mệnh căn bản của Hội Thông Thiên Học là truyền bá Thông Thiên Học khắp thế giới. Việc hoàn thành sứ mệnh này nay đã trở thành một nhu cầu khẩn cấp; bởi vì Thông Thiên Học, khi được áp dụng vào các mối tương quan quốc tế, quốc gia và cá nhân, là giải pháp duy nhất cho những vấn đề mà trong một thời gian đã và đang gia tăng về cường độ với tốc độ đáng lo ngại. Trong khi luôn ghi nhớ sự tự do tư tưởng hoàn toàn—và do đó là sự tự do hành động phát sinh—được ban cho mọi hội viên, thì tình hình thế giới hiện nay nghiêm trọng đến mức và nguy hiểm đối với sự sống và an ninh của con người đến mức tôi thiên về nói rằng cần có những nỗ lực rất lớn—tôi muốn nói là phi thường. |
World leaders, national leaders and individuals would not be able deliberately to embark upon destructive modes of planning and action, if the following theosophical ideas and ideals were sufficiently well known and applied to the motives and the conduct of those who accepted them. These ideas and ideals could thus be stated: | Các nhà lãnh đạo thế giới, lãnh đạo quốc gia và từng cá nhân sẽ không thể cố ý dấn thân vào những cách hoạch định và hành động mang tính hủy diệt nếu những tư tưởng và lý tưởng Thông Thiên Học sau đây được biết đến và áp dụng đủ rộng rãi vào động cơ và hạnh kiểm của những người chấp nhận chúng. Những tư tưởng và lý tưởng này có thể được trình bày như sau: |
1. The inherent life present in all nature, and so in all sentient beings, is one and the same life. In consequence, in degrees according to effects produced, actions which either help or injure one person inevitably influence everyone else. The word ‘family’ correctly describes the relationship between all people on earth, each single inhabitant being intimately allied to every other. The word ‘brotherhood’ well describes this inter-connection. Nevertheless, the idea and resultant responsibility of a human family may perhaps be more pertinent. | Sự sống nội tại hiện hữu trong toàn thể thiên nhiên, và như thế trong mọi sinh thể biết cảm, là một và cùng một Sự sống. Hệ quả là, theo các cấp độ tuỳ theo hiệu quả tạo ra, những hành động giúp đỡ hoặc làm tổn hại một người tất yếu ảnh hưởng đến mọi người khác. Từ “gia đình” mô tả đúng mối tương quan giữa mọi người trên địa cầu, mỗi cư dân riêng lẻ đều kết liên thân mật với mọi người khác. Từ “tình huynh đệ” mô tả tốt sự tương liên này. Tuy nhiên, ý niệm và trách nhiệm phát sinh về một gia đình nhân loại có lẽ thích đáng hơn. |
The purpose for the existence of all members of the earth family is also one and the same. In a word it is ‘development’, meaning the steady and regular unfoldment to the highest possible degree of every innate, desirable quality and faculty. Just as plants grow quite naturally from seed to flower, and thence to fruit, so also every other living product of nature is undergoing from within itself precisely the same procedure. In the case of man this implies evolution from savagery to saviourship, from mastery over others to ministration towards them, from the motive of self gain to that of intelligently planned and compassionately inspired service. This is especially true with regard to those near or far who may be in need of help. This has been beautifully expressed by the Master Kuthumi Who wrote: ‘I would not let one cry whom I could save’.[3] | Mục đích cho sự hiện hữu của mọi thành viên trong gia đình địa cầu cũng là một và như nhau. Tóm lại, đó là “phát triển”, tức sự khai mở đều đặn và thường xuyên đến mức cao nhất có thể của mọi phẩm tính và năng lực bẩm sinh đáng ước muốn. Cũng như cây cối tự nhiên lớn lên từ hạt đến hoa rồi đến quả, thì mọi sản phẩm sống khác của thiên nhiên cũng đang trải qua từ bên trong chính nó đúng tiến trình ấy. Đối với con người, điều này hàm nghĩa sự tiến hoá từ hoang dã đến địa vị cứu thế, từ thống trị người khác đến phụng sự họ, từ động cơ tự lợi đến động cơ phụng sự được hoạch định một cách sáng suốt và được cảm hứng bởi lòng từ bi. Điều này đặc biệt đúng đối với những ai gần hay xa có thể đang cần trợ giúp. Điều này đã được Chân sư Kuthumi diễn đạt tuyệt đẹp khi Ngài viết: “Ta sẽ không để một tiếng khóc nào mà Ta có thể cứu được.” |
2. The human mind, brain, heart should ideally ever extend their interests and pursuits of happiness beyond the goal of gain for oneself to wisely planned gain for all others. Nothing less than this will save mankind from its present headlong rush towards possible mutual bodily annihilation by means of weapons now available of almost unlimited destructiveness. | Thể trí, bộ não, trái tim của con người lý tưởng phải luôn mở rộng mối quan tâm và cách theo đuổi hạnh phúc vượt khỏi mục tiêu tư lợi cho bản thân để hướng đến lợi lạc được hoạch định một cách khôn ngoan cho mọi người khác. Không gì kém hơn điều này có thể cứu nhân loại khỏi cuộc lao nhanh hiện nay đến khả năng tiêu diệt lẫn nhau về thể xác bằng những vũ khí hiện có với sức hủy diệt hầu như vô hạn. |
3. Two immeasurably urgent reasons exist for this transformation of human nature. One, simply stated, is that since every single other person is a member of one’s own family, bodily differences in no way detract from the fact of the identity of both the life principle in all and the purpose for its varied manifestations. All members of the human race are as mothers and fathers, sisters and brothers to each other. In consequence, benefit or harm to one inevitably affects even if invisibly every other member of the ‘human family’. | Có hai lý do cấp bách vô song cho sự chuyển hoá bản tánh con người này. Một, nói đơn giản, là vì mọi người khác đều là thành viên của chính gia đình mình; dị biệt về thân xác không hề làm giảm đi sự kiện đồng nhất của nguyên lý sự sống nơi tất cả và mục đích cho mọi biểu lộ sai khác của nó. Mọi thành viên của chủng loài người đều là như cha mẹ, chị em và huynh đệ với nhau. Hệ quả là, lợi hay hại cho một người tất yếu—dẫu vô hình—tác động đến mọi thành viên khác của “gia đình nhân loại”. |
The second reason is that human life on earth is lived under the absolute dominion of the natural procedure of action and appropriate re-action, cause and effect. This has been summed up in and expressed by one of the oldest words taken from one of the world’s oldest tongues, namely Sanskrit, Karma. | Lý do thứ hai là đời sống con người trên đất sống dưới sự cai quản tuyệt đối của tiến trình tự nhiên: hành động và phản ứng tương ứng, nhân và quả. Điều này được tổng kết và biểu đạt bằng một từ cổ xưa nhất thuộc một ngôn ngữ cổ xưa nhất của thế giới—Sanskrit—tức Nghiệp quả, Karma. |
Whenever nations operate as a unit for the apparent benefit of their people, or individuals do the same, at the cost of the health, happiness and well being of others, an appropriate counter operation always takes place under this law. Pain giving produces pain, and happiness giving produces happiness, always in the degree in which the causative actions have been performed. Although these reactions may not be—very often are not—immediate, and, therefore, not known to be related to the causative activities in terms of time, place and Individuality, nevertheless, the law of action and appropriate reaction inevitably follows a course of related procedure. | Bất cứ khi nào các quốc gia hành động như một đơn vị vì lợi ích bề ngoài của dân mình, hoặc các cá nhân làm như vậy, với cái giá là sức khoẻ, hạnh phúc và phúc lạc của kẻ khác, thì một đối‑ứng thích đáng luôn diễn ra dưới định luật này. Gây đau sẽ nhận đau, và đem hạnh phúc sẽ nhận hạnh phúc, luôn theo mức độ mà hành động nhân đã được thực hiện. Dẫu những phản ứng này có thể không—và thường không—tức thời, và do đó không được biết là liên quan đến hoạt động gây nhân theo thời gian, địa điểm và cá thể, thì định luật hành động và phản ứng tương ứng tất yếu vẫn theo một tiến trình có tương quan. |
Although this truth has been enunciated by great teachers and leaders from time immemorial, the ‘time-gap’, together with the attribute of self-guardianship, have contributed to its almost total neglect—hence the darkened and now more deeply darkening aspects of the history of the world. | Mặc dù chân lý này đã được các bậc thầy và thủ lĩnh vĩ đại tuyên thuyết từ vô thủy, “khoảng trống thời gian”, cùng với thuộc tính tự‑bảo‑vệ, đã góp phần khiến nó gần như bị bỏ quên hoàn toàn—bởi vậy mới có những mảng tối, và nay đang còn sẫm tối hơn nữa, trong lịch sử thế giới. |
How, then, does exactly appropriate effect actually reach the actor, particularly if he or she experiences bodily death before this occurs? The answer has also been enunciated throughout the ages by seers and prophets. It is that both the evolutionary procedure and the function of the law are brought about by means of the successive rebirths of the individualised life principle, or reincarnating soul. One may, therefore, sow the ‘seeds’ of sweet-scented, beautiful ‘flowers’, or those of ugliness in the form of pain and misery to one’s fellow men in one particular physical habitation of the earth. One inevitably reaps, however, the absolutely equivocal effects in a successive incarnation always modified by motives and actions that have intervened. | Vậy thì, hệ quả tương ứng chính xác thực sự đến với người gây nhân bằng cách nào, nhất là nếu y chết thể xác trước khi điều đó xảy ra? Câu trả lời cũng đã được các nhà tiên tri và thị giả tuyên thuyết suốt các thời đại. Ấy là cả tiến trình tiến hoá lẫn chức năng của định luật đều được thực hiện qua những lần tái sinh liên tiếp của nguyên lý sự sống đã được cá nhân hoá—tức linh hồn tái sinh. Vậy nên, người ta có thể gieo “hạt giống” của những “bông hoa” đẹp đẽ thơm ngát, hoặc những hạt giống xấu xí dưới dạng nỗi đau và khổ sở cho đồng loại trong một kiếp cư trú cụ thể trên cõi hồng trần. Tuy nhiên, người ta tất yếu gặt hái các hệ quả hoàn toàn tương xứng trong một lần lâm phàm kế tiếp, luôn được điều chỉnh bởi các động cơ và hành động đã can thiệp ở giữa. |
Thus the evolution of the spiritual soul of every human being to perfection—Mahatmaship, Buddhahood or Christhood, for example—is brought about by the operation upon man of nature’s universal law of cyclic manifestation, namely withdrawal and re-emergence. In man, this takes the form of successive bodily rebirths, the conditions of which are always governed by preceding conduct. Happiness giving action is always succeeded by happiness, whilst misery-producing conduct is ever followed by misery, whether immediately, later in the same life, or in a following incarnation. Thus, evolution to perfection is attained by man’s spiritual self by means of successive lives on earth under the educative dominion of karmic law. Death is never the end of anything but one’s physical body, and is not in the slightest degree the end of one’s true self which lives on and unfolds throughout eternity. | Vì thế, sự tiến hoá của linh hồn tinh thần nơi mỗi con người đến mức hoàn thiện—địa vị Mahatma, Phật quả hay địa vị Christ, chẳng hạn—được thực hiện bằng sự vận hành trên con người của định luật chu kỳ phổ quát của thiên nhiên, tức thu hồi và tái lộ. Nơi con người, điều này biểu hiện thành những lần tái sinh nơi thể xác liên tiếp, mà các điều kiện luôn được chi phối bởi hạnh kiểm trước đó. Hành động đem hạnh phúc luôn được tiếp nối bằng hạnh phúc, trong khi hạnh kiểm gây khổ luôn theo sau bằng khổ đau, dù là tức thời, muộn hơn trong cùng một đời, hay ở một lần lâm phàm kế tiếp. Như vậy, sự tiến hoá đến hoàn thiện được linh ngã của con người đạt tới bằng những đời nối đời trên trần gian dưới quyền giáo dục của định luật nghiệp quả. Cái chết không bao giờ là kết thúc của điều gì ngoài thân xác, và không hề là kết thúc dù chỉ nhỏ nhất đối với chân ngã của mỗi người, vốn sống tiếp và khai mở suốt cõi vĩnh hằng. |
Interrelationship is the key word concerning nations, persons, actions, reactions, and each of man’s successive lives or reincarnations; for all of these are bound together by the interior presence of one and the same life principle, by nature’s procedure of unfoldment and by the operation of the Law of Cause and Effect. Applied more especially to physically embodied humanity, differences of race, colour and sex in no slightest sense imply the existence of any difference whatever in the inherent nature of their immortal selves. This truth also has been continuously advanced by the teachers or the race, but unhappily—again largely because of objective circumstances—has, its turn, been continuously disregarded. Hence the parlous condition of the world today. | “Tương liên” là từ khoá về các quốc gia, con người, hành động, phản ứng, và mỗi đời nối đời—các lần tái sinh—của con người; vì tất cả những điều này được kết buộc bởi sự hiện diện nội tại của cùng một nguyên lý Sự sống, bởi tiến trình khai mở của thiên nhiên và bởi sự vận hành của Định luật Nhân Quả. Áp dụng đặc biệt hơn cho nhân loại đang nhập thể, khác biệt về chủng tộc, màu da và giới tính không chút nào hàm ý có bất kỳ khác biệt nào trong bản tánh nội tại của chân ngã bất tử nơi họ. Chân lý này cũng đã liên tục được các bậc thầy của nhân loại nêu ra, nhưng thật bất hạnh—lại một phần lớn vì các hoàn cảnh khách quan—mà đến lượt nó, lại bị liên tục phớt lờ. Do đó mới có tình trạng nguy khốn của thế giới ngày nay. |
Adepts, saints and seers have already appeared upon earth and still continue to do so. Having arrived at the goal of human evolution Adepts dedicate themselves to the task of bringing these truths age by age to the notice of mankind, knowing that only by the acknowledgement and application to life of such teachings can man’s self produced misery be replaced by selfproduced happiness. | Các chân sư, các thánh nhân và các thị giả đã xuất hiện trên trái đất và vẫn tiếp tục như thế. Khi đạt tới cứu cánh của tiến hoá nhân loại, các Chân sư tận hiến mình vào công cuộc đem những chân lý này qua từng thời đại cho nhân loại biết đến, biết rằng chỉ bằng sự thừa nhận và áp dụng vào đời sống những giáo lý như vậy, thì nỗi khổ tự tạo của con người mới có thể được thay thế bằng hạnh phúc tự tạo. |
The Theosophical Society is one example of this Adeptic ministration. Now in its second hundredth year, it once more enunciates these ‘keys’ whereby the door of the Temple of Truth may be opened, passed through and entrance to the bliss-producing Holy of Holies within be attained. | Hội Thông Thiên Học là một ví dụ về sự cứu trợ của các Chân sư. Nay bước vào thế kỷ thứ hai, Hội lại một lần nữa tuyên thuyết những “chìa khoá” nhờ đó cánh cửa của Đền Chân Lý có thể được mở ra, bước qua, và đạt đến Nơi Cực Thánh tạo phúc lạc ở bên trong. |
4. Throughout the ages, and, therefore, still today, certain of these very great beings have established the spiritual and occult relationship of master and disciple between themselves and those who determinedly aspire to be worthy of that privilege. A disciple, male or female, is one who genuinely desires to save mankind from its present self-produced suffering, and to guide fellow human beings along the pathway of self-produced well being and happiness. Deeply touched in mind and heart by knowledge of, and often close contact with, the sufferings of men, women, children and animals disciples have already dedicated their lives to the redirection of the modes of human conduct from which pain arises and to the healing of those who have become self-afflicted. | Xuyên suốt các thời đại, và vì vậy, vẫn còn hôm nay, một số những bậc vĩ đại này đã thiết lập mối tương quan tinh thần và huyền môn giữa Thầy và đệ tử giữa chính Các Ngài và những ai quyết chí ước ao xứng đáng với đặc ân đó. Một đệ tử, nam hay nữ, là người chân thành ước muốn cứu nhân loại khỏi những khổ đau tự mình gây ra hiện nay, và dẫn dắt đồng loại đi trên con đường đưa đến phúc lạc và hạnh phúc tự gây nên. Bị chạm sâu vào tâm và trí bởi tri kiến, và thường là tiếp xúc gần, với những khổ đau của người nam, người nữ, trẻ em và loài vật, các đệ tử đã hiến dâng đời mình cho việc chỉnh hướng những phương thức sống của con người vốn sinh ra khổ đau, và cho việc chữa lành những ai đã tự làm mình tổn thương. |
Whether from actions in previous lives or the present incarnation, these are the men and women through and with whom the great Adepts can and do work more directly both for the welfare of the human race and for the freeing of the animal kingdom from the inhuman cruelties inflicted upon it by man. No single person who from the remotest times has been thus motivated has ever failed to win the support, direction and inspiration—even if unknown to them at first – of a Master of the Wisdom. Needless to say those who would become disciples, thereby co-operating consciously with the Brotherhood of the Adepts in world ministration, must have eliminated from their own lives—as far as their circumstances permit—the motives, thoughts, desires and activities that are so painfully harmful to others and therefore eventually to themselves. This reaction is brought about under the law that appropriate effect inevitably follows every causative deed, beneficent or pain producing. | Dù do các hành động trong những đời trước hay kiếp hiện sinh, thì đây là những người nam và nữ mà qua và cùng với họ, các Chân sư vĩ đại có thể và thật sự làm việc trực tiếp hơn cho phúc lợi của nhân loại và cho việc giải phóng giới động vật khỏi những tàn ác phi nhân mà con người giáng lên chúng. Không một ai—từ thời viễn cổ—được thúc đẩy như vậy mà lại không nhận được, sự dìu dắt và linh hứng—dẫu lúc đầu không hay biết—của một Chân sư của Minh Triết. Tất nhiên, những ai muốn trở thành đệ tử, nhờ đó hợp tác một cách có ý thức với Huynh đệ Đoàn của các Chân sư trong công cuộc cứu trợ thế gian, phải loại bỏ khỏi đời sống mình—trong khả năng hoàn cảnh cho phép—những động cơ, tư tưởng, dục vọng và hoạt động vốn gây tổn hại đau đớn cho kẻ khác và vì thế rốt cuộc cho chính mình. Phản ứng này được đem lại dưới định luật rằng hệ quả tương ứng tất yếu theo sau mọi hành vi gây nhân, dù là ban phước hay gây đau. |
The principle of unfailing response by the perfected ones to the completely self-free dedication by a human being to the welfare of the sentient population of the earth ensures today—as ever—that the helping hand of an Adept collaborator will always be stretched out towards the practising idealist. From the beginning of human life on earth no such aspirant has ever been overlooked, for the light that has begun to shine within the soul of such an one becomes instantly observed by those great ones who maintain a ceaseless, guarding watchfulness over the whole of humanity, and especially over the unfolding spiritual soul incarnate within the named bodily person. In consequence, throughout all time such ardent men and women have continuously come under the care and spiritual guidance of one who has advanced beyond the human phase of planetary evolution. | Nguyên lý về sự đáp ứng bất thất bại của những bậc đã hoàn thiện đối với sự tận hiến hoàn toàn vô ngã của một con người cho phúc lợi của toàn thể sinh dân trên địa cầu bảo đảm rằng hôm nay—như bao giờ—cánh tay trợ giúp của một cộng tác viên là Chân sư sẽ luôn được đưa ra cho nhà lý tưởng đang thực hành. Từ thuở sơ khai của đời sống nhân loại trên địa cầu, không một chí nguyện giả nào như vậy lại từng bị bỏ qua, vì ánh sáng bắt đầu toả chiếu trong linh hồn của người ấy lập tức được những bậc vĩ đại hằng duy trì sự canh giữ không mệt mỏi đối với toàn thể nhân loại, và đặc biệt là đối với linh hồn tinh thần đang khai mở, nhập thể trong con người được gọi tên, nhận biết ngay. Do đó, qua mọi thời, những người nam và nữ đầy nhiệt thành như vậy liên tục được đưa vào sự chăm nom và hướng dẫn tinh thần của một vị đã tiến vượt qua giai đoạn nhân loại của tiến hoá hành tinh. |
As the Adept-inspired literature upon this subject demonstrates namely truly elevating portions of world Scriptures and the writings of Adepts and their disciples—the necessities governing full and conscious acceptance as a disciple of an Adept Master are precise and yet inspiring. In consequence, it is still only the relatively few who find and tread the ancient ‘way of holiness’ described by Isaiah.[4] | Như các trước tác được linh hứng bởi Chân sư về chủ đề này đã chứng minh—tức những phần thực sự tôn thăng trong các Thánh kinh thế gian và các trước tác của các Chân sư cùng đệ tử của Các Ngài—những điều kiện cần thiết để được tiếp nhận trọn vẹn và có ý thức làm đệ tử của một Chân sư là chuẩn xác nhưng cũng đầy cảm hứng. Do đó, vẫn chỉ có số ít tương đối tìm và bước đi trên “con đường thánh thiện” cổ xưa mà Ê‑sai đã mô tả. |
The teaching received, however, refers not only to the causes, the means of avoidance of, and the remedies for, human suffering, but also the laws of nature upon which universes, planets and all that live thereon have been established. Deeply occult interrelationships between parts of human beings and of universes, ‘Correspondences’ as they have been named—are not only taught in themselves; for the disciple is also instructed in knowledge of such correspondences and of their application to the generation, formation and evolution of all worlds and of such beings as are dwelling upon them. The nature of man himself, and so correspondingly of universes and their directive Intelligences—superhuman Archangelic and Angelic—is gradually and ever more fully explained to the advanced student of the Occult Sciences. All such greatly favoured—blessed indeed ones thus become ever more deeply informed concerning their own natures and that of the universe in which they live and with which they are most intimately interrelated. They also learn to apply their knowledge to the fulfilment of the great ideal for which the Theosophical Society and kindred movements have been founded, namely ‘to ameliorate the condition of MAN’.[5] The relationship between disciple and Master is almost wholly a secret one, as recondite also are the guidance and the knowledge which the Master conveys. This was rightly named Theosophia. and he or she everyone being entirely free, of course who would make their lives conducive to the fulfilment of this objective may best do so by formulating and making available as widely as possible the basic principles of Theosophy. | Tuy nhiên, giáo lý được trao truyền không chỉ nói về các nguyên nhân, các phương tiện tránh né và các phương dược cho khổ đau của con người, mà còn về các định luật của thiên nhiên nhờ đó các vũ trụ, các hành tinh và mọi sự sống trên đó đã được thiết lập. Những tương liên huyền vi sâu xa giữa các phần của con người và của các vũ trụ—những “Tương ứng” như chúng đã được gọi tên—không chỉ được dạy như tự thân; vì đệ tử còn được chỉ giáo tri thức về những tương ứng như vậy và về việc ứng dụng chúng vào sự phát sinh, hình thành và tiến hoá của mọi thế giới và các chúng sinh cư trú trên đó. Bản tánh của chính con người—và vì vậy tương ứng với bản tánh của các vũ trụ và các Trí tuệ chỉ đạo của chúng—các Đấng Siêu nhân, Tổng Thiên Thần và Thiên Thần—cũng dần dần và ngày càng đầy đủ hơn được giải minh cho đạo sinh cao cấp của các Khoa học Huyền môn. Mọi người được ân phúc như vậy—quả thật là những người được chúc phúc—dần trở nên thông suốt sâu xa hơn về tự tánh của chính mình và về vũ trụ nơi mình sống, cùng sự tương liên thâm mật nhất với nó. Họ cũng học cách vận dụng tri thức của mình để hoàn thành đại lý tưởng mà Hội Thông Thiên Học và các phong trào đồng chí hướng đã được sáng lập, tức “cải thiện điều kiện của CON NGƯỜI”. Mối liên hệ giữa đệ tử và Thầy hầu như hoàn toàn là điều bí mật, cũng như sự chỉ dẫn và tri thức mà Thầy truyền đạt cũng uyên áo. Điều này được gọi đúng là Theosophia. và bất kỳ ai—dĩ nhiên mỗi người hoàn toàn tự do—ước muốn khiến đời mình thuận hợp với việc thành tựu mục tiêu này đều có thể thực hiện tốt nhất bằng cách hệ thống hoá và phổ biến càng rộng càng tốt những nguyên lý căn bản của Thông Thiên Học. |
The Theosophical Society greatly needs well-informed and effective exponents of the Ancient Wisdom, and especially of the practical application of its teachings to the end of saving mankind from the world wide evils by which today humanity is so sorely beset and from their increase—a condition towards which the world appears so dangerously to be heading. The need for such exponents is very great indeed, as great also are the privileges available to every single person who selflessly dedicates his or her life to the spreading of Theosophy. The writer finds himself earnestly hoping that an ever increasing number of members and of lodges will concentrate upon this task, and answer this call of those elder brethren of humanity under whose inspiration the Theosophical Society came into existence. In order to fulfil this ideal one must master the doctrines, write books and articles, if necessary undergo professional training in public speaking, and then write books and articles, occupy platforms and make television, radio and tape recordings. All of these opportunities for service are necessary in order that the Ageless Wisdom, so sorely wanted in the present Age, may become increasingly and ever more acceptably available to those urgently needing the knowledge termed Theosophia; for mankind in increasing number is searching for a spiritual philosophy of life that may be put into practice by old and young throughout the world. | Hội Thông Thiên Học rất cần những người trình bày thông suốt và hiệu quả Minh Triết Cổ, đặc biệt là việc áp dụng thực tiễn các giáo lý của Minh Triết nhằm cứu nhân loại khỏi những ác trược lan tràn khắp thế giới mà hôm nay nhân loại đang bị bủa vây khốc liệt, và khỏi sự gia tăng của chúng—một tình trạng mà thế giới dường như đang lao đến đầy nguy hiểm. Nhu cầu đối với những người trình bày như vậy thật rất lớn, và cũng lớn lao không kém là những đặc ân dành cho mọi người tự vô ngã hiến dâng đời mình cho việc truyền bá Thông Thiên Học. Người viết tự thấy mình thành tâm hy vọng rằng ngày càng có nhiều hội viên và các lô‑đi sẽ tập trung vào nhiệm vụ này, và đáp lời kêu gọi của những Huynh Trưởng của nhân loại—dưới linh hứng của Các Ngài mà Hội Thông Thiên Học đi vào hiện tồn. Để thành tựu lý tưởng này, người ta phải nắm vững các giáo lý, viết sách và bài, nếu cần thiết thì trải qua đào tạo chuyên nghiệp về diễn giảng trước công chúng, rồi viết sách và bài, chiếm lĩnh diễn đàn và thực hiện các ghi hình truyền hình, phát thanh và băng từ. Tất cả những cơ hội phụng sự này là cần thiết để Minh Triết Ngàn Đời, vốn đang được khao khát tha thiết trong Thời đại hiện nay, có thể ngày càng trở nên phổ biến và được đón nhận hơn bởi những ai đang cấp thiết cần tri thức được gọi là Theosophia; vì nhân loại với số lượng ngày càng tăng đang tìm kiếm một triết lý tinh thần về đời sống có thể được áp dụng thực hành bởi cả người già lẫn người trẻ trên khắp thế giới. |
This work constitutes ‘the call’ of the Second Century of the existence of the Theosophical Society. | Công việc này cấu thành “tiếng gọi” của Thế kỷ Thứ Hai trong sự tồn tại của Hội Thông Thiên Học. |
The Theosophist, Vol. 98, December 1976, p. 93 | Nhà Thông Thiên Học, Tập 98, Tháng Mười Hai 1976, tr. 93 |
163
The Application of Yoga to Life—Ứng dụng Yoga vào Đời sống
Are you afraid of death? If so say: I am a Divine and immortal being. Though my body die, I will live forever. | Bạn có sợ chết không? Nếu có, hãy nói: Ta là một hữu thể Thiêng liêng và bất tử. Dẫu thân ta có chết, ta sẽ sống mãi. |
Are you afraid of disease? If so say: I am a Divine and immortal being. I am pure Spirit. Though my body may become ill, I abide forever in radiant health and power. | Bạn có sợ bệnh tật không? Nếu có, hãy nói: Ta là một hữu thể Thiêng liêng và bất tử. Ta là Tinh thần thuần khiết. Dẫu thân ta có thể lâm bệnh, ta vẫn an trụ vĩnh viễn trong sức khỏe rạng ngời và quyền năng. |
Are you afraid of age? If so say: I am a Divine and immortal being. Though my body will die, in my spiritual nature I will live forever. Though my body will become old, I possess eternal youth. | Bạn có sợ tuổi già không? Nếu có, hãy nói: Ta là một hữu thể Thiêng liêng và bất tử. Dẫu thân ta sẽ chết, trong bản tánh tinh thần ta sẽ sống mãi. Dẫu thân ta sẽ già, ta sở hữu tuổi xuân vĩnh cửu. |
Are you afraid of loneliness? If so say: I am a Divine and immortal being. My body may be alone. I am forever one with God and through Him with all that lives. | Bạn có sợ cô đơn không? Nếu có, hãy nói: Ta là một hữu thể Thiêng liêng và bất tử. Thân ta có thể đơn độc. Ta muôn đời là một với Thượng đế và qua Ngài, với mọi điều đang sống. |
Regular practices makes these truths Real. | Thực hành đều đặn sẽ làm cho những chân lý này trở nên Thực tại. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 30, No. 4, 1968, p. 82 | Thông Thiên Học tại Tân Tây Lan, Tập 30, Số 4, 1968, tr. 82 |
Effective Government Supervision of the treatment of animals by man, with power granted to the police to act immediately to prevent or remedy the effects of cruelty, and to summon offenders. ↑
‘For our doctrines to practically react on the so-called moral code or the ideas of truthfulness purity, self-denial, charity, etc., we have to Popularise a Knowledge of Theosophy’ (Letter 1, in Letters from The Masters of the Wisdom, 1st Series, compiled by C. Jinarajadasa.) ↑
The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, Letter VIII. ↑
Isaiah 35:8. ↑
The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, Letter LXXXV, 399 ↑