TCF 173-183 S2S6 Revision
(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR) |
(Phần lớn
văn bản của Chân sư Tây Tạng được
đặt cỡ chữ 16, để dễ đọc
hơn khi trình chiếu trong các lớp học. Chú thích và
tham chiếu từ các sách của AAB khác và từ các trang
khác của TCF được đặt cỡ chữ 14.
Lời bình xuất hiện với cỡ chữ 12. Gạch
chân, In đậm và Tô sáng bởi MDR) |
Please Read these Commentaries with your TCF Book Handy for the Sake of Continuity. The extensive commentary may otherwise disrupt the sense of flow. |
Xin đọc các Lời Bình này
với cuốn TCF trong tay để bảo đảm
tính liên tục. Bằng không, phần bình giảng rộng
sẽ làm đứt mạch cảm nhận khi đọc. |
We take up our second point in the consideration of the centres: |
Chúng ta chuyển sang điểm thứ
hai trong việc khảo sát các luân xa: |
1. We recall the first point in the consideration of the centres was here, on page 163. |
1. Chúng ta nhớ rằng
điểm thứ nhất trong việc khảo sát các luân
xa nằm ở đây, trang 163. |
1. The Nature of the Centres. |
1. Bản Tính của các Luân xa. |
[Covered, we remember, in section S2S4] |
[Đã được bao
quát, như chúng ta nhớ, ở phần S2S4] |
2. We may wish to refresh our memory, as we discussed this subject in the section before last, before Christmas, when we dealt with Stanza I. |
2. Chúng ta có thể muốn
ôn lại trí nhớ, vì chúng ta đã bàn đề tài này ở
phần trước nữa, trước Giáng Sinh, khi chúng
ta đề cập đến Khổ kệ I. |
2. The centres in connection with the Rays. |
2. Các luân xa liên hệ với các Cung. |
This will give us a large range of subject to be dealt with, and much food for thought, surmise and wise conjecture. All that is here stated is given simply as basic or foundation facts, upon which may be erected a structure of conjecture, and of logical reasoning, employing the imagination, and thereby effecting two things: |
Điều này sẽ cho chúng ta một phạm
vi đề tài rộng để đề cập đến,
và nhiều điều đáng suy ngẫm, giả định
và phỏng đoán khôn ngoan. Tất cả những gì
được trình bày ở đây chỉ nêu như các sự
kiện cơ bản hay nền tảng, trên đó có thể
dựng nên một cấu trúc suy đoán, và lý luận hợp
lôgic, dùng đến sự tưởng
tượng, và qua đó đạt được hai
điều: |
3. When we read DK we do this: we erect a “structure of conjecture”. |
3. Khi chúng ta đọc lời
dạy của Chân sư DK, chúng ta làm điều này: chúng
ta dựng nên một “cấu trúc suy đoán”. |
4. Conjecture is an important mental dynamic; it is an extension of thought which may lead us to intuitive apprehension. It also proposes that which must be proven, and in the direction of such proofs those who conjecture are obliged to labor. |
4. Suy đoán là một
động lực trí tuệ quan trọng; nó là sự mở
rộng của tư tưởng có thể dẫn ta
đến sự lĩnh hội trực giác. Nó cũng nêu
ra điều phải được chứng minh, và
để hướng đến những chứng minh
như vậy, những ai suy đoán buộc phải lao
tác. |
These are an ability to expand our mental concept and to build the antaskarana, or that bridge which all who seek to function in the buddhic vehicle must build between higher and lower mind; hence the necessity for the use of the imagination (which is the astral equivalent to mental discrimination), and its ultimate transmutation into intuition. |
Đó là khả năng mở rộng khái
niệm trí tuệ của chúng ta và xây dựng antahkarana, tức
cây cầu mà tất cả những ai tìm cách hoạt động
trong hiện thể Bồ đề đều phải dựng
giữa thượng trí và hạ trí; vì vậy cần thiết
phải dùng đến sự tưởng tượng ( vốn
là đối phần cảm dục của phân biện
trí tuệ), và rốt ráo được chuyển hoá thành
trực giác. |
5. By engaging in conjecture we learn to expand our mental concept. We are led into presently unverified areas of thought. |
5. Bằng việc tham dự
vào suy đoán, chúng ta học cách mở rộng khái niệm
trí tuệ. Chúng ta được dẫn vào những miền
tư tưởng hiện còn chưa kiểm chứng. |
6. Through conjecture we are also building the antahkarana. |
6. Qua suy đoán, chúng ta
cũng đang xây dựng antahkarana. |
7. Imagination is astral in nature but the in the process of creative imagination the mental component is added. |
7. Sự tưởng
tượng có bản chất cảm dục, nhưng
trong tiến trình tưởng tượng sáng tạo,
thành tố trí tuệ được thêm vào. |
8. Imagination, we are told, is the astral equivalent to mental discrimination. Mental discrimination is an act of mental separation or distinction. Does imagination choose? We might say that it does. One can choose the images one entertains. We need not simply entertain anything that comes to mind. Imagination (as here presented) seems to be disciplined imagination. It is not the “active imagination” (a psychological technique) which can go anywhere, entertain any image, and is allowed to do so. |
8. Chúng ta được
dạy rằng tưởng tượng là đối phần
cảm dục của phân biện trí tuệ. Phân biện
trí tuệ là hành vi phân chia hay biệt phân trong trí. Tưởng
tượng có chọn lựa chăng? Có thể nói là có.
Người ta có thể chọn những hình ảnh mình ấp
ủ. Chúng ta không cần chỉ tiếp nhận bất cứ
điều gì hiện đến trong trí. Tưởng
tượng (như trình bày ở đây) dường
như là tưởng tượng được kỷ
luật. Nó không phải “tưởng tượng chủ
động” (một kỹ thuật tâm lý) có thể đi
bất cứ đâu, chứa đựng bất cứ
hình ảnh nào, và được phép làm vậy. |
9. Through mental discrimination we distinguish one thought from another, one thing from another. Through imagination, we distinguish the different objects of desire. We imagistically discriminate between that which is desired and that which is not. |
9. Qua phân biện trí tuệ,
chúng ta phân biệt tư tưởng này với tư
tưởng khác, vật này với vật khác. Qua tưởng
tượng, chúng ta phân biệt hình tượng các đối
tượng ham muốn khác nhau. Chúng ta phân biện bằng
hình tượng giữa cái đáng mong và cái không đáng
mong. |
10. A disciplined imagination can be selective just as is mental discrimination. We allow images to form only in accordance with an energy stream to which we given internal assent. All other streams are rebuffed before images can form. |
10. Một tưởng
tượng được kỷ luật có thể có
tính tuyển chọn như phân biện trí tuệ vậy.
Chúng ta chỉ cho phép các hình ảnh hình thành phù hợp với
một dòng năng lượng mà chúng ta đã chấp nhận
nội tâm. Mọi dòng khác đều bị đẩy lui
trước khi hình ảnh có thể thành hình. |
11. The main point is that imagination need not be unguided and helplessly at the service of simply any energy stream. Every time we guide the imagination creatively, we choose to allow the image-making faculty to respond to a particular energy stream and not to another. There is an internal sensitivity (probably astral) which determines that to which we allow the image-making faculty to respond. |
11. Điểm chính là
tưởng tượng không nhất thiết vô hướng
dẫn và bất lực đáp ứng đơn giản
với bất kỳ dòng
năng lượng nào. Mỗi lần chúng ta hướng
dẫn tưởng tượng một cách sáng tạo,
chúng ta chọn cho phép năng lực tạo ảnh hưởng
ứng với một dòng năng lượng nhất
định và không với dòng khác. Có một độ nhạy
nội tâm (có lẽ thuộc cảm dục) quyết
định chúng ta cho phép năng lực tạo ảnh
hưởng ứng với cái gì. |
12. We are given a developmental sequence: imagination – mental discrimination – intuition. |
12. Chúng ta được
trao một chuỗi phát triển: tưởng tượng
– phân biện trí tuệ – trực giác. |
13. Imagination, as we are seeing, can conform to different energies. In the process of antahkarana-building the imagination is to reflect or conform to buddhic impulse. |
13. Như chúng ta đang
thấy, tưởng tượng có thể thuận theo
những năng lượng khác nhau. Trong tiến trình xây
dựng antahkarana, tưởng tượng phải phản
chiếu hay thuận theo xung lực Bồ đề. |
14. From VSK: “Note that the science of the Antahkarana is listed in R&I as a second ray presentation, a book in two parts, with a title in two parts—‘antah’ and ‘karana’. These divisions reflect the double dual wheels of this second system within its internal and external structure as the fifth part of a Treatise on the Seven Rays, and culminating treatise.” |
14. Từ VSK: “Lưu ý rằng
khoa học về Antahkarana được liệt kê trong
R&I như một trình bày thuộc cung hai, một cuốn
sách gồm hai phần, với nhan đề có hai phần—‘antah’ và ‘karana’. Những
phân đoạn này phản ảnh các bánh xe kép đôi của
hệ thứ hai này trong cấu trúc nội tại và ngoại
tại của nó, như phần thứ năm của một
Luận về Bảy Cung, và là luận thư đỉnh
kết.” |
All teachers, who have taken pupils in hand for training, and who seek to use them in world service, follow the method of imparting a fact (oft veiled in words and blinded by symbol) and then of leaving the pupil to follow his own deductions. |
Mọi vị huấn sư, những
người đã đảm trách môn sinh để rèn luyện,
và tìm cách dùng họ trong phụng sự thế gian, đều
theo phương pháp truyền đạt một sự kiện
(thường che kín trong ngôn từ và bị mù bởi biểu
tượng) rồi để môn sinh tự theo các suy luận
của y. |
15. This is the older method of giving hints. Later when He wrote DINA II, DK spoke of the newer method: |
15. Đây là phương
pháp ám chỉ cổ điển. Về sau khi viết DINA
II, Chân sư DK đã nói về phương pháp mới: |
“Today, this method is no longer being used, and this change constitutes one of the modes of training the disciples of the New Age. The modern disciple has to recognise the hint which is related to his point in consciousness and which is to be found in the mass of instruction made available for his use. He has to seek for the—to him—most deeply esoteric statement he encounters in the current teaching; from this isolated hint he has to abstract the significance, after removing it from its context; later, he must learn and profit from its meaning.” (DINA I 319) |
“Ngày nay, phương pháp này không còn
được dùng nữa, và sự thay đổi này là một
trong những cách rèn luyện các đệ tử của Kỷ
Nguyên Mới. Người đệ tử hiện đại
phải nhận ra gợi ý liên hệ với điểm
tâm thức của y và được tìm thấy trong khối
lượng giáo huấn được cung cấp cho y sử
dụng. Y phải truy tầm phát biểu mà—đối với
y—là nội môn sâu xa nhất trong giáo huấn hiện hành; từ
gợi ý cô lập này y phải trừu xuất thâm
nghĩa, sau khi tước nó khỏi ngữ cảnh; về
sau, y phải học và thu ích từ ý nghĩa ấy.” (DINA
I 319) |
Discrimination is thereby developed, and discrimination is the main method whereby the Spirit effects its liberation from the trammels of matter, and discerns between illusion and that which is veiled by it. |
Nhờ vậy, phân biện được
phát triển, và phân biện là phương pháp chủ yếu
nhờ đó Tinh thần đạt giải thoát khỏi
những ràng buộc của chất liệu, và phân biệt
giữa ảo tưởng với điều bị nó
che phủ. |
16. Discrimination is the method by which one separates the real from the unreal. |
16. Phân biện là
phương pháp nhờ đó người ta tách cái thực
khỏi cái không thực. |
17. Those who are intent on liberation cannot ignore the potency of the mind—the great discriminator. |
17. Những ai chú tâm vào giải
thoát không thể xem nhẹ năng lực của thể
trí—vị đại phân biệt gia. |
18. In that way imagination is similar; it helps one recognize the truth. |
18. Theo cách ấy, tưởng
tượng cũng tương tự; nó giúp người
ta nhận ra chân lý. |
19. Through discrimination, we move from the real to the unreal. It is the method utilized at the fourth initiation under the influence of Mercury (buddhi) and Saturn (the mind, under the third ray—the “Divine Separator” and “Discriminating Essential Life” EP I 68) |
19. Qua phân biện, chúng ta
tiến từ cái không thực tới cái thực. Đó là
phương pháp được dùng ở lần điểm
đạo thứ tư dưới ảnh hưởng của
Sao Thủy (Bồ đề) và Sao Thổ (thể trí,
dưới cung ba—“Đấng Phân Ly Thiêng Liêng” và “Sự Sống
Tinh Yếu Phân Biệt” EP I 68) |
20. This was also the method of the great Sage Shankara, Who (a “Sixth Rounder” like the Buddha”) trained those who were Arhats (as did the Buddha) and utilized the planets Mercury and Saturn to discriminate the real from the unreal. |
20. Đây cũng là
phương pháp của bậc Hiền triết vĩ
đại Shankara, Ngài (một “người thuộc vòng
thứ sáu” như Đức Phật) đã huấn luyện
những vị A-la-hán (như Đức Phật) và dùng
các hành tinh Sao Thủy và Sao Thổ để phân biệt
cái thực khỏi cái không thực. |
21. What is that which is veiled by illusion? Shall we call it buddhi, pure reason, the intuition? This faculty is revealed in a new way at the fourth initiation. |
21. Cái gì là điều bị
ảo tưởng che phủ? Chúng ta có gọi đó là Bồ
đề, là lý trí thuần, là trực giác chăng?
Năng lực này được mặc khải theo cách mới
ở lần điểm đạo thứ tư. |
Not much can be here imparted, as the subject, if dealt with at all fully, would convey too much information to those liable to misuse it. |
Không thể truyền đạt nhiều
ở đây, vì nếu đề tài được trình
bày đầy đủ, nó sẽ đưa quá nhiều
thông tin cho những ai có khả năng lạm dụng. |
22. Those liable to misuse it are just about everybody. Do we share HPB’s assessment that until a man has taken the fourth degree he is an unconscious black magician? |
22. Những ai có khả
năng lạm dụng thì hầu như là tất cả mọi
người. Chúng ta có chia sẻ đánh giá của Bà HPB rằng
cho tới khi một người đạt bậc thứ
tư, y là một nhà hắc thuật vô thức chăng? |
As we know, the evolution of the centres is a slow and gradual thing, and proceeds in ordered cycles varying according to the ray of a man’s Monad. |
Như chúng ta biết, sự tiến hoá của
các luân xa là một tiến trình chậm rãi và tuần tự,
diễn ra theo các chu kỳ có trật tự, biến đổi
tùy theo cung của Chân thần nơi một người. |
23. The cycles are cycles of unfoldment and attainment, and they do not occur for all monadic types at the same time, in the same sequence and for the same duration. |
23. Các chu kỳ là chu kỳ
khai mở và thành tựu, và chúng không xảy ra cho tất cả
các loại chân thần vào cùng một thời điểm,
theo cùng một trình tự hay trong cùng một khoảng thời
gian. |
24. There are generalities that apply to all monadic types, and specificities that distinguish them. |
24. Có những điều
tổng quát áp dụng cho mọi loại chân thần, và những
điều đặc thù để phân biệt chúng. |
25. Why might it be that the evolution of centres accords to monadic cycles, and not, alternatively, to egoic or solar, or personality cycles? |
25. Vì sao sự tiến
hoá của các luân xa lại tương hợp với các
chu kỳ của chân thần, chứ không phải, thí dụ,
với các chu kỳ của chân ngã, hay thái dương, hoặc
phàm ngã? |
26. It is at this time that we should remember that the chakras are basically extensions of monadic power, electric fire. This we have been studying. No matter the extent to which they appear in fields ‘lower’ than the Monad, they derive from the power of the Monad and are directly connected to the Monad and its ray type. |
26. Lúc này chúng ta nên nhớ
rằng các luân xa về căn bản là những mở rộng
của quyền năng chân thần, lửa điện.
Đây chính là điều chúng ta đã học. Dẫu chúng
xuất hiện đến mức nào trong các trường
“thấp” hơn Chân thần, chúng đều xuất sinh từ
năng lực của Chân thần và trực tiếp nối
kết với Chân thần và loại cung của Ngài. |
[174] |
|
The life of the Pilgrim can be, for purposes of discussion, divided into three main periods: |
Vì mục đích thảo luận, sự
sống của Người Lữ Hành có thể chia làm ba
giai đoạn chính: |
27. The Jiva is the pilgrim, and the Prodigal Son. |
27. Jiva là người lữ
hành, và là Người Con Hoang Đàng. |
28. The Jiva is the ‘Monad-in-extension’. |
28. Jiva chính là “Chân Thần-trong-sự-mở-rộng”. |
1. That period wherein he is under the influence of the Personality Ray. |
1. Giai đoạn y nằm dưới ảnh
hưởng của Cung phàm ngã. |
29. This period accords with the control of the third aspect of divinity. |
29. Giai đoạn này
tương ứng với sự kiểm soát của
phương diện thứ ba của thần tính. |
2. That wherein he comes under the Ray of the Ego. |
2. Giai đoạn y đi vào dưới
Cung của Chân ngã. |
30. This period accords with the control of the second aspect. |
30. Giai đoạn này
tương ứng với sự kiểm soát của
phương diện thứ hai. |
31. Though this period of development seems longer than the next, it is really shorter overall, lasting some tens of lives. |
31. Dẫu giai đoạn
phát triển này có vẻ dài hơn giai đoạn kế,
xét tổng thể, nó thực ra ngắn hơn, kéo dài trong
vài chục kiếp sống. |
3. That wherein the Monadic Ray holds sway. |
3. Giai đoạn Cung Chân thần nắm
quyền chi phối. |
32. This period, the shortest from the human point of view (though longest from the perspective of post-human development) accords with the control of the first divine aspect. |
32. Giai đoạn này, ngắn
nhất xét từ quan điểm nhân loại (dẫu dài nhất khi nhìn từ viễn
tượng hậu nhân loại), tương ứng với
sự kiểm soát của phương diện thiêng liêng
thứ nhất. |
The first period is by far the longest, and covers the vast progression of the centuries wherein the activity aspect of the threefold self is being developed. |
Giai đoạn thứ nhất dẫu sao
cũng dài nhất, và bao trùm sự tiến trình mênh mông của
bao thế kỷ, trong đó phương diện hoạt
động của tự ngã tam phân được triển
khai. |
33. Most often it appears that the first part of any developmental cycle is longest. So it is for both stars and men. |
33. Thường thấy
rằng phần đầu của bất kỳ chu kỳ
phát triển nào cũng là dài nhất. Với các vì sao
cũng như với con người đều như thế. |
34. We note the use of the word “centuries” but, perhaps, millennia would be a more representative unit of time. |
34. Ở đây dùng từ
“thế kỷ”, nhưng có lẽ “thiên niên kỷ” sẽ
là đơn vị thời gian đại biểu hơn. |
35. May we say that the first period of development may last in excess of twenty-one million years, as there are many today who individualized on the Earth-chain’s fourth round, some twenty-one million years ago, who have not yet reached the stage of coming under the Ray of the Ego. For some another million or two years may be needed. But, today, events are moving so fast that unparalleled development may be a possibility. |
35. Chúng ta có thể nói rằng
giai đoạn phát triển thứ nhất có thể kéo
dài hơn hai mươi mốt triệu năm, vì ngày nay
có nhiều người đã biệt ngã hóa ở vòng thứ
tư của Dãy Địa Cầu, cách nay chừng hai
mươi mốt triệu năm, nhưng vẫn chưa
đạt đến giai đoạn đi vào dưới
Cung của Chân ngã. Với một số người, có lẽ
cần thêm một hai triệu năm nữa. Nhưng, ngày
nay, sự kiện đang chuyển thật nhanh đến
nỗi những phát triển chưa từng có có thể là khả hữu. |
Life after life slips away during which the aspect of manas or mind is being slowly wrought out, and the human being comes more and more under the control of his intellect, operating through his physical brain. |
Hết kiếp này sang kiếp khác trôi qua,
trong đó phương diện manas hay thể trí
được chậm rãi rèn nên, và con người ngày
càng nhiều hơn nằm dưới kiểm soát của
trí năng, vận hành qua bộ não hồng trần của
y. |
36. This is the stage which culminates with the unfoldment of the third petal of the egoic lotus—the sacrifice petal of the knowledge tier. |
36. Đây là giai đoạn
đi đến đỉnh điểm nơi sự khai
mở cánh hoa thứ ba của hoa sen chân ngã—cánh hoa hi sinh của
tầng tri thức. |
37. Think of the vast perspective which makes meaningful the phrase “life after life slips away”. |
37. Hãy nghĩ đến
viễn tượng mênh mông làm cho cụm từ “hết
kiếp này qua kiếp khác trôi qua” có ý nghĩa. |
38. The initiate’s entire sense of time is altered from what it was when he was an average human being or even a disciple. |
38. Toàn cảm về thời
gian của vị điểm đạo đồ đổi
khác hoàn toàn so với khi y còn là một con người trung
bình hay thậm chí là một đệ tử. |
This might be looked upon as corresponding to the period of the first solar system, wherein the third aspect logoic, that of Brahma, Mind, or Intelligence, was being brought to the point of achievement.74 |
Điều này có thể xem như
tương ứng với giai đoạn của hệ mặt
trời thứ nhất, trong đó phương diện
logoic thứ ba, tức của Brahma, Trí, hay Trí năng,
được đưa tới điểm thành tựu.
74 |
39. The stage of mental development corresponds to the major process of the first solar system. |
39. Giai đoạn phát triển
trí tuệ tương ứng với tiến trình chủ
đạo của hệ mặt trời thứ nhất. |
40. Still more accurately, we might also call the process of that solar system the stage of ‘personality development’ for the Solar Logos. Of course, true personality development necessitates mental development. |
40. Chính xác hơn nữa,
chúng ta cũng có thể gọi tiến trình của hệ
mặt trời ấy là giai đoạn “phát triển phàm
ngã” của Thái dương Thượng đế. Dĩ
nhiên, phát triển phàm ngã đích thực bao hàm phát triển
trí tuệ. |
74: “When the last cycle of man-bearing has been completed by that last fecund earth; and humanity has reached in a mass the stage of Buddhahood and passed out of the objective existence into the mystery of Nirvana— |
74: “Khi chu kỳ cuối cùng của việc
mang-người đã được hoàn tất bởi
quả địa cuối cùng còn mắn đẻ; và nhân
loại đã đạt, nói chung, tới giai đoạn
Phật quả và vượt khỏi hiện tồn khách
quan để đi vào huyền nhiệm của Niết-bàn— |
41. Shall the mysteries of Nirvana be realized at the fifth initiation, since the atmic plane (so focal for the fifth degree initiate) is called the “nirvanic plane”? (TCF 164) |
41. Liệu các huyền
nhiệm của Niết-bàn sẽ được thực
chứng ở lần điểm đạo thứ
năm, vì cõi atma (rất trọng tâm đối với
điểm đạo đồ bậc năm) được
gọi là “cõi Niết-bàn”? (TCF 164) |
then “strikes the hour”; the seen becomes the unseen, the concrete resumes its pre-cyclic state of atomic distribution. |
khi ấy “giờ điểm” vang; cái thấy
được trở thành cái vô hình, cái cụ thể trở
lại trạng thái phân phối nguyên tử tiền-chu kỳ
của nó. |
42. We are speaking here of relative pralayas, otherwise nothing would remain—even the “pre-cyclic state of atomic distribution”. |
42. Ở đây chúng ta
đang nói về những giai kỳ qui nguyên tương
đối, nếu không thì chẳng còn gì tồn tại—ngay
cả “trạng thái phân phối nguyên tử tiền-chu kỳ”. |
But the dead worlds left behind the onsweeping impulse do not continue dead. Motion is the eternal order of things and affinity or attraction its handmaid of all works. The thrill of life will again re-unite the atom, and it will stir again in the inert planet when the time comes. |
Nhưng những thế giới chết
bị bỏ lại phía sau bởi xung lực đang cuốn
trào không tiếp tục chết. Chuyển động là
trật tự vĩnh cửu của vạn hữu và tính
tương thông hay hấp dẫn là tỳ
nữ của mọi công trình. Rung động của sự
sống sẽ lại tái kết hợp nguyên tử, và nó
sẽ khuấy động lại hành tinh trơ lì khi thời
điểm đến. |
43. Perhaps we mean, “reunite the atom(s)” into forms, as even an inert planet must be composed of atoms. |
43. Có lẽ chúng ta muốn
nói, “tái kết hợp các nguyên tử” thành các hình tướng,
vì ngay cả một hành tinh trơ lì cũng phải
được cấu thành từ các nguyên tử. |
Though all its forces have remained statu quo and are now asleep, yet little by little it will—when the hour re-strikes—gather for a new cycle of man-bearing maternity, and give birth to something still higher as moral and physical types than during the preceding manvantara. |
Dẫu mọi lực của nó đã duy
trì statu quo và giờ đang ngủ yên,
nhưng dần dần—khi giờ điểm lại gõ—nó
sẽ gom góp cho một chu kỳ mới của vai trò mẫu
tử mang-người, và sẽ sinh ra điều gì
đó còn cao hơn, xét về loại hình đạo đức
và thể chất, so với manvantara trước đó. |
44. Here is where the term “manvantara” is appropriate (no matter what its actual duration). We have noted that the term “mahamanvantara” (an “occult century”) and “manvantara” (a day of Brahma) must not be confused, though the distinction, it seems, is not always kept. |
44. Ở đây thuật
ngữ “manvantara” là thích đáng (bất kể kỳ hạn
thực của nó). Chúng ta đã lưu ý rằng thuật
ngữ “mahamanvantara” (một “thế kỷ
huyền bí”) và “manvantara” (một ngày của Brahma) không nên
lẫn lộn, dẫu xem ra không phải lúc nào người
ta cũng giữ ranh định này. |
45. The sign Libra conveys the energy of the “status quo”, and is a sign much related to consummation and, thus, pralaya. Pisces is another such sign. Interestingly, in relation to both these signs, Venus is powerful. Venus connotes the power of harmonization that precedes dissolution. |
45. Dấu hiệu Thiên Xứng
chuyển tải năng lượng của “status quo”, và
là một dấu hiệu rất liên hệ với sự
viên mãn và, vì vậy, với giai kỳ qui nguyên. Song Ngư
là một dấu hiệu tương tự khác. Điều
thú vị là, đối với cả hai dấu hiệu
này, Kim Tinh đều mạnh mẽ. Kim Tinh gợi ý quyền
năng điều hoà đi trước sự tan rã. |
And its “cosmic atoms already in a differentiated state” (differing—in the producing force in the mechanical sense of motions and effects) remain statu quo as well as globes and everything else in the process of formation.” |
Và “các nguyên tử vũ trụ của nó
vốn đã ở trạng thái biến phân” (khác nhau—xét về
lực tạo sinh trong nghĩa cơ học của chuyển
động và các hiệu dụng) vẫn duy trì statu quo cũng như các bầu và mọi
thứ khác trong tiến trình hình thành.” |
46. We are not talking about ‘absolute pralaya’ (the ‘Maha-Pralaya’ which dissolves the entirety of cosmos—objective and subjective). |
46. Chúng ta không nói về
“đại qui nguyên” tuyệt đối (‘Đại giai
kỳ qui nguyên’ vốn hoá giải toàn thể vũ trụ—khách
quan lẫn chủ quan). |
47. A return to the state of non-differentiation (Mulaprakriti) is a penultimate stage and does not refer to the type of pralayas here discussed. |
47. Sự hoàn nguyên về
trạng thái vô biến phân (Mula-prakriti) là một giai đoạn
áp chót và không liên hệ với
các giai kỳ qui nguyên đang bàn ở đây. |
Such is the “hypothesis fully in accordance with (your) (my) note.” |
Đó là “giả thuyết hoàn toàn phù hợp
với (ghi) (chú) của (ngươi) (ta).” |
For, as planetary development is as progressive as human or race evolution, the hour of the Pralaya’s coming catches the series of worlds at successive stages of evolution; (i.e.) each has attained to some one of the periods of evolutionary progress—each stops there, until the outward impulse of the next manvantara sets it going from that very point—like a stopped time-piece re-wound. Therefore, I have used the word “differentiated.” |
Bởi vì, khi sự phát triển của
các hành tinh cũng tiến triển như tiến hoá của
con người hay của chủng tộc, giờ đến
của Pralaya bắt gặp chuỗi thế giới ở
những giai đoạn tiến hoá kế tiếp nhau; (tức
là) mỗi thế giới đã đạt tới một
trong các thời kỳ tiến bộ tiến hoá—mỗi
cái dừng lại ở đó, cho đến khi xung lực
hướng ngoại của manvantara kế tiếp khiến
nó khởi hành từ chính điểm ấy—tựa như
một chiếc đồng hồ ngừng lại
được lên dây cót lại. Bởi vậy, ta đã
dùng từ “biến phân.” |
48. That achieved differentiation is not destroyed by a minor pralaya (such as a solar systemic pralaya, or even a constellational or super-constellational pralaya). |
48. Cái đã đạt
được qua biến phân không bị hủy bởi một
giai kỳ qui nguyên nhỏ (như một qui nguyên của hệ
mặt trời, hay thậm chí ở cấp chòm sao hay siêu
chòm sao). |
49. In studying TCF we realize that the term “atom” can refer to units great and small. Here, the term relates to the tiny units comprising the vehicles of each of the Planetary Logoi, whose evolution has been interrupted like “stopped time-piece(s)”. |
49. Khi học TCF, chúng ta
nhận ra rằng thuật ngữ “nguyên tử” có thể
chỉ cho các đơn vị lớn và nhỏ. Ở
đây, thuật ngữ này liên hệ đến các
đơn vị tí hon kết thành các hiện thể của
mỗi vị Hành Tinh Thượng đế, mà tiến
hoá của các Ngài đã bị ngắt quãng như “những
chiếc đồng hồ ngừng lại”. |
50. What is said here of planetary development is true of our lives as well. There is no true finishing of the process. All lesser lives are interrupted in their development by pralaya. The main question is: “How much of the cyclic-intention for a particular incarnation was fulfilled when the irresistible moment of death came?” |
50. Điều được
nói ở đây về phát triển hành tinh cũng đúng
với đời sống của chúng ta. Không có sự
hoàn tất thật sự cho tiến trình. Mọi sự sống
nhỏ hơn đều bị gián đoạn trong phát
triển của mình bởi qui nguyên. Câu hỏi chủ chốt
là: “Bao nhiêu phần của ý đồ chu kỳ cho một
kiếp nhập thể nào đó đã được hoàn
tất khi khoảnh khắc vô phương cưỡng lại
của cái chết ập đến?” |
51. We must submit to this cosmic ritual; “Rome was not built in a day.” Even a solar system requires far more than a “day of Brahma” for its completion. |
51. Chúng ta phải thuận
theo nghi lễ vũ trụ này; “La Mã không xây trong một
ngày.” Ngay cả một hệ mặt trời cũng cần
hơn xa “một ngày của Brahma” để được
viên thành. |
At the coming of the Pralaya no human, animal, or even vegetable entity will be alive to see it, but there will be the earths or globes with their mineral kingdoms; and all these planets will be physically disintegrated in the pralaya, yet not destroyed; |
Khi Pralaya đến, sẽ không có một
thực thể nhân loại, thú vật, hay thậm chí thực
vật nào còn sống để thấy nó, nhưng sẽ
có các địa cầu hay các bầu với những giới
khoáng vật của chúng; và tất cả những hành tinh
này sẽ bị phân rã về mặt thể chất trong
pralaya, nhưng không bị hủy diệt; |
52. This is the point to realize: “physically disintegrated but not destroyed”. |
52. Đây là điểm cần
nhận ra: “phân rã về vật lý nhưng không bị hủy
diệt”. |
53. The final universal pralaya includes all in the swath of its destruction. |
53. Đại qui nguyên tối hậu sẽ gồm
thâu tất cả trong lưỡi hái hủy diệt của
nó. |
for they have their places in the sequence of evolution and their “privations” coming again out of the subjective, they will find the exact point from which they have to move on around the chain of “manifested forms.” |
vì chúng có vị trí của mình trong chuỗi
tiến hoá và những “ tước khuyết ” của
chúng; khi lại xuất lộ từ chủ quan, chúng sẽ
tìm ra đúng điểm từ đó chúng phải chuyển
động tiếp quanh chuỗi các “hình tướng
được biểu hiện.” |
54. The term “privations” is important. A privation is an abstracted energy with formative powers. An abstracted essence is still potent though deprived of its customary vehicles of manifestation. |
54. Thuật ngữ
“tước khuyết” là quan trọng. Một tước
khuyết là một năng lượng được trừu
xuất nhưng vẫn còn quyền năng tạo hình. Một
tinh hoa đã trừu xuất vẫn hữu hiệu dẫu
bị tước mất những hiện thể biểu
hiện thông thường của nó. |
55. Evolution is precisely sequential and there are no skipped steps. |
55. Tiến hoá có trình tự
chính xác và không có bước nào bị bỏ qua. |
This, as you know, is repeated endlessly throughout Eternity. |
Điều này, như các ông biết,
được lặp lại vô tận suốt Cõi
Vĩnh Cửu. |
56. What is the type of “Eternity” here meant? Yet, on one level or another, I believe it is correct to say “endlessly throughout Eternity” even if that eternity is Endless Duration. |
56. “Vĩnh cửu” ở
đây là kiểu gì? Tuy nhiên, ở một bình diện nào
đó, tôi tin là đúng khi nói “vô tận suốt Cõi Vĩnh
Cửu”, dẫu cõi vĩnh cửu ấy là Thời Gian Bất
Tận. |
57. The ABSOLUTE, ITSELF, is a ‘PRIVATION’—the ULTIMATE PRIVATION. |
57. CHÂN NHƯ TUYỆT
ĐỐI, TỰ THÂN, là một “TƯỚC KHUYẾT”—TƯỚC
KHUYẾT TỐI HẬU. |
58. And will there be continuity, such that the ‘Privation’ (abstracted at the “Day be with Us”) of the entirety of cosmos will re-grasp (at the dawn of the next universe) vehicles of expression in the state they had achieved in the past universe? I do not think so. All is new. For the reasoning involved, please see Infinitization of Selfhood. |
58. Và liệu sẽ có sự
liên tục như thế chăng, để “Tước
Khuyết” (được trừu xuất vào lúc “Ngày thuộc
Về Chúng Ta”) của toàn thể vũ trụ sẽ, vào
bình minh của vũ trụ kế tiếp, tái nắm bắt
các hiện thể biểu lộ ở đúng trạng
thái chúng đã đạt trong vũ trụ quá khứ? Tôi
không nghĩ vậy. Mọi sự đều mới. Vì lý
lẽ liên hệ, xin xem Vô Hạn
Hóa của Tự Ngã. |
Each man of us has gone this ceaseless round, and will repeat it forever and ever. |
Mỗi người trong chúng ta đã
đi vòng quay triền miên này, và sẽ lặp lại nó
đời đời kiếp kiếp. |
59. Though not as “man” per se. By the time the universal pralaya for this cosmos sets in, there will be no man. |
59. Tuy không phải như
“con người” tự thân. Đến khi đại qui
nguyên vũ trụ cho vũ trụ này khởi lên, sẽ
không còn con người nữa. |
The deviation of each one’s course, and his rate of progress from Nirvana to Nirvana is governed by causes which he himself creates out of the exigencies in which he finds himself entangled.”—From The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, p. 6 |
Độ lệch của lộ trình mỗi
người, và tốc độ tiến bộ của y
từ Niết-bàn này đến Niết-bàn khác được
chi phối bởi những nguyên nhân do chính y tạo ra từ
những tình thế mà y thấy mình bị vướng mắc.”
—Từ Các Bức Thư của các Chân sư gửi A. P.
Sinnett, tr. 6 |
60. Fascinating concept—“from Nirvana to Nirvana”. Nirvana is a relative term, and even the Solar Logos, and Beings far beyond, experience higher correspondences to Nirvana. The Nirvana of the Universal Logos ends His universe! |
60. Một ý niệm lôi cuốn—“từ
Niết-bàn này đến Niết-bàn khác”. Niết-bàn là thuật
ngữ tương đối, và ngay cả Thái
dương Thượng đế, và những Đấng
vượt xa nữa, cũng thể nghiệm những
tương ứng cao hơn của Niết-bàn. Niết-bàn
của Thượng đế Vũ Trụ kết liễu
vũ trụ của Ngài! |
Then the second aspect began in [175] this present solar system to be blended with, and wrought out through it. |
Rồi phương diện thứ hai khởi
sự trong [175] hệ mặt trời hiện tại này
để được hòa quyện với, và được
rèn luyện qua phương diện ấy. |
61. Our second solar system is the system of Love-Wisdom. It is really the fifth solar system, but the second major solar system of our particular Solar Logos. |
61. Hệ mặt trời
thứ hai của chúng ta là hệ của Bác Ái – Minh Triết.
Thực ra đó là hệ mặt trời thứ năm, nhưng là hệ chính yếu thứ hai của riêng Thái
dương Thượng đế của chúng ta. |
62. The second aspect wrought through the third aspect. |
62. Phương diện
thứ hai được rèn luyện qua phương diện
thứ ba. |
Centuries go by and the man becomes ever more actively intelligent, and the field of his life more suitable for the coming in of this second aspect. |
Thế kỷ nối thế kỷ trôi
qua và con người trở nên ngày càng tích cực thông minh
hơn, và khu vực đời sống của y càng thích hợp
hơn cho sự đi vào của phương diện thứ
hai này. |
63. The second aspect thrives in a more illumined atmosphere. Light is the forerunner of Love-Wisdom. |
63. Phương diện
thứ hai hưng vượng trong một bầu không khí
sáng sủa hơn. Ánh sáng là tiền trạm của Bác Ái –
Minh Triết. |
The correspondence lies in similitude and not in detail as seen in time and space. It covers the period of the first three triangles dealt with earlier. |
Sự tương ứng nằm ở chỗ
tương tự chứ không ở chi tiết, như thấy
trong thời gian và không gian. Nó bao trùm giai đoạn của
ba tam giác đầu tiên đã bàn trước đó. |
64. We are speaking of the slow incoming of the second aspect and its demonstration through the third. |
64. Chúng ta đang nói về
sự đi vào từ từ của
phương diện thứ hai và biểu lộ của nó
qua phương diện thứ ba. |
65. The three triangles mentioned are: |
65. Ba tam giác được
nói đến là: |
1. The pranic triangle. |
1. Tam giác prana. |
a. The shoulder centre. |
a. Luân xa ở vai. |
b. The centre near the diaphragm. |
b. Luân xa gần cơ hoành. |
c. The spleen. |
c. Luân xa lá lách. |
2. Man controlled from the astral plane. |
2. Con người chịu kiểm soát từ
cõi cảm dục. |
a. The base of the spine. |
a. Đáy cột sống. |
b. The solar plexus. |
b. Tùng thái dương. |
c. The heart. |
c. Trái tim. |
3. Man controlled from the mental plane. |
3. Con người chịu kiểm soát từ
cõi trí. |
a. The base of the spine. |
a. Đáy cột sống. |
b. The heart. |
b. Trái tim. |
c. The throat. |
c. Cổ họng. |
66. This first period connected with third ray takes place as the three outer petals are unfolded—the Knowledge Tier. However, the first period cannot be limited to the unfoldment of those petals only, for the fourth petal is still, in a sense, lunar, and even if it is considered a “love petal”, does not yet correlate with the emergence of the solar factor in the life of the human being. |
66. Giai đoạn đầu
tiên liên hệ với cung ba diễn ra khi ba cánh hoa ngoài khai
mở—Tầng Tri thức. Tuy nhiên, giai đoạn thứ
nhất không thể giới hạn chỉ trong sự khai
mở các cánh hoa đó, vì cánh hoa thứ tư vẫn, theo
một nghĩa nào đó, thuộc âm nguyệt, và dẫu
được xem là “cánh hoa bác ái”, nó vẫn chưa
tương ứng với sự xuất hiện của
yếu tố thái dương trong đời sống của
con người. |
67. The fifth petal, as well, may have much in it that is strictly personal and, thus, lunar. |
67. Cánh hoa thứ năm,
tương tự, có thể còn nhiều điều thuần
cá nhân và, do đó, thuộc âm nguyệt. |
68. Personality development occurs at the fourth and fifth petal and a personality has its point of control on the lower mental plane. |
68. Xây dựng phàm ngã diễn
ra ở cánh hoa thứ tư và thứ năm và một phàm
ngã có điểm kiểm soát của nó trên cõi hạ trí. |
69. The heart center is involved in these first three stages which finally evidence a growing intelligence, but it is necessarily the third aspect of the heart center and concerns the gradual lessening of desire and selfishness as they slowly give way to a more socially responsible attitude. |
69. Luân xa tim tham dự vào
ba giai đoạn đầu này, vốn rốt cuộc biểu
lộ trí thông minh đang tăng trưởng, nhưng tất
nhiên là phương diện thứ ba của luân xa tim và
liên hệ với sự giảm dần ham muốn và ích kỷ
khi chúng từ từ nhường chỗ
cho một thái độ trách nhiệm xã hội hơn. |
We must not forget that, for the sake of clarity, we are here differentiating between the different aspects, and considering their separated development, a thing only permissible in time and space or during the evolutionary process, but not permissible from the standpoint of the Eternal Now, and from the Unity of the All-Self. |
Chúng ta đừng quên rằng, vì mục
đích minh bạch, ở đây chúng ta đang phân biệt
giữa các phương diện khác nhau, và xét đến sự
phát triển tách biệt của chúng, điều chỉ
có thể chấp nhận trong thời gian và không gian hay
trong tiến trình tiến hoá, nhưng không thể chấp
nhận từ quan điểm của Hiện Tại
Vĩnh Cửu, và từ Hợp Nhất của Toàn-Ngã. |
70. The mind separates and divides in order to create the kind of clarity it can manage. The truth of evolutionary process is a story of merging, blending and overlapping which can only justly be apprehended by the intuition which is synthetic in its grasp. |
70. Thể trí phân chia và rạch
ròi để tạo nên loại minh bạch mà nó có thể
đảm đương. Chân tướng của tiến
trình tiến hoá là một thiên truyện về dung hợp,
pha trộn và chồng lấp mà chỉ có trực giác—vốn
có nắm bắt tổng hợp—mới có thể lĩnh
hội cho công bằng. |
71. The third degree initiate lives in the Eternal and knows the Self as One. We see in the section above how these two factors go together—the “Eternal Now” and the “Unity of the All Self”. |
71. Vị điểm
đạo đồ bậc ba sống trong Hiện Tại
Vĩnh Cửu và biết Ngã là Một. Chúng ta thấy trong
phần trên hai yếu tố này đi kèm nhau—“Hiện Tại
Vĩnh Cửu” và “Hợp Nhất của Toàn Ngã”. |
The Vishnu or the Love-Wisdom aspect is latent in the Self, and is part of the monadic content, but the Brahma aspect, the Activity-Intelligence aspect precedes its manifestation in time. |
Phương diện Vishnu hay Bác Ái – Minh
Triết tiềm ẩn trong Tự Ngã, và là phần thuộc
nội dung chân thần, nhưng phương diện
Brahma, tức Hoạt động – Trí năng, đi
trước trong sự biểu lộ theo thời gian. |
72. The three major divine aspects are all part of the “monadic content” as are the four rays of attribute and their qualities. |
72. Ba phương diện
thiêng liêng chủ yếu đều là phần của “nội
dung chân thần”, cũng như bốn cung thuộc tính và
các phẩm tính của chúng. |
73. That which is latent is inherent though, as yet, unexpressed. The Purpose substanding the Fixed Design controls the ‘moment of release into objectivity’ for various divine aspects and qualities. |
73. Cái gì tiềm ẩn là
cái hàm tàng dẫu chưa biểu lộ. Thiên Ý làm nền
cho Thiết Kế Cố Định chi phối “khoảnh
khắc được phóng thích vào khách quan” cho các
phương diện và phẩm tính thiêng liêng khác nhau. |
The Tabernacle in the Wilderness preceded the building of the Temple of Solomon; the kernel of wheat has to lie in the darkness of mother Earth before the golden perfected ear can be seen, and the Lotus has to cast its roots down into the mud before the beauty of the blossom can be produced. |
Lều Tạm trong Hoang Mạc đi
trước việc kiến tạo Đền Thờ của
Solomon; hạt lúa phải nằm trong bóng tối của Mẹ
Đất trước khi bông lúa vàng hoàn hảo có thể
được thấy, và Hoa Sen phải cắm rễ vào
bùn trước khi vẻ đẹp của đóa hoa có thể
được sinh thành. |
74. The Tibetan presents in allegory the story of the emergence of the second aspect from the third. |
74. Chân sư Tây Tạng
dùng ngụ ngôn để kể câu chuyện về sự
xuất hiện của phương diện thứ hai từ
phương diện thứ ba. |
75. The theme is Virgoan and describes the gestation of the second aspect ‘within’ a ‘lower’ aspect—the third. |
75. Chủ đề mang
sắc Virgo và mô tả sự thai dưỡng của
phương diện thứ hai “trong” một phương
diện “thấp” hơn—phương diện thứ ba. |
76. The normal habitation of our consciousness is a virtual “Tabernacle in the Wilderness” before it can be raised as the beautiful “Temple of Solomon”. The change from Tabernacle to Temple occurs as the consciousness disidentifies with the personality (which has been its imprisoning focus for millions of years) and gradually enters the grander and more beauteous ‘spaces’ of the higher mental plane (whereon the causal body, the Temple, is built”). |
76. Chỗ trú thường
nhật của tâm thức chúng ta là một “Lều Tạm
trong Hoang Mạc” trước khi nó có thể được
nâng thành “Đền Thờ của Solomon” xinh đẹp.
Sự chuyển từ Lều Tạm sang Đền Thờ
xảy ra khi tâm thức thôi đồng hoá với phàm ngã
(điểm tập trung giam hãm nó suốt hàng triệu
năm) và từ từ đi vào những
“không gian” rộng và đẹp hơn trên cõi thượng
trí (nơi thân nhân quả, tức Đền Thờ,
được xây). |
77. By the time this refocussing occurs, the Temple is becoming a thing of beauty. |
77. Khi sự tái phối
tâm thức này xảy ra, Đền Thờ đang trở
thành một điều đẹp đẽ. |
78. We also note the contrast between the “kernel of wheat (corn)” and the “golden perfected ear”. Consciousness is buried in the matter/form of the lower three worlds before it ripens into full soul consciousness, now independent of its lower environment. The color “gold” or “golden” is frequently a symbol of the fulfillment of the consciousness aspect. The blazing Sun (yellow or golden yellow, and hence associated with buddhi) is the symbol of the Master who is a full member of the Kingdom of Souls. |
78. Chúng ta cũng lưu ý
đối sánh giữa “hạt lúa” và “bông lúa vàng hoàn hảo”.
Tâm thức bị chôn trong vật chất/hình tướng
của ba cõi thấp trước khi nó chín thành tâm thức
linh hồn trọn đủ, nay độc lập với
môi trường thấp của nó. Màu “vàng” hay “vàng óng”
thường là biểu tượng của sự viên mãn
phương diện tâm thức. Thái Dương rực rỡ
(vàng hay vàng kim, nên liên hệ với Bồ đề) là biểu
tượng của vị Thầy, vị thành viên trọn
vẹn của Vương quốc Linh hồn. |
79. The idea behind all these metaphors is that consciousness must be subjected for ages to matter/form before its full beauty can emerge. Consciousness cannot selfishly move on and away from the limitation; using the metaphor of the growth of the lotus, consciousness must root itself in the mud of material limitation in order to grow into the higher spaces—through and above the water, into the air and under the Sun. |
79. Ý tưởng đứng
sau các ẩn dụ này là: tâm thức phải chịu để
cho vật chất/hình tướng hạn chế suốt
những kỷ nguyên trước khi toàn mỹ của nó
có thể hiển lộ. Tâm thức không thể ích kỷ
rời bỏ giới hạn; dùng ẩn dụ tăng
trưởng của đóa sen, tâm thức phải cắm
rễ trong bùn lầy của giới hạn vật chất
để lớn lên vào những không gian cao hơn—xuyên qua
và vượt khỏi nước, vào không khí và dưới
vầng Thái Dương. |
The second period, wherein the egoic ray holds sway, is not so long comparatively; it covers the period wherein the fourth and fifth triangles are being vivified, and marks the lives wherein the man throws his forces on the side of evolution, disciplines his life, steps upon the Probationary Path, and continues up to the third Initiation. |
Giai đoạn thứ hai, trong đó cung
chân ngã nắm quyền chủ đạo, tương
đối không dài; nó bao trùm giai đoạn trong đó tam
giác thứ tư và thứ năm được sinh động,
và đánh dấu những kiếp mà con người dồn
lực mình về phía tiến hoá, rèn kỷ luật đời
sống, bước vào Con Đường Dự Bị,
và tiếp tục cho đến lần Điểm đạo
thứ ba. |
80. The phase here described takes us to the third initiation. |
80. Pha được mô tả
ở đây đưa chúng ta tới lần điểm
đạo thứ ba. |
81. We are dealing with the phase of egoic unfoldment and not of monadic demonstration. Even the sixth triangle concerns the unfoldment of the soul factor (partially through the higher Ego and partially through the spiritual triad—though in all truth, the higher Ego is the spiritual triad). |
81. Chúng ta đang xử
lý pha khai mở chân ngã chứ không phải sự biểu
lộ của chân thần. Ngay cả tam giác thứ sáu
cũng liên quan đến sự khai mở yếu tố
linh hồn (phần qua chân ngã cao, phần qua tam nguyên tinh
thần—dẫu nói cho đúng, chân ngã cao chính là tam nguyên tinh thần). |
82. At the culmination of this phase, all nine petals of the egoic lotus will open. |
82. Ở đỉnh
điểm của pha này, cả chín cánh hoa của hoa sen
chân ngã sẽ mở ra. |
83. When does a man throw his forces on the side of evolution? This occurs during the opening of the love petals and especially the fifth and sixth petals, preceding the opening of the sacrifice tier (during which the taking of the “great manasic initiations” occur) (cf. TCF 869-870 for the contrast between the “great manasic initiations” and certain lesser, seldom recognized initiations characteristic of the human race). |
83. Khi nào con người
dồn lực mình về phía tiến hoá? Điều này xảy
ra trong thời kỳ mở các cánh hoa bác ái và đặc
biệt là cánh hoa thứ năm và thứ sáu, đi trước
sự khai mở tầng hi sinh (trong đó diễn ra các
“đại cuộc điểm đạo manas” (x. TCF
869-870 về đối chiếu giữa “các đại cuộc
điểm đạo manas” và một số cuộc
điểm đạo nhỏ hơn, hiếm khi
được thừa nhận, đặc trưng cho
nhân loại). |
84. We may say that the treading of the Probationary Path is inseparable from the effort to discipline the life. The probationer is no longer simply giving in to the demands of the lunar vehicles but is attempting to have them conform to higher principles. |
84. Chúng ta có thể nói rằng
việc bước đi trên Con Đường Dự Bị
không thể tách rời khỏi nỗ lực rèn kỷ luật
đời sống. Người dự bị không còn
đơn giản chiều theo các đòi hỏi của
các hiện thể âm nguyệt mà đang nỗ lực khiến
chúng thuận theo các nguyên tắc cao hơn. |
85. The fourth a fifth triangles are listed below as a reminder. We studied them closely in a previous commentary. |
85. Xin nhắc lại tam
giác thứ tư và thứ năm như một gợi nhớ.
Chúng ta đã học kỹ chúng trong một lời bình
trước đó. |
[170] |
[170] |
4. Man partially controlled by the Ego, advanced man. |
4. Con người phần nào bị Chân ngã
kiểm soát, người tiến hoá. |
a. The heart. |
a. Trái tim. |
b. The throat. |
b. Cổ họng. |
c. The head, i.e., the four lesser centres and their synthesis, the alta centre. |
c. Đầu, tức bốn trung tâm nhỏ
hơn và sự tổng hợp của chúng, trung tâm alta. |
86. As a reminder, the term “advanced man” usually (but not always) takes us to the portal of the first initiation. The phase of “spiritual man” begins at the first degree. |
86. Xin nhắc rằng thuật
ngữ “người tiến hoá” thường (nhưng
không luôn luôn) đưa chúng ta tới tiền môn của lần
điểm đạo thứ nhất. Pha “con người
tinh thần” khởi đầu ở bậc thứ nhất. |
87. We have to be careful about any rigid interpretation of such terms. They have a certain elasticity and will mean different things in different contexts. |
87. Chúng ta phải thận
trọng với bất kỳ cách hiểu cứng nhắc
nào về những thuật ngữ như vậy. Chúng có
độ co giãn nhất định và sẽ có nghĩa
khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. |
5. Spiritual man to the third Initiation. |
5. Con người tinh thần đến lần
Điểm đạo thứ ba. |
a. The heart. |
a. Trái tim. |
b. The throat. |
b. Cổ họng. |
c. The seven head centres. |
c. Bảy trung tâm ở đầu. |
88. The fivefold scheme we have been studying has many gaps. Only the most general phases of unfoldment are considered. If we wish to understand the interim stages of unfoldment we shall have to add a number of triangles. |
88. Sơ đồ
ngũ phân mà chúng ta đang học có nhiều khoảng trống.
Chỉ những pha tổng quát nhất của sự khai
mở được xét đến. Nếu muốn hiểu
các giai đoạn trung gian của sự khai mở, chúng
ta sẽ phải thêm một số tam giác. |
89. In the following paragraphs is presented teaching of great importance. It is abstruse and difficult to understand and we shall have to proceed carefully. |
89. Ở các đoạn
sau, giáo lý có tầm quan trọng lớn được
trình bày. Nó thâm áo và khó hiểu, và chúng ta sẽ phải tiến
bước cẩn trọng. |
Under the regime of the Personality Ray, the man proceeds upon the five Rays to work consciously with Mind, the sixth sense, passing first upon the four minor Rays and eventually upon the third. |
Dưới chế độ của Cung
phàm ngã, con người tiến hành trên năm cung để
làm việc một cách ý thức với Thể trí, giác quan
thứ sáu, khởi sự trước tiên trên bốn Cung
phụ và rốt cuộc trên Cung thứ ba. |
90. The entire first period of man’s incarnational life is lives “under the regime of the Personality Ray”, even though it will take millions of years for the personality ray to emerge from latency to manifest potency. |
90. Toàn bộ giai đoạn
đầu trong chuỗi lâm phàm của con người là
những kiếp sống “dưới chế độ của
Cung phàm ngã”, dẫu sẽ mất hàng triệu năm để
cung phàm ngã từ tiềm ẩn đi tới biểu lộ
mạnh mẽ. |
91. The mental unit is, essentially, the seat of personality, and that unit exists even from the very earliest days—at individualization and following individualization. |
91. Đơn vị hạ
trí, về bản chất, là toạ vị của phàm ngã,
và đơn vị ấy đã hiện hữu ngay từ
những ngày sớm sủa—vào lúc biệt ngã hóa và sau biệt
ngã hóa. |
92. Questions arise concerning whether a primitive human being even has a personality or personality ray. It is possible for him to have a personality ray without having a demonstrable personality. |
92. Nảy sinh câu hỏi:
liệu một con người nguyên thủy thậm chí có
“phàm ngã” hay “cung phàm ngã” chăng. Có thể là y có một
cung phàm ngã mà chưa có một phàm ngã biểu lộ có thể
nhận ra. |
93. If we do not agree with the possibility just stated, we shall have to say that the “regime of the Personality Ray” begins much later in the evolutionary cycle, and that the many initial, primitive incarnations are lived under no major regime at all—or simply ‘under the regime of the three lunar vehicles’. |
93. Nếu chúng ta không
đồng ý với khả hữu vừa nêu, chúng ta sẽ
phải nói rằng “chế độ của Cung phàm ngã” bắt
đầu muộn hơn nhiều trong chu kỳ tiến
hóa, và nhiều kiếp sơ khởi, nguyên thủy
được sống dưới không một chế
độ chủ chốt nào cả—hoặc chỉ “dưới
chế độ của ba hiện thể âm nguyệt”. |
94. The questions to be answered are: “If a personality is not detectible, manifest or discernible, is there a personality ray, and if so, ‘where’ is it? In what ‘state’ does it exist? If it exists in a state of latency even in the life of primitive man, does it have any influence whatsoever in man’s development? |
94. Các câu hỏi cần
trả lời là: “Nếu một phàm ngã không thể nhận
biết, không biểu lộ hay không phân biệt được,
liệu có một cung phàm
ngã chăng, và nếu có, nó ‘ở đâu’? Nó tồn tại
trong ‘trạng thái’ nào? Nếu nó tồn tại ở trạng
thái tiềm ẩn ngay trong đời của người
nguyên thủy, liệu nó có chút ảnh hưởng nào trong
tiến trình phát triển của y chăng?” |
95. We are told that the Monad and probably the Ego do have slight conditioning power even in primitive days. Could this also be so of a latent, unexpressed personality ray? It is surely worthy pondering. |
95. Chúng ta được
dạy rằng Chân thần và có lẽ Chân ngã cũng có
năng lực điều kiện hoá nhẹ ngay trong những
ngày sơ khai. Liệu điều này có đúng với một
cung phàm ngã còn tiềm ẩn, chưa biểu lộ
chăng? Chắc chắn đáng để suy ngẫm. |
96. The personality is the Brahmic aspect of man. There are five Rays of Brahma (fourth, fifth, sixth and seventh, with the major Brahmic ray being the third which synthesizes the other four). |
96. Phàm ngã là phương
diện Brahmic nơi con người. Có năm Cung của
Brahma (bốn, năm, sáu và bảy, với cung Brahmic chủ
yếu là cung ba, vốn tổng hợp bốn cung kia). |
97. The early lives of man are lived upon the Rays of Attribute, the four minor rays. Eventually, the possibility arises to express through either a soul or personality on the third ray—but not until much later in the evolutionary process. |
97. Những kiếp đầu
tiên của con người được sống trên các
Cung Thuộc tính, tức bốn cung phụ. Rốt cuộc, nảy sinh
khả năng biểu lộ qua một linh hồn hay một
phàm ngã thuộc cung ba—nhưng không phải cho đến rất
muộn trong tiến trình tiến hoá. |
“During these earlier periods all human beings were conditioned by the four Rays of Attribute; both as souls and as incarnated persons they were upon one of these four rays. Towards the middle of the Atlantean cycle (untold millions of years ago) the influence of the third Ray of Active Intelligence became exceedingly potent. Certain of the advanced humanity of the period gradually found their way on to, or rather into, the stream of divine energy which we call the third ray. The possibility, therefore, of their becoming integrated personalities was for the first time recognised, and humanly recognised. Such an integration must ever precede conscious human initiation. (R&I 560) |
“ Trong những giai đoạn sớm hơn này, tất
cả con người đều được điều
kiện hoá bởi bốn Cung Thuộc tính; cả như
những linh hồn lẫn như những người
đang nhập thể, họ đều ở trên một
trong bốn cung này. Vào khoảng giữa chu kỳ Atlantis
(hàng triệu năm không thể đếm), ảnh hưởng
của Cung Trí Tuệ Linh Hoạt thứ ba trở nên cực
kỳ mãnh liệt. Một số người tiến bộ
của thời ấy dần dần
tìm được đường đi vào, hay đúng
hơn, vào dòng năng lượng thiêng liêng mà chúng ta gọi
là cung thứ ba. Bởi vậy, khả hữu để
họ trở thành những phàm ngã tích hợp lần đầu
tiên đã được nhận ra, và được nhận
ra theo cách nhân loại. Một sự tích hợp như thế
bao giờ cũng phải đi trước cuộc
điểm đạo nhân loại có ý thức. (R&I 560)
|
98. We can see that in the developmental process it is not possible to have any ray at any time. There is a sequence of unfoldment which gradually brings all the seven rays into prominence; this sequence moves from the Rays of Attribute towards the Rays of Aspect. Perhaps the sequence is even more linear (with respect to the personality), moving from the seventh ray towards the first in numerical order. |
98. Chúng ta có thể thấy
rằng trong tiến trình phát triển, không thể có bất kỳ cung nào vào bất kỳ thời điểm
nào. Có một trình tự khai mở dần dần
đưa cả bảy cung trở nên nổi bật;
trình tự này chuyển từ Các Cung Thuộc Tính sang Các
Cung Trạng Thái. Có lẽ trình tự ấy còn tuyến
tính hơn nữa (xét đối với phàm ngã), di chuyển
từ cung bảy về cung một theo thứ tự số
học. |
99. One cannot (at our stage of evolution) dogmatize about such things nor over-generalize. There does, however, seem to be a significant trend: the abstract rays (three, two and one) express at a later stage of evolution than the concrete rays (seven, six, five, four)—at least through the personality and soul. |
99. Ở giai đoạn
tiến hoá của chúng ta, không thể khẳng quyết một
cách giáo điều về những điều như thế,
cũng không thể khái quát hoá quá mức. Tuy nhiên, dường
như có một xu hướng đáng kể: các cung trừu
tượng (ba, hai và một) biểu lộ ở một
giai đoạn tiến hoá muộn hơn các cung cụ thể
(bảy, sáu, năm, bốn)—ít nhất là thông qua phàm ngã và
linh hồn. |
100. As
for the usual mental rays—five, four, one—perhaps there is also an ascending
sequence in their order of expression. |
100. Còn đối với
các cung thể trí thường gặp—năm, bốn, một—có
lẽ cũng có một trình tự thăng dần trong thứ
tự biểu lộ của chúng. |
He works [176] upon the third Ray, or that of active Intelligence, and
from thence proceeds to one of the subrays of the two other major Rays, if
the third is not his egoic Ray. |
Y làm việc trên cung ba, hay còn gọi là cung của Trí tuệ Linh hoạt, và từ đó tiến đến một trong các cung phụ của hai cung chính khác, nếu cung ba không phải là cung linh hồn của y. |
101. After
working upon the Rays of Attribute, most men will move onto the third ray
personality unless the third ray is the egoic ray. |
101. Sau khi đã làm việc
trên các Cung Thuộc Tính, phần lớn con người sẽ
chuyển sang phàm ngã cung ba, trừ khi cung ba là cung linh hồn
của họ. |
102. Those
who do not have the third ray Ego can have the third ray personality as they
enter the stage of aspirant. Work upon a second or first ray personality
follows work upon the third. |
102. Những người
không có linh hồn cung ba có thể có phàm ngã cung ba khi họ
bước vào giai đoạn người chí nguyện.
Công việc trên phàm ngã cung hai hoặc cung một sẽ tiếp
nối sau công việc trên cung ba. |
103. It
would seem that at this stage of development, those with a second ray soul
may have a personality upon the first or third rays; those with a first ray
soul may have a personality upon the second or third rays; those with a third
ray soul may have personalities upon the first or second rays. In all these
cases, the personality will be upon the first or second rays only if one has
reached the stage of aspirant or moved beyond that stage. |
103. Có vẻ như ở
giai đoạn phát triển này, những người có
linh hồn cung hai có thể có phàm ngã thuộc cung một
hoặc cung ba; những người có linh hồn cung một
có thể có phàm ngã thuộc cung hai hoặc cung ba; những
người có linh hồn cung ba có thể có phàm ngã thuộc
cung một hoặc cung hai. Trong tất cả các trường
hợp này, phàm ngã sẽ thuộc cung một hoặc hai chỉ
khi người đó đã đạt đến giai
đoạn người chí nguyện hoặc đã vượt
qua giai đoạn đó. |
104. The
phrase, “One of the subrays of the two other major Rays”, indicates (in this
context) either a first or second ray personality, as the personality ray is,
indeed, a subray of the egoic ray. |
104. Cụm từ “một
trong các cung phụ của hai Cung chính khác” trong ngữ cảnh
này ám chỉ phàm ngã thuộc cung một hoặc cung hai, vì
cung phàm ngã thực ra là một cung phụ của cung linh hồn. |
105. We
can interpret the general sense of this section as meaning that if a man has
a third ray Ego, he will not work with a third ray personality (and from
thence move to a second or first ray personality). This is not to say that he
cannot move to a second or first ray personality as he becomes an aspirant,
but simply that this movement will not take place following work with a third
ray personality. Apparently, at this stage of development, we will not see
the third ray as both the egoic ray and the ray of the personality. |
105. Chúng ta có thể hiểu
ý nghĩa chung của phần này là: nếu một người
có linh hồn cung ba, y sẽ không làm việc với một
phàm ngã cung ba (và từ đó chuyển sang phàm ngã cung hai hoặc
một). Điều này không có nghĩa là y không thể chuyển
sang phàm ngã cung hai hoặc cung một khi trở thành người
chí nguyện, mà đơn giản là sự chuyển đổi
đó sẽ không xảy ra sau khi làm việc với phàm ngã
cung ba. Rõ ràng, ở giai đoạn phát triển này, chúng ta
sẽ không thấy trường hợp cung ba vừa là
cung linh hồn vừa là cung phàm ngã. |
106. We
are speaking about a time of transference from work “under the regime of the
Personality Ray” to work under the Soul Ray. At this time it is highly
unlikely that the personality ray will be the same as the soul ray. Only one
hypothetical example of a disciple having the same personality and soul ray
is discussed in the teaching (cf. EP II 354), though it is suggested that
those on a given soul ray may have any kind of personality ray. The odds,
however, are against it. None of the some fifty disciples personally trained
by the Tibetan had the same soul and personality ray. |
106. Chúng ta đang nói
đến thời điểm chuyển tiếp từ
công việc “dưới chế độ của cung phàm
ngã” sang công việc dưới sự hướng dẫn
của cung linh hồn. Ở thời điểm này, rất
hiếm khi cung phàm ngã lại trùng với cung linh hồn.
Chỉ có một ví dụ giả định về một
đệ tử có cùng cung phàm ngã và cung linh hồn
được bàn đến trong giáo huấn (xem EP II
354), dù có gợi ý rằng những người có một
cung linh hồn nhất định có thể có bất kỳ
loại cung phàm ngã nào. Tuy nhiên, khả năng này rất thấp.
Trong số khoảng năm mươi đệ tử
được Chân sư Tây Tạng trực tiếp huấn
luyện, không ai có cùng cung linh hồn và cung phàm ngã. |
107. In
general we can consider the “regime of the Personality Ray” as the entire
first part of evolution, with the caveat given above—i.e., that personality
development depends, really, upon mental development, and that the
personality ray emerges only later in the course of evolution. |
107. Nhìn chung, chúng ta có thể
xem “chế độ của cung phàm ngã” là toàn bộ phần
đầu tiên của quá trình tiến hóa, với lưu ý
như đã nêu ở trên—nghĩa là sự phát triển của
phàm ngã thực sự phụ thuộc vào sự phát triển
trí tuệ, và cung phàm ngã chỉ xuất hiện về sau
trong tiến trình tiến hóa. |
108. The
rays of Brahma [three, four, five, six, seven] are most important when “under
the regime of the Personality Ray”. |
108. Các cung của Brahma
[ba, bốn, năm, sáu, bảy] là quan trọng nhất khi
“dưới chế độ của cung phàm ngã”. |
109. One
can have a first ray mind even if one is not a first ray personality, for
only an aspirant can have a first or second ray personality.” |
109. Một người
có thể có thể trí cung một ngay cả khi y không có
phàm ngã cung một, vì chỉ một người chí nguyện
mới có thể có phàm ngã cung một hoặc hai. |
“The
Personality ray is always one of the five rays (the minor four and the third
ray) until a man becomes an aspirant when it can be any of the seven.”
(Extract from an Unpublished Paper). |
“Cung phàm ngã luôn là một
trong năm cung (bốn cung phụ và cung ba) cho đến
khi một người trở thành người chí nguyện,
lúc đó nó có thể là bất kỳ trong bảy cung.”
(Trích từ một tài liệu chưa được xuất
bản). |
110. Work
upon the personality ray proceeds, we may hypothesize, until the first
successful attempts to reverse of the wheel (i.e., to respond to the
principles and energies of the soul). This occurs during the later part of
the Mutable Cross followed by entry into the Kingdom of Souls upon the Fixed
Cross. |
110. Công việc trên cung
phàm ngã, theo giả thuyết, sẽ tiếp tục cho
đến những nỗ lực đầu tiên thành công
trong việc xoay ngược bánh xe (nghĩa là bắt
đầu đáp ứng với các nguyên khí và năng
lượng của linh hồn). Điều này xảy ra
trong phần sau của Thập Giá Biến Đổi, sau
đó là bước vào Thiên Giới Linh Hồn trên Thập
Giá Cố Định. |
111. When
will a soul upon a Ray of Attribute change to a soul ray which is a Ray of
Aspect (one, two or three)? |
111. Khi nào một linh hồn
thuộc Cung Thuộc Tính sẽ chuyển sang cung linh hồn
là một Cung Trạng Thái (một, hai hoặc ba)? |
112. There
may be much debate upon this question. If a disciple has a third, second or
first ray soul there has definitely been a transference somewhere in the
course of evolutionary development because all souls are initially focussed
on the fourth, fifth, sixth or seventh rays. |
112. Câu hỏi này có thể
gây nhiều tranh luận. Nếu một đệ tử
có linh hồn cung ba, hai hoặc một, thì chắc chắn
đã có một sự chuyển đổi nào đó trong
tiến trình phát triển tiến hóa, vì tất cả các
linh hồn ban đầu đều tập trung vào cung bốn,
năm, sáu hoặc bảy. |
“Every
human being, in the earlier stages of his development (in ancient Lemuria and
Atlantis, or possessing [559] today the Lemurian or Atlantean state of
consciousness—and there are many such), comes into incarnation [a single
incarnation?] upon one of the four Rays of Attribute, because these rays are
peculiarly and uniquely related to the fourth kingdom in nature, and
therefore to the fourth Creative Hierarchy.” (R&I 558-559) |
Mỗi con người,
trong những giai đoạn đầu của tiến
trình phát triển của y (trong thời Lemuria và Atlantis cổ
đại, hoặc hiện nay vẫn còn đang sở hữu
trạng thái tâm thức Lemuria hoặc Atlantean—và hiện
nay vẫn còn nhiều người như vậy), bước
vào sự nhập thể trên một trong bốn Cung Thuộc
Tính, vì các cung này có mối liên hệ đặc biệt và
duy nhất với giới thứ tư trong thiên nhiên, và
do đó, với Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư.
(R&I 558–559) |
“During
these earlier periods all human beings were conditioned by the four Rays of
Attribute; both as souls and as incarnated persons they were upon one of
these four rays. Towards the middle of the Atlantean cycle (untold millions
of years ago) the influence of the third Ray of Active Intelligence became
exceedingly potent. Certain of the advanced humanity of the period gradually
found their way on to, or rather into, the stream of divine energy which we
call the third ray. [Perhaps in either their soul or personality nature] The
possibility, therefore, of their becoming integrated personalities was for
the first time recognised, and humanly recognised. Such an integration must ever precede
conscious human initiation.” (R&I 560) |
Trong những thời kỳ
đầu tiên này, toàn thể nhân loại đều bị
chi phối bởi bốn Cung Thuộc Tính; cả với
tư cách là linh hồn lẫn với tư cách là người
nhập thể, họ đều ở trên một trong bốn
cung này. Vào khoảng giữa chu kỳ Atlantean (cách đây
hàng triệu năm không đếm xuể), ảnh hưởng
của Cung ba—Cung Trí tuệ Linh hoạt—trở nên vô cùng mạnh
mẽ. Một số người trong nhân loại tiến
hóa cao của thời kỳ ấy dần dần
tìm ra con đường để hướng tới,
hay đúng hơn là nhập vào, dòng năng lượng
thiêng liêng mà chúng ta gọi là cung ba. Do đó, khả
năng trở thành những phàm ngã tích hợp lần
đầu tiên được nhận biết—và
được nhận biết một cách nhân loại. Một
sự tích hợp như thế luôn luôn
phải có trước khi có điểm đạo nhân loại
một cách ý thức. (R&I 560) |
113. To
become an integrated personality requires both the labors of the soul and the
labors of the personality. |
113. Để trở
thành một phàm ngã tích hợp đòi hỏi cả công việc
của linh hồn lẫn công việc của phàm ngã. |
114. Some
might suggest that only when one approaches the second initiation is it
possible to change soul rays. Two of DK’s disciples were in process of such a
change (perhaps, three) and one of them was definitely a candidate for the
second initiation. |
114. Một số người
có thể cho rằng chỉ khi một người tiến
gần đến lần điểm đạo thứ
hai thì mới có khả năng thay đổi cung linh hồn.
Hai trong số các đệ tử của Chân sư DK
đang trong tiến trình thay đổi như vậy (có lẽ
là ba), và một người trong số họ rõ ràng là một
ứng viên cho lần điểm đạo thứ hai. |
115. There
are problems with this point of view, however. One of the disciples with a
third ray soul had not even taken the first initiation. His soul ray was,
therefore, a Ray of Aspect, and it must have become so even before the first
initiation—necessarily. |
115. Tuy nhiên, quan điểm
này cũng có những vấn đề. Một trong các
đệ tử có linh hồn cung ba vẫn chưa đạt
đến lần điểm đạo thứ nhất.
Vì vậy, cung linh hồn của y là một Cung Trạng
Thái, và điều đó ắt hẳn đã xảy ra
trước cả lần điểm đạo thứ
nhất—một cách tất yếu. |
116. Almost
all of DK’s disciples had either first, second or third ray souls and almost
all of them were focussed between the first and second initiations—some
closer to the second degree than others. A number of them had been accepted
disciples for a few years. It would seem therefore that approach to the
second initiation was not the only time for the soul-ray change. Rather, the
entry into the period of aspiration would seem the time for such a change. |
116. Gần như tất
cả các đệ tử của Chân sư DK đều
có linh hồn thuộc cung một, hai hoặc ba, và hầu
hết họ đều đang tập trung vào khoảng
giữa lần điểm đạo thứ nhất và
thứ hai—một số thì gần với mức độ
thứ hai hơn. Nhiều người trong số họ
đã là đệ tử chính thức trong vài năm. Do
đó, dường như việc tiếp cận lần
điểm đạo thứ hai không phải là thời
điểm duy nhất để thay đổi cung linh hồn.
Thay vào đó, việc bước vào giai đoạn chí
nguyện có vẻ là thời điểm cho sự thay
đổi như vậy. |
117. We
read that a human being could have a first or second ray personality only if
he/she were an aspirant. This would mean that such a person would be treading
the Path of Probation even if only in the early stages. |
117. Chúng ta đọc
được rằng một con người chỉ có
thể có phàm ngã cung một hoặc cung hai nếu y là một
người chí nguyện. Điều này có nghĩa là
người đó đang bước trên Con Đường
Dự Bị, ngay cả khi chỉ mới ở giai đoạn
đầu tiên. |
118. It
may be that the possibility of changing soul rays would correlate with entry
upon the Path of Aspiration or Probation. Work upon a first or second ray
personality (the personality being always a subray of the soul) would
facilitate such a transference. A personality of a particular ray would
accustom the individual to the ray upon which his soul was preparing to
refocus. |
118. Có thể rằng khả
năng thay đổi cung linh hồn sẽ tương ứng
với việc bước lên Con Đường Chí Nguyện
hoặc Con Đường Dự Bị. Việc làm việc
trên một phàm ngã cung một hoặc cung hai (phàm ngã luôn là
cung phụ của linh hồn) sẽ hỗ trợ cho sự
chuyển đổi như vậy. Một phàm ngã thuộc
một cung nhất định sẽ giúp người
đó làm quen với cung mà linh hồn y đang chuẩn bị
tái tập trung. |
119. Work
upon a third ray personality would come earlier than personality work upon
the first or second, but such work would, it seems, facilitate a transference
to a third ray soul. |
119. Việc làm việc
trên phàm ngã cung ba sẽ diễn ra sớm hơn so với
việc làm việc trên cung một hoặc cung hai, nhưng
công việc như vậy có vẻ như sẽ hỗ trợ
cho sự chuyển đổi sang linh hồn cung ba. |
120. It
is as if one must become accustomed to the energy of the Rays of Attribute on
a more concrete and material level before the soul can refocus on one of
those higher rays. |
120. Cứ như thể
một người phải làm quen với năng lượng
của các Cung Thuộc Tính ở cấp độ cụ
thể và vật chất hơn trước khi linh hồn
có thể tái tập trung vào một trong những cung cao
hơn đó. |
121. The
Christ waited perhaps a millions years, maybe more between the third degree
(taken perhaps in the fourth subrace of the fourth root race, but definitely
taken in Atlantis) and fourth degree taken in relatively recent Aryan times.
It is reasonable to consider that the Christ took the fourth degree as
Krishna, given the sacrificial life of that great Teacher. |
121. Đức Christ có lẽ
đã chờ đợi hàng triệu năm, có thể còn
lâu hơn nữa, giữa lần điểm đạo
thứ ba (có thể đã diễn ra trong giống dân phụ
thứ tư của giống dân gốc thứ tư,
nhưng chắc chắn là ở Atlantis) và lần điểm
đạo thứ tư diễn ra trong thời kỳ Arya
khá gần đây. Có lý khi cho rằng Đức Christ
đã thực hiện lần điểm đạo thứ
tư dưới hình hài Krishna, xét đến đời sống
hy sinh của vị Đại Huấn Sư ấy. |
122. Different
types of developments occur as one approaches the second degree and at the
second degree. The will overcomes desire, and the Monad begins to have a
consciously registered effect. |
122. Những dạng phát
triển khác nhau sẽ xuất hiện khi một người
tiến gần đến cấp điểm đạo
thứ hai và ở chính cấp điểm đạo
đó. Ý chí sẽ chế ngự dục vọng, và Chân thần
bắt đầu tạo ra ảnh hưởng được
ý thức ghi nhận. |
123. It
may be that it is the effect of the Monad upon the soul ray that causes the
soul ray to change (if the change has not changed before that time). We
remember that the sense of monadic destiny is felt in the soul even at the
first degree, so monadic influence has a significant soul impact during the
period in which we hypothesized a possible change of soul rays (which is
also, more or less, the period when a change to one of the first two
personality rays—ray one and ray two—can, according to law, appear). |
123. Có thể rằng
chính ảnh hưởng của Chân thần lên cung linh hồn
là điều khiến cho cung linh hồn thay đổi (nếu
sự thay đổi đó chưa xảy ra trước
thời điểm đó). Chúng ta nhớ rằng cảm
nhận về định mệnh chân thần đã
được cảm nhận trong linh hồn ngay cả
tại lần điểm đạo thứ nhất, do
đó ảnh hưởng của chân thần có tác động
lớn đến linh hồn trong thời kỳ mà chúng ta
giả định là có khả năng thay đổi cung
linh hồn (cũng là thời kỳ, ít nhiều, mà theo
định luật, có thể xảy ra sự thay đổi
sang một trong hai cung phàm ngã—cung một và cung hai). |
124. After
the second degree one may find oneself in the Ashram of a Master whose ray is
the same as one’s monadic ray. (LOM 267) |
124. Sau lần điểm
đạo thứ hai, một người có thể tìm thấy
mình đang ở trong Ashram của một vị Chân sư
có cung trùng với cung của chân thần mình. (LOM 267) |
125. The
change in the soul ray focus of the Christ (from the fourth ray soul to the
second) happened before he was Krishna, on the second ray. Christ took the
third initiation on the fourth ray with the Buddha, and naturally in a fourth
ray Ashram. Krishna was a most sensitive musician having had, we infer, long
experience on the fourth ray. The second ray is also a musical ray, Master
KH, on the second ray, is also master musician—an organist. Vishnu (the Second
Logos) sings the world into existence). |
125. Sự thay đổi
trọng tâm cung linh hồn của Đức Christ (từ
linh hồn cung bốn sang cung hai) đã xảy ra trước
khi Ngài là Krishna, ở cung hai. Đức Christ đã trải
qua lần điểm đạo thứ ba trên cung bốn
cùng với Đức Phật, và một cách tự nhiên là
trong một Ashram cung bốn. Krishna là một nhạc
sĩ rất nhạy cảm và chúng ta suy ra rằng Ngài
đã có trải nghiệm lâu dài trên cung bốn. Cung hai
cũng là cung của âm nhạc, Chân sư KH, thuộc cung
hai, cũng là một nhạc sĩ bậc thầy—một
nghệ sĩ đàn organ. Vishnu (Thái Dương Thượng
Đế thứ hai) hát và thế giới đi vào hiện
tồn. |
126. We
can eliminate the hypothesis that soul ray changes occur only as one
approaches the second degree because, if so, between the first degree and the
approach to the second degree, all souls would have to be fourth, fifth,
sixth and seventh ray souls. Since in the Tibetan’s groups, the great
majority of disciples were positioned between the first and second degree,
with a few for whom the second degree was imminent, and since almost all of
them had for a soul ray a Ray of Aspect, we see the impossibility of the
hypothesis. The change of soul ray must necessarily have occurred earlier,
and perhaps quite a bit earlier. |
126. Chúng ta có thể loại
trừ giả thuyết rằng việc thay đổi
cung linh hồn chỉ xảy ra khi một người tiến
gần đến lần điểm đạo thứ
hai, bởi vì nếu như vậy thì giữa lần
điểm đạo thứ nhất và sự tiếp cận
lần điểm đạo thứ hai, tất cả
các linh hồn đều phải là linh hồn cung bốn,
năm, sáu và bảy. Vì trong các nhóm của Chân sư Tây Tạng,
phần lớn các đệ tử đều nằm
trong khoảng giữa lần điểm đạo thứ
nhất và thứ hai, với một số ít đang cận
kề lần điểm đạo thứ hai, và vì gần
như tất cả họ đều có linh hồn thuộc
Cung Trạng Thái, nên ta thấy giả thuyết đó là bất
khả thi. Việc thay đổi cung linh hồn ắt hẳn
đã xảy ra sớm hơn, và có lẽ là sớm hơn
khá nhiều. |
127. Souls
on the fourth and sixth rays go to the third ray and second but must be
developing the quality of intelligence in order to do so. The later stages of
the Mutable Cross do, however, see a significant growth in intelligence. |
127. Những linh hồn
thuộc cung bốn và sáu sẽ chuyển sang cung ba và hai
nhưng cần phải phát triển phẩm tính trí tuệ
để có thể làm như vậy. Tuy nhiên, các giai
đoạn sau của Thập Giá Biến Đổi thực
sự cho thấy một sự tăng trưởng
đáng kể về trí tuệ. |
128. In
group discussion it was proposed to correlate: yellow, sacrifice, the
sacrifice petals, the fourth ray and the Moon. |
128. Trong buổi thảo
luận nhóm, đã có đề xuất liên hệ màu vàng,
sự hy sinh, các cánh hoa hi sinh, cung bốn và Mặt
Trăng. |
129. It
was also proposed that the taking of initiation may have to do with soul
cycles and with the needs of the historical period. There is no hard and fast
way to determine when a given initiation will be taken or what may be the
interval between initiations. It can be noted, however, that there seems to
be a rather rapid acceleration between ascending initiations (not including
the sixth and seventh). The interval is shortening. |
129. Cũng có đề
xuất rằng việc điểm đạo có thể
liên quan đến các chu kỳ linh hồn và nhu cầu của
thời đại lịch sử. Không có cách nào cứng
nhắc và rõ ràng để xác định một lần
điểm đạo sẽ diễn ra khi nào hoặc khoảng
cách giữa các lần điểm đạo là bao lâu. Tuy
nhiên, có thể lưu ý rằng dường như có sự
tăng tốc khá nhanh giữa các lần điểm đạo
tiến lên (không bao gồm lần thứ sáu và thứ bảy).
Khoảng cách giữa các lần điểm đạo
đang ngắn lại. |
130. Some
interesting points emerge from considering cycle of ray development: |
130. Một số điểm
thú vị xuất hiện khi xét đến chu kỳ phát
triển cung: |
a. We
may reasonably make the inference that, even today, the majority of souls are
on the fourth, fifth, sixth or seventh rays, because the majority of souls
are not yet intelligent (i.e., not yet even mentally focussed). |
a. Chúng ta có thể suy luận
một cách hợp lý rằng, ngay cả hiện nay, phần
lớn các linh hồn đang ở trên cung bốn, năm,
sáu hoặc bảy, vì phần lớn các linh hồn vẫn
chưa thông tuệ (tức là, chưa có sự tập
trung trí tuệ thực sự). |
b. Third
ray is often the personality ray in the period preceding the first
initiation. Whether or not the personality ray is likely to be third in the
incarnation during which the first initiation is taken is not a certainty.
Some references suggest the prominence of the first ray. |
b. Cung ba thường là
cung phàm ngã trong giai đoạn trước lần điểm
đạo thứ nhất. Tuy nhiên, việc cung phàm ngã có
chắc chắn sẽ là cung ba trong kiếp nhập thể
mà lần điểm đạo thứ nhất được
thực hiện hay không thì chưa thể khẳng định.
Một số tài liệu tham khảo gợi ý rằng cung
một cũng có thể nổi bật. |
c. Point
to make: the majority of people on this planet being astrally polarized must
also, necessarily, be on the fourth, fifth, sixth, or seventh rays in their
soul nature—not only in their personality nature. |
c. Một điểm cần
nhấn mạnh: phần lớn nhân loại trên hành tinh
này đang phân cực cảm xúc, và do đó, tất yếu,
có linh hồn trên cung bốn, năm, sáu hoặc bảy—không
chỉ trong cung phàm ngã mà cả trong cung linh hồn. |
d. The
majority of human beings today have third or sixth ray personalities. But let
us remember that to have a third ray personality, one must be cultivating
intelligence. Yet, the majority are far from this stage. This would mean that
there must be a great number of sixth ray personalities among average human
beings. |
d. Hiện nay phần lớn
nhân loại có phàm ngã thuộc cung ba hoặc cung sáu.
Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng để có phàm ngã cung
ba, một người phải đang phát triển trí tuệ.
Tuy nhiên, phần lớn nhân loại vẫn còn xa giai đoạn
đó. Điều này có nghĩa là có lẽ phải có một
số lượng rất lớn phàm ngã cung sáu trong số
những con người trung bình. |
“At
this time there are a vast number of souls in incarnation whose personality
rays are either the sixth or the third. (DON 31)” |
“Hiện nay có một số
lượng lớn các linh hồn đang nhập thể
mà cung phàm ngã của họ là cung sáu hoặc cung ba.” (DON 31) |
Perhaps,
however, we should not generalize about other periods in planetary
development. While is certain that the fourth, fifth, sixth or seventh ray
personalities will predominate, it is not certain the sixth ray personalities
will be in the greatest number over all and irrespective of the historical
period in question. |
Tuy nhiên, có lẽ chúng ta
không nên khái quát về các thời kỳ khác trong quá trình
phát triển hành tinh. Mặc dù chắc chắn rằng
phàm ngã cung bốn, năm, sáu hoặc bảy sẽ chiếm
ưu thế, nhưng không chắc rằng phàm ngã cung sáu sẽ
là đông nhất trong mọi thời kỳ, bất kể
thời đại lịch sử đang xét là gì. |
e. It
was suggested that with the approach to the first initiation, on the earlier
Path of Probation, the possibility of transferring to a third ray soul
emerges. |
e. Có gợi ý rằng khi
tiếp cận lần điểm đạo thứ nhất,
trên Con Đường Dự Bị, khả năng chuyển
sang linh hồn cung ba sẽ xuất hiện. |
f.
With the approach to the first degree, the third ray personality also
emerges, as we have seen in the references. |
f. Khi tiếp cận lần
điểm đạo thứ nhất, phàm ngã cung ba
cũng xuất hiện, như chúng ta đã thấy trong
các tài liệu tham khảo. |
g.
When one becomes more intelligent one can have a third ray personality. |
g. Khi một người
trở nên thông minh hơn, y có thể có phàm ngã cung ba. |
h. The
third ray is the synthesizing ray through which to enter expression upon the
second and first rays. |
h. Cung ba là cung tổng hợp
giúp biểu lộ qua cung hai và cung một. |
i. The
Monad begins at the first degree to impact the soul—so, at that time it may
be possible to change soul rays (at the first degree). |
i. Chân thần bắt
đầu ảnh hưởng đến linh hồn từ
lần điểm đạo thứ nhất—do đó, tại
thời điểm đó có thể xảy ra sự thay
đổi cung linh hồn (ngay tại lần điểm
đạo thứ nhất). |
131. If
the disciple ISGL had written the book on Shamballa (bringing his
hypothesized first ray monad into fuller expression) his sixth ray soul could
have changed to the second ray which, apparently, it did not fully do in that
incarnation. |
131. Nếu đệ tử
ISGL đã viết quyển sách về Shamballa (nhằm
đưa chân thần cung một được giả
định của y vào biểu lộ trọn vẹn
hơn) thì linh hồn cung sáu của y đã có thể chuyển
sang cung hai, điều mà rõ ràng là chưa thực sự diễn
ra trong kiếp sống đó. |
Enquiry
might naturally arise as to whether the egoic ray is necessarily one of the
three major rays, |
Câu hỏi có thể tự
nhiên nảy sinh: liệu cung linh hồn có nhất thiết
phải là một trong ba cung chính không? |
132. Because
there are seven methods of destroying the causal body (according to the ray
of the soul) it is quite clear that even advanced Egos can be found on the
Rays of Attribute, not only on the three major rays. |
132. Bởi vì có bảy
phương pháp tiêu hủy thể nhân quả (tùy theo cung
linh hồn), điều đó cho thấy rõ ràng rằng
ngay cả những Chân ngã tiến hóa cao cũng có thể
thuộc về các Cung Thuộc Tính, không chỉ ba cung
chính. |
and if
Initiates and Masters are not to be found upon some of the rays of mind, the
minor four. |
Và liệu các điểm
đạo đồ và các Chân sư có thể không hiện
diện trên một số cung của trí tuệ, tức bốn
cung phụ? |
133. One
is an initiate (though an advanced one) even at the fourth degree, but a
Master is rather rarely called an initiate (though, of course, he is one). |
133. Một người vẫn
là điểm đạo đồ (dù là một điểm
đạo đồ cao cấp) ngay cả ở cấp
độ thứ tư, nhưng một Chân sư thì khá hiếm
khi được gọi là một điểm đạo
đồ (dù dĩ nhiên Ngài cũng là một điểm
đạo đồ). |
134. Further,
for Masters the monadic ray has become significant. The growth of the
influence of the monadic ray began in a focal manner at the third degree and
is potent by the time the fifth degree is taken and one becomes a Master. |
134. Hơn nữa, đối
với các Chân sư, cung chân thần đã trở nên quan
trọng. Ảnh hưởng của cung chân thần bắt
đầu tăng trưởng một cách trọng tâm từ
lần điểm đạo thứ ba và trở nên mạnh
mẽ vào thời điểm đạt đến cấp
độ thứ năm và trở thành một Chân sư. |
The
answer lies here: The egoic ray can always be one of the seven, |
Câu trả lời nằm
ở đây: cung linh hồn có thể là bất kỳ
trong bảy cung, |
135. This
is clear from many references. |
135. Điều này
được xác nhận từ nhiều tài liệu tham
khảo. |
but we
need to remember that, in this astral-buddhic solar system, wherein love and
wisdom are being brought into objectivity, the bulk of the monads are on the
love-wisdom ray. |
Nhưng chúng ta cần nhớ
rằng, trong Thái dương hệ cảm dục–bồ
đề này, nơi tình thương và minh triết
đang được biểu lộ ra thành hình tướng,
phần lớn các Chân thần thuộc cung Bác Ái–Minh Triết. |
136. This
statement needs examination. We have to remember that we are speaking about
the solar system and not the planet. |
136. Tuyên bố này cần
được khảo sát. Chúng ta phải nhớ rằng
chúng ta đang nói đến Thái dương hệ chứ
không phải hành tinh. |
137. When
speaking of the planet, the following reference from EP II is of importance: |
137. Khi nói đến hành
tinh, đoạn trích sau từ EP II là điều đáng
lưu ý: |
“Only
those units of life who are coloured predominantly
by the third ray of activity pass for any length of time through these three
schemes. A hint is here conveyed as to the prevalence of third ray Monads
among the sons of men. The ray of active intelligence, expressing itself
through the seven ray types, is above everything else the ray upon which the
majority of human monads will, particularly, at this time, be found. We
shall, therefore, find the following psychological types colouring
the bulk of our humanity, and the ray of active intelligence expressing
itself through |
“Chỉ những
đơn vị sự sống nào có màu sắc chủ
đạo là cung ba của hoạt động mới trải
qua ba hệ hành tinh này trong một khoảng thời gian
dài. Một gợi ý được đưa ra ở
đây về sự phổ biến của các Chân thần
cung ba trong số những người con của nhân loại.
Cung Trí tuệ Linh hoạt, biểu lộ qua bảy loại
cung, vượt lên trên tất cả các cung khác chính là cung
mà phần lớn các Chân thần nhân loại sẽ
được tìm thấy vào thời điểm hiện
tại. Do đó, chúng ta sẽ thấy các loại hình tâm
lý sau đây đang tô điểm phần lớn nhân loại,
và cung Trí tuệ Linh hoạt được biểu lộ
qua: |
1.
Will, evoking divine purpose. |
1. Ý chí, khơi dậy
Thiên Ý. |
2.
Love, expressing divine quality. |
2. Tình thương, biểu
lộ phẩm tính thiêng liêng. |
3.
Intellect, as the reflector of the Intuition. |
3. Trí tuệ, phản ánh
Trực giác. |
4.
Conflict, producing harmony. |
4. Xung đột, tạo
ra hài hòa. |
5.
Knowledge or science, leading to radiance. |
5. Tri thức hoặc khoa
học, dẫn đến hào quang. |
6.
Idealism, establishing the divine pattern. |
6. Lý tưởng, xác lập
mô hình thiêng liêng. |
7.
Ritual or organisation, manifesting Deity. (EP II 101) |
7. Nghi lễ hoặc tổ
chức, biểu lộ Thượng đế.” (EP II 101) |
138. In
this tabulation, we are speaking of third ray Monads expressing themselves
through souls on all the seven rays. |
138. Trong bảng tổng
hợp này, chúng ta đang nói đến các Chân thần cung
ba biểu lộ thông qua các linh hồn trên cả bảy
cung. |
139. There
is some problem in considering that the majority of human Monads will be
found upon the third ray, for the majority of Earth-chain humanity expresses
the second ray Monad, and it would seem that on this chain, Earth-chain
humanity is in the majority, with intelligent Moon-chain humanity making up
only a rather small percentage (perhaps twenty percent at the most). |
139. Có một số vấn
đề khi cho rằng phần lớn các Chân thần
nhân loại thuộc cung ba, bởi vì phần lớn nhân
loại thuộc Dãy Hành tinh Địa cầu biểu lộ
qua Chân thần cung hai, và dường như trong Dãy Địa
cầu này, nhân loại Địa cầu chiếm đa số,
còn nhân loại thuộc Dãy Mặt Trăng, vốn thông
minh hơn, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ
(có lẽ nhiều nhất là hai mươi phần
trăm). |
140. We
could attempt to understand the assertion by thinking of the monadic types to
be found on different globes and chains. Perhaps, the third ray types are in
the majority within the Earth-scheme, but not necessarily upon the
Earth-chain. |
140. Chúng ta có thể cố
gắng hiểu lời khẳng định này bằng
cách suy xét các loại Chân thần có mặt trên những bầu
hành tinh và dãy hành tinh khác nhau. Có thể, các loại cung ba
chiếm đa số trong toàn Hệ Địa cầu,
nhưng không nhất thiết là trong Dãy Hành tinh Địa
cầu. |
141. In
any case, on our globe at this time, astrally polarized humanity (who is far
more likely to be Earth-chain humanity than Moon-chain humanity) far
outnumbers the mentally polarized types (who probably came in the majority of
cases from the Moon-chain.) |
141. Dù thế nào đi nữa,
trên bầu hành tinh của chúng ta hiện nay, nhân loại
phân cực cảm dục (rất có khả năng thuộc
Dãy Địa cầu nhiều hơn là Dãy Mặt
Trăng) đông hơn hẳn các loại phân cực trí tuệ
(những người này phần nhiều có nguồn gốc
từ Dãy Mặt Trăng). |
142. We
have then: |
142. Vậy thì, chúng ta có: |
a. The
majority of Monads in our solar system being on the second ray |
a. Phần lớn các Chân
thần trong Thái dương hệ của chúng ta thuộc
cung hai. |
b. The
majority of Monads (at this time) within the Earth-scheme focussed on the
third ray. |
b. Phần lớn các Chân
thần (ở thời điểm hiện tại) trong Hệ
Địa cầu tập trung vào cung ba. |
c. There
is an uncertain condition as regards the Earth-chain and our little globe,
but the exoteric numbers seem to point (overall) towards a greater number of
second ray monads than third. |
c. Có một tình trạng
không rõ ràng liên quan đến Dãy Địa cầu và bầu
hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng những dữ kiện
ngoại hiện dường như chỉ ra (về tổng
thể) rằng có nhiều Chân thần cung hai hơn cung
ba. |
The
fact, therefore, of its being the synthetic ray has a vast significance. This
is the system of the SON, whose name is Love. This is the divine incarnation
of Vishnu. |
Do đó, thực tế rằng
cung ba là cung tổng hợp mang ý nghĩa vô cùng to lớn.
Đây là hệ thống của ĐỨC CON, danh Ngài là
Tình Thương. Đây là cuộc nhập thể thiêng
liêng của Vishnu. |
143. We
are speaking of our Solar Logos in the role of Vishnu. This is His
Vishnu-Incarnation. |
143. Chúng ta đang nói
đến Thái Dương Thượng Đế của
chúng ta trong vai trò của Vishnu. Đây là Cuộc Nhập Thể
Vishnu của Ngài. |
The
Dragon of Wisdom is in manifestation, and He brings into incarnation those
cosmic Entities who are in essence identical with Himself. |
Con Rồng Minh Triết
đang biểu lộ, và Ngài mang vào nhập thể những
Thực Thể vũ trụ có bản chất đồng
nhất với Ngài. |
144. Our
Solar Logos has already achieved the stage of Dragon of Wisdom because He has
developed Divine Love. He is attempting to fulfill the title, “Lion of Cosmic
Will”. |
144. Thái Dương
Thượng Đế của chúng ta đã đạt
được giai đoạn Rồng Minh Triết vì Ngài
đã phát triển được Tình Thương Thiêng
Liêng. Ngài đang cố gắng hoàn thành danh hiệu “Sư
tử của Ý chí Vũ trụ”. |
145. Immediately
above we are given the justification for the attraction into our system of so
many second ray Monads. |
145. Ngay đoạn trên,
chúng ta đã được đưa ra lý do tại sao có
quá nhiều Chân thần cung hai được thu hút vào
Thái dương hệ của chúng ta. |
After
the third Initiation all human beings find themselves on their monadic ray, |
Sau lần điểm
đạo thứ ba, tất cả nhân loại đều
tìm thấy mình đang ở trên cung chân thần của
mình. |
146. What
do we mean by the words, “find themselves”? There is, indeed, a need for the
advancing initiate to find his monadic ray, and the experience of the third
initiation helps him do so. |
146. Ý nghĩa của cụm
từ “tìm thấy mình” là gì? Thật vậy, người
điểm đạo đang tiến hóa cần phải
tìm ra cung chân thần của y, và kinh nghiệm điểm
đạo lần ba giúp y làm được điều
đó. |
147. From
yet another perspective, it may be that if an individual really wishes to find
himself (that Self being none other than the Monad), he must do so upon the monadic
ray which leads directly into the monadic nature. |
147. Từ một góc nhìn
khác, có thể rằng nếu một cá nhân thật sự
muốn tìm ra chính mình (cái “Mình” đó không gì khác ngoài Chân thần),
y phải làm điều đó trên cung chân thần vốn
dẫn trực tiếp đến bản chất chân thần. |
148. Another
interpretation (and one that will to many appear most likely) suggests that
the monadic ray will simply become much more influential than before the
third degree, and will grow in power relative to the egoic ray—that after the
third initiation, the monadic ray would be the major ray focus of the
individual. |
148. Một cách diễn giải
khác (và với nhiều người có thể là hợp lý
nhất) gợi ý rằng cung chân thần đơn giản
sẽ trở nên có ảnh hưởng mạnh hơn nhiều
so với trước lần điểm đạo thứ
ba, và sẽ tăng trưởng về quyền năng so
với cung linh hồn—rằng sau lần điểm đạo
thứ ba, cung chân thần sẽ trở thành tiêu điểm
chính của cá nhân ấy. |
149. If
we think carefully, we may realize that the fourth initiation may indicate a
point of balance between the two rays—monadic and soul/triadal (as these last
two are the same). We must remember that the egoic ray is still important
even for a Master for the ray of the spiritual triad is focal even for a
Master as that ray is still influential upon the atmic plane—the plane
whereon the Master is principally focussed. |
149. Nếu chúng ta suy
nghĩ cẩn trọng, chúng ta có thể nhận ra rằng
lần điểm đạo thứ tư có thể biểu
thị một điểm quân bình giữa hai cung—cung chân
thần và cung linh hồn/tam nguyên (vì hai cung sau thực chất
là một). Chúng ta phải nhớ rằng cung linh hồn vẫn
còn quan trọng ngay cả đối với một Chân
sư, vì cung của Tam nguyên Tinh thần vẫn là tiêu
điểm, kể cả đối với một Chân
sư, do cung đó vẫn ảnh hưởng trên cõi
atma—cõi mà vị Chân sư chủ yếu tập trung vào. |
on one
of the three major rays, |
trên một của ba cung
chính |
150. The
initiate finds himself majorly on one of the three major rays. He also finds
other monadic qualities within him, and these are of some importance. |
150. Người điểm
đạo thấy mình chủ yếu ở trên một
trong ba Cung Trạng Thái. Y cũng nhận ra các phẩm tính
chân thần khác trong chính mình, và những phẩm tính này
cũng có tầm quan trọng nhất định. |
151. A
true or major monadic ray is one of the three major rays—Rays of Aspect. |
151. Một cung chân thần
“thật” hay “chính” là một trong ba Cung Trạng Thái. |
…and
the fact that Masters and Initiates are found on all the [monadic] rays is
due to the following two factors: |
…thực tế rằng
các Chân sư và điểm đạo đồ được
tìm thấy trên tất cả các cung [chân thần] là do hai yếu
tố sau: |
152. We
were just speaking of Initiates and Masters “finding themselves” on one of
the three major rays monadically. |
152. Chúng ta vừa nói về
các điểm đạo đồ và Chân sư “tìm thấy
chính mình” trên một trong ba Cung Trạng Thái về
phương diện chân thần. |
153. Now
we are speaking of the Masters and Initiates finding themselves on all the
rays, monadically. |
153. Giờ đây chúng ta
đang nói đến việc các Chân sư và điểm
đạo đồ thấy mình hiện diện trên tất
cả các cung, về mặt chân thần. |
154. Masters
presumably are functioning largely on their monadic ray though their egoic
ray (which is the same as the triadal ray) is still influential. |
154. Có thể giả
định rằng các Chân sư chủ yếu hoạt
động trên cung chân thần của họ, dù cung linh hồn
của họ (tức cung của Tam nguyên tinh thần) vẫn
còn ảnh hưởng. |
155. DK
is accounting for the fact that Masters are found not only on three monadic
rays but on seven. |
155. Chân sư DK đang giải
thích vì sao các Chân sư không chỉ được tìm thấy
trên ba cung chân thần mà còn trên cả bảy. |
First.
Each major ray has its subrays, which correspond to all the seven. |
Thứ nhất. Mỗi
cung chính đều có các cung phụ tương ứng với
cả bảy cung. |
156. We
will suggest that the word “major” is being used in two ways—both occultly
blinding the student and stimulating the intuition. |
156. Chúng ta đề xuất
rằng từ “chính” (major) đang được sử dụng
theo hai cách—vừa che đậy người học một
cách huyền môn, vừa kích thích trực giác của họ. |
157. The
term “major ray” (as used here) may mean not only one of the three Rays of
Aspect, but also the monadic ray. |
157. Thuật ngữ “cung
chính” (major ray) như được dùng ở đây có thể
không chỉ nghĩa là một trong ba Cung Trạng Thái, mà
còn là cung chân thần. |
158. A
“major ray” can be considered one of the three Rays of Aspect, and each such
ray will have seven subrays (whether the “major ray” is an egoic ray or even
a monadic ray), for an egoic ray may also be one of the major rays and all
egoic rays have subrays. (cf. EP II 18, for the inference). These egoic
subrays will be found both on the plane of the Ego and on the plane whereon
the source of personality is focussed (the lower mental plane). |
158. Một “cung chính” có thể
được xem là một trong ba Cung Trạng Thái, và mỗi
cung như vậy sẽ có bảy cung phụ (dù “cung chính”
đó là cung linh hồn hay kể cả cung chân thần),
vì một cung linh hồn cũng có thể là một trong ba
cung chính và tất cả các cung linh hồn đều có
các cung phụ. (xem EP II 18 để suy luận). Các cung phụ
của linh hồn này sẽ được tìm thấy cả
trên cõi linh hồn lẫn cõi mà nguồn gốc của phàm
ngã tập trung—cõi hạ trí. |
159. The
same is true for the Monad. It will have one category of subray on its own
plane (the monadic plane) and one on a lower plane—the plane of the Ego. |
159. Điều
tương tự cũng đúng với Chân thần. Nó sẽ
có một loại cung phụ trên chính cõi của nó (cõi chân
thần) và một loại trên một cõi thấp
hơn—cõi linh hồn. |
160. What
we are saying is that rays one, two and three (as monadic rays—each of them
being a Ray of Aspect and all of them rays which define the “major” or
“primary” monadic ray) will each of them have seven possible subrays
corresponding to each of the seven rays. Only one of these subrays will be
prominent at any one time. |
160. Những gì chúng ta
đang nói là: cung một, hai và ba (trong vai trò là các cung chân
thần—mỗi cung đều là một Cung Trạng Thái
và tất cả đều định nghĩa cung chân thần
“chính” hay “chủ yếu”) thì mỗi cung sẽ có bảy
cung phụ tương ứng với bảy cung. Chỉ
một trong những cung phụ này sẽ nổi bật
vào một thời điểm nhất định. |
161. What
is further and definitely being suggested here is that the “major” monadic
ray of a human being has, on its own plane, a subray. The egoic ray of the
human being (which is focussed on a plane which is lower than monadic focus)
is a subray of the monadic ray but not the only subray. |
161. Điều tiếp
theo và rõ ràng được gợi ý ở đây là: cung
chân thần “chính” của một con người, trên chính
cõi của nó, có một cung phụ. Cung linh hồn của
con người (vốn tập trung trên một cõi thấp
hơn cung chân thần) là một cung phụ của cung
chân thần, nhưng không phải là cung phụ duy nhất. |
162. For
confirmation of the meaning of ‘major monadic ray’ as I am here using it, see
the following quotation: |
162. Để xác nhận
ý nghĩa của ‘cung chân thần chính’ như tôi đang sử
dụng ở đây, hãy xem trích dẫn sau: |
“In
connection with the use by the initiate of what we might call pure will, it
should be remembered that this pure will works into manifestation through one
or other of the three aspects of the Spiritual Triad. This activity is
determined by the major ray upon which the initiate finds himself, from the
angle of his monadic ray. Every spiritual man is upon one or another of the
three major rays, for the minor four rays of attribute are all eventually
absorbed into the third Ray of Active Intelligence. (R&I 310) |
Trong mối liên hệ với
việc sử dụng điều mà chúng ta có thể gọi
là ý chí thuần khiết bởi điểm đạo
đồ, cần nhớ rằng ý chí thuần khiết
này biểu lộ ra thông qua một trong ba phương diện
của Tam nguyên Tinh thần. Hoạt động này
được xác định bởi cung chính mà điểm
đạo đồ đó đang đứng, xét từ
góc độ cung chân thần của y. Mỗi con người
tinh thần đều ở trên một trong ba Cung Trạng
Thái, vì bốn Cung Thuộc Tính cuối cùng đều
được hấp thu vào Cung ba—Cung Trí tuệ Linh hoạt.
(R&I 310) |
163. Note
the term “spiritual man” which may related to the spiritual triad and to the
initiate after the third initiation. |
163. Hãy chú ý đến thuật
ngữ “con người tinh thần” có thể liên quan
đến tam nguyên tinh thần và đến điểm
đạo đồ sau lần điểm đạo thứ
ba. |
164. The
term “eventually” is important revealing the long period of evolution
required for this absorption of a Ray of Attribute into a Ray of Aspect. |
164. Từ “cuối cùng”
là từ quan trọng, cho thấy thời kỳ tiến
hóa lâu dài cần thiết cho quá trình hấp thu một Cung
Thuộc Tính vào một Cung Trạng Thái. |
Second.
Many of the guides of the race transfer from one ray to another as They are
needed, and as the work may require. |
Thứ hai. Nhiều vị
hướng đạo của nhân loại chuyển từ
cung này sang cung khác theo nhu cầu và theo công việc cần
thiết. |
165. The
guides of the race are Masters and Chohans |
165. Các vị hướng
đạo của nhân loại là các Chân sư và các Chohan. |
166. Chohans
function entirely upon their monadic ray and Masters very much so. |
166. Các Chohan hoạt động
hoàn toàn trên cung chân thần của các Ngài, và các Chân sư
cũng vậy, ở mức độ rất lớn. |
167. When
the “guides of the race” transfer from ray to ray, they are changing rays in
the realm of the monad, but do not change their major or “primary” monadic
ray (which remains the same throughout the aeon). |
167. Khi “các vị hướng
đạo của nhân loại” chuyển từ cung này sang
cung khác, họ đang thay đổi cung trong lĩnh vực
của chân thần, nhưng không thay đổi cung “chính”
hay “chủ yếu” của chân thần (cung này không thay
đổi trong suốt chu kỳ đại kiếp). |
“Forget
not, the primary ray of the Monad continues through the aeon.
It changes not.” (TWM 111) |
“Đừng quên rằng
cung chính của Chân thần kéo dài qua toàn bộ đại
kiếp. Nó không thay đổi.” (TWM 111) |
168. Watch
carefully this wording, for the monadic ray is often called the “primary
ray”, but the way the word “primary” is here used suggests that there is one
monadic ray which is “primary” and one monadic ray which is “secondary”. This
secondary monadic ray is, I propose, not the egoic ray. |
168. Hãy quan sát kỹ cách
diễn đạt này, vì cung chân thần thường
được gọi là “cung chính,” nhưng cách dùng từ
“chính” ở đây gợi ý rằng có một cung chân thần
là “chính” và một cung chân thần là “phụ”. Cung chân thần
phụ này, tôi đề xuất, không phải là cung linh hồn. |
169. So,
in terms of language, this summary applies: |
169. Vì thế, về mặt
ngôn ngữ, có thể tóm lược như sau: |
a. Man’s
monadic ray is man’s major ray, but there is also a major monadic ray. |
a. Cung chân thần của
con người là cung chính của con người, nhưng
cũng có một cung chân thần chủ yếu (major
monadic ray). |
b. Man’s
monadic ray is man’s primary ray (as is often called so), but there is also a
primary monadic ray. |
b. Cung chân thần của
con người là cung chính (primary ray) của con người
(thường được gọi như vậy),
nhưng cũng có một cung chân thần “chủ yếu”
(primary monadic ray). |
When one of the
Masters or Initiates is transferred it causes a complete re-adjustment. |
Khi một trong các Chân sư hoặc điểm đạo đồ được chuyển đổi, điều đó gây ra một sự điều chỉnh hoàn toàn. |
170. All
changes in Hierarchy affect the entire Hierarchy and especially the Ray
Ashram of the Initiate or Master who changes or transfers rays. |
170. Mọi thay đổi
trong Thánh đoàn đều ảnh hưởng đến
toàn bộ Thánh đoàn và đặc biệt là Ashram Cung của
điểm đạo đồ hoặc Chân sư
đang thay đổi hay chuyển đổi cung. |
When a
Master likewise leaves the hierarchy of our Planet to take up work elsewhere,
it frequently necessitates a complete re-organisation, and a fresh admission
of members into the great White Lodge. These facts have been but little realised. |
Khi một vị Chân
sư rời khỏi Thánh đoàn của hành tinh chúng ta
để đảm nhận công việc ở nơi
khác, điều đó thường đòi hỏi một
sự tái tổ chức hoàn toàn, và việc tiếp nhận
thêm những thành viên mới vào Huynh đệ Đoàn Chánh
đạo vĩ đại. Những sự thật này
xưa nay rất ít người nhận ra. |
171. The
departure of a Master to higher ‘climbs’ manifests as an updraft on His
Ashram, and requires a drawing in of those who can replace the vacuum. |
171. Sự ra đi của
một vị Chân sư để lên các “tầng cao
hơn” được biểu lộ như một luồng
nâng lên trong Ashram của Ngài, và đòi hỏi việc thu
hút vào những người có thể lấp đầy
khoảng trống. |
172. There
is much upward attraction of this kind at this time. |
172. Hiện nay có rất
nhiều lực hút hướng lên như thế. |
173. It
is not only that disciples strive to become members of the Great White Lodge,
but that they must because there are vacancies to be filled. |
173. Không chỉ là các
đệ tử đang nỗ lực để trở
thành thành viên của Huynh đệ
Đoàn Chánh đạo vĩ đại, mà họ còn phải
làm như vậy vì đang có những vị trí trống cần
được lấp đầy. |
We might here
also take the opportunity to point out that we are not dealing with earth
conditions when we consider the Rays, nor are we only concerned with the
evolution of the Monads upon this planet, but are equally concerned with the
solar [177] system in which our earth holds a necessary but
not supreme place. |
Chúng ta cũng nên nhân đây nhấn mạnh rằng khi xét đến các Cung, chúng ta không chỉ đang bàn về các điều kiện trên địa cầu, cũng không chỉ quan tâm đến sự tiến hóa của các Chân thần trên hành tinh này, mà còn liên quan đến toàn thể Thái dương hệ trong đó Trái đất của chúng ta giữ một vị trí cần thiết nhưng không phải là tối thượng. [177] |
174. Master
DK expands the consideration. The scope of our subject takes us beyond the
Earth and its conditions and the Monads considered are Monads throughout the
solar system. |
174. Chân sư DK mở rộng
phạm vi xem xét. Chủ đề của chúng ta vượt
khỏi giới hạn của Địa cầu và các
điều kiện của nó, và các Chân thần được
đề cập là những Chân thần trong toàn Thái
dương hệ. |
175. We
recall we were speaking of the predominance of second ray Monads in the solar
system and not so much upon the Earth (though their number on and in Earth,
according to one reference is almost twice as great as the number of third
ray Monad and seven times greater than first ray Monads). |
175. Chúng ta nhớ rằng
chúng ta đã bàn về sự vượt trội của
các Chân thần cung hai trong Thái dương hệ chứ
không phải trên Trái đất (mặc dù theo một tài liệu
tham khảo, số lượng Chân thần cung hai trên và
trong Trái đất gần như gấp đôi số
lượng Chân thần cung ba và gấp bảy lần số
lượng Chân thần cung một). |
176. Our
planet is a non-sacred planet, hence its place in the solar system is far
from “supreme”. But one day, before long (in cosmic time) it will be a sacred
planet and certainly in the next solar system (which is ruled by the first
ray, the monadic ray of the Earth). |
176. Hành tinh của chúng ta
là một hành tinh không thiêng liêng, do đó vị trí của
nó trong Thái dương hệ còn xa mới được
gọi là “tối thượng.” Nhưng một ngày nào
đó, không lâu nữa (tính theo thời gian vũ trụ),
nó sẽ trở thành một hành tinh thiêng liêng và chắc chắn
là trong Thái dương hệ kế tiếp (được
cai quản bởi cung một, tức là cung chân thần của
Trái đất). |
The
earth is an organism within a greater one, and this fact needs wider
recognition. |
Trái đất là một
cơ thể trong một cơ thể lớn hơn, và sự
thật này cần được công nhận rộng rãi
hơn. |
177. We
envision a hierarchy of ever more inclusive wholes—each whole playing the
role of a part in a still larger whole. |
177. Chúng ta hình dung một
hệ thống phân cấp gồm những tổng thể
ngày càng bao trùm hơn—mỗi tổng thể đóng vai trò
là một bộ phận trong một tổng thể còn lớn
hơn nữa. |
178. The
largest finite whole of which we can speculate is the universe itself. |
178. Tổng thể hữu
hạn lớn nhất mà chúng ta có thể suy đoán là
chính vũ trụ. |
179. The
next greater ‘whole’ is INFINITUDE and is forever ENTIRETY. |
179. “Tổng thể” lớn
tiếp theo là VÔ CÙNG và mãi mãi là TOÀN THỂ. |
The
sons of men upon this planet so often view the whole system as if the earth
were in the position of the sun, the centre of the solar organism. |
Những người con
của nhân loại trên hành tinh này thường nhìn nhận
toàn bộ hệ thống như thể Trái đất
đang ở vị trí của Mặt trời, là trung tâm của
cơ thể Thái dương hệ. |
180. Master
DK warns us against our innate ‘geocentrism’. We
know the Earth revolves around the Sun, but sometimes we seem to think in
more medieval terms. |
180. Chân sư DK cảnh
báo chúng ta về “thuyết địa tâm” bẩm sinh của
con người. Chúng ta biết Trái đất quay quanh Mặt
trời, nhưng đôi khi vẫn suy nghĩ theo cách cổ
trung đại. |
181. The
following sections are of great importance and not easy to interpret. |
181. Những phần tiếp
theo có tầm quan trọng lớn và không dễ diễn giải. |
Under
the regime of the Ego, the ray upon which the ego can be found holds sway. |
Dưới quyền thống
trị của Chân ngã, cung mà chân ngã có thể được
tìm thấy sẽ nắm quyền kiểm soát. |
182. Our
success at interpretation depends upon noticing that in the same sentence the
term ego is both capitalized as “Ego” and given in lower case as “ego”. |
182. Sự thành công của
chúng ta trong việc diễn giải phụ thuộc vào việc
nhận ra rằng trong cùng một câu, thuật ngữ
“ego” được viết hoa là “Ego” và được
viết thường là “ego”. |
183. Usually,
even when the word ego is used in lower case as “ego”, it means the soul, and
not the lower personal ego. The Tibetan just does not use “ego” that way,
unless He specifies the lower personal ego. As AAB says in DINA I xiv: |
183. Thông thường,
ngay cả khi từ “ego” được viết
thường là “ego”, nó cũng có nghĩa là linh hồn,
chứ không phải là phàm ngã thấp hơn. Chân sư Tây
Tạng không sử dụng từ “ego” theo cách
đó, trừ khi Ngài chỉ rõ rằng đó là phàm ngã thấp
hơn. Như AAB đã nói trong Đường Đạo
Trong Kỷ Nguyên Mới, trang xiv: |
“In
reading these instructions will you please remember that though the Tibetan
usually speaks of the soul, He also uses the word “ego”
interchangeably, meaning thereby the spiritual ego and not the personal ego
of the psychologists.” |
“Trong khi đọc những
chỉ dẫn này, xin các bạn hãy nhớ rằng mặc
dù Chân sư Tây Tạng thường nói về linh hồn,
Ngài cũng sử dụng từ ‘ego’ một cách hoán đổi,
có nghĩa là chân ngã tinh thần chứ không phải là phàm
ngã của các nhà tâm lý học.” |
184. This
is very clear. |
184. Điều này rất
rõ ràng. |
185. Now
we have an interesting situation. In the same sentence we have the term “Ego”
and “ego”, and we remember that “ego” very rarely means the lower personal
ego. |
185. Bây giờ chúng ta có một
tình huống thú vị. Trong cùng một câu, chúng ta có thuật
ngữ “Ego” và “ego”, và chúng ta nhớ rằng “ego” rất hiếm
khi có nghĩa là phàm ngã thấp hơn. |
186. If
we assume that “ego” means what it usually means—the consciousness within the
egoic lotus—then we have two other and higher possibilities for the word
“Ego”—either the spiritual triad or the Monad or, in some way, both. |
186. Nếu chúng ta giả
định rằng “ego” có nghĩa như nó thường
được hiểu—tức là tâm thức trong hoa sen
Chân ngã—thì chúng ta có hai khả năng cao hơn khác cho từ
“Ego”—hoặc là Tam nguyên tinh thần, hoặc là Chân thần,
hoặc, bằng cách nào đó, cả hai. |
187. I
think we may say with some certainty that the capitalizations of the word ego
found in this sentence are not accidental. Sometimes there is much variation
in capitalization, but not when the same word is used within the same
sentence. |
187. Tôi nghĩ chúng ta có thể
khẳng định một cách chắc chắn rằng
việc viết hoa từ “Ego” trong câu này không phải
là ngẫu nhiên. Đôi khi có nhiều biến thể về
cách viết hoa, nhưng không phải khi cùng một từ
được sử dụng trong cùng một câu. |
188. The
“Ego” (in this case) is a higher center, and it has a controlling or ruling
“regime”. The “Ego” controls the “ego”. No matter how the egoic ray of the
“ego” “holds sway”, that ray is “under the regime of the Ego”—i.e., under the
regime of the spiritual triad, or the Monad or, somehow, both. We have simply
to decide the center to which we will assign the word “Ego” and why we do so. |
188. “Ego” trong trường
hợp này là một trung tâm cao hơn, và nó có một quyền
cai trị hoặc kiểm soát. “Ego” kiểm soát “ego”. Dù
cung của “ego” có “nắm quyền” như thế nào, cung
đó vẫn nằm “dưới quyền cai trị của
Ego”—tức là dưới quyền cai trị của Tam
nguyên tinh thần, hoặc Chân thần, hoặc bằng
cách nào đó là cả hai. Chúng ta chỉ cần quyết
định trung tâm nào mà chúng ta sẽ gán cho từ “Ego” và
lý do tại sao chúng ta làm điều đó. |
This
ray is simply a direct reflection of the monad, and is dependent upon that
aspect of the spiritual triad which for the man is at any particular time the
line of least resistance. |
Cung này đơn giản
là sự phản chiếu trực tiếp của chân thần
và phụ thuộc vào khía cạnh của Tam nguyên tinh thần
mà đối với con người, tại bất kỳ
thời điểm nào, là đường của ít kháng cự
nhất. |
189. This
sentence means that the “ray on which the ego can be found” is a direct
reflection of the Monad. (Note that the term monad is sometime capitalized as
“Monad” and sometimes not— “monad”.) There seems to be no rhyme or reason for
changing the capitalization of this word. |
189. Câu này có nghĩa là
“cung mà ego có thể được tìm thấy” là sự phản
chiếu trực tiếp của Chân thần. (Lưu ý rằng
thuật ngữ “monad” đôi khi được viết
hoa là “Chân thần” và đôi khi không— “monad”). Dường
như không có quy luật nào nhất định về việc
thay đổi cách viết hoa của từ này. |
190. Now
it will become necessary to remember that the spiritual triad is the true
unshrouded soul. This means that the causal body is indeed the “body” or
“shroud” of the soul consciousness, which is really the consciousness of the
spiritual triad. The consciousness within the causal body is usually called
soul consciousness, but, if the spiritual triad is the true unshrouded soul,
it becomes necessary for us to think of the consciousness of the spiritual
triad as the true soul consciousness. |
190. Bây giờ, chúng ta cần
nhớ rằng Tam nguyên tinh thần là linh hồn thật
sự không bị che khuất. Điều này có nghĩa là
thể nguyên nhân thật sự là “thể” hay “màn che” của
tâm thức linh hồn, vốn thực sự là tâm thức
của Tam nguyên tinh thần. Tâm thức bên trong thể
nguyên nhân thường được gọi là tâm thức
linh hồn, nhưng nếu Tam nguyên tinh thần là linh hồn
thật sự không bị che khuất, thì chúng ta cần
suy nghĩ rằng tâm thức của Tam nguyên tinh thần
chính là tâm thức linh hồn thật sự. |
191. We
learn on pp. 168-169 of EP I that the ray of the causal body is the same as
the ray of the spiritual triad (i.e., the same as the ray of the three
permanent atoms of the spiritual triad). |
191. Chúng ta học
được từ trang 168-169 của Tâm lý học Nội
môn Quyển I rằng cung của thể nguyên nhân giống
với cung của Tam nguyên tinh thần (tức là giống
với cung của ba nguyên tử trường tồn của
Tam nguyên tinh thần). |
192. All
this is by way of saying that it possible to apply the term “ego” to the
spiritual triad as well as to the causal vehicle (or egoic lotus). |
192. Tất cả những
điều này nhằm nói rằng có thể áp dụng thuật
ngữ “ego” cho cả Tam nguyên tinh thần và thể nguyên
nhân (hoặc hoa sen chân ngã). |
193. This
means that we face the following type of choice: |
193. Điều này có
nghĩa là chúng ta đối mặt với loại lựa
chọn sau: |
a. We
have three centers of focus: |
a. Chúng ta có ba trung tâm tập
trung: |
i. The
casual body/egoic lotus |
i. Thể nguyên nhân/hoa sen
chân ngã |
ii. The
spiritual triad |
ii. Tam nguyên tinh thần |
iii. The
Monad |
iii. Chân thần |
b. The
term “ego” might refer only to the causal body/egoic lotus |
b. Thuật ngữ “ego” có
thể chỉ đề cập đến thể nguyên
nhân/hoa sen chân ngã |
c. The
term “ego” might refer to the both the causal body/egoic lotus and the
spiritual triad—since they are both versions of the soul (one more
individual, the other more impersonal—but soul, nonetheless) |
c. Thuật ngữ “ego” có
thể đề cập đến cả thể nguyên
nhân/hoa sen chân ngã và Tam nguyên tinh thần—vì cả hai đều
là các phiên bản của linh hồn (một cái cá nhân
hơn, cái kia vô ngã hơn—nhưng dù sao cũng là linh hồn) |
d. The
term “Ego” might refer to the spiritual triad. |
d. Thuật ngữ “Ego” có
thể đề cập đến Tam nguyên tinh thần. |
e. The
term “Ego” might refer to the spiritual triad and Monad (even as the Jewel in
the Lotus and the three synthesis petals are—the four of them—often
considered to be one unit. |
e. Thuật ngữ “Ego” có
thể đề cập đến Tam nguyên tinh thần
và Chân thần (như viên ngọc trong hoa sen và ba cánh tổng
hợp—bốn điều này—thường được
xem là một đơn vị). |
f. The
term “Ego” might refer only to the Monad. |
f. Thuật ngữ “Ego” có
thể chỉ đề cập đến Chân thần. |
194. These
are the choices confronting us as we attempt to assign ‘level’ to the term
“ego” and “Ego”. |
194. Đây là những lựa
chọn mà chúng ta phải đối mặt khi cố gắng
xác định ‘cấp độ’ cho thuật ngữ “ego”
và “Ego”. |
195. We
are experiencing a kind of occult blinding because the same term is being
used for two different things or, perhaps, three different things. |
195. Chúng ta đang trải
qua một kiểu che dấu huyền bí vì cùng một thuật
ngữ đang được sử dụng cho hai, hoặc
có thể là ba, những điều khác nhau. |
196. We
find that the “ray” we have been discussing (the egoic ray) is dependent upon
the spiritual triad—specifically upon “that aspect of the spiritual triad
which is for the man at any one time the line of least resistance”. |
196. Chúng ta phát hiện rằng
“cung” mà chúng ta đã thảo luận (cung chân ngã) phụ
thuộc vào Tam nguyên tinh thần—cụ thể là “khía cạnh
của Tam nguyên tinh thần mà đối với con người,
tại bất kỳ thời điểm nào, là con
đường ít kháng cự nhất”. |
197. We
are not yet sure how the egoic ray is dependent upon the spiritual triad, but
we are informed that the spiritual triad has aspects and that one or other of
these aspects are a line of least resistance for the man at different times.
This tells us that there is change of focus within the spiritual triad at
different times (presumably different times in the process of unfoldment). |
197. Chúng ta chưa rõ cung
chân ngã phụ thuộc vào Tam nguyên tinh thần như thế
nào, nhưng chúng ta được thông tin rằng Tam nguyên
tinh thần có các khía cạnh và một trong những khía cạnh
đó là đường của ít kháng cự nhất
đối với con người tại những thời
điểm khác nhau. Điều này cho chúng ta biết rằng
có sự thay đổi về sự tập trung bên trong
Tam nguyên tinh thần tại các thời điểm khác nhau
(có lẽ là vào những thời điểm khác nhau trong
quá trình phát triển). |
198. Now,
just what about the “ray” is “dependent”? Is it the ‘ray number’ that is
dependent? Or is the ray simply influenced by the aspect of the spiritual
triad which is the line of least resistance? |
198. Vậy, chính xác thì
điều gì về “cung” là “phụ thuộc”? Có phải
là ‘con số cung’ phụ thuộc không? Hay cung chỉ
đơn giản bị ảnh hưởng bởi khía cạnh
của Tam nguyên tinh thần là đường của ít
kháng cự nhất? |
199. Or
is the focus of the ray somehow dependent upon the spiritual triad’s line of
least resistance. |
199. Hay sự tập trung
của cung bằng cách nào đó phụ thuộc vào
đường ít kháng cự nhất của Tam nguyên tinh
thần? |
200. In
summary re dependency, it concerns these possibilities: |
200. Tóm lại, về sự
phụ thuộc, nó liên quan đến các khả năng
sau: |
a. The
number of the ray—the ray number |
a. Con số của cung—số
cung |
b. Influence
upon the ray |
b. Ảnh hưởng lên
cung |
c. The
place of focus of the ray in relation to the spiritual triad. |
c. Nơi tập trung của
cung liên quan đến Tam nguyên tinh thần. |
201. We
have to remember always that the ray of the ego and the ray of the spiritual
triad are the same. |
201. Chúng ta luôn phải nhớ
rằng cung của ego và cung của Tam nguyên tinh thần là
giống nhau. |
202. The
ray we are talking about, so far, is still the “egoic ray”. |
202. Cung mà chúng ta đang
nói tới, cho đến giờ, vẫn là “cung của
ego”. |
By
that we must understand that sometimes the ray will have for its centre of
force the atmic aspect, sometimes the buddhic, and at other times the manasic
aspect. |
Điều đó có
nghĩa là đôi khi cung sẽ có trung tâm lực là khía cạnh
Atma, đôi khi là khía cạnh Bồ đề, và ở những
lúc khác là khía cạnh Manas. |
203. Now,
we are still talking about the “egoic ray”. This ray has a “center of force”.
The “centre of force” is presumably a controlling “centre of force”. |
203. Bây giờ, chúng ta vẫn
đang nói về “cung ego”. Cung này có một
“trung tâm lực”. “Trung tâm lực” này có lẽ
là một “trung tâm lực” kiểm soát. |
204. Or
it can mean that the egoic ray is focussed within the spiritual triad in one
of three ways—atmically, buddhically or
manasically. |
204. Hoặc điều
này có thể có nghĩa là cung của chân ngã được
tập trung bên trong Tam nguyên tinh thần theo một trong ba
cách—ở cấp độ Atma, Bồ đề hoặc
Manas. |
205. Thus
in sum, the egoic ray is either |
205. Tóm lại, cung của
ego có thể: |
a. Controlled
by a center of force within the triad |
a. Bị kiểm soát bởi
một trung tâm lực bên trong Tam nguyên tinh thần, |
b. Or
expresses through a center of force within the triad |
b. Hoặc biểu hiện
qua một trung tâm lực bên trong Tam nguyên tinh thần, |
c. Or
both of these possibilities may be true in their own ways. |
c. Hoặc cả hai khả
năng này đều có thể đúng theo cách riêng của
chúng. |
206. In
all these subtleties, we have to remember that we are still talking about the
“egoic ray” (not the “Egoic” ray), but that the egoic ray may simultaneously
be considered the triadal ray. |
206. Trong tất cả những
sự tinh vi này, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta vẫn
đang nói về “cung của ego” (không phải
“cung của Ego”), nhưng cung của ego có thể
đồng thời được xem như cung của
Tam nguyên. |
Though
the triad is threefold, yet its egoic outposts (if one may so express it)
will be either definitely atmic, or predominantly buddhic or manasic. |
Dù Tam nguyên là tam phân,
nhưng các tiền đồn của chân ngã (nếu có thể
diễn đạt như vậy) sẽ hoặc chắc
chắn thuộc về Atma, hoặc chủ yếu là thuộc
về Bồ đề, hoặc thuộc về Manas. |
207. Master
DK is simultaneously a master at blinding and revealing. We should not
imagine that what is being said in the past several sentences is
straightforward and obvious. We will miss much if we think so. |
207. Chân sư DK vừa là
một bậc thầy trong việc che mờ, vừa là bậc
thầy trong việc tiết lộ. Chúng ta không nên tưởng
rằng những gì đang được nói trong vài câu
trước đây là rõ ràng và hiển nhiên. Chúng ta sẽ bỏ
lỡ nhiều điều nếu nghĩ như vậy. |
208. That
the spiritual triad is threefold is a given. But what can possibly be meant
by “its egoic outposts”? |
208. Việc Tam nguyên tinh
thần là tam phân là một điều hiển nhiên.
Nhưng “các tiền đồn của chân ngã” có thể có
nghĩa là gì? |
209. An
“outpost” is a ‘place’ which should be considered an extension or
representation of a greater ‘place’ or ‘force’. An outpost is a lesser place,
and is a subsidiary of that of which it is an outpost. |
209. Một “tiền đồn”
là một ‘nơi’ được coi như là phần mở
rộng hoặc đại diện của một
‘nơi’ hoặc ‘lực’ lớn hơn. Một tiền
đồn là một nơi nhỏ hơn và là phụ của
nơi mà nó là tiền đồn. |
210. The
spiritual triad is that greater ‘place’ or ‘force’ and it has an egoic
outpost which is either atmic, buddhic or manasic. |
210. Tam nguyên tinh thần
là ‘nơi’ hoặc ‘lực’ lớn hơn đó, và nó có một
tiền đồn của ego, tiền đồn đó hoặc
thuộc về Atma, hoặc thuộc về Bồ đề,
hoặc thuộc về Manas. |
211. It
is very important that we keep our thinking straight here. The threefold
triad has the a choice of three outposts—atmic, buddhic or manasic—and these
outposts are egoic. |
211. Điều rất
quan trọng là chúng ta phải giữ cho tư duy của
mình rõ ràng ở đây. Tam nguyên tam phân có ba tiền đồn
lựa chọn—Atma, Bồ đề hoặc Manas—và những
tiền đồn này đều thuộc về ego. |
212. So
that which is egoic is directly connected with an outpost of the triad. |
212. Vì vậy, điều
thuộc về ego được kết nối trực
tiếp với một tiền đồn của Tam
nguyên. |
Here
again I would draw attention to the fact that this triple demonstration can
be seen under three forms, making in all a ninefold choice of rays for the
Ego: |
Ở đây, tôi lại
muốn thu hút sự chú ý đến thực tế rằng
sự biểu hiện tam phân này có thể được
nhìn thấy dưới ba hình thức, tạo thành tất
cả chín lựa chọn các cung cho Ego: |
213. Now,
again, the term ego is spelled “Ego” which means that we may no longer be
talking about the spiritual triad, but as has been suggested by the
developing explanation, we may be talking about the Monad, calling it the
“Ego”. |
213. Bây giờ, một lần
nữa, thuật ngữ “Chân Ngã” được viết
hoa là “Ego”, điều này có nghĩa là chúng ta có thể
không còn đang nói về Tam nguyên tinh thần nữa, mà
như đã được gợi ý trong quá trình giải
thích, chúng ta có thể đang nói về Chân thần và gọi
đó là “Chân ngã” (Ego). |
214. Or
we may be talking about the spiritual triad, calling it the “Ego”—a far
greater probability. |
214. Hoặc chúng ta có thể
đang nói về Tam nguyên tinh thần và gọi nó là “Chân
ngã” (Ego)—đây là khả năng lớn hơn nhiều. |
215. What
has just happened is perhaps the most subtle shift in our developing
explanation. The last time the word “Ego” was mentioned is was “under the
regime of the Ego, the ray upon which the ego can be found holds sway”. |
215. Điều vừa xảy
ra có lẽ là sự thay đổi tinh vi nhất trong quá
trình giải thích của chúng ta. Lần cuối cùng từ
“Ego” được nhắc đến là trong câu “dưới
quyền thống trị của Ego, cung mà ego có thể
được tìm thấy nắm quyền kiểm soát”. |
216. Now
for the first time we are not talking about the “ray upon which the ego can
be found” but we are talking about “a ninefold choice of rays for the Ego.” |
216. Bây giờ, lần
đầu tiên, chúng ta không nói về “cung mà ego có thể
được tìm thấy”, mà chúng ta đang nói về
“chín lựa chọn các cung cho Ego”. |
217. When
it comes to the spiritual triad, we have been talking about “aspects”, not
rays. |
217. Khi nói về Tam nguyên
tinh thần, chúng ta đã nói về “các khía cạnh”, không
phải các cung. |
218. The
“Ego” (something definitely higher than the “ego”) has, we are told, a
ninefold choice of rays, but what is listed below is not rays at all, but
simply aspects. If we think clearly, we shall see that in this context,
“rays” are easily equivalent to “aspects”. |
218. Chúng ta được
cho biết rằng “Ego” (một điều gì đó chắc
chắn cao hơn “ego”) có chín lựa chọn cung, nhưng
những gì được liệt kê dưới đây
không phải là cung, mà đơn giản là các khía cạnh.
Nếu suy nghĩ cẩn thận, chúng ta sẽ thấy rằng
trong ngữ cảnh này, “các cung” có thể dễ dàng
tương đương với “các khía cạnh”. |
219. Therefore,
perhaps we can simply ‘convert’ an aspect to a ray in the following manner: |
219. Do đó, có lẽ
chúng ta có thể đơn giản ‘chuyển đổi’
một khía cạnh thành một cung theo cách sau: |
a. The
atmic aspect = ray one |
a. Khía cạnh Atma = cung một |
b. The
buddhic aspect = ray two |
b. Khía cạnh Bồ
đề = cung hai |
c. The
manasic aspect = rays three, especially, but also rays four, five, six and
seven |
c. Khía cạnh Manas = cung
ba, đặc biệt, nhưng cũng bao gồm các cung bốn,
năm, sáu và bảy |
220. This
is a possibility, but about this conversion we are still uncertain. |
220. Đây là một khả
năng, nhưng chúng ta vẫn chưa chắc chắn về
sự chuyển đổi này. |
221. In
light of what we have been discussing, what is listed below may mean the
following: |
221. Dựa trên những
gì chúng ta đã thảo luận, những gì được
liệt kê dưới đây có thể có nghĩa là: |
a. We
are detailing all that takes place under the regime of the Ego. |
a. Chúng ta đang chi tiết
hóa tất cả những gì diễn ra dưới quyền
thống trị của Ego. |
b. We
are considering that the Ego may mean the Monad or may meant the spiritual
triad. |
b. Chúng ta đang xem xét rằng
Ego có thể có nghĩa là Chân thần hoặc có thể có
nghĩa là Tam nguyên tinh thần. |
c. We
are considering that what takes place under the regime of the Ego is a
ninefold process. |
c. Chúng ta đang xem xét rằng
những gì diễn ra dưới quyền thống trị
của Ego là một quá trình cửu phân. |
d. The
ninefold process is determined by the combination of the three normal or
major foci of the threefold triad, and the three egoic outposts potential to
any of those three normal or major triadal foci. |
d. Quá trình cửu phân này
được xác định bởi sự kết hợp
của ba tiêu điểm chính hoặc bình thường của
Tam nguyên tinh thần, và ba tiền đồn ego có tiềm
năng liên kết với bất kỳ tiêu điểm
nào trong số ba tiêu điểm chính hoặc bình thường
của Tam nguyên tinh thần. |
e. This
means that, in the series of three threefold groupings listed below, the
first term relates to the major triadal level in which the man is focussed
(and it depends, as can be shown from other references) upon the major ray of
the Monad. (cf. R&I) |
e. Điều này có
nghĩa là, trong chuỗi ba nhóm tam phân được liệt
kê dưới đây, thuật ngữ đầu tiên liên
quan đến mức độ Tam nguyên chính mà con người
đang tập trung vào (và điều này phụ thuộc,
như có thể được chỉ ra từ các tài liệu
tham khảo khác) vào cung chính của Chân thần. (xem R&I) |
f. But
the second term, depends directly upon the ray of ego, precisely, and that
second term is changeable, just as the ray of the ego is, over time,
changeable. |
f. Nhưng thuật ngữ
thứ hai phụ thuộc trực tiếp vào cung của
ego, và thuật ngữ thứ hai này có thể thay đổi,
giống như cung của ego có thể thay đổi theo
thời gian. |
Khía cạnh Atma. |
|
1. atmic-atmic |
1. atma-atma |
2. atmic-buddhic |
2. atma-bồ đề |
3. atmic-manasic. |
3. atma-trí tuệ |
222. This threefold series
suggests that the ray of the Monad/ “Ego” (or of the Triad/ “Ego”) is the
first ray, but that the ray upon which the “ego” holds sway is either first,
second or third (with subrays), as given above: atmic = ray one, buddhic =
ray two; manasic = ray three with four rays of attribute as subrays. |
222. Bộ ba này gợi ý rằng cung của
Chân thần/“Ego” (hoặc của Tam nguyên/“Ego”) là cung một,
nhưng cung mà “ego” chi phối có thể là cung một, hai
hoặc ba (với các cung phụ), như đã nêu ở
trên: atma = cung một, bồ đề = cung hai; trí tuệ
= cung ba với bốn Cung Thuộc Tính là các cung phụ. |
Buddhic aspect. |
Khía cạnh Bồ đề. |
1. buddhic-atmic |
1. bồ đề-atma |
2. buddhic-buddhic |
2. bồ đề-bồ đề |
3. buddhic-manasic. |
3. bồ đề-trí tuệ |
223. This threefold series
suggests that the ray of the Monad/ “Ego” (or of the Triad/ “Ego”) is the
second ray, with the secondary aspect or ray as developed above. |
223. Bộ ba này gợi ý rằng cung của
Chân thần/“Chân ngã” (hoặc của Tam nguyên/“Chân ngã”) là
cung hai, với khía cạnh hay cung phụ được
phát triển như ở trên. |
Manasic aspect. |
Khía cạnh Trí tuệ. |
1. manasic-atmic |
1. trí tuệ-atma |
2. manasic-buddhic |
2. trí tuệ-bồ đề |
3. manasic-manasic |
3. trí tuệ-trí tuệ |
224. This threefold series
suggests that the ray of the Monad/ “Ego” (or of the Triad/ “Ego”) is the
third ray with the secondary ray or rays as developed above. |
224. Bộ ba này gợi ý rằng cung của
Chân thần/“Chân ngã” (hoặc của Tam nguyên/“Chân ngã”) là
cung ba với cung phụ hay các cung phụ được
phát triển như ở trên. |
225. Under the term “manasic”
(in the secondary position) may be focussed an “ego” upon the third ray, but
also upon the fourth, fifth, sixth or seventh, for third ray Brahma—the
manasic aspect—includes the fourth, fifth, sixth and seventh rays) |
225. Dưới thuật ngữ “trí tuệ”
(ở vị trí phụ) có thể là một “chân ngã” trên
cung ba, nhưng cũng có thể trên cung bốn, năm, sáu
hoặc bảy, vì Brahma cung ba—khía cạnh trí tuệ—bao gồm
cả các cung bốn, năm, sáu và bảy. |
226. From another perspective,
however, we shall have to realize that in the seventh ray there is much of
atma; in the fourth and sixth rays, much of buddhi, and in the fifth ray much
of manas (thought of atma as well). We shall see whether there are implications
to this alternative way of understanding atmic, buddhic or manasic in the
secondary triadal position. |
226. Tuy nhiên, từ một góc độ khác,
chúng ta cần nhận ra rằng trong cung bảy có rất
nhiều yếu tố atma; trong các cung bốn và sáu, nhiều
yếu tố bồ đề, và trong cung năm, nhiều
yếu tố trí tuệ (và có thể cả atma nữa).
Chúng ta sẽ xem liệu cách hiểu thay thế này về
atma, bồ đề hoặc trí tuệ ở vị trí phụ
của Tam nguyên có những hàm ý gì không. |
This literally means that the
three major rays can each be subdivided (in connection with the Ego) into
three divisions. This fact is also little appreciated. |
Điều này có nghĩa là mỗi trong ba
cung chính có thể được chia nhỏ (liên quan đến
Ego) thành ba phân loại. Sự kiện này rất ít người
nhận ra. |
227. It is important to grasp
whether we think each new sentence follows straightforwardly from the one
preceding it, or whether new pieces of information are added in an
enigmatical way. |
227. Điều quan trọng là phải nắm
rõ liệu mỗi câu sau có diễn tiến trực tiếp
từ câu trước, hay những thông tin mới đang
được thêm vào một cách ẩn dụ. |
228. Now we come to the point
when we must decide whether the term “Ego” means Monad or spiritual triad. |
228. Giờ đây, chúng ta đến điểm
cần xác định liệu thuật ngữ “Ego” ở
đây ám chỉ Chân thần hay Tam nguyên tinh thần. |
229. We have here a reference
to “three major rays”. Which ones? May we say that the three major rays
(being of course, the first, second and third) relate directly to the first
term of three threefold groupings describing the ninefold choice of rays for
the Ego? |
229. Ở đây có nhắc đến “ba
cung chính”. Là những cung nào? Có thể nói rằng ba cung
chính (dĩ nhiên là cung một, hai và ba) liên hệ trực
tiếp đến thuật ngữ đầu tiên trong ba
bộ ba mô tả chín sự lựa chọn cung cho Chân ngã? |
230. In relation to the
spiritual triad (when discussing “major rays”) we are speaking of the first
term—whether atmic, buddhic or manasic. |
230. Khi bàn về Tam nguyên tinh thần (trong ngữ
cảnh “các cung chính”), chúng ta đang nói đến thuật
ngữ đầu tiên—dù là atma, bồ đề hay trí tuệ. |
231. Each of these major rays
or major aspects can be divided into three divisions depending upon the ray
of the “ego” with a little “e”—i.e., the ray of what we would normally call
the soul, causal body or egoic lotus. |
231. Mỗi cung chính hay khía cạnh chính này
đều có thể được chia thành ba phân nhóm tùy
theo cung của “ego” viết thường—tức là cung của
điều mà chúng ta thường gọi là linh hồn, thể
nguyên nhân hay hoa sen chân ngã. |
232. So, in the spiritual
triad, we have a major ray/subray set up. Let us take this in. |
232. Như vậy, trong Tam nguyên tinh thần,
chúng ta có thiết lập cấu trúc cung chính/cung phụ.
Hãy tiếp thu điều này. |
233. The major ray (or aspect)
depends directly upon the monadic ray, as will be demonstrated from pertinent
references in The Rays and the Initiations. |
233. Cung chính (hay khía cạnh chính) phụ thuộc
trực tiếp vào cung chân thần, như sẽ
được chứng minh qua các trích dẫn phù hợp
trong Cung và Điểm đạo. |
234. The secondary ray (or
aspect) depends directly upon the ray of the “ego”, little “e”. |
234. Cung phụ (hay khía cạnh phụ) phụ
thuộc trực tiếp vào cung của “ego” viết
thường. |
235. Attempting to follow this
line of thinking, we would find that the permanent atoms of the spiritual
triad would be directly correlated with the ray of the “ego” rather than the
ray of the Monad. |
235. Cố gắng theo dòng tư tưởng
này, ta sẽ thấy rằng các nguyên tử trường
tồn của Tam nguyên tinh thần sẽ tương quan
trực tiếp với cung của “ego” hơn là cung của
Chân thần. |
236. If the ray of the Monad
(the “major” or “primary” ray of the Monad) remains the same throughout the aeon, the primary triadal focus also remains the same
throughout the aeon, but since we know that soul
rays change, and since we know that the permanent atoms of the spiritual
triad are all the same ray as the soul, we would think that the ray of the
permanent atoms of the spiritual triad change as the rays of the soul changes,
or that, putting first things first, that the ray of the soul changes as the ray
of the permanent atom changes. |
236. Nếu cung của Chân thần (tức
“cung chính” hay “cung chủ yếu” của Chân thần) không
thay đổi trong suốt đại kiếp, thì tiêu
điểm chính của Tam nguyên cũng không thay đổi
trong suốt đại kiếp; nhưng bởi vì chúng ta
biết rằng cung của linh hồn có thể thay đổi,
và các nguyên tử trường tồn của Tam nguyên tinh
thần đều có cùng cung với linh hồn, nên chúng ta
có thể suy luận rằng cung của các nguyên tử
trường tồn của Tam nguyên thay đổi khi cung
của linh hồn thay đổi, hoặc ngược lại,
cung của linh hồn thay đổi khi cung của nguyên tử
trường tồn thay đổi. |
237. And, here is a new idea—to
me at least—that the change in the secondary focus/ray of the spiritual triad
(which brings about the change in the ray of the soul/causal body/egoic
lotus) changes because the secondary ray of the Monad (on its own plane) changes
(according to need, demand or design—of such higher Powers as Sanat
Kumara)—at least with respect to Monads on our globe and chain. |
237. Và đây là một ý tưởng mới—ít
nhất là đối với tôi—rằng sự thay đổi
trong tiêu điểm/cung phụ của Tam nguyên tinh thần
(dẫn đến sự thay đổi trong cung của
linh hồn/thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã) xảy ra vì cung
phụ của Chân thần (trên chính cõi của nó) thay đổi
(tùy theo nhu cầu, đòi hỏi hoặc sự sắp
đặt—của các Đấng Quyền Năng cao cả
như Sanat Kumara)—ít nhất là đối với các Chân thần
trên bầu hành tinh và Dãy Địa cầu của chúng ta. |
238. The foregoing argument has
been complex and, perhaps, not as conclusive as one would like, but the main
lines of thought are laid out and significant conclusions can be drawn. |
238. Lập luận trên đây có thể phức
tạp và có lẽ chưa thật sự kết luận
như mong muốn, nhưng những đường
hướng chính của tư tưởng đã
được trình bày và các kết luận có ý nghĩa có
thể được rút ra. |
239. The spiritual triad, it
seems, stands midway between the Monad and soul. It may be the unshrouded
soul, but it is also the personality of the Monad. So it partakes of that
which is above (namely the Monad) and that which is below (namely, the
soul/causal body/egoic lotus). |
239. Có vẻ như Tam nguyên tinh thần
đứng giữa Chân thần và linh hồn. Nó có thể
là linh hồn không bị che phủ, nhưng nó cũng là
phàm ngã của Chân thần. Vậy nên nó có phần từ
cái ở trên (tức Chân thần) và cái ở dưới
(tức linh hồn/thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã). |
240. The spiritual triad has
rays (here listed as aspects) just as any other divine center, but these
aspects/rays partake of both the monadic influence and of the egoic domain. |
240. Tam nguyên tinh thần có các cung (được
liệt kê ở đây như các khía cạnh) giống
như bất kỳ trung tâm thiêng liêng nào khác, nhưng các
khía cạnh/cung này vừa mang ảnh hưởng chân thần
vừa thuộc về lĩnh vực chân ngã. |
241. Are there atmic, buddhic
and higher manasic chakras (prototypical of the kind of chakras found below)?
It the chakras are really whirlpools of electric fire coming from the Monad,
it would not seem that they can be created directly in lower matter without
creating whirlpool effects in atmic, buddhic, and higher manasic matter. |
241. Liệu có các luân xa atma, bồ đề
và thượng trí không (như là hình mẫu nguyên thủy
của loại luân xa được tìm thấy ở cõi
thấp)? Nếu các luân xa thực sự là những xoáy lửa
điện phát xuất từ Chân thần, thì dường
như chúng không thể được tạo ra trực
tiếp trong chất liệu thấp hơn mà không tạo
ra hiệu ứng xoáy trong chất liệu atma, bồ
đề và thượng trí. |
242. To the extent that such
whirlpools are created in the atmic, buddhic and higher manasic vehicles,
they are different from the permanent atoms in the atmic, buddhic and manasic
vehicles. |
242. Trong chừng mực mà các xoáy như vậy
được tạo ra trong các thể atma, bồ đề
và thượng trí, chúng khác biệt với các nguyên tử
trường tồn trong các thể atma, bồ đề
và trí tuệ. |
243. The higher whirlpools
would belong to the Monad and its influence; the permanent atoms would
correlate more with the ray of the causal vehicle. The atoms are related to
form building and form-building, we realize, relates to the second aspect of
divinity. |
243. Các xoáy cao hơn này thuộc về Chân
thần và ảnh hưởng của nó; còn các nguyên tử
trường tồn tương quan nhiều hơn với
cung của thể nguyên nhân. Các nguyên tử này liên hệ
đến việc tạo hình, và như chúng ta biết, việc
tạo hình liên quan đến khía cạnh thứ hai của
Thượng đế. |
244. On p. 176 we learned that
Masters and Chohans (presumably functioning upon the monadic ray) work on
subrays corresponding to all the seven—presumably, seven subrays on the
monadic plane. |
244. Ở trang 176, chúng ta học được
rằng các Chân sư và các Chohan (có thể là hoạt động
trên cung chân thần của họ) làm việc trên các cung phụ
tương ứng với cả bảy cung—rõ ràng là bảy
cung phụ trên cõi chân thần. |
245. Our picture is of one of
three types of Monads which have the three major rays as the major monadic
rays, but with each of these three types of Monads having one of seven rays
operative as subrays. |
245. Bức tranh của chúng ta là về ba loại
Chân thần, mỗi loại có một trong ba cung chính làm
cung chân thần chính, nhưng mỗi Chân thần trong ba loại
này có một trong bảy cung đang hoạt động
như cung phụ. |
246. These monadic subrays seem
to have an influence which extends ‘down’ into the spiritual triad and maybe
into that part of the realm of the soul/causal body/egoic lotus where egoic
subrays are focussed—i.e., subrays which focusing on the higher mental plane
are not the personality ray. |
246. Các cung phụ chân thần này dường
như có ảnh hưởng lan tỏa “xuống” đến
Tam nguyên tinh thần và có thể cả vào phần lĩnh
vực của linh hồn/thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã
nơi các cung phụ của chân ngã tập trung—tức là
các cung phụ tập trung trên cõi hạ trí cao và không phải
là cung của phàm ngã. |
247. From all this, we may now
hypothesize that when the term “Ego” is used, it means, as it were, ‘higher
soul’ (or the spiritual triad as a ninefold totality—some of this ninefold
totality correlated with the Monad and its major ray, and some of the
ninefold totality correlated with the secondary ray of the Monad and with the
strictly egoic ray). |
247. Từ tất cả những điều
này, giờ đây chúng ta có thể giả thuyết rằng
khi thuật ngữ “Chân ngã” được dùng, nó có
nghĩa, theo một cách nào đó, là “linh hồn cao hơn”
(hoặc là Tam nguyên tinh thần như một tổng thể
chín phần—một phần của tổng thể chín phần
này tương quan với Chân thần và cung chính của
nó, và một phần tương quan với cung phụ của
Chân thần và với cung linh hồn thực sự). |
248. What we have (this is
still an hypothesis) is a ‘line of ray invariability’ and a ‘line of ray
variability’. |
248. Những gì chúng ta có (đây vẫn là một
giả thuyết) là một “dòng cung bất biến” và một
“dòng cung biến đổi.” |
a. The major ray of the Monad (necessarily one of the three
major rays) never varies throughout the aeon (an aeon
may be a chain-round or a still greater cycle). |
a. Cung chính của Chân thần (tất yếu
là một trong ba Cung Trạng Thái) không bao giờ thay đổi
trong suốt đại kiếp (một đại kiếp
có thể là một cuộc tuần hoàn trong Dãy hành tinh, hoặc
một chu kỳ lớn hơn nữa). |
b. This major ray of the Monad
directly determines the major triadal focus—the emphasis found in the first
of two terms of the ninefold division we have been discussing—i.e., Atmic/Atmic,
Atmic/Buddhic, Atmic Manasic, etc. |
b. Cung chính này của Chân thần quyết
định trực tiếp tiêu điểm chính của
Tam nguyên—tức là nhấn mạnh vào yếu tố đầu
tiên trong hai yếu tố của bộ chín mà chúng ta
đang bàn tới—tức Atma/Atma, Atma/Bồ đề,
Atma/Trí tuệ, v.v. |
c. The secondary ray of the
Monad, the first and highest subray of the Monad on its own plane (i.e., on
one of the subplanes of the monadic plane) is variable and is, perhaps, at
the head of the line of ray variability. When and why this monadic subray
changes we may only conjecture. |
c. Cung phụ của Chân thần, tức là
cung phụ đầu tiên và cao nhất của Chân thần
trên chính cõi của nó (tức là một trong các cõi phụ của
cõi chân thần) là có thể thay đổi và có lẽ
đứng đầu trong “dòng biến đổi cung.”
Khi nào và vì sao cung phụ chân thần thay đổi thì ta
chỉ có thể suy đoán. |
d. The ‘line of ray
variability’ includes the |
d. “Dòng biến đổi cung” bao gồm: |
i. The subray of the Monad on
its own plane |
i. Cung phụ của Chân thần trên chính cõi
của nó |
ii. The secondary focus within
the spiritual triad |
ii. Tiêu điểm phụ trong Tam nguyên tinh
thần |
iii. The subray of the ego
itself (remembering that the main egoic ray is something of a subray for the
main triadal focus) |
iii. Cung phụ của chính chân ngã (hãy nhớ
rằng cung chính của chân ngã cũng là một cung phụ
so với tiêu điểm chính của Tam nguyên) |
249. It seems reasonable that
changes of ray along the line of ray variability are all correlated. Whether
the higher secondary rays change following changes in the lower rays or vice
versa needs to be determined, but that they are correlated seems very probable.
In occultism, it is usually changes ‘above’ which result in changes ‘below’. |
249. Có vẻ hợp lý khi cho rằng các sự
thay đổi cung dọc theo dòng biến đổi cung
đều có mối tương quan với nhau. Việc
các cung phụ cao hơn thay đổi sau các cung thấp
hơn hay ngược lại cần được xác
định, nhưng rằng chúng có tương quan thì rất
có khả năng. Trong huyền môn, thường thì những
thay đổi “ở trên” tạo ra những thay đổi
“ở dưới.” |
250. In this whole matter of
the higher and lower rays of man, we have (as Plato said) “same” and
“different”, or “same” and “other” |
250. Trong toàn bộ vấn đề về
các cung cao và thấp của con người, chúng ta có
(như Plato đã nói) “đồng nhất” và “khác biệt”,
hay “giống nhau” và “khác biệt.” |
251. What are the implications
of this ray set up? |
251. Những hàm ý của hệ thống cung
này là gì? |
a. There is a major monadic
ray; it remains always the same |
a. Có một cung chân thần chính; nó luôn
luôn bất biến. |
b. This major monadic ray
anchors itself in the spiritual triad, and that anchorage stays always the
same. The anchorage is described by the first term of the three threefold
groupings. |
b. Cung chân thần chính này neo vào Tam
nguyên tinh thần, và sự gắn neo đó luôn giữ
nguyên. Sự neo này được mô tả bằng yếu
tố đầu tiên trong ba bộ ba nhóm cung. |
c. The combination of major
monadic ray and its anchorage in the triad are (Platonically) “same”. |
c. Sự kết hợp giữa cung
chân thần chính và sự neo của nó trong Tam nguyên là (theo
Plato) “giống nhau.” |
d. There is a secondary monadic
ray; it is a subray of one of the three major rays. The subray can (and
probably will) change. This subray probably changes as evolution proceeds or,
later, according to need. |
d. Có một cung chân thần phụ; nó
là một cung phụ của một trong ba cung chính. Cung phụ
này có thể (và có lẽ sẽ) thay đổi. Cung này có lẽ
thay đổi khi tiến hóa tiến triển hoặc, về
sau, theo nhu cầu. |
e. The major outpost (of the
Monad) within the spiritual triad has an egoic outpost. This is equivalent to
saying that the major triadal anchorage has a subray. |
e. Tiền đồn chính (của Chân
thần) trong Tam nguyên tinh thần có một tiền đồn
chân ngã. Điều này tương đương với
việc nói rằng sự neo chính của Tam nguyên có một
cung phụ. |
f. That subray or sub-aspect is
either atmic, buddhic or manasic. This means that the triadal subray or
sub-aspect is either the first ray, second ray or the third ray (with the
possibility of four others—the Rays of Aspect) |
f. Cung phụ hay khía cạnh phụ
đó là atma, bồ đề hoặc trí tuệ. Điều
này có nghĩa là cung phụ của Tam nguyên là cung một,
hai hoặc ba (với khả năng bốn cung còn lại—các
Cung Thuộc Tính). |
g. In the beginning of human
evolution, the subrays or sub-aspect of the major triadal anchorage are
always the fourth, fifth, sixth or seventh rays—hence these four are
equivalent to a manasic sub-aspect (since manas includes rays four, five, six
and seven). |
g. Vào đầu giai đoạn tiến
hóa nhân loại, các cung phụ hoặc khía cạnh phụ
của sự neo chính của Tam nguyên luôn luôn
là cung bốn, năm, sáu hoặc bảy—vì thế bốn
cung này tương đương với một khía cạnh
phụ mang tính trí tuệ (vì manas bao gồm các cung bốn,
năm, sáu và bảy). |
h. Later the ray of the
soul/causal body/egoic lotus can change (according to certain laws) and then,
the subray or sub-aspect of the spiritual triad will also change accordingly.
(Which of these two may change first is still to be debated.) |
h. Sau đó, cung của linh hồn/thể
nguyên nhân/hoa sen chân ngã có thể thay đổi (theo một
số định luật), và khi đó, cung phụ hay khía
cạnh phụ của Tam nguyên tinh thần cũng sẽ
thay đổi tương ứng. (Cái nào thay đổi
trước thì vẫn còn là điều đang được
tranh luận). |
i. When the soul ray/causal
ray/egoic ray changes, does it mean that the subray of the Monad (on its own
plane) is also changing. Perhaps. This remains to be seen. We are talking now
about changes along the line of ray variability. |
i. Khi cung của linh hồn/thể
nguyên nhân/chân ngã thay đổi, liệu có nghĩa là cung phụ
của Chân thần (trên cõi riêng của nó) cũng thay đổi
không? Có thể. Điều này vẫn cần được
xem xét. Chúng ta hiện đang nói về những thay đổi
dọc theo dòng biến đổi cung. |
j. What does not change is the
major ray of the Monad and its major anchorage within the spiritual triad. |
j. Điều không thay đổi là
cung chính của Chân thần và sự neo chính của nó trong
Tam nguyên tinh thần. |
252. This, at least, is one
theory and deserves consideration. |
252. Đây, ít nhất, là một lý thuyết
và đáng được cân nhắc. |
253. The only thing to be
solved relates to questions such as the following? |
253. Điều duy nhất còn lại để
giải quyết liên quan đến các câu hỏi như
sau: |
a. Can “egos” on manasic rays
(three, four, five, six or seven) ever focus atmically or buddhically
in the triadal sub-aspect? |
a. Liệu các “chân ngã” thuộc các cung
trí tuệ (ba, bốn, năm, sáu hoặc bảy) có thể
tập trung ở cấp độ atma hoặc bồ
đề trong khía cạnh phụ của Tam nguyên không? |
b. The answer is a qualified
“yes”, for the following reasons and using the following examples: |
b. Câu trả lời là “có”, nhưng có
điều kiện, với các lý do và ví dụ sau đây: |
i. All souls/”egos”/causal
bodies/egoic lotuses begin their focus upon the fourth, fifth, sixth or
seventh rays. They are thus focussed manasically in the sub-aspect of the
triad, though the human being concerned would not know that being of too low
a consciousness for such a realization. |
i. Mọi linh hồn/“chân ngã”/thể
nguyên nhân/hoa sen chân ngã đều bắt đầu với
tập trung trên cung bốn, năm, sáu hoặc bảy.
Như vậy, họ tập trung vào khía cạnh phụ
trí tuệ trong Tam nguyên, mặc dù con người liên quan
thì không biết điều đó do tâm thức còn quá thấp
để nhận ra. |
ii. Later, for instance, a
fourth ray soul/”ego” may become a third ray soul, in which case it keeps its
secondary triadal focus as manasic. |
ii. Về sau, ví dụ, một
linh hồn cung bốn có thể trở thành linh hồn
cung ba, trong trường hợp đó y giữ tiêu điểm
phụ Tam nguyên là trí tuệ. |
iii. Or a fourth ray soul/”ego”
may become a second ray soul, in which case its secondary triadal focus
becomes buddhic. |
iii. Hoặc một linh hồn
cung bốn có thể trở thành linh hồn cung hai, khi
đó tiêu điểm phụ của Tam nguyên trở thành bồ
đề. |
iv. Or a fourth ray soul may
remain a fourth ray soul even up to the fourth initiation, in which case it
keeps its secondary triadal focus as manasic (though there must necessarily
be buddhic resonance because of the relationship between the numbers two and four).
Perhaps as a fourth ray soul progressed it could be said to focus buddhically (for in an advanced person, the fourth ray
and the number four are related to the buddhic plane). This is the other
option, but a fourth ray soul becoming a third ray soul would definitely
focus within the third sub-aspect of the spiritual triad. |
iv. Hoặc một linh hồn cung
bốn có thể vẫn giữ cung bốn cho đến
lần điểm đạo thứ tư, khi đó y giữ
tiêu điểm phụ Tam nguyên là trí tuệ (mặc dù tất
yếu sẽ có cộng hưởng bồ đề do mối
liên hệ giữa số hai và số bốn). Có thể
nói rằng khi một linh hồn cung bốn tiến hóa, y
có thể tập trung ở mức bồ đề (vì ở
một người tiến hóa, cung bốn và số bốn
có liên quan đến cõi bồ đề). Đây là một
lựa chọn khác, nhưng một linh hồn cung bốn
trở thành linh hồn cung ba thì chắc chắn sẽ tập
trung trong khía cạnh phụ thứ ba của Tam nguyên tinh
thần. |
v. Everything just said about
the fourth ray soul can be predicated of the sixth ray soul for both of them
can transfer to either the third or the second rays. |
v. Mọi điều vừa nói về
linh hồn cung bốn cũng có thể áp dụng cho linh hồn
cung sáu, vì cả hai đều có thể chuyển sang cung
ba hoặc cung hai. |
vi. Again, if the transfer is
to the third ray, the secondary triadal focus in the triad becomes (or
remains) manasic. If to the second ray, the secondary triadal focus becomes
buddhic. |
vi. Một lần nữa, nếu
chuyển sang cung ba, thì tiêu điểm phụ Tam nguyên trở
thành (hoặc vẫn là) trí tuệ. Nếu chuyển sang
cung hai, tiêu điểm phụ Tam nguyên trở thành bồ
đề. |
vii. And if there is no
transfer, the situation is ambiguous, as the sixth ray is certainly within
the Rays of Brahma, but is buddhically resonant as
buddhi is the sixth principle. |
vii. Nếu không có sự chuyển
đổi, tình huống trở nên mơ hồ, vì cung sáu
chắc chắn thuộc về các Cung của Brahma,
nhưng lại cộng hưởng với bồ đề
vì bồ đề là nguyên khí thứ sáu. |
viii. In all of this, however,
we see that the fourth ray or sixth ray soul does not develop an secondary atmic
focus within the spiritual triad—unless, by special dispensation. That is to
say, if the monadic subray changes (according to planetary need, for
instance) it may have an effect upon the secondary triadal ray impressing it
with a first ray/atmic coloration where none would normally be expected. |
viii. Tuy nhiên, trong tất cả
điều này, ta thấy rằng linh hồn cung bốn
hoặc cung sáu không phát triển tiêu điểm phụ
atma trong Tam nguyên tinh thần—trừ khi có một sự ân
huệ đặc biệt. Tức là, nếu cung phụ của
Chân thần thay đổi (theo nhu cầu hành tinh, chẳng
hạn), điều đó có thể ảnh hưởng
đến cung phụ của Tam nguyên, gây ấn tượng
lên nó với sắc thái cung một/atma mà bình thường
sẽ không có. |
ix. BUT such a change in the
monadic subray might occur only very late in evolution when the ray of the
“ego” would be rather inconsequential, i.e., there might no longer be a
causal body. Of such changes we know very little other than the likelihood of
their probability. |
ix. Nhưng một sự thay
đổi như vậy trong cung phụ của Chân thần
có thể chỉ xảy ra rất muộn trong tiến
trình tiến hóa khi cung của “chân ngã” trở nên không còn
quan trọng nữa, tức là, khi thể nguyên nhân không còn
tồn tại. Về những thay đổi như vậy,
chúng ta biết rất ít, ngoại trừ khả năng
cao là chúng có thể xảy ra. |
x. If there were no longer a
causal body, the possibilities of change would become more flexible—perhaps. |
x. Nếu thể nguyên nhân không còn
nữa, thì khả năng thay đổi có thể trở
nên linh hoạt hơn—có thể là vậy. |
xi. Souls initially upon the
fifth ray either stay on that ray through the fifth initiation (in which case
their secondary triadal focus remains manasic, or they transfer, usually, to
the first ray, in which case their secondary triadal focus would be atmic). |
xi. Những linh hồn ban đầu
thuộc cung năm hoặc sẽ ở lại trên cung
đó cho đến lần điểm đạo thứ
năm (trong trường hợp này tiêu điểm phụ
Tam nguyên của họ vẫn là trí tuệ), hoặc họ
sẽ chuyển đổi, thường là sang cung một,
khi đó tiêu điểm phụ Tam nguyên của họ sẽ
là atma. |
xii. Let us remember that these
changes of secondary triadal focus do not affect the primary triadal focus
which is dependent upon the major ray of the Monad. |
xii. Hãy nhớ rằng những
thay đổi trong tiêu điểm phụ của Tam nguyên
không ảnh hưởng đến tiêu điểm chính của
Tam nguyên, vốn phụ thuộc vào cung chính của Chân thần. |
xiii. Why the fifth ray soul
does not usually or even sometimes change to the third ray soul is
problematic, as the fifth and third rays are so similar in some ways. Were
such a transfer to take place, the secondary triadal focus of such a soul
would remain manasic. |
xiii. Vì sao linh hồn cung năm
thường không chuyển sang linh hồn cung ba là điều
gây thắc mắc, vì cung năm và cung ba có nhiều điểm
tương đồng. Nếu sự chuyển đổi
như vậy xảy ra, tiêu điểm phụ Tam nguyên của
linh hồn ấy sẽ vẫn là trí tuệ. |
xiv. As for the seventh ray
souls, it would seem that they would transfer (IF they transfer before the
fourth degree) to either the atmic or manasic secondary triadal focus. But
there is an example in DINA I of a seventh ray soul refocusing upon the
second ray, and thus a buddhic secondary focus in the triad would be the
result of such refocusing. |
xiv. Về phần các linh hồn
cung bảy, có vẻ như nếu họ chuyển đổi
(NẾU họ chuyển đổi trước lần
điểm đạo thứ tư), thì sẽ là sang tiêu
điểm phụ atma hoặc trí tuệ trong Tam nguyên.
Nhưng có một ví dụ trong DINA I về một linh hồn
cung bảy tái định tâm trên cung hai, và như vậy
tiêu điểm phụ bồ đề trong Tam nguyên sẽ
là kết quả của sự tái định tâm này. |
xv. The changes which occur in
the monadic subray cannot be ascertained by such as us. We barely know when
the soul is changing its ray focus. But that changes in the monadic subray do
occur can be seen in the assertion that the Masters can change to any ray
according to need. St. Paul/Hilarion is a good example, for surely as the
fifth ray Chohan He is focussed on the monadic fifth subray, but His major
monadic ray must be the first (so it can be reasonably inferred). |
xv. Những thay đổi xảy
ra trong cung phụ của Chân thần là điều chúng ta
không thể xác định được. Chúng ta thậm
chí còn khó biết được khi nào linh hồn thay
đổi cung. Nhưng việc có những thay đổi
trong cung phụ của Chân thần là điều có thể
thấy được qua khẳng định rằng
các Chân sư có thể thay đổi sang bất kỳ
cung nào theo nhu cầu. Thánh Paul/Chân sư Hilarion là một ví
dụ tốt, vì chắc chắn rằng với tư
cách là Chohan cung năm, Ngài tập trung trên cung phụ chân
thần năm, nhưng cung chính của Chân thần Ngài hẳn
phải là cung một (đây là điều có thể suy luận
một cách hợp lý). |
254. Chúng ta được cung cấp một
thông tin thú vị về Chân sư Tây Tạng trong DINA II
(trang 761?). Ngài nói rằng có những khía cạnh trong bản
chất của Ngài là thuộc cung một, nhưng những
khía cạnh đó là của Tam nguyên. Chúng ta sẽ phải
suy ngẫm điều này dưới ánh sáng của các luận
điểm trước. Sau đây là một số giả
thuyết: |
|
a. Master DK is a second ray
soul, probably with an egoic subray which is the third |
a. Chân sư DK là một linh hồn cung
hai, có lẽ với cung phụ chân ngã là cung ba. |
b. Master DK is inferentially a
third ray Monad as is the Buddha, whereas Master KH is inferentially a second
ray Monad as is the Christ. |
b. Có thể suy ra rằng Chân sư DK
là một Chân thần cung ba như Đức Phật,
trong khi Chân sư KH có thể là Chân thần cung hai như
Đức Christ. |
c. If Master DK is a third ray
Monad (His major monadic ray) His primary triadal focus is and remains
manasic. |
c. Nếu Chân sư DK là Chân thần
cung ba (cung chính chân thần của Ngài), thì tiêu điểm
chính của Tam nguyên của Ngài là, và vẫn là, trí tuệ. |
d. If He is a second ray soul,
His secondary triadal focus would be buddhic. |
d. Nếu Ngài là linh hồn cung hai, thì
tiêu điểm phụ của Tam nguyên của Ngài sẽ
là bồ đề. |
e. Then, in what manner can we
say that there are aspects His triad which are of a first ray nature? This
may mean one of several possible options: |
e. Vậy thì, bằng cách nào ta có thể
nói rằng có những khía cạnh trong Tam nguyên của Ngài
mang bản chất cung một? Điều này có thể có
một trong các khả năng sau: |
i. Master DK has become more shamballically responsive and, therefore, the secondary
focus in His triad has changed to atmic. |
(i) Chân sư DK đã trở nên nhạy
bén hơn với ảnh hưởng Shamballa, do đó tiêu
điểm phụ trong Tam nguyên của Ngài đã chuyển
thành atma. |
ii. Master DK has switched onto
the first subray of His third ray Monad—for reasons we cannot ascertain. If
this happened, the secondary triadal focus could or would reflect this
change. |
(ii) Chân sư DK đã chuyển
sang cung phụ thứ nhất của Chân thần cung ba của
Ngài—vì những lý do mà chúng ta không thể xác định. Nếu
điều này xảy ra, tiêu điểm phụ trong Tam
nguyên có thể hoặc sẽ phản ánh sự thay đổi
này. |
iii. Master DK no longer has a
causal body and so He can have greater flexibility in his secondary triadal
focus. |
(iii) Chân sư DK không còn có thể
nguyên nhân, vì vậy Ngài có sự linh hoạt lớn hơn
trong tiêu điểm phụ của Tam nguyên. |
iv. The only other possibility
is that Master DK became a first ray soul (which would accord with a
secondary triadal focus which is atmic). This, however, does not seem
intuitively correct. |
(iv) Khả năng duy nhất khác
là Chân sư DK đã trở thành linh hồn cung một
(điều này sẽ tương ứng với tiêu
điểm phụ atma trong Tam nguyên). Tuy nhiên, điều
này dường như không hợp lý về mặt trực
giác. |
v. The hypothesis is that the
secondary triadal focus is usually bound to the soul ray, except after the
fourth initiation when increasing Shamballic focus enters, increasing
response to the will, and increasing flexibility in triadal focus. |
(v) Giả thuyết là: tiêu điểm
phụ trong Tam nguyên thường gắn liền với
cung của linh hồn, trừ khi sau lần điểm
đạo thứ tư, khi sự tập trung vào Shamballa
gia tăng, sự đáp ứng với Ý chí gia tăng, và
sự linh hoạt trong tiêu điểm Tam nguyên cũng
tăng theo. |
255. We have been moving
through some real complexities and the process has been speculative
reason—not yet “pure reason”, but I trust it has given us all something to
think about in relation to these very important matters. |
255. Chúng ta đã đi qua một số phức
tạp thực sự, và quá trình này là suy luận giả
thuyết—chưa phải là “thuần lý”, nhưng tôi tin rằng
điều này đã mang lại cho chúng ta những điều
đáng suy ngẫm liên quan đến các vấn đề
rất quan trọng này. |
256. All of us want to know our
soul ray and to express it in line with the Divine Plan. |
256. Tất cả chúng ta đều mong muốn
biết cung linh hồn của mình và biểu lộ nó phù hợp
với Thiên Cơ. |
257. Increasingly, all of want
to know our secondary triadal focus so we can use that focus more effectively
for the same reason. |
257. Ngày càng nhiều người trong chúng ta
mong muốn biết tiêu điểm phụ Tam nguyên của
mình để có thể sử dụng tiêu điểm
đó hiệu quả hơn, cũng vì lý do tương tự. |
258. And of course, as time
passes, we wish to know our monadic ray, as this will be the ray upon which
we function when we become a high initiate or Master—someone who can really
be effective in wielding the energies of the Plan. |
258. Và dĩ nhiên, theo thời gian, chúng ta
cũng mong muốn biết cung của Chân thần mình, vì
đó sẽ là cung mà chúng ta hoạt động trên đó
khi trở thành một điểm đạo đồ
cao cấp hay một Chân sư—một người có thể
thật sự hiệu quả trong việc sử dụng
năng lượng của Thiên Cơ. |
259. Pondering these matters
can bring us into truer alignment with our own higher nature and render us
more effective servers. |
259. Suy ngẫm về những vấn đề
này có thể giúp chúng ta đạt đến sự chỉnh
hợp chân thực hơn với bản chất cao
hơn của chính mình và khiến chúng ta trở thành những
người phụng sự hiệu quả hơn. |
260. Not much has been said
here about the two soul rays (EP II 18), but one of them can be inferred to
be the major soul ray (accounting for the secondary triadal focus) and the
other a secondary ray on the level of the “ego” or soul itself. This ray,
too, is subject to change, but, I would suspect, far less frequently than the
personality ray. |
260. Không có nhiều điều được
nói ở đây về hai cung của linh hồn (EP II, tr.
18), nhưng có thể suy luận rằng một trong số
đó là cung linh hồn chính (tương ứng với
tiêu điểm phụ trong Tam nguyên) và cung còn lại là một
cung phụ ở mức độ của “chân ngã” hay linh
hồn. Cung này cũng có thể thay đổi, nhưng
tôi cho rằng hiếm hơn nhiều so với cung của
phàm ngã. |
261. The study of monadic, soul
and personality cycles is indispensable in attempting to clarify these
issues. |
261. Việc nghiên cứu các chu kỳ của
Chân thần, linh hồn và phàm ngã là điều không thể
thiếu trong nỗ lực làm sáng tỏ những vấn
đề này. |
262. We can see how incredibly
intricate is this study of ray psychology (especially when the higher aspects
of a man’s nature must be evaluated). Our best course of action is hypothesis
and the testing of hypothesis, over time, accompanied by much close and careful
observation of life and our fellow human beings. |
262. Chúng ta có thể thấy nghiên cứu về
tâm lý học theo cung là một lĩnh vực vô cùng phức
tạp (đặc biệt là khi phải đánh giá các
phương diện cao hơn của bản chất con
người). Cách tiếp cận tốt nhất của
chúng ta là xây dựng giả thuyết và kiểm nghiệm
chúng theo thời gian, đồng thời quan sát thật
sát sao và cẩn trọng cuộc sống và những
người đồng hành nhân loại của chúng ta. |
[178] |
|
The third period, wherein the monadic ray makes itself felt on the physical plane, is by far the shortest, and covers the period in which the sixth triangle holds sway. |
Thời kỳ thứ ba, khi cung chân thần
tự khiến mình được cảm nhận trên cõi
hồng trần, là ngắn nhất, và bao trùm giai đoạn
mà tam giác thứ sáu nắm quyền chi phối. |
263. The sixth triangle being, from p. 170: |
263. Tam giác thứ sáu là,
theo tr. 170: |
6. Spiritual man to the fifth Initiation |
6. Con người tinh thần đến
lần điểm đạo thứ năm |
a. The heart. |
a. Tim. |
b. The seven head centres. |
b. Bảy trung tâm đầu. |
c. The two many-petalled lotuses. |
c. Hai đóa sen nhiều cánh. |
264. Note that we are speaking about the monadic ray making itself felt on the physical plane. We have already established that even at the first initiation it is making itself felt in the soul nature. |
264. Lưu ý rằng chúng
ta đang nói về cung chân thần tự khiến mình
được cảm nhận trên cõi hồng trần.
Chúng ta đã xác quyết rằng ngay ở lần điểm
đạo thứ nhất, nó đã khiến mình được
cảm nhận trong bản chất linh hồn. |
265. The third triangle spans the period from the third initiation to the fifth, an ideal time for the monadic ray to make itself felt, but not yet the period in which the monadic ray comes to full power. |
265. Tam giác thứ ba trải
dài giai đoạn từ lần điểm đạo thứ
ba đến thứ năm, một thời điểm lý
tưởng để cung chân thần tự khiến mình
được cảm nhận, nhưng vẫn chưa phải
là giai đoạn cung chân thần phát huy trọn quyền
lực. |
266. Of course the number six fits with the monadic factor since the Monad is found upon the sixth systemic plane (counting from below). |
266. Tất nhiên con số
sáu phù hợp với yếu
tố chân thần vì Chân thần nằm trên cõi hệ thống
thứ sáu (tính từ
dưới lên). |
267. We note that DK speaks of the period when “the sixth triangle holds sway”. He does not speak, here, of the monadic ray holding sway. That would happen later, when man becomes a Chohan, and even beyond that point. |
267. Chúng ta ghi nhận rằng
Chân sư DK nói về giai đoạn khi “tam giác thứ sáu
nắm quyền chi phối”. Ở đây Ngài không nói cung
chân thần nắm quyền chi phối. Điều đó
sẽ xảy ra về sau, khi con người trở thành
một Chohan, và còn vượt quá điểm đó nữa. |
268. How short may this period be; it could be as short as one or two incarnations—an astonishing thought. |
268. Giai đoạn này ngắn
đến mức nào; nó có thể ngắn chỉ một
hay hai lần lâm phàm—một ý nghĩ thật đáng kinh ngạc. |
It marks the period of achievement, of liberation, and therefore, although it is the shortest period when viewed from below upward, it is the period of comparative permanence when viewed from the plane of the Monad. |
Đó là thời kỳ của thành tựu,
của giải thoát, và do vậy, tuy là thời kỳ ngắn
nhất khi nhìn từ dưới lên, nhưng lại là thời
kỳ có tính bền vững tương đối khi nhìn
từ cõi của Chân thần. |
269. For ages after that achievement of growing monadic prominence, the Monad becomes the main factor in the life of the unit, man. What is it that journeys on the seven or nine Paths of Higher Evolution? It is the Monad. That journey can take ages—far longer than the first two stages of growth governed by the personality ray and the soul ray. |
269. Trong nhiều thời
đại sau thành tựu ấy của sự tăng dần
tính trội của chân thần, Chân thần trở thành yếu
tố chính trong đời sống của đơn vị,
con người. Cái gì du hành trên bảy hay chín Con đường
Tiến Hóa Cao Siêu? Chính là Chân thần. Cuộc hành trình
đó có thể kéo dài qua các thời đại—lâu hơn rất
nhiều so với hai giai đoạn tăng trưởng
đầu tiên do cung phàm ngã và cung linh hồn cai quản. |
It covers the totality of time remaining in the one hundred years of Brahma, or the remainder of the process of manifestation. |
Nó bao trùm toàn bộ thời gian còn lại
trong trăm năm của Brahma, hay phần còn lại của
tiến trình biểu lộ. |
270. The history of the Monad is lost in the night of time. We have always been Monads of different scope (a fascinating subject better not taken up here but discussed in Infinitization of Selfhood). The Solar Logos is about half way through His present solar system, which means that perhaps fifty years of Brahma remain—a stupendous period of time. |
270. Lịch sử của
Chân thần thất lạc trong đêm dài thời gian.
Chúng ta vốn luôn là các Chân thần với quy mô khác nhau (một
chủ đề hấp dẫn nhưng tốt hơn
không bàn ở đây mà được thảo luận
trong Infinitization of Selfhood ). Thái dương
Thượng đế hiện đang đi được
khoảng nửa chừng trong hệ mặt trời hiện
tại của Ngài, điều này có nghĩa là có lẽ
còn khoảng năm mươi năm của Brahma—một
khoảng thời gian khôn lường. |
271. If indeed man remains consciously focussed as a Monad (of whatever scope) during this period, we can see why the period should be called a period of comparative permanence. |
271. Nếu thật sự
con người vẫn duy trì tập trung có ý thức
như một Chân thần (dù với quy mô nào) trong giai
đoạn này, chúng ta có thể thấy vì sao giai đoạn
ấy được gọi là giai đoạn có tính bền
vững tương đối. |
272. What man may have been as a Monad before the development of our Solar Logos, or what man may be as a Monad after the sixth or seventh cosmic initiation of our Solar Logos are mysteries which are, for us, unfathomable. |
272. Con người có thể
đã là gì với tư cách một Chân thần trước
sự phát triển của Thái dương Thượng
đế của chúng ta, hoặc con người có thể
là gì với tư cách một Chân thần sau lần điểm
đạo vũ trụ thứ sáu hay thứ bảy của
Thái dương Thượng đế của chúng
ta—đó là những điều bí nhiệm đối với
chúng ta, bất khả dò thấu. |
273. There is only one thing to say: there is but One Monad in all cosmos, and that which is now man has (during this cosmos) ever been that Monad and/or an emanation of it. |
273. Chỉ có một
điều để nói: trong toàn cõi vũ trụ chỉ
có Một Chân thần, và cái hiện nay là con người
đã (trong vũ trụ này) vẫn
luôn là Chân thần ấy và/hoặc một xuất lộ
của Ngài. |
When we study, therefore, the sets of triangles earlier referred to and the periods of ray dominance, we will find much room for thought. |
Vì vậy, khi chúng ta khảo cứu các bộ
tam giác đã nói trước và các thời kỳ cung chi phối,
chúng ta sẽ thấy có nhiều điều đáng suy ngẫm.
|
274. One observation which always seems true is that the second period is the shortest. The reign of the soul ray is shorter than the reign of the personality or monadic rays. |
274. Một nhận xét
dường như luôn đúng là thời kỳ thứ hai
là ngắn nhất. Thời kỳ cai trị của cung
linh hồn ngắn hơn thời kỳ cai trị của
cung phàm ngã hoặc của cung chân thần. |
275. This same pattern may hold when examining many cycles—the second part of a three part cycle may be the shortest. |
275. Mô thức này có thể
vẫn đúng khi khảo sát nhiều chu kỳ—phần thứ
hai của một chu kỳ ba phần có thể là ngắn
nhất. |
Let me here point out, however, that the six groups of triangles are in all but five if we eliminate the pranic triangle which has to do with matter itself and is not counted any more than the dense physical is counted a principle. |
Cho phép tôi chỉ ra ở đây rằng
sáu nhóm tam giác thực chất chỉ còn năm nếu
chúng ta loại bỏ tam giác prana, vốn liên quan đến
chính chất liệu, và không được tính, cũng
như thể xác đậm đặc không được
tính là một nguyên khí. |
276. This is an important thought. Strictly physical energies are not in the same category as the more subjective energies which are related to true principles. |
276. Đây là một ý
tưởng quan trọng. Các năng lượng thuần
thể xác không cùng loại với các năng lượng
chủ quan hơn, vốn liên hệ với các nguyên khí
đích thực. |
277. We recall that we have been studying five centers—each one them related to the first five planes—base of spine to etheric, solar plexus to astral, throat to mental, heart to buddhic and crown to atmic. |
277. Chúng ta nhớ rằng
chúng ta đã nghiên cứu năm trung tâm—mỗi trung tâm liên
hệ với năm cõi đầu tiên—đáy cột sống
với dĩ thái, tùng thái dương với cảm dục,
cổ họng với trí, tim với Bồ đề và
đỉnh đầu với atma. |
278. The pranic triangle does not relate to second solar system principles. |
278. Tam giác prana không liên hệ
với các nguyên khí của hệ mặt trời thứ
hai. |
Therefore we have: |
Vì vậy chúng ta có: |
a. Two triangles brought to vivification by the personality ray. |
a. Hai tam giác được cung phàm ngã sinh
động hoá. |
b. Two triangles brought to vivification by the egoic ray. |
b. Hai tam giác được cung chân ngã sinh
động hoá. |
c. The synthesising triangle of the Monad. |
c. Tam giác tổng hợp của Chân thần. |
279. The first, or pranic triangle is eliminated. Triangles two and three are vivified by the personality ray; triangles four and five by the soul ray: triangle six by the monadic ray. |
279. Tam giác thứ nhất,
tức tam giác prana, bị loại bỏ. Tam giác hai và ba
được cung phàm ngã sinh động hoá; tam giác bốn
và năm do cung linh hồn; tam giác sáu do cung chân thần. |
280. Again reflecting the dual first two, with the Monad as singular, synthesizing Electric Fire. |
280. Lại một lần
nữa, phản chiếu hai cái đầu tiên theo nhị
nguyên, với Chân thần như đơn nhất thể,
tổng hợp Lửa Điện. |
281. The synthesizing triangle of the Monad includes |
281. Tam giác tổng hợp
của Chân thần gồm |
a. The heart |
a. Tim |
b. The seven head centers |
b. Bảy trung tâm đầu |
c. The two many-petalled lotuses. |
c. Hai đóa sen nhiều
cánh. |
We must, nevertheless, recollect that the complexity is increased by the fact that the personality triangles will be brought to full activity according to the ray of the Monad or Spirit. Therefore, no hard or fast rule can be laid down about development. |
Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng
tính phức tạp gia tăng do thực tế là các tam
giác phàm ngã sẽ được đưa đến hoạt
động viên mãn tùy theo cung của Chân thần hay Thần
Linh. Vì vậy, không thể đặt ra một quy luật
cứng nhắc nào về sự phát triển. |
282. We are being given only the simplest triangular patterns in the developmental process. |
282. Chúng ta chỉ đang
được trình bày những mô hình tam giác đơn giản
nhất trong tiến trình phát triển. |
283. There are other personality triangles not here listed, and the ones that are listed will have the various chakras activated in a distinct order depending upon the monadic ray. In any triangle the chakra which hold the position of major for the triangle may, it seems, depend upon the monadic ray. We have already given some suggestions as to the order of activation of chakras within a triangle according to monadic ray. |
283. Có những tam giác phàm
ngã khác không được liệt kê ở đây, và các
tam giác đã liệt kê sẽ có trình tự hoạt hóa các
luân xa khác nhau tùy theo cung chân thần. Trong bất kỳ tam
giác nào, có vẻ như luân xa giữ vị trí chủ trong
tam giác có thể tùy thuộc cung chân thần. Chúng ta đã
đưa ra một vài gợi ý về thứ tự kích
hoạt các luân xa trong một tam giác theo cung chân thần. |
284. Again, why would it be so that the body and personality are more qualified by the monad and its cycles, than by the “Ego” and its cycles? |
284. Một lần nữa,
vì sao thân và phàm ngã lại được định cách bởi
chân thần và các chu kỳ của Ngài hơn là bởi
“Chân ngã” và các chu kỳ của nó? |
The egoic triangles are dependent largely upon the reflection in the personality of the spiritual life force. They are the midway point, just as the causal or egoic body is the transmitting point (when sufficiently equipped and built) between the higher and the lower. |
Các tam giác chân ngã phần lớn tùy thuộc
vào phản ảnh trong phàm ngã của sinh lực tinh thần.
Chúng là Điểm ở giữa, cũng như thể
nguyên nhân hay thể chân ngã là điểm truyền dẫn
(khi đã được trang bị và kiến tạo
đầy đủ) giữa cái cao và cái thấp. |
285. The egoic triangles are the fourth and fifth in the list of six; thus, the fourth and fifth triangles are both the “midway point” (reference to Stanza I ).– |
285. Các tam giác chân ngã là tam
giác thứ tư và thứ năm trong danh sách sáu; như vậy,
cả tam giác thứ tư và thứ năm đều là
“Điểm ở giữa” (tham chiếu đến Khổ
I).– |
286. We notice that in both of these ‘midway’ triangles, part or all of the seven head centers are active. |
286. Chúng ta để ý rằng
trong cả hai tam giác ‘trung gian’ này, một phần hoặc
toàn bộ bảy trung tâm đầu đều hoạt
động. |
287. DK offers an analogy between the causal body as transmitters between the Monad and personality and the midway triangles as transmitters between the highest triangle and the two lowest (not counting the pranic triangle). |
287. Chân sư DK
đưa ra một phép tương đồng giữa thể
nguyên nhân như bộ phận truyền dẫn giữa
Chân thần và phàm ngã, và các tam giác trung gian như bộ phận
truyền dẫn giữa tam giác cao nhất và hai tam giác thấp
nhất (không tính tam giác prana). |
288. We note that the causal body is not always such a transmitter. It has to be sufficiently unfolded to accomplish this function. |
288. Chúng ta lưu ý rằng
thể nguyên nhân không phải lúc nào cũng là bộ phận
truyền dẫn như thế. Nó phải được
khai mở đủ mức để thực hiện chức
năng này. |
The permanent atoms are enclosed within the periphery of the causal body, yet that relatively permanent body is built and enlarged, expanded and wrought [the work of Vulcan] into [179] a central receiving and transmitting station (using inadequate words to convey an occult idea) by the direct action of the centres, and of the centres above all. |
Các nguyên tử trường tồn
được bao bọc trong chu vi của thể nguyên
nhân, tuy thân thể tương đối trường tồn
ấy được kiến tạo và được mở
rộng, nới rộng và được rèn luyện [the work of Vulcan] thành [179] một trạm tiếp nhận và truyền
dẫn trung tâm (dùng những từ không tương xứng
để chuyển tải một ý niệm huyền bí)
do tác động trực tiếp của các trung tâm, và nhất
là của các trung tâm cao hơn. |
289. How the permanent atoms may be “enclosed within the periphery of the causal body” and still remain on their own plane is perhaps a mystery. We are told that the causal periphery extends far beyond the range of the lower bodies, and this asserted fact alone may signify enclosure. |
289. Làm thế nào các nguyên
tử trường tồn có thể “được bao bọc
trong chu vi của thể nguyên nhân” mà vẫn lưu lại
trên cõi riêng của chúng có lẽ là một điều bí
nhiệm. Chúng ta được cho biết rằng chu vi
nhân thể trải xa vượt khỏi tầm của
các hạ thể, và chỉ riêng sự kiện được
khẳng quyết này đã có thể hàm ý sự bao bọc. |
290. We are being given a really important piece of information. How is the causal body built? By the direct action of the centers. The centers are involved in transferring the quality accumulated into incarnation into the causal body. When the bodies of the personality sequentially ‘die’, the whirling energy (monadically and egoically impulsed) which produces the chakras is naturally withdrawn as well. We may infer that in this withdrawal, quality is transferred, and directly transferred. |
290. Chúng ta đang
được trao một mảnh thông tin thật sự
quan trọng. Thể nguyên nhân được kiến tạo
như thế nào? Bằng tác động trực tiếp
của các trung tâm. Các trung tâm tham gia vào việc chuyển tải
phẩm tính tích lũy trong kỳ lâm phàm vào thể nguyên
nhân. Khi các thể của phàm ngã lần lượt ‘chết’,
năng lượng xoáy (được chân thần và chân
ngã xung động) vốn tạo nên các luân xa cũng tự
nhiên được thu hồi. Ta có thể suy ra rằng
trong sự thu hồi này, phẩm tính được chuyển
giao, và được chuyển giao trực tiếp. |
291. Let us think of the causal body as a central receiving and transmitting station. It receives from above and transmits to that which is below. The centers in the lower vehicles would receive this transmission. |
291. Chúng ta hãy nghĩ về
thể nguyên nhân như một trạm trung tâm tiếp nhận
và truyền dẫn. Nó tiếp nhận từ bên trên và truyền
xuống cái ở bên dưới. Các trung tâm trong các hạ
vận cụ sẽ tiếp nhận sự truyền dẫn
này. |
292. There is a question as to whether quality is built into the causal body throughout the incarnation or only at its termination. If throughout, then the chakras transmit from ‘below’ to ‘above’. |
292. Có câu hỏi rằng
liệu phẩm tính có được xây vào thể nguyên
nhân suốt kỳ lâm phàm hay chỉ vào lúc kết thúc. Nếu
là suốt kỳ lâm phàm, thì các luân xa truyền tải từ
‘dưới’ lên ‘trên’. |
Just as it was spiritual force, or the will aspect, that built the solar system, so it is the same force in the man that builds the causal body. |
Cũng như chính mãnh lực tinh thần,
hay phương diện ý chí, đã kiến tạo hệ
mặt trời, thì trong con người, cũng chính mãnh lực
ấy kiến tạo thể nguyên nhân. |
293. DK is equating spiritual force with the will aspect. The centers, we remember, are an expression of the will aspect. |
293. Chân sư DK đang
đồng nhất mãnh lực tinh thần với
phương diện ý chí. Chúng ta nhớ rằng các trung
tâm là biểu lộ của phương diện ý chí. |
294. We are continuing to speak of the building of the causal body through the direct agency of the centers. |
294. Chúng ta tiếp tục
nói về sự kiến tạo thể nguyên nhân thông qua
tác nhân trực tiếp là các trung tâm. |
295. The term “spiritual” is sometimes contrasted with “divine”. In such cases “spiritual” relates to the soul and “divine” to the Spirit. However, in this case, “spiritual” relates to the will, the spiritual triad and the Monad. |
295. Thuật ngữ “tinh
thần” đôi khi được đối chiếu với
“thiêng liêng”. Trong các trường hợp như vậy,
“tinh thần” liên hệ với linh hồn và “thiêng liêng” với
Thần Linh. Tuy nhiên, ở đây, “tinh thần” liên hệ
với ý chí, Tam Nguyên Tinh Thần và Chân thần. |
296. The greater the intensity of the centers the greater the transference of quality into the causal body. But, we may assume that the process is somewhat reciprocal—the centers gaining stimulation from the transmission from the causal body (ultimately impulsed by the Monad). |
296. Cường độ
các trung tâm càng lớn thì sự chuyển tải phẩm
tính vào thể nguyên nhân càng mạnh. Nhưng, có thể giả
định rằng tiến trình này phần nào có tính
tương hỗ—các trung tâm nhận kích thích từ sự
truyền dẫn từ thể nguyên nhân (rốt ráo do Chân
thần xung động). |
297. The permanent atoms, since they are lodged within the periphery of the causal body, may be involved in this transference. We shall have to wait to find out the actual manner of this transference. |
297. Các nguyên tử trường
tồn, vì được đặt trong chu vi của thể
nguyên nhân, có thể tham dự vào sự chuyển tải
này. Chúng ta sẽ phải chờ để biết
phương thức thực thụ của sự chuyển
tải. |
By the bringing together of spirit and matter (Father-Mother) in the macrocosm, and their union through the action of the will, the objective solar system, or the Son, was produced—that Son of desire, Whose characteristic is love, and Whose nature is buddhi or spiritual wisdom. |
Bằng sự quy tụ của Thần
linh và vật chất (Cha-Mẹ) trong đại thiên địa,
và hợp nhất của chúng nhờ tác động của
ý chí, hệ mặt trời khách quan, hay Ngôi Con, được
sản sinh— Ngôi Con của dục vọng, Đấng có
đặc trưng là Tình thương, và bản tính là Bồ
đề hay minh triết tinh thần. |
298. More is said here than may meet the eye: the faculty of will brings Spirit and matter together. Will, then, is, in this instance, a unitive force. |
298. Điều được
nói ở đây nhiều hơn những gì mắt thường
thấy: năng lực ý chí quy tụ Thần linh và vật
chất. Vậy ý chí, trong trường hợp này, là một
lực hợp nhất. |
299. The nature of the solar system is described from a psycho-spiritual angle. Love shines forth when will unites Spirit and matter. |
299. Bản tính của hệ
mặt trời được mô tả theo góc độ
tâm-linh. Tình thương toả sáng khi ý chí hợp nhất
Thần linh và vật chất. |
300. How is the solar system a “Son of desire”? We can say that it was produced by the “desire” of the Father for the Mother and reciprocally. |
300. Hệ mặt trời
là “Ngôi Con của dục vọng” như thế nào? Chúng ta
có thể nói rằng nó được sản sinh bởi
“dục vọng” của Cha dành cho Mẹ và ngược lại. |
301. A good definition of “buddhi is given”. Usually, the definitions of buddhi emphasize the love aspect. Here the wisdom aspect is represented, and the fact that buddhi is “spiritual” wisdom emphasizes the “spiritual” triad. The triad, we remember, is an expression of the will/Monad even though it is partially related to the soul aspect. |
301. “Bồ đề”
được đưa ra một định nghĩa
hay. Thông thường, các định nghĩa về Bồ
đề nhấn mạnh phương diện Tình
thương. Ở đây phương diện minh triết
được nêu bật, và việc Bồ đề là
“minh triết tinh thần” nhấn mạnh Tam Nguyên Tinh Thần.
Chúng ta nhớ rằng Tam Nguyên là một biểu lộ của
ý chí/Chân thần, dù nó phần nào liên hệ với
phương diện linh hồn. |
By the bringing together (in microcosm) of Spirit and matter, and their coherence by means of force (or the spiritual will) that objective system, the causal body, is being produced; |
Bằng sự quy tụ (trong tiểu
thiên địa) của Thần Linh và vật chất, và sự
kết dính của chúng nhờ lực (hay ý chí tinh thần),
hệ thống khách quan ấy, tức thể nguyên nhân,
đang được sản sinh; |
302. To show the inconsistency of spelling and the caution thus needed when considering whether spelling changes have significance, we note that in the earlier sentence “spirit” was not capitalized, and yet, in relation to a lesser process, it is capitalized as “Spirit” in the sentence immediately above. |
302. Để cho thấy
sự bất nhất trong chính tả và vì thế cần
thận trọng khi cân nhắc liệu thay đổi
chính tả có ý nghĩa hay không, chúng ta lưu ý rằng
trong câu trước “spirit” không viết hoa, vậy mà liên
quan đến một tiến trình thấp hơn, nó lại
được viết hoa thành “Spirit” ngay trong câu trên. |
303. The causal body would not exist unless Spirit and matter were held coherently together, by means of the spiritual will. We can, therefore, see that monadic energy and atmic energy are involved in the creation and sustenance of the causal body. It is not the work of the Solar Angels alone. |
303. Thể nguyên nhân sẽ
không tồn tại nếu Thần Linh và vật chất
không được gắn kết cố kết với
nhau, bằng ý chí tinh thần. Do đó, chúng ta thấy
năng lượng chân thần và năng lượng atma
tham dự vào sự kiến tạo và duy trì thể nguyên
nhân. Đây không chỉ là công trình của các Thái
dương Thiên Thần. |
304. We note that although the causal body seems subjective to the personality consciousness, it is considered the analogy to the solar system and is deemed objective. |
304. Chúng ta lưu ý rằng
tuy thể nguyên nhân dường như chủ quan đối
với tâm thức phàm ngã, nó lại được xem là
tương đồng với hệ mặt trời và
được coi là khách quan. |
it is the product of transmuted desire, whose characteristic (when fully demonstrated) will be love, the expression eventually on the physical plane of buddhi. |
nó là sản phẩm của dục vọng
đã chuyển hoá, mà đặc trưng (khi biểu lộ
trọn vẹn) sẽ là Tình thương, rốt cuộc
biểu hiện trên cõi hồng trần của Bồ
đề. |
305. We come to understand that the transmutation of desire is very important in the building of the causal body. |
305. Chúng ta hiểu rằng
sự chuyển hoá dục vọng là rất quan trọng
trong việc kiến tạo thể nguyên nhân. |
306. Through the casual body, love must demonstrate. From this description, buddhi is represented as still higher than love and must eventually, through the causal body, demonstrate upon the physical plane. |
306. Qua thể nguyên nhân,
Tình thương phải biểu lộ. Từ mô tả
này, Bồ đề được trình bày như còn cao
hơn Tình thương và rốt cuộc, qua thể nguyên
nhân, phải biểu lộ trên cõi hồng trần. |
307. Through the solar system love will demonstrate and eventually buddhi; the same, on a far smaller scale, is true of the causal body. |
307. Qua hệ mặt trời,
Tình thương sẽ biểu lộ và rốt ráo là Bồ
đề; điều tương tự, ở quy mô nhỏ
hơn rất nhiều, đúng với thể nguyên nhân. |
The causal body is but the sheath of the Ego. |
Thể nguyên nhân chỉ là vỏ bọc của
Chân ngã. |
308. Whether we call the causal body the “sheath” or the ‘shroud’, the idea is virtually the same. |
|
309. And now it becomes blazingly clear how the Tibetan has been using the term “Ego” in the foregoing instructions. It definitely means the spiritual triad. |
30 9. Và bây giờ
trở nên sáng rõ rực rỡ cách Chân sư Tây Tạng
đã dùng thuật ngữ “Chân ngã” trong các chỉ dẫn ở
trên. Đó dứt khoát là chỉ
Tam Nguyên Tinh Thần. |
310. The unsheathed soul is the spiritual triad. The unshrouded soul is the spiritual triad. |
310. Linh hồn khi thoát vỏ
chính là Tam Nguyên Tinh Thần. Linh hồn khi bỏ tấm
“khâm liệm” chính là Tam Nguyên Tinh Thần. |
311. All this goes to say that we are not truly the soul until we have built the antahkarana and can function in triadal consciousness free of causal limitations. This may be for some a relatively new thought. |
311. Tất cả điều
này muốn nói rằng chúng ta chưa thật sự là linh
hồn cho đến khi đã kiến tạo được
antahkarana và có thể vận dụng tâm thức tam nguyên, tự
do khỏi các giới hạn của thể nguyên nhân.
Đây có thể là một ý niệm tương đối
mới đối với một số người. |
The solar system is but the sheath of the Son. |
Hệ mặt trời chỉ là vỏ bọc
của Ngôi Con. |
312. By the solar system, DK does not mean only the physical solar system, but all the subtle levels of the solar system upon the cosmic physical plane. |
312. Khi nói hệ mặt
trời, Chân sư DK không chỉ có nghĩa hệ mặt
trời vật chất, mà là tất cả các tầng vi tế
của hệ mặt trời trên cõi hồng trần
vũ trụ. |
313. We see that the analogy is evocative of thought but is not perfect. Were it perfect, DK would compare the causal body of the Solar Logos to the causal body of man. |
313. Chúng ta thấy rằng
phép tương đồng này gợi mở tư duy
nhưng không hoàn toàn hoàn hảo. Nếu hoàn hảo, Chân
sư DK hẳn sẽ so sánh thể nguyên nhân của Thái
dương Thượng đế với thể nguyên
nhân của con người. |
In both the greater and the lesser systems, force centres exist which are productive of objectivity. The centres in the human being are reflections in the three worlds of those higher force centres. |
Trong cả đại hệ và tiểu hệ,
tồn tại các trung tâm lực tạo nên tính khách quan.
Các trung tâm trong con người là những phản ảnh
trong ba cõi giới của các trung tâm lực cao hơn
đó. |
314. Physical objectivity for the human being depends upon force centers especially focussed on the fourth systemic ether. Physical objectivity for the Solar Logos depends upon the focusing of energies upon the fourth cosmic ether (or buddhi plane), the higher correspondence to the systemic etheric plane. |
314. Tính khách quan thể
xác đối với con người tùy thuộc các trung
tâm lực được tập trung đặc biệt
trên dĩ thái hệ thống bậc bốn. Tính khách quan
đối với Thái dương Thượng đế
tùy thuộc sự tập trung các năng lượng trên
dĩ thái vũ trụ bậc bốn (hay cõi Bồ đề),
vốn là đối ứng cao của cõi dĩ thái hệ
thống. |
315. The really interesting thing being said there is that the human centres are reflections of the cosmic etheric centers, which are Ashrams and groupings related to the Hierarchy. Through our chakras we can and must reflect the Ashrams. |
315. Điều thật sự
thú vị được nói ở đây là các trung tâm con
người là những phản ảnh của các trung tâm
dĩ thái vũ trụ, tức các Ashram và các nhóm liên đới
với Thánh Đoàn. Thông qua các luân xa của chúng ta, chúng ta
có thể và phải phản chiếu các Ashram. |
Before taking up the subject of kundalini and the centres, it would be well to extend the information given above, from its prime significance for man, as that which concerns himself, to the solar system, the macrocosm, and to the cosmos. What can be predicated of the microcosm is naturally true of the macrocosm and of the cosmos. |
Trước khi bàn đến đề
tài kundalini và các trung tâm, sẽ là điều hay nếu mở
rộng thông tin vừa nêu, từ ý nghĩa chính yếu
đối với con người, như điều liên
quan đến chính y, sang hệ mặt trời, đại
thiên địa, và đến vũ trụ. Điều gì
có thể khẳng định được về tiểu
thiên địa thì tự nhiên cũng đúng với đại
thiên địa và với vũ trụ. |
316. DK is suggesting a macrocosmic extension but the triangles which go to the building of the planetary logoic causal body and the solar logoic causal body are not specified and, instead, are left to conjuncture. |
316. Chân sư DK gợi ý
một mở rộng vĩ mô, nhưng các tam giác góp phần
kiến tạo thể nguyên nhân của Hành Tinh Thượng
đế và của Thái dương Thượng đế
không được nêu rõ, mà để cho sự giả
thuyết. |
It will not be possible to give the systemic triangles, for the information would have to be so blinded that, except for those who have occult knowledge and the intuition developed, it would be practically useless intellectually, but certain things may be pointed out in this connection that may be of interest. |
Không thể đưa ra các tam giác hệ
thống, vì thông tin sẽ phải được che mờ
đến mức, ngoại trừ những ai có tri thức
huyền bí và trực giác đã phát triển, thì về trí
năng, nó gần như vô dụng; tuy vậy có thể chỉ
ra vài điều liên hệ có thể đáng quan tâm. |
317. Why would it be necessary to blind the information about the systemic triangles? Probably because meditative meddling could occur were the triangles revealed. |
317. Vì sao cần che mờ
thông tin về các tam giác hệ thống? Có lẽ vì có thể
xảy ra sự can thiệp bằng tham thiền nếu
các tam giác được tiết lộ. |
318. It is, perhaps, possible to work them out speculatively, with the caveat the every systemic center may involve the contribution of perhaps three planetary centers. |
318. Có lẽ có thể suy
diễn chúng một cách phỏng đoán, kèm cảnh báo rằng
mỗi trung tâm hệ thống có thể bao hàm đóng góp của
chừng ba trung tâm hành tinh. |
319. What of Earth, Venus, Jupiter? |
319. Còn Trái Đất, Sao
Kim, Sao Mộc thì sao? |
320. What of Earth, Jupiter, Saturn? |
320. Còn Trái Đất, Sao
Mộc, Sao Thổ? |
321. What of Jupiter, Saturn and Vulcan? |
321. Còn Sao Mộc, Sao Thổ
và Vulcan? |
322. What of Jupiter, Vulcan, Neptune/Uranus? |
322. Còn Sao Mộc, Vulcan,
Sao Hải Vương/Sao Thiên Vương? |
323. Quite a number of other triangles could be suggested each of which might represent three solar systemic chakras or all three (through aspects of themselves) might sustain a particular single chakra. Planetary Deities have more than one function and may be multiply involved in the dynamics of our solar system. |
323. Có thể gợi ý khá
nhiều tam giác khác, mỗi tam giác có thể biểu
trưng cho ba luân xa hệ mặt trời, hoặc cả
ba (thông qua các phương diện của chính chúng) có thể
nâng đỡ một luân xa riêng lẻ. Các Hành Tinh Thượng
đế có nhiều hơn một chức năng và có thể
tham dự đa diện vào động học của hệ
mặt trời chúng ta. |
324. An important piece of information is given: occult blinding challenges the intellect. At a certain point, deep occult blinding becomes impenetrable to the intellect. |
324. Một mẩu thông tin quan trọng được
đưa ra: sự che mờ huyền môn thách thức thể
trí. Đến một điểm nào đó, sự che mờ
huyền môn sâu xa trở nên bất khả xuyên thấu
đối với thể trí. |
The Solar System. We might briefly look at this from [180] the standpoint of the centres of the Heavenly Men and of the Grand Man of the Heavens, the Logos. |
Hệ Mặt Trời. Chúng ta có thể
nhìn nhanh điều này từ [180] góc độ các trung tâm
của Các Đấng Thiên Nhân và của Đấng Vĩ
Nhân của Trời, tức Thượng đế. |
325. The centers/chakras in a Heavenly Man are chains; in a Solar Logos, the centers/chakras are planetary schemes. |
325. Các trung tâm/luân xa
nơi một Đấng Thiên Nhân là các Dãy; nơi một
Thái dương Thượng đế, các trung tâm/luân xa
là các hệ hành tinh. |
a. The Heavenly Men. The Heavenly Men, in Themselves, embody centres just as does a human being, and on Their Own plane these centres of force can be found. |
a. Các Đấng Thiên Nhân. Chính Các Ngài tự
thân bao hàm các trung tâm cũng như con người, và trên
cõi riêng của Các Ngài có thể tìm thấy các trung tâm lực
này. |
326. We are dealing here with the Heavenly Men as chakras within the body of expression of a Solar Logos. |
326. Ở đây, chúng ta
đang xét đến Các Đấng Thiên Nhân như các luân
xa trong thể biểu lộ của một Thái
dương Thượng đế. |
Again we need to recollect that these centres of force on cosmic levels, |
Một lần nữa, chúng ta cần ghi
nhớ rằng các trung tâm lực này ở các cấp độ
vũ trụ, |
327. It is implied that Planetary Logoi are cosmic beings. They are, indeed, in the process of taking cosmic initiations. |
327. Hàm ý rằng các Hành
Tinh Thượng đế là những Đấng vũ
trụ. Quả vậy, Các Ngài đang trong tiến trình thọ
các cuộc điểm đạo vũ trụ. |
and in manifestation in the objective system, demonstrate as the great force centres of which any particular group of adepts and Their pupils are the exponents. |
và khi ngoại hiện trong hệ thống
khách quan, biểu lộ như các đại trung tâm lực
mà bất kỳ một nhóm chân sư nào và các môn đồ
của Các Ngài là những người triển
dương. |
328. We are being told that ashramic groups (the majority of them centered on the systemic buddhic plane) reflect planetary potencies. |
328. Chúng ta được
cho biết rằng các nhóm ashramic (đa phần tập
trung trên cõi Bồ đề hệ thống) phản ánh
các quyền năng hành tinh. |
Every group of Masters and all the human beings incarnate or discarnate—who are held within the periphery of Their consciousness—are centres of force of some particular kind or quality. This is a fact generally recognised, but students should be urged to link up this fact with the information imparted on the centres of the human being, and see if much is not thereby learnt. |
Mọi nhóm Chân sư và tất cả những
con người đang lâm phàm hay ngoài xác—những người
được giữ trong chu vi tâm thức của Các
Ngài—đều là những trung tâm lực thuộc một
dạng hay phẩm tính nào đó. Đây là một sự kiện
được nói chung là thừa nhận, song nên thúc giục
các đạo sinh liên kết sự kiện này với
thông tin đã truyền về các trung tâm của con người,
và xem liệu từ đó không học được nhiều
điều chăng. |
329. If we want to discover much information about triangular relationships (existing, in process, or destined) between various Ashrams, we have to apply analogically what we know about the relationships between chakras in the etheric body of man and relationships between planetary schemes in the solar system. |
329. Nếu chúng ta muốn
khám phá nhiều thông tin về các quan hệ tam giác (đang
tồn tại, đang hình thành, hoặc sẽ định
mệnh) giữa các Ashram khác nhau, chúng ta phải áp dụng
theo lối tương tự những gì chúng ta biết về
quan hệ giữa các luân xa trong thể dĩ thái của
con người và các quan hệ giữa các hệ hành tinh
trong hệ mặt trời. |
330. It would not be hard to form ashramic triangles which were direct reflections of the five major triangles we have been studying. The one thing we would have to do is assign rays directly to the chakras. This is easy to do in most cases (because planetary assignments are given for the chakras—EA 517) but the base of the spine and the ajna center are a little ambiguous: |
330. Sẽ không khó để
hình thành các tam giác ashramic phản chiếu trực tiếp
năm tam giác chủ yếu mà chúng ta đã nghiên cứu.
Điều duy nhất chúng ta phải làm là gán các cung trực
tiếp cho các luân xa. Điều này khá dễ trong hầu
hết các trường hợp (vì có các gán ghép hành tinh cho
các luân xa—EA 517) nhưng trung tâm đáy cột sống và
trung tâm ajna thì hơi mơ hồ: |
a. Head chakra – ray one – Pluto, Vulcan and later Uranus |
a. Luân xa đầu – cung
một – Sao Diêm Vương, Vulcan và về sau là Sao Thiên
Vương |
b. Ajna chakra – ray five or ray four –Venus and later Mercury |
b. Luân xa ajna – cung năm
hoặc cung bốn – Sao Kim và về sau là Sao Thủy |
c. Throat chakra – ray three and later ray seven – Earth and Saturn, and alter Uranus |
c. Luân xa cổ họng –
cung ba và về sau cung bảy – Trái Đất và Sao Thổ,
và về sau Sao Thiên Vương |
d. Heart chakra – ray two – the Sun and Jupiter |
d. Luân xa tim – cung hai – Mặt
Trời và Sao Mộc |
e. Solar plexus chakra – ray six –Mars and Neptune |
e. Luân xa tùng thái
dương – cung sáu – Sao Hỏa và Sao Hải Vương |
f. Sacral center – ray seven – Uranus |
f. Trung tâm xương cùng
– cung bảy – Sao Thiên Vương |
g. Base of spine center – ray one or ray seven – Pluto |
g. Trung tâm đáy cột sống
– cung một hoặc cung bảy – Sao Diêm Vương |
331. There is one certain planet and some of its subsidiaries which are the planetary ‘sponsors’ or ‘inspirers’ of any ashramic group. |
331. Có một hành tinh nhất
định và một số phụ lưu của nó làm ‘bảo
trợ’ hay ‘cảm hứng’ hành tinh cho bất kỳ một
nhóm ashramic nào. |
332. Different stages in the unfoldment of a Planetary Logos will see different triangles between Ashrams most active. Triangles between planetary schemes will be most activated when the Solar Logos is passing through that stage of unfoldment represented by a particular triangle of planets. |
332. Những giai đoạn
khác nhau trong sự khai mở của một Hành Tinh Thượng
đế sẽ thấy các tam giác giữa các Ashram khác
nhau hoạt hoá mạnh. Các tam giác giữa các hệ hành
tinh sẽ được hoạt hoá nhất khi Thái
dương Thượng đế đi qua giai đoạn
khai mở được biểu trưng bởi một
tam giác hành tinh nhất định. |
333. It would also be possible to speculate upon triangles between kingdoms and Creative Hierarchies. |
333. Cũng có thể suy
đoán về các tam giác giữa các giới và các Huyền
Giai Sáng Tạo. |
These centres of force will demonstrate on etheric levels and on the subtler planes just as they do in a man, and they will be vivified as are the human centres by planetary kundalini, progressing in the desired triangles. |
Các trung tâm lực này sẽ biểu lộ
trên các tầng dĩ thái và các cõi vi tế hơn, cũng
như chúng biểu lộ trong con người, và chúng sẽ
được sinh động hoá như các trung tâm con
người bởi kundalini hành tinh, tiến triển trong
các tam giác được mong muốn. |
334. What we are learning is that ashramic triangles are vivified by planetary kundalini and planetary triangles are vivified by solar logoic kundalini. |
334. Điều chúng ta
đang học là các tam giác ashramic được sinh động
bởi kundalini hành tinh và
các tam giác hành tinh được sinh động bởi
kundalini của Thái
dương Thượng đế. |
335. There is a very close analogy between all these types of centers; human chakras, ashrams and inner groupings; planetary chains; planetary schemes. |
335. Tồn tại một
phép tương đồng rất gần giữa tất
cả các loại trung tâm này; các luân xa con người, các
Ashram và các nhóm nội môn; các Dãy hành tinh; các hệ hành tinh. |
Two hints can here be given for thoughtful consideration. In connection with one of the Heavenly Men (which one cannot at this juncture be pointed out) we have one triangle of force to be seen in the following three centres: |
Có thể đưa ra hai gợi ý để
suy xét một cách thâm thúy. Liên quan đến một trong
Các Đấng Thiên Nhân (chưa thể chỉ rõ là vị
nào ở thời điểm này) chúng ta có một tam giác lực
có thể thấy qua ba trung tâm sau: |
336. We are considering the influence of one of the Heavenly Men upon one intra-planetary triangle of force consisting of the force centers listed below. |
336. Chúng ta đang xét ảnh
hưởng của một trong Các Đấng Thiên Nhân lên
một tam giác lực nội tại hành tinh gồm các
trung tâm lực được liệt kê dưới
đây. |
337. The rays of these groups will easily be seen to be the first, second and third rays, and we can see, also, that Shamballa, Hierarchy and Humanity are related to these three centers of force. |
337. Các cung của các nhóm
này sẽ dễ thấy là cung một, hai và ba, và chúng ta
cũng có thể thấy rằng Shamballa, Thánh Đoàn và
Nhân loại tương ứng với ba trung tâm lực
này. |
a. The force centre of which the Manu, and His group, are the expression. |
a. Trung tâm lực mà Manu và Nhóm của Ngài
là sự biểu lộ. |
b. The centre of which the Bodhisattva or the Christ and His adherents are the focal point. |
b. Trung tâm mà Bồ-tát hay Đức Christ
và các tín đồ của Ngài là tiêu điểm. |
c. The centre of which the Mahachohan and his followers are the exponents. |
c. Trung tâm mà Mahachohan và các môn đồ của
Ngài là những người triển dương. |
These three groups form the three centres in one great triangle—a triangle which is not yet in complete vivification at this stage of evolutionary development. |
Ba nhóm này tạo thành ba trung tâm trong một
đại tam giác—một tam giác hiện chưa được
sinh động hoá hoàn toàn ở giai đoạn phát triển
tiến hoá này. |
338. When we think of the triangle here given, the chakras head, heart and throat immediately come to mind, as well as Shamballa, Hierarchy, Humanity. This will be recognized as a major triangle upon our Earth globe. |
338. Khi nghĩ về tam
giác được nêu ở đây, các luân xa đầu,
tim và cổ họng lập tức hiện ra trong tâm trí,
cũng như Shamballa, Thánh Đoàn, Nhân loại. Điều
này sẽ được nhận ra như một tam giác
chủ yếu trên cầu Địa Cầu của chúng
ta. |
339. It may be that the particular Heavenly Man here meant is none other than the Heavenly Man of the Earth-scheme, our Planetary Logos. |
339. Có thể vị Thiên
Nhân đặc biệt được nói đến ở
đây không ai khác ngoài Thiên Nhân của hệ Trái Đất,
Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. |
340. In chapter VIII of The Rays and the Initiations DK refers to this planetary triangle calling it the “the Three”. He also tells us that the triangle is not completely vivified and that energy is not circulating within it as it will before long. Thus the information in R&I correlates well with the information here given. |
340. Trong chương VIII
của “Các Cung và các Cuộc Điểm Đạo” Chân
sư DK tham chiếu tới tam giác hành tinh này, gọi nó là
“Bộ Ba”. Ngài cũng nói với chúng ta rằng tam giác này
chưa được sinh động hoàn toàn và năng
lượng chưa lưu thông trong đó như sẽ xảy
ra chẳng bao lâu nữa. Như vậy thông tin trong R&I
tương hợp tốt với thông tin nêu ra ở
đây. |
341. If we compare the triangle Manu, Bodhisattva, Mahachohan, we can see it according with either the fourth or fifth triangle (the ones in which first four head centers and then seven are active). Working with this analogy, and realizing that the Manu, the Bodhisattva and the Mahachohan are the “Three Great Lords” the triangle with seven head centers would seem to be required. |
341. So sánh tam giác Manu, Bồ-tát,
Mahachohan, chúng ta có thể thấy nó tương ứng hoặc
với tam giác thứ tư hoặc thứ năm (các tam
giác mà trong đó lần lượt bốn trung tâm đầu
rồi bảy trung tâm hoạt động). Làm việc với
phép tương đồng này, và nhận ra rằng Manu, Bồ-tát
và Mahachohan là “Ba Vị Chúa Tể Vĩ Đại” thì có vẻ
phải cần đến tam giác với bảy trung tâm đầu. |
These triangles (four and five) accord with what DK called the soul stage of development and the Three Great Lords do preside over Hierarchy (representing the soul of the Planetary Logos as it is active on our Earth-globe). |
Các tam giác này (bốn và
năm) phù hợp với điều Chân sư DK gọi
là giai đoạn linh hồn của sự phát triển,
và Ba Vị Chúa Tể Vĩ Đại chủ toạ Thánh
Đoàn (đại diện cho linh hồn của Hành Tinh
Thượng đế như linh hồn ấy hoạt
động trên cầu Địa Cầu của chúng ta). |
342. A number of different analogies can emerge in relation to particular centers and triangles of centers. |
342. Có thể nảy sinh
nhiều phép tương đồng khác nhau liên quan đến
các trung tâm nhất định và các tam giác trung tâm. |
343. Within the Spiritual Hierarchy, what might be one analogy to the seven head centers (‘within’ the head)? May be suggest that the seven Chohans can be considered analogous to the seven head centers within the human being (though this is a lower analogy to one suggested a little later in the text). The Chohans are Shamballic beings and so their placement in the head is not unreasonable (if we relate the normal seven chakras to the seven Ashrams). Since, however, the Chohans are also members of Hierarchy they (as all members of Hierarchy) could also be placed in relation to the heart center. |
343. Trong Huyền Giai Tinh
Thần, đâu có thể là một tương đồng
đối với bảy trung tâm đầu (‘bên trong’
đầu)? Có thể gợi ý rằng bảy vị
Chohan có thể được xem như tương đồng
với bảy trung tâm đầu trong con người (tuy
đây là một tương đồng thấp hơn so
với tương đồng được gợi ý muộn
hơn trong văn bản). Các vị Chohan là các Đấng
thuộc Shamballa nên đặt Các Ngài vào đầu
cũng không phải là không hợp lý (nếu chúng ta liên hệ
bảy luân xa thông thường với bảy Ashram). Tuy vậy,
vì các Chohan cũng là thành viên của Thánh Đoàn nên Các Ngài
(như mọi thành viên của Thánh Đoàn) cũng có thể
được đặt liên hệ với trung tâm tim. |
344. If we place the Chohans in relation to the seven head centers, perhaps the ‘Three Great Lords” have an analogy to the two many-petalled Lotuses. We might question whether the alta major center should be included. The analogy, however, is not exact and has its problems. |
344. Nếu chúng ta đặt
các Chohan liên hệ với bảy trung tâm đầu, có lẽ
“Ba Vị Chúa Tể Vĩ Đại” có một
tương đồng với hai Đóa Sen Nhiều Cánh.
Chúng ta có thể đặt câu hỏi liệu có nên kể
cả trung tâm alta major. Tuy nhiên, phép tương đồng
này không chính xác và có những vấn đề của nó. |
345. In a reference below, the analogy is drawn between the seven Kumaras the seven head centers, and this is surely apt. |
345. Ở một tham chiếu
bên dưới, phép tương đồng được
vạch ra giữa bảy vị Kumara với bảy trung
tâm đầu, và điều này chắc chắn là thích
đáng. |
346. It may be that, when we involve the two many-petalled lotuses, we will be required to reference Shamballa and higher ‘residents’. |
346. Có thể rằng, khi
chúng ta đưa hai Đóa Sen Nhiều Cánh vào, chúng ta sẽ
cần quy chiếu đến Shamballa và các ‘cư dân’ cao
hơn. |
347. VSK suggest that we might question how the sixty-three ‘permanent’ members of Hierarchy are related to the centers or to specific points within the centers. It would require a very advanced inquiry and demand more knowledge than we presently have. |
347. VSK gợi ý rằng
chúng ta có thể tự hỏi sáu mươi ba thành viên
‘trường tồn’ của Thánh Đoàn liên hệ với
các trung tâm ra sao, hoặc với các điểm riêng biệt
trong các trung tâm. Điều này đòi hỏi một khảo
cứu rất cao cấp và nhiều tri kiến hơn mức
chúng ta hiện có. |
348. Much about the assignment of centers to planetary groups depends upon the contexts we choose. |
348. Rất nhiều việc
gán ghép các trung tâm cho các nhóm hành tinh phụ thuộc vào các bối
cảnh mà chúng ta lựa chọn. |
a. We can choose that the entire chakra system will represent only the Hierarchy |
a. Chúng ta có thể chọn
toàn bộ hệ thống luân xa chỉ biểu trưng
Thánh Đoàn |
b. We can choose that the entire chakra system will represent Hierarchy and Shamballa |
b. Chúng ta có thể chọn
toàn bộ hệ thống luân xa biểu trưng cả
Thánh Đoàn và Shamballa |
c. We can choose that the entire chakra system will represent all planetary kingdoms, including Hierarchy, Humanity and Shamballa |
c. Chúng ta có thể chọn
toàn bộ hệ thống luân xa biểu trưng tất cả
các giới hành tinh, bao gồm Thánh Đoàn, Nhân loại và
Shamballa |
349. In each case, different groupings will be assigned to different chakras or triangles of chakras. |
349. Ở mỗi trường
hợp, các tổ nhóm khác nhau sẽ được gán cho
các luân xa hay các tam giác luân xa khác nhau. |
[181] |
|
Another triangle in connection with our own planetary Logos is that formed by the seven Kumaras—the four exoteric Kumaras corresponding to the four minor head centres, and the three esoteric Kumaras corresponding to the three major head centres.75,76 |
Một tam giác khác liên quan đến Hành
Tinh Thượng đế của riêng chúng ta là tam giác do
bảy vị Kumara tạo thành—bốn vị Kumara ngoại
hiển tương ứng với bốn trung tâm đầu
phụ, và ba vị Kumara nội hiển tương ứng
với ba trung tâm đầu chính. 75,76 |
350. This is a very important correspondence, and gives to Shamballa, proper, the domain of the head—for the Kumaras are members only of Shamballa and not, like the Chohans, of both Hierarchy and (sometimes) of Shamballa. |
350. Đây là một
tương ứng rất quan trọng, và trao cho Shamballa,
theo đúng nghĩa, miền của đầu—vì các Kumara
chỉ là thành viên của Shamballa chứ không như các
Chohan, là thành viên của cả
Thánh Đoàn và (đôi khi) của Shamballa. |
351. When DK speaks of the four minor head centers and the three major ones, He may be considering the alta major center as the synthesis of the lower four, and the ajna and crown center as the higher two. |
351. Khi Chân sư DK nói về
bốn trung tâm đầu phụ và ba trung tâm đầu
chính, có thể Ngài xem trung tâm alta major như yếu tố
tổng hợp của bốn trung tâm thấp hơn, và
trung tâm ajna cùng trung tâm đỉnh đầu là hai trung tâm
cao. |
352. From one perspective, the Seven Kumaras, and the Planetary Logos would represent the “Seven Spirits before the Throne” of that Logos. |
352. Ở một góc nhìn,
bảy vị Kumara và Hành Tinh Thượng đế sẽ
đại diện “Bảy Thánh Linh trước Thánh Ngai”
của vị Thượng đế ấy. |
353. It is, as we have seen, possible to view the head as a seven resolving into a superior eighth factor. It is also possible to view the head as a nine resolving into a tenth. In such a case the seven centers ‘within’ the head would be considered in relation to a superior three, with the crown center being one of those superior three. |
353. Như chúng ta đã thấy,
có thể quan sát đầu như một bộ bảy
quy về một yếu tố bát thượng thặng.
Cũng có thể quan sát đầu như một bộ
chín quy về một bộ mười. Trong trường
hợp như vậy bảy trung tâm ‘trong’ đầu sẽ
được xét trong tương quan với bộ ba
thượng đẳng, với trung tâm đỉnh đầu
là một của bộ ba ấy. |
354. There may also be a relationship in which the Planetary Logos represents the entire crown center and Sanat Kumara the heart within the head within that crown. |
354. Cũng có thể có một
liên hệ trong đó Hành Tinh Thượng đế biểu
trưng toàn bộ trung tâm đỉnh đầu và Sanat
Kumara là tim trong đầu trong trung tâm đỉnh đầu
ấy. |
355. A number of possible correspondences are here proposed. We can see that such correspondences would be rather intricate and would have to be worked out with care. Much depends upon whether we group various centers or groups as if they were all one unit (which in a way they are) or whether we consider them independently. The relationships change accordingly. |
355. Ở đây có đề
xuất một số khả năng tương ứng.
Chúng ta có thể thấy rằng những tương ứng
như vậy khá tinh vi và phải được xây dựng
cẩn trọng. Rất tùy thuộc vào việc chúng ta nhóm
nhiều trung tâm hay nhiều nhóm như thể chúng là một
đơn vị (vốn theo một nghĩa nào đó là
như vậy) hay xem xét chúng cách độc lập. Các quan
hệ thay đổi tương ứng. |
75: There are seven Kumaras connected with our planetary evolution, of Whom four are exoteric; the four exoteric have vehicles in etheric matter; three Kumaras are esoteric and have their vehicles in subtler matters still. |
75: Có bảy vị Kumara liên hệ với
tiến hoá hành tinh của chúng ta, trong đó bốn vị
là ngoại hiển; bốn vị ngoại hiển có các vận
cụ bằng chất dĩ thái; ba vị Kumara là nội
hiển và có các vận cụ bằng chất vi tế
hơn nữa. |
356. We must question the nature of the etheric matter here referenced. Is DK talking about cosmic etheric matter—the matter of the systemic buddhic, atmic, monadic and logoic planes? If so, the still subtler matter in which the three esoteric Kumaras would have their vehicles could refer to the cosmic astral plane. |
356. Chúng ta phải tự
hỏi bản chất của chất dĩ thái được
nói đến ở đây là gì. Chân sư DK có đang nói về
chất dĩ thái vũ trụ
—tức chất của các cõi Bồ đề, atma, chân thần
và thượng đế hệ thống—hay không? Nếu
vậy, chất vi tế hơn nữa, trong đó ba vị
Kumara nội hiển có các vận cụ, có thể ám chỉ
đến cõi cảm dục vũ trụ. |
Sanat Kumara, The Lord of the world, is the representative on earth of the specialized force of the planetary Logos; the other six Kumaras transmit energy from the other six planetary schemes. |
Sanat Kumara, Đức Chúa Tể Thế Giới,
là đại diện trên địa cầu của mãnh lực
chuyên nhất của Hành Tinh Thượng đế; sáu vị
Kumara còn lại truyền dẫn năng lượng từ
sáu hệ hành tinh còn lại. |
357. Are we speaking here of “sacred” schemes, the vehicles of manifestation of the sacred Planetary Logoi? This is not necessarily the case. There are certainly more than “the other six planetary schemes” in relation to the Earth-scheme. |
357. Chúng ta đang nói về
các hệ “thiêng liêng” chăng, tức các vận cụ biểu
lộ của các Hành Tinh Thượng đế thiêng
liêng? Điều này không nhất thiết là như vậy.
Chắc chắn có nhiều hơn “sáu hệ hành tinh còn lại”
liên quan đến hệ Trái Đất. |
358. Can it be that the synthesizing schemes are removed from consideration? If so, this would present its own problems, because the elimination of Uranus would deprive the set up of the major seventh ray planet (from the soul perspective). |
358. Có thể các hệ
hành tinh tổng hợp được loại khỏi sự
xét đến? Nếu vậy, điều này lại nảy
sinh vấn đề riêng, bởi loại Sao Thiên
Vương sẽ làm mất đi hành tinh cung bảy chủ
yếu (xét từ góc độ linh hồn). |
359. There may be ways in which schemes are combined in such a manner as to represent a particular ray. Venus, Jupiter and Neptune all represent the second ray, and each can claim relationship to the sixth as well. |
359. Có những cách kết
hợp các hệ hành tinh sao cho chúng biểu trưng cho một
cung nhất định. Sao Kim, Sao Mộc và Sao Hải
Vương đều biểu trưng cung hai, và mỗi hành tinh cũng có thể nhận
quan hệ với cung sáu. |
360. What we can gather from this statement is that each Kumara is representative of one of the seven rays, and so are the planetary schemes or combinations of planetary schemes. In some manner not yet disclosed, the “other six Kumaras” each transmits a particular ray energy and is a representative of one (or perhaps more) planetary schemes correlated with the ray energy which it represents. |
360. Điều chúng ta có
thể rút ra từ phát biểu này là mỗi vị Kumara
đại diện cho một trong bảy cung, và các hệ
hành tinh hay tổ hợp các hệ hành tinh cũng vậy.
Bằng cách nào đó chưa được tiết lộ,
“sáu vị Kumara còn lại” mỗi vị truyền dẫn
một năng lượng cung riêng và là đại diện
của một (hay có lẽ nhiều) hệ hành tinh
tương ứng với năng lượng cung mà vị
ấy đại diện. |
76: S. D., I, 186-189. |
76: S. D., I, 186-189. |
The second hint I seek to give, lies in the triangle formed by the Earth, Mars and Mercury. |
Gợi ý thứ hai mà tôi muốn
đưa ra, nằm trong tam giác được tạo bởi
Trái Đất, Sao Hỏa và Sao Thủy. |
361. Each of these planets is related to an expression of the kundalini energy. The Earth upholds a base of the spine center function within our solar system and is, therefore, must be a repository of systemic kundalini energy. This is not to say that the Earth would be the only repository of this energy. |
361. Mỗi hành tinh này liên
hệ với một biểu hiện của năng
lượng kundalini. Trái Đất đảm trách một
chức năng trung tâm đáy cột sống trong hệ mặt
trời của chúng ta và, do đó, ắt phải là một kho tàng của năng
lượng kundalini hệ thống. Điều này không có
nghĩa Trái Đất là kho
tàng duy nhất của năng lượng này. |
In connection with this triangle, the analogy lies in the fact that Mercury and the centre at the base of the spine in the human being are closely allied. Mercury demonstrates kundalini in intelligent activity, while Mars demonstrates kundalini latent. The truth lies hid in their two astrological symbols. |
Liên quan đến tam giác này, phép
tương đồng nằm ở chỗ Sao Thủy và
trung tâm đáy cột sống trong con người có quan hệ
mật thiết. Sao Thủy biểu lộ kundalini trong hoạt
động thông tuệ, trong khi Sao Hỏa biểu lộ
kundalini tiềm ẩn. Sự thật ẩn tàng trong hai ký
hiệu chiêm tinh của chúng. |
362. What symbol shall we use for Mars, for we have a choice? The truth in relation to their kundalinic functions is apparently hidden in their symbols. At least such truth is not easily seen—apparently. |
362. Chúng ta sẽ dùng ký hiệu
nào cho Sao Hỏa, vì chúng ta có lựa chọn? Sự thật
liên hệ với các chức năng kundalini của chúng
dường như được ẩn giấu trong các ký hiệu của chúng. Ít
nhất thì sự thật ấy cũng không dễ thấy—rõ
ràng là vậy. |
363. The circle in such astrological symbols represents the Spirit which has been (in relation to kundalini) imbedded in matter. |
363. Vòng tròn trong các ký hiệu
chiêm tinh như thế biểu trưng cho Tinh thần
đã (liên quan đến kundalini) được chìm vào vật
chất. |
364. If the symbol for Mars were the cross over the circle, we could understand that Mars would represent kundalini latent or unexpressed, for the cross of matter would be, as it were, ‘holding down’ the circle of spirit. |
364. Nếu ký hiệu của
Sao Hỏa là thập giá đặt trên vòng tròn, chúng ta có thể
hiểu rằng Sao Hỏa biểu trưng kundalini tiềm
ẩn hay chưa biểu lộ, bởi thập giá của
vật chất như thể đang ‘đè nén’ vòng tròn của
tinh thần. |
365. Mars would also be related to that part of kundalini which is represented by “latent fire”. |
365. Sao Hỏa cũng sẽ
liên hệ với phần kundalini được gọi
là “lửa tiềm ẩn”. |
366. The symbol for Earth is the cross within the circle, and this would represent a less suppressed state of the kundalini. |
366. Ký hiệu của Trái
Đất là thập giá trong vòng tròn, và điều này biểu
trưng một trạng thái ít bị đè nén hơn của
kundalini. |
367. In the symbol for Mercury we have the circle of Spirit surmounting the cross and the crescent of conscious receptivity surmounting the circle. In this case the kundalini is liberated and ‘climbing’ intelligently. Mercury, at a point in human evolution beyond the third degree, represents the ajna center from which the rising of kundalini is intelligently directed. As well, the kundalini is said to ‘climb’ in figure-eights. The figure eight is closely associated with Mercury. Hence the aptness, on at least two counts, of Mercury’s association with “kundalini in intelligent activity”. |
367. Trong ký hiệu của
Sao Thủy, chúng ta có vòng tròn của Tinh thần đặt
trên thập giá và vầng trăng lưỡi liềm của
tính tiếp thọ có ý thức đặt trên vòng tròn.
Trong trường hợp này kundalini được giải
phóng và ‘leo’ lên một cách thông tuệ. Sao Thủy, ở một
điểm trong tiến hoá con người vượt quá
bậc thứ ba, đại diện cho trung tâm ajna từ
đó sự dâng lên của kundalini được điều
khiển một cách thông tuệ. Đồng thời, nói rằng
kundalini ‘leo’ theo hình số tám. Hình số tám liên hệ mật
thiết với Sao Thủy. Do đó càng thích đáng
hơn nữa, ít nhất trên hai phương diện, khi
gán cho Sao Thủy sự liên hệ với “kundalini trong hoạt
động thông tuệ”. |
368. The other (and more common) glyph for Mars—the circle of Spirit surmounted by an arrow tilted at approximately forty-five degrees may also suggest the fact that kundalini will rise when the time is right. |
368. Ký hiệu khác (và thông
dụng hơn) cho Sao Hỏa—vòng tròn của Tinh thần
đặt dưới mũi tên nghiêng khoảng bốn
mươi lăm độ—cũng có thể gợi rằng
kundalini sẽ dâng lên khi thời
điểm chín muồi. |
369. The forty-five degree angle is also the octile (the result of dividing the circle of 360 degrees by eight. Again the eight appears (as in the case of Mercury), not to mention that Mars is the ruler of the eighth sign, Scorpio. |
369. Góc bốn mươi
lăm độ cũng là bát phân (kết quả của
việc chia vòng tròn 360 độ thành tám ). Lại thấy xuất hiện con số tám (như trong trường
hợp Sao Thủy), chưa kể rằng Sao Hỏa là chủ
tinh của dấu hiệu thứ tám, Hổ Cáp. |
370. Another important interpretation of the latency of Mars and the activity of Mercury relates to the latent and active fires of the physical plane. |
370. Một diễn giải
quan trọng khác về tính tiềm ẩn của Sao Hỏa
và tính hoạt động của Sao Thủy liên hệ
đến các lửa tiềm ẩn và hoạt động
của cõi hồng trần. |
371. Mars, the planet of heat, is easily associated with the fires of dense physical matter, the fires of the internal furnaces (though Vulcan would also be an important representative of such fires). |
371. Sao Hỏa, hành tinh của
nhiệt, dễ liên hệ với các lửa của vật
chất đậm đặc, các lửa của các lò lửa
nội tại (tuy Vulcan cũng là một đại diện
quan trọng của các lửa như vậy). |
372. Mercury, a planet closely associated with the etheric body (associated in part with the sign Gemini, which Mercury rules, and with the second decanate of Aquarius which Mercury rules—Aquarius being a sign also associated with the etheric body) and with the third ray of active intelligence, is easily understood as the representative of “active fire” (the fires associated with prana and the etheric body). |
372. Sao Thủy, một
hành tinh liên hệ chặt chẽ với thể dĩ thái
(liên hệ một phần với cung Song Tử, do Sao Thủy
cai quản, và với thập độ thứ hai của
Bảo Bình do Sao Thủy cai quản—Bảo Bình cũng là một
dấu hiệu liên hệ với thể dĩ thái), và với
cung ba của trí năng năng động,
dễ được hiểu là đại diện cho “lửa
hoạt động” (các lửa liên hệ đến prana
và thể dĩ thái). |
373. From this perspective the two aspects of fire by friction (so much discussed in the foregoing pages) are well understood as represented by Mars and Mercury. The Earth (represented by a symbol which holds a kind of middle place between the symbols for Mars and Mercury) would represent a condition of equilibrised kundalinic energy, midway between latency and intelligent activity. (In fact Earth holds a true midway point between Mars and Venus (Mercury without a crescent Moon atop the circle of spirit). |
373. Từ góc nhìn này, hai
phương diện của lửa do ma sát (đã
được bàn khá nhiều trong những trang trên)
được hiểu rõ là do Sao Hỏa và Sao Thủy
đại diện. Trái Đất (được biểu
trưng bởi một ký hiệu giữ vị trí trung
dung nào đó giữa các ký hiệu của Sao Hỏa và Sao
Thủy) sẽ biểu trưng một trạng thái quân
bình của năng lượng kundalini, ở giữa tiềm
ẩn và hoạt động thông tuệ. (Thực vậy,
Trái Đất giữ một điểm ở giữa thực
sự giữa Sao Hỏa và Sao Kim (Sao Thủy không có vầng
trăng lưỡi liềm đặt trên vòng tròn của
tinh thần).) |
374. We should remember that the Earth is often associated with that which is “of the Earth earthy”, but also with the etheric nature. As well, in the series of triangles recently discussed in relation to the developmental stages of man, the base of the spine center is given as associated with the etheric plane. The symbol for the basal center and the Earth are identical—the cross surrounded by the circle. (cf. EA 78, 25 and TCF 165 and following) |
374. Chúng ta nên nhớ rằng
Trái Đất thường được liên hệ với
cái “thuộc về Đất, chất đất”,
nhưng cũng với bản tính dĩ thái. Ngoài ra, trong
chuỗi các tam giác được bàn gần đây liên
quan đến các giai đoạn phát triển của con
người, trung tâm đáy cột sống được
cho là liên hệ với cõi dĩ thái. Biểu tượng
của trung tâm nền tảng và của Trái Đất là
đồng nhất—thập giá được bao quanh bởi
vòng tròn. (cf. EA 78, 25 và TCF 165 và tiếp theo) |
In transmutation and planetary geometrising, the secret may be revealed. |
Trong sự chuyển hoá và hình học hoá ở
cấp hành tinh, bí mật có thể được tiết
lộ. |
375. We have here a most occult hint. The implication is that the energy configurations representative of Mars are transmuted into those representative of Earth. The transmutation continues until the energy configurations representative of Earth are transmuted into those representative of Mercury. |
375. Ở đây có một
ẩn chỉ hết sức huyền bí. Hàm ý là các cấu
hình năng lượng đại diện cho Sao Hoả
được chuyển hoá thành các cấu hình đại
diện cho Trái Đất. Sự chuyển hoá tiếp diễn
cho đến khi các cấu hình năng lượng đại
diện cho Trái Đất được chuyển hoá
thành những cấu hình đại diện cho Sao Thuỷ. |
376. When we read of “planetary geometrizing” we immediately think of the geometrical configurations representative of the various planets (as found in TCF, Charts VI and VIII, 373, 385). There are a number of geometrical hints given in the various representations of the planets. The diagrams for Mars, Earth and Mercury (whether as planetary schemes or planetary chains) are relative explicit and will admit of comparative interpretation—some fine day on which intuitive heroism prevails. |
376. Khi chúng ta đọc
về “hình học hoá hành tinh” chúng ta lập tức
nghĩ tới các cấu hình hình học
đại diện cho các hành tinh khác nhau (như thấy
trong TCF, Biểu đồ VI và VIII, 373, 385). Có một số
gợi ý hình học được đưa ra trong các mô
tả khác nhau về các hành tinh. Các sơ đồ cho Sao
Hoả, Trái Đất và Sao Thuỷ (dù là như các hệ
hành tinh hay các dãy hành tinh) tương đối rõ ràng và sẽ
cho phép phép giải thích so sánh—một
ngày đẹp trời nào đó khi tinh thần anh dũng
trực giác thắng thế. |
377. Somehow, the geometries given may be associated with the stages of transmutation characteristic of the influence of each of these planets. Transmutation is most advanced in relation to Mercury (an alchemical planet) and least advanced in relation to Mars. The Earth holds a middle position. |
377. Bằng cách nào đó,
các hình học được đưa ra có thể gắn
với các giai đoạn chuyển hoá đặc trưng
cho ảnh hưởng của mỗi hành tinh này. Sự
chuyển hoá là tiến bộ nhất nơi Sao Thuỷ (một
hành tinh luyện kim thuật) và kém tiến bộ nhất
nơi Sao Hoả. Trái Đất giữ vị trí trung
gian. |
b. The Grand Man of the Heavens. The seven Heavenly Men are the seven centres in the body of the Logos, bearing to Him a relationship identical with that borne by the Masters and Their affiliated groups, to some planetary Logos. |
b. Con Người Vĩ Đại của
Trời. Bảy Đấng Thiên Nhân là bảy trung tâm trong
thân thể của Thượng đế, mang đến
Ngài một mối liên hệ đồng nhất với mối
liên hệ mà các Chân sư và các nhóm liên hệ của Các
Ngài mang đến cho một Hành Tinh Thượng đế
nào đó. |
378. We are lifting the consideration to the macrocosmic level. |
378. Chúng ta đang nâng sự
xem xét lên cấp độ Đại thiên địa. |
379. By “the seven Heavenly Men”, are meant principally the Heavenly Men of the seven sacred planets, but, of course, there are more than seven Heavenly Men. |
379. “Bảy Đấng
Thiên Nhân” ở đây chủ yếu là các Đấng Thiên
Nhân của bảy hành tinh thiêng liêng, nhưng, dĩ nhiên,
có nhiều hơn bảy
Đấng Thiên Nhân. |
380. The “Masters” here referenced are (at first glance) the Masters to be found working within the ring-pass-not of our Planetary Logos. The hint, however, is interesting for we do not read of our Planetary Logos but of “some” Planetary Logos. |
380. “Các Chân sư”
được nhắc ở đây (nhìn thoáng qua) là các
Chân sư được thấy đang làm việc trong
vòng-giới-hạn của Hành Tinh Thượng đế
của chúng ta. Tuy nhiên, ẩn
chỉ này thú vị vì chúng ta không đọc thấy Hành
Tinh Thượng đế của
chúng ta mà là “một” Hành Tinh Thượng đế nào
đó. |
381. We may presume that not only do the Masters working upon and within our planet have a relation to the Planetary Logos of the Earth-scheme, but, perhaps, to a higher Planetary Logos, related to and yet superior to our Planetary Logos. Candidates for such a superior Planetary Logos would be, for instance, Venus and Saturn, as the Logoi of both of these schemes are closely related to the Planetary Logos of the Earth-scheme. |
381. Chúng ta có thể cho rằng
không chỉ các Chân sư đang làm việc trên và trong hành
tinh của chúng ta có liên hệ với Hành Tinh Thượng
đế của hệ Trái Đất, mà, có lẽ, còn với
một Hành Tinh Thượng đế cao hơn, liên hệ
với và vượt trội Hành Tinh Thượng đế
của chúng ta. Ứng viên
cho một Hành Tinh Thượng đế thượng
đẳng như vậy, chẳng hạn, là Kim Tinh và Thổ
Tinh, vì các Thượng đế của cả hai hệ
này có liên hệ mật thiết với Hành Tinh Thượng
đế của hệ Trái Đất. |
382. From another perspective, DK may be hinting that on every planet there are Masters to be found and that these Masters and Their affiliated groups are to be related to that particular Planetary Logos in whose body of manifestation these Masters are functioning. |
382. Từ một góc nhìn
khác, Chân sư DK có thể đang ẩn chỉ rằng
trên mỗi hành tinh đều có thể tìm thấy các Chân
sư và rằng các Chân sư này cùng các nhóm liên hệ của
Các Ngài phải được đặt vào liên hệ với
Hành Tinh Thượng đế đặc thù mà trong thân thể
biểu lộ của Ngài các Chân sư đó đang hoạt
động. |
Systemic kundalini goes forward to the vivification of these centres, and at this stage of development certain centres are more closely allied than others. |
Kundalini thuộc hệ mặt trời tiến
lên hướng đến việc sinh động hoá các
trung tâm này, và ở giai đoạn phát triển này, một
số trung tâm mật thiết liên đới với nhau
hơn các trung tâm khác. |
383. The progress of kundalini within a solar system is analogous to that within man, the microcosm. The centers or chakras are vivified in a particular order according to their relative degree of elevation within the solar system, and according to the monadic ray of the particular Solar Logos in question. |
383. Sự tiến triển
của kundalini trong một hệ mặt trời là
tương tự với sự tiến triển trong con
người, tiểu thiên địa. Các trung tâm hay luân xa
được sinh động hoá theo một trật tự
nhất định tuỳ theo mức độ thăng
thượng tương đối của chúng trong hệ
mặt trời, và tuỳ theo cung chân thần của Thái
dương Thượng đế cụ thể đang
xét. |
384. It is important for us to fathom the alliances between various of the planets in our solar system. This will be revealed by a close study of the Science of Triangles, systemically considered. |
384. Điều quan trọng
đối với chúng ta là thấu triệt những liên
minh giữa các hành tinh khác nhau trong hệ mặt trời của
chúng ta. Điều này sẽ được tiết lộ
bởi việc nghiên cứu kỹ Khoa học về Tam
Giác, xét trên toàn hệ mặt trời. |
Just as in connection with our planetary Logos, the three etheric planets of our chain—Earth, Mercury and Mars77—form a triangle of rare importance, |
Cũng như trong liên hệ với Hành
Tinh Thượng đế của chúng ta, ba hành tinh dĩ
thái của dãy chúng ta—Trái Đất, Sao Thuỷ và Sao Hoả
77 —hợp thành một tam giác có tầm quan trọng hiếm
có, |
385. The Tibetan is now (apparently) speaking of the fourth planetary chain of our Earth scheme, the Earth-chain. |
385. Chân sư Tây Tạng
hiện (dường như) đang nói về dãy hành tinh
thứ tư của hệ Trái Đất của chúng ta,
tức Dãy Trái Đất. |
386. Within that chain, three planets or globes are referred to as “etheric planets”. |
386. Trong dãy đó, có ba
hành tinh hay bầu được gọi là “các hành tinh
dĩ thái”. |
387. To call Earth, Mars and Mercury the “three etheric planets of our chain” is, in some ways, a peculiar statement, as the Earth-globe is the one globe in our Earth-chain which actually has a physical globe. In what way, then, is the Earth-globe to be considered “etheric”? |
387. Gọi Trái Đất,
Sao Hoả và Sao Thuỷ là “ba hành tinh dĩ thái của dãy
chúng ta” là, ở một số phương diện, một
phát biểu đặc dị, vì bầu Trái Đất là
bầu duy nhất trong Dãy Trái Đất của chúng ta vốn
thực sự có một bầu hồng trần đậm
đặc. Vậy theo cách nào, bầu Trái Đất lại
được xem là “dĩ thái”? |
388. The Mars and Mercury globes, however, are said to have for their densest sphere an etheric sphere. They have no dense physical body. |
388. Tuy nhiên, các bầu Sao
Hoả và Sao Thuỷ được nói là có quả cầu
đậm đặc nhất là một quả cầu dĩ thái. Chúng không có thể
xác đậm đặc. |
389. Perhaps we can interpret the fact that the Earth is named as an etheric planet by realizing that the etheric body of any planet is its true physical body. The dense physical body is not considered a principle. |
389. Có lẽ chúng ta có thể
diễn giải việc Trái Đất được gọi
là hành tinh dĩ thái bằng cách nhận ra rằng thể
dĩ thái của bất kỳ hành tinh nào mới là thể
hồng trần đích thực
của nó. Thể xác đậm đặc không được
xem là một nguyên khí. |
390. There are also chains in our planetary scheme which are called the Earth-chain, Mercury-chain and Mars-chain. |
390. Cũng có các dãy trong hệ
hành tinh của chúng ta được gọi là Dãy Trái
Đất, Dãy Sao Thuỷ và Dãy Sao Hoả. |
391. The Earth-chain is the fourth; the Mercury-chain the fifth and the Mars-chain the sixth (cf. TCF 385). In some Theosophical charts, the Mars-globe of the Earth-chain is considered the third and the Mercury-globe the fifth (as indicated above) but this order, apparently, does not extend to the chain level. |
391. Dãy Trái Đất là
dãy thứ tư; Dãy Sao Thuỷ là dãy thứ năm và Dãy
Sao Hoả là dãy thứ sáu (cf. TCF 385). Trong một số biểu
đồ Thông Thiên Học, bầu Sao Hoả của Dãy
Trái Đất được tính là bầu thứ ba và bầu
Sao Thuỷ là bầu thứ năm (như đã chỉ ra
ở trên) nhưng trật tự này, dường như,
không mở rộng lên cấp dãy. |
392. We also remember that Earth and the base of the spine are related to the etheric body. |
392. Chúng ta cũng nhớ
rằng Trái Đất và trung tâm đáy cột sống có
liên hệ với thể dĩ thái. |
393. These three planets are of great importance within the solar system because of their direct relation to the kundalini force. |
393. Ba hành tinh này có tầm
quan trọng lớn trong hệ mặt trời bởi liên
hệ trực tiếp của chúng với mãnh lực
kundalini. |
so it may be here said that at the present point in evolution of the logoic centres, |
vì vậy có thể nói rằng ở
điểm tiến hoá hiện nay của các trung tâm thuộc
Thượng đế, |
394. For, indeed, logoic centers or chakras evolve or unfold just as do the centers or chakras of the human microcosm. |
394. Quả thật, các
trung tâm hay luân xa của Thượng đế tiến
hoá hay khai mở cũng như các trung tâm hay luân xa của
tiểu thiên địa là con người. |
Venus, Earth and Saturn form one triangle of great interest. It is a triangle that is at this time undergoing vivification [182] through the action of kundalini; it is consequently increasing the vibratory capacity of the centres, which are becoming slowly fourth-dimensional. |
Kim Tinh, Trái Đất và Thổ Tinh hợp
thành một tam giác hết sức đáng chú ý. Đó là một
tam giác hiện đang trải qua sự sinh động
hoá [182] bởi tác động của kundalini; do đó nó
đang gia tăng năng lực rung động của
các trung tâm, vốn đang dần trở nên bốn chiều.
|
395. While, as a triangle, Venus, Earth and Saturn may not represented solar systemic kundalini, the three are undergoing vivification by that kundalini. |
395. Dù, xét như một
tam giác, Kim Tinh, Trái Đất và Thổ Tinh có thể không
đại diện kundalini thuộc hệ mặt trời,
ba hành tinh này đang được sinh động hoá bởi
kundalini ấy. |
396. Microcosmically (i.e., in relation to man), Venus represents the ajna center, Earth the throat (or spleen, or, perhaps, base of the spine) and Saturn the throat. |
396. Ở vi mô (tức là,
trong tương quan với con người), Kim Tinh đại
diện trung tâm ajna, Trái Đất đại diện cổ
họng (hoặc lá lách, hoặc, có lẽ, đáy cột sống)
và Thổ Tinh đại diện cổ họng. |
397. From a solar systemic perspective, Saturn could easily represent the throat, Earth the base of the spine and Venus, the heart. It is ambiguous whether Venus is to be taken as the heart chakra within the chakric expression of the Solar Logos. |
397. Từ một góc nhìn
hệ mặt trời, Thổ Tinh có thể dễ dàng
đại diện cổ họng, Trái Đất đại
diện đáy cột sống và Kim Tinh, quả tim. Không rõ
ràng liệu Kim Tinh nên được xem như luân xa tim
trong biểu hiện các luân xa của Thái dương
Thượng đế hay không. |
“First. Venus corresponds to the heart centre in the body logoic, and has an inter-relationship therefore with all the other centres in the solar system wherein the heart aspect is the one of greater prominence. |
“Thứ nhất. Kim Tinh tương ứng
với trung tâm tim trong thân thể của Thượng
đế, và do đó có mối liên hệ tương hỗ
với tất cả các trung tâm khác trong hệ mặt trời
mà ở đó phương diện tim là nổi trội
hơn. |
Second. Saturn corresponds to the throat centre, or to the creative activity of the third aspect. (TCF 182) |
Thứ hai. Thổ Tinh tương ứng
với trung tâm cổ họng, hay hoạt động sáng
tạo của phương diện thứ ba. (TCF 182) |
398. There are other possibilities for Venus; it may very well have more to do with the solar logoic solar plexus that with the heart center, as it is the “home” of the Planetary Logos of the sixth ray. |
398. Có những khả thể
khác đối với Kim Tinh; rất có thể nó liên quan
đến tùng thái dương của Thái dương
Thượng đế hơn là với trung tâm tim, vì nó là
“ngôi nhà” của Hành Tinh Thượng đế của cung
sáu. |
399. We have been reading about the meaning of fourth-dimensional rotation in relation to any chakra. |
399. Chúng ta đã đọc
về ý nghĩa của sự quay bốn chiều liên quan
đến bất kỳ luân xa nào. |
400. Is DK telling us that Venus, Saturn and Earth as chakras within the Solar Logos are each and all becoming fourth dimensional at this time? This possibility could well be understood of Venus and even of the Earth (as it is, developmentally, passing through a kind of fourth initiation—at least with respect to its fourth chain), but Saturn, though an advanced Logos, has only progressed to the fourth globe of its third chain, and is, thus, not very far unfolded (cf. EA 693) and so the fourth dimensional rotation of Saturn considered as a solar systemic chakra would be unlikely. |
400. Có phải Chân sư
DK đang nói với chúng ta rằng Kim Tinh, Thổ Tinh và
Trái Đất như các luân xa trong Thái dương Thượng
đế mỗi luân xa đều đang trở thành bốn
chiều vào thời điểm này? Khả thể này có thể
hiểu được đối với Kim Tinh và thậm
chí cả Trái Đất (vì xét về phương diện
phát triển, hành tinh này đang trải qua một loại
lần điểm đạo thứ tư—ít ra là đối
với dãy thứ tư của nó), nhưng Thổ Tinh, tuy
là một Thượng đế tiến bộ, mới
chỉ tiến đến bầu thứ tư của dãy
thứ ba của nó, và vì vậy, chưa khai mở là bao (cf.
EA 693) nên sự quay bốn chiều của Thổ Tinh xét
như một luân xa thuộc hệ mặt trời là
điều khó có khả năng. |
401. In comparing these two triangles, we note that they have Earth in common. Thus Mercury and Mars are to be compared with Venus and Saturn. Mercury has a relation to both Venus and Saturn, and Mars does also (being part of a natural planetary pair with Venus, and belonging with Saturn to the expression of a great third ray Entity). Mercury with Venus is part of the hermaphroditic mind and Mercury and Saturn are both highly mental planets. |
401. Khi so sánh hai tam giác
này, chúng ta nhận thấy chúng có Trái Đất chung. Do
đó Sao Thuỷ và Sao Hoả cần được so
sánh với Kim Tinh và Thổ Tinh. Sao Thuỷ có liên hệ với
cả hai Kim Tinh và Thổ
Tinh, và Sao Hoả cũng vậy (vì là một cặp hành
tinh tự nhiên với Kim Tinh, và cùng với Thổ Tinh thuộc
biểu hiện của một Thực Thể cung ba
vĩ đại). Sao Thuỷ với Kim Tinh là một phần
của trí lưỡng tính và Sao Thuỷ cũng như Thổ
Tinh đều là các hành tinh có tính trí tuệ cao. |
77: The chains of any planetary scheme are frequently called by the names of the seven sacred planets, making the study of the Law of Correspondences easier; |
77: Các dãy của bất kỳ hệ hành
tinh nào thường được gọi theo tên của
bảy hành tinh thiêng liêng, làm cho việc nghiên cứu Định
luật Tương ứng trở nên dễ dàng hơn; |
402. There is some ease to be gained by this method of naming, but also some confusion, against which the Tibetan warns us later. |
402. Phương pháp đặt
tên này mang lại phần nào sự dễ dàng, nhưng
cũng gây một số lẫn lộn, điều mà sau
này Chân sư Tây Tạng cảnh báo chúng ta. |
403. It is clear that smaller structures such as globes are related to larger structures such as chains and schemes, and that chains (considered as smaller structures) correspond to schemes considered as greater structures. |
403. Rõ ràng là các cấu
trúc nhỏ như bầu có liên hệ với các cấu
trúc lớn hơn như dãy và hệ, và rằng các dãy (khi
được xem là cấu trúc nhỏ hơn)
tương ứng với các hệ khi được xem
là những cấu trúc lớn hơn. |
similarly, the globes of any chain are called by planetary names, as is the case here. There are planetary schemes called Mars and Mercury. |
tương tự, các bầu của bất
kỳ dãy nào cũng được gọi bằng các tên
hành tinh, như trong trường hợp ở đây. Có
các hệ hành tinh được gọi là Sao Hoả và Sao
Thuỷ. |
404. Our task, and it will be a big one, will be to correlate the relationships between the globes, chains and schemes which are called by the same planetary name. |
404. Nhiệm vụ của
chúng ta, và đó sẽ là một nhiệm vụ lớn, là
liên hệ tương ứng giữa các bầu, các dãy và
các hệ được gọi cùng một tên hành tinh. |
It is not yet permissible to point out others of the great triangles, but as regards the centres, we may here give two hints: |
Chưa được phép chỉ ra những
tam giác vĩ đại khác, nhưng liên quan đến các
trung tâm, ở đây chúng ta có thể đưa ra hai gợi
ý: |
405. Other great triangles can be intuited. For example: Venus, Jupiter. Neptune: or Saturn, Neptune, Uranus; or Earth, Mars, Pluto. |
405. Các tam giác vĩ đại
khác có thể được trực giác. Ví dụ: Kim
Tinh, Mộc Tinh, Hải Vương Tinh; hoặc Thổ
Tinh, Hải Vương Tinh, Thiên Vương Tinh; hoặc
Trái Đất, Sao Hoả, Diêm Vương Tinh. |
406. The book Esoteric Astrology written later than TCF reveals the existence and nature of quite a number of such triangles. |
406. Quyển Chiêm Tinh Học Nội Môn
được viết sau TCF tiết lộ sự tồn
tại và bản tính của khá nhiều tam giác như vậy. |
407. If logic is used we will understand that if any two chakras are taken as a pair, that pair will necessarily be related to every other chakra within the chakra system considered. Thus, within any system of a given number of chakras, every possible triangle must be identified and evaluated for its significance. |
407. Nếu dùng lý tính,
chúng ta sẽ hiểu rằng nếu bất kỳ hai luân
xa nào được lấy thành một cặp, thì cặp
đó nhất định sẽ có liên hệ với mọi
luân xa khác trong hệ luân xa được xét. Như vậy,
trong bất kỳ hệ gồm một số lượng
luân xa nhất định, mọi tam giác khả hữu
đều phải được nhận diện và
đánh giá về thâm nghĩa của nó. |
First. Venus corresponds to the heart centre in the body logoic, and has an inter-relationship therefore with all the other centres in the solar system wherein the heart aspect is the one of greater prominence. |
Thứ nhất. Kim Tinh tương ứng
với trung tâm tim trong thân thể của Thượng
đế, và do đó có mối liên hệ tương hỗ
với tất cả các trung tâm khác trong hệ mặt trời
mà ở đó phương diện tim là nổi trội
hơn. |
408. There may be a blind concealed here. It seems a very straightforward statement, but what of Jupiter which in the human microcosmic system is related to the heart, whereas Venus is related to the ajna center? |
408. Ở đây có thể
có một sự che đậy. Có vẻ là một phát biểu
rất thẳng thắn, nhưng còn Mộc Tinh thì sao, hành
tinh này trong hệ vi mô của con người liên quan đến
tim, trong khi Kim Tinh liên quan đến trung tâm ajna? |
409. Also, Venus has place within the esoteric quaternary of the Solar Logos. The quaternary is the personality nature, and the chakras ruling any personality nature are always sub-diaphragmatic. |
409. Hơn nữa, Kim Tinh
có vị trí trong bộ tứ nội môn của Thái
dương Thượng đế. Bộ tứ là bản
tính phàm ngã, và các luân xa chi phối bất kỳ bản
tính phàm ngã nào luôn nằm dưới cơ hoành. |
410. It is to be considered whether Venus is to be understood as the ‘heart’ center within the lower chakras of the Solar Logos, among which Mars, Earth and Pluto would be numbered. There is much to associate Venus with the solar plexus center of the Logos, Mars with the sacral, Earth with the splenic center and Pluto with the base of the spine. Venus, then, would be the redeemer of these three planets, and placed in the highest of the sub-diaphragmatic positions relative to them—the position of the solar plexus. |
410. Cần cân nhắc liệu
Kim Tinh nên được hiểu là ‘trung tâm tim’ trong số
các luân xa thấp của Thái dương Thượng
đế, trong đó Sao Hoả, Trái Đất và Diêm
Vương Tinh sẽ được tính đến. Có rất
nhiều điều gắn nối Kim Tinh với trung tâm
tùng thái dương của Thượng đế, Sao Hoả
với xương cùng, Trái Đất với luân xa lá lách
và Diêm Vương Tinh với đáy cột sống. Khi
đó, Kim Tinh sẽ là đấng cứu chuộc của
ba hành tinh này, và được đặt ở vị trí
cao nhất trong các vị trí dưới cơ hoành so với
chúng—vị trí của tùng thái dương. |
411. Venus almost certainly has a sixth ray Monad: |
411. Hầu như chắc
chắn Kim Tinh có một Chân thần cung sáu: |
“In the sixth Scheme, that of Venus, this can be seen clearly; it is the scheme of love. Viewed from one angle, the Venusian Scheme is the second, and from another it is the sixth. It depends upon whether we reason from the circumference to the centre or the reverse. |
“Trong Hệ thứ sáu, tức hệ Kim
Tinh, điều này có thể thấy rõ; đó là hệ của
Tình thương. Nhìn từ một góc độ, Hệ
Kim Tinh là thứ hai, và từ góc độ khác thì là thứ
sáu. Nó tuỳ thuộc vào việc chúng ta lý luận từ
chu vi về trung tâm hay ngược lại. |
It is the home of the planetary Logos of the sixth Ray. This may sound like a contradiction, but it is not so really; we must remember the interlocking, the gradual shifting and changing, that takes place in time on all [596] the Rays. In the same way the Earth chain is the third if viewed from one aspect and the fifth viewed from another.” (TCF 595-596) |
Nó là ngôi nhà của Hành Tinh Thượng
đế của Cung thứ sáu. Điều này nghe có vẻ
mâu thuẫn, nhưng thực ra không phải vậy; chúng
ta phải nhớ sự đan xen, sự chuyển dịch
dần dần và đổi thay, diễn
ra theo thời gian trên tất cả [596] các Cung.
Tương tự, Dãy Trái Đất là dãy thứ ba nếu
nhìn từ một phương diện và là dãy thứ
năm nếu nhìn từ phương diện khác.” (TCF
595-596) |
The word “home” relates to the Monad, for Uranus (a planet with a first ray Monad—cf. EP I 420)) is called the “home of ‘fire electric’” (TCF 1154) |
Từ “ngôi nhà” liên hệ
với Chân thần, vì Thiên Vương Tinh (một hành tinh
có Chân thần cung một—cf. EP I 420) được gọi
là “ngôi nhà của ‘lửa điện’” (TCF 1154) |
412. Thus, Venus will certainly be associated in some way with solar plexus function. |
412. Do đó, Kim Tinh chắc
chắn sẽ được liên kết theo một cách
nào đó với chức năng tùng thái dương. |
413. We live in an astral-buddhic solar system (TCF 176), and have not yet taken our fourth interim initiation nor cosmic third initiation (cf. TCF 384) Thus, systemically, our heart center cannot be fully developed. Yet Venus, in terms of its unfoldment, is the most developed planet and has already entered the processes of obscuration. This would fit if Venus represented the solar plexus, but not if Venus truly represented the heart center, which will only fully unfold just before the fourth cosmic initiation. |
413. Chúng ta đang sống
trong một hệ mặt trời Bồ-đề–cảm
dục (TCF 176), và vẫn chưa nhận lần điểm
đạo trung gian thứ tư cũng như điểm
đạo vũ trụ thứ ba (cf. TCF 384). Vậy nên,
xét toàn hệ, trung tâm tim của chúng ta không thể phát triển
đầy đủ. Thế mà Kim Tinh, xét theo mức
độ khai mở của nó, là hành tinh phát triển nhất
và đã bước vào tiến trình ám tàng. Điều này
sẽ phù hợp nếu Kim Tinh đại diện tùng thái
dương, nhưng không
phù hợp nếu Kim Tinh thật sự đại diện
trung tâm tim, vốn chỉ sẽ khai mở trọn vẹn
ngay trước lần điểm đạo vũ trụ
thứ tư. |
414. The heart center should not be considered related to the logoic quaternary. It is more the organ of soul and of buddhi. |
414. Không nên xem trung tâm tim
là liên hệ với bộ tứ thuộc Thượng
đế. Nó là cơ quan của linh hồn và của Bồ
đề hơn. |
415. DK uses the word “corresponds” when He speaks of Venus’ relation to the heart center. We have to ask, “In what context does this correspondence apply?” Is the context the entirety of the solar system, or is the context that part of the solar system which can be considered sub-diaphragmatic and part of the solar logoic quaternary? |
415. Chân sư DK dùng từ
“tương ứng” khi Ngài nói về liên hệ của Kim
Tinh với trung tâm tim. Chúng ta phải hỏi, “Trong ngữ cảnh nào sự
tương ứng này áp dụng?” Ngữ cảnh là toàn thể
hệ mặt trời, hay là phần hệ mặt trời
có thể được xem là dưới cơ hoành và thuộc
bộ tứ của Thái dương Thượng đế? |
Second. Saturn corresponds to the throat centre, or to the creative activity of the third aspect. |
Thứ hai. Thổ Tinh tương ứng
với trung tâm cổ họng, hay với hoạt động
sáng tạo của phương diện thứ ba. |
416. With this correspondence there seems to be no difficulty. Saturn is a deeply third ray planet, perhaps in both its soul and monadic nature, and the throat center is a center intimately associated with the third ray. |
416. Với sự
tương ứng này dường như không có khó
khăn. Thổ Tinh là một hành tinh cung ba sâu sắc, có lẽ
cả ở cấp linh hồn lẫn chân thần, và trung
tâm cổ họng là một trung tâm gắn bó mật thiết
với Cung ba. |
417. If we for a moment credit Venus as pertaining to the solar logoic heart, then the throat, heart and base of the spine (from one angle) would be the systemic triangle being activated by systemic kundalini. This activation would correspond to man at the mental stage of development. |
417. Nếu trong chốc
lát chúng ta tạm chấp nhận Kim Tinh thuộc tim của
Thái dương Thượng đế, thì cổ họng,
tim và đáy cột sống (xét từ một góc) sẽ là
tam giác thuộc hệ mặt trời đang được
kundalini hệ nhật hệ kích hoạt. Sự kích hoạt
này tương ứng với con người ở giai
đoạn trí tuệ. |
“3. Man controlled from the mental plane. |
“3. Con người được kiểm
soát từ cõi trí. |
a. The base of the spine. |
a. Đáy cột sống. |
b. The heart. |
b. Trái tim. |
c. The throat. (TCF 169) |
c. Cổ họng.
(TCF 169) |
418. Yet, our Solar Logos, in one respect, is not entirely controlled from the mental plane, still having much to do to master His emotions (as the battle is being fought out on the fourth subplane of the cosmic astral plane, we are told). |
418. Tuy nhiên, Thái
dương Thượng đế của chúng ta, xét ở
một phương diện, không hoàn toàn được
kiểm soát từ cõi trí, còn rất nhiều việc phải
làm để làm chủ cảm xúc của Ngài (vì trận
chiến đang được tiến hành trên cõi phụ
thứ tư của cõi cảm dục vũ trụ,
như chúng ta được cho biết). |
419. From another perspective, our Logos is a cosmic initiate of the second degree in process of moving towards the third cosmic initiation (cf. TCF 384) |
419. Từ một góc nhìn
khác, Thượng đế của chúng ta là một điểm
đạo đồ vũ trụ
bậc hai đang trên đường hướng tới
lần điểm đạo vũ
trụ thứ ba (cf. TCF 384) |
420. When we are told that the Solar Logos, like our Planetary Logos, is “midway through His career upon the cosmic Path of Initiation” what exactly does this mean? Is the midway point between the second and third cosmic initiation the midway point? Midway between the first and fifth cosmic initiations? It seems reasonable, if only the major five initiations are being considered. The Solar Logos, we are told, may take His fifth cosmic initiation in the present solar system. |
420. Khi chúng ta được
cho biết rằng Thái dương Thượng đế,
giống như Hành Tinh Thượng đế của
chúng ta, đang “giữa chừng hành trình của Ngài trên
Thánh Đạo Điểm Đạo vũ trụ”
điều này chính xác có nghĩa là gì? Điểm ở giữa
là giữa lần điểm đạo vũ trụ thứ
hai và thứ ba? Giữa lần thứ nhất và thứ
năm? Có vẻ hợp lý, nếu chỉ xét năm lần
điểm đạo chính. Chúng ta được cho biết
Thái dương Thượng đế có thể nhận
lần điểm đạo vũ trụ thứ năm
trong hệ mặt trời hiện tại. |
As evolution proceeds, the other centres attain a more pronounced vibration and the fire (circulating triangularly) will bring them into greater prominence; the two above mentioned, however, are of prime importance at this time. |
Khi tiến hoá tiếp diễn, các trung tâm
khác đạt tới rung động rõ rệt hơn và lửa
(luân lưu theo tam giác) sẽ đưa chúng vào vị trí nổi
bật hơn; tuy nhiên, hai tam giác nói trên là tối quan trọng
vào thời điểm này. |
421. Of course, we will have to ask why this should be the case. |
421. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ
phải hỏi vì sao lại như vậy. |
422. Mars, Earth and Mercury could be important because of the upward rising of both latent and active fires (by friction) within our system. |
422. Sao Hoả, Trái Đất
và Sao Thuỷ có thể quan trọng vì sự dâng lên của
cả lửa tiềm ẩn và lửa hoạt động
(do ma sát) trong hệ của chúng ta. |
423. Venus, Saturn and the Earth may related to the fusing of the third and second aspects of divinity, for Saturn and Earth are much associated with the third ray and Venus with the soft line energy—especially rays two and six. |
423. Kim Tinh, Thổ Tinh và
Trái Đất có thể liên quan đến sự dung hợp
của phương diện thứ ba và thứ hai của
Thiêng liêng, vì Thổ Tinh và Trái Đất gắn nhiều
với Cung ba còn Kim Tinh với các năng lượng
đường mềm—nhất là cung hai và sáu. |
424. When we think of Venus, Saturn and the Earth, is it not illuminating to consider Venus, Saturn and Jupiter—the homes (presently) for the three super principles? We can see from the following, why considering Venus, Saturn and Jupiter is not far fetched in this context: |
424. Khi chúng ta nghĩ về
Kim Tinh, Thổ Tinh và Trái Đất, chẳng phải là
sáng tỏ khi xem xét Kim Tinh, Thổ Tinh và Mộc Tinh—những
“ngôi nhà” (hiện nay) cho ba siêu nguyên khí sao? Từ đoạn
sau, chúng ta có thể thấy vì sao việc xem xét Kim Tinh, Thổ
Tinh và Mộc Tinh không hề gượng ép trong ngữ cảnh
này: |
“We might consider—from the standpoint of the present—that Venus, Jupiter and Saturn might be considered as the vehicles of the three super-principles at this time. Mercury, the Earth and Mars are closely allied to these three, but a hidden mystery lies here. (TCF 299) |
“Chúng ta có
thể xét— từ lập trường của hiện tại
—rằng Kim Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh có thể
được xem như các vận cụ của ba siêu
nguyên khí vào lúc này. Sao Thuỷ, Trái Đất và Sao Hoả
có liên hệ mật thiết với ba hành tinh kia, nhưng
ở đây hàm chứa một huyền bí ẩn kín. (TCF
299) |
425. All the planets we have been considering are here represented, with Jupiter taking the place of Earth in the higher triangle. |
425. Tất cả các hành
tinh chúng ta đang xem xét đều được trình bày
ở đây, với Mộc Tinh thay cho Trái Đất trong
tam giác cao. |
426. In some way the higher triangle may be considered a higher correspondence to the lower. There is no way to know how to arrange the higher three as a number of arrangements are justifiable. |
426. Ở một
phương diện nào đó, tam giác cao có thể
được xem là một tương ứng cao hơn
của tam giác thấp. Không có cách nào để biết sắp
xếp tam giác cao như thế nào vì có một số cách sắp
xếp đều có thể biện minh. |
a. Jupiter may represent the monadic principle and the first aspect. We realize how much second ray Jupiter is related to the monadic plane, the second plane counting from above. |
a. Mộc Tinh có thể
đại diện nguyên khí chân thần và Phương diện
thứ nhất. Chúng ta nhận ra Mộc Tinh cung hai liên hệ
rất nhiều với cõi chân thần, cõi thứ hai tính từ
trên xuống. |
b. Venus may represent consciousness and the second aspect |
b. Kim Tinh có thể đại
diện tâm thức và Phương diện thứ hai |
c. Saturn may represent the intelligence aspect, personality—the third aspect (though it could as easily represent the first aspect, though not the second, for which either Jupiter or Venus would have to be chosen) |
c. Thổ Tinh có thể
đại diện phương diện trí tuệ, phàm
ngã—Phương diện thứ ba (dẫu nó có thể
đại diện cho phương diện thứ nhất,
nhưng không phải phương diện thứ hai, vì
phương diện này phải do hoặc Mộc Tinh hoặc
Kim Tinh đảm nhiệm) |
427. Going with this possible arrangement, then: |
427. Theo cách sắp xếp
khả hữu này, thì: |
a. Mars (representing the lowest aspect of the kundalini) would correspond with Saturn |
a. Sao Hoả (đại
diện phương diện thấp nhất của
kundalini) sẽ tương ứng với Thổ Tinh |
b. Earth (representing the middle condition of kundalini) would correspond with Venus. |
b. Trái Đất (đại
diện tình trạng trung gian của kundalini) sẽ
tương ứng với Kim Tinh. |
c. Mercury (representing the highest aspect of kundalini—in intelligent activity) would correspond with Jupiter. |
c. Sao Thuỷ (đại
diện phương diện cao nhất của
kundalini—trong hoạt động trí tuệ) sẽ
tương ứng với Mộc Tinh. |
428. Those who know astrology realize that each of these three correspondences is more than justifiable (though others can be interpreted as valid). |
428. Những ai biết
chiêm tinh học đều nhận ra rằng mỗi một
trong ba mối tương ứng này vượt xa mức
hợp lý (dẫu các tương ứng khác cũng có thể
được diễn giải như có giá trị). |
a. Mars and Saturn are the two “malefics” and relate to the astral body and mental body of a great third ray Entity. |
a. Sao Hoả và Thổ
Tinh là hai “hung tinh” và liên hệ với thể cảm dục
và thể trí của một Thực Thể cung ba vĩ
đại. |
b. Earth and Venus are “sisters” and closely intertwined. Venus is perhaps the planet most closely related to the Earth. |
b. Trái Đất và Kim
Tinh là “chị em” và gắn kết chặt chẽ. Có lẽ
Kim Tinh là hành tinh liên hệ gần gũi nhất với
Trái Đất. |
c. Mercury and Jupiter are the two orthodox rulers of the Mutable Cross (exoterically considered). |
c. Sao Thuỷ và Mộc
Tinh là hai chủ tinh chính thống của Thập Giá Biến
đổi (xét ngoại môn). |
429. Another valid assignment would see Saturn as representative of the first aspect, Jupiter or the Second, and Venus of the third. It does not seem reasonable to place Venus in the first position or Saturn in the second. |
429. Một sự phân công
hợp lệ khác sẽ xem Thổ Tinh đại diện
Phương diện thứ nhất, Mộc Tinh
Phương diện thứ hai, và Kim Tinh Phương diện
thứ ba. Có vẻ không hợp lý khi đặt Kim Tinh ở
vị trí thứ nhất hay Thổ Tinh ở vị trí thứ
hai. |
These two, with the lesser triangle of our chain, constitute the focal point of energy viewed from our planetary standpoint. |
Hai tam giác này, cùng với tam giác nhỏ
hơn của dãy chúng ta, hợp thành điểm hội tụ
năng lượng khi nhìn từ lập trường hành
tinh của chúng ta. |
430. Only one triangle in our planetary chain has been discussed in these pages. Since this triangle is formed of the planets in the three ‘lowest’ positions in our chain, it is reasonable that this is the triangle referenced—the triangle Earth, Mars, Mercury. |
430. Chỉ một tam giác
trong dãy hành tinh của chúng ta đã được bàn trong
các trang này. Vì tam giác này được hình thành từ các
hành tinh ở ba vị trí ‘thấp’ nhất trong dãy của
chúng ta, nên hợp lý khi cho rằng đây là tam giác
được nhắc tới—tam giác Trái Đất, Sao
Hoả, Sao Thuỷ. |
431. The relationship of Venus and Saturn (two planets of initiation because rulers of Capricorn) are to be related to this lower triangle. |
431. Mối liên hệ của
Kim Tinh và Thổ Tinh (hai hành tinh của điểm đạo
vì là chủ tinh của Ma Kết) cần được
đặt vào liên hệ với tam giác thấp hơn này. |
432. The inclusion of Jupiter expands the consideration. |
432. Việc bao gồm Mộc
Tinh mở rộng phạm vi xem xét. |
433. When Venus and Saturn are related to the Mars, Earth and Mercury globes of the Earth-chain, the importance of Sanat Kumara is suggested, because if the Great Kumara is related to any two planets, it is to Venus and Saturn. He is the “Lord of Venusian Love” and His name “Sanat” is easily seen as related to Saturn (for He is, as well, the “Ancient of Days”). |
433. Khi Kim Tinh và Thổ
Tinh được liên hệ với các bầu Sao Hoả,
Trái Đất và Sao Thuỷ của Dãy Trái Đất, tầm
quan trọng của Sanat Kumara trở nên được gợi
lên, vì nếu Đại Kumara liên hệ với bất kỳ
hai hành tinh nào, thì đó là Kim Tinh và Thổ Tinh. Ngài là “Chúa Tể
Tình Thương Kim Tinh” và tên Ngài “Sanat” cũng dễ dàng
thấy là liên hệ với Saturn (vì Ngài cũng là “Đấng
Thái Cổ”). |
In addition to these some hints in connection with the microcosmic and macrocosmic centres, we might here give the cosmic correspondences at which it is possible to hint. |
Ngoài các gợi ý này liên quan đến các
trung tâm vi mô và vĩ mô, ở đây chúng ta có thể
đưa ra các tương ứng vũ trụ mà có thể
được ám chỉ đến. |
434. The Tibetan must, at this time, be satisfied with hinting at these stupendous matters. It is not allowed to tell all, but it is allowed to drop those seed-hints which may assist in the evocation of the intuition of His students. |
434. Hiện tại Chân
sư Tây Tạng phải hài lòng với việc chỉ gợi
ý về những vấn đề khổng lồ này.
Không được phép nói hết thảy, nhưng
được phép gieo những hạt-gợi-ý có thể
trợ giúp đánh thức trực giác của các môn sinh của
Ngài. |
The Cosmos. Our solar system, with the Pleiades and one of the stars of the Great Bear, form a cosmic triangle, or an aggregation of three centres in the Body of HIM OF WHOM NAUGHT MAY BE SAID. |
Vũ trụ. Hệ mặt trời của
chúng ta, cùng với Pleiades và một trong những ngôi sao của
chòm Đại Hùng, hợp thành một tam giác vũ trụ,
hay một tập hợp của ba trung tâm trong Thân thể
của ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ. |
435. This is a stupendous hint. From the first we have a scale problem. We are given a combination of two stars and constellation of stars. |
435. Đây là một ẩn
chỉ khổng lồ. Trước hết chúng ta gặp
vấn đề về quy mô. Chúng ta được trao một
tổ hợp gồm hai ngôi sao và một chòm sao. |
436. When DK speaks of the Pleiades, what does He mean—the entirety of that great cluster of hundreds of stars, or only the seven stars with which we are familiar—the Seven Sisters? Depending on what He wants to say, He could mean both. |
436. Khi Chân sư DK nói về
Pleiades, Ngài muốn nói gì—toàn bộ quần tinh vĩ đại
gồm hàng trăm ngôi sao ấy, hay chỉ bảy ngôi sao
quen thuộc—Bảy Chị Em? Tuỳ theo điều Ngài
muốn nói, cả hai cách đều có thể. |
437. If he is considering the entirety of the Pleiades, then He is speaking of the entire “Central Spiritual Sun” cosmically considered (at least within our local cosmo-system). In this case: |
437. Nếu Ngài đang xét
toàn bộ Pleiades, thì Ngài đang nói về toàn thể “Mặt
trời Tinh thần Trung Ương” xét ở cấp
vũ trụ (ít ra trong hệ vũ trụ cục bộ
của chúng ta). Trong trường hợp này: |
a. The Pleiades would represent the crown center of that Great Being—the One About Whom Naught May Be Said |
a. Pleiades sẽ đại
diện cho trung tâm nghìn cánh của Đại Hữu Thể
đó—Đấng Bất Khả Tư Nghị |
b. One of the stars in the Great Bear would probably be that star within the seven head centers (the “Greater Seven”) of the OAWNMBS correlated to the heart center. |
b. Một trong những
ngôi sao của chòm Đại Hùng có lẽ sẽ là ngôi sao
trong bảy trung tâm đầu (theo nghĩa “Bảy Lớn”)
của Đấng Bất Khả Tư Nghị
tương ứng với trung tâm tim. |
c. Our solar system would represent the heart center within the “Lesser Seven” |
c. Hệ mặt trời
của chúng ta sẽ đại diện cho trung tâm tim trong
“Bảy Nhỏ”. |
d. This arrangement has much to recommend it. |
d. Sự sắp xếp
này có nhiều điều đáng tán đồng. |
438. There is a reference in the teaching where one of the stars in the Great Bear and one of the stars in the Pleiades are seen in relation to our Earth. This relation is, where our Earth is concerned, the source of cosmic evil. (cf. TCF 990) |
438. Có một tham chiếu
trong giáo lý nơi một trong những sao của chòm Đại
Hùng và một trong những sao của Pleiades được
thấy trong liên hệ với Địa Cầu của
chúng ta. Mối liên hệ này, xét với Trái Đất của
chúng ta, là nguồn cội của ác lực vũ trụ.
(cf. TCF 990) |
439. But now we are not speaking of the Earth but of our solar system as an entirety. |
439. Nhưng lúc này chúng ta
không nói về Trái Đất mà nói về hệ mặt trời
của chúng ta như một toàn thể. |
440. It is possible, however, that one of the stars in the Great Bear and another star in the Pleiades are more closely related to our particular Solar Logos than to any of the other six brother-Logoi contained within the Seven Solar Systems of Which Ours is One. |
440. Tuy nhiên, có khả
năng là một ngôi sao trong chòm Đại Hùng và một
ngôi sao khác trong Pleiades có liên hệ mật thiết hơn
với Thái dương Thượng đế của
chúng ta so với bất kỳ sáu Thượng đế
huynh đệ nào khác thuộc Bảy Hệ Mặt Trời
mà Hệ của Chúng ta là Một. |
441. In any case, our Solar Logos and his solar system are as a heart chakra in a great Being—one of the Ones About Whom Naught May Be Said. |
441. Dù sao đi nữa,
Thái dương Thượng đế của chúng ta và hệ
mặt trời của Ngài như một luân xa tim trong một
Đại Hữu Thể— một
trong các Đấng Bất Khả Tư Nghị. |
442. However many ways we might find to relate all three of these Beings (Great Bear, Pleiades and our solar system) in their entirety or according to various of their parts, it does seem as if the Pleiades (as an entirety or at least as a septenate) is here indicated. |
442. Cho dù chúng ta có thể
tìm ra bao nhiêu cách để liên hệ cả ba Hữu Thể
này (Đại Hùng, Pleiades và hệ mặt trời của
chúng ta) như những toàn thể hay theo các bộ phận
khác nhau của chúng, có vẻ như Pleiades (như một
toàn thể hay ít nhất như một thất phân)
được chỉ thị ở đây. |
443. Such being the case, it is probably best to consider the three as representing three different levels in the chakric hierarchy of the One About Whom Naught May Be Said: |
443. Như vậy, có lẽ
tốt nhất là xem ba Hữu Thể này như đại
diện cho ba cấp khác nhau trong hệ phân cấp luân xa của
Đấng Bất Khả Tư Nghị: |
a. The thousand petalled lotus of the OAWNMBS |
a. Hoa sen nghìn cánh của
Đấng Bất Khả Tư Nghị |
b. A head center within the head of the OAWNMBS—thus within the “Greater Seven” |
b. Một trung tâm đầu
trong phần đầu của Đấng Bất Khả
Tư Nghị—như vậy là trong “Bảy Lớn” |
c. A chakra (the heart charka) within one of the chakras of the OAWNMBS—thus, a chakra within a chakra to be found within the “Lesser Seven”. |
c. Một luân xa (luân xa
tim) trong một trong các luân xa của Đấng Bất Khả
Tư Nghị—như vậy là một luân xa trong một
luân xa được tìm thấy trong “Bảy Nhỏ”. |
444. Obviously, we have not exhausted the possibilities within this hint, but have offered some lines of interpretation that can be pondered—for a few lives! |
444. Rõ ràng, chúng ta chưa
khai thác hết các khả thể trong ẩn chỉ này,
nhưng đã đưa ra vài hướng diễn giải
để có thể chiêm nghiệm—trong vài kiếp sống! |
The seven stars in the constellation of the Great Bear are the correspondences to the seven head centres in the body of that Being, greater than our Logos. |
Bảy ngôi sao trong chòm Đại Hùng là
các tương ứng với bảy trung tâm đầu
trong thân thể của Hữu Thể vĩ đại
hơn Thượng đế của chúng ta. |
445. DK is very careful with His wording. There are of course many Beings greater than our Logos. DK is speaking of one particular Being, probably the greater of two Ones About Whom Naught May Be Said (a Being who has constellations as chakras—cf. TCF 293) |
445. Chân sư DK rất thận
trọng trong cách dùng từ. Dĩ nhiên có nhiều Hữu
Thể lớn hơn Thượng đế của chúng
ta. Chân sư đang nói về một Hữu Thể cụ
thể, có lẽ là vị lớn hơn trong hai Đấng
Bất Khả Tư Nghị (một Hữu Thể có các
chòm sao làm luân xa—cf. TCF 293) |
446. The piece of information being conveyed is of great importance. The stars in the Great Bear are being linked to the seven major head centers in the One About Whom Naught May Be Said. These seven correspond to the “Greater Seven” in the human being (cf. Rule VIII for Applicants). |
446. Mảnh thông tin
đang truyền đạt có tầm quan trọng lớn.
Các ngôi sao trong chòm Đại Hùng đang được
liên kết với bảy trung tâm đầu lớn của
Đấng Bất Khả Tư Nghị. Bảy trung tâm
này tương ứng với “Bảy Lớn” trong con
người (cf. Quy luật VIII dành cho Ứng viên). |
447. According to an excellent book called Layayoga by Shyam Sundar Goswami, these head centers (the “Greater Seven” as DK refers to them—cf. R&I 21), are located between the ajna center and the crown center (with the ajna and crown forming the boundaries of the major head centers). These centers protrude in front of the forehead and on top of the dome of the head, and are not within the head at all. |
447. Theo một quyển
sách xuất sắc mang tên Layayoga của Shyam Sundar Goswami, các trung tâm
đầu này (“Bảy Lớn” như Chân sư DK gọi—cf.
R&I 21), nằm giữa trung tâm ajna và trung tâm nghìn cánh (với
ajna và nghìn cánh tạo thành ranh giới của các trung tâm
đầu lớn). Các trung tâm này lồi ra phía trước
trán và trên đỉnh đầu, và hoàn toàn không nằm bên trong đầu. |
Again, two other systems, when allied with the solar system and the Pleiades, make a lower quaternary which are eventually synthesised into the seven head centres in much the same way as in the human being after the fourth initiation. |
Lại nữa, khi kết hợp với
hệ mặt trời và Pleiades, hai hệ thống khác hợp
thành một bộ tứ thấp hơn vốn rốt cuộc
sẽ được tổng hợp vào bảy trung tâm
đầu tương tự như nơi con người
sau lần điểm đạo thứ tư. |
[183] |
|
1. The base of the spine. |
1. Đáy cột sống. |
2. The solar plexus. |
2. Tùng thái dương. |
3. The heart. |
3. Trái tim. |
4. The throat. |
4. Cổ họng. |
448. We are receiving some profound cosmic hints which will naturally elude complete interpretation at this point in our understanding. |
448. Chúng ta đang nhận
một số ẩn chỉ vũ trụ thâm sâu vốn, tự
nhiên, sẽ lẩn tránh sự diễn giải trọn vẹn
vào thời điểm trình độ hiểu biết hiện
nay của chúng ta. |
449. The word “systems” is elusive and ambiguous. We do not know whether it refers specifically to solar systems or to constellations. It would be justifiable to refer to either. |
449. Từ “hệ thống”
mơ hồ và đa nghĩa. Chúng ta không biết liệu
nó chỉ cụ thể đến các hệ mặt trời
hay đến các chòm sao. Dùng cách hiểu nào cũng có thể
biện minh. |
450. The quaternary listed is not a lower quaternary. |
450. Bộ tứ liệt
kê không phải là bộ tứ thấp hơn. |
451. We remember that there are five centers which correlate with the five systemic planes (or five bodies) of an entity. |
451. Chúng ta nhớ rằng
có năm trung tâm tương quan với năm cõi (hay
năm thể) hệ nhật hệ của một hữu
thể. |
a. Base of spine, the etheric plane |
a. Đáy cột sống,
cõi dĩ thái |
b. Solar plexus, the astral plane |
b. Tùng thái dương, cõi
cảm dục |
c. Throat center, the mental plane |
c. Cổ họng, cõi trí |
d. Heart center, the buddhi plane |
d. Trái tim, cõi Bồ đề |
e. As given in the earlier context referred to, the thousand petalled lotus corresponds to the atmic plane |
e. Như đã nêu trong ngữ
cảnh trước đó, hoa sen nghìn cánh tương ứng
với cõi atma |
452. So, when considering the two other systems, we may be looking for either solar systems or constellational systems. |
452. Vậy nên, khi xét hai hệ
thống khác, chúng ta có thể đang tìm kiếm hoặc
các hệ mặt trời hoặc các hệ chòm sao. |
453. The Pleiades (if limited to the Seven Sisters) can be seen as related to the throat center. Our solar system is a kind of heart center. We will need two other solar systems which have been hypothesized as the system of Fomalhaut and Vega). There are good reasons both for and against this hypothesis. Fomalhaut is a “Royal Star”, and one may question whether it should be considered one of the Seven Solar Systems of Which Ours is One. Its distance of some twenty-five light years from our Sun may be too great, as may be the similar distance of Vega from the Sun. But all of this is uncertain. |
453. Pleiades (nếu giới
hạn vào Bảy Chị Em) có thể được xem
là liên hệ với trung tâm cổ họng. Hệ mặt
trời của chúng ta là một loại trung tâm tim. Chúng ta
sẽ cần hai hệ mặt trời khác, vốn đã
được giả thuyết là Fomalhaut và Vega. Có những
lý do tốt hỗ trợ cũng như phản bác giả
thuyết này. Fomalhaut là một “Ngôi sao Hoàng gia”, và người
ta có thể tự hỏi liệu nó có nên được
xem là một trong Bảy Hệ Mặt Trời mà Hệ của
Chúng ta là Một hay không. Khoảng cách chừng hai
mươi lăm năm ánh sáng của nó tới Mặt Trời
của chúng ta có thể là quá lớn, như khoảng cách
tương tự của Vega tới Mặt Trời
cũng vậy. Nhưng tất cả điều này đều
bất định. |
454. Probably within our local stellar surroundings there are two stars related to our solar system—these two representing a solar plexus center and a base of the spine center, with our Sun representing a heart center. |
454. Có lẽ trong vùng sao
địa phương của chúng ta có hai ngôi sao liên hệ
với hệ mặt trời của chúng ta—hai ngôi sao này
đại diện cho một trung tâm tùng thái dương
và một trung tâm đáy cột sống, còn Mặt Trời
của chúng ta đại diện cho trung tâm tim. |
455. If we work on the constellational level, then our “solar system” must be considered a seven-starred Sirian system (including seven major stars). It is our “system” of seven suns that would represent the solar plexus within the greater Being. The base of the spine would be a combination of the Southern Cross and Draco, and the. The heart center is hypothesized by some to be Orion. The Pleiades as a whole would be the entirety of the head center (with the zodiacal constellations as the twelve petals of the major twelve-petalled head center) |
455. Nếu chúng ta làm việc
ở cấp chòm sao, thì “hệ
mặt trời” của chúng ta phải được xem
là một hệ Sirius bảy sao (bao gồm bảy ngôi sao
chính). “Hệ” bảy mặt trời của chúng ta sẽ
đại diện cho tùng thái dương trong Hữu Thể
vĩ đại hơn. Trung tâm đáy cột sống sẽ
là một kết hợp của chòm Thập Tự Nam và
Thiên Long, và… Trung tâm tim được một số
người giả thuyết là chòm Orion. Pleiades như một
toàn thể sẽ là toàn thể của trung tâm đầu
(với các chòm hoàng đạo như mười hai cánh của
trung tâm đầu mười hai cánh chủ yếu) |
456. I think we can see how far we have to go before any certainty on these matters is possible for us. |
456. Tôi nghĩ chúng ta có thể
thấy mình còn phải đi rất xa trước khi có bất
kỳ sự chắc chắn nào về những vấn
đề này. |
The sevenfold head centre in its turn finds ultimate expression in the gorgeous twofold centre above the top of the head and surrounding it. |
Trung tâm đầu thất phân đến
lượt nó tìm được sự biểu lộ tối
hậu trong trung tâm nhị phân rực rỡ nằm phía
trên đỉnh đầu và bao quanh nó. |
457. Cosmically considered, this “gorgeous twofold centre” necessarily includes the twelve zodiacal constellations, and, according to present hypothesis, the entirety of the Pleiades. The greatest head center is twofold. |
457. Xét ở cấp
vũ trụ, “trung tâm nhị phân rực rỡ” này tất
nhiên bao gồm mười hai chòm hoàng đạo, và, theo
giả thuyết hiện nay, toàn thể Pleiades. Trung tâm
đầu vĩ đại nhất là nhị phân. |
Equally so, beyond the above named constellations is still another cosmic centre. The name of this centre is one of the secrets of the final initiation, the seventh. |
Tương tự như vậy, vượt
ra ngoài các chòm sao vừa được nêu còn có một
trung tâm vũ trụ khác. Tên của trung tâm này là một
trong các bí nhiệm của lần điểm đạo
chung cuộc, lần thứ bảy. |
458. The constellations named in the immediately foregoing pages are the Pleiades and the Great Bear. The Pleiades (in their entirety) may be considered the hub of the local cosmic wheel, and the major vehicle for the One About Whom Naught May Be Said (that local Cosmic Lord Who has constellations for His chakras). |
458. Các chòm sao được
nêu ở ngay các trang trước là Pleiades và Đại
Hùng. Pleiades (như một toàn thể) có thể được
xem là trục của bánh xe vũ trụ cục bộ, và
là vận cụ chính cho Đấng Bất Khả Tư
Nghị (vị Chúa Tể Vũ Trụ cục bộ có
các chòm sao làm luân xa của Ngài). |
459. But what of that Being who has OAWNMBSs for its chakras. No such being is listed in the important tabulation on TCF 293, but on the Chart on p. 344, a “Cosmic Parabrahm” is given—the highest triangle on the highest cosmic plane. |
459. Nhưng còn Hữu Thể
có các Đấng Bất Khả Tư Nghị làm luân xa của
mình thì sao. Không có vị nào như vậy được
liệt kê trong bảng quan trọng ở TCF 293, nhưng
trên Biểu đồ ở tr. 344, có nêu một “Parabrahm Vũ Trụ”—tam giác cao nhất trên
cõi vũ trụ cao nhất. |
460. The position of this Cosmic Parabrahm would fit correspondentially with the fact of “Resurrection” at the time of the seventh initiation. |
460. Vị trí của Parabrahm Vũ Trụ này sẽ tương
hợp tương ứng với thực tại “Phục
Sinh” vào thời điểm của lần điểm
đạo thứ bảy. |
461. What such a Being may be we have no idea, but it can be presumed that its centers would be star clusters or aggregations of many constellations. A deep study of astronomy would be required of us should we have even some idea of possible candidates for this Super-OAWNMBS—a Cosmic Parabrahm. |
461. Vị Hữu Thể
như vậy là gì chúng ta không hề có ý niệm, nhưng
có thể suy rằng các trung tâm của Ngài sẽ là các quần
tinh hay tập hợp của nhiều chòm sao. Một sự
học hỏi sâu về thiên văn học sẽ
được đòi hỏi nơi chúng ta nếu muốn
có dù chỉ một ý niệm nào đó về các ứng
viên khả hữu cho vị Siêu-Đấng Bất Khả
Tư Nghị này—một Parabrahm Vũ
Trụ. |
462. The study of OAWNMBSs takes us to the cosmic monadic plane. The study of the Super-Being here hinted takes us to the cosmic logoic plane. Such planes are merely names to us and any approach to them must be analogic and inferential at best. |
462. Việc nghiên cứu
các Đấng Bất Khả Tư Nghị đưa
chúng ta tới cõi chân thần vũ trụ. Việc học
về Siêu-Hữu Thể được ẩn chỉ ở
đây đưa chúng ta tới cõi logoic vũ trụ. Những
cõi như thế chỉ là danh xưng đối với
chúng ta và bất kỳ tiếp cận nào tới đó
cũng chỉ có thể là mang tính tương đồng
và suy luận mà thôi. |
These are the only correspondences that may as yet be imparted. What lies beyond the solar ring-pass-not may be of intellectual interest,78 [S. D., I, 545, 726; II, 581, 582, 654] but, for the purposes of microcosmic evolution it is a matter of no vast import. |
Đây là những tương ứng duy
nhất hiện còn có thể được truyền
đạt. Những gì nằm bên ngoài vòng-giới-hạn
của hệ mặt trời có thể có tính lý thú về
mặt trí tuệ, 78 [S. D., I, 545, 726; II, 581, 582, 654]
nhưng, đối với mục đích của sự
tiến hoá vi mô, thì không phải là điều hệ trọng
lớn lao. |
463. When speaking of these matters we are clearly “way out there”—beyond what for us is the beyond. Astronomers may go there with ease, but those who are looking for the psychological and qualitative meaning of such great Entities may not proceed. Too little is known, even of our Solar Logos and of the relatively ‘local’ Constellational Deities of the twelve zodiacal constellations. |
463. Khi nói về những
vấn đề này, rõ ràng là chúng ta đang “ra rất
xa”—vượt ra ngoài cái vốn đã là vượt ngoài
đối với chúng ta. Các nhà thiên văn có thể tới
đó dễ dàng, nhưng những ai đang tìm kiếm ý
nghĩa tâm lý và phẩm tính của các Hữu Thể
vĩ đại như vậy thì không thể tiến xa.
Quá ít điều được biết, ngay cả về
Thái dương Thượng đế của chúng ta và
các Vị Thần thuộc chòm sao tương đối
‘cục bộ’ của mười hai chòm hoàng đạo. |
464. It is, after all, microcosmic evolution with which we must be concerned as there is so much to be done in this rather limited field. After great imaginative and intellectual extensions into incomprehensible spheres, we must return to where we are (apparently) and solve the problems related to our present sphere of limitation. |
464. Sau cùng, chính sự tiến
hoá vi mô mới là điều chúng ta phải quan tâm vì còn rất
nhiều điều phải làm trong lĩnh vực khá hạn
chế này. Sau những mở rộng mang tính tưởng
tượng và trí năng vào các cảnh giới bất khả
tri, chúng ta phải quay về nơi chúng ta đang ở (bề ngoài) và giải quyết các
vấn đề liên quan đến cảnh giới giới hạn hiện tại của mình. |