184
Ve Day Reflections—Suy tư về Ngày VE
Today officially marks the defeat of the forces of Darkness by the Forces of Light, probably the most decisive defeat they have ever experienced. Surrender is not only unconditional, it is abject. The main physical organism through which the Powers of darkness have operated for ten years in this last cycle of their objective activity is destroyed by the sacrifice and skill of the nations who become agents for the Powers of Light. | Hôm nay chính thức đánh dấu thất bại của các lực lượng Bóng Tối bởi Các Lực lượng Ánh sáng, có lẽ là thất bại quyết định nhất mà chúng từng trải nghiệm. Sự đầu hàng không chỉ vô điều kiện, mà còn hèn hạ. Cơ quan thể chất chủ yếu mà qua đó Các Quyền lực bóng tối đã hoạt động suốt mười năm qua trong chu kỳ cuối cùng của hoạt động khách quan của chúng đã bị tiêu diệt nhờ sự hy sinh và tài trí của các quốc gia, những kẻ trở thành khí cụ cho Các Lực lượng Ánh sáng. |
Now, other agencies will be sought and found, both national and individual; for the Dark Powers themselves continue to exist despite the loss of national representatives. In fury, an even mightier and more ruthlessly cunning onslaught will be made. | Nay, những cơ quan khác sẽ được tìm kiếm và tìm ra, cả quốc gia lẫn cá nhân; vì bản thân Các Quyền lực Bóng Tối vẫn tiếp tục tồn tại bất chấp mất đi đại diện ở cấp quốc gia. Trong cơn thịnh nộ, một đòn tấn công còn dữ dội hơn và xảo quyệt tàn nhẫn hơn sẽ được tung ra. |
For this second World War marks the turning of the evolutionary tide on this planet. Fifth Race man has successfully passed the Fifth Race Judgment Day by action on the physical plane. The decisive factor was ability to unite, and the development of that power is the mark of planetary and racial progress. Unity is the principle by which disunity is defeated. Unification the manifestation of that principle which ensures success. Continuance of unity and of unified action is the all-essential factor in the maintenance of the position now attained. | Vì cuộc Thế chiến thứ hai này đánh dấu bước ngoặt của thủy triều tiến hóa trên hành tinh này. Người thuộc Giống dân gốc thứ năm đã vượt qua thành công Ngày Phán Xét của Giống dân gốc thứ năm bằng hành động trên cõi vật chất. Yếu tố quyết định là khả năng hợp nhất, và sự phát triển năng lực ấy là dấu ấn của tiến bộ hành tinh và chủng tộc. Hợp nhất là nguyên lý nhờ đó chia rẽ bị đánh bại. Sự Hợp nhất là biểu hiện của nguyên lý ấy bảo đảm thành công. Duy trì sự hợp nhất và hành động hợp nhất là yếu tố tất yếu để giữ vững vị thế nay đã đạt được. |
At this decisive moment in this decisive day, the Powers of Darkness are searchingly scrutinising the hearts and minds of Nations and of individuals. They seek there the seeds of disunity, individualism, selfishness. Wherever they find them they will water them, tend the young plants to the end of full flower in self-seeking nationalism and monstrous individualism. | Vào thời khắc quyết định trong ngày quyết định này, Các Quyền lực Bóng Tối đang rà soát thấu suốt tâm trí và trái tim của các Quốc gia và của từng cá nhân. Chúng tìm ở đó những hạt giống bất hòa, chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ. Ở bất cứ đâu chúng tìm thấy, chúng sẽ tưới nước, chăm bón mầm non cho đến khi nở rộ thành chủ nghĩa quốc gia vị kỷ và chủ nghĩa cá nhân quái đản. |
Thus a new danger threatens the world, the danger that the evil power focussed so powerfully in the Axis Nations, and operating in concentrated form through them, may now be let loose over the whole earth and find a more universal representation in and through the people of all nations. Therefore amidst all our rejoicing there must be careful self scrutiny, a national and individual self examination and decision. The seeds of selfishness must be rooted up. The weeds of egoism must be torn out that the new life of selflessness and unity may unhindered be embarked upon. | Vì thế một nguy cơ mới đang đe dọa thế giới, nguy cơ là quyền lực ác vốn tập trung mạnh mẽ trong các Quốc gia Trục và hoạt động cô đặc qua chúng, nay có thể được thả lỏng khắp toàn cầu và tìm được sự đại diện phổ quát hơn trong và qua các dân tộc của mọi quốc gia. Do đó, giữa bao hân hoan, nhất thiết phải có tự xét mình cẩn trọng, một sự tự kiểm và quyết định ở cấp quốc gia và cá nhân. Hạt giống của ích kỷ phải bị nhổ bật rễ. Cỏ dại của ngã chấp phải bị giật khỏi để đời sống mới của vô ngã và hợp nhất có thể khởi hành không bị cản trở. |
For those nations and individuals that can respond, a wondrous opportunity will arise. The Powers of Light also continue Their activity. They will feed and cherish every noble quality of which mankind is capable, so that for all men the possibility has arisen for mental and spiritual advance far beyond the normal rate. | Đối với những quốc gia và cá nhân có thể đáp ứng, một cơ hội kỳ diệu sẽ xuất hiện. Các Quyền Lực Ánh Sáng cũng tiếp tục hoạt động của Các Ngài. Các Ngài sẽ nuôi dưỡng và trân trọng mọi phẩm chất cao quý mà nhân loại có thể có, để cho mọi người đều có khả năng tiến bộ về mặt trí tuệ và tinh thần vượt xa tốc độ bình thường. |
A new battlefield now exists. A new war must now be waged. Physical peace has come to the West and soon must come to the whole world. The battleground now is the mind of mankind, the test is that of character, the victory ensuring principle is spiritual vision leading to self purification and self mastery. A great surge forward and upward on the evolutionary way is indeed now possible for millions of men in consequence of the heroic sacrifice by which the battle has been fought and won and by reason of the victory itself. | Một chiến trường mới hiện đang tồn tại. Một cuộc chiến mới giờ đây phải được tiến hành. Hoà bình về thể chất đã đến với phương Tây và sớm phải đến với toàn thế giới. Chiến trường giờ đây chính là thể trí của nhân loại, sự thử thách là ở tính cách, và nguyên tắc bảo đảm chiến thắng là tầm nhìn tinh thần dẫn đến sự tự thanh lọc và tự chế ngự. Một làn sóng tiến lên và vươn cao trên Con đường tiến hoá thật sự hiện nay khả dĩ đối với hàng triệu người nhờ sự hy sinh anh hùng mà trận chiến đã được tiến hành và chiến thắng, cũng như nhờ chính chiến thắng đó. |
A mental Judgment Day is now upon mankind, a vast weighing of the heart of humanity upon the Cosmic Scales. It will last a century or more, during which the great decision must be made. If conscience proves to have ruled conduct, then the Twentieth Century will mark the decisive upward turn in racial evolution from materialism and individualism to spirituality and world co-operation. | Một Ngày Phán Xét trên bình diện trí tuệ nay đang ở trên đầu nhân loại, một cuộc cân đo vĩ đại trái tim của nhân quần trên Cán Cân Vũ Trụ. Nó sẽ kéo dài một thế kỷ hoặc hơn, trong đó quyết định lớn lao phải được đưa ra. Nếu lương tâm tỏ ra đã chi phối hành vi, thì thế kỷ XX sẽ đánh dấu bước ngoặt đi lên quyết định trong tiến hóa chủng tộc từ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân sang tính tinh thần và hợp tác thế giới. |
Physically, the present time is exceedingly favourable to mankind. Mentally, a crisis exists, upon the outcome of which the future greatly depends. Spiritually, great forces will be liberated, greatly to the benefit and upliftment of all who can and will respond to them. The open mind, the pure heart which weans the selfless heart, and the co-operative life, these are the three essentials to triumphant passage through the Judgment Hall into the Presence of the Divine Judge and Hierophant, the Osiris which is the Spiritual Soul of man. | Về phương diện thể chất, thời điểm hiện tại cực kỳ thuận lợi cho nhân loại. Về phương diện trí tuệ, một cuộc khủng hoảng tồn tại, mà kết cục của nó sẽ quyết định lớn lao cho tương lai. Về phương diện tinh thần, những lực vĩ đại sẽ được phóng thích, vô cùng lợi lạc và nâng đỡ tất cả những ai có thể và sẽ đáp ứng với chúng. Tâm mở, trái tim thanh khiết vốn nuôi dưỡng trái tim vô ngã, và đời sống hợp tác—ấy là ba điều thiết yếu để vượt qua khải hoàn qua Điện Phán Xét vào Sự Hiện Diện của vị Thẩm Phán và Đại Tế Sư thiêng liêng, Osiris, vốn là Linh hồn Tinh thần của con người. |
The trial and the triumph have been immense, the victory momentous. Mankind as won for itself an unparalleled opportunity. World unity, world co-operation, world vision are the prizes for such great success. For individuals, the pathway to spiritual illumination and to entrance upon the Way of Holiness is wide open and easier to find than it has probably been throughout the whole history of mankind. | Sự thử thách và khải thắng vừa to lớn, chiến thắng vừa trọng đại. Nhân loại đã giành cho mình một cơ hội vô tiền khoáng hậu. Hợp nhất thế giới, hợp tác thế giới, thị kiến thế giới là phần thưởng cho một thành công vĩ đại như vậy. Với từng cá nhân, con đường đến soi sáng tinh thần và để bước vào Con Đường Thánh Đức đang rộng mở và dễ tìm hơn có lẽ so với suốt lịch sử nhân loại. |
Such in part are the thoughts evoked by contemplation of the great trial and the great victory in the West which this day we celebrate. | Đó phần nào là những tư tưởng được gợi lên bởi sự chiêm ngưỡng về cuộc thử thách lớn và chiến thắng lớn ở phương Tây mà ngày này chúng ta kỷ niệm. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 6, No. 3, 1945, p. 67 | Theosophy in New Zealand, Tập 6, Số 3, 1945, tr. 67 |
185
Light in Our Darkness—Ánh sáng trong Bóng tối của Chúng ta
Test of Courage | Thử thách Can đảm |
Ever since this war began we peoples of the Empire who are far removed from the battlefields, and still more so the peoples at home, have been called upon to receive almost continuous news of Allied failure and defeat. As a result, our faith and our courage are being tested continually. A further test awaits us all. Britain alone of the belligerent Democracies now remains to face a powerful and ruthless enemy. She is the only remaining Allied nation whose complete Empire is intact and whose fighting forces are undefeated, in first class order and of dauntless spirit. But she is alone. The hour is dark, the situation grave, the danger great and immediate. | Kể từ khi chiến tranh này bắt đầu, chúng ta—những dân của Đế quốc ở xa các chiến trường, và hơn nữa là những dân ở quê nhà—đã được kêu gọi để tiếp nhận gần như liên tục những tin tức về thất bại và thua trận của Đồng minh. Hệ quả là đức tin và dũng khí của chúng ta đang bị thử thách không ngừng. Một thử thách nữa đang chờ tất cả chúng ta. Nước Anh, trong các nền Dân chủ tham chiến, nay đơn độc đối diện một kẻ thù hùng mạnh và tàn nhẫn. Nàng là quốc gia Đồng minh duy nhất còn lại mà toàn bộ Đế quốc vẫn nguyên vẹn và lực lượng chiến đấu của nàng chưa bị đánh bại, đang trong tình trạng hạng nhất và với tinh thần bất khuất. Nhưng nàng cô độc. Giờ khắc u ám, tình thế nghiêm trọng, hiểm họa lớn và trước mắt. |
Upon what facts may faith and courage be founded as the people of the British Isles now prepare to undergo their ordeal by fire? What can we British Theosophists overseas find to reassure us in this hour? Upon what supports, spiritual and material, may our faith be made secure? | Dựa trên những thực tại nào mà đức tin và dũng khí có thể được đặt nền khi dân của Quần đảo Anh chuẩn bị trải qua cuộc thử lửa của họ? Chúng ta, những Nhà Thông Thiên Học người Anh ở hải ngoại, có thể tìm thấy điều gì để trấn an mình trong giờ phút này? Dựa trên những chỗ dựa nào, tinh thần và vật chất, mà đức tin của chúng ta có thể được làm cho vững chắc? |
Brotherhood of the One Life | Tình Huynh đệ của Một Sự sống |
Before I begin to advance a Theosophical view of the present situation, I deem it necessary to enunciate the one basic truth concerning life itself. This is the truth of Unity. From the point of view of the all pervading, Divine life, divisions of race are an illusion. For whilst its material forms are but transient, ephemeral, the One Life is eternal. | Trước khi tôi bắt đầu nêu lên một quan điểm Thông Thiên Học về tình hình hiện tại, tôi cho là cần thiết phải minh định một chân lý căn bản duy nhất về chính sự sống. Ấy là chân lý về Hợp nhất. Xét từ quan điểm Sự sống thiêng liêng thấm nhuần khắp cùng, mọi phân chia chủng tộc đều là ảo tưởng. Vì trong khi các hình tướng vật chất của Sự sống chỉ phù du, thoáng chốc, thì Sự sống Duy Nhất là vĩnh cửu. |
There are many brotherhoods. There is the basic and indissoluble brotherhood of the One Life. There is the brotherhood of common joys, of sorrows shared, and there is the brotherhood of common guilt. True these three human experiences are all shared in differing degrees, and we Allied peoples believe that Germany’s share of guilt is heavy indeed: Nevertheless we cannot wholly escape responsibility, for we are all one. The progress of the war thus far has demonstrated unmistakably the existence in every country involved of kindred spirits with those who have made Germany’s succession of victories possible. Let us face these facts and so avoid that false vision which complacency and self-conceit inevitably produce. Above all let us beware lest temporary enmity with the present form should blind us to the brotherhood of the Di vine Life within the form. For behind these brotherhoods of joy, of sorrow and of guilt exists the greatest brotherhood of all. This is the brotherhood of shared divinity, of oneness with God. | Có nhiều tình huynh đệ. Có tình huynh đệ căn bản và bất khả phân ly của Một Sự sống. Có tình huynh đệ của những niềm vui chung, của những nỗi sầu chung, và có tình huynh đệ của tội lỗi chung. Đúng là ba kinh nghiệm nhân sinh này đều được chia sẻ ở những mức độ khác nhau, và chúng ta—các dân Đồng minh—tin rằng phần tội của Đức quốc là rất nặng nề: Tuy nhiên chúng ta cũng không thể hoàn toàn thoát khỏi trách nhiệm, vì tất cả chúng ta là một. Tiến trình chiến tranh cho đến nay đã chứng tỏ không thể nhầm lẫn sự hiện hữu trong mọi quốc gia bị cuốn vào cuộc chiến của những tâm hồn đồng điệu với những kẻ đã làm cho chuỗi chiến thắng của Đức quốc trở thành hiện thực. Hãy đối diện với những thực tế này để tránh thứ thị kiến sai lạc mà tính tự mãn và tự phụ tất yếu sinh ra. Trên hết, hãy cảnh giác kẻo mối thù tạm thời với hình tướng hiện tại khiến ta mù quáng trước tình huynh đệ của Sự sống Thiêng liêng bên trong hình tướng. Vì đằng sau những tình huynh đệ của vui, của sầu và của tội lỗi, còn có tình huynh đệ lớn nhất trong tất cả. Ấy là tình huynh đệ của thiên tính chung, của nhất thể với Thượng đế. |
Racial Evolution | Tiến hóa Chủng tộc |
Even whilst remembering, as Theosophists must, this eternal verity, we temporary dwellers in the worlds of form are forced to recognize the existence of difference of form, of the many separate nations within which the One Life is incarnate. | Ngay cả khi vẫn ghi nhớ, như Nhà Thông Thiên Học phải làm, chân lý vĩnh cửu này, thì chúng ta—những kẻ tạm cư trong các cõi của hình tướng—cũng buộc phải nhận ra sự tồn tại của dị biệt về hình tướng, của nhiều quốc gia riêng biệt trong đó Một Sự sống nhập thể. |
First, then, let us look with Theosophical eyes at our own, the British race. To what belief has Theosophy brought us concerning racial evolution on our earth and our own part therein? | Vậy thì, trước hết, hãy nhìn với đôi mắt Thông Thiên Học vào chính chủng tộc của chúng ta, dân tộc Anh. Thông Thiên Học đưa chúng ta đến niềm tin gì về tiến hóa chủng tộc trên quả đất và phần của riêng chúng ta trong đó? |
We believe in the existence of a divine plan for the spiritual and material evolution to ‘perfection’ of all life. We have knowledge of the existence of the Superman Who constitutes the World’s true government, all-wise, all-powerful, all-knowing. Under Its perfect direction we know that, despite human waywardness and human karma resulting, this world is safe and that the divine plan will be fulfilled. | Chúng ta tin vào sự tồn tại của một thiên cơ cho sự tiến hóa tinh thần và vật chất đến “toàn thiện” của mọi sự sống. Chúng ta biết về sự hiện hữu của Siêu Nhân, Đấng cấu thành chính phủ chân chính của Thế giới, thấu triệt, toàn năng, toàn tri. Dưới Sự chỉ đạo hoàn hảo của Đấng Ấy, chúng ta biết rằng, bất chấp sự ngỗ nghịch của con người và nghiệp quả phát sinh, thế giới này là an toàn và thiên cơ sẽ được viên thành. |
We know also that the spiritual Self of man is immortal, indestructible and under perfect law is perpetually unfolding as does an opening flower. Human bodies and human civilizations are ephemeral structures. Although they die and disappear, the immortal Self of man endures unto eternity. This is the spiritual basis founded upon which our faith and courage are unshakable. | Chúng ta cũng biết rằng Chân Ngã tinh thần của con người là bất tử, bất hoại và dưới định luật hoàn hảo luôn luôn khai mở như một đóa hoa bừng nở. Thân xác con người và các nền văn minh của con người là những cấu trúc phù du. Dẫu chúng chết đi và biến mất, Chân Ngã bất tử của con người tồn tại đến muôn đời. Đây là nền tảng tinh thần mà trên đó đức tin và dũng khí của chúng ta bất lay chuyển. |
We have, however, material supports almost equally sure. Both history and the Ancient Wisdom reveal that the British people have been given a great opportunity to become builders of a World Empire which shall be a model of the unity of free peoples upon which the future World Federation of nations shall be founded. | Tuy nhiên, chúng ta cũng có những chỗ dựa vật chất hầu như chắc chắn tương đương. Lịch sử và Minh Triết Cổ xưa đều cho thấy dân tộc Anh đã được ban một cơ hội lớn để trở thành những người kiến thiết một Đế quốc Thế giới, một mô hình của sự hợp nhất các dân tự do mà trên đó Liên bang Thế giới tương lai của các quốc gia sẽ được đặt nền. |
Spain appears first to have been given this great task. One flaw in her character caused her Empire to crumble into the dust. That flaw was cruelty—a flaw be it ever remembered from which no nation and few individuals are free. The torch passed to England under Queen Elizabeth when Bacon was on earth. Three centuries have passed and today we are all part of the firmly established British Commonwealth of free nations. Success has been achieved. The model has been brought into existence whatever its imperfections. Its projection and its duplication by other peoples in varied forms has begun. | Có vẻ như Tây Ban Nha trước tiên đã được trao nhiệm vụ lớn lao này. Một khiếm khuyết trong Tính cách của nàng khiến Đế quốc của nàng sụp đổ thành tro bụi. Khiếm khuyết đó là tàn ác—một khiếm khuyết, xin hãy luôn nhớ, chẳng quốc gia nào và ít cá nhân nào thoát khỏi. Đuốc được chuyển sang Anh quốc dưới triều Nữ hoàng Elizabeth khi Bacon còn ở thế gian. Ba thế kỷ đã trôi qua và hôm nay chúng ta đều là một phần của Khối Thịnh vượng chung Anh quốc được xây dựng vững chắc gồm những quốc gia tự do. Thành công đã đạt. Mô hình đã được tạo dựng bất chấp những bất toàn. Việc phóng chiếu và nhân bản mô hình ấy bởi các dân tộc khác dưới những hình thức đa dạng đã bắt đầu. |
The United States of America form now a single nation. Pan-Americanism received a strong impetus from the deliberations at the recent Pan-American conference. Its purpose is to organize the American Continent into some form of Federation to secure peace in the new world and make it safe for Democracy. The Pan-European movement aims to make European boundaries invisible and to form a United States of Europe. The British Commonwealth of nations exists. The U.S.A. exists. Pan-Americanism and Pan-Europeanism are conceived and men are working for them. | Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ hiện tạo thành một quốc gia đơn nhất. Chủ nghĩa Liên châu Mỹ đã nhận được một xung lực mạnh từ những phiên họp của hội nghị Liên châu Mỹ gần đây. Mục đích của nó là tổ chức châu Mỹ thành một hình thức Liên bang nào đó để đảm bảo hòa bình ở Tân Thế giới và làm cho nó an toàn cho Dân chủ. Phong trào Liên châu Âu nhằm làm cho các ranh giới châu Âu trở nên vô hình và thành lập Hợp Chúng Quốc châu Âu. Khối Thịnh vượng chung các quốc gia Anh quốc đã hiện hữu. Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ đã hiện hữu. Chủ nghĩa Liên châu Mỹ và Liên châu Âu đã thành hình trong ý niệm và người ta đang làm việc vì chúng. |
Can Britain Fail? | Nước Anh Có Thể Thất Bại Chăng? |
With so much achieved, with so much at stake, it is inconceivable that the Empire—the great and living model—should fail. If it should fail, there will be two causes under the law. One will be the flaws in the individuals, their Governments and their regimes, and the other will be the consequent transgressions from which under the karmic law there will be a reaction in kind. | Với ngần ấy điều đã đạt được, với ngần ấy điều đang được đặt vào, thật khó mà tưởng tượng Đế quốc—mô hình vĩ đại và sống động—lại thất bại. Nếu nàng thất bại, theo luật, sẽ có hai nguyên nhân. Một là những khiếm khuyết ở các cá nhân, chính phủ và chế độ của họ, và hai là những vi phạm hệ quả mà dưới định luật nghiệp quả sẽ có phản ứng tương ứng. |
Let us look at the Empire from this point of view and try to assess her karmic position. Accurate assessment of the karmic situation, whether of an individual or a race, is quite impossible to the human mind, but we can at least examine Britain’s position with such knowledge as we possess. On the whole, whilst far from guiltless, Britain’s colonial administration is fitly crowned by the Statute of Westminster. She has set her Dominions free. She played a large part in the abolition of the slave trade from the civilized world. Sanctuary she has always given to those fleeing from injustice in other lands. She paid heavy debts to Nature by her sufferings and sacrifices both in the Great War and up to the present in its successor. Unlike her defeated Allies, her national self-purification and her awakening though late, have occurred before the invasion of England begins. Materially and spiritually Britain’s house is now as much in order as it can hope to be. The nation is unified as in the last war, which was won despite the fact that owing to the submarine menace and other factors the situation became even more dangerous than at present. | Hãy nhìn vào Đế quốc từ quan điểm đó và thử lượng định vị thế nghiệp quả của nàng. Đánh giá chính xác tình thế nghiệp quả, dù của một cá nhân hay một chủng tộc, vượt quá khả năng tâm trí con người, nhưng chúng ta ít nhất có thể khảo xét vị thế của nước Anh với tri thức mà chúng ta có. Nhìn chung, tuy xa mới vô tội, nền cai trị thuộc địa của Anh được đội chiếc vương miện xứng hợp với Đạo luật Westminster. Nàng đã giải phóng các Dominion của mình. Nàng đã đóng vai trò lớn trong việc xóa bỏ nạn buôn nô lệ khỏi thế giới văn minh. Nơi trú ẩn nàng luôn dành cho những người chạy trốn bất công ở các miền khác. Nàng đã trả những khoản nợ nặng nề cho Tự Nhiên bằng những khổ đau và hy sinh của nàng cả trong Đại chiến và cho đến hiện tại trong cuộc chiến kế tiếp. Không như các Đồng minh bại trận của nàng, sự tự thanh lọc quốc gia và thức tỉnh của nàng, tuy muộn, đã diễn ra trước khi cuộc xâm lược Anh quốc bắt đầu. Về vật chất và tinh thần, nhà của nước Anh nay đã được sắp đặt ngăn nắp đến mức nàng có thể hy vọng. Quốc gia đã hợp nhất như trong cuộc chiến trước, cuộc chiến đã được thắng bất chấp thực tế là do mối đe dọa tàu ngầm và các yếu tố khác, tình thế khi ấy còn nguy hiểm hơn hiện tại. |
The Empire is possessed of a magnificent leader whom all can trust, and an efficient and truly National Government. | Đế quốc có một vị lãnh đạo xuất chúng mà tất cả có thể tin cậy, và một Chính phủ hiệu quả và thật sự Quốc gia. |
Even the disasters which have befallen the Allied cause have their favourable side. Britain is now free of external responsibilities. She no longer is forced to despatch very costly expeditionary forces on dangerous missions. She is able to concentrate all her power upon two tasks—the defence of the homeland and the Empire, and the ultimate defeat of the enemy. | Ngay cả những thảm họa đã giáng xuống chính nghĩa của Đồng minh cũng có mặt thuận lợi. Nước Anh nay đã trút bỏ các trách nhiệm đối ngoại. Nàng không còn bị buộc phải phái các lực lượng viễn chinh rất tốn kém vào những sứ mệnh hiểm nghèo. Nàng có thể tập trung toàn bộ sức mạnh vào hai nhiệm vụ—phòng thủ quê hương và Đế quốc, và cuối cùng đánh bại kẻ thù. |
In the fulfilment of these tasks Britain still maintains her freedom of the seas and, unless immediate disaster befalls her, has reasonable hopes of attaining to a similar supremacy in the air. | Trong việc chu toàn những nhiệm vụ đó, nước Anh vẫn duy trì quyền làm chủ biển cả và, trừ khi bất hạnh ập đến tức khắc, có hy vọng hợp lý để đạt đến một quyền uy tương tự trên không. |
The Spear-Point of Evolutionary Advance | Mũi Nhọn của Tiến Hóa |
Last and most important from the Theosophical point of view of the favourable facts which may here be adduced in support of our unshakable courage and faith, the Empire is on the side of Evolutionary progress. The British Army now constitutes the spear-point of the evolutionary advance of the human race upon this our globe. Therefore the mighty powers of the spirit, the irresistible pressure of the intelligent life force in all Nature, the direct attention—which means omnipotent Power—of the One Great Planner and of His Ministers in the Solar System, and on earth, must be upon the one group of peoples now remaining in arms to combat the forces of destruction and decay. | Sau cùng, và quan trọng nhất xét theo quan điểm Thông Thiên Học của những thực tế thuận lợi có thể nêu ra ở đây để hậu thuẫn cho dũng khí và đức tin bất lay chuyển của chúng ta, Đế quốc đứng về phía Tiến bộ Tiến hóa. Quân đội Anh nay cấu thành mũi nhọn của bước tiến tiến hóa của loài người trên địa cầu này. Vì vậy, các quyền năng vĩ đại của tinh thần, áp lực bất khả kháng của sự sống thông minh trong toàn Tự Nhiên, Sự chú tâm trực tiếp—tức là Quyền năng Toàn Năng—của Đấng Đại Kiến Trúc Sư và của Các Đấng Phụ Tá của Ngài trong Thái dương hệ và trên trái đất, ắt hẳn ứng nơi nhóm dân tộc duy nhất còn lại đang mang vũ khí để chống lại các lực lượng hủy diệt và suy đồi. |
With all this on her side, can Britain fail? | Với ngần ấy điều ở phía mình, nước Anh có thể thất bại chăng? |
Germany | Đức quốc |
What of Germany? Wishful thinking must here be avoided. For too long have we under-estimated the strength of her armies and airforce built up with one purpose during the past seven years. Germany is a mighty antagonist, but we have beaten her once within living memory, and we know that we can beat her again. | Còn Đức quốc thì sao? Ở đây phải tránh ảo tưởng tự an. Trong quá lâu chúng ta đã đánh giá thấp sức mạnh của quân đội và không lực của nàng, vốn được gây dựng với một mục đích trong bảy năm qua. Đức quốc là một đối thủ hùng mạnh, nhưng chúng ta đã đánh bại nàng một lần ngay trong ký ức người còn sống, và chúng ta biết rằng mình có thể đánh bại nàng một lần nữa. |
Germany is blockaded and despite her spoilation of conquered peoples, grievously lacking in those raw materials in which the Empire’s resources are inexhaustible and freely available. Her people are enslaved mentally and physically. The unified service to the State and the response to discipline and direction which the peoples of the Empire voluntarily give, the peoples of Germany are forced to give. For in Germany, man can trust no man, not even the nearest and dearest. The German people live not only in ignorance, but under the perpetual shadow of a dread brutality, which not even the news of great and successive victories can relieve. | Đức quốc bị phong tỏa và, dẫu vơ vét của các dân bị chinh phục, vẫn thiếu trầm trọng các nguyên liệu thô mà nguồn lực của Đế quốc thì vô tận và có sẵn. Dân của nàng bị nô dịch cả về tinh thần lẫn thân xác. Sự phụng sự hợp nhất với Nhà nước và sự đáp ứng với kỷ luật và chỉ đạo mà các dân của Đế quốc tự nguyện hiến dâng, các dân Đức quốc bị cưỡng bách phải dâng. Vì ở Đức quốc, người ta không thể tin ai, ngay cả người thân cận và yêu quý nhất. Dân Đức sống không chỉ trong vô minh, mà còn dưới bóng tối thường trực của một sự tàn bạo kinh khiếp, mà ngay cả tin tức về các chiến thắng vĩ đại và liên tiếp cũng không xua đi nổi. |
The German Navy was far stronger in the last war than it was even at the beginning of this. Its power is now largely destroyed. Last time, Germany broke down from within. Signs are not lacking of a similar danger in this. Thus we may with reason assume that, flushed with victory though she is, Germany, even with Italian aid, is far from invincible. | Hải quân Đức mạnh hơn rất nhiều trong cuộc chiến trước so với lúc khởi chiến này. Sức mạnh của nó nay phần lớn đã bị hủy diệt. Lần trước, Đức quốc sụp đổ từ bên trong. Không thiếu những dấu hiệu của một hiểm họa tương tự lần này. Vậy nên chúng ta có thể hợp lẽ mà cho rằng, dẫu ngây ngất vì chiến thắng, Đức quốc, ngay cả với sự trợ giúp của Ý, còn lâu mới bất khả chiến bại. |
France | Pháp quốc |
What of France? The flaws in the chalice of the Nation’s life have proved too serious and too deep seated. In consequence a proud and glorious people have gone down into the darkness of humiliation and defeat, a spectacle which evokes the deepest compassion from us all. For the noble French Nation now lies bleeding at a ruthless conqueror’s feet. | Còn Pháp quốc thì sao? Những vết rạn trong chiếc chén của đời sống quốc gia đã tỏ ra quá nghiêm trọng và quá ăn sâu. Hệ quả là một dân tộc kiêu hãnh và huy hoàng đã ngã nhào vào bóng tối của nhục nhã và bại vong, một quang cảnh khơi dậy niềm xót thương sâu xa nhất nơi tất cả chúng ta. Vì Dân tộc Pháp cao quý giờ đây đang nằm rướm máu dưới chân một kẻ chinh phục tàn nhẫn. |
Even in this great darkness, a light still shines. The spirit of France still lives. Fair France will rise again, free once more and bound by ties to all those brother Nations which shared her sorrows and will then share in her victory. | Ngay trong bóng tối lớn lao này, một ánh sáng vẫn còn chiếu tỏa. Tinh thần nước Pháp vẫn sống. Nước Pháp kiều diễm sẽ lại trỗi dậy, một lần nữa tự do và gắn bó bằng những sợi dây với tất cả các Quốc gia huynh đệ đã chia sẻ nỗi sầu của nàng và rồi sẽ chia sẻ chiến thắng của nàng. |
World Brotherhood and Peace | Tình Huynh đệ Thế giới và Hòa bình |
Out of such a unity, from such a brotherhood of sorrow and defeat, will there not most assuredly be established a unity which will not be lost, but will prove to be the nucleus of the future World Federation of all States? | Từ một sự hợp nhất như vậy, từ một tình huynh đệ của nỗi sầu và bại trận như vậy, lẽ nào lại không chắc chắn thiết lập một hợp nhất sẽ không bị đánh mất, mà sẽ chứng nghiệm là hạt nhân của Liên bang Thế giới tương lai của mọi Quốc gia? |
The Theosophist answers in the affirmative, for he knows that as the consciousness of man penetrates more deeply beyond the mental into the intuitional worlds, the fact of the oneness of all life and therefore of the brotherhood of man will be increasingly recognized. That penetration is occurring. A new level of awareness is being entered by the race. The Christ Child is being born again, not in a stable in any one land, but within the hearts of the human race. As of old Herod sought the death of that which threatened his rule, so today the incarnated spirit of separateness and individualism seeks to destroy the dawning consciousness of unity and to render impossible the progress of the race to world-brotherhood and peace. The Herod-Nations little realize that by the very threat and its attempted fulfilment the peoples of the world are being unified. Just as the Christ Child escaped from Herod and returned to usher in a new age, so the new vision of human life lived in unity will escape its threatened destruction and live to establish a new world order. For such is the divine plan. | Nhà Thông Thiên Học trả lời khẳng định, vì y biết rằng khi tâm thức con người thâm nhập sâu hơn vượt qua cõi trí vào các thế giới trực giác, thực tại về nhất thể của mọi Sự sống và do đó về tình huynh đệ của con người sẽ ngày càng được nhận biết. Sự thâm nhập ấy đang diễn ra. Một cấp độ nhận biết mới đang được giống dân bước vào. Hài Nhi Christ đang được sinh ra lần nữa, không phải trong một máng cỏ ở một miền đất nào, mà trong trái tim của loài người. Như xưa Hêrod mưu sát điều đe dọa quyền lực của hắn, thì hôm nay tinh thần nhập thể của sự chia rẽ và chủ nghĩa cá nhân tìm cách hủy diệt tâm thức hợp nhất đang rạng đông và làm cho tiến bộ của giống dân đến tình huynh đệ thế giới và hòa bình trở nên bất khả. Các Quốc gia-Hêrod ít nhận ra rằng chính bởi lời đe dọa và nỗ lực thực thi lời đe dọa ấy mà các dân của thế giới đang được hợp nhất. Cũng như Hài Nhi Christ thoát khỏi tay Hêrod và trở về để khai mở một kỷ nguyên mới, thị kiến mới về đời sống con người trong hợp nhất cũng sẽ thoát khỏi mối đe dọa hủy diệt và sống để thiết lập một trật tự thế giới mới. Vì đó là thiên cơ. |
Spiritual Self of Man | Tự Ngã Tinh thần của Con người |
One last thought. Above the storm which rages in these lower worlds there is a place of peace. Therein abides perpetually the spiritual Self of man. Even though the body falls, mangled and dying, the true Self abides in calm unshakable, in peace which nothing can disturb. When the hours of trial come, when bad news arrives as well it may, even should invasion threaten the lands on which we live, we, Theosophists, know that man possesses the power to rise above the battle and the storm, to awaken the sleeping Christ consciousness as the Disciples did of old, and all Disciples must ever do. In the power of his divine nature, his immortal Self, and invoking its majestic will, with certainty of obedience man can say to all storms external or interior, ‘peace be still’. For deep within the Inner Self we, Theosophists, know that we can unfailingly find that spiritual power which will not only preserve our own faith and courage amidst the darkness around us, but will make each one of us as stable as the Rock of Ages amidst the present storm, centres of stability upon which our fellow men may unfailingly depend. | Một ý nghĩ cuối cùng. Trên cơn bão đang cuộn trào ở các cõi thấp này có một chốn bình an. Ở đó trú ngụ thường hằng Tự Ngã tinh thần của con người. Dẫu thân xác có ngã xuống, bị tàn sát và hấp hối, Chân Ngã vẫn an trụ không lay chuyển, trong an bình mà chẳng gì có thể quấy động. Khi giờ thử thách đến, khi tin dữ kéo đến—như hoàn toàn có thể—ngay cả khi xâm lăng đe dọa miền đất nơi chúng ta sống, chúng ta—Những Nhà Thông Thiên Học—biết rằng con người có năng lực vượt trên trận mạc và bão tố, đánh thức tâm thức Christ đang ngủ như các Môn đệ xưa đã làm, và mọi Môn đệ muôn đời vẫn phải làm. Với quyền năng của thiên tính, Chân Ngã bất tử của mình, và khẩn cầu thiên ý uy nghi của nó, với sự chắc chắn về sự vâng thuận, con người có thể nói với mọi cơn bão bên ngoài hay bên trong: “bình an, hãy yên lặng”. Vì sâu thẳm nơi Tự Ngã Nội tại, chúng ta—Những Nhà Thông Thiên Học—biết rằng mình có thể không bao giờ sai lạc trong việc tìm ra quyền năng tinh thần ấy—quyền năng không chỉ giữ gìn đức tin và dũng khí của chính chúng ta giữa bóng tối chung quanh, mà còn làm cho mỗi người trong chúng ta vững như Tảng Đá Muôn Đời giữa cơn bão hiện tại, trở thành những trung tâm vững chãi mà đồng loại có thể không bao giờ ngần ngại nương cậy. |
As for myself, though without illusions as to the danger which threatens us all, I can but say that I am confident of victory, as I have never been since this war began. For me England shall not, cannot die. I believe her to be guarded, a citadel impregnable, spiritually and physically. | Phần tôi, tuy không ảo tưởng về hiểm họa đang đe dọa tất cả chúng ta, tôi chỉ có thể nói rằng tôi vững tin vào chiến thắng như chưa từng có kể từ khi chiến tranh này bắt đầu. Với tôi, nước Anh sẽ không, không thể chết. Tôi tin nàng được canh giữ, là thành lũy bất khả xâm phạm, cả về tinh thần lẫn vật chất. |
The Great White Brotherhood exists from eternity to eternity, and its members, not Herr Hitler, rule this world. | Thánh đoàn tồn tại từ vĩnh cửu đến vĩnh cửu, và các thành viên của Thánh đoàn, chứ không phải Herr Hitler, cai quản thế giới này. |
The whole world’s karma is being precipitated at this time in preparation for a great spiritual and cultural advance. Age old debts are being paid that the soul of humanity may be made free. | Nghiệp quả của toàn thế giới đang được ngưng tụ vào thời điểm này để chuẩn bị cho một bước tiến tinh thần và văn hóa vĩ đại. Những món nợ ngàn xưa đang được thanh toán để linh hồn của nhân loại được tự do. |
A deep darkness is now upon the British people. A deeper darkness may descend but it will be that darkness which precedes the dawn. | Một bóng tối sâu dày hiện đang phủ lên dân tộc Anh. Một bóng tối sâu hơn có thể giáng xuống, nhưng đó sẽ là bóng tối trước bình minh. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 1, August 1940, p. 10 | Theosophy in New Zealand, Tập 1, Tháng Tám 1940, tr. 10 |
186
Theosophy—Thông Thiên Học
SOLE SALVATION FOR A WORLD IN DANGER | CỨU CÁNH DUY NHẤT CHO MỘT THẾ GIỚI ĐANG LÂM NGUY |
A Master of the Wisdom has stated that the fundamental mission of the Theosophical Society is to spread Theosophy throughout the world. The fulfilment of this mission has, I submit, now become an urgent necessity; for Theosophy applied to international, national and personal relationships is the sole solution of the problems that for some time have been and are mounting in intensity at a very disturbing rate. Whilst ever remembering the complete freedom of thought—and therefore of resultant action—that is granted to every member, the present world situation is so grave and so dangerous to human life and security, that very great—and I am inclined to say extraordinary—efforts are now called for by those who find themselves thus moved. | Một Chân sư của Minh Triết đã tuyên bố rằng sứ mệnh căn bản của Hội Thông Thiên Học là truyền bá Thông Thiên Học khắp thế giới. Việc chu toàn sứ mệnh này, theo tôi, nay đã trở thành một nhu cầu cấp bách; vì Thông Thiên Học, khi được áp dụng vào các mối quan hệ quốc tế, quốc gia và cá nhân, là giải pháp duy nhất cho những vấn đề đã và đang gia tăng về cường độ với một tốc độ vô cùng đáng lo. Trong khi luôn ghi nhớ quyền tự do tư tưởng hoàn toàn—và vì thế là hành động hệ quả—được trao cho mọi hội viên, thì tình thế thế giới hiện tại nghiêm trọng đến mức và nguy hiểm đến mức đối với sự sống và an ninh con người, đến nỗi những nỗ lực rất lớn—và tôi thiên về nói là khác thường—nay đang được kêu gọi nơi những ai cảm thấy thôi thúc như vậy. |
A Clear-eyed Look | Một Cái Nhìn Tinh Tường |
Clear-eyed, may we now face the present world situation, particularly from the point of view of mankind’s deliberately increasing capacity for mutual slaughter. | Với đôi mắt tỉnh táo, chúng ta hãy đối diện tình thế thế giới hiện tại, đặc biệt từ quan điểm về khả năng cố ý gia tăng của nhân loại trong việc tương sát lẫn nhau. |
The latest figures show that 42 million people died prematurely in the ten years embracing the Second World War. Nearly 25 millions were civilian, and 17 millions were military deaths. These 42 millions were men, women and children who were starved, tortured, shot, blown to pieces, vivisected, frozen or gassed to death. | Những con số mới nhất cho thấy 42 triệu người đã chết yểu trong mười năm bao trùm Thế chiến thứ hai. Gần 25 triệu là thường dân, và 17 triệu là tử vong quân sự. 42 triệu người ấy là những người nam, nữ và trẻ em đã bị bỏ đói, tra tấn, bắn giết, nổ tung thành từng mảnh, giải phẫu sống, bị đóng băng hoặc bị hơi ngạt giết chết. |
Since the end of the Second World War, the nations have vainly sought for that international unity and solidarity for which the great majority are longing; for, like twin swords of Damocles, atomic, bacteriological and nerve gas warfare hang over every Race, city and human being on Earth. | Kể từ khi chấm dứt Thế chiến thứ hai, các quốc gia đã vô vọng tìm kiếm sự hợp nhất và đoàn kết quốc tế mà đại đa số hằng khao khát; vì, như hai lưỡi gươm Damocles song hành, chiến tranh hạt nhân, vi khuẩn học và khí độc thần kinh treo lơ lửng trên mọi Chủng tộc, thành phố và con người trên Địa Cầu. |
In the New Zealand Herald, 2/1/76, it was stated by Dr Frank Bamaby: ‘If the United States and the Soviet Union continue the production of nuclear weapons, they will soon have enough arms to destroy each other 100 times’. The Director of the Stockholm international Peace Research Institute said on January 1st, in Stockholm, that the U.S.A. and the Soviet Union are now thought to have similar strength in tactical nuclear arms, with each country possessing about 20,000 of these terrible weapons. | Trên New Zealand Herald, 2/1/76, Bác sĩ Frank Bamaby đã nói: “Nếu Hoa Kỳ và Liên Xô tiếp tục sản xuất vũ khí hạt nhân, họ sẽ sớm có đủ vũ khí để hủy diệt lẫn nhau 100 lần”. Giám đốc Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockholm nói vào ngày mùng 1 tháng Giêng, tại Stockholm, rằng Hoa Kỳ và Liên Xô hiện được cho là có sức mạnh tương tự nhau về vũ khí hạt nhân chiến thuật, mỗi nước sở hữu khoảng 20.000 thứ vũ khí khủng khiếp này. |
International conferences and agreements have tried to stem the spread of atomic missiles in vain, but the nightmare of potential nuclear holocaust persists. Recent events, in fact, suggest that the dangers from nuclear proliferation and the atomic arms race are probably greater now than at any time since the first ‘mushroom cloud’ arose on Earth. | Các hội nghị và hiệp ước quốc tế đã cố gắng ngăn chặn sự lan rộng của tên lửa hạt nhân trong vô vọng, nhưng cơn ác mộng về khả năng một cuộc diệt vong hạt nhân vẫn còn đó. Thực tế, những biến cố gần đây cho thấy những hiểm họa từ sự phổ biến hạt nhân và cuộc chạy đua vũ trang hạt nhân có lẽ còn lớn hơn bây giờ so với bất kỳ lúc nào kể từ khi “đám mây hình nấm” đầu tiên trỗi dậy trên Trái Đất. |
Russia’s Newest Rocket | Tên lửa Mới nhất của Nga |
(Newsweek, 8/9/75) Soviet rocket engineers are pushing development of a new solid fuel rocket with a range of about 2,500 miles—too short to reach the U.S., and therefore exempt from any ceilings set by the U.S.—Soviet strategic arms limitation talks. It would, however, pose a potent threat to Western Europe, the Middle East and China. Called the SSX-20, the new intermediate-range missile, carrying three warheads, could be deployed in underground silos, or ‘to confuse satellite reconnaissance’ mounted on mobile vehicles. | (Newsweek, 8/9/75) Các kỹ sư tên lửa Liên Xô đang thúc đẩy phát triển một loại tên lửa nhiên liệu rắn mới với tầm bắn khoảng 2.500 dặm—quá ngắn để vươn tới Hoa Kỳ, và do đó được miễn trừ khỏi mọi trần hạn do các cuộc đàm phán hạn chế vũ khí chiến lược Mỹ—Xô đặt ra. Tuy nhiên, nó sẽ là một mối đe dọa mạnh đối với Tây Âu, Trung Đông và Trung Quốc. Được gọi là SSX-20, tên lửa tầm trung mới này, mang ba đầu đạn, có thể được triển khai trong các hầm phóng ngầm, hoặc ‘để gây rối việc trinh sát bằng vệ tinh’ gắn trên các phương tiện cơ động. |
Whilst The Universal Declaration of Human Rights states: No one shall be subjected to torture, to cruel, inhuman or degrading treatment or punishment, virtually every nation on earth subscribes to that straightforward principle. Yet, like most other U.N. pledges, the clause is widely and brutally ignored. | Trong khi Tuyên ngôn Phổ quát về Nhân quyền nêu: Không ai bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay hạ nhục, hầu như mọi quốc gia trên Trái Đất đều tán thành nguyên tắc thẳng thắn đó. Thế nhưng, như hầu hết các cam kết khác của LHQ, điều khoản này bị xem thường một cách rộng rãi và tàn bạo. |
One of the grim truths of the second half of the 20th century is that rarely before in history has torture been in such widespread use. | Một trong những sự thật ảm đạm của nửa sau thế kỷ 20 là hiếm có thời nào trong lịch sử, tra tấn lại được sử dụng rộng khắp đến vậy. |
Amnesty International, the widely respected rights organisation headquartered in London, estimates that in the last decade torture has been officially practised in 60 countries; last year alone there were more than 40 violating states. From Chile, Brazil, Argentine, Uruguay and Paraguay to Guinea, Uganda, Spain, Iran and the Soviet Union, torture has become a common instrument of state policy practised by ruling cliques against almost anyone seen as a threat to their power. ‘Torture’, says Marc Schreiber, Director of the U.N.’s Commission on Human Rights, ‘is a phenomenon of our times’. (Time, August 16th, 1976) | Ân xá Quốc tế, tổ chức nhân quyền có uy tín rộng rãi đặt trụ sở tại Luân Đôn, ước tính rằng trong thập kỷ qua tra tấn đã được thực hành chính thức ở 60 quốc gia; chỉ riêng năm ngoái đã có hơn 40 quốc gia vi phạm. Từ Chile, Brazil, Ác-hen-ti-na, Uruguay và Paraguay đến Guinea, Uganda, Tây Ban Nha, Iran và Liên Xô, tra tấn đã trở thành công cụ phổ biến của chính sách nhà nước do các tập đoàn cầm quyền áp dụng đối với hầu như bất kỳ ai bị coi là mối đe dọa đối với quyền lực của họ. ‘Tra tấn’, Ông Marc Schreiber, Giám đốc Ủy ban Nhân quyền của LHQ nói, ‘là một hiện tượng của thời đại chúng ta’. (Time, August 16th, 1976) |
A Steadily Increasing Build up | Một Sự Tăng Cường Đều Đặn |
In addition, week after week—sometimes almost day after day—news arrives that many of the evils above described are steadily increasing in the world. Statistical figures demonstrate this. As I write, for example, I have just read the following: ‘The International Institute for Strategic Studies has just released a new report on the latest hardware being developed or coming into service as part of the East-West arms build up. The biggest build up is in nuclear weapons. In numbers of strategic delivery vehicles—missiles and planes—Russia now has a 20 per cent lead over America: 2507 to 2097. But this is only one method of measurement. In deliverable warheads America has a huge superiority (8530 to 3250). This is because it is ahead of Russia in re-equipping its missiles with Mirvs—clusters of warheads directed to separate targets’ (New Zealand Herald, 13/9/76). | Ngoài ra, tuần này qua tuần khác—đôi khi gần như ngày này qua ngày khác—tin tức cho hay nhiều điều ác nêu trên đang đều đặn gia tăng trên thế giới. Các con số thống kê cho thấy điều này. Chẳng hạn khi tôi viết những dòng này, tôi vừa đọc điều sau: ‘Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế vừa công bố báo cáo mới về các trang thiết bị mới nhất đang được phát triển hoặc đưa vào sử dụng như một phần của cuộc chạy đua vũ trang Đông—Tây. Sự tăng cường lớn nhất là ở vũ khí hạt nhân. Về số lượng phương tiện mang vũ khí chiến lược—tên lửa và máy bay—Nga hiện dẫn trước Mỹ 20 phần trăm: 2507 so với 2097. Nhưng đó chỉ là một phương pháp đo lường. Ở số lượng đầu đạn có thể triển khai, Mỹ có ưu thế khổng lồ (8530 so với 3250). Điều này là vì Mỹ đi trước Nga trong việc tái trang bị tên lửa bằng Mirv—các cụm đầu đạn được hướng tới các mục tiêu riêng rẽ’ (New Zealand Herald, 13/9/76). |
Millions Starving | Hàng Triệu Người Chết Đói |
More than 900 million people in developing countries are ‘engulfed by absolute poverty’. | Hơn 900 triệu người ở các nước đang phát triển đang ‘bị nhấn chìm trong cảnh nghèo tuyệt đối’. |
Of the 1200 million people in the poorest nations, 750 million were among the ‘absolute poor’, living on less than $100 a year, with many of their basic human needs unmet. World Bank President Mr Robert McNamara, in an address to the joint annual meeting of the Bank and the International Monetary Fund (The Auckland Star, October 4th, 1976). | Trong số 1.200 triệu người ở các quốc gia nghèo nhất, 750 triệu thuộc nhóm ‘nghèo tuyệt đối’, sống với chưa đến 100 đô-la một năm, với nhiều nhu cầu cơ bản của con người không được đáp ứng. Chủ tịch Ngân hàng Thế giới, Ông Robert McNamara, trong một bài phát biểu tại kỳ họp thường niên chung của Ngân hàng và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (The Auckland Star, October 4th, 1976). |
The Only Deterrent | Phương Tiện Răn Đe Duy Nhất |
World statesmen, national leaders and individuals would not be | Các quốc trưởng trên thế giới, các nhà lãnh đạo quốc gia và từng cá nhân sẽ không thể |
able, I submit, to contribute to the increase of this vast network of evil by deliberately embarking upon destructive modes of planning and action, if the following theosophical ideas and ideals were sufficiently well known and applied to the motives and the conduct of those who accepted them. | theo tôi, góp phần làm gia tăng mạng lưới cái ác rộng lớn này bằng cách cố ý dấn thân vào những phương thức hoạch định và hành động mang tính hủy diệt, nếu các ý tưởng và lý tưởng thuộc Thông Thiên Học sau đây được biết đến đủ rộng và được áp dụng vào động cơ cùng hạnh kiểm của những người chấp nhận chúng. |
THE INHERENT LIFE PRESENT IN ALL NATURE, AND SO IN ALL SENTIENT BEINGS, IS ONE AND THE SAME LIFE. In consequence, in degree according to effects produced, actions which either help or injure one person inevitably influence everyone else. The word ‘family’ correctly describes the relationship between all people on Earth, each single inhabitant being intimately allied to every other. The word ‘Brotherhood’ well describes this interconnection. Nevertheless, the idea and resultant responsibility of a human family may perhaps be more pertinent. | SỰ SỐNG NỘI TẠI HIỆN HỮU TRONG TOÀN THỂ TỰ NHIÊN, VÀ NHƯ THẾ TRONG MỌI CHÚNG HỮU TÌNH, LÀ MỘT VÀ CÙNG MỘT SỰ SỐNG. Hệ quả là, tùy theo mức độ hiệu quả được tạo ra, các hành động hoặc giúp đỡ hay làm hại một người sẽ tất yếu ảnh hưởng đến tất cả mọi người khác. Từ ‘gia đình’ mô tả đúng mối liên hệ giữa mọi người trên Trái Đất, mỗi cư dân đơn lẻ gắn bó mật thiết với mọi cư dân khác. Từ ‘Huynh đệ’ mô tả rất phù hợp sự liên kết này. Tuy nhiên, ý niệm và trách nhiệm phát sinh về một gia đình nhân loại có lẽ còn thích đáng hơn. |
THE PURPOSE FOR THE EXISTENCE OF ALL MEMBERS OF EARTH’S FAMILY IS ALSO ONE AND THE SAME. In a word it is ‘development’, meaning the steady and regular unfoldment to the highest possible degree of every innate, desirable quality and faculty. Just as plants grow quite naturally from seed to flower, and thence to fruit, so also every other living product of Nature is undergoing from within itself precisely the same procedure. In the case of man, this implies evolution from savagery to Saviourship, from domination over others to ministration towards them, from the motive of self-gain to that of intelligently planned, compassionately inspired service. St Paul wrote: ‘Till we all come in the unity of the faith, and of the knowledge of the Son of God, unto a perfect man, unto the measure of the stature of the fullness of Christ’ (Ephesians 4:13), Our Lord also affirmed: ‘Ye shall be perfect, even as your Father which is in heaven is perfect’ (Matthew 5:48). | MỤC ĐÍCH CHO SỰ HIỆN HỮU CỦA TẤT CẢ CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH ĐỊA CẦU CŨNG LÀ MỘT VÀ NHƯ NHAU. Tóm lại đó là ‘phát triển’, nghĩa là sự khai mở đều đặn và tuần tự đến mức cao nhất có thể của mọi phẩm tính và năng lực bẩm sinh tốt đẹp. Cũng như cây cỏ tự nhiên lớn lên từ hạt thành hoa, rồi đến trái, mọi sản phẩm sống khác của Tự Nhiên cũng đang trải qua chính xác tiến trình đó từ bên trong. Trong trường hợp con người, điều này hàm ý tiến hóa từ hoang dã đến Cứu độ giả, từ thống trị người khác đến phụng sự họ, từ động cơ mưu cầu bản thân sang phụng sự được hoạch định khôn ngoan, được cảm hứng bởi lòng bi mẫn. Thánh Phao-lô đã viết: ‘Cho đến chừng chúng ta đều hiệp một trong đức tin và trong sự hiểu biết Con của Đức Chúa Trời, mà nên người trọn vẹn, đạt đến mức thước vóc trọn vẹn của Đức Christ’ (Ê-phê-sô 4:13). Chúa chúng ta cũng khẳng định: ‘Các ngươi hãy nên trọn vẹn, như Cha các ngươi ở trên trời là trọn vẹn’ (Ma-thi-ơ 5:48). |
The human mind, brain, heart should ideally ever extend their interests and pursuits of happiness beyond the goal of gain for oneself to wisely planned gain for all others. Thus guided in the production of every important thought and deed, each based upon realized oneness with the Life in all that lives; thus loving, thus practically helping, growing multitudes of servers could arise throughout the world. Thus alone, I venture to affirm, may the dark night of world evil begin to experience the dawning of a new day. A ‘Sun’ of Universal Love and Wisdom—Theosophia—shining with Divine Intelligence would then appear above the ‘Eastern horizon’. Thus and thus alone, may the present civilisation be saved from the decline into which it would now appear to be so seriously descending. | Thể trí, bộ não, con tim của con người, một cách lý tưởng, nên luôn mở rộng mối quan tâm và sự kiếm tìm hạnh phúc vượt khỏi mục tiêu lợi lạc cho riêng mình để hướng tới lợi lạc được hoạch định sáng suốt cho tất cả những người khác. Được dẫn dắt như thế trong việc sản sinh mọi tư tưởng và hành động quan trọng, mỗi điều được đặt nền trên sự nhận biết về tính nhất như với Sự Sống trong muôn loài; yêu thương như thế, trợ giúp thiết thực như thế, những quần chúng ngày càng đông các người phụng sự có thể xuất hiện trên khắp thế giới. Chỉ như thế, tôi cả gan khẳng định, đêm tối của cái ác thế gian mới có thể bắt đầu đón nhận bình minh của một ngày mới. Một ‘Mặt Trời’ của Tình Thương và Minh Triết Phổ Quát—Theosophia—chói rạng với Trí Tuệ Thiêng Liêng khi ấy sẽ xuất hiện trên ‘chân trời phương Đông’. Chỉ như thế, và chỉ như thế, nền văn minh hiện tại mới có thể được cứu khỏi đà suy thoái mà dường như nó đang rất nghiêm trọng trượt xuống. |
Nothing less than this will save mankind from its present headlong rush towards possible mutual bodily annihilation by means of weapons of almost unlimited destructiveness now available. Selfless service is of special value when performed on behalf of those human beings who are greatly in need of help. This has been beautifully expressed by a great Master, Who wrote: ‘I would not let one cry whom I could save’.[1] | Không gì ít hơn điều này có thể cứu nhân loại khỏi cuộc lao dốc hiện nay hướng tới khả năng hủy diệt lẫn nhau về thân xác bằng những vũ khí có sức công phá gần như không giới hạn đang sẵn có. Phụng sự vô ngã có giá trị đặc biệt khi được thực hiện vì những con người đang rất cần được giúp đỡ. Điều này đã được biểu đạt tuyệt đẹp bởi một Chân sư vĩ đại, Ngài viết: ‘Ta sẽ không để một ai khóc, nếu Ta có thể cứu’. |
Two immeasurably urgent reasons exist for this transformation of human nature. One of these simply stated, is: Since every other single person is a member of one’s own spiritual family, bodily differences in no way detract from the fact of the identity of both the life principle in all and of the purpose for its varied manifestations. All members of the human Race are as mothers and fathers, sisters and brothers to each other. In consequence, benefit or harm to one inevitably affects, even invisibly, every other member of the human family. | Có hai lý do khẩn thiết vô lượng để thực hiện sự chuyển hóa bản tính con người. Một trong số đó, nói gọn, là: Vì mọi người khác đều là thành viên của gia đình tinh thần của chính mình, nên khác biệt về thân xác không làm suy giảm thực tại về sự đồng nhất của nguyên lý sự sống nơi tất cả và của mục đích cho những biểu lộ muôn hình vạn trạng của nguyên lý ấy. Mọi thành viên của Nhân loại là như mẹ và cha, chị và anh em đối với nhau. Hệ quả là, lợi ích hay tổn hại đến một người tất yếu ảnh hưởng, dù vô hình, đến mọi thành viên khác của gia đình nhân loại. |
THE SECOND IMMEASURABLY URGENT REASON FOR THE TRANSFORMATION OF HUMAN NATURE IS THAT HUMAN LIFE ON EARTH IS LIVED UNDER THE ABSOLUTE DOMINION OF THE NATURAL PROCEDURE OF ACTION AND APPROPRIATE REACTION, CAUSE AND EFFECT. This has been summed up in and expressed by one of the world’s oldest tongues—namely, in Sanskrit, Karma. | LÝ DO CẤP BÁCH VÔ LƯỢNG THỨ HAI CHO SỰ CHUYỂN HÓA BẢN TÍNH CON NGƯỜI LÀ RẰNG ĐỜI SỐNG CON NGƯỜI TRÊN TRÁI ĐẤT ĐƯỢC SỐNG DƯỚI SỰ CHẾ NGỰ TUYỆT ĐỐI CỦA TIẾN TRÌNH TỰ NHIÊN VỀ HÀNH ĐỘNG VÀ PHẢN ỨNG TƯƠNG ỨNG, NHÂN VÀ QUẢ. Điều này được tóm gọn và biểu đạt bằng một trong các ngôn ngữ cổ nhất thế giới—tiếng Sanskrit—là Nghiệp quả, Karma. |
Whenever nations operate as a unit for the apparent benefit of their people (or individuals do the same) at the cost of the health, happiness and wellbeing of others, an appropriate counter operation always takes place under this law. Pain giving produces pain, and happiness giving produces happiness, always in the degree in which the causative actions have been performed. Although these reactions may not be very often are not—immediate, and therefore not known to be related to the causative activities in terms of time, place and Individuality, nevertheless the law of action and appropriate reaction inevitably follows a course of interrelated procedures. | Bất cứ khi nào các quốc gia hành động như một khối vì lợi ích bề ngoài cho dân mình (hoặc cá nhân cũng làm như vậy) mà phải trả giá bằng sức khỏe, hạnh phúc và phúc lợi của người khác, một phản ứng tương ứng luôn diễn ra theo định luật này. Gây đau đớn thì sinh đau đớn, đem hạnh phúc thì sinh hạnh phúc, luôn luôn với mức độ tương xứng với hành vi nhân đã được thực hiện. Dù những phản ứng này có thể—và rất thường—không tức thời, và do đó không được biết là có liên quan với các hoạt động nhân xét theo thời gian, địa điểm và cá tính, tuy nhiên định luật về hành động và phản ứng tương xứng tất yếu vận hành theo một chuỗi tiến trình liên đới. |
Although this truth has been enunciated by great teachers and leaders from time immemorial, the ‘time-gap’, together with the overpowering motive of self-gain, have contributed to its almost total neglect—hence the darkened and now more deeply darkening aspects of the history of the world. | Dẫu cho chân lý ấy đã được các bậc thầy và lãnh đạo vĩ đại tuyên xướng từ ngàn xưa, ‘khoảng trống thời gian’, cùng với động cơ áp đảo của mưu cầu bản thân, đã góp phần khiến nó hầu như bị lãng quên hoàn toàn—do đó những khía cạnh u tối, và giờ còn u tối hơn nữa, trong lịch sử thế giới. |
The Lord Christ affirmed ‘It is easier for heaven and earth to pass away than for one jot or one tittle of the law to fail’ (Matthew 5:18). ‘Judge not that ye be not judged’ (Matthew 7:1). ‘And as ye would that men should do to you, do ye also to them likewise’ (Luke 6:31) . . . ‘with the same measure that ye mete withall it shall be measured to you again’ (Luke 6:38). | Đức Christ khẳng định: ‘Trời đất còn qua đi, song một nét nhỏ, một chấm nhỏ của luật pháp cũng không hề qua đi’ (Lu-ca 16:17; so với Ma-thi-ơ 5:18). ‘Đừng đoán xét, để khỏi bị đoán xét’ (Ma-thi-ơ 7:1). ‘Điều gì các ngươi muốn người ta làm cho mình, hãy làm cho họ như vậy’ (Lu-ca 6:31) … ‘bởi lường nào các ngươi lường, sẽ lường lại cho các ngươi bấy nhiêu’ (Lu-ca 6:38). |
How then one may ask, does exactly the appropriate effect actually reach the actor, particularly if he or she experiences bodily death before this occurs? The answer has also been enunciated throughout the ages by Seers and Prophets. | Vậy thì, người ta có thể hỏi, bằng cách nào hiệu quả tương xứng chính xác thực sự đến được với người hành động, nhất là nếu người ấy trải qua cái chết thân xác trước khi điều đó xảy ra? Câu trả lời cũng đã được các Nhà Tiên tri và Tiên kiến công bố qua các thời đại. |
IT IS: THAT BOTH THE EVOLUTIONARY PROCEDURE AND THE FUNCTION OF THE LAW ARE BROUGHT ABOUT BY MEANS OF THE SUCCESSIVE REBIRTHS OF ONE AND THE SAME INDIVIDUALISED LIFE-PRINCIPLE, OR REINCARNATING SOUL. One may therefore sow the ‘seeds’ of either sweet scented, beautiful, happiness giving ‘flowers’, or those of ugliness in the form of pain and misery inflicted upon fellowmen in a particular physical life. One inevitably reaps the absolutely equivocal effects of personal conduct in successive incarnations, always modified by motives and actions that have intervened, be it ever remembered. | ẤY LÀ: CẢ TIẾN TRÌNH TIẾN HÓA LẪN CHỨC NĂNG CỦA ĐỊNH LUẬT ĐỀU ĐƯỢC THỰC HIỆN THÔNG QUA NHỮNG LẦN TÁI SINH KẾ TIẾP CỦA CHÍNH NGUYÊN LÝ SỰ SỐNG ĐÃ ĐƯỢC CÁ BIỆT HÓA, TỨC LINH HỒN TÁI SINH. Do đó, trong một đời sống thể xác nhất định, người ta có thể gieo ‘hạt giống’ của ‘hoa’ thơm ngát, tươi đẹp, đem lại hạnh phúc, hoặc gieo hạt của xấu xí dưới dạng đau khổ và khốn cùng gây cho đồng loại. Người ta tất yếu gặt lấy những hiệu quả hoàn toàn tương xứng với hạnh kiểm cá nhân trong các lần lâm phàm kế tiếp, luôn được điều chỉnh bởi các động cơ và hành động chen vào giữa—điều này cần ghi nhớ mãi. |
The evolution of the spiritual Soul of every human being to perfection—Mahatmaship, Buddhahood or Christhood, for example—is brought about by the operation upon man of Nature’s Universal Law of cyclic manifestation and ‘rest’, repeated withdrawal and re-emergence. In man, as we have seen, this takes the form of successive bodily rebirths, the conditions of which are governed by preceding conduct. Happiness giving action is always succeeded by happiness, whilst the production of misery is inevitably followed by misery, whether immediately, later in the same life, or in a following incarnation. Death only brings the end of one’s physical body and never of one’s true Self which lives on and unfolds unto Eternity. | Sự tiến hóa của Linh hồn tinh thần nơi mỗi con người đến mức viên mãn—chẳng hạn đến địa vị Mahatma, Phật quả hay Christ quả—được hoàn tất bởi sự vận hành nơi con người của Định luật Chu kỳ Phổ quát của Tự Nhiên về biểu lộ và ‘nghỉ’, về thu hồi rồi tái xuất hiện. Ở con người, như ta đã thấy, điều này mang hình thức các lần tái sinh thân xác kế tiếp, mà các điều kiện của chúng được chi phối bởi hạnh kiểm trước đó. Hành động đem lại hạnh phúc luôn được tiếp nối bởi hạnh phúc, trong khi tạo ra khổ đau thì tất yếu bị khổ đau theo sau, dù ngay lập tức, muộn hơn trong cùng đời này, hay trong một kiếp sau. Cái chết chỉ chấm dứt thân xác chứ không bao giờ chấm dứt Chân Ngã chân thật của mỗi người, vốn tiếp tục sống và khai mở cho đến Vĩnh cửu. |
INTERRELATIONSHIP IS THE KEYWORD INTIMATELY LINKING NATIONS, PERSONS, ACTIONS, REACTIONS AND EACH OF MAN’S SUCCESSIVE LIVES OR REINCARNATIONS. All of these are triply bound together, first, by the interior presence of one and the same Divine Life Principle second by Nature’s birth and rebirth procedure of unfoldment and third by the operation of the Law of Cause and Effect. | TƯƠNG QUAN LÀ TỪ KHÓA LIÊN KẾT MẬT THIẾT CÁC QUỐC GIA, CÁ NHÂN, HÀNH ĐỘNG, PHẢN ỨNG VÀ TỪNG KIẾP SỐNG LIÊN TIẾP—TỨC CÁC LẦN TÁI SINH—CỦA MỖI CON NGƯỜI. Tất cả những điều này được kết buộc ba lần: thứ nhất, bởi sự hiện diện nội tại của cùng một Nguyên lý Sự Sống Thiêng Liêng; thứ hai, bởi tiến trình sinh ra và tái sinh của Tự Nhiên nơi sự khai mở; và thứ ba, bởi sự vận hành của Định luật Nhân Quả. |
As applied more especially to physically embodied humanity, difference of race, colour of skin and of sex, in no slightest sense imply the existence of any separateness whatever in the inherent nature of the immortal Selves of all mankind. This truth also has been continuously advanced by the Teachers of the Race, but most unhappily again largely because of objective circumstances has in its turn been continuously disregarded. Hence the parlous condition of the world today. Indeed Adepts, saints and true seers have continuously appeared upon Earth and still do so. Having arrived at the goal of human evolution, these Great Ones dedicate Themselves to the task of bringing ageless truths to the notice of mankind; for, from personal experience They know that only by the acknowledgement and application to life of such fundamental truths can man’s self produced misery be replaced by self produced happiness. | Áp dụng đặc biệt hơn cho nhân loại đang nhập thể, khác biệt về chủng tộc, màu da và giới tính, dẫu nhỏ nhất, cũng không hàm ý sự tồn tại của bất kỳ tính phân ly nào trong bản tính vốn có nơi các Chân Ngã bất tử của toàn thể nhân loại. Chân lý này cũng đã liên tục được các Bậc Thầy của Nhân loại nêu dậy, nhưng đáng buồn thay—một lần nữa, phần lớn là do các hoàn cảnh khách quan—nó lại liên tục bị bỏ qua. Do đó tình trạng nguy khốn của thế giới hôm nay. Thật vậy, các chân sư, các thánh nhân và những nhà tiên tri chân thực đã liên tục xuất hiện trên Trái Đất và vẫn đang như thế. Đã đạt đến cứu cánh của tiến hóa nhân loại, các Đấng Cao Cả ấy hiến trọn mình cho sứ mạng đưa các chân lý muôn đời đến với nhân loại; bởi, từ kinh nghiệm trực chứng, Các Ngài biết rằng chỉ bằng sự thừa nhận và áp dụng các chân lý nền tảng ấy vào cuộc sống thì nỗi khổ tự gây của con người mới có thể được thay thế bằng hạnh phúc do chính mình tạo ra. |
The Theosophical Society is itself one momentous example of this Adeptic ministration. Now in its second hundredth year, it also presents the ‘keys’ whereby the ‘door’ of the Temple of Truth may be ‘opened’, passed through, and entrance be attained to the bliss producing Holy of Holies within. | Hội Thông Thiên Học tự thân là một minh chứng trọng đại của sự cứu độ theo đường lối Chân sư ấy. Nay đã bước vào thế kỷ thứ hai của mình, Hội cũng trình bày những ‘chìa khóa’ nhờ đó có thể ‘mở’ được ‘cánh cửa’ của Đền Thờ Chân Lý, vượt qua ngưỡng ấy, và vào được Nơi Cực Thánh đem lại hoan lạc ở bên trong. |
THROUGHOUT THE AGES, AND THEREFORE STILL TODAY, CERTAIN OF THESE VERY GREAT BEINGS HAVE ESTABLISHED THE SPIRITUAL AND OCCULT RELATIONSHIP OF MASTER AND DISCIPLE BETWEEN THEMSELVES AND THOSE WHO DETERMINEDLY ASPIRE TO BE WORTHY OF THAT PRIVILEGE. A Disciple, male or female, is one who genuinely desires to save mankind from its present self produced sufferings, and to guide fellow human beings along the pathway of self produced well being and happiness. | XUYÊN QUA CÁC THỜI ĐẠI, VÀ DO ĐÓ NGAY CẢ NGÀY NAY, MỘT SỐ CÁC ĐẤNG RẤT CAO CẢ ẤY ĐÃ THIẾT LẬP MỐI QUAN HỆ TINH THẦN VÀ HUYỀN MÔ GIỮA CHÂN SƯ VÀ ĐỆ TỬ GIỮA CÁC NGÀI VÀ NHỮNG AI QUYẾT TÂM CHÍ NGUYỆN XỨNG ĐÁNG VỚI ĐẶC ÂN ẤY. Một Đệ tử, nam hay nữ, là người chân thành ước muốn cứu nhân loại khỏi những khổ đau do chính mình tạo ra hiện nay, và dẫn dắt đồng loại bước trên con đường tự gây nên phúc lạc và hạnh phúc. |
Deeply touched in mind and heart by knowledge of, and often close contact with the sufferings of men, women, children and animals, such Disciples have already selflessly dedicated their lives both to the redirection of the kind of human conduct from which pain arises and to the healing of those who have become self-afflicted. Whether from actions previous lives or during the present incarnation, these Disciples are the men and women through and with whom the great Adepts can and do work more directly for the welfare of the human Race and for the freeing of the animal kingdom from the inhuman cruelty perpetrated upon it by man. | Bị đánh động sâu xa nơi thể trí và con tim bởi sự hiểu biết, và thường là sự tiếp xúc gần gũi, với nỗi khổ của nam, nữ, trẻ em và loài vật, những Đệ tử như thế đã vị tha hiến dâng đời mình cho cả hai việc: chuyển hướng loại hạnh kiểm của con người từ đó đau khổ nảy sinh, và chữa lành những ai đã tự chuốc lấy thương tích. Dù do hành vi trong các đời trước hay trong kiếp này, những Đệ tử này là những người nam và nữ mà qua họ và với họ, các Chân sư vĩ đại có thể và thực sự làm việc trực tiếp hơn cho phúc lợi của Nhân loại và để giải phóng giới động vật khỏi sự tàn ác vô nhân mà con người đã gây ra cho chúng. |
NO SINGLE PERSON WHO FROM THE REMOTEST TIMES HAS BEEN THUS MOTIVATED HAS EVER FAILED TO WIN THE SUPPORT, DIRECTION AND INSPIRATION—EVEN IF UNKNOWN TO THEM AT FIRST—OF A MASTER OF THE WISDOM. Needless to say those who would become Disciples, thereby co-operating consciously with the Brotherhood of the Adepts in world ministration, must have eliminated from their own lives—as far as their circumstances permit—the motive thoughts, desires and activities that are so painfully harmful to others, and therefore ultimately to themselves. As we have seen this reaction is brought about under the Universal Law that whether beneficent or pain producing, appropriate effect inevitably follows every causative deed. | KHÔNG MỘT AI, TỪ THỜI XA XƯA NHẤT, ĐÃ ĐƯỢC THÚC ĐẨY BỞI ĐỘNG CƠ NHƯ THẾ MÀ LẠI THẤT BẠI TRONG VIỆC ĐƯỢC SỰ HỖ TRỢ, CHỈ DẪN VÀ CẢM HỨNG—DÙ BAN ĐẦU HỌ CHƯA BIẾT—CỦA MỘT CHÂN SƯ MINH TRIẾT. Khỏi cần nói, những ai muốn trở thành Đệ tử, nhờ đó hợp tác một cách tự giác với Huynh đệ Đoàn các Chân sư trong sứ mạng cứu đời, ắt hẳn phải loại bỏ khỏi đời sống riêng—trong phạm vi hoàn cảnh cho phép—các tư tưởng động cơ, ham muốn và hoạt động gây tổn hại đau đớn cho người khác, và do đó, sau cùng là cho chính mình. Như ta đã thấy, phản ứng ấy được tạo nên theo Định luật Phổ quát rằng, bất kể là lợi lạc hay gây đau, hiệu quả tương xứng tất yếu theo sau mọi hành vi nhân. |
The principle of unfailing response by the Perfected Ones to absolutely self-free dedication by a human being to the welfare of the sentient population of the Earth, ensures today, as ever, that the helping hand of the Adept collaborator will always be stretched out towards the practising idealist. From the beginning of human life on Earth, no such aspirant has ever been overlooked; for the light that has begun to shine within the Soul of such an one becomes instantly observed by those Great Ones Who maintain a ceaseless guarding watchfulness over the whole of mankind. This is especially true concerning the unfolding spiritual Soul incarnate within the named bodily person. In consequence throughout all time such ardent men and women have continuously come under the care and spiritual guidance of One Who has advanced beyond the human phase of Planetary evolution. | Nguyên lý về sự đáp ứng không hề sai chạy của các Đấng Toàn Thiện trước sự hiến dâng hoàn toàn vô vị lợi của một con người vì phúc lợi của cư dân hữu tình trên Địa Cầu, bảo đảm ngày nay, như xưa nay, rằng bàn tay trợ giúp của Chân sư cộng tác sẽ luôn vươn ra với người lý tưởng chủ nghĩa hành động. Từ buổi đầu của đời sống con người trên Địa Cầu, chưa từng có người chí nguyện như thế nào bị bỏ quên; vì ánh sáng đã bắt đầu bừng lên trong Linh hồn của người ấy lập tức được các Đấng Cao Cả lưu tâm, Các Ngài giữ một sự canh phòng không ngơi nghỉ đối với toàn thể nhân loại. Điều này đặc biệt đúng với Linh hồn tinh thần đang khai mở, đang nhập thể trong người mang tên tuổi cụ thể. Do đó, qua mọi thời, những nam nữ nhiệt thành như vậy liên tục được đặt dưới sự chăm sóc và dẫn dắt tinh thần của Một Vị đã tiến xa hơn giai đoạn nhân loại trong tiến hóa Hành tinh. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 38, No. 1, 1977, p. 1 | Theosophy in New Zealand, Vol. 38, No. 1, 1977, tr. 1 |
187
The Future of the Human Race—Tương Lai của Nhân Loại
A BROADCAST | MỘT BUỔI PHÁT THANH |
In the lifetime of most of us, humanity has lived through years of the most diabolical evil the world has ever known. Estimates of the extent of the sufferings of humanity in the recent years of the second World War are now available. The latest figures tell that 42 1/2 million people have died prematurely as a result of that war. Nearly 25 million were civilian and 17 1/2 million were military deaths. These 42 1/2 millions were men, women and children who were starved, tortured, shot, blown to bits, vivisected, frozen and gassed to death. They were deliberately murdered by every conceivable method of fiendish cruelty at the hands of supposedly civilised, cultured, and mostly Christian Nations. | Trong quãng đời của phần lớn chúng ta, nhân loại đã trải qua những năm tháng của thứ cái ác quỷ quyệt nhất mà thế giới từng biết. Các ước tính về mức độ khổ đau của nhân loại trong những năm gần đây của Thế chiến thứ hai nay đã có. Con số mới nhất cho biết 42 triệu rưỡi người đã chết yểu do hậu quả của cuộc chiến đó. Gần 25 triệu là thường dân và 17 triệu rưỡi là tử vong quân sự. 42 triệu rưỡi con người ấy là nam, nữ, trẻ em bị bỏ đói, tra tấn, bắn, nổ tan xác, mổ xẻ sống, bị凍 chết và bị khí độc giết hại. Họ bị cố ý sát hại bằng mọi phương cách có thể nghĩ ra của sự tàn ác quỷ quái trong tay những Quốc gia được cho là văn minh, văn hiến, và phần lớn là Kitô giáo. |
Since the end of the second World War, the Nations have sought vainly for that international unity and solidarity for which the great majority are longing. In vain, thus far, does humanity seek to satisfy its growing hunger for wholeness, its longing for friendship, peace and security. Like twin swords of Damocles, atomic and bacteriological warfare hang above the heads of the statesmen and people of every race, city, and home on earth. | Kể từ khi Thế chiến thứ hai kết thúc, các Quốc gia đã tìm kiếm một cách vô vọng sự thống nhất và liên đới quốc tế mà đại đa số đều khao khát. Cho đến nay, nhân loại vẫn tìm cách thỏa mãn cơn đói ngày càng tăng đối với tính toàn vẹn, khát vọng tình hữu nghị, hòa bình và an ninh—nhưng vô hiệu. Như hai thanh gươm của Damocles sinh đôi, chiến tranh hạt nhân và vi trùng treo lơ lửng trên đầu các chính khách và người dân của mọi chủng tộc, thành phố và mái nhà trên Trái Đất. |
In the face of these tragic facts, humanity might well despair, not only of world peace in our time, but of the whole future of our Race. | Đối diện các sự kiện bi thảm này, nhân loại có thể tuyệt vọng, không chỉ về hòa bình thế giới trong thời của chúng ta, mà còn về toàn bộ tương lai của Nhân loại. |
What has Theosophy to offer to mankind at this juncture and in this hour of urgent need? The answer to the question is ‘Knowledge—especially knowledge of guiding principles’: and such knowledge is all-important, most especially for those who aspire to play an effective part in the present world crisis. Theosophy provides that knowledge; for a study of Theosophy mentally lifts one to great heights from which a panoramic view of human life on earth is possible. Theosophy reveals the master plan of life, one part of which concerns the evolution of the human race upon earth. | Thông Thiên Học có gì để cống hiến cho nhân loại tại khúc quanh này và trong giờ phút cấp bách này? Câu trả lời là ‘Tri thức—đặc biệt là tri thức về các nguyên lý dẫn đạo’: và tri thức như vậy là tối quan trọng, nhất là đối với những ai khao khát đóng một vai trò hiệu quả trong cơn khủng hoảng thế giới hiện tại. Thông Thiên Học cung cấp tri thức ấy; vì sự học hỏi Thông Thiên Học nâng con người, về mặt trí tuệ, lên những độ cao từ đó một cái nhìn toàn cảnh về đời sống nhân sinh trên Địa Cầu trở nên khả hữu. Thông Thiên Học vén mở đại đồ của sự sống, trong đó có một phần liên quan đến tiến hóa của nhân loại trên Địa Cầu. |
The fulfilment of this plan, moreover, is stated to be utterly certain. Despite the adversities, cataclysms and decimations of the people of the planet age by age, the Race as a whole moves irresistibly onwards and nothing, no not even man’s own folly, can frustrate the Divine will ever pressing forward towards the fulfilment of the evolutionary process. Human bodies may be destroyed, civilisations and their monuments may crumble into dust, but the soul of man is immortal and eternal. No physical catastrophies, not even the atomic bornb, can reach and destroy the imperishable self of the individual and of the Race. Furthermore, the capacity to build civilisation after civilisation remains as a power of the human soul. Therefore, out of the possible ruins of one age, man arising Phoenix-like from the flames is well able to erect new civilisations of ever- increasing attainment and beauty. | Hơn nữa, sự hoàn thành của đại đồ này được nói là hoàn toàn chắc chắn. Dẫu những nghịch cảnh, tai biến và sự tàn sát dân cư của hành tinh qua từng thời đại, Nhân loại như một toàn thể vẫn tiến bước không gì cưỡng nổi và không gì—ngay cả sự dại dột của chính con người—có thể làm hỏng Ý Chí thiêng liêng vốn không ngừng thúc đẩy tiến trình tiến hóa đi đến viên mãn. Thân xác con người có thể bị hủy diệt, các nền văn minh cùng những đài kỷ niệm của chúng có thể sụp đổ thành tro bụi, nhưng linh hồn con người là bất tử và vĩnh cửu. Không tai họa vật chất nào, thậm chí cả bom nguyên tử, có thể chạm đến và hủy diệt Chân Ngã bất hoại của cá nhân và của Nhân loại. Hơn nữa, năng lực xây dựng hết nền văn minh này đến nền văn minh khác vẫn tồn tại như một quyền năng của linh hồn con người. Vì thế, từ những phế tích có thể có của một thời đại, con người—như chim Phượng Hoàng từ lửa mà đứng dậy—rất có thể dựng nên những nền văn minh mới với thành tựu và vẻ đẹp ngày càng tăng. |
This plan of gradual racial evolution, says Theosophy, is numerical in character and the governing number is the number seven. | Theo Thông Thiên Học, đại đồ tiến hóa dần dần của chủng tộc mang bản tính số học và con số chi phối là số bảy. |
Let me explain this Theosophical view of racial evolution on our earth. | Hãy để tôi giải thích quan kiến Thông Thiên Học này về tiến hóa các chủng tộc trên Địa Cầu chúng ta. |
The total number of major races—past, present and future—is said to be seven. Five races have already appeared. We all belong to the fifth, or Aryan race. Five branch, or daughter, races of the Aryan race have already been born. They are the Indo-Aryan, the Egypto-Arabian, the Iranian, the Celtic and the Teutonic which includes the Anglo-Saxon peoples. A sixth sub-race is now glittering on the horizon. From Theosophical teaching, we thus learn that we are rather more than half way through our Planet’s life. | Tổng số các giống dân chính—quá khứ, hiện tại và tương lai—được nói là bảy. Năm giống dân đã xuất hiện. Tất cả chúng ta thuộc giống dân thứ năm, tức Arya. Năm giống dân phụ, hay giống dân con, của giống Arya đã ra đời. Đó là Ấn–Arya, Ai Cập–Ả Rập, Iran, Celt và Teutonic bao gồm cả các dân tộc Anglo-Saxon. Một giống dân phụ thứ sáu nay đang lấp lánh ở đường chân trời. Từ giáo lý Thông Thiên Học, ta hiểu rằng chúng ta đã đi quá nửa chặng đường của đời sống Hành tinh chúng ta. |
The New Type | Kiểu Người Mới |
What, then, is the place of the Australian people in the plan of racial evolution on our earth? Simply put, the answer is that the Aryan Race is at this time producing a branch race and the four countries of America, South Africa, Australia and New Zealand are the places of its birth and development. This branch of the Mother Aryan stock is being produced by emigration of peoples from Europe to new racial homes. The parents of the new race chiefly come from Britain. The racial plan is already well advanced, and the two great Wars of our times may be regarded as both death throes of an old organisation and birth pangs of a new one. | Vậy vị trí của người Australia trong đại đồ tiến hóa các chủng tộc trên Địa Cầu là gì? Nói gọn, câu trả lời là: Giống Arya hiện đang sản sinh một giống dân chi và bốn quốc gia Hoa Kỳ, Nam Phi, Australia và New Zealand là những nơi sinh thành và phát triển của nó. Họ chi này của Mẫu tộc Arya đang được sản sinh bởi sự di dân từ châu Âu đến những quê hương chủng tộc mới. Cha mẹ của giống dân mới chủ yếu đến từ Anh quốc. Đại đồ về chủng tộc đã tiến triển sâu, và hai cuộc Đại chiến thời ta có thể được coi vừa là cơn hấp hối của một tổ chức cũ vừa là cơn đau chuyển dạ của một tổ chức mới. |
What will the New Age man look like? Here is the young man. In Australia he is physically tall, wiry and somewhat slender of form. In New Zealand, the build has perhaps been somewhat shorter up to now and stockier, though there, as here, increase in height is said to be occurring. The facial features when they do show are everywhere much the same. They are finely modelled and straight. The nose tends to be long and, in one variant, the chin is pointed, the forehead broad, making the face somewhat triangular. A certain eagerness, a vivid alertness, is stamped upon the whole face. The New Age man promises to be clearly very vital, handsome, chivalrous, strong, courageous, yet kindly. | Người của Thời Đại Mới sẽ trông ra sao? Đây là chàng thanh niên. Ở Australia, chàng cao lớn về thể chất, dẻo dai và khá thanh mảnh. Ở New Zealand, vóc dáng có lẽ cho đến nay thấp hơn đôi chút và chắc nịch hơn, dẫu rằng ở đó, cũng như ở đây, người ta nói chiều cao đang tăng lên. Nét mặt, khi thể hiện, ở khắp nơi đều khá giống nhau. Chúng được gọt giũa tinh tế và ngay thẳng. Mũi có xu hướng dài và, ở một biến thể, cằm nhọn, trán rộng, khiến khuôn mặt có phần tam giác. Cả gương mặt toát lên một sự hăm hở, một vẻ tỉnh táo sinh động. Người của Thời Đại Mới hứa hẹn rõ ràng sẽ rất giàu sinh lực, khôi ngô, hiệp sĩ, mạnh mẽ, can đảm, mà vẫn nhu hòa. |
The women especially display the quality of grace. They, too, are slender and athletic, and the ideal of physical beauty and perfection makes great appeal to them. Again, the face is triangular, the head pear-shaped, the features becoming clear cut, regular and more and more refined as the racial type is established. The texture of the skin is notably fine. Hands and feet are beautifully formed. These women move with a grace and a dignity all their own and there is a certain aura of vitality shining about them. | Người nữ đặc biệt biểu lộ phẩm tính duyên dáng. Họ cũng mảnh mai và giàu tính thể thao, và lý tưởng về vẻ đẹp cùng sự hoàn mỹ thân thể có sức hấp dẫn lớn đối với họ. Một lần nữa, khuôn mặt là hình tam giác, đầu hình quả lê, các đường nét trở nên rõ ràng, ngay ngắn và càng lúc càng tinh tế khi kiểu chủng tộc được xác lập. Kết cấu da rất mịn. Bàn tay và bàn chân được tạo tác đẹp đẽ. Những phụ nữ này bước đi với một vẻ duyên dáng và phong thái riêng biệt, và như có một hào quang sinh lực tỏa sáng quanh họ. |
Even now, if you know what to look for, you may see these young people of the New Age, in the streets, in the shops, and on the beaches. Australia’s magnificent life-guardsmen who give voluntary service and save valuable lives are splendid examples of the manhood of the new race. Their photographs are in the papers. The faces of some of the contestants in beauty competitions show the pointed chin and broad high forehead. So much for apparent physical trends. What of the mental outlook? | Ngay bây giờ, nếu bạn biết điều cần tìm, bạn có thể thấy những thanh niên thiếu nữ của Thời Đại Mới trên đường phố, trong cửa hiệu và trên bãi biển. Lực lượng cứu hộ bãi biển tuyệt vời của Australia, những người phụng sự tự nguyện cứu bao sinh mạng quý giá, là những ví dụ trác tuyệt của nam tính giống dân mới. Ảnh của họ có trên báo chí. Khuôn mặt của một số thí sinh trong các cuộc thi hoa hậu cho thấy chiếc cằm nhọn và vầng trán cao rộng. Bấy nhiêu về khuynh hướng bề ngoài của thể chất. Còn về quan điểm trí tuệ thì sao? |
Men of Intuition | Những Con Người Trực Giác |
From the point of view of recent world events and of the grave danger of a third World War, the mind and the outlook of the new racial type are all important. Can we forecast them? Yes, we can. The new psychological characteristics may be discerned by a study of advanced people throughout the world; for this new type of humanity is not only to be born in the four countries chosen as its chief racial homes, nor will it belong to a single nation. It is the new humanity which will seek unity and co-operation between free individuals and nations. The very essence of all action in the new sub-race will be the union of many to achieve a single object, and not the dominance of one who compels others to his will. To advance together in freedom to a goal that all realize as desirable of attainment, will ultimately become the method. This recognition of unity and this tendency to co-operate are two of the signs of racial evolution out of dependence upon mental processes, analysis, deduction, logic, into the exercise of direct intuitive perception. | Xét từ góc độ các biến cố thế giới gần đây và mối nguy lớn của Thế chiến thứ ba, thể trí và nhãn quan của kiểu chủng tộc mới là điều vô cùng quan trọng. Chúng ta có thể dự đoán chăng? Có thể. Các đặc trưng tâm lý mới có thể được nhận ra bằng cách khảo sát những con người tiến bộ trên khắp thế giới; vì kiểu nhân loại mới này không chỉ sinh ra tại bốn quốc gia được chọn làm quê hương chủng tộc chủ yếu của nó, cũng không thuộc về một quốc gia đơn lẻ. Ấy là nhân loại mới, sẽ mưu cầu sự hợp nhất và hợp tác giữa những cá nhân và quốc gia tự do. Bản chất của mọi hành động trong giống dân phụ mới sẽ là sự liên hiệp của nhiều người để đạt một mục đích chung, chứ không phải sự thống trị của một người buộc người khác theo ý chí của mình. Tiến bước cùng nhau trong tự do đến một mục tiêu mà mọi người đều nhận ra là đáng đạt tới, rốt cuộc sẽ trở thành phương thức. Sự nhận biết về nhất thể và khuynh hướng hợp tác này là hai dấu hiệu của tiến hóa chủng tộc ra khỏi sự lệ thuộc vào các tiến trình trí năng, phân tích, suy luận, lô-gic, để tiến vào sự vận dụng của nhận thức trực giác trực tiếp. |
This development of the intuition is abundantly evident today: amid the welter of peoples and ideologies there is discernible a subtle yet powerful change in the outlook of mankind upon our planet, the growth of one dominating idea with tremendous possibilities for the future. This change has been described as 6a hunger for wholeness’, and it is indeed a revolutionary event. It is almost comparable to a geological cataclysm, like the tilting of the earth’s axis or the descent of an ice cap. This intuitive perception of oneness must culminate, I suggest, in an irresistible will to world unity. This recognition of oneness and this determination to achieve world friendship and world co-operation constitutes a definite sign of the emergence of the new subrace. | Sự phát triển của trực giác này hiện đang bày tỏ một cách dồi dào: giữa hỗn độn của các dân tộc và hệ tư tưởng, người ta có thể nhận ra một thay đổi tế vi nhưng đầy uy lực trong nhãn quan của nhân loại trên hành tinh chúng ta—sự trưởng thành của một ý niệm chi phối với những tiềm năng khổng lồ cho tương lai. Sự thay đổi này đã được mô tả như là 6a cơn đói đối với tính toàn thể’, và thật vậy đó là một biến cố cách mạng. Nó gần như tương đương một tai biến địa chất, như sự nghiêng trục Trái Đất hay sự hạ xuống của một mũ băng. Tôi gợi ý rằng sự nhận thức trực giác về nhất thể này phải đạt đến đỉnh điểm trong một Ý Chí không gì cưỡng nổi hướng tới hợp nhất thế giới. Sự nhận biết về nhất thể và quyết tâm đạt được tình bằng hữu và hợp tác thế giới này tạo thành một dấu hiệu rõ rệt của sự xuất hiện giống dân phụ mới. |
Is it possible to recognise with any degree of certainty a person who is clearly of the New Age? Yes, it is, and if one is looking for a sign that any particular individual is beginning to show the marks of that new race type today, that sign may be found in a growing intuitiveness, in capacity to lead by love and sympathy and mutual understanding, and not by dominance of an imperious will. To advanced humanity, dominance is anathema and freedom a veritable religion. Thus a synthesising spirit will be found in the forerunners of the coming race. They will be able to encourage and also to unite diversity of opinion and of character, to gather round them the most unlike elements and blend them, whilst still free, into a common whole. | Có thể nhận ra với mức độ chắc chắn nào đó một con người rõ ràng thuộc Thời Đại Mới chăng? Có thể, và nếu người ta tìm một dấu hiệu rằng một cá nhân cụ thể đang bắt đầu biểu lộ dấu ấn của kiểu chủng tộc mới ngày nay, dấu hiệu ấy có thể được tìm thấy ở tính trực giác ngày càng tăng, ở năng lực dẫn dắt bằng tình thương, sự đồng cảm và sự thấu hiểu lẫn nhau, chứ không phải bằng sự áp chế của một ý chí kiêu mạn. Với nhân loại tiến bộ, sự thống trị là điều ghê tởm và tự do là một tôn chỉ đích thực. Như thế, một tinh thần tổng hợp sẽ được tìm thấy nơi các tiền phong của giống dân sắp đến. Họ có thể khích lệ và cũng có thể hòa hợp những khác biệt về quan điểm và cá tính, quy tụ quanh mình những yếu tố bất đồng nhất nhất và dung hợp chúng, đồng thời vẫn giữ tự do, thành một toàn khối chung. |
Those show forth already the desired characteristics who have the capacity for taking into themselves diversities and sending them out again as unities, and for utilising the most different individualities, finding each its place in freedom, and welding all together. That is one of the characteristics which marks the type of being out of which this new race is gradually developing. The ideal, as will be seen, is not a universal set of conditions and a uniformity of human Personality, but full individual development with readiness to combine and to co-operate in the great cause of human happiness and progress. | Những ai đã biểu hiện các phẩm tính mong muốn ấy là những người có khả năng thu nạp vào bản thân các dị biệt và phóng xuất chúng ra như những nhất thể, và biết vận dụng những cá tính khác nhau nhất, tìm cho mỗi cá nhân chỗ đứng trong tự do, và hàn gắn tất cả lại. Đó là một trong các đặc trưng đánh dấu kiểu hữu thể từ đó giống dân mới này đang từ từ hình thành. Như sẽ thấy, lý tưởng không phải là một tập hợp điều kiện phổ quát hay một sự đồng dạng của Phàm ngã con người, mà là sự phát triển cá nhân trọn vẹn, với sự sẵn sàng kết hợp và hợp tác vì đại nghĩa hạnh phúc và tiến bộ của con người. |
To the statement of this far reaching plan Theosophy adds that every individual can play his part, can participate consciously and deliberately in the progress of the race. Each one of us is important; for each of us can help or hinder the great historical process. If we all play our constructive part and if we can also inspire our young people with the vision of themselves as Nation Builders, then Australia and New Zealand will fulfil their present promise of rapid advance to magnificent nationhood. | Cùng với việc trình bày đại đồ sâu rộng này, Thông Thiên Học còn nói rằng mọi cá nhân đều có thể đóng vai trò của mình, có thể tham dự một cách tự giác và có chủ định vào tiến trình đi tới của chủng tộc. Mỗi chúng ta đều quan trọng; vì mỗi chúng ta có thể giúp hoặc cản trở tiến trình lịch sử vĩ đại ấy. Nếu tất cả chúng ta đều đóng vai trò kiến tạo của mình và nếu chúng ta cũng có thể truyền cảm hứng cho giới trẻ bằng viễn tượng về chính họ như những Người Kiến tạo Quốc gia, thì Australia và New Zealand sẽ hiện thực lời hứa hiện nay của mình về sự tiến bộ nhanh chóng tới địa vị quốc gia huy hoàng. |
In the light of such teachings of Theosophy, the truly alarming portents to which I drew attention at the beginning assume a less menacing aspect, dangerous though they are. The student of Theosophy need not fear that any futility overshadows man’s highest dreams and attainments; he need not be afraid that civilisation will be swallowed up in unheeding, everlasting night; quite the contrary; he is taught that man moves through innumerable ages to ever-increasing power and wisdom and glory. | Dưới ánh sáng của những giáo huấn như vậy của Thông Thiên Học, những điềm báo thực sự đáng lo ngại mà tôi đã lưu ý ở phần đầu sẽ mang một diện mạo bớt đe dọa, dù chúng vẫn nguy hiểm. Đạo sinh Thông Thiên Học không cần sợ rằng sự phù phiếm nào phủ bóng lên những giấc mơ và thành tựu cao nhất của con người; không cần e rằng nền văn minh sẽ bị nuốt chửng trong đêm dài vô tâm, vô tận; trái lại, người ấy được dạy rằng con người bước qua vô số thời đại để đạt tới quyền năng, minh triết và vinh quang ngày càng gia tăng. |
Theosophy in Australia, 3, 2 April 1952, p. 9 | Theosophy in Australia, 3, 2 April 1952, tr. 9 |
188
The Contribution of the Individual to World Peace—Đóng Góp của Cá Nhân cho Hòa Bình Thế Giới
Today’, said U.S. President, J. F. Kennedy, on September 25th 1961, his youthful voice ringing round the great blue and gold auditorium of the U.N. General Assembly, ‘every inhabitant of this planet must contemplate the day when it may no longer be inhabitable. Every woman and child lives under a nuclear sword of Damocles, hanging on the slenderest of threads, capable of being cut at any moment, by accident, calamity, madness. The weapons of war must be abolished before they abolish us. Let us call a truce to terror. Let us invoke the blessings of peace. And as we build an international capacity to keep peace, let us join in dismantling the national capacities for war’. Will mankind achieve this Goal? In answer, I am going to ennunciate three fundamental ideas, which I shall then develop. These three ideas are: | Hôm nay’, Tổng thống Hoa Kỳ J. F. Kennedy nói, vào ngày 25 tháng 9 năm 1961, giọng nói trẻ trung của Ông vang vọng khắp thính đường xanh lam và vàng rực của Đại hội đồng LHQ, ‘mỗi cư dân của hành tinh này phải suy ngẫm về ngày mà nó có thể không còn ở được nữa. Mỗi phụ nữ và đứa trẻ sống dưới một thanh gươm hạt nhân của Damocles, treo trên sợi chỉ mong manh nhất, có thể bị cắt đứt bất cứ lúc nào, bởi tai nạn, tai ương, điên loạn. Vũ khí chiến tranh phải bị loại bỏ trước khi chúng loại bỏ chúng ta. Hãy tuyên bố hưu chiến với khiếp sợ. Hãy kêu cầu phúc lành của hòa bình. Và khi chúng ta xây dựng một năng lực quốc tế để gìn giữ hòa bình, hãy cùng nhau tháo dỡ các năng lực quốc gia cho chiến tranh’. Nhân loại có đạt được Mục tiêu này không? Để trả lời, tôi sẽ nêu lên ba ý tưởng nền tảng, rồi sẽ khai triển chúng. Ba ý tưởng ấy là: |
First, that enduring world peace will eventually arrive as a result of the development in the human mind of the power to perceive unity amidst diversity. When a sufficient number of people are able to recognise in the human race a shared life and a common goal of spiritual excellence, then—and not until then—will lasting world peace have become a possibility; second, that the historical process is definitely in the direction of world co-operation, and so of world peace; third, as my title indicates, the part which the individual person can and must play. Concerning the first of these three ideas, the necessity for the intellectual perception of a shared life in all human beings, I do not believe that this is too much to hope for. There are indications, are there not, that intense competitive individualism is very slowly—all too slowly it is true—giving place to a recognition of the mutual interdependence of man upon man and nation upon nation. True, the formal, analytical mind of man is naturally individualistic and competitive, but as the higher attributes of the human intellect develop, the sense of isolated self-separateness naturally diminishes. As this occurs the concepts of unity and co-operation for the welfare of all assume an increasing dominance. This growing recognition of unity will culminate in the ultimate establishment on earth of a world peace founded upon the principles of brotherhood and justice. The League of Nations, the United Nations Organisation and all the other numerous movements towards international co-operation are, I suggest, outward signs of the development of this power to perceive, and in consequence desire, unity. | Thứ nhất, hòa bình thế giới bền vững rốt cuộc sẽ đến như kết quả của sự phát triển nơi thể trí con người năng lực nhận ra nhất thể giữa muôn dị biệt. Khi đủ số người có thể nhận ra nơi Nhân loại một sự sống chung và một cứu cánh chung của sự ưu tú tinh thần, thì—và chỉ khi đó—hòa bình thế giới lâu dài mới trở thành khả hữu; thứ hai, tiến trình lịch sử chắc chắn theo hướng hợp tác toàn cầu, và vì thế hướng tới hòa bình thế giới; thứ ba, như tiêu đề của tôi gợi ý, phần mà từng cá nhân có thể và phải đóng. Về điều thứ nhất, sự cần thiết của nhận thức trí tuệ về sự sống chung nơi mọi con người, tôi không tin rằng điều này là quá xa vời. Chẳng phải đang có những dấu hiệu cho thấy chủ nghĩa cá nhân cạnh tranh gay gắt đang rất chậm—dù quả thật quá chậm—nhường chỗ cho sự nhận biết về tính tương thuộc lẫn nhau của người với người và quốc gia với quốc gia sao? Đúng là, tâm thức phân tích hình thức của con người một cách tự nhiên mang tính cá nhân chủ nghĩa và cạnh tranh, nhưng khi các thuộc tính cao hơn của trí năng phát triển, cảm thức cô lập tự phân ly tự nhiên suy giảm. Khi điều này diễn ra, các khái niệm về hợp nhất và hợp tác vì phúc lợi chung ngày càng chiếm ưu thế. Sự nhận biết đang lớn lên về nhất thể này sẽ đạt đỉnh trong sự thiết lập rốt ráo trên Địa Cầu một nền hòa bình thế giới đặt nền trên các nguyên tắc Huynh đệ và Công bằng. Hội Quốc Liên, Tổ chức Liên Hiệp Quốc và mọi phong trào khác hướng tới hợp tác quốc tế, theo tôi, là những dấu hiệu bên ngoài của sự phát triển năng lực nhận ra—và do đó khao khát—nhất thể. |
These achievements of co-operation have in common an international spirit, a planetary outlook, a global vision and a dawning recognition, I repeat, of the unity and interdependence of nations and men. Thus in recent history, despite the present divisions, also very evident, mankind has already displayed the power to rise above merely national boundaries. This evolutionary progress thus indicates that the nations will one day decide to order their separate sovereignties to the end of world justice, world unity and world peace. | Những thành tựu hợp tác này có điểm chung là tinh thần quốc tế, nhãn quan hành tinh, tầm nhìn toàn cầu và sự nhận biết mới hé rạng, tôi nhắc lại, về nhất thể và tính tương thuộc giữa các quốc gia và con người. Thế là trong lịch sử gần đây, bất chấp những chia rẽ hiện tại cũng rất rõ ràng, nhân loại đã phô bày năng lực vượt lên những ranh giới chỉ thuần quốc gia. Tiến bộ tiến hóa này vì thế chỉ thị rằng một ngày nào đó các quốc gia sẽ quyết định điều hòa chủ quyền riêng của mình vì mục tiêu công lý thế giới, hợp nhất thế giới và hòa bình thế giới. |
How soon will this be achieved, and must there be a third world war? These two questions press for answers. The reply to both of them clearly is: that depends upon you and upon me, and on all the rest of the peoples of our earth. This brings me to my third idea—the contribution of the individual in the present crisis. In order that we may comprehend the nature of our personal responsibility, let us now follow the idea of international co-operation a little further. The underlying principle of functional world unity is far-reaching indeed. It would mean something like this; that the rights of man consist of the duty of everyone everywhere to serve with word and deed the cause of the spiritual and physical advancement of all men now living, and of those yet to come. Man will need actually to do unto others as he would like others to do unto him, and especially to abstain from violence except for the repulse of violence as commanded or granted under law. Acceptance and fulfilment by individuals and nations of this their bounden duty towards each other must one day come to be recognised as the heart of the problem of world peace. Such is the ideal. Such is the dream of those who love their fellow men. | Bao lâu nữa điều này sẽ đạt được, và liệu có tất yếu xảy ra Thế chiến thứ ba? Hai câu hỏi này cấp bách đòi câu trả lời. Hồi đáp cho cả hai rõ ràng là: điều đó tùy thuộc vào bạn và tôi, và vào tất cả các dân tộc trên hành tinh chúng ta. Điều này đưa tôi đến ý tưởng thứ ba—đóng góp của cá nhân trong cơn khủng hoảng hiện nay. Để chúng ta có thể thấu hiểu bản chất trách nhiệm cá nhân, giờ hãy theo đuổi sâu thêm ý niệm về hợp tác quốc tế. Nguyên lý nền tảng của hợp nhất chức năng toàn cầu thực là sâu rộng. Nó có nghĩa đại loại như thế này: rằng quyền của con người bao hàm bổn phận của mọi người ở mọi nơi phải phụng sự, bằng lời nói và việc làm, cho sự tiến bộ tinh thần và vật chất của tất cả những con người đang sống, và cả những người sẽ đến sau. Con người sẽ cần thực sự làm cho người khác điều mình muốn người ta làm cho mình, và đặc biệt là kiêng bạo lực trừ để đẩy lùi bạo lực theo pháp luật cho phép hay yêu cầu. Sự chấp nhận và hoàn thành bởi cá nhân và quốc gia bổn phận cố hữu của họ đối với nhau một ngày kia phải được nhận ra như trái tim của vấn đề hòa bình thế giới. Ấy là lý tưởng. Ấy là giấc mơ của những ai yêu đồng loại. |
What is the actuality? What is found when, from such information as is available, one examines the ethical and moral standards of modem man. Apparently two main moral attitudes and standards exist. One is held by those who do perceive the truth of unity and the other by those who do not. Those who do perceive unity are men and women who know, or are beginning to know it by instinct and intuition. These people perceive disunity as a denial of truth and feel impelled to labour in order to reveal their vision to their fellow men and so bring about world unification. Happily the number of those thus enlightened steadily increases. They are to be found everywhere—in homes, businesses, factories, professions, in town and city councils and in Parliaments. They are also at work in international organisations. These men and women in whom the vision of the oneness of life has dawned are to be regarded as the potential saviours of mankind, threatened as it now is with atomic, bacteriological and chemical warfare. These world unifiers are as the little leaven that leaveneth the whole. | Thực tế là gì? Tìm thấy gì khi, từ những thông tin vốn có, người ta khảo sát các chuẩn mực đạo đức và luân lý của con người hiện đại? Hình như có hai thái độ và chuẩn mực luân lý chủ yếu tồn tại. Một thuộc về những người nhận ra chân lý về nhất thể và một thuộc về những người không nhận ra. Những ai nhận ra nhất thể là nam nữ biết điều đó, hoặc đang bắt đầu biết bằng bản năng và trực giác. Những người này thấy sự bất nhất như một phủ nhận chân lý và cảm thấy bị thôi thúc làm việc để biểu lộ thị kiến của họ cho đồng loại, nhờ đó đem lại sự hợp nhất thế giới. May thay, số người giác ngộ như thế đang tăng đều. Họ hiện diện khắp nơi—trong gia đình, doanh nghiệp, nhà máy, ngành nghề, trong các hội đồng thị trấn và thành phố và trong Quốc hội. Họ cũng đang làm việc trong các tổ chức quốc tế. Những nam nữ mà nơi họ thị kiến về nhất thể của sự sống đã rạng chiếu cần được xem là những đấng cứu rỗi tiềm năng của nhân loại, vốn đang bị đe dọa bởi chiến tranh hạt nhân, vi trùng và hóa học. Những người thống nhất thế giới này ví như chút men làm dậy cả khối bột. |
The salvation of the world from war, I suggest, will be brought about by the action of such men and women of vision in every walk of life; for these people, whether consciously or unconsciously, exert a pressure in the direction of harmonious co-operation in the cause of human welfare. Herein, I submit, lies the heart of the problems of world freedom and world peace, namely in the mind and in the motive for living of individual men and women, and therefore of individual nations. Unhappily there is another and darker side to the present world situation. Selfish and unscrupulous individuals combine into groups ruthlessly determined to exploit their fellow men for their own personal profit. In today’s international political philosophy there is much reliance on force and cunning. ‘Let him take who has the power and let him keep who can’. Honour, morality and goodwill are but useful myths. Conscience is a jest; all right is founded on power. An exhibit in the Cleveland, Ohio, Natural History Museum illustrates this fact. It is captioned: ‘The most numerous large mammal on earth, a dangerous animal whose misuse of world resources and uncontrolled population growth is a threat to all living things’. The exhibit—a large mirror! | Tôi đề nghị rằng sự giải cứu thế giới khỏi chiến tranh sẽ được đem đến bởi hành động của những nam nữ có thị kiến như vậy trong mọi nẻo đường đời; vì những người này, dù tự giác hay vô thức, tạo nên một áp lực theo hướng hợp tác hài hòa vì phúc lợi con người. Ở đây, theo tôi, nằm trái tim của các vấn đề tự do thế giới và hòa bình thế giới, tức là ở thể trí và động cơ sống của từng nam nữ, và do đó của từng quốc gia. Đáng buồn thay, có một mặt khác, u tối hơn, của tình hình thế giới hiện tại. Những cá nhân ích kỷ và vô lương tập hợp thành các nhóm quyết tâm tàn nhẫn bóc lột đồng loại vì lợi ích riêng. Trong triết lý chính trị quốc tế ngày nay có rất nhiều sự cậy trông vào sức mạnh và mưu mô. ‘Kẻ nào có quyền thì cứ lấy, kẻ nào giữ nổi thì cứ giữ’. Danh dự, đạo lý và thiện chí chỉ là những huyền thoại hữu dụng. Lương tâm là trò đùa; mọi “lẽ phải” đều đặt nền trên quyền lực. Một trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Cleveland, Ohio, minh họa thực tế này. Bảng đề: ‘Loài thú lớn đông nhất trên Trái Đất, một sinh vật nguy hiểm mà sự lạm dụng tài nguyên thế giới và gia tăng dân số không kiểm soát là mối đe dọa cho mọi sinh vật sống’. Vật trưng bày—một tấm gương lớn! |
One example of this lack of a spiritual basis for human activities consists of modem T.V. It was stated in the Denver Rocky Mountain News, April 10th, 1961, by the National Association for Better Radio and Television, that: ‘In one recent week—and in viewing hours before 9 p.m.—144 murders, 143 attempted murders, 53 “justifiable” killings, 14 cases of drugging, 12 jail breaks, 36 robberies, 5 thefts, 13 kidnappings, 6 burglaries, 7 cases of torture, 6 extortions, 5 blackmail cases, 11 planned murders, 4 attempted lynchings, 1 massacre scene with hundreds killed, 1 mass murder of homesteaders, 1 planned mass murder by arson, 3 scenes of shooting between rival gangs with many killed, 1 mass gun battle’ all this was shown in one single week! | Một ví dụ về sự thiếu nền tảng tinh thần cho các hoạt động của con người là truyền hình hiện đại. Hiệp hội Quốc gia vì Phát thanh và Truyền hình Tốt hơn, theo tờ Denver Rocky Mountain News, 10/4/1961, đã nêu: ‘Trong một tuần gần đây—và trong giờ xem trước 9 giờ tối—144 vụ giết người, 143 vụ mưu sát, 53 vụ “giết người chính đáng”, 14 vụ cho uống thuốc mê, 12 vụ vượt ngục, 36 vụ cướp, 5 vụ trộm, 13 vụ bắt cóc, 6 vụ trộm đêm, 7 vụ tra tấn, 6 vụ tống tiền, 5 vụ tống tình, 11 vụ mưu sát có kế hoạch, 4 vụ mưu toan hành quyết lén, 1 cảnh thảm sát với hàng trăm người chết, 1 vụ sát hại hàng loạt dân cắm ranh, 1 vụ mưu sát hàng loạt bằng phóng hỏa, 3 cảnh đọ súng giữa các băng đảng đối địch với nhiều người chết, 1 trận đấu súng hàng loạt’—tất cả những điều này được chiếu trong một tuần duy nhất! |
This brings me to my third idea: the contribution of the individual. What, then, could you and I as individual persons have done since the founding of U.N. to bring about world peace? What can we still do? Can we either help or hinder? Definitely we can help, and as definitely we can hinder; for if the historical process leading to the birth of the great ideal of one world—one world of free peoples, please remember—is to be quickened, that quickening can only come as a sufficient number of men and women in the free nations of the world desire it, think it, seek it and diligently work for it. Someone has very truly said: ‘Peace begins with the United Nations, but the United Nations begins with you (U)’ There lies the responsibility of every thoughtful individual, challenging him to be one who holds the great ideal of world co-operation in mind, who studies its basis and its method, and who lives it out practically, in the world of his or her own life. | Điều này đưa tôi đến ý tưởng thứ ba: đóng góp của cá nhân. Vậy, kể từ khi LHQ được thành lập, bạn và tôi, với tư cách cá nhân, đã có thể làm gì để đem lại hòa bình thế giới? Chúng ta vẫn có thể làm gì? Chúng ta có thể giúp hay cản trở? Chắc chắn chúng ta có thể giúp, và cũng chắc chắn chúng ta có thể cản trở; vì nếu tiến trình lịch sử dẫn đến sự chào đời của đại lý tưởng một thế giới—xin nhớ, một thế giới của những dân tộc tự do—cần được thúc đẩy nhanh, thì sự thúc đẩy ấy chỉ có thể đến khi đủ số nam nữ trong các quốc gia tự do của thế giới mong mỏi điều đó, suy tưởng điều đó, tìm kiếm điều đó và chuyên cần làm việc vì điều đó. Có người đã nói rất đúng: ‘Hòa bình bắt đầu với United Nations, nhưng United Nations bắt đầu với bạn (U)’. Ở đó nằm trách nhiệm của mỗi cá nhân biết suy nghĩ, thách thức người ấy trở thành người giữ đại lý tưởng hợp tác thế giới trong tâm trí, người nghiên cứu nền tảng và phương pháp của nó, và người hiện thực hóa nó một cách thiết thực trong đời sống riêng của mình. |
This, I believe, is axiomatic; for the regeneration of human society depends very largely upon the regeneration of the individual. Indeed, the world problem is the ‘individual problem’. A person who is at war with himself, his conscience, his family, and his fellow citizens, cannot be a peacemaker for the world. A measure of peace within one is essential to a positive contribution to universal peace. Personal conflict between the outer world of society and the inner world of ideas and ideals inevitably renders one helpless, if not harmful, in the process of reconstruction; for all true reform begins with self-reform. The individual is thus of supreme importance. The would-be reformer is now, as always, confronted with the greatest single contribution he can make, namely the reformation of himself. | Tôi tin đây là điều tiên đề; vì sự tái sinh của xã hội loài người phần lớn tùy thuộc vào sự tái sinh của từng cá nhân. Quả thật, vấn đề của thế giới là ‘vấn đề cá nhân’. Một người đang ở trong tình trạng chiến tranh với chính mình, với lương tâm, với gia đình và với đồng bào thì không thể là người kiến tạo hòa bình cho thế giới. Một mức độ bình an nội tâm là điều thiết yếu cho một đóng góp tích cực vào hòa bình phổ quát. Xung đột cá nhân giữa thế giới bên ngoài của xã hội và thế giới bên trong của lý tưởng và ý niệm tất yếu khiến người ta bất lực, nếu không muốn nói là có hại, trong tiến trình tái thiết; vì mọi cải cách chân chính đều bắt đầu bằng tự cải cách. Do đó cá nhân là vô cùng hệ trọng. Người muốn cải cách giờ đây, như bao giờ, bị đối diện với đóng góp đơn lẻ lớn nhất mà mình có thể thực hiện, đó là tự cải cách chính mình. |
However helpless we may feel ourselves to be amidst what Mr Churchill called ‘the tornadoes and tides of world events’, nothing stands in the way of an immediate attack upon self-reform. We cannot wash our hands of responsibility. Pontius Pilate washed his hands and the world has never forgiven him. Co-operativeness and sharing in individual life and character; clear, unevasive, self-knowledge; right thinking without excuses and right living, meaning co-operative living these will save the world. The living stones of which the temple of the new civilisation must be built will consist of willingly co-operative individuals. | Dẫu chúng ta có cảm thấy mình bất lực đến đâu giữa những gì Ông Churchill gọi là ‘cuồng phong và thủy triều của các biến cố thế giới’, không gì ngăn trở một cuộc tấn công tức thì vào sự tự cải cách. Chúng ta không thể rửa tay trốn tránh trách nhiệm. Bàn tay Phi-lát đã được rửa và thế giới không bao giờ tha thứ cho ông ta. Tính hợp tác và biết chia sẻ trong đời sống và tính cách cá nhân; tự tri rõ ràng, không né tránh; tư duy đúng đắn không ngụy biện và lối sống đúng đắn, nghĩa là lối sống hợp tác—những điều ấy sẽ cứu thế giới. Những viên đá sống mà đền thờ của nền văn minh mới phải được xây dựng sẽ là những cá nhân sẵn lòng hợp tác. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 25, No. 2, 1964, p. 46 | Theosophy in New Zealand, Vol. 25, No. 2, 1964, tr. 46 |
189
A World in Transition—Một Thế Giới Đang Chuyển Tiếp
FROM WARS CAUSED BY IGNORANCE TO PEACE FOUNDED UPON KNOWLEDGE | TỪ NHỮNG CUỘC CHIẾN DO VÔ MINH GÂY RA ĐẾN NỀN HÒA BÌNH ĐẶT NỀN TRÊN TRI THỨC |
I have chosen my subject partly for the obvious reason that in a period of transition, the deliverance of the planet from war is an urgent necessity. It is a truism that if the future into which mankind is moving is to be an improvement on the past and the present, then war must be eradicated from human nature and eventually outlawed from our Earth. I propose to examine this idea largely from the point of view of the day by day and year by year public work of the Theosophical Society. As we meet peacefully and safely here a war is being waged. Men are fighting against and killing each other. | Tôi chọn đề tài của mình phần vì lẽ hiển nhiên rằng trong một giai đoạn chuyển tiếp, việc giải thoát hành tinh khỏi chiến tranh là một nhu cầu khẩn thiết. Ấy là điều hiển nhiên rằng nếu tương lai mà nhân loại đang tiến vào muốn tốt hơn quá khứ và hiện tại, thì chiến tranh phải được nhổ tận gốc khỏi bản tính con người và rốt cuộc bị đặt ra ngoài vòng pháp luật khỏi Địa Cầu chúng ta. Tôi dự định khảo sát ý tưởng này chủ yếu từ góc độ công tác công chúng hàng ngày, hàng năm của Hội Thông Thiên Học. Khi chúng ta gặp nhau bình an và an toàn tại đây thì một cuộc chiến vẫn đang diễn ra. Người ta đang giao chiến và giết hại lẫn nhau. |
Five years ago a Norwegian statistician set a computer to work counting history’s wars. The machine announced that in 5,560 years there have been 14,531 wars—2 1/2 wars per year. In the last 60 years, more than one hundred million people have been killed in military action alone. No less than 40 wars have been waged since the year 1945. The cost of armaments alone is staggering. Whilst President of the U.S., General Eisenhower described mankind as ‘hanging upon a cross of iron’. | Năm năm trước, một nhà thống kê Na Uy cho một máy tính đếm các cuộc chiến trong lịch sử. Máy báo rằng trong 5.560 năm đã có 14.531 cuộc chiến—trung bình 2 rưỡi cuộc mỗi năm. Trong 60 năm qua, hơn một trăm triệu người đã bị giết chỉ trong các hành động quân sự. Không ít hơn 40 cuộc chiến đã diễn ra kể từ năm 1945. Chi phí cho vũ khí một mình nó đã là khủng khiếp. Khi còn là Tổng thống Hoa Kỳ, Tướng Eisenhower mô tả nhân loại như ‘đang bị treo trên một thập giá bằng sắt’. |
The possibility now exists of the extension of war beyond the earth into space. A citizen’s committee recently advised President Johnson to seek international agreement on a code of human activity on the moon, in order to prevent the moon from becoming a military base for any nation. | Hiện tồn khả năng mở rộng chiến tranh vượt khỏi Trái Đất vào không gian. Một ủy ban công dân gần đây khuyến nghị Tổng thống Johnson tìm kiếm thỏa thuận quốc tế về một bộ quy tắc hoạt động của con người trên Mặt Trăng, để ngăn Mặt Trăng trở thành căn cứ quân sự cho bất kỳ quốc gia nào. |
Then, there is the psychological condition of large numbers of people, young and old. Certain psychologists and commentators describe mankind of this age by saying, ‘Man staggers, stumbles and wanders as if blindfold through the maze of human life on earth, as a frightened little creature, living in the shadow of weapons too horrible to contemplate, and unable to harness the tremendous power he has stumbled upon in his career on this planet. He seems to plunge helplessly in a swamp of dispute, of national and self-interest, and of general discord’. These situations of the threat of war and human bewilderment surely demonstrate an urgent need to make ever more readily available to mankind, the truths which our Society was formed to spread abroad by means of Theosophical lives, Theosophical literature and Theosophical lectures. | Rồi, có tình trạng tâm lý của một số đông người, cả trẻ lẫn già. Một số nhà tâm lý và bình luận mô tả con người của thời đại này rằng, ‘Con người loạng choạng, vấp ngã và lang thang như bị bịt mắt trong mê cung của đời sống nhân sinh trên Địa Cầu, như một sinh vật bé nhỏ kinh hãi, sống trong bóng của những vũ khí quá khủng khiếp để dám nghĩ đến, và không thể thuần phục sức mạnh ghê gớm mà y tình cờ vấp phải trong cuộc hành trình trên hành tinh này. Y dường như lao đao bất lực trong một vũng lầy tranh chấp, tư lợi quốc gia và cá nhân, và bất hòa nói chung’. Những tình trạng đe dọa chiến tranh và bối rối của con người này hẳn là chứng minh nhu cầu khẩn thiết phải làm cho các chân lý mà Hội chúng ta được thành lập để phổ truyền trở nên sẵn có hơn nữa cho nhân loại—bằng đời sống Thông Thiên Học, bằng văn chương Thông Thiên Học và bằng diễn giảng Thông Thiên Học. |
War, it is said, begins in the mind, and so must there be attacked. Theosophy reaches the mind. The Theosophical Society addresses the minds of men. Theosophy both offers knowledge and shows the pathway to intuitive perceptions including that of the oneness of all life. | Người ta nói, chiến tranh khởi đầu trong thể trí, và do đó phải được công phá ngay tại đó. Thông Thiên Học đi vào thể trí. Hội Thông Thiên Học hướng đến thể trí của con người. Thông Thiên Học vừa ban bố tri thức vừa chỉ ra con đường dẫn tới những nhận thức trực giác, bao gồm cả nhận thức về nhất thể của mọi sự sống. |
As my title suggests and philosophers affirm, ignorance is the main cause of human error and of the suffering it produces. My theme this morning is that the worldwide spreading of the fundamental teachings of Theosophy constitutes an important part of the cure. It is obvious, to me at any rate, that the modem world desperately needs both Theosophy and the Theosophical Society; for this movement was specifically conceived to benefit mankind by removing man’s ignorance and replacing it with knowledge, avidya by vidya. This, I suggest, is the long-term—admittedly long-term—and fundamental solution of the problems of war and human bewilderment—the bestowal upon and acceptance by man of a knowledge of Theosophy. Our own presence here together as Theosophists in both freedom and mutual harmony might be interpreted as a demonstration of the unifying influence of Theosophy. | Như tựa đề của tôi gợi lên và như các triết gia xác nhận, vô minh là nguyên nhân chính của sai lầm con người và của khổ đau do đó mà có. Chủ đề của tôi sáng nay là: việc phổ truyền khắp thế giới những giáo lý nền tảng của Thông Thiên Học cấu thành một phần quan trọng của phương dược chữa trị. Theo tôi thì điều này là hiển nhiên: thế giới hiện đại đang rất cần cả Thông Thiên Học lẫn Hội Thông Thiên Học; vì phong trào này được thai nghén đặc biệt để lợi ích nhân sinh bằng cách loại trừ vô minh và thay thế nó bằng tri thức, thay thế avidya bằng vidya. Đây, tôi đề nghị, là giải pháp dài hạn—vâng, thừa nhận là dài hạn—và nền tảng cho các vấn đề chiến tranh và bối rối của con người—ấy là trao cho con người và con người chấp nhận tri thức Thông Thiên Học. Chính sự hiện diện của chúng ta ở đây cùng nhau như những người Thông Thiên Học trong tự do và hòa hợp lẫn nhau cũng có thể được hiểu như một minh chứng cho ảnh hưởng hợp nhất của Thông Thiên Học. |
If it should here be answered: ‘But this spreading Theosophy is exactly what we have been and still are trying to do! ’ then I must reply: ‘True, but evidently not effectively enough and not to a large enough audience’. Apparently we are still not reaching mankind with the basic teachings of Theosophy to a sufficient extent. This is not in the least a criticism, for who can calculate both the visible and the invisible and immeasurable effect in the three worlds of the 90 years of work of members of the Theosophical Society? | Nếu ở đây có người đáp: “Nhưng việc phổ truyền Thông Thiên Học chính là điều chúng ta đã và vẫn đang cố gắng thực hiện!” thì tôi phải đáp lại: “Đúng, nhưng hiển nhiên là chưa đủ hiệu quả và chưa đến được với một thính giả đủ rộng.” Rõ ràng là chúng ta vẫn chưa truyền đạt đến nhân loại những giáo lý căn bản của Thông Thiên Học ở mức độ đầy đủ. Điều này tuyệt nhiên không phải là lời chỉ trích, vì ai có thể tính toán cả tác động hữu hình lẫn vô hình và bất khả đo lường trong ba cõi của 90 năm công tác của các hội viên Hội Thông Thiên Học? |
If this view can be accepted, then I can move on to consider with you which teachings amongst others more especially are most greatly needed in the world today—a world in transition. | Nếu quan điểm này có thể được chấp nhận, thì tôi có thể tiến thêm để cùng quý vị xét xem trong số các giáo lý, những điều nào đặc biệt là tối cần cho thế giới hôm nay—một thế giới đang chuyển tiếp. |
I recognize, however, that changes of approach are observable within the Theosophical Society itself. The Theosophical Society is itself passing through a period of transition. I recognize that the doctrines to which I am now going to refer may not be regarded by some members of the Society as likely to help mankind in the present situation. I respect but do not at present accept that view. | Tuy nhiên, tôi nhận thấy những thay đổi trong cách tiếp cận đang được ghi nhận ngay trong chính Hội Thông Thiên Học. Bản thân Hội cũng đang đi qua một thời kỳ chuyển tiếp. Tôi hiểu rằng các giáo nghĩa mà tôi sắp đề cập có thể không được một số hội viên xem là hữu ích cho nhân loại trong hoàn cảnh hiện tại. Tôi tôn trọng nhưng hiện chưa chấp nhận quan điểm ấy. |
Permit me, however, to state my own views. First of all, I recognize that Theosophy is not to be regarded as a completed system to be accepted as such. On the contrary, as must be true of everything organic and spiritual, Theosophy cannot have a fixed geometrical outline, the whole of which can, as it were, be traced on paper by rule and compasses. Certain ideas, such as the concept and experience of oneness refuse to be objectively defined; for this would be setting a limit to both truth itself and to man’s capacity to discover it, to know it as an interior experience. | Xin cho phép tôi trình bày ý kiến riêng. Trước hết, tôi nhìn nhận rằng Thông Thiên Học không nên được xem như một hệ thống hoàn tất để chấp nhận như vậy. Trái lại, như phải đúng với mọi sự sống hữu cơ và tinh thần, Thông Thiên Học không thể có một đường viền hình học cố định, mà toàn thể có thể, như thể, được vẽ trên giấy bằng thước và compa. Một số ý niệm, như khái niệm và kinh nghiệm về nhất thể, không chịu bị định nghĩa một cách khách quan; bởi vì như thế là đặt giới hạn cho cả chân lý tự thân lẫn khả năng của con người khám phá nó, biết nó như một kinh nghiệm nội tại. |
Nevertheless, certain ideas are generally agreed upon and it is to these that I will be referring as I proceed. | Tuy nhiên, có những ý niệm được đồng thuận chung và chính đến những ý niệm đó mà tôi sẽ lần lượt đề cập. |
First of all, concerning the problem of war and the war spirit, I think, humanity urgently needs to know, realize, accept and apply to life the fundamental fact upon which human brotherhood rests. This is the spiritual togetherness of all mankind, the wholeness and the oneness of all the members of the human family, each one being a member of one spiritual Race, which is without divisions of any kind. | Trước tiên, liên hệ đến vấn đề chiến tranh và tinh thần hiếu chiến, tôi nghĩ nhân loại khẩn cấp cần biết, tự giác, chấp nhận và áp dụng vào đời sống sự kiện nền tảng mà trên đó tình huynh đệ nhân loại an trú. Đó là sự tương tức tinh thần của toàn thể nhân loại, tính trọn vẹn và nhất thể của mọi thành viên của đại gia đình loài người, mỗi người đều thuộc về một Chủng tộc tinh thần duy nhất, không có bất kỳ sự phân chia nào. |
Our presence here, drawn from many nations and by a shared interest, demonstrates that such a fraternal relationship can be achieved by large groups of human beings, especially Theosophists. Humanity at large does not know this. And so the basic problem in the world today still remains. It is the Unification of Mankind. | Sự hiện diện của chúng ta ở đây, hội tụ từ nhiều quốc gia và bởi một mối quan tâm chung, cho thấy rằng một mối tương liên huynh đệ như thế có thể đạt được bởi những nhóm người đông đảo, đặc biệt là những người theo Thông Thiên Học. Nhân loại nói chung không biết điều này. Và vì vậy, vấn đề cơ bản trong thế giới hôm nay vẫn còn nguyên. Đó là Sự Hợp Nhất của Nhân loại. |
Before this happy state can be universally achieved, the basic fact of unity with its many implications must, I suggest, be made clear to the whole of humanity. It will have to be intellectually recognized, deeply experienced, mystically realized, and then expressed in action. This single fact of oneness once grasped can bring to an end wanton aggression and reduce much of the crime and vice of the world. | Trước khi trạng thái hạnh phúc ấy có thể đạt được một cách phổ quát, sự kiện nền tảng về nhất thể với những hàm ý đa dạng của nó, theo tôi, phải được làm sáng tỏ cho toàn thể nhân loại. Nó sẽ cần được thừa nhận về mặt trí tuệ, được kinh nghiệm sâu xa, được thực chứng theo lối huyền nhiệm, rồi được biểu đạt bằng hành động. Chỉ một sự kiện duy nhất về nhất thể, một khi nắm bắt, có thể đưa đến chấm dứt sự xâm lăng vô cớ và giảm bớt phần lớn tội ác và truỵ lạc của thế giới. |
I am aware that words read and words spoken, however eloquent, cannot alone produce realization of their truthfulness, but the right words can point to the direction where realization can be attained. This is of great importance; for the experience of universal oneness leads naturally to that of universal love, and from universal love will arise universal peace. More and more people will then accept Einstein’s dictum: ‘Each man exists for the sake of the other men’. This knowledge of unity is, I submit, the solution—I am tempted to say the sole solution—of many of the world problems of today, especially that of ever-recurrent wars. | Tôi ý thức rằng lời đọc và lời nói, dù hùng biện đến đâu, không thể tự chúng tạo ra sự thực chứng tính chân thật của chúng; nhưng những lời đúng đắn có thể chỉ phương hướng nơi sự thực chứng có thể đạt. Điều này vô cùng quan trọng; vì kinh nghiệm về nhất thể phổ quát tự nhiên dẫn đến tình thương phổ quát, và từ tình thương phổ quát sẽ phát sinh hòa bình phổ quát. Ngày càng có nhiều người sẽ chấp nhận mệnh đề của Einstein: “Mỗi người hiện hữu vì người khác.” Tri thức về nhất thể này, tôi xin thưa, là giải pháp—tôi muốn nói là giải pháp duy nhất—cho nhiều vấn nạn thế giới hôm nay, đặc biệt là tình trạng chiến tranh tái diễn mãi. |
Think what a change it would make if a sufficient number of people—Theosophists included—also realize—I accent that word REALIZE—that the human Race is a continually reincarnating family with a shared source, a shared life and a common goal! That we men and women of today are those of former times. That egoically we are the very same people. Under karma, the way we treated each other in the past, as nations and as individuals, completely decides our relationships with each other today, and also our personal conditions of life now and tomorrow. Knowledge of karma—especially of karma-nemesis—can also provide a very practical incentive for our brotherly treatment of each other. | Hãy nghĩ xem sẽ có thay đổi biết bao nếu có một số lượng đủ lớn người—kể cả các nhà Thông Thiên Học—cũng thực chứng—tôi nhấn mạnh từ THỰC CHỨNG—rằng Chủng Loài Người là một gia đình liên tục tái sinh với một nguồn chung, một sự sống chung và một mục đích chung! Rằng những người nam và nữ của hôm nay chính là những người của thời trước. Rằng trên phương diện chân ngã chúng ta vẫn là những con người y nguyên ấy. Dưới nghiệp quả, cách chúng ta đối đãi nhau trong quá khứ, như các dân tộc và như các cá nhân, hoàn toàn quyết định những tương quan giữa chúng ta hôm nay, và cả tình cảnh đời sống cá nhân của chúng ta bây giờ và ngày mai. Tri thức về nghiệp—đặc biệt là nghiệp-báo—cũng có thể cung cấp một động lực hết sức thực tiễn để chúng ta đối xử huynh đệ với nhau. |
In dramatic illustration of this doctrine of karma, we have the record of man’s proverbial and immemorial inhumanity to man and the tragic condition of mankind century by century and at this present moment. | Như một minh họa kịch tính cho giáo nghĩa về nghiệp, chúng ta có ghi chép về sự “bất nhân tánh” vốn cổ và truyền tụng của con người đối với đồng loại và tình trạng bi thảm của nhân loại qua từng thế kỷ và ngay trong khoảnh khắc hiện tại. |
From these general and somewhat idealistic views, I now advance some practical application of them to the work of the Theosophical Society, particularly its work of removing that avidya—that ignorance—which causes mankind to create such suffering for itself. If time permits, I propose also to refer to some of the more deeply interesting occult teachings which are included in Theosophia. | Từ những quan điểm tổng quát và có phần lý tưởng ấy, giờ đây tôi xin nêu một vài ứng dụng thực hành vào công việc của Hội Thông Thiên Học, đặc biệt là công cuộc loại trừ vô minh—chính sự thiếu tri thức đó khiến nhân loại tự tạo khổ đau cho chính mình. Nếu thời gian cho phép, tôi cũng dự định đề cập đến một số giáo lý huyền bí sâu xa và hấp dẫn nằm trong Thông Thiên Học. |
Obviously, our written and spoken presentations of Theosophy must be adapted to our audiences. The wrong information can drive earnestly seeking and greatly needing people away, whilst the right information can lead them to those treasures of Theosophical knowledge which can transform one’s outlook upon and mode of life. Amongst those who approach Theosophy are at least four general types, or perhaps seven types according to Ray. | Rõ ràng, những gì chúng ta viết và nói để trình bày Thông Thiên Học phải được thích nghi với thính chúng của mình. Thông tin sai lầm có thể xua đuổi những người đang earnest tìm cầu và rất cần, trong khi thông tin đúng đắn có thể dẫn họ đến những kho tàng tri thức Thông Thiên Học có thể chuyển đổi toàn bộ nhãn quan và lối sống. Trong số những người tìm đến Thông Thiên Học tối thiểu có bốn loại chung, hoặc có thể là bảy loại theo Cung. |
A simplified—admittedly over-simplified—classification might be somewhat as follows: | Một phân loại giản lược—công nhận là quá giản lược—có thể như sau: |
First, then, the relatively unlettered and often deeply troubled enquirers who come for guidance to our book depots, libraries and lecture halls. Personally I regard these seekers as of very great importance. To them might be offered for example the main doctrines concerning man, his triple nature, body, soul and Spirit and his evolution to perfected manhood as the purpose of his existence. This knowledge when responded to can give the much needed meaning and purpose to one’s life. Next, reincarnation as the means and karma as the governing law. These I regard as most valuable, for these two ideas together explain so much in human experience, which without them is inexplicable, bewildering indeed. In addition, of course, as I have said, the spiritual unity of all mankind needs to be stressed, as does the assurance that received ideas can be transformed into direct knowledge, methods of doing this being also described. | Thứ nhất, những người tương đối ít học và thường đang sâu khổ, tìm đến các quầy sách, thư viện và giảng đường của chúng ta để cầu chỉ dẫn. Riêng tôi xem những người tìm kiếm này là vô cùng quan trọng. Với họ, có thể đề nghị, chẳng hạn, các giáo nghĩa chủ yếu về con người, bản tính tam phân của y—thể xác, linh hồn và Tinh thần—và tiến hóa đến nhân tính hoàn thiện như là mục đích tồn tại của y. Tri thức này, khi được đáp ứng, có thể đem lại ý nghĩa và mục đích rất cần cho đời sống mỗi người. Kế đến, tái sinh như phương tiện và nghiệp quả như định luật cai quản. Tôi xem những điều này là rất quý báu, vì chỉ riêng hai ý niệm ấy cùng nhau đã giải thích quá nhiều điều trong kinh nghiệm nhân sinh—mà nếu không có chúng thì quả thật khó hiểu, thậm chí rối bời. Ngoài ra, như tôi đã nói, cần nhấn mạnh đến nhất thể tinh thần của toàn thể nhân loại, và bảo chứng rằng những ý niệm “được tiếp nhận” có thể được chuyển hóa thành tri thức trực tiếp—đồng thời mô tả cả các phương pháp để thực hiện điều này. |
To combat the ever increasing cruelty in the world, ahimsa, meaning ‘not hurting’, harmlessness or compassion in thought, motive, feeling, word and deed—a harmless mind, mouth and hand. This is a very great need in the modern world; for where there is ahimsa there is love, selfless service and the protection of the weak. | Để đối kháng với sự tàn nhẫn ngày càng tăng trong thế giới, ahimsa, nghĩa là “không gây tổn hại”, vô tổn hại hay từ bi trong tư tưởng, động cơ, cảm xúc, lời nói và hành động—một cái trí, cái miệng và bàn tay vô tổn hại. Đây là một nhu cầu rất lớn của thế giới hiện đại; bởi vì nơi nào có ahimsa thì nơi đó có tình thương, phụng sự vô ngã và sự che chở cho kẻ yếu. |
Second, the educated but philosophically uninformed. When these come to us seeking guidance in life, they should receive all to which I have just referred with, perhaps, enlargement upon the purpose of human life, reincarnation and karma, the pathway to Self-realization and the way in which it may be trodden. In a word—the plan. Also, again and always, unity as the underlying fact of human existence and to combat cruelty, the ideal of ahimsa. | Thứ hai, những người có học nhưng thiếu hiểu biết triết học. Khi họ đến với chúng ta để tìm chỉ dẫn trong đời sống, họ nên được tiếp nhận tất cả những điều tôi vừa đề cập, và có lẽ mở rộng thêm về mục đích của đời sống con người, tái sinh và nghiệp quả, con đường dẫn đến Tự thực chứng và cách có thể bước đi trên con đường ấy. Tóm lại—Thiên Cơ. Đồng thời, một lần nữa và luôn luôn, nhất thể như sự kiện nền tảng của hiện hữu nhân sinh; và để đối trị tàn bạo, lý tưởng về ahimsa. |
Third, educators, religionists, scientists. Here also change, progress, transition are observable, as well as great advances in technology. Many problems exist and are being attacked. Amongst these might be mentioned: Who are we? What is man, animal, god or both, machine, computer or Divine Intelligence? Does the mind exist as an entity separate from the brain, or is mental activity the product of bio-chemical and electrical charges and changes within the brain? If the mind is mechanical, is there a ‘ghost in the machine?’ as the term goes? How does the experiencing self relate to the physical organ, to one particular brain? In physics, the actual processes of interaction between natural forces and natural phenomena also constitute a problem. Here the teaching of Occult Science could also be introduced, the study of the Divine Mind in Nature. This includes the principles, laws and processes of the emanation and evolution of universes. The gateway could be opened into the vast field of enquiry and research to which the Third Object directly refers. | Thứ ba, các nhà giáo dục, nhà tôn giáo học, nhà khoa học. Ở đây cũng ghi nhận được đổi thay, tiến bộ, chuyển tiếp, cùng với những bước tiến lớn trong công nghệ. Rất nhiều vấn đề hiện hữu và đang được công kích. Trong số đó có thể nêu: Chúng ta là ai? Con người là gì—thú vật, thần linh hay cả hai, cỗ máy, máy tính hay Trí tuệ Thiêng liêng? Thể trí có tồn tại như một thực thể tách biệt với bộ não, hay hoạt động trí tuệ là sản phẩm của những xung lực và biến chuyển hoá-sinh và điện học trong bộ não? Nếu trí tuệ là cơ học, liệu có “bóng ma trong cỗ máy” như cách nói? Cái “tự ngã kinh nghiệm” liên hệ thế nào với cơ quan thể xác, với một bộ não cụ thể? Trong vật lý học, các quá trình tương tác thực sự giữa các lực tự nhiên và hiện tượng tự nhiên cũng là một vấn đề. Ở đây có thể giới thiệu giáo lý của Khoa học Huyền bí—nghiên cứu về Trí Tuệ Thiêng liêng trong Tự nhiên. Điều này bao gồm các nguyên lý, định luật và tiến trình xuất lộ và tiến hóa của các vũ trụ. Cánh cửa có thể mở ra vào cánh đồng mênh mông của điều tra và khảo cứu mà Mục tiêu Thứ ba trực tiếp đề cập. |
The Law of Correspondences or Extension of Unity into the Cosmos could be advanced: that in the vast chain of cosmic being, all created things are linked together, everything being magically contained in everything else. Where one stands, there stand all the worlds. Everything is connected with everything else, and interpenetrates everything else, according to exact if mysterious law. Man himself may be seen as a symbolic transparency through which the secrets of the Cosmos could be discerned. | Định luật Tương ứng hay Sự Mở Rộng của Nhất thể vào Vũ trụ có thể được trình bày: rằng trong chuỗi liên tục mênh mông của sự sống vũ trụ, mọi vật được tạo đều liên kết với nhau, mọi sự đều được “phép thuật” chứa trong mọi sự. Nơi một người đứng, ở đó tất cả các thế giới cùng đứng. Mọi sự kết nối với mọi sự, và xuyên thấu mọi sự, theo một định luật chính xác dù huyền bí. Chính con người có thể được xem như một tấm trong suốt biểu tượng mà qua đó những bí ẩn của Vũ trụ có thể được nhận ra. |
With Goethe: ‘The eye could not see the sun if it did not contain the sun within itself, and how could Divine things enrapture us, if we did not carry the Power of God within us?’ Also—Ahimsa—not hurting. | Cùng với Goethe: “Con mắt không thể thấy mặt trời nếu nó không chứa mặt trời trong chính mình; và làm sao những điều Thiêng liêng có thể làm chúng ta ngây ngất, nếu chúng ta không mang Quyền năng của Thượng đế trong ta?” Và cũng—Ahimsa—không gây tổn hại. |
A fourth group could include mystics who seek direct personal experience of the Divine. These could usefully receive all of the foregoing and descriptions of the illumined state as given by great saints and sages. The technique of meditation and the practice of Yoga. | Một nhóm thứ tư có thể gồm các nhà thần bí tìm kiếm kinh nghiệm trực tiếp, cá nhân về Đấng Thiêng liêng. Họ có thể thụ ích khi tiếp nhận tất cả các điều trên và những mô tả về trạng thái được soi sáng do các bậc thánh hiền truyền dạy. Kỹ thuật tham thiền và thực hành Yoga. |
This last, meditation and Yoga, I regard as essential. For he who is steeped in Yoga, saturated with the potency of the Sacred Word, and who keeps the mind still and strong, he can realize oneness and meet and pass through adversity largely unmoved. For those thus illumined, the barriers which normally separate people melt away, replaced by a sense of intimate rapport, even of identity with all. Religious | Điểm sau cùng này—tham thiền và Yoga—tôi xem là cốt yếu. Vì ai được thấm nhuần Yoga, bão hòa quyền năng của Linh từ Thiêng liêng, và giữ cho thể trí tĩnh và mạnh, người ấy có thể thực chứng nhất thể và đối diện, vượt qua nghịch cảnh mà phần lớn vẫn bất động. Với những ai được soi sáng như vậy, các rào chắn vốn thường ngăn cách người với người tan chảy, được thay thế bởi một cảm thức tương giao thân mật, thậm chí đồng nhất với mọi loài. Những dị biệt |
differences and antagonisms which so tragically divide humanity would then no longer do so; for spiritual illumination reveals the existence of the one Divine Principle and Its Presence equally within the Soul of every human being. | tôn giáo và đối kháng—vốn bi thảm phân rẽ nhân loại—khi ấy sẽ không còn như vậy nữa; vì sự soi sáng tinh thần mặc khải sự hiện hữu của một Nguyên Lý Thiêng liêng duy nhất và Sự Hiện Diện của Nguyên Lý ấy như nhau trong Linh hồn của mọi con người. |
Such, in small part—a fringe only of a fragment of Adeptic teaching—are some ideas which, accepted and applied, can I believe, lead humanity from recurring wars to enduring peace. | Như thế, dù chỉ là phần rất nhỏ—chỉ là viền rìa của một mảnh vụn giáo huấn của các Chân sư—đây là đôi ý niệm mà, nếu được chấp nhận và áp dụng, theo tôi, có thể dẫn nhân loại từ chiến tranh lặp đi lặp lại đến hòa bình bền vững. |
I confess to a sense of urgency, of a pressing need wisely and ever more widely To Popularise a Knowledge of Theosophy (P. A. K. O. T.); for the personal happiness of mankind and the establishment of permanent peace on earth depend upon the banishment of the darkness of human ignorance and its replacement by the wonderful light which is Theosophia. | Tôi thú nhận có cảm giác khẩn thiết, về một nhu cầu cấp bách—một cách khôn ngoan và ngày càng rộng rãi—Phổ biến Kiến thức về Thông Thiên Học (P. A. K. O. T.); vì hạnh phúc cá nhân của nhân loại và việc thiết lập hòa bình vĩnh cửu trên đất tùy thuộc vào việc xua tan bóng tối vô minh của con người và thay thế nó bằng ánh sáng kỳ diệu vốn là Thông Thiên Học. |
(Lecture at the Theosophical World Congress, Salzburg, July 1966) | (Bài thuyết giảng tại Đại Hội Thông Thiên Học Thế giới, Salzburg, Tháng Bảy 1966) |
The Theosophist, Vol. 88, October 1966, p. 22 | The Theosophist, Tập 88, Tháng Mười 1966, tr. 22 |
[See ‘From War Caused by Ignorance to Peace FoundedUpon Knowledge Chapter 194] | [Xem ‘From War Caused by Ignorance to Peace FoundedUpon Knowledge Chương 194] |
190
Mankind Moves Toward World Brotherhood—Nhân loại Tiến tới Tình Huynh Đệ Thế giới
One Stupendous Whole | Một Toàn Thể Huy Hoàng |
Human brotherhood is referred to in Theosophy as a fact to be recognized, an ideal to be realized, and a relationship to be established. The basis for this three-fold affirmation is that the entire universe is animated by One Life and that this Life expresses itself equally through all forms. In consequence, all beings are manifestations of this One Life. The existence of a One Alone is the reality upon which unity rests and upon which an effectively functioning world brotherhood can be established. | Tình huynh đệ nhân loại trong Thông Thiên Học được nói đến như một sự kiện cần được nhận ra, một lý tưởng cần được thực hiện, và một mối tương liên cần được thiết lập. Nền tảng cho ba khẳng định này là toàn thể vũ trụ được linh hoạt bởi Một Sự Sống và Sự Sống ấy biểu lộ như nhau qua mọi hình thể. Do đó, mọi hữu tình đều là những hiện lộ của Một Sự Sống đó. Sự hiện hữu của Một Đấng Duy Nhất là thực tại mà trên đó nhất thể an trú và trên đó một tình huynh đệ thế giới vận hành hiệu quả có thể được kiến lập. |
This oneness is not visible and is denied to the five senses of man by the innumerable diversities displayed on the outward plane. Nevertheless, seers, mystics, and illuminati testify with one voice that they have pierced the illusion of diversity and discovered the reality of oneness as an attribute of the soul of things. | Nhất thể này không hiển lộ và bị phủ nhận đối với năm giác quan của con người bởi vô số sai biệt bày lộ trên bình diện ngoại giới. Tuy vậy, các nhà tiên kiến, thần bí và những bậc khai minh đồng thanh làm chứng rằng các Ngài đã xuyên thấu ảo ảnh của sai biệt và khám phá thực tại của nhất thể như một thuộc tính của linh hồn của vạn hữu. |
In the esoteric wisdom, man has been described as a synthesis in miniature of the totality of the universe: ‘Nature has linked all parts of her empire together by subtle threads of magnetic sympathy, and there is a mutual correlation even between a star and a man’. Eliphas Levi wrote, ‘The mystery of the earthly and mortal man is after the mystery of the supernal and immortal One’. Lao Tzu stated that ‘The universe is a man on a large scale’. Thus the whole cosmos, with all its parts, is to be regarded as a single whole—one body, one organism, one power, one life, one consciousness, all evolving cyclically under one law. Sir James Jeans expressed this possibility when he wrote, ‘When we view ourselves in space and time we are quite obviously distinct individuals; when we pass beyond space and time we may perhaps form ingredients of a single stream of life’. | Trong minh triết huyền môn, con người được mô tả như một tổng hợp thu nhỏ của toàn thể vũ trụ: “Tự nhiên đã liên kết mọi phần trong đế quốc của mình bằng những sợi tơ tế vi của sự cảm ứng từ lực, và có một sự tương liên hỗ tương thậm chí giữa một ngôi sao và một con người.” Eliphas Levi đã viết: “Huyền nhiệm của con người trần thế và phàm mortal là hệ sau huyền nhiệm của Đấng Siêu việt và Bất tử.” Lão Tử nói rằng “Vũ trụ là con người ở quy mô lớn.” Như vậy, toàn thể vũ trụ, với mọi phần của nó, cần được xem như một toàn thể duy nhất—một thân thể, một sinh thể, một quyền năng, một sự sống, một tâm thức, tất cả cùng tiến hóa theo chu kỳ dưới một định luật. Sir James Jeans đã diễn tả khả hữu này khi Ông viết: “Khi chúng ta nhìn chính mình trong không gian và thời gian, ta hiển nhiên là những cá thể riêng biệt; khi vượt ngoài không gian và thời gian, có lẽ chúng ta trở thành những thành phần của một dòng sống duy nhất.” |
Numerous inspired utterances draw man’s attention to the fact that all men are brothers and that this spiritual relationship greatly needs to be recognized. Perhaps it is sufficient to include here the words of H. P. Blavatsky, one of the founders of The Theosophical Society: ‘It is a fundamental doctrine of Theosophy that the ‘separateness’ which we feel between ourselves and the world of living things around us is an illusion, not a reality. In very deed and truth, all men are one, not in a feeling of sentimental gush and hysterical enthusiasm, but in sober earnest. As all Eastern philosophy teaches, there is but One Self in all the infinite universe, and what we men call ‘self is but the illusionary reflection of the One Self in the heaving waters of earth. True occultism is the destruction of the false idea of self, and therefore true spiritual perfection and knowledge are nothing else but the complete identification of our finite selves with the Great AH’. | Vô số lời phát biểu cảm hứng hướng sự chú ý của con người đến sự kiện rằng mọi người đều là huynh đệ và mối tương liên tinh thần này rất cần được nhận ra. Có lẽ đủ để trích ở đây lời của H. P. Blavatsky, một trong các vị sáng lập Hội Thông Thiên Học: “Một giáo nghĩa căn bản của Thông Thiên Học là ‘tính biệt lập’ mà chúng ta cảm thấy giữa chính mình và thế giới muôn loài quanh ta là một ảo tưởng, không phải thực tại. Quả thật, trên thực tế, tất cả con người là một, không phải trong cảm thức tình cảm sướt mướt hay nhiệt tình cuồng dại, mà trong sự nghiêm chỉnh tỉnh táo. Như mọi triết học phương Đông dạy, chỉ có Một Tự Ngã trong toàn vũ trụ vô tận, và điều mà chúng ta gọi là ‘tự ngã’ chỉ là bóng phản chiếu hư ảo của Một Tự Ngã ấy trên làn nước chao động của trần gian. Huyền học chân chính là phá hủy ý niệm sai lầm về tự ngã, và do đó, sự toàn thiện và tri thức tinh thần chân chính không gì khác hơn là sự đồng nhất toàn triệt giữa các tự ngã hữu hạn của chúng ta với Đại Toàn Thể.” |
While philosopher, mystic, and seer may thus intuit and directly experience this sublime truth that man-spirit and universal spirit are one, there remains the urgent problem of the attainment of a similar realisation by the majority of mankind. How may this be done? How may every man enter into this experience? The Psalmist records the divine reply: ‘Be still and know that I am God’. The Yogi answers, ‘By the practice of yoga as a part of life, including regular silent contemplation of the divine’. Herein lies the difficulty, for the mind, almost incurably objective, must be allowed to fall into stillness in order that the inner consciousness may become aware of and convey to the mind the divine and eternal aspects of cosmos and man, or rather cosmos-man. | Trong khi triết gia, nhà thần bí và tiên tri có thể trực giác và trực nghiệm chân lý siêu việt rằng thần tính nơi con người và thần tính vũ trụ là một, thì vẫn còn đó vấn nạn khẩn cấp về việc đạt được một thực chứng tương tự bởi đa số nhân loại. Làm sao điều này có thể thành tựu? Làm sao mỗi người có thể bước vào kinh nghiệm ấy? Thi thiên gia ghi chép lời đáp thiêng liêng: “Hãy yên lặng và biết rằng Ta là Thượng đế.” Vị Yogi đáp: “Bằng thực hành Yoga như một phần của đời sống, bao gồm sự chiêm ngưỡng lặng yên thường xuyên về Đấng Thiêng liêng.” Khó khăn nằm ở đây, vì thể trí—hầu như khó chữa tính khách quan—phải được để rơi vào tĩnh lặng để tâm thức nội tại có thể nhận biết và truyền đạt cho thể trí các phương diện thiêng liêng và vĩnh cửu của vũ trụ và con người, hay đúng hơn là vũ trụ-nhân. |
Clearly we live in two worlds. We are aware, as personalities, of our familiar surroundings, filled as they are with separate objects. Yet we have the capacity to become aware of that other world where all dualities are resolved into an interior unity. In order fully to experience the unity described by Psalmist and Yogi, and many others, we must transfer our centre of consciousness from brain-mind to universal mind. Then we may enter into the illumined state implied by such affirmations as ‘I and my Father are one’. | Rõ ràng chúng ta sống trong hai thế giới. Chúng ta tự biết, như phàm ngã, về môi trường quen thuộc của mình, đầy dẫy các đối tượng tách biệt. Tuy nhiên, chúng ta có khả năng trở nên tự biết về thế giới khác nơi mọi nhị nguyên được dung giải trong một nhất thể nội tại. Để có thể kinh nghiệm trọn vẹn nhất thể mà Thi thiên gia và Yogi, và nhiều vị khác, đã mô tả, chúng ta phải chuyển trung tâm tâm thức của mình từ não-trí sang Trí Vũ trụ. Khi ấy, ta có thể bước vào trạng thái được soi sáng như lời khẳng định: “Ta và Cha là một.” |
Therefore, all diversity will be known as illusion, unity alone as truth. Thus illumined, men will naturally be brotherly with each other, knowing by direct experience that all are members of one spiritual race which is without divisions of any kind. When a sufficient number of human beings have thus passed from illusion to reality, from dividedness to realized unity, then on our earth will there exist the possibility of the true brotherhood of man. | Khi đó, mọi sai biệt sẽ được biết là ảo ảnh, chỉ có nhất thể là chân lý. Được soi sáng như vậy, con người sẽ tự nhiên cư xử huynh đệ với nhau, vì biết bằng kinh nghiệm trực tiếp rằng tất cả đều là thành viên của một chủng tộc tinh thần không hề có phân chia nào. Khi một số lượng đủ lớn con người đã vượt từ ảo ảnh sang thực tại, từ chia rẽ sang nhất thể được thực chứng, thì trên địa cầu mới xuất hiện khả thể của tình huynh đệ chân thật nơi loài người. |
Why Dividedness? | Vì Sao Có Sự Chia Rẽ? |
In view of the assumption in the First Object of The Theosophical Society that the universal brotherhood of man is a fact in nature; humanity’s long continued, tragic dividedness poses a critical question. The immediate and obvious answer hardly needs to be stated, since each man clearly differs from every other in many fundamental ways, no two appearing the same. Theosophy, however, offers a second and fuller explanation which may perhaps usefully be given here. | Theo giả định trong Mục tiêu Thứ nhất của Hội Thông Thiên Học rằng tình huynh đệ phổ quát của nhân loại là một sự kiện trong thiên nhiên, sự chia rẽ bi thảm kéo dài của nhân loại đặt ra một câu hỏi nghiêm trọng. Câu trả lời tức thời và hiển nhiên hầu như không cần nói, vì mỗi người rõ ràng khác mọi người khác ở nhiều phương diện căn bản, không ai giống ai. Tuy nhiên, Thông Thiên Học đưa ra một giải thích thứ hai rộng hơn và có lẽ hữu ích để trình bày ở đây. |
Occult cosmogenesis advances the idea that the conjoined spirit-matter of the finite universe emanates from an infinite and eternal principle, designated the Absolute. This emergence primarily occurs in a state of extreme tenuousness. A procedure of densification follows until the extreme of hardness is reached, whereupon the process is reversed. A return, with added developments, leads to the re-absorption of cosmos into the Absolute. A great cycle of activity, known as the Maha-Manvantara, is then complete. Rest, known as Maha-Pralaya then follows until a succeeding, similar cycle opens. This procedure is followed ‘throughout the eternity of eternities’. H. P. Blavatsky writes, in The Secret Doctrine, ‘. . . this stupendous development has neither conceivable beginning nor imaginable end’. | Trong vũ trụ luận huyền bí, ý niệm được nêu rằng tinh thần-vật chất liên hợp của vũ trụ hữu hạn xuất lộ từ một nguyên lý vô hạn và vĩnh cửu, được gọi là Tuyệt Đối. Sự xuất lộ này ban đầu xảy ra trong một trạng thái cực kỳ tế vi. Một tiến trình gia tăng đậm đặc tiếp theo cho đến cực điểm cứng rắn, rồi tiến trình đảo chiều. Sự trở về, với những phát triển gia tăng, dẫn đến sự tái-hấp thu vũ trụ vào Tuyệt Đối. Một chu kỳ hoạt động vĩ đại, được gọi là Đại giai kỳ sinh hóa, khi ấy được hoàn tất. Sự nghỉ ngơi, gọi là Đại giai kỳ qui nguyên, tiếp theo cho đến khi một chu kỳ tương tự kế tiếp mở ra. Tiến trình này được lặp lại “trong suốt cõi vĩnh hằng của các vĩnh hằng.” H. P. Blavatsky viết trong Giáo Lý Bí Nhiệm: “… sự phát triển tuyệt luân này không có khởi đầu có thể quan niệm cũng chẳng có kết thúc có thể tưởng tượng.” |
During the process of densification, spirit-matter finds expression in many ways, in forms and vehicles of increasing resistance and restriction. The spirit-life is heavily encased in these innumerable forms. Eventually the densest point is reached and the return begins. In the human kingdom, self-consciousness is attained, but in a state of complete forgetfulness of the knowledge of the unity of the spirit-life. | Trong tiến trình gia tăng đậm đặc, tinh thần-vật chất biểu lộ bằng nhiều cách, trong các hình hài và vận cụ ngày càng gia tăng tính đề kháng và hạn chế. Sự sống-tinh thần bị bọc kín nặng nề trong những hình tướng vô số. Rốt cuộc điểm đậm đặc nhất được đạt đến và cuộc trở về khởi sự. Trong giới nhân loại, tự thức được thành tựu, nhưng trong một trạng thái hoàn toàn quên mất tri thức về nhất thể của sự sống-tinh thần. |
This leads to the monstrous human egoism which pervades individuals and nations. From this egoism and dividedness—the ‘heresy of separateness’ arise all the evils to which man is said to be heir. | Điều này dẫn đến chủ nghĩa vị kỷ khủng khiếp của con người—thấm vào cá nhân và quốc gia. Chính từ chủ nghĩa vị kỷ và sự chia rẽ—“tà kiến về tính tách rời”—mọi điều ác mà con người được cho là thừa hưởng đều phát sinh. |
Human dividedness, so tragically apparent within the historical era, is thus due to the loss or ‘forgetfulness’ of unity, incurred during periods of deep encasement in matter with all its separate forms. Indeed, a possible diagnosis of the sickness of mankind is ‘spiritual amnesia’. | Sự chia rẽ của nhân loại, vốn bi thảm hiển lộ trong thời đại lịch sử, như vậy là do mất mát hay “quên lãng” nhất thể, mắc phải trong những thời kỳ bị bọc sâu trong vật chất với tất cả hình tướng sai biệt của nó. Quả vậy, một chẩn đoán khả hữu về bệnh trạng của nhân loại là “chứng mất trí nhớ tinh thần.” |
Dangers Confronting a Divided Humanity | Những Nguy Cơ Đối Mặt Một Nhân Loại Chia Rẽ |
Why are we told in no uncertain terms throughout our early theosophical writings that the Society is expected to start ‘a real universal fraternity; an institution which would make itself known throughout the world and arrest the attention of the highest minds’? This statement was made during the nineteenth century by one of the great Eastern geniuses, sometimes called Adepts. Did the Adepts foresee at that time the evils which would develop in the twentieth century? Voicing this prevision—presumably under inspiration—H. P. Blavatsky wrote in her magazine Lucifer for May 1889 these words: ‘… but if not [i.e., if Theosophy does not prevail], then the storm will burst and our boasted Western civilisation and enlightenment will sink into such a sea of horror that its parallel in history has never yet been recorded’. | Vì sao chúng ta được nói một cách không hề mơ hồ trong những trước tác sơ kỳ của Thông Thiên Học rằng Hội được kỳ vọng khởi xướng “một tình huynh đệ phổ quát chân thực; một định chế sẽ làm cho chính mình được biết đến khắp thế giới và thu hút sự chú ý của những trí tuệ cao nhất”? Lời khẳng định này được phát biểu trong thế kỷ XIX bởi một trong những thiên tài Đông phương vĩ đại, đôi khi được gọi là các Chân sư. Phải chăng các Chân sư đã tiên liệu vào thời ấy những điều ác sẽ phát triển trong thế kỷ XX? Nói lên sự tiên tri này—có lẽ dưới cảm ứng—H. P. Blavatsky đã viết trong tạp chí Lucifer số tháng Năm 1889 những lời này: “… nhưng nếu không [tức là nếu Thông Thiên Học không thắng thế], thì cơn bão sẽ bùng nổ và nền văn minh và ánh sáng phương Tây mà chúng ta hãnh diện sẽ chìm vào một biển khủng khiếp mà trong lịch sử chưa từng ghi chép điều gì tương tự.” |
As these dangers show evidence of existence today, many constructive forces are now uniting to meet them. The dividedness now so tragically apparent forces men to examine the spiritual fact of inherent unity. Teilhard de Chardin has written: ‘Mankind will be forced together by the growth of common travail, then men of the future will in some sort form a single consciousness’. A striking example was given recently by Stalin’s daughter, Alliluyeva Svetlana, who said, ‘I feel that humanity should be one, that mankind should not be divided’. This single consciousness is the central idea of the United Nations whose Secretary General, U Thant, has asked the simple yet tantalising question: ‘What could we not build if we worked together?’ | Khi những nguy cơ này cho thấy dấu hiệu tồn tại hôm nay, nhiều lực lượng kiến thiết đang hiệp lực để đối diện chúng. Sự chia rẽ nay bi thảm quá rõ ràng buộc con người xét đến sự kiện tinh thần về nhất thể nội tại. Teilhard de Chardin đã viết: “Nhân loại sẽ buộc phải kết lại với nhau bởi sự gia tăng của cùng một nỗi lao nhọc, rồi con người tương lai sẽ ở một phương diện nào đó tạo thành một tâm thức duy nhất.” Một ví dụ nổi bật được đưa ra gần đây bởi con gái của Stalin, Alliluyeva Svetlana, người đã nói: “Tôi cảm thấy rằng nhân loại nên là một, rằng loài người không nên bị chia rẽ.” Tâm thức duy nhất này là ý tưởng trung tâm của Liên Hiệp Quốc, mà Tổng thư ký U Thant đã đặt câu hỏi giản dị nhưng làm lưỡng lự: “Chúng ta không thể xây dựng được gì nếu làm việc cùng nhau?” |
This sharp reminder of the irony of the present state of mankind dramatises the persistent struggle between man’s wisdom and his folly, his strength and his weakness, his idealism and his baseness. | Lời nhắc nhở sắc bén này về nghịch lý của trạng thái hiện tại nơi nhân loại làm nổi bật cuộc đấu tranh bền bỉ giữa trí tuệ và ngu si của con người, giữa sức mạnh và yếu đuối, giữa lý tưởng và thấp hèn. |
A computer recently announced that in 5,560 years of recorded history, 14,531 wars of aggression or defence have been fought. Of 185 generations of man’s experience, only ten altogether have known unsullied peace. At the present time, five powers possess nuclear bornbs, and Britain’s Minister for Disarmament warns that in fifteen years there could be double that number or more. The risk of nuclear war, therefore, could become twice as great as at present and, unless world agreement can be reached to stop the pursuit of nuclear power as a status symbol, the prospect is indeed appalling. The recognition, acceptance, and application of the brotherhood of man is now not only an ideal to be attained but also—and unhappily—far more, a necessity for survival. | Một máy tính gần đây cho biết rằng trong 5.560 năm lịch sử có ghi chép, đã có 14.531 cuộc chiến tranh xâm lược hoặc tự vệ được tiến hành. Trong 185 thế hệ kinh nghiệm của con người, chỉ có mười thế hệ tất cả biết đến hòa bình không vấy bẩn. Hiện thời, năm cường quốc sở hữu bom hạt nhân, và Bộ trưởng Giải trừ Quân bị của Anh cảnh báo rằng trong mười lăm năm có thể con số ấy tăng gấp đôi hoặc hơn. Nguy cơ chiến tranh hạt nhân, vì thế, có thể trở nên gấp đôi hiện tại và, trừ phi có được thỏa thuận thế giới để chấm dứt cuộc chạy đua sức mạnh hạt nhân như một biểu tượng địa vị, viễn cảnh quả thực kinh hoàng. Việc công nhận, chấp nhận và áp dụng tình huynh đệ của nhân loại giờ đây không chỉ là một lý tưởng cần đạt mà—đáng buồn thay—còn hơn thế nữa, là một nhu cầu để sinh tồn. |
Fortunately, in the long pilgrimage through matter, the path of return has been entered upon, and the memory of oneness is beginning slowly to be recovered. As this continues, it will eventually lead to the realisation of unity by the majority of men. Total world collaboration will then follow. Already, the phase of human development is beginning to be characterised by numerous co-operative actions, some of which are now to be examined. | May thay, trên cuộc hành hương dài qua vật chất, con đường trở về đã được bước vào, và ký ức về nhất thể đang chậm rãi hồi phục. Khi điều này tiếp diễn, nó rốt cuộc sẽ dẫn đến thực chứng nhất thể bởi đa số con người. Hợp tác toàn cầu toàn diện khi ấy sẽ theo sau. Ngay lúc này, giai đoạn phát triển nhân loại bắt đầu được đặc trưng bởi những hành động hợp tác nhiều vô kể, một số sẽ được khảo sát dưới đây. |
The Foundation Stones of Brotherhood | Những Viên Đá Nền của Tình Huynh Đệ |
The primitive instinct to band together in tribes for mutual protection has evolved through centuries into the vast system of international co-operation which continues to function even while wars, both hot and cold, are waged. Split on the surface, the world of men is one underneath, a fact now slowly beginning to be acknowledged. World literature has foreshadowed and perhaps helped to lead to this state. Plato, Roger Bacon, Sir Thomas More, Francis Bacon, Erasmus, and Edward Bellamy are among Western writers whose contributions are well known. The establishment of covenants between nations was foreshadowed in earlier days. Olympic Games were held regularly for over a thousand years in Ancient Greece. They were started again in modem times and are held every four years in different parts of the world. Ancient Rome developed a system of justice defined by Justinian in the words, ‘Render to every man his due’. In the end it was the lust for conquest and other serious mistakes in government that were Rome’s undoing. Her economic life was mismanaged, her moral authority collapsed, and her communications began to break down. It is axiomatic that while good communications can bring men together, only good citizenship can hold them together. | Bản năng sơ khai liên kết thành bộ tộc để tương trợ đã tiến hóa qua nhiều thế kỷ thành hệ thống hợp tác quốc tế bao la, vốn vẫn tiếp tục vận hành ngay cả khi chiến tranh nóng và lạnh đang diễn ra. Bên ngoài thì chia rẽ, thế giới con người bên dưới là một, một sự kiện đang chậm rãi được thừa nhận. Văn học thế giới đã báo trước và có lẽ giúp dẫn đến trạng thái này. Plato, Roger Bacon, Sir Thomas More, Francis Bacon, Erasmus và Edward Bellamy nằm trong số các tác giả phương Tây có đóng góp được biết đến rộng rãi. Việc thiết lập các giao ước giữa các quốc gia đã được báo trước từ thời xa xưa. Đại hội Thể thao Olympic được tổ chức đều đặn hơn một nghìn năm ở Hy Lạp cổ, và được tái khởi trong thời cận đại, tổ chức bốn năm một lần ở những nơi khác nhau trên thế giới. La Mã cổ đại phát triển một hệ thống công lý được Justinian định nghĩa bằng lời: “Hãy trả cho mỗi người phần thuộc về người ấy.” Rốt cuộc, lòng thèm khát chinh phục và những sai lầm nghiêm trọng khác trong trị quốc đã dẫn đến sự suy tàn của La Mã. Đời sống kinh tế bị quản trị sai lầm, uy quyền đạo đức sụp đổ, và hệ thống giao thông bắt đầu tan rã. Rõ như chân lý rằng trong khi thông tin liên lạc tốt có thể đưa con người lại gần nhau, chỉ có công dân hảo hạng mới giữ họ bên nhau được. |
The first universities which then arose existed like oases in a desert of ill will, confusion, and bloodshed. Scholars shared a common language and resembled international clubs, while darkness lay over most of the European countries. Armed strife such as prevailed between religions and sects has brought misery to mankind. Nevertheless, after many centuries of strife and suffering, men are learning mutual respect and tolerance of differences as a basis for peace. Ecumenism is evidence today that this development has begun. | Những đại học đầu tiên vốn nảy sinh sau đó đã tồn tại như những ốc đảo giữa sa mạc hằn thù, hỗn loạn và đổ máu. Giới học giả dùng chung một ngôn ngữ và giống như các câu lạc bộ quốc tế, trong khi bóng tối phủ trùm hầu hết các quốc gia châu Âu. Các cuộc xung đột vũ trang như giữa các tôn giáo và giáo phái đã mang lại bất hạnh cho nhân loại. Tuy vậy, sau nhiều thế kỷ tranh chấp và khổ đau, con người đang học sự tôn trọng lẫn nhau và khoan dung khác biệt như một nền tảng cho hòa bình. Hiệp nhất đại kết ngày nay là bằng chứng rằng sự phát triển này đã khởi đầu. |
In the League of Nations, born out of the suffering and slaughter of World War One, a Covenant was drawn up consisting of 26 articles or sections setting forth principles for running a new world organisation. Thus, in spite of its defects and its many failures, it proved to be the foundation of a world constitution, for it exemplified a change taking place in human thought. Its failure to prevent a second world war revealed some of its weaknesses. It was a league of states rather than of peoples—of states still willing to wage war and let the interests of nationalism override a world covenant. | Trong Hội Quốc Liên, sinh ra từ nỗi khổ và cuộc đồ sát của Thế chiến Thứ nhất, một Bản Giao Ước đã được soạn gồm 26 điều khoản đặt ra các nguyên tắc vận hành cho một tổ chức thế giới mới. Như thế, bất chấp khiếm khuyết và thất bại, nó chứng tỏ là nền tảng của một hiến chương thế giới, vì nó nêu gương một thay đổi đang diễn ra trong tư tưởng nhân loại. Sự thất bại của nó trong việc ngăn chặn Thế chiến Thứ hai đã phơi bày những yếu kém. Đó là một liên minh các quốc gia hơn là của các dân tộc—của những quốc gia vẫn sẵn lòng gây chiến và để lợi ích của chủ nghĩa quốc gia lấn át một giao ước thế giới. |
Then the United Nations Organisation arose from the ruins of World War Two. This time the United States and Britain drew up the Atlantic Charter. When the Charter was finally signed, President Truman called it ‘a solid structure upon which to build a better world’. Reading the text of this Charter, one cannot help but realize its similarity to the First Object of The Theosophical Society. It pledges joint action to encourage universal respect for and observance of human rights and fundamental freedoms without distinction as to race, sex, language, or religion. The principle of equality has not yet come to be accepted by the community of nations, but in this foundation stone of brotherhood it has been declared unequivocally. | Rồi Tổ chức Liên Hiệp Quốc trỗi dậy từ đổ nát của Thế chiến Thứ hai. Lần này Hoa Kỳ và Anh đã thảo ra Hiến chương Đại Tây Dương. Khi Hiến chương sau cùng được ký, Tổng thống Truman gọi đó là “một cấu trúc vững chắc để xây một thế giới tốt đẹp hơn.” Đọc văn bản của Hiến chương này, người ta không thể không nhận ra sự tương đồng với Mục tiêu Thứ nhất của Hội Thông Thiên Học. Hiến chương cam kết hành động chung để cổ vũ sự tôn trọng phổ quát và tuân thủ nhân quyền và những tự do căn bản không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo. Nguyên tắc bình đẳng chưa được cộng đồng các quốc gia chấp nhận rộng rãi, nhưng trong viên đá nền của tình huynh đệ này, nó đã được tuyên bố dứt khoát. |
From U. N. Charter to U. N. Action | Từ Hiến Chương LHQ đến Hành Động LHQ |
The charter of the United Nations is based on the principles of the dignity and equality inherent in all human beings. The preamble states: | Hiến chương Liên Hiệp Quốc đặt trên các nguyên tắc về phẩm giá và bình đẳng vốn có nơi mọi con người. Lời mở đầu viết: |
‘We, the people of the United Nations, determined … to reaffirm faith in fundamental human rights, in the dignity and worth of the human person, in the equal rights of men and women. . . .’ This indicates the inclusion of women to be recognized as having the same rights as men. The principle of equality has not come to be accepted by the community of nations as declared, nor has every man and woman been given freedom and rights without distinction of any kind. After all, in twenty years one could hardly hope, much less confidently expect, to reverse thousands of years of erroneous thinking. Yet an examination of the actual achievements of these two decades shows that mankind is indeed moving toward brotherhood despite setbacks and disappointments. | “Chúng tôi, nhân dân Liên Hiệp Quốc, quyết tâm … tái khẳng định niềm tin vào những quyền con người căn bản, vào phẩm giá và giá trị của nhân vị, vào quyền bình đẳng của nam và nữ…” Điều này chỉ rõ sự bao gồm phụ nữ được công nhận có cùng quyền như nam giới. Nguyên tắc bình đẳng chưa được cộng đồng các quốc gia chấp nhận như đã tuyên bố, và chưa phải mọi người nam và nữ đều được tự do và quyền lợi không phân biệt bất kỳ loại nào. Rốt cuộc, trong hai mươi năm, người ta khó mà hy vọng, huống chi kỳ vọng, đảo ngược hàng ngàn năm tư duy sai lầm. Tuy nhiên, một khảo sát về những thành tựu thực tế của hai thập kỷ này cho thấy rằng nhân loại thực sự đang tiến đến tình huynh đệ bất chấp những thoái lùi và thất vọng. |
The twentieth century is remarkable for at least three human activities: first, the rapid progress in science and technology; second, the waging of the two most destructive wars in history and the threat of a possible nuclear successor; third, and strangely opposed to the second, human collaboration, which is now virtually world-wide. The heartening list of mankind’s achievements in international co-operation seems to indicate that pathways to peace are strangely paralleling the troubled lines of strife engaging so much more of our attention. | Thế kỷ XX là kỳ vĩ ít nhất ở ba phương diện nhân sinh: thứ nhất, tiến bộ nhanh chóng trong khoa học và công nghệ; thứ hai, việc tiến hành hai cuộc chiến tranh tàn phá nhất trong lịch sử và mối đe dọa về một hậu duệ hạt nhân khả hữu; thứ ba, và kỳ lạ thay đối nghịch với điều thứ hai, là sự hợp tác của con người, nay gần như toàn cầu. Bảng danh sách đầy khích lệ về những thành tựu trong hợp tác quốc tế dường như cho thấy những con đường dẫn đến hòa bình kỳ lạ lại song song với các tuyến xung đột rối ren vốn chiếm nhiều sự chú ý của chúng ta. |
Who could have hoped for the organized effort to bring good health, adequate food, and schooling into the lives of millions of children that resulted from the establishment of a United Nations Children’s Fund? UNICEF, by its existence, has proclaimed to the world a United Nations belief that all children, without exception, deserve the best that mankind can give. Fortunately, what began as a humanitarian endeavour based on moral grounds, has now been recognized as economically sound and necessary. Programs for children occupy an important place in the United Nations Development Decade. | Ai có thể hy vọng về nỗ lực có tổ chức nhằm đem lại sức khỏe, lương thực đầy đủ và học đường vào đời sống của hàng triệu trẻ em như kết quả của việc thành lập Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc? UNICEF, bằng chính sự hiện hữu, đã tuyên cáo với thế giới niềm tin của Liên Hiệp Quốc rằng mọi trẻ em, không ngoại lệ, xứng đáng được nhận điều tốt nhất mà nhân loại có thể dành. May mắn thay, điều khởi đầu như một nỗ lực nhân đạo đặt trên nền tảng đạo đức, nay đã được nhìn nhận là hợp lý về mặt kinh tế và cần thiết. Các chương trình cho trẻ em chiếm vị trí quan trọng trong Thập kỷ Phát triển của Liên Hiệp Quốc. |
The revolutionary idea of a universal education system under which all pupils are taught the underlying unity of man is gaining gradual acceptance. Interchanges between scholars of different countries are being developed on an increasing scale. Young people are being inspired to create brotherliness for all, recognising its importance to themselves and to the welfare of the world. | Ý tưởng cách mạng về một hệ thống giáo dục phổ quát trong đó mọi học sinh được dạy về nhất thể nền tảng của loài người đang dần được chấp nhận. Những trao đổi giữa học giả các nước đang được phát triển trên quy mô tăng dần. Giới trẻ đang được truyền cảm hứng để kiến tạo tinh thần huynh đệ cho tất cả, nhận ra tầm quan trọng của nó đối với chính họ và đối với phúc lợi thế giới. |
A brief look at some of the international organisations functioning successfully is worth while. There is the International Labour Organisation, the World Health Organisation, the Food and Agricultural Organisation, the International Telecommunications Union. The world’s communications systems are wholly dependent upon international co-operation, for if there were no receiving devices, terminals for ships and planes, international codes and agreements, these systems could not exist. A telephone line direct between the heads of two great world powers is possible only after many years of growing international co-operation along lines of communication. There are numerous other international systems—the Universal Postal Union, the international provision and maintenance of all needed aid to mariners, the International Red Cross, Interpol, International Bank for Reconstruction and Development, and there are Boy Scouts and Girl Guides and international businessmen’s service clubs. International law, with its separate headquarters, is slowly evolving to wider and wider service to mankind. | Một thoáng nhìn vào một số tổ chức quốc tế vận hành thành công thật đáng giá. Có Tổ chức Lao động Quốc tế, Tổ chức Y tế Thế giới, Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp, Liên minh Viễn thông Quốc tế. Hệ thống thông tin liên lạc của thế giới hoàn toàn phụ thuộc vào hợp tác quốc tế, vì nếu không có các thiết bị tiếp nhận, các đầu mối cho tàu và máy bay, các bộ luật và hiệp định quốc tế, thì những hệ thống ấy không thể tồn tại. Đường dây điện thoại trực tiếp giữa nguyên thủ của hai cường quốc thế giới chỉ có thể khả hữu sau nhiều năm hợp tác quốc tế tăng trưởng theo các tuyến truyền thông. Có vô số hệ thống quốc tế khác—Liên minh Bưu chính Thế giới, việc cung ứng và bảo trì quốc tế mọi hỗ trợ cần thiết cho hải hành, Hội Chữ thập Đỏ Quốc tế, Interpol, Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển, và có phong trào Hướng đạo nam nữ, các câu lạc bộ phục vụ doanh nhân quốc tế. Luật pháp quốc tế, với trụ sở riêng, đang chậm rãi tiến hóa để phục vụ ngày càng rộng rãi cho nhân loại. |
Nations are working together to eradicate such deep causes of conflict as hunger, disease, ignorance, poverty, and injustice. Tt lies within our power’, said U Thant, ‘to stamp out disease … to harness our rivers, to improve our agriculture, to develop our industries, to house our people decently, and to raise the physical and social well-being of the almost sub-human two-thirds of the human race. A new freedom stares the wealthy nations in the face—the freedom to help or not to help their neighbours who still lie on the far side of abundance and who do not yet command the means to help themselves. At its profoundest level, the challenge of the Decade of Development is a moral challenge’. | Các quốc gia đang hợp tác để tiêu trừ những căn nguyên sâu xa của xung đột như nạn đói, bệnh tật, vô tri, nghèo đói và bất công. “Điều đó nằm trong khả năng của chúng ta,” U Thant nói, “để quét sạch bệnh tật … để khống chế các dòng sông, cải thiện nông nghiệp, phát triển công nghiệp, cho dân ta nơi ở xứng đáng, và nâng cao phúc lợi vật chất và xã hội của gần hai phần ba nhân loại vốn ở mức gần như dưới người. Một tự do mới đang hiện ra trước các quốc gia giàu có—tự do để giúp hay không giúp những láng giềng của họ, những người vẫn còn ở bên kia bờ của sự no ấm và chưa có trong tay phương tiện để tự giúp mình. Ở mức sâu xa nhất, thách thức của Thập kỷ Phát triển là một thách thức đạo đức.” |
The First Object of The Theosophical Society is thus in process of fulfilment. When the Society was founded in 1875, this appeared to be a dream—an aspiration perhaps centuries away from becoming a reality. It has been implemented by action, and now the recognition by more and more members throughout the world that universal brotherhood is a reality, even if a hidden and invisible one, is bearing fruit. Should they so wish, the members may assist in forming a visible nucleus of this fraternal relationship which will initiate a ‘chain reaction’ throughout the population of the globe. | Mục tiêu Thứ nhất của Hội Thông Thiên Học như vậy đang trên tiến trình thành tựu. Khi Hội được thành lập năm 1875, điều này dường như là một giấc mơ—một ước vọng có lẽ còn nhiều thế kỷ mới thành hiện thực. Nó đã được thể hiện bằng hành động, và nay sự nhìn nhận của ngày càng nhiều hội viên trên toàn thế giới rằng tình huynh đệ phổ quát là một thực tại, cho dù ẩn vi và vô hình, đang trổ quả. Nếu muốn, các hội viên có thể trợ giúp hình thành một hạt nhân hữu hình của mối tương liên huynh đệ này, vốn sẽ khởi phát một “phản ứng dây chuyền” trên khắp dân cư địa cầu. |
In the nineteenth century, an Adept wrote: ‘The term “Universal Brotherhood” is no idle phrase…. It is the only secure foundation for universal morality. If it be a dream, it is at least a noble one for all mankind, and it is the aspiration of the true Adept’. | Trong thế kỷ XIX, một Chân sư đã viết: “Thuật ngữ ‘Tình Huynh Đệ Phổ Quát’ không phải là một câu nói suông… Nó là nền tảng an toàn duy nhất cho đạo đức phổ quát. Nếu nó là một giấc mơ, thì ít nhất đó cũng là một giấc mơ cao quý cho toàn nhân loại, và nó là khát vọng của vị Chân sư chân chính.” |
Since these words were written, dream and aspiration have begun to become realities. Mankind moves toward world brotherhood. One might dare to hope that the fulfilment of the dream has been to some extent aided by the thought and work of the tens of thousands of members of the 92-year-old World Theosophical Movement. | Kể từ khi những lời này được viết, giấc mơ và khát vọng đã khởi sự trở thành hiện thực. Nhân loại đang tiến tới tình huynh đệ thế giới. Người ta có thể dám hy vọng rằng sự thành tựu của giấc mơ phần nào đã được hỗ trợ bởi tư tưởng và công việc của hàng chục ngàn hội viên thuộc Phong Trào Thông Thiên Học Thế giới 92 năm tuổi. |
The American Theosophist, Vol. 55, Issue 11, November 1967, p. 267 | The American Theosophist, Tập 55, Số 11, Tháng Mười Một 1967, tr. 267 |
191
Theosophy and the Modern World [4]—Thông Thiên Học và Thế giới Hiện đại [4]
The Threat of Dictatorship | Nguy Cơ Độc Tài |
No one who surveys the material, intellectual and spiritual conditions of the world today can fail to perceive that two great principles are being made the focus for a determined and world-wide attack. I refer to justice and freedom. Already they have been virtually banished from the field of international relationship. This is serious enough, but a far more serious situation also exists—the frank disregard of the principle of freedom not only in the political and social realms, but in the spiritual and intellectual as well. | Không ai khảo sát tình trạng vật chất, trí tuệ và tinh thần của thế giới hôm nay mà không nhận ra rằng hai nguyên tắc vĩ đại đang bị tập trung tấn công quyết liệt và trên phạm vi toàn cầu. Tôi nói đến công lý và tự do. Chúng đã hầu như bị trục xuất khỏi lĩnh vực quan hệ quốc tế. Điều đó đã nghiêm trọng lắm rồi, nhưng còn có một tình trạng nghiêm trọng hơn—sự phớt lờ trắng trợn nguyên tắc tự do, không chỉ trong lĩnh vực chính trị và xã hội, mà cả trong tinh thần và trí tuệ. |
This spiritual tyranny is to my mind far more serious than the social. For it means that the search of the human soul for spiritual light and understanding is beset by obstacles and barriers which, save for the few, are practically impassable; that search can only succeed where the mind is unfettered and the spirit free to soar wherever inward inspiration leads. Yet we are witnessing in some countries the expulsion of religion, and in many others throughout Christendom the growth of an orthodox Christian dogma, designed to strike terror into the hearts of believers. Are not the mass of Christians threatened with eternal damnation unless they give implicit belief to an idea which is confined to orthodox Christianity alone among world religions the idea that there is only one way to God, our own, and only one hope of personal salvation, that offered through the mediation of the clergy. We are in the presence not only of political dictatorship but, far more serious, of an ever growing, ever spreading dictatorship over the very soul and spirit of man. | Chuyên chế tinh thần theo ý tôi còn nghiêm trọng hơn xã hội. Vì nó có nghĩa là cuộc kiếm tìm ánh sáng và sự hiểu biết tinh thần của linh hồn con người bị vây bủa bởi những chướng ngại và rào cản mà, trừ số ít, gần như không thể vượt qua; cuộc kiếm tìm đó chỉ có thể thành công khi thể trí không bị xiềng xích và tinh thần tự do để bay đến bất cứ nơi nào cảm hứng nội tâm dẫn dắt. Tuy vậy, chúng ta đang chứng kiến ở một số quốc gia sự khai trừ tôn giáo, và ở nhiều quốc gia khác trong Ki-tô giáo, sự tăng trưởng của một tín điều Ki-tô giáo chính thống, được thiết kế để gieo rắc kinh sợ vào lòng tín đồ. Há chẳng phải đại đa số tín đồ Ki-tô bị đe dọa đoạ đày vĩnh cửu trừ phi họ tin tuyệt đối vào một ý niệm vốn chỉ tồn tại trong Ki-tô giáo chính thống giữa các tôn giáo thế giới—ý niệm rằng chỉ có một con đường đến với Thượng đế, của riêng chúng ta, và chỉ có một hy vọng cứu rỗi cá nhân, được ban qua trung gian của giáo sĩ? Chúng ta đang chứng kiến không chỉ độc tài chính trị mà—nghiêm trọng hơn nhiều—một sự độc tài ngày càng tăng và lan rộng trên chính linh hồn và tinh thần của con người. |
These two conditions of the modem world—aggressive political dictatorship and religious intolerance and dogmatism—together constitute a most serious menace to individual and national progress and happiness. | Hai tình thế của thế giới hiện đại này—nền độc tài chính trị hiếu chiến và sự bất khoan dung, giáo điều tôn giáo—cùng nhau cấu thành một mối đe dọa hết sức nghiêm trọng đối với tiến bộ và hạnh phúc cá nhân cũng như quốc gia. |
We, Theosophists, cannot afford to ignore these two attacks upon the freedom of man, however free for the time being some of us may be of their immediate effects. For they constitute not only a harmful state of affairs for humanity in general, but also a serious obstacle to the work of The Theosophical Society. Both Theosophy and its great philosophic brother— Freemasonry—are now prohibited in Russia and Germany. | Chúng ta, những người Thông Thiên Học, không thể phớt lờ hai cuộc tấn công vào tự do của con người này, cho dù tạm thời một số chúng ta có thể chưa chịu ảnh hưởng trực tiếp của chúng. Vì chúng không chỉ là một tình trạng có hại cho nhân loại nói chung, mà còn là một chướng ngại nghiêm trọng cho công việc của Hội Thông Thiên Học. Cả Thông Thiên Học và người anh em triết học vĩ đại của nó—Hội Tam Điểm—hiện bị cấm ở Nga và Đức. |
Seeing all this, the student of world affairs, especially the Theosophist, cannot help being deeply concerned for the future of mankind, cannot but ask himself, when and where will the principle of freedom, essential to human progress and wellbeing, be established on earth. How can this movement be checked? | Thấy tất cả điều này, nhà nghiên cứu thời cuộc thế giới, đặc biệt là nhà Thông Thiên Học, không thể không sâu lo âu cho tương lai nhân loại, không thể không tự hỏi, bao giờ và nơi đâu nguyên tắc tự do—thiết yếu cho tiến bộ và an sinh của con người—sẽ được thiết lập trên địa cầu. Làm sao chặn đứng phong trào này? |
Only, I submit, by the combined and effective action of men and women who prize freedom, justice and truth above all else in human life. A strong and world-wide crusade is needed in defence of these principles, and for this purpose a great body of crusaders must go into action. | Chỉ bằng, tôi xin thưa, hành động phối hợp và hữu hiệu của những người nam và nữ xem trọng tự do, công lý và chân lý trên hết trong đời sống con người. Cần có một cuộc thập tự chinh mạnh mẽ và toàn cầu để bảo vệ những nguyên tắc ấy, và vì mục đích này một đoàn quân thập tự chinh vĩ đại phải xuất chinh. |
A Crusade for Freedom | Một Cuộc Thập Tự Chinh cho Tự Do |
For me, the work of The Theosophical Society is such a crusade. For me, The Theosophical Society, the tmths it teaches and the ideal of freedom on which it is based, are the spiritual and intellectual hope of the world. The Theosophical Society stands practically alone among great international movements in two respects, first its foundation upon the eternal verities and their propagation, especially the Brotherhood of Man; and second, its affirmation and insistence upon freedom, especially in the spiritual and intellectual life. | Đối với tôi, công việc của Hội Thông Thiên Học là một cuộc thập tự chinh như thế. Với tôi, Hội Thông Thiên Học, những chân lý mà Hội truyền dạy và lý tưởng tự do trên đó Hội đặt nền, là hy vọng tinh thần và trí tuệ của thế giới. Hội Thông Thiên Học gần như đứng một mình giữa các phong trào quốc tế vĩ đại ở hai phương diện: thứ nhất, nền tảng trên những chân lý vĩnh cửu và việc truyền bá chúng, đặc biệt là Tình Huynh Đệ Nhân Loại; và thứ hai, sự khẳng định và nhấn mạnh tự do, nhất là trong đời sống tinh thần và trí tuệ. |
The task before The Society is at once apparent. It is an intensive effort to bring Theosophy in acceptable and attractive forms to the modem mind. | Nhiệm vụ trước mắt của Hội là hiển nhiên. Đó là một nỗ lực mãnh liệt để đưa Thông Thiên Học đến với tâm trí hiện đại bằng những hình thức thích hợp và hấp dẫn. |
Consider the application of Theosophy as a treatment for the diseases of militarism and dictatorship. While I deplore the intense and militaristic nationalism of the totalitarian States, I conceive also that there may be a purpose behind it. Certainly there is a working out of the educative Law of Cause and Effect. We have only to look at the humiliating conditions imposed upon these States at Versailles to see an immediate cause of their intense nationalism and aggressive militarism. | Hãy xét việc ứng dụng Thông Thiên Học như một phương dược cho các bệnh tật của chủ nghĩa quân phiệt và độc tài. Dù tôi lấy làm tiếc chủ nghĩa quốc gia quân phiệt mãnh liệt của các quốc gia toàn trị, tôi cũng hình dung rằng có thể có một mục đích đằng sau nó. Chắc chắn Định luật Giáo dục của Nhân quả đang vận hành. Chúng ta chỉ cần nhìn lại những điều kiện nhục nhã áp đặt lên các quốc gia ấy tại Versailles để thấy nguyên nhân tức thời của chủ nghĩa quốc gia mãnh liệt và chủ nghĩa quân phiệt hiếu chiến của họ. |
Maybe an awakened if narrow and aggressive German race-consciousness—and the same may be said of Italy—is needed for the evolution and enrichment of Europe. Yet even if this is true, I feel very sure that the atrocities and persecutions were never in the plan of racial development. They are human perversions, false reactions to whatever inspiration and guidance the Elder Brethren are offering to the national consciousness. | Có thể một thức tỉnh—dù hẹp hòi và hiếu chiến—của ý thức chủng tộc Đức—và điều tương tự có thể nói về Ý—là điều cần cho sự tiến hóa và phong phú của châu Âu. Tuy vậy, ngay cả nếu điều đó đúng, tôi rất tin chắc rằng những hành vi tàn bạo và bách hại chưa bao giờ nằm trong kế hoạch phát triển chủng tộc. Chúng là những lệch lạc do con người, những phản ứng sai lầm trước bất kỳ cảm hứng và chỉ dẫn nào mà Các Huynh Trưởng đang cống hiến cho ý thức quốc gia. |
Germany may need to be freed of Jewish influence for some purpose which only the Lord Manu of the Race can comprehend. Perhaps the Jews themselves need to be thrown out into the world, both for their own benefit and for that of other nations. The collective life especially the cultural life, of the United States of America, for example, has recently been immeasurably enriched by the presence of a small number of extraordinary immigrants, men and women of genius. | Đức có thể cần được giải phóng khỏi ảnh hưởng Do Thái vì một mục đích mà chỉ có Đức Manu của Chủng tộc mới thấu hiểu. Có lẽ chính người Do Thái cũng cần bị tung ra thế giới, cả vì lợi ích của họ lẫn vì lợi ích của các dân tộc khác. Đời sống tập thể, đặc biệt là đời sống văn hóa, của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, chẳng hạn, vừa qua đã được làm phong phú vô lượng bởi sự hiện diện của một số ít những người nhập cư phi thường, những nam nữ thiên tài. |
At the head of the list is Dr Albert Einstein, now of the Institute for Advanced Study at Princeton University. Then come Ernst Toiler, brilliant playwright; Max Reinhardt, theatrical producer; George Grosz, artist; Vicki Baum, novelist; Elisabeth Bergner, actress; Dr Otto Klemperer, renowned conductor; Julius Ehrlich, composer; Bruno Eisner, pianist; Dr Wilhelm Frei, dermatologist Dr Richard Goldschmidt, brilliant biologist and geneticist; Dr Carl Lange, bacteriologist, and Dr Siegfried Loewe, pharmacologist and biologist. At least fifty other distinguished German scholars have become residents in the United States. | Đứng đầu danh sách là Tiến sĩ Albert Einstein, nay thuộc Viện Nghiên cứu Cao cấp tại Đại học Princeton. Kế đến là Ernst Toller, nhà viết kịch xuất sắc; Max Reinhardt, đạo diễn sân khấu; George Grosz, họa sĩ; Vicki Baum, tiểu thuyết gia; Elisabeth Bergner, nữ diễn viên; Tiến sĩ Otto Klemperer, nhạc trưởng lừng danh; Julius Ehrlich, nhà soạn nhạc; Bruno Eisner, nghệ sĩ piano; Tiến sĩ Wilhelm Frei, nhà da liễu học; Tiến sĩ Richard Goldschmidt, nhà sinh học và di truyền học xuất chúng; Tiến sĩ Carl Lange, nhà vi khuẩn học; và Tiến sĩ Siegfried Loewe, nhà dược lý học và sinh học. Ít nhất năm mươi học giả Đức xuất sắc khác đã trở thành cư dân Hoa Kỳ. |
Is it true that the countries to which expelled citizens emigrate need them, or rather that our Spiritual Elders who are guiding racial evolution need them there? Does China need to be shocked, goaded, driven into an intellectual and spiritual awakening and unity? Japan may be the instrument of that purpose, her imperialistic aims and her national need both being utilised by the Powers-that-be. | Có phải đúng là các quốc gia nơi những công dân bị trục xuất di cư đến đang cần họ, hay đúng hơn là Các Bậc Trưởng Thượng Tinh thần—Những Vị đang hướng dẫn tiến hóa chủng tộc—cần họ ở đó? Trung Hoa có cần bị chấn động, bị kích thích, bị xô đẩy vào một cuộc thức tỉnh trí tuệ và tinh thần và hiệp nhất? Nhật Bản có thể là công cụ của mục đích ấy, tham vọng đế quốc và nhu cầu quốc gia của họ đều được các Quyền Lực Tối Cao sử dụng. |
I do not for a moment suggest that the Masters deliberately initiate and foster aggression, militarism, persecutions and bloody revolutions. We are told in fact that every permissible effort was made, through the agency of the Master the Count de St Germain, now the Prince Rakoczi, to redirect the forces which led to the French Revolution. But I feel sure that in Their wisdom the Great Ones are able to produce ultimate good even out of international evils. I am not blind to this possibility when I study world affairs today, but my thesis is that such activities and events are accompanied by much that is gross and deplorable and which therefore needs to be combated. Even though good may come out of evil, the evil must ever be fought and never condoned. | Tôi không hề gợi ý rằng các Chân sư chủ ý khởi xướng và nuôi dưỡng xâm lược, quân phiệt, bách hại và các cuộc cách mạng đẫm máu. Chúng ta được cho biết rằng, thực ra, mọi nỗ lực có thể đã được thực hiện, qua cơ quan của Chân sư Bá tước de St Germain, nay là Vương tử Rakoczi (Chân sư R.), để chuyển hướng các lực dẫn đến Cách mạng Pháp. Nhưng tôi tin chắc rằng trong Minh triết của Các Ngài, Các Đấng Cao Cả có thể đưa thiện ích tối hậu xuất hiện ngay cả từ những điều ác quốc tế. Tôi không mù quáng trước khả hữu này khi tôi nghiên cứu thời cuộc thế giới hôm nay; song luận điểm của tôi là những hoạt động và biến cố như vậy đi kèm quá nhiều điều thô lậu và đáng tiếc nên cần phải được đối kháng. Dù thiện ích có thể sinh xuất từ ác, ác vẫn luôn luôn phải bị đấu tranh và không bao giờ được dung túng. |
A Purifying Fire | Một Ngọn Lửa Tẩy Luyện |
Now consider the possible effects of the adverse world conditions upon individuals. At this period of conflict between might and right, many souls are being chastened, their evolution quickened and their intellects awakened to the search for truth. Out of the present welter on a world scale of selfishness, ignorance and brutality there are arising, and will continue to arise, many thousands of men and women who have wakened to their own spiritual light. These will be part of the harvest of the present age, the first fruits of the present testing in the fire of individualism and fear. | Giờ hãy xét những hiệu ứng khả hữu của các điều kiện thế giới bất lợi lên cá nhân. Trong thời đoạn xung đột giữa cường quyền và chính nghĩa này, nhiều linh hồn đang được tôi luyện, tiến hóa của họ được gia tốc và trí năng được đánh thức cho cuộc kiếm tìm chân lý. Từ mớ bòng bong hiện nay—ở bình diện thế giới—của vị kỷ, vô minh và tàn bạo, đang trỗi lên, và sẽ tiếp tục trỗi lên, hàng vạn người nam và nữ đã tỉnh thức trước ánh sáng tinh thần riêng của họ. Họ sẽ là một phần của vụ mùa gặt của thời đại này, là những trái đầu mùa của cuộc thử luyện hiện tại trong lửa của chủ nghĩa cá nhân và sợ hãi. |
No one can doubt that there exists in the world an individualism, a selfishness, a pride, and an unashamed, cold, cynical barbarism which is positively satanic. This produces in the hearts of millions of people a fear which is a veritable hell. Unless this fear is removed the intellectual and spiritual growth of those millions will be delayed. But those who triumph over it will emerge purified, enlightened, and in some cases ready for the Path of Holiness. Reborn, they will be come the leaders of the new age building on the foundations which we are laying today. | Không ai có thể nghi ngờ rằng đang tồn tại trong thế giới một chủ nghĩa cá nhân, một vị kỷ, một kiêu mạn, và một chủ nghĩa man rợ lạnh lùng, trơ tráo, hoài nghi—đến độ ác quỷ. Điều này sinh ra trong lòng hàng triệu người một nỗi sợ vốn là địa ngục thực sự. Trừ khi nỗi sợ này được xóa bỏ, sự trưởng thành trí tuệ và tinh thần của những triệu người ấy sẽ bị chậm trễ. Nhưng những ai chiến thắng nó sẽ bước ra tinh sạch, được soi sáng, và trong vài trường hợp đã sẵn sàng cho Thánh Đạo. Tái sinh, họ sẽ là những nhà lãnh đạo của thời đại mới, xây dựng trên những nền tảng mà chúng ta đang đặt hôm nay. |
The New Age | Thời Đại Mới |
Glance forward for a moment to the coming age. At the heart of every institution in the new age, it is reasonable to assume, Theosophy in appropriate forms will be found. Religion, education, politics, the arts and the sciences, will all be founded upon Theosophy. For what is Theosophy but the religion, art and science of life itself? | Hãy nhìn thoáng về thời đại sắp tới. Ở trung tâm của mọi định chế trong thời đại mới, có thể hợp lý giả định rằng Thông Thiên Học—trong những hình thức thích đáng—sẽ hiện diện. Tôn giáo, giáo dục, chính trị, nghệ thuật và khoa học—tất cả sẽ đặt nền trên Thông Thiên Học. Bởi Thông Thiên Học là gì nếu không phải là tôn giáo, nghệ thuật và khoa học của chính sự sống? |
The reason for the failure of past civilisations has been in the period of decline the inability of the leaders and the majority of the people to continue to perceive the light of the Wisdom Religion. Of the four great Aryan civilisations which preceded our own, one alone remains—the civilisation of India, preserved through the ages by the presence at its heart of the Ancient Wisdom, and on Indian soil of the great Rishis and Mahatmas who are its Guardians and Hierophants. If our Western civilisation—and in that I include the new-race civilisations of Australia and South Africa is to endure, at its heart also must be established the Ancient Wisdom. | Nguyên nhân cho sự thất bại của các nền văn minh quá khứ—trong thời kỳ suy thoái—là sự bất lực của các nhà lãnh đạo và đa số dân chúng trong việc tiếp tục thấy được ánh sáng của Tôn giáo Minh triết. Trong bốn nền văn minh Arya vĩ đại tiền nhiệm nền văn minh của chúng ta, chỉ còn một tồn tại—nền văn minh Ấn Độ—được bảo tồn qua các thời đại bởi sự hiện diện tại tâm điểm của nó Tân–Cổ Minh triết, và trên đất Ấn những bậc Rishi và Mahatma—những vị là các Đấng Bảo hộ và Tế sư của Minh triết ấy. Nếu nền văn minh Tây phương của chúng ta—và trong đó tôi bao gồm các nền văn minh của tân chủng như Úc và Nam Phi—muốn trường tồn, thì ngay tại tâm điểm của nó cũng phải được kiến lập Tân–Cổ Minh triết. |
The Challenge of the Times | Thách Thức của Thời Đại |
Western people may be said to stand at the junction of four cross roads. Behind is the past, the way they have travelled. One of the turnings leads to financial and political dictatorship. Another leads to increasing domination by a spiritual dictatorship. Straight ahead lies the way of safety into that spiritual and intellectual freedom and light by virtue of which alone a better civilisation can be permanently established. | Người Tây phương có thể nói là đang đứng ở ngã tư bốn con đường. Sau lưng là quá khứ, con đường họ đã đi. Một lối rẽ dẫn đến độc tài tài chính và chính trị. Lối khác dẫn đến sự thống trị gia tăng bởi một chế độ độc tài tinh thần. Đi thẳng phía trước là con đường an toàn dẫn đến tự do và ánh sáng tinh thần và trí tuệ—mà chỉ nhờ đó một nền văn minh tốt đẹp hơn mới có thể được thiết lập một cách bền vững. |
Along this road we, Theosophists, in every land are already travelling. Apostles of freedom, ours is the opportunity to point the way to our fellowmen. The Theosophical call today is seemingly for men and women who know the Plan of Life, who recognise the reality of the Elder Brethren, who can point out the Path which leads to fuller conscious co-operation with Them: men and women who are awakening and perfecting their own powers of body, mind, and will, so that they may become increasingly effective in service. I conceive that the living membership of our international Society is one of the most powerful weapons in the hands of those Elder Brethren who called it into existence. | Trên con đường này, chúng ta, những người Thông Thiên Học, ở mọi quốc gia, đã và đang bước đi. Là những sứ đồ của tự do, cơ hội thuộc về chúng ta để chỉ đường cho đồng loại. Tiếng gọi của Thông Thiên Học hôm nay dường như dành cho những người nam và nữ biết Thiên Cơ của Sự sống, nhận ra thực tại của các Huynh Trưởng, có thể chỉ ra Thánh Đạo dẫn tới sự hợp tác tự giác, trọn vẹn hơn với Các Ngài: những người nam và nữ đang thức tỉnh và hoàn thiện các năng lực của thân, trí và ý chí của chính mình, để có thể ngày càng hữu hiệu hơn trong phụng sự. Tôi quan niệm rằng tập thể hội viên đang sống động của Hội quốc tế chúng ta là một trong những vũ khí mạnh mẽ nhất trong tay các Huynh Trưởng đã kêu gọi Hội ra đời. |
The world will never be reformed by means of parliaments, leagues and pacts. The world can only be reformed by the awakening of the human conscience and the development of men’s spiritual perceptions. Theosophy has power to produce these results. Therefore all who live and teach Theosophy are true reformers. | Thế giới sẽ không bao giờ được cải cách nhờ quốc hội, liên minh và các hiệp ước. Thế giới chỉ có thể được cải cách bằng sự thức tỉnh của lương tâm con người và sự phát triển các tri nhận tinh thần của con người. Thông Thiên Học có năng lực tạo ra những kết quả này. Vì vậy, tất cả những ai sống và truyền dạy Thông Thiên Học đều là những nhà cải cách chân chính. |
What special Theosophical notes should be struck at this time, what aspects of Theosophy should be emphasised? | Những chủ âm Thông Thiên Học nào cần được xướng lên vào lúc này, những phương diện nào của Thông Thiên Học cần được nhấn mạnh? |
First of all and fundamentally, friendship, brotherhood, which is the real solvent of all these national and international complexities. Then the unfoldment of hidden forces in Nature and in man; and the realisation of the hidden wisdom in the world scriptures, especially in Christianity. The Ancient Wisdom carries its own conviction. The subject of Theosophy in Christianity is particularly important. Christianity needs to be Theosophised in order to relieve Christendom of the prevalent spirit of domination and fear. I am inclined to go further and say that for Western audiences Theosophy needs to be Christianised so that it may be more easily understood and more readily applied to life. | Trước hết và ở nền tảng, là tình bạn, tình huynh đệ, vốn là dung môi đích thực của tất cả những phức tạp quốc gia và quốc tế này. Kế đến là sự khai mở các mãnh lực tiềm ẩn trong Tự Nhiên và trong con người; và là sự nhận ra minh triết ẩn tàng trong các kinh văn của thế giới, đặc biệt trong Ki-tô giáo. Minh Triết Cổ xưa tự mang sức thuyết phục riêng. Đề mục Thông Thiên Học trong Ki-tô giáo đặc biệt quan trọng. Ki-tô giáo cần được thấm nhuần Thông Thiên Học để giải trừ khỏi Thế giới Ki-tô giáo tinh thần thống trị và sợ hãi đang lan tràn. Tôi còn thiên về đi xa hơn và nói rằng đối với thính giả phương Tây, Thông Thiên Học cần được trình bày theo tinh thần Ki-tô giáo để có thể dễ hiểu hơn và dễ áp dụng vào đời sống hơn. |
Growing Evil of Black Magic | Sự gia tăng Ác tính của Hắc thuật |
There is a growing interest in occultism. The literature on yoga is rapidly increasing. Here The Theosophical Society has important work to perform in clearly stating the need for right motives in occult development. | Mối quan tâm tới huyền bí học đang gia tăng. Văn liệu về yoga tăng nhanh chóng. Ở đây, Hội Thông Thiên Học có công việc quan trọng phải làm là nêu rõ ràng nhu cầu về động cơ đúng đắn trong sự phát triển huyền bí. |
Theosophical teachings are being grossly perverted by individuals for personal aggrandisement and to increase material power and possessions. Occult knowledge is commercially offered to the world for developing a dominating personality with a semi-hypnotic influence over others. Psychologists, success-merchants, preach to the world for huge sums of money methods whereby the occult forces of the mind and the will may be phenomenally employed. | Các giáo lý Thông Thiên Học đang bị xuyên tạc thô bạo bởi các cá nhân nhằm phô trương bản ngã và gia tăng quyền lực vật chất cùng của cải. Tri thức huyền bí được chào bán thương mại cho thế giới để phát triển một phàm ngã thống trị với ảnh hưởng bán-thôi miên lên kẻ khác. Các nhà tâm lý, những “con buôn” thành công, rao giảng cho thế giới—đổi lại những khoản tiền khổng lồ—các phương pháp nhờ đó các mãnh lực huyền bí của thể trí và ý chí có thể được sử dụng một cách kỳ biến. |
What is all this but black magic of a subtle and dangerous kind? ‘God’s abundance’, say the disseminators of this dark creed, ‘is there for all of us. Reach out and take it. Become wealthy, be strong and a ruler among your fellowmen’. | Tất cả điều này không phải là hắc thuật với loại tinh vi và nguy hiểm sao? “Sự phong phú của Thượng đế”, những kẻ truyền bá tín điều u ám này nói, “ở đó cho tất cả chúng ta. Hãy vươn tay và lấy nó. Hãy trở nên giàu có, mạnh mẽ và là người cai trị giữa đồng loại của bạn”. |
Here is a call to Theosophists the world over to fight this evil, this menace to the spiritual health and wellbeing of mankind. The prostitution of occult knowledge and power is a greater evil than war itself. War destroys bodies. Perverted occultism destroys souls. The temple of tmth is being defiled by the presence of money-changers, sellers of sacrificial objects and practitioners of the black arts. The scourge must be used to drive them out and to restore spiritual purity. | Đây là một lời kêu gọi gửi tới những người Thông Thiên Học khắp thế giới đứng lên chống lại cái ác này, mối đe doạ này đối với sức khoẻ và an sinh tinh thần của nhân loại. Sự mại dâm hoá tri thức và quyền năng huyền bí là một điều ác lớn hơn chính chiến tranh. Chiến tranh hủy diệt thân xác. Huyền bí học bị xuyên tạc hủy hoại linh hồn. Đền thờ của chân lý đang bị ô uế bởi sự hiện diện của những kẻ đổi tiền, những kẻ bán đồ cúng tế và những kẻ hành nghề hắc thuật. Cần dùng roi vọt để đuổi họ ra và khôi phục sự thanh khiết tinh thần. |
We, Theosophists, are ranged with the forces of light. All our strength, all our wisdom, all our purity and intensity of purpose are demanded to ensure victory in this great conflict. We must take Theosophy out to the world: out of books, out of the study, out of the lodge room. Theosophy must be lived and applied to the pressing problems which surround us. | Chúng ta, những người Thông Thiên Học, đứng cùng với các lực lượng của ánh sáng. Tất cả sức mạnh của chúng ta, tất cả minh triết của chúng ta, tất cả sự thanh khiết và cường độ mục đích của chúng ta đều được đòi hỏi để bảo đảm chiến thắng trong cuộc xung đột vĩ đại này. Chúng ta phải đưa Thông Thiên Học ra với thế giới: ra khỏi sách vở, ra khỏi phòng học, ra khỏi phòng hội. Thông Thiên Học phải được sống và được áp dụng vào những vấn đề bức bách đang vây quanh chúng ta. |
If we, thirty thousand members of The Theosophical Society, would use but a fraction of the knowledge which we now possess, would apply the laws governing the mastery of the mighty powers of the mind and the will, would truly live our Theosophy, we alone could change the face of modem civilisation. | Nếu chúng ta, ba mươi ngàn hội viên của Hội Thông Thiên Học, chỉ sử dụng một phần nhỏ tri thức mà hiện nay chúng ta sở hữu, áp dụng các định luật chi phối sự làm chủ những quyền năng hùng mạnh của thể trí và ý chí, và thực sự sống Thông Thiên Học của chúng ta, thì chỉ riêng chúng ta cũng có thể thay đổi bộ mặt của nền văn minh hiện đại. |
Masters and the Modern World | Các Chân sư và Thế giới Hiện đại |
In founding The Theosophical Society, the two Masters—Morya and Koot Hoomi [Kuthumi]—in a certain sense threw Themselves and Their retreats open to the world. It is evident, I think, that They foresaw this crisis, and for the helping of the world offered to Western humanity not only the Wisdom of which They are the Guardians, but in considerable measure They sacrificed Themselves. For Them to emerge from the ‘silence of centuries’, to quote Their own words, was a sacrifice indeed—one for which the whole race owes Them undying gratitude. | Khi sáng lập Hội Thông Thiên Học, hai Chân sư—Chân sư Morya và Chân sư Koot Hoomi [Kuthumi]—theo một nghĩa nào đó, đã mở chính Các Ngài và các nơi ẩn tu của Các Ngài cho thế giới. Rõ ràng, tôi nghĩ, Các Ngài đã tiên liệu cuộc khủng hoảng này, và để giúp thế giới, đã hiến tặng cho nhân loại phương Tây không chỉ Minh Triết mà Các Ngài là những Đấng Bảo Hộ, mà ở mức độ đáng kể, Các Ngài còn đã hy sinh chính Mình. Đối với Các Ngài, việc xuất hiện từ “sự im lặng của nhiều thế kỷ”, trích lời Các Ngài, quả thực là một hy sinh—một hy sinh mà cả nhân loại nợ Các Ngài lòng tri ân bất tận. |
The day is coming, I feel assured, is indeed not far away, when in their extremity, Western people will turn increasingly not only to the Wisdom-Religion but to its Mighty Guardians, the Masters of the Wisdom, for the aid which They alone can give. | Ngày đó đang đến, tôi hoàn toàn tin chắc, thực sự không xa, khi trong cơn cùng quẫn, người phương Tây sẽ ngày càng quay về không chỉ với Tôn giáo Minh Triết mà còn với các Đấng Bảo Hộ Oai Hùng của Tôn giáo ấy, các Chân sư của Minh Triết, để cầu xin sự trợ giúp mà chỉ riêng Các Ngài có thể ban. |
(The substance of an address to the Australian Convention, held in Melbourne, Easter 1938.) | (Nội dung một bài diễn thuyết tại Đại hội Úc, tổ chức ở Melbourne, Lễ Phục Sinh 1938.) |
The Theosophist, Vol. 60, October 1938, p. 9 | The Theosophist, Tập 60, Tháng Mười 1938, tr. 9 |
192
World Unity—Hợp nhất Thế giới
The Birth of World Unity | Sự ra đời của Hợp nhất Thế giới |
If world unity is to be successfully fashioned in this age, it is abundantly clear that great sacrifices will have to be made both by individuals and by nations. Nothing new is ever born without the death of something old, and, this applies equally throughout the three worlds of physical matter, of emotion and of mind. The birth of world unity, for example, demands the death of competitive and aggressive nationalism, first as a physical characteristic, second as a false emotion of patriotism, and third as a national obsession. These three deaths, physical, emotional and mental, are the price of the birth of world unity. | Nếu hợp nhất thế giới muốn được nhào nặn thành công trong thời đại này, thì rõ ràng là những hy sinh lớn lao sẽ phải được thực hiện cả bởi cá nhân lẫn quốc gia. Không có gì mới mẻ nào ra đời mà không có cái cũ nào đó chết đi, và điều này áp dụng đồng đều trong cả ba cõi của vật chất hồng trần, của cảm xúc và của thể trí. Sự ra đời của hợp nhất thế giới, chẳng hạn, đòi hỏi cái chết của chủ nghĩa quốc gia cạnh tranh và xâm lược, thứ nhất như một đặc tính vật chất, thứ hai như một cảm xúc yêu nước sai lầm, và thứ ba như một ám ảnh quốc gia. Ba cái chết này—vật chất, cảm xúc và trí tuệ—là giá phải trả cho sự ra đời của hợp nhất thế giới. |
Already in our own experience and before our eyes, these deaths and this birth are occurring, and already they are proving to be extremely painful experiences. Why need this be so? If unity is the truth and if evolution moves to world co-operation, why the great difficulties? Surely it is because of man’s resistance to natural processes. Tradition, crystallisation, rigidity, deliberate resistance from pride, cupidity, hatred, fear and selfishness; these are the obstacles to the birth and development of all new creative ideas, whether in the individual or the world Mind. Where they exist, that birth and development are inevitably accomplished in pain. The two world wars and the intervening depression, products of human selfishness, human hate and greed, are part of the price mankind has obliged itself to pay for the slow and pain-accompanied birth of world unity. Even so, the price will not have been too great. For the birth and establishment of world unity mean the end of war on this planet and in consequence an era of universal peace and prosperity. | Ngay trong kinh nghiệm của chính chúng ta và trước mắt chúng ta, những cái chết và sự ra đời này đang xảy ra, và đã tỏ ra là những trải nghiệm vô cùng đau đớn. Vì sao cần phải như vậy? Nếu hợp nhất là chân lý và nếu tiến hoá vận động hướng tới hợp tác thế giới, vì sao có những khó khăn lớn lao? Chắc chắn là do sự kháng cự của con người trước các tiến trình tự nhiên. Truyền thống, sự kết tinh, cứng nhắc, sự chống đối cố ý vì kiêu ngạo, tham lam, hận thù, sợ hãi và ích kỷ; đó là những chướng ngại đối với sự ra đời và phát triển của mọi ý tưởng sáng tạo mới, dù trong cá nhân hay trong Thể trí của thế giới. Ở nơi nào chúng tồn tại, sự ra đời và phát triển đó tất yếu được hoàn tất trong đau đớn. Hai cuộc đại chiến thế giới và thời kỳ suy thoái xen giữa, sản phẩm của tính ích kỷ, hận thù và tham lam của con người, là một phần của cái giá mà nhân loại tự buộc mình phải trả cho sự ra đời chậm chạp và đầy đau đớn của hợp nhất thế giới. Dẫu vậy, cái giá đó cũng không quá lớn. Bởi sự ra đời và thiết lập hợp nhất thế giới có nghĩa là chấm dứt chiến tranh trên hành tinh này, và do đó mở ra một thời kỳ hoà bình và thịnh vượng phổ quát. |
World unity is indeed the most wonderful idea which as yet has begun to germinate in the mind of humanity. True, it is not new as an idea. In many individual minds and so within the world mind, this new and revolutionary idea of gathering the whole of the human race into a functional unity, has already dawned. Long ago in certain advanced minds the fact of unity has been full-formed and fully realized. But, with these exceptions, to the world mind in general such an idea remains as yet almost inconceivable. For the world mind contains a vast preponderance of individualistic and nationalistic minds, Herod-like and Hitler-like—the two figures symbolise the same truth and play the same role—the implacable individualists amongst mankind will ever resent and so ever resist, the birth of world unity. For its development means their end as competitive individuals; its beginning spells their doom. Herodian and Hitlerian individuals and nations cannot possibly assent to world unity. Individualistic, nationalistic, separative, prideful, full of hate, envious, unscrupulously acquisitive, insatiably selfish, they are unillumined by any vision of the larger Self of mankind as a whole. Rebels against world progress, individualists to the core, they will never voluntarily assist in a movement towards world brotherhood, co-operation, oneness. | Thật vậy, hợp nhất thế giới là ý tưởng kỳ diệu nhất vốn đã bắt đầu nảy mầm trong thể trí của nhân loại. Đúng là, với tư cách một ý tưởng, nó không mới. Trong nhiều thể trí cá nhân và như thế là trong thể trí của thế giới, ý tưởng mới mẻ và cách mạng này về việc quy tụ toàn thể nhân loại vào một hợp nhất chức năng đã rạng đông. Từ lâu, trong những thể trí tiến bộ nào đó, thực tại của hợp nhất đã được thành hình và được thể nghiệm trọn vẹn. Nhưng, ngoại trừ những trường hợp này, đối với thể trí của thế giới nói chung, một ý tưởng như vậy vẫn hầu như không thể quan niệm được. Bởi thể trí của thế giới chứa một sự áp đảo rộng lớn của những thể trí cá nhân chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa, kiểu Hêrôđê và kiểu Hitler—hai hình tượng này tượng trưng cho cùng một chân lý và đóng cùng một vai—những cá nhân chủ nghĩa bất khuất trong nhân loại sẽ luôn oán ghét, và như vậy luôn chống lại, sự ra đời của hợp nhất thế giới. Vì sự phát triển của nó có nghĩa là sự cáo chung của họ với tư cách là những cá nhân cạnh tranh; sự bắt đầu của nó báo hiệu định mệnh của họ. Những cá nhân và quốc gia kiểu Hêrôđê và kiểu Hitler tuyệt đối không thể chấp thuận hợp nhất thế giới. Cá nhân chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa, chia rẽ, kiêu hãnh, đầy hận thù, ghen tị, bất chấp thủ đoạn để chiếm đoạt, tham lam vô độ, họ không được soi sáng bởi bất kỳ thị kiến nào về Đại Ngã—tức cái Ngã lớn hơn—của toàn thể nhân loại. Là những kẻ phản nghịch chống lại sự tiến bộ của thế giới, cá nhân chủ nghĩa tới tận cốt lõi, họ sẽ không bao giờ tự nguyện trợ giúp một phong trào hướng tới tình huynh đệ, hợp tác, nhất thể của thế giới. |
Whatever their nationality—and they exist in all nations—these men are the real enemies of humanity. They will fight to the death to maintain the past system with its powerful and privileged minorities ruling and exploiting the rest of mankind. They know full well that when world co-operation is successfully established, individualists and nationalists will be rendered impotent. | Bất kể quốc tịch của họ là gì—và họ hiện diện trong mọi quốc gia—những người đó là kẻ thù thực sự của nhân loại. Họ sẽ đấu tranh tới chết để duy trì hệ thống quá khứ, với các thiểu số quyền lực và đặc quyền cai trị và bóc lột phần còn lại của nhân loại. Họ biết rất rõ rằng khi hợp tác thế giới được thiết lập thành công, những kẻ cá nhân chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa sẽ bị làm cho bất lực. |
Even now, however, under evolutionary pressure, by the turn of events in the direction of unification and by social security legislation, such men are being forced to give way. But they will continue to fight. On the signing of peace, when humanity temporarily gives itself up to recuperation and profound relief, skilfully concealed and very powerful moves will be made to re-establish the pre-war individualistic system of finance and politics. | Tuy vậy, ngay lúc này, dưới áp lực tiến hoá, bởi chiều hướng của các biến cố theo hướng hợp nhất và nhờ các đạo luật về an sinh xã hội, những người như thế đang bị buộc phải nhường bước. Nhưng họ sẽ tiếp tục chiến đấu. Vào lúc hoà bình được ký kết, khi nhân loại tạm thời buông mình cho sự hồi phục và nhẹ nhõm sâu xa, những nước cờ khéo che giấu và cực kỳ mạnh mẽ sẽ được tung ra để tái lập hệ thống cá nhân chủ nghĩa trước chiến tranh về tài chính và chính trị. |
Evolutionary Pressure | Áp lực Tiến hoá |
All this conflict is part of the one great battle being fought to a finish in this our day, the battle of the spirit of individualism against the spirit of unity. The present world crisis is the mark and sign of the slow and painful death of an old age and the equally slow birth of a new. As I have said, the slowness and the pain are the result of human resistance. Both are caused by the intense efforts of certain men to delay the death of the old dispensation and prevent the birth of the new. | Tất cả xung đột này là một phần của một trận chiến vĩ đại duy nhất đang được chiến đấu tới cùng trong ngày của chúng ta—cuộc chiến giữa tinh thần cá nhân chủ nghĩa chống lại tinh thần hợp nhất. Cuộc khủng hoảng thế giới hiện tại là dấu hiệu và dấu ấn của cái chết chậm chạp và đau đớn của một thời đại cũ và sự ra đời cũng chậm chạp của một thời đại mới. Như tôi đã nói, sự chậm chạp và nỗi đau là kết quả của sự kháng cự của con người. Cả hai đều do nỗ lực mãnh liệt của một số người nhằm trì hoãn cái chết của trật tự cũ và ngăn chặn sự ra đời của trật tự mới. |
Nevertheless, born the new world order inevitably will be; for all evolutionary pressure and progress upon this planet as it affects man is driving irresistibly towards economic, political and cultural world unity. As the upthrust of the plant imbued with a vital power out of all proportion to the young plant’s apparent strength is able to force up great stones, so the spiritual fact of world unity will inevitably make itself manifest despite the rock-like resistance of human individualism and nationalism. | Tuy nhiên, trật tự thế giới mới tất yếu sẽ được sinh ra; vì mọi áp lực và tiến bộ thăng thượng tiến hoá trên hành tinh này, xét như ảnh hưởng lên con người, đang thúc đẩy không cưỡng nổi tới hợp nhất kinh tế, chính trị và văn hoá của toàn thế giới. Như sức vươn lên của cây non, thấm nhuần một sinh lực vượt xa sức mạnh bề ngoài của nó, có thể nâng bổng những tảng đá lớn, cũng vậy, thực tại tinh thần của hợp nhất thế giới sẽ tất yếu tự bộc lộ bất chấp sự kháng cự rắn như đá của chủ nghĩa cá nhân và dân tộc chủ nghĩa nơi con người. |
Spiritually, unity is an eternal truth. One day, therefore, it must become manifest in terms of time. When that day dawns, the very idea of separate, competitive individualism and nationalism will have been out-grown. Peace will then reign on earth, for it is the accentuated sense of separateness which has been the curse of mankind and the cause of all wars. Mankind will then look back upon the present era of cut throat competition and of war with the same horrified loathing with which modem man regards such primitive practices as cannibalism. | Về mặt tinh thần, hợp nhất là một chân lý vĩnh cửu. Do đó, một ngày kia, nó ắt phải trở nên biểu hiện trong thời gian. Khi ngày ấy rạng, ý tưởng về cá nhân chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa tách biệt, cạnh tranh sẽ đã bị vượt qua. Khi ấy hoà bình sẽ ngự trị trên Trái Đất, vì chính cảm thức nhấn mạnh về tính chia rẽ đã là lời nguyền của nhân loại và là nguyên nhân của mọi cuộc chiến. Nhân loại khi đó sẽ nhìn lại thời đại hiện tại—của cạnh tranh bức tử và của chiến tranh—với sự ghê tởm kinh hoàng, như người hiện đại xem các tập tục sơ khai như ăn thịt người. |
A world state, a world authority, a super-national world directorate to which sovereignty will have been voluntarily transferred by all nations—this apparently is the form into which the idea of world unity is even now being born. As it develops, a Federation of all the States of the World will most assuredly be achieved. | Một nhà nước thế giới, một thẩm quyền thế giới, một ban giám đốc siêu-quốc gia mà chủ quyền đã được tất cả các quốc gia tự nguyện chuyển nhượng—đó có vẻ là hình thức mà ý tưởng hợp nhất thế giới ngay lúc này đang được sinh ra. Khi phát triển, Liên bang của tất cả các Quốc gia trên Thế giới gần như chắc chắn sẽ được đạt tới. |
World Federation can come about in two ways, can be brought about by two, opposite means. These are voluntary acknowledgement, of world unity or enforced submission through fear. Mankind’s choice between these two alternatives is, I submit, the second great issue of our times, as winning the war is the first. Which will mankind choose? Will there be, an intelligent recognition that not only peace, progress and prosperity, but actual human survival on earth depends upon world unity? Or will there be more dreadful battles born out of resentment, separateness, selfishness, until mankind is driven by force, and, by fear into world co-operation? This is the great question of today, | Liên bang Thế giới có thể đến theo hai cách, có thể được mang lại bằng hai phương tiện trái ngược. Đó là sự thừa nhận tự nguyện hợp nhất thế giới hoặc là sự khuất phục bị cưỡng bách qua sợ hãi. Lựa chọn của nhân loại giữa hai giải pháp này, theo tôi, là vấn đề lớn thứ hai của thời đại chúng ta, cũng như thắng cuộc chiến là vấn đề thứ nhất. Nhân loại sẽ chọn điều nào? Liệu sẽ có sự công nhận sáng suốt rằng không chỉ hoà bình, tiến bộ và thịnh vượng, mà cả chính sự sống còn của con người trên Trái Đất đều tuỳ thuộc vào hợp nhất thế giới? Hay sẽ có những trận chiến còn khủng khiếp hơn, sinh ra từ phẫn hận, chia rẽ, ích kỷ, cho đến khi nhân loại bị bức bách, bị sợ hãi dồn vào hợp tác thế giới? Đây là câu hỏi lớn của hôm nay. |
Judging from present tendencies, the new world order will be the result of acceptance by the few and pressure upon the many. World unity is even now, on the horizon. If, it is to be established quickly, every phase of human life, family, class, civic, national and, international, will have to be redirected, reorganised towards this supreme planetary attainment. | Xét theo các khuynh hướng hiện nay, trật tự thế giới mới sẽ là kết quả của sự tiếp thu của số ít và áp lực lên số đông. Hợp nhất thế giới đã đang ở chân trời. Nếu muốn được thiết lập nhanh chóng, mọi phương diện của đời sống con người—gia đình, giai cấp, đô thị, quốc gia và quốc tế—sẽ phải được hướng lại, tổ chức lại theo hướng thành tựu tối thượng ở quy mô hành tinh này. |
A Planetary Leader | Một Lãnh tụ Hành tinh |
In certain minds a most interesting idea has come to birth. It has been suggested that a great planetary leader may appear on earth in the near future, a reincarnated Julius Caesar, a modern Akbar, who with super-national vision and superhuman power will himself reorganise human life on earth. Such visitations have occurred in past epochs and such expectations in no way violate historical precedent. In other minds, throughout the years and throughout the world, a far greater hope has lived. It is the hope that Divine Succour should come once again to a world so sorely in need. It is indeed but natural that men’s thoughts should turn in longing and in appeal to the Lord of Love and Light and Power Himself, that He should come again to a world that needs Him. | Trong một số thể trí, một ý tưởng hết sức lý thú đã ra đời. Người ta gợi ý rằng một vị lãnh tụ hành tinh vĩ đại có thể sẽ xuất hiện trên Trái Đất trong tương lai gần—một Julius Caesar tái sinh, một Akbar hiện đại—với tầm nhìn siêu-quốc gia và quyền năng siêu nhân, sẽ tự mình tổ chức lại đời sống con người trên địa cầu. Những cuộc “thị giá” như vậy đã xảy ra trong các thời kỳ trước và những kỳ vọng ấy không hề trái với tiền lệ lịch sử. Trong những thể trí khác, xuyên qua năm tháng và khắp thế giới, một niềm hy vọng lớn lao hơn nhiều đã sống. Đó là hy vọng rằng Sự Cứu Trợ Thiêng Liêng lại đến một lần nữa với thế giới đang khốn cùng. Rất tự nhiên, tư tưởng của con người hướng trong khát vọng và khẩn cầu tới chính Chúa Tể của Tình Thương, Ánh Sáng và Quyền Năng, rằng Ngài lại đến với một thế giới đang cần Ngài. |
Men have so hoped and, men have proclaimed even as He promised, that He will come again to speak the word of peace which shall make the peoples to cease from their quarrellings, the word of brotherhood which shall make the warring nations know themselves as one. This hope also is built upon the sure foundation of historical fact. Age by age, the Love and Wisdom of God have found manifestation through a glorious and divine Personage Who has appeared amongst men and has led them with the Light of His Love, strengthened them with the splendour of His Power. Through Him the world of His day has been healed and blessed and led to a nobler vision, and a wiser way of life. | Con người đã hy vọng như thế, và con người đã tuyên xưng rằng đúng như Ngài đã hứa, Ngài sẽ lại đến để phán ra linh từ hoà bình khiến các dân tộc dừng mọi sự xung đột, linh từ huynh đệ khiến các quốc gia hiếu chiến nhận ra mình là một. Niềm hy vọng này cũng được xây trên nền tảng vững chắc của sự kiện lịch sử. Hết thời này sang thời khác, Tình Thương và Minh Triết của Thượng đế đã được biểu hiện qua một Vị Nhân Vật vinh quang và thiêng liêng xuất hiện giữa loài người và dẫn dắt họ bằng Ánh Sáng của Tình Thương của Ngài, củng cố họ bằng Huy Hoàng của Quyền Năng của Ngài. Qua Ngài, thế giới của thời Ngài đã được chữa lành và ban phúc và được dẫn tới một thị kiến cao đẹp hơn, một cách sống khôn ngoan hơn. |
Even without such mighty aid, however, two great agencies already exist by which the advance of the human race out of separateness and into oneness could be undertaken. These two agencies are religion and education. All world religions and all religious denominations could, if they would, even now be both practising and preaching everywhere the gospel of the new day, which is the brotherhood of man. This, I submit, is most especially the great call, the great challenge to religion. | Dẫu không có trợ giúp vĩ đại như vậy, hai khí cụ lớn đã hiện hữu nhờ đó sự tiến lên của nhân loại ra khỏi chia rẽ vào trong nhất thể có thể được đảm trách. Hai khí cụ đó là tôn giáo và giáo dục. Tất cả các tôn giáo thế giới và mọi hệ phái tôn giáo có thể, nếu họ muốn, ngay lúc này vừa thực hành vừa rao giảng khắp nơi phúc âm của ngày mới—tức tình huynh đệ của loài người. Điều này, theo tôi, đặc biệt là lời kêu gọi lớn lao nhất, thách thức lớn lao nhất đối với tôn giáo. |
Also, through education at home and at school, the all-important youth of the world could even now begin to be imbued through and through with the spirit of the New Age. Upon the young people now growing up and those who follow them must be bestowed the vision of world brotherhood. I believe the youth of the world, ever responsive to high ideals raised up as landmarks of the future, would respond. If necessary the two world wars and the intervening depression could be shown to them as the dread results of the denial of the fact of the brotherhood of men. | Cũng vậy, thông qua giáo dục tại gia và ở trường, lớp thanh thiếu niên—vốn vô cùng quan trọng—trên thế giới có thể ngay bây giờ bắt đầu được thấm nhuần từ trong ra ngoài tinh thần của Kỷ Nguyên Mới. Cho lớp trẻ đang trưởng thành và những người theo sau họ cần được ban cho thị kiến về tình huynh đệ thế giới. Tôi tin giới trẻ trên thế giới, vốn luôn đáp ứng với những lý tưởng cao được dựng lên như các cột mốc tương lai, sẽ hưởng ứng. Nếu cần, hai cuộc đại chiến và giai đoạn suy thoái xen giữa có thể được chỉ cho họ như những hệ quả kinh hoàng của việc phủ nhận thực tại tình huynh đệ của con người. |
Whether a world leader emerges or not, whether in His great wisdom the World Teacher comes to earth or not, by the aid of these two agencies alone, religion and education, I believe that man’s surrender of the spirit of competitive individualism could be made in this our day. | Dù một lãnh tụ thế giới có xuất hiện hay không, dù trong Đại Minh Triết của Ngài, Huấn Sư của Thế Giới có đến trần hay không, chỉ nhờ hai khí cụ này—tôn giáo và giáo dục—tôi tin rằng sự từ bỏ tinh thần cá nhân chủ nghĩa cạnh tranh của con người có thể được thực hiện trong ngày của chúng ta. |
The Theosophical Society | Hội Thông Thiên Học |
Do we not see now the immense, the profound significance of the choice made by the Elder Brethren of Humanity of the Brotherhood of man as Their first and supreme object and message when founding The Theosophical Society? As long ago as 1875, and doubtless far earlier, They had foreseen the present crisis. So They began to sound forth the note of the New Age, the truth of the Universal Brotherhood of man. The effect of Their choice, Their decision and Their action is everywhere apparent. The Theosophical Society has been active for 67 years. Already for a growing number of men and women there is no sense of loss whatever in accepting world unity. Indeed, they are ready to throw aside gladly and forever as a crippling fetter both the sense and the system of separative individualism. They have already seen that ‘surrender and be free’ is the inscription over the doorway of the Temple of the New Age, that ‘give and serve’ are the passwords demanded from those who would pass within. | Chúng ta chẳng thấy rõ bây giờ ý nghĩa to lớn, thâm sâu của sự chọn lựa mà các Huynh Trưởng của Nhân loại đã thực hiện—lấy Tình Huynh đệ của con người làm mục tiêu tối sơ và tối thượng và thông điệp của Các Ngài—khi sáng lập Hội Thông Thiên Học hay sao? Từ năm 1875, và hẳn còn sớm hơn nữa, Các Ngài đã thấy trước cuộc khủng hoảng hiện nay. Vì thế, Các Ngài bắt đầu xướng lên chủ âm của Kỷ Nguyên Mới—chân lý về Tình Huynh đệ Phổ quát của con người. Tác động của sự chọn lựa, quyết định và hành động của Các Ngài hiển hiện khắp nơi. Hội Thông Thiên Học đã hoạt động 67 năm. Đối với một số ngày càng tăng của những người nam và nữ, nay hoàn toàn không có chút cảm giác mất mát nào khi chấp nhận hợp nhất thế giới. Thực vậy, họ sẵn sàng vui lòng vứt bỏ mãi mãi, như một cái cùm tàn tật, cả cảm thức lẫn hệ thống của cá nhân chủ nghĩa phân ly. Họ đã thấy rằng “từ bỏ và được tự do” là dòng chữ khắc trên thềm cửa vào Đền của Kỷ Nguyên Mới, rằng “cho và phụng sự” là khẩu hiệu được đòi hỏi nơi những ai muốn bước vào bên trong. |
The door is now wide open for all. It but remains for humanity to enter in. A united states of the world could be fashioned in this age, and to each and every one of us this present world situation is a great call, a great challenge. As individuals we have now the opportunity of taking part in a movement of world significance. In every walk of life, in religion, the arts, education, science, philosophy, politics, economics and industry, the note of world brotherhood and world unity must from now on continually, be sounded forth. Especially must all who believe in human brotherhood labour as never before in the work to which we have been called of forming a nucleus, and from it a world cell of the brotherhood of man. | Cánh cửa giờ đang mở rộng cho tất cả. Chỉ còn chờ nhân loại bước vào. Một Hợp chúng quốc của toàn thế giới có thể được nhào nặn trong thời đại này, và đối với từng người chúng ta, tình thế thế giới hiện nay là một lời kêu gọi lớn lao, một thách thức lớn lao. Với tư cách cá nhân, chúng ta hiện có cơ hội tham dự một phong trào mang ý nghĩa toàn cầu. Trong mọi nẻo của đời sống—tôn giáo, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, triết học, chính trị, kinh tế và công nghiệp—từ nay chủ âm của tình huynh đệ thế giới và hợp nhất thế giới phải được xướng lên liên tục. Đặc biệt, tất cả những ai tin vào tình huynh đệ con người phải lao tác hơn bao giờ hết trong công việc mà chúng ta được kêu gọi: hình thành một hạt nhân, và từ đó là một tế bào thế giới của tình huynh đệ nhân loại. |
A poet (Sister Benedictine) has expressed, the vision-splendid which now begins to illumine the mind of modem man in these words: | Một thi sĩ (Sơ Benedictine) đã diễn tả thị kiến oai hùng bắt đầu soi rọi thể trí của con người hiện đại bằng những lời này: |
“‘Creation rejoices and sings In tune with a Cosmic plan, | “‘Muôn loài hân hoan ca hát |
Nature eternally brings Wonders in stars and man. | Hoà điệu với Thiên cơ, |
The eagle in the summer sky, | Tự Nhiên muôn thuở đem lại |
The worm beneath the sod, | Kỳ công nơi sao và người. |
The sun, the moon, and you and I, | Đại bàng giữa trời hạ, |
We live and move in God”. | Giun nhỏ dưới vạt cỏ, |
Theosophy in New Zealand, Vol. 4, No. 2, 1943, p. 36 | Theosophy in New Zealand, Tập 4, Số 2, 1943, tr. 36 |
193
Nobel Prize for H. P. B.—Giải Nobel cho H. P. B.
At a recent lecture of mine in New Zealand the following note was sent to me. When it was read out the audience applauded warmly. I forward the suggestion to the Editor of The Theosophist: | Trong một buổi thuyết giảng gần đây của tôi ở New Zealand, mảnh ghi chú sau được gửi đến. Khi nó được đọc lên, thính giả đã vỗ tay nồng nhiệt. Tôi chuyển gợi ý này tới Ban Biên tập The Theosophist: |
‘Has it ever been suggested that the Noble Prize be given posthumously to Helena Petrovna Blavatsky [H.P.B.] for her occult, scientific and brotherhood teachings? | “Đã từng có ai đề nghị trao Giải Nobel sau khi qua đời cho Helena Petrovna Blavatsky [H.P.B.] vì các giáo lý về huyền bí, khoa học và tình huynh đệ của Bà chưa? |
‘It would help to carry on her ideals of World Peace in the various Lodges with their libraries. | ‘Đề nghị ấy sẽ giúp tiếp nối các lý tưởng Hoà Bình Thế giới của Bà trong các Lodge với thư viện của họ. |
‘None of the women portrayed on Turkey’s philatelic tribute to women equal her works, much less surpass them. | ‘Không ai trong những phụ nữ được khắc hoạ trên bộ tem tưởng niệm phụ nữ của Thổ Nhĩ Kỳ có thể sánh với các trước tác của Bà, huống chi vượt qua chúng. |
‘(Her findings on the atom—not split but elastic, fluidic.)’ | ‘(Những phát hiện của Bà về nguyên tử—không bị tách mà co giãn, linh động.)’” |
194
From War Caused by Ignorance to Peace Founded upon Knowledge—Từ Chiến tranh do Vô minh tới Hoà bình đặt trên Tri thức
[Geoffrey Hodson’s Address to Members at the Fifth World Congress at Salzburg, the theme of which was ‘A World in Transition’] | [Bài nói chuyện của Geoffrey Hodson gửi các Hội viên tại Đại hội Thế giới lần thứ Năm ở Salzburg, với chủ đề ‘Một Thế giới trong Chuyển tiếp’] |
I have chosen my subject partly for the obvious reason that in a period of transition the deliverance of the planet from war is an urgent necessity. It is a truism that if the future into which mankind is moving is to be an improvement on the past and the present, then war must be eradicated from human nature and eventually outlawed from our Earth. I propose to examine this idea largely from the point of view of the day by day, and year by year, public work of the Theosophical Society. | Tôi chọn đề tài này một phần vì lý do hiển nhiên là trong một giai đoạn chuyển tiếp, việc giải phóng hành tinh khỏi chiến tranh là một nhu cầu cấp bách. Ai cũng thấy rõ rằng nếu tương lai mà nhân loại đang tiến vào muốn tốt đẹp hơn quá khứ và hiện tại, thì chiến tranh phải bị bứng khỏi bản tính con người và cuối cùng bị đặt ra ngoài vòng pháp luật trên Địa Cầu. Tôi dự định khảo sát ý tưởng này phần lớn từ quan điểm công tác công chúng ngày qua ngày, năm này qua năm khác của Hội Thông Thiên Học. |
Five years ago a Norwegian statistician set a computer to work counting history’s wars. The machine announced that in 5,560 years there have been 14,531 wars—2 1/2wars per year. In the last sixty years more than one hundred million people have been killed in military action alone, No less than forty wars have been waged since the year 1945. The cost of armaments alone is staggering and General Eisenhower whilst President of the U.S.A., described mankind as ‘hanging upon a cross of iron’. | Năm năm trước, một nhà thống kê Na Uy cho một máy tính đếm các cuộc chiến của lịch sử. Máy thông báo rằng trong 5.560 năm đã có 14.531 cuộc chiến—2 1/2 cuộc chiến mỗi năm. Trong sáu mươi năm qua, hơn một trăm triệu người đã bị giết chỉ trong các hoạt động quân sự. Không ít hơn bốn mươi cuộc chiến đã diễn ra kể từ năm 1945. Chi phí riêng cho vũ trang đã gây choáng váng, và Tướng Eisenhower, khi còn là Tổng thống Hoa Kỳ, mô tả nhân loại như “đang treo mình trên một thập giá bằng sắt”. |
The possibility now exists of the extension of war beyond the Earth into space. A Citizens’ Committee recently advised President Johnson to seek international agreement on a code of human activity on the moon, in order to prevent the moon from becoming a military base for any nation. | Hiện nay còn có khả năng mở rộng chiến tranh ra ngoài Trái Đất, vào không gian. Gần đây, một Ủy ban Công dân đã khuyên Tổng thống Johnson tìm kiếm thoả thuận quốc tế về một bộ quy tắc hoạt động của con người trên Mặt Trăng, để ngăn Mặt Trăng trở thành một căn cứ quân sự cho bất kỳ quốc gia nào. |
Then there is the psychological condition of large numbers of both young and old people. Certain psychologists and commentators describe mankind of this age by saying that ‘man staggers, stumbles and wanders as if blindfold through the maze of human life on earth, as a frightened little creature, living in the shadow of weapons too horrible to contemplate, and unable to harness the tremendous power he has stumbled upon in his career on this planet. He seems to plunge helplessly in a swamp of dispute, of national and self-interest, and of general discord’. These situations—human bewilderment and the threat of war—surely demonstrate an urgent need to make ever more readily available to mankind the truths which our Society was formed to spread abroad by means of theosophical lives, theosophical literature, and theosophical lectures. | Rồi còn tình trạng tâm lý của số đông người trẻ và người già. Một số nhà tâm lý và bình luận gia mô tả nhân loại thời đại này bằng lời: “Con người lảo đảo, vấp váp và lang thang như bị bịt mắt qua mê cung của đời sống trên địa cầu, như một sinh vật nhỏ bé khiếp sợ, sống trong bóng của những vũ khí quá khủng khiếp để dám nghĩ tới, và bất lực trong việc điều harness nguồn năng lực khổng lồ mà y đã tình cờ vấp phải trong cuộc hành trình của mình trên hành tinh này. Y dường như lao đao bất lực trong vũng lầy tranh chấp, lợi ích quốc gia và tư kỷ, và bất hoà nói chung”. Những tình thế này—sự bối rối của con người và mối đe doạ chiến tranh—chắc chắn chứng tỏ một nhu cầu cấp thiết: cần làm cho các chân lý mà Hội chúng ta được thành lập để phổ biến càng dễ tiếp cận với nhân loại càng tốt, qua đời sống Thông Thiên Học, văn liệu Thông Thiên Học và các bài thuyết giảng Thông Thiên Học. |
War, it is said, begins in the mind, and so must there be attacked. Theosophy reaches the mind. The Theosophical Society addresses the minds of men. Theosophy both offers knowledge and shows the pathway to intuitive perceptions, including that pertinent to my subject, namely the oneness of all life. Philosophers affirm ignorance to be the main cause of human error and of the suffering it produces. My theme this morning is that the worldwide spreading of the fundamental teachings of Theosophy constitutes an important part of the cure. It is obvious, to me at any rate, that the modem world desperately needs both Theosophy and the Theosophical Society; for this Movement, it is said, was specifically conceived to benefit mankind by removing man’s ignorance—avidya—and replacing it with knowledge—vidya. | Người ta nói chiến tranh bắt đầu trong thể trí, và vì vậy phải bị công phá ngay tại đó. Thông Thiên Học chạm tới thể trí. Hội Thông Thiên Học hướng tới các thể trí của con người. Thông Thiên Học vừa hiến tặng tri thức vừa chỉ con đường đến các tri nhận trực giác, bao gồm điều liên quan tới đề tài của tôi—đó là tính nhất thể của mọi sự sống. Các triết gia khẳng định vô minh là nguyên nhân chính của sai lầm con người và của khổ đau mà nó tạo ra. Chủ đề của tôi sáng nay là: việc quảng bá toàn cầu các giáo lý căn bản của Thông Thiên Học cấu thành một phần quan trọng của phương thuốc chữa trị. Với tôi, điều này hiển nhiên: thế giới hiện đại cần đến cả Thông Thiên Học và Hội Thông Thiên Học một cách tuyệt vọng; bởi Phong trào này, người ta nói, đã được hình dung một cách đặc thù để lợi ích nhân loại bằng cách loại bỏ vô minh của con người—avidya—và thay thế nó bằng tri thức—vidya. |
This, I suggest, is the long-term—admittedly very long-term—and fundamental solution of the problems of human bewilderment and war, namely the bestowal upon and acceptance by man of a knowledge of Theosophy. If it should here be answered; ‘But spreading Theosophy is exactly what we have been and still are trying to do’, then I must reply: ‘True, but evidently not effectively enough and not to a large enough audience’. Apparently we are still not reaching mankind to a sufficient extent with the basic teachings of the Ancient Wisdom. This is not in the least a criticism, for who can calculate both the visible and the invisible, immeasurable effects in the three worlds of the ninety-one years of work of Members of the Theosophical Society? | Tôi đề nghị rằng đây là giải pháp dài hạn—quả là rất dài hạn—và nền tảng cho những vấn đề của sự bối rối nơi con người và chiến tranh, tức là ban cho và được con người tiếp nhận tri thức về Thông Thiên Học. Nếu ở đây có người đáp rằng: “Nhưng phổ biến Thông Thiên Học chính xác là điều chúng ta đã và đang cố gắng làm”, thì tôi phải đáp: “Đúng, nhưng rõ ràng là chưa đủ hiệu quả và chưa tới được một thính giả đủ lớn”. Dường như chúng ta vẫn chưa chạm tới nhân loại ở mức đủ rộng với các giáo lý căn bản của Minh Triết Cổ. Đây không hề là một lời phê bình, vì ai có thể đo đếm cả những tác động hữu hình và vô hình, không thể đo lường, trong ba cõi của chín mươi mốt năm công tác của các Hội viên Hội Thông Thiên Học? |
If this view should prove acceptable, then I can move on to consider with you which teachings are more especially and most greatly needed in the world of today a world in transition, as the theme of this Congress indicates. I recognise, however, that changes of approach are observable within the Theosophical Society, which is itself passing through a period of transition, and that the doctrines to which I am now going to refer may therefore not be considered by some members of the Society as likely to help mankind in the present situation. | Nếu quan điểm này được chấp nhận, vậy tôi có thể đi tiếp để cùng quý vị cân nhắc: những giáo lý nào đặc biệt và cấp thiết nhất cho thế giới hôm nay—một thế giới đang chuyển tiếp, như chủ đề của Đại hội gợi ý. Tôi nhận thấy, tuy nhiên, những đổi thay trong cách tiếp cận có thể quan sát thấy bên trong Hội Thông Thiên Học, vốn tự thân đang đi qua một giai đoạn chuyển tiếp, và các giáo thuyết mà tôi sắp đề cập vì thế có thể không được một số hội viên xem là có khả năng giúp nhân loại trong tình trạng hiện tại. |
First of all, Theosophy is not to be regarded as a complete system to be accepted as such. On the contrary, as must be true of everything organic and spiritual, Theosophy cannot have a fixed geometrical outline the whole of which can, as it were, be traced on paper by rule and compass. Certain ideas, such as the concept and experience of oneness, refuse to be objectively defined, for this would be setting a limit to both Truth itself and to man’s capacity to discover it and to know it as an interior experience beyond the level of conceptual thought. Nevertheless, certain ideas are generally agreed upon, and it is to these that I will be referring as I proceed. | Trước hết, Thông Thiên Học không được xem như một hệ thống hoàn chỉnh cần được chấp nhận như thế. Trái lại, đúng như mọi sự sống hữu cơ và tinh thần, Thông Thiên Học không thể có một đường viền hình học cố định mà toàn bộ có thể, như thể, được vẽ trên giấy bằng thước và compa. Một số ý tưởng—chẳng hạn khái niệm và kinh nghiệm về tính nhất thể—từ chối được định nghĩa một cách khách quan, vì làm vậy sẽ là đặt giới hạn cho cả chính Chân Lý lẫn năng lực của con người trong việc khám phá nó và nhận biết nó như một kinh nghiệm nội tại vượt khỏi tầng tư duy khái niệm. Dẫu vậy, một số ý tưởng là nói chung được đồng thuận, và tôi sẽ đề cập tới những điều này khi tiếp tục. |
Concerning the problem of war and the war-like spirit in man, humanity obviously needs to know, realize, accept, and apply to life, the fundamental fact upon which human brotherhood rests. This is the spiritual togetherness of all mankind, the wholeness and the oneness of all the members of the human family, each one being a member of one spiritual Race which is without divisions of any kind. Our presence here, drawn from many nations and by a shared interest, demonstrates that such a fraternal relationship can be achieved by large groups of human beings, particularly those who are Theosophists. Humanity at large does not know Theosophy, and so there still remains the basic problem in the world today—the unification of mankind. | Liên quan vấn đề chiến tranh và tinh thần hiếu chiến trong con người, nhân loại rõ ràng cần phải biết, nhận ra, chấp nhận và áp dụng vào đời sống thực tại căn bản làm nền cho tình huynh đệ con người. Đó là tính gắn bó tinh thần của toàn thể nhân loại, là sự toàn vẹn và nhất thể của tất cả các thành viên của gia đình nhân loại, mỗi người đều là một phần của một Giống Dân tinh thần Duy Nhất không có phân chia nào cả. Sự hiện diện của chúng ta ở đây—được quy tụ từ nhiều quốc gia và bởi cùng một quan tâm—chứng tỏ mối liên hệ huynh đệ như thế có thể đạt được bởi những nhóm người đông đảo, đặc biệt là những người Thông Thiên Học. Nhân loại nói chung không biết Thông Thiên Học, và vì thế vẫn còn tồn tại vấn đề căn bản của thế giới hôm nay—sự nhất thể của nhân loại. |
Before that happy state can be universally achieved the basic fact of unity with its many implications must, I suggest, be made clear to the large majority of men. It will have to become intellectually recognised, deeply experienced, mystically realized, and then expressed in action. This single fact of oneness, once grasped, can bring to an end both wanton aggression and much of the crime and vice of the world, for the experience of universal oneness leads naturally to that of universal love, and from universal love will arise universal peace. More and, more people will then accept Einstein’s dictum: ‘Each man exists for the sake of the other man’. This knowledge of unity is, I submit, the solution—I am tempted to say the sole solution—of many of the manifold world problems of today, especially that of ever-recurrent wars. | Trước khi trạng thái hạnh phúc đó có thể đạt tới một cách phổ quát, thực tại căn bản của hợp nhất với mọi hàm ý của nó, theo tôi, phải được làm cho sáng tỏ đối với đại đa số con người. Nó sẽ phải được thừa nhận về mặt trí năng, được thể nghiệm sâu xa, được chứng ngộ một cách thần bí, và rồi được biểu hiện trong hành động. Chỉ một thực tại duy nhất về nhất thể, một khi được nắm bắt, có thể chấm dứt cả sự xâm lăng bừa bãi lẫn phần lớn tội ác và truỵ lạc của thế giới, vì kinh nghiệm về nhất thể phổ quát dẫn một cách tự nhiên tới tình thương phổ quát, và từ tình thương phổ quát sẽ sinh ra hoà bình phổ quát. Ngày càng nhiều người khi ấy sẽ chấp nhận ngôn từ của Einstein: “Mỗi người tồn tại vì người khác.” Tri thức về hợp nhất, theo tôi, là giải pháp—tôi suýt nói là giải pháp duy nhất—cho nhiều vấn nạn đa tạp của thế giới hôm nay, đặc biệt là tình trạng chiến tranh tái hồi mãi. |
Think what a change it would make if a sufficient number of people realize—I accent that word ‘realize’—that the human race is a continually reincarnating family with a shared source, a shared life and a common goal; that we men and women of today are those of former times; that egoically we are the very same people, and under the Law of Karma the way we treated each other in the past, as nations and as individuals, completely decides our relationships with each other today, as well as our personal conditions of life both now and in the future. Knowledge of karma especially of karma-nemesis seems to me to be of very great value, both as an explanation of the variety of human experiences and conditions and also as a very practical incentive to self-discipline and the brotherly treatment of one’s fellow men. In dramatic illustration of this doctrine of karma, we have the record of man’s proverbial and immemorial inhumanity to man and the tragic condition of mankind, century by century and at this present moment. | Hãy tưởng xem đổi thay biết bao nếu đủ số người thực sự nhận ra—tôi nhấn mạnh chữ “nhận ra”—rằng loài người là một gia đình tái sinh bất tận với một nguồn chung, một sự sống chung và một cứu cánh chung; rằng chúng ta—những người nam và nữ hôm nay—chính là những người của thời trước; rằng về phương diện chân ngã, chúng ta là những con người y như thế, và dưới Định luật Nghiệp quả, cách chúng ta đã đối xử với nhau trong quá khứ, với tư cách dân tộc và cá nhân, hoàn toàn quyết định các mối quan hệ của chúng ta với nhau hôm nay, cũng như các điều kiện đời sống cá nhân của chúng ta cả hiện tại lẫn tương lai. Tri thức về nghiệp, đặc biệt là nghiệp-báo, theo tôi, có giá trị rất lớn, vừa như một lời giải thích về sự đa dạng của các kinh nghiệm và điều kiện nhân sinh, vừa như một động lực thực tiễn cho sự tự kỷ luật và đối xử huynh đệ với đồng loại. Như minh hoạ kịch tính cho giáo lý về nghiệp, chúng ta có hồ sơ về sự “vô nhân đạo” bất hủ của con người đối với con người và tình trạng bi thảm của nhân loại—từng thế kỷ một, và ngay lúc này. |
Following on from an expression of these general and somewhat idealistic views, I now advance some practical application of them to the work of the Theosophical Society, and particularly its work of removing that avidya, that ignorance, which causes mankind to create for itself so much suffering. Obviously our written and spoken presentation of Theosophy—always solely as proffered ideas—must be adapted to our audiences. The wrong information can drive earnestly seeking and greatly needing people away, whilst the right information can lead them to those treasures of theosophical knowledge which can transform one’s outlook upon and mode of life. | Sau khi bày tỏ những quan điểm chung và có phần lý tưởng ấy, giờ tôi đề xuất một số ứng dụng thực tiễn của chúng cho công việc của Hội Thông Thiên Học, đặc biệt là công việc loại bỏ avidya—vô minh—vốn khiến nhân loại tự tạo ra thật nhiều khổ đau cho chính mình. Hiển nhiên, cách trình bày bằng chữ và lời nói của chúng ta về Thông Thiên Học—luôn luôn chỉ như các ý niệm được hiến tặng—phải phù hợp với thính giả. Thông tin sai có thể đẩy những người đang tìm kiếm chân thành và đang rất cần rời xa, trong khi thông tin đúng có thể dẫn họ tới các kho tàng tri thức Thông Thiên Học có thể chuyển đổi cách nhìn và cách sống của một người. |
Amongst those who approach Theosophy are, perhaps, at least four general types. A simplified admittedly over-simplified—classification of both the people and the proffered ideas might be somewhat like this: | Trong những người đến với Thông Thiên Học, có lẽ, ít nhất có bốn nhóm tổng quát. Một phân loại giản lược—thừa nhận là quá giản lược—cả về con người và các ý niệm được hiến tặng có thể như sau: |
First, then, the relatively unlettered and often deeply troubled enquirers, who come to our book depots, our libraries and our lecture halls for guidance. Personally, I regard these seekers as of very great importance. To them might be offered, for example, the main doctrines concerning man, namely his triple nature—body, Soul and Spirit—and his evolution to perfected manhood as the purpose of his existence. This knowledge, when responded to, can give the much needed meaning and purpose to one’s life. Next they may learn of reincarnation as the means and of KARMA as the governing law, as I have already said. These two ideas together explain so much in human experience, which without them is inexplicable, bewildering indeed. In addition, of course, the spiritual unity of all mankind needs to be stressed, and the assurance given that received ideas can be transformed into direct knowledge, methods of doing this also being described. | Thứ nhất, những người đến tìm hỏi còn ít học vấn và thường rất khốn khó, những người đến quầy sách, thư viện và giảng đường của chúng ta để tìm sự dẫn dắt. Về cá nhân, tôi xem những người tìm kiếm này là rất quan trọng. Với họ, chẳng hạn, có thể hiến tặng các giáo lý chính yếu về con người—tức bản tính tam phân của con người: thân, Linh hồn và Thần linh—và mục đích của hiện sinh là tiến hoá tới phẩm vị người hoàn thiện. Tri thức này, khi được đáp ứng, có thể đem đến ý nghĩa và mục đích đang rất cần cho cuộc đời. Kế tiếp, họ có thể học về luân hồi như phương tiện và về NGHIỆP như định luật chi phối, như tôi đã nói. Hai ý tưởng này cùng nhau giải thích thật nhiều trong kinh nghiệm nhân sinh, những điều mà nếu không có chúng thì không thể giải thích, thật sự gây bối rối. Thêm nữa, dĩ nhiên, cần nhấn mạnh sự hợp nhất tinh thần của toàn thể nhân loại, và ban sự bảo đảm rằng các ý niệm đã tiếp nhận có thể chuyển hoá thành tri thức trực tiếp, đồng thời mô tả những phương pháp thực hiện điều đó. |
To combat the ever-increasing cruelty in the world there is necessity for the teaching of the doctrine of ahimsa, meaning ‘not hurting’, harmlessness or compassion in thought, motive, feeling, word and deed—a harmless mind, mouth and hand. This is a very great need in the modem world; for where there is ahimsa there is love, selfless service and the protection of the weak. | Để đối trị sự tàn nhẫn ngày càng gia tăng trong thế giới, cần phải dạy giáo lý về ahimsa, nghĩa là “không làm tổn hại”, vô tổn hại hay từ bi trong tư tưởng, động cơ, cảm xúc, lời nói và hành động—một cái trí, cái miệng và bàn tay vô tổn hại. Đây là một nhu cầu rất lớn trong thế giới hiện đại; vì nơi nào có ahimsa, nơi đó có tình thương, phụng sự vô ngã và sự che chở người yếu. |
This brings me to a possible second group, consisting of the educated but philosophically uninformed. When these come to us seeking guidance in life they should, I suggest, receive all to which I have just referred with, perhaps, enlargement upon the purpose of human life, reincarnation and karma; in other words—the Plan. The pathway to Self-realisation, and the way in which it may be trodden, may here be introduced and again, and always, unity stressed as the underlying fact of human existence and, to combat cruelty, the ideal of ahimsa. | Điều này đưa tôi đến nhóm thứ hai khả hữu, gồm những người có học vấn nhưng chưa được trang bị triết học. Khi những người này đến với chúng ta tìm kiếm sự dẫn dắt trong đời sống, tôi đề nghị rằng họ nên nhận tất cả những điều tôi vừa nêu, có thể kèm với sự triển khai thêm về mục đích của đời người, về luân hồi và nghiệp; nói cách khác—Thiên Cơ. Con đường đến Tự chứng ngộ, và cách có thể bước đi trên đó, có thể được giới thiệu ở đây; và một lần nữa, luôn luôn nhấn mạnh hợp nhất như thực tại nền tảng của hiện hữu nhân sinh, và, để đối trị tàn nhẫn, là lý tưởng ahimsa. |
A third group might include educators, religionists and scientists. Here also change, progress, transition, are observable side by side with great advances in technology. Many problems exist and are being attacked. Amongst these might be mentioned those concerning the human person. Answers are being sought to the questions: Who are we? What is man? Is he animal, god (or both), machine, computer or Divine Intelligence. Does the mind exist as an entity separate from the brain, or is mental activity the product of biochemical and electrical charges and changes within the brain? If the mind is mechanical, is there a ‘ghost in the machine’, as the term goes? How does the experiencing Self relate to the physical organ, to one particular brain? | Nhóm thứ ba có thể bao gồm các nhà giáo dục, tôn giáo và khoa học. Ở đây cũng vậy, đổi thay, tiến bộ, chuyển tiếp có thể quan sát được song hành với những tiến bộ lớn trong công nghệ. Nhiều vấn đề hiện hữu và đang được giải quyết. Trong số đó có thể nêu các vấn đề liên quan tới con người. Người ta đang tìm lời đáp cho các câu hỏi: Chúng ta là ai? Con người là gì? Y là thú vật, thần linh (hay cả hai), cỗ máy, máy tính hay Trí Tuệ Thiêng Liêng? Liệu thể trí tồn tại như một thực thể tách biệt với bộ não, hay hoạt động trí tuệ là sản phẩm của các điện-chất và biến đổi điện sinh hoá bên trong bộ não? Nếu trí năng là cơ giới, có một “bóng ma trong cỗ máy” hay không, như người ta nói? Bản ngã trải nghiệm liên hệ thế nào với cơ quan vật chất, với một bộ não đặc thù? |
In physics, the actual processes of interaction between natural forces and natural phenomena also constitute one of many problems. Here the teachings of Occult Science may usefully also be introduced, meaning, in general, the study of the Divine Mind in Nature. This includes the principles, laws and processes of the emanation, evolution and dissolution of Universes. The gateway could be opened into the vast fields of enquiry and research to which the Third Object of the Society directly refers. Received doctrines could then be transformed into personally realized truths. Beneficial changes in life habits could follow—the adoption of the ideal of service above self. This, in some cases, could lead to discipleship and initiation, and to the attainment of Adeptship in advance and on behalfof the human race. In other words the ideal of the PATH, the religion of the New Age, could perhaps be presented. | Trong vật lý học, các tiến trình thực tế của tương tác giữa các lực tự nhiên và các hiện tượng tự nhiên cũng cấu thành một trong nhiều vấn đề. Ở đây, các giáo lý của Khoa học Huyền linh có thể hữu ích được giới thiệu, tức là nói chung, sự khảo cứu Trí Tuệ Vũ Trụ trong Tự Nhiên. Điều này bao gồm các nguyên khí, định luật và tiến trình của xuất lộ, tiến hoá và tiêu tan của các Vũ trụ. Cánh cửa có thể mở vào những lĩnh vực mênh mông của truy cứu và khảo cứu mà Mục tiêu thứ Ba của Hội trực tiếp đề cập. Khi ấy, các giáo lý đã tiếp nhận có thể chuyển hoá thành các chân lý được tự chứng. Những thay đổi lợi lạc trong thói quen sống có thể theo sau—việc chọn lý tưởng phụng sự trên cả bản thân. Điều này, trong vài trường hợp, có thể dẫn tới địa vị đệ tử và điểm đạo, và tới sự thành tựu Địa vị Chân sư đi trước và thay mặt cho nhân loại. Nói cách khác, lý tưởng về THÁNH ĐẠO—tôn giáo của Kỷ Nguyên Mới—có lẽ có thể được trình bày. |
The Law of Correspondences, or extension of unity into the Cosmos, could also be advanced—that in the vast chain of cosmic Being all created things are linked together, everything being magically contained in everything else. Where one stands, there stand all the worlds. Everything is connected with everything else and interpenetrates everything else, according to exact if mysterious law. Man, himself, may be seen as a symbolic transparency through which the secrets of the Cosmos can be discerned. Goethe echoes this in his words: ‘The eye could not see the sun if it did not contain the sun within itself, and how could Divine things enrapture us, if we did not carry the Power of God within us?’ | Định luật Tương ứng—hay sự mở rộng của hợp nhất vào trong Vũ trụ—cũng có thể được nêu—rằng trong chuỗi hiện tồn vũ trụ mênh mông, mọi sự được tạo thành đều liên kết với nhau, mọi thứ đều được chứa đựng một cách huyền diệu trong mọi thứ khác. Ở nơi một người đứng, ở nơi đó tất cả các thế giới đều đứng. Mọi sự liên hệ với mọi sự khác và tương nhập với mọi sự khác, theo những định luật chính xác dù huyền nhiệm. Con người tự thân có thể được nhìn như một bức trong suốt biểu tượng, qua đó các bí mật của Vũ trụ có thể được nhận ra. Goethe vang vọng điều này bằng lời: “Con mắt không thể thấy mặt trời nếu nó không mang mặt trời trong chính nó, và làm sao những điều Thiêng liêng có thể làm ta say đắm, nếu chúng ta không mang Quyền Năng của Thượng đế trong chính mình?” |
A fourth group could include the mystics, who by nature seek direct personal experience of the Divine. These could usefully receive all of the foregoing, together with descriptions of the illumined state as given by great saints and sages. Effective techniques of meditation, and the practice of yoga, could also be made available. This I regard as essential; for he who is steeped in yoga, who is saturated with the potency of the Sacred Word, and who keeps the mind still and strong, can realize oneness and meet and pass through adversity largely unmoved. For those thus illumined the barriers which normally separate people melt away, to be replaced by a sense of intimate rapport, even of identity, with all. Religious differences and antagonisms which so tragically divide humanity would then no longer do so; for spiritual illumination reveals the existence of the one Divine principle and Its Presence equally within the Soul of every human being. | Nhóm thứ tư có thể bao gồm các nhà thần bí, vốn theo bản tính tìm kiếm kinh nghiệm trực tiếp cá nhân về Điều Thiêng liêng. Với họ, hữu ích là tiếp nhận tất cả những điều đã nói, cùng với các mô tả về trạng thái soi sáng như được trình bày bởi các thánh nhân và hiền triết vĩ đại. Các kỹ thuật hữu hiệu của tham thiền, và thực hành yoga, cũng có thể được cung cấp. Tôi xem điều này là cốt yếu; vì ai thâm nhập yoga, thấm đượm quyền năng của Linh từ Thiêng liêng, và giữ cho thể trí tĩnh lặng và kiên cường, người ấy có thể nhận ra nhất thể và đi qua nghịch cảnh trong phần lớn là bất động. Với những ai như thế được soi sáng, các bức tường vốn thường ngăn cách con người tan chảy ra, để thay thế bằng cảm thức sự tương giao thân mật, thậm chí là đồng nhất, với tất cả. Những khác biệt và đối kháng tôn giáo vốn bi thảm chia rẽ nhân loại khi ấy sẽ không còn như vậy nữa; vì sự soi sáng tinh thần phơi bày thực tại của một nguyên lý Thiêng liêng duy nhất và Sự Hiện Diện của Nguyên lý ấy bình đẳng trong Linh hồn của mọi con người. |
Such, in small part—a fringe only of a fragment of Adeptic teaching—are some ideas which if accepted and applied could, I submit lead humanity from recurring wars to enduring peace. All people, I personally think, should know that Truth itself does exist, is discoverable, and can be found in Theosophical literature, libraries and lodges, as also, of course, from many other sources. | Như thế đó, chỉ một phần nhỏ—chỉ là viền mép của một mảnh vụn giáo lý của Chân sư—là những ý tưởng có thể, nếu được chấp nhận và áp dụng, theo tôi, dẫn dắt nhân loại từ những cuộc chiến tái diễn tới hoà bình bền vững. Tôi nghĩ, mọi người, nói riêng, nên biết rằng Chân Lý tự thân đích thực hiện hữu, có thể được khám phá, và có thể tìm thấy trong văn liệu, thư viện và các Lodge Thông Thiên Học, cũng như, dĩ nhiên, từ nhiều nguồn khác. |
I confess to a sense of urgency, of pressing need, wisely and ever more widely to popularise a knowledge of Theosophy; for the personal happiness of mankind and the establishment of permanent peace on Earth depend, I am convinced, upon banishment of the darkness of human ignorance and its replacement by the wonderful light which is Theosophia. | Tôi thú nhận một cảm thức cấp bách, một nhu cầu thúc bách, cần khôn ngoan và ngày càng rộng rãi hơn nữa làm đại chúng hoá tri thức về Thông Thiên Học; vì hạnh phúc cá nhân của nhân loại và việc thiết lập hoà bình vĩnh cửu trên Địa Cầu tùy thuộc, tôi tin chắc, vào việc xua tan bóng tối của vô minh nơi con người và thay thế nó bằng ánh sáng kỳ diệu là Thông Thiên Học. |
Theosophy in New Zealand, Vol. 28, No. 2, 1976, p. 39 | Theosophy in New Zealand, Tập 28, Số 2, 1976, tr. 39 |
[See ‘A World in Transition’, Chapter 189] | [Xem ‘Một Thế giới trong Chuyển tiếp’, Chương 189] |
–
195
The Opportunity of the Individual in the World Crisis—Cơ Hội của Cá Nhân trong Khủng hoảng Thế giới
The one great question which most of us are asking at this time surely is: What is ahead of us—the third world war which seems to threaten or the establishment of stable peace? Which is it to be—world enslavement by a tyrannical power or world freedom? Must we go on indefinitely as we are at the time of writing, divided into two armed camps, or can humanity become united into one co-operative family of nations? | Câu hỏi lớn mà phần đông chúng ta đang đặt ra lúc này hẳn là: Điều gì ở phía trước—cuộc đại chiến thế giới thứ ba dường như đang đe doạ hay việc thiết lập hoà bình ổn định? Sẽ là gì—nô dịch thế giới bởi một quyền lực bạo ngược hay tự do thế giới? Chúng ta có phải tiếp tục vô hạn như hiện nay, vào lúc tôi viết, bị chia rẽ thành hai khối vũ trang đối đầu, hay nhân loại có thể trở nên hợp nhất thành một gia đình các quốc gia hợp tác? |
Before I offer an answer, I wish to make it clear that for the purpose of this article, the ideal of a united humanity means, a free humanity living in harmonious relationship. I do not mean one, totalitarian, world—a world united under a Dictator. I do not mean unity brought about by domination, by force, and by fear. I mean, only, world co-operation by free peoples living under a democratic, parliamentary system. | Trước khi đưa ra câu trả lời, tôi muốn làm rõ: cho mục đích của bài này, lý tưởng về một nhân loại hợp nhất có nghĩa là một nhân loại tự do sống trong mối tương giao hoà hợp. Tôi không hề có ý nói tới một thế giới toàn trị, một thế giới hợp nhất dưới một Nhà độc tài. Tôi không có ý nói tới hợp nhất được mang lại bằng thống trị, cưỡng bách và sợ hãi. Tôi chỉ muốn nói tới hợp tác thế giới bởi các dân tộc tự do sống dưới một hệ thống dân chủ, nghị viện. |
Is such an eventual unity of the peoples of the world too much to hope for? In answer, I am going to enunciate three fundamental ideas. First, that world peace will eventually arrive as a result of the development in the human mind of the power to perceive unity amidst diversity. When a sufficient number of people are able to recognise in the human race a shared life and a common goal of spiritual excellence, then—and not until then—will lasting world peace have become a possibility. | Liệu một hợp nhất như thế của các dân tộc trên thế giới có quá xa vời để hy vọng? Để trả lời, tôi sẽ nêu lên ba ý tưởng nền tảng. Thứ nhất, hoà bình thế giới cuối cùng sẽ đến như là kết quả của sự phát triển nơi thể trí con người năng lực tri nhận hợp nhất giữa muôn sai biệt. Khi đủ số người có thể nhận ra nơi nhân loại một sự sống chung và một cứu cánh chung của sự trác việt tinh thần, thì—và chỉ khi ấy—hoà bình thế giới bền vững mới trở thành khả thể. |
The second idea is that the historical process is in the direction of world co-operation. The third concerns the part which the individual person can and does play. | Ý tưởng thứ hai là tiến trình lịch sử có chiều hướng hướng tới hợp tác thế giới. Ý tưởng thứ ba liên quan đến phần mà cá nhân có thể và thực sự đảm nhận. |
Perception of Unity | Tri nhận Hợp nhất |
Concerning the first of these three ideas—the necessity for the intellectual perception of the shared life in all human beings—I do not believe that this is too much to hope for. There are indications that intense competitive individualism is, very slowly, giving place to a recognition of the mutual interdependence of man upon man and of nation upon nation. True, the formal, analytical mind is naturally individualistic and competitive, but as the higher attributes of the human intellect develop, the sense of self-separateness diminishes. The concepts of unity and of co-operation for the welfare of all then assume an increasing dominance. This growing recognition of unity will culminate in the ultimate establishment on earth of a world government founded upon the principles of brotherhood, justice and peace. The League of Nations, the United Nations Organization and all the other movements towards international co-operation are outward signs of this mental development in man which has been aptly described as, ‘a hunger for wholeness’. | Về điều thứ nhất trong ba ý tưởng này—nhu cầu về tri nhận trí năng đối với sự sống chung nơi mọi con người—tôi không tin rằng điều này quá viển vông để hy vọng. Có những dấu hiệu cho thấy cá nhân chủ nghĩa cạnh tranh mãnh liệt, rất chậm chạp, đang nhường chỗ cho sự nhận biết về tính tương thuộc của người với người và của quốc gia với quốc gia. Đúng là cái trí phân tích hình thức vốn tự nhiên thiên về cá nhân chủ nghĩa và cạnh tranh, nhưng khi các thuộc tính cao hơn của trí tuệ con người phát triển, cảm thức tự phân ly giảm dần. Các quan niệm về hợp nhất và hợp tác vì phúc lợi chung của tất cả khi ấy nắm quyền chủ đạo ngày càng tăng. Sự nhận thức đang lớn lên về hợp nhất này sẽ đạt tột đỉnh bằng việc cuối cùng thiết lập trên địa cầu một chính quyền thế giới đặt trên các nguyên tắc huynh đệ, công lý và hoà bình. Hội Quốc Liên, Tổ chức Liên Hiệp Quốc và tất cả các phong trào khác hướng tới hợp tác quốc tế là những dấu hiệu bề ngoài của sự phát triển nơi thể trí của con người đã được mô tả thích đáng là “cơn đói khát tính toàn thể”. |
World Co-operation | Hợp tác Thế giới |
This brings me to the historical process— my second idea—the general evolutionary trend. History indicates that there is factual support for guarded optimism. Here is a partial list of achievements in world unification and international co-operation of the last hundred years or so: The League of Nations; the United Nations Organisation and all its many specialised agencies, such as UNNRA; UNESCO; UNICEF (United Nations International Children’s Emergency Fund); the United States of America; the British Commonwealth of Nations; the Pan-American Union; the Boy Scouts; the Girl Guides; the YMCA; the YWCA; Rotary, with its ideal of service above self; the International Red Cross; the International Postal Convention under which all nations agree to carry each other’s mail; the International ‘Rules of the Road’ and Code of Signals for use at sea and in the air; Greenwich Mean Time; the International system of units and symbols in science; the British pharmacopoeia and nomenclatures in anatomy, medicine and meteorology in world use; International nomenclature in music; International Laws, e.g., Patent and Copyright Law; the Olympic Games. This list could be greatly extended. | Điều này đưa tôi tới tiến trình lịch sử—ý tưởng thứ hai—xu hướng tiến hoá tổng quát. Lịch sử cho thấy tồn tại cơ sở thực tế cho một sự lạc quan có dè dặt. Đây là một danh sách không trọn vẹn các thành tựu trong hợp nhất thế giới và hợp tác quốc tế khoảng trăm năm vừa qua: Hội Quốc Liên; Tổ chức Liên Hiệp Quốc và tất cả các cơ quan chuyên biệt của nó, như UNNRA; UNESCO; UNICEF (Quỹ Nhi đồng Cấp cứu Quốc tế của Liên Hiệp Quốc); Hợp Chúng Quốc Hoa Kỳ; Khối Thịnh vượng chung Anh; Liên minh Liên châu Mỹ; Hướng đạo Sinh; Nữ Hướng đạo; YMCA; YWCA; Rotary, với lý tưởng phụng sự trên cả bản thân; Hội Chữ thập Đỏ Quốc tế; Công ước Bưu chính Quốc tế theo đó các quốc gia đồng ý chuyển phát thư cho nhau; các luật lệ quốc tế “Đi đường” và Bộ Tín hiệu dùng trên biển và trên không; Giờ Trung bình Greenwich (Greenwich Mean Time); hệ thống quốc tế về đơn vị và ký hiệu trong khoa học; Dược điển Anh và các danh pháp trong giải phẫu, y học và khí tượng học được dùng trên toàn thế giới; danh pháp quốc tế trong âm nhạc; các Luật Quốc tế, thí dụ: Luật Sáng chế và Bản quyền; Thế vận hội Olympic. Danh sách này có thể được mở rộng rất nhiều. |
What have these achievements of unity in common? The answer, I submit, is an international spirit, a planetary outlook, a vision of a global civilisation, a recognition of the unity and interdependence of nation upon nation and of man upon man. So we see from history that, despite inevitable divisions, mankind does display the power to rise above, to think beyond, purely national boundaries. Some members of the human race, at any rate, are beginning to see the world as a whole. The evolutionary trend is obviously toward unification. | Những thành tựu hợp nhất này có điểm gì chung? Câu trả lời, theo tôi, là một tinh thần quốc tế, một viễn kiến hành tinh, một nhận biết về một nền văn minh toàn cầu, một sự nhận ra hợp nhất và tính tương thuộc của quốc gia với quốc gia, của người với người. Vậy chúng ta thấy từ lịch sử rằng, bất chấp những chia rẽ tất yếu, nhân loại quả có biểu lộ năng lực vươn vượt và tư duy vượt khỏi các biên cương thuần túy quốc gia. Ít nhất một số thành viên của nhân loại đã bắt đầu thấy thế giới như một toàn thể. Chiều hướng tiến hoá hiển nhiên là hướng về hợp nhất. |
There is ground for vigilant hope that the historical process will continue until modem man’s increasing ‘hunger for wholeness’ brings into existence a united humanity. In consequence of their longing for world friendship, the time is certain to come when the people of the earth will agree that human advancement in both spiritual excellence and physical welfare is the common goal of all mankind. Universal peace will then be seen as essential to the attainment of that goal. Justice will in its turn be recognized as the prerequisite of peace; for peace and justice stand or fall together. The nations will one day decide to order their separate sovereignties in one government of justice and of peace. | Có cơ sở cho một niềm hy vọng cảnh giác rằng tiến trình lịch sử sẽ tiếp tục cho đến khi “cơn đói khát tính toàn thể” đang gia tăng nơi con người hiện đại mang đến sự hiện hữu một nhân loại hợp nhất. Do khát vọng về tình bằng hữu thế giới, chắc chắn sẽ tới lúc người dân trên Trái Đất sẽ đồng thuận rằng sự thăng tiến của con người—trong cả sự trác việt tinh thần và phúc lợi vật chất—là cứu cánh chung của toàn nhân loại. Khi ấy hoà bình phổ quát sẽ được nhìn như là thiết yếu để đạt cứu cánh đó. Công lý đến lượt mình sẽ được nhận ra là điều kiện tiên quyết của hoà bình; vì hoà bình và công lý đứng cùng nhau hoặc cùng sụp đổ. Một ngày kia, các quốc gia sẽ quyết định sắp đặt các chủ quyền riêng của mình trong một chính quyền duy nhất của công lý và hoà bình. |
How soon, and must there be a third world war? These two questions press for answers. The reply to both questions clearly is: That depends upon you and me. | Khi nào, và liệu phải có một cuộc đại chiến thế giới thứ ba? Hai câu hỏi này đòi hỏi câu trả lời. Phúc đáp cho cả hai rõ ràng là: Điều đó tuỳ thuộc vào bạn và tôi. |
What Can the Individual Do? | Cá Nhân có thể làm gì? |
This brings me to the third idea, the place of the individual in the present crisis. Look at the latest manifestation of the trend towards unification—the United Nations. Despite most favourable humanitarian work in the alleviation of suffering, sickness and misery of countless forms, U.N. has proved completely ineffectual to deal with such grave situations as those of Korea, Persia and Egypt. What may we presume is the cause of this ineffectualness? I suggest that in part it is due to a lack of support from individuals who make up the component nations. | Điều này đưa tôi đến ý tưởng thứ ba, vị thế của cá nhân trong cơn khủng hoảng hiện tại. Hãy nhìn vào biểu hiện mới nhất của xu thế hướng tới thống nhất—Liên Hiệp Quốc. Dù đã thực hiện công việc nhân đạo hết sức đáng quý trong việc giảm bớt đau khổ, bệnh tật và khốn khó của vô số dạng sống, LHQ đã chứng tỏ hoàn toàn bất lực khi đối diện những tình huống nghiêm trọng như ở Triều Tiên, Ba Tư và Ai Cập. Chúng ta có thể giả định nguyên nhân của sự bất lực ấy là gì? Tôi cho rằng, một phần là do thiếu sự ủng hộ từ những cá nhân hợp thành các quốc gia thành viên. |
In order that we may comprehend the nature of our personal responsibilities, let us now follow the idea of international co-operation a little further. The underlying principle of a world government would be that the rights of man consist of the duty of everyone everywhere to serve with word and deed the spiritual and physical advancement of the living and of those to come. This would be accepted as the common cause of all generations of men. Man will have then learned to do unto others as he would like others to do unto him and especially to abstain from violence except for the repulse of violence as commanded or granted under law. Acceptance and fulfilment by individuals and nations of this their duty towards each other will be recognized as the heart and crux of the problem of world unity and world peace. | Để chúng ta có thể thấu hiểu bản chất những trách nhiệm cá nhân của mình, giờ đây hãy đi xa hơn đôi chút với ý tưởng hợp tác quốc tế. Nguyên tắc cơ bản của một chính quyền thế giới sẽ là quyền của con người bao hàm bổn phận của mọi người, ở khắp nơi, phục vụ bằng lời nói và hành động cho sự tiến bộ tinh thần và vật chất của muôn loài đang sống và của cả những thế hệ sắp đến. Điều này sẽ được chấp nhận như là sự nghiệp chung của mọi thế hệ nhân loại. Khi ấy, con người sẽ học được cách làm cho người khác điều mình muốn người khác làm cho mình, và nhất là kiêng tránh bạo lực, trừ trường hợp đẩy lùi bạo lực theo mệnh lệnh của luật hoặc được luật cho phép. Việc các cá nhân và các quốc gia chấp nhận và chu toàn bổn phận này đối với nhau sẽ được nhìn nhận là tâm điểm và điều cốt lõi của vấn đề thống nhất và hòa bình thế giới. |
David Lilienthal, Chairman of the U.S. Atomic Energy Commission, put it like this: ‘It is important for us to recognise that neither the atomic weapon nor any other form of power and force constitutes the true source of American strength. Nothing could be more misleading, further from reality, or more dangerous to the future security of our nation and the peace of the world than that myth. For if we embrace the myth of the atomic bornb we will tend to relax when we need to be eternally vigilant in recognising and reinforcing the wellspring of our great strength. What, then, is the source of our strength? That source is our ethical and moral standards of precepts, and our democratic faith in man. This faith is the chief armament of our democracy. It is the most potent weapon ever devised. Compared with it, the atomic bornb is a firecracker’. So says Mr Lilienthal. | Chủ tịch Ủy ban Năng lượng Nguyên tử Hoa Kỳ, David Lilienthal, đã diễn đạt như sau: “Điều quan trọng là chúng ta phải nhận ra rằng không phải vũ khí nguyên tử hay bất kỳ dạng quyền lực và sức mạnh nào khác cấu thành nguồn gốc thực sự của sức mạnh nước Mỹ. Không gì có thể sai lầm hơn, xa rời thực tế hơn, hay nguy hiểm hơn đối với an ninh tương lai của quốc gia chúng ta và hòa bình thế giới, so với huyền thoại ấy. Bởi nếu chúng ta ôm lấy huyền thoại về quả bom nguyên tử, chúng ta sẽ có xu hướng buông lỏng đúng lúc cần phải tỉnh thức muôn đời để nhận ra và củng cố nguồn mạch của sức mạnh vĩ đại của mình. Vậy, nguồn sức mạnh của chúng ta là gì? Nguồn ấy chính là những chuẩn tắc đạo đức và luân lý của chúng ta, và niềm tin dân chủ nơi con người. Niềm tin này là vũ trang chủ yếu của nền dân chủ chúng ta. Đó là vũ khí hiệu lực nhất từng được tạo ra. So với nó, bom nguyên tử chỉ là cây pháo đốt”. Ông Lilienthal đã nói như vậy. |
The Light and the Dark | Sáng và Tối |
Such is the ideal. What is the actuality? What is found when, from such information as is available, we examine what Lilienthal calls ‘our ethical and moral standards of precepts’? Apparently two main attitudes and standards exist. They are held by those who do perceive the truth of unity and brotherhood and by those who do not. Those who do are men and women who know, or are beginning to know, unity by instinct and intuition. These people perceive disunity as a denial of truth and feel impelled to labour in order to reveal and promote their vision of world unification. Such people are responsible for the League | Ấy là lý tưởng. Còn thực tại thì sao? Khi, dựa trên những thông tin hiện có, chúng ta khảo sát cái mà Lilienthal gọi là “những chuẩn tắc đạo đức và luân lý” thì thấy gì? Rõ ràng đang có hai thái độ và chuẩn tắc chủ đạo. Chúng thuộc về những người nhận ra chân lý về hợp nhất và tình huynh đệ, và những người không nhận ra. Những người nhận ra là những người nam và nữ biết, hoặc đang bắt đầu biết, về hợp nhất bằng bản năng và trực giác. Họ nhìn thấy sự bất nhất như là sự phủ nhận chân lý và cảm thấy bị thôi thúc phải lao tác nhằm biểu lộ và thúc đẩy tầm nhìn về thống nhất thế giới của mình. Những người như vậy là những người đã góp phần hình thành |
of Nations, U.N.O. and Rotary, Boy Scouts, Y.M.C.A., Y.W.C.A. the International Red Cross, and many other movements based on brotherhood and service. | Hội Quốc Liên, U.N.O. và Rotary, Boy Scouts, Y.M.C.A., Y.W.C.A., Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, và nhiều phong trào khác dựa trên tinh thần huynh đệ và phụng sự. |
Happily, the number of those enlightened concerning unity steadily increases. They are to be found everywhere, in homes, in businesses and factories, in the professions, in Municipal Councils and Parliaments, and in International Organisations. These men and women in whom the vision of the Oneness of Life has dawned, who are imbued with the spirit of unity, are to be regarded as the potential saviours of mankind, threatened as it now is with atomic and bacteriological warfare and guided missiles. These world unifiers are as the little leaven that leaveneth the whole. Whether consciously or unconsciously, they exert a pressure in the direction of co-ordination, collaboration, harmonious co-operation in the cause of human welfare. Herein, I submit, lies the heart of the problem of world freedom, namely, in the mind and in the motive for living of individual men and women and, therefore, of individual nations. | Thật đáng mừng, số người được soi sáng về hợp nhất đang tăng đều. Họ có mặt khắp nơi, trong các gia đình, trong doanh nghiệp và nhà máy, trong các giới nghề nghiệp, trong Hội đồng Thành phố và Nghị viện, và trong các Tổ chức Quốc tế. Những người nam và nữ nơi đó, ở trong họ bình minh về Tính Nhất Thể của Sự sống, thấm nhuần tinh thần hợp nhất, cần được xem như các cứu tinh tiềm năng của nhân loại, vốn hiện đang bị đe dọa bởi chiến tranh nguyên tử và vi trùng học cùng hỏa tiễn dẫn đường. Các nhà thống nhất thế giới này giống như men nhỏ làm dậy cả khối bột. Dù có ý thức hay vô thức, họ tác động áp lực theo hướng phối hợp, cộng tác, hợp tác hài hòa vì phúc lợi của con người. Ở đây, tôi xin đề xuất, có cốt lõi của vấn đề tự do thế giới, nghĩa là nằm trong tâm trí và trong động cơ sống của từng người nam và nữ, và vì vậy, của từng quốc gia. |
Unhappily, there is another and darker side to the present world situation. Selfish and unscrupulous individuals combine into groups and ruthlessly exploit their fellow men for their own personal profit. These also exist in homes, factories and businesses, in the professions, in Municipal Councils and Parliaments, and in International Organisations. These selfish men are the initiators and wagers of class warfare, of industrial, financial and political warfare. They are inflexibly determined to obtain for themselves and their groups the largest possible shares of world power and wealth. One glaring example of their methods is the destruction of greatly-needed food to keep up prices. | Đáng tiếc thay, có một mặt khác đen tối hơn của tình hình thế giới hiện tại. Những cá nhân ích kỷ và vô lương kết hợp thành nhóm và tàn nhẫn bóc lột đồng loại để thu lợi cho chính mình. Họ cũng hiện diện trong gia đình, nhà máy và doanh nghiệp, trong các giới nghề nghiệp, trong Hội đồng Thành phố và Nghị viện, và trong các Tổ chức Quốc tế. Những kẻ ích kỷ này là người khởi xướng và theo đuổi chiến tranh giai cấp, chiến tranh công nghiệp, tài chính và chính trị. Họ cương quyết đến cùng nhằm giành cho bản thân và nhóm của mình phần quyền lực và của cải thế giới lớn nhất có thể. Một ví dụ lộ liễu cho phương pháp của họ là hủy hủy lương thực vốn vô cùng cần thiết chỉ để nâng giá. |
Thus, at this most critical time, humanity is divided into two classes of people. On the one hand, those who have perceived the truth of unity, and having outgrown the passion for personal power and possessions, have seriously dedicated their lives to the service of their fellow men. On the other hand, the dark fanatics of selfishness, the ruthless individualists who acknowledge no god but self, and no goal but self-interest, and pursue that goal relentlessly. If these hear a voice of conscience or see a light of idealism, they silence the one and deny and scorn the other. It is these who hold up progress to world peace. | Vì thế, vào thời khắc tối hệ trọng này, nhân loại bị chia thành hai hạng người. Một bên là những người đã nhận ra chân lý về hợp nhất, và khi đã vượt qua đam mê đối với quyền lực và sở hữu cá nhân, họ đã nghiêm túc hiến dâng đời mình để phục vụ đồng loại. Bên kia là những kẻ cuồng tín của ích kỷ, những cá nhân chủ nghĩa tàn nhẫn, vốn không thừa nhận thần thánh nào ngoài bản ngã, và không có cứu cánh nào ngoài tư lợi, và theo đuổi cứu cánh ấy không khoan nhượng. Nếu họ nghe thấy tiếng nói của lương tâm hay thấy được ánh sáng của lý tưởng, họ sẽ làm im tiếng nói kia và phủ nhận, khinh miệt ánh sáng nọ. Chính họ là những kẻ cản trở tiến trình hướng tới hòa bình thế giới. |
‘One Stupendous Whole’ | “Một Toàn Thể Hùng Vĩ” |
What, then, could you and I as individual persons have done to bring about world peace since the founding of the United Nations? What can we still do? What place have you and I as individuals in this accelerating progress towards unity? Definitely we can help or we can hinder; for if the historical process leading to the birth of ONE WORLD—one world of free peoples please remember—is to be quickened, that quickening can only come as a sufficient number of men and women in the free nations desire it, think it, seek it, and diligently work for it. Someone has very truly said: ‘Peace begins with the United Nations, but the United Nations begins with you’. There, I suggest, lies the responsibility of every thinking individual, challenging him to hold the ideal of world co-operation in mind, study its basis and its method, and practically live it out in the world of his own life. | Vậy thì, bạn và tôi, với tư cách những cá nhân, lẽ ra đã có thể làm gì để đem lại hòa bình thế giới kể từ khi Liên Hiệp Quốc được thành lập? Giờ ta còn có thể làm gì? Bạn và tôi, với tư cách cá nhân, có vị trí nào trong tiến trình gia tốc hướng tới hợp nhất này? Chắc chắn chúng ta có thể giúp đỡ hoặc cản trở; bởi nếu tiến trình lịch sử dẫn tới sự chào đời của MỘT THẾ GIỚI—xin nhớ là một thế giới của những dân tộc tự do—phải được tăng tốc, thì sự tăng tốc ấy chỉ có thể đến khi một số lượng đủ nhiều những người nam và nữ trong các quốc gia tự do khao khát, tư duy, kiếm tìm và chuyên cần lao động vì nó. Có ai đó đã nói rất đúng: “Hòa bình bắt đầu với Liên Hiệp Quốc, nhưng Liên Hiệp Quốc bắt đầu với bạn”. Ở đó, tôi cho rằng, là trách nhiệm của mọi cá nhân biết suy nghĩ, kêu gọi y giữ gìn lý tưởng hợp tác thế giới trong tâm trí, nghiên cứu nền tảng và phương pháp của nó, và hiện thực hóa nó một cách thực tiễn trong thế giới đời sống của chính y. |
This, I believe, is axiomatic; for the regeneration of human society depends very largely upon regeneration of the individual. ‘The world problem is the individual problem’. A person who is at war with himself, his conscience, his family, his fellow citizens, cannot be a peacemaker for the world. A measure of peace within is essential to a positive contribution to world peace without. All true reform begins with self-reform. | Tôi tin điều này là hiển nhiên; bởi sự tái sinh của xã hội loài người phần lớn tùy thuộc vào sự tự tái sinh của cá nhân. “Vấn đề của thế giới là vấn đề của cá nhân”. Một người đang chiến tranh với chính mình, với lương tâm mình, với gia đình mình, với đồng bào mình, không thể là người kiến tạo hòa bình cho thế giới. Một mức độ bình an nội tâm là thiết yếu để có thể đóng góp tích cực cho hòa bình thế giới bên ngoài. Mọi cải cách chân chính đều bắt đầu từ tự cải cách. |
Thus, as ever, the would-be reformer is confronted with the greatest single contribution he can make, namely the reformation of himself. However helpless we may feel ourselves to be amidst what Mr Churchill called ‘the tornadoes and tides of world events’, nothing stands in the way of an immediate effort at self-reform. | Như thế, như bao giờ, người muốn làm nhà cải cách lại đối diện với đóng góp lớn lao nhất mà y có thể thực hiện, đó là cải cách chính mình. Dù chúng ta có thể cảm thấy bất lực đến đâu giữa những gì Ông Churchill gọi là “cuồng phong và triều dâng của biến cố thế giới”, cũng không có gì ngăn trở một nỗ lực tức thời nhằm tự cải cách. |
The responsibility, then, is our own. We cannot wash our hands of it. Pontius Pilate washed his hands and the world has never forgiven him. Therefore, co-operativeness and sharing, in the individual life and character—yes, in the life and character of one individual these will most surely produce their outward and visible results. | Trách nhiệm, vậy, là của riêng chúng ta. Chúng ta không thể rửa tay thoái thác. Quan tổng trấn Philatô đã rửa tay và thế giới chưa bao giờ tha thứ cho ông. Do đó, tinh thần hợp tác và chia sẻ, trong đời sống và tính cách của cá nhân—vâng, trong đời sống và tính cách của một cá nhân—ắt hẳn sẽ sản sinh ra những kết quả hữu hình bên ngoài. |
Your and my right thinking without excuses, and our right living, meaning co-operative living, these will save the world. The living stones of which the temple of the new civilisation are being built consist of willingly co-operative individuals. | Suy nghĩ đúng đắn của bạn và tôi mà không ngụy biện, và lối sống đúng đắn của chúng ta, nghĩa là lối sống hợp tác, sẽ cứu thế giới. Những viên đá sống, từ đó ngôi đền của nền văn minh mới đang được xây, chính là những cá nhân sẵn lòng hợp tác. |
I close with a statement of a personal connection. As one who has | Tôi xin kết thúc phần này bằng một lời phát biểu mang tính riêng tư. Là người |
been travelling throughout the world for the last 25 years, meeting the peoples living in many lands, speaking many languages and wearing skins of differing colours, I have gradually found myself obliged to recognise that below the surface of these outer differences amongst men, there exists the unity and the solidarity of the whole human race on earth. All people experience much the same hopes, sorrows and joys. All men come forth from one single divine source, are members of one spiritual race which is without divisions of any kind. The truth about the races of men on earth, I have come to believe, is that they are in fact all one, one brotherhood, one family, one purpose, one goal. As a poet has said: ‘All are but parts of one stupendous whole’. | đã chu du khắp thế giới trong 25 năm qua, gặp gỡ những dân cư sống trên nhiều miền đất, nói nhiều ngôn ngữ và có màu da khác nhau, tôi dần buộc mình phải nhận ra rằng dưới bề mặt của những khác biệt bên ngoài ấy giữa loài người, có tồn tại sự hợp nhất và tính cố kết của toàn thể chủng loại nhân loại trên Trái Đất. Mọi người đều trải nghiệm những hy vọng, sầu khổ và niềm vui tương tự nhau. Mọi người đều xuất phát từ một nguồn thiêng duy nhất, thuộc về một chủng tộc tinh thần vốn không có bất cứ chia rẽ nào. Chân lý về các chủng tộc người trên Trái Đất, theo tôi đã nhận ra, là họ thật ra đều là một, một tình huynh đệ, một gia đình, một mục đích, một cứu cánh. Như một thi sĩ đã nói: “Tất cả chỉ là những phần của một Toàn Thể hùng vĩ”. |
World unity, a universal brotherhood of free men, is attainable on earth. This is because human brotherhood is not a condition to be created; it is a fact in nature to be recognized, to be acknowledged and to be ratified, as one day it will be. Whether this establishment of world co-operation comes soon or late depends, I suggest, very largely upon you and me, upon our thought, our motives for living and our lives. | Hợp nhất thế giới, một tình huynh đệ phổ quát của những con người tự do, là điều khả đạt trên Trái Đất. Đó là vì tình huynh đệ nhân loại không phải là một tình trạng cần được tạo ra; nó là một sự kiện trong thiên nhiên cần được nhận biết, thừa nhận và xác chứng, như một ngày kia sẽ như vậy. Việc tình trạng hợp tác thế giới ấy sớm được thiết lập hay muộn, tôi xin đề nghị, phần lớn tùy thuộc vào bạn và tôi, tùy thuộc vào tư tưởng, động cơ sống và cuộc đời của chúng ta. |
Thus, we have come full circle from the world to the individual and from the individual again to the world. As the individual grows out of his own selfishness, so on the vast scale of mankind the world will grow out of the danger of world enslavement into freedom and enduring world peace. | Như thế, chúng ta đã đi trọn vòng tròn, từ thế giới đến cá nhân và từ cá nhân trở lại thế giới. Khi cá nhân thoát ra khỏi tính ích kỷ của riêng mình, thì trên quy mô lớn lao của nhân loại, thế giới cũng sẽ thoát ra khỏi hiểm họa nô dịch toàn cầu để đi vào tự do và hòa bình thế giới bền vững. |
Theosophy in Australia, 3, 12 December 1951, p. 7 | Theosophy in Australia, 3, 12 tháng 12 năm 1951, tr. 7 |
–
-4
The Mahatma Letters to A. P. Sinnett Letter VIII. ↑