Chia Sẻ Ánh sáng – Tập II – Phần 13.3

SECTION 13–3

174

Theosophy for the Lawyer—Thông Thiên Học cho Giới Luật Gia

Human law, in its impersonality, impartiality and strict justice, like mathematics, is a most direct expression on earth of the Divine in the Cosmos. For the highest possible definition of God is as the Principle of immutable Law under which all things great and small, macrocosmic and microcosmic, are conceived, made manifest, densified to the deepest degree, polished, perfected and finally withdrawn. In the Macrocosm all is law and law is all. This is the highest, noblest idea of God and ideal of Divinity. God is immutable Law.

Luật pháp nhân loại, trong tính vô tư, vô ngã và công minh nghiêm cẩn của mình, cũng như toán học, là một biểu hiện trực tiếp nhất trên đất này của Điều Thiêng liêng trong Vũ trụ. Vì định nghĩa tối cao khả dĩ về Thượng đế là với tư cách Nguyên lý của Định luật bất biến, dưới đó mọi điều lớn nhỏ, đại thiên địa và tiểu thiên địa, đều được hoài thai, biểu hiện, đậm đặc hóa đến mức sâu nhất, được mài giũa, hoàn thiện rồi sau cùng thu hồi. Trong Đại thiên địa, tất cả là luật và luật là tất cả. Đây là ý niệm tối thượng, cao quý nhất về Thượng đế và về Thiên tính. Thượng đế là Định luật bất biến.

Energy, Life, Intelligence, Form are the bases of Creation. Their existence, emergence, full manifestation and withdrawal occur under the absolute rule of perfect Law.

Năng lượng, Sự sống, Trí tuệ, Hình tướng là các nền tảng của Sáng Tạo. Sự hiện hữu, xuất lộ, biểu hiện trọn vẹn và thu hồi của chúng diễn ra dưới sự cai quản tuyệt đối của Định luật toàn hảo.

The lawmaker and legalist on earth, mundane in effect though their activities may appear, therefore follow a divine occupation. Human law mirrors divine law. The man of law is an agent of that law. The touch of heaven rests upon the miscalled dry-as-dust procedure of the administration of the law.

Nhà lập pháp và người làm công tác pháp luật nơi trần thế, dẫu hiệu quả dường như phàm tục, kỳ thực đang theo đuổi một nghề nghiệp thiêng liêng. Luật nhân loại phản chiếu Định luật thiêng liêng. Người làm luật là một khí cụ của Định luật ấy. Dấu ấn của trời cao phảng phất trên cái thủ tục bị lầm gọi là khô khan như bụi bặm của việc hành xử luật pháp.

One part of the purpose of Cosmic Laws is to produce perfected human beings. This objective of Cosmos should ever be remembered by human administrators of law. The real purpose of protective laws is less to punish and more to perfect, less to restrain and more to redirect, never to crush, always to elevate.

Một phần mục tiêu của các Định luật Vũ trụ là sản xuất ra những con người hoàn thiện. Mục tiêu này của Đại vũ trụ nên luôn được các nhà quản trị luật pháp nhân loại ghi nhớ. Mục đích đích thực của các luật bảo vệ là ít để trừng phạt mà nhiều để hoàn thiện, ít để kiềm chế mà nhiều để chuyển hướng, không bao giờ để nghiền nát, luôn luôn để nâng cao.

The function of law, international, national and civil is to establish on earth the divine Order, to guide humanity in perfect living, to educate the individual in self control and right relationship with his fellows, and to establish flexible but firm foundations for civilisation.

Chức năng của luật pháp, quốc tế, quốc gia và dân sự, là thiết lập trên địa cầu Trật tự thiêng liêng, dẫn dắt nhân loại đến đời sống toàn hảo, giáo dục cá nhân về tự chủ và mối tương liên đúng với đồng loại, và thiết lập những nền tảng vững chắc nhưng uyển chuyển cho nền văn minh.

The justice of man, therefore, whilst exact, should always be administered with the supreme and sublime purpose for human existence in view. The honest citizen is protected, the dishonest restrained and the deliberately criminal punished and segregated, always to the end of the production of a finer type of man. That is the acid test of the value, and even the validity, of any law, as of the work of any and all of its administrators.

Bởi vậy, công lý của con người, dù chuẩn xác, cũng luôn nên được thi hành với tầm nhìn về mục đích tối thượng và cao cả của sự hiện hữu nhân sinh. Người công dân lương thiện được bảo hộ, kẻ bất lương bị kiềm chế, và kẻ cố ý phạm tội bị trừng phạt và cách ly, nhưng luôn luôn là nhằm sản sinh một mẫu người cao đẹp hơn. Đó là phép thử bằng “thuốc thử axit” đối với giá trị, và thậm chí tính hiệu lực, của bất kỳ luật nào, cũng như đối với công việc của mọi nhà quản trị luật pháp.

Parliaments in session, Justices in office, Magistrates on the bench, detectives and police, all the personnel of the law, ideally should be guided by a sense of impartial and impersonal justice and a recognition of their larger and less mundane function of servants of the souls of men, each a pilgrim journeying towards perfection under absolute Law.

Nghị viện trong khóa họp, Thẩm phán tại vị, thẩm quyền ngồi ghế xét xử, điều tra viên và cảnh sát, toàn bộ nhân sự của ngành luật pháp, theo lý tưởng, nên được dẫn dắt bởi cảm thức công lý vô tư vô ngã và sự nhận biết về chức năng lớn lao, ít phàm tục của họ như là những người phụng sự cho linh hồn con người, mỗi người là kẻ lữ hành đang tiến về sự toàn thiện dưới Định luật tuyệt đối.

The penal aspect of human law presents the greatest difficulty in adhering to this ideal. Human feelings are inevitably involved. Justice becomes less impartial in the degree in which emotion is aroused and involved. This tends to be especially true, both of those who suffer at the hands of the criminal, susceptible as they are to the desire for vengeance, and of those prison workers upon whom the responsibility for fulfilling the decrees of justice and maintaining prison discipline devolves. Because the difficulty is here most critical, here also should be the greatest care in the training and selection of such officers. The spirit of vengeance, the infliction of cruelty, the undue application of disciplinary measures are contrary both to the spirit of impartial justice and to the well being and progress of the indicted and sentenced criminal. It is here, at the present stage of human evolution, that human law most frequently fails in both purposes. It is here, therefore, that reform is most needed. Parliaments in session, Justices in office, the Statutes of a Nation should approach most nearly that strict and impartial justice which is the ideal. The ultimate agents, the men and women responsible for the hourly carrying out of sentences, can if wrongly trained be farthest away from that ideal.

Phương diện hình phạt của luật pháp nhân loại là nơi gặp khó khăn lớn nhất khi bám sát lý tưởng này. Tình cảm con người tất yếu bị cuốn vào. Công lý trở nên bớt vô tư ở mức độ cảm xúc bị khơi dậy và liên can. Điều này đặc biệt đúng, cả với những người chịu đau khổ vì hành vi tội phạm—những người dễ bị cám dỗ bởi ham muốn báo thù—lẫn với các nhân viên trại giam mà trách nhiệm thi hành phán quyết và duy trì kỷ luật nhà tù đặt nặng trên vai họ. Vì khó khăn ở đây là chí điểm, nên ở đây cũng cần sự cẩn trọng lớn nhất trong đào tạo và chọn lựa nhân sự. Tinh thần báo thù, sự gây tàn nhẫn, việc áp dụng quá mức các biện pháp kỷ luật, đều trái với tinh thần của công lý vô tư và trái với sự an sinh, tiến bộ của người bị truy tố và kết án. Ở đây, tại trình độ tiến hóa hiện thời của con người, luật pháp nhân loại thường thất bại nhất trong cả hai mục tiêu. Bởi vậy, ở đây là nơi cải cách cần kíp nhất. Nghị viện trong khóa họp, các vị Thẩm phán tại vị, Bộ luật của một quốc gia nên đạt đến gần nhất mức công lý nghiêm minh và vô tư là lý tưởng. Những tác nhân sau cùng, những người nam nữ chịu trách nhiệm thi hành phán quyết theo từng giờ, nếu được đào tạo sai, có thể là những người xa rời lý tưởng ấy nhất.

Under Cosmic Law, penalties for crimes are always meticulously exact in their appropriateness to the crime. There is no faintest possibility under the natural Law of Cause and Effect of the slightest injustice to any man. Furthermore, since in this realm also Administrators are appointed, the spiritual progress of the victim of law in its corrective aspect is never ignored. Quite the contrary; it is the one guiding principle of all those Intelligences who, embodying the principle of Law, are responsible for its application to human action.

Theo Định luật Vũ trụ, hình phạt cho tội lỗi luôn chuẩn xác đến mức tỉ lệ hoàn toàn với tội lỗi. Không một khả năng nhỏ nhất nào về bất công đối với bất kỳ ai có thể xảy ra theo Định luật Tự nhiên của Nhân và Quả. Hơn nữa, vì trong cảnh giới này cũng có các Đấng Quản trị được bổ nhiệm, sự tiến bộ tinh thần của người chịu luật trong phương diện sửa sai không bao giờ bị bỏ qua. Trái lại, đó chính là nguyên tắc chỉ đạo duy nhất của tất cả các Trí Linh, những Đấng hiện thân cho nguyên lý của Định luật, đang chịu trách nhiệm áp dụng Định luật ấy vào hành vi của con người.

Chiefly by extension over long periods, but also by the processes of delay and precipitation at unfavourable and favourable occasions respectively, and also by balancing carefully beneficent with adverse reactions from previous actions, these Intelligences secure strict justice for every human being, and at the same time the greatest possible measure of education and therefore evolutionary assistance. The beneficent results of worthy conduct, noble deeds and unselfish actions are similarly permitted expression in forms and in times when the greatest possible evolutionary benefit will be gained from them.

Chủ yếu là bằng cách trải dài theo những chu kỳ lâu dài, nhưng cũng bằng những tiến trình trì hoãn và làm ngưng kết vào những thời điểm bất lợi và thuận lợi tương ứng, và bằng cách cân đối cẩn trọng các phản ứng lợi lạc với các phản ứng bất lợi từ những hành vi trước đó, các Trí Linh ấy bảo đảm công lý nghiêm minh cho mọi con người, đồng thời mang lại mức giáo hóa lớn nhất khả hữu và vì vậy trợ lực nhiều nhất cho tiến hóa. Các kết quả lợi lạc của những hành vi xứng đáng, nghĩa cử cao quý, hành động vị tha cũng được cho phép biểu lộ trong những hình thức và thời điểm mà ở đó lợi ích tiến hóa lớn nhất sẽ được thu hoạch từ chúng.

Just as on earth a hierarchy of officials from the Minister of Justice downwards is responsible for the administration of human law in a nation, so, at every level of human awareness, physical, psychical, intellectual and spiritual, a Hierarchy of Intelligences is responsible for the administration of Cosmic Law.

Cũng như trên trần thế có một huyền giai các viên chức, từ Bộ trưởng Tư pháp trở xuống, chịu trách nhiệm thi hành luật pháp của một quốc gia, thì ở mọi cấp độ của nhận biết nhân loại—hồng trần, cảm dục, trí tuệ và tinh thần—một Thánh Đoàn các Trí Linh chịu trách nhiệm cai quản Định luật Vũ trụ.

These two systems continually interact, the human being complementary to the Cosmic. Whilst the former may err, the latter cannot. In the process of interaction between the two, even the human errors and their effects in either lightening or increasing the weight of sentences also occur under Cosmic Law, since they have been earned by the recipient. Those who err, however, in their turn generate cosmic reactions upon themselves, always strictly proportionate to the deliberateness and the degree of error.

Hai hệ thống này tương tác liên tục, nhân luật bổ sung cho vũ trụ luật. Trong khi hệ thống trước có thể sai lầm, hệ thống sau thì không. Trong tiến trình tương tác giữa hai bên, ngay cả những lỗi lầm của con người và hiệu ứng của chúng trong việc làm nhẹ hay gia tăng mức độ của hình phạt cũng diễn ra theo Định luật Vũ trụ, vì chúng đã được người thọ lãnh tự mình tạo nên. Tuy nhiên, những người phạm sai lầm, đến lượt mình, cũng tạo ra các phản lực vũ trụ giáng xuống chính họ, luôn nghiêm ngặt tương xứng với mức độ cố ý và cung bậc của sai lầm.

Error through lack of ability, or of careful reasoning, or close attention, and therefore with no motive of injustice behind it, produces less painful reactions than does deliberate error founded on the motive unjustly to cause pain. So in all human actions and all human relationships, impersonal Cosmic Law is ceaselessly set in motion by, and upon, man. In the ultimate, all decrees, whether immediately and apparently beneficent or adverse in their effects, are educative, teaching especially that violation of Cosmic Law does not pay. This too should be the long term, basic principle upon which human law is founded.

Sai lầm do thiếu năng lực, hoặc do thiếu lý luận cẩn thận, hay do thiếu chăm chú, và vì thế không có động cơ bất công đằng sau, sẽ sản sinh phản lực ít đau đớn hơn so với sai lầm cố ý dựa trên động cơ gây đau đớn một cách bất công. Vậy nên, trong mọi hành vi và mọi mối tương giao nhân sinh, Định luật Vũ trụ vô tư được con người không ngừng kích hoạt—và cũng không ngừng tác động lên con người. Sau rốt, mọi phán quyết—bất kể ngay tức thời hiển hiện lợi lạc hay bất lợi trong hiệu ứng—đều mang tính giáo dục, dạy cho người ta thấy đặc biệt rằng vi phạm Định luật Vũ trụ là điều không “đáng”. Đây cũng nên là nguyên tắc căn để, dài hạn, mà trên đó luật pháp nhân loại được đặt nền.

The wise man is he who by his actions ordains that all reactions under Cosmic Law shall be harmonious. Acting less and less from motives of personal gain, living his life more and more as an impersonal manifestation of the cosmic purpose which is evolution, he does not provoke self modification and self domination by Cosmic Law. He avoids these two effects of personally motivated action and so obtains individual freedom and individual serenity. Naught external, not even Cosmic Law, since he is fully its agent, then has power to shape his existence, limit his activities, or to enforce experiences upon him. He is self ruled and from within. He is then not only sage, but spiritual king. To the production of such men, human law, as also education and religion, should ever be designed and administered.

Người khôn ngoan là người mà qua các hành vi của mình, ấn định rằng mọi phản ứng dưới Định luật Vũ trụ đều hòa hợp. Ít hành động từ động cơ lợi ích cá nhân hơn, ngày càng sống như một sự biểu lộ vô ngã của mục đích vũ trụ là tiến hóa, người ấy không khơi dậy sự tự điều chỉnh và sự tự chế ngự bởi Định luật Vũ trụ. Y tránh được hai hệ quả này của hành động bị động cơ cá nhân thúc đẩy và do đó đạt được tự do cá nhân và sự an nhiên cá nhân. Không gì bên ngoài—dẫu là Định luật Vũ trụ—vì y hoàn toàn là khí cụ của Định luật ấy—còn có quyền năng định hình sự hiện hữu của y, hạn chế các hoạt động của y, hay buộc trải nghiệm lên y. Y tự trị và từ bên trong. Khi ấy y không chỉ là bậc hiền triết, mà còn là vị vương tinh thần. Để sản sinh những con người như vậy, luật pháp nhân loại, cũng như giáo dục và tôn giáo, nên luôn được thiết kế và thi hành.

The Theosophist, Vol. 68, April 1947, p. 29

The Theosophist, Tập 68, Tháng 4, 1947, tr. 29

175

War and Disease—Their Cause and Cure—Chiến Tranh và Bệnh Tật—Nguyên Nhân và Phương Thuốc

As my title indicates, I shall be dealing very largely with the underlying principles through which world peace and world health may be attained and maintained. Quite clearly, external organisations, however valuable and necessary, cannot alone be depended upon to solve two problems: that of the ever-present threat of increasingly destructive wars, and of hitherto unpreventable and incurable diseases. UNO, UNESCO and WHO have, for example, helped very greatly. Nevertheless, the two problems remain and tend to become ever more menacing.

Như tiêu đề của tôi đã nêu, tôi sẽ đề cập rất nhiều đến những nguyên tắc căn bản nhờ đó mà hoà bình thế giới và sức khoẻ thế giới có thể đạt được và duy trì. Rõ ràng, các tổ chức bên ngoài, dù có giá trị và cần thiết đến đâu, cũng không thể tự chúng giải quyết được hai vấn đề: mối đe doạ thường trực của những cuộc chiến ngày càng mang tính huỷ diệt, và các chứng bệnh cho đến nay vẫn chưa thể phòng ngừa và chữa khỏi. Liên Hiệp Quốc, UNESCO và WHO, chẳng hạn, đã giúp đỡ rất nhiều. Tuy nhiên, hai vấn đề đó vẫn tồn tại và có khuynh hướng ngày càng trở nên đe doạ hơn.

Without wishing to cause distress, may I lead our thoughts towards a brief but factual recognition of the existing world situation? It is estimated that in 5560 years there have been 14,531 wars-2 1⁄2 wars per year. In the last sixty years, more than one hundred million people have been killed in military action alone. No less than 40 wars have been waged since the year 1945. Up to now, more than 90,000,000 people have been killed in the wars of this century. During 1969-70, the money that human beings spent on the means of killing one another rose to an all-time high of $204 billion dollars. Dr Malcolm S. Adiseshiah, UNESCO’S Deputy Director General wrote:

Không muốn gây phiền muộn, nhưng tôi xin hướng tư tưởng của chúng ta đến một sự ghi nhận ngắn gọn nhưng thực tế về tình hình thế giới hiện tại. Ước tính rằng trong vòng 5560 năm đã có 14.531 cuộc chiến – tức trung bình 2 1⁄2 cuộc mỗi năm. Trong sáu mươi năm qua, đã có hơn một trăm triệu người bị giết trong các hành động quân sự. Không ít hơn 40 cuộc chiến đã được tiến hành kể từ năm 1945. Cho đến nay, hơn 90.000.000 người đã bị giết trong các cuộc chiến của thế kỷ này. Trong giai đoạn 1969–70, số tiền mà con người đã chi vào những phương tiện để giết hại lẫn nhau đã tăng lên mức cao nhất mọi thời: 204 tỷ đô la. Tiến sĩ Malcolm S. Adiseshiah, Phó Tổng Giám đốc UNESCO, đã viết:

‘UNESCO cannot go on spending perhaps one million dollars a year on peace building when $200,000,000 is being devoted every year to building an ‘arsenal of absolute annihilation’.

“UNESCO không thể cứ tiêu khoảng một triệu đô-la một năm cho xây dựng hòa bình trong khi 200.000.000 đô-la mỗi năm đang được dành để xây dựng một ‘kho vũ khí hủy diệt tuyệt đối’.”

‘When will we learn that life is all of a piece, a vast mysterious entanglement of species, that the Earth is the home of all and what endangers one must have its ultimate effect on all others?’

“Khi nào chúng ta mới học được rằng sự sống là một chỉnh thể, là một sự ràng buộc mầu nhiệm, vô vàn giữa các loài; rằng Trái Đất là mái nhà của tất cả, và điều đe dọa một loài ắt rốt cuộc tác động lên mọi loài khác?”

John F. Kennedy: ‘We happen to live in the most dangerous time in the history of the human race’.

John F. Kennedy: “Chúng ta đang sống vào thời kỳ nguy hiểm nhất trong lịch sử loài người.”

Winston Churchill: ‘Unless some effective world super- government can be brought quickly into action, the proposals for peace and human progress are dark and doubtful’.

Winston Churchill: “Trừ khi một siêu-chính phủ thế giới hiệu quả nào đó có thể sớm được đưa vào vận hành, những đề nghị vì hòa bình và tiến bộ nhân loại sẽ trở nên mờ tối và đáng ngờ.”

Douglas McArthur: ‘We have had our last chance. If we will not devise some greater and more equitable system our Armageddon will be at our door’.

Douglas McArthur: “Chúng ta đã có cơ hội cuối cùng. Nếu chúng ta không thiết kế được một hệ thống lớn hơn và công bằng hơn, thì trận Armageddon sẽ gõ cửa nhà ta.”

Consider this appalling announcement which appeared recently in one of the daily papers:

Xin cân nhắc thông báo kinh hoàng này vừa xuất hiện gần đây trên một tờ báo hằng ngày:

A KILLER RAY

MỘT TIA SÁT NHÂN

(From an article by Peter Costigan, Washington D.C., U.S.A. Auckland Star, February 22, 1974.)

(Từ một bài viết của Peter Costigan, Washington D.C., Hoa Kỳ. Auckland Star, 22 Tháng 2, 1974.)

A major breakthrough is announced in the development of the ultimate weapon—the little, deadly black box that can kill and destroy, silently and undetected, from a great distance. New laser weapons have already been tested and proved to be deadly accurate at destroying any conceivable target with many times the energy needed for such destruction. The black box and laser equipment itself have already been tested and proved to work. The research into laser is so far advanced that the writing could already be on the wall for such popular weapons as supersonic bornbers, nuclear submarines and missiles.

Một bước đột phá lớn được công bố trong việc phát triển vũ khí tối hậu—chiếc hộp đen nhỏ, chết chóc có thể giết và hủy diệt trong im lặng và không bị phát hiện, từ khoảng cách rất xa. Những vũ khí laser mới đã được thử nghiệm và chứng tỏ là chính xác chết người trong việc hủy diệt bất kỳ mục tiêu có thể hình dung nào, với năng lượng vượt xa mức cần thiết cho sự hủy diệt như vậy. Bản thân chiếc hộp đen và thiết bị laser đã được thử nghiệm và chứng minh là vận hành được. Nghiên cứu về laser đã tiến xa đến mức thông điệp có lẽ đã được viết lên bức tường dành cho những vũ khí thịnh hành như máy bay ném bom siêu âm, tàu ngầm hạt nhân và tên lửa.

Disease

Bệnh Tật

The world problem of the continuance of sickness despite advances in medical science cannot here be discussed in terms of statistics. One may note, however, that causes and treatments continue to be studied very largely, if not entirely, from a purely physical, bodily point of view.

Vấn nạn toàn cầu về tình trạng bệnh tật vẫn tiếp diễn, bất chấp những tiến bộ của y học, ở đây không thể được bàn bằng các số liệu thống kê. Tuy nhiên, có thể ghi nhận rằng các nguyên nhân và phương pháp trị liệu vẫn tiếp tục được khảo cứu phần lớn, nếu không nói là hoàn toàn, từ quan điểm thuần thể xác, thuần thân thể.

Such, in part only, is our world of today, with mankind looking almost in vain for the reduction and prevention of human sorrow.

Ấy là, một phần thôi, thế giới của chúng ta hôm nay, nơi nhân loại gần như vô vọng đi tìm sự giảm thiểu và ngăn ngừa nỗi khổ nhân sinh.

What Does Theosophy Say?

Thông Thiên Học Nói Gì?

Students of Theosophy are sustained by the knowledge offered undogmatically that human evolution on this planet is proceeding according to an ordered Plan which includes the progressive development through vast ages of powers of human self-consciousness and action. This development occurs and continues at the physical, the emotional, the mental, the intuitional and also at purely spiritual levels. Just now, for example, humanity is at the critical point of the full employment of the formal, reasoning, analytical, possessive and prideful human mind—a mental age, hence world difficulties. Happily however, increasing numbers have attained, and are attaining, the faculties of the next phase, that of actively used, intuitive perception, of implicit insight and innate wisdom. It is these few who seek to lead mankind in to the New Age of universal brotherliness, whilst the great majority still cling to the valuable capacities, but severe limitations, of the separative, concrete mind. It is, therefore, at ‘this moment’ in evolutionary time that grave dangers exist, and it is of this present moment that I am speaking.

Các đạo sinh của Thông Thiên Học được nâng đỡ bởi tri kiến—được trình bày không giáo điều—rằng tiến hóa nhân loại trên hành tinh này đang diễn tiến theo một Thiên Cơ được trật tự hóa, bao gồm sự phát triển tiệm tiến qua những kỷ nguyên dài lâu các quyền năng của tâm thức tự ngã và hành động nơi con người. Sự phát triển này diễn ra và tiếp tục ở phương diện thể xác, cảm xúc, thể trí, trực giác, và cả ở những cấp độ thuần tinh thần. Ngay lúc này, chẳng hạn, nhân loại đang ở điểm then chốt của việc vận dụng trọn vẹn cái trí nhân sinh mang tính hình thức, lý luận, phân tích, chiếm hữu và kiêu mạn—một thời kỳ của trí tuệ, vì vậy mới có những khó khăn toàn cầu. May thay, số người đã đạt và đang đạt đến những năng lực của chặng kế tiếp—tức là tri kiến trực giác được sử dụng chủ động, trực quán thầm sâu và minh triết bẩm sinh—đang gia tăng. Chính những số ít ấy đang tìm cách dẫn dắt nhân loại bước vào Kỷ nguyên Mới của tình huynh đệ phổ quát, trong khi đại đa số vẫn bám níu các năng lực quý báu nhưng đầy giới hạn của cái trí cụ thể, phân ly. Bởi vậy, chính ở “thời khắc này” trong thời gian tiến hóa mà các hiểm họa nghiêm trọng hiện hữu, và chính về thời khắc hiện tại này tôi đang nói.

The Real Causes

Những Nguyên Nhân Thật Sự

Why do existing organisations and individuals, however well intentioned, continually fail to ensure the two great human blessings—lasting peace and enduring good health? One part of the answer would seem to be: Because the Root Cause of both war and disease are not external alone! They are also, and far more, interior.

Vì sao các tổ chức hiện có và các cá nhân, dù thiện chí đến đâu, vẫn liên tục thất bại trong việc bảo đảm hai phúc lành lớn của con người—hòa bình bền vững và sức khỏe trường cửu? Một phần câu trả lời dường như là: Bởi Căn Nguyên của cả chiến tranh lẫn bệnh tật không chỉ ở bên ngoài! Chúng còn, và còn nhiều hơn, là bên trong.

Thucydides said: ‘The tragedies of war take place not on the battlefield, but in the souls of men’. UNESCO preamble states, ‘War begins in the mind’. This being true, then in the human mind alone may war on earth be brought to an end.

Thucydides nói: “Bi kịch của chiến tranh không diễn ra trên chiến địa, mà trong linh hồn của con người.” Lời mở đầu của UNESCO nêu: “Chiến tranh khởi sinh trong tâm trí.” Điều này đã đúng, thì chỉ có nơi tâm trí con người chiến tranh trên đất mới có thể được chấm dứt.

How Solved?

Giải Quyết Thế Nào?

How may these vast problems be solved? By combining the functions of effectively strengthened world organisations with an equally deliberate and equally worldwide procedure to eliminate the true causes within mankind.

Những vấn nạn mênh mông ấy có thể được giải quyết bằng cách nào? Bằng cách kết hợp chức năng của các tổ chức thế giới được tăng cường hiệu lực với một tiến trình cố ý và cũng mang tầm toàn cầu nhằm triệt khử các nguyên nhân thật sự ở trong lòng nhân loại.

Getting Down to Basics

Chạm Đến Căn Bản

What truly is the root, the very basic, cause of human sorrow?

Căn rễ, căn bản thật sự nào của nỗi khổ nhân sinh?

World Sages, World Teachers and their modem representatives answer us with one voice and one word, namely ‘ignorance’—in Sanskrit, Avidya. Ignorance of what, then?

Các Bậc Hiền Giả, các Huấn Sư của thế gian và những vị đại diện hiện đại của Các Ngài đáp lại chúng ta bằng một tiếng và một từ, đó là “vô minh”—Sanskrit là Avidya. Vô minh về điều gì?

The true inner nature of every human being which is spiritual. As a result, man tends to concentrate his major attention upon his temporary, mortal bodily vehicle, the meeting of its needs and the gratification of its desires, neglecting his true Self almost entirely.

Về bản tính nội tại chân thật của mỗi con người, vốn là tinh thần. Hệ quả là con người có khuynh hướng tập trung phần lớn sự chú ý vào hiện thể thân xác tạm thời, hữu tử của mình, vào việc đáp ứng các nhu cầu và thỏa mãn các dục vọng của nó, hầu như bỏ quên Chân Ngã của mình.

1. The purpose for his existence which is evolution to the stature of perfected manhood or womanhood through successive lives on earth. Save for the few, the awakened ones, this true purpose is almost entirely ignored, the acquisition of worldly power and possessions becoming almost his only goal.

Về mục đích cho sự hiện hữu của y, tức là tiến hóa đến tầm vóc con người toàn thiện, qua những kiếp sống liên tiếp trên trần thế. Ngoại trừ số ít—những người đã thức tỉnh—mục đích chân thật này hầu như hoàn toàn bị bỏ qua; việc thủ đắc quyền lực và của cải thế gian dường như trở thành mục tiêu gần như duy nhất.

2. The relationship between man and man—an inseparable spiritual unity which holds all human being forever as one.

Về mối tương liên giữa người và người—một hợp nhất tinh thần bất khả phân ly ràng buộc mọi con người làm một mãi mãi.

The result of his ignorance is clearly before us … continuing and ever mounting disaster—personally in the form of suffering and disease, and nationally and internationally in the form of war.

Hệ quả của vô minh của y đang phơi bày rõ trước mắt chúng ta… thảm họa cứ nối tiếp và tăng dần—trên bình diện cá nhân là khổ đau và bệnh tật, và trên bình diện quốc gia và quốc tế là chiến tranh.

Cause and Effect

Nhân và Quả

Is this man’s only ignorance? No! Of what else, then, is he painfully also ignorant? That human life is ruled by Law—a Law under which every intentional human action automatically produces or is followed by an appropriate reaction. Whenever action is intentionally performed by a self-conscious, human individual—allowing for modification by intervening conduct—an appropriate reaction inevitably occurs and is experienced by the actor.

Đó có phải là sự vô minh duy nhất của con người này không? Không! Vậy y còn đau đớn vô minh về điều gì nữa? Rằng đời sống con người được cai quản bởi Định luật—một Định luật theo đó mọi hành động hữu ý của con người tự tri đều tự động tạo ra, hoặc được theo sau bởi, một phản ứng tương ứng. Bất cứ khi nào hành động được thực hiện một cách hữu ý bởi một cá nhân con người tự tri—có xét đến sự điều chỉnh bởi hành vi can thiệp—một phản ứng thích đáng ắt hẳn xảy ra và được chính người hành động trải nghiệm.

As H.P.B. [Helena P. Blavatsky] says (The Secret Doctrine Vol.1, 1897, p. 705 [2-vol. ed.: Vol. 1, p. 643-44])… ‘Verily there is not an accident in our lives, not a misshapen day, or a misfortune, that could not be traced back to our own doings in this or in another life. If one breaks the laws of Harmony … the “laws of life,” one must be prepared to fall into the chaos oneself has produced’.

Như H.P.B. [Helena P. Blavatsky] nói (Giáo Lý Bí Nhiệm Tập 1, 1897, tr. 705 [ấn bản 2 tập: Tập 1, tr. 643-44])… “Quả thật, không có một tai nạn nào trong đời ta, không có một ngày méo mó hay một bất hạnh nào mà không thể truy nguyên về chính những điều ta đã làm trong đời này hay một đời khác. Nếu ai đó vi phạm các định luật của Hòa điệu … các ‘định luật của sự sống’, người ấy phải chuẩn bị để rơi vào chính cảnh hỗn mang mà mình đã tạo.”

Briefly, actions intelligently based upon human kindness bring peace and health, whilst actions based upon human hurtfulness bring war and disease.

Tóm lại, những hành động được đặt nền một cách thông minh trên lòng nhân ái của con người mang lại bình an và sức khỏe, trong khi những hành động đặt nền trên tính gây tổn hại mang đến chiến tranh và bệnh tật.

Cruelty, like a monstrous incredibly ugly beast, stalks the whole Earth! Violence has been and is, a dominant thread of history, and today it pervades man’s world like an epidemic.

Sự tàn ác, như một quái thú khổng lồ xấu xí khôn tưởng, đang rình rập khắp Trái Đất! Bạo lực từng là và đang là một sợi chỉ trội bật của lịch sử, và ngày nay nó lan tràn thế giới của con người như một dịch bệnh.

Positive Cosmic Love

Tình thương Vũ trụ Tích cực

Supposing a mere supposition—we adopted non-injury as a way of life. What would be involved? Non-injury naturally implies non-killing, but non-injury is not merely non-killing. In its comprehensive meaning, non-injury means entire abstinence from causing any pain or harm whatsoever to any living creature, either by thought, word or deed. Non-injury demands a harmless mind, harmless voice and harmless hands. It is positive Cosmic Love. It is true sacrifice, forgiveness and also true strength, and power. I believe it to be of enormous importance. Each person must cease entirely from being a pain-producer and change to being the incarnation of non-injury in the eyes of his fellow men.

Giả sử—chỉ là giả sử—chúng ta chọn vô tổn hại làm nếp sống. Điều gì sẽ bao hàm? Vô tổn hại tự nhiên hàm ý không sát sinh, nhưng vô tổn hại không chỉ là không sát sinh. Trong nghĩa toàn diện, vô tổn hại là kiêng trọn vẹn việc gây ra bất kỳ đau đớn hay tổn hại nào đối với bất cứ sinh linh nào, dù bằng ý nghĩ, lời nói hay hành động. Vô tổn hại đòi hỏi một thể trí vô tổn hại, một tiếng nói vô tổn hại và đôi tay vô tổn hại. Đó là Tình thương Vũ trụ tích cực. Đó là hiến dâng chân thật, là tha thứ chân thật và cũng là sức mạnh chân thật, quyền năng chân thật. Tôi tin điều ấy có tầm quan trọng to lớn. Mỗi người phải hoàn toàn chấm dứt việc trở thành kẻ gây đau, và chuyển hóa để trở thành hiện thân của vô tổn hại trong mắt đồng loại của mình.

A crusade for compassion, already born and active to some extent, greatly needs to be inaugurated on a world scale, chiefly in the homes and educational institutions through which young people pass and in which their attitudes towards life become established.

Một cuộc thập tự chinh vì lòng trắc ẩn—đã sinh ra và phần nào đang hoạt động—cần được phát động trên quy mô thế giới, chủ yếu trong gia đình và các cơ sở giáo dục nơi người trẻ đi qua và trong đó thái độ của họ đối với đời sống được định hình.

Granted kindness in general is finding increasing expression, but unfortunately, so also is its opposite—cruelty. So great, so serious, so calamitous is this evil in the world and in the minds and lives of human beings, that an immensely powerful world campaign against cruelty is urgently necessary.

Thừa nhận rằng lòng nhân ái nói chung đang ngày càng được biểu lộ, nhưng đáng tiếc là điều trái ngược của nó—sự tàn ác—cũng vậy. Sự dữ này lớn lao, nghiêm trọng và tai hại đến mức, ở trong thế giới cũng như trong tâm trí và đời sống con người, một chiến dịch thế giới cực kỳ mạnh mẽ chống lại tàn ác là điều khẩn cấp.

We Must Care Deeply

Chúng ta Phải Hết Lòng Quan Tâm

The highest expression possible to mankind of the fact of a shared Source of Existence or Divine Life consists of an unfailing love for all others, and the elevation of compassion, humaneness and simple kindliness to the most prominent position in the lives of individuals and communities. Gentleness, tenderness, caring deeply, and active watchfulness over others especially when they are, or could be in danger—these are the ways, however humble by which the very best in a person can shine forth. No man can ever reach the heights of either spiritual unfoldment or personal development as long as cruelty has any place at all in thought, feeling and the practice of daily life. If their religion, particularly in its practical expression were to be described, that description would be ‘Care deeply for all others’. Then cruelty as the true cause of war and disease may decrease and eventually will disappear.

Biểu hiện cao nhất mà nhân loại có thể có về sự kiện một Nguồn Sống Chung hay Sự Sống Thiêng liêng là một tình thương không hề suy suyển đối với mọi người khác, và đặt lòng trắc ẩn, tính nhân hậu và lòng tốt giản dị lên vị trí nổi bật nhất trong đời sống cá nhân và cộng đồng. Dịu dàng, ân cần, hết lòng quan tâm, và sự canh chừng chủ động cho người khác—nhất là khi họ đang, hoặc có thể, lâm nguy—ấy là những cách thức, dù khiêm nhường, nhờ đó điều tốt đẹp nhất trong một con người có thể tỏa sáng. Không ai có thể vươn tới những đỉnh cao của khai mở tinh thần hay phát triển cá nhân chừng nào sự tàn ác còn có bất kỳ chỗ đứng nào trong tư tưởng, cảm xúc và thực hành đời sống hàng ngày. Nếu tôn giáo của họ, nhất là trong biểu hiện thực hành, được mô tả, thì lời mô tả ấy sẽ là ‘Hết lòng quan tâm đến tất cả mọi người khác’. Khi ấy tàn ác, như nguyên nhân đích thực của chiến tranh và bệnh tật, có thể giảm xuống và rốt cuộc sẽ biến mất.

Theosophy in New Zealand, Vol. 35, No. 2, 1974, p. 39

Theosophy in New Zealand, Tập 35, Số 2, 1974, tr. 39

176

The Masters and Human Cruelty—Các Chân sư và Sự Tàn bạo của Con người

The appalling acts of cruelty revealed during the Second World War have given rise to such questions as: Why do not the Masters protect human beings from such extreme ill-treatment? Why do they not effectively prevent the grosser forms of cruelty and evil? Why did not one of Them appear to the persecutors at Belsen, Dachau, Buchenwald, as Christ appeared to St Paul? Why do They not intervene to protect and bring relief to animals in their acutest, long continued agony in the vivisects clamps and troughs?

Những hành vi tàn ác kinh hoàng được phơi bày trong Thế chiến thứ Hai đã làm nảy sinh những câu hỏi như: Tại sao Các Chân sư không bảo vệ con người khỏi sự ngược đãi cực độ như vậy? Tại sao Các Ngài không hữu hiệu ngăn chặn những hình thái thô bạo nhất của tàn ác và điều ác? Tại sao không có Một Vị trong Các Ngài xuất hiện trước những kẻ bách hại ở Belsen, Dachau, Buchenwald như Đức Christ đã hiện ra với Thánh Phao-lô? Tại sao Các Ngài không can thiệp để bảo vệ và mang lại giải thoát cho thú vật trong cơn thống khổ cực điểm, kéo dài trong các kẹp và máng mổ xẻ sống?

One reason—perhaps the chief—why the Masters do not intervene phenomenally to prevent human cruelty and wickedness presumably is that man may not be forcibly influenced, even in his grossest errors and misdoings. The Adepts may not interfere with man’s free will. His development must be the result of his own efforts and achievements, his own experiences and his own mistakes. For each mistake can be a step to mistakelessness.

Một lý do—có lẽ là chủ yếu—tại sao Các Chân sư không can thiệp một cách hiện tượng để ngăn tàn bạo và độc ác của con người, có lẽ là vì con người không thể bị tác động cưỡng bức, ngay cả trong những sai lầm và hành vi sai trái thô bạo nhất. Các Chân sư không được can thiệp vào ý chí tự do của con người. Sự phát triển của y phải là kết quả của chính nỗ lực và thành tựu của y, kinh nghiệm của y và sai lầm của y. Vì mỗi sai lầm có thể là một bước đến chỗ vô lầm lỗi.

Tragic and even unjust though the suffering caused by error may appear to be, man is a free being in the cosmos apart from the operation of natural laws, free he must remain. The Adepts have given evidence of Their respect for this freedom even when They see it being misused to produce disaster. The Adept knows that His own Adeptship could not have been otherwise attained. He also knows that compensatory ministration to the recipients of cruelty will restore the balance of justice to its equipoise, however deeply it is for a time depressed on one side. This principle of respect for freedom apparently rules in all relationships between Adepts and men and is applied equally to beneficent as to maleficent conduct. Evidently man must above all things be free.

Dù bi thảm và thậm chí bất công đến đâu nỗi khổ do sai lầm gây ra có thể dường như như vậy, con người là một hữu thể tự do trong vũ trụ; ngoài sự vận hành của các định luật tự nhiên, y phải vẫn tự do. Các Chân sư đã chứng tỏ sự tôn trọng tự do này ngay cả khi Các Ngài thấy nó bị lạm dụng để tạo ra tai họa. Chân sư biết rằng chính Địa vị Chân sư của Ngài cũng không thể đạt được theo cách khác. Ngài cũng biết rằng sự cứu giúp bù đắp dành cho những nạn nhân của tàn bạo sẽ khôi phục cán cân công lý về trạng thái thăng bằng của nó, cho dù trong một thời gian nó bị nghiêng sâu về một phía. Nguyên tắc tôn trọng tự do này dường như chi phối mọi mối quan hệ giữa Các Chân sư và con người, và được áp dụng đồng đều cho hành vi thiện cũng như hành vi ác. Hiển nhiên, trên hết thảy, con người phải được tự do.

The Masters do not, however, leave humanity to descend into a maelstrom of error-born agony unaided and alone. Quite the contrary. They make every possible contribution within Their power to the reduction of suffering on this planet. The work of the Adept Brotherhood never ceases or diminishes from age to age. Moved as its members are by divinest compassion, all Their labours contribute towards the diminution and eventual elimination of the cruelty so continually inflicted by man upon fellow man and upon animals. But that elimination may not be enforced. It must be as natural as possible. Tenderness incarnate as They are, the Masters accentuate the opposites to all the cruel and evil impulses to which man is prone. They teach continually of the Law of Cause and Effect. They flood the souls of men with spiritual power, love and light. They direct spiritualising influences into the world mind. They guide and inspire receptive individuals and groups. But with freedom of physical action, apparently, They may only very rarely interfere.

Tuy nhiên, Các Chân sư không hề bỏ mặc nhân loại rơi vào xoáy lốc thống khổ do sai lầm sinh ra mà không được trợ giúp và đơn độc. Hoàn toàn ngược lại. Trong phạm vi quyền năng của Các Ngài, Các Ngài làm mọi điều có thể để giảm bớt đau khổ trên hành tinh này. Công việc của Huynh đệ Đoàn Chân sư không bao giờ ngừng nghỉ hay suy giảm qua các thời đại. Được thúc đẩy bởi lòng bi mẫn thiêng liêng nhất, mọi lao công của Các Ngài đều góp phần giảm thiểu và rốt cuộc loại trừ sự tàn ác mà con người liên tục giáng lên đồng loại và lên thú vật. Nhưng sự loại trừ ấy không thể bị cưỡng ép. Nó phải tự nhiên hết mức có thể. Là hiện thân của sự dịu hiền, Các Chân sư làm nổi bật những đối cực với mọi xung lực tàn bạo và ác hại mà con người vốn dễ vấp phải. Các Ngài liên tục dạy về Định luật Nhân–Quả. Các Ngài tuôn đổ vào linh hồn con người quyền năng tinh thần, tình thương và ánh sáng. Các Ngài hướng dẫn những ảnh hưởng thăng thần vào tâm trí thế giới. Các Ngài dẫn dắt và truyền cảm hứng cho những cá nhân và nhóm có tính tiếp nhận. Nhưng đối với tự do hành động trên cõi hồng trần, dường như Các Ngài chỉ rất hiếm khi được can thiệp.

Bodhisattvas appear amongst men as spiritual Teachers from age to age. With one voice They teach the unity of life and the Law of Cause and Effect, and extol compassionate love as the greatest human virtue. Adepts, initiates, disciples, saints, seers and philosophers, by precept and example, unceasingly teach these doctrines. Individuals do respond and change, but the majority of mankind pay little or no heed. Nevertheless, force may not be used. Human liberty, even if misused, is sacred. That, it would appear, is a principle which governs the labours of the Adept Brotherhood on this planet.

các Bồ-tát xuất hiện giữa loài người như các Huấn sư tinh thần qua các thời đại. Đồng thanh, Các Ngài dạy về sự hợp nhất của sự sống và Định luật Nhân–Quả, và ngợi ca tình thương bi mẫn như đức hạnh cao cả nhất của con người. Các chân sư, điểm đạo đồ, đệ tử, thánh nhân, nhà tiên tri và triết gia, bằng lời dạy và gương sống, không ngừng truyền dạy các giáo lý này. Những cá nhân có đáp ứng và đổi thay, nhưng đa số nhân loại ít hoặc không mảy may lưu tâm. Dẫu vậy, quyền lực không được phép dùng. Tự do của con người, dù bị lạm dụng, vẫn là thiêng liêng. Có vẻ như đó là nguyên tắc chi phối lao công của Huynh đệ Đoàn Chân sư trên hành tinh này.

There is however evidence that phenomenal powers have been used in some extreme circumstances. Such intervention, though it might stop one cruel act and soften one cruel heart, cannot eliminate or very much diminish planetary cruelty. Even if one man or group were forcefully stopped, others would continue. If one vivisector, butcher or sportsman had St Hubert’s vision or St Paul’s ecstasy, others would continue to torture, kill and persecute. Since, also, the evil of cruelty is world wide, far more Adepts than are available would be needed to stop all cruelty on earth. Perhaps even the limitation of the activity of the whole Brotherhood to one function would be demanded.

Tuy nhiên, có bằng chứng rằng những quyền năng hiện tượng đã được sử dụng trong một số hoàn cảnh cực đoan. Dẫu sự can thiệp như vậy có thể chặn đứng một hành động tàn ác và làm mềm một trái tim tàn ác, nó không thể loại bỏ hay giảm bớt đáng kể tàn bạo mang tính hành tinh. Dù một người hay một nhóm bị ngăn chặn bằng cưỡng lực, những kẻ khác vẫn sẽ tiếp tục. Nếu một nhà mổ xẻ sống, một đồ tể hay một người chơi thể thao săn bắn có được thị kiến của Thánh Hubert hay cơn xuất thần của Thánh Phao-lô, những người khác vẫn tiếp tục tra tấn, giết chóc và bách hại. Hơn nữa, vì điều ác của sự tàn ác là trên toàn thế giới, cần phải có nhiều Chân sư hơn số hiện có mới có thể chặn đứng mọi tàn ác trên địa cầu. Có lẽ thậm chí sẽ phải giới hạn hoạt động của toàn bộ Huynh đệ Đoàn vào một chức năng duy nhất.

So it is to be presumed that the Masters concentrate upon awakening the higher consciousness and instincts in mankind, by example and precept and by the provision of all possible instruction concerning and inducement to humaneness. The world’s humanitarians may be assured that individuals and groups who enrol themselves on the side of humaneness are welcomed as collaborators, and at once receive all the permissible assistance from which they and their cause can benefit.

Vì thế, có thể giả định rằng Các Chân sư tập trung vào việc đánh thức tâm thức và bản năng cao hơn trong nhân loại, bằng gương mẫu và lời dạy, và bằng việc cung cấp mọi chỉ dẫn khả hữu cùng sự khích lệ hướng về tính nhân ái. Những nhà nhân đạo trên thế giới có thể yên tâm rằng các cá nhân và nhóm ghi tên đứng về phía nhân ái được chào đón như những cộng tác viên, và lập tức nhận được mọi trợ giúp được phép mà họ và sự nghiệp của họ có thể thụ ích.

In addition to the general Adept activity on behalf of all mankind, which has continued without intermission through millennia of centuries, specialised training is given to those human Egos and personalities who voluntarily place themselves under the jurisdiction and tutorship of the Masters.

Bên cạnh hoạt động tổng quát của Các Chân sư vì lợi ích của toàn thể nhân loại—vốn tiếp tục không gián đoạn suốt thiên niên kỷ này qua thiên niên kỷ khác—sự đào luyện chuyên biệt được trao cho những chân ngã và phàm ngã con người nào tự nguyện đặt mình dưới quyền tài phán và sự kèm cặp của Các Chân sư.

The work of training disciples and of leading men and women along the Path to Adeptship has as its purpose and result the diminution of evil and suffering in the world.

Công việc đào luyện đệ tử và dẫn dắt những người nam và nữ dọc theo Thánh Đạo đến địa vị Chân sư có mục tiêu và kết quả là làm giảm bớt điều ác và khổ đau trong thế giới.

Far more intervention doubtless occurs than is ever revealed for such spiritual and occult experiences are generally concealed from shame, from fear of ridicule, or because they are sacred. Direct action by the Masters must be largely limited to individuals. Mass phenomenal interference with man’s freedom of action, as in the sinkings of Atlantis, and possibly the two Armada storms, the Dunkirk calm, Hitlerian errors and defeat, and perhaps the discovery of atomic energy, are but rarely ordained. In a phrase: ‘Man has to grow by natural processes’. Although the Masters do Their best to quicken, They may not force that growth.

Chắc chắn có nhiều can thiệp hơn hẳn những gì từng được tiết lộ, vì các kinh nghiệm tinh thần và huyền linh như thế thường bị giấu kín vì xấu hổ, vì sợ bị nhạo báng, hoặc bởi lẽ chúng thiêng liêng. Sự hành động trực tiếp của Các Chân sư hầu như phải giới hạn chủ yếu cho các cá nhân. Sự can thiệp hiện tượng đại quy mô vào tự do hành động của con người—như trong những cuộc chìm đắm của Atlantis, và có thể là hai trận bão Armada, sự yên ả ở Dunkirk, các sai lầm và thất bại mang dấu ấn Hitler, và có lẽ cả việc khám phá năng lượng nguyên tử—chỉ được an bài rất hiếm hoi. Gói gọn trong một câu: “Con người phải lớn lên bằng những tiến trình tự nhiên.” Dù Các Chân sư làm hết sức để thúc đẩy, Các Ngài không được phép cưỡng bức sự tăng trưởng ấy.

In view of the profoundly shocking revelations of cruelty during the recent war and of the dimensions of the cruelty continually practised in abattoirs, vivisectors’ laboratories, fur, whaling and serum-producing industries, and for sport, the call to individual humaneness and for a crusade for humaneness is almost irresistible.

Xét những tiết lộ gây chấn động sâu xa về tàn ác trong cuộc chiến gần đây và quy mô tàn ác vẫn không ngừng thực hành trong các lò mổ, phòng thí nghiệm mổ xẻ sống, các ngành công nghiệp lông thú, săn bắt cá voi và sản xuất huyết thanh, và vì mục đích thể thao, lời kêu gọi hướng tới nhân ái cá nhân và một cuộc thập tự chinh vì nhân ái gần như không thể cưỡng.

The terrible effects of cruelty already experienced in the form of perpetual wars, the ever mounting toll of disease and disasters add both poignancy and power to that call. There seems to be only one method of breaking the karmic cycle. It is not intervention by Adepts, but action by man. The adoption and ratification in conduct by mankind of Ahimsa or harmlessness, alone, can stop the generation of adversity by eliminating cruelty from the earth. Man must outlaw cruelty as he is now seeking to outlaw war.

Những hệ quả kinh khủng của tàn ác—đã và đang trải nghiệm—dưới hình thức chiến tranh triền miên, gánh nặng bệnh tật và tai ương ngày càng chồng chất, càng làm cho lời kêu gọi ấy thêm thống thiết và mạnh mẽ. Dường như chỉ có một phương cách để phá vỡ vòng xoay nghiệp quả. Không phải là sự can thiệp của Các Chân sư, mà là hành động của con người. Chỉ có sự chấp nhận và phê chuẩn trong hành vi của nhân loại đối với Ahimsa, hay vô tổn hại, mới có thể chấm dứt việc tạo ra nghịch cảnh bằng cách loại trừ tàn ác khỏi địa cầu. Con người phải đặt tàn ác ra ngoài vòng pháp luật như y đang tìm cách đặt chiến tranh ra ngoài vòng pháp luật.

It is not sufficient to dismiss this great human problem with the affirmation that man will cease to be cruel when he develops the Christ (Buddhic) consciousness. The problem is immediate, and that development lies tens of thousands of years in the future for the mass of mankind.

Không đủ để gạt bỏ đại vấn đề nhân sinh này bằng lời khẳng định rằng con người sẽ thôi tàn ác khi y phát triển tâm thức Đức Christ (Bồ đề). Vấn đề là tức thời, còn sự phát triển ấy, đối với đại khối nhân loại, nằm ở hàng chục ngàn năm phía trước.

The elimination of cruelty from individual lives and a world wide crusade for humaneness are urgent necessities. Those who lead and participate in such a cause would be certain to receive the fullest possible permissible Adept assistance. When man moves, the Masters can help. A world Ahimsa movement, I submit, is the way to sorrow’s ceasing. Who will join?

Sự loại trừ tàn ác khỏi đời sống cá nhân và một cuộc thập tự chinh toàn thế giới vì nhân ái là những nhu cầu khẩn cấp. Những ai lãnh đạo và tham gia vào sự nghiệp như vậy chắc chắn sẽ nhận được sự hỗ trợ tối đa trong giới hạn cho phép từ phía Các Chân sư. Khi con người hành động, Các Chân sư có thể giúp. Một phong trào Ahimsa toàn cầu, theo tôi, là con đường dẫn tới sự chấm dứt sầu khổ. Ai sẽ tham gia?

The Theosophist, Vol. 68, May 1947, p. 129

The Theosophist, Tập 68, Tháng Năm 1947, tr. 129

177

The Practice of World Brotherhood—Thực Hành Huynh đệ Thế giới

Certain searching questions must be posed to obtain a realistic foundation for a topic of this vastness. Are we seeking to establish a stable world peace, or do our thoughts rise to fear and strife? Apparently there are two opposed ideals, showing even as two armed camps, instead of a humanity united into one co-operative family of nations. One group appears to work towards a world enslavement by tyrannical power, the other strives towards freedom.

Những câu hỏi truy vấn nhất định phải được nêu ra để có nền tảng thực tế cho một chủ đề mênh mông như thế này. Chúng ta đang tìm cách thiết lập một nền hòa bình thế giới ổn định, hay tư tưởng của chúng ta lại dâng lên sợ hãi và tranh chấp? Rõ ràng có hai lý tưởng đối nghịch, thậm chí hiện ra như hai phe vũ trang, thay vì một nhân loại được hợp nhất thành một gia đình các quốc gia hợp tác. Một nhóm dường như hoạt động nhằm nô dịch thế giới bằng quyền lực độc tài, nhóm kia nỗ lực hướng tới tự do.

A united humanity means basically a free humanity living in harmony. I do not mean one totalitarian world, one united under a dictatorship, nor a unity brought about through domination, force, or fear. World co-operation will come when free peoples live together under a democratic parliamentary system.

Một nhân loại hợp nhất về căn bản có nghĩa là một nhân loại tự do sống trong hòa hợp. Tôi không có ý nói một thế giới toàn trị, một thế giới thống nhất dưới độc tài, cũng không phải một sự thống nhất đạt được bằng áp chế, cưỡng bức hay sợ hãi. Sự hợp tác thế giới sẽ đến khi các dân tộc tự do cùng chung sống dưới một hệ thống nghị viện dân chủ.

This is a practical proposition we may hope to see fulfilled, given certain conditions. Already there is a deep development in the human mind that brings the power to perceive unity amidst diversity. The number of people able to recognise in the human race a shared life and a common goal of spiritual excellence is growing surely. Given a sufficient number their influence will ensure the perception of brotherhood. There are indications that intense competitive individualism is slowly giving place to a recognition of the mutual interdependence of man upon man, and nation upon nation. The higher attributes of human intellect are developing, the sense of self-separateness then diminishes, and little by little the natural notes of the formal analytical mind, the individualistic and the competitive, are being silenced.

Đây là một đề án thực tiễn mà chúng ta có thể hy vọng được thành tựu, nếu có những điều kiện nhất định. Đã và đang có một phát triển sâu sắc trong tâm trí con người, mang đến năng lực tri nhận được sự hợp nhất trong đa dạng. Số người có khả năng nhận ra ở nhân loại một sự sống chung và một mục tiêu chung về sự xuất sắc tinh thần đang tăng lên một cách chắc chắn. Khi đạt đến con số đủ đầy, ảnh hưởng của họ sẽ bảo đảm sự tri nhận tình huynh đệ. Có những dấu hiệu cho thấy chủ nghĩa cá nhân cạnh tranh gay gắt đang dần nhường chỗ cho sự thừa nhận tính tương thuộc lẫn nhau giữa người với người, và giữa quốc gia với quốc gia. Những thuộc tính cao hơn của trí năng con người đang phát triển, ý thức tự phân ly vì thế suy giảm, và từng chút một, các âm điệu tự nhiên của cái trí phân tích hình thức, chủ nghĩa cá nhân và cạnh tranh, đang dần lắng dịu.

The concepts of unity and of co-operation for the welfare of all then assume an increasing dominance. As these grow the unity ideal will ultimately culminate in the establishment here on earth of the principle of working together in the principles of brotherhood, justice and peace. Picture the many movements, now widespread, working for international co-operation, the outward signs of this mental development in man. It has been aptly described as a hunger for wholeness.

Khi ấy, các ý niệm về hợp nhất và hợp tác vì phúc lợi chung chiếm ưu thế ngày càng tăng. Khi các ý niệm ấy lớn mạnh, lý tưởng hợp nhất rốt cuộc sẽ đơm hoa bằng việc thiết lập trên địa cầu nguyên tắc cùng làm việc trong tinh thần huynh đệ, công lý và hòa bình. Hãy hình dung bao nhiêu phong trào, vốn nay đã lan rộng, đang hoạt động vì hợp tác quốc tế—những dấu hiệu bên ngoài của sự phát triển trí tuệ này nơi con người. Điều đó đã được mô tả rất thích đáng như một cơn đói khát tính toàn vẹn.

Such development is a part of the historical process, the evolutionary trend, that is demonstrably in the direction of international co-operation and a realisation of unification within the world. During, say, the last hundred years, achievements in movements with these aims, in whole or in part, have been extensive. From the League of Nations we may pass to consider the United Nations Organisation, with its numerous specialised agencies; the groupings of peoples, as in the British Commonwealth, or, the Pan-American Union; specialised activity on a world basis, as, scouting, the Red Cross, Olympic Games, or Rotary—with a brotherly ideal of service above self; international agreements for rules and laws as, postal—traffic at sea, in the air, on the roads—patents and copyrights—the adoption of arranged nomenclature in music, anatomy, medicine, meteorology, and symbols in science and of Greenwich Mean Time. Here the examples given are indicative rather than complete.

Sự phát triển như vậy là một phần của tiến trình lịch sử, của khuynh hướng tiến hóa, vốn hiển nhiên theo hướng hợp tác quốc tế và nhận thức về sự hợp nhất trong thế giới. Trong khoảng, hãy nói, trăm năm qua, các thành tựu của những phong trào với các mục đích này, toàn phần hoặc một phần, đã rất rộng lớn. Từ Hội Quốc Liên, ta có thể chuyển sang xem xét Tổ chức Liên Hiệp Quốc, với nhiều cơ quan chuyên môn của mình; sự liên kết của các dân tộc, như trong Khối Thịnh vượng chung Anh, hoặc Liên hiệp Liên Mỹ; những hoạt động chuyên môn trên quy mô thế giới như phong trào hướng đạo, Hồng Thập Tự, Thế vận hội Olympic, hay Rotary—với lý tưởng huynh đệ “phụng sự trên cả bản thân”; các thỏa thuận quốc tế về quy tắc và luật lệ như bưu chính—giao thông trên biển, trên không, trên đường bộ—bằng sáng chế và bản quyền—việc chấp nhận danh pháp chuẩn trong âm nhạc, giải phẫu, y khoa, khí tượng, và các ký hiệu trong khoa học, cũng như Giờ chuẩn Greenwich. Ở đây, các ví dụ được nêu ra mang tính gợi ý hơn là đầy đủ.

In such and other ways there is the spread of the international spirit, a planetary outlook, a global vision of a general civilisation, a mutual interdependence between units personal and national. Despite inevitable divisions, history does show in man the power to rise above and think beyond national boundaries. Some of the human race begin to see the world as a whole. There is therefore ground for vigilant hope that this evolutionary process will continue and the increase in modem man’s hunger for wholeness will bring into existence a united humanity. The peoples of the earth are longing for world friendship, so that the time is certain to come when they will agree that mankind has a common goal, brotherly advancement in both spiritual excellence and physical welfare.

Bằng những cách như thế và nhiều cách khác, tinh thần quốc tế đang lan tỏa, một nhãn quan hành tinh, một viễn kiến toàn cầu về một nền văn minh chung, một tính tương thuộc lẫn nhau giữa các đơn vị cá nhân và quốc gia. Dù vẫn có những chia rẽ tất yếu, lịch sử cho thấy nơi con người có năng lực vươn vượt và nghĩ xa hơn khỏi các biên cương quốc gia. Một bộ phận nhân loại bắt đầu thấy thế giới như một toàn thể. Do đó, có cơ sở cho một niềm hy vọng cảnh giác rằng tiến trình tiến hóa này sẽ tiếp tục, và sự gia tăng trong cơn đói khát tính toàn vẹn của con người hiện đại sẽ mang đến sự xuất hiện của một nhân loại hợp nhất. Các dân tộc trên địa cầu đang khao khát tình bằng hữu thế giới, vì thế chắc chắn sẽ đến lúc họ đồng thuận rằng nhân loại có một mục tiêu chung—tiến bộ huynh đệ cả trong sự xuất sắc tinh thần lẫn phúc lợi vật chất.

The attainment of that goal will demand as its essential universal peace. In its turn justice will be seen as the prerequisite of peace; for peace and justice stand or fall together.

Việc đạt đến mục tiêu đó đòi hỏi hòa bình phổ quát như điều kiện thiết yếu. Đến lượt mình, công lý sẽ được nhìn nhận là điều kiện tiên quyết của hòa bình; bởi hòa bình và công lý cùng đứng hoặc cùng ngã.

The actualisation of world brotherhood must depend upon the understanding of that principle in its component parts, the individual nations. So first we regard the latest expression of the movement towards world unity—the United Nations. Sir Gladwyn Jebb, chief British delegate to the U.N., speaking in Ottawa on October the 8th, 1952, said that the racial problem would ‘wreck the whole concept of the United Nations. While industrialisation is being welcomed as having led to the raising of living standards it is suspected in under-developed countries as being in some way associated with European domination’.

Hiện thực hóa tình huynh đệ thế giới phải phụ thuộc vào sự thấu hiểu nguyên tắc ấy trong các bộ phận cấu thành của nó—tức các quốc gia riêng lẻ. Vậy trước hết ta xét đến biểu hiện mới nhất của phong trào hướng tới hợp nhất thế giới—Liên Hiệp Quốc. Ngài Gladwyn Jebb, Trưởng phái đoàn Anh tại LHQ, phát biểu ở Ottawa ngày 8 tháng Mười, 1952, nói rằng vấn đề chủng tộc sẽ “phá vỡ toàn bộ ý niệm về Liên Hiệp Quốc. Trong khi công nghiệp hóa được hoan nghênh vì đã nâng cao mức sống thì ở các nước kém phát triển nó lại bị nghi ngờ là gắn với sự thống trị của châu Âu theo cách nào đó”.

Sir Gladwyn continued: ‘These are the doubts and fears which so largely animate the so-called Arab-Asian group in the U.N. This group is admittedly not held together by any common interest, but only by hatred of “colonialism” and consequent suspicion of the Western races as such. This attitude is dangerous as tending to stimulate race consciousness and race discrimination in vast areas. It is based on emotions that have become out of date. I feel these class-conscious, race-conscious emotions are really one of the greatest dangers to the United Nations’.

Ngài Gladwyn tiếp tục: “Đó là những nghi ngờ và sợ hãi vốn phần lớn chi phối cái gọi là nhóm Ả Rập–Á châu trong LHQ. Nhóm này, thừa nhận rằng, không được kết dính bởi bất kỳ lợi ích chung nào, mà chỉ bởi lòng căm ghét ‘chủ nghĩa thực dân’ và hệ quả là sự nghi kỵ đối với các chủng tộc phương Tây nói chung. Thái độ này nguy hiểm vì có xu hướng kích thích ý thức chủng tộc và phân biệt chủng tộc trên những khu vực rộng lớn. Nó dựa trên những xúc cảm đã trở nên lỗi thời. Tôi cảm thấy rằng những xúc cảm mang ý thức giai cấp, ý thức chủng tộc này thực sự là một trong những nguy cơ lớn nhất đối với Liên Hiệp Quốc.”

Despite much fine humanitarian work for the alleviation of sickness, suffering and misery, the U.N. has proved ineffectual frequently to deal with many grave situations as in Korea, Indo-China, Egypt and South Africa. Such failures are very largely due to a lack of support from the individual member nations. Why do not the brother-races work together? The advantages of closer co-operation between Governments in order to solve common problems, to share discoveries and techniques for improving the lot of man are so obvious that they hardly need to be enumerated.

Bất chấp rất nhiều công việc nhân đạo tốt đẹp nhằm giảm thiểu bệnh tật, khổ đau và cơ cực, LHQ đã thường tỏ ra bất lực trong việc xử lý nhiều tình thế nghiêm trọng như ở Triều Tiên, Đông Dương, Ai Cập và Nam Phi. Những thất bại như thế phần rất lớn là do thiếu sự hậu thuẫn từ các quốc gia thành viên riêng lẻ. Tại sao các dân tộc anh em không cùng làm việc? Những lợi ích của sự hợp tác chặt chẽ hơn giữa các Chính phủ để giải quyết các vấn đề chung, chia sẻ các phát minh và kỹ thuật nhằm cải thiện phận người hiển nhiên đến mức hầu như không cần liệt kê.

This failure is surprising, for the ideals of the U.N. are shared by men and women of almost all economic, national, and religious groups. However, they cannot be translated into practical terms unless the citizens of the component nations feel, proclaim and live their innate brotherhood, and carry it out globally, giving their fullest support to this supremely significant task. Such collaboration would further the solution of the ever-present problem of collective security in face of the threat of aggression. How can brother-peoples face the great cost and waste in money and materials, and in the lives of men, involved in military resistance to aggressor nations—as well as the similar losses the latter must also suffer?

Sự thất bại này đáng ngạc nhiên, vì các lý tưởng của LHQ được chia sẻ bởi những người nam và nữ thuộc hầu như mọi nhóm kinh tế, quốc gia và tôn giáo. Tuy nhiên, chúng không thể được chuyển thành những điều thực thi nếu công dân của các quốc gia cấu thành không cảm nhận, tuyên dương và sống tình huynh đệ bẩm sinh của họ, và thực hiện điều đó trên phạm vi toàn cầu, dốc lòng hậu thuẫn cho nhiệm vụ tối hệ trọng này. Sự hợp tác như thế sẽ thúc đẩy việc giải quyết vấn nạn muôn thuở về an ninh tập thể trước mối đe dọa xâm lược. Làm sao các dân tộc anh em có thể đối mặt với chi phí và lãng phí to lớn về tiền của và vật lực, và cả sinh mạng con người, dính líu trong việc kháng cự quân sự trước các quốc gia xâm lược—cũng như những thiệt hại tương tự mà chính các quốc gia xâm lược ấy cũng phải chịu?

So far as world co-operation is concerned a World-Govemment which is able to solve conflicts between the peoples by judicial decision is essential. The U.N. underscores this point, perceiving the difficulties it finds in the fulfilment of that part of its task which concerns the establishment and maintenance of peace over the earth. A government embracing all races and countries will only become feasible when the majority—if not all—of these units make the intimate relationship of brotherhood not simply their spiritual goal—instead it must become a stable realisation, featuring the surrender of self-interest, mutual understanding, and the practice of non­separateness.

Xét về hợp tác thế giới, một Chính quyền Thế giới có khả năng giải quyết các xung đột giữa các dân tộc bằng phán quyết tư pháp là điều thiết yếu. LHQ gạch dưới điểm này, khi nhận thấy những khó khăn mà tổ chức gặp phải trong việc thực hiện phần nhiệm vụ của mình, vốn là kiến lập và duy trì hòa bình trên toàn cầu. Một chính quyền bao trùm mọi chủng tộc và quốc gia chỉ trở nên khả thi khi đa số—nếu không phải tất cả—các đơn vị ấy biến mối quan hệ thân thiết của tình huynh đệ không đơn thuần là mục tiêu tinh thần—mà phải trở thành một nhận thức bền vững, thể hiện sự từ bỏ tư lợi, thông hiểu lẫn nhau và thực hành tính không phân ly.

Theosophy in New Zealand, Vol. 25, No. 1, 1964, p. 11

Theosophy in New Zealand, Tập 25, Số 1, 1964, tr. 11

178

Theosophy and the World Situation—Thông Thiên Học và Tình hình Thế giới

The world situation appears to be extremely delicate, not to say dangerous, just now. It is evident that, whilst the Masters continually radiate spiritual power upon the world and on rare occasions karma and the evolutionary necessities permit Them directly to influence an individual or an affair, for the most part man must learn for himself even if by his mistakes and their consequent sufferings.

Tình hình thế giới hiện nay có vẻ cực kỳ mong manh, chẳng nói cũng nguy hiểm. Rõ ràng là, trong khi Các Chân sư liên tục phóng rải quyền năng tinh thần lên thế giới và trong những dịp hiếm hoi, nghiệp quả và những tất yếu tiến hóa cho phép Các Ngài trực tiếp ảnh hưởng đến một cá nhân hay một sự vụ, thì phần lớn, con người phải tự mình học hỏi, dẫu bằng những sai lầm của mình và những khổ đau kéo theo.

We may, I think, safely assume that They need more and more tried and trusted representatives in the outer world, more agents upon whom They can depend. The call today would seem to be for men and women who are ready for this life at least to forsake self and selfish gratification in the cause of the welfare of humanity as a whole, who are filled with that spirit of ready self-sacrifice which is founded upon recognition of humanity’s great need and God’s Great Plan.

Chúng ta có thể, tôi nghĩ, yên tâm giả định rằng Các Ngài cần ngày càng nhiều đại diện đã được thử luyện và có thể tin cậy ở ngoại giới, cần nhiều tác viên mà Các Ngài có thể nương cậy. Lời kêu gọi hôm nay dường như hướng đến những người nam và nữ sẵn sàng, chí ít trong kiếp này, từ bỏ bản thân và sự thỏa mãn ích kỷ vì phúc lợi của toàn thể nhân loại, những người tràn đầy tinh thần sẵn sàng tự hiến, vốn được đặt nền trên sự nhận ra nhu cầu lớn lao của nhân loại và Thiên Cơ Vĩ Đại của Thượng đế.

Apparently all types are useful to them as long as self does not intrude upon service, desire upon discipline, ambition upon humanity and egotism upon readiness to be led. Their army, depleted in recent years by the passing of many great souls from its ranks, must need new recruits. Many Egos who have served Them in the past must be in incarnation now, but either do not hear or are unresponsive to our Society’s appeal. That appeal must be strengthened until, for those who have the germs of Theosophy within them, it is irresistible.

Có vẻ như mọi loại người đều hữu dụng đối với Các Ngài, miễn là cái tôi không chen vào phụng sự, ham muốn không chen vào kỷ luật, tham vọng không chen vào tính nhân ái và tự ngã không chen vào sự sẵn sàng được dẫn dắt. Đoàn quân của Các Ngài, bị hao hụt trong những năm gần đây do nhiều linh hồn vĩ đại rời hàng ngũ, ắt cần những tân binh. Nhiều chân ngã từng phụng sự Các Ngài trong quá khứ hẳn đang lâm phàm hiện nay, nhưng hoặc không nghe thấy, hoặc không đáp ứng lời kêu gọi của Hội chúng ta. Lời kêu gọi ấy phải được tăng cường đến mức, đối với những ai có mầm mống Thông Thiên Học trong mình, nó trở nên không thể cưỡng lại.

The note of brotherhood supported by appeals to the reasoning mind must be sounded forth in the world as never before, lest nation after nation dash themselves to pieces against each other in war of appalling intensity, dimensions and destructiveness.

Chủ âm của tình huynh đệ, được hậu thuẫn bằng những lời kêu gọi lý trí, phải được xướng lên trong thế giới chưa từng có trước đây, kẻo quốc gia này đến quốc gia khác lại nghiền nát nhau trong một cuộc chiến tranh có cường độ, quy mô và sức tàn phá khủng khiếp.

We, Theosophists, are truly fortunate. We know that, although humanity still lives in mental and spiritual darkness, and in physical danger, the mountain tops exist, and above them, the star shines ever undimmed. Bodies may be destroyed, cities and civilisations crumble, but the Self of man is indestructible and the Will of God omnipotent. Ours then to work as we have never worked before in this hour of humanity’s great need. Thrice blessed are those who work under the direction of the Guardians of the Race, serve under Those who have served without remission for thousands of centuries and under One Who has ruled for millions of years.

Chúng ta, những người Thông Thiên Học, thực sự may mắn. Chúng ta biết rằng, dẫu nhân loại vẫn còn sống trong bóng tối trí tuệ và tinh thần, và trong hiểm họa thể chất, thì những đỉnh núi vẫn hiện hữu, và trên cao chúng, ngôi sao vẫn tỏa sáng chẳng hề phai mờ. Thân thể có thể bị hủy diệt, đô thị và nền văn minh có thể sụp đổ, nhưng Chân Ngã của con người là bất hoại và Ý Chí của Thượng đế là vô sở bất năng. Vậy chúng ta hãy làm việc như chưa từng làm bao giờ trong giờ khắc nhu cầu lớn lao của nhân loại. Ba lần phúc thay cho những ai làm việc dưới sự chỉ đạo của các Đấng Hộ Trì của Nhân loại, phụng sự dưới Quyền của Những Vị đã phụng sự không hề ngơi nghỉ suốt hàng ngàn thế kỷ, và dưới Quyền của Một Đấng đã cai quản trong hàng triệu năm.

Thinking on the part played and to be played by the Theosophical Society in the present world crisis, one assumes the constant attention of the Masters Who are its Founders and the existence of a reservoir of power available for all progressive movements on this planet, from which power is allotted to Them for the work of the Society. If this impression be true through all our work on the physical plane there flows continually a great force—of which, indeed, workers are not infrequently aware. Doubtless large numbers of deceased Theosophists and others serve as links between the outer work and workers and the Causal and Buddhic worlds, from which the whole work is planned and directed.

Suy nghĩ về vai trò đã và sẽ được đảm nhận bởi Hội Thông Thiên Học trong cơn khủng hoảng thế giới hiện tại, người ta giả định có sự chú tâm thường trực của Các Chân sư—những Vị là các Đấng Sáng Lập của Hội—và sự hiện hữu của một bể dự trữ quyền năng sẵn có cho mọi phong trào tiến bộ trên hành tinh này, từ đó quyền năng được phân bổ cho Các Ngài để thực hiện công việc của Hội. Nếu ấn tượng này là đúng, thì xuyên suốt mọi công việc của chúng ta trên cõi hồng trần luôn có một đại lực lưu chảy—mà thật vậy, những người làm việc không hiếm khi cảm nhận được. Chắc chắn, đông đảo các Thông Thiên Học đồ quá cố và những người khác đóng vai trò là mắt xích giữa công việc và những người làm việc ở ngoại giới với các cõi Nguyên nhân và Bồ đề, nơi toàn bộ công việc được hoạch định và điều khiển.

Meditation brings glimpses at least of some of the inner aspects of this great organisation created for the helping of the world, realisation, however limited of the intensity of the concentration of the Masters ceaseless and unbroken age by age upon this and many other great activities. If but the fringe of their consciousness be touched the impression is received of power at an exceedingly high voltage, of a tremendous one pointedness and of great intensity of concentration. Apparently, temporary failure is without significance to Them. They are utterly unmoved by results. They know that the One Will must ultimately prevail and Their being is therefore rooted in unshakeable, calm, undisturbed peace.

Tham thiền đem lại tối thiểu những tia thoáng thấy về một số phương diện nội tại của đại tổ chức này—được tạo dựng để cứu giúp thế giới—mang đến một nhận thức, dù giới hạn, về cường độ tập trung của Các Chân sư—không ngưng nghỉ và bất đoạn qua các thời đại—trên công cuộc này và nhiều hoạt động trọng đại khác. Chỉ cần chạm được đến bìa rìa tâm thức của Các Ngài, ta nhận được ấn tượng về một quyền năng ở điện thế cực cao, về một sự nhất tâm ghê gớm và về cường độ tập trung vĩ đại. Dường như, thất bại tạm thời đối với Các Ngài là vô nghĩa. Các Ngài hoàn toàn bất động trước kết quả. Các Ngài biết rằng Ý Chí Duy Nhất rốt cuộc tất thắng, và hữu thể của Các Ngài vì vậy được neo rễ trong tự tại, bình an không lay chuyển, vững chắc, không bị quấy động.

Amid our pre-occupation with the outer aspects of our work, would it not be well to hold still more constantly than we do, in the background of our minds, the fact of Their existence, Their power and Their interests in Their movement? One can become self-centred even in Theosophy. We are prone sometimes to regard our own particular share of the work as an isolated activity instead of as part of a great movement for bringing Theosophy to the world, initiated by the Elder Brethren in the remote past, active in successive civilisations and now world wide; a movement unique in that it has its extensions and connections in the inner worlds from the lowest to the highest.

Giữa lúc chúng ta mải miết với các phương diện ngoại tại của công việc, há chẳng phải tốt hơn sao nếu giữ thường trực hơn nữa, ở hậu cảnh tâm trí, thực tại về sự hiện hữu của Các Ngài, quyền năng của Các Ngài và sự quan tâm của Các Ngài đến phong trào của Chính Các Ngài? Người ta có thể trở nên quy ngã ngay cả trong Thông Thiên Học. Đôi khi chúng ta dễ xem phần việc riêng của mình như một hoạt động cô lập thay vì như một bộ phận của một phong trào vĩ đại nhằm mang Thông Thiên Học đến với thế giới—được khởi xướng bởi các Huynh Trưởng từ thời xa xưa, hoạt động qua những nền văn minh kế tiếp và nay đã lan khắp thế giới; một phong trào đặc thù ở chỗ nó có những sự mở rộng và kết nối vào các cõi nội tại từ thấp đến cao nhất.

True, numerically, we, Theosophists, are insignificant, but the effect which we produce is out of all proportion to our numbers. This is due, first, to the possession of knowledge of Theosophy and the power which such knowledge bestows: second, to the fact that the Masters’ power intensifies everything we do and, third, that as Egos all true Theosophists constitute a great group of people linked together and capable of action as a unit.

Đúng là, về số lượng, chúng ta—các Thông Thiên Học đồ—thì nhỏ bé, nhưng hiệu quả mà chúng ta tạo ra thì hoàn toàn vượt xa con số của mình. Điều này trước hết là do sở hữu tri thức Thông Thiên Học và quyền năng mà tri thức đó ban cho; thứ hai, do sự kiện quyền năng của Các Chân sư làm tăng cường mọi điều chúng ta làm; và thứ ba, với tư cách là các chân ngã, mọi Thông Thiên Học đồ chân chính hợp thành một đại nhóm người được liên kết với nhau và có khả năng hành động như một khối thống nhất.

Rightly or wrongly, I conceive of our Society, less as a huge organisation with hundreds or thousands of members—at least at this period, though later it may so develop—than as a means of attracting into Theosophy the special types of Egos suitable for the particular work for which the Society was called into being. Apparently, their chief characteristics are readiness to combine, to respond to an inner call, ability to accept intuitively the fact of the existence of the Masters, and an instinctive appreciation of the honour of working with Them. All of this is the result of work done with Them in past lives and of having followed by temperament a peculiar line of development in which Individuality and personal success have been subordinate to a great cause. This is the kind of people who seem to be attracted into the Society just now, and through them as members, the Masters are able to work. Selfless devotion is a marked characteristic of a great many Members of the Society and this may account for the absence from the Society of large numbers of pure intellectualists at this time. Apparently the solidarity of the few, and even the humble, is of more importance than the gathering in of the many and the intellectually great.

Đúng hay sai, tôi hình dung Hội của chúng ta, vào giai đoạn này, ít như một tổ chức đồ sộ với hàng trăm hay hàng ngàn hội viên—dù về sau có thể phát triển như thế—mà như một phương tiện thu hút vào Thông Thiên Học những loại chân ngã đặc thù thích hợp với công việc riêng mà Hội được triệu gọi để thành hình. Có vẻ như các phẩm tính chủ chốt của họ là sự sẵn lòng kết hợp, đáp ứng một tiếng gọi nội tâm, khả năng chấp nhận trực giác sự kiện về sự hiện hữu của Các Chân sư, và một sự cảm thấu bản năng về vinh dự khi được làm việc với Các Ngài. Tất cả điều này là kết quả của việc đã từng làm việc với Các Ngài trong những đời quá khứ và do theo xu hướng thiên bẩm một lộ trình phát triển đặc thù, trong đó Tính cá thể và thành công cá nhân đã được đặt dưới một sự nghiệp vĩ đại. Đây là hạng người dường như đang được thu hút vào Hội hiện nay, và qua họ—với tư cách hội viên—Các Chân sư có thể hành sự. Hiến dâng vô ngã là một đặc tính nổi bật của rất nhiều Hội viên, và điều này có thể giải thích vì sao vào lúc này vắng bóng trong Hội một số đông những nhà trí thức thuần lý. Dường như sự đoàn kết của số ít, thậm chí khiêm nhường, còn trọng yếu hơn là việc thu nạp số đông và những bậc đại trí thức.

It is our common hope that through the Egos of the members, through the thought-forces engendered and released by theosophical study, lectures, classes, and conversations, and through the physical work of the Society, the Masters are able to influence the thought of the world, change the outlook of men generally, and use the Society for the fulfilment of part of their plans and the expression of Their ideas.

Hy vọng chung của chúng ta là qua các chân ngã của hội viên, qua các tư tưởng-lực được khơi dậy và phóng thích bởi học tập Thông Thiên Học, các bài thuyết giảng, lớp học và đàm thoại, và qua công việc ngoại hiện của Hội, Các Chân sư có thể ảnh hưởng đến tư duy của thế giới, đổi thay quan kiến của nhân loại nói chung, và sử dụng Hội để hoàn thành một phần Thiên Cơ của Các Ngài và biểu lộ các ý tưởng của Các Ngài.

If this conception be at all true the chief work of our movement seems to be to affect the mental atmosphere, of the globe in certain directions, to change the outlook of humanity. Every theosophical meditation, study, lecture, class and even conversation plays its part in the production of that result. Every time we talk about Theosophy we are doing good. When we live our Theosophy we do an immense good.

Nếu quan niệm này đúng dù chỉ phần nào, thì công tác chủ yếu của phong trào chúng ta dường như là tác động lên bầu khí quyển tư tưởng của địa cầu theo những chiều hướng nhất định, nhằm thay đổi quan kiến của nhân loại. Mỗi thời khắc tham thiền, học tập, thuyết giảng, lớp học và thậm chí cuộc trò chuyện về Thông Thiên Học đều góp phần tạo nên kết quả đó. Mỗi khi chúng ta nói về Thông Thiên Học, chúng ta đang làm điều thiện. Khi chúng ta sống Thông Thiên Học của mình, chúng ta làm một điều thiện vô cùng lớn.

In a way, Theosophists should serve as sentries over the mental world, guarding it from the intrusion of untheosophical thought. Each ‘live’ member is like an electrically charged coil which creates in its region a powerful field of force vibrating on its special wave-lengths—in this case, those of theosophical thought. The more there are of these mental generators and transmitters of theosophical thought the more quickly will the mental atmosphere of the world be brought into a theosophical condition, which implies the recognition of brotherhood and the acceptance, in whatever form, of that truth which is the highest religion.

Ở một nghĩa nào đó, các Thông Thiên Học đồ nên làm nhiệm vụ lính gác trên thế giới tư tưởng, canh giữ nó khỏi sự xâm nhập của những tư tưởng phi-thông-thiên-học. Mỗi hội viên “sống động” như một cuộn dây tích điện, tạo ra trong vùng của mình một từ trường mạnh mẽ rung trên những bước sóng riêng—trong trường hợp này, những bước sóng của tư tưởng thông thiên học. Càng có nhiều “máy phát” và “máy truyền” tư tưởng thông thiên học này, bầu khí quyển tư tưởng của thế giới càng sớm được đưa vào một tình trạng thông thiên học—hàm ý sự nhận ra tình huynh đệ và sự chấp nhận, dưới bất kỳ hình thức nào, chân lý vốn là tôn giáo cao nhất.

The next note to be struck, as far as I can see, is the existence of the Great Plan, and, when that thought is established, of the Master as the inner Director of the Plan. It may be that gradually an impersonal relation between Them and humanity will develop, not unlike that of millions of subjects loyal to the King, their loyalty being quite independent and without thought of personal contact.

Nốt tiếp theo cần được xướng lên, theo chỗ tôi thấy, là sự hiện hữu của Thiên Cơ, và khi tư tưởng ấy đã được xác lập, là của Chân sư như Vị Chỉ đạo nội tại của Thiên Cơ. Có thể dần dần một mối quan hệ phi cá nhân giữa Các Ngài và nhân loại sẽ phát triển, không khác mấy mối quan hệ giữa hàng triệu thần dân trung thành với Quốc Vương, một lòng trung thành hoàn toàn độc lập và không hề nghĩ đến tiếp xúc cá nhân.

Accompanying such possible adoption of special aspects of Theosophy will almost surely be the recognition and deliberate use of mind-radio. The minds of certain scientists (e.g. experiments of the Duke University in America) are already being influenced to recognise and experiment with the hidden powers of the Mind.

Đi kèm với khả năng chấp nhận những phương diện đặc thù của Thông Thiên Học như thế, gần như chắc chắn sẽ là sự nhận ra và sử dụng có chủ tâm “vô tuyến thể trí”. Tâm trí của một số nhà khoa học (thí dụ như các thí nghiệm của Đại học Duke ở Mỹ) đang được ảnh hưởng để nhận ra và khảo sát những quyền năng tiềm ẩn của Thể trí.

Specially gifted people are being discovered and experiments being made in mental transmission and reception. This may probably be followed by the invention and use of special methods for training the intuition, and it would seem not to be unlikely that the motive in both cases will be commercial.

Những người có thiên phú đặc biệt đang được phát hiện và các thí nghiệm đang được thực hiện về truyền–thu bằng thể trí. Tiếp theo đó có lẽ sẽ là sự phát minh và sử dụng các phương pháp đặc biệt để rèn luyện trực giác, và dường như không loại trừ khả năng động cơ trong cả hai trường hợp sẽ là thương mại.

Theosophy in Australia, 3, 1 February 1938, p. 10

Theosophy in Australia, 3, 1 Tháng Hai 1938, tr. 10

Reprinted in Theosophy in New Zealand, Vol. 1, June 1940, p. 9

In lại trong Theosophy in New Zealand, Tập 1, Tháng Sáu 1940, tr. 9

179

Thoughts on the Crisis—Suy ngẫm về Khủng hoảng

Concerning the major issue of racial evolution the well informed student of Theosophy knows neither doubt nor despair. The dangers and catastrophes of a particular period may cause him acute dismay, but they cannot shake his faith in the future of the race. He is completely assured of its gradual evolution out of barbarism into a condition of highly spiritualised individual and racial life.

Liên quan đến vấn đề lớn của tiến hóa giống dân, đạo sinh Thông Thiên Học am tường không biết đến hoài nghi hay tuyệt vọng. Nguy cơ và tai họa của một giai đoạn nhất định có thể khiến y vô cùng bàng hoàng, nhưng chúng không thể lay chuyển niềm tin của y vào tương lai của giống dân. Y hoàn toàn tin chắc vào sự tiến hóa dần dà của giống dân ra khỏi tình trạng man dã để đi vào một trạng thái đời sống cá nhân và đời sống giống dân được tinh thần hóa ở mức cao.

Upon what is his faith founded? It is founded upon knowledge, and this knowledge is at least sixfold. First of all the student of Theosophy learns that it is but the form which perishes. An individual may die from the physical plane, the plane of effects; but he can never die from the spiritual plane, the plane of causes. A civilisation may vanish, but the Egos who built it, and even those who brought about its destruction, are themselves indestructible. Not only do they endure eternally, but they develop and reappear stronger, wiser, and therefore more capable, than before as builders of new civilisations.

Niềm tin của y đặt nền trên điều gì? Nó đặt nền trên tri thức, và tri thức này ít nhất là lục phân. Trước hết, đạo sinh Thông Thiên Học học biết rằng chỉ có hình tướng là hoại diệt. Một cá nhân có thể chết khỏi cõi hồng trần, cõi của các hiệu quả; nhưng y không bao giờ có thể chết khỏi cõi tinh thần, cõi của các nguyên nhân. Một nền văn minh có thể biến mất, nhưng các chân ngã đã xây dựng nó, và thậm chí cả những kẻ đã gây nên sự phá hủy ấy, tự thân họ là bất hoại. Không chỉ tồn tại vĩnh cửu, họ còn phát triển và tái xuất hiện mạnh mẽ hơn, khôn ngoan hơn, và do đó có khả năng hơn trước với tư cách những nhà kiến tạo các nền văn minh mới.

Nothing essential is ever lost; all is stored within the oversoul, whether of the individual or of the race, as virtue, power, gift, capacity and wisdom. Death, therefore, whether of an individual or of a civilisation, cannot bring the student of Theosophy to despair.

Không gì thiết yếu bị mất; tất cả đều được lưu trữ trong đại hồn, dù của cá nhân hay của giống dân, như đức hạnh, quyền năng, thiên phú, năng lực và minh triết. Vậy nên, cái chết—dẫu là của cá nhân hay của một nền văn minh—không thể đưa đạo sinh Thông Thiên Học đến tuyệt vọng.

Second, he learns that on the involutionary arc the blinding and imprisoning power of matter over spirit gradually increases and that when its grip is strongest war is inevitable; for during that cycle savage passion and selfish desire predominate over self-control, altruism and wisdom. The student of Theosophy learns that numerically the middle of the Fourth Root Race marks the turning point from the involutionary on to the evolutionary arc, where gradually the spirit of man will free itself from the grip of materialism. Not until long after that does he expect passion and selfishness gradually to give place to self-control and idealism. He further learns that for at least one whole Root Race, and probably for a further two sub-races, a period of intense conflict between these opposites is certain to be entered upon.

Thứ hai, y học biết rằng trên cung giáng hạ tiến hoá, quyền lực làm mù và giam cầm của vật chất đối với tinh thần tăng dần, và khi gọng kìm của nó mạnh nhất, chiến tranh là điều không thể tránh; vì trong chu kỳ đó, dục vọng man rợ và ham muốn ích kỷ lấn át tự chủ, vị tha và minh triết. Đạo sinh Thông Thiên Học học biết rằng về mặt số đếm, điểm giữa của Giống dân gốc thứ tư đánh dấu bước ngoặt từ cung giáng hạ sang cung thăng thượng tiến hoá, nơi tinh thần của con người dần giải thoát khỏi gọng kìm của chủ nghĩa vật chất. Không phải mãi lâu sau đó y mới kỳ vọng rằng dục vọng và ích kỷ mới từ từ nhường chỗ cho tự chủ và lý tưởng. Y còn học biết rằng, ít nhất trong một Giống dân gốc trọn vẹn, và rất có thể thêm hai giống dân phụ nữa, một thời kỳ xung đột dữ dội giữa những đối cực ấy chắc chắn sẽ khởi diễn.

Third, the student of Theosophy knows that at certain times in planetary Schemes, Chains, Rounds and Races periods known as ‘judgment days’ occur. In the middle of the fourth Round for example (save for a few exceptions), ‘the door was shut’ for animals to enter the human kingdom. After this ‘no more Monads can enter the human kingdom. The door is closed for this Cycle’.[1] In the middle of the fifth Round a great ‘separation’ or ‘judgment’ will occur. Egos not sufficiently advanced to progress with the rest will be dropped out until a future Chain provides them with suitable evolutionary opportunities.

Thứ ba, đạo sinh Thông Thiên Học biết rằng vào những thời điểm nhất định trong các Hệ hành tinh, các Dãy, các Cuộc tuần hoàn và các Giống dân, có những thời kỳ được gọi là “những ngày phán xét”. Ở giữa Cuộc tuần hoàn thứ tư chẳng hạn (trừ vài ngoại lệ), “cánh cửa đã khép lại” đối với thú vật muốn bước vào giới nhân loại. Sau đó “không còn chân thần nào có thể vào giới nhân loại. Cánh cửa đã đóng cho Chu kỳ này”. Ở giữa Cuộc tuần hoàn thứ năm, một “cuộc phân ly” hay “phán xét” vĩ đại sẽ xảy ra. Những chân ngã chưa đủ tiến hóa để bước tiếp với phần còn lại sẽ bị loại khỏi cho đến khi một Dãy tương lai cung ứng cho họ những cơ hội tiến hóa thích hợp.

It seems reasonable to assume that there should be corresponding judgment days within the lesser cycles and sub-cycles of human evolution. Probably the great catastrophe which destroyed Atlantis in 75,025 B.C. constituted a racial judgment day in which those unfit to continue with the Fourth Root Race were ejected. Similarly, the Great War and the present crisis may together be the judgment day for the Fifth Root Race. This whole concept is well presented in articles by Mr G. E. Sutcliffe in The Theosophist for July, August and September, 1916.

Có vẻ hợp lẽ khi giả định rằng cũng có những “ngày phán xét” tương ứng trong các chu kỳ và tiểu chu kỳ nhỏ hơn của tiến hóa nhân loại. Có lẽ thảm họa vĩ đại đã hủy diệt Atlantis vào năm 75.025 trước Công nguyên cấu thành một “ngày phán xét” về mặt giống dân, trong đó những kẻ không thích hợp để tiếp tục với Giống dân gốc thứ tư bị loại bỏ. Tương tự, Đại Chiến và cơn khủng hoảng hiện nay có thể cùng nhau là “ngày phán xét” của Giống dân gốc thứ năm. Toàn bộ quan niệm này được trình bày khá rõ trong các bài của ông G. E. Sutcliffe trên The Theosophist các số tháng Bảy, Tám và Chín, 1916.

Indications of this are not wanting. Two distinctly opposed ideals of human life are at this time presented in a clear cut and unmistakable manner for the choice of humanity both as individuals and as nations. These two ideals are democracy, which means freedom, justice and co-operation—national and international—on the one hand, and the present form of totalitarianism, which means their opposites, on the other. Thus the whole race today is being tested and, as one would expect at this Fifth Race period, the test is applied to the mind and the appeal is to the intuition. The test consists of the ability to recognise, accept and apply democratic ideals to human life. This issue is made unmistakably clear. No reconciliation, no compromise is possible; half measures will not avail. The unavoidable choice is before all nations and all men. Humanity must decide either to go forward to justice, liberty, brotherhood, co-operation, spirituality, or backward into tyranny, domination, warfare, materialism.

Những dấu hiệu cho điều này không thiếu. Hai lý tưởng về đời sống con người rõ rệt đối nghịch đang vào lúc này được trình bày theo một cách rành rọt và không thể lẫn lộn cho sự chọn lựa của nhân loại cả với tư cách cá nhân lẫn quốc gia. Hai lý tưởng ấy là dân chủ—nghĩa là tự do, công lý và hợp tác quốc gia và quốc tế—một bên; và hình thái toàn trị hiện nay—nghĩa là các đối cực của những điều ấy—bên kia. Do đó, toàn thể giống dân hôm nay đang được thử thách, và như người ta kỳ vọng vào thời kỳ Giống dân thứ năm, phép thử được áp cho cái trí và lời kêu gọi hướng tới trực giác. Phép thử gồm có năng lực nhận ra, chấp nhận và áp dụng các lý tưởng dân chủ vào đời sống con người. Vấn đề này được trình bày một cách không thể nhầm lẫn. Không thể điều hòa, không thể thỏa hiệp; nửa vời sẽ chẳng ích chi. Sự chọn lựa không thể tránh đã ở trước mọi quốc gia và mọi con người. Nhân loại phải quyết định hoặc tiến về phía công lý, tự do, huynh đệ, hợp tác, tinh thần; hoặc lùi trở lại vào bạo quyền, áp chế, chiến tranh, vật chất.

How will the nations choose? Who will pass the test of the present ‘judgment day’? Those nations who have already achieved democratic forms of government are at present standing firmly, if separately, for democracy. But the strain is great and the cost enormous. Will the democracies continue to stand firm and will they unite on this great issue? Will any dictator nations change over to a democratic form of government, or will the opposite occur? These are the vital questions and tests of this present sub-racial ‘judgment day’.

Các quốc gia sẽ chọn thế nào? Ai sẽ vượt qua phép thử của “ngày phán xét” hiện tại? Những quốc gia đã đạt được các hình thái chính quyền dân chủ hiện đứng vững, dẫu riêng rẽ, cho dân chủ. Nhưng áp lực rất lớn và cái giá khổng lồ. Liệu các nền dân chủ sẽ tiếp tục đứng vững và liệu họ có hợp nhất trên đại vấn đề này? Liệu bất kỳ quốc gia độc tài nào sẽ chuyển sang hình thái chính quyền dân chủ, hay điều ngược lại sẽ xảy ra? Đó là những câu hỏi sinh tử và phép thử của “ngày phán xét” tiểu chủng hiện nay.

Fourth, the Theosophist knows that the process of the development of the mind is inevitably fraught with grave danger. The over development and misuse of emotion plunged the Fourth Root Race into dire catastrophe. A similar over-development of the concrete mind is certain to produce at least equal difficulties and dangers. Since we are now at the critical stage when the qualities and powers of the analytical mind are undergoing intensive cultivation and those of the synthesising intelligence are also beginning to be displayed, a physical and mental battle, for the apparently opposed ideals of the two orders of mental life must inevitably be waged.

Thứ tư, người Thông Thiên Học biết rằng tiến trình phát triển của trí tuệ tất yếu đi kèm những nguy cơ trầm trọng. Sự phát triển thái quá và việc lạm dụng cảm xúc đã đẩy Giống dân gốc thứ tư vào tai họa khốc liệt. Một sự phát triển thái quá tương tự của cái trí cụ thể chắc chắn sẽ sản sinh tối thiểu những khó khăn và nguy hiểm tương xứng. Vì chúng ta hiện đang ở giai đoạn cực điểm khi các phẩm tính và quyền năng của cái trí phân tích được bồi dưỡng gắt gao, và những phẩm tính của trí năng tổng hợp cũng đang bắt đầu biểu lộ, một cuộc chiến cả về thể chất lẫn tinh thần—vì những lý tưởng tưởng như đối nghịch của hai trật tự đời sống trí năng—ắt hẳn sẽ được phát động.

Fifth, the student of Theosophy learns that whenever a new level of consciousness is entered upon by an individual or a race, resistance is always encountered, or, in occult terms, the dweller on the threshold must be met and overcome. Democracy as a political ideal is a physical expression of causal consciousness. Justice, liberty, freedom and internationalism are all causal qualities. In the process of racial evolution on the upward arc they are certain eventually to dominate human life for a time. Ultimately they will give place to the form of government selected by minds illumined by the light of intuition. This is that ‘autocracy of the wise which is the salvation of the foolish’. Before that the rule of democratic ideals must be established and in the process an intense resistance is certain to occur. The dweller on the threshold of the higher mind—monstrous manifestation of the mighty powers of the aggressive, individualistic, and separative concrete mind—must be met, fought, and in due course overcome.

Thứ năm, đạo sinh Thông Thiên Học học biết rằng bất cứ khi nào một cấp độ tâm thức mới được một cá nhân hay một giống dân bước vào, kháng lực luôn được gặp phải, hay, theo thuật ngữ huyền học, Kẻ Chận Ngõ phải được đối mặt và chế phục. Dân chủ như một lý tưởng chính trị là biểu hiện trên cõi hồng trần của tâm thức nguyên nhân. Công lý, tự do, giải phóng và chủ nghĩa quốc tế đều là những phẩm tính của nguyên nhân. Trên cung thăng thượng tiến hoá của tiến hóa giống dân, chúng chắc chắn cuối cùng sẽ thống trị đời sống con người một thời. Sau cùng, chúng sẽ nhường chỗ cho hình thái chính quyền được lựa chọn bởi những tâm trí được khai minh bằng quang minh của trực giác. Đó là “nền chuyên quyền của bậc trí giả, vốn là sự cứu rỗi cho kẻ ngu muội”. Trước đó, sự cai trị của các lý tưởng dân chủ phải được thiết lập, và trong tiến trình ấy, một kháng lực dữ dội chắc chắn sẽ xảy ra. Kẻ Chận Ngõ của thượng trí—một hiện hình khổng lồ của những quyền lực hùng mạnh của cái trí cụ thể hiếu chiến, cá nhân chủ nghĩa và phân ly—phải được đối mặt, chiến đấu, và đến kỳ đến hạn bị chế ngự.

Sixth, the student of Theosophy learns that time is with the race, that every year, every century, every sub-race period brings an increase in the power of spirit over matter, a decrease of the power of matter over spirit.

Thứ sáu, đạo sinh Thông Thiên Học học biết rằng thời gian đứng về phía giống dân; rằng mỗi năm, mỗi thế kỷ, mỗi thời kỳ tiểu chủng đều mang đến sự gia tăng quyền lực của tinh thần đối với vật chất, sự suy giảm quyền lực của vật chất đối với tinh thần.

In times of difficulty and danger he especially remembers the great truth, the inspiring fact of the immortality and indestructibility of the spirit of man. For these reasons the student of Theosophy can never give way to despair.

Trong những thời buổi khó khăn và hiểm nguy, y đặc biệt ghi nhớ đại chân lý, thực tại truyền cảm hứng về tính bất tử và bất hoại của thần tính nơi con người. Vì những lý do này, đạo sinh Thông Thiên Học không bao giờ có thể buông mình theo tuyệt vọng.

Nevertheless it must be admitted that in times of crisis it is not always easy to hold fast to one’s faith. Separated events, however disastrous, can generally be faced with a measure of equanimity. But subversive trends and retrogressive tendencies, gaining power before one’s eyes, are not so easily faced with equanimity.

Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng trong thời khủng hoảng, không phải lúc nào cũng dễ dàng giữ vững đức tin của mình. Những biến cố riêng rẽ, dẫu tai hại, thường có thể được đối diện với một mức độ thản nhiên nào đó. Nhưng những xu hướng phá hoại và thụt lùi, đang tăng thế ngay trước mắt, thì không dễ đối diện với sự thản nhiên như vậy.

Two such tendencies must produce profound misgivings in the mind of the student of Theosophy at this time. I refer first to the gradual rise of the rule of force, and therefore of fear, as a predominant principle in international relationships, and second, to the general acceptance of that rule as if it were something inevitable. On the one hand a definite sign was displayed during the racial crisis that humanity as a whole is well advanced upon the upward evolutionary arc. The world wide revulsion against war was a most encouraging phenomenon. Even in Germany, where militarism has been implanted into the mind of the people from early youth and where they were in ignorance of the fact that Czechoslovakia was not the only enemy against which they were preparing an attack, a great loathing of war was shown, as also an immense relief at the preservation of peace. All this was an immense gain. Yet it must be admitted that it was not idealism alone which produced this almost universal reaction against war. Another force was at work, is still at work moulding man’s outlook on life today. That force is fear. So great is this fear of modern warfare that humanity is in danger of accepting almost anything as an alternative. Fear is destroying, if not paralysing man’s power of judgment, is silencing the voice of wisdom and idealism. This fact is placing tremendous power in the hands of the rulers. They are able to play upon the fear of their own subjects as well as those of other nations, and so put into effect legislation, the moral qualities and permanent value of which are of minor consideration when compared with their immediate efficacy in averting war. Mass panic and national fear, is perhaps the greatest danger which threatens modem civilisation. It is causing the European nations and America to spend almost all their resources in the building up of armaments to the grave neglect of social, educational and administrative services.

Hai xu hướng như thế chắc chắn gây băn khoăn sâu sắc trong tâm của đạo sinh Thông Thiên Học vào lúc này. Tôi muốn nói, thứ nhất, sự trỗi dậy dần dần của sự thống trị bằng bạo lực—và bởi vậy là bằng sợ hãi—như một nguyên tắc trội bật trong quan hệ quốc tế; và thứ hai, sự chấp nhận phổ biến nguyên tắc ấy như thể nó là điều không thể tránh. Một mặt, một dấu hiệu rõ rệt được phô bày trong cơn khủng hoảng giống dân rằng nhân loại như một toàn thể đã tiến khá xa trên cung thăng thượng tiến hoá. Sự ghê tởm chiến tranh trên phạm vi toàn thế giới là một hiện tượng rất đáng khích lệ. Ngay cả ở Đức, nơi chủ nghĩa quân phiệt được tiêm vào tâm trí dân chúng từ thuở ấu thơ và nơi họ không biết rằng Tiệp Khắc không phải là kẻ thù duy nhất mà họ đang chuẩn bị tấn công, người ta vẫn biểu lộ một sự chán ghét chiến tranh rất lớn, cũng như một niềm nhẹ nhõm bao la trước việc giữ gìn hòa bình. Tất cả đều là một lợi ích to lớn. Tuy vậy, phải thừa nhận rằng không phải chỉ có lý tưởng đã sản sinh phản ứng gần như phổ quát ấy chống lại chiến tranh. Một lực khác đang và tiếp tục hoạt động, định hình quan niệm sống của con người hôm nay. Lực ấy là sợ hãi. Sự sợ hãi đối với chiến tranh hiện đại lớn đến nỗi nhân loại có nguy cơ chấp nhận gần như bất cứ điều gì như một giải pháp thay thế. Sợ hãi đang phá hủy, nếu không nói là làm tê liệt, năng lực phán đoán của con người, đang làm im tiếng nói của minh triết và lý tưởng. Sự kiện này đang đặt một quyền lực ghê gớm vào tay những nhà cầm quyền. Họ có thể khai thác nỗi sợ của chính thần dân mình cũng như của các dân tộc khác, và như thế đưa vào hiệu lực những đạo luật mà phẩm chất đạo đức và giá trị bền vững của chúng chỉ là mối bận tâm thứ yếu so với hiệu quả tức thời của chúng trong việc ngăn chặn chiến tranh. Hoảng loạn tập thể và sợ hãi quốc gia có lẽ là nguy cơ lớn nhất đang đe dọa nền văn minh hiện đại. Nó khiến các quốc gia châu Âu và nước Mỹ chi tiêu gần như toàn bộ nguồn lực vào việc xây dựng vũ trang, trong khi nghiêm trọng bỏ bê các dịch vụ xã hội, giáo dục và hành chính.

No real progress is now being made towards the establishment of a permanent peace. Even democracy itself is threatened from within itself by the presence of fear. In their dread of war the people are becoming complacent concerning increasing restriction and coercion supposedly necessary to preserve their nation in peace. Thus we are living today in an atmosphere of continual challenge, of threats to let loose mighty destructive forces, and, in consequence, of fear amounting to terror. Yet the approach and growing density of this miasma of fear is hardly noticed by the people.

Không có tiến bộ thực sự nào hiện đang được thực hiện hướng tới việc thiết lập một nền hòa bình vĩnh cửu. Ngay cả bản thân dân chủ cũng bị đe dọa từ bên trong bởi sự hiện diện của sợ hãi. Trong nỗi kinh hoàng trước chiến tranh, người dân đang trở nên dễ dãi đối với các sự gia tăng hạn chế và cưỡng chế—được cho là cần thiết để bảo toàn quốc gia của họ trong hòa bình. Như thế, ngày nay chúng ta đang sống trong một bầu không khí đầy thách thức liên tiếp, những lời đe dọa phóng thích các lực hủy diệt hùng mạnh, và hệ quả là nỗi sợ hãi lên tới mức kinh hoàng. Thế mà sự áp sát và mật độ gia tăng của làn sương độc sợ hãi này hầu như không được người dân chú ý.

In the face of this the student of Theosophy cannot but be filled with dismay; for he sees in it the danger of both mental and physical slavery and the very conditions in which tyranny, injustice, cruelty and corruption may be best expected to thrive. No Theosophist can contemplate this with equanimity. The very foundations of Theosophical idealism and activity are threatened. At this critical time, therefore, the work of The Theosophical Society is needed perhaps as never before. The opportunity of this decade is unique. The Society in its turn is probably passing through a great test, or ‘judgment day’. Shall we prove ourselves able to pass from theory to practice, from Theosophy inside the covers of a book and Theosophy within the walls of a lodge room, to Theosophy actively applied as a solution of the problems of the period of 1938 to 1950?

Đối diện với điều này, đạo sinh Thông Thiên Học không thể không tràn đầy lo âu; vì y thấy trong đó nguy cơ của cả nô lệ tinh thần và thể xác, và chính là những điều kiện trong đó bạo quyền, bất công, tàn ác và tham nhũng có thể được kỳ vọng phát triển mạnh nhất. Không người Thông Thiên Học nào có thể trông ngắm điều đó với sự thản nhiên. Những nền tảng của lý tưởng và hoạt động Thông Thiên Học đang bị đe dọa. Vào thời khắc then chốt này, công việc của Hội Thông Thiên Học có lẽ được cần đến chưa từng có trước nay. Cơ hội của thập niên này là độc nhất. Bản thân Hội, đến lượt mình, rất có thể đang đi qua một đại thử thách, hay một “ngày phán xét”. Chúng ta có chứng tỏ được mình có khả năng từ lý thuyết bước sang thực hành, từ Thông Thiên Học giữa hai bìa sách và Thông Thiên Học trong bốn bức tường của phòng hội, đến Thông Thiên Học được áp dụng tích cực như một giải pháp cho các vấn đề của giai đoạn 1938 đến 1950?

That, it would appear, is the test through which we, Theosophists, are now passing. Success would seem to depend far less upon the Organisation, the Movement itself than upon the individual thought and action of its members. Now for each one of us is the time for practical and active Theosophy.

Có vẻ như đó là phép thử mà chúng ta, những người Thông Thiên Học, đang đi qua. Thành công dường như phụ thuộc ít hơn vào Tổ chức, Phong trào tự thân, mà nhiều hơn vào tư tưởng và hành động cá nhân của các hội viên. Ngay lúc này, là thời điểm để mỗi người chúng ta thực hành Thông Thiên Học một cách thiết thực và tích cực.

One interesting development would seem to be foreshadowed by the events of the world crisis. Heretical though it may appear in these days when democracy is the highest political ideal, autocracy would seem to be foreshadowed as the inevitable form of government, national and international. True, democracy has not yet been tried. True no country, despite enfranchisement, is really democratic. But in the face of totalitarianism with its power of harnessing all the resources of the state and of swiftly co-ordinating and directing them to a common end, democracy with no powers to coerce, inevitably slow moving, is heavily handicapped. Obviously a compromise will have to be found between the full freedom of opinion and action, which is the democratic ideal, and the complete subjugation of the individual and the State, which is a totalitarian fact. In the discovery of that compromise there are almost certain to be experiments which lean too far towards subordination of individual freedom and rights. From these there will be a reaction, especially when the temporary danger appears to have passed.

Một diễn tiến thú vị xem chừng được báo trước bởi các sự kiện của cơn khủng hoảng thế giới. Dẫu có vẻ dị giáo trong những ngày mà dân chủ là lý tưởng chính trị cao nhất, chuyên quyền dường như được báo trước như hình thái chính quyền tất yếu—cả ở cấp quốc gia lẫn quốc tế. Đúng thế, dân chủ chưa từng được thử nghiệm đúng nghĩa. Đúng thế, không quốc gia nào, bất chấp quyền đầu phiếu, thực sự dân chủ. Nhưng đối mặt với chủ nghĩa toàn trị cùng quyền lực huy động mọi nguồn lực của quốc gia và nhanh chóng phối hợp, điều khiển chúng tới một mục tiêu chung, nền dân chủ—không có quyền cưỡng chế, tất yếu vận hành chậm chạp—bị bất lợi nặng nề. Hiển nhiên một sự thỏa hiệp sẽ phải được tìm ra giữa quyền tự do phát biểu và hành động đầy đủ—vốn là lý tưởng dân chủ—và sự khuất phục hoàn toàn của cá nhân và Nhà nước—vốn là thực tế toàn trị. Trong việc tìm ra sự thỏa hiệp đó, gần như chắc chắn sẽ có những cuộc thử nghiệm nghiêng quá xa về phía đặt dưới sự phục tùng những quyền tự do và quyền lợi cá nhân. Từ đó, sẽ có một phản ứng, nhất là khi hiểm họa tạm thời dường như đã qua đi.

What will the solution be? As I have already said, it will be a benevolent and wise autocracy. The establishment of such a regime depends first upon the development by the people of the power to recognise true greatness; second, their possession of both the intelligence and political machinery necessary to put their greatest citizens into office; third, upon the voluntary, and therefore contented, co-operation of the individual with the State and its rulers. A study of Theosophy shows that this will be the political system of the future.

Giải pháp sẽ là gì? Như tôi đã nói, đó sẽ là một nền chuyên quyền nhân ái và minh triết. Việc thiết lập một chế độ như thế trước hết tùy thuộc vào việc dân chúng phát triển năng lực nhận ra sự vĩ đại chân chính; thứ hai, vào việc họ có cả trí tuệ lẫn bộ máy chính trị cần thiết để đưa những công dân xuất sắc nhất của mình vào cương vị lãnh đạo; thứ ba, vào sự hợp tác tự nguyện—và vì thế an vui—của cá nhân với Nhà nước và những người cai quản. Nghiên cứu Thông Thiên Học cho thấy đó sẽ là hệ thống chính trị của tương lai.

Autocracy reigns in the inner worlds. Autocracy reigns in the Inner Government of the World. Eventually that which is now interior will become external. The Toltec Golden Age will be reproduced on this planet. This time man himself will produce and maintain it, though once more the guidance of the Adepts, now largely mental and intuitional rather than physical, will be the means of attainment.

Chuyên quyền ngự trị trong các thế giới nội giới. Chuyên quyền ngự trị trong Chính phủ Nội môn của Thế giới. Rồi rốt cuộc cái hiện nay là nội tại sẽ trở thành ngoại hiện. Thời Đại Hoàng Kim Toltec sẽ được tái hiện trên hành tinh này. Lần này chính con người sẽ tạo dựng và duy trì nó, dù một lần nữa, sự hướng dẫn của các Chân sư—nay phần lớn là trí tuệ và trực giác hơn là thể chất—sẽ là phương tiện đạt tới.

Theosophy in Australia, 3, 2 April 1939, p. 3

Theosophy in Australia, 3, 2 April 1939, tr. 3

The American Theosophist, Vol. 27, Issue 5, May 1939, p. 99

The American Theosophist, Tập 27, Số 5, Tháng Năm 1939, tr. 99

180

The Post-War Crusade for World Reform—Cuộc Thập tự chinh Hậu chiến vì Cải tổ Thế giới

A Critical Situation

Một Tình thế Nguy cấp

The writer or the speaker, if he would win a hearing, must avoid the utterance of truisms with an air of originality. In this article, I propose deliberately to enunciate certain truisms because some truths can be known so well that they are disregarded. In the realm of ideas, as well as of personalities, familiarity can breed contempt, or at least neglect.

Người viết hay người diễn thuyết, nếu muốn được lắng nghe, phải tránh việc nói ra những chân lý hiển nhiên mà lại làm ra vẻ độc đáo. Trong bài này, tôi chủ ý nêu lên vài chân lý hiển nhiên, vì có những sự thật được biết quá rõ đến nỗi bị bỏ qua. Trong cõi ý tưởng cũng như đối với nhân cách, sự quen thuộc có thể sinh khinh suất, hoặc ít nhất là lơ là.

Now for my truisms. After war comes peace. After destruction there must be reconstruction. Unparalleled in all history are both the present war and its destructiveness. Unparalleled therefore must also be man’s efforts and man’s sacrifices to establish peace upon a sure foundation and to build a new world.

Giờ đến những điều hiển nhiên của tôi. Sau chiến tranh là hòa bình. Sau hủy diệt ắt phải là tái thiết. Cả cuộc chiến hiện tại lẫn sức tàn phá của nó đều chưa từng có trong lịch sử. Vì thế, cũng phải chưa từng có là nỗ lực và hy sinh của con người để đặt nền hòa bình cho vững chắc và xây một thế giới mới.

Allied victory will by no means bring the crisis to an end. Thereafter an even greater crisis will at once arise, an even greater danger will have to be faced. A great conflict will then be waged, and again between those perpetual antagonists—the forces and intelligences of darkness and of light.

Chiến thắng của Phe Đồng Minh tuyệt nhiên không có nghĩa là khép lại cơn khủng hoảng. Một khủng hoảng còn lớn hơn sẽ lập tức trỗi dậy, một hiểm họa còn lớn hơn phải được đối mặt. Một cuộc xung đột lớn sẽ được phát động, và một lần nữa là giữa những đối thủ muôn thuở—các lực lượng và trí năng của bóng tối và của ánh sáng.

This coming struggle will not, however, be a war between nations, but between groups and individuals within the nations; it will be a civil war, a civic war, a social and economic war. One side will be represented by those who are determined at all costs to revert to pre-war conditions, to retain financial, industrial and political power, and the other side will be represented by all who are determined upon world-reconstruction and world-reform.

Tuy nhiên, cuộc tranh đấu sắp tới sẽ không phải là một cuộc chiến giữa các quốc gia, mà là giữa các nhóm và các cá nhân trong nội bộ các quốc gia; đó sẽ là một cuộc nội chiến, một cuộc chiến công dân, một cuộc chiến xã hội và kinh tế. Một phía sẽ là những ai quyết quay về tình trạng tiền chiến bằng mọi giá, giữ chặt quyền lực tài chính, công nghiệp và chính trị; phía còn lại sẽ là tất cả những ai quyết tâm tái thiết và cải tổ thế giới.

It is quite possible that this conflict will be more bitter and more ferocious than the second world war and that, in it likewise, victory will depend physically upon organised effort and concentration of power strategically employed. This is the critical situation, to face which preparations must immediately be made.

Hoàn toàn có thể là cuộc xung đột này sẽ còn cay nghiệt và tàn khốc hơn Thế chiến thứ hai và rằng, cũng như trong đó, thắng lợi về mặt vật chất sẽ tùy thuộc vào nỗ lực có tổ chức và việc tập trung quyền lực được vận dụng một cách chiến lược. Đây là tình thế nguy cấp, để đối diện với nó, các chuẩn bị phải được tiến hành ngay lập tức.

The present period is indeed amongst the most critical in world history. Only the intense and unified efforts of all who have at heart the welfare of the mass of humanity and the progress of the human race can ensure victory for the forces of light.

Quả thật thời kỳ hiện tại là một trong những giai đoạn nguy kịch nhất trong lịch sử thế giới. Chỉ có nỗ lực mãnh liệt và thống nhất của tất cả những ai đặt phúc lợi của quần chúng nhân loại và sự tiến bộ của giống người lên hàng đầu mới có thể đảm bảo thắng lợi cho các lực lượng ánh sáng.

What, exactly, do we, Theosophists, mean by the term ‘forces of light’? We mean the forces of Nature directed by man to beneficent purposes. The forces of darkness are those same forces directed to evil purposes. From this it is clear that there cannot be light forces and dark forces by themselves. Associated with either manifestation of the same energy there must be human beings. To these associations are given the names, ‘the powers or forces of light’ and ‘the powers or forces of darkness’. Both are represented by men of varying intellectual stature and capacity. Inevitably they clash, for their aims are opposite.

Chính xác thì, chúng ta, những nhà Thông Thiên Học, muốn nói gì khi dùng thuật ngữ ‘các lực lượng của ánh sáng’? Chúng ta muốn nói đến các lực của Tự nhiên được con người điều hướng tới những mục đích lợi lạc. Các lực của bóng tối là chính những lực đó được điều hướng tới các mục đích xấu ác. Từ đó hiển nhiên rằng không thể có những lực ánh sáng và lực bóng tối tự thân. Gắn liền với mỗi biểu hiện của cùng một năng lượng ấy tất phải có con người. Những sự kết hợp như thế được đặt tên là ‘các quyền lực hay lực lượng của ánh sáng’ và ‘các quyền lực hay lực lượng của bóng tối’. Cả hai đều được đại diện bởi những con người với tầm vóc và năng lực trí tuệ khác nhau. Tất yếu họ va chạm nhau, vì mục tiêu của họ đối nghịch.

Every human being reaches certain times in the course of evolution when the decision has to be made as to which side is to be taken. This is the real meaning of temptation, which is an experience of crisis in which a decision must be made. These crises occur continually and are of varying intensity. Minor tests occur perpetually. Major tests occur occasionally. In themselves, the minor tests are not decisive, but the aggregate decision is, or the balance of the decisions in minor temptations can be decisive when the big ones arrive.

Mọi con người đều đến những thời điểm nhất định trong tiến trình tiến hoá khi phải quyết định sẽ đứng về phía nào. Đây là ý nghĩa thực sự của cám dỗ, vốn là một kinh nghiệm trong cơn khủng hoảng mà ở đó phải đưa ra quyết định. Những khủng hoảng này diễn ra liên tục và có cường độ khác nhau. Những thử thách nhỏ xảy ra thường xuyên. Những thử thách lớn xảy ra đôi khi. Tự thân các thử thách nhỏ không mang tính quyết định, nhưng tổng hợp các quyết định thì có, hoặc cán cân các quyết định trong những cám dỗ nhỏ có thể mang tính quyết định khi những thử thách lớn ập đến.

Eventually a stand must be taken and adhered to ever after. This major judgement day in the life of the Ego comes soon after the development of spiritual awareness and of occult powers. It is referred to in the temptation of Jesus in the wilderness and of the Lord Buddha in the forest. Both chose the way of light and thereafter moved on to final deliverance, to become mighty Embodiments and agents of the forces of light. Those who succumb and choose the way of darkness become embodiments and agents of the forces of darkness. Members of both of these groups exist upon this planet.

Rốt cuộc, một lập trường phải được chọn và rồi được giữ vững mãi về sau. Ngày phán xử trọng đại này trong đời sống của Chân ngã đến không lâu sau sự phát triển nhận biết tinh thần và các năng lực huyền linh. Nó được nhắc đến trong cơn cám dỗ của Đức Jesus nơi hoang mạc và của Đức Phật trong rừng sâu. Cả hai đều chọn con đường ánh sáng và từ đó tiến đến giải thoát tối hậu, trở thành những Hiện thân hùng mạnh và những tác nhân của các lực lượng ánh sáng. Những ai khuất phục và chọn con đường bóng tối trở thành hiện thân và tác nhân của các lực lượng bóng tối. Cả hai hạng người này đều đang hiện hữu trên hành tinh này.

Periods of world-crisis represent judgement days, both for the whole race and for every individual who, however remotely, is involved in the issue. This is part of the significance to every human being of the present epoch. So great is the present crisis that it is possible that the twentieth century of the Christian era will prove to be of supreme importance amongst the thousands of centuries of the fourth incarnation of our earth.

Những thời kỳ khủng hoảng thế giới đại diện cho những ngày phán xét, vừa cho toàn thể giống người vừa cho mọi cá nhân dù ở mức độ xa gần nào dính líu vào vấn đề. Đây là một phần ý nghĩa của thời đại hiện tại đối với mọi con người. Khủng hoảng hiện nay lớn đến mức có thể thế kỷ hai mươi của kỷ nguyên Kitô giáo sẽ tỏ ra có tầm quan trọng tối thượng giữa hàng nghìn thế kỷ của kiếp hóa thân thứ tư của địa cầu chúng ta.

A Spiritual Crisis

Một Khủng hoảng Tinh thần

The world-crisis is, therefore, essentially a spiritual crisis. The challenge is one of principle, of morality, is religious in character. The power of world-religion ought, therefore, to be the deciding power, the greatest power in the great fight. Unfortunately, the word religion implies a group of doctrines and dogmas, an individual creed, evokes the concept of the division of the race into separate and mutually non-co-operative groups. This may explain the impotence of world religions to influence the great decision which has been so largely taken out of their hands and vested in purely temporal forces.

Do đó, khủng hoảng thế giới về bản chất là một khủng hoảng tinh thần. Thách thức là về nguyên tắc, về đạo lý, mang tính tôn giáo. Quyền năng của tôn giáo thế giới lẽ ra phải là quyền năng quyết định, quyền năng lớn nhất trong cuộc chiến lớn. Không may, từ ‘tôn giáo’ gợi lên một nhóm giáo lý và tín điều, một tín ngưỡng cá nhân, khơi lên ý niệm về sự chia rẽ nhân loại thành những nhóm riêng rẽ và không cộng tác lẫn nhau. Điều này có thể giải thích sự bất lực của các tôn giáo thế giới trong việc ảnh hưởng đến đại quyết định vốn đã phần lớn bị rút khỏi tay họ và trao cho các lực thuần túy thế tục.

I return to this subject later, but submit here that a new meaning must be given to the word religion, a new word take its place. That word is idealism. For without idealism the new world-order cannot be built.

Tôi sẽ trở lại chủ đề này sau, nhưng xin nêu ngay ở đây rằng cần trao một ý nghĩa mới cho từ tôn giáo, thậm chí một từ mới thay thế nó. Từ ấy là chủ nghĩa lý tưởng. Vì không có chủ nghĩa lý tưởng thì trật tự thế giới mới không thể được xây dựng.

Of first importance in this as in all buildings is the foundation. In the building of a civilisation the foundation is a basic idea, a philosophic verity. What is the fundamental truth upon which alone an ideal human society can be successfully founded? It is of course the universal Brotherhood of Man. Without this foundation all such building invariably fails; with it, all endures. Thus, if lasting peace and social progress are to proceed from the second world war, from foundation to rooftop and banner flying above, without or within, the Brotherhood of Man must be foundation, architecture and indestructible cement of the new civilisation which humanity will raise.

Điều quan trọng hàng đầu trong việc này cũng như trong mọi công cuộc xây dựng là nền móng. Trong việc xây dựng một nền văn minh, nền móng là một ý tưởng cơ bản, một chân lý triết học. Chân lý nền tảng nào là duy nhất có thể làm nền thành công cho một xã hội nhân loại lý tưởng? Tất nhiên đó là Tình Huynh đệ Đại đồng của Nhân loại. Không có nền móng ấy thì mọi xây dựng như thế đều thất bại; với nó, mọi sự bền vững. Vậy, nếu hòa bình lâu dài và tiến bộ xã hội phải nảy sinh từ Thế chiến thứ hai, thì từ nền móng đến mái nhà và lá cờ bay phấp phới trên cao, bên ngoài hay bên trong, Tình Huynh đệ của Nhân loại phải là nền móng, kiến trúc và chất kết dính bất hoại của nền văn minh mới mà nhân loại sẽ dựng xây.

At once the fresh difficulty is met, the first practical problem arises. It may be expressed in the form of a question. How may humanity at its present stage of evolution—individualistic and selfish—be brought to recognise the fact of human brotherhood? Such recognition must be interior, must be based upon experience, expansion of consciousness, vision. It cannot be conveyed or inculcated with success unless at the same time a change of consciousness occurs; for the Brotherhood of Man is a spiritual, not a physical fact. Its recognition is primarily a spiritual experience which produces enlightenment, whether intellectual, instinctual, or both. This interior experience and this enlightenment are essential to success in a world-reconstruction, for when they occur idealism, co-operation, service, naturally follow.

Lập tức ta gặp khó khăn mới, nảy sinh vấn đề thực tiễn đầu tiên. Có thể diễn đạt bằng một câu hỏi: Làm sao ở giai đoạn tiến hoá hiện nay—còn cá nhân chủ nghĩa và vị kỷ—nhân loại có thể được đưa đến chỗ thừa nhận sự kiện về tình huynh đệ nhân loại? Sự thừa nhận như thế phải là nội tâm, phải dựa trên kinh nghiệm, sự mở rộng tâm thức, thị kiến. Nó không thể được truyền đạt hay truyền dạy thành công nếu đồng thời không xảy ra một sự thay đổi tâm thức; vì Tình Huynh đệ của Nhân loại là một sự kiện tinh thần, không phải vật chất. Sự thừa nhận ấy trước hết là một kinh nghiệm tinh thần sinh ra soi sáng, dù về trí tuệ, theo bản năng, hay cả hai. Kinh nghiệm nội tâm này và sự soi sáng này là thiết yếu cho thành công của công cuộc tái thiết thế giới, vì khi chúng xuất hiện, lý tưởng, hợp tác, phụng sự sẽ tự nhiên tiếp nối.

Idealistic plans for society are the essential materials of world-reconstruction. When practical and soundly constructed they must therefore be welcomed and encouraged. When operated by idealists such plans will succeed. But the finest and noblest plans will fail unless those who execute them are idealists, knowers of the Brotherhood of Man. Thus recognition of Brotherhood is an absolute essential in world-reconstruction.

Những kế hoạch lý tưởng cho xã hội là vật liệu thiết yếu của tái thiết thế giới. Khi thực tiễn và được cấu trúc lành mạnh, chúng phải được hoan nghênh và khích lệ. Khi được vận hành bởi những người lý tưởng, các kế hoạch như thế sẽ thành công. Nhưng những kế hoạch tinh tế và cao quý nhất cũng sẽ thất bại trừ khi những người thi hành chúng là những người lý tưởng, những người biết rõ Tình Huynh đệ của Nhân loại. Vì vậy, sự thừa nhận Huynh đệ là điều tuyệt đối thiết yếu trong công cuộc tái thiết thế giới.

Two Further Problems

Hai Vấn đề Tiếp theo

Two further problems at once present themselves.

Lập tức có thêm hai vấn đề nữa xuất hiện.

Where are to be found these idealists who shall save the world and how shall they be enrolled?

Đâu là nơi tìm thấy những người lý tưởng sẽ cứu thế giới và làm sao để chiêu mộ họ?

The answer to the first question is: they constitute the best type of human being in every nation, regardless of class. They are the kindly, straightforward, decent, hard working, home-building citizens in every walk of life. All these must arise, awaken, combine and prepare to defend all they hold dear.

Câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất là: họ cấu thành mẫu người tốt nhất trong mọi quốc gia, bất kể giai tầng. Họ là những công dân tử tế, thẳng thắn, đứng đắn, chăm chỉ, xây dựng gia đình trong mọi nẻo đường đời. Tất cả những người ấy phải trỗi dậy, thức tỉnh, kết hợp và chuẩn bị bảo vệ tất cả những gì họ trân quý.

The answer to the question of enrolment is: by voluntary enlistment.

Câu trả lời cho câu hỏi về việc chiêu mộ là: bằng ghi danh tự nguyện.

The good citizens of the world must voluntarily enlist in a new international citizens’ army to fight by constitutional methods for the rights of man.

Những công dân tốt của thế giới phải tự nguyện ghi danh vào một đạo quân công dân quốc tế mới để bằng các phương thức hợp hiến đấu tranh cho các quyền của con người.

Before this enrolment can occur, there must be a world-awakening, a casting aside of sloth, apathy, self-centredness.

Trước khi có thể tiến hành việc ghi danh này, cần có một sự thức tỉnh toàn cầu, một sự vứt bỏ biếng lười, thờ ơ, vị kỷ.

How may mankind be awakened spiritually and intellectually to the recognition of the unity and solidarity of the human race? One life, one purpose, one goal? I know of but two answers. One of them is ‘by education’, and the other is ‘by religion’.

Làm sao nhân loại có thể được thức tỉnh về mặt tinh thần và trí tuệ để nhận ra sự nhất thể và tình liên đới của giống người? Một sự sống, một mục đích, một cứu cánh? Tôi chỉ biết có hai câu trả lời. Một là ‘bằng giáo dục’, và câu kia là ‘bằng tôn giáo’.

Education is put first only because the future lies with the youth of the world, always responsive to great ideals raised up as landmarks of the future. The earliest mental efforts of modem youth must be based upon the one great fundamental concerning the nature of man—that all men are diverse manifestations of one divine power, one divine life, one divine consciousness. Since all emerge from one source and all share in the same three divine attributes all are essentially one. This sublime and basic truth, existent at spiritual levels, makes brotherhood a fact at all levels.

Giáo dục được đặt lên trước chỉ vì tương lai thuộc về tuổi trẻ của thế giới, những người luôn đáp ứng với những lý tưởng lớn được dựng lên như các mốc tiêu của tương lai. Những nỗ lực trí tuệ sớm nhất của thanh niên hiện đại phải dựa trên chân lý nền tảng duy nhất về bản chất con người—rằng mọi người đều là những biểu hiện đa dạng của một quyền năng thiêng liêng duy nhất, một sự sống thiêng liêng duy nhất, một tâm thức thiêng liêng duy nhất. Vì tất cả cùng từ một nguồn cội và cùng chia sẻ ba thuộc tính thiêng liêng như nhau nên tất cả về bản chất là một. Chân lý cao cả và nền tảng này, hiện hữu ở các cấp độ tinh thần, làm cho huynh đệ trở thành một sự kiện ở mọi cấp độ.

Whilst it is obvious that young children cannot comprehend metaphysics, the brotherhood concept can pervade the whole school and be inculcated in every one of its departments. Its implications in terms of thought and conduct can certainly be inculcated. Such subjects as ethnology, history and geography can be taught as concerning one great family with many branches, inhabiting one earth with many countries. War itself, with all its attendant horrors, can be held up as the dreaded effect of the blindness of these branches of the human race to their true relationship to each other. World peace can he shown to be only attainable when mankind lives in recognition of brotherhood.

Dù hiển nhiên trẻ nhỏ không thể hiểu siêu hình học, khái niệm huynh đệ có thể thấm nhuần khắp trường học và được truyền dạy trong mọi bộ phận của trường. Các hàm ý của nó xét theo tư tưởng và hạnh kiểm chắc chắn có thể được truyền đạt. Những môn như nhân chủng học, lịch sử và địa lý có thể được dạy như là về một đại gia đình với nhiều chi nhánh, cư ngụ trên một trái đất với nhiều quốc gia. Bản thân chiến tranh, với tất cả kinh hoàng kèm theo, có thể được nêu lên như là hậu quả đáng sợ của sự mù quáng của những chi nhánh ấy của giống người đối với mối liên hệ thật sự của họ với nhau. Hòa bình thế giới có thể được chỉ ra là chỉ có thể đạt được khi nhân loại sống trong sự thừa nhận huynh đệ.

If education as a whole would accept this task and adopt this method, aggressive militarism could be extirpated in two generations. In imposing peace terms on the Axis countries, the adoption of this educational programme should be a first demand. For the debasement of education has been one of Hitler’s most effective weapons. Nazi children leave school thoroughly poisoned with the virus of militaristic and egoistic patriotism. War is glorified in Hitler schools. Blind and slavish obedience is inculcated. Worship by millions of young Germans of force and of the man who directs its destructive manifestations is the result obtained by present day German education.

Nếu toàn bộ nền giáo dục chấp nhận sứ mệnh này và áp dụng phương pháp ấy, chủ nghĩa quân phiệt hiếu chiến có thể bị nhổ tận gốc trong hai thế hệ. Khi áp đặt các điều khoản hòa bình lên các quốc gia Phe Trục, việc chấp nhận chương trình giáo dục này nên là yêu cầu đầu tiên. Vì sự làm băng hoại giáo dục là một trong những vũ khí hữu hiệu nhất của Hitler. Trẻ em Quốc xã rời trường học bị đầu độc triệt để bằng độc tố của chủ nghĩa quân phiệt và lòng ái quốc vị kỷ. Chiến tranh được tôn vinh trong các trường Hitler. Sự vâng lời mù quáng và nô lệ được truyền thụ. Sự sùng bái bằng triệu người trẻ Đức đối với bạo lực và đối với kẻ điều khiển các biểu hiện hủy diệt của nó là kết quả mà nền giáo dục Đức hiện thời đạt được.

Democratic education can learn much from Hitler. For if he has found in education a means to debase and to enslave, the democracies can and must use education to ennoble and set spiritually and intellectually free the millions of their young people. Great and ferocious destroyers, ruthless enemies of the race demonically brutal and cruel agents of evil have been trained and developed in German schools. Great reformers great leaders, great builders of the new world, can be trained and developed in the schools of democracy.

Nền giáo dục dân chủ có thể học được nhiều điều từ Hitler. Vì nếu y đã tìm thấy trong giáo dục một phương tiện để làm băng hoại và nô dịch, thì các nền dân chủ có thể và phải dùng giáo dục để nâng cao và giải phóng về mặt tinh thần và trí tuệ cho hàng triệu người trẻ của mình. Những kẻ hủy diệt hung tàn, những kẻ thù không khoan nhượng của giống người, những tác nhân của cái ác tàn bạo và quỷ quyệt đã được đào luyện và phát triển trong các trường học Đức. Những nhà cải cách lớn, những nhà lãnh đạo lớn, những người xây dựng vĩ đại của thế giới mới có thể được đào luyện và phát triển trong các trường học của nền dân chủ.

At this point it may be objected that such activity belongs rather to the religious than to the educational field. My personal answer to this objection is that, in the true meaning of the word ‘religion’, the two should never have been divorced. It is the materialisation of education that is so largely responsible for the present world condition. Orthodox religion has, of course, its own specific sphere—the Church. Unfortunately, it is largely restricted to that field, and this too has contributed to the development of the present situation. By orthodox religion I here refer rather to theological doctrine and ecclesiasticism than to any interior spiritual experience to which they are designed to lead.

Tại điểm này, có thể có người phản đối rằng hoạt động như thế thuộc về lĩnh vực tôn giáo hơn là giáo dục. Câu trả lời riêng của tôi cho phản đối này là, theo ý nghĩa đúng đắn của từ ‘tôn giáo’, lẽ ra hai lĩnh vực ấy không bao giờ bị chia rẽ. Chính sự duy vật hóa giáo dục đã góp phần rất lớn vào tình trạng thế giới hiện nay. Tôn giáo chính thống, dĩ nhiên, có lĩnh vực riêng của mình—Giáo hội. Đáng tiếc là nó phần lớn bị hạn chế trong lĩnh vực ấy, và điều này cũng góp phần tạo nên tình hình hiện tại. Khi nói ‘tôn giáo chính thống’ ở đây tôi muốn nói nhiều hơn đến giáo lý thần học và chủ nghĩa giáo quyền, chứ không phải bất cứ kinh nghiệm tinh thần nội tâm nào mà chúng vốn được thiết kế để dẫn dắt tới.

One of the most painful phenomena of the present world-crisis has been the inability of orthodox religion to influence the situation and the relegation of the great Heads of the various Christian Sects to positions of relative impotence as far as the progress of events has been concerned.

Một trong những hiện tượng đau lòng nhất của khủng hoảng thế giới hiện nay là sự bất lực của tôn giáo chính thống trong việc ảnh hưởng đến tình hình và việc các vị lãnh đạo lớn của các hệ phái Kitô giáo khác nhau bị đẩy vào vị trí tương đối bất lực trước tiến trình của các biến cố.

Religion and Reconstruction

Tôn giáo và Tái thiết

What part, then, can orthodox religion play in world reconstruction? The answers are, I think, two in number, both of them also truisms.

Vậy, tôn giáo chính thống có thể đóng vai trò gì trong công cuộc tái thiết thế giới? Tôi nghĩ có hai câu trả lời, và cả hai cũng là những điều hiển nhiên.

The first answer concerns the interior life and condition in our own Christian Faith. Out of the fiery ordeal of the second world-war must arise not only a new and far better world, but a new and far better Christian practice, a new and dynamic Christianity. One of the great healing forces available to the shattered nerves, the broken hearts and shell-shocked minds of post-war humanity, is that of a living Christian religion. In the Synods, the Churches, the factories, the offices, the schools (especially important) and the homes throughout all Christendom, there should be present the inspiring, unifying and consoling influence of a vital religious faith, satisfying to both mind and heart.

Câu trả lời thứ nhất liên quan đến đời sống và tình trạng nội tâm trong chính Đức Tin Kitô của chúng ta. Từ phép thử lửa của Thế chiến thứ hai phải trỗi dậy không chỉ một thế giới mới và tốt đẹp hơn nhiều, mà còn là một thực hành Kitô giáo mới và tốt đẹp hơn nhiều, một Kitô giáo mới đầy sinh lực. Một trong những lực chữa lành vĩ đại sẵn có cho các thần kinh rã rời, những trái tim tan vỡ và những tâm trí chấn thương vì bom đạn của nhân loại hậu chiến là một tôn giáo Kitô sống động. Trong các Công nghị, các Giáo hội, các nhà máy, văn phòng, trường học (đặc biệt quan trọng) và mái ấm khắp thế giới Kitô giáo, nên hiện diện ảnh hưởng truyền hứng, hợp nhất và xoa dịu của một đức tin tôn giáo sinh động, thỏa đáng cho cả lý trí lẫn tình cảm.

A new presentation of Christian principles is needed and, above all, to be acceptable to modem man, this statement must satisfy the intellect, must be clear, precise, logical, practical, intellectually unassailable. If it is to be the religion of the new age, Christianity must offer a logically acceptable alternative to atheism, agnosticism, Fascism, Communism and to the present privileged caste system in Democracy, must be made applicable to and eventually applied to every phase of human life—government, finance, education, housing, employment.

Cần có một trình bày mới về các nguyên tắc Kitô giáo và, trên hết, để được người hiện đại chấp nhận, tuyên ngôn này phải thỏa mãn trí tuệ, phải minh bạch, chính xác, lôgic, thực tiễn, không thể bị công kích về mặt trí tuệ. Nếu định là tôn giáo của kỷ nguyên mới, Kitô giáo phải đưa ra một giải pháp thay thế có tính lôgic cho chủ nghĩa vô thần, bất khả tri, Phát xít, Cộng sản và cho hệ thống đẳng cấp đặc quyền hiện nay trong nền Dân chủ, phải được áp dụng cho và rốt cuộc được áp dụng vào mọi lĩnh vực của đời sống con người—chính quyền, tài chính, giáo dục, nhà ở, việc làm.

The Church must not be dependent upon financial support and so inclined to favour the financially favoured classes and individuals.

Giáo hội không được lệ thuộc vào sự hỗ trợ tài chính để rồi có khuynh hướng thiên vị những giai tầng và cá nhân được ưu đãi về tài chính.

In other words, there is needed a Christianity utterly true to the original principles, sincerely believed in, and, as far as human weakness will allow, sincerely lived by all, from the highest cleric to the poorest parishioner.

Nói cách khác, cần có một Kitô giáo tuyệt đối trung thành với các nguyên tắc nguyên thủy, được tin một cách chân thành và, trong chừng mực yếu đuối con người cho phép, được sống một cách chân thành bởi tất cả mọi người, từ bậc giáo sĩ cao nhất cho tới giáo dân nghèo nhất.

The Church’s aid will be urgently needed in the third world-war for justice, equality, liberty, fraternity, as it is urgently needed in the second. In this war the Church must harness and launch against the enemies of progress the mighty forces of the human spirit and the human mind, must enhance their energy by the invoked and ever-ready power of the great Founder and His Communion of Saints. Scientifically directed prayer and aspiration could liberate upon earth such spiritual power as would sweep the forces of darkness right off the planet. For all modern wars, one past, one present and one to come, are in fact battles of power, fights between forces and beings of darkness and of light.

Sự trợ giúp của Giáo hội sẽ khẩn thiết cần đến trong cuộc chiến thứ ba cho công lý, bình đẳng, tự do, bác ái, như hiện đang khẩn thiết cần đến trong cuộc chiến thứ hai. Trong cuộc chiến này, Giáo hội phải huy động và phóng thích chống lại kẻ thù của tiến bộ những lực mãnh liệt của tinh thần và trí tuệ con người, phải gia tăng năng lượng của chúng bằng quyền năng luôn sẵn sàng được khẩn cầu của Đấng Sáng Lập vĩ đại và Cộng đoàn các Thánh của Ngài. Lời cầu nguyện và khát vọng được hướng dẫn một cách khoa học có thể giải phóng trên địa cầu một quyền năng tinh thần đến mức sẽ cuốn phăng các lực lượng bóng tối ra khỏi hành tinh này. Vì mọi cuộc chiến hiện đại, một đã qua, một đang diễn ra và một sắp đến, thực chất đều là những trận chiến quyền năng, những cuộc giao tranh giữa các lực và các hữu thể của bóng tối và của ánh sáng.

The Church, recognising this as an actuality and not an orthodox dogma, could through its members generate, and from its Founder evoke, a veritable torrent of spiritual force which would be irresistible.

Giáo hội, khi nhìn nhận điều này như một thực tại chứ không phải một tín điều chính thống, có thể qua các tín hữu của mình tạo sinh, và khơi gợi từ Đấng Sáng Lập của mình, một làn thác lực tinh thần đúng nghĩa vốn không thể cưỡng nổi.

This, I submit, is one part of the great call to Christianity today, the great work open to our Mother Church to Whom we, Christians, all look for guidance and for light.

Tôi xin thưa, đây là một phần của đại tiếng gọi gửi đến Kitô giáo ngày nay, là công trình lớn mở ra cho Mẹ Giáo Hội của chúng ta, Đấng mà chúng ta—những người Kitô hữu—cùng hướng về để tìm sự dẫn dắt và ánh sáng.

Success in this process depends primarily upon vision, reality of spiritual experience in the spiritual leaders and secondarily upon unity within the Church itself.

Thành công trong tiến trình này tùy thuộc trước hết vào thị kiến, vào thực tại của kinh nghiệm tinh thần nơi các nhà lãnh đạo tinh thần và thứ đến là vào sự hợp nhất ngay trong lòng Giáo hội.

Yet no single institution in the world is so divided against itself as the modem Christian Church with its innumerable denominations, each apparently far more concerned with difference of doctrine and jealously-guarded fields of activity than with the essential oneness of the divine life in all men and with Christ-like service to that life in every form.

Tuy nhiên không một thiết chế nào trên thế giới lại chia rẽ chống lại chính mình nhiều như Giáo hội Kitô hiện đại với vô số hệ phái, mỗi hệ phái dường như quan tâm đến khác biệt giáo lý và những lĩnh vực hoạt động được canh giữ ghen tuông hơn là đến sự nhất thể cốt yếu của sự sống thiêng liêng trong mọi người và đến sự phụng sự theo gương Chúa Kitô đối với sự sống ấy trong mọi hình hài.

This brings me to the second answer to the question of the part orthodox religion can play in world reconstruction. It concerns not only Christianity but all world-faiths.

Điều này đưa tôi đến câu trả lời thứ hai cho câu hỏi về phần việc mà tôn giáo chính thống có thể đảm đương trong công cuộc tái thiết thế giới. Nó không chỉ liên quan đến Kitô giáo mà đến tất cả các đức tin trên thế giới.

Orthodox religion throughout the world can set an example to the world. The fundamental need of humanity at this time is world unity and world co-operation in every department of human life. Therefore the great need in the field of religion is for unity and co-operation. If the dedicated representatives and Ministers of the All Highest the world over will not show a common front, how then can nations, classes and individuals be expected to do so?

Tôn giáo chính thống khắp thế giới có thể nêu gương cho thế giới. Nhu cầu căn bản của nhân loại lúc này là sự hợp nhất thế giới và hợp tác thế giới trong mọi lĩnh vực của đời sống con người. Do đó, nhu cầu lớn lao trong lĩnh vực tôn giáo là hợp nhất và hợp tác. Nếu những đại diện và Mục tử tận hiến của Đấng Tối Cao trên khắp thế giới không thể hiện một mặt trận chung, thì làm sao các quốc gia, giai tầng và cá nhân lại có thể được kỳ vọng làm như vậy?

The unity of doctrine and of purpose in all religions is being recognised. A Fellowship or Congress of World-Faiths movement already exists and but needs to be developed. For there are no real doctrinal differences in the way.

Sự nhất quán về giáo lý và mục đích trong mọi tôn giáo đang được nhìn nhận. Một phong trào Hiệp hội hay Đại hội các Tôn giáo Thế giới đã tồn tại và chỉ cần được phát triển. Vì không có khác biệt giáo lý thực sự nào cản đường.

There is but one Divine Source of all life, whether regarded personally or impersonally, whether worshipped by this name or by that. It is God.

Chỉ có một Nguồn Thiêng của mọi sự sống, dù được nhìn như hữu ngã hay vô ngã, dù được tôn thờ bằng danh xưng này hay danh xưng kia. Ấy là Thượng đế.

There is but one great and central ethical message in all true religion. It is: ‘Love one another’.

Chỉ có một sứ điệp đạo đức lớn lao và trung tâm trong mọi tôn giáo chân thật. Ấy là: ‘Hãy yêu thương nhau’.

There is but one basic doctrine in all world-faiths. It is: The Fatherhood of God and the spiritual unity or brotherhood of all men.

Chỉ có một giáo lý nền tảng trong mọi đức tin thế giới. Ấy là: Tình Cha của Thượng đế và sự hợp nhất tinh thần hay tình huynh đệ của mọi người.

There is but one description of man in all religions. It is: Ye are Gods, created in the image of your Creator, sharing in His life and in no way separate from Him.

Chỉ có một mô tả về con người trong mọi tôn giáo. Ấy là: Các ngươi là các thần, được tạo theo hình ảnh Đấng Tạo Hóa của mình, cùng chia sẻ sự sống của Ngài và không hề tách lìa khỏi Ngài.

There is but one enunciation of the meaning and purpose of human existence. It is: ‘Be ye perfect as your Father in heaven is perfect’, or spiritual evolution to ‘perfection’.

Chỉ có một lời tuyên ngôn về ý nghĩa và mục đích của sự hiện hữu con người. Ấy là: ‘Hãy nên hoàn thiện như Cha các ngươi trên trời là Đấng hoàn thiện’, hay tiến hoá tinh thần đến ‘sự hoàn thiện’.

There is but one statement to man concerning the location of the source of the divine power which ensures success in fulfilling this purpose. It is: Within you.

Chỉ có một lời tuyên cáo gửi đến con người về nơi chốn của nguồn quyền năng thiêng liêng bảo đảm thành công trong việc thực hiện mục đích này. Ấy là: Ở trong các ngươi.

There is but one esoteric wisdom in all religions. It is the existence of the ever-open Path of Swift Unfoldment and of Those who have trodden it to the end, the just men made perfect, the Communion of Saints.

Chỉ có một minh triết nội môn trong mọi tôn giáo. Ấy là sự hiện hữu của Thánh Đạo luôn rộng mở của Sự Khai Mở Mau Lẹ và của Những Đấng đã đi trọn Đạo ấy—những người công chính đã nên trọn, Cộng đoàn các Thánh.

Since these great spiritual verities are shared by all faiths, why then the absence of co-operation by the great world religions at this time of world crisis, of man’s anguish and man’s need?

Vì những chân lý tinh thần vĩ đại này được mọi đức tin chia sẻ, sao lại thiếu sự hợp tác của các tôn giáo thế giới trong thời điểm khủng hoảng toàn cầu, khi nhân loại đau khổ và cần kíp?

As the times are a challenge to world-education, so are they a challenge to world-religion. As brotherhood is the essential note to be struck in world-education of the reconstruction period and ever after, so unity is the great call to world-religion.

Như thời cuộc là một thách thức đối với giáo dục toàn cầu, thì cũng là một thách thức đối với tôn giáo toàn cầu. Như huynh đệ là âm điệu thiết yếu cần được đánh lên trong nền giáo dục thế giới của thời kỳ tái thiết và mãi về sau, thì hợp nhất là đại tiếng gọi gửi đến tôn giáo thế giới.

First, then, unity of action between all Christian denominations. Second, an active fellowship of world-faiths, each preserving its originality, its nomenclature and its followers. Together, all will unite to lead humanity to that vital religious experience which makes every man a natural reformer, a builder, a servant of his fellow men.

Vậy trước hết, là sự hợp nhất hành động giữa mọi hệ phái Kitô giáo. Thứ đến, một tình bằng hữu tích cực của các đức tin thế giới, mỗi tôn giáo vẫn giữ bản sắc, thuật ngữ và tín đồ của mình. Cùng nhau, tất cả sẽ hợp lực để dẫn đưa nhân loại đến kinh nghiệm tôn giáo sống động khiến mỗi người tự nhiên trở thành một nhà cải cách, một người xây dựng, một người phụng sự đồng loại.

Thus I bring my series of truisms to a close. I make no apology for them. Forgotten, neglected save perhaps by lip service, they must now be resuscitated, recognised and applied to life. For without them we shall sink back into complacent acceptance of the old evils. Clever, unscrupulous men and nations will grab once more. An exploiting minority will possess the finest fruits of the earth. The exploited majority will be denied them. And the vast array of the intermediate will fall back into that appalling apathy which is the greatest barrier to all progress.

Thế là tôi khép lại chuỗi điều hiển nhiên của mình. Tôi không xin lỗi vì chúng. Bị lãng quên, bị bỏ mặc ngoại trừ đôi lời khẩu hiệu, nay chúng phải được hồi sinh, được thừa nhận và được áp dụng vào đời sống. Vì nếu không có chúng, chúng ta sẽ trượt trở lại vào sự thỏa mãn chấp nhận những điều ác cũ. Những con người và quốc gia khôn khéo, vô lương sẽ lại một lần nữa chụp giật. Một thiểu số trục lợi sẽ chiếm đoạt những trái ngọt nhất của trái đất. Đa số bị bóc lột sẽ bị từ khước. Và một hàng ngũ mênh mông ở giữa sẽ rơi trở lại vào tình trạng thờ ơ khủng khiếp—rào cản lớn nhất đối với mọi tiến bộ.

This grave danger now threatening the race may be met and overcome alone by the united efforts of all true reformers who must possess the necessary knowledge and must be armed with the necessary power. Theosophy is that knowledge. Theosophy provides the necessary power.

Hiểm họa nghiêm trọng này, hiện đang đe dọa giống người, chỉ có thể được đối mặt và vượt qua bằng nỗ lực hợp nhất của tất cả những nhà cải cách chân chính—những người phải có tri thức cần thiết và phải được trang bị quyền năng cần thiết. Thông Thiên Học chính là tri thức ấy. Thông Thiên Học cung cấp quyền năng cần thiết.

The task of spreading Theosophy throughout the whole world is therefore of immediate importance. The hour is critical, the call imperative. Theosophy in its most acceptable and practical form must be put within reach of every intelligent human being.

Vì vậy, nhiệm vụ truyền bá Thông Thiên Học khắp thế giới là việc cấp bách. Thời khắc nguy kịch, tiếng gọi khẩn thiết. Thông Thiên Học dưới hình thức thích đáng và thực tiễn nhất phải được đưa đến tầm tay của mọi con người có trí tuệ.

Here is a great call to us all to take our especially Theosophical part in post-war reconstruction.

Đây là một tiếng gọi lớn gửi đến tất cả chúng ta để đảm đương phần việc đặc biệt theo tinh thần Thông Thiên Học trong công cuộc tái thiết hậu chiến.

The forthcoming reconstruction Convention can be of inestimable value in planning our answer to this great call.

Đại hội Tái thiết sắp tới có thể vô giá trong việc hoạch định câu trả lời của chúng ta cho tiếng gọi lớn lao này.

Theosophy in New Zealand, Vol. 3, No. 1, 1941, p. 12

Thông Thiên Học tại New Zealand, Tập 3, Số 1, 1941, tr. 12

181

A Reconstruction Convention—Một Đại hội Tái thiết

A Challenge

Một Thách thức

Many are the accusations which have been made against Theosophists. They have been charged with self-centredness, with coldness, crankiness, queemess, with pursuing an impracticable mysticism, with hiding personal inefficiency behind a shield of falsely assumed philosophic knowledge.

Đã có nhiều lời cáo buộc nhắm vào những nhà Thông Thiên Học. Họ bị buộc tội vị kỷ, lạnh lùng, lập dị, kỳ quặc, theo đuổi một chủ nghĩa thần bí bất khả thi, che giấu sự bất tài cá nhân sau tấm khiên của một tri thức triết học được gán ghép một cách giả tạo.

Intense individual interest in Theosophy, intensive study and personal application of Theosophy have perhaps contributed to the birth of these opinions. However that may be, now is the time to falsify them.

Sự quan tâm cá nhân mãnh liệt đến Thông Thiên Học, sự học tập chuyên sâu và áp dụng Thông Thiên Học cho bản thân có lẽ đã góp phần dẫn đến những quan điểm ấy. Dù thế nào, giờ là lúc bác bỏ chúng.

The planetary dimensions of the present war, of the spiritual, intellectual and physical reconstruction now forced upon humanity, collectively and individually, constitute both a challenge to us to prove our own worth and an opportunity to demonstrate the practical value of Theosophy. For in addition to a cataclysmic war, social and intellectual cataclysms are as obviously impending, if not already occurring.

Quy mô hành tinh của cuộc chiến hiện tại, của công cuộc tái thiết tinh thần, trí tuệ và thể chất nay bị áp đặt lên nhân loại, cả trên bình diện cộng đồng lẫn cá nhân, cấu thành vừa một thách thức để chúng ta chứng minh giá trị của chính mình vừa một cơ hội để minh chứng giá trị thực tiễn của Thông Thiên Học. Bởi ngoài một cuộc đại hồng thủy chiến tranh, những đại biến động xã hội và trí tuệ cũng rõ ràng đang rình rập, nếu không muốn nói là đã xảy ra.

New Zealand as a Social Laboratory

New Zealand như một Phòng thí nghiệm Xã hội

New Zealand is an epitome of the world. Its relative seclusion and compactness make it a perfect social laboratory. New Zealand is also the chosen birthplace and home of a new and advanced variant of Aryan Man and Aryan civilisation. New Zealand is a land set apart.

New Zealand là một thu nhỏ của thế giới. Sự tương đối cách biệt và tính cô đọng của nó khiến nơi đây trở thành một phòng thí nghiệm xã hội hoàn hảo. New Zealand cũng là nơi được chọn làm nơi khai sinh và quê hương của một biến thể mới và tiến bộ của người Arya và văn minh Arya. New Zealand là một miền đất được biệt lập.

The social conscience of the people of New Zealand is awake and stirring. The New Zealand Section of The Theosophical Society has therefore a unique opportunity to advance solutions of the many practical problems upon which the fulfilment of its country’s destiny depends. The forthcoming Reconstruction Convention may well inaugurate a new phase in the life and work of the New Zealand Section. Far reaching results both for the Movement and for the country may follow from its deliberations.

Lương tâm xã hội của người dân New Zealand đang thức dậy và chuyển động. Vì thế, Chi bộ New Zealand của Hội Thông Thiên Học có một cơ hội độc nhất để đề xuất các giải pháp cho nhiều vấn đề thực tiễn mà việc hoàn thành sứ mệnh của đất nước mình tùy thuộc vào đó. Đại hội Tái thiết sắp tới rất có thể mở đầu một giai đoạn mới trong đời sống và công tác của Chi bộ New Zealand. Những kết quả có tầm xa rộng cả cho Phong trào lẫn cho đất nước có thể theo sau các cuộc thảo luận của Đại hội.

Various reform movements exist and their leaders and members are susceptible to inspiration, guidance, light. It is within our power to give a great lead to this Nation as it gathers its ideas and forces for the great task of reconstruction which is even now in process. The present opportunity is unique and may never recur in its present dimensions. In order worthily to meet it, it will be necessary to plan, to prepare to give that lead.

Nhiều phong trào cải cách đang hiện hữu và lãnh đạo cùng hội viên của họ dễ được truyền cảm hứng, được dẫn dắt, được soi sáng. Chúng ta có thể đưa ra một định hướng lớn cho Quốc gia này khi nó tập hợp ý tưởng và lực lượng của mình cho đại nhiệm vụ tái thiết vốn đã và đang diễn ra. Cơ hội hiện thời là độc nhất và có thể không bao giờ lặp lại với quy mô như hiện nay. Để xứng đáng đón nhận nó, cần phải hoạch định, chuẩn bị để đưa ra định hướng ấy.

The Present Critical Hour

Giờ Khắc Nguy cấp Hiện tại

To this end, it is important that every member who possibly can should attend the forthcoming Reconstruction Convention. To this end it would be most valuable if all members—civil servants, physicians and nurses, parents and teachers, those in the professions, in business and in industry, farmers and townspeople—would now apply themselves and Theosophy to the solution of those problems of which they are most acutely aware, as well as to those which seem to them to be of most vital importance. Thus may the New Zealand Section answer the clarion call of this present critical hour in national and international existence.

Vì mục đích này, điều quan trọng là mọi hội viên có thể được đều nên tham dự Đại hội Tái thiết sắp tới. Vì mục đích này, sẽ rất quý giá nếu tất cả hội viên—công chức, thầy thuốc và y tá, cha mẹ và thầy cô, những người trong các ngành nghề, thương giới và công nghiệp, nông dân và thị dân—ngay từ bây giờ áp dụng bản thân và Thông Thiên Học vào việc giải quyết những vấn đề mà họ cảm nhận sâu sắc nhất, cũng như những vấn đề mà theo họ là hệ trọng nhất. Như thế, Chi bộ New Zealand có thể đáp lời hiệu lệnh vang dội của giờ khắc nguy cấp này trong sự hiện hữu quốc gia và quốc tế.

The Editor of this Journal has graciously offered me space for the brief expression of certain personal views concerning Reconstruction, and I gladly avail myself of the opportunity.

Tổng Biên tập của Tập san này đã rộng lượng dành cho tôi chỗ để bày tỏ ngắn gọn vài quan điểm cá nhân về Tái thiết, và tôi hân hoan nắm lấy cơ hội.

Basic Contributions

Những Đóng góp Căn bản

Theosophy seems to me to make at least three basic contributions to the problem of reconstruction. These are: The Universal Brotherhood of man is a fact in nature; the ideal state can only be founded and maintained by the ideal individual; education for idealism and service is a burning necessity.

Theo tôi, Thông Thiên Học đem lại ít nhất ba đóng góp căn bản cho vấn đề tái thiết. Đó là: Tình Huynh đệ Đại đồng của nhân loại là một sự kiện trong thiên nhiên; nhà nước lý tưởng chỉ có thể được xây dựng và duy trì bởi cá nhân lý tưởng; giáo dục cho lý tưởng và phụng sự là một nhu cầu cháy bỏng.

Of these three, Brotherhood applied to life is the alpha and omega, the basic principle and test of all professions of faith whether religious, political or social. Without Brotherhood reform will fail, reconstruction will be imperfect, and lasting peace be unattainable. This is axiomatic, so I will pass to the second basic principle.

Trong ba điều này, Huynh đệ áp dụng vào đời sống là đầu và cuối, là nguyên lý cơ bản và là phép thử của mọi lời tuyên xưng đức tin dù tôn giáo, chính trị hay xã hội. Không có Huynh đệ, cải cách sẽ thất bại, tái thiết sẽ bất toàn, và hòa bình lâu bền không thể đạt. Điều này là tiên đề, nên tôi sẽ chuyển sang nguyên lý căn bản thứ hai.

Totalitarianism denies the separate value, the rights and the freedom of the individual. Fascism relieves the individual of almost all responsibility save that of servile obedience, fanatical submission to mass regimentation, mental, emotional and physical. This is a reversal of the democratic principle that the state exists for and consists of its individual constituents.

Chủ nghĩa toàn trị phủ nhận giá trị riêng, quyền lợi và tự do của cá nhân. Chủ nghĩa phát xít trút bỏ gần hết trách nhiệm khỏi cá nhân, ngoại trừ nhiệm vụ phục tùng nô lệ, thần phục cuồng tín trước sự chỉnh tề hóa tập thể về trí, cảm và thân. Đây là sự đảo ngược nguyên tắc dân chủ rằng nhà nước tồn tại vì các cá nhân cấu thành nó và chính là tập hợp các cá nhân ấy.

Responsibility for the welfare of the state rests upon the individual, whether he is in office or not. This is an essential part of the social doctrine of the New Age. Fascism cannot succeed because it is retrogressive. The whole evolutionary trend is in the opposite direction. Indeed, as Brotherhood is the first, individual acceptance and fulfilment of civic, national and international responsibility is the second essential to harmonious and progressive national life, to successful and permanent reconstruction. Without the practical idealism of the individual, the wisest plans will fail. Amongst the essential qualities demanded in the successful builder of a new world, all important and basic is honesty.

Trách nhiệm đối với phúc lợi của nhà nước đặt lên cá nhân, bất kể y có ở trong công quyền hay không. Đây là một phần thiết yếu của học thuyết xã hội của Kỷ nguyên Mới. Chủ nghĩa phát xít không thể thành công vì nó phản tiến bộ. Toàn bộ xu thế tiến hoá đi theo hướng đối nghịch. Quả vậy, như Huynh đệ là điều thứ nhất, thì việc cá nhân chấp nhận và hoàn thành trách nhiệm công dân, quốc gia và quốc tế là điều thứ hai thiết yếu cho một đời sống quốc gia hài hòa và tiến bộ, cho một công cuộc tái thiết thành công và bền vững. Không có lý tưởng thực hành của cá nhân, những kế hoạch khôn ngoan nhất sẽ thất bại. Giữa những phẩm chất thiết yếu đòi hỏi nơi người xây dựng thành công một thế giới mới, điều quan trọng và cơ bản là sự lương thiện.

How is idealism to be awakened, how may honesty in private and public life be obtained? This brings us to the third principle, for there is only one answer. It is by means of education.

Làm sao đánh thức lý tưởng, làm sao đạt được sự lương thiện trong đời sống riêng tư và công cộng? Điều này đưa chúng ta đến nguyên lý thứ ba, vì chỉ có một câu trả lời. Ấy là bằng giáo dục.

Where else but in the home and the school can the latent idealism in man be awakened and directed? Education thus viewed assumes a position of supreme importance in all organised reform and especially in the present reconstruction era.

Ngoài gia đình và nhà trường ra, còn ở đâu có thể đánh thức và hướng dẫn lý tưởng tiềm ẩn trong con người? Nhìn như vậy, giáo dục đảm đương một vị trí tối thượng trong mọi cải cách có tổ chức và đặc biệt là trong thời đại tái thiết hiện nay.

What then shall the scholar be taught in addition to the present subjects? The Theosophist would surely answer that at school youth should learn, primarily, the individual’s true fraternal relationship, and therefore duty to all other individuals, to his neighbour, his fellow citizens and to his world. Recognition of that true relationship of Brotherhood, of the intimate spiritual bond between all men, will lead quite naturally to acknowledgement of individual responsibility and to its fulfilment through service.

Vậy ngoài các môn bây giờ, học sinh sẽ được dạy gì? Hẳn nhà Thông Thiên Học sẽ trả lời rằng ở trường, tuổi trẻ trước hết nên học mối quan hệ huynh đệ chân thật của cá nhân, và vì vậy là bổn phận đối với mọi cá nhân khác, với người láng giềng, đồng bào và thế giới của mình. Sự thừa nhận mối quan hệ chân thật ấy—Huynh đệ, tức mối dây liên kết tinh thần mật thiết giữa mọi người—sẽ dẫn một cách tự nhiên đến việc thừa nhận trách nhiệm cá nhân và hoàn thành nó qua phụng sự.

This acknowledgement and fulfilment need to be fostered and wisely directed. Therefore every branch of national and civic government should be shown to the pupils of every school. Each should leave school with knowledge both of the management of the world he or she then enters and of his or her responsibility to that world. The pupils’ own special capacities for service should also have been discovered and developed, and they guided in their expression in service to the community.

Sự thừa nhận và hoàn thành ấy cần được nuôi dưỡng và hướng dẫn một cách khôn ngoan. Vì vậy, mọi ngành của chính quyền quốc gia và đô thị nên được giới thiệu cho học sinh ở mọi trường. Mỗi em nên rời trường với hiểu biết cả về cách vận hành của thế giới mà em sắp bước vào lẫn về trách nhiệm của em đối với thế giới ấy. Năng lực đặc thù của chính các em cho việc phụng sự cũng nên được phát hiện và phát triển, và các em được hướng dẫn biểu lộ nó trong phụng sự cộng đồng.

If it be objected, as it is, that neither the country nor the parents can afford an education which is not of immediate commercial value and that brotherhood has no commercial value, I answer that humanity cannot afford another war.

Nếu có người phản đối—như quả có—rằng cả đất nước lẫn cha mẹ không thể kham nổi một nền giáo dục không có giá trị thương mại tức thời và rằng huynh đệ không có giá trị thương mại, thì tôi trả lời rằng nhân loại không thể kham nổi một cuộc chiến nữa.

Recognition of Brotherhood, the supreme importance of the individual, education for idealism and service—these three, it seems to me, are basic principles all important in the mighty task now before humanity of building a new world. To be of value they must be applied to the many practical problems confronting this country and the world at this time, and when especially peace is declared. To think out and discuss this application is a most interesting, valuable and truly Theosophical activity.

Sự thừa nhận Huynh đệ, tầm quan trọng tối thượng của cá nhân, giáo dục cho lý tưởng và phụng sự—theo tôi, ba điều này là những nguyên tắc căn bản, tối quan trọng trong đại nhiệm vụ trước mắt nhân loại là xây dựng một thế giới mới. Để có giá trị, chúng phải được áp dụng cho nhiều vấn đề thực tiễn đang đối mặt đất nước này và thế giới vào thời điểm này, nhất là khi hòa bình được tuyên bố. Việc suy nghĩ và thảo luận về sự áp dụng ấy là một hoạt động thú vị, hữu ích và thực sự theo tinh thần Thông Thiên Học.

A Reconstruction Convention is not only most appropriate, but, in the writer’s view utterly essential at this critical time. From the point of view of applied Theosophy, nothing else matters.

Một Đại hội Tái thiết không chỉ hoàn toàn thích đáng, mà theo quan điểm của người viết, ở thời khắc nguy cấp này là tuyệt đối thiết yếu. Xét theo góc độ Thông Thiên Học ứng dụng, không điều gì khác đáng kể.

A study of the basic principles involved can be most significant, not only for national and world reconstruction, but also and especially for that individual self-reconstruction without which world reconstruction must inevitably fail.

Việc nghiên cứu các nguyên tắc căn bản liên hệ có thể mang ý nghĩa sâu xa, không chỉ cho tái thiết quốc gia và thế giới, mà còn và đặc biệt là cho sự tự tái thiết của từng cá nhân—điều nếu thiếu thì tái thiết thế giới ắt không tránh khỏi thất bại.

World Reconstruction and Self Reconstruction

Tái thiết Thế giới và Tự tái thiết

World reconstruction and self reconstruction—these are as the twin foci of an ellipse, interdependent and inseparable. It is greatly to be hoped that both will receive their due meed of attention at our forthcoming Convention. If lodges and members co-operate to the full at this most critical epoch, this Reconstruction Convention will indeed be a most vital, interesting and inspiring occasion.

Tái thiết thế giới và tự tái thiết—hai điều ấy như hai tiêu điểm của một hình ellipse, tương hỗ và bất khả phân. Rất hy vọng rằng cả hai sẽ nhận được phần quan tâm xứng đáng tại Đại hội sắp tới của chúng ta. Nếu các chi hội và hội viên hợp tác hết mình trong giai đoạn cực kỳ nguy cấp này, thì Đại hội Tái thiết này thực sự sẽ là một dịp trọng đại, phong phú và truyền cảm hứng.

Let us all meet in Auckland at Convention. Let us take counsel together as to our part in the present world crisis in which, although the war is still far from being won, plans for the post war world must now be made. And above all, in our mutual search for light let us seek inspiration and guidance from Those Elder Brethren of Humanity to whom the Theosophical Society owes its origin and its life, Who comprehend perfectly the one Great Plan and Who must be exceedingly close to mankind at this great juncture in the life of our planet.

Chúng ta hãy cùng gặp nhau tại Auckland trong kỳ Đại hội. Chúng ta hãy cùng nhau bàn bạc về phần việc của mình trong cuộc khủng hoảng thế giới hiện tại, trong đó, dù chiến tranh còn lâu mới kết thúc, các kế hoạch cho thế giới hậu chiến giờ đây phải được soạn thảo. Và trên hết, trong cuộc tìm kiếm chung ánh sáng, chúng ta hãy tìm cảm hứng và dẫn dắt từ Những Huynh Trưởng của Nhân loại mà Hội Thông Thiên Học mang ơn về sự khai sinh và sức sống của mình, Các Ngài là những Đấng thấu suốt trọn vẹn một Thiên Cơ Vĩ Đại và chắc hẳn đang ở rất gần nhân loại trong khúc quanh trọng đại này của đời sống hành tinh chúng ta.

Theosophy in New Zealand, Vol. 2, October 1941, p. 130

Thông Thiên Học tại New Zealand, Tập 2, Tháng Mười 1941, tr. 130

182

Will the War Change the World?—Liệu Chiến tranh có Thay đổi Thế giới?

I speak to you as an individual whose lot in life it has been for some fifteen years to wander about and around the world. I am still wandering, and as I go I study, observe, discuss.

Tôi nói với quý vị như một cá nhân mà số phận suốt chừng mười lăm năm qua là phiêu bạt khắp nơi trên thế giới. Tôi vẫn còn đang đi, và khi đi tôi học hỏi, quan sát, thảo luận.

In my travels I have met men with strange ideas, with strange thoughts, and, in the East, men with strange powers, and I have examined these three kinds of strangeness.

Trong những chuyến đi, tôi đã gặp những người có ý tưởng lạ, những người có tư tưởng lạ, và, ở phương Đông, những người có năng lực lạ, và tôi đã khảo sát cả ba dạng lạ lùng ấy.

If you ask these men why we are here, they will say, to evolve into perfect wisdom. If you ask them why man suffers, they will say, because he violates natural laws. If you ask them why man violates natural laws, they will say because of certain undesirable attributes of human nature. If you ask how suffering may cease, they will say, by changing human nature for the better so that man does not violate natural laws.

Nếu quý vị hỏi những người ấy tại sao chúng ta hiện hữu, họ sẽ nói, để tiến hoá tới minh triết hoàn hảo. Nếu quý vị hỏi họ tại sao con người đau khổ, họ sẽ nói, vì con người vi phạm các định luật tự nhiên. Nếu quý vị hỏi vì sao con người vi phạm các định luật tự nhiên, họ sẽ nói vì những thuộc tính không đáng mong muốn nào đó của bản tính con người. Nếu quý vị hỏi làm sao nỗi khổ có thể dứt, họ sẽ nói, bằng cách cải biến bản tính con người theo hướng tốt hơn để con người không vi phạm các định luật tự nhiên.

If you then ask how human nature may be changed, they answer with one voice, these wise men, ‘by thought’, adding that ‘what a man thinks upon he becomes’.

Nếu rồi quý vị hỏi làm sao bản tính con người có thể được cải biến, những người khôn ngoan ấy đồng thanh đáp: ‘bằng tư tưởng’, và thêm rằng ‘con người nghĩ gì thì trở thành cái ấy’.

If you ask how to help other people to change themselves, they say, by teaching them the truth about themselves and their place in Nature and amongst their fellow men.

Nếu quý vị hỏi làm sao giúp người khác tự thay đổi, họ nói, bằng cách dạy họ sự thật về chính họ và vị trí của họ trong Tự nhiên và giữa đồng loại.

With these ideas in my mind, I have been contemplating the pronouncement that up to the present thirteen million human beings have been killed in this war. I have been facing the fact that the war is not yet over. It may not even be half over. Though one does not wish to be pessimistic, before it finishes another thirteen million may have perished, ourselves amongst them. For there is no absolute assurance that the three Axis powers and the four pro-Axis powers will be defeated before they have carried the war over most of the earth.

Với những ý tưởng ấy trong tâm trí, tôi đã trầm tư về lời tuyên bố rằng cho đến nay mười ba triệu con người đã bị giết trong cuộc chiến này. Tôi đối diện sự thật rằng chiến tranh chưa kết thúc. Thậm chí có thể còn chưa đi được nửa đường. Dù người ta không muốn bi quan, thì trước khi kết thúc có thể mười ba triệu người nữa đã chết, có cả chúng ta trong số đó. Vì không có đảm bảo tuyệt đối nào rằng ba cường quốc Phe Trục và bốn cường quốc thân Trục sẽ bị đánh bại trước khi họ đã mang chiến tranh đi khắp phần lớn địa cầu.

Therefore I find it difficult wholly to keep my mind from either the present unparalleled world situation, or from the two colossal problems of post war reconstruction and the prevention of a third world war.

Bởi vậy, tôi thấy khó mà giữ tâm trí mình hoàn toàn không nghĩ đến tình hình thế giới chưa từng có hiện nay, hoặc đến hai vấn đề đồ sộ là tái thiết hậu chiến và ngăn chặn một cuộc thế chiến thứ ba.

Of course one can take the historical view and from it realize that the present war will cease, life go on, and new civilisations and cultures arise. One can also know that civilisations may be destroyed, but Civilisation cannot. One can further say to oneself that the Soul of man is immortal and that only bodies die. All these statements are true. But one must also face physical facts, and, if one really cares at all about human happiness, one must seek for the solutions of the problems they present.

Dĩ nhiên, ta có thể lấy quan điểm lịch sử và từ đó nhận ra rằng chiến tranh hiện tại rồi sẽ chấm dứt, đời sống vẫn tiếp diễn, và những nền văn minh và văn hóa mới sẽ trỗi dậy. Ta cũng có thể biết rằng các nền văn minh có thể bị hủy diệt, nhưng Văn minh thì không. Ta còn có thể tự nhủ rằng Linh hồn con người là bất tử và chỉ thân xác là chết. Tất cả những lời khẳng định ấy đều đúng. Nhưng người ta cũng phải đối diện các thực tại vật chất, và, nếu thực sự quan tâm đến hạnh phúc con người, người ta phải tìm ra các giải pháp cho những vấn đề mà các thực tại ấy trình bày.

What organized agencies and forces exist in the world which are truly constructive and could be made truly remedial?

Có những cơ quan và lực lượng tổ chức nào trên thế giới vốn thực sự xây dựng và có thể được làm cho thực sự cứu chữa?

The answer is: Religion, Statecraft and Education. Of these three which offers the greatest hope? The clergyman will answer Religion, the politician, Statecraft, but I think Education.

Câu trả lời là: Tôn giáo, Thuật trị quốc và Giáo dục. Trong ba điều này, điều nào đem lại hy vọng lớn nhất? Giáo sĩ sẽ trả lời Tôn giáo, chính trị gia sẽ nói Thuật trị quốc, nhưng tôi nghĩ là Giáo dục.

Has presentday education any direct relation to these problems? If not, can it be brought into relationship with them? Can education be used to solve world problems?

Nền giáo dục hiện nay có liên hệ trực tiếp nào với những vấn đề này không? Nếu không, có thể làm cho nó có liên hệ với chúng chăng? Liệu giáo dục có thể được dùng để giải quyết các vấn đề thế giới không?

Let us take the present war as an example of a world problem. At the present stage of human evolution, war is a symptom of a grave defect in human character. The naked aggression, the cynical and frank barbarism, the avowal that might is right, and the complete indifference to human rights and to human suffering displayed by the Axis powers are a dreadful indictment of the character of modem man.

Hãy lấy cuộc chiến hiện tại làm ví dụ về một vấn đề thế giới. Ở giai đoạn tiến hoá hiện nay của con người, chiến tranh là triệu chứng của một khuyết tật nghiêm trọng trong tính cách con người. Sự xâm lăng trần trụi, sự man rợ trơ tráo và công khai, lời tuyên bố rằng mạnh được yếu thua, và sự thờ ơ hoàn toàn đối với các nhân quyền và nỗi thống khổ con người mà Phe Trục phô bày là một bản cáo trạng kinh hoàng về tính cách của con người hiện đại.

If it be affirmed that these characteristics are limited to the group of peoples comprising the Axis forces, I fear that such a contention cannot be supported. Granted Hitlerism is a disease existing in an extreme form in Germany, but the qualities so blatantly displayed by the Germans, Italians and Japanese exist and are displayed, if less blatantly, throughout the whole world. Cruel, ruthless, cunning and unscrupulous men exist everywhere, and everywhere they seek and grasp power. Possessing it, they unhesitatingly use it for their own selfish and individualistic ends. Cruelty, ruthlessness, cunning and unscrupulousness are attributes of mankind at the present stage of human evolution.

Nếu có ai khẳng định rằng những đặc tính ấy chỉ giới hạn trong nhóm dân tộc cấu thành lực lượng Phe Trục, tôi e rằng lập luận đó không thể đứng vững. Thừa nhận rằng Chủ nghĩa Hitler là một căn bệnh ở dạng cực điểm tại Đức, nhưng những phẩm chất mà người Đức, Ý và Nhật phô bày trơ tráo như thế tồn tại và được phô bày, dù ít lộ liễu hơn, khắp nơi trên thế giới. Những con người tàn nhẫn, độc ác, xảo quyệt và vô lương có ở mọi nơi, và ở đâu họ cũng mưu cầu và chụp lấy quyền lực. Khi nắm quyền, họ không do dự dùng nó cho những mục đích vị kỷ và cá nhân chủ nghĩa của mình. Sự tàn nhẫn, độc ác, xảo quyệt và vô lương là những thuộc tính của nhân loại ở giai đoạn tiến hoá hiện nay.

How then may these characteristics of human nature be eradicated quickly, rather than by the slow processes of evolution? How may these defects be cured?

Vậy làm sao những đặc tính này của bản tính con người có thể được trừ bỏ nhanh chóng, thay vì bằng các tiến trình chậm chạp của tiến hoá? Làm sao chữa được những tật ấy?

I know of but one answer. It is: by education. Of course, I do not mean by education as it is now. I mean by an educational system specially designed to cure them.

Tôi chỉ biết một câu trả lời. Ấy là: bằng giáo dục. Tất nhiên, tôi không nói bằng nền giáo dục như hiện nay. Tôi nói bằng một hệ thống giáo dục được thiết kế đặc biệt để chữa trị chúng.

The opportunity of education is unique. The whole human family in its formative years passes through the hands of the teacher. I cannot escape the conviction, first that, given the direction and the time or periods, the teacher holds the solution in his or her hands and, second, that the time is at hand when we shall be forced by circumstances to extend our whole view of the scope and field of education.

Cơ hội của giáo dục là độc nhất. Toàn thể đại gia đình nhân loại trong những năm định hình đều đi qua tay người thầy. Tôi không thể thoát khỏi xác tín trước hết rằng, nếu được định hướng và có đủ thời gian hay giai đoạn, người thầy nắm giữ lời giải trong tay mình; và thứ đến rằng, thời khắc đã đến khi chúng ta sẽ buộc phải bởi hoàn cảnh mà mở rộng toàn bộ cái nhìn của mình về phạm vi và lĩnh vực của giáo dục.

Under present conditions the teacher cannot specialise in character building. He may say first that he is not responsible for human nature, and second that he is not a physician of souls. Both of these contentions are admitted. The teacher did not create man, and by the present methods of education he cannot turn every scholar into a saint, even if that were advisable. But the teacher and the educational system can and do mould character, and, to some extent, decide in which direction human energies shall be turned.

Trong điều kiện hiện tại, người thầy không thể chuyên về lập hạnh. Thầy có thể nói trước hết rằng mình không chịu trách nhiệm về bản tính con người, và thứ đến rằng thầy không phải là thầy thuốc của linh hồn. Cả hai lập luận này đều được thừa nhận. Người thầy không tạo ra con người, và bằng những phương pháp giáo dục hiện nay, thầy không thể biến mỗi học sinh thành một vị thánh, dù điều đó có đáng làm chăng nữa. Nhưng người thầy và hệ thống giáo dục có thể và vẫn đang nhào nặn tính cách, và, ở mức nào đó, quyết định các hướng mà năng lực con người sẽ được chuyển hướng vào.

Could not these results be greatly increased? I hope so, for the only solution of the present problem of the capacity and tendency for man to injure and ruin himself that I can see is for the teacher definitely to become responsible for human nature and to become a maker of men and, where necessary, a physician of souls.

Những kết quả ấy chẳng lẽ không thể được gia tăng rất nhiều? Tôi mong là có thể, vì lời giải duy nhất mà tôi thấy cho vấn nạn hiện nay là năng lực và khuynh hướng tự hại của con người là người thầy phải dứt khoát trở thành người chịu trách nhiệm cho bản tính con người và trở thành người tạo thành nhân cách và, khi cần, một thầy thuốc của linh hồn.

I am aware that it may here be objected that such is not the teacher’s task, but that of the Minister of Religion. The Minister of Religion has had the opportunity for centuries, and if it really is his responsibility, most lamentably has he failed.

Tôi biết rằng sẽ có người phản đối ở đây rằng đó không phải là nhiệm vụ của thầy giáo, mà là của Giáo sĩ. Giáo sĩ đã có cơ hội trong nhiều thế kỷ, và nếu thực sự đó là trách nhiệm của họ, thì họ đã thất bại thảm hại.

During the historical period there have been eight thousand wars, and in the last three hundred years two hundred and ninety wars in Europe. Twenty years ago a World War ended. A second World War is now being waged. The problem of how to prevent a third war from following it is of supreme urgency.

Trong thời kỳ lịch sử đã có tám nghìn cuộc chiến, và trong ba trăm năm qua có hai trăm chín mươi cuộc chiến ở châu Âu. Hai mươi năm trước một cuộc Thế chiến đã kết thúc. Một cuộc Thế chiến thứ hai hiện đang diễn ra. Vấn đề làm sao ngăn một cuộc chiến thứ ba tiếp theo là khẩn cấp tối thượng.

I am forced to the conclusion that to solve it the aspect of education which directly affects human character and which inculcates civic mindedness and a recognition of national responsibility must be developed and greatly extended. This may be a dream hopeless of fulfilment, but it is a dream which in these days is constantly with me.

Tôi buộc phải đi đến kết luận rằng để giải quyết vấn đề ấy, khía cạnh của giáo dục tác động trực tiếp đến tính cách con người và truyền dạy tinh thần công dân cùng sự thừa nhận trách nhiệm quốc gia cần được phát triển và mở rộng mạnh mẽ. Điều này có thể là một giấc mơ không thể thành hiện thực, nhưng đó là một giấc mơ trong những ngày này luôn ở cùng tôi.

I am aware of the difficulties. I am aware that most radical and disturbing changes would be needed, for at present education is not primarily concerned with character, psychology and world planning and building. I am aware that capacity to earn a living is the prime necessity for almost every boy and girl, and that parents practically demand it as a result of school life. I am aware that the majority of children leave school at the end of primary education and so are too young for the development of civic-mindedness and the development of the higher qualities of character. I know this, but I cannot escape from two convictions. The first is that a way out of, over or around these obstacles must be found. The second is that, if it is not found, Europe will again be in danger of collapse. For the causes of the present collapse will still be present and active.

Tôi ý thức về các khó khăn. Tôi biết rằng cần những thay đổi hết sức căn bản và gây xáo trộn, vì hiện tại giáo dục không chủ yếu quan tâm đến tính cách, tâm lý học và việc quy hoạch, xây dựng thế giới. Tôi biết rằng năng lực kiếm sống là nhu cầu hàng đầu cho hầu như mọi cậu bé và cô bé, và cha mẹ hầu như đòi hỏi điều đó như một kết quả của đời sống học đường. Tôi biết rằng đa số trẻ em rời trường vào cuối bậc tiểu học và như vậy còn quá non để phát triển tinh thần công dân và các phẩm chất cao hơn của tính cách. Tôi biết điều đó, nhưng tôi không thể thoát khỏi hai xác tín. Thứ nhất là phải tìm được một lối ra, vượt qua hay vòng qua các chướng ngại ấy. Thứ hai là, nếu không tìm được, châu Âu sẽ lại một lần nữa đối diện nguy cơ sụp đổ. Vì những nguyên nhân gây nên sự sụp đổ hiện nay vẫn sẽ hiện diện và tác động.

Sometimes it is pleasant and indeed useful to permit oneself to be Utopian. Besides, creative imagination is a positive use of the mind and such thinking is powerfully formative, not only upon one’s own mind, but upon the world mind. Let me then state a hypothesis.

Đôi lúc cho phép mình mang tinh thần không tưởng là điều thú vị và thực sự hữu ích. Hơn nữa, sự tưởng tượng sáng tạo là một cách vận dụng tích cực của trí tuệ và lối tư duy như thế có sức định hình mạnh mẽ, không chỉ lên chính tâm trí mình, mà còn lên tâm trí thế gian. Vậy để tôi nêu một giả thuyết.

Supposing the teacher were able to include character building as an essential and primary objective of education.

Giả sử người thầy có thể đưa lập hạnh vào như một mục tiêu thiết yếu và hàng đầu của giáo dục.

Supposing that in addition to imparting knowledge, to training in efficiency and to preparing for life, the teacher deliberately sought to awaken youth to a vision of excellence, to make men, great men, noble men, civic minded men, honest men, chivalrous men, men of goodwill, of sterling character, men who loved and served their fellow men.

Giả sử rằng ngoài việc truyền đạt tri thức, rèn luyện hiệu suất và chuẩn bị cho đời sống, người thầy còn chủ ý đánh thức tuổi trẻ trước một thị kiến về sự ưu tú, tạo nên con người, con người lớn lao, con người cao thượng, con người giàu tinh thần công dân, con người lương thiện, con người trượng nghĩa, người thiện chí, người có phẩm cách kiên định, người yêu thương và phụng sự đồng loại.

Supposing the development of corresponding ideal types of women were made an educational objective.

Giả sử việc phát triển những mẫu hình lý tưởng tương ứng của phụ nữ được đặt làm mục tiêu giáo dục.

Supposing that education turned out statesmen who cared nought for office and power, but cared supremely for the State, and lawyers who were tried and trusted friends of the family, men who put helping people along first, and acquiring a big bank balance second. (Some lawyers already do this.)

Giả sử giáo dục cho ra những chính khách chẳng màng chức quyền, mà đặt Nhà nước lên trên hết; và những luật sư là bạn bè đã được thử thách và đáng tin cậy của gia đình, những người đặt việc giúp người tiến lên trước, và việc tích lũy số dư ngân hàng lớn sau. (Một số luật sư đã làm điều này.)

Supposing the majority of business men had been trained at school really to care for the health and happiness and progress of their employees and felt responsible for them. (Some business men do care.) Supposing also that—especially inculcated at school—honesty actuated the majority of business men and they couldn’t sleep at nights if a crooked deal or dishonest practice were either contemplated or completed.

Giả sử đa số các nhà doanh nghiệp đã được rèn luyện từ ghế nhà trường để thực sự quan tâm đến sức khỏe, hạnh phúc và sự tiến bộ của người lao động và cảm thấy có trách nhiệm với họ. (Một số nhà doanh nghiệp có quan tâm.) Giả sử nữa rằng—đặc biệt được truyền dạy ở trường—sự lương thiện chi phối đa số nhà doanh nghiệp và họ không thể ngủ yên nếu một thỏa thuận trái khuấy hay một thực hành bất lương đang được toan tính hoặc đã hoàn tất.

Supposing the majority of employees were brought up from childhood always to give a square deal to their employers, whether private or Governmental. (Some employees do this already.)

Giả sử đa số người lao động được nuôi dưỡng từ thuở ấu thơ để luôn dành cho chủ của mình—dù là tư nhân hay nhà nước—một sự đối xử sòng phẳng. (Một số người lao động đã làm điều này rồi.)

Supposing the majority of doctors were trained in medical school, to think first and foremost of prevention of disease, so that the need for their profession would be greatly reduced, second of really curing, and only third of fees. (Some doctors do.)

Giả sử đa số các bác sĩ được đào tạo trong trường y để nghĩ trước hết và trên hết về việc phòng bệnh, đến mức nhu cầu đối với nghề nghiệp của họ sẽ giảm đi rất nhiều, thứ đến là thật sự chữa lành, và chỉ thứ ba mới là thù lao. (Một số bác sĩ vốn làm vậy.)

Supposing brewers and saloon keepers couldn’t sleep nights because of the havoc wrought upon the public health and happiness by liquor, and simply couldn’t continue in their trade.

Giả sử những người nấu rượu và chủ quán rượu không thể ngủ yên ban đêm vì những tàn phá mà rượu gây ra cho sức khỏe và hạnh phúc công chúng, và đơn giản là không thể tiếp tục nghề buôn bán của họ.

Supposing the owners of slum property really cared for the happiness, comfort and welfare of their fellow men.

Giả sử những chủ sở hữu tài sản ở khu ổ chuột thật sự quan tâm đến hạnh phúc, tiện nghi và phúc lợi của đồng loại mình.

Supposing ministers of religion said that within man is all he needs of power, peace and happiness, that each man is a God created in the image of his Creator, that blind faith and abject fear as attributes of worship are an insult to the Creator, that the threat of punishment and disintegration in the hereafter unless certain dogmas were accepted constituted spiritual blackmail, that a lost soul is an impossibility in Nature, that all men of all races and all creeds are one and equal in the sight of God, share in a common Life, and that the Brotherhood of Man is a fact in Nature.

Giả sử các giáo sĩ tôn giáo nói rằng trong con người vốn có tất cả sức mạnh, bình an và hạnh phúc mà y cần; rằng mỗi người là một Thượng đế được tạo dựng theo hình ảnh Đấng Sáng Tạo của mình; rằng đức tin mù quáng và sợ hãi hèn hạ như những thuộc tính của thờ phượng là một sự xúc phạm đến Đấng Sáng Tạo; rằng lời đe dọa trừng phạt và tan rã ở đời sau trừ phi chấp nhận những giáo điều nào đó cấu thành một sự tống tiền tinh thần; rằng một linh hồn lạc mất là điều không thể trong Tự Nhiên; rằng mọi người thuộc mọi chủng tộc và mọi tín điều đều là một và bình đẳng trước mắt Thượng đế, cùng chia sẻ Một Sự sống chung, và rằng Tình Huynh Đệ Nhân Loại là một thực tại trong Tự Nhiên.

Supposing the officials in all denominations were trained in their seminaries frankly to admit that division is both a denial of Christ’s teaching and a source of great weakness in spreading that teaching, and so joined together in one great service to humanity irrespective of creed and class.

Giả sử các chức sắc trong mọi giáo phái được đào tạo ở các chủng viện của họ để thẳng thắn thừa nhận rằng chia rẽ vừa là sự phủ nhận giáo huấn của Christ vừa là nguồn gốc của sự yếu kém lớn trong việc truyền bá giáo huấn ấy, và vì thế liên kết với nhau trong một sự phụng sự vĩ đại cho nhân loại không phân biệt tín điều và giai cấp.

Supposing the objective of religion were to ennoble human character and to lead each man to his own direct, vital experience of the Divine Presence without and within him.

Giả sử mục đích của tôn giáo là làm cao đẹp Tính cách con người và dẫn mỗi người đến trải nghiệm trực chỉ, sinh động về Sự Hiện Diện thiêng liêng ở cả bên ngoài lẫn bên trong y.

Supposing Christianity became a living faith, were presented in a manner and form intellectually unassailable, were a faith practised as well as professed.

Giả sử Kitô giáo trở thành một đức tin sống động, được trình bày theo cách thức và hình thức không thể công kích trên phương diện trí tuệ, là một đức tin được thực hành cũng như được tuyên xưng.

Supposing that from the first day at school to the last, all these ideals and truths together with eagerness to co-operate, self-responsibility, honesty, decency, clean mindedness, friendliness and courtesy were inculcated both by example and as an insistent influence throughout the whole establishment.

Giả sử rằng từ ngày đầu tiên đến trường cho đến ngày cuối cùng, tất cả những lý tưởng và chân lý này cùng với nhiệt tâm hợp tác, tự chịu trách nhiệm, lương thiện, đoan chính, tâm trí trong sạch, thân thiện và nhã nhặn được truyền thụ cả bằng gương mẫu lẫn như một ảnh hưởng bền bỉ khắp toàn bộ cơ sở.

Supposing that, in planning educational systems and reforms, it were recognized that book knowledge alone is not a guide to living, and that the evolution of human consciousness, the unfoldment of man’s inner life, the development of the finest qualities of human character, and the establishment on earth of peace, justice and humaneness were considered.

Giả sử rằng, khi hoạch định các hệ thống và cải cách giáo dục, người ta nhận ra rằng tri thức sách vở đơn thuần không phải là kim chỉ nam cho cuộc sống, và rằng sự tiến hóa của tâm thức con người, sự khai mở đời sống nội tại của con người, sự phát triển các phẩm chất tinh túy nhất của Tính cách con người, và việc thiết lập trên trái đất hòa bình, công lý và tính nhân bản được coi trọng.

Supposing that there could be unification, not a regimentation of the educational systems of the Democracies.

Giả sử rằng có thể có sự hợp nhất, chứ không phải là sự cưỡng chế đồng loạt, giữa các hệ thống giáo dục của các nền Dân chủ.

Supposing that such mobilised education would accept responsibility for the task generally allotted to religion alone—that of becoming the source of new power, lofty vision, noble ambition, love for all men, of educating the human race on this earth for a lofty standard of living, a high ethical code, of educating for world peace, for reconstruction, for world planning, for world service, for a world vision and the recognition of the Brotherhood of Man.

Giả sử rằng một nền giáo dục được huy động như thế sẽ chấp nhận trách nhiệm đối với nhiệm vụ thường được dành riêng cho tôn giáo—đó là trở thành nguồn mạch của sức mạnh mới, thị kiến cao cả, hoài bão cao quý, tình thương dành cho mọi người, giáo dục nhân loại trên trái đất này hướng đến một tiêu chuẩn sống cao đẹp, một bộ quy tắc đạo đức cao, giáo dục vì hòa bình thế giới, vì tái thiết, vì quy hoạch thế giới, vì phụng sự thế giới, vì một thị kiến thế giới và sự nhìn nhận Tình Huynh Đệ Nhân Loại.

A Utopian dream? Maybe, but I believe that its realisation would be the best insurance against another war. Can it be realized? Will it be realized? That depends upon how deeply the sufferings of the present war have affected human mentality. Have we suffered enough? Would it be a pity from an evolutionary point of view if the war were to end this year? A young airman said to me the other day in effect: ‘I hope the war does not end too soon. If it does, we shall sink back into the darkness of pre-war injustices, oppressions and exploitations, and all the hate and vindictiveness which arise from them’.

Một giấc mơ Không Tưởng? Có thể, nhưng tôi tin rằng việc hiện thực hóa nó sẽ là sự bảo hiểm tốt nhất chống lại một cuộc chiến khác. Nó có thể được hiện thực chăng? Nó sẽ được hiện thực chăng? Điều đó tùy thuộc vào việc nỗi khổ của cuộc chiến hiện tại đã tác động sâu sắc ra sao lên tâm trí con người. Chúng ta đã chịu đủ chưa? Sẽ là điều đáng tiếc xét từ quan điểm tiến hóa nếu chiến tranh chấm dứt trong năm nay chăng? Một chàng phi công trẻ mới đây nói với tôi, đại ý: “Tôi mong chiến tranh đừng kết thúc quá sớm. Nếu kết thúc sớm, chúng ta sẽ trượt trở lại bóng đêm của những bất công, áp bức và bóc lột tiền chiến, và tất cả hận thù cùng oán độc phát sinh từ chúng.”

Will the war have to go on or be repeated, the sufferings of mankind be deepened and extended, and the casualties be doubled and trebled before man ceases to be the source of his own age-long and continuing tribulations? Will mankind have to be driven by a succession of wars into planning a reasonable, a just, an equitable political, social and economic order, for its own safeguarding from itself? Or will mankind not wait for that? Will humanity proceed voluntarily now, and on the signing of peace, to make plans and to execute them for a world order really based on humane principles?

Chiến tranh sẽ phải tiếp diễn hay tái diễn, nỗi khổ của nhân loại sẽ bị đào sâu và mở rộng, và thương vong sẽ được nhân đôi nhân ba trước khi con người thôi là nguồn cội của những tai ương kéo dài tự muôn đời và còn đang tiếp diễn của chính mình chăng? Nhân loại sẽ phải bị dồn ép bởi một chuỗi chiến tranh để đi đến hoạch định một trật tự chính trị, xã hội và kinh tế hợp lẽ, công bằng, bình đẳng, nhằm tự bảo vệ mình khỏi chính mình chăng? Hay nhân loại sẽ không chờ đến mức ấy? Nhân loại sẽ tự nguyện ngay bây giờ, và khi ký hòa ước, tiến hành lập kế hoạch và thi hành chúng cho một trật tự thế giới thật sự dựa trên các nguyên tắc nhân bản chăng?

That for me is the great question of the hour. An affirmative answer depends, I am forced to conclude, upon whether we can harness the potential forces of education for immediate world reconstruction and for long term world building.

Đối với tôi, đó là câu hỏi lớn của thời khắc này. Câu trả lời khẳng định, tôi buộc phải kết luận, tùy thuộc vào việc liệu chúng ta có thể khai dụng các năng lực tiềm ẩn của giáo dục cho công cuộc tái thiết thế giới tức thời và xây dựng thế giới lâu dài hay không.

The Theosophist, Vol. 63, September 1942, p. 461

The Theosophist, Tập 63, Tháng Chín 1942, tr. 461

183

The Weapons of the Dark Forces and Humanity’s Sure Shields—Vũ Khí của Các Lực lượng Bóng Tối và Những Lá Chắn Chắc Chắn của Nhân Loại

The student of the history of the cultural and spiritual evolution of Mankind on Earth recognises the existence of two opposing Forces. These are sometimes called the Forces of Light and the Forces of Darkness. All unselfish human beings, on whatever level of evolution they may stand, are representatives of the Forces of Light. All selfish human beings, from the cruel, lustful savage up to the highly intellectual enemy of human happiness, are representatives of the Forces of Darkness. Between these two a perpetual warfare is waged, of which the two World Wars were temporary physical expressions.

Đạo sinh nghiên cứu lịch sử tiến hóa văn hóa và tinh thần của Nhân Loại trên Đất nhận biết sự tồn tại của hai Lực đối nghịch. Chúng đôi khi được gọi là Các Lực lượng của Ánh sáng và Các Lực lượng của Bóng tối. Mọi con người vô kỷ, ở bất kỳ cấp độ tiến hóa nào họ đang đứng, đều là đại diện cho Các Lực lượng của Ánh sáng. Mọi con người ích kỷ, từ kẻ man rợ tàn bạo, dâm dật cho đến kẻ thù trí thức cao độ của hạnh phúc con người, đều là đại diện cho Các Lực lượng của Bóng tối. Giữa hai bên ấy một cuộc chiến tranh trường cửu luôn diễn ra, mà hai cuộc Thế chiến chỉ là những biểu hiện tạm thời trên bình diện vật chất.

The Theosophical Society may be regarded as a battle operation of the Forces of Light. We, Theosophists, who have the privilege of being active in the work are soldiers of the front line: Let us, therefore, examine the enemy’s strength, his weapons and his methods of using them. Let us try also to conceive of the most potent shields, the most effective counter-attacks.

Hội Thông Thiên Học có thể được coi là một chiến dịch của Các Lực lượng Ánh sáng. Chúng ta, những Nhà Thông Thiên Học, những người có đặc ân tích cực trong công việc, là những người lính tuyến đầu: Vì vậy, chúng ta hãy xét đến sức mạnh của kẻ thù, vũ khí của y và các phương thức y sử dụng. Chúng ta cũng hãy cố gắng hình dung những lá chắn hữu hiệu nhất, những đòn phản công hiệu quả nhất.

WEAPONS AND METHODS AND SHIELDS

VŨ KHÍ, PHƯƠNG THỨC VÀ LÁ CHẮN

Weapon 1. Maintenance and increase of the ignorance and mental confusion of humanity.

Vũ khí 1. Duy trì và gia tăng sự vô minh và rối loạn trí năng của nhân loại.

The cause of all human suffering is ignorance. The safeguard and cure is knowledge, leading to realisation.

Nguyên nhân của mọi khổ đau của con người là vô minh. Sự bảo toàn và phương dược là tri thức, dẫn đến chứng ngộ.

Shield: Human enlightenment.

Lá chắn: Khai minh cho con người.

The Theosophical Society, the whole purpose of which is to enlighten the mind of man, is a shield against the evil forces in the world which sap and destroy the health of mankind, moral and physical. Theosophic activity is a most effective counter-attack. All effective movements with the same objective are part of this one sure shield.

Hội Thông Thiên Học, toàn bộ mục đích của Hội là khai sáng trí tuệ của con người, là một lá chắn chống lại các ác lực trên thế giới vốn hút kiệt và phá hủy sức khỏe của nhân loại, cả đạo đức lẫn thể chất. Hoạt động Thông Thiên Học là một đòn phản công hữu hiệu bậc nhất. Mọi phong trào hữu hiệu có cùng mục tiêu đều là một phần của lá chắn chắc chắn này.

Weapon 2. Alcohol.

Vũ khí 2. Rượu.

Alcohol has long been known to cause more social degeneracy than any other agency, to make always for wastefulness and inefficiency, to weaken the manhood of a race, to bring in its train dishonour and degradation, the ruination of women, divorces, poverty, innumerable diseases, and generally to spread misery and shame wherever it is found.

Từ lâu rượu đã được biết là gây ra suy đồi xã hội nhiều hơn bất kỳ tác nhân nào khác, luôn dẫn đến hoang phí và kém hiệu năng, làm suy yếu khí phách của một giống dân, kéo theo ô nhục và suy đồi, hủy hoại phụ nữ, ly dị, nghèo đói, vô số bệnh tật, và nói chung gieo rắc khổ đau và hổ thẹn ở bất cứ nơi nào nó hiện diện.

Alcohol is one of the great weapons used by the powers of darkness and evil. With their usual demonical skill and ruthless efficiency, most successfully have those powers, and their human agents, employed alcohol to produce in the human race demoralisation, degradation, misery and decay.

Rượu là một trong những vũ khí lớn được các quyền lực bóng tối và ác tà sử dụng. Với kỹ xảo quỷ quyệt thường lệ và hiệu quả tàn nhẫn, các quyền lực ấy, cùng với các tay sai con người của chúng, đã dùng rượu một cách thành công nhất để tạo ra nơi loài người sự băng hoại, suy đồi, khổ đau và mục nát.

Shield: Temperance. Education.

Lá chắn: Tiết độ. Giáo dục.

The world needs a great Temperance Crusade in order to defeat what is probably the most powerful weapon in the hands of the Dark Powers, and the greatest single evil in the world.

Thế giới cần một Cuộc Vận động Tiết độ lớn để đánh bại thứ có lẽ là vũ khí mạnh mẽ nhất trong tay Các Quyền lực Bóng Tối, và là cái ác đơn lẻ lớn nhất trên đời.

Weapon 3. Economic exploitation.

Vũ khí 3. Bóc lột kinh tế.

The deliberate misuse of money and the power which it brings. The skilful use of the human characteristics of greed, hate and fear. An equal evil with drink. Unlike drink, which is gaining ground, financial exploitation is losing during war. A gigantic effort will be made after the war to restore this great bastion of evil with its central citadel, which is the devilish doctrine—‘Each for himself and the Devil take the hindmost’. T am not my brother’s keeper’.

Sự lạm dụng có chủ ý tiền bạc và quyền lực mà nó mang lại. Khéo lợi dụng các đặc tính tham lam, thù hận và sợ hãi của con người. Một ác điều ngang hàng với rượu. Không như rượu, vốn đang lan tràn, sự bóc lột tài chính đang giảm sút trong thời chiến. Sau chiến tranh, một nỗ lực khổng lồ sẽ được tung ra để khôi phục pháo đài lớn của cái ác này với thành trì trung tâm của nó, tức học thuyết quỷ quái—‘Mạnh ai nấy lo và quỷ dữ bắt kẻ tụt lại’. ‘Tôi không phải là người canh giữ anh em mình’.

Shield: World legislation against Poverty. Social security.

Lá chắn: Lập pháp toàn cầu chống Nghèo đói. An sinh xã hội.

Weapon 4. Military aggression.

Vũ khí 4. Xâm lược quân sự.

Shield: Brotherhood.

Lá chắn: Tình Huynh đệ.

Weapon 5. Cruelty.

Vũ khí 5. Tàn ác.

This includes all the nameless cruelties inflicted by man upon man, upon children, the weak, the aged, and upon the animal kingdom. In addition to physical cruelty there is the even more far-reaching cruelty of gossip, calumny, slander.

Điều này bao gồm mọi tàn ác không tên mà con người gây cho con người, cho trẻ em, kẻ yếu, người già, và cho giới động vật. Ngoài sự tàn ác thể chất còn có sự tàn ác còn xa và sâu hơn là đàm tiếu, vu khống, phỉ báng.

Shield: Kindness as a gospel and ideal of life.

Lá chắn: Lòng nhân ái như một phúc âm và lý tưởng sống.

Sooner or later, and the sooner the better for humanity, the doctrine of harmlessness will have to be adopted by the whole race, and applied to every aspect of human life. Particularly in the field of religion will harmlessness have to become an essential expression of the religious life.

Sớm muộn gì—và càng sớm càng tốt cho nhân loại—giới luật vô tổn hại sẽ phải được cả nhân loại chấp nhận, và áp dụng vào mọi phương diện đời sống con người. Đặc biệt trong lĩnh vực tôn giáo, vô tổn hại sẽ phải trở thành một biểu hiện thiết yếu của đời sống tôn giáo.

Among successful counter-attacks are a universal Anti-Cruelty Crusade, a Vegetarian Society for New Zealand and every country, and support for the Society for the Prevention of Cruelty to Children and the Society for the Prevention of Cruelty to Animals.

Trong những đòn phản công thành công có một Cuộc Vận động Chống Tàn Ác phổ quát, một Hội Ăn Chay cho New Zealand và mọi quốc gia, và sự ủng hộ dành cho Hội Phòng Chống Ngược Đãi Trẻ Em và Hội Phòng Chống Ngược Đãi Động Vật.

‘Always be kinder than the situation demands’.

“Luôn tử tế hơn mức tình huống đòi hỏi”.

Weapon 6. Ugliness.

Vũ khí 6. Xấu xí.

This is the special mark of the beast. It pervades all human life, even the Arts themselves, the supposed Sanctuary of Beauty. The words ‘black arts’ have a new meaning today. They connote not only the practice of black magic—another powerful weapon—but the defamation and degradation of the Arts themselves. Thus everywhere amongst civilised peoples are to be met black music, black dancing, black painting and very black advertising.

Đây là dấu ấn đặc thù của thú tính. Nó thẩm thấu mọi đời sống con người, ngay cả Nghệ thuật, vốn được xem là Thánh điện của Cái Đẹp. Từ “nghệ thuật đen” hôm nay có ý nghĩa mới. Chúng không chỉ hàm chỉ phép hắc thuật—một vũ khí mạnh mẽ khác—mà còn là sự bôi nhọ và làm suy đồi chính các Nghệ thuật. Thế nên, khắp nơi giữa các dân tộc văn minh, ta gặp âm nhạc đen tối, vũ điệu đen tối, hội họa đen tối và quảng cáo còn đen tối hơn nhiều.

Shield: A crusade for beauty.

Lá chắn: Một cuộc vận động vì cái đẹp.

This must be initiated in the schools, where ugliness must be denounced and cultural ideals be inculcated, and the supreme necessity for beauty in human life accentuated.

Điều này phải được khởi xướng ở trường học, nơi xấu xí phải bị lên án và các lý tưởng văn hóa được truyền thụ, cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết tối thượng của cái đẹp trong đời sống con người.

Weapon 7. Exploitation of and injustice to woman.

Vũ khí 7. Bóc lột và bất công đối với phụ nữ.

Shield: Equality of status in everything.

Lá chắn: Bình đẳng địa vị trên mọi phương diện.

Man also to accord respect, honour, chivalry to woman. These ennoble a race. In their absence a race degrades itself. Sex-reverence is urgently needed.

Người nam cũng phải dành cho phụ nữ sự tôn trọng, tôn vinh, tinh thần hiệp sĩ. Những điều này làm cao quý một giống dân. Khi vắng bóng, một giống dân tự hạ thấp mình. Lòng tôn kính đối với tính phái là rất cần kíp.

Weapon 8. Ignorance, superstition, Priest-craft and disunity in religion.

Vũ khí 8. Vô minh, mê tín, tính giáo sĩ trị và chia rẽ trong tôn giáo.

Compare the teachings of Jesus with the following dogmas:

Hãy so sánh các giáo huấn của Jesus với những giáo điều sau:

FALLACIES OF THE CHRISTIAN FAITH

NHỮNG NGỤY TÍN CỦA ĐỨC TIN CƠ ĐỐC

(1) That God has human vices, anger, etc.

Rằng Thượng đế có các thói xấu của con người, cơn giận, v.v.

(2) That dependence upon an external Redeemer is essential to Salvation.

Rằng sự lệ thuộc vào một Đấng Cứu Chuộc bên ngoài là điều cốt yếu cho Sự Cứu Rỗi.

(3) That belief in material atonement inhibits the action of the Law of Causation.

Rằng niềm tin vào sự đền tội vật chất ngăn cản tác động của Định luật Nhân quả.

(4) That Christianity is the only true religion, revelation and way to God. Followers of all other Faiths are pagans and damned unto Eternity.

Rằng Kitô giáo là tôn giáo chân thật duy nhất, là sự mặc khải và con đường độc nhất đến với Thượng đế. Tín đồ của mọi Đức tin khác là dân ngoại và bị kết án muôn đời.

(5) That a human soul can be lost.

Rằng một linh hồn con người có thể lạc mất.

(6) That eternal torment awaits the erring human soul.

Rằng cực hình đời đời chờ đợi linh hồn con người lầm lạc.

(7) That the descent of spirit and of human consciousness into matter was a fall and a sin, for the expiation of which God had to send His Son that men might kill Him and so be saved.

Rằng sự giáng xuống của tinh thần và của tâm thức con người vào vật chất là một sa ngã và một tội lỗi, vì sự đền tội ấy mà Thượng đế phải sai Con của Ngài đến để loài người giết Ngài và nhờ thế được cứu.

(8) That the Bible is directly inspired by God, and literally true word by word.

Rằng Kinh Thánh được Thượng đế linh hứng trực tiếp, và đúng từng chữ theo nghĩa đen.

(9) That damnation awaits those who do not believe this.

Rằng kẻ không tin điều này sẽ bị trầm luân.

(10) That there is no pre-existence of the soul, or Special Creation.

Rằng không có tiền hữu của linh hồn, hay có Sáng Tạo Đặc Biệt.

(11) That there is only one life on earth for each individual.

Rằng mỗi cá nhân chỉ có một đời sống duy nhất trên trần.

(12) The resurrection of the body.

Sự phục sinh của thân xác.

To get these fallacies foisted onto Christianity, with all their incalculable harm, has been a very great victory for the Dark Powers. Here, as in the Arts, the Dark Powers have successfully invaded the very shrine and citadel of the Forces of Light—Religion itself. The World Faiths are mutually antagonistic. No institution is so divided against itself into innumerable sects, mutually non-co-operative, as the Christian Faith; as long as this situation continues it cannot increase as a spiritual power and shield against evil.

Việc gán ép những ngụy tín này vào Kitô giáo, với mọi tác hại không sao lường hết của chúng, là một chiến thắng rất lớn của Các Quyền lực Bóng Tối. Ở đây, như trong Nghệ thuật, Các Quyền lực Bóng Tối đã thành công trong việc xâm nhập chính thánh điện và thành trì của Các Lực lượng Ánh sáng—bản thân Tôn giáo. Các Tôn giáo Thế giới đối nghịch lẫn nhau. Không một cơ chế nào lại tự chia rẽ mình thành vô số giáo phái đến vậy, vốn không hợp tác lẫn nhau, như Đức tin Cơ Đốc; chừng nào tình trạng này còn tiếp diễn, nó không thể gia tăng như một quyền năng tinh thần và lá chắn chống lại cái ác.

Shield: The dissemination of Truth, i.e., Theosophy.

Lá chắn: Sự truyền bá Chân lý, tức là Thông Thiên Học.

Fellowship of World Faiths. Unity of Christian Denominations.

Tình Liên Hữu của các Tôn giáo Thế giới. Hợp nhất các hệ phái Cơ Đốc.

Weapon 9. Materialism. Behind all evil.

Vũ khí 9. Chủ nghĩa duy vật. Ẩn sau mọi ác điều.

Material objectives for all effort. ‘Take and get’ the impelling motive, and success in both the test of success in life. Heedlessness in daily life. Everything is taken for granted. Little self-recollection. Little gratitude. Little or no sense of the Presence of God, and so of deep responsibility in life. No private religious life. No sense of interior communion. No ideal of spiritual attainment. No making of great men and women. Concentration on material power, possessions, property, popularity.

Mục tiêu vật chất cho mọi nỗ lực. “Chiếm đoạt và thu vén” là động cơ thúc đẩy, và thành công ở cả hai được coi là thước đo thành công trong đời. Sự cẩu thả trong đời sống hằng ngày. Mọi thứ được coi là đương nhiên. Ít tự phản tỉnh. Ít lòng biết ơn. Ít hoặc không có cảm thức về Sự Hiện Diện của Thượng đế, nên thiếu ý thức sâu xa về trách nhiệm trong đời. Không có đời sống tôn giáo riêng tư. Không có cảm thức về hiệp thông nội tâm. Không có lý tưởng đạt thành tựu tinh thần. Không tạo nên các vĩ nhân nam nữ. Tập trung vào quyền lực, của cải, tài sản, danh vọng vật chất.

Shield: SpiritualityVision.

Lá chắn: Tính tinh thầnThị kiến.

For example:

Thí dụ:

We are all blind until we see

Chúng ta đều mù lòa cho đến khi thấy

That in the human plan,

Rằng trong kế hoạch của con người,

Nothing is worth the making, if

Chẳng gì đáng tạo dựng,

It does not make a man!

Nếu nó không dựng nên con người!

Why build we cities glorious

Có ích chi xây thành phố huy hoàng

If man unbuilded goes?

Khi con người vẫn chưa được dựng xây?

In vain we build the world

Uổng công ta xây thế giới

Unless the builder grows.

Nếu người thợ xây không lớn lên.

-Edwin Markham

Edwin Markham

Weapon 10. Secularisation of education.

Vũ khí 10. Thế tục hóa giáo dục.

Another great success of the Dark Powers. The true aim of education is to build men, but now largely secularised.

Một thắng lợi lớn khác của Các Quyền lực Bóng Tối. Mục tiêu chân chính của giáo dục là dựng xây con người, nhưng nay phần lớn đã bị thế tục hóa.

Shield: Idealism in education.

Lá chắn: Lý tưởng trong giáo dục.

Weapon 11. Materialism in the medical profession.

Vũ khí 11. Chủ nghĩa duy vật trong giới y khoa.

Mechanistic view. Vivisection, serums, alcohol and meat encouraged; money the predominant motive.

Quan điểm cơ giới. Khuyến khích giải phẫu sống, huyết thanh, rượu và thịt; tiền là động cơ chi phối.

Shield: Theosophical knowledge of the Constitution of Man, the Purpose of Life and the Law of Causation.

Lá chắn: Tri thức Thông Thiên Học về Cấu trúc Con Người, Mục đích của Sự Sống và Định luật Nhân quả.

Physician as priest, living a selfless, dedicated life.

Thầy thuốc như một tư tế, sống đời vô kỷ, tận hiến.

From this consideration of the weapons of the enemy, and mankind’s defences against them, it is clear that a great and world-wide religious revival is needed, a rebuilding of spiritual faith, a return to moral principles and obedience to moral law.

Từ sự khảo sát các vũ khí của kẻ thù và những phòng vệ của nhân loại chống lại chúng, rõ ràng cần có một cuộc phục hưng tôn giáo vĩ đại và toàn cầu, một sự kiến thiết lại đức tin tinh thần, một sự trở về với các nguyên tắc luân lý và vâng phục luật đạo đức.

‘I want a world in which religion will be a matter not only of Churches and rituals but a part of every person’s daily life’.

“Tôi muốn một thế giới trong đó tôn giáo không chỉ là việc của các Giáo hội và nghi lễ mà là một phần của đời sống hằng ngày của mỗi người.”

-Mrs Roosevelt

-Bà Roosevelt

One great difficulty in this conflict is that the weapons of the Dark Powers are continually and successfully used by them with man’s concurrence. Many men welcome them, frankly and blatantly profit by them. For this reason if the Dark Powers are defeated in the present war, they are still far from being finally beaten. Hitlerism is rife everywhere.

Một khó khăn lớn trong cuộc xung đột này là vũ khí của Các Quyền lực Bóng Tối không ngừng và thành công được chúng sử dụng với sự tán đồng của con người. Nhiều người chào đón chúng, công khai và trắng trợn trục lợi từ chúng. Vì lẽ đó, nếu Các Quyền lực Bóng Tối bị đánh bại trong cuộc chiến hiện tại, chúng vẫn còn rất xa mới bị khuất phục hoàn toàn. Chủ nghĩa Hitler tràn lan khắp nơi.

The great Shield therefore consists of individual Gnostics, unshakeable believers, devoted crusaders great champions of the right, and organized agencies composed of men and women wholly consecrated to the service of the Powers of Light and the cause of human happiness and progress.

Vì vậy, Lá Chắn vĩ đại là gồm những Cá nhân Huyền tri, những tín đồ bất lay chuyển, các chiến sĩ tận hiến, những đại hiệp sĩ cho chính nghĩa, và các cơ chế tổ chức gồm những người nam và nữ hoàn toàn tận hiến cho phụng sự Các Lực lượng Ánh sáng và cho hạnh phúc, tiến bộ của con người.

The Theosophist, Vol. 65, October 1943, p. 47

The Theosophist, Tập 65, Tháng Mười 1943, tr. 47



  1. The Secret Doctrine, Vol. I, p. 205 [2-vol. ed.: Vol. 1, p. 182].


Leave a Comment

Scroll to Top