Bình Giảng Luận Về Lửa Vũ Trụ S2S6 (173-183)

Tải xuống định dạng:

DOCXPDF
📘DOCX📕PDF

TCF 173-183 S2S6 Revision

(Most of the Tibetan’s text is put in font 16, to provide better legibility when projected during classes. Footnotes and references from other AAB Books and from other pages of TCF are put in font 14. Commentary appears in font 12. Underlining, Bolding and Highlighting by MDR)

(Phần lớn văn bản của Chân sư Tây Tạng được đặt cỡ chữ 16, để dễ đọc hơn khi trình chiếu trong các lớp học. Chú thích và tham chiếu từ các sách của AAB khác và từ các trang khác của TCF được đặt cỡ chữ 14. Lời bình xuất hiện với cỡ chữ 12. Gạch chân, In đậm và Tô sáng bởi MDR)

Please Read these Commentaries with your TCF Book Handy for the Sake of Continuity. The extensive commentary may otherwise disrupt the sense of flow.

Xin đọc các Lời Bình này với cuốn TCF trong tay để bảo đảm tính liên tục. Bằng không, phần bình giảng rộng sẽ làm đứt mạch cảm nhận khi đọc.

We take up our second point in the consideration of the centres:

Chúng ta chuyển sang điểm thứ hai trong việc khảo sát các luân xa:

1. We recall the first point in the consideration of the centres was here, on page 163.

1. Chúng ta nhớ rằng điểm thứ nhất trong việc khảo sát các luân xa nằm ở đây, trang 163.

1. The Nature of the Centres.

1. Bản Tính của các Luân xa.

[Covered, we remember, in section S2S4]

[Đã được bao quát, như chúng ta nhớ, ở phần S2S4]

2. We may wish to refresh our memory, as we discussed this subject in the section before last, before Christmas, when we dealt with Stanza I.

2. Chúng ta có thể muốn ôn lại trí nhớ, vì chúng ta đã bàn đề tài này ở phần trước nữa, trước Giáng Sinh, khi chúng ta đề cập đến Khổ kệ I.

2. The centres in connection with the Rays.

2. Các luân xa liên hệ với các Cung.

This will give us a large range of subject to be dealt with, and much food for thought, surmise and wise conjecture. All that is here stated is given simply as basic or foundation facts, upon which may be erected a structure of conjecture, and of logical reasoning, employing the imagination, and thereby effecting two things:

Điều này sẽ cho chúng ta một phạm vi đề tài rộng để đề cập đến, và nhiều điều đáng suy ngẫm, giả định và phỏng đoán khôn ngoan. Tất cả những gì được trình bày ở đây chỉ nêu như các sự kiện cơ bản hay nền tảng, trên đó có thể dựng nên một cấu trúc suy đoán, và lý luận hợp lôgic, dùng đến sự tưởng tượng, và qua đó đạt được hai điều:

3. When we read DK we do this: we erect a “structure of conjecture”.

3. Khi chúng ta đọc lời dạy của Chân sư DK, chúng ta làm điều này: chúng ta dựng nên một “cấu trúc suy đoán”.

4. Conjecture is an important mental dynamic; it is an extension of thought which may lead us to intuitive apprehension. It also proposes that which must be proven, and in the direction of such proofs those who conjecture are obliged to labor.

4. Suy đoán là một động lực trí tuệ quan trọng; nó là sự mở rộng của tư tưởng có thể dẫn ta đến sự lĩnh hội trực giác. Nó cũng nêu ra điều phải được chứng minh, và để hướng đến những chứng minh như vậy, những ai suy đoán buộc phải lao tác.

These are an ability to expand our mental concept and to build the antaskarana, or that bridge which all who seek to function in the buddhic vehicle must build between higher and lower mind; hence the necessity for the use of the imagination (which is the astral equivalent to mental discrimination), and its ultimate transmutation into intuition.

Đó là khả năng mở rộng khái niệm trí tuệ của chúng ta và xây dựng antahkarana, tức cây cầu mà tất cả những ai tìm cách hoạt động trong hiện thể Bồ đề đều phải dựng giữa thượng trí và hạ trí; vì vậy cần thiết phải dùng đến sự tưởng tượng ( vốn là đối phần cảm dục của phân biện trí tuệ), và rốt ráo được chuyển hoá thành trực giác.

5. By engaging in conjecture we learn to expand our mental concept. We are led into presently unverified areas of thought.

5. Bằng việc tham dự vào suy đoán, chúng ta học cách mở rộng khái niệm trí tuệ. Chúng ta được dẫn vào những miền tư tưởng hiện còn chưa kiểm chứng.

6. Through conjecture we are also building the antahkarana.

6. Qua suy đoán, chúng ta cũng đang xây dựng antahkarana.

7. Imagination is astral in nature but the in the process of creative imagination the mental component is added.

7. Sự tưởng tượng có bản chất cảm dục, nhưng trong tiến trình tưởng tượng sáng tạo, thành tố trí tuệ được thêm vào.

8. Imagination, we are told, is the astral equivalent to mental discrimination. Mental discrimination is an act of mental separation or distinction. Does imagination choose? We might say that it does. One can choose the images one entertains. We need not simply entertain anything that comes to mind. Imagination (as here presented) seems to be disciplined imagination. It is not the “active imagination” (a psychological technique) which can go anywhere, entertain any image, and is allowed to do so.

8. Chúng ta được dạy rằng tưởng tượng là đối phần cảm dục của phân biện trí tuệ. Phân biện trí tuệ là hành vi phân chia hay biệt phân trong trí. Tưởng tượng có chọn lựa chăng? Có thể nói là có. Người ta có thể chọn những hình ảnh mình ấp ủ. Chúng ta không cần chỉ tiếp nhận bất cứ điều gì hiện đến trong trí. Tưởng tượng (như trình bày ở đây) dường như là tưởng tượng được kỷ luật. Nó không phải “tưởng tượng chủ động” (một kỹ thuật tâm lý) có thể đi bất cứ đâu, chứa đựng bất cứ hình ảnh nào, và được phép làm vậy.

9. Through mental discrimination we distinguish one thought from another, one thing from another. Through imagination, we distinguish the different objects of desire. We imagistically discriminate between that which is desired and that which is not.

9. Qua phân biện trí tuệ, chúng ta phân biệt tư tưởng này với tư tưởng khác, vật này với vật khác. Qua tưởng tượng, chúng ta phân biệt hình tượng các đối tượng ham muốn khác nhau. Chúng ta phân biện bằng hình tượng giữa cái đáng mong và cái không đáng mong.

10. A disciplined imagination can be selective just as is mental discrimination. We allow images to form only in accordance with an energy stream to which we given internal assent. All other streams are rebuffed before images can form.

10. Một tưởng tượng được kỷ luật có thể có tính tuyển chọn như phân biện trí tuệ vậy. Chúng ta chỉ cho phép các hình ảnh hình thành phù hợp với một dòng năng lượng mà chúng ta đã chấp nhận nội tâm. Mọi dòng khác đều bị đẩy lui trước khi hình ảnh có thể thành hình.

11. The main point is that imagination need not be unguided and helplessly at the service of simply any energy stream. Every time we guide the imagination creatively, we choose to allow the image-making faculty to respond to a particular energy stream and not to another. There is an internal sensitivity (probably astral) which determines that to which we allow the image-making faculty to respond.

11. Điểm chính là tưởng tượng không nhất thiết vô hướng dẫn và bất lực đáp ứng đơn giản với bất kỳ dòng năng lượng nào. Mỗi lần chúng ta hướng dẫn tưởng tượng một cách sáng tạo, chúng ta chọn cho phép năng lực tạo ảnh hưởng ứng với một dòng năng lượng nhất định và không với dòng khác. Có một độ nhạy nội tâm (có lẽ thuộc cảm dục) quyết định chúng ta cho phép năng lực tạo ảnh hưởng ứng với cái gì.

12. We are given a developmental sequence: imagination – mental discrimination – intuition.

12. Chúng ta được trao một chuỗi phát triển: tưởng tượng – phân biện trí tuệ – trực giác.

13. Imagination, as we are seeing, can conform to different energies. In the process of antahkarana-building the imagination is to reflect or conform to buddhic impulse.

13. Như chúng ta đang thấy, tưởng tượng có thể thuận theo những năng lượng khác nhau. Trong tiến trình xây dựng antahkarana, tưởng tượng phải phản chiếu hay thuận theo xung lực Bồ đề.

14. From VSK: “Note that the science of the Antahkarana is listed in R&I as a second ray presentation, a book in two parts, with a title in two parts—‘antah’ and ‘karana’. These divisions reflect the double dual wheels of this second system within its internal and external structure as the fifth part of a Treatise on the Seven Rays, and culminating treatise.”

14. Từ VSK: “Lưu ý rằng khoa học về Antahkarana được liệt kê trong R&I như một trình bày thuộc cung hai, một cuốn sách gồm hai phần, với nhan đề có hai phần—‘antah’ và ‘karana’. Những phân đoạn này phản ảnh các bánh xe kép đôi của hệ thứ hai này trong cấu trúc nội tại và ngoại tại của nó, như phần thứ năm của một Luận về Bảy Cung, và là luận thư đỉnh kết.”

All teachers, who have taken pupils in hand for training, and who seek to use them in world service, follow the method of imparting a fact (oft veiled in words and blinded by symbol) and then of leaving the pupil to follow his own deductions.

Mọi vị huấn sư, những người đã đảm trách môn sinh để rèn luyện, và tìm cách dùng họ trong phụng sự thế gian, đều theo phương pháp truyền đạt một sự kiện (thường che kín trong ngôn từ và bị mù bởi biểu tượng) rồi để môn sinh tự theo các suy luận của y.

15. This is the older method of giving hints. Later when He wrote DINA II, DK spoke of the newer method:

15. Đây là phương pháp ám chỉ cổ điển. Về sau khi viết DINA II, Chân sư DK đã nói về phương pháp mới:

“Today, this method is no longer being used, and this change constitutes one of the modes of training the disciples of the New Age. The modern disciple has to recognise the hint which is related to his point in consciousness and which is to be found in the mass of instruction made available for his use. He has to seek for the—to him—most deeply esoteric statement he encounters in the current teaching; from this isolated hint he has to abstract the significance, after removing it from its context; later, he must learn and profit from its meaning.” (DINA I 319)

“Ngày nay, phương pháp này không còn được dùng nữa, và sự thay đổi này là một trong những cách rèn luyện các đệ tử của Kỷ Nguyên Mới. Người đệ tử hiện đại phải nhận ra gợi ý liên hệ với điểm tâm thức của y và được tìm thấy trong khối lượng giáo huấn được cung cấp cho y sử dụng. Y phải truy tầm phát biểu mà—đối với y—là nội môn sâu xa nhất trong giáo huấn hiện hành; từ gợi ý cô lập này y phải trừu xuất thâm nghĩa, sau khi tước nó khỏi ngữ cảnh; về sau, y phải học và thu ích từ ý nghĩa ấy.” (DINA I 319)

Discrimination is thereby developed, and discrimination is the main method whereby the Spirit effects its liberation from the trammels of matter, and discerns between illusion and that which is veiled by it.

Nhờ vậy, phân biện được phát triển, và phân biện là phương pháp chủ yếu nhờ đó Tinh thần đạt giải thoát khỏi những ràng buộc của chất liệu, và phân biệt giữa ảo tưởng với điều bị nó che phủ.

16. Discrimination is the method by which one separates the real from the unreal.

16. Phân biện là phương pháp nhờ đó người ta tách cái thực khỏi cái không thực.

17. Those who are intent on liberation cannot ignore the potency of the mind—the great discriminator.

17. Những ai chú tâm vào giải thoát không thể xem nhẹ năng lực của thể trí—vị đại phân biệt gia.

18. In that way imagination is similar; it helps one recognize the truth.

18. Theo cách ấy, tưởng tượng cũng tương tự; nó giúp người ta nhận ra chân lý.

19. Through discrimination, we move from the real to the unreal. It is the method utilized at the fourth initiation under the influence of Mercury (buddhi) and Saturn (the mind, under the third ray—the “Divine Separator” and “Discriminating Essential Life” EP I 68)

19. Qua phân biện, chúng ta tiến từ cái không thực tới cái thực. Đó là phương pháp được dùng ở lần điểm đạo thứ tư dưới ảnh hưởng của Sao Thủy (Bồ đề) và Sao Thổ (thể trí, dưới cung ba—“Đấng Phân Ly Thiêng Liêng” và “Sự Sống Tinh Yếu Phân Biệt” EP I 68)

20. This was also the method of the great Sage Shankara, Who (a “Sixth Rounder” like the Buddha”) trained those who were Arhats (as did the Buddha) and utilized the planets Mercury and Saturn to discriminate the real from the unreal.

20. Đây cũng là phương pháp của bậc Hiền triết vĩ đại Shankara, Ngài (một “người thuộc vòng thứ sáu” như Đức Phật) đã huấn luyện những vị A-la-hán (như Đức Phật) và dùng các hành tinh Sao Thủy và Sao Thổ để phân biệt cái thực khỏi cái không thực.

21. What is that which is veiled by illusion? Shall we call it buddhi, pure reason, the intuition? This faculty is revealed in a new way at the fourth initiation.

21. Cái gì là điều bị ảo tưởng che phủ? Chúng ta có gọi đó là Bồ đề, là lý trí thuần, là trực giác chăng? Năng lực này được mặc khải theo cách mới ở lần điểm đạo thứ tư.

Not much can be here imparted, as the subject, if dealt with at all fully, would convey too much information to those liable to misuse it.

Không thể truyền đạt nhiều ở đây, vì nếu đề tài được trình bày đầy đủ, nó sẽ đưa quá nhiều thông tin cho những ai có khả năng lạm dụng.

22. Those liable to misuse it are just about everybody. Do we share HPB’s assessment that until a man has taken the fourth degree he is an unconscious black magician?

22. Những ai có khả năng lạm dụng thì hầu như là tất cả mọi người. Chúng ta có chia sẻ đánh giá của Bà HPB rằng cho tới khi một người đạt bậc thứ tư, y là một nhà hắc thuật vô thức chăng?

As we know, the evolution of the centres is a slow and gradual thing, and proceeds in ordered cycles varying according to the ray of a man’s Monad.

Như chúng ta biết, sự tiến hoá của các luân xa là một tiến trình chậm rãi và tuần tự, diễn ra theo các chu kỳ có trật tự, biến đổi tùy theo cung của Chân thần nơi một người.

23. The cycles are cycles of unfoldment and attainment, and they do not occur for all monadic types at the same time, in the same sequence and for the same duration.

23. Các chu kỳ là chu kỳ khai mở và thành tựu, và chúng không xảy ra cho tất cả các loại chân thần vào cùng một thời điểm, theo cùng một trình tự hay trong cùng một khoảng thời gian.

24. There are generalities that apply to all monadic types, and specificities that distinguish them.

24. Có những điều tổng quát áp dụng cho mọi loại chân thần, và những điều đặc thù để phân biệt chúng.

25. Why might it be that the evolution of centres accords to monadic cycles, and not, alternatively, to egoic or solar, or personality cycles?

25. Vì sao sự tiến hoá của các luân xa lại tương hợp với các chu kỳ của chân thần, chứ không phải, thí dụ, với các chu kỳ của chân ngã, hay thái dương, hoặc phàm ngã?

26. It is at this time that we should remember that the chakras are basically extensions of monadic power, electric fire. This we have been studying. No matter the extent to which they appear in fields ‘lower’ than the Monad, they derive from the power of the Monad and are directly connected to the Monad and its ray type.

26. Lúc này chúng ta nên nhớ rằng các luân xa về căn bản là những mở rộng của quyền năng chân thần, lửa điện. Đây chính là điều chúng ta đã học. Dẫu chúng xuất hiện đến mức nào trong các trường “thấp” hơn Chân thần, chúng đều xuất sinh từ năng lực của Chân thần và trực tiếp nối kết với Chân thần và loại cung của Ngài.

[174]

[174]

The life of the Pilgrim can be, for purposes of discussion, divided into three main periods:

Vì mục đích thảo luận, sự sống của Người Lữ Hành có thể chia làm ba giai đoạn chính:

27. The Jiva is the pilgrim, and the Prodigal Son.

27. Jiva là người lữ hành, và là Người Con Hoang Đàng.

28. The Jiva is the ‘Monad-in-extension’.

28. Jiva chính là “Chân Thần-trong-sự-mở-rộng”.

1. That period wherein he is under the influence of the Personality Ray.

1. Giai đoạn y nằm dưới ảnh hưởng của Cung phàm ngã.

29. This period accords with the control of the third aspect of divinity.

29. Giai đoạn này tương ứng với sự kiểm soát của phương diện thứ ba của thần tính.

2. That wherein he comes under the Ray of the Ego.

2. Giai đoạn y đi vào dưới Cung của Chân ngã.

30. This period accords with the control of the second aspect.

30. Giai đoạn này tương ứng với sự kiểm soát của phương diện thứ hai.

31. Though this period of development seems longer than the next, it is really shorter overall, lasting some tens of lives.

31. Dẫu giai đoạn phát triển này có vẻ dài hơn giai đoạn kế, xét tổng thể, nó thực ra ngắn hơn, kéo dài trong vài chục kiếp sống.

3. That wherein the Monadic Ray holds sway.

3. Giai đoạn Cung Chân thần nắm quyền chi phối.

32. This period, the shortest from the human point of view (though longest from the perspective of post-human development) accords with the control of the first divine aspect.

32. Giai đoạn này, ngắn nhất xét từ quan điểm nhân loại (dẫu dài nhất khi nhìn từ viễn tượng hậu nhân loại), tương ứng với sự kiểm soát của phương diện thiêng liêng thứ nhất.

The first period is by far the longest, and covers the vast progression of the centuries wherein the activity aspect of the threefold self is being developed.

Giai đoạn thứ nhất dẫu sao cũng dài nhất, và bao trùm sự tiến trình mênh mông của bao thế kỷ, trong đó phương diện hoạt động của tự ngã tam phân được triển khai.

33. Most often it appears that the first part of any developmental cycle is longest. So it is for both stars and men.

33. Thường thấy rằng phần đầu của bất kỳ chu kỳ phát triển nào cũng là dài nhất. Với các vì sao cũng như với con người đều như thế.

34. We note the use of the word “centuries” but, perhaps, millennia would be a more representative unit of time.

34. Ở đây dùng từ “thế kỷ”, nhưng có lẽ “thiên niên kỷ” sẽ là đơn vị thời gian đại biểu hơn.

35. May we say that the first period of development may last in excess of twenty-one million years, as there are many today who individualized on the Earth-chain’s fourth round, some twenty-one million years ago, who have not yet reached the stage of coming under the Ray of the Ego. For some another million or two years may be needed. But, today, events are moving so fast that unparalleled development may be a possibility.

35. Chúng ta có thể nói rằng giai đoạn phát triển thứ nhất có thể kéo dài hơn hai mươi mốt triệu năm, vì ngày nay có nhiều người đã biệt ngã hóa ở vòng thứ tư của Dãy Địa Cầu, cách nay chừng hai mươi mốt triệu năm, nhưng vẫn chưa đạt đến giai đoạn đi vào dưới Cung của Chân ngã. Với một số người, có lẽ cần thêm một hai triệu năm nữa. Nhưng, ngày nay, sự kiện đang chuyển thật nhanh đến nỗi những phát triển chưa từng có thể là khả hữu.

Life after life slips away during which the aspect of manas or mind is being slowly wrought out, and the human being comes more and more under the control of his intellect, operating through his physical brain.

Hết kiếp này sang kiếp khác trôi qua, trong đó phương diện manas hay thể trí được chậm rãi rèn nên, và con người ngày càng nhiều hơn nằm dưới kiểm soát của trí năng, vận hành qua bộ não hồng trần của y.

36. This is the stage which culminates with the unfoldment of the third petal of the egoic lotus—the sacrifice petal of the knowledge tier.

36. Đây là giai đoạn đi đến đỉnh điểm nơi sự khai mở cánh hoa thứ ba của hoa sen chân ngã—cánh hoa hi sinh của tầng tri thức.

37. Think of the vast perspective which makes meaningful the phrase “life after life slips away”.

37. Hãy nghĩ đến viễn tượng mênh mông làm cho cụm từ “hết kiếp này qua kiếp khác trôi qua” có ý nghĩa.

38. The initiate’s entire sense of time is altered from what it was when he was an average human being or even a disciple.

38. Toàn cảm về thời gian của vị điểm đạo đồ đổi khác hoàn toàn so với khi y còn là một con người trung bình hay thậm chí là một đệ tử.

This might be looked upon as corresponding to the period of the first solar system, wherein the third aspect logoic, that of Brahma, Mind, or Intelligence, was being brought to the point of achievement.74

Điều này có thể xem như tương ứng với giai đoạn của hệ mặt trời thứ nhất, trong đó phương diện logoic thứ ba, tức của Brahma, Trí, hay Trí năng, được đưa tới điểm thành tựu. 74

39. The stage of mental development corresponds to the major process of the first solar system.

39. Giai đoạn phát triển trí tuệ tương ứng với tiến trình chủ đạo của hệ mặt trời thứ nhất.

40. Still more accurately, we might also call the process of that solar system the stage of ‘personality development’ for the Solar Logos. Of course, true personality development necessitates mental development.

40. Chính xác hơn nữa, chúng ta cũng có thể gọi tiến trình của hệ mặt trời ấy là giai đoạn “phát triển phàm ngã” của Thái dương Thượng đế. Dĩ nhiên, phát triển phàm ngã đích thực bao hàm phát triển trí tuệ.

74: “When the last cycle of man-bearing has been completed by that last fecund earth; and humanity has reached in a mass the stage of Buddhahood and passed out of the objective existence into the mystery of Nirvana—

74: “Khi chu kỳ cuối cùng của việc mang-người đã được hoàn tất bởi quả địa cuối cùng còn mắn đẻ; và nhân loại đã đạt, nói chung, tới giai đoạn Phật quả và vượt khỏi hiện tồn khách quan để đi vào huyền nhiệm của Niết-bàn—

41. Shall the mysteries of Nirvana be realized at the fifth initiation, since the atmic plane (so focal for the fifth degree initiate) is called the “nirvanic plane”? (TCF 164)

41. Liệu các huyền nhiệm của Niết-bàn sẽ được thực chứng ở lần điểm đạo thứ năm, vì cõi atma (rất trọng tâm đối với điểm đạo đồ bậc năm) được gọi là “cõi Niết-bàn”? (TCF 164)

then “strikes the hour”; the seen becomes the unseen, the concrete resumes its pre-cyclic state of atomic distribution.

khi ấy “giờ điểm” vang; cái thấy được trở thành cái vô hình, cái cụ thể trở lại trạng thái phân phối nguyên tử tiền-chu kỳ của nó.

42. We are speaking here of relative pralayas, otherwise nothing would remain—even the “pre-cyclic state of atomic distribution”.

42. Ở đây chúng ta đang nói về những giai kỳ qui nguyên tương đối, nếu không thì chẳng còn gì tồn tại—ngay cả “trạng thái phân phối nguyên tử tiền-chu kỳ”.

But the dead worlds left behind the onsweeping impulse do not continue dead. Motion is the eternal order of things and affinity or attraction its handmaid of all works. The thrill of life will again re-unite the atom, and it will stir again in the inert planet when the time comes.

Nhưng những thế giới chết bị bỏ lại phía sau bởi xung lực đang cuốn trào không tiếp tục chết. Chuyển động là trật tự vĩnh cửu của vạn hữu và tính tương thông hay hấp dẫn là tỳ nữ của mọi công trình. Rung động của sự sống sẽ lại tái kết hợp nguyên tử, và nó sẽ khuấy động lại hành tinh trơ lì khi thời điểm đến.

43. Perhaps we mean, “reunite the atom(s)” into forms, as even an inert planet must be composed of atoms.

43. Có lẽ chúng ta muốn nói, “tái kết hợp các nguyên tử” thành các hình tướng, vì ngay cả một hành tinh trơ lì cũng phải được cấu thành từ các nguyên tử.

Though all its forces have remained statu quo and are now asleep, yet little by little it will—when the hour re-strikes—gather for a new cycle of man-bearing maternity, and give birth to something still higher as moral and physical types than during the preceding manvantara.

Dẫu mọi lực của nó đã duy trì statu quo và giờ đang ngủ yên, nhưng dần dần—khi giờ điểm lại gõ—nó sẽ gom góp cho một chu kỳ mới của vai trò mẫu tử mang-người, và sẽ sinh ra điều gì đó còn cao hơn, xét về loại hình đạo đức và thể chất, so với manvantara trước đó.

44. Here is where the term “manvantara” is appropriate (no matter what its actual duration). We have noted that the term “mahamanvantara” (an “occult century”) and “manvantara” (a day of Brahma) must not be confused, though the distinction, it seems, is not always kept.

44. Ở đây thuật ngữ “manvantara” là thích đáng (bất kể kỳ hạn thực của nó). Chúng ta đã lưu ý rằng thuật ngữ “mahamanvantara” (một “thế kỷ huyền bí”) và “manvantara” (một ngày của Brahma) không nên lẫn lộn, dẫu xem ra không phải lúc nào người ta cũng giữ ranh định này.

45. The sign Libra conveys the energy of the “status quo”, and is a sign much related to consummation and, thus, pralaya. Pisces is another such sign. Interestingly, in relation to both these signs, Venus is powerful. Venus connotes the power of harmonization that precedes dissolution.

45. Dấu hiệu Thiên Xứng chuyển tải năng lượng của “status quo”, và là một dấu hiệu rất liên hệ với sự viên mãn và, vì vậy, với giai kỳ qui nguyên. Song Ngư là một dấu hiệu tương tự khác. Điều thú vị là, đối với cả hai dấu hiệu này, Kim Tinh đều mạnh mẽ. Kim Tinh gợi ý quyền năng điều hoà đi trước sự tan rã.

And its “cosmic atoms already in a differentiated state” (differing—in the producing force in the mechanical sense of motions and effects) remain statu quo as well as globes and everything else in the process of formation.”

Và “các nguyên tử vũ trụ của nó vốn đã ở trạng thái biến phân” (khác nhau—xét về lực tạo sinh trong nghĩa cơ học của chuyển động và các hiệu dụng) vẫn duy trì statu quo cũng như các bầu và mọi thứ khác trong tiến trình hình thành.”

46. We are not talking about ‘absolute pralaya’ (the ‘Maha-Pralaya’ which dissolves the entirety of cosmos—objective and subjective).

46. Chúng ta không nói về “đại qui nguyên” tuyệt đối (‘Đại giai kỳ qui nguyên’ vốn hoá giải toàn thể vũ trụ—khách quan lẫn chủ quan).

47. A return to the state of non-differentiation (Mulaprakriti) is a penultimate stage and does not refer to the type of pralayas here discussed.

47. Sự hoàn nguyên về trạng thái vô biến phân (Mula-prakriti) là một giai đoạn áp chót và không liên hệ với các giai kỳ qui nguyên đang bàn ở đây.

Such is the “hypothesis fully in accordance with (your) (my) note.”

Đó là “giả thuyết hoàn toàn phù hợp với (ghi) (chú) của (ngươi) (ta).”

For, as planetary development is as progressive as human or race evolution, the hour of the Pralaya’s coming catches the series of worlds at successive stages of evolution; (i.e.) each has attained to some one of the periods of evolutionary progress—each stops there, until the outward impulse of the next manvantara sets it going from that very point—like a stopped time-piece re-wound. Therefore, I have used the word “differentiated.”

Bởi vì, khi sự phát triển của các hành tinh cũng tiến triển như tiến hoá của con người hay của chủng tộc, giờ đến của Pralaya bắt gặp chuỗi thế giới ở những giai đoạn tiến hoá kế tiếp nhau; (tức là) mỗi thế giới đã đạt tới một trong các thời kỳ tiến bộ tiến hoá—mỗi cái dừng lại ở đó, cho đến khi xung lực hướng ngoại của manvantara kế tiếp khiến nó khởi hành từ chính điểm ấy—tựa như một chiếc đồng hồ ngừng lại được lên dây cót lại. Bởi vậy, ta đã dùng từ “biến phân.”

48. That achieved differentiation is not destroyed by a minor pralaya (such as a solar systemic pralaya, or even a constellational or super-constellational pralaya).

48. Cái đã đạt được qua biến phân không bị hủy bởi một giai kỳ qui nguyên nhỏ (như một qui nguyên của hệ mặt trời, hay thậm chí ở cấp chòm sao hay siêu chòm sao).

49. In studying TCF we realize that the term “atom” can refer to units great and small. Here, the term relates to the tiny units comprising the vehicles of each of the Planetary Logoi, whose evolution has been interrupted like “stopped time-piece(s)”.

49. Khi học TCF, chúng ta nhận ra rằng thuật ngữ “nguyên tử” có thể chỉ cho các đơn vị lớn và nhỏ. Ở đây, thuật ngữ này liên hệ đến các đơn vị tí hon kết thành các hiện thể của mỗi vị Hành Tinh Thượng đế, mà tiến hoá của các Ngài đã bị ngắt quãng như “những chiếc đồng hồ ngừng lại”.

50. What is said here of planetary development is true of our lives as well. There is no true finishing of the process. All lesser lives are interrupted in their development by pralaya. The main question is: “How much of the cyclic-intention for a particular incarnation was fulfilled when the irresistible moment of death came?”

50. Điều được nói ở đây về phát triển hành tinh cũng đúng với đời sống của chúng ta. Không có sự hoàn tất thật sự cho tiến trình. Mọi sự sống nhỏ hơn đều bị gián đoạn trong phát triển của mình bởi qui nguyên. Câu hỏi chủ chốt là: “Bao nhiêu phần của ý đồ chu kỳ cho một kiếp nhập thể nào đó đã được hoàn tất khi khoảnh khắc vô phương cưỡng lại của cái chết ập đến?”

51. We must submit to this cosmic ritual; “Rome was not built in a day.” Even a solar system requires far more than a “day of Brahma” for its completion.

51. Chúng ta phải thuận theo nghi lễ vũ trụ này; “La Mã không xây trong một ngày.” Ngay cả một hệ mặt trời cũng cần hơn xa “một ngày của Brahma” để được viên thành.

At the coming of the Pralaya no human, animal, or even vegetable entity will be alive to see it, but there will be the earths or globes with their mineral kingdoms; and all these planets will be physically disintegrated in the pralaya, yet not destroyed;

Khi Pralaya đến, sẽ không có một thực thể nhân loại, thú vật, hay thậm chí thực vật nào còn sống để thấy nó, nhưng sẽ có các địa cầu hay các bầu với những giới khoáng vật của chúng; và tất cả những hành tinh này sẽ bị phân rã về mặt thể chất trong pralaya, nhưng không bị hủy diệt;

52. This is the point to realize: “physically disintegrated but not destroyed”.

52. Đây là điểm cần nhận ra: “phân rã về vật lý nhưng không bị hủy diệt”.

53. The final universal pralaya includes all in the swath of its destruction.

53. Đại qui nguyên tối hậu sẽ gồm thâu tất cả trong lưỡi hái hủy diệt của nó.

for they have their places in the sequence of evolution and their “privations” coming again out of the subjective, they will find the exact point from which they have to move on around the chain of “manifested forms.”

vì chúng có vị trí của mình trong chuỗi tiến hoá và những “ tước khuyết ” của chúng; khi lại xuất lộ từ chủ quan, chúng sẽ tìm ra đúng điểm từ đó chúng phải chuyển động tiếp quanh chuỗi các “hình tướng được biểu hiện.”

54. The term “privations” is important. A privation is an abstracted energy with formative powers. An abstracted essence is still potent though deprived of its customary vehicles of manifestation.

54. Thuật ngữ “tước khuyết” là quan trọng. Một tước khuyết là một năng lượng được trừu xuất nhưng vẫn còn quyền năng tạo hình. Một tinh hoa đã trừu xuất vẫn hữu hiệu dẫu bị tước mất những hiện thể biểu hiện thông thường của nó.

55. Evolution is precisely sequential and there are no skipped steps.

55. Tiến hoá có trình tự chính xác và không có bước nào bị bỏ qua.

This, as you know, is repeated endlessly throughout Eternity.

Điều này, như các ông biết, được lặp lại vô tận suốt Cõi Vĩnh Cửu.

56. What is the type of “Eternity” here meant? Yet, on one level or another, I believe it is correct to say “endlessly throughout Eternity” even if that eternity is Endless Duration.

56. “Vĩnh cửu” ở đây là kiểu gì? Tuy nhiên, ở một bình diện nào đó, tôi tin là đúng khi nói “vô tận suốt Cõi Vĩnh Cửu”, dẫu cõi vĩnh cửu ấy là Thời Gian Bất Tận.

57. The ABSOLUTE, ITSELF, is a ‘PRIVATION’—the ULTIMATE PRIVATION.

57. CHÂN NHƯ TUYỆT ĐỐI, TỰ THÂN, là một “TƯỚC KHUYẾT”—TƯỚC KHUYẾT TỐI HẬU.

58. And will there be continuity, such that the ‘Privation’ (abstracted at the “Day be with Us”) of the entirety of cosmos will re-grasp (at the dawn of the next universe) vehicles of expression in the state they had achieved in the past universe? I do not think so. All is new. For the reasoning involved, please see Infinitization of Selfhood.

58. Và liệu sẽ có sự liên tục như thế chăng, để “Tước Khuyết” (được trừu xuất vào lúc “Ngày thuộc Về Chúng Ta”) của toàn thể vũ trụ sẽ, vào bình minh của vũ trụ kế tiếp, tái nắm bắt các hiện thể biểu lộ ở đúng trạng thái chúng đã đạt trong vũ trụ quá khứ? Tôi không nghĩ vậy. Mọi sự đều mới. Vì lý lẽ liên hệ, xin xem Vô Hạn Hóa của Tự Ngã.

Each man of us has gone this ceaseless round, and will repeat it forever and ever.

Mỗi người trong chúng ta đã đi vòng quay triền miên này, và sẽ lặp lại nó đời đời kiếp kiếp.

59. Though not as “man” per se. By the time the universal pralaya for this cosmos sets in, there will be no man.

59. Tuy không phải như “con người” tự thân. Đến khi đại qui nguyên vũ trụ cho vũ trụ này khởi lên, sẽ không còn con người nữa.

The deviation of each one’s course, and his rate of progress from Nirvana to Nirvana is governed by causes which he himself creates out of the exigencies in which he finds himself entangled.”—From The Mahatma Letters to A. P. Sinnett, p. 6

Độ lệch của lộ trình mỗi người, và tốc độ tiến bộ của y từ Niết-bàn này đến Niết-bàn khác được chi phối bởi những nguyên nhân do chính y tạo ra từ những tình thế mà y thấy mình bị vướng mắc.” —Từ Các Bức Thư của các Chân sư gửi A. P. Sinnett, tr. 6

60. Fascinating concept—“from Nirvana to Nirvana”. Nirvana is a relative term, and even the Solar Logos, and Beings far beyond, experience higher correspondences to Nirvana. The Nirvana of the Universal Logos ends His universe!

60. Một ý niệm lôi cuốn—“từ Niết-bàn này đến Niết-bàn khác”. Niết-bàn là thuật ngữ tương đối, và ngay cả Thái dương Thượng đế, và những Đấng vượt xa nữa, cũng thể nghiệm những tương ứng cao hơn của Niết-bàn. Niết-bàn của Thượng đế Vũ Trụ kết liễu vũ trụ của Ngài!

Then the second aspect began in [175] this present solar system to be blended with, and wrought out through it.

Rồi phương diện thứ hai khởi sự trong [175] hệ mặt trời hiện tại này để được hòa quyện với, và được rèn luyện qua phương diện ấy.

61. Our second solar system is the system of Love-Wisdom. It is really the fifth solar system, but the second major solar system of our particular Solar Logos.

61. Hệ mặt trời thứ hai của chúng ta là hệ của Bác Ái – Minh Triết. Thực ra đó là hệ mặt trời thứ năm, nhưng là hệ chính yếu thứ hai của riêng Thái dương Thượng đế của chúng ta.

62. The second aspect wrought through the third aspect.

62. Phương diện thứ hai được rèn luyện qua phương diện thứ ba.

Centuries go by and the man becomes ever more actively intelligent, and the field of his life more suitable for the coming in of this second aspect.

Thế kỷ nối thế kỷ trôi qua và con người trở nên ngày càng tích cực thông minh hơn, và khu vực đời sống của y càng thích hợp hơn cho sự đi vào của phương diện thứ hai này.

63. The second aspect thrives in a more illumined atmosphere. Light is the forerunner of Love-Wisdom.

63. Phương diện thứ hai hưng vượng trong một bầu không khí sáng sủa hơn. Ánh sáng là tiền trạm của Bác Ái – Minh Triết.

The correspondence lies in similitude and not in detail as seen in time and space. It covers the period of the first three triangles dealt with earlier.

Sự tương ứng nằm ở chỗ tương tự chứ không ở chi tiết, như thấy trong thời gian và không gian. Nó bao trùm giai đoạn của ba tam giác đầu tiên đã bàn trước đó.

64. We are speaking of the slow incoming of the second aspect and its demonstration through the third.

64. Chúng ta đang nói về sự đi vào từ từ của phương diện thứ hai và biểu lộ của nó qua phương diện thứ ba.

65. The three triangles mentioned are:

65. Ba tam giác được nói đến là:

1. The pranic triangle.

1. Tam giác prana.

a. The shoulder centre.

a. Luân xa ở vai.

b. The centre near the diaphragm.

b. Luân xa gần cơ hoành.

c. The spleen.

c. Luân xa lá lách.

2. Man controlled from the astral plane.

2. Con người chịu kiểm soát từ cõi cảm dục.

a. The base of the spine.

a. Đáy cột sống.

b. The solar plexus.

b. Tùng thái dương.

c. The heart.

c. Trái tim.

3. Man controlled from the mental plane.

3. Con người chịu kiểm soát từ cõi trí.

a. The base of the spine.

a. Đáy cột sống.

b. The heart.

b. Trái tim.

c. The throat.

c. Cổ họng.

66. This first period connected with third ray takes place as the three outer petals are unfolded—the Knowledge Tier. However, the first period cannot be limited to the unfoldment of those petals only, for the fourth petal is still, in a sense, lunar, and even if it is considered a “love petal”, does not yet correlate with the emergence of the solar factor in the life of the human being.

66. Giai đoạn đầu tiên liên hệ với cung ba diễn ra khi ba cánh hoa ngoài khai mở—Tầng Tri thức. Tuy nhiên, giai đoạn thứ nhất không thể giới hạn chỉ trong sự khai mở các cánh hoa đó, vì cánh hoa thứ tư vẫn, theo một nghĩa nào đó, thuộc âm nguyệt, và dẫu được xem là “cánh hoa bác ái”, nó vẫn chưa tương ứng với sự xuất hiện của yếu tố thái dương trong đời sống của con người.

67. The fifth petal, as well, may have much in it that is strictly personal and, thus, lunar.

67. Cánh hoa thứ năm, tương tự, có thể còn nhiều điều thuần cá nhân và, do đó, thuộc âm nguyệt.

68. Personality development occurs at the fourth and fifth petal and a personality has its point of control on the lower mental plane.

68. Xây dựng phàm ngã diễn ra ở cánh hoa thứ tư và thứ năm và một phàm ngã có điểm kiểm soát của nó trên cõi hạ trí.

69. The heart center is involved in these first three stages which finally evidence a growing intelligence, but it is necessarily the third aspect of the heart center and concerns the gradual lessening of desire and selfishness as they slowly give way to a more socially responsible attitude.

69. Luân xa tim tham dự vào ba giai đoạn đầu này, vốn rốt cuộc biểu lộ trí thông minh đang tăng trưởng, nhưng tất nhiên là phương diện thứ ba của luân xa tim và liên hệ với sự giảm dần ham muốn và ích kỷ khi chúng từ từ nhường chỗ cho một thái độ trách nhiệm xã hội hơn.

We must not forget that, for the sake of clarity, we are here differentiating between the different aspects, and considering their separated development, a thing only permissible in time and space or during the evolutionary process, but not permissible from the standpoint of the Eternal Now, and from the Unity of the All-Self.

Chúng ta đừng quên rằng, vì mục đích minh bạch, ở đây chúng ta đang phân biệt giữa các phương diện khác nhau, và xét đến sự phát triển tách biệt của chúng, điều chỉ có thể chấp nhận trong thời gian và không gian hay trong tiến trình tiến hoá, nhưng không thể chấp nhận từ quan điểm của Hiện Tại Vĩnh Cửu, và từ Hợp Nhất của Toàn-Ngã.

70. The mind separates and divides in order to create the kind of clarity it can manage. The truth of evolutionary process is a story of merging, blending and overlapping which can only justly be apprehended by the intuition which is synthetic in its grasp.

70. Thể trí phân chia và rạch ròi để tạo nên loại minh bạch mà nó có thể đảm đương. Chân tướng của tiến trình tiến hoá là một thiên truyện về dung hợp, pha trộn và chồng lấp mà chỉ có trực giác—vốn có nắm bắt tổng hợp—mới có thể lĩnh hội cho công bằng.

71. The third degree initiate lives in the Eternal and knows the Self as One. We see in the section above how these two factors go together—the “Eternal Now” and the “Unity of the All Self”.

71. Vị điểm đạo đồ bậc ba sống trong Hiện Tại Vĩnh Cửu và biết Ngã là Một. Chúng ta thấy trong phần trên hai yếu tố này đi kèm nhau—“Hiện Tại Vĩnh Cửu” và “Hợp Nhất của Toàn Ngã”.

The Vishnu or the Love-Wisdom aspect is latent in the Self, and is part of the monadic content, but the Brahma aspect, the Activity-Intelligence aspect precedes its manifestation in time.

Phương diện Vishnu hay Bác Ái – Minh Triết tiềm ẩn trong Tự Ngã, và là phần thuộc nội dung chân thần, nhưng phương diện Brahma, tức Hoạt động – Trí năng, đi trước trong sự biểu lộ theo thời gian.

72. The three major divine aspects are all part of the “monadic content” as are the four rays of attribute and their qualities.

72. Ba phương diện thiêng liêng chủ yếu đều là phần của “nội dung chân thần”, cũng như bốn cung thuộc tính và các phẩm tính của chúng.

73. That which is latent is inherent though, as yet, unexpressed. The Purpose substanding the Fixed Design controls the ‘moment of release into objectivity’ for various divine aspects and qualities.

73. Cái gì tiềm ẩn là cái hàm tàng dẫu chưa biểu lộ. Thiên Ý làm nền cho Thiết Kế Cố Định chi phối “khoảnh khắc được phóng thích vào khách quan” cho các phương diện và phẩm tính thiêng liêng khác nhau.

The Tabernacle in the Wilderness preceded the building of the Temple of Solomon; the kernel of wheat has to lie in the darkness of mother Earth before the golden perfected ear can be seen, and the Lotus has to cast its roots down into the mud before the beauty of the blossom can be produced.

Lều Tạm trong Hoang Mạc đi trước việc kiến tạo Đền Thờ của Solomon; hạt lúa phải nằm trong bóng tối của Mẹ Đất trước khi bông lúa vàng hoàn hảo có thể được thấy, và Hoa Sen phải cắm rễ vào bùn trước khi vẻ đẹp của đóa hoa có thể được sinh thành.

74. The Tibetan presents in allegory the story of the emergence of the second aspect from the third.

74. Chân sư Tây Tạng dùng ngụ ngôn để kể câu chuyện về sự xuất hiện của phương diện thứ hai từ phương diện thứ ba.

75. The theme is Virgoan and describes the gestation of the second aspect ‘within’ a ‘lower’ aspect—the third.

75. Chủ đề mang sắc Virgo và mô tả sự thai dưỡng của phương diện thứ hai “trong” một phương diện “thấp” hơn—phương diện thứ ba.

76. The normal habitation of our consciousness is a virtual “Tabernacle in the Wilderness” before it can be raised as the beautiful “Temple of Solomon”. The change from Tabernacle to Temple occurs as the consciousness disidentifies with the personality (which has been its imprisoning focus for millions of years) and gradually enters the grander and more beauteous ‘spaces’ of the higher mental plane (whereon the causal body, the Temple, is built”).

76. Chỗ trú thường nhật của tâm thức chúng ta là một “Lều Tạm trong Hoang Mạc” trước khi nó có thể được nâng thành “Đền Thờ của Solomon” xinh đẹp. Sự chuyển từ Lều Tạm sang Đền Thờ xảy ra khi tâm thức thôi đồng hoá với phàm ngã (điểm tập trung giam hãm nó suốt hàng triệu năm) và từ từ đi vào những “không gian” rộng và đẹp hơn trên cõi thượng trí (nơi thân nhân quả, tức Đền Thờ, được xây).

77. By the time this refocussing occurs, the Temple is becoming a thing of beauty.

77. Khi sự tái phối tâm thức này xảy ra, Đền Thờ đang trở thành một điều đẹp đẽ.

78. We also note the contrast between the “kernel of wheat (corn)” and the “golden perfected ear”. Consciousness is buried in the matter/form of the lower three worlds before it ripens into full soul consciousness, now independent of its lower environment. The color “gold” or “golden” is frequently a symbol of the fulfillment of the consciousness aspect. The blazing Sun (yellow or golden yellow, and hence associated with buddhi) is the symbol of the Master who is a full member of the Kingdom of Souls.

78. Chúng ta cũng lưu ý đối sánh giữa “hạt lúa” và “bông lúa vàng hoàn hảo”. Tâm thức bị chôn trong vật chất/hình tướng của ba cõi thấp trước khi nó chín thành tâm thức linh hồn trọn đủ, nay độc lập với môi trường thấp của nó. Màu “vàng” hay “vàng óng” thường là biểu tượng của sự viên mãn phương diện tâm thức. Thái Dương rực rỡ (vàng hay vàng kim, nên liên hệ với Bồ đề) là biểu tượng của vị Thầy, vị thành viên trọn vẹn của Vương quốc Linh hồn.

79. The idea behind all these metaphors is that consciousness must be subjected for ages to matter/form before its full beauty can emerge. Consciousness cannot selfishly move on and away from the limitation; using the metaphor of the growth of the lotus, consciousness must root itself in the mud of material limitation in order to grow into the higher spaces—through and above the water, into the air and under the Sun.

79. Ý tưởng đứng sau các ẩn dụ này là: tâm thức phải chịu để cho vật chất/hình tướng hạn chế suốt những kỷ nguyên trước khi toàn mỹ của nó có thể hiển lộ. Tâm thức không thể ích kỷ rời bỏ giới hạn; dùng ẩn dụ tăng trưởng của đóa sen, tâm thức phải cắm rễ trong bùn lầy của giới hạn vật chất để lớn lên vào những không gian cao hơn—xuyên qua và vượt khỏi nước, vào không khí và dưới vầng Thái Dương.

The second period, wherein the egoic ray holds sway, is not so long comparatively; it covers the period wherein the fourth and fifth triangles are being vivified, and marks the lives wherein the man throws his forces on the side of evolution, disciplines his life, steps upon the Probationary Path, and continues up to the third Initiation.

Giai đoạn thứ hai, trong đó cung chân ngã nắm quyền chủ đạo, tương đối không dài; nó bao trùm giai đoạn trong đó tam giác thứ tư và thứ năm được sinh động, và đánh dấu những kiếp mà con người dồn lực mình về phía tiến hoá, rèn kỷ luật đời sống, bước vào Con Đường Dự Bị, và tiếp tục cho đến lần Điểm đạo thứ ba.

80. The phase here described takes us to the third initiation.

80. Pha được mô tả ở đây đưa chúng ta tới lần điểm đạo thứ ba.

81. We are dealing with the phase of egoic unfoldment and not of monadic demonstration. Even the sixth triangle concerns the unfoldment of the soul factor (partially through the higher Ego and partially through the spiritual triad—though in all truth, the higher Ego is the spiritual triad).

81. Chúng ta đang xử lý pha khai mở chân ngã chứ không phải sự biểu lộ của chân thần. Ngay cả tam giác thứ sáu cũng liên quan đến sự khai mở yếu tố linh hồn (phần qua chân ngã cao, phần qua tam nguyên tinh thần—dẫu nói cho đúng, chân ngã cao chính là tam nguyên tinh thần).

82. At the culmination of this phase, all nine petals of the egoic lotus will open.

82. Ở đỉnh điểm của pha này, cả chín cánh hoa của hoa sen chân ngã sẽ mở ra.

83. When does a man throw his forces on the side of evolution? This occurs during the opening of the love petals and especially the fifth and sixth petals, preceding the opening of the sacrifice tier (during which the taking of the “great manasic initiations” occur) (cf. TCF 869-870 for the contrast between the “great manasic initiations” and certain lesser, seldom recognized initiations characteristic of the human race).

83. Khi nào con người dồn lực mình về phía tiến hoá? Điều này xảy ra trong thời kỳ mở các cánh hoa bác ái và đặc biệt là cánh hoa thứ năm và thứ sáu, đi trước sự khai mở tầng hi sinh (trong đó diễn ra các “đại cuộc điểm đạo manas” (x. TCF 869-870 về đối chiếu giữa “các đại cuộc điểm đạo manas” và một số cuộc điểm đạo nhỏ hơn, hiếm khi được thừa nhận, đặc trưng cho nhân loại).

84. We may say that the treading of the Probationary Path is inseparable from the effort to discipline the life. The probationer is no longer simply giving in to the demands of the lunar vehicles but is attempting to have them conform to higher principles.

84. Chúng ta có thể nói rằng việc bước đi trên Con Đường Dự Bị không thể tách rời khỏi nỗ lực rèn kỷ luật đời sống. Người dự bị không còn đơn giản chiều theo các đòi hỏi của các hiện thể âm nguyệt mà đang nỗ lực khiến chúng thuận theo các nguyên tắc cao hơn.

85. The fourth a fifth triangles are listed below as a reminder. We studied them closely in a previous commentary.

85. Xin nhắc lại tam giác thứ tư và thứ năm như một gợi nhớ. Chúng ta đã học kỹ chúng trong một lời bình trước đó.

[170]

[170]

4. Man partially controlled by the Ego, advanced man.

4. Con người phần nào bị Chân ngã kiểm soát, người tiến hoá.

a. The heart.

a. Trái tim.

b. The throat.

b. Cổ họng.

c. The head, i.e., the four lesser centres and their synthesis, the alta centre.

c. Đầu, tức bốn trung tâm nhỏ hơn và sự tổng hợp của chúng, trung tâm alta.

86. As a reminder, the term “advanced man” usually (but not always) takes us to the portal of the first initiation. The phase of “spiritual man” begins at the first degree.

86. Xin nhắc rằng thuật ngữ “người tiến hoá” thường (nhưng không luôn luôn) đưa chúng ta tới tiền môn của lần điểm đạo thứ nhất. Pha “con người tinh thần” khởi đầu ở bậc thứ nhất.

87. We have to be careful about any rigid interpretation of such terms. They have a certain elasticity and will mean different things in different contexts.

87. Chúng ta phải thận trọng với bất kỳ cách hiểu cứng nhắc nào về những thuật ngữ như vậy. Chúng có độ co giãn nhất định và sẽ có nghĩa khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau.

5. Spiritual man to the third Initiation.

5. Con người tinh thần đến lần Điểm đạo thứ ba.

a. The heart.

a. Trái tim.

b. The throat.

b. Cổ họng.

c. The seven head centres.

c. Bảy trung tâm ở đầu.

88. The fivefold scheme we have been studying has many gaps. Only the most general phases of unfoldment are considered. If we wish to understand the interim stages of unfoldment we shall have to add a number of triangles.

88. Sơ đồ ngũ phân mà chúng ta đang học có nhiều khoảng trống. Chỉ những pha tổng quát nhất của sự khai mở được xét đến. Nếu muốn hiểu các giai đoạn trung gian của sự khai mở, chúng ta sẽ phải thêm một số tam giác.

89. In the following paragraphs is presented teaching of great importance. It is abstruse and difficult to understand and we shall have to proceed carefully.

89. Ở các đoạn sau, giáo lý có tầm quan trọng lớn được trình bày. Nó thâm áo và khó hiểu, và chúng ta sẽ phải tiến bước cẩn trọng.

Under the regime of the Personality Ray, the man proceeds upon the five Rays to work consciously with Mind, the sixth sense, passing first upon the four minor Rays and eventually upon the third.

Dưới chế độ của Cung phàm ngã, con người tiến hành trên năm cung để làm việc một cách ý thức với Thể trí, giác quan thứ sáu, khởi sự trước tiên trên bốn Cung phụ và rốt cuộc trên Cung thứ ba.

90. The entire first period of man’s incarnational life is lives “under the regime of the Personality Ray”, even though it will take millions of years for the personality ray to emerge from latency to manifest potency.

90. Toàn bộ giai đoạn đầu trong chuỗi lâm phàm của con người là những kiếp sống “dưới chế độ của Cung phàm ngã”, dẫu sẽ mất hàng triệu năm để cung phàm ngã từ tiềm ẩn đi tới biểu lộ mạnh mẽ.

91. The mental unit is, essentially, the seat of personality, and that unit exists even from the very earliest days—at individualization and following individualization.

91. Đơn vị hạ trí, về bản chất, là toạ vị của phàm ngã, và đơn vị ấy đã hiện hữu ngay từ những ngày sớm sủa—vào lúc biệt ngã hóa và sau biệt ngã hóa.

92. Questions arise concerning whether a primitive human being even has a personality or personality ray. It is possible for him to have a personality ray without having a demonstrable personality.

92. Nảy sinh câu hỏi: liệu một con người nguyên thủy thậm chí có “phàm ngã” hay “cung phàm ngã” chăng. Có thể là y có một cung phàm ngã mà chưa có một phàm ngã biểu lộ có thể nhận ra.

93. If we do not agree with the possibility just stated, we shall have to say that the “regime of the Personality Ray” begins much later in the evolutionary cycle, and that the many initial, primitive incarnations are lived under no major regime at all—or simply ‘under the regime of the three lunar vehicles’.

93. Nếu chúng ta không đồng ý với khả hữu vừa nêu, chúng ta sẽ phải nói rằng “chế độ của Cung phàm ngã” bắt đầu muộn hơn nhiều trong chu kỳ tiến hóa, và nhiều kiếp sơ khởi, nguyên thủy được sống dưới không một chế độ chủ chốt nào cả—hoặc chỉ “dưới chế độ của ba hiện thể âm nguyệt”.

94. The questions to be answered are: “If a personality is not detectible, manifest or discernible, is there a personality ray, and if so, ‘where’ is it? In what ‘state’ does it exist? If it exists in a state of latency even in the life of primitive man, does it have any influence whatsoever in man’s development?

94. Các câu hỏi cần trả lời là: “Nếu một phàm ngã không thể nhận biết, không biểu lộ hay không phân biệt được, liệu có một cung phàm ngã chăng, và nếu có, nó ‘ở đâu’? Nó tồn tại trong ‘trạng thái’ nào? Nếu nó tồn tại ở trạng thái tiềm ẩn ngay trong đời của người nguyên thủy, liệu nó có chút ảnh hưởng nào trong tiến trình phát triển của y chăng?”

95. We are told that the Monad and probably the Ego do have slight conditioning power even in primitive days. Could this also be so of a latent, unexpressed personality ray? It is surely worthy pondering.

95. Chúng ta được dạy rằng Chân thần và có lẽ Chân ngã cũng có năng lực điều kiện hoá nhẹ ngay trong những ngày sơ khai. Liệu điều này có đúng với một cung phàm ngã còn tiềm ẩn, chưa biểu lộ chăng? Chắc chắn đáng để suy ngẫm.

96. The personality is the Brahmic aspect of man. There are five Rays of Brahma (fourth, fifth, sixth and seventh, with the major Brahmic ray being the third which synthesizes the other four).

96. Phàm ngã là phương diện Brahmic nơi con người. Có năm Cung của Brahma (bốn, năm, sáu và bảy, với cung Brahmic chủ yếu là cung ba, vốn tổng hợp bốn cung kia).

97. The early lives of man are lived upon the Rays of Attribute, the four minor rays. Eventually, the possibility arises to express through either a soul or personality on the third ray—but not until much later in the evolutionary process.

97. Những kiếp đầu tiên của con người được sống trên các Cung Thuộc tính, tức bốn cung phụ. Rốt cuộc, nảy sinh khả năng biểu lộ qua một linh hồn hay một phàm ngã thuộc cung ba—nhưng không phải cho đến rất muộn trong tiến trình tiến hoá.

During these earlier periods all human beings were conditioned by the four Rays of Attribute; both as souls and as incarnated persons they were upon one of these four rays. Towards the middle of the Atlantean cycle (untold millions of years ago) the influence of the third Ray of Active Intelligence became exceedingly potent. Certain of the advanced humanity of the period gradually found their way on to, or rather into, the stream of divine energy which we call the third ray. The possibility, therefore, of their becoming integrated personalities was for the first time recognised, and humanly recognised. Such an integration must ever precede conscious human initiation. (R&I 560)

Trong những giai đoạn sớm hơn này, tất cả con người đều được điều kiện hoá bởi bốn Cung Thuộc tính; cả như những linh hồn lẫn như những người đang nhập thể, họ đều ở trên một trong bốn cung này. Vào khoảng giữa chu kỳ Atlantis (hàng triệu năm không thể đếm), ảnh hưởng của Cung Trí Tuệ Linh Hoạt thứ ba trở nên cực kỳ mãnh liệt. Một số người tiến bộ của thời ấy dần dần tìm được đường đi vào, hay đúng hơn, vào dòng năng lượng thiêng liêng mà chúng ta gọi là cung thứ ba. Bởi vậy, khả hữu để họ trở thành những phàm ngã tích hợp lần đầu tiên đã được nhận ra, và được nhận ra theo cách nhân loại. Một sự tích hợp như thế bao giờ cũng phải đi trước cuộc điểm đạo nhân loại có ý thức. (R&I 560)

98. We can see that in the developmental process it is not possible to have any ray at any time. There is a sequence of unfoldment which gradually brings all the seven rays into prominence; this sequence moves from the Rays of Attribute towards the Rays of Aspect. Perhaps the sequence is even more linear (with respect to the personality), moving from the seventh ray towards the first in numerical order.

98. Chúng ta có thể thấy rằng trong tiến trình phát triển, không thể có bất kỳ cung nào vào bất kỳ thời điểm nào. Có một trình tự khai mở dần dần đưa cả bảy cung trở nên nổi bật; trình tự này chuyển từ Các Cung Thuộc Tính sang Các Cung Trạng Thái. Có lẽ trình tự ấy còn tuyến tính hơn nữa (xét đối với phàm ngã), di chuyển từ cung bảy về cung một theo thứ tự số học.

99. One cannot (at our stage of evolution) dogmatize about such things nor over-generalize. There does, however, seem to be a significant trend: the abstract rays (three, two and one) express at a later stage of evolution than the concrete rays (seven, six, five, four)—at least through the personality and soul.

99. Ở giai đoạn tiến hoá của chúng ta, không thể khẳng quyết một cách giáo điều về những điều như thế, cũng không thể khái quát hoá quá mức. Tuy nhiên, dường như có một xu hướng đáng kể: các cung trừu tượng (ba, hai và một) biểu lộ ở một giai đoạn tiến hoá muộn hơn các cung cụ thể (bảy, sáu, năm, bốn)—ít nhất là thông qua phàm ngã và linh hồn.

100. As for the usual mental rays—five, four, one—perhaps there is also an ascending sequence in their order of expression.

100. Còn đối với các cung thể trí thường gặp—năm, bốn, một—có lẽ cũng có một trình tự thăng dần trong thứ tự biểu lộ của chúng.

He works [176] upon the third Ray, or that of active Intelligence, and from thence proceeds to one of the subrays of the two other major Rays, if the third is not his egoic Ray.

Y làm việc trên cung ba, hay còn gọi là cung của Trí tuệ Linh hoạt, và từ đó tiến đến một trong các cung phụ của hai cung chính khác, nếu cung ba không phải là cung linh hồn của y.

101. After working upon the Rays of Attribute, most men will move onto the third ray personality unless the third ray is the egoic ray.

101. Sau khi đã làm việc trên các Cung Thuộc Tính, phần lớn con người sẽ chuyển sang phàm ngã cung ba, trừ khi cung ba là cung linh hồn của họ.

102. Those who do not have the third ray Ego can have the third ray personality as they enter the stage of aspirant. Work upon a second or first ray personality follows work upon the third.

102. Những người không có linh hồn cung ba có thể có phàm ngã cung ba khi họ bước vào giai đoạn người chí nguyện. Công việc trên phàm ngã cung hai hoặc cung một sẽ tiếp nối sau công việc trên cung ba.

103. It would seem that at this stage of development, those with a second ray soul may have a personality upon the first or third rays; those with a first ray soul may have a personality upon the second or third rays; those with a third ray soul may have personalities upon the first or second rays. In all these cases, the personality will be upon the first or second rays only if one has reached the stage of aspirant or moved beyond that stage.

103. Có vẻ như ở giai đoạn phát triển này, những người có linh hồn cung hai có thể có phàm ngã thuộc cung một hoặc cung ba; những người có linh hồn cung một có thể có phàm ngã thuộc cung hai hoặc cung ba; những người có linh hồn cung ba có thể có phàm ngã thuộc cung một hoặc cung hai. Trong tất cả các trường hợp này, phàm ngã sẽ thuộc cung một hoặc hai chỉ khi người đó đã đạt đến giai đoạn người chí nguyện hoặc đã vượt qua giai đoạn đó.

104. The phrase, “One of the subrays of the two other major Rays”, indicates (in this context) either a first or second ray personality, as the personality ray is, indeed, a subray of the egoic ray.

104. Cụm từ “một trong các cung phụ của hai Cung chính khác” trong ngữ cảnh này ám chỉ phàm ngã thuộc cung một hoặc cung hai, vì cung phàm ngã thực ra là một cung phụ của cung linh hồn.

105. We can interpret the general sense of this section as meaning that if a man has a third ray Ego, he will not work with a third ray personality (and from thence move to a second or first ray personality). This is not to say that he cannot move to a second or first ray personality as he becomes an aspirant, but simply that this movement will not take place following work with a third ray personality. Apparently, at this stage of development, we will not see the third ray as both the egoic ray and the ray of the personality.

105. Chúng ta có thể hiểu ý nghĩa chung của phần này là: nếu một người có linh hồn cung ba, y sẽ không làm việc với một phàm ngã cung ba (và từ đó chuyển sang phàm ngã cung hai hoặc một). Điều này không có nghĩa là y không thể chuyển sang phàm ngã cung hai hoặc cung một khi trở thành người chí nguyện, mà đơn giản là sự chuyển đổi đó sẽ không xảy ra sau khi làm việc với phàm ngã cung ba. Rõ ràng, ở giai đoạn phát triển này, chúng ta sẽ không thấy trường hợp cung ba vừa là cung linh hồn vừa là cung phàm ngã.

106. We are speaking about a time of transference from work “under the regime of the Personality Ray” to work under the Soul Ray. At this time it is highly unlikely that the personality ray will be the same as the soul ray. Only one hypothetical example of a disciple having the same personality and soul ray is discussed in the teaching (cf. EP II 354), though it is suggested that those on a given soul ray may have any kind of personality ray. The odds, however, are against it. None of the some fifty disciples personally trained by the Tibetan had the same soul and personality ray.

106. Chúng ta đang nói đến thời điểm chuyển tiếp từ công việc “dưới chế độ của cung phàm ngã” sang công việc dưới sự hướng dẫn của cung linh hồn. Ở thời điểm này, rất hiếm khi cung phàm ngã lại trùng với cung linh hồn. Chỉ có một ví dụ giả định về một đệ tử có cùng cung phàm ngã và cung linh hồn được bàn đến trong giáo huấn (xem EP II 354), dù có gợi ý rằng những người có một cung linh hồn nhất định có thể có bất kỳ loại cung phàm ngã nào. Tuy nhiên, khả năng này rất thấp. Trong số khoảng năm mươi đệ tử được Chân sư Tây Tạng trực tiếp huấn luyện, không ai có cùng cung linh hồn và cung phàm ngã.

107. In general we can consider the “regime of the Personality Ray” as the entire first part of evolution, with the caveat given above—i.e., that personality development depends, really, upon mental development, and that the personality ray emerges only later in the course of evolution.

107. Nhìn chung, chúng ta có thể xem “chế độ của cung phàm ngã” là toàn bộ phần đầu tiên của quá trình tiến hóa, với lưu ý như đã nêu ở trên—nghĩa là sự phát triển của phàm ngã thực sự phụ thuộc vào sự phát triển trí tuệ, và cung phàm ngã chỉ xuất hiện về sau trong tiến trình tiến hóa.

108. The rays of Brahma [three, four, five, six, seven] are most important when “under the regime of the Personality Ray”.

108. Các cung của Brahma [ba, bốn, năm, sáu, bảy] là quan trọng nhất khi “dưới chế độ của cung phàm ngã”.

109. One can have a first ray mind even if one is not a first ray personality, for only an aspirant can have a first or second ray personality.”

109. Một người có thể có thể trí cung một ngay cả khi y không có phàm ngã cung một, vì chỉ một người chí nguyện mới có thể có phàm ngã cung một hoặc hai.

“The Personality ray is always one of the five rays (the minor four and the third ray) until a man becomes an aspirant when it can be any of the seven.” (Extract from an Unpublished Paper).

“Cung phàm ngã luôn là một trong năm cung (bốn cung phụ và cung ba) cho đến khi một người trở thành người chí nguyện, lúc đó nó có thể là bất kỳ trong bảy cung.” (Trích từ một tài liệu chưa được xuất bản).

110. Work upon the personality ray proceeds, we may hypothesize, until the first successful attempts to reverse of the wheel (i.e., to respond to the principles and energies of the soul). This occurs during the later part of the Mutable Cross followed by entry into the Kingdom of Souls upon the Fixed Cross.

110. Công việc trên cung phàm ngã, theo giả thuyết, sẽ tiếp tục cho đến những nỗ lực đầu tiên thành công trong việc xoay ngược bánh xe (nghĩa là bắt đầu đáp ứng với các nguyên khí và năng lượng của linh hồn). Điều này xảy ra trong phần sau của Thập Giá Biến Đổi, sau đó là bước vào Thiên Giới Linh Hồn trên Thập Giá Cố Định.

111. When will a soul upon a Ray of Attribute change to a soul ray which is a Ray of Aspect (one, two or three)?

111. Khi nào một linh hồn thuộc Cung Thuộc Tính sẽ chuyển sang cung linh hồn là một Cung Trạng Thái (một, hai hoặc ba)?

112. There may be much debate upon this question. If a disciple has a third, second or first ray soul there has definitely been a transference somewhere in the course of evolutionary development because all souls are initially focussed on the fourth, fifth, sixth or seventh rays.

112. Câu hỏi này có thể gây nhiều tranh luận. Nếu một đệ tử có linh hồn cung ba, hai hoặc một, thì chắc chắn đã có một sự chuyển đổi nào đó trong tiến trình phát triển tiến hóa, vì tất cả các linh hồn ban đầu đều tập trung vào cung bốn, năm, sáu hoặc bảy.

“Every human being, in the earlier stages of his development (in ancient Lemuria and Atlantis, or possessing [559] today the Lemurian or Atlantean state of consciousness—and there are many such), comes into incarnation [a single incarnation?] upon one of the four Rays of Attribute, because these rays are peculiarly and uniquely related to the fourth kingdom in nature, and therefore to the fourth Creative Hierarchy.” (R&I 558-559)

Mỗi con người, trong những giai đoạn đầu của tiến trình phát triển của y (trong thời Lemuria và Atlantis cổ đại, hoặc hiện nay vẫn còn đang sở hữu trạng thái tâm thức Lemuria hoặc Atlantean—và hiện nay vẫn còn nhiều người như vậy), bước vào sự nhập thể trên một trong bốn Cung Thuộc Tính, vì các cung này có mối liên hệ đặc biệt và duy nhất với giới thứ tư trong thiên nhiên, và do đó, với Huyền Giai Sáng Tạo thứ tư. (R&I 558–559)

“During these earlier periods all human beings were conditioned by the four Rays of Attribute; both as souls and as incarnated persons they were upon one of these four rays. Towards the middle of the Atlantean cycle (untold millions of years ago) the influence of the third Ray of Active Intelligence became exceedingly potent. Certain of the advanced humanity of the period gradually found their way on to, or rather into, the stream of divine energy which we call the third ray. [Perhaps in either their soul or personality nature] The possibility, therefore, of their becoming integrated personalities was for the first time recognised, and humanly recognised. Such an integration must ever precede conscious human initiation.” (R&I 560)

Trong những thời kỳ đầu tiên này, toàn thể nhân loại đều bị chi phối bởi bốn Cung Thuộc Tính; cả với tư cách là linh hồn lẫn với tư cách là người nhập thể, họ đều ở trên một trong bốn cung này. Vào khoảng giữa chu kỳ Atlantean (cách đây hàng triệu năm không đếm xuể), ảnh hưởng của Cung ba—Cung Trí tuệ Linh hoạt—trở nên vô cùng mạnh mẽ. Một số người trong nhân loại tiến hóa cao của thời kỳ ấy dần dần tìm ra con đường để hướng tới, hay đúng hơn là nhập vào, dòng năng lượng thiêng liêng mà chúng ta gọi là cung ba. Do đó, khả năng trở thành những phàm ngã tích hợp lần đầu tiên được nhận biết—và được nhận biết một cách nhân loại. Một sự tích hợp như thế luôn luôn phải có trước khi có điểm đạo nhân loại một cách ý thức. (R&I 560)

113. To become an integrated personality requires both the labors of the soul and the labors of the personality.

113. Để trở thành một phàm ngã tích hợp đòi hỏi cả công việc của linh hồn lẫn công việc của phàm ngã.

114. Some might suggest that only when one approaches the second initiation is it possible to change soul rays. Two of DK’s disciples were in process of such a change (perhaps, three) and one of them was definitely a candidate for the second initiation.

114. Một số người có thể cho rằng chỉ khi một người tiến gần đến lần điểm đạo thứ hai thì mới có khả năng thay đổi cung linh hồn. Hai trong số các đệ tử của Chân sư DK đang trong tiến trình thay đổi như vậy (có lẽ là ba), và một người trong số họ rõ ràng là một ứng viên cho lần điểm đạo thứ hai.

115. There are problems with this point of view, however. One of the disciples with a third ray soul had not even taken the first initiation. His soul ray was, therefore, a Ray of Aspect, and it must have become so even before the first initiation—necessarily.

115. Tuy nhiên, quan điểm này cũng có những vấn đề. Một trong các đệ tử có linh hồn cung ba vẫn chưa đạt đến lần điểm đạo thứ nhất. Vì vậy, cung linh hồn của y là một Cung Trạng Thái, và điều đó ắt hẳn đã xảy ra trước cả lần điểm đạo thứ nhất—một cách tất yếu.

116. Almost all of DK’s disciples had either first, second or third ray souls and almost all of them were focussed between the first and second initiations—some closer to the second degree than others. A number of them had been accepted disciples for a few years. It would seem therefore that approach to the second initiation was not the only time for the soul-ray change. Rather, the entry into the period of aspiration would seem the time for such a change.

116. Gần như tất cả các đệ tử của Chân sư DK đều có linh hồn thuộc cung một, hai hoặc ba, và hầu hết họ đều đang tập trung vào khoảng giữa lần điểm đạo thứ nhất và thứ hai—một số thì gần với mức độ thứ hai hơn. Nhiều người trong số họ đã là đệ tử chính thức trong vài năm. Do đó, dường như việc tiếp cận lần điểm đạo thứ hai không phải là thời điểm duy nhất để thay đổi cung linh hồn. Thay vào đó, việc bước vào giai đoạn chí nguyện có vẻ là thời điểm cho sự thay đổi như vậy.

117. We read that a human being could have a first or second ray personality only if he/she were an aspirant. This would mean that such a person would be treading the Path of Probation even if only in the early stages.

117. Chúng ta đọc được rằng một con người chỉ có thể có phàm ngã cung một hoặc cung hai nếu y là một người chí nguyện. Điều này có nghĩa là người đó đang bước trên Con Đường Dự Bị, ngay cả khi chỉ mới ở giai đoạn đầu tiên.

118. It may be that the possibility of changing soul rays would correlate with entry upon the Path of Aspiration or Probation. Work upon a first or second ray personality (the personality being always a subray of the soul) would facilitate such a transference. A personality of a particular ray would accustom the individual to the ray upon which his soul was preparing to refocus.

118. Có thể rằng khả năng thay đổi cung linh hồn sẽ tương ứng với việc bước lên Con Đường Chí Nguyện hoặc Con Đường Dự Bị. Việc làm việc trên một phàm ngã cung một hoặc cung hai (phàm ngã luôn là cung phụ của linh hồn) sẽ hỗ trợ cho sự chuyển đổi như vậy. Một phàm ngã thuộc một cung nhất định sẽ giúp người đó làm quen với cung mà linh hồn y đang chuẩn bị tái tập trung.

119. Work upon a third ray personality would come earlier than personality work upon the first or second, but such work would, it seems, facilitate a transference to a third ray soul.

119. Việc làm việc trên phàm ngã cung ba sẽ diễn ra sớm hơn so với việc làm việc trên cung một hoặc cung hai, nhưng công việc như vậy có vẻ như sẽ hỗ trợ cho sự chuyển đổi sang linh hồn cung ba.

120. It is as if one must become accustomed to the energy of the Rays of Attribute on a more concrete and material level before the soul can refocus on one of those higher rays.

120. Cứ như thể một người phải làm quen với năng lượng của các Cung Thuộc Tính ở cấp độ cụ thể và vật chất hơn trước khi linh hồn có thể tái tập trung vào một trong những cung cao hơn đó.

121. The Christ waited perhaps a millions years, maybe more between the third degree (taken perhaps in the fourth subrace of the fourth root race, but definitely taken in Atlantis) and fourth degree taken in relatively recent Aryan times. It is reasonable to consider that the Christ took the fourth degree as Krishna, given the sacrificial life of that great Teacher.

121. Đức Christ có lẽ đã chờ đợi hàng triệu năm, có thể còn lâu hơn nữa, giữa lần điểm đạo thứ ba (có thể đã diễn ra trong giống dân phụ thứ tư của giống dân gốc thứ tư, nhưng chắc chắn là ở Atlantis) và lần điểm đạo thứ tư diễn ra trong thời kỳ Arya khá gần đây. Có lý khi cho rằng Đức Christ đã thực hiện lần điểm đạo thứ tư dưới hình hài Krishna, xét đến đời sống hy sinh của vị Đại Huấn Sư ấy.

122. Different types of developments occur as one approaches the second degree and at the second degree. The will overcomes desire, and the Monad begins to have a consciously registered effect.

122. Những dạng phát triển khác nhau sẽ xuất hiện khi một người tiến gần đến cấp điểm đạo thứ hai và ở chính cấp điểm đạo đó. Ý chí sẽ chế ngự dục vọng, và Chân thần bắt đầu tạo ra ảnh hưởng được ý thức ghi nhận.

123. It may be that it is the effect of the Monad upon the soul ray that causes the soul ray to change (if the change has not changed before that time). We remember that the sense of monadic destiny is felt in the soul even at the first degree, so monadic influence has a significant soul impact during the period in which we hypothesized a possible change of soul rays (which is also, more or less, the period when a change to one of the first two personality rays—ray one and ray two—can, according to law, appear).

123. Có thể rằng chính ảnh hưởng của Chân thần lên cung linh hồn là điều khiến cho cung linh hồn thay đổi (nếu sự thay đổi đó chưa xảy ra trước thời điểm đó). Chúng ta nhớ rằng cảm nhận về định mệnh chân thần đã được cảm nhận trong linh hồn ngay cả tại lần điểm đạo thứ nhất, do đó ảnh hưởng của chân thần có tác động lớn đến linh hồn trong thời kỳ mà chúng ta giả định là có khả năng thay đổi cung linh hồn (cũng là thời kỳ, ít nhiều, mà theo định luật, có thể xảy ra sự thay đổi sang một trong hai cung phàm ngã—cung một và cung hai).

124. After the second degree one may find oneself in the Ashram of a Master whose ray is the same as one’s monadic ray. (LOM 267)

124. Sau lần điểm đạo thứ hai, một người có thể tìm thấy mình đang ở trong Ashram của một vị Chân sư có cung trùng với cung của chân thần mình. (LOM 267)

125. The change in the soul ray focus of the Christ (from the fourth ray soul to the second) happened before he was Krishna, on the second ray. Christ took the third initiation on the fourth ray with the Buddha, and naturally in a fourth ray Ashram. Krishna was a most sensitive musician having had, we infer, long experience on the fourth ray. The second ray is also a musical ray, Master KH, on the second ray, is also master musician—an organist. Vishnu (the Second Logos) sings the world into existence).

125. Sự thay đổi trọng tâm cung linh hồn của Đức Christ (từ linh hồn cung bốn sang cung hai) đã xảy ra trước khi Ngài là Krishna, ở cung hai. Đức Christ đã trải qua lần điểm đạo thứ ba trên cung bốn cùng với Đức Phật, và một cách tự nhiên là trong một Ashram cung bốn. Krishna là một nhạc sĩ rất nhạy cảm và chúng ta suy ra rằng Ngài đã có trải nghiệm lâu dài trên cung bốn. Cung hai cũng là cung của âm nhạc, Chân sư KH, thuộc cung hai, cũng là một nhạc sĩ bậc thầy—một nghệ sĩ đàn organ. Vishnu (Thái Dương Thượng Đế thứ hai) hát và thế giới đi vào hiện tồn.

126. We can eliminate the hypothesis that soul ray changes occur only as one approaches the second degree because, if so, between the first degree and the approach to the second degree, all souls would have to be fourth, fifth, sixth and seventh ray souls. Since in the Tibetan’s groups, the great majority of disciples were positioned between the first and second degree, with a few for whom the second degree was imminent, and since almost all of them had for a soul ray a Ray of Aspect, we see the impossibility of the hypothesis. The change of soul ray must necessarily have occurred earlier, and perhaps quite a bit earlier.

126. Chúng ta có thể loại trừ giả thuyết rằng việc thay đổi cung linh hồn chỉ xảy ra khi một người tiến gần đến lần điểm đạo thứ hai, bởi vì nếu như vậy thì giữa lần điểm đạo thứ nhất và sự tiếp cận lần điểm đạo thứ hai, tất cả các linh hồn đều phải là linh hồn cung bốn, năm, sáu và bảy. Vì trong các nhóm của Chân sư Tây Tạng, phần lớn các đệ tử đều nằm trong khoảng giữa lần điểm đạo thứ nhất và thứ hai, với một số ít đang cận kề lần điểm đạo thứ hai, và vì gần như tất cả họ đều có linh hồn thuộc Cung Trạng Thái, nên ta thấy giả thuyết đó là bất khả thi. Việc thay đổi cung linh hồn ắt hẳn đã xảy ra sớm hơn, và có lẽ là sớm hơn khá nhiều.

127. Souls on the fourth and sixth rays go to the third ray and second but must be developing the quality of intelligence in order to do so. The later stages of the Mutable Cross do, however, see a significant growth in intelligence.

127. Những linh hồn thuộc cung bốn và sáu sẽ chuyển sang cung ba và hai nhưng cần phải phát triển phẩm tính trí tuệ để có thể làm như vậy. Tuy nhiên, các giai đoạn sau của Thập Giá Biến Đổi thực sự cho thấy một sự tăng trưởng đáng kể về trí tuệ.

128. In group discussion it was proposed to correlate: yellow, sacrifice, the sacrifice petals, the fourth ray and the Moon.

128. Trong buổi thảo luận nhóm, đã có đề xuất liên hệ màu vàng, sự hy sinh, các cánh hoa hi sinh, cung bốn và Mặt Trăng.

129. It was also proposed that the taking of initiation may have to do with soul cycles and with the needs of the historical period. There is no hard and fast way to determine when a given initiation will be taken or what may be the interval between initiations. It can be noted, however, that there seems to be a rather rapid acceleration between ascending initiations (not including the sixth and seventh). The interval is shortening.

129. Cũng có đề xuất rằng việc điểm đạo có thể liên quan đến các chu kỳ linh hồn và nhu cầu của thời đại lịch sử. Không có cách nào cứng nhắc và rõ ràng để xác định một lần điểm đạo sẽ diễn ra khi nào hoặc khoảng cách giữa các lần điểm đạo là bao lâu. Tuy nhiên, có thể lưu ý rằng dường như có sự tăng tốc khá nhanh giữa các lần điểm đạo tiến lên (không bao gồm lần thứ sáu và thứ bảy). Khoảng cách giữa các lần điểm đạo đang ngắn lại.

130. Some interesting points emerge from considering cycle of ray development:

130. Một số điểm thú vị xuất hiện khi xét đến chu kỳ phát triển cung:

a. We may reasonably make the inference that, even today, the majority of souls are on the fourth, fifth, sixth or seventh rays, because the majority of souls are not yet intelligent (i.e., not yet even mentally focussed).

a. Chúng ta có thể suy luận một cách hợp lý rằng, ngay cả hiện nay, phần lớn các linh hồn đang ở trên cung bốn, năm, sáu hoặc bảy, vì phần lớn các linh hồn vẫn chưa thông tuệ (tức là, chưa có sự tập trung trí tuệ thực sự).

b. Third ray is often the personality ray in the period preceding the first initiation. Whether or not the personality ray is likely to be third in the incarnation during which the first initiation is taken is not a certainty. Some references suggest the prominence of the first ray.

b. Cung ba thường là cung phàm ngã trong giai đoạn trước lần điểm đạo thứ nhất. Tuy nhiên, việc cung phàm ngã có chắc chắn sẽ là cung ba trong kiếp nhập thể mà lần điểm đạo thứ nhất được thực hiện hay không thì chưa thể khẳng định. Một số tài liệu tham khảo gợi ý rằng cung một cũng có thể nổi bật.

c. Point to make: the majority of people on this planet being astrally polarized must also, necessarily, be on the fourth, fifth, sixth, or seventh rays in their soul nature—not only in their personality nature.

c. Một điểm cần nhấn mạnh: phần lớn nhân loại trên hành tinh này đang phân cực cảm xúc, và do đó, tất yếu, có linh hồn trên cung bốn, năm, sáu hoặc bảy—không chỉ trong cung phàm ngã mà cả trong cung linh hồn.

d. The majority of human beings today have third or sixth ray personalities. But let us remember that to have a third ray personality, one must be cultivating intelligence. Yet, the majority are far from this stage. This would mean that there must be a great number of sixth ray personalities among average human beings.

d. Hiện nay phần lớn nhân loại có phàm ngã thuộc cung ba hoặc cung sáu. Nhưng chúng ta hãy nhớ rằng để có phàm ngã cung ba, một người phải đang phát triển trí tuệ. Tuy nhiên, phần lớn nhân loại vẫn còn xa giai đoạn đó. Điều này có nghĩa là có lẽ phải có một số lượng rất lớn phàm ngã cung sáu trong số những con người trung bình.

“At this time there are a vast number of souls in incarnation whose personality rays are either the sixth or the third. (DON 31)”

“Hiện nay có một số lượng lớn các linh hồn đang nhập thể mà cung phàm ngã của họ là cung sáu hoặc cung ba.” (DON 31)

Perhaps, however, we should not generalize about other periods in planetary development. While is certain that the fourth, fifth, sixth or seventh ray personalities will predominate, it is not certain the sixth ray personalities will be in the greatest number over all and irrespective of the historical period in question.

Tuy nhiên, có lẽ chúng ta không nên khái quát về các thời kỳ khác trong quá trình phát triển hành tinh. Mặc dù chắc chắn rằng phàm ngã cung bốn, năm, sáu hoặc bảy sẽ chiếm ưu thế, nhưng không chắc rằng phàm ngã cung sáu sẽ là đông nhất trong mọi thời kỳ, bất kể thời đại lịch sử đang xét là gì.

e. It was suggested that with the approach to the first initiation, on the earlier Path of Probation, the possibility of transferring to a third ray soul emerges.

e. Có gợi ý rằng khi tiếp cận lần điểm đạo thứ nhất, trên Con Đường Dự Bị, khả năng chuyển sang linh hồn cung ba sẽ xuất hiện.

f. With the approach to the first degree, the third ray personality also emerges, as we have seen in the references.

f. Khi tiếp cận lần điểm đạo thứ nhất, phàm ngã cung ba cũng xuất hiện, như chúng ta đã thấy trong các tài liệu tham khảo.

g. When one becomes more intelligent one can have a third ray personality.

g. Khi một người trở nên thông minh hơn, y có thể có phàm ngã cung ba.

h. The third ray is the synthesizing ray through which to enter expression upon the second and first rays.

h. Cung ba là cung tổng hợp giúp biểu lộ qua cung hai và cung một.

i. The Monad begins at the first degree to impact the soul—so, at that time it may be possible to change soul rays (at the first degree).

i. Chân thần bắt đầu ảnh hưởng đến linh hồn từ lần điểm đạo thứ nhất—do đó, tại thời điểm đó có thể xảy ra sự thay đổi cung linh hồn (ngay tại lần điểm đạo thứ nhất).

131. If the disciple ISGL had written the book on Shamballa (bringing his hypothesized first ray monad into fuller expression) his sixth ray soul could have changed to the second ray which, apparently, it did not fully do in that incarnation.

131. Nếu đệ tử ISGL đã viết quyển sách về Shamballa (nhằm đưa chân thần cung một được giả định của y vào biểu lộ trọn vẹn hơn) thì linh hồn cung sáu của y đã có thể chuyển sang cung hai, điều mà rõ ràng là chưa thực sự diễn ra trong kiếp sống đó.

Enquiry might naturally arise as to whether the egoic ray is necessarily one of the three major rays,

Câu hỏi có thể tự nhiên nảy sinh: liệu cung linh hồn có nhất thiết phải là một trong ba cung chính không?

132. Because there are seven methods of destroying the causal body (according to the ray of the soul) it is quite clear that even advanced Egos can be found on the Rays of Attribute, not only on the three major rays.

132. Bởi vì có bảy phương pháp tiêu hủy thể nhân quả (tùy theo cung linh hồn), điều đó cho thấy rõ ràng rằng ngay cả những Chân ngã tiến hóa cao cũng có thể thuộc về các Cung Thuộc Tính, không chỉ ba cung chính.

and if Initiates and Masters are not to be found upon some of the rays of mind, the minor four.

Và liệu các điểm đạo đồ và các Chân sư có thể không hiện diện trên một số cung của trí tuệ, tức bốn cung phụ?

133. One is an initiate (though an advanced one) even at the fourth degree, but a Master is rather rarely called an initiate (though, of course, he is one).

133. Một người vẫn là điểm đạo đồ (dù là một điểm đạo đồ cao cấp) ngay cả ở cấp độ thứ tư, nhưng một Chân sư thì khá hiếm khi được gọi là một điểm đạo đồ (dù dĩ nhiên Ngài cũng là một điểm đạo đồ).

134. Further, for Masters the monadic ray has become significant. The growth of the influence of the monadic ray began in a focal manner at the third degree and is potent by the time the fifth degree is taken and one becomes a Master.

134. Hơn nữa, đối với các Chân sư, cung chân thần đã trở nên quan trọng. Ảnh hưởng của cung chân thần bắt đầu tăng trưởng một cách trọng tâm từ lần điểm đạo thứ ba và trở nên mạnh mẽ vào thời điểm đạt đến cấp độ thứ năm và trở thành một Chân sư.

The answer lies here: The egoic ray can always be one of the seven,

Câu trả lời nằm ở đây: cung linh hồn có thể là bất kỳ trong bảy cung,

135. This is clear from many references.

135. Điều này được xác nhận từ nhiều tài liệu tham khảo.

but we need to remember that, in this astral-buddhic solar system, wherein love and wisdom are being brought into objectivity, the bulk of the monads are on the love-wisdom ray.

Nhưng chúng ta cần nhớ rằng, trong Thái dương hệ cảm dục–bồ đề này, nơi tình thương và minh triết đang được biểu lộ ra thành hình tướng, phần lớn các Chân thần thuộc cung Bác Ái–Minh Triết.

136. This statement needs examination. We have to remember that we are speaking about the solar system and not the planet.

136. Tuyên bố này cần được khảo sát. Chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đang nói đến Thái dương hệ chứ không phải hành tinh.

137. When speaking of the planet, the following reference from EP II is of importance:

137. Khi nói đến hành tinh, đoạn trích sau từ EP II là điều đáng lưu ý:

“Only those units of life who are coloured predominantly by the third ray of activity pass for any length of time through these three schemes. A hint is here conveyed as to the prevalence of third ray Monads among the sons of men. The ray of active intelligence, expressing itself through the seven ray types, is above everything else the ray upon which the majority of human monads will, particularly, at this time, be found. We shall, therefore, find the following psychological types colouring the bulk of our humanity, and the ray of active intelligence expressing itself through

“Chỉ những đơn vị sự sống nào có màu sắc chủ đạo là cung ba của hoạt động mới trải qua ba hệ hành tinh này trong một khoảng thời gian dài. Một gợi ý được đưa ra ở đây về sự phổ biến của các Chân thần cung ba trong số những người con của nhân loại. Cung Trí tuệ Linh hoạt, biểu lộ qua bảy loại cung, vượt lên trên tất cả các cung khác chính là cung mà phần lớn các Chân thần nhân loại sẽ được tìm thấy vào thời điểm hiện tại. Do đó, chúng ta sẽ thấy các loại hình tâm lý sau đây đang tô điểm phần lớn nhân loại, và cung Trí tuệ Linh hoạt được biểu lộ qua:

1. Will, evoking divine purpose.

1. Ý chí, khơi dậy Thiên Ý.

2. Love, expressing divine quality.

2. Tình thương, biểu lộ phẩm tính thiêng liêng.

3. Intellect, as the reflector of the Intuition.

3. Trí tuệ, phản ánh Trực giác.

4. Conflict, producing harmony.

4. Xung đột, tạo ra hài hòa.

5. Knowledge or science, leading to radiance.

5. Tri thức hoặc khoa học, dẫn đến hào quang.

6. Idealism, establishing the divine pattern.

6. Lý tưởng, xác lập mô hình thiêng liêng.

7. Ritual or organisation, manifesting Deity. (EP II 101)

7. Nghi lễ hoặc tổ chức, biểu lộ Thượng đế.” (EP II 101)

138. In this tabulation, we are speaking of third ray Monads expressing themselves through souls on all the seven rays.

138. Trong bảng tổng hợp này, chúng ta đang nói đến các Chân thần cung ba biểu lộ thông qua các linh hồn trên cả bảy cung.

139. There is some problem in considering that the majority of human Monads will be found upon the third ray, for the majority of Earth-chain humanity expresses the second ray Monad, and it would seem that on this chain, Earth-chain humanity is in the majority, with intelligent Moon-chain humanity making up only a rather small percentage (perhaps twenty percent at the most).

139. Có một số vấn đề khi cho rằng phần lớn các Chân thần nhân loại thuộc cung ba, bởi vì phần lớn nhân loại thuộc Dãy Hành tinh Địa cầu biểu lộ qua Chân thần cung hai, và dường như trong Dãy Địa cầu này, nhân loại Địa cầu chiếm đa số, còn nhân loại thuộc Dãy Mặt Trăng, vốn thông minh hơn, chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ (có lẽ nhiều nhất là hai mươi phần trăm).

140. We could attempt to understand the assertion by thinking of the monadic types to be found on different globes and chains. Perhaps, the third ray types are in the majority within the Earth-scheme, but not necessarily upon the Earth-chain.

140. Chúng ta có thể cố gắng hiểu lời khẳng định này bằng cách suy xét các loại Chân thần có mặt trên những bầu hành tinh và dãy hành tinh khác nhau. Có thể, các loại cung ba chiếm đa số trong toàn Hệ Địa cầu, nhưng không nhất thiết là trong Dãy Hành tinh Địa cầu.

141. In any case, on our globe at this time, astrally polarized humanity (who is far more likely to be Earth-chain humanity than Moon-chain humanity) far outnumbers the mentally polarized types (who probably came in the majority of cases from the Moon-chain.)

141. Dù thế nào đi nữa, trên bầu hành tinh của chúng ta hiện nay, nhân loại phân cực cảm dục (rất có khả năng thuộc Dãy Địa cầu nhiều hơn là Dãy Mặt Trăng) đông hơn hẳn các loại phân cực trí tuệ (những người này phần nhiều có nguồn gốc từ Dãy Mặt Trăng).

142. We have then:

142. Vậy thì, chúng ta có:

a. The majority of Monads in our solar system being on the second ray

a. Phần lớn các Chân thần trong Thái dương hệ của chúng ta thuộc cung hai.

b. The majority of Monads (at this time) within the Earth-scheme focussed on the third ray.

b. Phần lớn các Chân thần (ở thời điểm hiện tại) trong Hệ Địa cầu tập trung vào cung ba.

c. There is an uncertain condition as regards the Earth-chain and our little globe, but the exoteric numbers seem to point (overall) towards a greater number of second ray monads than third.

c. Có một tình trạng không rõ ràng liên quan đến Dãy Địa cầu và bầu hành tinh nhỏ bé của chúng ta, nhưng những dữ kiện ngoại hiện dường như chỉ ra (về tổng thể) rằng có nhiều Chân thần cung hai hơn cung ba.

The fact, therefore, of its being the synthetic ray has a vast significance. This is the system of the SON, whose name is Love. This is the divine incarnation of Vishnu.

Do đó, thực tế rằng cung ba là cung tổng hợp mang ý nghĩa vô cùng to lớn. Đây là hệ thống của ĐỨC CON, danh Ngài là Tình Thương. Đây là cuộc nhập thể thiêng liêng của Vishnu.

143. We are speaking of our Solar Logos in the role of Vishnu. This is His Vishnu-Incarnation.

143. Chúng ta đang nói đến Thái Dương Thượng Đế của chúng ta trong vai trò của Vishnu. Đây là Cuộc Nhập Thể Vishnu của Ngài.

The Dragon of Wisdom is in manifestation, and He brings into incarnation those cosmic Entities who are in essence identical with Himself.

Con Rồng Minh Triết đang biểu lộ, và Ngài mang vào nhập thể những Thực Thể vũ trụ có bản chất đồng nhất với Ngài.

144. Our Solar Logos has already achieved the stage of Dragon of Wisdom because He has developed Divine Love. He is attempting to fulfill the title, “Lion of Cosmic Will”.

144. Thái Dương Thượng Đế của chúng ta đã đạt được giai đoạn Rồng Minh Triết vì Ngài đã phát triển được Tình Thương Thiêng Liêng. Ngài đang cố gắng hoàn thành danh hiệu “Sư tử của Ý chí Vũ trụ”.

145. Immediately above we are given the justification for the attraction into our system of so many second ray Monads.

145. Ngay đoạn trên, chúng ta đã được đưa ra lý do tại sao có quá nhiều Chân thần cung hai được thu hút vào Thái dương hệ của chúng ta.

After the third Initiation all human beings find themselves on their monadic ray,

Sau lần điểm đạo thứ ba, tất cả nhân loại đều tìm thấy mình đang ở trên cung chân thần của mình.

146. What do we mean by the words, “find themselves”? There is, indeed, a need for the advancing initiate to find his monadic ray, and the experience of the third initiation helps him do so.

146. Ý nghĩa của cụm từ “tìm thấy mình” là gì? Thật vậy, người điểm đạo đang tiến hóa cần phải tìm ra cung chân thần của y, và kinh nghiệm điểm đạo lần ba giúp y làm được điều đó.

147. From yet another perspective, it may be that if an individual really wishes to find himself (that Self being none other than the Monad), he must do so upon the monadic ray which leads directly into the monadic nature.

147. Từ một góc nhìn khác, có thể rằng nếu một cá nhân thật sự muốn tìm ra chính mình (cái “Mình” đó không gì khác ngoài Chân thần), y phải làm điều đó trên cung chân thần vốn dẫn trực tiếp đến bản chất chân thần.

148. Another interpretation (and one that will to many appear most likely) suggests that the monadic ray will simply become much more influential than before the third degree, and will grow in power relative to the egoic ray—that after the third initiation, the monadic ray would be the major ray focus of the individual.

148. Một cách diễn giải khác (và với nhiều người có thể là hợp lý nhất) gợi ý rằng cung chân thần đơn giản sẽ trở nên có ảnh hưởng mạnh hơn nhiều so với trước lần điểm đạo thứ ba, và sẽ tăng trưởng về quyền năng so với cung linh hồn—rằng sau lần điểm đạo thứ ba, cung chân thần sẽ trở thành tiêu điểm chính của cá nhân ấy.

149. If we think carefully, we may realize that the fourth initiation may indicate a point of balance between the two rays—monadic and soul/triadal (as these last two are the same). We must remember that the egoic ray is still important even for a Master for the ray of the spiritual triad is focal even for a Master as that ray is still influential upon the atmic plane—the plane whereon the Master is principally focussed.

149. Nếu chúng ta suy nghĩ cẩn trọng, chúng ta có thể nhận ra rằng lần điểm đạo thứ tư có thể biểu thị một điểm quân bình giữa hai cung—cung chân thần và cung linh hồn/tam nguyên (vì hai cung sau thực chất là một). Chúng ta phải nhớ rằng cung linh hồn vẫn còn quan trọng ngay cả đối với một Chân sư, vì cung của Tam nguyên Tinh thần vẫn là tiêu điểm, kể cả đối với một Chân sư, do cung đó vẫn ảnh hưởng trên cõi atma—cõi mà vị Chân sư chủ yếu tập trung vào.

on one of the three major rays,

trên một của ba cung chính

150. The initiate finds himself majorly on one of the three major rays. He also finds other monadic qualities within him, and these are of some importance.

150. Người điểm đạo thấy mình chủ yếu ở trên một trong ba Cung Trạng Thái. Y cũng nhận ra các phẩm tính chân thần khác trong chính mình, và những phẩm tính này cũng có tầm quan trọng nhất định.

151. A true or major monadic ray is one of the three major rays—Rays of Aspect.

151. Một cung chân thần “thật” hay “chính” là một trong ba Cung Trạng Thái.

…and the fact that Masters and Initiates are found on all the [monadic] rays is due to the following two factors:

…thực tế rằng các Chân sư và điểm đạo đồ được tìm thấy trên tất cả các cung [chân thần] là do hai yếu tố sau:

152. We were just speaking of Initiates and Masters “finding themselves” on one of the three major rays monadically.

152. Chúng ta vừa nói về các điểm đạo đồ và Chân sư “tìm thấy chính mình” trên một trong ba Cung Trạng Thái về phương diện chân thần.

153. Now we are speaking of the Masters and Initiates finding themselves on all the rays, monadically.

153. Giờ đây chúng ta đang nói đến việc các Chân sư và điểm đạo đồ thấy mình hiện diện trên tất cả các cung, về mặt chân thần.

154. Masters presumably are functioning largely on their monadic ray though their egoic ray (which is the same as the triadal ray) is still influential.

154. Có thể giả định rằng các Chân sư chủ yếu hoạt động trên cung chân thần của họ, dù cung linh hồn của họ (tức cung của Tam nguyên tinh thần) vẫn còn ảnh hưởng.

155. DK is accounting for the fact that Masters are found not only on three monadic rays but on seven.

155. Chân sư DK đang giải thích vì sao các Chân sư không chỉ được tìm thấy trên ba cung chân thần mà còn trên cả bảy.

First. Each major ray has its subrays, which correspond to all the seven.

Thứ nhất. Mỗi cung chính đều có các cung phụ tương ứng với cả bảy cung.

156. We will suggest that the word “major” is being used in two ways—both occultly blinding the student and stimulating the intuition.

156. Chúng ta đề xuất rằng từ “chính” (major) đang được sử dụng theo hai cách—vừa che đậy người học một cách huyền môn, vừa kích thích trực giác của họ.

157. The term “major ray” (as used here) may mean not only one of the three Rays of Aspect, but also the monadic ray.

157. Thuật ngữ “cung chính” (major ray) như được dùng ở đây có thể không chỉ nghĩa là một trong ba Cung Trạng Thái, mà còn là cung chân thần.

158. A “major ray” can be considered one of the three Rays of Aspect, and each such ray will have seven subrays (whether the “major ray” is an egoic ray or even a monadic ray), for an egoic ray may also be one of the major rays and all egoic rays have subrays. (cf. EP II 18, for the inference). These egoic subrays will be found both on the plane of the Ego and on the plane whereon the source of personality is focussed (the lower mental plane).

158. Một “cung chính” có thể được xem là một trong ba Cung Trạng Thái, và mỗi cung như vậy sẽ có bảy cung phụ (dù “cung chính” đó là cung linh hồn hay kể cả cung chân thần), vì một cung linh hồn cũng có thể là một trong ba cung chính và tất cả các cung linh hồn đều có các cung phụ. (xem EP II 18 để suy luận). Các cung phụ của linh hồn này sẽ được tìm thấy cả trên cõi linh hồn lẫn cõi mà nguồn gốc của phàm ngã tập trung—cõi hạ trí.

159. The same is true for the Monad. It will have one category of subray on its own plane (the monadic plane) and one on a lower plane—the plane of the Ego.

159. Điều tương tự cũng đúng với Chân thần. Nó sẽ có một loại cung phụ trên chính cõi của nó (cõi chân thần) và một loại trên một cõi thấp hơn—cõi linh hồn.

160. What we are saying is that rays one, two and three (as monadic rays—each of them being a Ray of Aspect and all of them rays which define the “major” or “primary” monadic ray) will each of them have seven possible subrays corresponding to each of the seven rays. Only one of these subrays will be prominent at any one time.

160. Những gì chúng ta đang nói là: cung một, hai và ba (trong vai trò là các cung chân thần—mỗi cung đều là một Cung Trạng Thái và tất cả đều định nghĩa cung chân thần “chính” hay “chủ yếu”) thì mỗi cung sẽ có bảy cung phụ tương ứng với bảy cung. Chỉ một trong những cung phụ này sẽ nổi bật vào một thời điểm nhất định.

161. What is further and definitely being suggested here is that the “major” monadic ray of a human being has, on its own plane, a subray. The egoic ray of the human being (which is focussed on a plane which is lower than monadic focus) is a subray of the monadic ray but not the only subray.

161. Điều tiếp theo và rõ ràng được gợi ý ở đây là: cung chân thần “chính” của một con người, trên chính cõi của nó, có một cung phụ. Cung linh hồn của con người (vốn tập trung trên một cõi thấp hơn cung chân thần) là một cung phụ của cung chân thần, nhưng không phải là cung phụ duy nhất.

162. For confirmation of the meaning of ‘major monadic ray’ as I am here using it, see the following quotation:

162. Để xác nhận ý nghĩa của ‘cung chân thần chính’ như tôi đang sử dụng ở đây, hãy xem trích dẫn sau:

“In connection with the use by the initiate of what we might call pure will, it should be remembered that this pure will works into manifestation through one or other of the three aspects of the Spiritual Triad. This activity is determined by the major ray upon which the initiate finds himself, from the angle of his monadic ray. Every spiritual man is upon one or another of the three major rays, for the minor four rays of attribute are all eventually absorbed into the third Ray of Active Intelligence. (R&I 310)

Trong mối liên hệ với việc sử dụng điều mà chúng ta có thể gọi là ý chí thuần khiết bởi điểm đạo đồ, cần nhớ rằng ý chí thuần khiết này biểu lộ ra thông qua một trong ba phương diện của Tam nguyên Tinh thần. Hoạt động này được xác định bởi cung chính mà điểm đạo đồ đó đang đứng, xét từ góc độ cung chân thần của y. Mỗi con người tinh thần đều ở trên một trong ba Cung Trạng Thái, vì bốn Cung Thuộc Tính cuối cùng đều được hấp thu vào Cung ba—Cung Trí tuệ Linh hoạt. (R&I 310)

163. Note the term “spiritual man” which may related to the spiritual triad and to the initiate after the third initiation.

163. Hãy chú ý đến thuật ngữ “con người tinh thần” có thể liên quan đến tam nguyên tinh thần và đến điểm đạo đồ sau lần điểm đạo thứ ba.

164. The term “eventually” is important revealing the long period of evolution required for this absorption of a Ray of Attribute into a Ray of Aspect.

164. Từ “cuối cùng” là từ quan trọng, cho thấy thời kỳ tiến hóa lâu dài cần thiết cho quá trình hấp thu một Cung Thuộc Tính vào một Cung Trạng Thái.

Second. Many of the guides of the race transfer from one ray to another as They are needed, and as the work may require.

Thứ hai. Nhiều vị hướng đạo của nhân loại chuyển từ cung này sang cung khác theo nhu cầu và theo công việc cần thiết.

165. The guides of the race are Masters and Chohans

165. Các vị hướng đạo của nhân loại là các Chân sư và các Chohan.

166. Chohans function entirely upon their monadic ray and Masters very much so.

166. Các Chohan hoạt động hoàn toàn trên cung chân thần của các Ngài, và các Chân sư cũng vậy, ở mức độ rất lớn.

167. When the “guides of the race” transfer from ray to ray, they are changing rays in the realm of the monad, but do not change their major or “primary” monadic ray (which remains the same throughout the aeon).

167. Khi “các vị hướng đạo của nhân loại” chuyển từ cung này sang cung khác, họ đang thay đổi cung trong lĩnh vực của chân thần, nhưng không thay đổi cung “chính” hay “chủ yếu” của chân thần (cung này không thay đổi trong suốt chu kỳ đại kiếp).

“Forget not, the primary ray of the Monad continues through the aeon. It changes not.” (TWM 111)

“Đừng quên rằng cung chính của Chân thần kéo dài qua toàn bộ đại kiếp. Nó không thay đổi.” (TWM 111)

168. Watch carefully this wording, for the monadic ray is often called the “primary ray”, but the way the word “primary” is here used suggests that there is one monadic ray which is “primary” and one monadic ray which is “secondary”. This secondary monadic ray is, I propose, not the egoic ray.

168. Hãy quan sát kỹ cách diễn đạt này, vì cung chân thần thường được gọi là “cung chính,” nhưng cách dùng từ “chính” ở đây gợi ý rằng có một cung chân thần là “chính” và một cung chân thần là “phụ”. Cung chân thần phụ này, tôi đề xuất, không phải là cung linh hồn.

169. So, in terms of language, this summary applies:

169. Vì thế, về mặt ngôn ngữ, có thể tóm lược như sau:

a. Man’s monadic ray is man’s major ray, but there is also a major monadic ray.

a. Cung chân thần của con người là cung chính của con người, nhưng cũng có một cung chân thần chủ yếu (major monadic ray).

b. Man’s monadic ray is man’s primary ray (as is often called so), but there is also a primary monadic ray.

b. Cung chân thần của con người là cung chính (primary ray) của con người (thường được gọi như vậy), nhưng cũng có một cung chân thần “chủ yếu” (primary monadic ray).

When one of the Masters or Initiates is transferred it causes a complete re-adjustment.

Khi một trong các Chân sư hoặc điểm đạo đồ được chuyển đổi, điều đó gây ra một sự điều chỉnh hoàn toàn.

170. All changes in Hierarchy affect the entire Hierarchy and especially the Ray Ashram of the Initiate or Master who changes or transfers rays.

170. Mọi thay đổi trong Thánh đoàn đều ảnh hưởng đến toàn bộ Thánh đoàn và đặc biệt là Ashram Cung của điểm đạo đồ hoặc Chân sư đang thay đổi hay chuyển đổi cung.

When a Master likewise leaves the hierarchy of our Planet to take up work elsewhere, it frequently necessitates a complete re-organisation, and a fresh admission of members into the great White Lodge. These facts have been but little realised.

Khi một vị Chân sư rời khỏi Thánh đoàn của hành tinh chúng ta để đảm nhận công việc ở nơi khác, điều đó thường đòi hỏi một sự tái tổ chức hoàn toàn, và việc tiếp nhận thêm những thành viên mới vào Huynh đệ Đoàn Chánh đạo vĩ đại. Những sự thật này xưa nay rất ít người nhận ra.

171. The departure of a Master to higher ‘climbs’ manifests as an updraft on His Ashram, and requires a drawing in of those who can replace the vacuum.

171. Sự ra đi của một vị Chân sư để lên các “tầng cao hơn” được biểu lộ như một luồng nâng lên trong Ashram của Ngài, và đòi hỏi việc thu hút vào những người có thể lấp đầy khoảng trống.

172. There is much upward attraction of this kind at this time.

172. Hiện nay có rất nhiều lực hút hướng lên như thế.

173. It is not only that disciples strive to become members of the Great White Lodge, but that they must because there are vacancies to be filled.

173. Không chỉ là các đệ tử đang nỗ lực để trở thành thành viên của Huynh đệ Đoàn Chánh đạo vĩ đại, mà họ còn phải làm như vậy vì đang có những vị trí trống cần được lấp đầy.

We might here also take the opportunity to point out that we are not dealing with earth conditions when we consider the Rays, nor are we only concerned with the evolution of the Monads upon this planet, but are equally concerned with the solar [177] system in which our earth holds a necessary but not supreme place.

Chúng ta cũng nên nhân đây nhấn mạnh rằng khi xét đến các Cung, chúng ta không chỉ đang bàn về các điều kiện trên địa cầu, cũng không chỉ quan tâm đến sự tiến hóa của các Chân thần trên hành tinh này, mà còn liên quan đến toàn thể Thái dương hệ trong đó Trái đất của chúng ta giữ một vị trí cần thiết nhưng không phải là tối thượng. [177]

174. Master DK expands the consideration. The scope of our subject takes us beyond the Earth and its conditions and the Monads considered are Monads throughout the solar system.

174. Chân sư DK mở rộng phạm vi xem xét. Chủ đề của chúng ta vượt khỏi giới hạn của Địa cầu và các điều kiện của nó, và các Chân thần được đề cập là những Chân thần trong toàn Thái dương hệ.

175. We recall we were speaking of the predominance of second ray Monads in the solar system and not so much upon the Earth (though their number on and in Earth, according to one reference is almost twice as great as the number of third ray Monad and seven times greater than first ray Monads).

175. Chúng ta nhớ rằng chúng ta đã bàn về sự vượt trội của các Chân thần cung hai trong Thái dương hệ chứ không phải trên Trái đất (mặc dù theo một tài liệu tham khảo, số lượng Chân thần cung hai trên và trong Trái đất gần như gấp đôi số lượng Chân thần cung ba và gấp bảy lần số lượng Chân thần cung một).

176. Our planet is a non-sacred planet, hence its place in the solar system is far from “supreme”. But one day, before long (in cosmic time) it will be a sacred planet and certainly in the next solar system (which is ruled by the first ray, the monadic ray of the Earth).

176. Hành tinh của chúng ta là một hành tinh không thiêng liêng, do đó vị trí của nó trong Thái dương hệ còn xa mới được gọi là “tối thượng.” Nhưng một ngày nào đó, không lâu nữa (tính theo thời gian vũ trụ), nó sẽ trở thành một hành tinh thiêng liêng và chắc chắn là trong Thái dương hệ kế tiếp (được cai quản bởi cung một, tức là cung chân thần của Trái đất).

The earth is an organism within a greater one, and this fact needs wider recognition.

Trái đất là một cơ thể trong một cơ thể lớn hơn, và sự thật này cần được công nhận rộng rãi hơn.

177. We envision a hierarchy of ever more inclusive wholes—each whole playing the role of a part in a still larger whole.

177. Chúng ta hình dung một hệ thống phân cấp gồm những tổng thể ngày càng bao trùm hơn—mỗi tổng thể đóng vai trò là một bộ phận trong một tổng thể còn lớn hơn nữa.

178. The largest finite whole of which we can speculate is the universe itself.

178. Tổng thể hữu hạn lớn nhất mà chúng ta có thể suy đoán là chính vũ trụ.

179. The next greater ‘whole’ is INFINITUDE and is forever ENTIRETY.

179. “Tổng thể” lớn tiếp theo là VÔ CÙNG và mãi mãi là TOÀN THỂ.

The sons of men upon this planet so often view the whole system as if the earth were in the position of the sun, the centre of the solar organism.

Những người con của nhân loại trên hành tinh này thường nhìn nhận toàn bộ hệ thống như thể Trái đất đang ở vị trí của Mặt trời, là trung tâm của cơ thể Thái dương hệ.

180. Master DK warns us against our innate ‘geocentrism’. We know the Earth revolves around the Sun, but sometimes we seem to think in more medieval terms.

180. Chân sư DK cảnh báo chúng ta về “thuyết địa tâm” bẩm sinh của con người. Chúng ta biết Trái đất quay quanh Mặt trời, nhưng đôi khi vẫn suy nghĩ theo cách cổ trung đại.

181. The following sections are of great importance and not easy to interpret.

181. Những phần tiếp theo có tầm quan trọng lớn và không dễ diễn giải.

Under the regime of the Ego, the ray upon which the ego can be found holds sway.

Dưới quyền thống trị của Chân ngã, cung mà chân ngã có thể được tìm thấy sẽ nắm quyền kiểm soát.

182. Our success at interpretation depends upon noticing that in the same sentence the term ego is both capitalized as “Ego” and given in lower case as “ego”.

182. Sự thành công của chúng ta trong việc diễn giải phụ thuộc vào việc nhận ra rằng trong cùng một câu, thuật ngữ “ego” được viết hoa là “Ego” và được viết thường là “ego”.

183. Usually, even when the word ego is used in lower case as “ego”, it means the soul, and not the lower personal ego. The Tibetan just does not use “ego” that way, unless He specifies the lower personal ego. As AAB says in DINA I xiv:

183. Thông thường, ngay cả khi từ “ego” được viết thường là “ego”, nó cũng có nghĩa là linh hồn, chứ không phải là phàm ngã thấp hơn. Chân sư Tây Tạng không sử dụng từ “ego” theo cách đó, trừ khi Ngài chỉ rõ rằng đó là phàm ngã thấp hơn. Như AAB đã nói trong Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới, trang xiv:

“In reading these instructions will you please remember that though the Tibetan usually speaks of the soul, He also uses the word “ego” interchangeably, meaning thereby the spiritual ego and not the personal ego of the psychologists.”

“Trong khi đọc những chỉ dẫn này, xin các bạn hãy nhớ rằng mặc dù Chân sư Tây Tạng thường nói về linh hồn, Ngài cũng sử dụng từ ‘ego’ một cách hoán đổi, có nghĩa là chân ngã tinh thần chứ không phải là phàm ngã của các nhà tâm lý học.”

184. This is very clear.

184. Điều này rất rõ ràng.

185. Now we have an interesting situation. In the same sentence we have the term “Ego” and “ego”, and we remember that “ego” very rarely means the lower personal ego.

185. Bây giờ chúng ta có một tình huống thú vị. Trong cùng một câu, chúng ta có thuật ngữ “Ego” và “ego”, và chúng ta nhớ rằng “ego” rất hiếm khi có nghĩa là phàm ngã thấp hơn.

186. If we assume that “ego” means what it usually means—the consciousness within the egoic lotus—then we have two other and higher possibilities for the word “Ego”—either the spiritual triad or the Monad or, in some way, both.

186. Nếu chúng ta giả định rằng “ego” có nghĩa như nó thường được hiểu—tức là tâm thức trong hoa sen Chân ngã—thì chúng ta có hai khả năng cao hơn khác cho từ “Ego”—hoặc là Tam nguyên tinh thần, hoặc là Chân thần, hoặc, bằng cách nào đó, cả hai.

187. I think we may say with some certainty that the capitalizations of the word ego found in this sentence are not accidental. Sometimes there is much variation in capitalization, but not when the same word is used within the same sentence.

187. Tôi nghĩ chúng ta có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng việc viết hoa từ “Ego” trong câu này không phải là ngẫu nhiên. Đôi khi có nhiều biến thể về cách viết hoa, nhưng không phải khi cùng một từ được sử dụng trong cùng một câu.

188. The “Ego” (in this case) is a higher center, and it has a controlling or ruling “regime”. The “Ego” controls the “ego”. No matter how the egoic ray of the “ego” “holds sway”, that ray is “under the regime of the Ego”—i.e., under the regime of the spiritual triad, or the Monad or, somehow, both. We have simply to decide the center to which we will assign the word “Ego” and why we do so.

188. “Ego” trong trường hợp này là một trung tâm cao hơn, và nó có một quyền cai trị hoặc kiểm soát. “Ego” kiểm soát “ego”. Dù cung của “ego” có “nắm quyền” như thế nào, cung đó vẫn nằm “dưới quyền cai trị của Ego”—tức là dưới quyền cai trị của Tam nguyên tinh thần, hoặc Chân thần, hoặc bằng cách nào đó là cả hai. Chúng ta chỉ cần quyết định trung tâm nào mà chúng ta sẽ gán cho từ “Ego” và lý do tại sao chúng ta làm điều đó.

This ray is simply a direct reflection of the monad, and is dependent upon that aspect of the spiritual triad which for the man is at any particular time the line of least resistance.

Cung này đơn giản là sự phản chiếu trực tiếp của chân thần và phụ thuộc vào khía cạnh của Tam nguyên tinh thần mà đối với con người, tại bất kỳ thời điểm nào, là đường của ít kháng cự nhất.

189. This sentence means that the “ray on which the ego can be found” is a direct reflection of the Monad. (Note that the term monad is sometime capitalized as “Monad” and sometimes not— “monad”.) There seems to be no rhyme or reason for changing the capitalization of this word.

189. Câu này có nghĩa là “cung mà ego có thể được tìm thấy” là sự phản chiếu trực tiếp của Chân thần. (Lưu ý rằng thuật ngữ “monad” đôi khi được viết hoa là “Chân thần” và đôi khi không— “monad”). Dường như không có quy luật nào nhất định về việc thay đổi cách viết hoa của từ này.

190. Now it will become necessary to remember that the spiritual triad is the true unshrouded soul. This means that the causal body is indeed the “body” or “shroud” of the soul consciousness, which is really the consciousness of the spiritual triad. The consciousness within the causal body is usually called soul consciousness, but, if the spiritual triad is the true unshrouded soul, it becomes necessary for us to think of the consciousness of the spiritual triad as the true soul consciousness.

190. Bây giờ, chúng ta cần nhớ rằng Tam nguyên tinh thần là linh hồn thật sự không bị che khuất. Điều này có nghĩa là thể nguyên nhân thật sự là “thể” hay “màn che” của tâm thức linh hồn, vốn thực sự là tâm thức của Tam nguyên tinh thần. Tâm thức bên trong thể nguyên nhân thường được gọi là tâm thức linh hồn, nhưng nếu Tam nguyên tinh thần là linh hồn thật sự không bị che khuất, thì chúng ta cần suy nghĩ rằng tâm thức của Tam nguyên tinh thần chính là tâm thức linh hồn thật sự.

191. We learn on pp. 168-169 of EP I that the ray of the causal body is the same as the ray of the spiritual triad (i.e., the same as the ray of the three permanent atoms of the spiritual triad).

191. Chúng ta học được từ trang 168-169 của Tâm lý học Nội môn Quyển I rằng cung của thể nguyên nhân giống với cung của Tam nguyên tinh thần (tức là giống với cung của ba nguyên tử trường tồn của Tam nguyên tinh thần).

192. All this is by way of saying that it possible to apply the term “ego” to the spiritual triad as well as to the causal vehicle (or egoic lotus).

192. Tất cả những điều này nhằm nói rằng có thể áp dụng thuật ngữ “ego” cho cả Tam nguyên tinh thần và thể nguyên nhân (hoặc hoa sen chân ngã).

193. This means that we face the following type of choice:

193. Điều này có nghĩa là chúng ta đối mặt với loại lựa chọn sau:

a. We have three centers of focus:

a. Chúng ta có ba trung tâm tập trung:

i. The casual body/egoic lotus

i. Thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã

ii. The spiritual triad

ii. Tam nguyên tinh thần

iii. The Monad

iii. Chân thần

b. The term “ego” might refer only to the causal body/egoic lotus

b. Thuật ngữ “ego” có thể chỉ đề cập đến thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã

c. The term “ego” might refer to the both the causal body/egoic lotus and the spiritual triad—since they are both versions of the soul (one more individual, the other more impersonal—but soul, nonetheless)

c. Thuật ngữ “ego” có thể đề cập đến cả thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã và Tam nguyên tinh thần—vì cả hai đều là các phiên bản của linh hồn (một cái cá nhân hơn, cái kia vô ngã hơn—nhưng dù sao cũng là linh hồn)

d. The term “Ego” might refer to the spiritual triad.

d. Thuật ngữ “Ego” có thể đề cập đến Tam nguyên tinh thần.

e. The term “Ego” might refer to the spiritual triad and Monad (even as the Jewel in the Lotus and the three synthesis petals are—the four of them—often considered to be one unit.

e. Thuật ngữ “Ego” có thể đề cập đến Tam nguyên tinh thần và Chân thần (như viên ngọc trong hoa sen và ba cánh tổng hợp—bốn điều này—thường được xem là một đơn vị).

f. The term “Ego” might refer only to the Monad.

f. Thuật ngữ “Ego” có thể chỉ đề cập đến Chân thần.

194. These are the choices confronting us as we attempt to assign ‘level’ to the term “ego” and “Ego”.

194. Đây là những lựa chọn mà chúng ta phải đối mặt khi cố gắng xác định ‘cấp độ’ cho thuật ngữ “ego” và “Ego”.

195. We are experiencing a kind of occult blinding because the same term is being used for two different things or, perhaps, three different things.

195. Chúng ta đang trải qua một kiểu che dấu huyền bí vì cùng một thuật ngữ đang được sử dụng cho hai, hoặc có thể là ba, những điều khác nhau.

196. We find that the “ray” we have been discussing (the egoic ray) is dependent upon the spiritual triad—specifically upon “that aspect of the spiritual triad which is for the man at any one time the line of least resistance”.

196. Chúng ta phát hiện rằng “cung” mà chúng ta đã thảo luận (cung chân ngã) phụ thuộc vào Tam nguyên tinh thần—cụ thể là “khía cạnh của Tam nguyên tinh thần mà đối với con người, tại bất kỳ thời điểm nào, là con đường ít kháng cự nhất”.

197. We are not yet sure how the egoic ray is dependent upon the spiritual triad, but we are informed that the spiritual triad has aspects and that one or other of these aspects are a line of least resistance for the man at different times. This tells us that there is change of focus within the spiritual triad at different times (presumably different times in the process of unfoldment).

197. Chúng ta chưa rõ cung chân ngã phụ thuộc vào Tam nguyên tinh thần như thế nào, nhưng chúng ta được thông tin rằng Tam nguyên tinh thần có các khía cạnh và một trong những khía cạnh đó là đường của ít kháng cự nhất đối với con người tại những thời điểm khác nhau. Điều này cho chúng ta biết rằng có sự thay đổi về sự tập trung bên trong Tam nguyên tinh thần tại các thời điểm khác nhau (có lẽ là vào những thời điểm khác nhau trong quá trình phát triển).

198. Now, just what about the “ray” is “dependent”? Is it the ‘ray number’ that is dependent? Or is the ray simply influenced by the aspect of the spiritual triad which is the line of least resistance?

198. Vậy, chính xác thì điều gì về “cung” là “phụ thuộc”? Có phải là ‘con số cung’ phụ thuộc không? Hay cung chỉ đơn giản bị ảnh hưởng bởi khía cạnh của Tam nguyên tinh thần là đường của ít kháng cự nhất?

199. Or is the focus of the ray somehow dependent upon the spiritual triad’s line of least resistance.

199. Hay sự tập trung của cung bằng cách nào đó phụ thuộc vào đường ít kháng cự nhất của Tam nguyên tinh thần?

200. In summary re dependency, it concerns these possibilities:

200. Tóm lại, về sự phụ thuộc, nó liên quan đến các khả năng sau:

a. The number of the ray—the ray number

a. Con số của cung—số cung

b. Influence upon the ray

b. Ảnh hưởng lên cung

c. The place of focus of the ray in relation to the spiritual triad.

c. Nơi tập trung của cung liên quan đến Tam nguyên tinh thần.

201. We have to remember always that the ray of the ego and the ray of the spiritual triad are the same.

201. Chúng ta luôn phải nhớ rằng cung của ego và cung của Tam nguyên tinh thần là giống nhau.

202. The ray we are talking about, so far, is still the “egoic ray”.

202. Cung mà chúng ta đang nói tới, cho đến giờ, vẫn là “cung của ego”.

By that we must understand that sometimes the ray will have for its centre of force the atmic aspect, sometimes the buddhic, and at other times the manasic aspect.

Điều đó có nghĩa là đôi khi cung sẽ có trung tâm lực là khía cạnh Atma, đôi khi là khía cạnh Bồ đề, và ở những lúc khác là khía cạnh Manas.

203. Now, we are still talking about the “egoic ray”. This ray has a “center of force”. The “centre of force” is presumably a controlling “centre of force”.

203. Bây giờ, chúng ta vẫn đang nói về “cung ego”. Cung này có một “trung tâm lực”. “Trung tâm lực” này có lẽ là một “trung tâm lực” kiểm soát.

204. Or it can mean that the egoic ray is focussed within the spiritual triad in one of three ways—atmically, buddhically or manasically.

204. Hoặc điều này có thể có nghĩa là cung của chân ngã được tập trung bên trong Tam nguyên tinh thần theo một trong ba cách—ở cấp độ Atma, Bồ đề hoặc Manas.

205. Thus in sum, the egoic ray is either

205. Tóm lại, cung của ego có thể:

a. Controlled by a center of force within the triad

a. Bị kiểm soát bởi một trung tâm lực bên trong Tam nguyên tinh thần,

b. Or expresses through a center of force within the triad

b. Hoặc biểu hiện qua một trung tâm lực bên trong Tam nguyên tinh thần,

c. Or both of these possibilities may be true in their own ways.

c. Hoặc cả hai khả năng này đều có thể đúng theo cách riêng của chúng.

206. In all these subtleties, we have to remember that we are still talking about the “egoic ray” (not the “Egoic” ray), but that the egoic ray may simultaneously be considered the triadal ray.

206. Trong tất cả những sự tinh vi này, chúng ta phải nhớ rằng chúng ta vẫn đang nói về “cung của ego” (không phải “cung của Ego”), nhưng cung của ego có thể đồng thời được xem như cung của Tam nguyên.

Though the triad is threefold, yet its egoic outposts (if one may so express it) will be either definitely atmic, or predominantly buddhic or manasic.

Dù Tam nguyên là tam phân, nhưng các tiền đồn của chân ngã (nếu có thể diễn đạt như vậy) sẽ hoặc chắc chắn thuộc về Atma, hoặc chủ yếu là thuộc về Bồ đề, hoặc thuộc về Manas.

207. Master DK is simultaneously a master at blinding and revealing. We should not imagine that what is being said in the past several sentences is straightforward and obvious. We will miss much if we think so.

207. Chân sư DK vừa là một bậc thầy trong việc che mờ, vừa là bậc thầy trong việc tiết lộ. Chúng ta không nên tưởng rằng những gì đang được nói trong vài câu trước đây là rõ ràng và hiển nhiên. Chúng ta sẽ bỏ lỡ nhiều điều nếu nghĩ như vậy.

208. That the spiritual triad is threefold is a given. But what can possibly be meant by “its egoic outposts”?

208. Việc Tam nguyên tinh thần là tam phân là một điều hiển nhiên. Nhưng “các tiền đồn của chân ngã” có thể có nghĩa là gì?

209. An “outpost” is a ‘place’ which should be considered an extension or representation of a greater ‘place’ or ‘force’. An outpost is a lesser place, and is a subsidiary of that of which it is an outpost.

209. Một “tiền đồn” là một ‘nơi’ được coi như là phần mở rộng hoặc đại diện của một ‘nơi’ hoặc ‘lực’ lớn hơn. Một tiền đồn là một nơi nhỏ hơn và là phụ của nơi mà nó là tiền đồn.

210. The spiritual triad is that greater ‘place’ or ‘force’ and it has an egoic outpost which is either atmic, buddhic or manasic.

210. Tam nguyên tinh thần là ‘nơi’ hoặc ‘lực’ lớn hơn đó, và nó có một tiền đồn của ego, tiền đồn đó hoặc thuộc về Atma, hoặc thuộc về Bồ đề, hoặc thuộc về Manas.

211. It is very important that we keep our thinking straight here. The threefold triad has the a choice of three outposts—atmic, buddhic or manasic—and these outposts are egoic.

211. Điều rất quan trọng là chúng ta phải giữ cho tư duy của mình rõ ràng ở đây. Tam nguyên tam phân có ba tiền đồn lựa chọn—Atma, Bồ đề hoặc Manas—và những tiền đồn này đều thuộc về ego.

212. So that which is egoic is directly connected with an outpost of the triad.

212. Vì vậy, điều thuộc về ego được kết nối trực tiếp với một tiền đồn của Tam nguyên.

Here again I would draw attention to the fact that this triple demonstration can be seen under three forms, making in all a ninefold choice of rays for the Ego:

Ở đây, tôi lại muốn thu hút sự chú ý đến thực tế rằng sự biểu hiện tam phân này có thể được nhìn thấy dưới ba hình thức, tạo thành tất cả chín lựa chọn các cung cho Ego:

213. Now, again, the term ego is spelled “Ego” which means that we may no longer be talking about the spiritual triad, but as has been suggested by the developing explanation, we may be talking about the Monad, calling it the “Ego”.

213. Bây giờ, một lần nữa, thuật ngữ “Chân Ngã” được viết hoa là “Ego”, điều này có nghĩa là chúng ta có thể không còn đang nói về Tam nguyên tinh thần nữa, mà như đã được gợi ý trong quá trình giải thích, chúng ta có thể đang nói về Chân thần và gọi đó là “Chân ngã” (Ego).

214. Or we may be talking about the spiritual triad, calling it the “Ego”—a far greater probability.

214. Hoặc chúng ta có thể đang nói về Tam nguyên tinh thần và gọi nó là “Chân ngã” (Ego)—đây là khả năng lớn hơn nhiều.

215. What has just happened is perhaps the most subtle shift in our developing explanation. The last time the word “Ego” was mentioned is was “under the regime of the Ego, the ray upon which the ego can be found holds sway”.

215. Điều vừa xảy ra có lẽ là sự thay đổi tinh vi nhất trong quá trình giải thích của chúng ta. Lần cuối cùng từ “Ego” được nhắc đến là trong câu “dưới quyền thống trị của Ego, cung mà ego có thể được tìm thấy nắm quyền kiểm soát”.

216. Now for the first time we are not talking about the “ray upon which the ego can be found” but we are talking about “a ninefold choice of rays for the Ego.”

216. Bây giờ, lần đầu tiên, chúng ta không nói về “cung mà ego có thể được tìm thấy”, mà chúng ta đang nói về “chín lựa chọn các cung cho Ego”.

217. When it comes to the spiritual triad, we have been talking about “aspects”, not rays.

217. Khi nói về Tam nguyên tinh thần, chúng ta đã nói về “các khía cạnh”, không phải các cung.

218. The “Ego” (something definitely higher than the “ego”) has, we are told, a ninefold choice of rays, but what is listed below is not rays at all, but simply aspects. If we think clearly, we shall see that in this context, “rays” are easily equivalent to “aspects”.

218. Chúng ta được cho biết rằng “Ego” (một điều gì đó chắc chắn cao hơn “ego”) có chín lựa chọn cung, nhưng những gì được liệt kê dưới đây không phải là cung, mà đơn giản là các khía cạnh. Nếu suy nghĩ cẩn thận, chúng ta sẽ thấy rằng trong ngữ cảnh này, “các cung” có thể dễ dàng tương đương với “các khía cạnh”.

219. Therefore, perhaps we can simply ‘convert’ an aspect to a ray in the following manner:

219. Do đó, có lẽ chúng ta có thể đơn giản ‘chuyển đổi’ một khía cạnh thành một cung theo cách sau:

a. The atmic aspect = ray one

a. Khía cạnh Atma = cung một

b. The buddhic aspect = ray two

b. Khía cạnh Bồ đề = cung hai

c. The manasic aspect = rays three, especially, but also rays four, five, six and seven

c. Khía cạnh Manas = cung ba, đặc biệt, nhưng cũng bao gồm các cung bốn, năm, sáu và bảy

220. This is a possibility, but about this conversion we are still uncertain.

220. Đây là một khả năng, nhưng chúng ta vẫn chưa chắc chắn về sự chuyển đổi này.

221. In light of what we have been discussing, what is listed below may mean the following:

221. Dựa trên những gì chúng ta đã thảo luận, những gì được liệt kê dưới đây có thể có nghĩa là:

a. We are detailing all that takes place under the regime of the Ego.

a. Chúng ta đang chi tiết hóa tất cả những gì diễn ra dưới quyền thống trị của Ego.

b. We are considering that the Ego may mean the Monad or may meant the spiritual triad.

b. Chúng ta đang xem xét rằng Ego có thể có nghĩa là Chân thần hoặc có thể có nghĩa là Tam nguyên tinh thần.

c. We are considering that what takes place under the regime of the Ego is a ninefold process.

c. Chúng ta đang xem xét rằng những gì diễn ra dưới quyền thống trị của Ego là một quá trình cửu phân.

d. The ninefold process is determined by the combination of the three normal or major foci of the threefold triad, and the three egoic outposts potential to any of those three normal or major triadal foci.

d. Quá trình cửu phân này được xác định bởi sự kết hợp của ba tiêu điểm chính hoặc bình thường của Tam nguyên tinh thần, và ba tiền đồn ego có tiềm năng liên kết với bất kỳ tiêu điểm nào trong số ba tiêu điểm chính hoặc bình thường của Tam nguyên tinh thần.

e. This means that, in the series of three threefold groupings listed below, the first term relates to the major triadal level in which the man is focussed (and it depends, as can be shown from other references) upon the major ray of the Monad. (cf. R&I)

e. Điều này có nghĩa là, trong chuỗi ba nhóm tam phân được liệt kê dưới đây, thuật ngữ đầu tiên liên quan đến mức độ Tam nguyên chính mà con người đang tập trung vào (và điều này phụ thuộc, như có thể được chỉ ra từ các tài liệu tham khảo khác) vào cung chính của Chân thần. (xem R&I)

f. But the second term, depends directly upon the ray of ego, precisely, and that second term is changeable, just as the ray of the ego is, over time, changeable.

f. Nhưng thuật ngữ thứ hai phụ thuộc trực tiếp vào cung của ego, và thuật ngữ thứ hai này có thể thay đổi, giống như cung của ego có thể thay đổi theo thời gian.

Atmic aspect.

Khía cạnh Atma.

1. atmic-atmic

1. atma-atma

2. atmic-buddhic

2. atma-bồ đề

3. atmic-manasic.

3. atma-trí tuệ

222. This threefold series suggests that the ray of the Monad/ “Ego” (or of the Triad/ “Ego”) is the first ray, but that the ray upon which the “ego” holds sway is either first, second or third (with subrays), as given above: atmic = ray one, buddhic = ray two; manasic = ray three with four rays of attribute as subrays.

222. Bộ ba này gợi ý rằng cung của Chân thần/“Ego” (hoặc của Tam nguyên/“Ego”) là cung một, nhưng cung mà “ego” chi phối có thể là cung một, hai hoặc ba (với các cung phụ), như đã nêu ở trên: atma = cung một, bồ đề = cung hai; trí tuệ = cung ba với bốn Cung Thuộc Tính là các cung phụ.

Buddhic aspect.

Khía cạnh Bồ đề.

1. buddhic-atmic

1. bồ đề-atma

2. buddhic-buddhic

2. bồ đề-bồ đề

3. buddhic-manasic.

3. bồ đề-trí tuệ

223. This threefold series suggests that the ray of the Monad/ “Ego” (or of the Triad/ “Ego”) is the second ray, with the secondary aspect or ray as developed above.

223. Bộ ba này gợi ý rằng cung của Chân thần/“Chân ngã” (hoặc của Tam nguyên/“Chân ngã”) là cung hai, với khía cạnh hay cung phụ được phát triển như ở trên.

Manasic aspect.

Khía cạnh Trí tuệ.

1. manasic-atmic

1. trí tuệ-atma

2. manasic-buddhic

2. trí tuệ-bồ đề

3. manasic-manasic

3. trí tuệ-trí tuệ

224. This threefold series suggests that the ray of the Monad/ “Ego” (or of the Triad/ “Ego”) is the third ray with the secondary ray or rays as developed above.

224. Bộ ba này gợi ý rằng cung của Chân thần/“Chân ngã” (hoặc của Tam nguyên/“Chân ngã”) là cung ba với cung phụ hay các cung phụ được phát triển như ở trên.

225. Under the term “manasic” (in the secondary position) may be focussed an “ego” upon the third ray, but also upon the fourth, fifth, sixth or seventh, for third ray Brahma—the manasic aspect—includes the fourth, fifth, sixth and seventh rays)

225. Dưới thuật ngữ “trí tuệ” (ở vị trí phụ) có thể là một “chân ngã” trên cung ba, nhưng cũng có thể trên cung bốn, năm, sáu hoặc bảy, vì Brahma cung ba—khía cạnh trí tuệ—bao gồm cả các cung bốn, năm, sáu và bảy.

226. From another perspective, however, we shall have to realize that in the seventh ray there is much of atma; in the fourth and sixth rays, much of buddhi, and in the fifth ray much of manas (thought of atma as well). We shall see whether there are implications to this alternative way of understanding atmic, buddhic or manasic in the secondary triadal position.

226. Tuy nhiên, từ một góc độ khác, chúng ta cần nhận ra rằng trong cung bảy có rất nhiều yếu tố atma; trong các cung bốn và sáu, nhiều yếu tố bồ đề, và trong cung năm, nhiều yếu tố trí tuệ (và có thể cả atma nữa). Chúng ta sẽ xem liệu cách hiểu thay thế này về atma, bồ đề hoặc trí tuệ ở vị trí phụ của Tam nguyên có những hàm ý gì không.

This literally means that the three major rays can each be subdivided (in connection with the Ego) into three divisions. This fact is also little appreciated.

Điều này có nghĩa là mỗi trong ba cung chính có thể được chia nhỏ (liên quan đến Ego) thành ba phân loại. Sự kiện này rất ít người nhận ra.

227. It is important to grasp whether we think each new sentence follows straightforwardly from the one preceding it, or whether new pieces of information are added in an enigmatical way.

227. Điều quan trọng là phải nắm rõ liệu mỗi câu sau có diễn tiến trực tiếp từ câu trước, hay những thông tin mới đang được thêm vào một cách ẩn dụ.

228. Now we come to the point when we must decide whether the term “Ego” means Monad or spiritual triad.

228. Giờ đây, chúng ta đến điểm cần xác định liệu thuật ngữ “Ego” ở đây ám chỉ Chân thần hay Tam nguyên tinh thần.

229. We have here a reference to “three major rays”. Which ones? May we say that the three major rays (being of course, the first, second and third) relate directly to the first term of three threefold groupings describing the ninefold choice of rays for the Ego?

229. Ở đây có nhắc đến “ba cung chính”. Là những cung nào? Có thể nói rằng ba cung chính (dĩ nhiên là cung một, hai và ba) liên hệ trực tiếp đến thuật ngữ đầu tiên trong ba bộ ba mô tả chín sự lựa chọn cung cho Chân ngã?

230. In relation to the spiritual triad (when discussing “major rays”) we are speaking of the first term—whether atmic, buddhic or manasic.

230. Khi bàn về Tam nguyên tinh thần (trong ngữ cảnh “các cung chính”), chúng ta đang nói đến thuật ngữ đầu tiên—dù là atma, bồ đề hay trí tuệ.

231. Each of these major rays or major aspects can be divided into three divisions depending upon the ray of the “ego” with a little “e”—i.e., the ray of what we would normally call the soul, causal body or egoic lotus.

231. Mỗi cung chính hay khía cạnh chính này đều có thể được chia thành ba phân nhóm tùy theo cung của “ego” viết thường—tức là cung của điều mà chúng ta thường gọi là linh hồn, thể nguyên nhân hay hoa sen chân ngã.

232. So, in the spiritual triad, we have a major ray/subray set up. Let us take this in.

232. Như vậy, trong Tam nguyên tinh thần, chúng ta có thiết lập cấu trúc cung chính/cung phụ. Hãy tiếp thu điều này.

233. The major ray (or aspect) depends directly upon the monadic ray, as will be demonstrated from pertinent references in The Rays and the Initiations.

233. Cung chính (hay khía cạnh chính) phụ thuộc trực tiếp vào cung chân thần, như sẽ được chứng minh qua các trích dẫn phù hợp trong Cung và Điểm đạo.

234. The secondary ray (or aspect) depends directly upon the ray of the “ego”, little “e”.

234. Cung phụ (hay khía cạnh phụ) phụ thuộc trực tiếp vào cung của “ego” viết thường.

235. Attempting to follow this line of thinking, we would find that the permanent atoms of the spiritual triad would be directly correlated with the ray of the “ego” rather than the ray of the Monad.

235. Cố gắng theo dòng tư tưởng này, ta sẽ thấy rằng các nguyên tử trường tồn của Tam nguyên tinh thần sẽ tương quan trực tiếp với cung của “ego” hơn là cung của Chân thần.

236. If the ray of the Monad (the “major” or “primary” ray of the Monad) remains the same throughout the aeon, the primary triadal focus also remains the same throughout the aeon, but since we know that soul rays change, and since we know that the permanent atoms of the spiritual triad are all the same ray as the soul, we would think that the ray of the permanent atoms of the spiritual triad change as the rays of the soul changes, or that, putting first things first, that the ray of the soul changes as the ray of the permanent atom changes.

236. Nếu cung của Chân thần (tức “cung chính” hay “cung chủ yếu” của Chân thần) không thay đổi trong suốt đại kiếp, thì tiêu điểm chính của Tam nguyên cũng không thay đổi trong suốt đại kiếp; nhưng bởi vì chúng ta biết rằng cung của linh hồn có thể thay đổi, và các nguyên tử trường tồn của Tam nguyên tinh thần đều có cùng cung với linh hồn, nên chúng ta có thể suy luận rằng cung của các nguyên tử trường tồn của Tam nguyên thay đổi khi cung của linh hồn thay đổi, hoặc ngược lại, cung của linh hồn thay đổi khi cung của nguyên tử trường tồn thay đổi.

237. And, here is a new idea—to me at least—that the change in the secondary focus/ray of the spiritual triad (which brings about the change in the ray of the soul/causal body/egoic lotus) changes because the secondary ray of the Monad (on its own plane) changes (according to need, demand or design—of such higher Powers as Sanat Kumara)—at least with respect to Monads on our globe and chain.

237. Và đây là một ý tưởng mới—ít nhất là đối với tôi—rằng sự thay đổi trong tiêu điểm/cung phụ của Tam nguyên tinh thần (dẫn đến sự thay đổi trong cung của linh hồn/thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã) xảy ra vì cung phụ của Chân thần (trên chính cõi của nó) thay đổi (tùy theo nhu cầu, đòi hỏi hoặc sự sắp đặt—của các Đấng Quyền Năng cao cả như Sanat Kumara)—ít nhất là đối với các Chân thần trên bầu hành tinh và Dãy Địa cầu của chúng ta.

238. The foregoing argument has been complex and, perhaps, not as conclusive as one would like, but the main lines of thought are laid out and significant conclusions can be drawn.

238. Lập luận trên đây có thể phức tạp và có lẽ chưa thật sự kết luận như mong muốn, nhưng những đường hướng chính của tư tưởng đã được trình bày và các kết luận có ý nghĩa có thể được rút ra.

239. The spiritual triad, it seems, stands midway between the Monad and soul. It may be the unshrouded soul, but it is also the personality of the Monad. So it partakes of that which is above (namely the Monad) and that which is below (namely, the soul/causal body/egoic lotus).

239. Có vẻ như Tam nguyên tinh thần đứng giữa Chân thần và linh hồn. Nó có thể là linh hồn không bị che phủ, nhưng nó cũng là phàm ngã của Chân thần. Vậy nên nó có phần từ cái ở trên (tức Chân thần) và cái ở dưới (tức linh hồn/thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã).

240. The spiritual triad has rays (here listed as aspects) just as any other divine center, but these aspects/rays partake of both the monadic influence and of the egoic domain.

240. Tam nguyên tinh thần có các cung (được liệt kê ở đây như các khía cạnh) giống như bất kỳ trung tâm thiêng liêng nào khác, nhưng các khía cạnh/cung này vừa mang ảnh hưởng chân thần vừa thuộc về lĩnh vực chân ngã.

241. Are there atmic, buddhic and higher manasic chakras (prototypical of the kind of chakras found below)? It the chakras are really whirlpools of electric fire coming from the Monad, it would not seem that they can be created directly in lower matter without creating whirlpool effects in atmic, buddhic, and higher manasic matter.

241. Liệu có các luân xa atma, bồ đề và thượng trí không (như là hình mẫu nguyên thủy của loại luân xa được tìm thấy ở cõi thấp)? Nếu các luân xa thực sự là những xoáy lửa điện phát xuất từ Chân thần, thì dường như chúng không thể được tạo ra trực tiếp trong chất liệu thấp hơn mà không tạo ra hiệu ứng xoáy trong chất liệu atma, bồ đề và thượng trí.

242. To the extent that such whirlpools are created in the atmic, buddhic and higher manasic vehicles, they are different from the permanent atoms in the atmic, buddhic and manasic vehicles.

242. Trong chừng mực mà các xoáy như vậy được tạo ra trong các thể atma, bồ đề và thượng trí, chúng khác biệt với các nguyên tử trường tồn trong các thể atma, bồ đề và trí tuệ.

243. The higher whirlpools would belong to the Monad and its influence; the permanent atoms would correlate more with the ray of the causal vehicle. The atoms are related to form building and form-building, we realize, relates to the second aspect of divinity.

243. Các xoáy cao hơn này thuộc về Chân thần và ảnh hưởng của nó; còn các nguyên tử trường tồn tương quan nhiều hơn với cung của thể nguyên nhân. Các nguyên tử này liên hệ đến việc tạo hình, và như chúng ta biết, việc tạo hình liên quan đến khía cạnh thứ hai của Thượng đế.

244. On p. 176 we learned that Masters and Chohans (presumably functioning upon the monadic ray) work on subrays corresponding to all the seven—presumably, seven subrays on the monadic plane.

244. Ở trang 176, chúng ta học được rằng các Chân sư và các Chohan (có thể là hoạt động trên cung chân thần của họ) làm việc trên các cung phụ tương ứng với cả bảy cung—rõ ràng là bảy cung phụ trên cõi chân thần.

245. Our picture is of one of three types of Monads which have the three major rays as the major monadic rays, but with each of these three types of Monads having one of seven rays operative as subrays.

245. Bức tranh của chúng ta là về ba loại Chân thần, mỗi loại có một trong ba cung chính làm cung chân thần chính, nhưng mỗi Chân thần trong ba loại này có một trong bảy cung đang hoạt động như cung phụ.

246. These monadic subrays seem to have an influence which extends ‘down’ into the spiritual triad and maybe into that part of the realm of the soul/causal body/egoic lotus where egoic subrays are focussed—i.e., subrays which focusing on the higher mental plane are not the personality ray.

246. Các cung phụ chân thần này dường như có ảnh hưởng lan tỏa “xuống” đến Tam nguyên tinh thần và có thể cả vào phần lĩnh vực của linh hồn/thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã nơi các cung phụ của chân ngã tập trung—tức là các cung phụ tập trung trên cõi hạ trí cao và không phải là cung của phàm ngã.

247. From all this, we may now hypothesize that when the term “Ego” is used, it means, as it were, ‘higher soul’ (or the spiritual triad as a ninefold totality—some of this ninefold totality correlated with the Monad and its major ray, and some of the ninefold totality correlated with the secondary ray of the Monad and with the strictly egoic ray).

247. Từ tất cả những điều này, giờ đây chúng ta có thể giả thuyết rằng khi thuật ngữ “Chân ngã” được dùng, nó có nghĩa, theo một cách nào đó, là “linh hồn cao hơn” (hoặc là Tam nguyên tinh thần như một tổng thể chín phần—một phần của tổng thể chín phần này tương quan với Chân thần và cung chính của nó, và một phần tương quan với cung phụ của Chân thần và với cung linh hồn thực sự).

248. What we have (this is still an hypothesis) is a ‘line of ray invariability’ and a ‘line of ray variability’.

248. Những gì chúng ta có (đây vẫn là một giả thuyết) là một “dòng cung bất biến” và một “dòng cung biến đổi.”

a. The major ray of the Monad (necessarily one of the three major rays) never varies throughout the aeon (an aeon may be a chain-round or a still greater cycle).

a. Cung chính của Chân thần (tất yếu là một trong ba Cung Trạng Thái) không bao giờ thay đổi trong suốt đại kiếp (một đại kiếp có thể là một cuộc tuần hoàn trong Dãy hành tinh, hoặc một chu kỳ lớn hơn nữa).

b. This major ray of the Monad directly determines the major triadal focus—the emphasis found in the first of two terms of the ninefold division we have been discussing—i.e., Atmic/Atmic, Atmic/Buddhic, Atmic Manasic, etc.

b. Cung chính này của Chân thần quyết định trực tiếp tiêu điểm chính của Tam nguyên—tức là nhấn mạnh vào yếu tố đầu tiên trong hai yếu tố của bộ chín mà chúng ta đang bàn tới—tức Atma/Atma, Atma/Bồ đề, Atma/Trí tuệ, v.v.

c. The secondary ray of the Monad, the first and highest subray of the Monad on its own plane (i.e., on one of the subplanes of the monadic plane) is variable and is, perhaps, at the head of the line of ray variability. When and why this monadic subray changes we may only conjecture.

c. Cung phụ của Chân thần, tức là cung phụ đầu tiên và cao nhất của Chân thần trên chính cõi của nó (tức là một trong các cõi phụ của cõi chân thần) là có thể thay đổi và có lẽ đứng đầu trong “dòng biến đổi cung.” Khi nào và vì sao cung phụ chân thần thay đổi thì ta chỉ có thể suy đoán.

d. The ‘line of ray variability’ includes the

d. “Dòng biến đổi cung” bao gồm:

i. The subray of the Monad on its own plane

i. Cung phụ của Chân thần trên chính cõi của nó

ii. The secondary focus within the spiritual triad

ii. Tiêu điểm phụ trong Tam nguyên tinh thần

iii. The subray of the ego itself (remembering that the main egoic ray is something of a subray for the main triadal focus)

iii. Cung phụ của chính chân ngã (hãy nhớ rằng cung chính của chân ngã cũng là một cung phụ so với tiêu điểm chính của Tam nguyên)

249. It seems reasonable that changes of ray along the line of ray variability are all correlated. Whether the higher secondary rays change following changes in the lower rays or vice versa needs to be determined, but that they are correlated seems very probable. In occultism, it is usually changes ‘above’ which result in changes ‘below’.

249. Có vẻ hợp lý khi cho rằng các sự thay đổi cung dọc theo dòng biến đổi cung đều có mối tương quan với nhau. Việc các cung phụ cao hơn thay đổi sau các cung thấp hơn hay ngược lại cần được xác định, nhưng rằng chúng có tương quan thì rất có khả năng. Trong huyền môn, thường thì những thay đổi “ở trên” tạo ra những thay đổi “ở dưới.”

250. In this whole matter of the higher and lower rays of man, we have (as Plato said) “same” and “different”, or “same” and “other”

250. Trong toàn bộ vấn đề về các cung cao và thấp của con người, chúng ta có (như Plato đã nói) “đồng nhất” và “khác biệt”, hay “giống nhau” và “khác biệt.”

251. What are the implications of this ray set up?

251. Những hàm ý của hệ thống cung này là gì?

a. There is a major monadic ray; it remains always the same

 a. Có một cung chân thần chính; nó luôn luôn bất biến.

b. This major monadic ray anchors itself in the spiritual triad, and that anchorage stays always the same. The anchorage is described by the first term of the three threefold groupings.

 b. Cung chân thần chính này neo vào Tam nguyên tinh thần, và sự gắn neo đó luôn giữ nguyên. Sự neo này được mô tả bằng yếu tố đầu tiên trong ba bộ ba nhóm cung.

c. The combination of major monadic ray and its anchorage in the triad are (Platonically) “same”.

 c. Sự kết hợp giữa cung chân thần chính và sự neo của nó trong Tam nguyên là (theo Plato) “giống nhau.”

d. There is a secondary monadic ray; it is a subray of one of the three major rays. The subray can (and probably will) change. This subray probably changes as evolution proceeds or, later, according to need.

 d. Có một cung chân thần phụ; nó là một cung phụ của một trong ba cung chính. Cung phụ này có thể (và có lẽ sẽ) thay đổi. Cung này có lẽ thay đổi khi tiến hóa tiến triển hoặc, về sau, theo nhu cầu.

e. The major outpost (of the Monad) within the spiritual triad has an egoic outpost. This is equivalent to saying that the major triadal anchorage has a subray.

 e. Tiền đồn chính (của Chân thần) trong Tam nguyên tinh thần có một tiền đồn chân ngã. Điều này tương đương với việc nói rằng sự neo chính của Tam nguyên có một cung phụ.

f. That subray or sub-aspect is either atmic, buddhic or manasic. This means that the triadal subray or sub-aspect is either the first ray, second ray or the third ray (with the possibility of four others—the Rays of Aspect)

 f. Cung phụ hay khía cạnh phụ đó là atma, bồ đề hoặc trí tuệ. Điều này có nghĩa là cung phụ của Tam nguyên là cung một, hai hoặc ba (với khả năng bốn cung còn lại—các Cung Thuộc Tính).

g. In the beginning of human evolution, the subrays or sub-aspect of the major triadal anchorage are always the fourth, fifth, sixth or seventh rays—hence these four are equivalent to a manasic sub-aspect (since manas includes rays four, five, six and seven).

 g. Vào đầu giai đoạn tiến hóa nhân loại, các cung phụ hoặc khía cạnh phụ của sự neo chính của Tam nguyên luôn luôn là cung bốn, năm, sáu hoặc bảy—vì thế bốn cung này tương đương với một khía cạnh phụ mang tính trí tuệ (vì manas bao gồm các cung bốn, năm, sáu và bảy).

h. Later the ray of the soul/causal body/egoic lotus can change (according to certain laws) and then, the subray or sub-aspect of the spiritual triad will also change accordingly. (Which of these two may change first is still to be debated.)

 h. Sau đó, cung của linh hồn/thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã có thể thay đổi (theo một số định luật), và khi đó, cung phụ hay khía cạnh phụ của Tam nguyên tinh thần cũng sẽ thay đổi tương ứng. (Cái nào thay đổi trước thì vẫn còn là điều đang được tranh luận).

i. When the soul ray/causal ray/egoic ray changes, does it mean that the subray of the Monad (on its own plane) is also changing. Perhaps. This remains to be seen. We are talking now about changes along the line of ray variability.

 i. Khi cung của linh hồn/thể nguyên nhân/chân ngã thay đổi, liệu có nghĩa là cung phụ của Chân thần (trên cõi riêng của nó) cũng thay đổi không? Có thể. Điều này vẫn cần được xem xét. Chúng ta hiện đang nói về những thay đổi dọc theo dòng biến đổi cung.

j. What does not change is the major ray of the Monad and its major anchorage within the spiritual triad.

 j. Điều không thay đổi là cung chính của Chân thần và sự neo chính của nó trong Tam nguyên tinh thần.

252. This, at least, is one theory and deserves consideration.

252. Đây, ít nhất, là một lý thuyết và đáng được cân nhắc.

253. The only thing to be solved relates to questions such as the following?

253. Điều duy nhất còn lại để giải quyết liên quan đến các câu hỏi như sau:

a. Can “egos” on manasic rays (three, four, five, six or seven) ever focus atmically or buddhically in the triadal sub-aspect?

 a. Liệu các “chân ngã” thuộc các cung trí tuệ (ba, bốn, năm, sáu hoặc bảy) có thể tập trung ở cấp độ atma hoặc bồ đề trong khía cạnh phụ của Tam nguyên không?

b. The answer is a qualified “yes”, for the following reasons and using the following examples:

 b. Câu trả lời là “có”, nhưng có điều kiện, với các lý do và ví dụ sau đây:

i. All souls/”egos”/causal bodies/egoic lotuses begin their focus upon the fourth, fifth, sixth or seventh rays. They are thus focussed manasically in the sub-aspect of the triad, though the human being concerned would not know that being of too low a consciousness for such a realization.

  i. Mọi linh hồn/“chân ngã”/thể nguyên nhân/hoa sen chân ngã đều bắt đầu với tập trung trên cung bốn, năm, sáu hoặc bảy. Như vậy, họ tập trung vào khía cạnh phụ trí tuệ trong Tam nguyên, mặc dù con người liên quan thì không biết điều đó do tâm thức còn quá thấp để nhận ra.

ii. Later, for instance, a fourth ray soul/”ego” may become a third ray soul, in which case it keeps its secondary triadal focus as manasic.

  ii. Về sau, ví dụ, một linh hồn cung bốn có thể trở thành linh hồn cung ba, trong trường hợp đó y giữ tiêu điểm phụ Tam nguyên là trí tuệ.

iii. Or a fourth ray soul/”ego” may become a second ray soul, in which case its secondary triadal focus becomes buddhic.

  iii. Hoặc một linh hồn cung bốn có thể trở thành linh hồn cung hai, khi đó tiêu điểm phụ của Tam nguyên trở thành bồ đề.

iv. Or a fourth ray soul may remain a fourth ray soul even up to the fourth initiation, in which case it keeps its secondary triadal focus as manasic (though there must necessarily be buddhic resonance because of the relationship between the numbers two and four). Perhaps as a fourth ray soul progressed it could be said to focus buddhically (for in an advanced person, the fourth ray and the number four are related to the buddhic plane). This is the other option, but a fourth ray soul becoming a third ray soul would definitely focus within the third sub-aspect of the spiritual triad.

  iv. Hoặc một linh hồn cung bốn có thể vẫn giữ cung bốn cho đến lần điểm đạo thứ tư, khi đó y giữ tiêu điểm phụ Tam nguyên là trí tuệ (mặc dù tất yếu sẽ có cộng hưởng bồ đề do mối liên hệ giữa số hai và số bốn). Có thể nói rằng khi một linh hồn cung bốn tiến hóa, y có thể tập trung ở mức bồ đề (vì ở một người tiến hóa, cung bốn và số bốn có liên quan đến cõi bồ đề). Đây là một lựa chọn khác, nhưng một linh hồn cung bốn trở thành linh hồn cung ba thì chắc chắn sẽ tập trung trong khía cạnh phụ thứ ba của Tam nguyên tinh thần.

v. Everything just said about the fourth ray soul can be predicated of the sixth ray soul for both of them can transfer to either the third or the second rays.

  v. Mọi điều vừa nói về linh hồn cung bốn cũng có thể áp dụng cho linh hồn cung sáu, vì cả hai đều có thể chuyển sang cung ba hoặc cung hai.

vi. Again, if the transfer is to the third ray, the secondary triadal focus in the triad becomes (or remains) manasic. If to the second ray, the secondary triadal focus becomes buddhic.

  vi. Một lần nữa, nếu chuyển sang cung ba, thì tiêu điểm phụ Tam nguyên trở thành (hoặc vẫn là) trí tuệ. Nếu chuyển sang cung hai, tiêu điểm phụ Tam nguyên trở thành bồ đề.

vii. And if there is no transfer, the situation is ambiguous, as the sixth ray is certainly within the Rays of Brahma, but is buddhically resonant as buddhi is the sixth principle.

  vii. Nếu không có sự chuyển đổi, tình huống trở nên mơ hồ, vì cung sáu chắc chắn thuộc về các Cung của Brahma, nhưng lại cộng hưởng với bồ đề vì bồ đề là nguyên khí thứ sáu.

viii. In all of this, however, we see that the fourth ray or sixth ray soul does not develop an secondary atmic focus within the spiritual triad—unless, by special dispensation. That is to say, if the monadic subray changes (according to planetary need, for instance) it may have an effect upon the secondary triadal ray impressing it with a first ray/atmic coloration where none would normally be expected.

  viii. Tuy nhiên, trong tất cả điều này, ta thấy rằng linh hồn cung bốn hoặc cung sáu không phát triển tiêu điểm phụ atma trong Tam nguyên tinh thần—trừ khi có một sự ân huệ đặc biệt. Tức là, nếu cung phụ của Chân thần thay đổi (theo nhu cầu hành tinh, chẳng hạn), điều đó có thể ảnh hưởng đến cung phụ của Tam nguyên, gây ấn tượng lên nó với sắc thái cung một/atma mà bình thường sẽ không có.

ix. BUT such a change in the monadic subray might occur only very late in evolution when the ray of the “ego” would be rather inconsequential, i.e., there might no longer be a causal body. Of such changes we know very little other than the likelihood of their probability.

  ix. Nhưng một sự thay đổi như vậy trong cung phụ của Chân thần có thể chỉ xảy ra rất muộn trong tiến trình tiến hóa khi cung của “chân ngã” trở nên không còn quan trọng nữa, tức là, khi thể nguyên nhân không còn tồn tại. Về những thay đổi như vậy, chúng ta biết rất ít, ngoại trừ khả năng cao là chúng có thể xảy ra.

x. If there were no longer a causal body, the possibilities of change would become more flexible—perhaps.

  x. Nếu thể nguyên nhân không còn nữa, thì khả năng thay đổi có thể trở nên linh hoạt hơn—có thể là vậy.

xi. Souls initially upon the fifth ray either stay on that ray through the fifth initiation (in which case their secondary triadal focus remains manasic, or they transfer, usually, to the first ray, in which case their secondary triadal focus would be atmic).

  xi. Những linh hồn ban đầu thuộc cung năm hoặc sẽ ở lại trên cung đó cho đến lần điểm đạo thứ năm (trong trường hợp này tiêu điểm phụ Tam nguyên của họ vẫn là trí tuệ), hoặc họ sẽ chuyển đổi, thường là sang cung một, khi đó tiêu điểm phụ Tam nguyên của họ sẽ là atma.

xii. Let us remember that these changes of secondary triadal focus do not affect the primary triadal focus which is dependent upon the major ray of the Monad.

  xii. Hãy nhớ rằng những thay đổi trong tiêu điểm phụ của Tam nguyên không ảnh hưởng đến tiêu điểm chính của Tam nguyên, vốn phụ thuộc vào cung chính của Chân thần.

xiii. Why the fifth ray soul does not usually or even sometimes change to the third ray soul is problematic, as the fifth and third rays are so similar in some ways. Were such a transfer to take place, the secondary triadal focus of such a soul would remain manasic.

  xiii. Vì sao linh hồn cung năm thường không chuyển sang linh hồn cung ba là điều gây thắc mắc, vì cung năm và cung ba có nhiều điểm tương đồng. Nếu sự chuyển đổi như vậy xảy ra, tiêu điểm phụ Tam nguyên của linh hồn ấy sẽ vẫn là trí tuệ.

xiv. As for the seventh ray souls, it would seem that they would transfer (IF they transfer before the fourth degree) to either the atmic or manasic secondary triadal focus. But there is an example in DINA I of a seventh ray soul refocusing upon the second ray, and thus a buddhic secondary focus in the triad would be the result of such refocusing.

  xiv. Về phần các linh hồn cung bảy, có vẻ như nếu họ chuyển đổi (NẾU họ chuyển đổi trước lần điểm đạo thứ tư), thì sẽ là sang tiêu điểm phụ atma hoặc trí tuệ trong Tam nguyên. Nhưng có một ví dụ trong DINA I về một linh hồn cung bảy tái định tâm trên cung hai, và như vậy tiêu điểm phụ bồ đề trong Tam nguyên sẽ là kết quả của sự tái định tâm này.

xv. The changes which occur in the monadic subray cannot be ascertained by such as us. We barely know when the soul is changing its ray focus. But that changes in the monadic subray do occur can be seen in the assertion that the Masters can change to any ray according to need. St. Paul/Hilarion is a good example, for surely as the fifth ray Chohan He is focussed on the monadic fifth subray, but His major monadic ray must be the first (so it can be reasonably inferred).

  xv. Những thay đổi xảy ra trong cung phụ của Chân thần là điều chúng ta không thể xác định được. Chúng ta thậm chí còn khó biết được khi nào linh hồn thay đổi cung. Nhưng việc có những thay đổi trong cung phụ của Chân thần là điều có thể thấy được qua khẳng định rằng các Chân sư có thể thay đổi sang bất kỳ cung nào theo nhu cầu. Thánh Paul/Chân sư Hilarion là một ví dụ tốt, vì chắc chắn rằng với tư cách là Chohan cung năm, Ngài tập trung trên cung phụ chân thần năm, nhưng cung chính của Chân thần Ngài hẳn phải là cung một (đây là điều có thể suy luận một cách hợp lý).

254. We are given an interesting piece of information about the Tibetan in DINA II (761?). He says that there are aspects to His nature which are on the first ray, but that those aspects are triadal. We will have to ponder this in light of the foregoing. Here are some conjectures:

254. Chúng ta được cung cấp một thông tin thú vị về Chân sư Tây Tạng trong DINA II (trang 761?). Ngài nói rằng có những khía cạnh trong bản chất của Ngài là thuộc cung một, nhưng những khía cạnh đó là của Tam nguyên. Chúng ta sẽ phải suy ngẫm điều này dưới ánh sáng của các luận điểm trước. Sau đây là một số giả thuyết:

a. Master DK is a second ray soul, probably with an egoic subray which is the third

 a. Chân sư DK là một linh hồn cung hai, có lẽ với cung phụ chân ngã là cung ba.

b. Master DK is inferentially a third ray Monad as is the Buddha, whereas Master KH is inferentially a second ray Monad as is the Christ.

 b. Có thể suy ra rằng Chân sư DK là một Chân thần cung ba như Đức Phật, trong khi Chân sư KH có thể là Chân thần cung hai như Đức Christ.

c. If Master DK is a third ray Monad (His major monadic ray) His primary triadal focus is and remains manasic.

 c. Nếu Chân sư DK là Chân thần cung ba (cung chính chân thần của Ngài), thì tiêu điểm chính của Tam nguyên của Ngài là, và vẫn là, trí tuệ.

d. If He is a second ray soul, His secondary triadal focus would be buddhic.

 d. Nếu Ngài là linh hồn cung hai, thì tiêu điểm phụ của Tam nguyên của Ngài sẽ là bồ đề.

e. Then, in what manner can we say that there are aspects His triad which are of a first ray nature? This may mean one of several possible options:

 e. Vậy thì, bằng cách nào ta có thể nói rằng có những khía cạnh trong Tam nguyên của Ngài mang bản chất cung một? Điều này có thể có một trong các khả năng sau:

i. Master DK has become more shamballically responsive and, therefore, the secondary focus in His triad has changed to atmic.

  (i) Chân sư DK đã trở nên nhạy bén hơn với ảnh hưởng Shamballa, do đó tiêu điểm phụ trong Tam nguyên của Ngài đã chuyển thành atma.

ii. Master DK has switched onto the first subray of His third ray Monad—for reasons we cannot ascertain. If this happened, the secondary triadal focus could or would reflect this change.

  (ii) Chân sư DK đã chuyển sang cung phụ thứ nhất của Chân thần cung ba của Ngài—vì những lý do mà chúng ta không thể xác định. Nếu điều này xảy ra, tiêu điểm phụ trong Tam nguyên có thể hoặc sẽ phản ánh sự thay đổi này.

iii. Master DK no longer has a causal body and so He can have greater flexibility in his secondary triadal focus.

  (iii) Chân sư DK không còn có thể nguyên nhân, vì vậy Ngài có sự linh hoạt lớn hơn trong tiêu điểm phụ của Tam nguyên.

iv. The only other possibility is that Master DK became a first ray soul (which would accord with a secondary triadal focus which is atmic). This, however, does not seem intuitively correct.

  (iv) Khả năng duy nhất khác là Chân sư DK đã trở thành linh hồn cung một (điều này sẽ tương ứng với tiêu điểm phụ atma trong Tam nguyên). Tuy nhiên, điều này dường như không hợp lý về mặt trực giác.

v. The hypothesis is that the secondary triadal focus is usually bound to the soul ray, except after the fourth initiation when increasing Shamballic focus enters, increasing response to the will, and increasing flexibility in triadal focus.

  (v) Giả thuyết là: tiêu điểm phụ trong Tam nguyên thường gắn liền với cung của linh hồn, trừ khi sau lần điểm đạo thứ tư, khi sự tập trung vào Shamballa gia tăng, sự đáp ứng với Ý chí gia tăng, và sự linh hoạt trong tiêu điểm Tam nguyên cũng tăng theo.

255. We have been moving through some real complexities and the process has been speculative reason—not yet “pure reason”, but I trust it has given us all something to think about in relation to these very important matters.

255. Chúng ta đã đi qua một số phức tạp thực sự, và quá trình này là suy luận giả thuyết—chưa phải là “thuần lý”, nhưng tôi tin rằng điều này đã mang lại cho chúng ta những điều đáng suy ngẫm liên quan đến các vấn đề rất quan trọng này.

256. All of us want to know our soul ray and to express it in line with the Divine Plan.

256. Tất cả chúng ta đều mong muốn biết cung linh hồn của mình và biểu lộ nó phù hợp với Thiên Cơ.

257. Increasingly, all of want to know our secondary triadal focus so we can use that focus more effectively for the same reason.

257. Ngày càng nhiều người trong chúng ta mong muốn biết tiêu điểm phụ Tam nguyên của mình để có thể sử dụng tiêu điểm đó hiệu quả hơn, cũng vì lý do tương tự.

258. And of course, as time passes, we wish to know our monadic ray, as this will be the ray upon which we function when we become a high initiate or Master—someone who can really be effective in wielding the energies of the Plan.

258. Và dĩ nhiên, theo thời gian, chúng ta cũng mong muốn biết cung của Chân thần mình, vì đó sẽ là cung mà chúng ta hoạt động trên đó khi trở thành một điểm đạo đồ cao cấp hay một Chân sư—một người có thể thật sự hiệu quả trong việc sử dụng năng lượng của Thiên Cơ.

259. Pondering these matters can bring us into truer alignment with our own higher nature and render us more effective servers.

259. Suy ngẫm về những vấn đề này có thể giúp chúng ta đạt đến sự chỉnh hợp chân thực hơn với bản chất cao hơn của chính mình và khiến chúng ta trở thành những người phụng sự hiệu quả hơn.

260. Not much has been said here about the two soul rays (EP II 18), but one of them can be inferred to be the major soul ray (accounting for the secondary triadal focus) and the other a secondary ray on the level of the “ego” or soul itself. This ray, too, is subject to change, but, I would suspect, far less frequently than the personality ray.

260. Không có nhiều điều được nói ở đây về hai cung của linh hồn (EP II, tr. 18), nhưng có thể suy luận rằng một trong số đó là cung linh hồn chính (tương ứng với tiêu điểm phụ trong Tam nguyên) và cung còn lại là một cung phụ ở mức độ của “chân ngã” hay linh hồn. Cung này cũng có thể thay đổi, nhưng tôi cho rằng hiếm hơn nhiều so với cung của phàm ngã.

261. The study of monadic, soul and personality cycles is indispensable in attempting to clarify these issues.

261. Việc nghiên cứu các chu kỳ của Chân thần, linh hồn và phàm ngã là điều không thể thiếu trong nỗ lực làm sáng tỏ những vấn đề này.

262. We can see how incredibly intricate is this study of ray psychology (especially when the higher aspects of a man’s nature must be evaluated). Our best course of action is hypothesis and the testing of hypothesis, over time, accompanied by much close and careful observation of life and our fellow human beings.

262. Chúng ta có thể thấy nghiên cứu về tâm lý học theo cung là một lĩnh vực vô cùng phức tạp (đặc biệt là khi phải đánh giá các phương diện cao hơn của bản chất con người). Cách tiếp cận tốt nhất của chúng ta là xây dựng giả thuyết và kiểm nghiệm chúng theo thời gian, đồng thời quan sát thật sát sao và cẩn trọng cuộc sống và những người đồng hành nhân loại của chúng ta.

[178]

[178]

The third period, wherein the monadic ray makes itself felt on the physical plane, is by far the shortest, and covers the period in which the sixth triangle holds sway.

Thời kỳ thứ ba, khi cung chân thần tự khiến mình được cảm nhận trên cõi hồng trần, là ngắn nhất, và bao trùm giai đoạn mà tam giác thứ sáu nắm quyền chi phối.

263. The sixth triangle being, from p. 170:

263. Tam giác thứ sáu là, theo tr. 170:

6. Spiritual man to the fifth Initiation

6. Con người tinh thần đến lần điểm đạo thứ năm

a. The heart.

a. Tim.

b. The seven head centres.

b. Bảy trung tâm đầu.

c. The two many-petalled lotuses.

c. Hai đóa sen nhiều cánh.

264. Note that we are speaking about the monadic ray making itself felt on the physical plane. We have already established that even at the first initiation it is making itself felt in the soul nature.

264. Lưu ý rằng chúng ta đang nói về cung chân thần tự khiến mình được cảm nhận trên cõi hồng trần. Chúng ta đã xác quyết rằng ngay ở lần điểm đạo thứ nhất, nó đã khiến mình được cảm nhận trong bản chất linh hồn.

265. The third triangle spans the period from the third initiation to the fifth, an ideal time for the monadic ray to make itself felt, but not yet the period in which the monadic ray comes to full power.

265. Tam giác thứ ba trải dài giai đoạn từ lần điểm đạo thứ ba đến thứ năm, một thời điểm lý tưởng để cung chân thần tự khiến mình được cảm nhận, nhưng vẫn chưa phải là giai đoạn cung chân thần phát huy trọn quyền lực.

266. Of course the number six fits with the monadic factor since the Monad is found upon the sixth systemic plane (counting from below).

266. Tất nhiên con số sáu phù hợp với yếu tố chân thần vì Chân thần nằm trên cõi hệ thống thứ sáu (tính từ dưới lên).

267. We note that DK speaks of the period when “the sixth triangle holds sway”. He does not speak, here, of the monadic ray holding sway. That would happen later, when man becomes a Chohan, and even beyond that point.

267. Chúng ta ghi nhận rằng Chân sư DK nói về giai đoạn khi “tam giác thứ sáu nắm quyền chi phối”. Ở đây Ngài không nói cung chân thần nắm quyền chi phối. Điều đó sẽ xảy ra về sau, khi con người trở thành một Chohan, và còn vượt quá điểm đó nữa.

268. How short may this period be; it could be as short as one or two incarnations—an astonishing thought.

268. Giai đoạn này ngắn đến mức nào; nó có thể ngắn chỉ một hay hai lần lâm phàm—một ý nghĩ thật đáng kinh ngạc.

It marks the period of achievement, of liberation, and therefore, although it is the shortest period when viewed from below upward, it is the period of comparative permanence when viewed from the plane of the Monad.

Đó là thời kỳ của thành tựu, của giải thoát, và do vậy, tuy là thời kỳ ngắn nhất khi nhìn từ dưới lên, nhưng lại là thời kỳ có tính bền vững tương đối khi nhìn từ cõi của Chân thần.

269. For ages after that achievement of growing monadic prominence, the Monad becomes the main factor in the life of the unit, man. What is it that journeys on the seven or nine Paths of Higher Evolution? It is the Monad. That journey can take ages—far longer than the first two stages of growth governed by the personality ray and the soul ray.

269. Trong nhiều thời đại sau thành tựu ấy của sự tăng dần tính trội của chân thần, Chân thần trở thành yếu tố chính trong đời sống của đơn vị, con người. Cái gì du hành trên bảy hay chín Con đường Tiến Hóa Cao Siêu? Chính là Chân thần. Cuộc hành trình đó có thể kéo dài qua các thời đại—lâu hơn rất nhiều so với hai giai đoạn tăng trưởng đầu tiên do cung phàm ngã và cung linh hồn cai quản.

It covers the totality of time remaining in the one hundred years of Brahma, or the remainder of the process of manifestation.

Nó bao trùm toàn bộ thời gian còn lại trong trăm năm của Brahma, hay phần còn lại của tiến trình biểu lộ.

270. The history of the Monad is lost in the night of time. We have always been Monads of different scope (a fascinating subject better not taken up here but discussed in Infinitization of Selfhood). The Solar Logos is about half way through His present solar system, which means that perhaps fifty years of Brahma remain—a stupendous period of time.

270. Lịch sử của Chân thần thất lạc trong đêm dài thời gian. Chúng ta vốn luôn là các Chân thần với quy mô khác nhau (một chủ đề hấp dẫn nhưng tốt hơn không bàn ở đây mà được thảo luận trong Infinitization of Selfhood ). Thái dương Thượng đế hiện đang đi được khoảng nửa chừng trong hệ mặt trời hiện tại của Ngài, điều này có nghĩa là có lẽ còn khoảng năm mươi năm của Brahma—một khoảng thời gian khôn lường.

271. If indeed man remains consciously focussed as a Monad (of whatever scope) during this period, we can see why the period should be called a period of comparative permanence.

271. Nếu thật sự con người vẫn duy trì tập trung có ý thức như một Chân thần (dù với quy mô nào) trong giai đoạn này, chúng ta có thể thấy vì sao giai đoạn ấy được gọi là giai đoạn có tính bền vững tương đối.

272. What man may have been as a Monad before the development of our Solar Logos, or what man may be as a Monad after the sixth or seventh cosmic initiation of our Solar Logos are mysteries which are, for us, unfathomable.

272. Con người có thể đã là gì với tư cách một Chân thần trước sự phát triển của Thái dương Thượng đế của chúng ta, hoặc con người có thể là gì với tư cách một Chân thần sau lần điểm đạo vũ trụ thứ sáu hay thứ bảy của Thái dương Thượng đế của chúng ta—đó là những điều bí nhiệm đối với chúng ta, bất khả dò thấu.

273. There is only one thing to say: there is but One Monad in all cosmos, and that which is now man has (during this cosmos) ever been that Monad and/or an emanation of it.

273. Chỉ có một điều để nói: trong toàn cõi vũ trụ chỉ có Một Chân thần, và cái hiện nay là con người đã (trong vũ trụ này) vẫn luôn là Chân thần ấy và/hoặc một xuất lộ của Ngài.

When we study, therefore, the sets of triangles earlier referred to and the periods of ray dominance, we will find much room for thought.

Vì vậy, khi chúng ta khảo cứu các bộ tam giác đã nói trước và các thời kỳ cung chi phối, chúng ta sẽ thấy có nhiều điều đáng suy ngẫm.

274. One observation which always seems true is that the second period is the shortest. The reign of the soul ray is shorter than the reign of the personality or monadic rays.

274. Một nhận xét dường như luôn đúng là thời kỳ thứ hai là ngắn nhất. Thời kỳ cai trị của cung linh hồn ngắn hơn thời kỳ cai trị của cung phàm ngã hoặc của cung chân thần.

275. This same pattern may hold when examining many cycles—the second part of a three part cycle may be the shortest.

275. Mô thức này có thể vẫn đúng khi khảo sát nhiều chu kỳ—phần thứ hai của một chu kỳ ba phần có thể là ngắn nhất.

Let me here point out, however, that the six groups of triangles are in all but five if we eliminate the pranic triangle which has to do with matter itself and is not counted any more than the dense physical is counted a principle.

Cho phép tôi chỉ ra ở đây rằng sáu nhóm tam giác thực chất chỉ còn năm nếu chúng ta loại bỏ tam giác prana, vốn liên quan đến chính chất liệu, và không được tính, cũng như thể xác đậm đặc không được tính là một nguyên khí.

276. This is an important thought. Strictly physical energies are not in the same category as the more subjective energies which are related to true principles.

276. Đây là một ý tưởng quan trọng. Các năng lượng thuần thể xác không cùng loại với các năng lượng chủ quan hơn, vốn liên hệ với các nguyên khí đích thực.

277. We recall that we have been studying five centers—each one them related to the first five planes—base of spine to etheric, solar plexus to astral, throat to mental, heart to buddhic and crown to atmic.

277. Chúng ta nhớ rằng chúng ta đã nghiên cứu năm trung tâm—mỗi trung tâm liên hệ với năm cõi đầu tiên—đáy cột sống với dĩ thái, tùng thái dương với cảm dục, cổ họng với trí, tim với Bồ đề và đỉnh đầu với atma.

278. The pranic triangle does not relate to second solar system principles.

278. Tam giác prana không liên hệ với các nguyên khí của hệ mặt trời thứ hai.

Therefore we have:

Vì vậy chúng ta có:

a. Two triangles brought to vivification by the personality ray.

a. Hai tam giác được cung phàm ngã sinh động hoá.

b. Two triangles brought to vivification by the egoic ray.

b. Hai tam giác được cung chân ngã sinh động hoá.

c. The synthesising triangle of the Monad.

c. Tam giác tổng hợp của Chân thần.

279. The first, or pranic triangle is eliminated. Triangles two and three are vivified by the personality ray; triangles four and five by the soul ray: triangle six by the monadic ray.

279. Tam giác thứ nhất, tức tam giác prana, bị loại bỏ. Tam giác hai và ba được cung phàm ngã sinh động hoá; tam giác bốn và năm do cung linh hồn; tam giác sáu do cung chân thần.

280. Again reflecting the dual first two, with the Monad as singular, synthesizing Electric Fire.

280. Lại một lần nữa, phản chiếu hai cái đầu tiên theo nhị nguyên, với Chân thần như đơn nhất thể, tổng hợp Lửa Điện.

281. The synthesizing triangle of the Monad includes

281. Tam giác tổng hợp của Chân thần gồm

a. The heart

a. Tim

b. The seven head centers

b. Bảy trung tâm đầu

c. The two many-petalled lotuses.

c. Hai đóa sen nhiều cánh.

We must, nevertheless, recollect that the complexity is increased by the fact that the personality triangles will be brought to full activity according to the ray of the Monad or Spirit. Therefore, no hard or fast rule can be laid down about development.

Tuy nhiên, chúng ta phải ghi nhớ rằng tính phức tạp gia tăng do thực tế là các tam giác phàm ngã sẽ được đưa đến hoạt động viên mãn tùy theo cung của Chân thần hay Thần Linh. Vì vậy, không thể đặt ra một quy luật cứng nhắc nào về sự phát triển.

282. We are being given only the simplest triangular patterns in the developmental process.

282. Chúng ta chỉ đang được trình bày những mô hình tam giác đơn giản nhất trong tiến trình phát triển.

283. There are other personality triangles not here listed, and the ones that are listed will have the various chakras activated in a distinct order depending upon the monadic ray. In any triangle the chakra which hold the position of major for the triangle may, it seems, depend upon the monadic ray. We have already given some suggestions as to the order of activation of chakras within a triangle according to monadic ray.

283. Có những tam giác phàm ngã khác không được liệt kê ở đây, và các tam giác đã liệt kê sẽ có trình tự hoạt hóa các luân xa khác nhau tùy theo cung chân thần. Trong bất kỳ tam giác nào, có vẻ như luân xa giữ vị trí chủ trong tam giác có thể tùy thuộc cung chân thần. Chúng ta đã đưa ra một vài gợi ý về thứ tự kích hoạt các luân xa trong một tam giác theo cung chân thần.

284. Again, why would it be so that the body and personality are more qualified by the monad and its cycles, than by the “Ego” and its cycles?

284. Một lần nữa, vì sao thân và phàm ngã lại được định cách bởi chân thần và các chu kỳ của Ngài hơn là bởi “Chân ngã” và các chu kỳ của nó?

The egoic triangles are dependent largely upon the reflection in the personality of the spiritual life force. They are the midway point, just as the causal or egoic body is the transmitting point (when sufficiently equipped and built) between the higher and the lower.

Các tam giác chân ngã phần lớn tùy thuộc vào phản ảnh trong phàm ngã của sinh lực tinh thần. Chúng là Điểm ở giữa, cũng như thể nguyên nhân hay thể chân ngã là điểm truyền dẫn (khi đã được trang bị và kiến tạo đầy đủ) giữa cái cao và cái thấp.

285. The egoic triangles are the fourth and fifth in the list of six; thus, the fourth and fifth triangles are both the “midway point” (reference to Stanza I ).–

285. Các tam giác chân ngã là tam giác thứ tư và thứ năm trong danh sách sáu; như vậy, cả tam giác thứ tư và thứ năm đều là “Điểm ở giữa” (tham chiếu đến Khổ I).–

286. We notice that in both of these ‘midway’ triangles, part or all of the seven head centers are active.

286. Chúng ta để ý rằng trong cả hai tam giác ‘trung gian’ này, một phần hoặc toàn bộ bảy trung tâm đầu đều hoạt động.

287. DK offers an analogy between the causal body as transmitters between the Monad and personality and the midway triangles as transmitters between the highest triangle and the two lowest (not counting the pranic triangle).

287. Chân sư DK đưa ra một phép tương đồng giữa thể nguyên nhân như bộ phận truyền dẫn giữa Chân thần và phàm ngã, và các tam giác trung gian như bộ phận truyền dẫn giữa tam giác cao nhất và hai tam giác thấp nhất (không tính tam giác prana).

288. We note that the causal body is not always such a transmitter. It has to be sufficiently unfolded to accomplish this function.

288. Chúng ta lưu ý rằng thể nguyên nhân không phải lúc nào cũng là bộ phận truyền dẫn như thế. Nó phải được khai mở đủ mức để thực hiện chức năng này.

The permanent atoms are enclosed within the periphery of the causal body, yet that relatively permanent body is built and enlarged, expanded and wrought [the work of Vulcan] into [179] a central receiving and transmitting station (using inadequate words to convey an occult idea) by the direct action of the centres, and of the centres above all.

Các nguyên tử trường tồn được bao bọc trong chu vi của thể nguyên nhân, tuy thân thể tương đối trường tồn ấy được kiến tạo và được mở rộng, nới rộng và được rèn luyện [the work of Vulcan] thành [179] một trạm tiếp nhận và truyền dẫn trung tâm (dùng những từ không tương xứng để chuyển tải một ý niệm huyền bí) do tác động trực tiếp của các trung tâm, và nhất là của các trung tâm cao hơn.

289. How the permanent atoms may be “enclosed within the periphery of the causal body” and still remain on their own plane is perhaps a mystery. We are told that the causal periphery extends far beyond the range of the lower bodies, and this asserted fact alone may signify enclosure.

289. Làm thế nào các nguyên tử trường tồn có thể “được bao bọc trong chu vi của thể nguyên nhân” mà vẫn lưu lại trên cõi riêng của chúng có lẽ là một điều bí nhiệm. Chúng ta được cho biết rằng chu vi nhân thể trải xa vượt khỏi tầm của các hạ thể, và chỉ riêng sự kiện được khẳng quyết này đã có thể hàm ý sự bao bọc.

290. We are being given a really important piece of information. How is the causal body built? By the direct action of the centers. The centers are involved in transferring the quality accumulated into incarnation into the causal body. When the bodies of the personality sequentially ‘die’, the whirling energy (monadically and egoically impulsed) which produces the chakras is naturally withdrawn as well. We may infer that in this withdrawal, quality is transferred, and directly transferred.

290. Chúng ta đang được trao một mảnh thông tin thật sự quan trọng. Thể nguyên nhân được kiến tạo như thế nào? Bằng tác động trực tiếp của các trung tâm. Các trung tâm tham gia vào việc chuyển tải phẩm tính tích lũy trong kỳ lâm phàm vào thể nguyên nhân. Khi các thể của phàm ngã lần lượt ‘chết’, năng lượng xoáy (được chân thần và chân ngã xung động) vốn tạo nên các luân xa cũng tự nhiên được thu hồi. Ta có thể suy ra rằng trong sự thu hồi này, phẩm tính được chuyển giao, và được chuyển giao trực tiếp.

291. Let us think of the causal body as a central receiving and transmitting station. It receives from above and transmits to that which is below. The centers in the lower vehicles would receive this transmission.

291. Chúng ta hãy nghĩ về thể nguyên nhân như một trạm trung tâm tiếp nhận và truyền dẫn. Nó tiếp nhận từ bên trên và truyền xuống cái ở bên dưới. Các trung tâm trong các hạ vận cụ sẽ tiếp nhận sự truyền dẫn này.

292. There is a question as to whether quality is built into the causal body throughout the incarnation or only at its termination. If throughout, then the chakras transmit from ‘below’ to ‘above’.

292. Có câu hỏi rằng liệu phẩm tính có được xây vào thể nguyên nhân suốt kỳ lâm phàm hay chỉ vào lúc kết thúc. Nếu là suốt kỳ lâm phàm, thì các luân xa truyền tải từ ‘dưới’ lên ‘trên’.

Just as it was spiritual force, or the will aspect, that built the solar system, so it is the same force in the man that builds the causal body.

Cũng như chính mãnh lực tinh thần, hay phương diện ý chí, đã kiến tạo hệ mặt trời, thì trong con người, cũng chính mãnh lực ấy kiến tạo thể nguyên nhân.

293. DK is equating spiritual force with the will aspect. The centers, we remember, are an expression of the will aspect.

293. Chân sư DK đang đồng nhất mãnh lực tinh thần với phương diện ý chí. Chúng ta nhớ rằng các trung tâm là biểu lộ của phương diện ý chí.

294. We are continuing to speak of the building of the causal body through the direct agency of the centers.

294. Chúng ta tiếp tục nói về sự kiến tạo thể nguyên nhân thông qua tác nhân trực tiếp là các trung tâm.

295. The term “spiritual” is sometimes contrasted with “divine”. In such cases “spiritual” relates to the soul and “divine” to the Spirit. However, in this case, “spiritual” relates to the will, the spiritual triad and the Monad.

295. Thuật ngữ “tinh thần” đôi khi được đối chiếu với “thiêng liêng”. Trong các trường hợp như vậy, “tinh thần” liên hệ với linh hồn và “thiêng liêng” với Thần Linh. Tuy nhiên, ở đây, “tinh thần” liên hệ với ý chí, Tam Nguyên Tinh Thần và Chân thần.

296. The greater the intensity of the centers the greater the transference of quality into the causal body. But, we may assume that the process is somewhat reciprocal—the centers gaining stimulation from the transmission from the causal body (ultimately impulsed by the Monad).

296. Cường độ các trung tâm càng lớn thì sự chuyển tải phẩm tính vào thể nguyên nhân càng mạnh. Nhưng, có thể giả định rằng tiến trình này phần nào có tính tương hỗ—các trung tâm nhận kích thích từ sự truyền dẫn từ thể nguyên nhân (rốt ráo do Chân thần xung động).

297. The permanent atoms, since they are lodged within the periphery of the causal body, may be involved in this transference. We shall have to wait to find out the actual manner of this transference.

297. Các nguyên tử trường tồn, vì được đặt trong chu vi của thể nguyên nhân, có thể tham dự vào sự chuyển tải này. Chúng ta sẽ phải chờ để biết phương thức thực thụ của sự chuyển tải.

By the bringing together of spirit and matter (Father-Mother) in the macrocosm, and their union through the action of the will, the objective solar system, or the Son, was produced—that Son of desire, Whose characteristic is love, and Whose nature is buddhi or spiritual wisdom.

Bằng sự quy tụ của Thần linh và vật chất (Cha-Mẹ) trong đại thiên địa, và hợp nhất của chúng nhờ tác động của ý chí, hệ mặt trời khách quan, hay Ngôi Con, được sản sinh— Ngôi Con của dục vọng, Đấng có đặc trưng là Tình thương, và bản tính là Bồ đề hay minh triết tinh thần.

298. More is said here than may meet the eye: the faculty of will brings Spirit and matter together. Will, then, is, in this instance, a unitive force.

298. Điều được nói ở đây nhiều hơn những gì mắt thường thấy: năng lực ý chí quy tụ Thần linh và vật chất. Vậy ý chí, trong trường hợp này, là một lực hợp nhất.

299. The nature of the solar system is described from a psycho-spiritual angle. Love shines forth when will unites Spirit and matter.

299. Bản tính của hệ mặt trời được mô tả theo góc độ tâm-linh. Tình thương toả sáng khi ý chí hợp nhất Thần linh và vật chất.

300. How is the solar system a “Son of desire”? We can say that it was produced by the “desire” of the Father for the Mother and reciprocally.

300. Hệ mặt trời là “Ngôi Con của dục vọng” như thế nào? Chúng ta có thể nói rằng nó được sản sinh bởi “dục vọng” của Cha dành cho Mẹ và ngược lại.

301. A good definition of “buddhi is given”. Usually, the definitions of buddhi emphasize the love aspect. Here the wisdom aspect is represented, and the fact that buddhi is “spiritual” wisdom emphasizes the “spiritual” triad. The triad, we remember, is an expression of the will/Monad even though it is partially related to the soul aspect.

301. “Bồ đề” được đưa ra một định nghĩa hay. Thông thường, các định nghĩa về Bồ đề nhấn mạnh phương diện Tình thương. Ở đây phương diện minh triết được nêu bật, và việc Bồ đề là “minh triết tinh thần” nhấn mạnh Tam Nguyên Tinh Thần. Chúng ta nhớ rằng Tam Nguyên là một biểu lộ của ý chí/Chân thần, dù nó phần nào liên hệ với phương diện linh hồn.

By the bringing together (in microcosm) of Spirit and matter, and their coherence by means of force (or the spiritual will) that objective system, the causal body, is being produced;

Bằng sự quy tụ (trong tiểu thiên địa) của Thần Linh và vật chất, và sự kết dính của chúng nhờ lực (hay ý chí tinh thần), hệ thống khách quan ấy, tức thể nguyên nhân, đang được sản sinh;

302. To show the inconsistency of spelling and the caution thus needed when considering whether spelling changes have significance, we note that in the earlier sentence “spirit” was not capitalized, and yet, in relation to a lesser process, it is capitalized as “Spirit” in the sentence immediately above.

302. Để cho thấy sự bất nhất trong chính tả và vì thế cần thận trọng khi cân nhắc liệu thay đổi chính tả có ý nghĩa hay không, chúng ta lưu ý rằng trong câu trước “spirit” không viết hoa, vậy mà liên quan đến một tiến trình thấp hơn, nó lại được viết hoa thành “Spirit” ngay trong câu trên.

303. The causal body would not exist unless Spirit and matter were held coherently together, by means of the spiritual will. We can, therefore, see that monadic energy and atmic energy are involved in the creation and sustenance of the causal body. It is not the work of the Solar Angels alone.

303. Thể nguyên nhân sẽ không tồn tại nếu Thần Linh và vật chất không được gắn kết cố kết với nhau, bằng ý chí tinh thần. Do đó, chúng ta thấy năng lượng chân thần và năng lượng atma tham dự vào sự kiến tạo và duy trì thể nguyên nhân. Đây không chỉ là công trình của các Thái dương Thiên Thần.

304. We note that although the causal body seems subjective to the personality consciousness, it is considered the analogy to the solar system and is deemed objective.

304. Chúng ta lưu ý rằng tuy thể nguyên nhân dường như chủ quan đối với tâm thức phàm ngã, nó lại được xem là tương đồng với hệ mặt trời và được coi là khách quan.

it is the product of transmuted desire, whose characteristic (when fully demonstrated) will be love, the expression eventually on the physical plane of buddhi.

nó là sản phẩm của dục vọng đã chuyển hoá, mà đặc trưng (khi biểu lộ trọn vẹn) sẽ là Tình thương, rốt cuộc biểu hiện trên cõi hồng trần của Bồ đề.

305. We come to understand that the transmutation of desire is very important in the building of the causal body.

305. Chúng ta hiểu rằng sự chuyển hoá dục vọng là rất quan trọng trong việc kiến tạo thể nguyên nhân.

306. Through the casual body, love must demonstrate. From this description, buddhi is represented as still higher than love and must eventually, through the causal body, demonstrate upon the physical plane.

306. Qua thể nguyên nhân, Tình thương phải biểu lộ. Từ mô tả này, Bồ đề được trình bày như còn cao hơn Tình thương và rốt cuộc, qua thể nguyên nhân, phải biểu lộ trên cõi hồng trần.

307. Through the solar system love will demonstrate and eventually buddhi; the same, on a far smaller scale, is true of the causal body.

307. Qua hệ mặt trời, Tình thương sẽ biểu lộ và rốt ráo là Bồ đề; điều tương tự, ở quy mô nhỏ hơn rất nhiều, đúng với thể nguyên nhân.

The causal body is but the sheath of the Ego.

Thể nguyên nhân chỉ là vỏ bọc của Chân ngã.

308. Whether we call the causal body the “sheath” or the ‘shroud’, the idea is virtually the same.

309. And now it becomes blazingly clear how the Tibetan has been using the term “Ego” in the foregoing instructions. It definitely means the spiritual triad.

30 9. Và bây giờ trở nên sáng rõ rực rỡ cách Chân sư Tây Tạng đã dùng thuật ngữ “Chân ngã” trong các chỉ dẫn ở trên. Đó dứt khoát là chỉ Tam Nguyên Tinh Thần.

310. The unsheathed soul is the spiritual triad. The unshrouded soul is the spiritual triad.

310. Linh hồn khi thoát vỏ chính là Tam Nguyên Tinh Thần. Linh hồn khi bỏ tấm “khâm liệm” chính là Tam Nguyên Tinh Thần.

311. All this goes to say that we are not truly the soul until we have built the antahkarana and can function in triadal consciousness free of causal limitations. This may be for some a relatively new thought.

311. Tất cả điều này muốn nói rằng chúng ta chưa thật sự là linh hồn cho đến khi đã kiến tạo được antahkarana và có thể vận dụng tâm thức tam nguyên, tự do khỏi các giới hạn của thể nguyên nhân. Đây có thể là một ý niệm tương đối mới đối với một số người.

The solar system is but the sheath of the Son.

Hệ mặt trời chỉ là vỏ bọc của Ngôi Con.

312. By the solar system, DK does not mean only the physical solar system, but all the subtle levels of the solar system upon the cosmic physical plane.

312. Khi nói hệ mặt trời, Chân sư DK không chỉ có nghĩa hệ mặt trời vật chất, mà là tất cả các tầng vi tế của hệ mặt trời trên cõi hồng trần vũ trụ.

313. We see that the analogy is evocative of thought but is not perfect. Were it perfect, DK would compare the causal body of the Solar Logos to the causal body of man.

313. Chúng ta thấy rằng phép tương đồng này gợi mở tư duy nhưng không hoàn toàn hoàn hảo. Nếu hoàn hảo, Chân sư DK hẳn sẽ so sánh thể nguyên nhân của Thái dương Thượng đế với thể nguyên nhân của con người.

In both the greater and the lesser systems, force centres exist which are productive of objectivity. The centres in the human being are reflections in the three worlds of those higher force centres.

Trong cả đại hệ và tiểu hệ, tồn tại các trung tâm lực tạo nên tính khách quan. Các trung tâm trong con người là những phản ảnh trong ba cõi giới của các trung tâm lực cao hơn đó.

314. Physical objectivity for the human being depends upon force centers especially focussed on the fourth systemic ether. Physical objectivity for the Solar Logos depends upon the focusing of energies upon the fourth cosmic ether (or buddhi plane), the higher correspondence to the systemic etheric plane.

314. Tính khách quan thể xác đối với con người tùy thuộc các trung tâm lực được tập trung đặc biệt trên dĩ thái hệ thống bậc bốn. Tính khách quan đối với Thái dương Thượng đế tùy thuộc sự tập trung các năng lượng trên dĩ thái vũ trụ bậc bốn (hay cõi Bồ đề), vốn là đối ứng cao của cõi dĩ thái hệ thống.

315. The really interesting thing being said there is that the human centres are reflections of the cosmic etheric centers, which are Ashrams and groupings related to the Hierarchy. Through our chakras we can and must reflect the Ashrams.

315. Điều thật sự thú vị được nói ở đây là các trung tâm con người là những phản ảnh của các trung tâm dĩ thái vũ trụ, tức các Ashram và các nhóm liên đới với Thánh Đoàn. Thông qua các luân xa của chúng ta, chúng ta có thể và phải phản chiếu các Ashram.

Before taking up the subject of kundalini and the centres, it would be well to extend the information given above, from its prime significance for man, as that which concerns himself, to the solar system, the macrocosm, and to the cosmos. What can be predicated of the microcosm is naturally true of the macrocosm and of the cosmos.

Trước khi bàn đến đề tài kundalini và các trung tâm, sẽ là điều hay nếu mở rộng thông tin vừa nêu, từ ý nghĩa chính yếu đối với con người, như điều liên quan đến chính y, sang hệ mặt trời, đại thiên địa, và đến vũ trụ. Điều gì có thể khẳng định được về tiểu thiên địa thì tự nhiên cũng đúng với đại thiên địa và với vũ trụ.

316. DK is suggesting a macrocosmic extension but the triangles which go to the building of the planetary logoic causal body and the solar logoic causal body are not specified and, instead, are left to conjuncture.

316. Chân sư DK gợi ý một mở rộng vĩ mô, nhưng các tam giác góp phần kiến tạo thể nguyên nhân của Hành Tinh Thượng đế và của Thái dương Thượng đế không được nêu rõ, mà để cho sự giả thuyết.

It will not be possible to give the systemic triangles, for the information would have to be so blinded that, except for those who have occult knowledge and the intuition developed, it would be practically useless intellectually, but certain things may be pointed out in this connection that may be of interest.

Không thể đưa ra các tam giác hệ thống, vì thông tin sẽ phải được che mờ đến mức, ngoại trừ những ai có tri thức huyền bí và trực giác đã phát triển, thì về trí năng, nó gần như vô dụng; tuy vậy có thể chỉ ra vài điều liên hệ có thể đáng quan tâm.

317. Why would it be necessary to blind the information about the systemic triangles? Probably because meditative meddling could occur were the triangles revealed.

317. Vì sao cần che mờ thông tin về các tam giác hệ thống? Có lẽ vì có thể xảy ra sự can thiệp bằng tham thiền nếu các tam giác được tiết lộ.

318. It is, perhaps, possible to work them out speculatively, with the caveat the every systemic center may involve the contribution of perhaps three planetary centers.

318. Có lẽ có thể suy diễn chúng một cách phỏng đoán, kèm cảnh báo rằng mỗi trung tâm hệ thống có thể bao hàm đóng góp của chừng ba trung tâm hành tinh.

319. What of Earth, Venus, Jupiter?

319. Còn Trái Đất, Sao Kim, Sao Mộc thì sao?

320. What of Earth, Jupiter, Saturn?

320. Còn Trái Đất, Sao Mộc, Sao Thổ?

321. What of Jupiter, Saturn and Vulcan?

321. Còn Sao Mộc, Sao Thổ và Vulcan?

322. What of Jupiter, Vulcan, Neptune/Uranus?

322. Còn Sao Mộc, Vulcan, Sao Hải Vương/Sao Thiên Vương?

323. Quite a number of other triangles could be suggested each of which might represent three solar systemic chakras or all three (through aspects of themselves) might sustain a particular single chakra. Planetary Deities have more than one function and may be multiply involved in the dynamics of our solar system.

323. Có thể gợi ý khá nhiều tam giác khác, mỗi tam giác có thể biểu trưng cho ba luân xa hệ mặt trời, hoặc cả ba (thông qua các phương diện của chính chúng) có thể nâng đỡ một luân xa riêng lẻ. Các Hành Tinh Thượng đế có nhiều hơn một chức năng và có thể tham dự đa diện vào động học của hệ mặt trời chúng ta.

324. An important piece of information is given: occult blinding challenges the intellect. At a certain point, deep occult blinding becomes impenetrable to the intellect.

324. Một mẩu thông tin quan trọng được đưa ra: sự che mờ huyền môn thách thức thể trí. Đến một điểm nào đó, sự che mờ huyền môn sâu xa trở nên bất khả xuyên thấu đối với thể trí.

The Solar System. We might briefly look at this from [180] the standpoint of the centres of the Heavenly Men and of the Grand Man of the Heavens, the Logos.

Hệ Mặt Trời. Chúng ta có thể nhìn nhanh điều này từ [180] góc độ các trung tâm của Các Đấng Thiên Nhân và của Đấng Vĩ Nhân của Trời, tức Thượng đế.

325. The centers/chakras in a Heavenly Man are chains; in a Solar Logos, the centers/chakras are planetary schemes.

325. Các trung tâm/luân xa nơi một Đấng Thiên Nhân là các Dãy; nơi một Thái dương Thượng đế, các trung tâm/luân xa là các hệ hành tinh.

a. The Heavenly Men. The Heavenly Men, in Themselves, embody centres just as does a human being, and on Their Own plane these centres of force can be found.

a. Các Đấng Thiên Nhân. Chính Các Ngài tự thân bao hàm các trung tâm cũng như con người, và trên cõi riêng của Các Ngài có thể tìm thấy các trung tâm lực này.

326. We are dealing here with the Heavenly Men as chakras within the body of expression of a Solar Logos.

326. Ở đây, chúng ta đang xét đến Các Đấng Thiên Nhân như các luân xa trong thể biểu lộ của một Thái dương Thượng đế.

Again we need to recollect that these centres of force on cosmic levels,

Một lần nữa, chúng ta cần ghi nhớ rằng các trung tâm lực này ở các cấp độ vũ trụ,

327. It is implied that Planetary Logoi are cosmic beings. They are, indeed, in the process of taking cosmic initiations.

327. Hàm ý rằng các Hành Tinh Thượng đế là những Đấng vũ trụ. Quả vậy, Các Ngài đang trong tiến trình thọ các cuộc điểm đạo vũ trụ.

and in manifestation in the objective system, demonstrate as the great force centres of which any particular group of adepts and Their pupils are the exponents.

và khi ngoại hiện trong hệ thống khách quan, biểu lộ như các đại trung tâm lực mà bất kỳ một nhóm chân sư nào và các môn đồ của Các Ngài là những người triển dương.

328. We are being told that ashramic groups (the majority of them centered on the systemic buddhic plane) reflect planetary potencies.

328. Chúng ta được cho biết rằng các nhóm ashramic (đa phần tập trung trên cõi Bồ đề hệ thống) phản ánh các quyền năng hành tinh.

Every group of Masters and all the human beings incarnate or discarnate—who are held within the periphery of Their consciousness—are centres of force of some particular kind or quality. This is a fact generally recognised, but students should be urged to link up this fact with the information imparted on the centres of the human being, and see if much is not thereby learnt.

Mọi nhóm Chân sư và tất cả những con người đang lâm phàm hay ngoài xác—những người được giữ trong chu vi tâm thức của Các Ngài—đều là những trung tâm lực thuộc một dạng hay phẩm tính nào đó. Đây là một sự kiện được nói chung là thừa nhận, song nên thúc giục các đạo sinh liên kết sự kiện này với thông tin đã truyền về các trung tâm của con người, và xem liệu từ đó không học được nhiều điều chăng.

329. If we want to discover much information about triangular relationships (existing, in process, or destined) between various Ashrams, we have to apply analogically what we know about the relationships between chakras in the etheric body of man and relationships between planetary schemes in the solar system.

329. Nếu chúng ta muốn khám phá nhiều thông tin về các quan hệ tam giác (đang tồn tại, đang hình thành, hoặc sẽ định mệnh) giữa các Ashram khác nhau, chúng ta phải áp dụng theo lối tương tự những gì chúng ta biết về quan hệ giữa các luân xa trong thể dĩ thái của con người và các quan hệ giữa các hệ hành tinh trong hệ mặt trời.

330. It would not be hard to form ashramic triangles which were direct reflections of the five major triangles we have been studying. The one thing we would have to do is assign rays directly to the chakras. This is easy to do in most cases (because planetary assignments are given for the chakras—EA 517) but the base of the spine and the ajna center are a little ambiguous:

330. Sẽ không khó để hình thành các tam giác ashramic phản chiếu trực tiếp năm tam giác chủ yếu mà chúng ta đã nghiên cứu. Điều duy nhất chúng ta phải làm là gán các cung trực tiếp cho các luân xa. Điều này khá dễ trong hầu hết các trường hợp (vì có các gán ghép hành tinh cho các luân xa—EA 517) nhưng trung tâm đáy cột sống và trung tâm ajna thì hơi mơ hồ:

a. Head chakra – ray one – Pluto, Vulcan and later Uranus

a. Luân xa đầu – cung một – Sao Diêm Vương, Vulcan và về sau là Sao Thiên Vương

b. Ajna chakra – ray five or ray four –Venus and later Mercury

b. Luân xa ajna – cung năm hoặc cung bốn – Sao Kim và về sau là Sao Thủy

c. Throat chakra – ray three and later ray seven – Earth and Saturn, and alter Uranus

c. Luân xa cổ họng – cung ba và về sau cung bảy – Trái Đất và Sao Thổ, và về sau Sao Thiên Vương

d. Heart chakra – ray two – the Sun and Jupiter

d. Luân xa tim – cung hai – Mặt Trời và Sao Mộc

e. Solar plexus chakra – ray six –Mars and Neptune

e. Luân xa tùng thái dương – cung sáu – Sao Hỏa và Sao Hải Vương

f. Sacral center – ray seven – Uranus

f. Trung tâm xương cùng – cung bảy – Sao Thiên Vương

g. Base of spine center – ray one or ray seven – Pluto

g. Trung tâm đáy cột sống – cung một hoặc cung bảy – Sao Diêm Vương

331. There is one certain planet and some of its subsidiaries which are the planetary ‘sponsors’ or ‘inspirers’ of any ashramic group.

331. Có một hành tinh nhất định và một số phụ lưu của nó làm ‘bảo trợ’ hay ‘cảm hứng’ hành tinh cho bất kỳ một nhóm ashramic nào.

332. Different stages in the unfoldment of a Planetary Logos will see different triangles between Ashrams most active. Triangles between planetary schemes will be most activated when the Solar Logos is passing through that stage of unfoldment represented by a particular triangle of planets.

332. Những giai đoạn khác nhau trong sự khai mở của một Hành Tinh Thượng đế sẽ thấy các tam giác giữa các Ashram khác nhau hoạt hoá mạnh. Các tam giác giữa các hệ hành tinh sẽ được hoạt hoá nhất khi Thái dương Thượng đế đi qua giai đoạn khai mở được biểu trưng bởi một tam giác hành tinh nhất định.

333. It would also be possible to speculate upon triangles between kingdoms and Creative Hierarchies.

333. Cũng có thể suy đoán về các tam giác giữa các giới và các Huyền Giai Sáng Tạo.

These centres of force will demonstrate on etheric levels and on the subtler planes just as they do in a man, and they will be vivified as are the human centres by planetary kundalini, progressing in the desired triangles.

Các trung tâm lực này sẽ biểu lộ trên các tầng dĩ thái và các cõi vi tế hơn, cũng như chúng biểu lộ trong con người, và chúng sẽ được sinh động hoá như các trung tâm con người bởi kundalini hành tinh, tiến triển trong các tam giác được mong muốn.

334. What we are learning is that ashramic triangles are vivified by planetary kundalini and planetary triangles are vivified by solar logoic kundalini.

334. Điều chúng ta đang học là các tam giác ashramic được sinh động bởi kundalini hành tinh và các tam giác hành tinh được sinh động bởi kundalini của Thái dương Thượng đế.

335. There is a very close analogy between all these types of centers; human chakras, ashrams and inner groupings; planetary chains; planetary schemes.

335. Tồn tại một phép tương đồng rất gần giữa tất cả các loại trung tâm này; các luân xa con người, các Ashram và các nhóm nội môn; các Dãy hành tinh; các hệ hành tinh.

Two hints can here be given for thoughtful consideration. In connection with one of the Heavenly Men (which one cannot at this juncture be pointed out) we have one triangle of force to be seen in the following three centres:

Có thể đưa ra hai gợi ý để suy xét một cách thâm thúy. Liên quan đến một trong Các Đấng Thiên Nhân (chưa thể chỉ rõ là vị nào ở thời điểm này) chúng ta có một tam giác lực có thể thấy qua ba trung tâm sau:

336. We are considering the influence of one of the Heavenly Men upon one intra-planetary triangle of force consisting of the force centers listed below.

336. Chúng ta đang xét ảnh hưởng của một trong Các Đấng Thiên Nhân lên một tam giác lực nội tại hành tinh gồm các trung tâm lực được liệt kê dưới đây.

337. The rays of these groups will easily be seen to be the first, second and third rays, and we can see, also, that Shamballa, Hierarchy and Humanity are related to these three centers of force.

337. Các cung của các nhóm này sẽ dễ thấy là cung một, hai và ba, và chúng ta cũng có thể thấy rằng Shamballa, Thánh Đoàn và Nhân loại tương ứng với ba trung tâm lực này.

a. The force centre of which the Manu, and His group, are the expression.

a. Trung tâm lực mà Manu và Nhóm của Ngài là sự biểu lộ.

b. The centre of which the Bodhisattva or the Christ and His adherents are the focal point.

b. Trung tâm mà Bồ-tát hay Đức Christ và các tín đồ của Ngài là tiêu điểm.

c. The centre of which the Mahachohan and his followers are the exponents.

c. Trung tâm mà Mahachohan và các môn đồ của Ngài là những người triển dương.

These three groups form the three centres in one great triangle—a triangle which is not yet in complete vivification at this stage of evolutionary development.

Ba nhóm này tạo thành ba trung tâm trong một đại tam giác—một tam giác hiện chưa được sinh động hoá hoàn toàn ở giai đoạn phát triển tiến hoá này.

338. When we think of the triangle here given, the chakras head, heart and throat immediately come to mind, as well as Shamballa, Hierarchy, Humanity. This will be recognized as a major triangle upon our Earth globe.

338. Khi nghĩ về tam giác được nêu ở đây, các luân xa đầu, tim và cổ họng lập tức hiện ra trong tâm trí, cũng như Shamballa, Thánh Đoàn, Nhân loại. Điều này sẽ được nhận ra như một tam giác chủ yếu trên cầu Địa Cầu của chúng ta.

339. It may be that the particular Heavenly Man here meant is none other than the Heavenly Man of the Earth-scheme, our Planetary Logos.

339. Có thể vị Thiên Nhân đặc biệt được nói đến ở đây không ai khác ngoài Thiên Nhân của hệ Trái Đất, Hành Tinh Thượng đế của chúng ta.

340. In chapter VIII of The Rays and the Initiations DK refers to this planetary triangle calling it the “the Three”. He also tells us that the triangle is not completely vivified and that energy is not circulating within it as it will before long. Thus the information in R&I correlates well with the information here given.

340. Trong chương VIII của “Các Cung và các Cuộc Điểm Đạo” Chân sư DK tham chiếu tới tam giác hành tinh này, gọi nó là “Bộ Ba”. Ngài cũng nói với chúng ta rằng tam giác này chưa được sinh động hoàn toàn và năng lượng chưa lưu thông trong đó như sẽ xảy ra chẳng bao lâu nữa. Như vậy thông tin trong R&I tương hợp tốt với thông tin nêu ra ở đây.

341. If we compare the triangle Manu, Bodhisattva, Mahachohan, we can see it according with either the fourth or fifth triangle (the ones in which first four head centers and then seven are active). Working with this analogy, and realizing that the Manu, the Bodhisattva and the Mahachohan are the “Three Great Lords” the triangle with seven head centers would seem to be required.

341. So sánh tam giác Manu, Bồ-tát, Mahachohan, chúng ta có thể thấy nó tương ứng hoặc với tam giác thứ tư hoặc thứ năm (các tam giác mà trong đó lần lượt bốn trung tâm đầu rồi bảy trung tâm hoạt động). Làm việc với phép tương đồng này, và nhận ra rằng Manu, Bồ-tát và Mahachohan là “Ba Vị Chúa Tể Vĩ Đại” thì có vẻ phải cần đến tam giác với bảy trung tâm đầu.

These triangles (four and five) accord with what DK called the soul stage of development and the Three Great Lords do preside over Hierarchy (representing the soul of the Planetary Logos as it is active on our Earth-globe).

Các tam giác này (bốn và năm) phù hợp với điều Chân sư DK gọi là giai đoạn linh hồn của sự phát triển, và Ba Vị Chúa Tể Vĩ Đại chủ toạ Thánh Đoàn (đại diện cho linh hồn của Hành Tinh Thượng đế như linh hồn ấy hoạt động trên cầu Địa Cầu của chúng ta).

342. A number of different analogies can emerge in relation to particular centers and triangles of centers.

342. Có thể nảy sinh nhiều phép tương đồng khác nhau liên quan đến các trung tâm nhất định và các tam giác trung tâm.

343. Within the Spiritual Hierarchy, what might be one analogy to the seven head centers (‘within’ the head)? May be suggest that the seven Chohans can be considered analogous to the seven head centers within the human being (though this is a lower analogy to one suggested a little later in the text). The Chohans are Shamballic beings and so their placement in the head is not unreasonable (if we relate the normal seven chakras to the seven Ashrams). Since, however, the Chohans are also members of Hierarchy they (as all members of Hierarchy) could also be placed in relation to the heart center.

343. Trong Huyền Giai Tinh Thần, đâu có thể là một tương đồng đối với bảy trung tâm đầu (‘bên trong’ đầu)? Có thể gợi ý rằng bảy vị Chohan có thể được xem như tương đồng với bảy trung tâm đầu trong con người (tuy đây là một tương đồng thấp hơn so với tương đồng được gợi ý muộn hơn trong văn bản). Các vị Chohan là các Đấng thuộc Shamballa nên đặt Các Ngài vào đầu cũng không phải là không hợp lý (nếu chúng ta liên hệ bảy luân xa thông thường với bảy Ashram). Tuy vậy, vì các Chohan cũng là thành viên của Thánh Đoàn nên Các Ngài (như mọi thành viên của Thánh Đoàn) cũng có thể được đặt liên hệ với trung tâm tim.

344. If we place the Chohans in relation to the seven head centers, perhaps the ‘Three Great Lords” have an analogy to the two many-petalled Lotuses. We might question whether the alta major center should be included. The analogy, however, is not exact and has its problems.

344. Nếu chúng ta đặt các Chohan liên hệ với bảy trung tâm đầu, có lẽ “Ba Vị Chúa Tể Vĩ Đại” có một tương đồng với hai Đóa Sen Nhiều Cánh. Chúng ta có thể đặt câu hỏi liệu có nên kể cả trung tâm alta major. Tuy nhiên, phép tương đồng này không chính xác và có những vấn đề của nó.

345. In a reference below, the analogy is drawn between the seven Kumaras the seven head centers, and this is surely apt.

345. Ở một tham chiếu bên dưới, phép tương đồng được vạch ra giữa bảy vị Kumara với bảy trung tâm đầu, và điều này chắc chắn là thích đáng.

346. It may be that, when we involve the two many-petalled lotuses, we will be required to reference Shamballa and higher ‘residents’.

346. Có thể rằng, khi chúng ta đưa hai Đóa Sen Nhiều Cánh vào, chúng ta sẽ cần quy chiếu đến Shamballa và các ‘cư dân’ cao hơn.

347. VSK suggest that we might question how the sixty-three ‘permanent’ members of Hierarchy are related to the centers or to specific points within the centers. It would require a very advanced inquiry and demand more knowledge than we presently have.

347. VSK gợi ý rằng chúng ta có thể tự hỏi sáu mươi ba thành viên ‘trường tồn’ của Thánh Đoàn liên hệ với các trung tâm ra sao, hoặc với các điểm riêng biệt trong các trung tâm. Điều này đòi hỏi một khảo cứu rất cao cấp và nhiều tri kiến hơn mức chúng ta hiện có.

348. Much about the assignment of centers to planetary groups depends upon the contexts we choose.

348. Rất nhiều việc gán ghép các trung tâm cho các nhóm hành tinh phụ thuộc vào các bối cảnh mà chúng ta lựa chọn.

a. We can choose that the entire chakra system will represent only the Hierarchy

a. Chúng ta có thể chọn toàn bộ hệ thống luân xa chỉ biểu trưng Thánh Đoàn

b. We can choose that the entire chakra system will represent Hierarchy and Shamballa

b. Chúng ta có thể chọn toàn bộ hệ thống luân xa biểu trưng cả Thánh Đoàn Shamballa

c. We can choose that the entire chakra system will represent all planetary kingdoms, including Hierarchy, Humanity and Shamballa

c. Chúng ta có thể chọn toàn bộ hệ thống luân xa biểu trưng tất cả các giới hành tinh, bao gồm Thánh Đoàn, Nhân loại và Shamballa

349. In each case, different groupings will be assigned to different chakras or triangles of chakras.

349. Ở mỗi trường hợp, các tổ nhóm khác nhau sẽ được gán cho các luân xa hay các tam giác luân xa khác nhau.

[181]

[181]

Another triangle in connection with our own planetary Logos is that formed by the seven Kumaras—the four exoteric Kumaras corresponding to the four minor head centres, and the three esoteric Kumaras corresponding to the three major head centres.75,76

Một tam giác khác liên quan đến Hành Tinh Thượng đế của riêng chúng ta là tam giác do bảy vị Kumara tạo thành—bốn vị Kumara ngoại hiển tương ứng với bốn trung tâm đầu phụ, và ba vị Kumara nội hiển tương ứng với ba trung tâm đầu chính. 75,76

350. This is a very important correspondence, and gives to Shamballa, proper, the domain of the head—for the Kumaras are members only of Shamballa and not, like the Chohans, of both Hierarchy and (sometimes) of Shamballa.

350. Đây là một tương ứng rất quan trọng, và trao cho Shamballa, theo đúng nghĩa, miền của đầu—vì các Kumara chỉ là thành viên của Shamballa chứ không như các Chohan, là thành viên của cả Thánh Đoàn và (đôi khi) của Shamballa.

351. When DK speaks of the four minor head centers and the three major ones, He may be considering the alta major center as the synthesis of the lower four, and the ajna and crown center as the higher two.

351. Khi Chân sư DK nói về bốn trung tâm đầu phụ và ba trung tâm đầu chính, có thể Ngài xem trung tâm alta major như yếu tố tổng hợp của bốn trung tâm thấp hơn, và trung tâm ajna cùng trung tâm đỉnh đầu là hai trung tâm cao.

352. From one perspective, the Seven Kumaras, and the Planetary Logos would represent the “Seven Spirits before the Throne” of that Logos.

352. Ở một góc nhìn, bảy vị Kumara và Hành Tinh Thượng đế sẽ đại diện “Bảy Thánh Linh trước Thánh Ngai” của vị Thượng đế ấy.

353. It is, as we have seen, possible to view the head as a seven resolving into a superior eighth factor. It is also possible to view the head as a nine resolving into a tenth. In such a case the seven centers ‘within’ the head would be considered in relation to a superior three, with the crown center being one of those superior three.

353. Như chúng ta đã thấy, có thể quan sát đầu như một bộ bảy quy về một yếu tố bát thượng thặng. Cũng có thể quan sát đầu như một bộ chín quy về một bộ mười. Trong trường hợp như vậy bảy trung tâm ‘trong’ đầu sẽ được xét trong tương quan với bộ ba thượng đẳng, với trung tâm đỉnh đầu là một của bộ ba ấy.

354. There may also be a relationship in which the Planetary Logos represents the entire crown center and Sanat Kumara the heart within the head within that crown.

354. Cũng có thể có một liên hệ trong đó Hành Tinh Thượng đế biểu trưng toàn bộ trung tâm đỉnh đầu và Sanat Kumara là tim trong đầu trong trung tâm đỉnh đầu ấy.

355. A number of possible correspondences are here proposed. We can see that such correspondences would be rather intricate and would have to be worked out with care. Much depends upon whether we group various centers or groups as if they were all one unit (which in a way they are) or whether we consider them independently. The relationships change accordingly.

355. Ở đây có đề xuất một số khả năng tương ứng. Chúng ta có thể thấy rằng những tương ứng như vậy khá tinh vi và phải được xây dựng cẩn trọng. Rất tùy thuộc vào việc chúng ta nhóm nhiều trung tâm hay nhiều nhóm như thể chúng là một đơn vị (vốn theo một nghĩa nào đó là như vậy) hay xem xét chúng cách độc lập. Các quan hệ thay đổi tương ứng.

75: There are seven Kumaras connected with our planetary evolution, of Whom four are exoteric; the four exoteric have vehicles in etheric matter; three Kumaras are esoteric and have their vehicles in subtler matters still.

75: Có bảy vị Kumara liên hệ với tiến hoá hành tinh của chúng ta, trong đó bốn vị là ngoại hiển; bốn vị ngoại hiển có các vận cụ bằng chất dĩ thái; ba vị Kumara là nội hiển và có các vận cụ bằng chất vi tế hơn nữa.

356. We must question the nature of the etheric matter here referenced. Is DK talking about cosmic etheric matter—the matter of the systemic buddhic, atmic, monadic and logoic planes? If so, the still subtler matter in which the three esoteric Kumaras would have their vehicles could refer to the cosmic astral plane.

356. Chúng ta phải tự hỏi bản chất của chất dĩ thái được nói đến ở đây là gì. Chân sư DK có đang nói về chất dĩ thái vũ trụ —tức chất của các cõi Bồ đề, atma, chân thần và thượng đế hệ thống—hay không? Nếu vậy, chất vi tế hơn nữa, trong đó ba vị Kumara nội hiển có các vận cụ, có thể ám chỉ đến cõi cảm dục vũ trụ.

Sanat Kumara, The Lord of the world, is the representative on earth of the specialized force of the planetary Logos; the other six Kumaras transmit energy from the other six planetary schemes.

Sanat Kumara, Đức Chúa Tể Thế Giới, là đại diện trên địa cầu của mãnh lực chuyên nhất của Hành Tinh Thượng đế; sáu vị Kumara còn lại truyền dẫn năng lượng từ sáu hệ hành tinh còn lại.

357. Are we speaking here of “sacred” schemes, the vehicles of manifestation of the sacred Planetary Logoi? This is not necessarily the case. There are certainly more than “the other six planetary schemes” in relation to the Earth-scheme.

357. Chúng ta đang nói về các hệ “thiêng liêng” chăng, tức các vận cụ biểu lộ của các Hành Tinh Thượng đế thiêng liêng? Điều này không nhất thiết là như vậy. Chắc chắn có nhiều hơn “sáu hệ hành tinh còn lại” liên quan đến hệ Trái Đất.

358. Can it be that the synthesizing schemes are removed from consideration? If so, this would present its own problems, because the elimination of Uranus would deprive the set up of the major seventh ray planet (from the soul perspective).

358. Có thể các hệ hành tinh tổng hợp được loại khỏi sự xét đến? Nếu vậy, điều này lại nảy sinh vấn đề riêng, bởi loại Sao Thiên Vương sẽ làm mất đi hành tinh cung bảy chủ yếu (xét từ góc độ linh hồn).

359. There may be ways in which schemes are combined in such a manner as to represent a particular ray. Venus, Jupiter and Neptune all represent the second ray, and each can claim relationship to the sixth as well.

359. Có những cách kết hợp các hệ hành tinh sao cho chúng biểu trưng cho một cung nhất định. Sao Kim, Sao Mộc và Sao Hải Vương đều biểu trưng cung hai, và mỗi hành tinh cũng có thể nhận quan hệ với cung sáu.

360. What we can gather from this statement is that each Kumara is representative of one of the seven rays, and so are the planetary schemes or combinations of planetary schemes. In some manner not yet disclosed, the “other six Kumaras” each transmits a particular ray energy and is a representative of one (or perhaps more) planetary schemes correlated with the ray energy which it represents.

360. Điều chúng ta có thể rút ra từ phát biểu này là mỗi vị Kumara đại diện cho một trong bảy cung, và các hệ hành tinh hay tổ hợp các hệ hành tinh cũng vậy. Bằng cách nào đó chưa được tiết lộ, “sáu vị Kumara còn lại” mỗi vị truyền dẫn một năng lượng cung riêng và là đại diện của một (hay có lẽ nhiều) hệ hành tinh tương ứng với năng lượng cung mà vị ấy đại diện.

76: S. D., I, 186-189.

76: S. D., I, 186-189.

The second hint I seek to give, lies in the triangle formed by the Earth, Mars and Mercury.

Gợi ý thứ hai mà tôi muốn đưa ra, nằm trong tam giác được tạo bởi Trái Đất, Sao Hỏa và Sao Thủy.

361. Each of these planets is related to an expression of the kundalini energy. The Earth upholds a base of the spine center function within our solar system and is, therefore, must be a repository of systemic kundalini energy. This is not to say that the Earth would be the only repository of this energy.

361. Mỗi hành tinh này liên hệ với một biểu hiện của năng lượng kundalini. Trái Đất đảm trách một chức năng trung tâm đáy cột sống trong hệ mặt trời của chúng ta và, do đó, ắt phải là một kho tàng của năng lượng kundalini hệ thống. Điều này không có nghĩa Trái Đất là kho tàng duy nhất của năng lượng này.

In connection with this triangle, the analogy lies in the fact that Mercury and the centre at the base of the spine in the human being are closely allied. Mercury demonstrates kundalini in intelligent activity, while Mars demonstrates kundalini latent. The truth lies hid in their two astrological symbols.

Liên quan đến tam giác này, phép tương đồng nằm ở chỗ Sao Thủy và trung tâm đáy cột sống trong con người có quan hệ mật thiết. Sao Thủy biểu lộ kundalini trong hoạt động thông tuệ, trong khi Sao Hỏa biểu lộ kundalini tiềm ẩn. Sự thật ẩn tàng trong hai ký hiệu chiêm tinh của chúng.

362. What symbol shall we use for Mars, for we have a choice? The truth in relation to their kundalinic functions is apparently hidden in their symbols. At least such truth is not easily seen—apparently.

362. Chúng ta sẽ dùng ký hiệu nào cho Sao Hỏa, vì chúng ta có lựa chọn? Sự thật liên hệ với các chức năng kundalini của chúng dường như được ẩn giấu trong các ký hiệu của chúng. Ít nhất thì sự thật ấy cũng không dễ thấy—rõ ràng là vậy.

363. The circle in such astrological symbols represents the Spirit which has been (in relation to kundalini) imbedded in matter.

363. Vòng tròn trong các ký hiệu chiêm tinh như thế biểu trưng cho Tinh thần đã (liên quan đến kundalini) được chìm vào vật chất.

364. If the symbol for Mars were the cross over the circle, we could understand that Mars would represent kundalini latent or unexpressed, for the cross of matter would be, as it were, ‘holding down’ the circle of spirit.

364. Nếu ký hiệu của Sao Hỏa là thập giá đặt trên vòng tròn, chúng ta có thể hiểu rằng Sao Hỏa biểu trưng kundalini tiềm ẩn hay chưa biểu lộ, bởi thập giá của vật chất như thể đang ‘đè nén’ vòng tròn của tinh thần.

365. Mars would also be related to that part of kundalini which is represented by “latent fire”.

365. Sao Hỏa cũng sẽ liên hệ với phần kundalini được gọi là “lửa tiềm ẩn”.

366. The symbol for Earth is the cross within the circle, and this would represent a less suppressed state of the kundalini.

366. Ký hiệu của Trái Đất là thập giá trong vòng tròn, và điều này biểu trưng một trạng thái ít bị đè nén hơn của kundalini.

367. In the symbol for Mercury we have the circle of Spirit surmounting the cross and the crescent of conscious receptivity surmounting the circle. In this case the kundalini is liberated and ‘climbing’ intelligently. Mercury, at a point in human evolution beyond the third degree, represents the ajna center from which the rising of kundalini is intelligently directed. As well, the kundalini is said to ‘climb’ in figure-eights. The figure eight is closely associated with Mercury. Hence the aptness, on at least two counts, of Mercury’s association with “kundalini in intelligent activity”.

367. Trong ký hiệu của Sao Thủy, chúng ta có vòng tròn của Tinh thần đặt trên thập giá và vầng trăng lưỡi liềm của tính tiếp thọ có ý thức đặt trên vòng tròn. Trong trường hợp này kundalini được giải phóng và ‘leo’ lên một cách thông tuệ. Sao Thủy, ở một điểm trong tiến hoá con người vượt quá bậc thứ ba, đại diện cho trung tâm ajna từ đó sự dâng lên của kundalini được điều khiển một cách thông tuệ. Đồng thời, nói rằng kundalini ‘leo’ theo hình số tám. Hình số tám liên hệ mật thiết với Sao Thủy. Do đó càng thích đáng hơn nữa, ít nhất trên hai phương diện, khi gán cho Sao Thủy sự liên hệ với “kundalini trong hoạt động thông tuệ”.

368. The other (and more common) glyph for Mars—the circle of Spirit surmounted by an arrow tilted at approximately forty-five degrees may also suggest the fact that kundalini will rise when the time is right.

368. Ký hiệu khác (và thông dụng hơn) cho Sao Hỏa—vòng tròn của Tinh thần đặt dưới mũi tên nghiêng khoảng bốn mươi lăm độ—cũng có thể gợi rằng kundalini sẽ dâng lên khi thời điểm chín muồi.

369. The forty-five degree angle is also the octile (the result of dividing the circle of 360 degrees by eight. Again the eight appears (as in the case of Mercury), not to mention that Mars is the ruler of the eighth sign, Scorpio.

369. Góc bốn mươi lăm độ cũng là bát phân (kết quả của việc chia vòng tròn 360 độ thành tám ). Lại thấy xuất hiện con số tám (như trong trường hợp Sao Thủy), chưa kể rằng Sao Hỏa là chủ tinh của dấu hiệu thứ tám, Hổ Cáp.

370. Another important interpretation of the latency of Mars and the activity of Mercury relates to the latent and active fires of the physical plane.

370. Một diễn giải quan trọng khác về tính tiềm ẩn của Sao Hỏa và tính hoạt động của Sao Thủy liên hệ đến các lửa tiềm ẩn và hoạt động của cõi hồng trần.

371. Mars, the planet of heat, is easily associated with the fires of dense physical matter, the fires of the internal furnaces (though Vulcan would also be an important representative of such fires).

371. Sao Hỏa, hành tinh của nhiệt, dễ liên hệ với các lửa của vật chất đậm đặc, các lửa của các lò lửa nội tại (tuy Vulcan cũng là một đại diện quan trọng của các lửa như vậy).

372. Mercury, a planet closely associated with the etheric body (associated in part with the sign Gemini, which Mercury rules, and with the second decanate of Aquarius which Mercury rules—Aquarius being a sign also associated with the etheric body) and with the third ray of active intelligence, is easily understood as the representative of “active fire” (the fires associated with prana and the etheric body).

372. Sao Thủy, một hành tinh liên hệ chặt chẽ với thể dĩ thái (liên hệ một phần với cung Song Tử, do Sao Thủy cai quản, và với thập độ thứ hai của Bảo Bình do Sao Thủy cai quản—Bảo Bình cũng là một dấu hiệu liên hệ với thể dĩ thái), và với cung ba của trí năng năng động, dễ được hiểu là đại diện cho “lửa hoạt động” (các lửa liên hệ đến prana và thể dĩ thái).

373. From this perspective the two aspects of fire by friction (so much discussed in the foregoing pages) are well understood as represented by Mars and Mercury. The Earth (represented by a symbol which holds a kind of middle place between the symbols for Mars and Mercury) would represent a condition of equilibrised kundalinic energy, midway between latency and intelligent activity. (In fact Earth holds a true midway point between Mars and Venus (Mercury without a crescent Moon atop the circle of spirit).

373. Từ góc nhìn này, hai phương diện của lửa do ma sát (đã được bàn khá nhiều trong những trang trên) được hiểu rõ là do Sao Hỏa và Sao Thủy đại diện. Trái Đất (được biểu trưng bởi một ký hiệu giữ vị trí trung dung nào đó giữa các ký hiệu của Sao Hỏa và Sao Thủy) sẽ biểu trưng một trạng thái quân bình của năng lượng kundalini, ở giữa tiềm ẩn và hoạt động thông tuệ. (Thực vậy, Trái Đất giữ một điểm ở giữa thực sự giữa Sao Hỏa và Sao Kim (Sao Thủy không có vầng trăng lưỡi liềm đặt trên vòng tròn của tinh thần).)

374. We should remember that the Earth is often associated with that which is “of the Earth earthy”, but also with the etheric nature. As well, in the series of triangles recently discussed in relation to the developmental stages of man, the base of the spine center is given as associated with the etheric plane. The symbol for the basal center and the Earth are identical—the cross surrounded by the circle. (cf. EA 78, 25 and TCF 165 and following)

374. Chúng ta nên nhớ rằng Trái Đất thường được liên hệ với cái “thuộc về Đất, chất đất”, nhưng cũng với bản tính dĩ thái. Ngoài ra, trong chuỗi các tam giác được bàn gần đây liên quan đến các giai đoạn phát triển của con người, trung tâm đáy cột sống được cho là liên hệ với cõi dĩ thái. Biểu tượng của trung tâm nền tảng và của Trái Đất là đồng nhất—thập giá được bao quanh bởi vòng tròn. (cf. EA 78, 25 và TCF 165 và tiếp theo)

In transmutation and planetary geometrising, the secret may be revealed.

Trong sự chuyển hoá và hình học hoá ở cấp hành tinh, bí mật có thể được tiết lộ.

375. We have here a most occult hint. The implication is that the energy configurations representative of Mars are transmuted into those representative of Earth. The transmutation continues until the energy configurations representative of Earth are transmuted into those representative of Mercury.

375. Ở đây có một ẩn chỉ hết sức huyền bí. Hàm ý là các cấu hình năng lượng đại diện cho Sao Hoả được chuyển hoá thành các cấu hình đại diện cho Trái Đất. Sự chuyển hoá tiếp diễn cho đến khi các cấu hình năng lượng đại diện cho Trái Đất được chuyển hoá thành những cấu hình đại diện cho Sao Thuỷ.

376. When we read of “planetary geometrizing” we immediately think of the geometrical configurations representative of the various planets (as found in TCF, Charts VI and VIII, 373, 385). There are a number of geometrical hints given in the various representations of the planets. The diagrams for Mars, Earth and Mercury (whether as planetary schemes or planetary chains) are relative explicit and will admit of comparative interpretation—some fine day on which intuitive heroism prevails.

376. Khi chúng ta đọc về “hình học hoá hành tinh” chúng ta lập tức nghĩ tới các cấu hình hình học đại diện cho các hành tinh khác nhau (như thấy trong TCF, Biểu đồ VI và VIII, 373, 385). Có một số gợi ý hình học được đưa ra trong các mô tả khác nhau về các hành tinh. Các sơ đồ cho Sao Hoả, Trái Đất và Sao Thuỷ (dù là như các hệ hành tinh hay các dãy hành tinh) tương đối rõ ràng và sẽ cho phép phép giải thích so sánh—một ngày đẹp trời nào đó khi tinh thần anh dũng trực giác thắng thế.

377. Somehow, the geometries given may be associated with the stages of transmutation characteristic of the influence of each of these planets. Transmutation is most advanced in relation to Mercury (an alchemical planet) and least advanced in relation to Mars. The Earth holds a middle position.

377. Bằng cách nào đó, các hình học được đưa ra có thể gắn với các giai đoạn chuyển hoá đặc trưng cho ảnh hưởng của mỗi hành tinh này. Sự chuyển hoá là tiến bộ nhất nơi Sao Thuỷ (một hành tinh luyện kim thuật) và kém tiến bộ nhất nơi Sao Hoả. Trái Đất giữ vị trí trung gian.

b. The Grand Man of the Heavens. The seven Heavenly Men are the seven centres in the body of the Logos, bearing to Him a relationship identical with that borne by the Masters and Their affiliated groups, to some planetary Logos.

b. Con Người Vĩ Đại của Trời. Bảy Đấng Thiên Nhân là bảy trung tâm trong thân thể của Thượng đế, mang đến Ngài một mối liên hệ đồng nhất với mối liên hệ mà các Chân sư và các nhóm liên hệ của Các Ngài mang đến cho một Hành Tinh Thượng đế nào đó.

378. We are lifting the consideration to the macrocosmic level.

378. Chúng ta đang nâng sự xem xét lên cấp độ Đại thiên địa.

379. By “the seven Heavenly Men”, are meant principally the Heavenly Men of the seven sacred planets, but, of course, there are more than seven Heavenly Men.

379. “Bảy Đấng Thiên Nhân” ở đây chủ yếu là các Đấng Thiên Nhân của bảy hành tinh thiêng liêng, nhưng, dĩ nhiên, có nhiều hơn bảy Đấng Thiên Nhân.

380. The “Masters” here referenced are (at first glance) the Masters to be found working within the ring-pass-not of our Planetary Logos. The hint, however, is interesting for we do not read of our Planetary Logos but of “some” Planetary Logos.

380. “Các Chân sư” được nhắc ở đây (nhìn thoáng qua) là các Chân sư được thấy đang làm việc trong vòng-giới-hạn của Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. Tuy nhiên, ẩn chỉ này thú vị vì chúng ta không đọc thấy Hành Tinh Thượng đế của chúng ta mà là “một” Hành Tinh Thượng đế nào đó.

381. We may presume that not only do the Masters working upon and within our planet have a relation to the Planetary Logos of the Earth-scheme, but, perhaps, to a higher Planetary Logos, related to and yet superior to our Planetary Logos. Candidates for such a superior Planetary Logos would be, for instance, Venus and Saturn, as the Logoi of both of these schemes are closely related to the Planetary Logos of the Earth-scheme.

381. Chúng ta có thể cho rằng không chỉ các Chân sư đang làm việc trên và trong hành tinh của chúng ta có liên hệ với Hành Tinh Thượng đế của hệ Trái Đất, mà, có lẽ, còn với một Hành Tinh Thượng đế cao hơn, liên hệ với và vượt trội Hành Tinh Thượng đế của chúng ta. Ứng viên cho một Hành Tinh Thượng đế thượng đẳng như vậy, chẳng hạn, là Kim Tinh và Thổ Tinh, vì các Thượng đế của cả hai hệ này có liên hệ mật thiết với Hành Tinh Thượng đế của hệ Trái Đất.

382. From another perspective, DK may be hinting that on every planet there are Masters to be found and that these Masters and Their affiliated groups are to be related to that particular Planetary Logos in whose body of manifestation these Masters are functioning.

382. Từ một góc nhìn khác, Chân sư DK có thể đang ẩn chỉ rằng trên mỗi hành tinh đều có thể tìm thấy các Chân sư và rằng các Chân sư này cùng các nhóm liên hệ của Các Ngài phải được đặt vào liên hệ với Hành Tinh Thượng đế đặc thù mà trong thân thể biểu lộ của Ngài các Chân sư đó đang hoạt động.

Systemic kundalini goes forward to the vivification of these centres, and at this stage of development certain centres are more closely allied than others.

Kundalini thuộc hệ mặt trời tiến lên hướng đến việc sinh động hoá các trung tâm này, và ở giai đoạn phát triển này, một số trung tâm mật thiết liên đới với nhau hơn các trung tâm khác.

383. The progress of kundalini within a solar system is analogous to that within man, the microcosm. The centers or chakras are vivified in a particular order according to their relative degree of elevation within the solar system, and according to the monadic ray of the particular Solar Logos in question.

383. Sự tiến triển của kundalini trong một hệ mặt trời là tương tự với sự tiến triển trong con người, tiểu thiên địa. Các trung tâm hay luân xa được sinh động hoá theo một trật tự nhất định tuỳ theo mức độ thăng thượng tương đối của chúng trong hệ mặt trời, và tuỳ theo cung chân thần của Thái dương Thượng đế cụ thể đang xét.

384. It is important for us to fathom the alliances between various of the planets in our solar system. This will be revealed by a close study of the Science of Triangles, systemically considered.

384. Điều quan trọng đối với chúng ta là thấu triệt những liên minh giữa các hành tinh khác nhau trong hệ mặt trời của chúng ta. Điều này sẽ được tiết lộ bởi việc nghiên cứu kỹ Khoa học về Tam Giác, xét trên toàn hệ mặt trời.

Just as in connection with our planetary Logos, the three etheric planets of our chain—Earth, Mercury and Mars77—form a triangle of rare importance,

Cũng như trong liên hệ với Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, ba hành tinh dĩ thái của dãy chúng ta—Trái Đất, Sao Thuỷ và Sao Hoả 77 —hợp thành một tam giác có tầm quan trọng hiếm có,

385. The Tibetan is now (apparently) speaking of the fourth planetary chain of our Earth scheme, the Earth-chain.

385. Chân sư Tây Tạng hiện (dường như) đang nói về dãy hành tinh thứ tư của hệ Trái Đất của chúng ta, tức Dãy Trái Đất.

386. Within that chain, three planets or globes are referred to as “etheric planets”.

386. Trong dãy đó, có ba hành tinh hay bầu được gọi là “các hành tinh dĩ thái”.

387. To call Earth, Mars and Mercury the “three etheric planets of our chain” is, in some ways, a peculiar statement, as the Earth-globe is the one globe in our Earth-chain which actually has a physical globe. In what way, then, is the Earth-globe to be considered “etheric”?

387. Gọi Trái Đất, Sao Hoả và Sao Thuỷ là “ba hành tinh dĩ thái của dãy chúng ta” là, ở một số phương diện, một phát biểu đặc dị, vì bầu Trái Đất là bầu duy nhất trong Dãy Trái Đất của chúng ta vốn thực sự có một bầu hồng trần đậm đặc. Vậy theo cách nào, bầu Trái Đất lại được xem là “dĩ thái”?

388. The Mars and Mercury globes, however, are said to have for their densest sphere an etheric sphere. They have no dense physical body.

388. Tuy nhiên, các bầu Sao Hoả và Sao Thuỷ được nói là có quả cầu đậm đặc nhất là một quả cầu dĩ thái. Chúng không có thể xác đậm đặc.

389. Perhaps we can interpret the fact that the Earth is named as an etheric planet by realizing that the etheric body of any planet is its true physical body. The dense physical body is not considered a principle.

389. Có lẽ chúng ta có thể diễn giải việc Trái Đất được gọi là hành tinh dĩ thái bằng cách nhận ra rằng thể dĩ thái của bất kỳ hành tinh nào mới là thể hồng trần đích thực của nó. Thể xác đậm đặc không được xem là một nguyên khí.

390. There are also chains in our planetary scheme which are called the Earth-chain, Mercury-chain and Mars-chain.

390. Cũng có các dãy trong hệ hành tinh của chúng ta được gọi là Dãy Trái Đất, Dãy Sao Thuỷ và Dãy Sao Hoả.

391. The Earth-chain is the fourth; the Mercury-chain the fifth and the Mars-chain the sixth (cf. TCF 385). In some Theosophical charts, the Mars-globe of the Earth-chain is considered the third and the Mercury-globe the fifth (as indicated above) but this order, apparently, does not extend to the chain level.

391. Dãy Trái Đất là dãy thứ tư; Dãy Sao Thuỷ là dãy thứ năm và Dãy Sao Hoả là dãy thứ sáu (cf. TCF 385). Trong một số biểu đồ Thông Thiên Học, bầu Sao Hoả của Dãy Trái Đất được tính là bầu thứ ba và bầu Sao Thuỷ là bầu thứ năm (như đã chỉ ra ở trên) nhưng trật tự này, dường như, không mở rộng lên cấp dãy.

392. We also remember that Earth and the base of the spine are related to the etheric body.

392. Chúng ta cũng nhớ rằng Trái Đất và trung tâm đáy cột sống có liên hệ với thể dĩ thái.

393. These three planets are of great importance within the solar system because of their direct relation to the kundalini force.

393. Ba hành tinh này có tầm quan trọng lớn trong hệ mặt trời bởi liên hệ trực tiếp của chúng với mãnh lực kundalini.

so it may be here said that at the present point in evolution of the logoic centres,

vì vậy có thể nói rằng ở điểm tiến hoá hiện nay của các trung tâm thuộc Thượng đế,

394. For, indeed, logoic centers or chakras evolve or unfold just as do the centers or chakras of the human microcosm.

394. Quả thật, các trung tâm hay luân xa của Thượng đế tiến hoá hay khai mở cũng như các trung tâm hay luân xa của tiểu thiên địa là con người.

Venus, Earth and Saturn form one triangle of great interest. It is a triangle that is at this time undergoing vivification [182] through the action of kundalini; it is consequently increasing the vibratory capacity of the centres, which are becoming slowly fourth-dimensional.

Kim Tinh, Trái Đất và Thổ Tinh hợp thành một tam giác hết sức đáng chú ý. Đó là một tam giác hiện đang trải qua sự sinh động hoá [182] bởi tác động của kundalini; do đó nó đang gia tăng năng lực rung động của các trung tâm, vốn đang dần trở nên bốn chiều.

395. While, as a triangle, Venus, Earth and Saturn may not represented solar systemic kundalini, the three are undergoing vivification by that kundalini.

395. Dù, xét như một tam giác, Kim Tinh, Trái Đất và Thổ Tinh có thể không đại diện kundalini thuộc hệ mặt trời, ba hành tinh này đang được sinh động hoá bởi kundalini ấy.

396. Microcosmically (i.e., in relation to man), Venus represents the ajna center, Earth the throat (or spleen, or, perhaps, base of the spine) and Saturn the throat.

396. Ở vi mô (tức là, trong tương quan với con người), Kim Tinh đại diện trung tâm ajna, Trái Đất đại diện cổ họng (hoặc lá lách, hoặc, có lẽ, đáy cột sống) và Thổ Tinh đại diện cổ họng.

397. From a solar systemic perspective, Saturn could easily represent the throat, Earth the base of the spine and Venus, the heart. It is ambiguous whether Venus is to be taken as the heart chakra within the chakric expression of the Solar Logos.

397. Từ một góc nhìn hệ mặt trời, Thổ Tinh có thể dễ dàng đại diện cổ họng, Trái Đất đại diện đáy cột sống và Kim Tinh, quả tim. Không rõ ràng liệu Kim Tinh nên được xem như luân xa tim trong biểu hiện các luân xa của Thái dương Thượng đế hay không.

“First. Venus corresponds to the heart centre in the body logoic, and has an inter-relationship therefore with all the other centres in the solar system wherein the heart aspect is the one of greater prominence.

“Thứ nhất. Kim Tinh tương ứng với trung tâm tim trong thân thể của Thượng đế, và do đó có mối liên hệ tương hỗ với tất cả các trung tâm khác trong hệ mặt trời mà ở đó phương diện tim là nổi trội hơn.

Second. Saturn corresponds to the throat centre, or to the creative activity of the third aspect. (TCF 182)

Thứ hai. Thổ Tinh tương ứng với trung tâm cổ họng, hay hoạt động sáng tạo của phương diện thứ ba. (TCF 182)

398. There are other possibilities for Venus; it may very well have more to do with the solar logoic solar plexus that with the heart center, as it is the “home” of the Planetary Logos of the sixth ray.

398. Có những khả thể khác đối với Kim Tinh; rất có thể nó liên quan đến tùng thái dương của Thái dương Thượng đế hơn là với trung tâm tim, vì nó là “ngôi nhà” của Hành Tinh Thượng đế của cung sáu.

399. We have been reading about the meaning of fourth-dimensional rotation in relation to any chakra.

399. Chúng ta đã đọc về ý nghĩa của sự quay bốn chiều liên quan đến bất kỳ luân xa nào.

400. Is DK telling us that Venus, Saturn and Earth as chakras within the Solar Logos are each and all becoming fourth dimensional at this time? This possibility could well be understood of Venus and even of the Earth (as it is, developmentally, passing through a kind of fourth initiation—at least with respect to its fourth chain), but Saturn, though an advanced Logos, has only progressed to the fourth globe of its third chain, and is, thus, not very far unfolded (cf. EA 693) and so the fourth dimensional rotation of Saturn considered as a solar systemic chakra would be unlikely.

400. Có phải Chân sư DK đang nói với chúng ta rằng Kim Tinh, Thổ Tinh và Trái Đất như các luân xa trong Thái dương Thượng đế mỗi luân xa đều đang trở thành bốn chiều vào thời điểm này? Khả thể này có thể hiểu được đối với Kim Tinh và thậm chí cả Trái Đất (vì xét về phương diện phát triển, hành tinh này đang trải qua một loại lần điểm đạo thứ tư—ít ra là đối với dãy thứ tư của nó), nhưng Thổ Tinh, tuy là một Thượng đế tiến bộ, mới chỉ tiến đến bầu thứ tư của dãy thứ ba của nó, và vì vậy, chưa khai mở là bao (cf. EA 693) nên sự quay bốn chiều của Thổ Tinh xét như một luân xa thuộc hệ mặt trời là điều khó có khả năng.

401. In comparing these two triangles, we note that they have Earth in common. Thus Mercury and Mars are to be compared with Venus and Saturn. Mercury has a relation to both Venus and Saturn, and Mars does also (being part of a natural planetary pair with Venus, and belonging with Saturn to the expression of a great third ray Entity). Mercury with Venus is part of the hermaphroditic mind and Mercury and Saturn are both highly mental planets.

401. Khi so sánh hai tam giác này, chúng ta nhận thấy chúng có Trái Đất chung. Do đó Sao Thuỷ và Sao Hoả cần được so sánh với Kim Tinh và Thổ Tinh. Sao Thuỷ có liên hệ với cả hai Kim Tinh và Thổ Tinh, và Sao Hoả cũng vậy (vì là một cặp hành tinh tự nhiên với Kim Tinh, và cùng với Thổ Tinh thuộc biểu hiện của một Thực Thể cung ba vĩ đại). Sao Thuỷ với Kim Tinh là một phần của trí lưỡng tính và Sao Thuỷ cũng như Thổ Tinh đều là các hành tinh có tính trí tuệ cao.

77: The chains of any planetary scheme are frequently called by the names of the seven sacred planets, making the study of the Law of Correspondences easier;

77: Các dãy của bất kỳ hệ hành tinh nào thường được gọi theo tên của bảy hành tinh thiêng liêng, làm cho việc nghiên cứu Định luật Tương ứng trở nên dễ dàng hơn;

402. There is some ease to be gained by this method of naming, but also some confusion, against which the Tibetan warns us later.

402. Phương pháp đặt tên này mang lại phần nào sự dễ dàng, nhưng cũng gây một số lẫn lộn, điều mà sau này Chân sư Tây Tạng cảnh báo chúng ta.

403. It is clear that smaller structures such as globes are related to larger structures such as chains and schemes, and that chains (considered as smaller structures) correspond to schemes considered as greater structures.

403. Rõ ràng là các cấu trúc nhỏ như bầu có liên hệ với các cấu trúc lớn hơn như dãy và hệ, và rằng các dãy (khi được xem là cấu trúc nhỏ hơn) tương ứng với các hệ khi được xem là những cấu trúc lớn hơn.

similarly, the globes of any chain are called by planetary names, as is the case here. There are planetary schemes called Mars and Mercury.

tương tự, các bầu của bất kỳ dãy nào cũng được gọi bằng các tên hành tinh, như trong trường hợp ở đây. Có các hệ hành tinh được gọi là Sao Hoả và Sao Thuỷ.

404. Our task, and it will be a big one, will be to correlate the relationships between the globes, chains and schemes which are called by the same planetary name.

404. Nhiệm vụ của chúng ta, và đó sẽ là một nhiệm vụ lớn, là liên hệ tương ứng giữa các bầu, các dãy và các hệ được gọi cùng một tên hành tinh.

It is not yet permissible to point out others of the great triangles, but as regards the centres, we may here give two hints:

Chưa được phép chỉ ra những tam giác vĩ đại khác, nhưng liên quan đến các trung tâm, ở đây chúng ta có thể đưa ra hai gợi ý:

405. Other great triangles can be intuited. For example: Venus, Jupiter. Neptune: or Saturn, Neptune, Uranus; or Earth, Mars, Pluto.

405. Các tam giác vĩ đại khác có thể được trực giác. Ví dụ: Kim Tinh, Mộc Tinh, Hải Vương Tinh; hoặc Thổ Tinh, Hải Vương Tinh, Thiên Vương Tinh; hoặc Trái Đất, Sao Hoả, Diêm Vương Tinh.

406. The book Esoteric Astrology written later than TCF reveals the existence and nature of quite a number of such triangles.

406. Quyển Chiêm Tinh Học Nội Môn được viết sau TCF tiết lộ sự tồn tại và bản tính của khá nhiều tam giác như vậy.

407. If logic is used we will understand that if any two chakras are taken as a pair, that pair will necessarily be related to every other chakra within the chakra system considered. Thus, within any system of a given number of chakras, every possible triangle must be identified and evaluated for its significance.

407. Nếu dùng lý tính, chúng ta sẽ hiểu rằng nếu bất kỳ hai luân xa nào được lấy thành một cặp, thì cặp đó nhất định sẽ có liên hệ với mọi luân xa khác trong hệ luân xa được xét. Như vậy, trong bất kỳ hệ gồm một số lượng luân xa nhất định, mọi tam giác khả hữu đều phải được nhận diện và đánh giá về thâm nghĩa của nó.

First. Venus corresponds to the heart centre in the body logoic, and has an inter-relationship therefore with all the other centres in the solar system wherein the heart aspect is the one of greater prominence.

Thứ nhất. Kim Tinh tương ứng với trung tâm tim trong thân thể của Thượng đế, và do đó có mối liên hệ tương hỗ với tất cả các trung tâm khác trong hệ mặt trời mà ở đó phương diện tim là nổi trội hơn.

408. There may be a blind concealed here. It seems a very straightforward statement, but what of Jupiter which in the human microcosmic system is related to the heart, whereas Venus is related to the ajna center?

408. Ở đây có thể có một sự che đậy. Có vẻ là một phát biểu rất thẳng thắn, nhưng còn Mộc Tinh thì sao, hành tinh này trong hệ vi mô của con người liên quan đến tim, trong khi Kim Tinh liên quan đến trung tâm ajna?

409. Also, Venus has place within the esoteric quaternary of the Solar Logos. The quaternary is the personality nature, and the chakras ruling any personality nature are always sub-diaphragmatic.

409. Hơn nữa, Kim Tinh có vị trí trong bộ tứ nội môn của Thái dương Thượng đế. Bộ tứ là bản tính phàm ngã, và các luân xa chi phối bất kỳ bản tính phàm ngã nào luôn nằm dưới cơ hoành.

410. It is to be considered whether Venus is to be understood as the ‘heart’ center within the lower chakras of the Solar Logos, among which Mars, Earth and Pluto would be numbered. There is much to associate Venus with the solar plexus center of the Logos, Mars with the sacral, Earth with the splenic center and Pluto with the base of the spine. Venus, then, would be the redeemer of these three planets, and placed in the highest of the sub-diaphragmatic positions relative to them—the position of the solar plexus.

410. Cần cân nhắc liệu Kim Tinh nên được hiểu là ‘trung tâm tim’ trong số các luân xa thấp của Thái dương Thượng đế, trong đó Sao Hoả, Trái Đất và Diêm Vương Tinh sẽ được tính đến. Có rất nhiều điều gắn nối Kim Tinh với trung tâm tùng thái dương của Thượng đế, Sao Hoả với xương cùng, Trái Đất với luân xa lá lách và Diêm Vương Tinh với đáy cột sống. Khi đó, Kim Tinh sẽ là đấng cứu chuộc của ba hành tinh này, và được đặt ở vị trí cao nhất trong các vị trí dưới cơ hoành so với chúng—vị trí của tùng thái dương.

411. Venus almost certainly has a sixth ray Monad:

411. Hầu như chắc chắn Kim Tinh có một Chân thần cung sáu:

“In the sixth Scheme, that of Venus, this can be seen clearly; it is the scheme of love. Viewed from one angle, the Venusian Scheme is the second, and from another it is the sixth. It depends upon whether we reason from the circumference to the centre or the reverse.

“Trong Hệ thứ sáu, tức hệ Kim Tinh, điều này có thể thấy rõ; đó là hệ của Tình thương. Nhìn từ một góc độ, Hệ Kim Tinh là thứ hai, và từ góc độ khác thì là thứ sáu. Nó tuỳ thuộc vào việc chúng ta lý luận từ chu vi về trung tâm hay ngược lại.

It is the home of the planetary Logos of the sixth Ray. This may sound like a contradiction, but it is not so really; we must remember the interlocking, the gradual shifting and changing, that takes place in time on all [596] the Rays. In the same way the Earth chain is the third if viewed from one aspect and the fifth viewed from another.” (TCF 595-596)

Nó là ngôi nhà của Hành Tinh Thượng đế của Cung thứ sáu. Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng thực ra không phải vậy; chúng ta phải nhớ sự đan xen, sự chuyển dịch dần dần và đổi thay, diễn ra theo thời gian trên tất cả [596] các Cung. Tương tự, Dãy Trái Đất là dãy thứ ba nếu nhìn từ một phương diện và là dãy thứ năm nếu nhìn từ phương diện khác.” (TCF 595-596)

The word “home” relates to the Monad, for Uranus (a planet with a first ray Monad—cf. EP I 420)) is called the “home of ‘fire electric’” (TCF 1154)

Từ “ngôi nhà” liên hệ với Chân thần, vì Thiên Vương Tinh (một hành tinh có Chân thần cung một—cf. EP I 420) được gọi là “ngôi nhà của ‘lửa điện’” (TCF 1154)

412. Thus, Venus will certainly be associated in some way with solar plexus function.

412. Do đó, Kim Tinh chắc chắn sẽ được liên kết theo một cách nào đó với chức năng tùng thái dương.

413. We live in an astral-buddhic solar system (TCF 176), and have not yet taken our fourth interim initiation nor cosmic third initiation (cf. TCF 384) Thus, systemically, our heart center cannot be fully developed. Yet Venus, in terms of its unfoldment, is the most developed planet and has already entered the processes of obscuration. This would fit if Venus represented the solar plexus, but not if Venus truly represented the heart center, which will only fully unfold just before the fourth cosmic initiation.

413. Chúng ta đang sống trong một hệ mặt trời Bồ-đề–cảm dục (TCF 176), và vẫn chưa nhận lần điểm đạo trung gian thứ tư cũng như điểm đạo vũ trụ thứ ba (cf. TCF 384). Vậy nên, xét toàn hệ, trung tâm tim của chúng ta không thể phát triển đầy đủ. Thế mà Kim Tinh, xét theo mức độ khai mở của nó, là hành tinh phát triển nhất và đã bước vào tiến trình ám tàng. Điều này sẽ phù hợp nếu Kim Tinh đại diện tùng thái dương, nhưng không phù hợp nếu Kim Tinh thật sự đại diện trung tâm tim, vốn chỉ sẽ khai mở trọn vẹn ngay trước lần điểm đạo vũ trụ thứ tư.

414. The heart center should not be considered related to the logoic quaternary. It is more the organ of soul and of buddhi.

414. Không nên xem trung tâm tim là liên hệ với bộ tứ thuộc Thượng đế. Nó là cơ quan của linh hồn và của Bồ đề hơn.

415. DK uses the word “corresponds” when He speaks of Venus’ relation to the heart center. We have to ask, “In what context does this correspondence apply?” Is the context the entirety of the solar system, or is the context that part of the solar system which can be considered sub-diaphragmatic and part of the solar logoic quaternary?

415. Chân sư DK dùng từ “tương ứng” khi Ngài nói về liên hệ của Kim Tinh với trung tâm tim. Chúng ta phải hỏi, “Trong ngữ cảnh nào sự tương ứng này áp dụng?” Ngữ cảnh là toàn thể hệ mặt trời, hay là phần hệ mặt trời có thể được xem là dưới cơ hoành và thuộc bộ tứ của Thái dương Thượng đế?

Second. Saturn corresponds to the throat centre, or to the creative activity of the third aspect.

Thứ hai. Thổ Tinh tương ứng với trung tâm cổ họng, hay với hoạt động sáng tạo của phương diện thứ ba.

416. With this correspondence there seems to be no difficulty. Saturn is a deeply third ray planet, perhaps in both its soul and monadic nature, and the throat center is a center intimately associated with the third ray.

416. Với sự tương ứng này dường như không có khó khăn. Thổ Tinh là một hành tinh cung ba sâu sắc, có lẽ cả ở cấp linh hồn lẫn chân thần, và trung tâm cổ họng là một trung tâm gắn bó mật thiết với Cung ba.

417. If we for a moment credit Venus as pertaining to the solar logoic heart, then the throat, heart and base of the spine (from one angle) would be the systemic triangle being activated by systemic kundalini. This activation would correspond to man at the mental stage of development.

417. Nếu trong chốc lát chúng ta tạm chấp nhận Kim Tinh thuộc tim của Thái dương Thượng đế, thì cổ họng, tim và đáy cột sống (xét từ một góc) sẽ là tam giác thuộc hệ mặt trời đang được kundalini hệ nhật hệ kích hoạt. Sự kích hoạt này tương ứng với con người ở giai đoạn trí tuệ.

“3. Man controlled from the mental plane.

“3. Con người được kiểm soát từ cõi trí.

a. The base of the spine.

a. Đáy cột sống.

b. The heart.

b. Trái tim.

c. The throat. (TCF 169)

c. Cổ họng. (TCF 169)

418. Yet, our Solar Logos, in one respect, is not entirely controlled from the mental plane, still having much to do to master His emotions (as the battle is being fought out on the fourth subplane of the cosmic astral plane, we are told).

418. Tuy nhiên, Thái dương Thượng đế của chúng ta, xét ở một phương diện, không hoàn toàn được kiểm soát từ cõi trí, còn rất nhiều việc phải làm để làm chủ cảm xúc của Ngài (vì trận chiến đang được tiến hành trên cõi phụ thứ tư của cõi cảm dục vũ trụ, như chúng ta được cho biết).

419. From another perspective, our Logos is a cosmic initiate of the second degree in process of moving towards the third cosmic initiation (cf. TCF 384)

419. Từ một góc nhìn khác, Thượng đế của chúng ta là một điểm đạo đồ vũ trụ bậc hai đang trên đường hướng tới lần điểm đạo vũ trụ thứ ba (cf. TCF 384)

420. When we are told that the Solar Logos, like our Planetary Logos, is “midway through His career upon the cosmic Path of Initiation” what exactly does this mean? Is the midway point between the second and third cosmic initiation the midway point? Midway between the first and fifth cosmic initiations? It seems reasonable, if only the major five initiations are being considered. The Solar Logos, we are told, may take His fifth cosmic initiation in the present solar system.

420. Khi chúng ta được cho biết rằng Thái dương Thượng đế, giống như Hành Tinh Thượng đế của chúng ta, đang “giữa chừng hành trình của Ngài trên Thánh Đạo Điểm Đạo vũ trụ” điều này chính xác có nghĩa là gì? Điểm ở giữa là giữa lần điểm đạo vũ trụ thứ hai và thứ ba? Giữa lần thứ nhất và thứ năm? Có vẻ hợp lý, nếu chỉ xét năm lần điểm đạo chính. Chúng ta được cho biết Thái dương Thượng đế có thể nhận lần điểm đạo vũ trụ thứ năm trong hệ mặt trời hiện tại.

As evolution proceeds, the other centres attain a more pronounced vibration and the fire (circulating triangularly) will bring them into greater prominence; the two above mentioned, however, are of prime importance at this time.

Khi tiến hoá tiếp diễn, các trung tâm khác đạt tới rung động rõ rệt hơn và lửa (luân lưu theo tam giác) sẽ đưa chúng vào vị trí nổi bật hơn; tuy nhiên, hai tam giác nói trên là tối quan trọng vào thời điểm này.

421. Of course, we will have to ask why this should be the case.

421. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ phải hỏi vì sao lại như vậy.

422. Mars, Earth and Mercury could be important because of the upward rising of both latent and active fires (by friction) within our system.

422. Sao Hoả, Trái Đất và Sao Thuỷ có thể quan trọng vì sự dâng lên của cả lửa tiềm ẩn và lửa hoạt động (do ma sát) trong hệ của chúng ta.

423. Venus, Saturn and the Earth may related to the fusing of the third and second aspects of divinity, for Saturn and Earth are much associated with the third ray and Venus with the soft line energy—especially rays two and six.

423. Kim Tinh, Thổ Tinh và Trái Đất có thể liên quan đến sự dung hợp của phương diện thứ ba và thứ hai của Thiêng liêng, vì Thổ Tinh và Trái Đất gắn nhiều với Cung ba còn Kim Tinh với các năng lượng đường mềm—nhất là cung hai và sáu.

424. When we think of Venus, Saturn and the Earth, is it not illuminating to consider Venus, Saturn and Jupiter—the homes (presently) for the three super principles? We can see from the following, why considering Venus, Saturn and Jupiter is not far fetched in this context:

424. Khi chúng ta nghĩ về Kim Tinh, Thổ Tinh và Trái Đất, chẳng phải là sáng tỏ khi xem xét Kim Tinh, Thổ Tinh và Mộc Tinh—những “ngôi nhà” (hiện nay) cho ba siêu nguyên khí sao? Từ đoạn sau, chúng ta có thể thấy vì sao việc xem xét Kim Tinh, Thổ Tinh và Mộc Tinh không hề gượng ép trong ngữ cảnh này:

“We might consider—from the standpoint of the present—that Venus, Jupiter and Saturn might be considered as the vehicles of the three super-principles at this time. Mercury, the Earth and Mars are closely allied to these three, but a hidden mystery lies here. (TCF 299)

“Chúng ta có thể xét— từ lập trường của hiện tại —rằng Kim Tinh, Mộc Tinh và Thổ Tinh có thể được xem như các vận cụ của ba siêu nguyên khí vào lúc này. Sao Thuỷ, Trái Đất và Sao Hoả có liên hệ mật thiết với ba hành tinh kia, nhưng ở đây hàm chứa một huyền bí ẩn kín. (TCF 299)

425. All the planets we have been considering are here represented, with Jupiter taking the place of Earth in the higher triangle.

425. Tất cả các hành tinh chúng ta đang xem xét đều được trình bày ở đây, với Mộc Tinh thay cho Trái Đất trong tam giác cao.

426. In some way the higher triangle may be considered a higher correspondence to the lower. There is no way to know how to arrange the higher three as a number of arrangements are justifiable.

426. Ở một phương diện nào đó, tam giác cao có thể được xem là một tương ứng cao hơn của tam giác thấp. Không có cách nào để biết sắp xếp tam giác cao như thế nào vì có một số cách sắp xếp đều có thể biện minh.

a. Jupiter may represent the monadic principle and the first aspect. We realize how much second ray Jupiter is related to the monadic plane, the second plane counting from above.

a. Mộc Tinh có thể đại diện nguyên khí chân thần và Phương diện thứ nhất. Chúng ta nhận ra Mộc Tinh cung hai liên hệ rất nhiều với cõi chân thần, cõi thứ hai tính từ trên xuống.

b. Venus may represent consciousness and the second aspect

b. Kim Tinh có thể đại diện tâm thức và Phương diện thứ hai

c. Saturn may represent the intelligence aspect, personality—the third aspect (though it could as easily represent the first aspect, though not the second, for which either Jupiter or Venus would have to be chosen)

c. Thổ Tinh có thể đại diện phương diện trí tuệ, phàm ngã—Phương diện thứ ba (dẫu nó có thể đại diện cho phương diện thứ nhất, nhưng không phải phương diện thứ hai, vì phương diện này phải do hoặc Mộc Tinh hoặc Kim Tinh đảm nhiệm)

427. Going with this possible arrangement, then:

427. Theo cách sắp xếp khả hữu này, thì:

a. Mars (representing the lowest aspect of the kundalini) would correspond with Saturn

a. Sao Hoả (đại diện phương diện thấp nhất của kundalini) sẽ tương ứng với Thổ Tinh

b. Earth (representing the middle condition of kundalini) would correspond with Venus.

b. Trái Đất (đại diện tình trạng trung gian của kundalini) sẽ tương ứng với Kim Tinh.

c. Mercury (representing the highest aspect of kundalini—in intelligent activity) would correspond with Jupiter.

c. Sao Thuỷ (đại diện phương diện cao nhất của kundalini—trong hoạt động trí tuệ) sẽ tương ứng với Mộc Tinh.

428. Those who know astrology realize that each of these three correspondences is more than justifiable (though others can be interpreted as valid).

428. Những ai biết chiêm tinh học đều nhận ra rằng mỗi một trong ba mối tương ứng này vượt xa mức hợp lý (dẫu các tương ứng khác cũng có thể được diễn giải như có giá trị).

a. Mars and Saturn are the two “malefics” and relate to the astral body and mental body of a great third ray Entity.

a. Sao Hoả và Thổ Tinh là hai “hung tinh” và liên hệ với thể cảm dục và thể trí của một Thực Thể cung ba vĩ đại.

b. Earth and Venus are “sisters” and closely intertwined. Venus is perhaps the planet most closely related to the Earth.

b. Trái Đất và Kim Tinh là “chị em” và gắn kết chặt chẽ. Có lẽ Kim Tinh là hành tinh liên hệ gần gũi nhất với Trái Đất.

c. Mercury and Jupiter are the two orthodox rulers of the Mutable Cross (exoterically considered).

c. Sao Thuỷ và Mộc Tinh là hai chủ tinh chính thống của Thập Giá Biến đổi (xét ngoại môn).

429. Another valid assignment would see Saturn as representative of the first aspect, Jupiter or the Second, and Venus of the third. It does not seem reasonable to place Venus in the first position or Saturn in the second.

429. Một sự phân công hợp lệ khác sẽ xem Thổ Tinh đại diện Phương diện thứ nhất, Mộc Tinh Phương diện thứ hai, và Kim Tinh Phương diện thứ ba. Có vẻ không hợp lý khi đặt Kim Tinh ở vị trí thứ nhất hay Thổ Tinh ở vị trí thứ hai.

These two, with the lesser triangle of our chain, constitute the focal point of energy viewed from our planetary standpoint.

Hai tam giác này, cùng với tam giác nhỏ hơn của dãy chúng ta, hợp thành điểm hội tụ năng lượng khi nhìn từ lập trường hành tinh của chúng ta.

430. Only one triangle in our planetary chain has been discussed in these pages. Since this triangle is formed of the planets in the three ‘lowest’ positions in our chain, it is reasonable that this is the triangle referenced—the triangle Earth, Mars, Mercury.

430. Chỉ một tam giác trong dãy hành tinh của chúng ta đã được bàn trong các trang này. Vì tam giác này được hình thành từ các hành tinh ở ba vị trí ‘thấp’ nhất trong dãy của chúng ta, nên hợp lý khi cho rằng đây là tam giác được nhắc tới—tam giác Trái Đất, Sao Hoả, Sao Thuỷ.

431. The relationship of Venus and Saturn (two planets of initiation because rulers of Capricorn) are to be related to this lower triangle.

431. Mối liên hệ của Kim Tinh và Thổ Tinh (hai hành tinh của điểm đạo vì là chủ tinh của Ma Kết) cần được đặt vào liên hệ với tam giác thấp hơn này.

432. The inclusion of Jupiter expands the consideration.

432. Việc bao gồm Mộc Tinh mở rộng phạm vi xem xét.

433. When Venus and Saturn are related to the Mars, Earth and Mercury globes of the Earth-chain, the importance of Sanat Kumara is suggested, because if the Great Kumara is related to any two planets, it is to Venus and Saturn. He is the “Lord of Venusian Love” and His name “Sanat” is easily seen as related to Saturn (for He is, as well, the “Ancient of Days”).

433. Khi Kim Tinh và Thổ Tinh được liên hệ với các bầu Sao Hoả, Trái Đất và Sao Thuỷ của Dãy Trái Đất, tầm quan trọng của Sanat Kumara trở nên được gợi lên, vì nếu Đại Kumara liên hệ với bất kỳ hai hành tinh nào, thì đó là Kim Tinh và Thổ Tinh. Ngài là “Chúa Tể Tình Thương Kim Tinh” và tên Ngài “Sanat” cũng dễ dàng thấy là liên hệ với Saturn (vì Ngài cũng là “Đấng Thái Cổ”).

In addition to these some hints in connection with the microcosmic and macrocosmic centres, we might here give the cosmic correspondences at which it is possible to hint.

Ngoài các gợi ý này liên quan đến các trung tâm vi mô và vĩ mô, ở đây chúng ta có thể đưa ra các tương ứng vũ trụ mà có thể được ám chỉ đến.

434. The Tibetan must, at this time, be satisfied with hinting at these stupendous matters. It is not allowed to tell all, but it is allowed to drop those seed-hints which may assist in the evocation of the intuition of His students.

434. Hiện tại Chân sư Tây Tạng phải hài lòng với việc chỉ gợi ý về những vấn đề khổng lồ này. Không được phép nói hết thảy, nhưng được phép gieo những hạt-gợi-ý có thể trợ giúp đánh thức trực giác của các môn sinh của Ngài.

The Cosmos. Our solar system, with the Pleiades and one of the stars of the Great Bear, form a cosmic triangle, or an aggregation of three centres in the Body of HIM OF WHOM NAUGHT MAY BE SAID.

Vũ trụ. Hệ mặt trời của chúng ta, cùng với Pleiades và một trong những ngôi sao của chòm Đại Hùng, hợp thành một tam giác vũ trụ, hay một tập hợp của ba trung tâm trong Thân thể của ĐẤNG BẤT KHẢ TƯ NGHỊ.

435. This is a stupendous hint. From the first we have a scale problem. We are given a combination of two stars and constellation of stars.

435. Đây là một ẩn chỉ khổng lồ. Trước hết chúng ta gặp vấn đề về quy mô. Chúng ta được trao một tổ hợp gồm hai ngôi sao và một chòm sao.

436. When DK speaks of the Pleiades, what does He mean—the entirety of that great cluster of hundreds of stars, or only the seven stars with which we are familiar—the Seven Sisters? Depending on what He wants to say, He could mean both.

436. Khi Chân sư DK nói về Pleiades, Ngài muốn nói gì—toàn bộ quần tinh vĩ đại gồm hàng trăm ngôi sao ấy, hay chỉ bảy ngôi sao quen thuộc—Bảy Chị Em? Tuỳ theo điều Ngài muốn nói, cả hai cách đều có thể.

437. If he is considering the entirety of the Pleiades, then He is speaking of the entire “Central Spiritual Sun” cosmically considered (at least within our local cosmo-system). In this case:

437. Nếu Ngài đang xét toàn bộ Pleiades, thì Ngài đang nói về toàn thể “Mặt trời Tinh thần Trung Ương” xét ở cấp vũ trụ (ít ra trong hệ vũ trụ cục bộ của chúng ta). Trong trường hợp này:

a. The Pleiades would represent the crown center of that Great Being—the One About Whom Naught May Be Said

a. Pleiades sẽ đại diện cho trung tâm nghìn cánh của Đại Hữu Thể đó—Đấng Bất Khả Tư Nghị

b. One of the stars in the Great Bear would probably be that star within the seven head centers (the “Greater Seven”) of the OAWNMBS correlated to the heart center.

b. Một trong những ngôi sao của chòm Đại Hùng có lẽ sẽ là ngôi sao trong bảy trung tâm đầu (theo nghĩa “Bảy Lớn”) của Đấng Bất Khả Tư Nghị tương ứng với trung tâm tim.

c. Our solar system would represent the heart center within the “Lesser Seven”

c. Hệ mặt trời của chúng ta sẽ đại diện cho trung tâm tim trong “Bảy Nhỏ”.

d. This arrangement has much to recommend it.

d. Sự sắp xếp này có nhiều điều đáng tán đồng.

438. There is a reference in the teaching where one of the stars in the Great Bear and one of the stars in the Pleiades are seen in relation to our Earth. This relation is, where our Earth is concerned, the source of cosmic evil. (cf. TCF 990)

438. Có một tham chiếu trong giáo lý nơi một trong những sao của chòm Đại Hùng và một trong những sao của Pleiades được thấy trong liên hệ với Địa Cầu của chúng ta. Mối liên hệ này, xét với Trái Đất của chúng ta, là nguồn cội của ác lực vũ trụ. (cf. TCF 990)

439. But now we are not speaking of the Earth but of our solar system as an entirety.

439. Nhưng lúc này chúng ta không nói về Trái Đất mà nói về hệ mặt trời của chúng ta như một toàn thể.

440. It is possible, however, that one of the stars in the Great Bear and another star in the Pleiades are more closely related to our particular Solar Logos than to any of the other six brother-Logoi contained within the Seven Solar Systems of Which Ours is One.

440. Tuy nhiên, có khả năng là một ngôi sao trong chòm Đại Hùng và một ngôi sao khác trong Pleiades có liên hệ mật thiết hơn với Thái dương Thượng đế của chúng ta so với bất kỳ sáu Thượng đế huynh đệ nào khác thuộc Bảy Hệ Mặt Trời mà Hệ của Chúng ta là Một.

441. In any case, our Solar Logos and his solar system are as a heart chakra in a great Being—one of the Ones About Whom Naught May Be Said.

441. Dù sao đi nữa, Thái dương Thượng đế của chúng ta và hệ mặt trời của Ngài như một luân xa tim trong một Đại Hữu Thể— một trong các Đấng Bất Khả Tư Nghị.

442. However many ways we might find to relate all three of these Beings (Great Bear, Pleiades and our solar system) in their entirety or according to various of their parts, it does seem as if the Pleiades (as an entirety or at least as a septenate) is here indicated.

442. Cho dù chúng ta có thể tìm ra bao nhiêu cách để liên hệ cả ba Hữu Thể này (Đại Hùng, Pleiades và hệ mặt trời của chúng ta) như những toàn thể hay theo các bộ phận khác nhau của chúng, có vẻ như Pleiades (như một toàn thể hay ít nhất như một thất phân) được chỉ thị ở đây.

443. Such being the case, it is probably best to consider the three as representing three different levels in the chakric hierarchy of the One About Whom Naught May Be Said:

443. Như vậy, có lẽ tốt nhất là xem ba Hữu Thể này như đại diện cho ba cấp khác nhau trong hệ phân cấp luân xa của Đấng Bất Khả Tư Nghị:

a. The thousand petalled lotus of the OAWNMBS

a. Hoa sen nghìn cánh của Đấng Bất Khả Tư Nghị

b. A head center within the head of the OAWNMBS—thus within the “Greater Seven”

b. Một trung tâm đầu trong phần đầu của Đấng Bất Khả Tư Nghị—như vậy là trong “Bảy Lớn”

c. A chakra (the heart charka) within one of the chakras of the OAWNMBS—thus, a chakra within a chakra to be found within the “Lesser Seven”.

c. Một luân xa (luân xa tim) trong một trong các luân xa của Đấng Bất Khả Tư Nghị—như vậy là một luân xa trong một luân xa được tìm thấy trong “Bảy Nhỏ”.

444. Obviously, we have not exhausted the possibilities within this hint, but have offered some lines of interpretation that can be pondered—for a few lives!

444. Rõ ràng, chúng ta chưa khai thác hết các khả thể trong ẩn chỉ này, nhưng đã đưa ra vài hướng diễn giải để có thể chiêm nghiệm—trong vài kiếp sống!

The seven stars in the constellation of the Great Bear are the correspondences to the seven head centres in the body of that Being, greater than our Logos.

Bảy ngôi sao trong chòm Đại Hùng là các tương ứng với bảy trung tâm đầu trong thân thể của Hữu Thể vĩ đại hơn Thượng đế của chúng ta.

445. DK is very careful with His wording. There are of course many Beings greater than our Logos. DK is speaking of one particular Being, probably the greater of two Ones About Whom Naught May Be Said (a Being who has constellations as chakras—cf. TCF 293)

445. Chân sư DK rất thận trọng trong cách dùng từ. Dĩ nhiên có nhiều Hữu Thể lớn hơn Thượng đế của chúng ta. Chân sư đang nói về một Hữu Thể cụ thể, có lẽ là vị lớn hơn trong hai Đấng Bất Khả Tư Nghị (một Hữu Thể có các chòm sao làm luân xa—cf. TCF 293)

446. The piece of information being conveyed is of great importance. The stars in the Great Bear are being linked to the seven major head centers in the One About Whom Naught May Be Said. These seven correspond to the “Greater Seven” in the human being (cf. Rule VIII for Applicants).

446. Mảnh thông tin đang truyền đạt có tầm quan trọng lớn. Các ngôi sao trong chòm Đại Hùng đang được liên kết với bảy trung tâm đầu lớn của Đấng Bất Khả Tư Nghị. Bảy trung tâm này tương ứng với “Bảy Lớn” trong con người (cf. Quy luật VIII dành cho Ứng viên).

447. According to an excellent book called Layayoga by Shyam Sundar Goswami, these head centers (the “Greater Seven” as DK refers to them—cf. R&I 21), are located between the ajna center and the crown center (with the ajna and crown forming the boundaries of the major head centers). These centers protrude in front of the forehead and on top of the dome of the head, and are not within the head at all.

447. Theo một quyển sách xuất sắc mang tên Layayoga của Shyam Sundar Goswami, các trung tâm đầu này (“Bảy Lớn” như Chân sư DK gọi—cf. R&I 21), nằm giữa trung tâm ajna và trung tâm nghìn cánh (với ajna và nghìn cánh tạo thành ranh giới của các trung tâm đầu lớn). Các trung tâm này lồi ra phía trước trán và trên đỉnh đầu, và hoàn toàn không nằm bên trong đầu.

Again, two other systems, when allied with the solar system and the Pleiades, make a lower quaternary which are eventually synthesised into the seven head centres in much the same way as in the human being after the fourth initiation.

Lại nữa, khi kết hợp với hệ mặt trời và Pleiades, hai hệ thống khác hợp thành một bộ tứ thấp hơn vốn rốt cuộc sẽ được tổng hợp vào bảy trung tâm đầu tương tự như nơi con người sau lần điểm đạo thứ tư.

[183]

[183]

1. The base of the spine.

1. Đáy cột sống.

2. The solar plexus.

2. Tùng thái dương.

3. The heart.

3. Trái tim.

4. The throat.

4. Cổ họng.

448. We are receiving some profound cosmic hints which will naturally elude complete interpretation at this point in our understanding.

448. Chúng ta đang nhận một số ẩn chỉ vũ trụ thâm sâu vốn, tự nhiên, sẽ lẩn tránh sự diễn giải trọn vẹn vào thời điểm trình độ hiểu biết hiện nay của chúng ta.

449. The word “systems” is elusive and ambiguous. We do not know whether it refers specifically to solar systems or to constellations. It would be justifiable to refer to either.

449. Từ “hệ thống” mơ hồ và đa nghĩa. Chúng ta không biết liệu nó chỉ cụ thể đến các hệ mặt trời hay đến các chòm sao. Dùng cách hiểu nào cũng có thể biện minh.

450. The quaternary listed is not a lower quaternary.

450. Bộ tứ liệt kê không phải là bộ tứ thấp hơn.

451. We remember that there are five centers which correlate with the five systemic planes (or five bodies) of an entity.

451. Chúng ta nhớ rằng có năm trung tâm tương quan với năm cõi (hay năm thể) hệ nhật hệ của một hữu thể.

a. Base of spine, the etheric plane

a. Đáy cột sống, cõi dĩ thái

b. Solar plexus, the astral plane

b. Tùng thái dương, cõi cảm dục

c. Throat center, the mental plane

c. Cổ họng, cõi trí

d. Heart center, the buddhi plane

d. Trái tim, cõi Bồ đề

e. As given in the earlier context referred to, the thousand petalled lotus corresponds to the atmic plane

e. Như đã nêu trong ngữ cảnh trước đó, hoa sen nghìn cánh tương ứng với cõi atma

452. So, when considering the two other systems, we may be looking for either solar systems or constellational systems.

452. Vậy nên, khi xét hai hệ thống khác, chúng ta có thể đang tìm kiếm hoặc các hệ mặt trời hoặc các hệ chòm sao.

453. The Pleiades (if limited to the Seven Sisters) can be seen as related to the throat center. Our solar system is a kind of heart center. We will need two other solar systems which have been hypothesized as the system of Fomalhaut and Vega). There are good reasons both for and against this hypothesis. Fomalhaut is a “Royal Star”, and one may question whether it should be considered one of the Seven Solar Systems of Which Ours is One. Its distance of some twenty-five light years from our Sun may be too great, as may be the similar distance of Vega from the Sun. But all of this is uncertain.

453. Pleiades (nếu giới hạn vào Bảy Chị Em) có thể được xem là liên hệ với trung tâm cổ họng. Hệ mặt trời của chúng ta là một loại trung tâm tim. Chúng ta sẽ cần hai hệ mặt trời khác, vốn đã được giả thuyết là Fomalhaut và Vega. Có những lý do tốt hỗ trợ cũng như phản bác giả thuyết này. Fomalhaut là một “Ngôi sao Hoàng gia”, và người ta có thể tự hỏi liệu nó có nên được xem là một trong Bảy Hệ Mặt Trời mà Hệ của Chúng ta là Một hay không. Khoảng cách chừng hai mươi lăm năm ánh sáng của nó tới Mặt Trời của chúng ta có thể là quá lớn, như khoảng cách tương tự của Vega tới Mặt Trời cũng vậy. Nhưng tất cả điều này đều bất định.

454. Probably within our local stellar surroundings there are two stars related to our solar system—these two representing a solar plexus center and a base of the spine center, with our Sun representing a heart center.

454. Có lẽ trong vùng sao địa phương của chúng ta có hai ngôi sao liên hệ với hệ mặt trời của chúng ta—hai ngôi sao này đại diện cho một trung tâm tùng thái dương và một trung tâm đáy cột sống, còn Mặt Trời của chúng ta đại diện cho trung tâm tim.

455. If we work on the constellational level, then our “solar system” must be considered a seven-starred Sirian system (including seven major stars). It is our “system” of seven suns that would represent the solar plexus within the greater Being. The base of the spine would be a combination of the Southern Cross and Draco, and the. The heart center is hypothesized by some to be Orion. The Pleiades as a whole would be the entirety of the head center (with the zodiacal constellations as the twelve petals of the major twelve-petalled head center)

455. Nếu chúng ta làm việc ở cấp chòm sao, thì “hệ mặt trời” của chúng ta phải được xem là một hệ Sirius bảy sao (bao gồm bảy ngôi sao chính). “Hệ” bảy mặt trời của chúng ta sẽ đại diện cho tùng thái dương trong Hữu Thể vĩ đại hơn. Trung tâm đáy cột sống sẽ là một kết hợp của chòm Thập Tự Nam và Thiên Long, và… Trung tâm tim được một số người giả thuyết là chòm Orion. Pleiades như một toàn thể sẽ là toàn thể của trung tâm đầu (với các chòm hoàng đạo như mười hai cánh của trung tâm đầu mười hai cánh chủ yếu)

456. I think we can see how far we have to go before any certainty on these matters is possible for us.

456. Tôi nghĩ chúng ta có thể thấy mình còn phải đi rất xa trước khi có bất kỳ sự chắc chắn nào về những vấn đề này.

The sevenfold head centre in its turn finds ultimate expression in the gorgeous twofold centre above the top of the head and surrounding it.

Trung tâm đầu thất phân đến lượt nó tìm được sự biểu lộ tối hậu trong trung tâm nhị phân rực rỡ nằm phía trên đỉnh đầu và bao quanh nó.

457. Cosmically considered, this “gorgeous twofold centre” necessarily includes the twelve zodiacal constellations, and, according to present hypothesis, the entirety of the Pleiades. The greatest head center is twofold.

457. Xét ở cấp vũ trụ, “trung tâm nhị phân rực rỡ” này tất nhiên bao gồm mười hai chòm hoàng đạo, và, theo giả thuyết hiện nay, toàn thể Pleiades. Trung tâm đầu vĩ đại nhất là nhị phân.

Equally so, beyond the above named constellations is still another cosmic centre. The name of this centre is one of the secrets of the final initiation, the seventh.

Tương tự như vậy, vượt ra ngoài các chòm sao vừa được nêu còn có một trung tâm vũ trụ khác. Tên của trung tâm này là một trong các bí nhiệm của lần điểm đạo chung cuộc, lần thứ bảy.

458. The constellations named in the immediately foregoing pages are the Pleiades and the Great Bear. The Pleiades (in their entirety) may be considered the hub of the local cosmic wheel, and the major vehicle for the One About Whom Naught May Be Said (that local Cosmic Lord Who has constellations for His chakras).

458. Các chòm sao được nêu ở ngay các trang trước là Pleiades và Đại Hùng. Pleiades (như một toàn thể) có thể được xem là trục của bánh xe vũ trụ cục bộ, và là vận cụ chính cho Đấng Bất Khả Tư Nghị (vị Chúa Tể Vũ Trụ cục bộ có các chòm sao làm luân xa của Ngài).

459. But what of that Being who has OAWNMBSs for its chakras. No such being is listed in the important tabulation on TCF 293, but on the Chart on p. 344, a “Cosmic Parabrahm” is given—the highest triangle on the highest cosmic plane.

459. Nhưng còn Hữu Thể có các Đấng Bất Khả Tư Nghị làm luân xa của mình thì sao. Không có vị nào như vậy được liệt kê trong bảng quan trọng ở TCF 293, nhưng trên Biểu đồ ở tr. 344, có nêu một “Parabrahm Vũ Trụ”—tam giác cao nhất trên cõi vũ trụ cao nhất.

460. The position of this Cosmic Parabrahm would fit correspondentially with the fact of “Resurrection” at the time of the seventh initiation.

460. Vị trí của Parabrahm Vũ Trụ này sẽ tương hợp tương ứng với thực tại “Phục Sinh” vào thời điểm của lần điểm đạo thứ bảy.

461. What such a Being may be we have no idea, but it can be presumed that its centers would be star clusters or aggregations of many constellations. A deep study of astronomy would be required of us should we have even some idea of possible candidates for this Super-OAWNMBS—a Cosmic Parabrahm.

461. Vị Hữu Thể như vậy là gì chúng ta không hề có ý niệm, nhưng có thể suy rằng các trung tâm của Ngài sẽ là các quần tinh hay tập hợp của nhiều chòm sao. Một sự học hỏi sâu về thiên văn học sẽ được đòi hỏi nơi chúng ta nếu muốn có dù chỉ một ý niệm nào đó về các ứng viên khả hữu cho vị Siêu-Đấng Bất Khả Tư Nghị này—một Parabrahm Vũ Trụ.

462. The study of OAWNMBSs takes us to the cosmic monadic plane. The study of the Super-Being here hinted takes us to the cosmic logoic plane. Such planes are merely names to us and any approach to them must be analogic and inferential at best.

462. Việc nghiên cứu các Đấng Bất Khả Tư Nghị đưa chúng ta tới cõi chân thần vũ trụ. Việc học về Siêu-Hữu Thể được ẩn chỉ ở đây đưa chúng ta tới cõi logoic vũ trụ. Những cõi như thế chỉ là danh xưng đối với chúng ta và bất kỳ tiếp cận nào tới đó cũng chỉ có thể là mang tính tương đồng và suy luận mà thôi.

These are the only correspondences that may as yet be imparted. What lies beyond the solar ring-pass-not may be of intellectual interest,78 [S. D., I, 545, 726; II, 581, 582, 654] but, for the purposes of microcosmic evolution it is a matter of no vast import.

Đây là những tương ứng duy nhất hiện còn có thể được truyền đạt. Những gì nằm bên ngoài vòng-giới-hạn của hệ mặt trời có thể có tính lý thú về mặt trí tuệ, 78 [S. D., I, 545, 726; II, 581, 582, 654] nhưng, đối với mục đích của sự tiến hoá vi mô, thì không phải là điều hệ trọng lớn lao.

463. When speaking of these matters we are clearly “way out there”—beyond what for us is the beyond. Astronomers may go there with ease, but those who are looking for the psychological and qualitative meaning of such great Entities may not proceed. Too little is known, even of our Solar Logos and of the relatively ‘local’ Constellational Deities of the twelve zodiacal constellations.

463. Khi nói về những vấn đề này, rõ ràng là chúng ta đang “ra rất xa”—vượt ra ngoài cái vốn đã là vượt ngoài đối với chúng ta. Các nhà thiên văn có thể tới đó dễ dàng, nhưng những ai đang tìm kiếm ý nghĩa tâm lý và phẩm tính của các Hữu Thể vĩ đại như vậy thì không thể tiến xa. Quá ít điều được biết, ngay cả về Thái dương Thượng đế của chúng ta và các Vị Thần thuộc chòm sao tương đối ‘cục bộ’ của mười hai chòm hoàng đạo.

464. It is, after all, microcosmic evolution with which we must be concerned as there is so much to be done in this rather limited field. After great imaginative and intellectual extensions into incomprehensible spheres, we must return to where we are (apparently) and solve the problems related to our present sphere of limitation.

464. Sau cùng, chính sự tiến hoá vi mô mới là điều chúng ta phải quan tâm vì còn rất nhiều điều phải làm trong lĩnh vực khá hạn chế này. Sau những mở rộng mang tính tưởng tượng và trí năng vào các cảnh giới bất khả tri, chúng ta phải quay về nơi chúng ta đang ở (bề ngoài) và giải quyết các vấn đề liên quan đến cảnh giới giới hạn hiện tại của mình.

Scroll to Top