Click tiêu đề (Heading) hoặc số trang trong dấu ngoặc [ ] để đi đến phần bình giảng tương ứng
SECTION THREE – TEACHINGS ON INITIATION
SECTION THREE
TEACHINGS ON INITIATION
(Trang 243-439)
PART I – Six formulas-
|
Prior to profiting by more information and thus piling up increased responsibility, there is a vital need for the majority of aspirants and disciples to assume a different attitude towards the opportunity to prepare for initiation with which they are all faced. The more advanced among them are conscious of impending possibilities. The significance of the proffered training has made its just appeal. Others are so immersed in the tests and difficulties incidental to the clarification of the vision prior to the processes of initiation, that they have neither the time nor the strength to do more than live through the time of trial and, at the same time, to serve as best they can. Both the vision and their service suffer from their failure to develop that divine indifference which is the hallmark of the true initiate. Added to all this is the world situation with its inevitable all-enveloping psychic atmosphere, its attendant strains and its constant wearing anxiety, plus the hold which war sufferers have on all hearts and sympathies. Most aspirants and disciples believe that they are bearing enough and are tried to the limit of their capacity. This is not the case. The deeper sources of strength in them have not yet been evoked, and the tension under which they should act and live from day to day is only as yet a feeble one—it is not all-exacting. Ponder on this last phrase. |
Trước khi thu được lợi ích vì được nhiều thông tin hơn và do đó chồng chất thêm trách nhiệm, điều cần thiết quan trọng với đa số những người chí nguyện và các đệ tử là phải có một thái độ khác đối với cơ hội chuẩn bị cho việc điểm đạo mà tất cả họ phải đối mặt. Những người tiến bộ hơn trong số họ có ý thức về những khả năng sắp xảy ra. Tầm quan trọng của việc huấn luyện được đề nghị đã thu hút sự chú ý chính đáng. Những người khác quá đắm chìm trong những thử thách và khó khăn tình cờ trong việc làm sáng tỏ tầm nhìn trước các quá trình điểm đạo đến nỗi họ không có thời gian và sức lực để làm gì hơn là sống qua thời gian thử thách, và đồng thời, để phụng sự tốt nhất có thể. Cả tầm nhìn và việc phụng sự của họ đều bị ảnh hưởng bởi sự thất bại của họ trong việc phát triển sự điềm nhiên thiêng liêng vốn là dấu hiệu của điểm đạo đồ thực sự. Thêm vào đó là tình hình thế giới với bầu không khí thông linh bao trùm tất cả không thể tránh được của nó, những căng thẳng kèm theo và sự lo lắng mệt mỏi thường xuyên của nó, cộng với sự thấu hiểu những gì mà các nạn nhân chiến tranh phải chịu bằng tất cả trái tim và sự thương cảm. Hầu hết những người chí nguyện và các đệ tử đều tin rằng họ đã chịu đựng đủ và đã cố gắng đến giới hạn năng lực của mình. Điều này là không đúng. Nhiều nguồn sức mạnh sâu xa hơn trong họ vẫn chưa được khơi dậy, và sự căng thẳng mà họ phải làm việc và sống từ ngày này qua ngày khác chỉ là một sự căng thẳng yếu ớt — nó không phải là một đòi hỏi quá sức. Hãy suy ngẫm về cụm từ cuối này. |
|
The objective demands being made upon all disciples and therefore upon all of you, are not simply to enable you to live through the present period as successfully—emotionally, mentally and spiritually—as possible. It goes far deeper than that, or should. Apart from the demands upon your spiritual resources (incident to the particular initiation which it is desired that you take) there is also the demand upon all [244] disciples to participate in the effort of humanity, as a whole, to take the first initiation with all the physical relinquishments, and the agony that ever precedes the birth of the Christ in the heart of the individual—only this time it is the hearts of all humanity. Preparatory to this first initiation, there has always to be—individually and now collectively for the first time—the denial of the lower self and the fervid acceptance by the personality of the loss of all the material factors which have held the soul a prisoner in the womb of time. |
Những đòi hỏi khách quan đang được đặt ra đối với mọi đệ tử, và do đó đối với tất cả các bạn, không chỉ đơn giản là giúp các bạn sống qua thời kỳ hiện tại — về mặt tình cảm, trí tuệ và tinh thần — một cách thành công đến mức có thể. Nó còn đi sâu hơn thế nhiều, hoặc nên là thế. Ngoại trừ những đòi hỏi về các nguồn lực tinh thần của các bạn (vốn liên quan với cuộc điểm đạo cụ thể mà các bạn mong muốn thực hiện), cũng có yêu cầu cho tất cả [244] các đệ tử phải tham gia vào nỗ lực của nhân loại, như một tổng thể, để thực hiện cuộc điểm đạo đầu tiên với tất cả sự từ bỏ vật chất, và sự thống khổ luôn xảy ra trước khi sinh ra Đức Christ trong trái tim mỗi người — chỉ có điều lần này là những trái tim của toàn thể nhân loại. Chuẩn bị cho lần điểm đạo đầu tiên này, luôn luôn phải có—cho từng cá nhân, và bây giờ lần đầu tiên cho tập thể — sự khước từ cái tôi thấp hơn và sự chấp nhận nhiệt thành của phàm ngã về sự mất đi mọi yếu tố vật chất vốn đã giam cầm linh hồn như một tù nhân trong lòng của thời gian. |
|
Hence, my brothers, the wide extent of the material destruction to be seen on every hand, the depths of physical poverty into which all men have been and are being plunged, the detachment from the priority of things which is being enforced, and the necessity for rebuilding human life on sounder values than the physical. In all this disciples and initiates are today sharing and (when understanding is present and right orientation) the help which those can give who have already undergone the first initiation, is great. To this you are called, and upon your understanding response to the collective need will depend the rapidity with which you will be enabled to achieve the next expansion of consciousness or initiation which may be, for you as an individual, possible. You have, therefore, to consider your individual response to the demands of your own soul and your collective response to the collective need. It is the initiate in you, the Christ in you, which is now called to this collective service and the radiation today of the Christ spirit, actively present in the hearts of all disciples is the one thing which can salvage mankind, enable humanity to move forward on to the Path of Discipleship and thus evoke that new spirit which can and will build the new world. |
Vì vậy, các huynh đệ của tôi, mức độ rộng lớn của sự tàn phá vật chất được nhìn thấy ở khắp mọi nơi, những chiều sâu của sự nghèo đói vật chất mà mọi người đã và đang bị sa vào, sự tách rời khỏi điều ưu tiên của các sự việc đang bị ép buộc, và sự cần thiết để xây dựng lại cuộc sống của con người trên các giá trị tốt đẹp hơn vật chất. Trong tất cả những điều này, các đệ tử và các điểm đạo đồ ngày nay đang chia sẻ, và (khi sự thấu hiểu hiện diện và sự định hướng là đúng đắn) sự giúp đỡ mà những người đã trải qua cuộc điểm đạo đầu tiên có thể mang lại là rất to lớn. Các các bạn được kêu gọi thực hiện điều này, và sự thấu hiểu của các bạn đáp ứng nhu cầu tập thể sẽ quyết định mức độ nhanh chóng mà các bạn có thể đạt được để có sự mở rộng của tâm thức, hoặc cuộc điểm đạo, tiếp theo vốn có thể dành cho các bạn với tư cách cá nhân. Do đó, các bạn phải xem xét phản ứng của cá nhân các bạn đối với các yêu cầu của chính linh hồn các bạn và sự đáp ứng tập thể của các bạn đối với nhu cầu chung. Chính vị điểm đạo đồ trong các bạn, Đức Christ trong các bạn, đang được kêu gọi cho việc phụng sự tập thể này và sự phát xạ ngày nay của tinh thần Đức Christ, hiện diện tích cực trong trái tim của tất cả các đệ tử là điều có thể cứu rỗi nhân loại, cho phép nhân loại tiến lên về phía trước trên Con Đường Đệ tử và do đó khơi dậy tinh thần mới vốn có thể và sẽ xây dựng nên thế giới mới. |
|
I would like to deal somewhat with the theme anent the attitude of the accepted disciple towards his Master and towards the general subject of initiation, and then consider the immediate steps ahead which the disciple must take, where he is and with what equipment he has. This is the first and necessary step. Disciples must clarify their position and must continue to learn from their Master, in spite of [245] the crises of initiation. Unless they act upon the proffered instruction and have confidence in His occult intention, all that the Master may say or do is of small usefulness. It serves only to increase grave responsibility with its attendant liabilities; knowledge and the pressure of spiritual energy become a danger if not used. This is a basic and important statement. |
Tôi muốn đề cập phần nào chủ đề liên quan đến thái độ của người đệ tử được chấp nhận đối với Chân sư của mình, và đối với chủ đề điểm đạo nói chung, và sau đó xem xét các bước trước mắt mà người đệ tử phải thực hiện, y đang ở đâu và y có những trang bị gì. Đây là bước đầu tiên và cần thiết. Các đệ tử phải làm rõ vị trí của mình và phải tiếp tục học hỏi từ Chân sư của mình, bất chấp [245] những khủng hoảng của việc điểm đạo. Trừ khi họ hành động theo chỉ dẫn được đề nghị và có sự tin tưởng vào ý định huyền bí của Ngài, nếu không tất cả những gì Chân sư có thể nói hoặc làm sẽ chẳng có bao nhiêu lợi ích. Nó chỉ phục vụ để tăng trách nhiệm nặng nề kèm theo các nghĩa vụ của nó; kiến thức và áp lực của năng lượng tinh thần trở thành mối nguy hiểm nếu không được sử dụng. Đây là một tuyên bố cơ bản và quan trọng. |
|
There are, my brothers, two major prerequisites which are needed by all of you in connection with group integration, and they follow upon what you have had earlier when I sought to help you to integrate with your brothers. I gave you, as you will recall, as part of your group meditation the following simple integrating formula: |
Các huynh đệ của tôi, có hai điều kiện tiên quyết chính vốn cần có đối với tất cả các bạn liên quan đến việc tích hợp nhóm, và chúng tiếp nối những gì các bạn đã có trước đây khi tôi tìm cách giúp các bạn tích hợp với các huynh đệ của mình. Nếu các bạn nhớ, Tôi đã cung cấp cho các bạn công thức tích hợp đơn giản sau như một phần của bài tham thiền nhóm của các bạn: |
|
“I am one with my group brothers, and all that I have is theirs. May the love which is in my soul pour forth to them. May the strength which is in me lift and aid them. May the thoughts which my soul creates reach and encourage them.” |
“Tôi là một với các huynh đệ trong nhóm của tôi, và tất cả những gì của tôi là của họ. Cầu mong tình thương của linh hồn tôi tuôn đổ đến họ. Cầu mong sức mạnh trong tôi nâng đỡ và hỗ trợ họ. Cầu mong những tư tưởng mà linh hồn tôi tạo ra có thể vươn tới và khích lệ họ.” |
|
Of the two prerequisites to which I now allude as needed by all of you, one of them refers to your integration into my group of “practising chelas,” and the other relates to your capacity to contact me at will—a thing as yet only permitted to three of you at this time, and this because they seldom avail themselves of the privilege. Our first task is therefore to attend to these requirements which call for a right attitude on your part and the use of the first of the ancient formulas which it is my intention to give for deep consideration and eventual experimental use. Before I give this formula, however, I would like to deal with a question which is bound to arise in the minds of those of you who are senior in this group. |
Trong số hai điều kiện tiên quyết mà bây giờ tôi đề cập đến như là cần thiết cho tất cả các bạn, một trong đó đề cập đến sự tích hợp của các bạn vào nhóm “đệ tử thực hành” của tôi, và điều kiện còn lại liên quan đến khả năng của các bạn tiếp xúc với tôi theo ý muốn — một điều hiện tại chỉ cho phép duy nhất với ba người trong số các bạn, và điều này là do họ hiếm khi tận dụng đặc quyền này cho chính mình. Do đó, nhiệm vụ đầu tiên của chúng ta là chú ý đến những yêu cầu này vốn đòi hỏi các bạn phải có một thái độ đúng đắn và sử dụng công thức đầu tiên trong số các công thức cổ xưa mà tôi có ý định đưa ra để xem xét sâu sắc và cuối cùng dùng làm thử nghiệm. Tuy nhiên, trước khi đưa ra công thức này, tôi muốn giải quyết một câu hỏi chắc chắn sẽ nảy sinh trong tâm trí của các bạn vốn là những người có cấp bậc cao hơn trong nhóm này. |
|
The question might be voiced thus: “If I am in preparation for the second or the third initiation, I must have been in a group of disciples—presumably the Tibetan’s—for some lives at least. Why then the need for an integrating formula?” Because, my chela, though you have been in a group of disciples prior to this, it was not my group but [246] the group of either the Master M. or the Master K.H. Owing to the fact of world urgency and the immensity of the work to be done by Them and owing also to the fact that They are preparing to pass through one of the highest initiations, these two Masters have handed all but a few of Their senior disciples to me and to two other of Their initiate disciples, themselves Adepts or Masters. They have also retained in Their groups of disciples those who have started specific work under Their direction in some previous life, and a few disciples who came into incarnation in this world period having the brain and the mind awakened to their relationship to these Masters. These conditions do not exist in this group in relation to me—the Master chosen to lead you forward. Yet (though you remember it not) all of you knew me well when working with the two Chohans, and hence the decision for you to work under my instruction and guidance. It has worked happily and with no delay so far. |
Câu hỏi có thể được đặt ra như sau: “Nếu tôi đang chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ hai hoặc thứ ba, hẳn là tôi đã ở trong một nhóm đệ tử — có lẽ là nhóm của Chân sư Tây Tạng — ít nhất là trong vài kiếp sống. Tại sao sau đó lại cần một công thức tích hợp?” Bởi vì, hỡi đệ tử của tôi, mặc dù các bạn đã ở trong một nhóm đệ tử trước nhóm này, thì đó cũng không phải là nhóm của tôi mà là [246] nhóm của Chân sư M. hoặc Chân sư K.H. Do tình trạng cấp bách của thế giới và khối lượng công việc lớn lao mà các Ngài phải thực hiện, và cũng do sự kiện là các Ngài đang chuẩn bị trải qua một trong những cuộc điểm đạo cao nhất, hai Chân Sư này đã giao tất cả các đệ tử của các Ngài, ngoại trừ một số đệ tử cao cấp, cho tôi và cho hai đệ tử khác trong số những đệ tử điểm đạo của các Ngài, vốn là các vị Cao đồ hoặc là các Chân Sư. Các Ngài cũng đã giữ lại trong các nhóm các đệ tử của các Ngài những người đã bắt đầu công việc cụ thể dưới sự chỉ đạo của các Ngài trong một số kiếp sống trước, và một số đệ tử đã tái sinh trong thời kỳ thế giới này có bộ não và thể trí đã thức tỉnh với mối liên hệ của họ với các Chân Sư này. Những điều kiện này không tồn tại trong nhóm có liên quan đến tôi— Chân Sư được chọn để dẫn dắt các bạn tiến về phía trước. Tuy nhiên, (mặc dù các bạn không nhớ) tất cả các bạn đều đã biết rõ về tôi khi làm việc với hai vị Chohan, và do đó có quyết định cho các bạn làm việc dưới sự chỉ dẫn và hướng dẫn của tôi. Cho đến nay, nó đã hoạt động một cách suôn sẻ và không có sự chậm trễ nào. |
|
Another reason for the use of this formula of integration by those who have had experience of group work is that there are some in the group who are as yet far from true integration, and the experience of the older chelas can be of inestimable help if they will thus to serve the group and me. Much of what I said in the earlier instructions (Vol. I) on the relation of chelas to their Master could well be applied here and with profit. |
Một lý do khác cho việc sử dụng công thức tích hợp này bởi những người đã có kinh nghiệm làm việc nhóm là có một số người trong nhóm vẫn còn xa với sự tích hợp thực sự và kinh nghiệm của các đệ tử lâu năm hơn có thể giúp ích vô giá nếu họ phụng sự cho nhóm và cho tôi. Phần lớn những gì tôi đã nói trong các hướng dẫn trước đó (Tập I) về mối quan hệ của các đệ tử với Chân Sư của họ có thể được áp dụng hợp lý ở đây và mang lại lợi ích. |
|
THE FORMULAS |
CÁC CÔNG THỨC |
|
There are six ancient formulas or symbolic forms which are to be found in the archives for disciples. They concern the six fundamental prerequisites for initiation. They are used prior to all the major initiations, and have therefore five significances or meanings which will become apparent only as each of these initiations is undergone. They are in the form sometimes of symbols and sometimes of words, and are amongst the oldest formulas in the world. They have been used down the ages by all disciples and initiates of the Great White Lodge. They concern what are called “the six [247] relations.” Each of these relations must find expression in attitude, in service, and in some deeper expansion of consciousness, to which I may not refer but which must be self-ascertained. It is essential that the would-be initiate discover for himself the esoteric, inner and subjective value of the formula under his consideration. Just one hint however in this latter connection I may give. |
Có sáu công thức hoặc các hình thức biểu tượng cổ xưa được tìm thấy trong văn khố dành cho các đệ tử. Chúng liên quan đến sáu điều kiện tiên quyết cơ bản cho việc điểm đạo. Chúng được sử dụng trước tất cả các cuộc điểm đạo chính, và do đó có năm thâm nghĩa hoặc năm ý nghĩa vốn sẽ chỉ trở nên rõ ràng khi mỗi cuộc điểm đạo được trải qua. Đôi khi chúng ở dạng các biểu tượng, đôi khi là các từ ngữ, và là một trong những công thức lâu đời nhất trên thế giới. Chúng đã được sử dụng qua nhiều thời đại bởi tất cả các đệ tử và các vị điểm đạo đồ của Thánh Đoàn (Great White Lodge). Chúng liên quan đến những gì được gọi là “sáu mối liên hệ” [247]. Mỗi mối liên hệ này phải được biểu hiện trong thái độ, trong việc phụng sự, và trong một số sự mở rộng sâu hơn của tâm thức, điều mà tôi có thể không đề cập đến nhưng nó phải được tự xác định. Điều cốt yếu là điểm đạo đồ sẽ tự khai ngộ cho chính mình giá trị bên trong, chủ quan và bí truyền của công thức mà y đang xem xét. Tuy nhiên, chỉ có một gợi ý tôi có thể đưa ra trong sự kết nối sau này. |
|
The disciple, when he becomes an accepted disciple (and this through the Lodge’s recognition of his pledge to his own soul), arrives at a definite and factual recognition of the Hierarchy. His suppositions, his desires, his aspirational wish-life, his theories, or whatever you may choose to call his reaching out and up towards divinity, give place to clear knowledge of the liberated group of souls. This happens not through the occurrence of convincing phenomena, but through an inflow of the intuition. He undergoes, therefore, an expansion of consciousness which may or may not be registered in the brain. Every step of the way from that point of recognition onward has to be consciously achieved and must involve a conscious recognition of a series of expansions. These expansions are not initiation. Have that clearly in your mind. The initiation lying immediately ahead is simply the effect of the recognition. They might be called “stabilising points of crisis,” in which the “occasional becomes the constant and the intended becomes the intentional.” Ponder on these words. The Hierarchy is now a fact in your life and your awareness. What is the next fact or point of integration or consciously achieved inclusiveness? A study of the formulas and their correct use will reveal this to you. I have laid the emphasis upon visualisation and given you some hints connected both with initiation and the creative work of the imagination, because these teachings and the development of these faculties will require calling into play your understanding, if the formulas connected with initiation are to be given. These six formulas are therefore formulas of integration, and one or two hints may here be imparted. |
Khi trở thành một đệ tử được chấp nhận (và điều này thông qua việc Huyền Giai công nhận lời thệ nguyện của y với linh hồn của chính mình), người đệ tử đạt đến một sự công nhận chắc chắn và thực sự của Thánh đoàn. Những giả định của y, mong muốn của y, cuộc sống mong ước đầy khát vọng của y, các lý thuyết của y, hoặc bất cứ điều gì mà các bạn có thể dùng để gọi sự vươn tới và hướng đến thiên tính của y, nhường chỗ cho sự hiểu biết rõ ràng về nhóm các linh hồn được giải thoát. Điều này xảy ra không phải do sự xuất hiện của các hiện tượng thuyết phục, mà thông qua một dòng chảy đi vào của trực giác. Do đó, y trải qua một sự mở rộng của tâm thức vốn có thể được ghi nhận trong não bộ hoặc có thể không. Mỗi bước của con đường từ điểm được ghi nhận đó trở đi phải đạt được một cách hữu thức và phải bao gồm một sự ghi nhận hữu thức về một loạt những sự mở rộng. Những sự mở rộng này không phải là sự điểm đạo. Hãy ghi nhớ rõ ràng điều đó trong tâm trí của các bạn. Sự điểm đạo nằm ngay phía trước chỉ đơn giản là kết quả của sự ghi nhận này. Chúng có thể được gọi là “các điểm ổn định của cuộc khủng hoảng”, trong đó “điều thỉnh thoảng trở thành thường xuyên và ý định trở thành có chủ ý.” Hãy suy ngẫm về những từ này. Thánh Đoàn giờ đây là một sự thật trong cuộc sống và nhận thức của các bạn. Sự thật tiếp theo hoặc điểm tích hợp hoặc tính toàn diện đạt được một cách hữu thức là gì? Một nghiên cứu về các công thức và cách sử dụng đúng đắn của chúng sẽ tiết lộ điều này cho các bạn. Tôi đã nhấn mạnh vào việc hình dung và đưa ra cho các bạn một số gợi ý liên quan đến cả việc điểm đạo và công việc sáng tạo của trí tưởng tượng, bởi vì những lời giáo huấn này và sự phát triển của những năng lực này sẽ đòi hỏi các bạn phải phát huy sự hiểu biết của mình, nếu các công thức liên quan với sự điểm đạo đã được đưa ra. Do đó, sáu công thức này là các công thức tích hợp và ở đây có một hoặc hai gợi ý có thể được truyền đạt. |
|
Formula One concerns, as I have told you, integration into a Master’s group, and it has two uses—if I might so [248] express it from your particular point of view. One produces a group inclusiveness, which integrates you with your group brothers into my group and brings a revelation of the hidden side of a chela’s life. When I say this I refer to his new astral conditioning. This is given the name of the Revelation of Group Feeling. This subject is vaster in its implications than you might surmise, for it concerns united group sensitivity or response, outwards to the world of men, inwards to the Hierarchy, and upwards to the Monad. It does not concern the sum total of the petty moods and feelings of the personalities of the group members. Its second use is to bring about contact with the Master of your group—in this case myself, the Master D.K. This is a process which I have already done my best to help you to achieve through my instructions re the Full Moon contact—something you have most inadequately understood and attempted. Perhaps now you will work harder at the production of “contact relationship” as it is esoterically called. It is with Formula One that you must now work. |
Như tôi đã nói với các bạn, Công Thức Một liên quan đến sự tích hợp vào một nhóm của Chân sư, và nó có hai công dụng — nếu Tôi có thể [248] diễn đạt nó theo quan điểm cụ thể của các bạn. Một là tạo ra sự bao gồm nhóm, vốn tích hợp các bạn với những huynh đệ trong nhóm của các bạn vào trong nhóm của tôi và mang đến một sự khai mở của khía cạnh tiềm ẩn trong cuộc sống của một đệ tử. Khi nói điều này, tôi đề cập đến tình trạng cảm dục mới của y. Điều này được đặt tên là Sự Tiết Lộ Cảm Giác Nhóm. Chủ đề này có ý nghĩa rộng lớn hơn các bạn có thể phỏng đoán, vì nó liên quan đến sự nhạy cảm hoặc sự đáp ứng của nhóm thống nhất, hướng ra ngoài thế giới của con người, hướng vào trong tới Thánh đoàn, và hướng lên trên tới Chân thần. Nó không liên quan đến tổng số cách thức và cảm xúc vụn vặt trong các phàm ngã của những thành viên trong nhóm. Ứng dụng thứ hai của nó là mang lại sự tiếp xúc với Chân sư của nhóm các bạn — trong trường hợp này là bản thân tôi, Chân sư DK. Đây là một quá trình mà tôi đã cố gắng hết sức để giúp các bạn đạt được thông qua hướng dẫn của tôi về sự tiếp xúc vào kỳ Trăng tròn — điều mà các bạn hiểu và cố gắng một cách kém thỏa đáng nhất. Có lẽ bây giờ các bạn sẽ làm việc chăm chỉ hơn trong việc tạo ra “mối quan hệ kết nối” như nó được gọi một cách bí truyền. Chính với Công thức Một mà bây giờ các bạn phải làm việc. |
|
Formula Two deals with alignment; not alignment as it is understood in the very necessary preparatory work of the Arcane School. That form of alignment is the production of effective and direct contact with the soul. The alignment to which this formula refers is connected with the antahkarana. This will be our next consideration when Formula One has brought about certain changes in consciousness. I shall not consider these formulas at present. I will only point out their major implications which will be seldom what you think, conditioned as you are by the terms and interpretations of the lower mind. |
Công thức Hai đề cập đến sự chỉnh hợp; không phải sự chỉnh hợp như được hiểu trong công việc chuẩn bị rất cần thiết của Trường Arcane. Hình thức chỉnh hợp đó là sản phẩm của sự tiếp xúc trực tiếp và hiệu quả với linh hồn. Sự chỉnh hợp mà công thức này đề cập đến liên quan đến cầu antahkarana. Đây sẽ là sự xem xét tiếp theo của chúng ta khi Công thức Một đã mang lại những thay đổi nhất định trong tâm thức. Tôi sẽ không xem xét những công thức này ở thời điểm hiện tại. Tôi sẽ chỉ chỉ ra những ý nghĩa chính của chúng mà hiếm khi như những gì các bạn nghĩ, do các bạn bị quy định bởi các thuật ngữ và cách giải thích của hạ trí. |
|
Formula Three is related to certain changes in the egoic lotus. These changes might be inadequately expressed in the terms of the Old Commentary: |
Công Thức Ba liên quan đến những thay đổi nhất định trong hoa sen chân ngã. Những thay đổi này có thể được diễn tả không đầy đủ trong các thuật ngữ của Cổ Luận: |
|
“There is that which transmutes knowledge into wisdom within a flash of time; there is that which changes sensitivity into love within an area of space; there is [249] that which alters sacrifice into bliss where neither time nor space exists.” |
“Có thứ biến sự hiểu biết thành minh triết chỉ trong chớp mắt; có thứ biến sự nhạy cảm thành tình thương trong một khoảng không gian; có [249] thứ biến đổi sự hy sinh thành chí phúc nơi mà cả thời gian và không gian đều không tồn tại.” |
|
Formula Four has a specific effect upon the “jewel in the lotus,” awakening it to life; this it does (through effects produced) upon the three planes of the three worlds, thus bringing about changes in the seven wheels (centres) so that the “dynamic point at the centre of each wheel obliterates the lesser points of force, and thus the wheel begins to turn upon itself.” |
Công Thức Bốn có hiệu quả đặc biệt đối với “viên ngọc quý trong hoa sen”, đánh thức nó với đời sống; nó thực hiện điều này (thông qua các tác động được tạo ra) trên ba cõi giới của tam giới, do đó mang lại những thay đổi trong bảy bánh xe (trung tâm) để “điểm năng động ở tâm của mỗi bánh xe xóa bỏ các điểm lực nhỏ hơn, và do đó bánh xe bắt đầu quay trên chính nó. “ |
|
Formula Five awakens the Will, but any interpretation of this awakening would prove meaningless to you until the previous four formulas have established an effect upon you and the needed interior changes have taken place. |
Công Thức Năm đánh thức Ý chí, nhưng bất kỳ cách giải thích nào về sự thức tỉnh này cũng sẽ tỏ ra vô nghĩa đối với các bạn cho đến khi bốn công thức trước đó đã thiết lập được một hiệu quả lên các bạn và những thay đổi bên trong cần thiết đã diễn ra. |
|
Formula Six is sometimes called “the word of death.” It negates the destructive effect of the death process which is going on all the time within the mechanism of the disciple or initiate. The death proceeds with its needed work, but it is not destructive in effect. This formula has never been given out before to disciples, but can now be known because the Piscean Age is one in which at last the power of physical death is definitely broken and the signature of the Resurrection is revealed. In this esoteric negation of death are the deeply hidden and impressive causes of the two stages of the world war (1914-1945), and in this formula lies the significance lying behind the “fight for freedom” of the peoples of the world. It is sometimes called “the formula of liberation.” |
Công Thức Sáu đôi khi được gọi là “lời của cái chết.” Nó phủ nhận tác động hủy diệt của quá trình chết vốn luôn diễn ra trong bộ máy của người đệ tử hoặc điểm đạo đồ. Cái chết diễn ra với công việc cần thiết của nó, nhưng nó không có tác dụng phá hủy. Trước đây, công thức này chưa bao giờ được đưa ra cho các đệ tử, nhưng giờ đây có thể được biết đến vì Thời đại Song Ngư là một trong những thời đại mà cuối cùng sức mạnh của cái chết thể xác chắc chắn bị phá vỡ và dấu hiệu của sự Phục sinh được tiết lộ. Trong sự phủ định bí truyền này của cái chết, có những nguyên nhân ẩn giấu sâu xa và ấn tượng trong hai giai đoạn của chiến tranh thế giới (1914-1945), và trong công thức này ẩn chứa ý nghĩa đằng sau “sự đấu tranh cho tự do” của những con người trên thế giới. Nó đôi khi được gọi là “công thức của sự giải thoát.” |
|
If you were a disciple who had access to the archives wherein instructions for disciples are contained, you would be confronted (in relation to the six formulas referred to above) by six large sheets of some unknown metal. These look as if made of silver and are in reality composed of that metal which is the allotrope of silver and which is therefore to silver what the diamond is to carbon. Upon these sheets are words, symbols, and symbolic forms. These, when related to each other, contain the formulas which the disciple has to interpret and integrate in his waking consciousness. This must be done through the medium of living processes. [250] As I cannot show you these formulas upon the physical plane, the best that I can do is to describe them to you, and in this Instruction I will seek to describe Formula One. The comprehension of the words and symbols produces two reactions in the consciousness of the disciple—and when a group of disciples are working with the same formula (as is the case in this group) this is intensified and of still greater value. |
Nếu các bạn là một đệ tử có quyền truy cập vào văn khố lưu trữ những hướng dẫn dành cho các đệ tử, các bạn bắt gặp (liên quan đến sáu công thức được đề cập ở trên) sáu tấm lớn làm bằng loại kim loại chưa được biết đến. Chúng trông như thể được làm bằng bạc, và trên thực tế được cấu tạo bởi kim loại là đồng tố[1] của bạc và do đó nó đối với bạc giống như kim cương đối với cacbon. Trên các tấm này là các từ ngữ, các ký hiệu và các hình thức biểu tượng. Những điều này, khi liên hệ với nhau, chứa đựng những công thức mà người đệ tử phải giải thích và tích hợp trong tâm thức tỉnh thức của y. Điều này phải được thực hiện thông qua trung gian của các quá trình sống. [250] Vì tôi không thể chỉ cho các bạn những công thức này trên cõi vật lý, nên cách tốt nhất tôi có thể làm là mô tả chúng cho các bạn, và trong Hướng dẫn này, tôi sẽ tìm cách mô tả Công Thức Một. Việc lĩnh hội được các từ và ký hiệu này tạo ra hai phản ứng trong tâm thức của người đệ tử — và khi một nhóm đệ tử đang làm việc với cùng một công thức (như trường hợp của nhóm này) thì điều này càng được tăng cường và có giá trị càng lớn hơn. |
|
The first reaction is called the “Formula of Revelation” and is related to the united sensitivity of the group. As, together, the group members brood upon and come to an understanding of the formula, they will swing into a responsiveness to the feeling and sensitive reactions of the individuals in the group, and these, together, constitute and form the astral body of the group. |
Phản ứng đầu tiên được gọi là “Công thức của sự Mặc Khải” và có liên quan đến sự nhạy cảm thống nhất của nhóm. Khi các thành viên trong nhóm cùng nhau nghiền ngẫm và đi đến một hiểu biết về công thức, họ sẽ chuyển sang một sự đáp ứng với cảm giác và các phản ứng nhạy cảm của các cá nhân trong nhóm, và những phản ứng này cùng nhau thiết lập và hình thành nên thể cảm dục của nhóm. |
|
When this reaction has been established (and a spirit of non-criticism and of love will greatly aid in the process), the group together can arrive at the second purpose of the formula, which is called “the discovery of the point within the circle.” This signifies—as far as the group is involved—the revelation of the central coherent force of the group itself. This is—at the same time and until after the higher initiation which we call the fourth initiation—the Master at the centre of the group. This is, consequently, the correspondence to the “jewel in the lotus,” where the individual is concerned, to the Hierarchy, where humanity is concerned, and to the central point of life in all forms. Of form and of consciousness, the circle and the point are the natural symbols. This applies equally to the atom, to man, to the planet and to the solar system. The concept must constitute the foundational idea in all reflection upon this formula. |
Khi phản ứng này đã được thiết lập (và một tinh thần không chỉ trích và yêu thương sẽ hỗ trợ rất nhiều trong quá trình này), nhóm có thể cùng nhau đi đến mục đích thứ hai của công thức, được gọi là “sự khám phá ra điểm bên trong vòng tròn.” Điều này biểu thị — xét theo khía cạnh liên quan đến nhóm — sự tiết lộ mãnh lực kết dính ở trung tâm của chính nhóm. Điểm trung tâm này—cho đến sau lần điểm đạo cao hơn mà chúng ta gọi là cuộc điểm đạo thứ tư — là Chân sư ở trung tâm của nhóm. Do đó, đây là sự tương ứng với “viên ngọc quý trong hoa sen” ở cá nhân, với Thánh đoàn trong nhân loại, và với điểm trung tâm của sự sống trong mọi hình tướng. Về hình tướng và tâm thức, vòng tròn và điểm là những biểu tượng tự nhiên. Điều này áp dụng tương tự cho nguyên tử, cho con người, cho hành tinh và cho hệ mặt trời. Khái niệm phải tạo thành ý tưởng nền tảng trong tất cả các suy ngẫm dựa trên công thức này. |
|
Now for the formula itself: |
Bây giờ, đây là chính công thức: |
|
“A line of fire between two blazing points. A stream of water blue—again a line—emerging from the earth—and ending in the ocean. A tree with root above and flowers below. [251] |
“Một tuyến lửa giữa hai điểm rực cháy. Một dòng nước xanh lơ — lại là một tuyến nữa — hiện lên từ mặt đất — và kết thúc trong đại dương. Một cái cây có rễ ở trên và những bông hoa ở dưới. [251] |
|
“Out of the fire, and always at the midway point, appears the eye of God (Shiva). Upon the stream, between the two extremes, there floats the eye of vision—a thread of light unites the two. |
“Từ ngọn lửa, và luôn ở giữa, xuất hiện con mắt của Thượng Đế (Shiva). Trên dòng suối, giữa hai thái cực, có con mắt của tầm nhìn trôi nổi — một sợi dây của ánh sáng hợp nhất hai thái cực này. |
|
“Deep in the tree, between the root and flowers, the eye again is seen. The eye that knows, the eye that sees, the directing eye—one made of fire, one fluid as the sea, and two which look from here to there. Fire, water and the earth—all need the vital air. The air is life. The air is God.” |
“Sâu trong cây, giữa rễ và những bông hoa, con mắt lại được nhìn thấy. Con mắt biết, con mắt thấy, con mắt định hướng — một con mắt làm bằng lửa, một con mắt linh động như biển cả, và hai con mắt nhìn từ đây tới đó. Lửa, nước và đất — tất cả đều cần không khí sống. Không khí là sự sống. Không khí là Thượng đế”. |
|
|
|
|
The significance of this formula is not difficult for the advanced student to grasp in connection with himself. The eye of knowledge, the eye of vision and the directing eye of Deity are familiar to him. But it is the great and major esoteric implications which I ask you to consider. An extension of these concepts to a Master and His ashram or His group of practising disciples, is of value to you in your reflective consciousness. The first and obvious interpretation concerns the eye of knowledge. But what of the eye of vision when duality is being overcome, and what of the “purpose for which the worlds were made”—the little world of the individual (once individuality is achieved) and the greater world of an organised group, integrated and functioning as a unit, and the distant subtle world of divine intent? |
Ý nghĩa của công thức này không khó để môn sinh tiên tiến nắm bắt được trong mối liên quan đến bản thân y. Con mắt của tri thức, con mắt của tầm nhìn và con mắt định hướng của Thượng Đế đều quen thuộc với y. Nhưng chính những tác động bí truyền lớn lao và chủ yếu mà Tôi yêu cầu các bạn xem xét. Sự mở rộng của những khái niệm này đến một Chân sư và Đạo viện của Ngài hoặc nhóm các đệ tử thực hành của Ngài, có giá trị đối với các bạn trong tâm thức suy ngẫm của các bạn. Cách giải thích đầu tiên và hiển nhiên liên quan đến con mắt của tri thức. Nhưng con mắt của tầm nhìn là gì khi tính lưỡng nguyên đang bị vượt qua, và “mục đích mà các thế giới được tạo ra” là gì — thế giới nhỏ bé của cá nhân (một khi đã đạt được tính cá nhân) và thế giới lớn hơn của một nhóm có tổ chức, được tích hợp và đang hoạt động như một đơn vị, và thế giới vi tế xa xôi của ý định thiêng liêng là gì? |
|
I say no more in this connection. I commend to your brooding reflection these subtle implications. I would ask you to ponder on them and—prior to the Wesak Full Moon—I would ask you to write your understanding of the formula from two angles. About these two angles you definitely should have ideas. |
Tôi không nói gì thêm nữa trong mối liên hệ này. Tôi khuyến nghị sự suy nghĩ nghiền ngẫm của các bạn về những gợi ý tinh tế này. Tôi sẽ yêu cầu các bạn suy ngẫm về chúng và — trước kỳ Trăng tròn Wesak — tôi sẽ yêu cầu các bạn viết ra hiểu biết của mình về công thức từ hai góc độ. Về hai góc độ này chắc chắn các bạn nên có ý tưởng. |
|
1. The angle of the individual. |
1. Góc độ của cá nhân. |
|
2. The angle of a group of chelas. |
2. Góc độ của một nhóm đệ tử. |
|
Both these unities utilise the eye of knowledge and the eye of vision. |
Cả hai sự hợp nhất này đều sử dụng con mắt của sự hiểu biết và con mắt của tầm nhìn. [252] |
PART II
|
POINTS OF REVELATION |
NHỮNG ĐIỂM MẶC KHẢI |
|
I have dealt considerably in my earlier writings with the theme, Points of Crisis. We can now approach and prove the livingness of our progress from the angle of Points of Revelation. The entire objective of the initiation preparatory process is to bring about revelation. You must ever bear in mind that that which is revealed is eternally present. There is, therefore, occult truth in the statement that there is “nothing new under the sun.” All that is revealed upon the Path of Discipleship and of Initiation is forever there, but that which can perceive, reach out and include has developed with the ages. Upon the Path of Discipleship, in the earlier stages, the eye of vision is the illumined mind. Upon the Path of Initiation it is that of which the eye of the mind is the exteriorisation—the intuitional perception of the soul itself. But as evolution proceeds, that which is brought to the point of perceiving the existing verities differs vastly as the centuries slip away. E’en the adept of the present is pronouncedly more perceptive and more accurately interpretive and his vision more penetrative than was the adept in Atlantean days, and the initiate who will achieve initiate-perception during the coming Aquarian Age will be greatly in advance of those who now function as the adepts of today. |
Tôi đã đề cập một cách đáng kể trong các bài viết trước đây của mình về chủ đề Các Điểm Khủng Hoảng này. Giờ đây, chúng ta có thể tiếp cận và chứng minh sự sống động trong sự tiến bộ của chúng ta từ góc độ của Những Điểm Mặc Khải. Toàn bộ mục tiêu của quá trình chuẩn bị cho sự điểm đạo là mang lại sự mặc khải. Các các bạn phải luôn ghi nhớ trong trí rằng điều được tiết lộ vĩnh cửu hiện diện. Do đó, có một sự thật huyền bí trong tuyên bố rằng “không có gì mới dưới ánh mặt trời.” Tất cả những gì được tiết lộ trên Con Đường Đệ tử và Con đường Điểm đạo mãi mãi vẫn ở đó, nhưng những gì có thể nhận thức, đạt tới và bao gồm đã phát triển cùng các thời đại. Trong những giai đoạn trước đó trên Con Đường Đệ tử, con mắt của tầm nhìn là cái trí được soi sáng. Trên Con Đường Điểm đạo đó là cái mà con mắt của cái trí là sự ngoại hiện — nhận thức trực giác của chính linh hồn. Nhưng khi quá trình tiến hóa diễn ra, cái được đưa đến điểm nhận thức ra các sự thật hiện có khác nhau rất nhiều khi hàng thế kỷ đi qua. Ngay cả vị cao đồ của hiện tại có nhận thức rõ ràng hơn, diễn giải chính xác hơn và có tầm nhìn sâu sắc hơn so với vị cao đồ trong thời kỳ Atlantic, và vị điểm đạo đồ sẽ đạt được sự nhận thức điểm đạo trong Thời đại Bảo Bình sắp tới sẽ tiến bộ hơn rất nhiều những người hiện đang hoạt động như các vị cao đồ ngày nay. |
|
I have warned you that discipleship is becoming increasingly difficult. This is owing to the increased sensitivity to the esoteric values and realities which the modern disciple manifests. He can and does perceive that which was the goal of initiation in earlier aeons and perceives these things normally and as an established fact in a developed awareness. It is the spiritual parallel of the development during material evolution of the five senses. His goal and his “pointed direction” lie far ahead and his inclusiveness opens for him doors which in earlier times only opened to the initiate knock. I consequently hold out to you no easy way but only one of difficulty and adjustment. [253] |
Tôi đã cảnh báo các bạn rằng việc làm đệ tử ngày càng trở nên khó khăn hơn. Điều này là do sự nhạy cảm ngày càng tăng đối với các giá trị và thực tại bí truyền mà người đệ tử hiện đại thể hiện. Y có thể và thực sự nhận thức được những gì là mục tiêu của sự điểm đạo trong các thời đại trước và nhận thức những điều này một cách bình thường và như một thực tế đã được thiết lập trong một nhận thức đã phát triển. Nó là sự song hành tinh thần của sự phát triển trong suốt quá trình tiến hóa vật chất của năm giác quan. Mục tiêu và “định hướng tập trung” của y còn nằm ở xa phía trước và sự bao gồm của y mở ra cho y những cánh cửa mà trong thời gian trước đó chỉ mở ra cho vị điểm đạo đồ gõ cửa. Do đó, tôi đưa ra cho các bạn con đường không hề dễ dàng, mà chỉ là một con đường của khó khăn và điều chỉnh. [253] |
|
In all forward stages upon the Path of Initiation, there are three phases which concern the initiate-aspirant’s reactions. There is first of all the vision of the soul, but whereas in the past there was the vision and the starting point, now the modern disciple perceives likewise many of the intermediate stages, the opposing forces, the obstructions and the rapidly arousing handicaps and hindrances. The words I here use are chosen with deliberation. He is not now totally blind nor does he move forward entirely in the dark. There is enough light in him to bring to him what is called the “little revelation,” and, in that light, will he see the greater light and arrive at a truer perception. He sees himself, and that—for aeons—the disciple has ever been able to do. But now he also perceives and recognises his brother in the light, and this evokes personality reactions and he has to adjust himself not only to himself as he discovers himself to be, but likewise to what he finds his brother also to be. This is no easy adjustment to make, and this the earlier imparted Rules of the Road will have indicated to you. |
Trong tất cả các giai đoạn tiếp theo trên Con đường Điểm đạo, có ba giai đoạn liên quan đến các phản ứng của người chí nguyện-điểm đạo đồ. Trước hết là tầm nhìn của linh hồn, nhưng trong khi trước đây có tầm nhìn và điểm bắt đầu, thì bây giờ người đệ tử hiện đại cũng nhận thức được nhiều giai đoạn trung gian, các lực lượng đối nghịch, các chướng ngại và những điều bất lợi và các trở ngại được khuấy động một cách nhanh chóng. Những từ ngữ tôi sử dụng ở đây được lựa chọn với sự cân nhắc kỹ lưỡng. Giờ đây y không hoàn toàn bị mù quáng và cũng không hoàn toàn tiến về phía trước trong bóng tối. Có đủ ánh sáng trong y để mang đến cho y cái được gọi là “sự mặc khải nhỏ”, và trong ánh sáng đó, y sẽ nhìn thấy ánh sáng lớn hơn và đi đến một nhận thức chân thật hơn. Y nhìn thấy chính mình, và điều đó — trong nhiều thời đại — người đệ tử đã từng có thể làm được. Nhưng bây giờ y cũng nhận thức được và nhận ra huynh đệ của mình trong ánh sáng, và điều này gợi lên những phản ứng về phàm ngã và y phải tự điều chỉnh không chỉ với chính y khi phát hiện ra trong bản thân y, mà tương tự với những gì y cũng thấy ở huynh đệ y. Đây là sự điều chỉnh không hề dễ dàng và điều này sẽ được chỉ ra cho các bạn ở các Quy Luật của Đường đạo được truyền đạt trước đó. |
|
I would like here, my brother, to list for you the most important of the statements made by me in the previous instruction, indicating those which embody important hints and showing you, this one time, with what care I prepare that which I seek to impart and how, therefore, I expect from you a careful study of my words. Here are these key thoughts: |
Huynh đệ của tôi, tôi muốn liệt kê ở đây cho các bạn những điều quan trọng nhất trong số những tuyên bố mà tôi đã đưa ra trong hướng dẫn trước đây, chỉ ra những điều thể hiện những gợi ý quan trọng, và lần này chỉ cho các bạn thấy tôi chuẩn bị cẩn thận những gì tôi mong muốn truyền đạt và do đó tôi mong đợi các bạn một nghiên cứu cẩn thận về những lời nói của tôi như thế nào. Đây là những tư tưởng chính: |
|
1. Only that which you know for yourself and consciously experience is of importance. This refers especially to the following: |
1. Chỉ những gì các bạn tự mình biết và trải nghiệm một cách hữu thức mới là quan trọng. Nó đặc biệt đề cập đến những điều sau: |
|
a. Your perception of the vision. |
a. Nhận thức của các bạn về tầm nhìn. |
|
b. Your contact with me, your Master. |
b. Liên hệ của các bạn với tôi, Chân sư của các bạn. |
|
c. Your recognition of the initiatory process. |
c. Sự nhận thức của các bạn về quá trình điểm đạo. |
|
I told you, therefore, that you must have (for the goal) the demonstrating of the initiate-consciousness through both mind and brain and consequently upon the physical plane. [254] |
Do đó, tôi đã nói với các bạn rằng các bạn phải (vì mục tiêu) chứng minh tâm thức điểm đạo đồ qua cả thể trí và não bộ và do đó trên cõi trần. [254] |
|
2. Initiation is, as far as you are at present concerned, a “moment of crisis wherein the consciousness hovers upon the border line of revelation.” This involves consequently: |
2. Sự điểm đạo, trong chừng mực liên quan đến các bạn hiện nay, là một “khoảnh khắc khủng hoảng trong đó tâm thức lơ lửng trên ranh giới của sự mặc khải.” Do đó, điều này liên quan đến: |
|
a. A tremendous pull between the pairs of opposites. |
a. Một sự lôi kéo dữ dội giữa các cặp đối lập. |
|
b. The existence, as a result, of a field of tension. |
b. Kết quả là sự tồn tại của một trường căng thẳng. |
|
c. The effort to stand firm at the midway point. |
c. Nỗ lực đứng vững ở điểm giữa chừng. |
|
I would remind you that this does not refer to the man upon the path of life, pulled as he is between the pairs of opposites upon the plane of desire, but to the soul standing at the midway point between the monad and the personality and preparing to make the Great Renunciation—a renunciation which the personality makes possible—and to disappear, leaving the two (personality and monad) perfectly at-one. It is the man, as the soul, in full waking consciousness who takes initiation. Hence the emphasis upon soul contact when a man is upon the Probationary Path and passing through the early stages of discipleship. This leads, later, to the emphasis placed upon the need for two major activities—before the man can take the higher initiations: |
Tôi muốn các bạn nhớ rằng điều này không đề cập đến con người trên con đường của đời sống, bị níu kéo giữa các cặp đối lập trên cõi cảm dục, mà là linh hồn đang đứng ở điểm giữa chân thần và phàm ngã và chuẩn bị để thực hiện Sự Đại Từ Bỏ — một sự từ bỏ mà phàm ngã có thể tạo ra — và biến mất, để lại hai (phàm ngã và chân thần) hợp nhất lại một cách hoàn hảo. Chính con người, với tư cách là linh hồn, trong tâm thức hoàn toàn tỉnh thức là người được điểm đạo. Vì thế việc nhấn mạnh về sự tiếp xúc linh hồn khi một người ở trên Con đường Dự Bị và trải qua những giai đoạn đầu của con đường đệ tử. Sau đó, nó dẫn đến việc nhấn mạnh về sự cần thiết phải có hai hoạt động chính — trước khi con người có thể đạt được những cuộc điểm đạo cao hơn: |
|
a. Upon alignment. |
a. Về sự chỉnh hợp |
|
b. Upon the scientific building of the antahkarana. |
b. Về việc xây dựng khoa học cầu antahkarana. |
|
3. The revelation, given to the initiate, is not a vision of possibilities, but a factual experience, leading to: |
3. Sự mặc khải, được trao cho điểm đạo đồ, không phải là một tầm nhìn về các khả năng, mà là một kinh nghiệm thực tế, dẫn đến: |
|
a. The evocation of new powers. |
a. Sự gợi lên những quyền năng mới. |
|
b. The recognition of new modes and fields of service. |
b. Công nhận các phương thức và các lĩnh vực phụng sự mới. |
|
c. Freedom of movement within the bounds of the Hierarchy. |
c. Quyền tự do đi lại trong các phạm vi của Thánh đoàn. |
|
d. New hierarchical contacts and new responsibilities which face the initiate. |
d. Các liên hệ huyền giai mới và các trách nhiệm mới mà điểm đạo đồ phải đối mặt. |
|
He, therefore, realises what St. Paul meant when—talking in hierarchical terms—he said “All things are become new.” It is not simply a question of vision and contacts but of vital interrelation and of recognition which bring with them insight into the Mind of God. [255] |
Do đó, y nhận ra ý của Thánh Paul khi —nói theo các thuật ngữ Thánh Đoàn— Ngài nói “Tất cả mọi thứ đều trở nên mới.” Nó không chỉ đơn giản là một vấn đề về tầm nhìn và các mối liên hệ mà là sự tương quan sinh động và sự nhận biết mang theo sự hiểu biết sâu sắc về Thiên Trí. [255] |
|
4. Four lines of teaching were emphasised in past centuries and up until the year 1875: |
4. Bốn dòng giáo lý đã được nhấn mạnh trong các thế kỷ trước và cho đến năm 1875: |
|
a. Hints as to the changing of personality character as preparatory to initiation. |
a. Những gợi ý về sự thay đổi tính cách phàm ngã như là sự chuẩn bị cho điểm đạo. |
|
b. Teaching as to the oneness of Deity and of the universal order. |
b. Các giáo lý về tính duy nhất của Thượng đế và của trật tự vũ trụ |
|
c. Instruction as to the creative process. |
c. Hướng dẫn về quá trình sáng tạo. |
|
d. Laya yoga or the yoga of energy, working through force centres. |
d. Laya yoga hay yoga của năng lượng, hoạt động thông qua các trung tâm lực. |
|
Two things must now happen: the imparted theories which have guided the disciple’s thinking hitherto must become practical experiences, and there must be such a shift in consciousness that the present vision must become the past experience and a new and deeper and entirely different recognition must take the place of the old goals. Here comes, consequently, a complete test-out of past hierarchical methods and modes of work. Has what the past has given proved an adequate preparation for that which will be the methods and propositions of the future? Have the foundations of truth been so securely settled that the coming superstructure will be based on such a sound reality that it can stand the impact of the new incoming solar and cosmic forces? Will the past work of the Hierarchy stand? Such are the problems with which the initiate-teachers are today faced. |
Hai điều bây giờ phải xảy ra: những lý thuyết được truyền thụ vốn đã hướng dẫn tư duy của người đệ tử cho đến nay phải trở thành những kinh nghiệm thực tế, và phải có một sự thay đổi trong tâm thức đến mức tầm nhìn hiện tại phải trở thành kinh nghiệm trong quá khứ, và phải có một nhận thức mới, sâu sắc hơn và hoàn toàn khác biệt để thay thế cho các mục tiêu cũ. Do đó, đây là một thử nghiệm toàn diện các phương pháp và các phương thức làm việc của Thánh đoàn trong quá khứ. Liệu những gì quá khứ đưa ra có chứng tỏ một sự chuẩn bị đầy đủ cho những gì sẽ là các phương pháp và những gợi ý của tương lai hay không? Phải chăng các nền tảng của sự thật đã được thiết lập chắc chắn an toàn đến mức mà kiến trúc thượng tầng sắp tới sẽ dựa trên một thực tế đầy đủ và hoàn chỉnh sao cho nó có thể đứng vững được trước tác động của các mãnh lực thái dương và vũ trụ mới đang tới? Liệu những công việc trong quá khứ của Thánh đoàn có đứng vững? Đó là những vấn đề mà các vị huấn sư điểm đạo đồ ngày nay đang phải đối mặt. |
|
Just as the attitudes of the disciple to daily living and to world happenings are totally unlike that of the average man because he is living increasingly in the world of meaning, so the initiate-disciple develops an attitude to living processes and to world events which is based on character (necessarily), interpreted in the world of meaning, but to them he brings a different light to bear and a motivation—based on newly acquired knowledge and understanding—which is entirely different to the two previous conditions. The four lines of teaching are taken for granted; the initiate is supposed to have grasped and mastered all of it in some experimental and experiential measure. Now the new formulas of life must control; they are life formulas, not [256] soul formulas. New knowledge must supersede the old and it will not concern that which has hitherto been regarded as the ultimate goal. |
Cũng như thái độ của người đệ tử đối với cuộc sống hàng ngày và đối với những diễn ra trên thế giới hoàn toàn không giống như của người bình thường bởi vì y ngày càng sống trong thế giới của ý nghĩa, nên người đệ tử-điểm đạo đồ phát triển một thái độ đối với các quá trình sống và đối với các sự kiện thế giới vốn dựa trên phẩm chất (tất yếu), được giải thích trong thế giới ý nghĩa, nhưng với chúng, y mang đến một ánh sáng khác để cư xử và một động lực—dựa trên tri thức và hiểu biết mới có được—hoàn toàn khác với hai điều kiện trước đó. Bốn dòng giáo lý được coi là đương nhiên; vị điểm đạo đồ được cho là đã nắm bắt được và làm chủ tất cả ở một mức độ thực nghiệm và trải nghiệm. Bây giờ các công thức mới của cuộc sống phải kiểm soát; chúng là các công thức của sự sống, không phải [256] các công thức của linh hồn. Kiến thức mới phải thay thế kiến thức cũ và nó sẽ không liên quan đến điều cho đến nay vốn được coi là mục tiêu cuối cùng. |
|
An illustration of this is the fact that to the esotericist of the past little was known of the seven Rays and the seven ray types, and naught had been given out anent Shamballa. Now the world of instructed disciples is slowly awakening to these newer values and truths and to the sevenfold source of life expression; the Will of God is going to take shape consciously in the minds of men in the future in such a manner that the old truths will condition and control as never before, but will drop automatically below the threshold of consciousness and the new emerging values and recognitions will take their place in the surface consciousness of all disciples—and their name will be Legion. |
Một minh họa cho điều này là thực tế rằng đối với những nhà huyền bí học ngày xưa ít được biết về bảy Cung và bảy loại cung, và không có gì được đưa ra liên quan đến Shamballa. Giờ đây, thế giới của những đệ tử được hướng dẫn đang dần thức tỉnh về những giá trị và chân lý mới hơn này và đối với nguồn gốc thất phân của sự biểu hiện sự sống; Ý chí của Thượng đế sẽ bắt đầu hình thành một cách hữu thức trong trí con người trong tương lai theo một cách mà các chân lý cũ sẽ quy định và kiểm soát như chưa bao giờ trước đây, nhưng sẽ tự động rơi xuống dưới ngưỡng của tâm thức và các giá trị và các nhận thức mới xuất hiện sẽ chiếm vị trí của chúng trong bề nổi tâm thức của tất cả các đệ tử — và tên của họ là rất nhiều. |
|
5. The astral body provides no hindrance to the initiate-disciple, but provides a medium of facile contact with the Hierarchy. This is due to the fact that the link between the astral body and the buddhic consciousness becomes at this stage increasingly close. They constitute essentially a pair of opposites which will eventually fuse; then the astral body will disappear as does the soul body at a later stage of development. |
5. Thể cảm dục không gây trở ngại cho người đệ tử-điểm đạo đồ, nhưng cung cấp một phương tiện trung gian để dễ dàng tiếp xúc với Thánh đoàn. Điều này do thực tế là mối liên kết giữa thể cảm dục và tâm thức bồ đề ở giai đoạn này ngày càng trở nên chặt chẽ. Về cơ bản, chúng tạo thành một cặp đối lập mà cuối cùng sẽ hợp nhất; sau đó thể cảm dục sẽ biến mất cũng như thể linh hồn sẽ biến mất ở giai đoạn phát triển sau đó. |
|
6. Every disciple has to discover for himself and alone for which initiation he is being prepared; the Master never gives this information. Light on the subject comes through the recognition of tests and the types of experience which come his way. “It is a matter,” I have elsewhere told you, “of interior orientation and not of outside information.” Recognition and orientation are the keynotes of this phase. |
6. Mỗi đệ tử phải tự mình khám phá cho chính mình và cho riêng mình rằng y đang chuẩn bị cho cuộc điểm đạo nào; Chân sư không bao giờ đưa ra thông tin này. Ánh sáng về chủ đề này xuất hiện thông qua việc nhận ra các bài kiểm tra và các loại trải nghiệm theo cách của y. Như Tôi đã nói với các bạn ở nơi khác, “Đó là vấn đề về định hướng bên trong chứ không phải thông tin bên ngoài.” Nhận biết và định hướng là những điểm mấu chốt của giai đoạn này. |
|
7. Always there exists the need for humility. This involves: |
7. Luôn tồn tại nhu cầu về sự khiêm tốn. Điều này liên quan đến: |
|
a. An adjusted sense of right proportion. |
a. Một ý thức đúng về tỷ lệ được điều chỉnh. |
|
b. A balanced point of view. |
b. Một quan điểm cân bằng. |
|
c. A dispassionate attitude. |
c. Một thái độ vô dục. |
|
d. Truthful recognition of assets as well as debits. [257] |
d. Ghi nhận trung thực các tài sản cũng như các khoản nợ. [257] |
|
Here also I gave you a hint in stating that true humility is based on fact, on vision and on time pressures. |
Ở đây, tôi cũng đưa cho các bạn một gợi ý bằng cách chỉ ra sự khiêm tốn thực sự dựa trên sự thực, dựa trên tầm nhìn, và các áp lực về thời gian. |
|
8. Two immediate objectives face the disciples, plus the need for one quality: |
8. Hai mục tiêu trước mắt mà các đệ tử phải đối mặt, cộng với nhu cầu về một phẩm tính: |
|
a. To integrate into the inner Ashram as “practising chelas.” |
a. Để tích hợp vào Đạo viện bên trong như “các đệ tử thực hành.” |
|
b. To contact the Master at will. |
b. Để tiếp xúc với Chân sư theo ý muốn. |
|
c. To develop divine indifference. |
c. Để phát triển sự điềm nhiên thiêng liêng. |
|
9. In connection with the formulas, two reactions are automatically evoked in the true disciple and in the true group within the Ashram: |
9. Liên quan đến các công thức, hai phản ứng tự động được gợi lên trong người đệ tử chân chính và trong nhóm đệ tử chân chính bên trong Đạo viện: |
|
a. The reaction which is called the “formula of revelation.” This designates sensitive response to the ancient formulas which are given to those being prepared for initiation. One of these I have already given to you. |
a. Phản ứng được gọi là “công thức của sự mặc khải.” Điều này chỉ ra sự đáp ứng mang tính nhạy cảm đối với các công thức cổ xưa vốn được đưa ra cho những ai đang được chuẩn bị điểm đạo. Tôi đã trao cho các bạn một trong số này. |
|
b. The reaction called the “discovery of the point within the circle.” |
b. Phản ứng được gọi là “khám phá ra điểm trong vòng tròn.” |
|
Have you ever thought, my brother, that one reason why you have not as yet contacted me freely in your waking consciousness and talked with me face to face may be due to the fact that the “circle” is for you only as yet a theory? Until the circle of your brothers is a fact in your everyday awareness and of prime importance in your daily life, it is not possible for you to arrive at contact with the “Point.” The disciple starts on the periphery of the Master’s circle and works towards the centre; he is apt, however, to reverse this procedure in his consciousness. |
Huynh đệ của tôi, có bao giờ các bạn nghĩ đến một lý do vì sao các bạn vẫn chưa tiếp xúc được với tôi một cách tự do trong tâm thức tỉnh thức của các bạn và nói chuyện trực tiếp với tôi có thể do thực tế là “vòng tròn” đối với các bạn vẫn chỉ là lý thuyết? Cho đến khi vòng tròn của những huynh đệ của các bạn là một thực tế trong nhận thức hàng ngày của các bạn và có tầm quan trọng chủ yếu trong cuộc sống hàng ngày của các bạn, các bạn sẽ không thể tiếp xúc với “Điểm”. Người đệ tử bắt đầu ở ngoại vi vòng tròn của Chân sư và hướng về trung tâm; Tuy nhiên, y có khả năng đảo ngược quy trình này trong tâm thức của mình. |
|
I have stated that initiation is essentially a process of revelation. For the disciple who is being prepared to take an initiation the emphasis is necessarily laid upon recognition—the intelligent recognition of what is to be revealed. This requires on his part a definite emergence from the world of glamour so that there can be a clear perception of the new vision; a new light is thrown upon old and well-known truths so that their significance is extraordinarily [258] changed, and in that changing the plan or purpose of Deity takes on an entirely fresh meaning. The inexperienced neophyte is constantly receiving revelations and recording what he regards as most unusual intuitions. All that is really happening, however, is that he is becoming aware of soul knowledge, whereas for the initiate the intuition is ever the revelation of the purpose of Shamballa and the working out, both from the short range and the long range angle, of the divine Plan. The revelation which is accorded at initiation is given to the soul, recorded by the “mind held steady in the light” and then later—with greater or less rapidity—transferred to the brain. You can see, therefore, the true intention of the system of Raja Yoga as it trains the mind to be receptive eventually to the Spiritual Triad. You can also see why for centuries the emphasis of the Teachers of the Ageless Wisdom has been upon the necessity for discrimination, particularly where the probationary disciple is concerned. |
Tôi đã tuyên bố rằng điểm đạo về cơ bản là một quá trình mặc khải. Đối với người đệ tử đang chuẩn bị cho một sự điểm đạo, sự nhấn mạnh nhất thiết phải được đặt trên sự nhận biết—sự nhận biết thông minh về những gì sẽ được tiết lộ. Điều này đòi hỏi về phía y phải dứt khoát thoát khỏi thế giới ảo cảm để có thể có nhận thức rõ ràng về tầm nhìn mới này; một ánh sáng mới được chiếu vào những chân lý cũ và được biết đến nhiều để ý nghĩa của chúng được thay đổi một cách phi thường [258], và trong sự thay đổi đó, kế hoạch hoặc mục đích của Thượng đế mang một ý nghĩa hoàn toàn mới. Người tân môn sinh thiếu kinh nghiệm liên tục nhận được những sự mặc khải và ghi lại những gì y coi là trực giác lạ thường nhất. Tuy nhiên, tất cả những gì đang thực sự xảy ra là y đang trở nên nhận thức về tri thức linh hồn, trong khi đối với điểm đạo đồ, trực giác luôn là sự mặc khải về mục đích của Shamballa và việc thực hiện từ cả góc độ ngắn hạn và dài hạn của Thiên Cơ. Sự mặc khải được ban cho ở lễ điểm đạo được trao cho linh hồn, được ghi lại bởi “thể trí được giữ vững trong ánh sáng” và sau đó — với tốc độ nhanh hơn hoặc chậm hơn — được chuyển đến não bộ. Do đó, các bạn có thể thấy mục đích thực sự của hệ thống Raja Yoga khi nó rèn luyện cái trí để cuối cùng tiếp nhận được Tam nguyên Tinh thần. Các các bạn cũng có thể thấy lý do tại sao trong nhiều thế kỷ, sự nhấn mạnh của những Huấn sư của Minh triết Ngàn đời về sự cần thiết phải có trí phân biện, đặc biệt đối với các đệ tử dự bị. |
|
I am at this time carrying the current teaching upon initiation a step forward and am seeking to show that it is not essentially a process of soul-personality fusion (though that has to be a preliminary step) but of monad-personality integration, carried forward because of an attained alignment with the soul. Initiation is in fact the essential and inevitable process of transferring the primary triplicity of manifestation into the basic duality of spirit-matter. It is the “dissolution of the intermediary,” and to this the crucifixion and death of the Christ was dedicated and intended to be the revelation, to the initiates of the past 2000 years, of the transmutation of the trinity of manifestation into the duality of purpose. I cannot word this in any other way but the enlightened will comprehend my meaning. The interpreters of the Gospel and many disciples of the Christian dispensation have singularly failed to grasp this revelation; they have laid the emphasis upon the death of the personality, whereas when Christ experienced the “great void of darkness” and chanted aloud the occult mantram “My God, My God, why hast Thou forsaken Me,” he was recognising simultaneously the distinction between His “robe of glory” (symbolised by the [259] partition of His garment by the Roman soldiery) and also calling the attention of all future disciples and initiates to the disappearance of the “middle principle,” the soul; He was projecting (into the world consciousness) the recognition which must come of relation to the Father or the Monad. This great dissolution is culminated for us at the time of the third initiation when the Light of the Monad obliterates the light of the soul and the material atomic light of the threefold personality. But—and here is the point—the recognition of this death and its effects is only symbolically enacted and recognised at the time of the fourth initiation, the Crucifixion. All lesser dissolutions, deaths, renunciations and disappearances of that to which the lower nature holds and is held are enacted in relation to the accustomed aspects of form-life, and of conscious sensitivity and awareness; they are simply preparatory to and symbolic of the final great dissolution of the causal body, consummated at the Crucifixion. This leads to the resurrection or uprising of the personality-soul consciousness (duly fused and blended) into that of the monad. This is finally carried to the point of solar perfection at the Ascension initiation. |
Vào thời điểm này, tôi đang đưa giáo lý về điểm đạo hiện nay tiến thêm một bước nữa, và tôi đang tìm cách chỉ ra rằng về cơ bản đó không phải là một quá trình hợp nhất linh hồn-phàm ngã (mặc dù đó phải là một bước sơ bộ) mà là sự tích hợp chân thần-phàm ngã, được xúc tiến bởi việc đạt được một sự chỉnh hợp với linh hồn. Điểm đạo trên thực tế là quá trình thiết yếu và tất yếu để chuyển tính tam phân ban đầu của sự biểu hiện thành tính nhị phân cơ bản của tinh thần-vật chất. Đó là sự “giải thể trung gian,” và vì vậy việc đóng đinh và cái chết của Đức Christ được dành riêng và nhằm mục đích cho sự mặc khải này, cho những điểm đạo đồ trong 2000 năm qua, về sự chuyển hóa bộ ba của sự biểu hiện thành nhị nguyên của mục đích. Tôi không thể nói điều này theo bất kỳ cách nào khác nhưng những ai được soi sáng sẽ hiểu ý của tôi. Những người giải thích Phúc âm và nhiều đệ tử của Cơ đốc giáo đã rất sai lầm trong việc nắm bắt điều mặc khải này; họ đã nhấn mạnh đến cái chết của phàm ngã, trong khi Đức Christ đã trải nghiệm “khoảng trống lớn của bóng tối” và xướng lớn câu chú nguyện huyền bí “Chúa tôi, Chúa tôi, sao Ngài rời bỏ Con,” Ngài đồng thời nhận ra sự khác biệt giữa “Áo choàng vinh quang” của Ngài (được tượng trưng bởi [259] sự chia cắt tấm áo của Ngài bởi tên lính La Mã) và cũng kêu gọi sự chú ý của tất cả các đệ tử và các điểm đạo đồ tương lai cho sự biến mất của “nguyên khí ở giữa,” là linh hồn; Ngài đang phóng chiếu (vào tâm thức thế giới) sự nhận thức vốn phải đến liên quan đến Cha hay là Chân thần. Sự tan biến vĩ đại này lên đến cực điểm đối với chúng ta vào lần điểm đạo thứ ba khi Ánh sáng của Chân thần xóa bỏ hoàn toàn ánh sáng của linh hồn và ánh sáng nguyên tử vật chất của phàm ngã tam phân. Nhưng—và đây là vấn đề—việc nhận ra cái chết này và những ảnh hưởng của nó chỉ được thực hiện và được nhận ra một cách biểu tượng vào thời điểm lần điểm đạo thứ tư, Thập Giá Hình. Tất cả những sự tan rả, chết, những sự từ bỏ và những sự biến mất nhỏ hơn mà bản chất thấp kém nắm giữ và bị nắm giữ đều được thực hiện trong mối liên hệ đến các khía cạnh quen thuộc của cuộc sống hình tướng, và của sự nhạy cảm và nhận thức hữu thức; chúng là sự chuẩn bị đơn giản và tượng trưng cho sự tan rả vĩ đại cuối cùng của thể nguyên nhân, hoàn tất tại Thập Giá Hình. Điều này dẫn đến sự phục sinh hoặc sự dâng lên của tâm thức phàm ngã-linh hồn (được hợp nhất và hòa trộn một cách thích đáng) trong tâm thức của Chân thần. Điều này cuối cùng được mang đến điểm hoàn thiện thái dương hoàn hảo ở kỳ điểm đạo Thăng thiên. |
|
I have given you this teaching in terms of the Christian presentation as it may be simpler for you to grasp, but there are many other formulations and approaches to these truths and the newer they are the more difficult necessarily are they to present. Only those who are on the immediate verge of initiation will understand; the others will prefer to interpret these truths to themselves in the easier and well-known formulas of the preparatory stage of the at-one-ing of soul and personality. |
Tôi đã đưa ra cho các bạn giáo huấn này theo cách trình bày của Cơ đốc giáo vì nó có thể dễ hiểu hơn đối với các bạn, nhưng có nhiều công thức và cách tiếp cận khác đối với những chân lý này, và những chân lý càng mới thì càng khó trình bày. Chỉ những người đang ở trên ngưỡng cửa của điểm đạo mới hiểu được; những người khác sẽ thích tự giải thích những chân lý này theo những công thức dễ hiểu hơn và quen thuộc về giai đoạn chuẩn bị của quá trình hợp nhất giữa linh hồn và phàm ngã. |
|
The stage of recognising the revelation which is accorded to the initiate of the major Mysteries is itself divided into lesser phases. These might be described as three in number though much is dependent upon the initiation to be taken and the ray of the prepared disciple. These are: |
Giai đoạn nhận biết sự mặc khải được ban cho điểm đạo đồ của các Bí nhiệm lớn tự bản thân được chia thành các giai đoạn nhỏ hơn. Chúng có thể được mô tả là có ba giai đoạn mặc dù nó phần lớn phụ thuộc vào cuộc điểm đạo được thực hiện và cung của người đệ tử được chuẩn bị. Những giai đoạn này là: |
|
1. The Stage of Penetration. This refers to the piercing through the world glamour and thereby effecting two objectives: [260] |
1. Giai đoạn Thâm nhập. Điều này đề cập đến việc xuyên qua ảo cảm của thế gian và do đó đạt được hai mục tiêu: [260] |
|
a. The Light of the Spiritual Triad streams into the consciousness of the initiate, via the antahkarana, so that the Plan for humanity and the divine Purpose in relation to the planet become increasingly clear. This initiates relation to Shamballa. |
a. Ánh sáng của Tam nguyên Tinh thần tuôn đổ vào tâm thức của điểm đạo đồ, thông qua antahkarana, do đó Thiên Cơ cho nhân loại và Thiên Ý thiêng liêng liên quan đến hành tinh ngày càng trở nên rõ ràng. Điều này bắt đầu mối liên hệ với Shamballa. |
|
b. Part of the world glamour is thus dissipated and thus a clarifying of the astral plane takes place and humanity is consequently served. Every disciple who arrives at a recognition of the initiate-revelation releases light and dissipates a part of the glamour which blinds the mass of men. The sixth ray disciple takes far longer over this stage of penetration than do disciples on the other rays but only in this world cycle. |
b. Nhờ vậy, một phần của ảo cảm thế gian bị tiêu tan và do đó việc làm trong sạch cõi cảm dục diễn ra, và nhờ đó phụng sự nhân loại. Mỗi đệ tử khi đạt đến một sự nhận biết sự mặc khải-điểm đạo đồ giải phóng ánh sáng và làm tiêu tan một phần của ảo cảm vốn làm mù quáng đa số con người. Đệ tử cung sáu mất nhiều thời gian hơn để vượt qua giai đoạn thâm nhập này so với các đệ tử ở cung khác, nhưng chỉ trong chu kỳ thế giới này. |
|
2. The Stage of Polarisation. This is the stage wherein the initiate, having let in the light and penetrated through the dense fogs and mists of the world of glamour, suddenly realises just what he has done and takes a firm stand, correctly oriented towards the vision (or to word it otherwise towards Shamballa). One of the things which must be grasped is that as the initiate is a point of hierarchical life (either on the periphery of the Hierarchy, or within the circle or at the centre) he is a definite part of the hierarchical effort. That effort is directed towards an orientation to the greater centre of life—Shamballa. Students are apt to believe that the orientation of the Hierarchy is towards humanity. That is not so. They respond to human need when the demand is effective, and are custodians of the Plan; but the orientation of the entire hierarchical group is towards the first aspect, as it expresses the Will of the Logos and manifests through Shamballa. Just as the disciple has to do two things: polarise his position by establishing right human relations and at the same time become a conscious, practising member of the Kingdom of God, the Hierarchy, so the initiate—upon a higher turn of the spiral—has to establish right relations with the Hierarchy and become simultaneously conscious of Shamballa. |
2. Giai đoạn Phân cực. Đây là giai đoạn trong đó điểm đạo đồ, khi đã đón nhận ánh sáng và xuyên qua những màn sương mù dày đặc và sương mù của thế giới ảo cảm, đột nhiên nhận ra những gì mình đã làm và có một lập trường vững chắc, định hướng đúng đắn về tầm nhìn (hay nói cách khác là hướng đến Shamballa). Một trong những điều cần phải nắm bắt là điểm đạo đồ là một điểm của sự sống huyền giai (hoặc ở ngoại vi, hoặc ở bên trong vòng tròn hoặc ở trung tâm của Thánh đoàn) thì y là một phần xác định của nỗ lực huyền giai. Nỗ lực đó hướng tới một định hướng vào trung tâm lớn hơn của sự sống— Shamballa. Các môn sinh hay có khuynh hướng tin rằng định hướng của Thánh đoàn là hướng tới nhân loại. Nhưng không phải vậy. Thánh đoàn đáp ứng mong cầu của con người khi nhu cầu có tính hiệu quả, và là những người trông coi Thiên Cơ; nhưng định hướng của toàn bộ tập thể huyền giai là hướng tới khía cạnh thứ nhất, vì nó thể hiện Ý chí của Thượng đế và biểu lộ thông qua Shamballa. Cũng như người đệ tử phải làm hai việc: phân cực vị trí của y bằng cách thiết lập các mối liên giao đúng đắn giữa con người và đồng thời trở thành một thành viên hữu thức và đang rèn luyện trong Thiên giới, Thánh đoàn, vì vậy điểm đạo đồ — trên một vòng xoáy cao hơn—phải thiết lập các mối liên giao đúng đắn với Thánh đoàn và đồng thời trở nên có ý thức về Shamballa. |
|
All I can impart here is the desired point of attainment [261] but the phraseology is relatively meaningless, except to those who are experienced in the processes of initiation to a greater or less degree, according to the initiations already taken. This polarisation, this point of focussed effort and this attained orientation is the basic idea lying behind the phrase “the Mountain of Initiation.” The initiate “plants his feet upon the mountain top and from that point of altitude perceives the thought of God, visions the dream within the Mind of God, follows God’s eye from central point to outer goal and sees himself as all that is and yet within the whole.” |
Tất cả những gì tôi có thể truyền đạt ở đây là điểm thành tựu được mong muốn [261] nhưng cụm từ này tương đối vô nghĩa, ngoại trừ những người đã có kinh nghiệm trong các quá trình điểm đạo ở mức độ nào đó, tùy theo các cuộc điểm đạo đã được thực hiện. Sự phân cực này, điểm nỗ lực tập trung này và định hướng đạt được này là ý tưởng cơ bản nằm sau cụm từ “Ngọn núi Điểm đạo.” Điểm đạo đồ “đặt chân lên đỉnh núi và từ điểm cao đó nhận thức được tư tưởng của Thượng đế, nhìn thấy giấc mơ bên trong Trí Thượng đế, dõi theo con mắt của Thượng đế từ điểm trung tâm đến mục tiêu bên ngoài và thấy chính mình là tất cả nhưng vẫn ở trong tổng thể.” |
|
3. The Stage of Precipitation. Having thus identified himself through penetration and polarisation with the Plan and with the Will of God (which is the key to Shamballa), he then proceeds—as a result of this triple recognition—to do his share in materialising the Plan and in bringing through into outer manifestation and expression as much of that Plan as he can. He thus becomes first of all an outpost of the Hierarchy (which of necessity means sensitivity to the Shamballa energy), and then increasingly an Agent of Light—the Light universal, or the Light of the Monad. |
3. Giai đoạn ngưng tụ. Sau khi đã xác định đồng hóa bản thân với Thiên Cơ và với Ý chí của Thượng đế (vốn là chìa khóa đến Shamballa) thông qua việc thâm nhập và phân cực, y tiến hành — như là một kết quả của sự nhận ra tam phân này —góp phần mình trong việc hiện thực hóa Thiên Cơ, và trong việc đưa vào biểu lộ bên ngoài và thể hiện Thiên Cơ đó nhiều nhất có thể. Do đó, trước hết y trở thành một tiền đồn của Thánh đoàn (điều cần thiết là nhạy cảm với năng lượng Shamballa), và sau đó ngày càng trở thành một Tác nhân của Ánh sáng — Ánh sáng phổ quát, hay Ánh sáng của Chân thần. |
|
I have no more to say today anent initiation. Ponder upon that which I have given and grasp as far as you imaginatively can the magnificence of the initiatory process—so vastly more inclusive than has been indicated by any of the teaching given hitherto. After the war is over and the new world, with its coming civilisation and culture begins to take shape, an increasing emphasis will be laid upon the purpose of the Controlling Deity or basic Life or Energy as it is working out through humanity. This will be done by those who are trained esotericists. Much that is now being said by world leaders and serving workers in every nation is an indication of an unconscious response to the Shamballa energy. Towards the end of the century and during the first few decades of the twenty-first century, teaching anent Shamballa will be given forth. The effort of the abstract mind of man will be towards the comprehension of this, just as the [262] goal of hierarchical contact marks the present effort of the disciple. Glamour is disappearing; illusions are being dissipated; the stage of penetration into a new dimension, into a new phase of effort and of attainment is rapidly being promulgated. This is being done in spite of all the horror and agony and will be one of the first results of respite from war. The war itself is shattering illusions, revealing the need for change and producing a demand for a future new world and a coming beauty in living which will be revolutionary and a material response to an intensive initiation process in which all disciples can share and for which advanced aspirants can prepare themselves. |
Hôm nay, tôi không còn gì để nói thêm về sự điểm đạo nữa. Hãy suy ngẫm về điều mà tôi đã đưa ra và nắm bắt đến mức các bạn có thể tưởng tượng được về vẻ tráng lệ của quá trình điểm đạo— bao trùm hơn rất nhiều so với những gì được chỉ ra bởi bất kỳ giáo huấn nào cho đến nay. Sau khi chiến tranh kết thúc và thế giới mới, với nền văn minh và văn hóa sắp đến của nó bắt đầu hình thành, một sự nhấn mạnh ngày càng tăng được đặt vào mục đích của Thượng Đế Kiểm Soát hoặc Sự sống hoặc Năng lượng cơ bản khi nó hoạt động thông qua nhân loại. Điều này sẽ được thực hiện bởi những nhà huyền bí học được đào tạo. Phần lớn những gì mà các nhà lãnh đạo thế giới và những người phụng sự hiện nay ở mọi quốc gia đang nói là một dấu hiệu của một phản ứng vô thức đối với năng lượng Shamballa. Cho đến cuối thế kỷ này và trong vài thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, giáo lý có liên quan với Shamballa sẽ được đưa ra. Nỗ lực của trí trừu tượng của con người sẽ hướng tới nhận thức được điều này, cũng như mục tiêu [262] của sự tiếp xúc huyền giai ghi dấu nỗ lực hiện tại của người đệ tử. Ảo cảm đang biến mất; các ảo tưởng đang bị tiêu tan; giai đoạn thâm nhập vào một chiều đo mới, vào một giai đoạn mới của nỗ lực và thành tựu đang nhanh chóng được truyền bá. Điều này đang được thực hiện bất chấp mọi sự kinh hoàng và đau đớn và sẽ là một trong những kết quả đầu tiên của thời gian nghỉ ngơi sau chiến tranh. Bản thân cuộc chiến đang làm tan vỡ những ảo tưởng, bộc lộ nhu cầu thay đổi và tạo ra một nhu cầu về một thế giới mới trong tương lai và một vẻ đẹp sắp tới trong cuộc sống sẽ mang tính cách mạng và là một sự đáp ứng vật chất cho một quá trình điểm đạo mạnh mẽ, mà mọi đệ tử có thể chia sẻ và những người chí nguyện tiến bộ có thể tự chuẩn bị cho điều đó. |
|
THE FORMULAS |
CÔNG THỨC |
|
Now that you have, presumably, brooded for some months on my instructions on the Formulas, I will seek to impart to you some of the deeper implications. |
Có lẽ giờ đây các bạn đã nghiền ngẫm được các hướng dẫn của tôi về Công thức trong vài tháng rồi, tôi sẽ tìm cách truyền đạt cho các bạn một số gợi ý sâu hơn. |
|
Formula One. — “A line of fire between two blazing points. A stream of water blue, again a line, emerging from the earth and ending in the ocean. A tree with root above and flowers below. |
Công thức Một. — “Một đường lửa giữa hai điểm rực sáng. Một dòng nước xanh lơ, lại là một đường thẳng, hiện lên từ mặt đất và kết thúc ở đại dương. Một cái cây có rễ ở trên và những bông hoa ở dưới. |
|
“Out of the fire and always at the midway point appears the eye of God (Shiva). Upon the stream, between the two extremes, there floats the eye of vision; a thread of light unites the two. |
“Từ ngọn lửa, và luôn ở giữa, xuất hiện con mắt của Thượng Đế (Shiva). Trên dòng suối, giữa hai thái cực, có con mắt của tầm nhìn trôi nổi; một sợi ánh sáng kết hợp hai thái cực. |
|
“Deep in the tree, between the root and flowers, the eye again is seen. The eye that knows, the eye that sees, the directing eye—one made of fire, one fluid as the sea, and two which look from here to there. Fire, water and the earth—all need the vital air. The air is life. The air is God.” |
“Sâu trong cây, giữa rễ và những bông hoa, con mắt lại được nhìn thấy. Con mắt biết, con mắt thấy, con mắt chỉ đạo — một con mắt làm bằng lửa, một con mắt linh động như biển cả, và hai con mắt nhìn từ đây tới đó. Lửa, nước và đất — tất cả đều cần không khí sống còn. Không khí là sự sống. Không khí là Thượng đế”. |
|
These formulas and their implications have caused some of you concern because of their extreme difficulty of interpretation. I would ask you to bear in mind that you are individually [263] quite unable to grasp the extent of your own comprehension because the mind (the major conditioning factor in a disciple’s life in the early stages of his training) knows far more than the brain is capable of recording. Later, in the life of the initiate, the soul registers consciously for the disciple who can identify himself with the soul, far more than the concrete mind is able to register. I would ask you, therefore, to cease gauging your capacity to understand and instead simply to brood and reflect. |
Những công thức này và hàm ý của chúng đã khiến một số các bạn lo lắng vì chúng cực kỳ khó giải thích. Tôi yêu cầu các bạn lưu ý rằng cá nhân các bạn [263] hoàn toàn không thể nắm bắt được mức độ hiểu biết của chính mình bởi vì tâm trí (yếu tố cơ bản quan trọng trong cuộc sống của một đệ tử trong giai đoạn đầu của quá trình huấn luyện của y) biết nhiều hơn khả năng ghi lại của não bộ. Về sau, trong cuộc sống của điểm đạo đồ, linh hồn ghi nhận một cách hữu thức đối với vị đệ tử người mà có thể đồng nhất với chính mình như là linh hồn, nhiều hơn mức mà cái trí cụ thể có thể ghi nhận. Do đó, tôi sẽ yêu cầu các bạn ngừng đánh giá khả năng hiểu biết của các bạn và thay vào đó chỉ đơn giản là nghiền ngẫm và suy ngẫm. |
|
Let me briefly summarise for you some of the things I indicated anent these formulas in my previous instructions: |
Hãy để tôi tóm tắt ngắn gọn cho các bạn một số điều tôi đã chỉ ra liên quan đến các công thức này trong các hướng dẫn trước đây của tôi: |
|
1. They are concerned with the six relationships, as the disciple succeeds in establishing them. |
1. Chúng được xem xét đến sáu mối quan hệ, khi người đệ tử thành công trong việc thiết lập chúng. |
|
2. These six relationships are not six initiations but six intermediate expansions of consciousness, occurring between the major initiations. |
2. Sáu mối quan hệ này không phải là sáu cuộc điểm đạo mà là sáu sự mở rộng trung gian của tâm thức, xảy ra giữa các cuộc điểm đạo chính. |
|
3. They are definitely formulas of integration: |
3. Chúng chắc chắn là công thức tích hợp: |
|
a. They concern integration progressively into a Master’s group. |
a. Chúng liên quan đến việc tích hợp dần vào một nhóm Chân sư. |
|
b. They also concern integration into some state of group sensitivity, on some one plane, for consciousness of sensitive response is the keynote of all the planes throughout the solar system. |
b. Chúng cũng liên quan đến việc tích hợp vào một số trạng thái nhạy cảm của nhóm, trên một cõi nào đó, vì tâm thức của phản ứng nhạy cảm là chủ âm của tất cả các cõi trong hệ mặt trời. |
|
4. They are also formulas of revelation. This is peculiarly so in connection with Formula One. They bring about, when rightly used: |
4. Chúng cũng là công thức của sự mặc khải. Điều này đặc biệt liên quan đến Công thức Một. Khi được sử dụng đúng cách, chúng mang lại: |
|
a. The revelation of group feeling. |
a. Sự tiết lộ của cảm giác nhóm. |
|
b. The revelation of the Master as He is, the centre of light and power within the circle. |
b. Sự tiết lộ về Chân sư như Ngài vốn là, trung tâm của ánh sáng và quyền năng trong vòng tròn. |
|
c. The revelation of the point of life at the centre of all forms. |
c. Sự tiết lộ về điểm của sự sống ở trung tâm của mọi hình tướng. |
|
These effects, resulting from right comprehension of the formulas, might be regarded as reactions—automatic and inevitable; I used this word “reaction” in my last instruction. These reactions are frequently, and I might say usually, unconscious and it is only gradually that the disciple wakes up to the fact that by quiet reflection upon the formula, certain [264] expansions of consciousness, a greater sensitivity and an intuitive recognition of the hitherto unseen and unrealised have wrought definite changes in his subjective nature. He does the required work and the results naturally and simply happen. |
Những tác động này, là kết quả từ sự hiểu biết đúng các công thức, có thể được coi như các phản ứng — tự động và không thể tránh khỏi; Tôi đã sử dụng từ “phản ứng” này trong hướng dẫn cuối cùng của tôi. Những phản ứng này thường xuyên xảy ra vô thức, và tôi có thể nói thường là vậy, và chỉ dần dần người đệ tử tỉnh thức với thực tế là nhờ sự suy tư tĩnh lặng đối với công thức, sự mở rộng [264] nhất định của tâm thức, một sự nhạy cảm hơn và một sự nhận biết trực giác về những điều không nhìn thấy và không nhận ra cho đến nay đã tạo ra những thay đổi nhất định trong bản chất bên trong của y. Y làm công việc được yêu cầu và các kết quả một cách tự nhiên và đơn giản xảy ra. |
|
Here is a hint as to the need for occult obedience. I have the responsibility of indicating to you the work I want done and the steps to be taken. You subsequently have to do the work. Most of you, living normally as you do in the world of effects and not in the world of causes, are preoccupied with the possible results and the phenomenal differences (if I might call them so) which are expected by you to eventuate from the work. Therefore, instead of concentrating upon exactitude of work and meticulous obedience, your energy goes into the thought of what will happen, into the consideration of the difficulties of the work, and into your belief that no results are demonstrating in your particular case. Primarily what I am doing in giving you these formulas is to aid you to work in the world of causes and so draw you consciously out of the world of effects. Therefore, I would ask you to do the indicated work, to concentrate your minds upon these formulas of power—”working without attachment,” as the Gita expresses it—and refrain from looking for results, knowing that they will be there, e’en though unrecognised by you, until your focus is more definitely subjective. I did not say “introspective,” my brother, but “subjective.” To be an introvert really means that you, as a thinking personality, are always looking in to your inner feeling and thought life. That is not living subjectively; it is living as an outer observer who looks within. To live subjectively means that the focus of your consciousness is within and that from that point you look in two directions: outward at the personality upon the physical plane and inward at the soul. Ponder on this. The distinction is very real and one that you should grasp. The man who knows the difference between living an introspective life and a subjective life is well on the way to being a true esotericist. |
Đây là một gợi ý về nhu cầu của sự vâng lời huyền bí. Tôi có trách nhiệm chỉ ra cho các bạn công việc tôi muốn làm và các bước cần thực hiện. Sau đó, các bạn phải thực hiện công việc đó. Hầu hết các bạn, sống bình thường như các bạn đang làm trong thế giới của những tác động chứ không phải trong thế giới của những nguyên nhân, đều bận tâm đến những kết quả có thể xảy ra và những khác biệt hiện tượng (nếu tôi có thể gọi như vậy) mà các bạn mong đợi sẽ xảy ra từ công việc. Do đó, thay vì tập trung vào sự chính xác của công việc và sự tuân thủ tỉ mỉ, năng lượng của các bạn sẽ dồn vào tư tưởng về những gì sẽ xảy ra, xem xét những khó khăn của công việc và tin tưởng rằng không có kết quả nào đang biểu lộ trong trường hợp cụ thể của các bạn. Chủ yếu những gì tôi đang làm trong việc đưa ra cho các bạn những công thức này là nhằm hỗ trợ các bạn làm việc trong thế giới của các nguyên nhân, và do đó thu hút các bạn ra khỏi thế giới của các kết quả một cách hữu thức. Vì vậy, tôi sẽ yêu cầu các bạn làm công việc được chỉ định, tập trung tâm trí của các bạn vào những công thức quyền lực này — “làm việc mà không có sự bám chấp”, như kinh Gita diễn đạt nó — và không tìm kiếm kết quả, biết rằng chúng sẽ ở đó, thậm chí mặc dù không được các bạn ghi nhận, cho đến khi sự tập trung của các bạn chắc chắn là có tính nội tại chủ thể hơn. Tôi không nói “xem xét nội tâm”, các huynh đệ của tôi, mà là “nội tại chủ thể”. Trở thành một người hướng nội thực sự có nghĩa là các bạn, với tư cách là một phàm ngã tư duy, luôn nhìn vào cảm giác bên trong và cuộc sống tư tưởng của mình. Đó không phải là sống một cách nội tại chủ thể; đó là đang sống như một người quan sát bên ngoài nhìn vào bên trong. Sống nội tại chủ thể có nghĩa là trọng tâm ý thức của các bạn là ở bên trong và từ điểm đó các bạn nhìn theo hai hướng: hướng ra bên ngoài về phàm ngã trên cõi vật chất và hướng vào bên trong đến linh hồn. Hãy suy ngẫm về điều này. Sự phân biệt là rất thực tế và là điều mà các bạn nên hiểu thấu. Người biết được sự khác biệt giữa sống một cuộc sống nội quan và sống một cuộc sống nội tại chủ thể đang trên con đường trở thành một nhà huyền bí thực sự. |
|
Let us look for a minute at Formula One and seek its [265] simplest interpretation, and yet an advanced one from the angle of the neophyte (which you should not be). I will take one or two general ideas which emerge from an analysis of the whole and then a few sentences which—when interpreted—may throw light upon certain basic and practical significances. |
Chúng ta hãy dành một phút chú ý cho Công thức Một và tìm kiếm [265] cách giải thích đơn giản nhất của nó, thế nhưng đó lại là một giải thích nâng cao từ góc độ của tân môn sinh (mà các bạn không phải là vậy). Tôi sẽ lấy một hoặc hai ý tưởng tổng quát xuất hiện từ sự phân tích tổng thể và sau đó là một vài câu mà — khi được giải thích — có thể làm sáng tỏ những ý nghĩa cơ bản và thực tế nhất định. |
|
I would first have you note the emphasis upon the “eye” in this formula. It is a keynote and appears in various guises. Behind all the ideas lies the concept of seeing, of a Seeing One, looking on at the created Whole. This same concept is to be found in the fundamental Masonic symbol of the Eye of God which dominates everything within the Temple. In this formula we have: |
Trước tiên, tôi muốn các bạn lưu ý sự nhấn mạnh vào “con mắt” trong công thức này. Nó là chủ âm và xuất hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Đằng sau tất cả các ý tưởng là ý niệm về cái nhìn, về Cái Đang Thấy, đang nhìn Tổng Thể được tạo ra. Khái niệm tương tự này cũng được tìm thấy trong biểu tượng cơ bản của Hội Tam Điểm là Con mắt của Thượng đế vốn thống trị mọi thứ bên trong Thánh điện. Trong công thức này, chúng ta có: |
|
1. The Eye of God. Shiva is the first Person of the Trinity, the Destroyer, but at the same time the Final Absorber, the Whole and yet the part. This is the organ of the divine Will or Power, the Eye, through Whose directed gaze the power flows outward to its created Whole. In the case of the human spirit, it is the Monad. |
1. Con mắt của Thượng đế. Shiva là Đấng đầu tiên trong Ba Ngôi, Đấng Hủy diệt, nhưng đồng thời là Đấng Hấp Thu Cuối cùng, Tổng thể thế nhưng từng phần. Đây là cơ quan của Ý chí hay Quyền năng thiêng liêng, Con mắt, thông qua cái nhìn chằm chằm trực tiếp của Ngài sức mạnh sẽ chảy ra bên ngoài đến Tổng thể được tạo ra của Ngài. Trong trường hợp của tinh thần con người, đó là Chân thần. |
|
2. The Eye of Vision, indicating this time not the directing energy, but the conscious Observer, the Soul, whether cosmic, solar or human. |
2. Con mắt của Tầm nhìn, chỉ ra rằng đây không phải là năng lượng chỉ đạo, mà là Người quan sát có ý thức, Linh hồn, cho dù là ở cấp độ vũ trụ, thái dương hay con người. |
|
3. The Eye that Knows. This is the disciple who, from stage to stage, reacts increasingly to the direction of the spiritual will and to the growth of sensitive response, and in both his brain and his mind consciousness in the three worlds knows. That knowledge is limited in the neophyte, deepening in the disciple and profound in the Master, but it is all related to vision. |
3. Con mắt Hiểu biết. Đây là người đệ tử, người mà từ giai đoạn này sang giai đoạn khác, đáp ứng ngày càng tăng với sự chỉ đạo của ý chí tinh thần và sự tăng trưởng của phản ứng nhạy cảm, trong cả bộ não và tâm thức thể trí của y về các kiến thức trong ba cõi giới. Kiến thức đó giới hạn ở người mới học, ngày càng sâu sắc trong người đệ tử và ngày càng uyên thâm ở cấp độ Chân sư, nhưng tất cả đều liên quan đến tầm nhìn. |
|
4. At the same time this formula tells us that there are four eyes: |
4. Đồng thời công thức này cho chúng ta biết rằng có bốn con mắt: |
|
a. “One made of fire” . . . the eye of God. |
a. “Một con mắt làm bằng lửa” . . . con mắt của Thượng đế. |
|
b. “One fluid as the sea” . . . the eye of vision. |
b. “Một con mắt linh động như biển cả” . . . con mắt của tầm nhìn. |
|
c. “And two which look from here to there, the eye that knows.” These are the eye of the disciple and the eye of the personality. There is a clue to this in a statement in The Secret Doctrine that the right eye [266] is the eye of buddhi and the left eye the eye of manas—these are the eyes of the high grade integrated personality, en rapport with the soul. |
c. “Và hai con mắt nhìn từ chỗ này sang chỗ kia, con mắt hiểu biết.” Đây là con mắt của người đệ tử và con mắt của phàm ngã. Có một manh mối cho điều này trong một tuyên bố ở Giáo Lý Bí Nhiệm rằng mắt phải [266] là con mắt của bồ đề và mắt trái là con mắt của trí tuệ — đây là đôi mắt của phàm ngã tích hợp cấp độ cao, hòa hợp với linh hồn. |
|
d. “Fire, water and the earth all need the vital air. The air is life.” The clue again to this is to be found in The Secret Doctrine, I.80 [1st ed: 49], where we find the words “Matter is the Vehicle for the manifestation of Soul on this plane of existence, and Soul is the Vehicle on a higher plane for the manifestation of Spirit and these three are a Trinity, synthesised by Life, which pervades them all.” |
d. “Lửa, nước và đất đều cần không khí sống. Không khí là sự sống.” Một lần nữa manh mối cho điều này lại được tìm thấy trong Giáo lý Bí nhiệm, I.80, nơi chúng ta tìm thấy dòng chữ “Vật chất là Vận cụ cho sự biểu lộ của Linh hồn trên cõi hiện hữu này, và Linh hồn là Vận cụ trên cõi cao hơn cho sự biểu lộ của Tinh Thần và ba điều này là Ba Ngôi, được tổng hợp bởi Sự sống vốn ngập tràn trong tất cả.” |
|
You can see, therefore, upon careful reflection how simple this matter is, exoterically considered, and how the key to understanding lies in conscious identification with all three, both sequentially through growth and simultaneously through initiation. I have here given you an occult hint. |
Do đó, khi suy ngẫm cẩn thận, các bạn có thể thấy vấn đề này đơn giản như thế nào khi được xem xét về mặt ngoại môn, và làm thế nào mà chìa khóa để thấu hiểu nằm ở sự đồng nhất hữu thức với cả ba, cả hai tuần tự thông qua sự tăng trưởng và đồng thời thông qua điểm đạo. Ở đây tôi đã đưa cho các bạn một gợi ý huyền bí. |
|
Secondly, I would have you note how this formula refers to the antahkarana: |
Thứ hai, tôi muốn các bạn lưu ý cách công thức này đề cập đến antahkarana: |
|
1. “A line of fire between two blazing points”—the monad and the soul. |
1. “Một tuyến lửa giữa hai điểm rực sáng” —chân thần và linh hồn. |
|
2. “A line, emerging from the earth and ending in the ocean”—referring to the sutratma which, when the antahkarana is completed, blends all types of consciousness, spirit and matter, into one living whole, the ultimate Reality. |
2. “Một tuyến, nổi lên từ mặt đất và kết thúc trong đại dương” — liên quan đến tuyến sutratma, khi antahkarana được hoàn thành, kết hợp tất cả các dạng tâm thức, tinh thần và vật chất, thành một tổng thể sống động, một Thực Tại tối hậu. |
|
These are some of the more obvious significances; deeper ones will emerge when these are realities and not speculative theories in your life. It will be apparent to you consequently the need for definite work upon the instructions given you upon the antahkarana. In connection with the above, I would call your attention to some words I wrote in my last instruction to you in reference to Formula Two. I there said that alignment “will be our next consideration when Formula One has brought about certain changes in consciousness. I shall not consider these formulas at present. I will only point out their major implications which will be seldom what you think, conditioned as you are by the terms and the interpretations of the lower concrete mind.” [267] |
Đây là một số ý nghĩa rõ ràng hơn; những điều sâu sắc hơn sẽ xuất hiện khi những điều này là những thực tế chứ không phải những lý thuyết suy đoán trong cuộc sống của các bạn. Do đó, các bạn sẽ thấy rõ sự cần thiết phải làm việc rõ ràng theo những hướng dẫn được ban cho các bạn về antahkarana. Liên quan đến vấn đề trên, tôi muốn các bạn chú ý đến một số từ mà tôi đã viết trong hướng dẫn trước cho các bạn liên quan đến Công thức Hai. Ở đó tôi đã nói rằng sự chỉnh hợp “sẽ là sự xem xét tiếp theo của chúng ta khi Công thức Một đã mang lại những thay đổi nhất định trong tâm thức. Hiện tại, tôi sẽ không xem xét các công thức này. Tôi sẽ chỉ chỉ ra những hàm ý chính của chúng mà hiếm khi như các bạn nghĩ, bởi vì các bạn bị chi phối bởi những thuật ngữ và sự giải thích của hạ trí cụ thể.” [267] |
PART III
|
In past instructions we have seen that teaching upon the subject of initiation is given by me (as by all the Masters) in three ways: |
Trong những chỉ dẫn trước đây, chúng ta đã thấy rằng việc giảng dạy về chủ đề điểm đạo được đưa ra bởi tôi (cũng như bởi tất cả các Chân sư) theo ba cách: |
|
1. By Hints. These—if seen and followed—will evoke the intuition. Initiation is never taken unless the intuition is becoming active. Spiritual instinct, the lowest aspect of the intuition, indicates readiness for the first initiation; an illumined mind and spiritual intelligence are the definite sign that a man can take the second initiation, whilst spiritual perception or intuitive instinct signifies preparedness for the Transfiguration, the third initiation. |
1. Bằng những gợi ý. Những gợi ý này — nếu được nhìn thấy và làm theo — sẽ khơi gợi trực giác. Điểm đạo không bao giờ được thực hiện trừ khi trực giác đang trở nên năng động. Bản năng tinh thần, khía cạnh thấp nhất của trực giác, cho thấy sự sẵn sàng cho lần điểm đạo thứ nhất; một thể trí được soi sáng và trí tuệ tinh thần là dấu hiệu chắc chắn rằng một người có thể thực hiện lần điểm đạo thứ hai, trong khi nhận thức tinh thần hoặc bản năng trực giác biểu thị sự sẵn sàng cho Sự Biến Hình, lần điểm đạo thứ ba. |
|
2. By the use of certain great Formulas (one of which has already been given to you) certain definite revelations become possible. These formulas are six in number; they contain the six prerequisites for initiation, and they are sometimes in the form of words and sometimes in the form of symbols. These serve to develop the “initiate hearing” and the “initiate sight.” They deal with the six relationships: |
2. Bằng cách sử dụng những Công Thức vĩ đại nhất định (một trong số đó đã được trao cho các bạn), những tiết lộ rõ ràng nhất định sẽ trở nên khả thi. Những công thức này có sáu loại; chúng chứa đựng sáu điều kiện tiên quyết cho điểm đạo, và đôi khi chúng ở dạng từ ngữ và đôi khi ở dạng biểu tượng. Chúng phục vụ để phát triển “thính giác điểm đạo đồ” và “thị giác điểm đạo đồ”. Chúng đề cập đến sáu mối quan hệ: |
|
Formula One . . . Deals with integration into an Ashram and is concerned with the revelation of group feeling. It is related to the astral nature. |
Công Thức Thứ Nhất… Đề cập đến sự tích hợp vào một ashram và liên quan đến sự bộc lộ của cảm giác nhóm. Nó có liên hệ đến bản chất cảm dục. |
|
Formula Two . . . Deals with alignment. It concerns the revelation of the group antahkarana and is related to the mind nature, in which the antahkarana is anchored. |
Công Thức Thứ Hai… Đề cập đến sự chỉnh hợp. Nó liên quan đến sự bộc lộ của antahkarana nhóm và có liên hệ đến bản chất trí tuệ, nơi antahkarana được neo vào. |
|
Formula Three . . . Deals with certain changes in the soul nature. It is concerned with the relation of time and space, and is therefore related to the Eternal Now. |
Công Thức Thứ Ba… Đề cập đến những thay đổi nhất định trong bản chất linh hồn. Nó liên quan đến mối quan hệ giữa thời gian và không gian, và do đó liên hệ đến Hiện Tại Vĩnh Cửu. |
|
Formula Four . . . Deals with the Life aspect. It is concerned with the revelation of the nature of life, and is therefore related to the circulation and interplay of energy. [268] |
Công Thức Thứ Tư… Đề cập đến khía cạnh Sự Sống. Nó liên quan đến sự tiết lộ bản chất của sự sống, và do đó liên hệ đến sự lưu thông và tương tác của năng lượng. [268] |
|
Formula Five . . . Deals with the Will aspect. It is concerned with the revelation of divine Purpose, and is therefore related to Shamballa. |
Công Thức Thứ Năm… Đề cập đến khía cạnh Ý Chí. Nó liên quan đến sự tiết lộ Mục đích thiêng liêng, và do đó liên hệ đến Shamballa. |
|
Formula Six . . . Deals with the nature of death. It is concerned with the revelation of the constructive work of the Destroyer aspect. It is therefore related to the passing Piscean Age and with all processes of “abstraction.” |
Công Thức Thứ Sáu… Đề cập đến bản chất của cái chết. Nó liên quan đến sự tiết lộ công việc xây dựng của khía cạnh Kẻ Hủy Diệt. Do đó, nó liên quan đến thời đại Song Ngư đang qua đi và với tất cả các quá trình “trừu tượng hóa.” |
|
These Formulas have seven interpretations; only three of them are, however, possible of discovery by the disciple in training at this particular time, because only the light from the Spiritual Triad can convey this type of revelation and interpretation. |
Những Công Thức này có bảy cách giải thích; tuy nhiên, chỉ có ba trong số đó có thể được khám phá bởi đệ tử đang được đào tạo vào thời điểm cụ thể này, bởi vì chỉ có ánh sáng từ Tam nguyên tinh thần mới có thể truyền đạt loại tiết lộ và giải thích này. |
|
3. Through the presentation of Points of Revelation: |
3. Thông qua việc trình bày các Điểm Mặc Khải: |
|
a. The present vision must become the past experience. Its light of revelation will fade out as the experience becomes a habit, and therefore falls below the threshold of consciousness. |
a. Tầm nhìn hiện tại phải trở thành kinh nghiệm quá khứ. Ánh sáng của sự mặc khải sẽ mờ dần khi kinh nghiệm trở thành thói quen, và do đó rơi xuống dưới ngưỡng của tâm thức. |
|
b. A new and totally different recognition must assume control; this will express the initiate-understanding. |
b. Một sự nhận thức mới và hoàn toàn khác biệt phải nắm quyền kiểm soát; điều này sẽ thể hiện sự thấu hiểu của điểm đạo đồ. |
|
c. These points of revelation appear when the disciple realises that initiation is not a process of soul-personality fusion but of Monad-personality integration. |
c. Những điểm mặc khải này xuất hiện khi đệ tử nhận ra rằng điểm đạo không phải là một quá trình dung hợp linh hồn – phàm ngã mà là sự tích hợp Chân thần – phàm ngã. |
|
d. These points of revelation assume three stages of recognition: |
d. Những điểm mặc khải này có ba giai đoạn nhận thức: |
|
The stage of Penetration. |
Giai đoạn Thâm nhập. |
|
The stage of Polarisation. |
Giai đoạn Phân cực. |
|
The stage of Precipitation. |
Giai đoạn ngưng tụ. |
|
The approach of the disciple to the entire subject of initiation differs today from that of earlier times—even so short a time ago as fifty years. It is essential that you grasp the fact that his approach is now mental, and not as heretofore, devotional and emotional and aspirational. It has hitherto been kama-manasic, which connotes a blend of lofty aspiration, of lower mind attention and focussing, and of attention to the purely physical disciplines. Today, the true [269] disciple who is ready for this great step is in control of his emotional apparatus; his lower mind is keenly alert and focussed, and his higher mind is definitely en rapport with the lower, via the antahkarana. Perhaps clarity of perception will come to you if you realise that the conditional demands of the Initiator (until the period of the year 1400 A.D.) were for conscious soul contact; today, it is for a measure of established relation to the Spiritual Triad, via the antahkarana. This is a very different matter; soul contact is necessarily present, but is not deemed to give all that the initiate of the New Age must have. Love is of course needed; wisdom must be present, but the sense of universality is also required and indicates, when present, a measure of monadic inflow. This inflow comes naturally via the antahkarana or across the “rainbow bridge.” Hence, you will see the reason for the emphasis which I have lately been giving to the building of this bridge. A great change in the human consciousness made it possible—in the year 1425 A.D.—to inaugurate changes in the requirements for initiation and definitely to lift the standard. Five hundred years have gone by since then, and the purpose of these changes in discipline and training have proved well warranted. In spite of all signs to the contrary, in spite of the world war with its attendant horrors and in spite of the apparent unawakened attitude of the masses, a very real measure of monadic energy is present. Humanity will increasingly demonstrate this as the insistent demand for unity and the growth of internationalism will demonstrate. The objectives, goals, theories, aims and determinations of the bulk of mankind already testify to this. |
Cách tiếp cận của đệ tử đối với toàn bộ chủ đề điểm đạo ngày nay khác với thời xưa — thậm chí cách đây chỉ năm mươi năm. Điều cần thiết là các bạn phải nắm bắt được sự thật rằng cách tiếp cận của y bây giờ là trí tuệ, chứ không phải như trước đây, là sự sùng bái, tình cảm và khát vọng. Cho đến nay, nó vẫn là trí-cảm, bao hàm sự pha trộn của khát vọng cao cả, sự chú ý và tập trung của hạ trí, và sự chú ý đến các kỷ luật thuần túy về thể chất. Ngày nay, người đệ tử chân chính [269] sẵn sàng cho bước tiến vĩ đại này kiểm soát được bộ máy tình cảm của mình; hạ trí của y rất tỉnh táo và tập trung, và thượng trí của y hoàn toàn hòa hợp với hạ trí, thông qua antahkarana. Có lẽ các bạn sẽ nhận thức rõ ràng hơn nếu các bạn nhận ra rằng các đòi hỏi có điều kiện của Đấng Điểm Đạo (cho đến thời kỳ năm 1400 sau Công Nguyên) là sự tiếp xúc có ý thức với linh hồn; ngày nay, đó là một một mức độ của mối quan hệ đã được thiết lập với Tam Nguyên Tinh Thần, thông qua antahkarana. Đây là một vấn đề rất khác; sự tiếp xúc với linh hồn nhất thiết phải có, nhưng không được coi là cung cấp tất cả những gì mà điểm đạo đồ của Kỷ Nguyên Mới phải có. Tất nhiên, tình thương là cần thiết; trí tuệ phải hiện diện, nhưng ý thức về tính phổ quát cũng được yêu cầu, và khi hiện diện, nó cho thấy một lượng dòng chảy nhất định từ chân thần. Dòng chảy này đến một cách tự nhiên thông qua antahkarana hoặc qua “chiếc cầu vồng”. Do đó, các bạn sẽ thấy lý do tại sao gần đây tôi nhấn mạnh đến việc xây dựng cây cầu này. Một sự thay đổi lớn trong tâm thức nhân loại đã tạo điều kiện — vào năm 1425 sau Công nguyên — để bắt đầu những thay đổi trong các yêu cầu về điểm đạo và dứt khoát nâng cao tiêu chuẩn. Năm trăm năm đã trôi qua kể từ đó, và mục đích của những thay đổi này trong kỷ luật và đào tạo đã được chứng minh là chính đáng. Bất chấp tất cả những dấu hiệu trái ngược, bất chấp cuộc chiến tranh thế giới với những nỗi kinh hoàng kèm theo và bất chấp thái độ dường như không thức tỉnh của quần chúng, một mức độ rất thực của năng lượng chân thần hiện diện. Nhân loại sẽ ngày càng thể hiện điều này khi nhu cầu khẩn thiết về sự thống nhất và sự phát triển của chủ nghĩa quốc tế sẽ chứng minh. Các mục tiêu, lý thuyết, ý định và quyết tâm của phần lớn nhân loại đã chứng minh điều này. |
|
These expressions of the evolutionary development of humanity are related to the first manifesting qualities of the Will aspect. When I say this I give you a hint, reminding you that the candidate for initiation grows by the recognition and the interpretation of hints, and by extracting from a hint its true significance. The will is not, as so many believe, a forceful expression of intention; it is not a fixed determination to do thus and so or to make certain things to be. It is fundamentally an expression of the Law of Sacrifice; under this law, the unit recognises responsibility, identifies itself with [270] the whole, and learns the esoteric significance of the words: “Having nothing (sacrifice) and yet possessing all things (universality).” I would ask you to reflect upon these words of the great initiate, St. Paul. The full expression of these highest spiritual qualities (from the angle of modern man) comes after the fourth initiation, that of the Great Renunciation. Everything is then relinquished in order that everything may be held in trust and used for the good of all; the will-to-good then dominates. Hence the necessity for the scientific construction of the rainbow bridge; hence the emphasis upon the Monad, the Father aspect which can now be revealed and known, because the work of aeons is culminating in a general soul contact, where humanity as a whole is concerned. This is testified to by the fact that so very many thousands have (as I have several times told you) taken the first initiation. The Christ Child is present in truth, and the human heart and mind are becoming aware of that fact; the goal for thousands everywhere is the demonstration of the Christ spirit, and the exemplification of a life conditioned by love and modelled upon that of Christ or Shri Krishna, His earlier incarnation. |
Những biểu hiện về sự phát triển tiến hóa của nhân loại này có liên quan đến những phẩm chất đầu tiên thể hiện của phương diện Ý Chí. Khi tôi nói điều này, tôi cho các bạn một gợi ý, nhắc nhở các bạn rằng ứng viên cho điểm đạo trưởng thành bằng cách nhận ra và diễn giải các gợi ý, và bằng cách trích xuất từ một gợi ý ý nghĩa thực sự của nó. Ý chí không phải là một biểu hiện mạnh mẽ của ý định như nhiều người vẫn tin; nó không phải là một quyết tâm kiên định để làm điều này điều kia hoặc để biến những điều nhất định thành hiện thực. Về cơ bản, đó là một biểu hiện của Định luật Hy Sinh; theo định luật này, đơn vị nhận ra trách nhiệm, đồng nhất mình với [270] toàn thể, và tìm hiểu ý nghĩa bí truyền của những lời: “Không có gì (hy sinh) nhưng lại sở hữu tất cả mọi thứ (tính phổ quát).” Tôi muốn các bạn suy ngẫm về những lời này của điểm đạo đồ vĩ đại, Thánh Paul. Biểu hiện đầy đủ của những phẩm chất tinh thần cao nhất này (theo góc độ của con người hiện đại) đến sau lần điểm đạo thứ tư, đó là Sự Từ Bỏ Vĩ Đại. Khi đó, mọi thứ đều được từ bỏ để mọi thứ có thể được ủy thác và sử dụng vì lợi ích của tất cả; khi đó ý-chí-hướng-thiện sẽ chi phối. Do đó, cần thiết phải xây dựng cây cầu vồng một cách khoa học; do đó nhấn mạnh vào Chân thần, khía cạnh Cha, vốn giờ đây có thể được tiết lộ và biết đến, bởi vì công việc của các thời đại đang lên đến đỉnh điểm trong một sự tiếp xúc chung với linh hồn, liên quan đến toàn thể nhân loại. Điều này được chứng minh bằng sự thật là rất nhiều nghìn người đã (như tôi đã nói với các bạn nhiều lần) thực hiện lần điểm đạo thứ nhất. Hài nhi Christ thực sự hiện diện, và trái tim và khối óc con người đang dần nhận thức được điều đó; mục tiêu của hàng ngàn người ở khắp mọi nơi là thể hiện tinh thần của Đức Christ, và minh họa một cuộc sống được điều hòa bởi tình thương và được mô phỏng theo Đức Christ hoặc Shri Krishna, hóa thân trước đó của Ngài. |
|
This makes possible, therefore, the next great human unfoldment which grows out of the Christ consciousness and “brings to light” (I know no other way in which to express this concept) the will of God, and points also to the basic distinction between goodwill and the will-to-good. Again I would ask you to reflect upon this distinction, for it connotes the difference between a life ruled and conditioned by the soul and one which is ruled and conditioned by the Spiritual Triad. This distinction is very real, for one quality grows out of love, and the other out of the recognition of the universality of life; one is an expression of the Christ consciousness and life, and the other is a responsiveness to monadic inflow, and yet the two are one. More anent this will be indicated as you study the teaching upon the antahkarana. |
Điều này do đó tạo ra khả năng cho sự mở rộng vĩ đại tiếp theo của con người, phát triển từ tâm thức Christ và “mang ra ánh sáng” (tôi không biết cách nào khác để diễn tả khái niệm này) ý chí của Thượng Đế, và cũng chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa thiện chí và ý-chí-hướng-thiện. Một lần nữa, tôi muốn các bạn suy ngẫm về sự khác biệt này, vì nó bao hàm sự khác biệt giữa một cuộc đời được cai quản và điều hòa bởi linh hồn và một cuộc đời được cai quản và điều hòa bởi Tam Nguyên Tinh Thần. Sự khác biệt này là rất thực tế, vì một phẩm chất phát triển từ tình thương, và phẩm chất kia phát triển từ sự công nhận tính phổ quát của sự sống; một là biểu hiện của tâm thức và sự sống của Đức Christ, và một là sự đáp ứng với dòng chảy từ chân thần, tuy nhiên hai là một. Nhiều hơn về điều này sẽ được chỉ ra khi các bạn nghiên cứu giáo lý về antahkarana. |
|
One of the tasks which I have undertaken is to awaken the aspirants and the disciples of the world to the new possibilities and to the new incoming potencies which can become available for use, if they will pass on to a fuller grasp of the developments since 1425 A.D. Much that I am giving and [271] shall in the future give anent initiation, its methods, processes and application will appear entirely new. The New Age will bring in eventually a civilisation and a culture which will be utterly different to anything hitherto known. I would remind you here that all civilisations and cultures are externalisations—modified, qualified and adapted to racial and national needs—of the potent, vibrating and planned activity of the world initiates and disciples who constitute the Hierarchy of the time. Their plans, Their thinking and Their living potency pour out ceaselessly and affect the consciousness of Their disciples; these latter step down the inflowing energies so that the thinkers and idealists can grasp these new emerging truths more accurately. Eventually the truths thus grasped change the consciousness of humanity as a whole and raise it—if you like that phrase; thus modes of daily living, civilised methods of conduct and cultural developments eventuate. All this is traceable to the group of initiates upon the inner side who thus serve their fellowmen and carry forward, consciously and with intent, the Law of Evolution. Whilst doing this, They Themselves are preparing to tread the “Way of the Higher Evolution.” What that Way is I cannot tell you, for you would be unable to grasp its meaning; it is related to the spiritual condition and purpose of the Monad whose goal is not expansion of consciousness, but of that which such expansions of consciousness will reveal—a very different matter and one which is as yet entirely meaningless to anyone who has not taken the third initiation. Forget not, the Christ and His great Brothers, and all of an even higher initiate-rank than They possess, have a definite goal, but it is one which will only define itself clearly in the third solar system, the system in which the Will of God is the dominant idea, as the Love of God conditions this system in which we now function. But this is not consciousness or awareness; it is a stage of Being which is connected with the Law of Sacrifice—the law which governs those states of being which grow out of the establishment of right human relations. |
Một trong những nhiệm vụ mà tôi đã đảm nhận là đánh thức những người chí nguyện và các đệ tử trên thế giới về những khả năng mới và những tiềm năng mới sắp xuất hiện có thể được sử dụng, nếu họ chuyển sang nắm bắt đầy đủ hơn những phát triển kể từ năm 1425 sau Công Nguyên. Rất nhiều điều tôi đang và [271] sẽ cung cấp trong tương lai liên quan đến điểm đạo, các phương pháp, quy trình và ứng dụng của nó sẽ xuất hiện hoàn toàn mới. Kỷ Nguyên Mới cuối cùng sẽ mang đến một nền văn minh và một nền văn hóa hoàn toàn khác với bất cứ điều gì đã biết trước đây. Tôi xin nhắc các bạn ở đây rằng tất cả các nền văn minh và văn hóa là sự ngoại hiện — được sửa đổi, định tính và điều chỉnh cho phù hợp với nhu cầu chủng tộc và quốc gia — của hoạt động mạnh mẽ, rung động và được lên kế hoạch của các điểm đạo đồ và đệ tử thế giới, những người tạo nên Thánh Đoàn của thời đại. Các kế hoạch của họ, suy nghĩ của họ và tiềm năng sống của họ tuôn ra không ngừng và ảnh hưởng đến tâm thức của các đệ tử của họ; những người sau này hạ thấp năng lượng chảy vào để những nhà tư tưởng và những người theo chủ nghĩa lý tưởng có thể nắm bắt những sự thật mới nổi này chính xác hơn. Cuối cùng, những sự thật được nắm bắt theo cách này sẽ thay đổi tâm thức của toàn thể nhân loại và nâng nó lên — nếu các bạn thích cụm từ đó; do đó, các phương thức sinh hoạt hàng ngày, phương pháp ứng xử văn minh và sự phát triển văn hóa sẽ diễn ra. Tất cả những điều này có thể bắt nguồn từ nhóm điểm đạo đồ ở phía bên trong, những người phụng sự đồng loại của mình và thúc đẩy, một cách có ý thức và có chủ ý, Định luật Tiến hóa. Trong khi làm điều này, Chính Họ đang chuẩn bị để bước trên “Con Đường Tiến Hóa Cao Hơn”. Con đường đó là gì, tôi không thể nói với các bạn, vì các bạn sẽ không thể hiểu được ý nghĩa của nó; nó liên quan đến tình trạng tinh thần và mục đích của Chân thần, mà mục tiêu không phải là mở rộng tâm thức, mà là những gì mà sự mở rộng tâm thức như vậy sẽ tiết lộ — một vấn đề rất khác và một vấn đề vẫn hoàn toàn vô nghĩa đối với bất kỳ ai chưa thực hiện lần điểm đạo thứ ba. Đừng quên, Đức Christ và những Huynh đệ vĩ đại của Ngài, và tất cả những người có cấp bậc điểm đạo thậm chí còn cao hơn Họ, đều có một mục tiêu xác định, nhưng đó là mục tiêu sẽ chỉ xác định rõ ràng trong hệ mặt trời thứ ba, hệ thống trong đó Ý Chí của Thượng Đế là ý tưởng chủ đạo, giống như Tình thương của Thượng Đế quy định hệ thống này mà chúng ta hiện đang hoạt động. Nhưng đây không phải là tâm thức hay nhận thức; nó là một giai đoạn của Bản thể được kết nối với Định Luật Hy Sinh — định luật chi phối những trạng thái tồn tại đó phát triển từ việc thiết lập các mối quan hệ đúng đắn của con người. |
|
Purpose can only be revealed and understood when such right relations are the firmly fixed habits of all “points of [272] divine expression.” You can see, therefore, why it is not possible for those in process of grasping the need for right human relations to understand more than that a great possibility lies ahead. Of the nature of this possibility only the higher ranks of initiates are aware, and towards it they strive. |
Mục đích chỉ có thể được tiết lộ và hiểu được khi những mối quan hệ đúng đắn như vậy là những thói quen cố định vững chắc của tất cả “các điểm của [272] sự thể hiện thiêng liêng.” Do đó, các bạn có thể thấy lý do tại sao những người đang trong quá trình nắm bắt nhu cầu về các mối quan hệ đúng đắn của con người không thể hiểu được nhiều hơn là một khả năng to lớn đang ở phía trước. Chỉ có những bậc điểm đạo đồ cao hơn mới nhận thức được bản chất của khả năng này, và họ cố gắng hướng tới nó. |
|
THE FORMULAS |
CÁC CÔNG THỨC |
|
We now come to the second of the great Formulas which give the initiate the key to the next stage of his work. These curious and ancient sets of phrases or symbols are endowed with power, owing to the potency of the minds which have reflected upon them, which have constructed thoughtforms anent them, and which have used them as modes or methods of focussing triadal light upon the personality. I would call your attention to the form of words just used. These formulas do not release the light of the soul into the attentive waiting mind. They release the light of electric fire (and therefore not solar fire) into the integrated personality, so that the entire man—now become the oriented mechanism of the Monad—is flooded with this higher form of energy—an aspect of the energy of will and related to the carrying forward of divine purpose. You can appreciate, consequently, how relatively impossible it is for any of you to do more than register the more obvious significances of these formulas and then await the time when your inner growth warrants a fresh approach to their interpretation. |
Bây giờ chúng ta đến với Công Thức vĩ đại thứ hai, thứ cung cấp cho điểm đạo đồ chìa khóa cho giai đoạn tiếp theo trong công việc của mình. Những bộ cụm từ hoặc biểu tượng kỳ lạ và cổ xưa này được ban cho sức mạnh, nhờ sức mạnh của những tâm trí đã suy ngẫm về chúng, đã xây dựng các hình tư tưởng liên quan đến chúng, và đã sử dụng chúng như các phương thức hoặc phương pháp tập trung ánh sáng tam nguyên tinh thần vào phàm ngã. Tôi muốn các bạn chú ý đến hình thức của những từ vừa được sử dụng. Những công thức này không giải phóng ánh sáng của linh hồn vào tâm trí đang chờ đợi chú ý. Chúng giải phóng ánh sáng của lửa điện (và do đó không phải lửa thái dương) vào phàm ngã tích hợp, để toàn bộ con người — giờ đã trở thành bộ máy được định hướng của Chân thần — được tràn ngập dạng năng lượng cao hơn này — một khía cạnh của năng lượng ý chí và liên quan đến việc thực hiện mục đích thiêng liêng. Do đó, các bạn có thể đánh giá cao việc bất kỳ ai trong số các bạn làm được nhiều hơn là ghi nhận những ý nghĩa rõ ràng hơn của những công thức này và sau đó chờ đợi thời điểm mà sự phát triển bên trong của các bạn đảm bảo một cách tiếp cận mới để giải thích chúng là tương đối bất khả thi. |
|
This formula is seen by the disciple inscribed upon the plates of the unknown metal, described by me on page 249. It is formed of a series of lines which meet at a circle within a square, such as that depicted below: |
Công Thức này được đệ tử nhìn thấy được khắc trên các tấm kim loại chưa được biết, được tôi mô tả ở trang 249. Nó được tạo thành từ một loạt các đường gặp nhau tại một vòng tròn bên trong một hình vuông, chẳng hạn như được mô tả bên dưới: |
|
[273] |
|
|
|
|
|
Curiously enough, it is this ancient symbol, with its indicated reference to the emotional nature, and therefore to the Atlantean consciousness, which points to a basis for progress, which is the subtle force behind the “flags of all nations.” Flags are symbols of the devotion of a people to their national soil and to their national spiritual objectives. They have of course been prostituted to signify national separativeness and selfishness and national patriotism, but behind the flag is a point of power which is the point of inspiration to the soul of the people. Not yet, equally of course, is the “point moving forward into the circle of the people’s life”; as yet, you have only the square of the personality reactions of the people and the lines of their evolutionary approach to a deeper consciousness; this developing consciousness we call the “soul of the people.” Some day, the point will take its place in the centre of the square and all the lines will converge upon that point; we shall then have a nation, galvanised into activity by interior spiritual energy, and the lines which have hitherto converged inwards towards the centre will become channels or pathways along which spiritual energy will flow into every phase of a nation’s civilisation and culture; the nation will then be linked up—through the point at the centre—with the source of divine inspiration, which is one for all types, all nations and all races in time and space. |
Thật kỳ lạ, chính biểu tượng cổ xưa này, với tham chiếu được chỉ ra đến bản chất cảm dục, và do đó đến với tâm thức Atlantean, chỉ ra cơ sở cho sự tiến bộ, đó là mãnh lực tinh vi đằng sau “các lá cờ của tất cả các quốc gia”. Lá cờ là biểu tượng của sự tận tâm của một dân tộc đối với đất nước của họ và đối với các mục tiêu tinh thần quốc gia của họ. Tất nhiên, chúng đã bị lạm dụng để biểu thị sự chia rẽ và ích kỷ của quốc gia và lòng yêu nước quốc gia, nhưng đằng sau lá cờ là một điểm quyền lực, đó là điểm truyền cảm hứng cho linh hồn của người dân. Tất nhiên, “điểm tiến về phía trước vào vòng tròn cuộc sống của người dân” cũng chưa được thực hiện; như vậy, các bạn chỉ có hình vuông của các phản ứng phàm ngã của người dân và các đường tiếp cận tiến hóa của họ đến một tâm thức sâu sắc hơn; tâm thức đang phát triển này chúng ta gọi là “linh hồn của người dân”. Một ngày nào đó, điểm này sẽ thay thế vị trí của nó ở trung tâm của hình vuông và tất cả các đường sẽ hội tụ về điểm đó; khi đó chúng ta sẽ có một quốc gia, được tiếp thêm sinh lực cho hoạt động bằng năng lượng tinh thần bên trong, và các đường thẳng cho đến nay hội tụ vào trong về phía trung tâm sẽ trở thành các kênh hoặc đường dẫn mà qua đó năng lượng tinh thần sẽ chảy vào mọi giai đoạn của nền văn minh và văn hóa của một quốc gia; sau đó, quốc gia sẽ được liên kết — thông qua điểm ở trung tâm — với nguồn cảm hứng thiêng liêng, là một cho tất cả các loại, tất cả các quốc gia và tất cả các chủng tộc trong thời gian và không gian. |
|
I have used the exoteric symbol of the flag to convey to you a hint as to the esoteric meaning of this very simple but most potent form. Four words, or rather phrases, are found written, deep in the metal, around each side of the square: |
Tôi đã sử dụng biểu tượng ngoại môn của lá cờ để truyền đạt cho các bạn một gợi ý về ý nghĩa bí truyền của hình thức rất đơn giản nhưng mạnh mẽ nhất này. Bốn từ, hay đúng hơn là các cụm từ, được tìm thấy được viết sâu trong kim loại, xung quanh mỗi cạnh của hình vuông: |
|
[274] |
|
|
|
|
|
These words convey the highly inadequate and even unsuitable translation of certain phrases in the ancient Sensa which are intended to convey the essential union, the related synthesis and the cooperative understanding which will some day distinguish a humanity, composed of many aspects which are nevertheless expressions of the One Life. They are, however, related to or expressions of monadic groupings or universal recognitions, and not of soul consciousness. My difficulty in explaining the higher meaning of the external simplicity of these phrases is great; you can only arrive at them yourself as you ponder the only three interpretations possible to you at this time: the individual application of the symbol, its national application, and its human application, remembering always that the clue to comprehension lies in the recognition of a “higher Way,” of the existence of the “higher evolution,” of the light which is distinctive of Shamballa, and of the use of the antahkarana, as it by-passes (if I may use such a term) the soul and so carries the human, yet spiritualised consciousness into the realms of hierarchical experience in relation to Shamballa. |
Những từ này truyền tải bản dịch không đầy đủ và thậm chí không phù hợp của một số cụm từ trong Sensa cổ đại, nhằm truyền đạt sự hợp nhất thiết yếu, sự tổng hợp liên quan và sự hiểu biết hợp tác mà một ngày nào đó sẽ phân biệt một nhân loại, bao gồm nhiều khía cạnh, tuy nhiên là biểu hiện của Sự Sống Duy Nhất. Tuy nhiên, chúng có liên quan đến hoặc biểu hiện của các nhóm chân thần hoặc sự công nhận phổ quát, chứ không phải của tâm thức linh hồn. Khó khăn của tôi trong việc giải thích ý nghĩa cao hơn của sự đơn giản bên ngoài của những cụm từ này là rất lớn; các bạn chỉ có thể tự mình đạt được chúng khi các bạn suy ngẫm về ba cách giải thích duy nhất có thể có đối với các bạn vào lúc này: ứng dụng cá nhân của biểu tượng, ứng dụng quốc gia của nó và ứng dụng nhân loại của nó, luôn nhớ rằng manh mối để hiểu nằm ở việc nhận ra một “Con Đường Cao Hơn”, về sự tồn tại của “sự tiến hóa cao hơn”, về ánh sáng đặc trưng của Shamballa, và về việc sử dụng antahkarana, vì nó đi qua (nếu tôi có thể sử dụng thuật ngữ như vậy) linh hồn và do đó mang tâm thức con người, nhưng đã được tinh thần hóa vào cõi kinh nghiệm của Thánh Đoàn liên quan đến Shamballa. |
|
POINTS OF REVELATION |
CÁC ĐIỂM MẶC KHẢI |
|
This almost brings us automatically to the third aspect of preparation for initiation which I called in an earlier instruction the “presentation of points of revelation.” These formulas, when rightly studied and eventually somewhat apprehended, at least intellectually, carry the disciple to the point where that which is new, hitherto unrealised and for which no words exist, is suddenly contacted. St. Paul had reached such a point when he referred to “the third heaven as it veiled the seventh” (which was the original wording, deleted by the recipients of his message at that time as utterly meaningless). Eye has not seen nor has ear heard the inexpressible revelation which comes to the initiate who can penetrate into certain high places where the nature of the divine Will suddenly assumes a different and amazing significance, where the purposes being worked out in the Council Chamber of Shamballa are visioned—not in detail but as [275] a suddenly contacted inspiration; then for the first time the initiate becomes consciously receptive to the energy pouring into the Hierarchy from the Great White Lodge on Sirius. |
Điều này gần như tự động đưa chúng ta đến khía cạnh thứ ba của sự chuẩn bị cho điểm đạo, mà tôi đã gọi trong một chỉ dẫn trước đó là “trình bày các Điểm Mặc Khải”. Những công thức này, khi được nghiên cứu đúng cách và cuối cùng phần nào được lĩnh hội, ít nhất là về mặt trí tuệ, sẽ đưa đệ tử đến điểm mà điều gì đó mới mẻ, cho đến nay chưa được nhận ra và không có từ nào tồn tại, đột nhiên được tiếp xúc. Thánh Paul đã đạt đến một điểm như vậy khi ông đề cập đến “thiên đường thứ ba che khuất thiên đường thứ bảy” (đó là từ ngữ ban đầu, đã bị những người nhận thông điệp của ông vào thời điểm đó xóa bỏ vì hoàn toàn vô nghĩa). Mắt chưa thấy cũng như tai chưa nghe thấy sự mặc khải không thể diễn tả được đến với điểm đạo đồ, người có thể thâm nhập vào những nơi cao nhất định, nơi bản chất của Ý Chí thiêng liêng đột nhiên mang một ý nghĩa khác biệt và đáng kinh ngạc, nơi các mục đích được thực hiện trong Phòng Hội Đồng của Shamballa được nhìn thấy — không phải chi tiết mà là [275] một nguồn cảm hứng đột nhiên được tiếp xúc; sau đó, lần đầu tiên, điểm đạo đồ có ý thức tiếp nhận năng lượng đổ vào Thánh Đoàn từ Đại Thất Bạch trên Sirius. |
|
It is at this point of revelation and in relation to this symbol that the initiate eventually stands. Then the “many lines of force within the square become the seven paths of light which claim His choice, leading Him on to the sevenfold Path of initiate evolution.” This is the Way of the Higher Evolution of which man knows nothing. The words refer to the seven paths which the Master has to consider and from which He has to choose His future Way. Then the symbol takes on the following form: |
Chính tại Điểm Mặc Khải này và liên quan đến biểu tượng này mà điểm đạo đồ cuối cùng đã đứng vững. Sau đó, “nhiều đường sức trong hình vuông trở thành bảy con đường ánh sáng mà Ngài chọn, dẫn Ngài đến Thánh đạo thất phân của sự tiến hóa điểm đạo đồ.” Đây là Con Đường Tiến Hóa Cao Hơn mà con người không biết gì về nó. Những từ này đề cập đến bảy con đường mà Chân sư phải xem xét và từ đó Ngài phải chọn Con Đường tương lai của mình. Sau đó, biểu tượng có dạng sau: |
|
|
|
|
“All paths meet at the centre. The many become the seven and the eight. From point to point the lines converge. They stretch from point to point. The outer square, the circle of the One and the point of unity are seen as one, and the Master passes on His way.” |
“Mọi con đường đều gặp nhau ở trung tâm. Nhiều trở thành bảy và tám. Từ điểm này sang điểm khác các đường hội tụ. Chúng trải dài từ điểm này sang điểm khác. Hình vuông bên ngoài, vòng tròn của Đấng Duy Nhất và điểm hợp nhất được coi là một, và Chân sư tiếp tục con đường của mình.” |
|
He has penetrated to the centre by passing along the antahkarana which He has Himself constructed. There He polarises Himself and takes His stand, and from thence—at the centre of the circle and within the square of service—He precipitates the energies and forces which that service demands. From these few hints you can grasp the nature of this symbol and the quality of its meaning, plus the potency of the force which (through its correct apprehension) can carry the initiate-disciple from “the unreal to the Real.” |
Ngài đã thâm nhập vào trung tâm bằng cách đi dọc theo antahkarana mà chính Ngài đã xây dựng. Ở đó, Ngài phân cực bản thân và giữ vững lập trường của mình, và từ đó — ở trung tâm của vòng tròn và trong hình vuông của sự phụng sự — Ngài ngưng tụ các năng lượng và lực lượng mà sự phụng sự đó yêu cầu. Từ một vài gợi ý này, các bạn có thể nắm bắt được bản chất của biểu tượng này và chất lượng ý nghĩa của nó, cộng với sức mạnh của mãnh lực (thông qua sự lĩnh hội chính xác của nó) có thể đưa người đệ tử điểm đạo “từ chỗ không thực đến chỗ Thực”. |
|
The first formula was basically concerned with the monadic significance of the words “from darkness to Light,” leading to vision and illumined purpose; the second formula gives the higher significance to the words “from the unreal to the Real,” whilst the third we shall find expresses the true [276] meaning of the words “from death to Immortality.” Thus this prayer of the ancient past becomes the present effort of the distant future. Can you understand this statement, brother of mine? Into that light, that reality and that life the initiate penetrates. In that light of reality and life, he polarises himself, and from that point of universal life, reality and light he works. |
Công thức đầu tiên về cơ bản liên quan đến ý nghĩa chân thần của câu “từ bóng tối đến Ánh sáng”, dẫn đến tầm nhìn và mục đích được soi sáng; công thức thứ hai đưa ra ý nghĩa cao hơn cho câu “từ chỗ không thực đến chỗ Thực”, trong khi công thức thứ ba chúng ta sẽ thấy thể hiện ý nghĩa thực sự [276] của câu “từ cái chết đến Bất tử”. Như vậy, lời cầu nguyện của quá khứ cổ đại này trở thành nỗ lực hiện tại của tương lai xa. Huynh đệ của tôi, các bạn có thể hiểu được câu nói này không? Điểm đạo đồ thâm nhập vào ánh sáng, thực tại và sự sống đó. Trong ánh sáng của thực tại và sự sống đó, y phân cực bản thân mình, và từ điểm sống, thực tại và ánh sáng phổ quát đó, y hoạt động. |
PART IV
|
As you together study this subject of initiation, I would ask you to keep an open mind. I have told you that changes are imminent in the training of the initiates of the future, and that the techniques of developing a disciple’s consciousness will be different to those used in the past. They will not be the same as those hitherto employed in the East. These have motivated the teaching along this line which has gone out in the West. This does not mean that the earlier methods were not correct and right. It means that the intelligent grasp of the disciple and the initiate is now so advanced (relatively speaking) that the old methods would no more apply than do the simple sums in arithmetic, set in grammar school, aid the progress of the college graduate. They were necessary in the early stages; the power or the ability to divide, subtract, multiply and add were conferred, but it is the power and the ability which are now used, and not the exercises. |
Khi cùng nhau nghiên cứu chủ đề điểm đạo này, tôi muốn các bạn hãy giữ một tâm trí cởi mở. Tôi đã nói với các bạn rằng những thay đổi sắp xảy ra trong việc đào tạo các điểm đạo đồ trong tương lai và các kỹ thuật phát triển tâm thức của đệ tử sẽ khác với những kỹ thuật được sử dụng trong quá khứ. Chúng sẽ không giống với những phương pháp được sử dụng cho đến nay ở phương Đông. Những điều này đã thúc đẩy việc giảng dạy theo hướng đã được truyền bá ở phương Tây. Điều này không có nghĩa là các phương pháp trước đây là không chính xác và đúng đắn. Nó có nghĩa là sự thấu hiểu thông minh của đệ tử và điểm đạo đồ hiện nay đã tiến bộ đến mức (nói một cách tương đối) các phương pháp cũ sẽ không còn áp dụng được nữa, giống như việc các bài toán số học đơn giản được dạy ở trường trung học phổ thông không còn giúp ích cho sự tiến bộ của một sinh viên tốt nghiệp đại học. Chúng cần thiết trong những giai đoạn đầu; khả năng cộng, trừ, nhân, chia đã được trao tặng, nhưng giờ đây chính sức mạnh và khả năng đó được sử dụng, chứ không phải các bài tập. |
|
ON HINTS |
VỀ NHỮNG GỢI Ý |
|
The hints a Master earlier gave were concerned largely with the building or changing of character and with the awakening of the chela. These no longer constitute hints to the modern disciple; he knows enough by himself to work on his own character, and he has penetrated to the fringe of the inner world by his own effort and on his own power. Such is the rule for the majority of aspirants today. The hints such as I will give you are superficially easy to understand and have an apparently obvious meaning; but they [277] are concerned with service and with human and planetary affairs, and are capable of several interpretations—according to the point of unfoldment and the ray type. |
Những gợi ý mà các Chân sư đã đưa ra trước đây chủ yếu liên quan đến việc xây dựng hoặc thay đổi tính cách và đánh thức đệ tử. Những điều này không còn là gợi ý đối với các đệ tử hiện đại nữa; tự y biết mình đủ để làm việc với tính cách của mình, và y đã thâm nhập vào vùng ngoại vi của thế giới nội tâm bằng nỗ lực và sức mạnh của chính mình. Đó là quy luật cho đa số những người chí nguyện ngày nay. Những gợi ý mà tôi sẽ đưa ra cho các bạn về bề ngoài thì dễ hiểu và có ý nghĩa rõ ràng; nhưng chúng [277] lại liên quan đến phụng sự và những vấn đề của con người và hành tinh, và có khả năng được giải thích theo nhiều cách – tùy thuộc vào mức độ khai mở và loại cung. |
|
In my last instruction I gave you three hints, and it might be useful if we briefly considered them. I will indicate to you the line along which light might come to you, as a group, at your particular point of development. |
Trong chỉ dẫn cuối cùng của tôi, tôi đã cung cấp cho các bạn ba gợi ý và sẽ rất hữu ích nếu chúng ta xem xét ngắn gọn chúng. Tôi sẽ chỉ cho các bạn thấy đường lối mà ánh sáng có thể đến với các bạn, như một nhóm, tại điểm phát triển cụ thể của các bạn. |
|
Ba Gợi Ý Đầu Tiên Được Liệt Kê Lại |
|
|
The first hint dealt with the changes wrought by the work done in the Ashrams which are enfolded in the one great Ashram of the Hierarchy. I said that the results of this would be that a closer relationship would be established with Sanat Kumara and His Council Chamber. This will be the result of the work done by the disciples of the world—in or out of incarnation. I wonder how many of you pondered on the significance of the statement that the changes were brought about by the activity of the disciples; by this I mean not the senior initiates, but what you mean when you speak of a disciple. You might naturally have assumed that the needed changes would be instituted by the Masters, or by the Christ, or even by Sanat Kumara. But it is not so. Why is this? What idea lies behind my flat statement? The disciples of the world are the intermediaries between the Hierarchy and Humanity. They are the product of immediate human endeavour; they set the pace for human unfoldment; they are therefore closely en rapport with the consciousness of the race of men. It is the quality of the new disciples, the rapidity with which men find their way into the ranks of the disciples, and the demand which the working disciples in the world make on behalf of humanity (which they know) that brings about the needed changes. The Masters are trained in the art of recognition, which is the consummation of the practice of observation; They stand ever ready to make the needed changes in the techniques or curriculum whenever human nature outgrows the old presentations of the ever-needed truths. The need is indicated to Them by Their disciples, and They then initiate the required changes. When these occur at a time of crisis and are far-reaching in effect and are determining of conditions for several thousand years to come, then the entire Hierarchy meets in conclave. Upon [278] the basis of the light in this hint, you can for yourselves infer much. |
Gợi ý đầu tiên đề cập đến những thay đổi do công việc được thực hiện trong các ashram được bao bọc trong một ashram vĩ đại của Thánh Đoàn. Tôi đã nói rằng kết quả của việc này sẽ là mối quan hệ chặt chẽ hơn sẽ được thiết lập với Đức Sanat Kumara và Phòng Mật Nghị của Ngài. Đây sẽ là kết quả của công việc được thực hiện bởi các đệ tử trên thế giới—dù đang lâm phàm hay không. Tôi tự hỏi có bao nhiêu người trong số các bạn đã suy ngẫm về ý nghĩa của tuyên bố rằng những thay đổi được mang đến bởi hoạt động của các đệ tử; với điều này, tôi không có ý nói đến các điểm đạo đồ cấp cao, mà là những gì các bạn muốn nói khi nhắc đến một đệ tử. Bạn có thể tự nhiên cho rằng những thay đổi cần thiết sẽ được các Chân sư, hoặc Đức Christ, hoặc thậm chí Đức Sanat Kumara khởi xướng. Nhưng không phải vậy. Tại sao lại như vậy? Ý tưởng nào đằng sau tuyên bố thẳng thắn của tôi? Các đệ tử trên thế giới là trung gian giữa Thánh Đoàn và Nhân loại. Họ là sản phẩm của nỗ lực trực tiếp của con người; họ thiết lập tốc độ cho sự khai mở của con người; do đó, họ có mối liên hệ mật thiết với tâm thức của nhân loại. Chính phẩm chất của các đệ tử mới, tốc độ mà con người tìm đường vào hàng ngũ các đệ tử, và nhu cầu mà các đệ tử làm việc trên thế giới thay mặt cho nhân loại (mà họ biết) mang lại những thay đổi cần thiết. Các Chân sư được đào tạo về nghệ thuật nhận biết, đó là sự hoàn thiện của việc thực hành quan sát; Các Ngài luôn sẵn sàng thực hiện những thay đổi cần thiết trong kỹ thuật hoặc chương trình giảng dạy bất cứ khi nào bản chất con người vượt qua những trình bày cũ của các chân lý luôn cần thiết. Nhu cầu được chỉ ra cho các Ngài bởi các đệ tử của các Ngài, và sau đó các Ngài bắt đầu những thay đổi cần thiết. Khi những thay đổi này xảy ra vào thời điểm khủng hoảng và có tác động sâu rộng, quyết định các điều kiện cho vài nghìn năm tới, thì toàn bộ Thánh Đoàn sẽ họp trong Đại Mật Nghị. Trên [278] cơ sở ánh sáng trong gợi ý này, các bạn có thể tự suy ra nhiều điều. |
|
The second hint I gave indicated that mankind had evolved so well that today the goals and theories, the aims and determinations now expressed in human thinking and writing showed that the will aspect of divinity, in its first embryonic manifestation, was beginning to make its presence felt. Have you followed this hint? Have you realised that the uprisings of the masses and their determination to overcome handicaps and all hindrances to a better world state are indicative of this? Do you grasp the fact that the revolutions of the past two hundred years are signs of the striving of the spirit aspect? That spirit is life and will; the world today is showing signs of new life. Think this out in its modern and immediate implications and see the way that the world is going under the inspiration of the spiritual Will. |
Gợi ý thứ hai mà tôi đã đưa ra cho thấy rằng nhân loại đã tiến hóa tốt đến mức ngày nay các mục tiêu và lý thuyết, mục đích và quyết tâm hiện được thể hiện trong suy nghĩ và chữ viết của con người cho thấy rằng khía cạnh Ý Chí của thiên tính, trong biểu hiện phôi thai đầu tiên của nó, đang bắt đầu làm cho sự hiện diện của nó được cảm nhận. Bạn có theo dõi gợi ý này không? Bạn đã nhận ra rằng sự nổi dậy của quần chúng và quyết tâm của họ để vượt qua những khó khăn và tất cả những trở ngại để hướng tới một trạng thái thế giới tốt đẹp hơn là dấu hiệu của điều này chưa? Bạn có nắm bắt được sự thật rằng các cuộc cách mạng trong hai trăm năm qua là dấu hiệu của sự phấn đấu của khía cạnh tinh thần không? Tinh thần đó là sự sống và ý chí; thế giới ngày nay đang có những dấu hiệu của sự sống mới. Hãy suy nghĩ về điều này trong ý nghĩa hiện đại và tức thời của nó và xem cách thế giới đang đi theo nguồn cảm hứng của Ý Chí tinh thần. |
|
The third hint I gave you was intended to suggest that it was the duty and the responsibility of the disciple, working under the inspiration of the Ashram, to “modify, qualify and adapt” the proposed plan of Shamballa (for which the Ashrams are responsible) in connection with the coming civilisation and culture. There is an “art of spiritual compromise” which must be learnt and which it is difficult to master, because it negates fanaticism, requires a trained and intelligent understanding of applied measures and truth, and also negates evasion of responsibility; it involves also a comprehension of the time equation, of differing points in evolution, plus experience in the process of discarding the outgrown and unnecessary—no matter how good it may appear to be. |
Gợi ý thứ ba mà tôi đưa ra cho các bạn nhằm gợi ý rằng đó là nghĩa vụ và trách nhiệm của đệ tử, làm việc dưới cảm hứng của ashram, để “sửa đổi, điều chỉnh và thích nghi” kế hoạch được đề xuất của Shamballa (mà các ashram chịu trách nhiệm) liên quan đến nền văn minh và văn hóa sắp tới. Có một “nghệ thuật thỏa hiệp tinh thần” phải được học và rất khó để thành thạo, bởi vì nó phủ nhận sự cuồng tín, đòi hỏi sự hiểu biết được đào tạo và thông minh về các biện pháp và chân lý được áp dụng, và cũng phủ nhận việc trốn tránh trách nhiệm; nó cũng liên quan đến việc hiểu được phương trình thời gian, các điểm khác nhau trong quá trình tiến hóa, cộng với kinh nghiệm trong quá trình loại bỏ những thứ đã lỗi thời và không cần thiết — cho dù nó có vẻ tốt đến đâu. |
|
In these three hints lie much scope for individual education and expansion of consciousness, and it is in the right use of these hints that the disciple learns to serve with adequacy and precision and to render satisfactory service to the Hierarchy. I shall ever indicate to you when I give you a hint, and upon these hints I would ask you to concentrate. I shall not always elaborate as I have done today, for you must grow by solving your own problems. |
Trong ba gợi ý này chứa đựng nhiều phạm vi cho sự giáo dục cá nhân và mở rộng tâm thức, và chính trong việc sử dụng đúng đắn những gợi ý này mà các đệ tử học cách phụng sự một cách đầy đủ và chính xác, đồng thời mang lại sự phụng sự thỏa đáng cho Thánh Đoàn. Tôi sẽ luôn chỉ ra cho các bạn khi tôi đưa ra một gợi ý, và tôi mong các bạn tập trung vào những gợi ý này. Tôi sẽ không luôn giải thích chi tiết như tôi đã làm hôm nay, vì các bạn phải trưởng thành bằng cách tự giải quyết vấn đề của mình. |
|
One of the difficulties which is associated with inaugurating [279] a new and more advanced attitude towards initiation is the offsetting of the idea that the initiate always knows all there is to know. You need to remember that knowledge is associated with the factual world; it concerns the accumulated information of the ages; it is closely connected with memory and its subjective counterpart—recovery of past knowledge. This means regaining again, consciously, all that the Ego has stored up as the result of many incarnations and many different experiences; it is related to the “knowledge petals” in the egoic lotus and to the concrete lower mind. Knowledge is that which brings about an effective working relation between this outer tier of petals, the concrete mind and the brain. It embodies the “intelligence equipment” of a soul in incarnation during any one life, dealing largely with the ephemeral, the transitory and the passing. The factor which is enduring in knowledge is simply its power to relate the past and the present, and thus produce effective, phenomenal living today. |
Một trong những khó khăn liên quan đến việc khởi xướng [279] một thái độ mới và tiến bộ hơn đối với việc điểm đạo là hóa giải ý tưởng rằng điểm đạo đồ luôn biết mọi thứ cần biết. Bạn cần nhớ rằng kiến thức gắn liến với thế giới thực tế; nó liên quan đến thông tin tích lũy của các thời đại; nó liên quan chặt chẽ đến trí nhớ và đối phần chủ quan của nó — phục hồi kiến thức trong quá khứ. Điều này có nghĩa là lấy lại một lần nữa, một cách có ý thức, tất cả những gì Chân ngã đã tích trữ được do kết quả của nhiều kiếp sống và nhiều kinh nghiệm khác nhau; nó liên quan đến “cánh hoa tri thức” trong hoa sen chân ngã và với hạ trí cụ thể. Kiến thức là thứ mang lại mối quan hệ làm việc hiệu quả giữa tầng cánh hoa bên ngoài này, thể trí cụ thể và bộ não. Nó thể hiện “thiết bị thông minh” của một linh hồn hóa thân trong bất kỳ kiếp sống nào, phần lớn liên quan đến những gì phù du, nhất thời và qua đi. Yếu tố bền bỉ trong kiến thức chỉ đơn giản là sức mạnh của nó để liên hệ quá khứ và hiện tại, và do đó tạo ra cuộc sống hiện tượng hiệu quả ngày nay. |
|
Wisdom is the hallmark of the initiate, and this he possesses even if his practical knowledge of mundane details—historical, geographical, economic, and cultural—may leave much to be desired. The disciples within a Master’s Ashram can provide Him with what knowledge He may require, for they are drawn from different cultures and civilisations and among them can summarise the sum total of human knowledge at any one given time. This must not be forgotten. A Master of the Wisdom always knows where to go for knowledge. Knowledge and intelligence or mental polarisation must not be confounded in your minds. I might add to the above that knowledge deals with the ascertained and the effectual on the physical plane and in the three worlds; wisdom deals with inherent capacities and possibilities of spiritual expression. Knowledge can be expressed in concepts and precepts; wisdom is revealed through ideas against which (very frequently) much mundane knowledge powerfully militates. The concrete mind often inhibits, as you well know, the free flow of ideas intuitively impulsed; it is with this free flow of the new ideas that the initiate is basically concerned, because it is ideas, their right application and interpretation, [280] which determine the future of humanity and of the planetary life. |
Minh triết là dấu hiệu của điểm đạo đồ, và điều này y sở hữu ngay cả khi kiến thức thực tế của y về các chi tiết trần tục — lịch sử, địa lý, kinh tế và văn hóa — có thể còn nhiều điều đáng mong đợi. Các đệ tử trong ashram của một Chân sư có thể cung cấp cho Ngài bất kỳ kiến thức nào mà Ngài có thể yêu cầu, vì họ được rút ra từ các nền văn hóa và nền văn minh khác nhau, và trong số đó có thể tóm tắt tổng số kiến thức của con người tại bất kỳ thời điểm nhất định nào. Điều này không được quên. Một Chân sư Minh Triết luôn biết phải đi đâu để tìm kiếm kiến thức. Kiến thức và trí thông minh hoặc sự phân cực trí tuệ không được nhầm lẫn trong tâm trí của các bạn. Tôi có thể nói thêm vào những điều trên rằng kiến thức đề cập đến những điều đã được xác định và có hiệu quả trên cõi vật chất và trong ba cõi giới; minh triết đề cập đến năng lực vốn có và khả năng biểu đạt tinh thần. Kiến thức có thể được thể hiện bằng các khái niệm và giới luật; trí tuệ được tiết lộ thông qua những ý tưởng mà (rất thường xuyên) nhiều kiến thức trần tục chống lại một cách mạnh mẽ. Như các bạn biết rõ, trí cụ thể thường cản trở dòng chảy tự do của các ý tưởng được thúc đẩy một cách trực giác; điểm đạo đồ về cơ bản quan tâm đến dòng chảy tự do này của những ý tưởng mới, bởi vì chính những ý tưởng, ứng dụng và giải thích đúng đắn của chúng, [280] quyết định tương lai của nhân loại và của sự sống hành tinh. |
|
Những Khái Niệm Trừu Tượng – Ý Tưởng – Hình Tư Tưởng |
|
|
The first thing, therefore, that the disciple in preparation for initiation has to learn is the nature of ideas and their distinction from contacted thoughtforms—to express it simply, and therefore, from the complexity of the subject, inadequately. The primary task of the Master is to aid the disciple to develop the intuition, and at the same time, keep the mental perception in an active and wholesome state. This is done, first of all, by enabling him to arrive at a right relation and correct evaluation between the abstract and the concrete realms of thought—those higher and lower aspects of the mind which are to the soul what the lower mind and the brain are to the personality. Think this out. A true recognition of this distinction produces a new focussing of the life force within the soul which will, in the earlier stages of discipleship, work through the abstract mind and the concrete mind. But the abstractions with which the disciple in training is then dealing are not in the nature of intuitions, and here is a point where confusion oft arises. They are merely the broad, general and universal perceptions and world inclusions which the gradually developing intelligence of mankind has registered and recognised and which the foremost thinkers of the race grasp with facility, but which seem so amazing to the neophyte. They appear to him of such magnitude and importance (as objects of his enhanced vision) that he confounds them with ideas and their intuitive perception. He has not learned to discriminate between abstract thoughts and intuitive ideas. Here lies the crux of his problem. |
Do đó, điều đầu tiên mà đệ tử chuẩn bị cho điểm đạo phải học là bản chất của các ý tưởng và sự khác biệt của chúng với các hình tư tưởng được tiếp xúc—diễn tả một cách đơn giản, và do đó không đầy đủ, vì sự phức tạp của chủ đề. Nhiệm vụ chính của Chân sư là hỗ trợ đệ tử phát triển trực giác, đồng thời, giữ cho nhận thức trí tuệ ở trạng thái tích cực và lành mạnh. Điều này được thực hiện trước hết bằng cách cho phép y đạt được mối quan hệ đúng đắn và đánh giá chính xác giữa lãnh vực tư tưởng trừu tượng và cụ thể — những khía cạnh cao và thấp của trí tuệ đối với linh hồn giống như hạ trí và bộ não đối với phàm ngã. Hãy suy nghĩ về điều này. Một sự nhận thức đúng đắn về sự khác biệt này tạo ra một sự tập trung mới của sinh lực bên trong linh hồn, ở những giai đoạn đầu của sự học hỏi, sẽ hoạt động thông qua trí trừu tượng và trí cụ thể. Nhưng những khái niệm trừu tượng mà đệ tử đang được đào tạo làm việc với không có bản chất của trực giác, và đây là một điểm thường gây ra sự nhầm lẫn. Chúng chỉ đơn giản là những nhận thức rộng lớn, chung và phổ quát, và những sự bao hàm thế giới mà trí thông minh dần phát triển của nhân loại đã ghi nhận và công nhận, và những nhà tư tưởng hàng đầu của nhân loại nắm bắt một cách dễ dàng, nhưng lại có vẻ rất đáng kinh ngạc đối với người tân môn sinh. Đối với y, chúng dường như có tầm vóc và tầm quan trọng lớn lao (như những đối tượng của tầm nhìn nâng cao của y) đến nỗi y nhầm lẫn chúng với những ý tưởng và nhận thức trực giác của chúng. Y chưa học được cách phân biệt giữa những suy nghĩ trừu tượng và những ý tưởng trực giác. Đây là điểm mấu chốt của vấn đề của y. |
|
Ideas are other than this, as far as the initiate is concerned; they deal primarily with that which will eventually be, and are those formative new spiritual and creative impulses which will supersede the old and build the “new house” in which humanity will live; cycle after cycle and civilisation after civilisation, the fresh stream of inflowing ideas have conditioned the dwelling places of man and his mode of life and expression; through the medium of these ever-living and ever-appearing ideas, humanity passes on to [281] something better and greater and more appropriate to the life of the slowly manifesting divinity. |
Với người điểm đạo đồ, ý tưởng khác với điều này; chúng chủ yếu đề cập đến những gì cuối cùng sẽ xảy ra, và là những xung lực định hình, tinh thần, và sáng tạo mới, sẽ thay thế cái cũ và xây dựng “ngôi nhà mới” mà nhân loại sẽ sinh sống; chu kỳ này qua chu kỳ khác và nền văn minh này qua nền văn minh khác, dòng chảy mới mẻ của những ý tưởng mới đã điều kiện hóa nơi ở của con người và cách sống và thể hiện của y; thông qua phương tiện của những ý tưởng luôn sống động và luôn xuất hiện này, nhân loại chuyển sang [281] một cái gì đó tốt hơn, vĩ đại hơn và phù hợp hơn với sự sống của thiên tính đang dần dần biểu hiện. |
|
Ideas, when intuitively contacted by the disciple or initiate, via the antahkarana, must be brought consciously down to abstract levels of thinking where (expressing it symbolically) they form the blueprints, prior to the institution of the creative process which will give them phenomenal existence and being. I would have you, therefore, remember the three factors: |
Khi được đệ tử hoặc điểm đạo đồ tiếp xúc một cách trực giác, thông qua antahkarana, các ý tưởng phải được hạ thấp xuống một cách có ý thức đến các cấp độ tư duy trừu tượng, nơi (nói một cách tượng trưng) chúng tạo thành bản thiết kế, trước khi thiết lập quá trình sáng tạo sẽ cho chúng sự tồn tại và hiện hữu hữu hình. Do đó, tôi muốn các bạn ghi nhớ ba yếu tố: |
|
1. The Intuition………….. which contacts and reveals new ideas. |
1. Trực Giác…………………… tiếp xúc và tiết lộ những ý tưởng mới. |
|
2. The Abstract World… in which they are given form and substance and which is to the thoughtform eventually created what the etheric body is to the dense physical vehicle. |
2. Thế Giới Trừu Tượng…………. trong đó chúng được trao hình thức và chất liệu, và đối với hình tư tưởng cuối cùng được tạo ra giống như thể dĩ thái đối với thể xác đặc. |
|
3. Concrete Thought… producing the concretising of the thoughtform and thus making the idea available to mankind. |
3. Tư Tưởng Cụ Thể……………. tạo ra sự cụ thể hóa của hình tư tưởng và do đó làm cho ý tưởng sẵn sàng cho nhân loại. |
|
Here, in this simple summation, is expressed for you the process which the disciple will be able to follow when he is initiate; as each initiation is taken, the scope of the idea steadily increases, and its potency also, so that it might be said that the initiate—as he progresses upon the Path of Initiation—works first with the idea, then with ideas, then with the hierarchical Plan in a wide and general sense, and finally reaches the point where he comes under the influence of the purpose of Sanat Kumara. Then the will of the Lord of the World will stand revealed to him. |
Ở đây, trong tổng kết đơn giản này, quá trình mà đệ tử sẽ có thể làm theo khi y là điểm đạo đồ được thể hiện cho các bạn; khi mỗi lần điểm đạo được thực hiện, phạm vi của ý tưởng sẽ tăng lên đều đặn, và tiềm năng của nó cũng vậy, do đó có thể nói rằng điểm đạo đồ — khi y tiến lên trên Con Đường Điểm Đạo — làm việc trước tiên với ý tưởng, sau đó với các ý tưởng, sau đó với Kế Hoạch của Thánh Đoàn theo nghĩa rộng và chung, và cuối cùng đạt đến điểm mà y chịu ảnh hưởng của mục đích của Đức Sanat Kumara. Sau đó, ý chí của Chúa Tể Thế Giới sẽ được tiết lộ cho y. |
|
The work of the initiate is carried forward within the ring-pass-not of the Universal Mind; this is only a phrase expressive of the range of thought, planning and purpose which is that of a planetary or solar Logos. The quality of the approach which the initiate brings to the work is drawn, as pure energy, from the heart centre of the planetary Logos; it is pure love with its inevitable corollaries, wisdom and [282] understanding. These give him insight into the plan. The power which he can bring to the task is drawn from his comprehension of the purpose of the planetary Logos and this expansive and all-inclusive work is entered into in graded sequences and carried forward under the influence of the initiate’s expanding awareness and his growing sensitivity to impression. |
Công việc của điểm đạo đồ được thực hiện bên trong vòng-giới-hạn của Trí Tuệ Phổ Quát (hay Trí tuệ Vũ Trụ); đây chỉ là một cụm từ thể hiện phạm vi tư tưởng, kế hoạch và mục đích của một Hành Tinh Thượng Đế hoặc Thái Dương Thượng Đế. Phẩm chất của cách tiếp cận mà điểm đạo đồ mang lại cho công việc được rút ra, như năng lượng thuần túy, từ trung tâm tim của Hành Tinh Thượng Đế; đó là tình thương thuần khiết với hệ quả tất yếu của nó là minh triết và [282] sự thấu hiểu. Những điều này mang lại cho y sự thấu hiểu về Thiên Cơ. Sức mạnh mà y có thể mang đến cho nhiệm vụ được rút ra từ sự thấu hiểu của y về mục đích của Hành Tinh Thượng Đế, và công việc mở rộng và bao gồm tất cả này được tham gia theo trình tự từng cấp độ, và được thực hiện dưới ảnh hưởng của nhận thức đang mở rộng và sự nhạy cảm ngày càng tăng của điểm đạo đồ đối với ấn tượng. |
|
I am seeking here to divorce your minds from the idée fixe that the initiate works because he knows. I would reverse the statement and say he knows because he works. There is no point of attainment at which the Initiator says to the initiate: Now you know, and therefore you can work. Rather it is: Now you serve and work, and in so doing you are embarked upon a new and difficult voyage of discovery; you will discover reality progressively and arrive at whole areas of expression, because you serve. Resulting from this service, certain powers and energies will manifest, and your ability to use them will indicate to you, to your fellow initiates and to the world that you are a worker, fully conscious upon the inner side of life. |
Tôi đang tìm cách tách rời tâm trí các bạn khỏi ý niệm cố định rằng điểm đạo đồ làm việc vì y biết. Tôi muốn đảo ngược tuyên bố này và nói rằng y biết vì y làm việc. Không có điểm đạt được nào mà Đấng Điểm Đạo nói với điểm đạo đồ: Giờ đây các bạn biết, và do đó các bạn có thể làm việc. Thay vào đó, nó là: Giờ đây các bạn phụng sự và làm việc, và bằng cách làm như vậy các bạn đang bắt đầu một cuộc hành trình khám phá mới và khó khăn; các bạn sẽ khám phá thực tại một cách tiến bộ và đạt đến những lĩnh vực biểu đạt hoàn chỉnh, bởi vì các bạn phụng sự. Kết quả từ sự phụng sự này, những quyền năng và năng lượng nhất định sẽ biểu hiện, và khả năng các bạn sử dụng chúng sẽ chỉ ra cho các bạn, cho các điểm đạo đồ đồng môn của các bạn và cho thế giới, rằng các bạn là một người làm việc, hoàn toàn ý thức về phía bên trong của cuộc sống. |
|
The initiate works from his place upon that inner side. During the early stages of the initiatory process he works in the world of meaning. After the third initiation he works consciously in the world of causes, until such time as he is advanced enough to work in the world of being. The aspirant is endeavouring to grasp the purpose of the world of meaning and to apply the knowledge gained to his daily life with understanding. The disciple is endeavouring to comprehend the significance of the world of causes and to relate cause and effect in a practical manner. The initiate of higher degree utilises the potencies of these three worlds of meaning, cause and being to implement the purpose of Sanat Kumara. |
Điểm đạo đồ hoạt động từ vị trí của mình ở phía bên trong đó. Trong giai đoạn đầu của quá trình điểm đạo, y hoạt động trong thế giới của ý nghĩa. Sau lần điểm đạo thứ ba, y làm việc một cách có ý thức trong thế giới của nguyên nhân, cho đến khi y đủ tiến bộ để làm việc trong thế giới của bản thể. Người chí nguyện đang cố gắng nắm bắt mục đích của thế giới của ý nghĩa và áp dụng kiến thức thu được vào cuộc sống hàng ngày của mình một cách hiểu biết. Người đệ tử đang cố gắng hiểu ý nghĩa của thế giới của nguyên nhân và liên hệ nhân và quả một cách thực tế. Điểm đạo đồ ở cấp độ cao hơn sử dụng tiềm năng của ba thế giới của ý nghĩa, của nguyên nhân và của bản thể này để thực hiện mục đích của Đức Sanat Kumara. |
|
These differences are not hard and fast, with clear lines of demarcation; life is fluid and moving and the points of attainment are myriad in number and progressing forward all the time, but the general picture will serve to carry your thoughts away from the “trappings of initiation,” from the colouring and the unimportant, so-called facts (actual and [283] imagined) which have been so much emphasised by the occult groups and leaders and which have been held out as inducements to would-be disciples. I would have this group which I am training forget the details about initiation as presented so oft by the mystery monger and the emotional person, and concentrate upon the far more factual realities of meaning, cause and being. The old and outworn presentations were the product of the concrete mind, and are therefore crystallising in their effects and distorting in their results; they are also evocative of spiritual selfishness and isolation, as well as of astral curiosity. The new approach which I seek to indicate makes its appeal to the abstract mind and to the soul, whose values are sound, and eventually to the intuition; it is not so colourful an appeal as far as the personality is concerned, but it will produce more creative results and lead the neophyte along a safer road, with fewer disappointments and failures. |
Những khác biệt này không cứng nhắc và rạch ròi, với những ranh giới phân định rõ ràng; sự sống là linh hoạt và chuyển động, và những điểm đạt được là vô số và luôn tiến về phía trước, nhưng bức tranh tổng thể sẽ giúp các bạn thoát khỏi “những cạm bẫy của điểm đạo”, khỏi sự tô màu và khỏi những cái được gọi là các sự thật vốn không quan trọng, (có thực và [283] tưởng tượng) đã được các nhóm và các nhà lãnh đạo huyền bí học nhấn mạnh quá nhiều, và đã được đưa ra như những lời chiêu dụ đối với những người muốn trở thành đệ tử. Tôi muốn nhóm mà tôi đang đào tạo quên đi những chi tiết về điểm đạo như thường được trình bày bởi những kẻ buôn bán bí ẩn và những người giàu cảm xúc, tập trung vào những sự thực thực chất hơn về ý nghĩa, nguyên nhân và bản thể. Những trình bày cũ và lỗi thời là sản phẩm của trí cụ thể, và do đó có tác dụng kết tinh và bóp méo kết quả; chúng cũng gợi lên sự ích kỷ và cô lập về mặt tinh thần, cũng như sự tò mò về cảm xúc. Cách tiếp cận mới mà tôi tìm cách chỉ ra sẽ thu hút trí trừu tượng và linh hồn, mà những giá trị là vững chắc, và cuối cùng là thu hút trực giác; nó không phải là một sự hấp dẫn đầy màu sắc đối với phàm ngã, nhưng nó sẽ tạo ra những kết quả sáng tạo hơn và dẫn dắt người mới học đạo trên con đường an toàn hơn, với ít thất vọng và thất bại hơn. |
|
THE FORMULAS |
CÁC CÔNG THỨC |
|
The idea of meaning, cause and being underlies the symbology or the significance of the formula with which we are concerned in this instruction. I have pointed out to you before the difficulty of putting these ancient symbols or symbolic writings into such form that they can convey meaning through language. This difficulty is well-nigh insurmountable in connection with this third formula. The reason for this is that this formula has been preserved as sounds or (if I may use so ambiguous a phrase) as trumpeted words. It has not been committed to inscription as have the two previous symbolic formulas which you have already received. All that I can do is to give you a meaning (as far as I myself can understand and you can grasp) of these great sounds or chords, massed together and interspersed with certain very ancient phrases. You know yourselves how difficult it is to express the significance of the sound OM. This is a still more difficult task; little human thinking has been applied as yet to this Formula but much has been given to the Sacred Word. Until some thought has been applied to what I shall now attempt [284] to give you, it is no easy matter to find the words to express the underlying idea—the idea you can contact at your present point of development. |
Ý tưởng về ý nghĩa, nguyên nhân và bản thể nằm dưới biểu tượng hay thâm nghĩa của công thức mà chúng ta quan tâm trong huấn thị này. Tôi đã chỉ ra cho các bạn trước đây về khó khăn trong việc đưa những biểu tượng cổ xưa hoặc chữ viết tượng trưng này vào hình thức mà chúng có thể truyền tải ý nghĩa thông qua ngôn ngữ. Khó khăn này gần như không thể vượt qua khi liên quan đến công thức thứ ba này. Lý do cho điều này là công thức này đã được bảo tồn dưới dạng âm thanh, hoặc (nếu tôi có thể sử dụng một cụm từ mơ hồ như vậy) như những từ đượcphát ra như tiếng kèn. Nó chưa được ghi chép lại như hai công thức tượng trưng trước đó mà các bạn đã nhận được. Tất cả những gì tôi có thể làm là cung cấp cho các bạn một ý nghĩa (theo như tôi có thể hiểu và các bạn có thể nắm bắt) của những âm thanh hoặc hợp âm vĩ đại này, được tập hợp lại và xen kẽ với một số cụm từ rất cổ xưa. Chính các bạn biết việc diễn tả thâm nghĩa của âm thanh OM khó khăn như thế nào. Đây là một nhiệm vụ còn khó khăn hơn nữa; cho đến nay, ít tư duy của con người đã được áp dụng cho Công Thức này, nhưng rất nhiều đã được dành cho Linh Từ. Cho đến khi một số suy nghĩ được áp dụng cho những gì tôi sẽ cố gắng [284] đưa ra cho các bạn, không dễ dàng để tìm ra những từ ngữ diễn đạt ý tưởng cơ bản—ý tưởng mà các bạn có thể tiếp xúc ở điểm phát triển hiện tại của mình. |
|
This third formula concerns Time and the consciousness of the spiritual man who is unaware of separation, of divisions in time and space or of the spell of the Great Illusion. It deals with the fact of immortality and with the unshatterable continuity of consciousness and life. It is this formula which—at the third initiation—produces the transfiguration which comes when the Eternal Now is realised and when the continuity of awareness and of identity is seen as an aspect of Being. This formula has been called by one of the Masters “the seed of all philosophies,” and in that phrase you may find light on the subject—provided you know what philosophy is! |
Công thức thứ ba này liên quan đến Thời gian và tâm thức của con người tinh thần, người không ý thức về sự chia tách, về các phân chia trong thời gian và không gian, hoặc về sự mê hoặc của Đại Ảo Tưởng. Nó liên quan đến sự thật về sự bất tử và về sự liên tục không thể phá vỡ của tâm thức và sự sống. Chính công thức này—ở lần điểm đạo thứ ba—tạo ra sự biến hình, xảy ra khi Hiện Tại Vĩnh Cửu được nhận thức và khi sự liên tục của sự nhận thức và của bản ngã được thấy như một khía cạnh của Bản thể. Công thức này đã được một trong các Chân Sư gọi là “hạt giống của mọi triết học,” và trong cụm từ đó các bạn có thể tìm thấy ánh sáng về chủ đề này—với điều kiện các bạn biết triết học là gì! |
|
To the initiate who uses this formula, creating the necessary sounds and enunciating the ancient words in due place (and these I may not give you), the following six thoughts are emphasised in his consciousness; these six thoughts will give you the intent of the formula as clearly as is possible. It is not possible to convey to you the true beauty of the concepts, but if you will have in mind the thought of meaning as light on life, of cause as the breath of experience, and of Being as the initiator of all that is, then some vision may come, some dream arise in your consciousness, and some power of accomplishment pour in. The Masters use this formula when faced with death in some form or another (and these words must be used literally). I refer not to death as it may affect Them, but to death as it affects God’s created universe, producing release or finality, or opening the door to new life and closing the door on a cycle of manifestation, a civilisation, or a race or nation. |
Đối với điểm đạo đồ sử dụng công thức này, tạo ra những âm thanh cần thiết và phát ra những từ cổ xưa ở đúng vị trí (và những điều này tôi có thể không cung cấp cho các bạn), sáu suy nghĩ sau đây được nhấn mạnh trong tâm thức của y; sáu suy nghĩ này sẽ cho các bạn biết ý định của công thức một cách rõ ràng nhất có thể. Không thể truyền tải cho các bạn vẻ đẹp thực sự của các khái niệm, nhưng nếu các bạn ghi nhớ suy nghĩ về ý nghĩa như ánh sáng cho cuộc sống, nguyên nhân như hơi thở của trải nghiệm, và Bản Thể như người khởi xướng tất cả những gì hiện hữu, thì một số tầm nhìn có thể đến, một số giấc mơ có thể nảy sinh trong tâm thức của các bạn, và một số sức mạnh để hoàn thành có thể đổ vào. Các Chân sư sử dụng công thức này khi đối mặt với cái chết dưới hình thức này hay hình thức khác (và những từ này phải được sử dụng theo nghĩa đen). Tôi không đề cập đến cái chết vì nó có thể ảnh hưởng đến các Ngài, mà là cái chết như nó ảnh hưởng đến vũ trụ được tạo ra của Thượng Đế, tạo ra sự giải thoát hoặc kết thúc, hoặc mở cánh cửa cho sự sống mới và đóng cánh cửa vào một chu kỳ biểu hiện, một nền văn minh, hoặc một chủng tộc hay quốc gia. |
|
Here, therefore, are the six conditioning thoughts which the initiate holds in his consciousness when using the formula—a formula which is older than the Stanzas of Dzyan: |
Do đó, dưới đây là sáu suy nghĩ hạn định mà điểm đạo đồ nắm giữ trong tâm thức của mình khi sử dụng công thức — một công thức cũ hơn các Câu Kệ của Thiền Kinh Dzyan: |
|
1. God IS. The Lord for aye stands firm. Being exists alone. Naught else is. |
1. Thượng Đế HIỆN HỮU. Đấng Chúa tể muôn đời đứng vững. Bản thể tồn tại một mình. Không có gì khác. |
|
2. Time IS. Being descends to manifest. Creation is. [285] Time then and form agree. Being and time do not agree. |
2. Thời gian HIỆN HỮU. Bản thể giáng xuống để biểu hiện. Sáng tạo hiện hữu. [285] Khi đó, thời gian và hình tướng hòa đồng. Bản thể và thời gian không hòa đồng. |
|
3. Unity IS. The One between comes forth and knows both time and God. But time destroys that middle One and only Being IS. |
3. Hợp nhất HIỆN HỮU. Đấng Duy Nhất ở giữa đi ra và biết cả thời gian và Thượng Đế. Nhưng thời gian hủy diệt Đấng ở giữa đó và chỉ có Bản thể HIỆN HỮU. |
|
4. Space IS. Time and space reverberate and veil the One who stands behind. Pure Being IS—unknown and unafraid, untouched, for aye unchanged. |
4. Không gian HIỆN HỮU. Thời gian và không gian vang vọng và che khuất Đấng đứng phía sau. Bản thể Thuần Khiết HIỆN HỮU — không ai biết và không sợ hãi, không bị chạm tới, mãi mãi không thay đổi. |
|
5. God IS. Time, space, the middle One (with form and process) go, and yet for aye remain. Pure reason then suffices. |
5. Thượng Đế HIỆN HỮU. Thời gian, không gian, Đấng ở giữa (với hình thức và tiến trình) đi, nhưng vẫn còn mãi mãi. Lý trí thuần khiết là đủ. |
|
6. Being cries forth and says: … (untranslatable). Death crumbles all. Existence disappears, yet all for aye remains—untouched, immutably the same. God IS. |
6. Bản thể kêu lên và nói: … (không thể dịch được). Cái chết làm sụp đổ tất cả. Sự tồn tại biến mất, nhưng tất cả vẫn còn mãi mãi — không bị chạm tới, bất biến như cũ. Thượng Đế HIỆN HỮU. |
|
Each phrase out of the six has its own symbol at the close of each unit of thought, if I may call it that. These I may not give you or the chords upon which the phrases go forth. I have tried to indicate one of the meanings of the formula, but have not given a translation or a paraphrase. Bear this in mind and as you ponder these six sentences, try to give them an interpretation which will come to you from the world of meaning, producing a practical application, from the world of causes, producing an enlightened understanding, and (if you are far enough along) from the world of being, producing inclusiveness. These formulas have naught to do with personalities or with souls in deep incarnation, identified with form in the three worlds; they concern world movement, great and universal developments, and human progress (as a whole) towards the divine. You cannot yet think in those terms, but you can at least attempt to do so and grow thereby. |
Mỗi câu trong số sáu câu đều có biểu tượng riêng ở cuối mỗi đơn vị tư tưởng, nếu tôi có thể gọi như vậy. Tôi không thể đưa cho các bạn các biểu tượng này hoặc các hợp âm mà các câu đi kèm. Tôi đã cố gắng chỉ ra một trong những ý nghĩa của công thức này, nhưng chưa đưa ra bản dịch hoặc một diễn giải. Hãy ghi nhớ điều này và khi các bạn suy ngẫm về sáu câu này, cố gắng đưa ra một cách giải thích mà sẽ đến với các bạn từ thế giới của ý nghĩa, tạo ra ứng dụng thực tiễn, từ thế giới của nguyên nhân, tạo ra sự thấu hiểu được soi sáng, và (nếu các bạn đã tiến xa đủ) từ thế giới của bản thể, tạo ra sự bao gồm. Những công thức này không liên quan đến cá nhân hoặc linh hồn trong sự lâm phàm sâu, đồng nhất với hình tướng trong ba cõi; chúng liên quan đến chuyển động của thế giới, các phát triển lớn và phổ quát, và sự tiến bộ của con người (như một tổng thể) hướng tới thiên tính. Bạn chưa thể nghĩ trong những thuật ngữ đó, nhưng ít nhất các bạn có thể cố gắng làm như vậy và phát triển qua đó. |
|
POINTS OF REVELATION |
CÁC ĐIỂM MẶC KHẢI |
|
In the earlier part of your last instruction, I pointed out two most necessary requirements which the disciple in training for initiation must grasp. As they are closely connected with this third point (referring to the revelations which the [286] initiate can expect), I would like to touch upon them here. The first statement I made was to the effect that the will is fundamentally an expression of the Law of Sacrifice; the second was an attempt to emphasise the necessity for grasping and accepting two initial premises: |
Trong phần đầu của huấn thị trước, tôi đã chỉ ra hai yêu cầu cần thiết nhất mà đệ tử trong quá trình rèn luyện để điểm đạo phải nắm bắt. Vì chúng có liên hệ mật thiết với điểm thứ ba này (đề cập đến những điều mặc khải mà điểm đạo đồ có thể mong đợi [286]), tôi muốn đề cập đến chúng ở đây. Tuyên bố đầu tiên tôi đưa ra là ý chí về cơ bản là một biểu hiện của Định luật Hy Sinh; thứ hai, một nỗ lực nhấn mạnh sự cần thiết phải nắm bắt và chấp nhận hai tiền đề ban đầu: |
|
First, that energy follows thought. |
Thứ nhất, năng lượng đi theo tư tưởng. |
|
Second, that the eye, opened by thought, directs that energy. |
Thứ hai, con mắt, được mở ra bởi tư tưởng, sẽ điều hướng năng lượng đó. |
|
Why, I would ask you, is the will an aspect or an expression of the Law of Sacrifice? Because the will, as considered and understood by the initiate, is essentially that monadic essence, qualified by “fixed determination,” which is identified with the Will or Purpose of the planetary Logos. It is the highest divine aspect which the initiate finally manifests, prior to entering upon the Way of the Higher Evolution. In this connection it is useful to remember that one of the appellations of Sanat Kumara is that of “the Great Sacrifice,” and also to attempt to recognise some of the factors which have earned Him that name. These might be stated to be as follows, among others which you could not grasp if there was the language available to express them: |
Tôi muốn hỏi các bạn, tại sao ý chí là một khía cạnh hoặc một biểu hiện của Định luật Hy Sinh? Bởi vì ý chí, khi được xem xét và hiểu bởi điểm đạo đồ, về bản chất là tinh túy Chân thần, được định tính bằng “quyết tâm cố định”, được đồng nhất với Ý chí hoặc Mục đích của Hành Tinh Thượng Đế. Đó là khía cạnh thiêng liêng cao nhất mà điểm đạo đồ cuối cùng biểu lộ trước khi bước vào Con Đường Tiến Hóa Cao Hơn. Về vấn đề này, điều hữu ích cần nhớ là một trong những tên gọi của Đức Sanat Kumara là “Đấng Hy Sinh Vĩ Đại”, và cũng để cố gắng nhận ra một số yếu tố đã mang lại cho Ngài cái tên đó. Những điều này có thể được nêu như sau, trong số những điều khác mà các bạn không thể nắm bắt nếu có ngôn ngữ có sẵn để diễn đạt chúng: |
|
a. The basic sacrifice which the planetary Logos made was when He decided to incarnate or enter into the form of this planet. This was from pure choice, motivated by His “fixed determination” to function as the Saviour of the planet, in the same sense as the world Saviours come forth for the salvaging of humanity. Sanat Kumara is the prototype of all world saviours. |
a. Sự hy sinh cơ bản mà Hành Tinh Thượng Đế đã thực hiện là khi Ngài quyết định hóa thân hoặc đi vào hình thể của hành tinh này. Đây là sự lựa chọn thuần túy, được thúc đẩy bởi “quyết tâm cố định” của Ngài để hoạt động như Đấng Cứu Rỗi hành tinh, giống như các Đấng Cứu Thế đến để cứu vớt nhân loại. Đức Sanat Kumara là nguyên mẫu của tất cả các đấng cứu thế. |
|
The initiate, on his tiny scale, must learn to function also as a saviour, and thus express the Law of Sacrifice through the medium of the developed, pure, reasoning will, and not simply from that of impulsive love and its activity. Here lies a basic distinction. Sacrifice must not be regarded as a “giving-up,” but rather as a “taking-over.” It has a mysterious relation to the Law of Karma, but on [287] such high levels that only the advanced initiate can grasp it. |
Điểm đạo đồ, ở quy mô nhỏ bé của mình, cũng phải học cách hoạt động như một vị cứu rỗi, và do đó thể hiện Định luật Hy Sinh thông qua phương tiện của ý chí lý luận, thuần khiết, phát triển, chứ không chỉ đơn giản là từ tình thương bốc đồng và hoạt động của nó. Đây là một sự phân biệt cơ bản. Hy sinh không phải được coi là một “sự từ bỏ”, mà là một “sự tiếp quản”. Nó có một mối quan hệ bí ẩn với Định luật Karma, nhưng ở [287] mức độ cao như vậy mà chỉ có điểm đạo đồ cao cấp mới có thể nắm bắt được. |
|
b. This sacrifice was imperative in the fullest sense, owing to the ability of the planetary Logos to identify Himself in full consciousness with the soul in all forms of life, latent within the planetary substance. When He “took over” this task, He, esoterically, had no choice, because the decision was inherent in His own nature. Because of this identification, He could not refuse the invocative appeal of the “seeds of life, striving within the substance of the form, and seeking added life and light,” as the Old Commentary puts it. This striving and reaching forth evoked His response and the going out of His divinity, as expressed in will, activated by “fixed determination” to meet the deeply hidden divinity within these seeds. What He initiated then still persists and—under the Law of Sacrifice—He will complete the task, no matter how many aeons it may take. |
b. Sự hy sinh này là bắt buộc theo nghĩa đầy đủ nhất, do khả năng của Hành Tinh Thượng Đế tự đồng nhất hóa trong tâm thức trọn vẹn với linh hồn trong tất cả hình tướng sự sống, tiềm ẩn bên trong chất liệu hành tinh. Khi Ngài “tiếp quản” nhiệm vụ này, về mặt bí truyền, Ngài không có lựa chọn nào khác, bởi vì quyết định này vốn có trong bản chất của chính Ngài. Bởi vì sự đồng nhất hóa này, Ngài không thể từ chối lời kêu gọi khẩn cầu của “các hạt giống sự sống, phấn đấu trong bản chất của hình tướng, và tìm kiếm thêm sự sống và ánh sáng”, như Cổ Luận đã nói. Sự phấn đấu và vươn tới này đã gợi lên sự đáp ứng của Ngài và sự thể hiện thiên tính của Ngài, được thể hiện bằng ý chí, được kích hoạt bởi “quyết tâm cố định” để đáp ứng thiên tính ẩn sâu bên trong những hạt giống này. Những gì Ngài khởi xướng khi đó vẫn tồn tại, và — theo Định luật Hy Sinh — Ngài sẽ hoàn thành nhiệm vụ, bất kể phải mất bao nhiêu thời đại. |
|
The initiate, on his tiny scale, has to learn to work as a nourisher and saviour of the seeds of life within all forms with which he may achieve a measure of identification. His will must go out in response to the invocative demand of humanity, and his “fixed determination” must motivate his ensuing activity. |
Điểm đạo đồ, ở quy mô nhỏ bé của mình, phải học cách hoạt động như một người nuôi dưỡng và cứu rỗi những hạt giống sự sống trong tất cả các hình tướng mà y có thể đạt được một mức độ đồng nhất hóa với. Ý chí của y phải đi ra để đáp ứng nhu cầu cầu khẩn của nhân loại, và “quyết tâm cố định” của y phải thúc đẩy hoạt động tiếp theo của y. |
|
c. Under this Law of Sacrifice, Sanat Kumara (to express the idea in occult terms) “must turn His back upon the Central Spiritual Sun, and with the light of His Countenance irradiate the path of the prisoners of the planet.” He sentences Himself to stay for as long as may be needed, “acting as the Sun and light of the planet until the Day be with us and the night of pralaya descends upon His finished task.” Thus and only thus can the light of the Central Spiritual Sun begin to penetrate the dark places of the Earth; when this happens all “shadows disappear”—an occult reference to the all-embracing radiance of the Monad as it absorbs both its reflection, the soul, and its shadow, the personality. |
c. Theo Định luật Hy sinh này, Đức Sanat Kumara (diễn tả ý tưởng này theo thuật ngữ huyền bí) “phải quay lưng lại với Mặt Trời Tinh Thần Trung Ương, và với ánh sáng của Thánh Diện Ngài soi sáng con đường của những tù nhân của hành tinh.” Ngài tự kết án mình ở lại cho đến khi cần thiết, “hành động như Mặt Trời và ánh sáng của hành tinh cho đến “Ngày ở bên chúng ta” và đêm của pralaya đã buông xuống công việc đã hoàn thành của Ngài.” Chỉ bằng cách này ánh sáng của Mặt Trời Tinh Thần Trung Ương mới có thể bắt đầu thâm nhập vào những nơi tối tăm của Trái Đất; khi điều này xảy ra tất cả “bóng tối biến mất”—một tham chiếu huyền bí về sự rạng rỡ bao trùm của Chân Thần khi nó hấp thụ cả sự phản chiếu của nó, linh hồn, và hình bóng của nó, phàm ngã. |
|
The initiate, on his tiny scale, achieves a paralleling [288] expression of the Law of Sacrifice; he eventually turns his back upon the courts of Shamballa and upon the Way of the Higher Evolution as he retains his contact with the Earth and works as a Member of the Hierarchy for the extension of the will-to-good among men, and therefore among all the lesser evolutions. |
Điểm đạo đồ, ở quy mô nhỏ bé của mình, đạt được một biểu hiện tương tự [288] của Định luật Hy Sinh; cuối cùng y quay lưng lại với các cung điện của Shamballa và Con Đường Tiến Hóa Cao Hơn khi y giữ liên lạc với Trái đất và hoạt động như một Thành Viên của Thánh Đoàn để mở rộng ý chí-hướng-thiện giữa con người, và do đó trong số tất cả các sự tiến hóa thấp hơn. |
|
d. Under the Law of Sacrifice, the Lord of the World remains ever behind the scenes, unknown and unrealised by all the “seeds” He came to save, until such time as they have reached the stage of flowering forth as perfect men and, in their turn, become the saviours of humanity. Then they know Him to exist. From the standpoint of the forms of life in the four kingdoms of nature, Sanat Kumara is non-existent. In developed humanity, prior to moving on to the Probationary Path, He is sensed and dimly sought under the vague word “God.” Later, as the life which the “seeds” have manifested reaches the higher layers or brackets in the human hierarchy, there emerges in the consciousness of the disciple, the assurance that behind the phenomenal world is a world of “saving Lives” of which he may eventually form a part; he begins to sense that behind these Lives there stand great Beings of power, wisdom and love Who, in Their turn, are under the supremacy of Sanat Kumara, the Eternal Youth, the Creator, the Lord of the World. |
d. Theo Định luật Hy Sinh, Chúa Tể của Thế Giới luôn đứng sau hậu trường, không được biết đến và không được nhận ra bởi tất cả các “hạt giống” mà Ngài đến để cứu rỗi, cho đến khi chúng đạt đến giai đoạn nở hoa thành những con người hoàn hảo và lần lượt trở thành những vị cứu tinh của nhân loại. Sau đó, họ biết Ngài tồn tại. Từ quan điểm của các hình tướng sự sống trong bốn giới của tự nhiên, Đức Sanat Kumara không tồn tại. Ở nhân loại phát triển, trước khi chuyển sang Con Đường Dự Bị, Ngài được cảm nhận và tìm kiếm một cách mờ nhạt dưới cái tên gọi mơ hồ là “Thượng Đế”. Sau đó, khi sự sống mà “hạt giống” đã biểu hiện đạt đến các tầng hoặc nhóm cao hơn trong Huyền Giai nhân loại, thì trong tâm thức của đệ tử nổi lên sự đảm bảo rằng đằng sau thế giới hiện tượng là một thế giới của “những Sự Sống cứu rỗi” mà cuối cùng y có thể trở thành một phần; y bắt đầu cảm nhận rằng đằng sau những Sự Sống này có những Đấng Vĩ Đại về quyền năng, trí tuệ và tình thương, đến lượt mình, Họ đều dưới quyền tối cao của Đức Sanat Kumara, Chàng Thanh Niên Vĩnh Cửu, Đấng Sáng Tạo, Chúa Tể của Thế Giới. |
|
The initiate, on his tiny scale, likewise has to learn to work behind the scenes, unknown and unrecognised and unacclaimed; he must sacrifice his identity in the identity of the Ashram and its workers, and later in the identity of his working disciples out in the world of daily life. He institutes the needed activities and brings about the required changes, but he receives no reward, save the reward of souls salvaged, lives rebuilt and humanity led onward upon the Path of Return. |
Tương tự như vậy, điểm đạo đồ, ở quy mô nhỏ bé của mình, cũng phải học cách hoạt động sau hậu trường, không được biết đến, không được công nhận và không được hoan nghênh; y phải hy sinh danh tính của mình trong danh tính của ashram và những người làm việc trong đó, và sau đó là trong danh tính của các đệ tử làm việc của y ngoài thế giới của cuộc sống hàng ngày. Y lập ra các hoạt động cần thiết và mang lại những thay đổi cần thiết, nhưng y không nhận được phần thưởng nào, ngoại trừ phần thưởng là những linh hồn được cứu vớt, cuộc sống được xây dựng lại và nhân loại được dẫn dắt trên Con Đường Trở Về. |
|
These few thoughts upon the significance of sacrifice or upon the “taking over,” through identification, of the task of salvage, of revitalising and of presenting opportunity, are important to all disciples, as a goal and a vision. [289] |
Những suy nghĩ này về ý nghĩa của sự hy sinh hoặc về “việc tiếp quản”, thông qua sự đồng nhất hóa, nhiệm vụ cứu rỗi, tái sinh và mang đến cơ hội, rất quan trọng đối với tất cả các đệ tử, như một mục tiêu và một tầm nhìn. [289] |
|
The second point made, based upon the occult platitude that “energy follows thought,” should carry inspiring implications to the earnest disciple, if he truly considers the statements made and regards them of practical application. |
Điểm thứ hai được đưa ra, dựa trên sự thật huyền bí rằng “năng lượng đi theo tư tưởng”, sẽ mang đến những hàm ý đầy cảm hứng cho người đệ tử nghiêm túc, nếu người đó thực sự cân nhắc những tuyên bố đã đưa ra và coi chúng là ứng dụng thực tế. |
|
Two things, I told you, are the result of thought, and though these may be mentally grasped by the intelligent disciple, they are very seldom understood. They are: |
Tôi đã nói với các bạn rằng, có hai điều là kết quả của tư tưởng, và mặc dù những điều này có thể được đệ tử thông minh nắm bắt về mặt trí tuệ, nhưng chúng rất hiếm khi được hiểu. Đó là: |
|
1. Thought generates energy commensurate with the potency of the thinking, and qualified by the theme of the thinking. You will see from this, therefore, some of the implications contained in the meditation I have assigned you. “As a man thinketh in his heart, so is he” is a statement of the Christ. From that demonstrating personal centre of thought, energy will stream down into the physical brain, via the etheric body. It will then condition the type of living, the expression and the influence of the man upon the physical plane. |
1. Tư tưởng tạo ra năng lượng tương xứng với sức mạnh của tư duy và được định tính bởi chủ đề của tư duy. Do đó, các bạn sẽ thấy từ điều này một số hàm ý chứa đựng trong bài thiền mà tôi đã giao cho các bạn. “Con người nghĩ gì trong trái tim mình, thì y sẽ như vậy” là một câu nói của Đức Christ. Từ trung tâm tư tưởng cá nhân thể hiện đó, năng lượng sẽ chảy xuống bộ não vật lý, thông qua thể dĩ thái. Sau đó, nó sẽ điều kiện hóa kiểu sống, sự thể hiện và ảnh hưởng của con người lên cõi vật lý. |
|
2. As a result of focussed thinking “in the heart” the spiritual eye opens and becomes the directing agent, employed consciously by the initiate whilst doing his work under the Law of Sacrifice. What is meant here by the words, “in the heart”? The soul is the heart of the system of the spiritual man; it is the seat of the life and consciousness which animate the personality, and it is the motivating potency in every incarnation, according to the experience conditioning the expression of the spiritual man in any particular rebirth. In the early stages of experience, this “eye” remains closed; there is present no capacity for thought and no ability to think in the heart: i.e., from soul levels. As the intellect develops and the power to focus upon the mental plane grows, the fact of the soul’s existence becomes known and the goal of attention changes. There follows the ability to focus in the soul consciousness and so to fuse the soul and the mind that an at-one-ment takes place and a man can then begin to think “in his heart.” Then also the “eye of the soul” opens and energy from soul levels, intelligently utilised, becomes directed from those levels and pours into what is now [290] ambiguously called “the third eye.” Immediately the personality in the three worlds begins to express itself as the soul upon the physical plane, and will, purpose and love begin to control. |
2. Do kết quả của việc tập trung suy nghĩ “trong trái tim”, con mắt tinh thần mở ra và trở thành tác nhân chỉ đạo, được điểm đạo đồ sử dụng một cách có ý thức trong khi thực hiện công việc của mình theo Định luật Hy Sinh. Ở đây, ý nghĩa của từ “trong trái tim” là gì? Linh hồn là trái tim của hệ thống con người tinh thần; nó là nơi cư ngụ của sự sống và tâm thức làm sống động phàm ngã, và nó là tiềm năng thúc đẩy trong mọi kiếp sống, tùy theo kinh nghiệm điều hòa sự thể hiện của con người tinh thần trong bất kỳ lần tái sinh cụ thể nào. Trong giai đoạn đầu của kinh nghiệm, “con mắt” này vẫn nhắm nghiền; không có khả năng suy nghĩ và không có khả năng suy nghĩ trong trái tim: tức là, từ cấp độ linh hồn. Khi trí tuệ phát triển và sức mạnh tập trung trên cõi trí tăng lên, sự thật về sự tồn tại của linh hồn được biết đến và mục tiêu của sự chú ý thay đổi. Tiếp theo là khả năng tập trung vào tâm thức linh hồn và do đó hợp nhất linh hồn và trí tuệ để tạo ra một sự hòa hợp và sau đó một người có thể bắt đầu suy nghĩ “trong trái tim mình”. Sau đó, “con mắt của linh hồn” cũng mở ra và năng lượng từ cấp độ linh hồn, được sử dụng một cách thông minh, bắt đầu được hướng từ những cấp độ đó và đổ vào thứ mà bây giờ [290] được gọi một cách mơ hồ là “con mắt thứ ba”. Ngay lập tức phàm ngã trong ba thế giới bắt đầu thể hiện mình như linh hồn trên cõi vật lý, và ý chí, mục đích và tình thương bắt đầu kiểm soát. |
|
These two paragraphs are of importance to the disciple and warrant careful attention. As these developments take place, the spiritual will steadily grows into the directing agent, using the right eye as the distributing agent for the energy of love, animated with will. This is why the right eye has been called, in the esoteric teaching, “the eye of buddhi.” This directing agent uses the left eye as the instrument for the distribution of the mental energy of the personality—now illumined and sublimated. |
Hai đoạn văn này rất quan trọng đối với người đệ tử và cần được chú ý cẩn thận. Khi những phát triển này diễn ra, ý chí tinh thần dần dần phát triển thành tác nhân chỉ đạo, sử dụng mắt phải làm tác nhân phân phối năng lượng của tình thương, được tiếp thêm sinh lực bằng ý chí. Đây là lý do tại sao mắt phải được gọi, trong giáo lý bí truyền, là “con mắt của bồ đề”. Tác nhân chỉ đạo này sử dụng mắt trái làm công cụ phân phối năng lượng trí tuệ của phàm ngã — giờ đã được soi sáng và thăng hoa. |
|
Having these thoughts in mind, I would call your attention to the entire theme of vision, which necessarily underlies our consideration of the points of revelation. It is simple to recognise that in the head of the developing aspirant there is a mechanism of great potency, capable of controlling the life of the personality. There is: |
Với những suy nghĩ này trong trí, tôi muốn thu hút sự chú ý của các bạn đến toàn bộ chủ đề về tầm nhìn, điều này nhất thiết phải nằm trong sự cân nhắc của chúng ta về các Điểm Mặc Khải. Thật dễ dàng nhận ra rằng trong đầu của người chí nguyện đang phát triển có một cơ chế có sức mạnh to lớn, có khả năng kiểm soát cuộc sống của phàm ngã. Có: |
|
1. The third eye, not the pineal gland but its etheric correspondence. This is the responsive mechanism to the directing eye of the soul. |
1. Con mắt thứ ba, không phải tuyến tùng mà là tương ứng của nó trên cõi dĩ thái. Đây là cơ chế đáp ứng với con mắt chỉ đạo của linh hồn. |
|
2. The right eye and the left eye, which take the incoming energy, symbolically speaking, and divide it into two streams which are the correspondence in etheric matter of buddhi-manas. |
2. Mắt phải và mắt trái, theo nghĩa tượng trưng, tiếp nhận năng lượng đi vào và chia nó thành hai dòng, là sự tương ứng trong vật chất dĩ thái của bồ đề – trí tuệ. |
|
a. Right eye . . . spiritual energy. Buddhi. Pure reason. Understanding. |
a. Mắt phải… năng lượng tinh thần. Bồ đề. Lý trí thuần khiết. Sự thấu hiểu. |
|
b. Left eye . . . mental energy. Manas. Thought substance. |
b. Mắt trái… năng lượng trí tuệ. Trí tuệ. Chất liệu tư tưởng. |
|
It is the conscious use of these energies and the intelligent utilisation of this triple mechanism which is the goal of the initiate up to the third initiation. He learns consciously to direct force in the correct manner through the needed organ, doing so as the soul working in full consciousness on its own level, but so fully identified with the personality that the [291] mechanism (now developed within the personality) can be used in the work of the Hierarchy. |
Việc sử dụng có ý thức những năng lượng này và sử dụng thông minh cơ chế tam phân này là mục tiêu của điểm đạo đồ cho đến lần điểm đạo thứ ba. Y học cách có ý thức chỉ đạo mãnh lực một cách chính xác thông qua cơ quan cần thiết, làm như vậy khi linh hồn hoạt động trong tâm thức trọn vẹn ở cấp độ của chính nó, nhưng đồng nhất hoàn toàn với phàm ngã để [291] cơ chế (hiện đã được phát triển bên trong phàm ngã) có thể được sử dụng trong công việc của Thánh Đoàn. |
|
Let me now expand the concept further, reminding you of the phrase so oft employed, “the All-seeing Eye.” This refers to the power of the planetary Logos to see into all parts, aspects and phases (in time and space) of His planetary vehicle, which is His physical body and to identify Himself with all the reactions and sensitivities of His created world and to participate with full knowledge in all events and happenings. Through what medium does He, on His own high levels, do this? Through what mechanism does He thus “see”? What is His organ of vision? What is the nature of the sight whereby He contacts the seven planes of His manifested universe? What is the organ, employed by Him, which corresponds to the third eye in man? The answer is as follows: the Monad is to the planetary Logos what the third eye is to man; this will become clearer to you if you will bear in mind that our seven planes are only the seven subplanes of the cosmic physical plane. The monadic world—so-called—is His organ of vision; it is also His directing agent for the life and light which must be poured into the phenomenal world. In the same way, the Monad is to the personality in the three worlds, also the source of its life and light. |
Bây giờ hãy để tôi mở rộng khái niệm hơn nữa, nhắc các bạn nhớ về cụm từ thường được sử dụng, “Con-Mắt-Thấy-Tất-cả”. Điều này đề cập đến sức mạnh của Hành Tinh Thượng Đế để nhìn thấu vào tất cả các bộ phận, khía cạnh và giai đoạn (trong thời gian và không gian) của vận cụ Hành Tinh của Ngài, là thể xác của Ngài, và để đồng nhất háo Ngài với tất cả các phản ứng và sự nhạy cảm của thế giới được Ngài tạo ra, và để tham gia với kiến thức đầy đủ trong tất cả các sự kiện và diễn biến. Thông qua phương tiện nào mà Ngài, ở cấp độ cao cả của riêng Ngài, làm điều này? Thông qua cơ chế nào mà Ngài “nhìn thấy”? Cơ quan thị giác của Ngài là gì? Bản chất của thị lực mà Ngài tiếp xúc với bảy cõi giới của vũ trụ đã biểu lộ của Ngài là gì? Cơ quan nào, được Ngài sử dụng, tương ứng với con mắt thứ ba ở con người? Câu trả lời như sau: Chân thần đối với Hành Tinh Thượng Đế giống như con mắt thứ ba đối với con người; điều này sẽ trở nên rõ ràng hơn đối với các bạn nếu các bạn nhớ rằng bảy cõi giới của chúng ta chỉ là bảy cõi phụ của cõi vật chất vũ trụ. Thế giới chân thần — được gọi như thế—là cơ quan thị giác của Ngài; nó cũng là tác nhân chỉ đạo của Ngài cho sự sống và ánh sáng phải được đổ vào thế giới hiện tượng. Tương tự như vậy, Chân thần đối với phàm ngã trong ba thế giới, cũng là nguồn sống và ánh sáng của nó. |
|
There are, therefore, three organs of revelation, as far as the spiritual man is concerned: |
Do đó, có ba cơ quan của sự mặc khải, trong chừng mực liên quan đến con người tinh thần: |
|
1. The human eye, giving “in-sight” into the phenomenal world, letting in the light, and bringing revelation of the environment. |
1. Mắt con người, mang lại “cái nhìn sâu sắc” về thế giới hiện tượng, cho ánh sáng vào và mang lại sự mặc khải về môi trường xung quanh. |
|
2. The eye of the soul, bringing revelation of the nature of the interior worlds, of the kingdom of God and of the divine plan. |
2. Con mắt của linh hồn, mang lại sự mặc khải về bản chất của thế giới nội tâm, về vương quốc của Thượng Đế và về Thiên Cơ. |
|
3. The centre within the One Life which we call by the unmeaning word “Monad,” the spark within the one Flame. In the final stages of initiation, the Monad becomes the revealer of the purpose of God, of the will of the planetary Logos and of the door which opens on to the Way of the Higher Evolution. This Way leads a man off the cosmic physical plane on to the cosmic [292] astral plane, and therefore into the world of divine sentiency, of which we can have no possible understanding, but for which the development of consciousness has given us the initial steps. |
3. Trung tâm trong Sự Sống Duy Nhất mà chúng ta gọi bằng từ vô nghĩa “Chân thần”, tia lửa bên trong ngọn Lửa duy nhất. Ở các giai đoạn cuối của điểm đạo, Chân thần trở thành người tiết lộ mục đích của Thượng Đế, ý chí của Hành Tinh Thượng Đế và cánh cửa mở ra Con Đường Tiến Hóa Cao Hơn. Con Đường này dẫn một người ra khỏi cõi vật lý vũ trụ vào cõi [292] cảm dục vũ trụ, và do đó đi vào thế giới của cảm giác thiêng liêng, mà chúng ta không thể hiểu được, nhưng tâm thức phát triển đã cho chúng ta những bước đi ban đầu. |
|
Man has learnt to use the physical eye and to find his way, by its means, around and through his environment. The stage in human evolution wherein he learnt first to “see” lies far behind, but when man saw and could focus and direct his course by sight, it marked a stupendous unfoldment and his first real entrance upon the Path of Light. Ponder on this. It has also interior repercussions and was indeed the result of an invocative interplay between inner centres of power and the groping creature in the phenomenal world. |
Con người đã học cách sử dụng con mắt vật lý, và bằng phương tiện của nó, tự tìm đường đi của mình xung quanh và xuyên qua môi trường của mình. Giai đoạn trong quá trình tiến hóa của con người, trong đó lần đầu tiên y học cách “nhìn”, đã nằm lại phía sau rất xa, nhưng khi con người nhìn thấy và có thể tập trung và chỉ đạo hành trình của mình bằng thị giác, điều đó đánh dấu một sự khai mở phi thường và lần đầu tiên y thực sự bước vào Con Đường Ánh Sáng. Hãy suy ngẫm về điều này. Nó cũng có những tác động sâu sắc ngược lại bên trong và thực sự là kết quả của sự tương tác khẩn cầu giữa các trung tâm quyền lực bên trong và sinh vật đang mò mẫm trong thế giới hiện tượng. |
|
Man is now learning to use the eye of the soul, and as he does so he brings its correspondence in the head also into functioning activity; this produces fusion and identification, and brings the pineal gland into action. The major result, however, is to enable the disciple to become aware, whilst in the physical body, of a new range of contacts and perceptions. This marks a crisis in his unfoldment of as drastic and important a nature as the attaining of physical sight and the use of the physical eye was in the unfoldment of the curious creature which antedated the most primitive animal man. Things unknown can now be sensed, searched for and finally seen; a new world of being stands apparent, which has always been present though never before known; the life, nature, quality and the phenomena of the kingdom of souls, or of the Hierarchy, become as patent to his vision and as real as is the world of the five physical senses. |
Bây giờ con người đang học cách sử dụng con mắt của linh hồn, và khi làm như vậy, y cũng đưa sự tương ứng của nó trong đầu vào hoạt động chức năng; điều này tạo ra sự dung hợp và đồng nhất, đồng thời kích hoạt tuyến tùng hoạt động. Tuy nhiên, kết quả chính là cho phép đệ tử nhận thức được, trong khi ở trong thể xác, một loạt các tiếp xúc và nhận thức mới. Điều này đánh dấu một cuộc khủng hoảng trong sự khai mở của y có bản chất quyết liệt và quan trọng như việc đạt được thị lực vật lý và sử dụng con mắt vật lý trong sự khai mở của sinh vật kỳ lạ có trước cả người tiền sử nguyên thủy nhất. Những điều chưa biết bây giờ có thể được cảm nhận, tìm kiếm và cuối cùng được nhìn thấy; một thế giới mới của bản thể xuất hiện rõ ràng, luôn hiện diện mặc dù chưa từng được biết đến trước đây; sự sống, bản chất, phẩm chất và các hiện tượng của giới linh hồn, hay của Thánh Đoàn, trở nên rõ ràng đối với tầm nhìn của họ và thực tế như thế giới của năm giác quan vật lý. |
|
Then later, upon the Path of Initiation, the initiate develops his tiny correspondence to the planetary “All-seeing Eye.” He unfolds the powers of the Monad. These are related to divine purpose and to the world in which Sanat Kumara moves and which we call Shamballa. I have impressed upon you elsewhere that the state of being of the Monad has naught to do with what we call consciousness; in the same way, there is naught in the world of Shamballa which is of the same nature as the phenomenal world of man in the [293] three worlds, or even of the soul world. It is a world of pure energy, of light and of directed force; it can be seen as streams and centres of force, all forming a pattern of consummate beauty, all potently invocative of the world of the soul and of the world of phenomena; it therefore constitutes in a very real sense the world of causes and of initiation. |
Sau đó, trên Con Đường Điểm Đạo, điểm đạo đồ phát triển sự tương ứng nhỏ bé của mình với “Con-Mắt-Thấy-Tất-Cả” của hành tinh. Y khai mở sức mạnh của Chân thần. Những quyền năng này liên quan đến mục đích thiêng liêng và thế giới mà Đức Sanat Kumara vận hành, thế giới mà chúng ta gọi là Shamballa. Tôi đã nhấn mạnh với các bạn ở những nơi khác rằng trạng thái Bản Thể của Chân thần không liên quan gì đến cái mà chúng ta gọi là tâm thức; theo cách tương tự, không có gì trong thế giới Shamballa có cùng bản chất với thế giới hiện tượng của con người trong ba cõi giới [293], hoặc thậm chí của thế giới linh hồn. Đó là một thế giới của năng lượng thuần túy, của ánh sáng và của mãnh lực được hướng dẫn; nó có thể được nhìn thấy như những dòng mãnh lực và những trung tâm lực, tất cả tạo thành một mô hình của vẻ đẹp hoàn mỹ, tất cả đều khẩn cầu mạnh mẽ thế giới linh hồn và thế giới hiện tượng; do đó, theo một nghĩa rất thực tế, nó tạo thành thế giới của các nguyên nhân và của điểm đạo. |
|
As man the human being, man the disciple, and man the initiate gradually move onward on the stream of life, revelation comes step by step, moving from one great point of focus to another until naught more remains to be revealed. |
Khi con người—con người nhân loại, con người đệ tử, và con người điểm đạo đồ—dần dần tiến lên trên dòng chảy của cuộc sống, sự mặc khải sẽ đến từng bước, từ một điểm tập trung lớn này đến điểm khác cho đến khi không còn gì để tiết lộ nữa. |
|
In all these spiritual points of crisis or of opportunity for vision, for fresh spiritual in-sight and for revelation (for that is what they are in reality), the thought of struggle is the first one to warrant attention. I used, in this connection, the words “stage of penetration”; the thought which this conveys to the initiate understanding signifies an extension of the struggle which the neophyte makes in order to achieve inner control, and then to use the mind as a searchlight so as to penetrate into new fields of awareness and of recognition. Forget not that recognition involves right interpretation and right relation to that which is seen and contacted. Into all revelation enters the concept of “whole vision” or a synthesis of perception, and then comes recognition of that which is visioned and perceived. It is the mind (the common sense, as it used to be called) which utilises the physical senses of perception, and through their united contribution gets a “whole vision” and a synthesis of perception of the phenomenal world, according to man’s point of development, his mental capacity to recognise, rightly interpret and rightly relate that which has been conveyed to him by the activity of the five senses. This is what is meant when we use the phrase “the mind’s eye,” and this ability is the common possession of humanity in varying degrees of availability. |
Trong tất cả những điểm khủng hoảng tinh thần hoặc cơ hội để nhìn thấy, để có cái nhìn mới về tinh thần, và cho sự tiết lộ (vì đó là những gì chúng thực sự là), ý nghĩ về cuộc đấu tranh là điều đầu tiên đáng được chú ý. Trong bối cảnh này, Tôi đã sử dụng cụm từ “giai đoạn thâm nhập”; ý nghĩ mà điều này truyền tải đến sự hiểu biết của điểm đạo đồ thể hiện sự mở rộng của cuộc đấu tranh mà người tân đạo sinh phải trải qua để đạt được kiểm soát nội tâm, và sau đó sử dụng thể trí như ngọn đèn pha để thâm nhập vào các lĩnh vực nhận thức và nhận biết mới. Đừng quên rằng nhận biết liên quan đến việc giải thích đúng và mối quan hệ đúng đắn với những gì được thấy và tiếp xúc. Trong tất cả các mặc khải, ý tưởng về “tầm nhìn toàn cảnh” hoặc sự tổng hợp của nhận thức xuất hiện, và sau đó là sự nhận biết những gì được nhìn thấy và nhận thức. Chính thể trí (cái mà trước đây được gọi là lẽ thường) sử dụng các giác quan vật lý để nhận thức, và thông qua sự đóng góp chung của chúng, có được “tầm nhìn toàn thể” và sự tổng hợp nhận thức về thế giới hiện tượng, tùy theo mức độ phát triển của con người, khả năng tinh thần của họ để công nhận, giải thích đúng đắn và liên kết đúng đắn những gì đã được truyền đạt cho họ bởi hoạt động của năm giác quan. Đây là ý nghĩa khi chúng ta sử dụng cụm từ “con mắt của trí tuệ,” và khả năng này là sở hữu chung của nhân loại ở các mức độ khả dụng khác nhau. |
|
Later, man uses the “eye of the soul,” as we have noted above; it reveals to him a world of subtler phenomena, the kingdom of God or the world of souls. Then the light of the intuition pours in, bringing the power to recognise and rightly interpret and relate. |
Sau đó, con người sử dụng “con mắt của linh hồn”, như chúng ta đã lưu ý ở trên; nó tiết lộ cho y một thế giới của những hiện tượng tinh tế hơn, Thiên giới (cõi giới của Thượng đế) hoặc thế giới của những linh hồn. Sau đó, ánh sáng của trực giác tuôn vào, mang lại sức mạnh để nhận ra và giải thích và liên hệ đúng đắn. |
|
As the disciple and the initiate progress from stage to [294] stage of revelation, it becomes increasingly difficult to make clear not only what is revealed, but also the processes of revelation, and the methods used to bring the stage of revelation about. The vast mass of mankind throughout the world have no clear idea as to the function of the mind as an organ of vision illumined by the soul; still fewer, only the disciples and initiates, are able to glimpse the purpose of the spiritual eye and its functioning in the light of the intuition. When we come, therefore, to the great organ of universal revelation, the monadic principle, functioning through the medium of an extra-planetary light, we enter realms which are indefinable and for which no terminology has been created, and which only initiates above the third degree are able to consider. |
Khi đệ tử và điểm đạo đồ tiến bộ từ giai đoạn [294] này sang giai đoạn mặc khải khác, ngày càng khó làm rõ không chỉ những gì được tiết lộ mà còn cả quá trình mặc khải và các phương pháp được sử dụng để đưa giai đoạn mặc khải đến. Phần lớn nhân loại trên toàn thế giới không có ý tưởng rõ ràng về chức năng của thể trí như một cơ quan thị giác được linh hồn soi sáng; còn ít hơn nữa, chỉ có các đệ tử và điểm đạo đồ, mới có thể thoáng thấy mục đích của con mắt tinh thần và chức năng của nó dưới ánh sáng của trực giác. Do đó, khi chúng ta đi đến cơ quan vĩ đại của sự mặc khải phổ quát, nguyên lý chân thần, hoạt động thông qua phương tiện của ánh sáng ngoài hành tinh, chúng ta bước vào những lãnh vực không thể xác định được và không có thuật ngữ nào được tạo ra, và chỉ những điểm đạo đồ trên cấp độ thứ ba mới có thể xem xét. |
|
With the sequential stages of polarisation and precipitation I will not today deal; I am desirous that you grasp as far as may be, the idea of penetration, of the struggle involved and the instrument available in the struggle to see, to perceive and to register impression. |
Hôm nay, tôi sẽ không đề cập đến các giai đoạn tuần tự của sự phân cực và ngưng tụ; Tôi mong muốn rằng các bạn nắm bắt càng nhiều càng tốt, ý tưởng về sự thâm nhập, về cuộc đấu tranh liên quan và công cụ có sẵn trong cuộc đấu tranh để nhìn, nhận thức và ghi lại ấn tượng. |
|
What I have given you at this time will provide much ground for thought. Further instruction along this line would be unprofitable until such time as the inner mechanism of progressive revelation is more clearly defined in your consciousness and is at least theoretically understood and hypothetically accepted. If you will think with clarity and with spiritual brooding upon this subject during the coming year, it may be possible for me greatly to enlarge upon the matter in my next instruction. |
Những gì tôi đã cung cấp cho các bạn tại thời điểm này sẽ cung cấp nhiều cơ sở để suy nghĩ. Hướng dẫn thêm theo đường hướng này sẽ không có lợi cho đến khi bộ máy bên trong của sự mặc khải diễn tiến được xác định rõ ràng hơn trong tâm thức của các bạn, và ít nhất được hiểu về mặt lý thuyết và được chấp nhận theo giả thuyết. Nếu các bạn suy nghĩ rõ ràng và với sự suy ngẫm về mặt tinh thần về chủ đề này trong năm tới, tôi có thể sẽ mở rộng đáng kể vấn đề này trong chỉ dẫn tiếp theo của mình. |
PART V
|
I would like in this instruction, my brothers, to make certain suggestions to you anent the approach to discipleship that humanity is making and the approach to initiation which disciples in every country and of all schools of thought and of religious persuasion are today making. I have told you in many places that the techniques for training disciples are changing in order to conform to the rapid progress being made in mass orientation, and that a new light upon the entire [295] theme of initiation is imminent. I would like, if possible, to be somewhat more explicit. You, at least, after these years of training by me, should be susceptible to some increased realisation along these lines. |
Các huynh đệ của tôi, trong chỉ dẫn này, tôi muốn đưa ra một số gợi ý cho các bạn về cách tiếp cận sự học hỏi mà nhân loại đang thực hiện và cách tiếp cận điểm đạo mà các đệ tử ở mọi quốc gia và thuộc mọi trường phái tư tưởng và tín ngưỡng tôn giáo đang thực hiện ngày nay. Tôi đã nói với các bạn ở nhiều nơi rằng các kỹ thuật đào tạo đệ tử đang thay đổi để phù hợp với tiến bộ nhanh chóng đang đạt được trong định hướng quần chúng, và một ánh sáng mới trên toàn bộ [295] chủ đề điểm đạo sắp xảy ra. Nếu có thể, tôi muốn nói rõ hơn một chút. Ít nhất, sau những năm được tôi đào tạo, các bạn sẽ dễ dàng nhận ra nhiều hơn một chút theo những dòng này. |
|
Humanity—as has oft been said—is now the world disciple. Why is this? Primarily for two reasons: |
Nhân loại — như thường được nói — giờ là đệ tử thế giới. Tại sao lại như vậy? Chủ yếu vì hai lý do: |
|
1. Men are rapidly awakening mentally. The whole world is thinking, primarily along political lines and along lines of current ideologies. Even peoples long dormant are now convulsed by mental processes. This shift in human consciousness involves a rapid focussing of human intention on mental levels. This mental polarisation is essential to discipleship. It is as yet a general trend, but much progress has been made as a result of the tension of war. |
1. Con người đang nhanh chóng thức tỉnh về mặt trí tuệ. Cả thế giới đang suy nghĩ, chủ yếu theo đường lối chính trị và theo đường lối của các hệ tư tưởng hiện tại. Ngay cả những dân tộc ngủ yên từ lâu nay cũng bị cuốn theo các quá trình trí tuệ. Sự thay đổi này trong tâm thức con người liên quan đến việc nhanh chóng tập trung ý định của con người vào các cấp độ trí tuệ. Sự phân cực trí tuệ này là điều cần thiết cho sự học hỏi. Nó vẫn còn là một xu hướng chung, nhưng nhiều tiến bộ đã đạt được do sự căng thẳng của chiến tranh. |
|
2. Men are rapidly developing an understanding goodwill. The world is full of movements for relief and for the amelioration of human distress, and this from the point of small and large communities and also nationally and internationally. To this the Red Cross, UNRRA and many analogous and well-intentioned affiliations of men everywhere bear witness. This indicates not only a mental polarisation but responsiveness to the love nature of God; these together indicate a fusion and a sensitivity which is new in human history and which is most encouraging, testifying as it does to the success, at last, of the evolutionary process. |
2. Con người đang nhanh chóng phát triển một thiện chí hiểu biết. Thế giới có rất nhiều phong trào cứu trợ và cải thiện nỗi đau khổ của con người, và điều này từ quan điểm của các cộng đồng nhỏ và lớn cũng như trên bình diện quốc gia và quốc tế. Hội Chữ thập đỏ, UNRRA và nhiều tổ chức tương tự và có thiện chí của mọi người ở khắp mọi nơi là minh chứng cho điều này. Điều này không chỉ cho thấy sự phân cực trí tuệ mà còn là sự đáp ứng với bản chất tình thương của Thượng Đế; những điều này cùng nhau chỉ ra một sự dung hợp và nhạy cảm mới trong lịch sử loài người và điều này rất đáng khích lệ, và cuối cùng chứng tỏ sự thành công của quá trình tiến hóa. |
|
The time, therefore, when the Hierarchy had to deal almost entirely with the emotional devotee is past, and this has come about far more rapidly than had been anticipated. The task of the Masters before the eighteenth century was to take emotional aspirants and train them in the technique of mental polarisation, prior to permitting them to enter Their Ashrams. This was the best that could be expected, and in the last analysis was all that was required, because mentally polarised aspirants to accepted discipleship would have been of little use in the work of lifting mankind nearer to the light; the Ashrams exist primarily for that purpose. But the [296] mentally focussed humanity of today cannot be reached by emotional workers alone. The mental approach is called for and a higher type of disciple is needed. |
Do đó, thời gian mà Thánh Đoàn gần như phải làm việc hoàn toàn với người tín đồ cảm xúc đã qua, và điều này đã xảy ra nhanh hơn nhiều so với dự đoán. Nhiệm vụ của các Chân Sư trước thế kỷ mười tám là lấy những người chí nguyện cảm xúc và đào tạo họ về kỹ thuật phân cực trí tuệ, trước khi cho phép họ vào các Ashram của Ngài. Đây là điều tốt nhất có thể mong đợi, và trong phân tích cuối cùng là tất cả những gì cần thiết, bởi vì những người chí nguyện phân cực trí tuệ hướng tới việc trở thành đệ tử được chấp nhận sẽ ít có ích trong công việc nâng nhân loại tiến gần hơn với ánh sáng; các Ashram tồn tại chủ yếu cho mục đích đó. Nhưng nhân loại ngày nay tập trung vào trí tuệ không thể được tiếp cận chỉ bởi những người làm việc cảm xúc. Cần có sự tiếp cận trí tuệ và cần một loại đệ tử cao cấp hơn. |
|
The training to be given to aspirants (and this must be begun in our educational centres) will concern the dual use of the mind, the nature of energy, the indication of an evolutionary plan which includes more than the physical forms, and later of a definite and clear purpose for humanity as well as modes and methods of developing the subjective and subtle powers of the human being. This will involve a study of the constitution of man and the relation of its lower and higher threefold nature to the three aspects of divinity. You will note how increasingly, with all of you, I am emphasising man’s essential duality and not his temporary triplicity. I would have you try to ascertain and understand my reasons. As this curriculum is firmly established it will revolutionise modern educational systems upon a planetary scale, and then man the reorienting aspirant, will become man the accepted disciple. |
Việc đào tạo sẽ được trao cho những người chí nguyện (và điều này phải được bắt đầu trong các trung tâm giáo dục của chúng ta) sẽ liên quan đến việc sử dụng kép của trí tuệ, bản chất của năng lượng, những chỉ dẫn của một kế hoạch tiến hóa bao gồm nhiều hơn các hình thức vật chất, và sau đó là một mục đích rõ ràng và xác định cho nhân loại cũng như các phương thức và phương pháp phát triển các khả năng chủ quan và tinh tế của con người. Điều này sẽ liên quan đến việc nghiên cứu cấu tạo của con người và mối quan hệ giữa bản chất tam phân thấp hơn và cao hơn của nó với ba khía cạnh của thiên tính. Bạn sẽ thấy, với tất cả các bạn, ngày càng nhiều tôi nhấn mạnh tính nhị nguyên thiết yếu của con người chứ không phải tính tam phân tạm thời của y. Tôi muốn các bạn cố gắng xác định và hiểu lý do của tôi. Khi chương trình giảng dạy này được thiết lập vững chắc, nó sẽ cách mạng hóa hệ thống giáo dục hiện đại trên quy mô toàn cầu, và sau đó người chí nguyện định hướng lại sẽ trở thành đệ tử được chấp nhận. |
|
I wonder whether you have ever considered the widespread effect of all the reflective thinking, the aspirational prayers and the meditation work—untrained or as the result of training—done by people in their millions down the ages through the entire planet? Its quality is altering; its strength is increasing; its livingness is producing changes in the human organism. The tide of spiritual life is today so strong and striving that the next one hundred and fifty years will demonstrate the factual nature of the Kingdom of Souls or of God. This, as you can surely appreciate, will produce fundamental changes also in the immediate objectives before human progress, and in the Masters’ plans, in the teaching given, and in the training presented. |
Tôi tự hỏi liệu các bạn đã bao giờ xem xét tác động rộng rãi của tất cả những suy nghĩ phản chiếu, những lời cầu nguyện đầy khát vọng và công việc tham thiền — dù không được đào tạo hoặc là kết quả của việc đào tạo — được thực hiện bởi hàng triệu người qua nhiều thời đại trên toàn hành tinh? Chất lượng của nó đang thay đổi; sức mạnh của nó đang tăng lên; sức sống của nó đang tạo ra những thay đổi trong cơ thể con người. Dòng chảy của đời sống tinh thần ngày nay mạnh mẽ và phấn đấu đến mức một trăm năm mươi năm tới sẽ chứng minh bản chất thực tế của giới Linh hồn hay Thiên Giới. Điều này, như các bạn chắc chắn có thể đánh giá cao, cũng sẽ tạo ra những thay đổi cơ bản trong các mục tiêu trước mắt trước sự tiến bộ của con người, và trong các kế hoạch của các Chân sư, trong giáo lý được đưa ra và trong việc đào tạo được trình bày. |
|
This brings me to the objectives which are now before disciples in training for initiation. Instead of the past objectives—contact with the soul and entrance into an Ashram—the following might be listed, but must be understood esoterically and not literally: |
Điều này đưa tôi đến các mục tiêu hiện tại mà các đệ tử đang được đào tạo cho sự điểm đạo phải đối mặt. Thay vì các mục tiêu trước đây—tiếp xúc với linh hồn và gia nhập vào một Ashram—những mục tiêu sau có thể được liệt kê, nhưng phải được hiểu theo nghĩa huyền bí và không theo nghĩa đen: |
|
1. A sense of planetary relationships. Instead of the emphasis [297] being laid upon the relation of the individual to his soul, to his Master and to the Ashram, his consciousness is consciously expanded (if I may use such an apparently redundant phrase) in order to bring about a realisation upwards into kingdoms hitherto unseen and unknown, downwards into kingdoms which we call subhuman, outwards into the human environment and into the human kingdom, and inwards (a meaningless word, my brother) toward divinity itself. This means towards synthesis, towards wholeness, towards the sense of the entire, towards totality. For all these four directions (of which north, south, east and west are symbols) there are specific techniques, but today I may only indicate direction. |
1. Một ý thức về mối quan hệ hành tinh. Thay vì nhấn mạnh vào mối quan hệ của cá nhân với linh hồn của mình, với Chân Sư của mình và với Ashram, tâm thức của y được mở rộng một cách có ý thức (nếu tôi có thể sử dụng cụm từ dường như thừa thãi này) để mang lại một sự nhận thức lên trên vào các giới cho đến nay chưa được nhìn thấy và chưa được biết đến, xuống dưới vào các giới mà chúng ta gọi là dưới nhân loại, ra ngoài vào môi trường con người và vào giới nhân loại, và vào trong (một từ vô nghĩa, huynh đệ của tôi) hướng tới chính thiên tính. Điều này có nghĩa là hướng tới sự tổng hợp, hướng tới toàn vẹn, hướng tới cảm giác về sự toàn bộ, hướng tới tính toàn thể. Đối với tất cả bốn hướng này (trong đó bắc, nam, đông và tây là các biểu tượng) có các kỹ thuật cụ thể, nhưng hôm nay tôi chỉ có thể chỉ ra hướng đi. |
|
2. A sense of “intelligent supervision”. This must be esoterically understood. What does this mean? One of the most deeply spiritual qualities which would-be initiates must unfold is the constant recognition of a focussed control upon daily life, circumstance, the future and fate. This is as yet an embryonic sense or entirely new avenue of perception and relatively close to and an aspect of the will aspect of divinity. It makes man conscious of his destiny, develops in him predictive power and gives him initiate insight into purpose and its unfolding plan. It is a faculty which you would do well to consider and try to imagine as a step towards development. |
2. Ý thức về “sự giám sát thông minh”. Điều này phải được hiểu một cách bí truyền. Điều này có nghĩa là gì? Một trong những phẩm chất tinh thần sâu sắc nhất mà các điểm đạo đồ tương lai phải khai mở là sự nhận biết liên tục về sự kiểm soát tập trung đối với cuộc sống hàng ngày, hoàn cảnh, tương lai và số phận. Đây vẫn còn là một ý thức phôi thai hoặc một con đường nhận thức hoàn toàn mới, tương đối gần gũi với và là một khía cạnh Ý Chí của thiên tính. Nó làm cho con người ý thức được số phận của mình, phát triển trong y sức mạnh tiên đoán và cho y cái nhìn sâu sắc về mục đích và kế hoạch đang mở ra của nó. Đó là một khả năng mà các bạn nên xem xét và cố gắng tưởng tượng như một bước tiến tới sự phát triển. |
|
3. The sense of orientation to humanity. I presume you will recognise the truth of what I say when I express the opinion that your individual or personal love of humanity and the focus of your attention upon human need is very largely theoretical. It is transitory and experimental in practice. Your intentions are good and fine but you have not yet the habit of correct orientation and much that you do is the result of imposed sacrifice and at a cost; it is not natural to you; it is still the result of hopeful endeavour; you are still bewildered over the problem of how to be oriented to the Hierarchy and your soul, and at the same time to be oriented to humanity and your fellowmen. But the time will come when you are personally so decentralised that automatically the sense of “others” is [298] far stronger in you than the sense of personality or of the lower self. Let your imagination run wild for a moment, picturing the condition of the world when the majority of human beings are occupied with the good of others and not with their own selfish goals. Such a play of imaginative thought is good and constructive and will aid in bringing out into manifestation that new world and that new type of humanity which the future will inevitably demonstrate. On this I shall not enlarge; the practice of goodwill will lay the foundation for this new type of sensitivity. |
3. Ý thức về định hướng cho nhân loại. Tôi cho rằng các bạn sẽ nhận ra sự thật của điều tôi nói khi tôi bày tỏ ý kiến rằng tình yêu cá nhân của các bạn đối với nhân loại và sự tập trung chú ý của các bạn vào nhu cầu của con người phần lớn vẫn còn mang tính lý thuyết. Nó chỉ là nhất thời và mang tính thử nghiệm trong thực tế. Ý định của các bạn là tốt và cao đẹp nhưng các bạn chưa có thói quen định hướng chính xác và nhiều điều các bạn làm là kết quả của sự hy sinh bị áp đặt và phải trả giá; nó không phải tự nhiên đối với các bạn; nó vẫn là kết quả của nỗ lực đầy hy vọng; các bạn vẫn còn hoang mang về vấn đề làm thế nào để được định hướng đến Thánh Đoàn và linh hồn của mình, đồng thời định hướng đến nhân loại và đồng loại. Nhưng sẽ đến lúc các bạn trở nên phi tập trung cá nhân đến mức tự động ý thức về “người khác” mạnh mẽ hơn nhiều trong các bạn so với ý thức về phàm ngã hoặc bản ngã thấp kém. Hãy để trí tưởng tượng của các bạn bay bổng một lát, hình dung ra tình trạng của thế giới khi đa số nhân loại bận tâm đến lợi ích của người khác chứ không phải mục tiêu ích kỷ của riêng mình. Việc chơi đùa với những suy nghĩ tưởng tượng như vậy là tốt và mang tính xây dựng, đồng thời sẽ hỗ trợ đưa ra biểu hiện thế giới mới và kiểu nhân loại mới mà tương lai chắc chắn sẽ chứng minh. Tôi sẽ không nói thêm về điều này; việc thực hành thiện chí sẽ đặt nền tảng cho loại hình nhạy cảm mới này. |
|
4. The sense of registered impression. With this new feeling out towards the unknown and towards that which requires a sensitive expansion of consciousness I shall not deal at this moment. It concerns the theme of training in telepathy; I shall deal with it as we consider that Science of Impression [xvi]* which will eventually be the major objective of the educational systems which will be functioning at the close of the New Age, so rapidly approaching. Only now have those forces been permitted entrance into our planetary life which will present the new subjective environment which has ever been there though unrealised. The reason for this new sensitivity being the objective of hierarchical cultural training is that it is realised by the Hierarchy that man is now adequately intelligent to be trained in right interpretation. |
4. Ý thức về ấn tượng được ghi nhận. Với cảm giác mới mẻ này đối với những điều chưa biết và đối với những gì đòi hỏi sự mở rộng nhạy cảm của tâm thức, tôi sẽ không đề cập đến tại thời điểm này. Nó liên quan đến chủ đề đào tạo về viễn cảm; Tôi sẽ đề cập đến nó khi chúng ta xem xét Khoa học Ấn tượng* mà cuối cùng sẽ là mục tiêu chính của các hệ thống giáo dục sẽ hoạt động vào cuối Kỷ nguyên Mới, đang nhanh chóng đến gần. Chỉ vào lúc này, những lực lượng đó mới được phép đi vào cuộc sống hành tinh của chúng ta, điều này sẽ mang đến một môi trường nội tại mới đã từng tồn tại ở đó mặc dù chưa được nhận ra. Lý do cho sự nhạy cảm mới này là mục tiêu của việc đào tạo văn hóa của Thánh Đoàn là nó được Thánh Đoàn nhận ra rằng con người hiện nay đủ thông minh để được đào tạo về cách giải thích đúng đắn. |
|
5. The evocation of the will. This is, for disciples particularly, the new and most necessary development. As I oft have told you, the average aspirant confounds will with determination, with fixed intention, with self-will and one-pointed attention. He does not realise that the will is that divine aspect in man that puts him en rapport with and then controlled by divine purpose, intelligently understood in time and space and implemented by the soul as the expression of loving application. The mode par excellence by which the will can be developed is the cultivation of the recognition of the divine Plan down the ages. This produces a sense of synthesis and this sense of [299] synthesis ties the man into the plan through recognition of: |
5. Sự khơi gợi ý chí. Đây là sự phát triển mới và cần thiết nhất đối với các đệ tử. Như tôi thường nói với các bạn, người chí nguyện trung bình thường nhầm lẫn ý chí với sự quyết tâm, với ý định cố định, với ý chí cá nhân và sự chú ý nhất tâm. Người đó không nhận ra rằng ý chí là khía cạnh thiêng liêng trong con người đưa người đó vào mối liên kết và sau đó được kiểm soát bởi mục đích thiêng liêng, được thấu hiểu một cách thông minh trong thời gian và không gian, và được thể hiện bởi linh hồn như biểu hiện của sự ứng dụng yêu thương. Phương thức xuất sắc để phát triển ý chí là trau dồi sự nhận biết Thiên Cơ qua các thời đại. Điều này tạo ra ý thức tổng hợp và ý thức tổng hợp này [299] gắn kết con người vào Thiên Cơ thông qua việc nhận biết: |
|
a. Its inevitability, therefore demanding cooperation. |
a. Tính tất yếu của nó, do đó đòi hỏi sự hợp tác. |
|
b. Its success, therefore evoking wise activity. |
b. Sự thành công của nó, do đó gợi lên hoạt động khôn ngoan. |
|
c. Its immediate objective—to which all the past has led. |
c. Mục tiêu trước mắt của nó — mà tất cả quá khứ đã dẫn đến. |
|
d. Its rightness—to which the intuition testifies. |
d. Sự đúng đắn của nó — mà trực giác chứng thực. |
|
It is not easy for the disciple in training to associate the sense of synthesis and the use of the will together and to realise that a cultivation of this first ray perception is a potent mode by which the highest aspects of the spiritual will (as yet embryonic within him) can be unfolded. Elsewhere I deal in greater detail with the will, its nature and what it is. |
Không dễ dàng gì cho người đệ tử đang được đào tạo để kết hợp ý thức tổng hợp và sử dụng ý chí với nhau và nhận ra rằng việc trau dồi nhận thức cung một này là một phương thức mạnh mẽ để phát triển các khía cạnh cao nhất của ý chí tinh thần (đến nay vẫn phôi thai trong y). Ở những nơi khác, tôi sẽ đề cập chi tiết hơn về ý chí, bản chất của nó và nó là gì. |
|
6. The sense of that which is imminent. This concerns the “raincloud of knowable things.” I would call your attention to the word knowable. It is not the recognition of that which is imminent in man, in nature, or latent in manifestation. Speculation along this line might be and frequently is of no true importance. It is what is spiritually imminent which concerns the true disciple, if I may be permitted this play on words. One of the first lessons in the esoteric field is the sense of timing, with which that which is imminent or impending is connected; the disciple has to awaken to that which is on the very verge of precipitation into human thinking, life and circumstance; he has to take those occult steps which will enable him to recognise not only that which is hovering over humanity on the point of revelation or of karmic usefulness (note the phrase), but also enable him to handle himself so correctly and wisely that he becomes a cooperator, step by step, in the process of aiding in this task of revelation. More light on this subject will come as we study the Science of Impression. The point, however, I seek to make here is that sensitivity to the overshadowing cloud presupposed the subjective existence of a power or divine faculty hitherto not consciously used by disciples but which can now be intelligently developed, producing more rapid vision and a more acute revelatory perception. [300] That power has always been present; it is an aspect of the force of evolution and has led man on from one point of revelation to another, from one power to another, one sense to another, and from point to point of understanding. It first of all produced the physical senses; it led man on to emotional expression and to mental development; it is the secret behind spiritual understanding, but it has never yet been consciously employed. It is to the mind what the mind, as the common-sense, has been to all the five senses. Think that out. |
6. Ý thức về những gì sắp xảy ra. Điều này liên quan đến “đám mây mưa của những điều khả tri”. Tôi muốn các bạn chú ý đến từ khả tri. Nó không phải là sự nhận ra những gì sắp xảy ra trong con người, trong tự nhiên, hoặc tiềm ẩn trong sự biểu hiện. Suy đoán theo cách này có thể và thường không có tầm quan trọng thực sự. Điều quan trọng đối với người đệ tử chân chính là điều gì sắp xảy ra về mặt tinh thần, nếu tôi được phép chơi chữ. Một trong những bài học đầu tiên trong lĩnh vực nội môn là cảm giác về thời gian, liên quan đến điều sắp xảy ra hoặc sắp diễn ra; người đệ tử phải tỉnh thức trước điều gì đó đang trên bờ ngưng tụ vào tư duy, cuộc sống và hoàn cảnh của con người; y phải thực hiện những bước huyền bí để có thể nhận ra không chỉ điều gì đang lơ lửng trên nhân loại sắp được tiết lộ hoặc có ích về mặt nghiệp quả (hãy chú ý cụm từ này), mà còn giúp y tự xử lý một cách chính xác và khôn ngoan để trở thành người hợp tác, từng bước, trong quá trình hỗ trợ nhiệm vụ tiết lộ này. Sẽ có thêm ánh sáng về chủ đề này sẽ đến khi chúng ta nghiên cứu Khoa học Ấn tượng. Tuy nhiên, điểm tôi muốn nhấn mạnh ở đây là sự nhạy cảm với đám mây che phủ ngụ ý sự tồn tại bên trong của một quyền năng hoặc khả năng thiêng liêng mà trước đây các đệ tử chưa sử dụng một cách có ý thức nhưng bây giờ có thể được phát triển một cách thông minh, tạo ra tầm nhìn nhanh hơn và nhận thức tiết lộ sắc bén hơn. Quyền năng đó luôn tồn tại; nó là một khía cạnh của lực tiến hóa và đã dẫn dắt con người từ một điểm tiết lộ này đến một điểm khác, từ một quyền năng này đến một quyền năng khác, từ một giác quan này đến một giác quan khác, và từ điểm này đến điểm khác của sự thấu hiểu. Đầu tiên, nó tạo ra các giác quan vật lý; nó dẫn dắt con người đến biểu hiện cảm xúc và phát triển trí tuệ; nó là bí mật đằng sau sự thấu hiểu tinh thần, nhưng chưa bao giờ được sử dụng một cách có ý thức. Đối với thể trí, nó giống như tâm trí, với tư cách là lẽ thường, đối với tất cả năm giác quan. Hãy suy nghĩ về điều đó. |
|
This raincloud is hovering, heavy with portent and knowledge, over a world today in process of reorganisation and regeneration. The Masters are seeking to hasten in Their disciples this recognition of that which is imminent, so that they can be the intelligent agents whereby the needed precipitations can be brought about. There is a definite technique for producing this peculiar form of cooperation, but it will not be possible to work with it or apply it for another twenty-five years. |
Đám mây mưa này đang lơ lửng, nặng trĩu điềm báo và kiến thức, trên một thế giới ngày nay đang trong quá trình tổ chức lại và tái sinh. Các Chân sư đang tìm cách thúc giục các đệ tử của mình nhận ra những gì sắp xảy ra, để họ có thể trở thành những tác nhân thông minh nhờ đó có thể tạo ra những sự ngưng tụ cần thiết. Có một kỹ thuật xác định để tạo ra hình thức hợp tác đặc biệt này, nhưng sẽ không thể làm việc với nó hoặc áp dụng nó trong hai mươi lăm năm nữa. |
|
Here I have very briefly outlined for you the new developments which are possible if the disciple is rightly focussed and oriented. There are within latent possibilities. If you will pause and consider, you will realise that the task of the Master in the past, as He sought to prepare the disciple for initiation, was largely concerned with awakening him to the need for occult obedience, for right orientation, for persistence, and for devotion to his objective. But all that lies far behind the true modern disciple. Today, the Master indicates to him the overshadowing cloud of knowable things; He assures him that he has within him undreamt of powers which will, when brought to the surface of consciousness, demonstrate to him his own essential adeptship and enable him to share in the great hierarchical task of illumining, precipitating, and lifting. Today the Master—having done the above—leaves the disciple to work through to knowledge and cooperative usefulness; He neither pushes him into premature action nor constantly supervises him; He surrounds him with the aura of His presence and the protection and [301] stimulation of His Ashram; He gives him occasional hints, and as the disciple acts and works upon the hinted suggestions, the hint becomes a clear direction and a luminous area of enlightenment. |
Ở đây, tôi đã phác thảo rất ngắn gọn cho các bạn những phát triển mới có thể xảy ra nếu đệ tử được tập trung và định hướng đúng. Có những khả năng tiềm ẩn bên trong. Nếu các bạn dừng lại và xem xét, các bạn sẽ nhận ra rằng nhiệm vụ của Chân sư trong quá khứ, khi Ngài tìm cách chuẩn bị cho đệ tử điểm đạo, phần lớn liên quan đến việc đánh thức y nhận ra nhu cầu về sự vâng lời huyền bí, về định hướng đúng đắn, về sự kiên trì và về sự tận tâm cho mục tiêu của mình. Nhưng tất cả những điều đó nằm ở phía sau người đệ tử chân chính hiện đại. Ngày nay, Chân sư chỉ cho y thấy đám mây bao phủ những điều khả tri; Ngài đảm bảo với y rằng y có trong y những quyền năng chưa từng được mơ đến, mà khi được đưa lên bề mặt của tâm thức, sẽ chứng minh cho y thấy khả năng bậc thầy cơ bản của chính y, và cho phép y chia sẻ nhiệm vụ lớn lao của Thánh Đoàn là soi sáng, ngưng tụ và nâng cao. Ngày nay, Chân sư — sau khi đã làm những điều trên — để cho đệ tử tự mình làm việc để đạt đến kiến thức và khả năng hữu ích trong hợp tác; Ngài không thúc ép y hành động sớm cũng như không giám sát y thường xuyên; Ngài bao quanh y bằng hào quang hiện diện của Ngài và sự bảo vệ và [301] kích thích của ashram của Ngài; Ngài thỉnh thoảng đưa ra những gợi ý cho y, và khi người đệ tử hành động và thực hiện theo những gợi ý được gợi ý, gợi ý đó trở thành một chỉ dẫn rõ ràng và một vùng giác ngộ sáng ngời. |
|
ON HINTS |
VỀ NHỮNG GỢI Ý |
|
I have been working with all of you in this manner for more than ten years now; I have sought to bring about a definite awakening to latent possibilities and to those capacities for cooperation which must be eventually realised by the disciple. I am not discouraged, because apart from my realisation of the inevitable limitations which encompass each of you individually, I am also aware that you have placed yourselves in my Ashram for training in the most difficult period in the entire history of humanity—a period in which the whole of humanity is passing through the reorientation required by the time cycle and through an entirely new adjustment to a higher rhythm and area of expression. This has greatly enhanced all your difficulties, and mine also, as I work with you. However, the next one hundred years will see great developments in my Ashram. It is, as I have told you, one of the newest of the Ashrams and is only now finding its own format, enunciating its own note, and taking on its own quality. This situation has also greatly increased your problem, for you are helping me to form something new. |
Tôi đã làm việc với tất cả các bạn theo cách này trong hơn mười năm nay; Tôi đã tìm cách mang lại sự thức tỉnh dứt khoát cho những khả năng tiềm ẩn và những khả năng hợp tác mà cuối cùng phải được đệ tử nhận ra. Tôi không nản lòng, bởi vì ngoài việc tôi nhận ra những hạn chế không thể tránh khỏi bao trùm mỗi các bạn, tôi còn nhận thức được rằng các bạn đã đặt mình vào ashram của tôi để được đào tạo trong giai đoạn khó khăn nhất trong toàn bộ lịch sử nhân loại — một giai đoạn trong đó toàn thể nhân loại đang trải qua sự định hướng lại theo yêu cầu của chu kỳ thời gian và thông qua một sự điều chỉnh hoàn toàn mới đối với nhịp điệu và khu vực biểu hiện cao hơn. Điều này đã làm tăng thêm rất nhiều khó khăn của các bạn, và của tôi cũng vậy, khi tôi làm việc với các bạn. Tuy nhiên, một trăm năm tới sẽ chứng kiến những phát triển lớn trong ashram của tôi. Như tôi đã nói với các bạn, đây là một trong những ashram mới nhất và bây giờ mới tìm được hình thức riêng, phát ra nốt riêng và mang phẩm chất riêng. Tình trạng này cũng làm tăng thêm rất nhiều vấn đề của các bạn, vì các bạn đang giúp tôi hình thành một cái gì đó mới. |
|
Up to the present time, I have given you four hints which might be summarised as follows: |
Cho đến thời điểm hiện tại, tôi đã đưa ra cho các bạn bốn gợi ý có thể được tóm tắt như sau: |
|
Four hints enumerated |
Bốn Gợi Ý Được Liệt Kê Lại |
|
1. That the great changes being brought about in the Hierarchy, and in order to make the work of the New Age adequate and to establish a closer rapport with Shamballa, have been the result of the work done by the working disciples of the world. Why the working disciples, brother of mine, and not by the Masters? A hint ever evokes a question, and it is in the answering of these questions that the disciples learn and eventually become Masters. [302] |
1. Rằng những thay đổi lớn đang được thực hiện trong Thánh Đoàn, và để làm cho công việc của Kỷ Nguyên Mới trở nên đầy đủ và thiết lập mối quan hệ mật thiết hơn với Shamballa, là kết quả của công việc được thực hiện bởi các đệ tử làm việc trên thế giới. Các huynh đệ của tôi, tại sao lại là các đệ tử làm việc mà không phải bởi các Chân sư? Một gợi ý luôn luôn gợi lên một câu hỏi, và chính trong việc trả lời những câu hỏi này mà các đệ tử học hỏi và cuối cùng trở thành Chân sư. [302] |
|
2. That human planning and thinking, as the future is faced, are the first indications in the history of mankind of the emergence of the will aspect. Can you answer the question: Why is this indicated? |
2. Rằng việc lập kế hoạch và suy nghĩ của con người, khi đối mặt với tương lai, là những dấu hiệu đầu tiên trong lịch sử loài người về sự xuất hiện của khía cạnh ý chí. Bạn có thể trả lời câu hỏi: Tại sao điều này lại được chỉ ra? |
|
3. That disciples in all Ashrams have the task of “modifying, qualifying, and adapting the divine plan.” Why has this to be so? This is a most significant and useful question. Why, brother of mine, is the plan not imposed? What are the distinctions between quality, modifications, and adaptations—for there is a distinction in each and every one of them. |
3. Rằng các đệ tử trong tất cả các Ashram có nhiệm vụ “thay đổi, điều chỉnh và thích nghi Thiên Cơ.” Tại sao lại phải như vậy? Đây là một câu hỏi rất quan trọng và hữu ích. Tại sao, huynh đệ của tôi, kế hoạch không được áp đặt? Sự khác biệt giữa phẩm chất, sự điều chỉnh và thích nghi là gì—vì trong mỗi và mọi điều đó đều có sự khác biệt. |
|
4. That the initiate knows because he works. Christ gave the same hint to His disciples when He told them that if they wanted to know the doctrine they must carry out God’s will. Do these words convey any true meaning to you? |
4. Rằng điểm đạo đồ biết vì y làm việc. Đức Christ đã đưa ra gợi ý tương tự cho các đệ tử của Ngài khi Ngài nói với họ rằng nếu họ muốn biết giáo lý thì họ phải thực hiện ý muốn của Thượng Đế. Những lời này có truyền tải ý nghĩa thực sự nào cho các bạn không? |
|
You will note that all of these four hints or seed ideas (for much expanded thinking, leading to renewed activity) have to do with humanity and not with the individual man. This is a point of importance to bear in mind, for it again indicates the distinction between the training being given now and that which was given in the past. I, for instance, am not (in these group instructions) giving you individual hints as to your own lives. This I have done in the past, as have all Ashrams today, as they make their transition between the old and the new, emerging techniques; they have to employ compromise and adapt to that which is coming; the future will see, therefore, a gradual cessation of personality hints. In the future, the true method will be to develop in the disciple the sense of synthesis and of “place” in the One World, and thus decentralise him. The theme of direction underlies the system of instructing by means of hints. It is apparently a slow technique, but there is a point which esotericists would do well to remember. If information as to the nature of the microcosm and the macrocosm, as to divine Purpose and the spiritual Plan, as to occult events in time and space, and as to future or immediate possibilities were given out in plain terms (even if the needed language were available) there would be little understanding. I could, for [303] instance, tell you much that would be as useful to you as the following statement might have been to unevolved prehistoric man: “There is naught in the world but energy. The Atom of atoms is only energy and God Himself is naught but energy.” The phrases would have conveyed to their slow-moving brains absolutely nothing. Primitive man had not the mechanism whereby comprehension would have been possible. A key to the correct interpretation of a hint lies in its association with the idea of direction in time and space. And, my brother, in the above sentence I give you the hint which I have in mind for your consideration this year. The word “direction” is the key to the evolutionary process, to the concept of light, to the secret of Masonry, and to the motivating power behind manifestation. More I will not indicate, but I seek your intelligent assent to that word. |
Bạn sẽ lưu ý rằng tất cả bốn gợi ý hoặc ý tưởng hạt giống này (để suy nghĩ mở rộng hơn nhiều, dẫn đến hoạt động đổi mới) đều liên quan đến nhân loại chứ không phải cá nhân con người. Đây là một điểm quan trọng cần ghi nhớ, vì nó một lần nữa chỉ ra sự khác biệt giữa sự đào tạo được đưa ra bây giờ và sự đào tạo được đưa ra trong quá khứ. Ví dụ, tôi không (trong các hướng dẫn nhóm này) đưa ra cho các bạn những gợi ý cá nhân về cuộc sống của riêng các bạn. Tôi đã làm điều này trong quá khứ, cũng như tất cả các ashram ngày nay, khi họ thực hiện quá trình chuyển đổi giữa các kỹ thuật cũ và mới, đang nổi lên; họ phải sử dụng sự thỏa hiệp và thích nghi với những gì sắp đến; do đó, tương lai sẽ chứng kiến sự chấm dứt dần dần của những gợi ý về phàm ngã. Trong tương lai, phương pháp thực sự sẽ là phát triển trong đệ tử ý thức tổng hợp và “vị trí” trong Một Thế Giới, và do đó làm cho y phi tập trung. Chủ đề về sự định hướng nằm trong hệ thống giảng dạy bằng các gợi ý. Điều này dường như là một kỹ thuật chậm chạp, nhưng có một điểm mà các nhà huyền bí học cần nhớ. Nếu thông tin về bản chất của tiểu vũ trụ và đại vũ trụ, về Mục đích thiêng liêng và Kế hoạch tinh thần, về các sự kiện huyền bí trong thời gian và không gian, và về các khả năng tương lai hoặc tức thì được đưa ra bằng những thuật ngữ rõ ràng (ngay cả khi ngôn ngữ cần thiết có sẵn) thì sẽ có rất ít sự thấu hiểu. Ví dụ, tôi có thể nói với bạn nhiều điều sẽ hữu ích cho bạn như câu phát biểu sau đây có thể đã đối với người tiền sử chưa phát triển: “Chẳng có gì trên thế giới ngoài năng lượng. Nguyên Tử của các nguyên tử chỉ là năng lượng và chính Thượng Đế cũng chẳng là gì ngoài năng lượng.” Những cụm từ này sẽ không truyền đạt được gì đến bộ não chậm chạp của họ. Người nguyên thủy không có bộ máy để có thể hiểu được. Chìa khóa để giải thích chính xác một gợi ý nằm ở sự liên kết của nó với ý tưởng về định hướng trong thời gian và không gian. Và, các huynh đệ của tôi, trong câu trên, tôi đưa ra cho các bạn gợi ý mà tôi đang suy nghĩ để các bạn xem xét trong năm nay. Từ “định hướng” là chìa khóa cho quá trình tiến hóa, cho khái niệm ánh sáng, cho bí mật của Hội Tam Điểm, và cho động lực đằng sau sự biểu hiện. Tôi sẽ không chỉ ra thêm nữa, nhưng tôi tìm kiếm sự tán thành thông minh của các bạn đối với từ đó. |
|
It will become increasingly apparent to you that the entire life of a disciple becomes one of reflective meditation. Meditation forms may at some point of unfoldment drop away, but the habit of meditation will become a permanent and considered habit and will know finally no termination; when that point is reached, the idea of direction will take on divine significance. Here is a second hint on the same theme. You will recollect that in my last Instruction the whole subject of meditation was summarised for you as follows: |
Điều sẽ ngày càng rõ ràng với bạn rằng toàn bộ cuộc sống của một đệ tử trở thành một sự tham thiền phản chiếu. Các hình thức tham thiền có thể sẽ bị loại bỏ ở một giai đoạn nào đó của quá trình phát triển, nhưng thói quen tham thiền sẽ trở thành một thói quen vĩnh viễn và có ý thức và sẽ không bao giờ chấm dứt; khi đạt đến điểm đó, ý tưởng về sự định hướng sẽ mang ý nghĩa thiêng liêng. Đây là gợi ý thứ hai về cùng một chủ đề. Bạn sẽ nhớ rằng trong Hướng Dẫn lần trước của tôi, toàn bộ chủ đề về tham thiền đã được tóm tắt cho bạn như sau: |
|
1. A preliminary stage wherein the theme of meditation was recognised. |
1. Giai đoạn ban đầu, trong đó chủ đề của tham thiền được nhận ra. |
|
2. Receptivity in attitude, so that the possible and esoteric teaching may be recognised and absorbed. |
2. Thái độ tiếp nhận, để có thể nhận ra và hấp thụ các giảng dạy bí truyền. |
|
3. The transmission of ideas in some form or another to the brain after they have been registered by the mind in the form of seed thoughts, hints or presented themes and concepts. |
3. Truyền tải các ý tưởng dưới một hình thức nào đó đến não bộ sau khi chúng đã được thể trí ghi nhận dưới dạng các tư tưởng hạt giống, các gợi ý hoặc các chủ đề và khái niệm được trình bày. |
|
4. The deliberate focussing of thought upon these ideas. |
4. Tập trung suy nghĩ một cách có chủ đích vào các ý tưởng này. |
|
5. As these ideas are considered and developed, they are subjected to analysis and take shape eventually as created thoughtforms. |
5. Khi các ý tưởng này được xem xét và phát triển, chúng sẽ được phân tích và cuối cùng hình thành dưới dạng các hình tư tưởng đã được tạo ra. |
|
6. They are then subjected to a process of unification through the conscious and constant use of a mantram. [304] |
6. Sau đó, chúng sẽ được thống nhất thông qua việc sử dụng một cách có ý thức và liên tục một mantram. [304] |
|
If this outline for thinking is carefully considered, it will be apparent to you that it is suitable for all true thought processes, all mental moods, and all analysis and application of occult hints. I wanted you to realise the essential simplicity of all divine processes and to note the ultimate fact that such processes culminate in a spiritual identification, proving past all controversy that separateness is fundamentally non-existent. This is true also of the formulas which we have been considering. |
Nếu phác thảo tư duy này được xem xét cẩn thận, các bạn sẽ thấy rõ rằng nó phù hợp với tất cả các quá trình tư duy thực sự, tất cả các trạng thái tâm trí, và tất cả các phân tích và ứng dụng các gợi ý huyền bí. Tôi muốn các bạn nhận ra sự đơn giản thiết yếu của tất cả các quá trình thiêng liêng và lưu ý sự thật cuối cùng là các quá trình như vậy lên đến đỉnh điểm trong một sự đồng nhất hóa tinh thần, chứng minh vượt qua tất cả những tranh cãi rằng sự tách biệt về cơ bản là không tồn tại. Điều này cũng đúng với các công thức mà chúng ta đã xem xét. |
|
THE FORMULAS |
CÁC CÔNG THỨC |
|
As I told you in my last Instruction, the meaning and even the format of these formulas are so difficult to convey in words that I have hesitated several times in proceeding even with so brief an attempted elucidation on the subject. But even if I can convey but little of their significance, I can at least build in your minds the concept of these formulas. They are second ray presentations of soul ideas. We are told that God geometrises, when referring to the activity of the second aspect, and that a subtle geometrical form lies behind the exoteric manifestation. These forms convey to the occult student the symbolism of the world of meaning. Behind the mathematics and the geometrical designs, and behind the numerology which attempts (hitherto quite unsuccessfully) to convey the truth, but which in a mysterious manner conditions the creative work, are certain formulas which—as I have pointed out—express significance, intention, meaning. With three of the formulas we have spent a short time in consideration. Broadly speaking, these three condition the evolutionary process through the forms which are the result of the correct use of these formulas in such a way that a directive is given. I know not how else to express it. The three directives, therefore, already dealt with, embody and express the oldest invocative appeal in the world and (because of the age of this appeal) these three formulas have given a direction that naught can offset; the resultant conditions are inevitable: [305] |
Như tôi đã nói với bạn trong Hướng Dẫn lần trước của tôi, ý nghĩa và thậm chí cả định dạng của các công thức này rất khó truyền đạt bằng lời, nên tôi đã do dự nhiều lần trong việc tiếp tục thậm chí với một nỗ lực giải thích ngắn gọn về chủ đề này. Nhưng ngay cả khi tôi chỉ có thể truyền đạt rất ít ý nghĩa của chúng, tôi ít nhất có thể xây dựng trong trí bạn khái niệm về các công thức này. Chúng là những trình bày cung hai về các ý tưởng của linh hồn. Chúng ta được biết rằng, khi nói về hoạt động của phương diện thứ hai, Thượng Đế hình học hóa, và rằng một hình thức hình học tinh tế nằm đằng sau biểu hiện bên ngoài. Những hình thức này truyền tải đến sinh viên huyền môn biểu tượng của thế giới ý nghĩa. Đằng sau toán học và các thiết kế hình học, và đằng sau môn số học đang cố gắng (cho đến nay vẫn chưa thành công) truyền tải chân lý, nhưng một cách bí ẩn lại điều kiện hóa công việc sáng tạo, có những công thức nhất định mà—như tôi đã chỉ ra—thể hiện thâm nghĩa, ý định, ý nghĩa. Với ba công thức, chúng ta đã dành một khoảng thời gian ngắn để xem xét. Nói một cách rộng rãi, ba công thức này điều kiện hóa quá trình tiến hóa thông qua các hình thức là kết quả của việc sử dụng đúng các công thức này theo cách mà một sự chỉ đạo được đưa ra. Tôi không biết phải diễn đạt điều này thế nào khác. Do đó, ba sự chỉ đạo mà chúng ta đã xem xét, hiện thân và thể hiện lời kêu gọi cổ nhất trên thế giới và (vì tuổi của lời kêu gọi này) ba công thức này đã đưa ra một sự chỉ đạo mà không gì có thể hóa giải; các điều kiện kết quả là không thể tránh khỏi: [305] |
|
Formula I . . . . Lead us from darkness to Light. |
Công thức I … Dẫn chúng con từ bóng tối ra Ánh sáng. |
|
Formula II . . . .Lead us from the unreal to the Real. |
Công thức II … Dẫn chúng con từ điều không thực đến Điều thực. |
|
Formula III . . . Lead us from death to Immortality. |
Công thức III … Dẫn chúng con từ cái chết đến Sự bất tử. |
|
This brings us to a statement of the next formula and a consideration of its meaning: |
Điều này đưa chúng ta đến một tuyên bố về công thức tiếp theo và một sự xem xét ý nghĩa của nó: |
|
Formula IV |
Công Thức IV |
|
Formula IV . . . Lead us from chaos to Beauty. |
Công thức IV . . . Dẫn chúng con từ hỗn loạn đến Mỹ lệ. |
|
This formula is presented in the form of a symbol—one which is in such constant movement that it is most difficult to describe or to make it live before you. |
Công thức này được trình bày dưới dạng một biểu tượng—một biểu tượng trong sự chuyển động liên tục đến mức rất khó mô tả hoặc làm cho nó sống động trước bạn. |
|
There lies before the investigator a square or oblong, composed of a kaleidoscopic mass of inchoate colours, moving, pulsating and in constant indescribable confusion. Superimposed upon this square is a radiant sun with a penumbra composed of the seven prismatic colours; these radiate from the sun in regular rhythmic bands and produce a marvellous blaze of colour. The background of the square appears to have its confusion of colours shown of a heavy, brilliant kind and quality; the scheme of beauty emerging (even if it appears as superimposed) is translucent and delicate and radiantly living in hue. The heavier background can be distinctly seen through the translucence. This formula differs according to the polarisation of the one who visions it and who studies it. If he is focussed in the personality, and is therefore conditioned by his personality ray, one type of energy will impinge upon his consciousness; if he is soul conscious and soul focussed, another type of energy will have its effect. Thus two different pictures will emerge. Both will be correct, but the interpreting agent will be different. |
Trước mắt người nghiên cứu là một hình vuông hoặc hình chữ nhật, được tạo thành từ một khối màu sắc hỗn loạn, chuyển động, nhấp nháy và trong tình trạng hỗn loạn không thể tả. Trên hình vuông này là một mặt trời rực rỡ với một quầng sáng bao gồm bảy màu lăng kính; những màu này tỏa ra từ mặt trời trong các dải nhịp điệu đều đặn và tạo ra một quầng màu sắc tuyệt diệu. Nền của hình vuông dường như có sự hỗn loạn của các màu sắc thuộc loại và có tính chất nặng nề, rực rỡ; sơ đồ vẻ đẹp nổi lên (ngay cả khi nó xuất hiện dưới dạng chồng lên) là trong suốt và tinh tế và sống động rực rỡ trong sắc thái. Nền nặng hơn có thể được nhìn thấy rõ ràng qua lớp trong suốt này. Công thức này khác nhau tùy theo sự phân cực của người nhìn và nghiên cứu nó. Nếu y tập trung vào phàm ngã, và do đó bị điều kiện hóa bởi cung phàm ngã của mình, một loại năng lượng sẽ ảnh hưởng đến tâm thức của y; nếu y có tâm thức linh hồn và tập trung vào linh hồn, một loại năng lượng khác sẽ có ảnh hưởng của nó. Vì vậy, hai hình ảnh khác nhau sẽ xuất hiện. Cả hai sẽ đúng, nhưng tác nhân diễn giải sẽ khác nhau. |
|
This formula, if carefully considered and studied for a number of years, will become a key form by means of which aspects of the creative process will come to the attention of the student, plus revelation as to some of the divine objectives which are wider and of greater and richer implication than has yet been realised. I would here remind you that these formulas are not symbols of what already is, but are [306] indicatory key forms of what may or shall be—a very different matter and one which you should bear in mind. They are symbols of the future and not of the past; they are predictive and not consummating; they reveal what is on the way as the result of the divine thought and are not pictorial presentations of what already is. |
Nếu được xem xét và nghiên cứu cẩn thận trong một số năm, công thức này sẽ trở thành một hình thức then chốt, nhờ đó các khía cạnh của quá trình sáng tạo sẽ được đạo sinh chú ý, cộng với sự mặc khải về một số mục tiêu thiêng liêng rộng hơn và có ý nghĩa lớn hơn và phong phú hơn so với những gì đã được nhận ra. Tôi xin nhắc các bạn ở đây rằng những công thức này không phải là biểu tượng của những gì đã có, mà là [306] những hình thức then chốt chỉ dẫn về những gì có thể hoặc sẽ xảy ra—một vấn đề rất khác và các bạn nên ghi nhớ. Chúng là biểu tượng của tương lai chứ không phải của quá khứ; chúng mang tính dự đoán chứ không phải là hoàn thiện; chúng tiết lộ những gì đang trên đường như kết quả của tư tưởng thiêng liêng và không phải là những hình ảnh minh họa cho những gì đã có. |
|
Therefore, they are not easy to grasp and interpret, because it is only the activity of the intuition which will enable you to understand and move forward into the new impulsive causal area. Difficult though this task may be (and, my brother, is), it is of major importance to disciples in training for initiation, because it will steadily tend to facilitate their entry into the world of causes and their emergence from the world of effects. You can see also from this that this formula is related to the Law of Karma; in fact, in the ancient records from which these formulas are taken, Formula IV has the symbol of one of the four Lords of Karma at the four corners of this square or oblong design. This formula is sometimes called that of “the Sun upon the Square.” I have no more to say anent this theme at this time or about this formula in this Instruction. All that I am giving you is intended to be suggestive and to develop in you the power to use the interpretive sense—one of the new senses as far as experience and experiment are concerned, but which is latent in every man. |
Vì vậy, chúng không dễ nắm bắt và giải thích, bởi vì chỉ có hoạt động của trực giác mới giúp các bạn hiểu và tiến vào khu vực nguyên nhân xung động mới. Mặc dù nhiệm vụ này có thể khó khăn (và, huynh đệ của tôi, nó đúng là như vậy), nhưng nó có tầm quan trọng lớn đối với các đệ tử đang được đào tạo để điểm đạo, bởi vì nó sẽ dần dần tạo điều kiện cho họ bước vào thế giới nhân quả và thoát ra khỏi thế giới của các hệ quả. Bạn cũng có thể thấy từ điều này rằng công thức này có liên quan đến Định luật Karma; trên thực tế, trong các ghi chép cổ xưa mà các công thức này được lấy, Công thức IV có biểu tượng của một trong bốn Vị Chúa Tể của Karma ở bốn góc của thiết kế hình vuông hoặc hình chữ nhật này. Công thức này đôi khi được gọi là công thức của “Mặt trời trên Hình Vuông.” Tôi không còn gì để nói về chủ đề này vào lúc này hoặc về công thức này trong Chỉ dẫn này. Tất cả những gì tôi đang cung cấp cho các bạn chỉ nhằm mục đích gợi ý và phát triển trong các bạn khả năng sử dụng giác quan diễn giải—một trong những giác quan mới trong chừng mực liên quan đến kinh nghiệm và thử nghiệm, nhưng tiềm ẩn trong mỗi con người. |
|
POINTS OF REVELATION |
CÁC ĐIỂM MẶC KHẢI |
|
Little as you may realise it, these words “Points of Revelation” summarise a most definite technique in the training of disciples for initiation. All life is intended to take the form of a progressive series of awakenings. Progress, movement, awakening, expansion, enlightenment, evolution, growth—these words are but a few of those applied to the effects, both within and without, of the creative process. What is this creative process but the working out into progressive demonstration of the divine intention as it assumes form? This intention is a fully comprehended scheme in the Universal Mind; we call it Purpose when considering the grasp by Shamballa of the synthesis of this comprehensive intention, [307] and we call it the Plan when considering the work of the Hierarchy in bringing this Purpose as fully as possible into expression. |
Các bạn có thể ít nhận ra rằng những từ “Điểm Mặc Khải” này tóm tắt một kỹ thuật rất rõ ràng trong việc huấn luyện các đệ tử cho điểm đạo. Tất cả sự sống được dự định sẽ mang hình thức của một chuỗi thức tỉnh diễn tiến. Tiến bộ, chuyển động, thức tỉnh, mở rộng, giác ngộ, tiến hóa, phát triển—những từ này chỉ là một vài trong số những từ được áp dụng cho các hiệu ứng, cả bên trong lẫn bên ngoài, của quá trình sáng tạo. Quá trình sáng tạo này là gì nếu không phải là quá trình thể hiện ý định thiêng liêng khi nó khoác hình tướng? Ý định này là một kế hoạch được hiểu đầy đủ trong Trí Tuệ Phổ Quát; chúng ta gọi đó là Mục đích khi xem xét sự nắm bắt của Shamballa về sự tổng hợp của ý định toàn diện này, [307] và chúng ta gọi đó là Thiên Cơ khi xem xét công việc của Thánh Đoàn trong việc đưa Mục đích này vào biểu hiện một cách đầy đủ nhất có thể. |
|
In our studies over the years and in the books which I have put before the public with the help of A.A.B. and of F.B. and of all of you who have cooperated with them, we have primarily considered the effect of this divine Intention, Purpose and Plan upon Humanity, and this because the Plan—emanating from the Hierarchy—has to be implemented by mankind. Hence the importance of their grasp and their understanding of the entire proposed programme. What, therefore, will be the quality of their reaction to what their developed understanding will reveal? What can they expect and what aspects or forms can the revelation be expected to take? Are they to look for a sudden blaze of light, or should they expect a gradual and progressive series of lesser lights? What is the relation of these revelations to the life of the occultist, and must he first of all register and accept what is conveyed to him as inexplicable but to be admitted, and to be viewed as incontrovertible though beyond comprehension? Or what? |
Trong các nghiên cứu của chúng ta trong những năm qua và trong các cuốn sách mà tôi đã đưa ra trước công chúng với sự giúp đỡ của AAB và của FB và của tất cả các bạn đã hợp tác với họ, chúng ta chủ yếu đã xem xét ảnh hưởng của Ý định, Mục đích và Thiên Cơ này đối với Nhân loại, và điều này bởi vì Thiên Cơ — xuất phát từ Thánh Đoàn — phải được thực hiện bởi nhân loại. Do đó tầm quan trọng của việc họ nắm bắt và thấu hiểu của họ về toàn bộ chương trình đề xuất. Do đó, tính chất phản ứng của họ đối với những gì mà sự thấu hiểu đã phát triển của họ sẽ tiết lộ là gì? Họ có thể mong đợi điều gì và sự mặc khải có thể được mong đợi ở những khía cạnh hoặc hình thức nào? Họ sẽ tìm kiếm một tia sáng chói lòa đột ngột, hay họ nên mong đợi một loạt ánh sáng nhỏ hơn dần dần và tiến triển? Mối quan hệ của những điều mặc khải này với cuộc sống của nhà huyền bí học là gì, và trước hết y phải ghi nhận và chấp nhận những gì được truyền đạt cho y là không thể giải thích được nhưng phải được thừa nhận, và được xem là không thể tranh cãi mặc dù nằm ngoài sự hiểu biết? Hay là gì? |
|
Let me reiterate to you the well-known truth that no man is an initiate apart from understanding, that the life of the initiate is one of constant registration of new knowledge which must be transmuted into practical wisdom, of occult facts which must take intelligent place in the life-service of the initiate, and of new inclusions of areas of consciousness; these latter must become the normal field of experience and of expression; they then become the ground for further expansion. Every revelation has to be mastered from four angles: |
Hãy để tôi nhắc lại với các bạn sự thật quen thuộc rằng không có người nào là điểm đạo đồ mà không có sự thấu hiểu, rằng cuộc sống của điểm đạo đồ là một trong những sự ghi nhận liên tục về kiến thức mới cần phải được chuyển hóa thành minh triết thực tế, về sự thật huyền bí phải diễn ra một cách thông minh trong sự phụng sự cuộc sống của điểm đạo đồ, và về sự bao gồm mới của các lĩnh vực tâm thức; những điều sau này phải trở thành lĩnh vực kinh nghiệm và thể hiện bình thường; sau đó chúng trở thành nền tảng cho sự mở rộng hơn nữa. Mọi điều mặc khải phải được làm chủ từ bốn góc độ: |
|
1. The mental, occult, spiritual, hierarchical and triadal facts it embodies. Every revelation has its own format, for all our planes—so steadily being revealed—are the subplanes of the cosmic physical plane. |
1. Các sự thật về trí tuệ, huyền bí, tâm linh, Thánh Đoàn và tam nguyên mà nó thể hiện. Mọi điều mặc khải đều có định dạng riêng, vì tất cả các cõi giới của chúng ta — đang dần được tiết lộ — đều là những cõi phụ của cõi vật lý vũ trụ. |
|
2. The meaning which the facts and the format veil and hide and for which the one who is being enlightened must search. [308] |
2. Ý nghĩa mà các sự kiện và định dạng che đậy và che giấu và người được soi sáng phải tìm kiếm. [308] |
|
3. The effect which the revelation is intended to make in the daily life and service and the ashramic relationships of the disciple or initiate. |
3. Ảnh hưởng mà điều mặc khải dự định tạo ra trong cuộc sống hàng ngày, trong sự phụng sự cũng như trong các mối quan hệ ashram của đệ tử hoặc điểm đạo đồ. |
|
4. The germ, seed thought, key form and invocative potency of that which has been revealed. Every revelation has its place in a great series of revelations and enlightenments; the disciple has to find, within the form of the revelation, that which he must use in order to achieve the next destined point of attained revelation. |
4. Mầm mống, tư tưởng hạt giống, hình thức then chốt và tiềm năng khẩn cầu của những gì đã được tiết lộ. Mọi điều mặc khải đều có vị trí của nó trong một loạt các điều mặc khải và khai sáng vĩ đại; đệ tử phải tìm ra, trong hình thức của sự mặc khải, điều mà y phải sử dụng để đạt được Điểm Mặc Khải tiếp theo được định sẵn. |
|
I have here given you, in a very brief form, one of the new techniques for disciples in the New Age and one of the modes of meditation whereby the processes of revelation can be hastened. Hitherto in the past, revelation has come unexpectedly, as it did to Saul of Tarsus in the Biblical narrative. In sincerity, the disciple struggles and works and serves; blindly he goes forward, and oft in much bewilderment he seeks knowledge and receives it at unexpected moments, and these frequently increase, at least temporarily, his bewilderment. But during the coming New Age, disciples will be taught how to work consciously and knowingly for light; they will be shown how to realise what will happen to them before they take the needed steps and follow initiation. This will save much time and “focus the light in the desired place” far more rapidly than hitherto. |
Tôi đã đưa ra cho các bạn ở đây, một cách rất ngắn gọn, một trong những kỹ thuật mới cho các đệ tử trong Kỷ Nguyên Mới và một trong những phương thức tham thiền nhờ đó quá trình mặc khải có thể được thúc đẩy nhanh hơn. Cho đến nay trong quá khứ, sự mặc khải đã đến một cách bất ngờ, như trường hợp của Saul thành Tarsus trong câu chuyện Kinh Thánh. Một cách chân thành, đệ tử đấu tranh, làm việc và phụng sự; một cách mù quáng, y tiến về phía trước, và thường trong nhiều hoang mang, y tìm kiếm tri thức và nhận được nó vào những thời điểm không ngờ tới, và những điều này thường làm tăng thêm sự hoang mang của y, ít nhất là tạm thời. Nhưng trong Kỷ Nguyên Mới sắp tới, các đệ tử sẽ được dạy cách làm việc một cách có ý thức và hiểu biết để tìm kiếm ánh sáng; họ sẽ được chỉ cho thấy cách nhận ra điều gì sẽ xảy ra với họ trước khi họ thực hiện các bước cần thiết và theo đuổi điểm đạo. Điều này sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian và “tập trung ánh sáng vào nơi mong muốn” nhanh hơn nhiều so với trước đây. |
|
You will see, therefore, why I have included this teaching upon the Points of Revelation in what I have to give you anent the processes of preparing for initiation. It is essential that the modern disciple no longer goes forward blindly but that he cooperates intelligently in the new systems of training. You will note the relation (if you call it no more than that) between the two phrases “points of revelation” and “mountain of initiation.” In the Old Commentary, these are brought together in a very illumined statement—illuminating if duly reflected upon: |
Do đó, các bạn sẽ hiểu tại sao tôi đưa giáo lý này về các Điểm Mặc Khải vào những gì tôi phải truyền đạt cho các bạn về quá trình chuẩn bị cho điểm đạo. Điều cần thiết là đệ tử hiện đại không còn tiến về phía trước một cách mù quáng nữa mà họ hợp tác một cách thông minh trong các hệ thống đào tạo mới. Các bạn sẽ lưu ý mối quan hệ (nếu các bạn không gọi nó hơn thế) giữa hai cụm từ “điểm mặc khải” và “ngọn núi điểm đạo”. Trong Cổ Luận, những điều này được kết hợp với nhau trong một tuyên bố rất sáng tỏ – soi sáng nếu được suy ngẫm đúng mức: |
|
“The disciple climbs the mountain, its five peaks illumined by the Sun and hiding the other two. [309] |
“Đệ tử leo núi, năm đỉnh núi được Mặt Trời chiếu sáng và che khuất hai đỉnh núi còn lại. [309] |
|
From point to point he goes and the Way moves upward all the time—out of the dark into the light, from the jungle to the open space, from night to dawn. |
Từ điểm này sang điểm khác, y đi và Con Đường luôn đi lên — ra khỏi bóng tối vào ánh sáng, từ rừng rậm đến không gian mở, từ đêm đến bình minh. |
|
From point to point he moves and at each point he gets new revelation. Five are the mountain peaks, and as he mounts towards each peak he receives five times the light. Five to the five and so from five to five till five fives have brought him light. Ten lie ahead, but these concern him not as yet.” |
Từ điểm này sang điểm khác y di chuyển và tại mỗi điểm y nhận được sự mặc khải mới. Có năm đỉnh núi, và khi y leo lên mỗi đỉnh, y nhận được ánh sáng gấp năm lần. Năm lần năm và cứ thế từ năm đến năm cho đến khi năm cái năm mang lại ánh sáng cho y. Mười nằm ở phía trước, nhưng những điều này không liên quan gì đến y.” |
|
What is meant here (to bring it down to the bare factual outline) is that there are five initiations ahead of the disciple, with two more ahead of the Master, making in all seven initiations, and that prior to each initiation—symbolically or factually speaking—there are five great revelations, making a total of twenty-five, with ten later to be registered by the Master. |
Điều được đề cập ở đây (nhằm mang nó trở lại với dàn ý thực tế đơn giản) là có năm lần điểm đạo trước mắt đệ tử, với hai lần nữa trước mắt Chân sư, tổng cộng là bảy lần điểm đạo, và trước mỗi lần điểm đạo—nói một cách tượng trưng hoặc thực tế—có năm sự mặc khải lớn, tổng cộng là hai mươi lăm, với mười lần sau đó được ghi nhận bởi Chân sư. |
|
I have indicated to you in my past instructions three of these revelations. They are, if you will remember: |
Tôi đã chỉ ra cho các bạn trong các chỉ dẫn trước đây ba trong số những điều mặc khải này. Nếu các bạn còn nhớ, chúng là: |
|
1. Energy follows thought and the eye directs that energy. This has been an occult platitude ever since the days of H.P.B., during whose time it was decided that this was the first of the points of revelation which could safely be given to the general public. The assertion of this revealed fact was an essential piece of knowledge in the world, prior to the externalisation of the Ashrams—or, my brother, of the Hierarchy. The thought that all is energy has already been accepted by modern science, and the concept of vision (the first step towards understanding the use of the spiritual eye) is already part of the teaching of modern philosophy and of many of the metaphysical schools. |
1. Năng lượng đi theo tư tưởng và con mắt định hướng năng lượng đó. Đây là một câu nói cửa miệng huyền bí học kể từ thời H.P.B., thời gian đó, người ta đã quyết định rằng đây là điểm đầu tiên trong những điểm mặc khải có thể được truyền đạt một cách an toàn cho công chúng. Việc khẳng định sự thật được tiết lộ này là một phần kiến thức thiết yếu trên thế giới, trước khi các ashram ngoại hiện—hay nói cách khác, trước khi Thánh Đoàn ngoại hiện. Tư tưởng rằng tất cả đều là năng lượng đã được khoa học hiện đại chấp nhận, và khái niệm về tầm nhìn (bước đầu tiên để hiểu cách sử dụng con mắt tinh thần) đã là một phần trong giáo lý của triết học hiện đại và nhiều trường phái siêu hình học. |
|
2. The Will is fundamentally an expression of the Law of Sacrifice. Paradoxically we found that when the spiritual will was—even in a small measure—expressing itself, there was no such thing as sacrifice. Incidentally, we considered the great exponents and the great field of sacrifice, considering the great Life in which we all, as well as all other forms, live and move and have our being. [310] |
2. Ý chí về cơ bản là sự thể hiện của Định luật Hy sinh. Mâu thuẫn thay, chúng ta nhận thấy rằng khi ý chí tinh thần—dù chỉ trong một mức độ nhỏ—được thể hiện, không có khái niệm nào về sự hy sinh. Ngẫu nhiên, chúng ta đã xem xét những người truyền bá vĩ đại và lĩnh vực hy sinh vĩ đại, xem xét sự sống vĩ đại mà trong đó tất cả chúng ta, cũng như tất cả các hình tướng khác, sống, di chuyển và tồn tại. [310] |
|
I would like here to quote something I said to you in connection with this subject: “These few thoughts upon the significance of sacrifice, or upon the ‘taking over,’ through identification, of the task of salvage, of revitalising and of presenting opportunity, are important to all disciples, as a goal and as a vision.” (Page 288.) |
Tôi muốn trích dẫn ở đây điều gì đó tôi đã nói với các bạn liên quan đến chủ đề này: “Một vài suy nghĩ này về tầm quan trọng của sự hy sinh, hay về việc ‘tiếp quản’, thông qua sự đồng nhất hóa, nhiệm vụ cứu rỗi, tái sinh và trình bày cơ hội, rất quan trọng đối với tất cả các đệ tử, như một mục tiêu và như một tầm nhìn.” (Trang 288.) |
|
3. The Monad is to the planetary Logos what the third eye is to man, esoterically understood. This is a most abstruse statement for all of you and will require much concentrated reflection and serene meditation. The vision of the solar Logos and of the planetary Logos is closely related to intention and purpose, and is the cause of the Plan. It is, however, beyond and different to the Plan. I leave this thought for your consideration and meditation, but can assure you that you will come to no easy or early comprehension. |
3. Chân thần đối với Hành Tinh Thượng Đế giống như con mắt thứ ba đối với con người, được hiểu một cách bí truyền. Đây là một câu nói khó hiểu nhất đối với tất cả các bạn và sẽ đòi hỏi nhiều sự suy ngẫm tập trung và tham thiền thanh thản. Tầm nhìn của Thái dương Thượng Đế và của Hành tinh Thượng Đế có liên quan chặt chẽ đến ý định và mục đích, và là nguyên nhân của Kế hoạch. Tuy nhiên, nó vượt ra ngoài và khác với Kế hoạch. Tôi để lại suy nghĩ này cho sự suy ngẫm và tham thiền của các bạn, nhưng có thể đảm bảo với các bạn rằng các bạn sẽ không dễ dàng hoặc sớm hiểu được. |
|
Later on, as the years slip away and as students come and go, a clearer grasp of the techniques of comprehension—these emerging Points of Revelation—will form themes for prolonged meditation and doors of entrance to the new occultism. The foundations for this new occultism are well and soundly laid; the superstructure can be erected now, slowly and with due care, in conformity with the divine blueprints and in response to a sensitive reaction to spiritual impression. |
Sau này, khi năm tháng trôi qua và khi các sinh viên đến rồi đi, việc nắm bắt rõ ràng hơn các kỹ thuật lĩnh hội — những Điểm Mặc Khải mới nổi này — sẽ tạo thành chủ đề cho việc tham thiền kéo dài và cánh cửa bước vào huyền bí học mới. Nền tảng cho huyền bí học mới này được đặt ra tốt và vững chắc; kiến trúc thượng tầng có thể được dựng lên ngay bây giờ, từ từ và cẩn thận, phù hợp với bản thiết kế thiêng liêng và để đáp ứng phản ứng nhạy cảm với ấn tượng tinh thần. |
|
I have also told you that, in connection with these Points of Revelation, there are three stages of activity which, when properly carried forward, will make that which is revealed of service to the disciple in his contribution to the salvaging of humanity. These three are Penetration, Polarisation and Precipitation. Let us now consider these three for a short reflective period. |
Tôi cũng đã nói với các bạn rằng, liên quan đến các Điểm Mặc Khải này, có ba giai đoạn hoạt động mà khi được thực hiện đúng cách, sẽ làm cho những gì được tiết lộ phục vụ cho đệ tử trong sự đóng góp của y vào việc cứu vớt nhân loại. Ba điều này là Thâm nhập, Phân cực và ngưng tụ. Bây giờ chúng ta hãy xem xét ba điều này trong một thời gian ngắn suy ngẫm. |
|
You should realise that all phases of training—those that are associated with life itself and that specialised training which is given to initiates—are interlocking and interdependent. It is training, brother of mine, not strictly education. Educational processes, concerning knowledge as they do, may be specialised, and teaching can be taken in such isolated fields as conchology, biology or history. But in initiate [311] training, where the objective is wisdom and (above all else) the development of spiritual sensitivity, every phase of approach to the divine unfoldment, and all expansions of consciousness, develop so that divinity is embraced, and every unfoldment of the understanding reveals to the initiate one major Reality—the fact of Being. Therefore, this consideration of our Points of Revelation is closely related to another of our themes: Training in Telepathy or the Science of Impression. Certain aspects of these two activities are the same, particularly the three points which we are considering here. The difficulty consists in this, that in relation to the Points of Revelation the initiate is presumed to work from a more advanced standpoint of comprehension than does the man who is taking the training which makes him sensitive to Impression. He knows the technique of Penetration, comprehends the process of Polarisation at the point penetrated, and—after due acceptance—understands how to utilise it and precipitate it into the human field of service; he consciously employs that which he has learnt, grasped and appropriated. It matters not, in this case, what word you use. |
Bạn nên nhận ra rằng tất cả các giai đoạn đào tạo — những giai đoạn gắn liền với chính cuộc sống và đào tạo chuyên biệt dành cho các điểm đạo đồ — đều lồng vào nhau và phụ thuộc lẫn nhau. Đó là huấn luyện, huynh đệ của tôi, không hẳn là giáo dục. Các quá trình giáo dục, liên quan đến kiến thức, có thể được chuyên môn hóa và việc giảng dạy có thể được thực hiện trong các lĩnh vực biệt lập như động vật nhuyễn thể, sinh học hoặc lịch sử. Nhưng trong quá trình đào tạo điểm đạo đồ [311], nơi mục tiêu là trí tuệ và (trên hết) là phát triển sự nhạy cảm tinh thần, mọi giai đoạn tiếp cận sự khai mở thiêng liêng và tất cả sự mở rộng của tâm thức đều phát triển để đón nhận thiên tính, và mọi sự khai mở của sự thấu hiểu đều tiết lộ cho điểm đạo đồ một Thực tại chính — sự thật của Bản Thể. Do đó, việc xem xét các Điểm Mặc Khải của chúng ta có liên quan chặt chẽ đến một chủ đề khác của chúng ta: Đào tạo về Viễn cảm hoặc Khoa học Ấn tượng. Một số khía cạnh của hai hoạt động này là giống nhau, đặc biệt là ba điểm mà chúng ta đang xem xét ở đây. Khó khăn bao gồm ở chỗ, liên quan đến các Điểm Mặc Khải, điểm đạo đồ được cho là làm việc từ một quan điểm hiểu biết cao hơn so với con người đang được huấn luyện khiến y nhạy cảm với Ấn tượng. Y biết kỹ thuật Thâm nhập, hiểu quá trình Phân cực tại điểm được thâm nhập, và — sau khi được chấp nhận đúng mức — hiểu cách sử dụng nó và ngưng tụ nó vào lĩnh vực phụng sự nhân loại; y có ý thức sử dụng những gì y đã học, nắm bắt và sở hữu. Trong trường hợp này, các bạn sử dụng từ gì không quan trọng. |
|
It should therefore be borne in mind that in this connection we are considering the point of experience where light pours in, bringing revelation, conveying information, evoking the intuition and drawing into the waiting consciousness of the initiate those spiritual laws, those rules of the creative process, those ray conditions and those new energies and forces for which the humanity of any particular period waits, and which are fundamentally needed if the race of men is to move forward into greater spiritual culture and out of the relative darkness in which it at present moves. |
Do đó, cần ghi nhớ rằng trong bối cảnh này, chúng ta đang xem xét điểm kinh nghiệm nơi ánh sáng tuôn vào, mang đến sự mặc khải, truyền tải thông tin, gợi lên trực giác và đưa vào tâm thức đang chờ đợi của điểm đạo đồ những định luật tinh thần, những quy luật của quá trình sáng tạo, những điều kiện của các cung và những năng lượng cùng mãnh lực mới mà nhân loại của bất kỳ thời kỳ cụ thể nào đang chờ đợi, và về cơ bản là cần thiết nếu loài người muốn tiến tới nền văn hóa tinh thần cao hơn và thoát khỏi bóng tối tương đối mà nó hiện đang di chuyển. |
|
What we are dealing with here, in connection with initiate training, is the impending realisation for which any opening cycle attests its waiting, and for the new truths and the expanded spiritual presentations which it is the destiny of the initiate to bring to the people. You will note that I choose the word “destiny” in preference to the word “karma” because in this type of work the initiate is working and practising and progressing under a Law of Destiny. This law affects the Ashram and the Hierarchy as a whole, and neither [312] is under the Law of Karma, as usually understood. This Law of Destiny has been brought into being since the foundation of the Hierarchy on Earth; it is the result of the pledged and united dedication to service which is the outstanding note of the united Ashrams. It is therefore a sevenfold law, for it takes on the seven colours of the seven rays, the seven qualities, modes and methods, techniques and energy expressions of all the seven rays. It is therefore, as far as humanity is concerned, free from all evil, because it is selflessly motivated and is—in a measure—a difficult law for you to comprehend. Pure destiny, devoid of all evil intent, is an enigma to the average disciple. It appears to contravene other laws with which he is familiar. As the race of men achieves increasing purity in the three worlds, this pure destiny will become correspondingly effective. This is an important point upon which to reflect. |
Điều chúng ta đang đề cập ở đây, liên quan đến việc đào tạo điểm đạo đồ, là sự nhận thức sắp xảy ra mà bất kỳ chu kỳ mở đầu nào cũng chứng thực sự chờ đợi của nó, và cho những chân lý mới cùng những thể hiện tinh thần mở rộng vốn là định mệnh của điểm đạo đồ mang đến cho mọi người. Xin lưu ý rằng tôi chọn từ “định mệnh” thay vì từ “nghiệp quả” vì trong loại công việc này, điểm đạo đồ đang làm việc, thực hành và tiến bộ theo Định Luật Định Mệnh. Định luật này ảnh hưởng đến ashram và Thánh Đoàn nói chung, và cả hai đều không chịu ảnh hưởng của Định Luật Nghiệp Quả, như thường được hiểu. Định Luật Định Mệnh này đã được sinh ra kể từ khi thành lập Thánh Đoàn trên Trái Đất; đó là kết quả của sự tận tụy được cam kết và thống nhất phụng sự, đó là điểm nổi bật của các ashram hợp nhất. Do đó, nó là một định luật thất phân, vì nó mang bảy màu của bảy cung, bảy phẩm chất, phương thức và phương pháp, kỹ thuật và biểu hiện năng lượng của tất cả bảy cung. Do đó, đối với nhân loại, nó hoàn toàn thoát khỏi tất cả điều ác, bởi vì nó được thúc đẩy một cách vị tha, và ở một mức độ nào đó, nó là một định luật khó hiểu đối với các bạn. Định mệnh thuần túy, không có bất kỳ ý đồ xấu xa nào, là một điều bí ẩn đối với các đệ tử bình thường. Nó dường như mâu thuẫn với các định luật khác mà y quen thuộc. Khi loài người đạt được sự thuần khiết ngày càng tăng trong ba cõi giới, định mệnh thuần túy này sẽ trở nên hiệu quả tương ứng. Đây là một điểm quan trọng cần suy ngẫm. |
|
This penetration makes an event in the life of the initiate. It is indicative of success and of contact and presents the opening up of a new opportunity. The two succeeding words indicate effects of this penetration; they are then inevitable and cannot be arrested. By that you may infer that once the initiate has penetrated to the point where revelation becomes possible he automatically attains the needed fixation, concentration, poise, polarisation and focus which will enable him to translate what has been revealed to him in terms and symbols which will convey significance to the intelligentsia with whom all initiates principally work. I wanted to make this clear because students almost inevitably think in terms of sequence. The effects of penetration (in this case two in number) are simultaneous and not sequential. The polarisation of the consciousness of the initiate, and the consequent condensation of truth, produce an unavoidable precipitation which occurs in a flash of time; it results in an instantaneous intuitive perception, and this is one of the early aspects of this dual process. Think this out and remember in this connection that the initiate—in process of receiving revelation—is working outside of time and space, as you understand it. |
Sự thâm nhập này tạo nên một sự kiện trong cuộc đời của điểm đạo đồ. Nó biểu thị sự thành công và sự tiếp xúc, đồng thời thể hiện sự mở ra của một cơ hội mới. Hai từ tiếp theo chỉ ra tác động của sự thâm nhập này; khi đó chúng là không thể tránh khỏi và không thể bị ngăn chặn. Qua đó, các bạn có thể suy ra rằng một khi điểm đạo đồ đã thâm nhập đến điểm mà sự mặc khải trở nên khả thi, y sẽ tự động đạt được sự cố định, tập trung, thăng bằng, phân cực và tập trung cần thiết, điều này sẽ cho phép y chuyển đổi những gì đã được tiết lộ cho y dưới dạng từ ngữ và biểu tượng sẽ truyền tải ý nghĩa đến giới trí thức mà tất cả các điểm đạo đồ chủ yếu làm việc cùng. Tôi muốn làm rõ điều này bởi vì các học viên hầu như chắc chắn nghĩ suy theo trình tự. Các hiệu ứng của sự thâm nhập (trong trường hợp này là hai) là đồng thời chứ không phải tuần tự. Sự phân cực của tâm thức của điểm đạo đồ, và sự ngưng tụ chân lý từ đó, tạo ra một ngưng tụ không thể tránh khỏi xảy ra trong chớp mắt; nó dẫn đến một nhận thức trực quan tức thời, và đây là một trong những khía cạnh ban đầu của quá trình kép này. Hãy suy nghĩ kỹ điều này và hãy nhớ rằng trong bối cảnh này, điểm đạo đồ—trong quá trình nhận được sự mặc khải—đang hoạt động bên ngoài thời gian và không gian, như các bạn hiểu. |
|
His consciousness is free, as compared with that of the [313] average man, and the most urgent and the most difficult part of his task is correctly to apprehend the precipitating truth, information or revelation, and then to give it an equally correct format so that it can meet the immediate human need. You will see, consequently, that the initiate learns to penetrate into the realm of pure reason from the realm of mind, and there he polarises himself, and truth precipitates. He has learnt thus to penetrate, and the three stages preceding penetration have been necessarily sequential, until he has gained such facility that they can instantaneously be transcended. He has learnt through life in the three worlds, to penetrate into the world of mind and the lower concrete mind has become his instrument, integrating his personality, opening up to him the world of thought, and putting into his power the processes of thoughtform creation; he has learnt through meditation to make contact with the soul, the Son of Mind, Who is himself, and has in time identified himself with that soul; he becomes the soul in fact, and can create in the world of thought those living forms which bring light and help and truth to others; thus he serves; he learns also, through unfolding perception, to penetrate into the levels of abstract thought, the antechamber to the world of pure reason, and through these three aspects of mind he discovers that he possesses the “three keys” which will permit him to delve into the knowledge, wisdom and reason of the Universal Mind. This is what is revealed to him as he penetrates deeper into what is called the Arcana of Wisdom, the Mind of God, the third divine Aspect. This is essentially what is covered by the symbolic and pictorial phrase “the raincloud of knowable things.” The raincloud is a symbol of that area of the as yet unrevealed purposes of God which can be immediately revealed if the world disciples and initiates care to “penetrate to the point of precipitation.” |
Tâm thức của y là tự do, so với tâm thức của người bình thường, và phần cấp bách và khó khăn nhất trong nhiệm vụ của y là nắm bắt chính xác chân lý, thông tin hoặc sự mặc khải đang ngưng tụ, và sau đó đưa ra một hình thức chính xác tương đồng để nó có thể đáp ứng nhu cầu trước mắt của con người. Do đó, các bạn sẽ thấy rằng điểm đạo đồ học cách thâm nhập vào lĩnh vực của lý trí thuần khiết từ cõi trí, và ở đó y phân cực bản thân, và chân lý ngưng tụ. Y đã học được cách thâm nhập như vậy, và ba giai đoạn trước khi thâm nhập nhất thiết phải tuần tự, cho đến khi y đạt được khả năng đến mức mà chúng có thể được vượt qua ngay lập tức. Y đã học được qua cuộc sống trong ba cõi giới để thâm nhập vào cõi trí và hạ trí đã trở thành công cụ của y, tích hợp phàm ngã của y, mở ra cho y thế giới tư tưởng và đưa vào quyền năng của y quá trình tạo ra hình tư tưởng; Y đã học được thông qua tham thiền để tiếp xúc với linh hồn, Con của Trí Tuệ, chính là y, và theo thời gian đã đồng nhất mình với linh hồn đó; y thực sự trở thành linh hồn, và có thể tạo ra trong thế giới tư tưởng những hình tướng sống động mang lại ánh sáng, sự thật, giúp đỡ người khác; do đó y phụng sự; Y cũng học được, thông qua nhận thức mở ra, để thâm nhập vào các cấp độ tư tưởng trừu tượng, tiền sảnh của thế giới lý trí thuần khiết, và thông qua ba khía cạnh này của trí tuệ, Y phát hiện ra rằng mình sở hữu “ba chiếc chìa khóa” sẽ cho phép y đào sâu vào kiến thức, minh triết và lý trí của Trí Tuệ Vũ Trụ. Đây là những gì được tiết lộ cho y khi y thâm nhập sâu hơn vào cái được gọi là Bí Nhiệm của Minh triết, Trí của Thượng Đế, Khía cạnh thiêng liêng thứ ba. Điều này về cơ bản được bao hàm trong cụm từ tượng trưng và tượng hình “đám mây mưa của những điều khả tri.” Đám mây mưa là biểu tượng của lĩnh vực mục đích chưa được tiết lộ của Thượng Đế, có thể được tiết lộ ngay lập tức nếu các đệ tử và điểm đạo đồ trên thế giới quan tâm đến việc “thâm nhập đến điểm ngưng tụ.” |
|
This idea should in the future lie behind all you do in your meditation work. Your meditation should now be regarded by you as a process of penetration, carried forward as an act of service, with the intent to bring enlightenment to others. I have been dealing with these Points of Revelation today from the angle of vision of the initiate. Process and [314] techniques do their work, and these are followed by the recognition which the disciple accords within himself to that which has been accomplished. |
Ý tưởng này sẽ nằm sau tất cả những gì các bạn làm trong công việc tham thiền của mình trong tương lai. Tham thiền của các bạn bây giờ nên được các bạn coi là một quá trình thâm nhập, được thực hiện như một hành động phụng sự, với ý định mang lại sự khai sáng cho người khác. Hôm nay tôi đã đề cập đến những Điểm Mặc Khải này từ góc nhìn của điểm đạo đồ. Quá trình và kỹ thuật thực hiện công việc của chúng, và sau đó là sự công nhận mà đệ tử dành cho bản thân mình đối với những gì đã đạt được. |
PART VI
|
In my last instruction to you I dealt with some aspects of the new approach to discipleship and to initiation; it is essential that the old concepts—profoundly useful in their day—should be forgotten and the newer methods and techniques should be substituted. This is now necessary on account of the surprising unfoldment of the human consciousness during the past twenty-five years. The steps taken at the Conclave in Shamballa in 1925 (based on tentative conclusion at the previous centennial Conclave) and the pressures exerted by the Hierarchy have proved most successful, and out of the chaos of the world war (precipitated by humanity itself) there is developing a structure of truth and a paralleling responsiveness of the human mechanism which guarantees the perpetuation and the rapid unfoldment of the next stage of the teaching of the Ageless Wisdom. |
Trong chỉ dẫn cuối cùng, tôi đã đề cập đến một vài khía cạnh của cách tiếp cận mới đối với đường đệ tử và điểm đạo; điều cần thiết là những khái niệm cũ—vốn rất hữu ích vào thời của chúng—nên được lãng quên và thay thế bằng những phương pháp và kỹ thuật mới hơn. Điều này giờ đây là cần thiết do sự mở ra đáng ngạc nhiên của tâm thức con người trong hai mươi lăm năm qua. Các bước được thực hiện tại Đại Mật Nghị ở Shamballa vào năm 1925 (dựa trên kết luận ướm thử tại Đại Mật Nghị một trăm năm trước đó) và áp lực của Thánh Đoàn đã chứng tỏ rất thành công, và từ sự hỗn loạn của chiến tranh thế giới (do chính nhân loại gây ra), một cấu trúc chân lý đang phát triển và sự đáp ứng song song của cơ chế con người, đảm bảo sự duy trì và mở ra nhanh chóng giai đoạn tiếp theo của giáo lý Minh Triết Ngàn Đời. |
|
I used a phrase in my last instruction to which I would like to call your attention. I spoke of the coming ability of mankind to “share in the great hierarchical task of illuminating, precipitating and lifting.” These words signify far more than their obvious meaning, and I would like somewhat to elucidate. |
Tôi đã sử dụng một cụm từ trong chỉ dẫn cuối cùng mà tôi muốn các bạn chú ý đến. Tôi đã nói về khả năng sắp tới của nhân loại để “tham gia vào nhiệm vụ lớn lao của Thánh Đoàn là soi sáng, ngưng tụ và nâng lên.” Những từ này mang ý nghĩa nhiều hơn ý nghĩa hiển nhiên của chúng, và tôi muốn làm sáng tỏ phần nào. |
|
Men are apt to think that the entire objective of the work of the Hierarchy is to find and admit men into hierarchical contact. It is that minor phase of hierarchical activity which appears paramount in your consciousness; is it not so? Your main hope is that as you unfold your latent possibilities, you will be able to help others to do the same. This is indeed a worthy thought, but is nevertheless based entirely on misapprehension. Let me, therefore, throw light upon the matter by quoting the Old Commentary: |
Con người có xu hướng nghĩ rằng toàn bộ mục tiêu của công việc của Thánh Đoàn là tìm kiếm và kết nạp con người vào sự tiếp xúc với Thánh Đoàn. Đó là giai đoạn thứ yếu của hoạt động Thánh Đoàn dường như tối quan trọng trong tâm thức của các bạn; phải vậy không? Hy vọng chính của các bạn là khi các bạn khai mở những khả năng tiềm ẩn của mình, các bạn sẽ có thể giúp đỡ người khác làm điều tương tự. Đây thực sự là một suy nghĩ xứng đáng, tuy nhiên lại hoàn toàn dựa trên sự hiểu lầm. Do đó, hãy để tôi làm sáng tỏ vấn đề bằng cách trích dẫn Cổ Luận: |
|
“When light illuminates the minds of men and stirs [315] the secret light within all other forms, then the One in Whom we live reveals His hidden, secret lighted Will. |
“Khi ánh sáng soi sáng tâm trí con người và khuấy động ánh sáng bí mật bên trong tất cả các hình tướng khác, thì Đấng mà trong Ngài chúng ta đang sống sẽ tiết lộ Ý Chí bí mật, ẩn giấu, được chiếu sáng của Ngài. |
|
“When the purpose of the Lords of Karma can find no more to do, and all the weaving and close-related plans are all worked out, then the One in Whom we live can say: ‘Well done! Naught but the beautiful remains.’ |
“Khi mục đích của các Đấng Chúa Tể Nghiệp Quả không còn gì để làm, và tất cả các kế hoạch đan xen và liên quan chặt chẽ đều đã được thực hiện, thì Đấng mà chúng ta đang sống trong Ngài có thể nói: ‘Làm tốt lắm! Không còn gì ngoài vẻ đẹp.’ |
|
“When the lowest of the low, the densest of the dense, and the highest of the high have all been lifted through the little wills of men, then can the One in Whom we live raise into radiating light the vivid lighted ball of Earth, and then another greater Voice can say to Him: ‘Well done! Move on. Light shines.'” |
“Khi kẻ thấp nhất trong những kẻ thấp kém, kẻ dày đặc nhất trong những kẻ dày đặc, và kẻ cao nhất trong những kẻ cao đều được nâng lên thông qua những ý chí nhỏ bé của con người, thì Đấng mà chúng ta đang sống trong Ngài mới có thể nâng quả bóng Trái đất rực rỡ lên ánh sáng rạng rỡ, và rồi một Tiếng Nói vĩ đại khác có thể nói với Ngài: ‘Làm tốt lắm! Tiếp tục. Ánh sáng đang chiếu sáng.’” |
|
You will note that the emphasis in these words is placed upon human accomplishment and not upon what the Hierarchy does for man. When men achieve illumination, intelligently precipitate the karmic quota of their time, and lift the subhuman kingdoms (with its reflex activity of lifting the Highest simultaneously), then they can and then they do share in the work of the Hierarchy. |
Bạn sẽ lưu ý rằng trọng tâm trong những lời này được đặt vào thành tựu của con người chứ không phải vào những gì Thánh Đoàn làm cho con người. Khi con người đạt được sự soi sáng, ngưng tụ một cách thông minh phần nghiệp quả của thời đại họ, và nâng các giới dưới nhân loại (với hoạt động phản xạ là đồng thời nâng giới Cao nhất), thì họ có thể và sau đó họ chia sẻ công việc của Thánh Đoàn. |
|
That cycle of sharing has seemed for aeons too far away to be considered; when, however, humanity precipitated the war, they automatically and somewhat surprisingly brought the final achievement much nearer. The illumination of men’s minds will rapidly follow. The process of lifting the subhuman kingdoms has been amazingly forwarded by science—the crowning accomplishment of which was the fission of the atom and the penetration of the “spiritual interfering” aspect of the human spirit into the very depths of the mineral world. Ponder on this. |
Chu kỳ chia sẻ đó dường như đã quá xa trong nhiều thời đại để có thể xem xét; tuy nhiên, khi nhân loại gây ra chiến tranh, họ đã tự động và có phần đáng ngạc nhiên đưa thành tựu cuối cùng đến gần hơn nhiều. Việc soi sáng tâm trí con người sẽ nhanh chóng theo sau. Quá trình nâng các giới dưới nhân loại đã được khoa học xúc tiến một cách đáng kinh ngạc — thành tựu đỉnh cao là sự phân hạch nguyên tử và sự thâm nhập của khía cạnh “can thiệp tinh thần” của tinh thần con người vào tận sâu thẳm của thế giới khoáng vật. Hãy suy ngẫm về điều này. |
|
Therefore, if you could see things as they truly exist in the world of today and view them in their true perspective (and this—as far as you are concerned—is from the angle of the Master), you would know that a great step has been taken towards: |
Do đó, nếu các bạn có thể nhìn thấy sự vật như chúng thực sự tồn tại trong thế giới ngày nay và nhìn chúng dưới góc nhìn thực sự của chúng (và điều này—trong chừng mực liên quan đến các bạn—là từ góc độ của Chân Sư), các bạn sẽ biết rằng một bước tiến lớn đã được thực hiện hướng tới: |
|
1. The institution of more rapid initiation, and that in group form. [316] |
1. Sự thiết lập điểm đạo nhanh hơn, và trong hình thức nhóm. |
|
2. The possession of a much closer and a more widespread contact between the Hierarchy and humanity. |
2. Sở hữu một sự tiếp xúc gần gũi hơn và rộng rãi hơn giữa Thánh Đoàn và nhân loại. |
|
3. The revelation of the true significance of initiation. |
3. Sự mặc khải về ý nghĩa thực sự của điểm đạo. |
|
This true significance lies still behind the curtain of that which veils the ultimate truth. The great secrets of Sanat Kumara are there to be found in due time, and the truth anent initiation is one of them. |
Ý nghĩa thực sự này vẫn nằm sau bức màn che giấu sự thật cuối cùng. Những bí mật vĩ đại của Đức Sanat Kumara sẽ được tìm thấy vào đúng thời điểm, và sự thật liên quan đến điểm đạo là một trong số đó. |
|
When the Hierarchy withdrew behind the separating curtain in Atlantean times, it marked the beginning of an interlude of darkness, of aridity and a cycle of “blank abstraction,” which persisted in its crudest form until 1425 A.D., and since then has sensibly lightened until we reached the year 1925. It became possible for the Hierarchy itself to regard the necessity for reorientation and the imminence of the revelation of the first secret—the secret of initiation. Note well what I say here. Humanity had reached a stage where it could do the “abstracting” itself, and could eventually and by sheer force of the spiritual will wrest the secrets from the custody of the Guardians behind the veil. This presented the Hierarchy with another problem. How could this be permitted with safety so that, in its avidity for pure truth, humanity could be simultaneously trusted? Revelation brings responsibility, and ofttimes danger. Men, as individuals, can grasp certain of these truths of initiation and use them for themselves with impunity, but their revelation to the unready might involve serious risks. |
Khi Thánh Đoàn rút lui phía sau bức màn ngăn cách vào thời Atlantis, nó đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn tạm thời của bóng tối, khô cằn và một chu kỳ “trừu tượng trống rỗng”, tồn tại ở dạng thô sơ nhất cho đến năm 1425 sau Công Nguyên, và kể từ đó đã sáng lên một cách rõ rệt cho đến khi chúng ta đạt đến năm 1925. Thánh Đoàn có thể tự mình xem xét sự cần thiết phải định hướng lại và sự xuất hiện sắp xảy ra của bí mật đầu tiên—bí mật của sự điểm đạo. Hãy lưu ý những gì tôi nói ở đây. Nhân loại đã đạt đến một giai đoạn mà họ có thể tự mình “trừu tượng hóa” và cuối cùng có thể bằng sức mạnh tuyệt đối của ý chí tinh thần giành lấy những bí mật từ sự giám hộ của những Người Bảo Hộ đằng sau bức màn. Điều này đã đặt ra cho Thánh Đoàn một vấn đề khác. Làm thế nào điều này có thể được cho phép một cách an toàn để nhân loại có thể đồng thời được tin tưởng trong sự khao khát của họ đối với sự thật thuần túy? Sự mặc khải mang lại trách nhiệm, và thường là nguy hiểm. Con người, với tư cách cá nhân, có thể nắm bắt một số chân lý nhất định của sự điểm đạo và sử dụng chúng cho bản thân mà không bị trừng phạt, nhưng việc họ tiết lộ cho những người chưa sẵn sàng có thể dẫn đến những rủi ro nghiêm trọng. |
|
It was therefore decided that a truer picture of the nature of discipleship should be imparted to the waiting aspirant, the misunderstood principle of occult obedience should be “soft-pedalled” (if I may use such a word), and men should be set “free for penetration”—as it is called—and be taught the needed reticence through testing and experience. |
Do đó, người ta quyết định rằng một bức tranh chân thực hơn về bản chất của con đường đệ tử nên được truyền đạt cho người chí nguyện đang chờ đợi, nguyên tắc không thường được hiểu sai về sự tuân phục huyền bí nên được “làm nhẹ bớt” (nếu tôi có thể sử dụng từ như vậy), và con người nên được “tự do thâm nhập”—như cách gọi của nó—và được dạy sự thận trọng cần thiết thông qua thử thách và kinh nghiệm. |
|
It is interesting to note that the cycle now being inaugurated in the world is that of “Growth through Sharing,” and that advanced humanity can now share the work, the responsibility and the trained reticence of the Hierarchy, whilst paralleling this and simultaneously, the mass of men are [317] learning the lessons of economic sharing; and, my brothers, in this lies the sole hope of the world. |
Thật thú vị khi lưu ý rằng chu kỳ hiện đang được khánh thành trên thế giới là chu kỳ “Phát triển thông qua Chia sẻ”, và nhân loại tiên tiến giờ đây có thể chia sẻ công việc, trách nhiệm và sự thận trọng được rèn luyện của Thánh Đoàn, trong khi song song và đồng thời với điều này, quần chúng đang học những bài học về chia sẻ kinh tế; và, huynh đệ của tôi, trong đó có hy vọng duy nhất của thế giới. |
|
Every initiation to which disciples are admitted permits this closer occult sharing in the hierarchical life. This involves, for advanced humanity, a noticeable increase in vitality and in vital tension and potency. Its reflection among the masses is shown in the constant demand for speed and in the enormous speeding up of the life of mankind in every department of living. This speeding up synchronises with the increasing readiness of disciples everywhere for initiation—according to their status and developed ability. |
Mỗi lần điểm đạo mà các đệ tử được chấp nhận cho phép sự chia sẻ huyền bí gần gũi hơn này trong đời sống Thánh đoàn. Điều này, đối với nhân loại tiên tiến, liên quan sự gia tăng đáng kể về sinh lực và sự căng thẳng sinh lực cũng như tiềm năng. Phản ánh của nó trong quần chúng được thể hiện trong nhu cầu không ngừng về tốc độ và sự tăng tốc khổng lồ của cuộc sống của nhân loại trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Sự tăng tốc này đồng bộ với sự sẵn sàng ngày càng tăng của các đệ tử ở khắp mọi nơi cho điểm đạo — tùy theo địa vị và khả năng phát triển của họ. |
|
The difference, brother of mine, between the past and the present readiness lies in the fact that in the past this readiness was a purely individual matter; today it is something which is closely related to a man’s group, and the individual aspect is of secondary importance. As time and speed increase in importance for the masses of men, the disciple (ready for initiation) regards his personal advancement upon the Path as of less importance than his developed capacity to serve his fellowmen, serving them through the group with which he may be affiliated and to which he may be drawn. For the disciple facing the first two initiations, this group will be some exoteric body of men who claim his allegiance and in which he learns group cooperation and methods of working; for the more advanced disciple, it is the Ashram and direct service under the instigation of some Master. |
Các huynh đệ của tôi, sự khác biệt giữa sự sẵn sàng trong quá khứ và hiện tại nằm ở chỗ trước đây sự sẵn sàng này là vấn đề hoàn toàn cá nhân; ngày nay, nó là một cái gì đó liên quan chặt chẽ đến nhóm của một người, và khía cạnh cá nhân chỉ là thứ yếu. Khi thời gian và tốc độ ngày càng trở nên quan trọng đối với quần chúng, đệ tử (sẵn sàng cho điểm đạo) coi sự tiến bộ cá nhân của mình trên Thánh Đạo ít quan trọng hơn khả năng phát triển của mình để phục vụ đồng loại, phục vụ họ thông qua nhóm mà họ có thể liên kết và bị thu hút. Đối với đệ tử đối mặt với hai cuộc điểm đạo đầu tiên, nhóm này sẽ là một số tổ chức ngoại môn mà họ trung thành và trong đó họ học được sự hợp tác nhóm và phương pháp làm việc; đối với đệ tử cao cấp hơn, đó là ashram và trực tiếp phụng sự dưới sự thúc giục của một Chân Sư nào đó. |
|
I have in the above paragraphs given you a number of ideas which, though not new in their stating, are new in their reference. This is of importance for you to remember—or discover? The significance of sharing and the relation of spiritual development to speed are points of importance to emphasise. Much that I have said above has a close connection with the hint given on pages 302-3. I suggest that you look it up. |
Trong các đoạn trên, tôi đã đưa ra cho các bạn một số ý tưởng, mặc dù không mới về cách trình bày, nhưng lại mới về cách chúng được đề cập đến. Điều này rất quan trọng để các bạn ghi nhớ—hay khám phá? Tầm quan trọng của chia sẻ và mối quan hệ của sự phát triển tinh thần với tốc độ là những điểm quan trọng cần nhấn mạnh. Phần lớn những gì tôi đã nói ở trên có liên quan chặt chẽ đến gợi ý được đưa ra ở trang 302-3. Tôi đề nghị các bạn xem lại nó. |
|
ON HINTS |
VỀ CÁC GỢI Ý |
|
I have continually laid the emphasis upon the need of [318] disciples to think esoterically, and this is perhaps the most difficult demand that I can make upon you. A consideration of these hints should teach you much, for they are not what they seem upon superficial reading, and the effort to understand and to interpret should lead you far on your way towards “occult thinking.” The Masters do not convey teaching through the medium of hints which could be safely given in a more open form. They have no intention at any time to be mysterious or to hold back teaching from the enquirer. Their method is, in reality, threefold: |
Tôi liên tục nhấn mạnh vào nhu cầu của [318] các đệ tử phải suy nghĩ theo kiểu bí truyền, và đây có lẽ là yêu cầu khó khăn nhất mà tôi có thể đặt ra cho các bạn. Việc xem xét những gợi ý này sẽ dạy cho các bạn rất nhiều điều, vì chúng không giống như những gì chúng có vẻ như khi đọc lướt qua, và nỗ lực để hiểu và diễn giải sẽ dẫn dắt các bạn tiến xa trên con đường hướng tới “tư duy huyền bí”. Các Chân Sư không truyền tải giáo lý thông qua các gợi ý có thể được đưa ra một cách an toàn dưới hình thức cởi mở hơn. Các Ngài không bao giờ có ý định trở nên bí ẩn hay giữ lại giáo lý đối với người hỏi. Trên thực tế, phương pháp của các Ngài bao gồm ba phần: |
|
1. The presentation of those truths which obviously grow out of a recognition of truths already presented. There is here usually a close adherence to the esoteric teaching of the time, and this method is essentially a linking presentation. |
1. Trình bày những chân lý rõ ràng phát triển từ sự nhận biết những chân lý đã được trình bày trước đó. Ở đây thường có sự tuân thủ chặt chẽ với giáo lý nội môn của thời đại, và phương pháp này về cơ bản là một sự trình bày liên kết. |
|
2. Occasionally (usually once in a century after Their Conclave at the close of the first quarter) there is the imparting of a more advanced body of teaching. This teaching will only be recognised by a few of the foremost disciples in the world; it will, however, prove to be the ordinary form of occult teaching during the next developing cycle. It is this type of work which I have been endeavouring to do with the aid of A.A.B. |
2. Thỉnh thoảng (thường là một lần trong mỗi thế kỷ sau Đại Mật Nghị của các Ngài vào cuối phần tư đầu tiên của thế kỷ), có sự truyền đạt một bộ phận giáo lý tiên tiến hơn. Giáo lý này sẽ chỉ được nhận biết bởi một vài đệ tử hàng đầu trên thế giới; tuy nhiên, nó sẽ chứng minh là hình thức giáo lý huyền bí phổ biến trong chu kỳ phát triển tiếp theo. Đây là loại công việc mà tôi đã cố gắng thực hiện với sự giúp đỡ của A.A.B. |
|
3. There is also the teaching which is definitely given within the Ashram, and which is not, at the time when the other two forms are prevalent, reduced to writing; it will find its way out into expression as need arises and as opportunity is offered to the disciples who are its custodians. Its presentation is dependent upon the unfoldment—rapid or slow—of the lesser disciples of the world. |
3. Ngoài ra còn có giáo lý được đưa ra rõ ràng trong ashram, và vào thời điểm hai hình thức còn lại đang thịnh hành, nó không được viết ra; nó sẽ tìm đường thể hiện khi có nhu cầu và khi có cơ hội được trao cho các đệ tử là người giám hộ của nó. Việc trình bày nó phụ thuộc vào sự khai mở—nhanh chóng hay chậm chạp—của các đệ tử thấp kém hơn trên thế giới. |
|
All these three methods are in use at this present time. |
Tất cả ba phương pháp này hiện đang được sử dụng. |
|
As a man progresses nearer and nearer to his goal, he finds himself beginning to realise that the entire technique of this unfoldment consists of a sequence of revelations which are induced by his recognition of subjective significances which are of a nature entirely different to the usual and apparent meanings. In the olden days, as you well know, [319] the Master would say to a disciple: “Here is a hint” and, having stated it, He would proceed to enjoin upon His disciple the necessity to withdraw and search for the true meaning until he found it; then, and only then, could he return for a consequent new hint. |
Khi một người tiến gần hơn đến mục tiêu của mình, người đó nhận thấy mình bắt đầu nhận ra rằng toàn bộ kỹ thuật khai mở này bao gồm một chuỗi các mặc khải được tạo ra bởi sự nhận ra của người đó về ý nghĩa nội tại có bản chất hoàn toàn khác với ý nghĩa thông thường và rõ ràng. Như các bạn đã biết, trong những ngày xa xưa, Chân Sư sẽ nói với một đệ tử: “Đây là một gợi ý” và, sau khi nói ra, Ngài sẽ tiếp tục bắt buộc đệ tử của mình phải rút lui và tìm kiếm ý nghĩa thực sự cho đến khi tìm thấy nó; sau đó, và chỉ sau đó, người đó mới có thể quay lại để nhận một gợi ý mới. |
|
Today, this method is no longer being used, and this change constitutes one of the modes of training the disciples of the New Age. The modern disciple has to recognise the hint which is related to his point in consciousness and which is to be found in the mass of instruction made available for his use. He has to seek for the—to him—most deeply esoteric statement he encounters in the current teaching; from this isolated hint he has to abstract the significance, after removing it from its context; later, he must learn and profit from its meaning. |
Ngày nay, phương pháp này không còn được sử dụng nữa, và sự thay đổi này tạo thành một trong những phương thức đào tạo đệ tử của Kỷ Nguyên Mới. Đệ tử hiện đại phải nhận ra gợi ý liên quan đến điểm tâm thức của mình và được tìm thấy trong khối lượng lớn các chỉ dẫn có sẵn để sử dụng. Người đó phải tìm kiếm—đối với họ—tuyên bố nội môn sâu sắc nhất mà họ gặp phải trong giáo lý hiện tại; từ gợi ý biệt lập này, người đó phải trừu tượng hóa ý nghĩa, sau khi loại bỏ nó khỏi ngữ cảnh của nó; sau đó, người đó phải học hỏi và hưởng lợi từ ý nghĩa của nó. |
|
The hints given at this stage are related to the theme of revelation, or they concern themselves with the techniques which make revelation possible. The hint, for instance, with which you can work until you receive the next sequence of teaching is contained in this paragraph and the one above; you can discover it if you take each phrase, release your intuition and seek for meaning and significance related to the possibility of revelation. My one effort today is to indicate the relation between initiation and revelation. The revelation—induced by right orientation and right thinking—is a part of the training of the initiate, and many thus in training delay their progress by not recognising the revelation when it tops the line of their spiritual horizon. |
Các gợi ý được đưa ra ở giai đoạn này liên quan đến chủ đề mặc khải, hoặc chúng liên quan đến các kỹ thuật giúp cho sự mặc khải có thể xảy ra. Ví dụ, gợi ý mà các bạn có thể làm việc cho đến khi các bạn nhận được chuỗi giáo lý tiếp theo được chứa trong đoạn này và đoạn trên; các bạn có thể khám phá ra nó nếu các bạn lấy từng cụm từ, giải phóng trực giác của các bạn và tìm kiếm ý nghĩa và tầm quan trọng liên quan đến khả năng mặc khải. Nỗ lực duy nhất của tôi ngày hôm nay là chỉ ra mối quan hệ giữa điểm đạo và sự mặc khải. Sự mặc khải—được tạo ra bởi định hướng đúng và suy nghĩ đúng—là một phần của sự đào tạo điểm đạo đồ, và do đó, nhiều người trong quá trình đào tạo trì hoãn sự tiến bộ của họ bằng cách không nhận ra sự mặc khải khi nó vượt qua đường chân trời tâm linh của họ. |
|
Five Hints reenumerated |
Năm Gợi Ý Được Liệt Kê Lại |
|
Five hints have already been given to you, and I would like you to get their sequence, for it may prove valuable to you and to other disciples: |
Năm gợi ý đã được đưa ra cho các bạn, và tôi muốn các bạn nắm được trình tự của chúng, vì nó có thể có giá trị đối với các bạn và các đệ tử khác: |
|
1. That the changes brought about in the Hierarchy have been the work of the disciples of the world. Have you asked yourself (in studying this hint), Why the disciples? |
1. Rằng những thay đổi được thực hiện trong Thánh Đoàn là công việc của các đệ tử trên thế giới. Bạn đã tự hỏi mình (trong khi nghiên cứu gợi ý này) chưa, Tại sao lại là các đệ tử? |
|
2. That human world planning is today the first indication of the emergence of the will aspect. Why is this rightly so? [320] |
2. Rằng việc lập kế hoạch cho thế giới loài người ngày nay là dấu hiệu đầu tiên cho thấy sự xuất hiện của khía cạnh ý chí. Tại sao điều này đúng như vậy? |
|
3. That disciples in all the Ashrams have the task simultaneously of “modifying, qualifying and adapting the divine Plan.” Why is this so? Why is the Plan not imposed? |
3. Rằng các đệ tử trong tất cả các Ashram đồng thời có nhiệm vụ “sửa đổi, định tính và điều chỉnh Thiên Cơ.” Tại sao lại như vậy? Tại sao Thiên Cơ không bị áp đặt? |
|
4. That the initiate knows because he works. What does this hint mean to you? |
4. Rằng điểm đạo đồ biết vì y làm việc. Gợi ý này có ý nghĩa gì với các bạn? |
|
5. A key to the correct interpretation of a hint lies in its association with the idea of direction in time and space. |
5. Chìa khóa để giải thích chính xác một gợi ý nằm ở sự liên kết của nó với ý tưởng về phương hướng trong thời gian và không gian. |
|
Study these and see what is their relationship and what you feel is the inner meaning which they are intended to convey. |
Hãy nghiên cứu những điều này và xem mối quan hệ của chúng là gì và các bạn cảm thấy ý nghĩa bên trong mà chúng dự định truyền tải là gì. |
|
THE FORMULAS |
CÁC CÔNG THỨC (Công Thức V) |
|
It might sometimes be remarked that these formulas are attempts by advanced aspirants to confine within due limits some of these escaped revelations. They express a past, indicate a revelation, and ground the thinking aspirant in the world of meaning because it is in that world that he must learn to work and live; it is from that world that he must begin now to work in two directions in time and space, for the world of meaning is the antechamber to the “Circle of Liberation.” This “Circle of Liberation” is ever entered by the individual initiate, and has been down the ages, but now, for the first time, it is being entered by humanity itself and as a whole. This is the result of the experience of the war, 1914-1945. Humanity, entering this circle, will be confronted by the first major lesson: the Unity of the One Life. This form of presentation will be more easily recognised by the masses than such phrases as Brotherhood, Relationship, Fraternity. Life and its balancing partner, Death, are old and familiar aspects of general livingness to the masses, and their starting point in all revelation is life, and the result of all revelation is death or the disappearance of veils. |
Đôi khi người ta có thể nhận xét rằng những công thức này là nỗ lực của những người chí nguyện cao cấp nhằm giới hạn trong giới hạn nhất định một số tiết lộ đã thoát ra ngoài. Chúng thể hiện một quá khứ, chỉ ra một sự mặc khải, và gắn người chí nguyện đang suy tư trong thế giới của ý nghĩa bởi vì đó là thế giới mà người đó phải học cách làm việc và sống; đó là thế giới mà từ đó người đó phải bắt đầu làm việc theo hai hướng trong thời gian và không gian, vì thế giới của ý nghĩa là tiền sảnh của “Vòng Tròn Giải Thoát”. “Vòng Tròn Giải Thoát” này luôn được từng điểm đạo đồ đi vào, và đã tồn tại qua nhiều thời đại, nhưng giờ đây, lần đầu tiên, chính nhân loại nói chung đang bước vào nó. Đây là kết quả của kinh nghiệm của cuộc chiến tranh, 1914-1945. Nhân loại, bước vào vòng tròn này, sẽ đối mặt với bài học lớn đầu tiên: Sự Hợp Nhất của Một Sự Sống Duy Nhất. Hình thức trình bày này sẽ dễ được quần chúng công nhận hơn so với các cụm từ như Tình Huynh Đệ, Mối Quan Hệ, Tình Thân ái. Sự Sống và các bạn đồng hành cân bằng của nó, Cái Chết, là những khía cạnh cũ và quen thuộc của sự sống nói chung đối với quần chúng, và điểm khởi đầu của họ trong tất cả sự mặc khải là sự sống, và kết quả của tất cả sự mặc khải là cái chết hoặc sự biến mất của các bức màn che. |
|
The formula with which I present you today consists of three closely related words, and the theme with which the student must concern himself is the nature of the relationship which is indicated—not by the words but by the very [321] nature of that which relates them. This is not an obvious relation but the esoteric and subtle meaning which the intuition will reveal and that the outer words hide. |
Công thức mà tôi trình bày cho các bạn hôm nay bao gồm ba từ liên quan chặt chẽ với nhau, và chủ đề mà học viên phải quan tâm là bản chất của mối quan hệ được chỉ ra—không phải bằng các từ mà bằng chính bản chất của điều liên quan đến chúng. Đây không phải là một mối quan hệ rõ ràng mà là ý nghĩa bí truyền và tinh tế mà trực giác sẽ tiết lộ và những từ bên ngoài che giấu. |
|
THE SUN . . . BLACK . . . ANTAHKARANA |
MẶT TRỜI . . . ĐEN . . . ANTAHKARANA |
|
These words constitute, and when placed in their correct order create, a most potent magical and mantric formula. It has a tenuous yet definite connection with the third initiation, but it is not this angle with which you are asked to concern yourselves but with the triangle created and the lines of force set in motion when the right word finds itself at the apex of the triangle. |
Những từ này tạo thành, và khi được đặt theo đúng thứ tự của chúng, tạo ra một công thức huyền thuật và thần chú mạnh mẽ nhất. Nó có một mối liên hệ mong manh nhưng chắc chắn với cuộc điểm đạo thứ ba, nhưng không phải là góc độ này mà các bạn được yêu cầu quan tâm mà là với hình tam giác được tạo ra và các đường lực được thiết lập chuyển động khi từ đúng đứng ở đỉnh của tam giác. |
|
The clue to rightly orienting your thinking lies in the realisation of the threefold aspect of the Sun, the unity of the reality and the dual nature of the antahkarana. More I must not say; it is for you to wrestle with the formula and unearth or bring to the surface its hidden significance. In line with the hints given in connection with the other four formulas, the keynote of this one would be: |
Manh mối để định hướng đúng suy nghĩ của các bạn nằm ở việc nhận ra khía cạnh tam phân của Mặt Trời, sự hợp nhất của thực tại và bản chất nhị nguyên của antahkarana. Tôi không thể nói thêm nữa; các bạn phải vật lộn với công thức và khai quật hoặc đưa lên bề mặt ý nghĩa ẩn giấu của nó. Theo dòng gợi ý được đưa ra liên quan đến bốn công thức khác, chủ đề chính của công thức này sẽ là: |
|
Lead us from the individual to the Universal. |
Dẫn chúng con từ cá thể đến Đại đồng. |
|
POINTS OF REVELATION |
ĐIỂM MẶC KHẢI |
|
I would like at this point to call more directly to your attention the three stages of revelation; you have been dealing with them and considering them, if you have succeeded in following this work closely, and may already have achieved something of the automatic and the essential in their activity. |
Tại thời điểm này, tôi muốn các bạn chú ý trực tiếp hơn đến ba giai đoạn của sự mặc khải; nếu các bạn đã thành công trong việc theo dõi chặt chẽ công việc này, các bạn đã và đang xử lý và xem xét chúng và có thể đã đạt được điều gì đó tự động và thiết yếu trong hoạt động của chúng. |
|
Revelation seldom breaks in all its completed beauty into the consciousness of the disciple; it is a gradual and steadily unfolding process. The three words I have given you as descriptive of the stages concern the individual disciple or initiate and express the stages of the impact of the revelation upon his mind. There are paralleling inner causes which are responsible for the outer stages of Penetration, Polarisation and Precipitation. These are: [322] |
Mặc khải hiếm khi đột phá trong tất cả vẻ đẹp hoàn chỉnh của nó vào tâm thức của đệ tử; đó là một quá trình dần dần và liên tục khai mở. Ba từ tôi đã đưa ra cho các bạn để mô tả các giai đoạn liên quan đến từng đệ tử hoặc điểm đạo đồ, và thể hiện các giai đoạn tác động của sự mặc khải lên tâm trí của họ. Có những nguyên nhân bên trong song song chịu trách nhiệm cho các giai đoạn bên ngoài của sự Thâm nhập, Phân cực và Ngưng tụ. Đây là những: [322] |
|
1. The stage of the “advancing point of light.” |
1. Giai đoạn “điểm ánh sáng tiến lên.” |
|
2. The stage of right direction or the focussing of the “advancing” potency. |
2. Giai đoạn của định hướng đúng hoặc sự tập trung của tiềm năng “tiến lên”. |
|
3. The stage of spiritual impact. |
3. Giai đoạn của tác động tinh thần. |
|
Again here (if you could but see it) you have an illustration of the processes and interaction of Invocation and Evocation and of the establishing of a triple relation between an inner reality and the outer man, the disciple on his own plane; you have an evocative activity of so potent a nature that it produces corresponding exoteric attitudes and expressions. In reality, you have here a phase of the working of the Law of Cause and Effect, demonstrated in a most illustrative manner. As the Law of Karma makes its presence felt upon the outer physical plane, you have the evidence before your eyes of the three stages of Penetration, Polarisation and Precipitation. At the same time, on the inner planes, and because of the existence of the inner reality, you have the three corresponding stages of Advancing Light, Right Direction, Impact. You have here also an indication of the close interrelation of the outer and the inner, producing a condition wherein the disciple creates a situation analogous to the phase—the long phase—of his creation of karma and its final precipitation in (so-called) “critical” disaster in his physical plane life. |
Ở đây, một lần nữa (nếu các bạn có thể nhìn thấy nó), các bạn có một minh họa về các quá trình và sự tương tác của Khẩn Cầu và Gợi lên và về việc thiết lập mối quan hệ tam phân giữa một thực tại bên trong và con người bên ngoài, người đệ tử trên cõi giới của chính mình; các bạn có một hoạt động gợi lên có bản chất mạnh mẽ đến mức nó tạo ra các thái độ và biểu hiện ngoại môn tương ứng. Trên thực tế, ở đây các bạn có một giai đoạn hoạt động của Định luật Nhân Quả, được minh họa rõ ràng nhất. Khi Định luật Nhân quả làm cho sự hiện diện của nó được cảm nhận trên cõi vật lý bên ngoài, các bạn có bằng chứng trước mắt về ba giai đoạn Thâm Nhập, Phân Cực và Ngưng Tụ. Đồng thời, trên các cõi bên trong, và do sự tồn tại của thực tại bên trong, các bạn có ba giai đoạn tương ứng là Ánh sáng Tiến lên, Phương hướng Đúng, Tác động. Ở đây các bạn cũng có một dấu hiệu cho thấy mối tương quan chặt chẽ giữa bên ngoài và bên trong, tạo ra một điều kiện trong đó đệ tử tạo ra một tình huống tương tự như giai đoạn — một giai đoạn dài — của việc tạo nghiệp của chính họ và sự ngưng tụ cuối cùng của nó trong cái được gọi là thảm họa “nghiêm trọng” trong đời sống cõi trần của họ. |
|
A study of the three revelations indicated in the earlier instruction will reveal the accuracy of the above statement. I enumerated them for you in my previous instruction and wonder if you have read them often. You will find it of value to take these three points of revelation and apply to them the three outer and the three inner stages through which all revelations pass. You may also have noted how one point of revelation leads normally to another. You will (having studied the three revelations indicated on pages 309-10) note how all of them concern the first divine aspect, starting with the initial energy set in motion by God’s thinking; leading to the expression of the Will, which is the great first ray in action, and then focussing itself through the Monad. [323] Curiously enough, in these three you have—symbolically and factually given you—expression of the three exoteric stages: |
Một nghiên cứu về ba điều mặc khải được chỉ ra trong chỉ dẫn trước đó sẽ tiết lộ tính chính xác của tuyên bố trên. Tôi đã liệt kê chúng cho các bạn trong chỉ dẫn trước của tôi và tự hỏi liệu các bạn có đọc chúng thường xuyên không. Bạn sẽ thấy có giá trị khi lấy ba điểm mặc khải này và áp dụng cho chúng ba giai đoạn bên ngoài và ba giai đoạn bên trong mà tất cả các mặc khải đều trải qua. Bạn cũng có thể đã lưu ý cách một điểm mặc khải thường dẫn đến một điểm khác. Bạn sẽ (sau khi nghiên cứu ba điều mặc khải được chỉ ra ở trang 309-10) lưu ý cách tất cả chúng liên quan đến khía cạnh thiêng liêng đầu tiên, bắt đầu với năng lượng ban đầu được Thượng Đế đưa vào hoạt động bằng suy nghĩ của Ngài; dẫn đến sự thể hiện của Ý Chí, đó là cung một vĩ đại trong hành động, và sau đó tập trung chính nó thông qua Chân Thần. [323] Thật kỳ lạ, trong ba điều này, các bạn có — một cách tượng trưng và thực tế được đưa ra cho các bạn — biểu hiện của ba giai đoạn ngoại môn: |
|
1. Penetration, the descending and circulatory nature of energy. |
1. Thâm nhập, bản chất đi xuống và luân chuyển của năng lượng. |
|
2. Polarisation, the effect upon this energy of the polarised will. |
2. Phân cực, tác động lên năng lượng này của ý chí được phân cực. |
|
3. Precipitation, through the focussed intent and the directed impulse of the Monad. |
3. Ngưng tụ, thông qua ý định tập trung và xung lực được hướng dẫn của Chân Thần. |
|
The next sequential revelation will be that of creativity, the world of thoughtforms and the desire which each human being and humanity as a whole have created, and (note this well) the setting in motion by humanity and in relation to its own destiny, the Law of Cause and Effect, or of Karma. |
Sự mặc khải tuần tự tiếp theo sẽ là sự mặc khải về sự sáng tạo, thế giới của các hình tư tưởng và ham muốn mà mỗi con người và nhân loại nói chung đã tạo ra, và (hãy lưu ý điều này) sự đưa Định luật Nhân quả, hoặc Định luật Karma vào hoạt động bởi nhân loại và liên quan đến vận mệnh của chính họ. |
|
I have here condensed into a relatively few short paragraphs much important teaching anent revelation and its processes and have emphasised a phase of human activity (needed to produce revelation) which has hitherto received little, if any, attention. Revelation is apt to be regarded as apart from all laws, as an extra-planetary activity, as something that occasionally happens to the well-intentioned aspirant, and as relatively unpredictable and unexpected. I have sought here to correct this erroneous impression. |
Ở đây, tôi đã cô đọng thành một vài đoạn tương đối ngắn nhiều giáo lý quan trọng liên quan đến sự mặc khải và các quá trình của nó, và đã nhấn mạnh một giai đoạn hoạt động của con người (cần thiết để tạo ra sự mặc khải) mà cho đến nay ít được chú ý, nếu có. Mặc khải có xu hướng được coi là tách biệt với tất cả các định luật, như một hoạt động ngoài hành tinh, như một cái gì đó thỉnh thoảng xảy ra với người chí nguyện có thiện chí, và tương đối không thể đoán trước và bất ngờ. Tôi đã tìm cách ở đây để sửa chữa ấn tượng sai lầm này. |
PART VII
PART VIII
|
I feel it necessary again to reiterate that initiation is concerned with the consciousness aspect of the disciple or of the group that is to undergo the process. The emphasis has been laid in the past on contact with the Hierarchy and—as we [350] have seen—with the use of devoted, emotional zeal as the medium of that contact. Again, as we have seen, the period of time which has passed since H.P.B. brought this teaching to the modern world has changed all that, and the emphasis is now on the initiation of the consciousness of the disciple or group into areas of divine expression, hitherto unrealised. Initiates, in the past, were admitted into the world of ideas, of intuitional perception or of buddhic awareness; their task was to transform these ideas into ideals; thus, they presented spiritual goals and hierarchical objectives to the race, this being their major form of service. Today, owing to the pronounced development of mankind, the accepted disciples of the world, those who have undergone the first initiation (and their name is Legion), and the initiates of higher degree, have objectives which their mental unfoldment has made possible; they can be admitted into divine areas of consciousness which are conditioned and brought into being, not by divine ideas but by the divine Will (their perception of that Will will be according to the degree of the initiatory control). Their task is therefore to perceive the Plan which is the hierarchical mode of implementing the divine Will, plus the Purpose which is perceived by the Heads of the Hierarchy. They have also to undertake to see that that Plan becomes a factual expression upon the physical plane and a part of the recognised consciousness of humanity as a whole. This, being a relatively new unfoldment, has not yet made the necessary headway, largely owing to the planetary Karma and the appalling situation with which humanity has confronted itself. I would have you here note my phrasing. |
Tôi cảm thấy cần thiết phải nhắc lại rằng điểm đạo liên quan đến khía cạnh tâm thức của đệ tử hoặc của nhóm sẽ trải qua quá trình này. Trong quá khứ, sự nhấn mạnh đã được đặt vào việc tiếp xúc với Huyền Giai và—như chúng ta [350] đã thấy—sử dụng sự nhiệt thành, cảm xúc tận tâm như là phương tiện của sự tiếp xúc đó. Một lần nữa, như chúng ta đã thấy, khoảng thời gian đã trôi qua kể từ khi H.P.B. mang giáo lý này đến thế giới hiện đại đã thay đổi tất cả những điều đó, và sự nhấn mạnh bây giờ là về việc đưa tâm thức của đệ tử hoặc nhóm vào các khu vực của sự biểu hiện thiêng liêng, trước đây chưa được nhận ra. Các điểm đạo đồ trong quá khứ được đưa vào thế giới của các ý tưởng, của sự nhận thức trực giác hoặc của tâm thức bồ đề; nhiệm vụ của họ là biến đổi những ý tưởng này thành những lý tưởng; do đó, họ đã trình bày các mục tiêu tinh thần và các mục tiêu của Thánh đoàn cho nhân loại, đây là hình thức phụng sự chính của họ. Ngày nay, do sự phát triển nổi bật của nhân loại, các đệ tử được chấp nhận trên thế giới, những người đã trải qua lần điểm đạo thứ nhất (và số lượng của họ là vô số), và các điểm đạo đồ ở cấp cao hơn, có những mục tiêu mà sự phát triển tâm trí của họ đã làm cho có thể; họ có thể được chấp nhận vào các khu vực thiêng liêng của tâm thức được điều kiện hóa và hình thành, không phải bởi các ý tưởng thiêng liêng mà bởi Ý chí thiêng liêng (sự nhận thức của họ về Ý chí đó sẽ tùy theo mức độ kiểm soát điểm đạo). Do đó, nhiệm vụ của họ là nhận thức Thiên Cơ, đó là phương thức của Thánh đoàn để thực hiện Ý chí thiêng liêng, cùng với Mục đích được các Đấng Lãnh Đạo của Thánh đoàn nhận thức. Họ cũng phải đảm bảo rằng Thiên Cơ đó trở thành một biểu hiện thực tế trên cõi vật chất và là một phần của tâm thức được nhận ra của toàn nhân loại. Đây, là một sự phát triển tương đối mới, vẫn chưa đạt được tiến bộ cần thiết, phần lớn là do Nghiệp Quả hành tinh và tình hình khủng khiếp mà nhân loại đang đối mặt. Tôi muốn các bạn chú ý đến cách diễn đạt của tôi ở đây. |
|
Evidence, however, of the growth of the human intellect along the needed receptive lines can be seen in the “planning” of the various nations, and in the efforts of the United Nations to formulate a world plan which will eventuate in peace, security and right human relations. It is interesting to note that, from the very start of this unfoldment, three occult factors have governed the development of all these plans: its clearcut significance, unperceived as yet by you, in the setting of a time boundary by the nations who formulate these plans, [351] within whose announced limits certain objectives are presumed to be possible of attainment. |
Tuy nhiên, bằng chứng về sự phát triển của trí tuệ con người dọc theo các đường lối tiếp nhận cần thiết có thể được nhìn thấy trong “quy hoạch” của các quốc gia khác nhau, và trong những nỗ lực của Liên Hợp Quốc nhằm xây dựng một kế hoạch thế giới sẽ mang lại hòa bình, an ninh và quyền con người. Thật thú vị khi lưu ý rằng, ngay từ khi bắt đầu của sự khai mở này, ba yếu tố huyền bí đã chi phối sự phát triển của tất cả các kế hoạch này: ý nghĩa rõ ràng của nó, mà các bạn chưa nhận thấy, trong việc thiết lập ranh giới thời gian của các quốc gia hình thành nên những kế hoạch này, [351] trong giới hạn đã công bố mà các mục tiêu nhất định được coi là có thể đạt được. |
|
It will be obvious to you therefore that, owing to the changed polarisation of the disciples of the world, the entire quality, processes and modes of activity of the Hierarchy have undergone and are undergoing change. The nature or quality of the disciples being admitted into hierarchical participation necessarily condition the rhythm and the keynote of the Hierarchy at any given time. At the same time, nothing hitherto developed or gained is ever lost, and the quality of devotion is still potently present; enrichment proceeds and, if I may use such an inadequate phrase, the perception of all within the Hierarchy is tremendously enhanced; areas of the divine perception, clothing divine purpose, are steadily being revealed. |
Do đó, các bạn sẽ thấy rõ ràng rằng do sự thay đổi phân cực của các đệ tử trên thế giới, toàn bộ phẩm chất, quá trình và phương thức hoạt động của Thánh Đoàn đã và đang trải qua sự thay đổi. Bản chất hoặc phẩm chất của các đệ tử được kết nạp vào sự tham gia của Thánh Đoàn nhất thiết phải điều hòa nhịp điệu và chủ âm của Thánh Đoàn tại bất kỳ thời điểm nào. Đồng thời, không có gì được phát triển hoặc đạt được trước đây bị mất đi, và phẩm chất của sự tận tâm vẫn còn hiện hữu mạnh mẽ; sự phong phú tiếp tục diễn ra, và nếu tôi có thể sử dụng một cụm từ không đầy đủ như vậy, nhận thức của tất cả thành viên Thánh Đoàn được nâng cao rất nhiều; các lĩnh vực nhận thức thiêng liêng, bao gồm mục đích thiêng liêng, đang dần được tiết lộ. |
|
Revelation is not only the prerogative and reward of the attaining initiate, but it is increasingly taking on new forms and fresh outlines for the Masters Who have attained—a process made possible by the higher mental perception of the incoming disciples. Group work, group reaction and group possibilities are carried to their highest point of expression within the Hierarchy. I want you to consider this with care, and not regard the Hierarchy as a static point of love and mediatory activity, as is so often the attitude of the disciple. The evolutionary process conditions the Hierarchy as it conditions humanity and all else in the manifesting universe. There is, however, an evolutionary interplay which—in this era and at this time of crisis—is producing effects in relationship. |
Sự mặc khải không chỉ là đặc quyền và phần thưởng của điểm đạo đồ đạt được, mà còn ngày càng có những hình thức mới và các đường nét mới đối với các Chân sư đã đạt được—một quá trình trở nên khả thi nhờ vào sự nhận thức thượng trí của các đệ tử mới đến. Công việc nhóm, phản ứng nhóm và khả năng nhóm được đẩy lên đến điểm biểu hiện cao nhất bên trong Huyền Giai. Tôi muốn bạn xem xét điều này một cách cẩn thận, và không coi Huyền Giai như một điểm tình yêu và hoạt động trung gian tĩnh, như thường là thái độ của người đệ tử. Quá trình tiến hóa điều kiện hóa Huyền Giai như nó điều kiện hóa nhân loại và tất cả những thứ khác trong vũ trụ đang biểu hiện. Tuy nhiên, có một sự tương tác tiến hóa mà—trong kỷ nguyên này và vào thời điểm khủng hoảng này—đang tạo ra những hiệu ứng trong mối quan hệ. |
|
Approaching this subject from another angle, the mental polarisation of the disciple seeking entry into the hierarchical sphere of work is producing a unification of initiatory effort which is new in the spiritual history of the planet and which is the first step being taken at this time upon inner and subtle planes to bring about certain great “Crises of Initiation,” involving simultaneously all the three major planetary centres—a thing hitherto unknown. Up to 1875, initiation was a sequential process as well as largely an individual process. This is slowly being changed; groups are being admitted [352] to initiation because of a recognised and sensed relationship which is not that of disciple and Master (as heretofore), but which is based on initiate-relationship in group form, and which is present between Humanity, the Hierarchy and Shamballa. It is this spiritual and subtly sensed relationship which is today finding physical plane expression in the worldwide effort to establish right human relations. |
Tiếp cận chủ đề này từ một góc độ khác, sự phân cực trí tuệ của đệ tử đang tìm cách gia nhập vào phạm vi hoạt động của Thánh Đoàn đang tạo ra một sự thống nhất nỗ lực điểm đạo, điều này là mới trong lịch sử tinh thần của hành tinh và là bước đầu tiên được thực hiện vào thời điểm này trên các cõi nội giới và tinh tế để mang lại những “Cuộc Khủng Hoảng Điểm Đạo” lớn, đồng thời liên quan đến tất cả ba trung tâm hành tinh chính — một điều cho đến nay vẫn chưa từng thấy. Cho đến năm 1875, điểm đạo là một quá trình tuần tự cũng như phần lớn là một quá trình cá nhân. Điều này đang dần thay đổi; các nhóm đang được chấp nhận [352] vào điểm đạo vì một mối quan hệ được công nhận và cảm nhận vốn không phải là mối quan hệ giữa đệ tử và Chân Sư (như trước đây), mà dựa trên mối quan hệ điểm đạo đồ dưới hình thức nhóm, và hiện diện giữa Nhân loại, Thánh Đoàn và Shamballa. Chính mối quan hệ tinh thần và được cảm nhận một cách tinh tế này ngày nay đang tìm thấy biểu hiện trên cõi vật chất trong nỗ lực trên toàn thế giới nhằm thiết lập các mối quan hệ đúng đắn của con người. |
|
Initiation is no longer regarded essentially as the moving of a human being who has accepted certain disciplines and made certain self-determined progressive advancement in consciousness into closer contact with the Hierarchy and a group within the Hierarchy; that angle of it will rapidly become a thing of the past. It is the moving forward of an entire group of spiritually-minded disciples and initiates into new areas of the divine consciousness and into a closer rapport with the Mind of the Lord of the World. This the disciples and initiates will do together, according to their degree and their point in spiritual evolution. I refer not here to the evolution of the form. Three things will thereby be brought about: |
Điểm đạo về cơ bản không còn được coi là sự dịch chuyển của một người, đã chấp nhận một số kỷ luật nhất định và tự mình đạt được sự tiến bộ tiến triển về tâm thức, để tiếp xúc gần hơn với Thánh Đoàn và một nhóm trong Thánh Đoàn; góc độ đó sẽ nhanh chóng trở thành dĩ vãng. Đó là sự tiến lên của cả một nhóm các đệ tử có khuynh hướng tinh thần và các điểm đạo đồ vào những lĩnh vực mới của tâm thức thiêng liêng và vào mối quan hệ mật thiết hơn với Tâm Trí của Chúa Tể Thế Giới. Các đệ tử và điểm đạo đồ sẽ cùng nhau làm điều này, tùy theo cấp bậc và điểm tiến hóa tinh thần của họ. Tôi không đề cập ở đây đến sự tiến hóa của hình tướng. Nhờ đó, ba điều sẽ được mang lại: |
|
1. A closer linking of the three divine centres (Shamballa, the Hierarchy and Humanity) so that the flow of divine energy will be increasingly unimpeded, and Purpose, Plan and their Precipitation upon the physical plane will be facilitated. |
1. Liên kết chặt chẽ hơn ba trung tâm thiêng liêng (Shamballa, Thánh Đoàn và Nhân loại) để dòng chảy năng lượng thiêng liêng ngày càng không bị cản trở, và Mục đích, Kế hoạch và sự Ngưng tụ của chúng trên cõi vật lý sẽ được tạo điều kiện thuận lợi. |
|
2. A far more powerful Hierarchy and one much more closely linked to Humanity by the principle of intelligence—implementing the love principle—and far more en rapport with the Purpose, which is the dynamic focus of all planetary energising, development and evolutionary growth. |
2. Một Thánh Đoàn mạnh mẽ hơn nhiều và liên kết chặt chẽ hơn với Nhân loại bằng nguyên khí trí tuệ — thực thi nguyên khí tình thương — và hòa hợp hơn nhiều với Thiên Ý, đó là tiêu điểm năng động của tất cả năng lượng, sự phát triển và tăng trưởng tiến hóa của hành tinh. |
|
3. A fusion or establishing of relationship within humanity itself, producing right human relations and a consequent integration into the Hierarchy. This will be in the nature of a mass initiation and will be made possible by the relatively new process of group initiation, growing out of the slow method of individual initiation. [353] |
3. Một sự dung hợp hoặc thiết lập mối quan hệ trong chính nhân loại, tạo ra các mối quan hệ đúng đắn của con người và kết quả là sự tích hợp vào Thánh Đoàn. Điều này sẽ mang tính chất của một sự điểm đạo hàng loạt và sẽ được thực hiện nhờ quá trình điểm đạo nhóm tương đối mới, phát triển từ phương pháp điểm đạo cá nhân chậm chạp. [353] |
|
These are difficult matters to make clear, my brothers, but I may perhaps have succeeded in conveying to you some general idea as a basis for your further thinking. |
Các huynh đệ của tôi, đây là những vấn đề khó làm rõ, nhưng có lẽ tôi đã thành công trong việc truyền đạt cho các bạn một số ý tưởng chung làm cơ sở cho những suy nghĩ sâu hơn của các bạn. |
|
The individual disciple, seeking initiation, is with deliberation and with his full and free consent merged into the group; he achieves this fusion by his own individual effort and is (throughout the entire process) an absolutely free agent, moving forward and becoming mentally inclusive, as rapidly or as slowly as he chooses. He determines the time and the event himself without interference or obstruction from any outside force. |
Đệ tử cá nhân, tìm kiếm điểm đạo, được hợp nhất vào nhóm một cách thận trọng và với sự đồng ý hoàn toàn và tự do của mình; y đạt được sự dung hợp này bằng nỗ lực cá nhân của chính mình và (trong suốt toàn bộ quá trình) là một tác nhân hoàn toàn tự do, tiến về phía trước và trở nên bao gồm về mặt trí tuệ, nhanh hay chậm tùy theo người đó lựa chọn. Người đó tự xác định thời gian và sự kiện mà không có sự can thiệp hoặc cản trở từ bất kỳ lực lượng bên ngoài nào. |
|
This is the relatively new spiritual technique, and it is a technique accepted by initiates and disciples of all degrees in all three divine centres. Like everything else that happens upon the subjective plane of human living, a major distortion of the process and of the new technique will appear in some form or other in human affairs and constitute a great obstruction (apparently and temporarily) to human progress. It will be in the nature of a sidetrack and a glamour, brought into impelling and compelling use by the enemies of humanity and by those who work constantly against the Forces of Light. Today, this distortion can be seen demonstrating in all totalitarian countries; the individual is not free and his fusion with the state and his progress as a state-absorbed entity—deprived of the right of free choice and forced through fear and penalty to relinquish his own self-directed life—is a growing menace to mankind. |
Đây là kỹ thuật tinh thần tương đối mới, và nó là một kỹ thuật được chấp nhận bởi các điểm đạo đồ và đệ tử ở mọi cấp bậc trong cả ba trung tâm thiêng liêng. Giống như mọi thứ khác xảy ra trên cõi chủ quan của cuộc sống con người, một sự biến dạng lớn của quá trình và kỹ thuật mới này sẽ xuất hiện dưới một hình thức nào đó trong các vấn đề nhân loại và tạo ra một trở ngại lớn (rõ ràng và tạm thời) đối với sự tiến bộ của con người. Nó sẽ có tính chất của một sự lạc hướng và một ảo cảm, được sử dụng một cách cưỡng bức và bắt buộc bởi kẻ thù của nhân loại và bởi những kẻ làm việc không ngừng chống lại các Lực lượng Ánh sáng. Ngày nay, sự biến dạng này có thể được thấy rõ ràng trong tất cả các quốc gia độc tài; cá nhân không được tự do và sự hòa nhập của y với nhà nước và sự tiến bộ của y như một thực thể bị nhà nước hấp thụ—bị tước quyền lựa chọn tự do và bị ép buộc bởi sợ hãi và hình phạt để từ bỏ cuộc sống tự chỉ đạo của mình—là một mối đe dọa ngày càng tăng đối với nhân loại. |
|
It is the right use of this same energy which makes fusion with the Hierarchy possible. These are points worth considering, and will convey to you some understanding of present world conditions. The underlying Principle of Fusion and of group endeavour is right and part of the divine plan; its implementation by grasping, greedy and ambitious men, or by deluded disciples, is terribly wrong and will lead to disaster. This disaster the Hierarchy is seeking to avert, but the Masters are handicapped (as usual) by the relatively few upon whom They can depend, and by the lack of understanding amongst the masses of well-intentioned people. [354] These, through their ignorance rather than through their planned ill-doing, know not how to stem the tide of evil. |
Chính việc sử dụng đúng đắn năng lượng này làm cho sự hợp nhất với Huyền Giai trở nên khả thi. Đây là những điểm đáng xem xét và sẽ giúp bạn hiểu được một phần tình hình thế giới hiện nay. Nguyên Lý cơ bản của sự Dung Hợp và của nỗ lực nhóm là đúng và là một phần của kế hoạch thiêng liêng; việc thực hiện nó bởi những người tham lam, ích kỷ và đầy tham vọng, hoặc bởi những đệ tử bị lừa dối, là cực kỳ sai lầm và sẽ dẫn đến thảm họa. Thảm họa này Huyền Giai đang tìm cách ngăn chặn, nhưng các Chân sư gặp khó khăn (như thường lệ) do số lượng người tương đối ít mà Họ có thể tin cậy và do sự thiếu hiểu biết trong số đông những người có ý tốt. Những người này, do sự thiếu hiểu biết hơn là do hành động có kế hoạch xấu xa, không biết cách ngăn chặn làn sóng tà vạy. |
|
ON HINTS |
VỀ NHỮNG GỢI Ý |
|
Thus far I have given you—for your searching consideration—seven hints. I intend to give you no more than these seven, because what you now have will prove adequate for many years of study. Each of them, in fact, could provide the theme of a book, and the search for their meaning will take all that you have of mental and intuitive perception. The significance which is immediately apparent is the one which probationary disciples can well see, grasp and appreciate. Disciples can, however, arrive at much deeper significances, and it is to these that the group attention is now called. |
Cho đến nay, tôi đã đưa cho bạn bảy gợi ý để bạn xem xét. Tôi không có ý định đưa thêm bất kỳ gợi ý nào khác, vì những gì bạn hiện có sẽ đủ cho nhiều năm nghiên cứu. Thực tế, mỗi gợi ý trong số này có thể cung cấp chủ đề cho một cuốn sách, và việc tìm kiếm ý nghĩa của chúng sẽ đòi hỏi tất cả những gì bạn có về khả năng nhận thức trí tuệ và trực giác. Ý nghĩa ngay lập tức hiện ra là ý nghĩa mà những đệ tử dự bị có thể nhìn thấy, nắm bắt và đánh giá cao. Tuy nhiên, các đệ tử có thể đạt được những ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều, và sự chú ý của nhóm hiện đang được hướng đến những ý nghĩa này. |
|
Let me point out that the apparent significance is applicable to the training and the unfoldment of the individual aspirants, and is therefore in line with the ancient use of hints by the Masters of the Wisdom. But the deeper meaning (for which you must search) is not so easily seen and is concerned with hierarchical impression, involving necessarily ashramic intention and its precipitation in service. It is here that the Points of Revelation are to be found of prime importance, and the reason why I am laying much emphasis upon this little-understood theme of revelation. |
Hãy để tôi chỉ ra rằng ý nghĩa rõ ràng là áp dụng cho việc đào tạo và phát triển của các người chí nguyện cá nhân, và do đó phù hợp với cách sử dụng gợi ý cổ xưa của các Chân sư Minh triết. Nhưng ý nghĩa sâu sắc hơn (mà bạn phải tìm kiếm) không dễ dàng thấy được và liên quan đến ấn tượng của Huyền Giai, tất yếu bao gồm ý định của Ashram và sự hiện thực hóa nó trong phụng sự. Chính ở đây, các Điểm Mặc Khải được tìm thấy là vô cùng quan trọng, và đó là lý do tại sao tôi nhấn mạnh nhiều đến chủ đề ít được hiểu này của sự mặc khải. |
|
As you already know, a hint is susceptible of many interpretations, according to the point in evolution and the grade of the disciple. A Master can gauge a disciple’s ability to pass onward and arrive at his attained status by his mode of handling a hint. In the preceding instruction I posited for you a series of questions relating to the subject of hints, but I did not tell you that they were in the nature of a test. They were framed in words that appeared to make them of general and personal application. Did you deal with them as such? There was no need to do so and (if you have truly understood what I have indicated re hints) you must have wondered why the questions were drafted in that particular form; you would then have proceeded to consider their themes and the answers required from the standpoint of the [355] Ashram, which is not the standpoint of the individual. I know not what you did. I can only hope for your right approach. If—to illustrate—you interpret the sixth hint, which states among other things that “my one effort is to indicate relationship between initiation and revelation,” by pondering upon the initiation which you believe lies ahead of you as an individual, and the consequent revelation which will then be made to you, then you will be functioning as an aspirant and not as a disciple. If, however, you sensed, no matter how dimly, that each initiate-group enriches the Ashram with its invoked revelation, you will then be arriving closer to the desired consciousness. |
Như bạn đã biết, một gợi ý có thể được giải thích theo nhiều cách, tùy theo điểm tiến hóa và cấp bậc của đệ tử. Một Chân sư có thể đánh giá khả năng của một đệ tử để tiến lên và đạt được vị thế của mình theo cách xử lý một gợi ý. Trong hướng dẫn trước đó, tôi đã đưa ra cho bạn một loạt các câu hỏi liên quan đến chủ đề của các gợi ý, nhưng tôi không nói rằng chúng mang tính chất của một bài kiểm tra. Chúng được soạn thảo bằng những từ ngữ dường như làm cho chúng có tính ứng dụng chung và cá nhân. Bạn đã xử lý chúng như vậy chưa? Không cần thiết phải làm như vậy và (nếu bạn thực sự hiểu những gì tôi đã chỉ ra về các gợi ý) bạn phải tự hỏi tại sao các câu hỏi lại được soạn thảo dưới hình thức cụ thể đó; sau đó bạn sẽ xem xét các chủ đề của chúng và các câu trả lời cần thiết từ quan điểm của [355] Ashram, chứ không phải từ quan điểm của cá nhân. Tôi không biết bạn đã làm gì. Tôi chỉ có thể hy vọng vào cách tiếp cận đúng của bạn. Để minh họa, nếu bạn giải thích gợi ý thứ sáu, trong đó nói rằng “nỗ lực duy nhất của tôi là chỉ ra mối quan hệ giữa điểm đạo và sự mặc khải,” bằng cách suy ngẫm về lần điểm đạo mà bạn tin rằng đang ở phía trước bạn với tư cách cá nhân, và sự mặc khải hệ quả sẽ được tiết lộ cho bạn, thì bạn sẽ hoạt động như một người chí nguyện chứ không phải là một đệ tử. Tuy nhiên, nếu bạn cảm nhận, dù mờ nhạt đến đâu, rằng mỗi nhóm điểm đạo làm phong phú Ashram bằng sự mặc khải mà họ kêu gọi, thì bạn sẽ tiến gần hơn đến tâm thức mong muốn. |
|
For your instruction, I propose to take these seven hints and—in this instruction and the next—I will “open up” the hint for you and try to show you a little (not all) that a hint, rightly approached, can convey. As I do so, it will become apparent to you that you must always have in mind three things: |
Để hướng dẫn bạn, tôi đề xuất lấy bảy gợi ý này và—trong hướng dẫn này và hướng dẫn tiếp theo—tôi sẽ “mở” gợi ý ra cho bạn và cố gắng chỉ ra một chút (không phải tất cả) những gì mà một gợi ý, nếu được tiếp cận đúng cách, có thể truyền đạt. Khi tôi làm như vậy, sẽ trở nên rõ ràng với bạn rằng bạn luôn phải ghi nhớ ba điều: |
|
1. A hint today will concern the group—its interrelation, its fusion, its initiation and its service. |
1. Một gợi ý ngày nay sẽ liên quan đến nhóm—sự tương tác, sự hợp nhất, sự điểm đạo và sự phụng sự của nhóm. |
|
2. A hint is intended to teach you something new in your experience, even if—as a theory—it may seem quite familiar to you. |
2. Một gợi ý nhằm dạy bạn điều gì đó mới trong kinh nghiệm của bạn, ngay cả khi—về mặt lý thuyết—nó có vẻ khá quen thuộc với bạn. |
|
3. A hint, like all else in the occult teaching, is capable of seven interpretations which can roughly be divided into three. These three are that of the probationary disciple or aspirant, that of the accepted disciple and that of the Master or the higher initiate. That interpretation which I will indicate to you will concern the meaning which it has for the accepted disciple, and therefore its meaning for those of you who read these words. |
3. Một gợi ý, giống như tất cả các yếu tố khác trong giáo lý huyền bí, có khả năng được diễn giải theo bảy cách khác nhau, có thể chia thành ba nhóm. Ba nhóm này là của đệ tử dự bị hoặc người chí nguyện, của đệ tử được chấp nhận và của Chân sư hoặc điểm đạo đồ cao cấp. Diễn giải mà tôi sẽ chỉ ra cho bạn sẽ liên quan đến ý nghĩa mà nó có đối với đệ tử được chấp nhận, và do đó là ý nghĩa đối với những ai đang đọc những lời này. |
|
The probationary disciple can arrive at the significance of a hint as it can be understood in terms of the three worlds, i.e., its physical application, its emotional or devotional expression, and its mental formulation; the disciple must interpret and apply it in terms of the Plan, of directed energy and [356] of the Ashram, as it exists as the servant of humanity. If you will endeavour to arrive at this attitude and also at a spirit of true self-forgetfulness, you will assuredly learn much. I shall not be able to give you full and adequate interpretations or write you at length upon each hint, but I will give you enough to enable you to go deeper into significances than would otherwise be possible. Because we are considering the seven rays, do not waste your time attempting to assign the seven hints to the seven ray influences or to the seven principles. Disciples on all the rays can work with these hints in terms of the seven rays, if they so choose; but these seven terms of ray interpretation have to be used on each hint, a task which is too great for our present endeavour. |
Đệ tử dự bị có thể đạt đến ý nghĩa của một gợi ý như nó có thể được hiểu theo các khía cạnh của ba cõi, tức là, ứng dụng vật lý của nó, biểu hiện cảm xúc hoặc tận tâm của nó, và sự hình thành trí tuệ của nó; đệ tử phải diễn giải và áp dụng nó theo các khía cạnh của Thiên Cơ, của năng lượng được điều hướng và của Ashram, như nó tồn tại như người phụng sự nhân loại. Nếu bạn nỗ lực để đạt đến thái độ này và cũng đạt đến tinh thần quên mình chân chính, bạn chắc chắn sẽ học được nhiều điều. Tôi sẽ không thể đưa ra cho bạn những diễn giải đầy đủ và toàn diện hoặc viết chi tiết về mỗi gợi ý, nhưng tôi sẽ cung cấp đủ để giúp bạn đi sâu vào các thâm nghĩa hơn khi không có điều này. Vì chúng ta đang xem xét bảy cung, đừng lãng phí thời gian cố gắng gán bảy gợi ý cho ảnh hưởng của bảy cung hoặc cho bảy nguyên khí. Các đệ tử trên tất cả các cung có thể làm việc với những gợi ý này theo các khía cạnh của bảy cung, nếu họ muốn; nhưng bảy thuật ngữ diễn giải cung này phải được sử dụng trên mỗi gợi ý, một nhiệm vụ quá lớn cho nỗ lực hiện tại của chúng ta. |
|
These seven hints are used in all Ashrams as teaching measures, and when I first gave them to you (scattered through the papers during the past few years, beginning in 1941 and more definitely isolated for your reflection since 1945) I did not mention this fact. You can see, however, the richness of the contribution of the disciples since the inauguration of the new technique. Since that time, disciples in all the Ashrams, and therefore on all the rays, delved into meaning and arrived at revelation. I have given you these seven hints in their simple modern rendering. I will try and give them to you in their more esoteric presentation, as they are thus preserved in the Archives of the Hierarchy. |
Bảy gợi ý này được sử dụng trong tất cả các Ashram như là các biện pháp giảng dạy, và khi lần đầu tiên tôi đưa chúng cho bạn (rải rác qua các tài liệu trong vài năm qua, bắt đầu từ năm 1941 và được tách ra rõ ràng hơn để bạn suy ngẫm từ năm 1945), tôi đã không đề cập đến thực tế này. Tuy nhiên, bạn có thể thấy sự đóng góp phong phú của các đệ tử kể từ khi khởi xướng kỹ thuật mới. Kể từ thời điểm đó, các đệ tử trong tất cả các Ashram, và do đó trên tất cả các cung, đã đi sâu vào ý nghĩa và đạt đến sự mặc khải. Tôi đã đưa cho bạn bảy gợi ý này trong cách diễn giải hiện đại đơn giản của chúng. Tôi sẽ cố gắng đưa chúng cho bạn theo cách trình bày nội môn hơn, như chúng được bảo tồn trong Lưu trữ của Huyền Giai. |
|
Hint One. As I have given this hint to you, the wording is as follows: “The changes brought about in the Hierarchy have been the result of the work of the disciples of the world.” |
Gợi ý thứ nhất. Như tôi đã đưa ra cho bạn, lời diễn đạt như sau: “Những thay đổi được thực hiện trong Huyền Giai là kết quả của công việc của các đệ tử trên thế giới.” |
|
Here you have a very simple statement but one which is distinctly bewildering in its implications. Its ancient formulation in the Archives consists of an injunction to the Master and runs as follows: |
Ở đây bạn có một tuyên bố rất đơn giản nhưng lại có những ngụ ý rõ ràng gây bối rối. Cách diễn đạt cổ xưa của nó trong Lưu trữ bao gồm một chỉ dẫn cho Chân sư và được diễn đạt như sau: |
|
“Regard and recognise the changes in the hearts of men, and change the rules as men in time and cyclic change [357] approach the Ashram. The Ashram stands not still. New life pours in from either side.” |
“Hãy chú ý và nhận biết những thay đổi trong trái tim con người, và thay đổi các quy luật khi con người theo thời gian và chu kỳ tiếp cận Ashram. Ashram không đứng yên. Sự sống mới đổ vào từ cả hai phía.” |
|
This will perhaps throw light upon the interpretation which I originally gave to you. One of the most difficult tasks which confronts the Master is to teach the disciple to think of the Ashram and to act and serve, think and invoke, as a member of the Ashram would normally do. Two thoughts, therefore, emerge from a study of the two versions of this hint: |
Điều này có lẽ sẽ làm sáng tỏ cách diễn giải mà tôi đã đưa ra cho bạn. Một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất mà Chân sư phải đối mặt là dạy đệ tử suy nghĩ về Ashram và hành động, phụng sự, suy nghĩ và kêu gọi, như một thành viên của Ashram thường làm. Do đó, hai suy nghĩ nổi bật từ việc nghiên cứu hai phiên bản của gợi ý này:: |
|
1. That the Law of Change governs the Hierarchy just as it governs Humanity. |
1. Định Luật Thay Đổi chi phối Thánh Đoàn cũng như nó chi phối Nhân loại. |
|
2. That the disciple who functions under this law has the following things to do: |
2. Người đệ tử hoạt động dưới luật này có những điều sau đây phải làm: |
|
a. Deal with the constantly transforming changes in his own personality. |
a. Đối phó với những thay đổi liên tục biến đổi trong cá nhân của chính mình. |
|
b. Adapt himself to the rapidly developing and changing events which are taking place within the Hierarchy. |
b. Thích nghi bản thân với các sự kiện phát triển nhanh chóng và thay đổi đang diễn ra trong Thánh Đoàn. |
|
c. Contribute to the wise circulation and direction of the new energies which are pouring into and through the Ashram. This he does by realising himself as a centre of changing energies. This is the way the Hierarchy works. |
c. Đóng góp vào sự lưu thông và định hướng khôn ngoan của những năng lượng mới đang đổ vào và qua Ashram. Y làm điều này bằng cách nhận ra bản thân mình như một trung tâm của những năng lượng thay đổi. Đây là cách mà Thánh Đoàn hoạt động. |
|
You who read and study the ways of the Ashrams at this time are witnessing a period of extreme change and adjustment and of a far-reaching reorganisation. For ever the occult law holds good: “as above, so below,” and the reorganisation of planetary affairs which is taking place at this time is partially the effect of the changes produced in the Hierarchy by two major factors, to both of which I have frequently referred: |
Những người trong số các bạn đọc và nghiên cứu cách thức của các Ashram vào thời điểm này đang chứng kiến một giai đoạn thay đổi và điều chỉnh cực độ và của một sự tái tổ chức sâu rộng. Định Luật huyền bí luôn đúng: “trên sau, dưới vậy,” và sự tái tổ chức của các công việc hành tinh đang diễn ra vào thời điểm này phần nào là kết quả của những thay đổi được sản sinh trong Thánh Đoàn bởi hai yếu tố chính, cả hai yếu tố này tôi đã thường xuyên đề cập đến: |
|
1. The higher and more intelligent type of disciple who is now affiliating with the Ashram and its instinctive demand for group work and recognition. |
1. Loại đệ tử cao hơn và thông minh hơn hiện đang liên kết với Ashram và yêu cầu bản năng của họ cho công việc và sự nhận biết nhóm. |
|
2. The new energies pouring through Shamballa into the Hierarchy; these are of an extra-planetary nature [358] and have their source largely in the Aquarian quality of the present cycle; these energies are steadily eliminating the energies of the Piscean Age. |
2. Những năng lượng mới đổ qua Shamballa vào Thánh Đoàn; những năng lượng này có bản chất ngoài hành tinh và có nguồn gốc phần lớn trong phẩm chất Bảo Bình của chu kỳ hiện tại; những năng lượng này đang loại bỏ dần các năng lượng của Thời đại Song Ngư. |
|
Therefore, my brother, from the angle of the searching disciple, this first hint (in one of its deeper meanings) provides you with three lines of thought or of meditative reflection: Evolutionary Change, Reorganisation, Group Responsibility. |
Vì vậy, các huynh đệ của tôi, từ góc độ của người đệ tử đang tìm kiếm, gợi ý đầu tiên này (với một trong những ý nghĩa sâu sắc hơn của nó) cung cấp cho các bạn ba dòng suy nghĩ hoặc sự phản ánh tham thiền: Thay Đổi Tiến Hóa, Tái Tổ Chức, Trách Nhiệm Nhóm. |
|
The concept of service rendered by the Hierarchy is consistently present. The way to world change is also given. The Hierarchy as a meeting-place of energies is emphasised and—in the disciple’s consciousness—these factors begin to emerge as a vital vortex of force, receiving, distributing and under order—that order being the directed focussed will of the many Ashrams within the one Ashram. In those Ashrams, groups of disciples are working, blindly and ignorantly at first, but with a growing sense of responsibility, of relation and of direction. As they work for the Plan on the physical plane, they carry with them to the Ashram the registered sense and the acute realisation of the basic changes in the human consciousness which are the immediate results of world affairs; from their reaction, from the quality of their recognition of immediate need, and from their efforts to present the truth in terms of the “newest mind”—as it is occultly called—the Master in the Ashram can change His techniques, use new ideas upon receptive minds, and thus keep pace with the rapidly developing humanity with which He has to deal. |
Khái niệm phụng sự được Thánh Đoàn thực hiện luôn hiện diện. Con đường dẫn đến sự thay đổi thế giới cũng được đưa ra. Thánh Đoàn như một nơi gặp gỡ của các năng lượng được nhấn mạnh và — trong tâm thức của đệ tử — những yếu tố này bắt đầu nổi lên như một vòng xoáy mãnh lực quan trọng, tiếp nhận, phân phối và theo trật tự — trật tự đó là ý chí tập trung được chỉ đạo của nhiều ashram trong Ashram Duy Nhất. Trong những ashram đó, các nhóm đệ tử đang làm việc, lúc đầu còn mù quáng và thiếu hiểu biết, nhưng với ý thức ngày càng tăng về trách nhiệm, về mối quan hệ và về sự chỉ đạo. Khi họ làm việc cho Thiên Cơ trên cõi vật chất, họ mang theo họ đến ashram ý thức đã được ghi nhận và nhận thức sâu sắc về những thay đổi cơ bản trong tâm thức con người, là kết quả trực tiếp của các vấn đề thế giới; từ phản ứng của họ, từ tính chất nhận thức của họ về nhu cầu trước mắt, và từ những nỗ lực của họ để trình bày sự thật theo quan điểm của “tâm trí mới nhất” — như cách gọi huyền bí — Chân Sư trong ashram có thể thay đổi kỹ thuật của Ngài, sử dụng những ý tưởng mới trên những tâm trí tiếp thu, và do đó theo kịp sự phát triển nhanh chóng của nhân loại mà Ngài phải đối phó. |
|
One of the ideas which a disciple should learn from his reflection upon this problem is that he is already a part of the Hierarchy whilst at the same time he is a part of struggling, unhappy humanity. Therefore, he is not alone or isolated; he is a part of the Hierarchy because he has “entered with his group”; this is a fact, even if he fails to comprehend the full implications of that phrase. At the same time, he learns that only in so far as he has developed group consciousness and is beginning to function as “one absorbed within the group” can he truly pass into a closer and more [359] vitally contributory relation to the Ashram to which he belongs. |
Một trong những ý tưởng mà một đệ tử nên học từ sự suy ngẫm của mình về vấn đề này là y đã là một phần của Thánh Đoàn trong khi đồng thời y là một phần của nhân loại đang đấu tranh và bất hạnh. Vì vậy, y không cô đơn hoặc cô lập; y là một phần của Thánh Đoàn vì y đã “tiến vào cùng với nhóm của mình”; đây là một sự thật, ngay cả khi y không hiểu đầy đủ ý nghĩa của cụm từ đó. Đồng thời, y học rằng chỉ khi nào y đã phát triển tâm thức nhóm và bắt đầu hoạt động như “một người hòa mình trong nhóm” y mới thực sự có thể bước vào mối quan hệ gần gũi và đóng góp mạnh mẽ hơn với Ashram mà y thuộc về. |
|
Hint Two. “Human planning today is one of the first indications of the emergence of the Will aspect.” |
Gợi Ý Thứ Hai. “Việc lập kế hoạch của con người ngày nay là một trong những dấu hiệu đầu tiên của sự xuất hiện của khía cạnh Ý chí.“ |
|
So this second hint runs. This sounds relatively simple and to be a rather trite statement, and that is because it gives in reality only a general idea and synopsis of the ancient formula. These formulas, which reach the candidate for initiation as hints, are fundamentally in the nature of instructions to the Master, and provide in their entirety a sequence of teaching and of progressive unfoldment of truth. This fact emerges more clearly in the original wording, as nearly as I can translate it for you, or rather, transfer into words what were originally word symbols or ideographs: |
Gợi ý thứ hai này được diễn đạt như thế. Điều này nghe có vẻ tương đối đơn giản và là một tuyên bố khá tầm thường, và đó bởi vì nó thực sự chỉ đưa ra một ý tưởng chung và tóm tắt về công thức cổ xưa. Những công thức này, khi đến với ứng viên điểm đạo dưới dạng gợi ý, về cơ bản là các chỉ dẫn cho Chân sư, và trong toàn bộ, chúng cung cấp một chuỗi giảng dạy và sự mở rộng dần của chân lý. Sự thật này trở nên rõ ràng hơn trong cách diễn đạt nguyên bản, gần như tôi có thể dịch cho bạn, hay đúng hơn, chuyển thành lời những gì ban đầu là các biểu tượng hoặc chữ tượng hình: |
|
“When the stream of direction is noted by the one who seeks the inner side, then let the Master indicate the pattern and then await results. This may take time. Results come not through the action of but one; they appear when the many respond on Earth to that which comes from the higher Centre through the One. This they do blindly, when at stage the first; later they move with care and right direction. Thus affairs are changed on Earth.” |
“Khi dòng chảy của định hướng được nhận biết bởi người tìm kiếm phía bên trong, thì hãy để Chân sư chỉ ra mẫu hình và sau đó chờ đợi kết quả. Điều này có thể mất thời gian. Kết quả không đến thông qua hành động của chỉ một người; chúng xuất hiện khi nhiều người trên Trái đất phản ứng với những gì đến từ Trung tâm cao hơn thông qua Đấng Duy Nhất. Ở giai đoạn đầu tiên, họ làm điều này một cách mù quáng; sau đó họ di chuyển một cách cẩn thận và đúng hướng. Như vậy, các công việc trên Trái đất được thay đổi”. |
|
To the aspirant, the statement re planning fixes his attention upon the physical plane; he then begins to see what are termed “indications of direction”; he sees them in terms of humanity’s immediate purpose and becomes aware of the tiny part which he can play by cooperation with this planning—or, perhaps, by repudiating it. Decision in both cases is dependent upon his background, training, circumstances and prejudices, plus his ability to make choices. This is as far as he can go, and he usually is quite satisfied with the part he has played in the various processes, and regards his choices and decisions as aspects of his mental determination. |
Đối với người chí nguyện, tuyên bố về việc lập kế hoạch thu hút sự chú ý của y đến cõi vật lý; sau đó y bắt đầu thấy những gì được gọi là “dấu hiệu của định hướng”; y thấy chúng theo mục đích trước mắt của nhân loại và nhận thức được phần nhỏ mà y có thể đóng góp bằng cách hợp tác với kế hoạch này—hoặc, có lẽ, bằng cách từ chối nó. Quyết định trong cả hai trường hợp đều phụ thuộc vào nền tảng, đào tạo, hoàn cảnh và định kiến của y, cùng với khả năng đưa ra lựa chọn. Đó là giới hạn mà y có thể đạt đến, và y thường khá hài lòng với vai trò mà mình đã đóng trong các quá trình khác nhau, và coi các lựa chọn và quyết định của mình như các khía cạnh của sự quyết tâm trí tuệ của mình. |
|
But in reality he is at fault, and the case as he visions it [360] is not so. He must learn to function entirely differently. This hint is not concerned with a part which an aspirant must play as an individual, nor does it include the factor of mental appreciation of the qualities of his own nature. Where the true disciple is concerned, three things are involved and condition his whole approach to this problem of human planning: |
Nhưng thực sự y đang sai lầm, và trường hợp như y hình dung không phải như vậy. Y phải học cách hoạt động hoàn toàn khác. Gợi ý này không liên quan đến phần mà một người chí nguyện phải đóng vai trò như một cá nhân, cũng không bao gồm yếu tố đánh giá trí tuệ về các phẩm chất của bản thân. Đối với người đệ tử thực sự, ba điều liên quan và điều kiện hóa toàn bộ cách tiếp cận của y với vấn đề lập kế hoạch của con người: |
|
1. Its relation to the Plan, as it has been communicated to him within the precincts of the Ashram. |
1. Mối quan hệ của nó với Thiên Cơ, như đã được truyền đạt cho y trong phạm vi của Ashram. |
|
2. His ability to use a measure of the true divine Will as it pours through the Ashram from Shamballa for the implementation of the Plan, and as constituting its directing agent. |
2. Khả năng của y sử dụng một phần của Ý chí thiêng liêng thực sự khi nó tuôn chảy qua Ashram từ Shamballa để thực hiện Thiên Cơ, và như là yếu tố chỉ đạo của nó. |
|
3. The sequence of the planning as it materialises on Earth in relation to the time factor. Three things emerge in his thinking at this time: |
3. Trình tự của việc lập kế hoạch khi nó hiện thực hóa trên Trái Đất trong mối quan hệ với yếu tố thời gian. Ba điều xuất hiện trong suy nghĩ của y vào thời điểm này: |
|
a. The immediate steps to be taken in order to carry the Plan forward, logically, practically and with the least expenditure of the destroying aspect of the will. |
a. Các bước ngay lập tức cần được thực hiện để tiến hành Thiên Cơ, một cách hợp lý, thực tế và với ít tiêu hao nhất khía cạnh phá hủy của ý chí. |
|
b. The probable duration of the cycle in which the Plan can progress from its inception until its fulfilment. |
b. Thời gian có thể của chu kỳ trong đó Thiên Cơ có thể tiến triển từ sự khởi đầu cho đến khi hoàn thành. |
|
c. An appreciation of the unfolding pattern of which the material planning is an expression. He needs to discover how far human planning conforms to that pattern. He must sense where nonconformity originates and what steps—as far as his particular point in evolution permits—the Ashram should take to offset the distortion of the Plan. Only in this way will he learn himself to plan. |
c. Đánh giá về mô hình đang phát triển mà việc lập kế hoạch vật chất là một biểu hiện. Y cần khám phá mức độ việc lập kế hoạch của con người tuân theo mô hình đó. Y phải cảm nhận nơi xuất phát của sự không tuân thủ và những bước nào—tùy theo điểm tiến hóa cụ thể của mình—Ashram nên thực hiện để hóa giải sự lệch lạc của Thiên Cơ. Chỉ bằng cách này y mới học được cách lập kế hoạch. |
|
You can see from the above what a different approach is here involved when a disciple deals with a hint, how wide are the vistas which are opened up, how subjective his predominating attitude must be, and how inevitably the group relationship to the planning becomes apparent and important to him as an individual as well as to the group as a whole. [361] |
Bạn có thể thấy từ điều trên cách tiếp cận khác biệt khi một đệ tử xử lý một gợi ý, tầm nhìn rộng lớn được mở ra như thế nào, thái độ nội tại của y phải chiếm ưu thế ra sao, và mối quan hệ nhóm với việc lập kế hoạch trở nên rõ ràng và quan trọng đối với y như một cá nhân cũng như đối với nhóm như một tổng thể. |
|
It is for this reason that disciples in an Ashram are of no political persuasion and own to no nationalistic bias. This is not an easy thing for them to achieve at once, but the group consciousness gradually assumes control, and with it the disciple’s ability to think and work with the group in terms of the Plan. He grasps eventually that in relation to humanity, the planning of the Hierarchy falls into certain definite phases of activity—all of them related and all of them tending towards the externalisation of the Plan in any particular century, cycle or world period. These phases are: |
Chính vì lý do này mà các đệ tử trong một Ashram không có khuynh hướng chính trị và không có thành kiến dân tộc chủ nghĩa. Đây không phải là điều dễ dàng mà họ có thể đạt được ngay lập tức, nhưng tâm thức nhóm dần dần nắm quyền kiểm soát, và cùng với đó là khả năng của đệ tử suy nghĩ và làm việc với nhóm theo Thiên Cơ. Cuối cùng, y nhận ra rằng liên quan đến nhân loại, việc lập kế hoạch của Thánh Đoàn rơi vào các giai đoạn hoạt động nhất định—tất cả đều có liên quan và tất cả đều hướng tới việc ngoại hiện hóa Thiên Cơ trong bất kỳ thế kỷ, chu kỳ hoặc thời kỳ thế giới nào. Các giai đoạn này là: |
|
1. The phase of Purpose, originating in Shamballa and registered by the senior Members of the Hierarchy. |
1. Giai đoạn Mục Đích, bắt nguồn từ Shamballa và được ghi nhận bởi các Thành Viên cao cấp của Thánh Đoàn. |
|
2. The stage of hierarchical Planning. This is the formulation of the Purpose in terms of possibility, immediacy, appropriateness and the availability of the disciples, plus the energies to implement the Plan. |
2. Giai đoạn Lập Kế Hoạch của Thánh Đoàn. Đây là sự hình thành Mục Đích theo các thuật ngữ của khả năng, tính cấp thiết, tính phù hợp và sự sẵn có của các đệ tử, cộng với các năng lượng để thực hiện Thiên Cơ. |
|
3. Next comes Programme, wherein the Plan is taken up by the particular ashram involved in its implementation and is then reduced to the formative stages of human impression and direction, the conditions necessary to bring about its emergence, and the two phases of this conditioning. These are usually in two parts; i.e., the destruction of all hindrances and the presentation of the Plan. |
3. Tiếp theo là Chương Trình, trong đó Thiên Cơ được tiếp nhận bởi Ashram cụ thể tham gia vào việc thực hiện nó và sau đó được hạ thấp xuống các giai đoạn hình thành của ấn tượng và hướng dẫn nhân loại, các điều kiện cần thiết để mang lại sự xuất hiện của nó, và hai giai đoạn của sự điều kiện hóa này. Chúng thường có hai phần; tức là, sự phá hủy tất cả các chướng ngại vật và việc thể hiện Thiên Cơ. |
|
4. The emergence of the hierarchical Pattern (based upon the recognition of purpose, careful planning and a detailed and carefully thought-out programme), both in the minds of the disciples in the Ashram who are involved in the implementation of the Plan, and among the intelligentsia on Earth. These two groups have the task—the first group consciously and the other unconsciously—of bringing the pattern of things to be into the mass consciousness, by no means an easy task, as the present state of world affairs demonstrates. |
4. Sự xuất hiện của Mô Hình của Thánh Đoàn (dựa trên sự công nhận mục đích, lập kế hoạch cẩn thận và một chương trình chi tiết và được suy nghĩ cẩn thận), cả trong tâm trí của các đệ tử trong Ashram tham gia vào việc thực hiện Thiên Cơ và trong số các nhà trí thức trên Trái Đất. Hai nhóm này có nhiệm vụ—nhóm đầu tiên có ý thức và nhóm thứ hai vô thức—đưa mô hình của những điều sẽ thành hiện thực vào tâm thức đại chúng, một nhiệm vụ không dễ dàng, như tình trạng hiện tại của thế giới cho thấy. |
|
5. Then comes the final phase of Precipitation, when all the subjective work has been done on the basis of possibility, and when the pattern and a part of the programme are recognised by the world thinkers in every nation, either [362] favourably or with antagonism. The planning, having reached this final stage, then proceeds under its own momentum. |
5. Sau đó đến giai đoạn cuối cùng là Sự Ngưng Tụ, khi tất cả công việc bên trong đã được thực hiện dựa trên khả năng, và khi mô hình và một phần của chương trình được các nhà tư tưởng trên thế giới ở mỗi quốc gia nhận biết, hoặc một cách thuận lợi hoặc với sự đối kháng. Việc lập kế hoạch, khi đã đạt đến giai đoạn cuối cùng này, tiếp tục theo đà của chính nó. |
|
These are some of the ideas which lie behind the particular hint which I have given to you, as far as the disciple is concerned. According to his development and his point in evolution, so will be his emphasis; some disciples can aid the Master in the planning process because they are becoming sensitive to impression by Shamballa; others are engrossed in the formulation of the programme and in imparting some of its features to more limited disciples, thus setting them to work. A group of carefully chosen disciples are always held in the Hierarchy to work solely with the pattern; this is a most important phase of the work, requiring a spirit of synthesis and an ability to hold streams of hierarchical energy under control. Disciples who are not so advanced, and who are therefore closer to human thinking at the particular moment in history, undertake to supervise the precipitation of the Plan. Their work is necessarily far more exoteric, but is most responsible, because it is when the Plan has reached the stage of human implementation that error is apt to arise and mistakes can occur. |
Đây là một số ý tưởng nằm sau gợi ý cụ thể mà tôi đã đưa cho các bạn, liên quan đến người đệ tử. Theo sự phát triển và điểm tiến hóa của y, sự nhấn mạnh của y sẽ như vậy; một số đệ tử có thể giúp Chân Sư trong quá trình lập kế hoạch vì họ đang trở nên nhạy cảm với ấn tượng từ Shamballa; những người khác bận rộn với việc hình thành chương trình và truyền đạt một số tính năng của nó cho những đệ tử hạn chế hơn, do đó đặt họ vào công việc. Một nhóm đệ tử được chọn cẩn thận luôn được giữ trong Thánh Đoàn để làm việc duy nhất với mô hình; đây là một giai đoạn quan trọng nhất của công việc, đòi hỏi tinh thần tổng hợp và khả năng kiểm soát các dòng năng lượng của Thánh Đoàn. Những đệ tử không tiến xa như vậy, và do đó gần gũi hơn với tư duy con người vào thời điểm lịch sử cụ thể, đảm nhận giám sát sự ngưng tụ của Thiên Cơ. Công việc của họ nhất thiết phải mang tính ngoại môn nhiều hơn, nhưng lại rất quan trọng, bởi vì khi Thiên Cơ đã đạt đến giai đoạn thực thi của con người, lỗi lầm dễ phát sinh và sai sót có thể xảy ra.. |
|
In every ashram are to be found those disciples whose task it is to make the needed readjustments of the pattern and the demanded changes in the programme as the process of precipitation goes forward. It is a law that human freedom may not be infringed. The staging of the Plan and its working out is, in the last analysis, an entirely human affair, once it has reached the stage of precipitation. It is dependent upon the responsiveness of human brains, and their recognition of need and its sources. This is a point which should be remembered. |
Trong mỗi ashram đều có những đệ tử mà nhiệm vụ của họ là thực hiện các điều chỉnh cần thiết của mẫu hình và các thay đổi được yêu cầu trong chương trình khi quá trình ngưng tụ tiếp tục tiến triển. Có một định luật rằng sự tự do của con người không được vi phạm. Việc dàn dựng Thiên Cơ và thực hiện nó, cuối cùng, hoàn toàn là công việc của con người, khi nó đã đạt đến giai đoạn ngưng tụ. Nó phụ thuộc vào sự nhạy bén của bộ não con người, và sự nhận biết của họ về nhu cầu và các nguồn gốc của nó. Đây là một điểm cần được ghi nhớ. |
|
The above short explanation of the implications of a hint, and particularly of Hint Two should show you how rich is the area or the atmosphere of a hint—if I may use such peculiar phrasing; it will show you also how hints are largely concerned with ashramic duty. [363] |
Giải thích ngắn gọn trên về những ngụ ý của một gợi ý, và đặc biệt là Gợi ý Hai, nên cho bạn thấy khu vực hoặc bầu không khí của một gợi ý phong phú như thế nào—nếu tôi có thể sử dụng cách diễn đạt kỳ lạ như vậy; nó cũng sẽ cho bạn thấy rằng các gợi ý phần lớn liên quan đến nhiệm vụ của ashram. |
|
THE FORMULAS |
CÁC CÔNG THỨC |
|
All that I have done hitherto in connection with the presented formulas has been to give you five of them and to indicate the nature of the sixth, which is not to be given. It is all that I can at this time do. I would, however, like to summarise here what I have already given, because of the major importance of the theme. |
Tất cả những gì tôi đã làm cho đến nay liên quan đến các công thức đã được trình bày là cung cấp cho các bạn năm công thức và chỉ ra bản chất của công thức thứ sáu, công thức này sẽ không được tiết lộ. Đó là tất cả những gì tôi có thể làm vào thời điểm này. Tuy nhiên, tôi muốn tóm tắt ở đây những gì tôi đã đưa ra, vì chủ đề này có tầm quan trọng lớn. |
|
I gave you certain definitions of a formula which it is necessary to repeat. They are not many, but they indicate a phase of hierarchical working and of training in a certain definite esoteric technique which is essential for every worker in an Ashram to grasp. This, therefore, concerns you. |
Tôi đã đưa ra một số định nghĩa về một công thức mà cần thiết phải nhắc lại. Chúng không nhiều, nhưng chúng chỉ ra một giai đoạn của công việc và đào tạo trong một kỹ thuật huyền bí nhất định mà mỗi người làm việc trong một Ashram phải nắm bắt. Do đó, điều này liên quan đến các bạn. |
|
I also covered their description and significance in two ways: the first concerned their application to the disciple and to his ashramic life and service, and the second had reference to the more universal and general meaning. We can therefore sum up what has been given in a threefold manner and provide a closely integrated yet widely useful approach to these fundamental formulas. I am thus provided with the background of what I feel the need of saying to you on these formulas: |
Tôi cũng đã trình bày mô tả và ý nghĩa của chúng theo hai cách: cách thứ nhất liên quan đến việc áp dụng chúng cho đệ tử và cuộc sống và phụng sự của y trong ashram, và cách thứ hai liên quan đến ý nghĩa phổ quát và tổng quát hơn. Do đó, chúng ta có thể tóm tắt những gì đã được trình bày theo ba cách và cung cấp một cách tiếp cận tích hợp chặt chẽ nhưng hữu ích rộng rãi cho các công thức cơ bản này. Tôi có được nền tảng để nói với bạn những điều tôi cảm thấy cần thiết về các công thức này: |
|
I. The Formulas Defined. |
I. Định Nghĩa Các Công Thức. |
|
1. They are second ray presentations of soul ideas. Essentially, they are geometrical forms, lying behind all exoteric manifestations; even when presented as words or phrases they are susceptible of being reduced to definite forms. They are building patterns. |
1. Chúng là những trình bày của cung hai về các ý tưởng của linh hồn. Về cơ bản, chúng là các hình thức hình học, nằm sau tất cả các biểu hiện ngoại môn; ngay cả khi được trình bày dưới dạng từ ngữ hoặc cụm từ, chúng cũng có thể được giảm xuống thành các hình thức xác định. Chúng là những kiểu mẫu xây dựng. |
|
2. They express significance and intention. To the disciple and the initiate who employs them correctly and with understanding, they indicate energy direction as a definite part of the creative work which emanates constantly from the world of souls, from the Kingdom of God and from the Hierarchy. They are rightly oriented energy patterns. |
2. Chúng biểu hiện thâm nghĩa và ý định. Đối với đệ tử và điểm đạo đồ sử dụng chúng một cách đúng đắn và với sự hiểu biết, chúng chỉ ra định hướng năng lượng như một phần xác định của công việc sáng tạo liên tục phát xuất từ thế giới của các linh hồn, từ Thiên Giới và từ Huyền Giai. Chúng là những kiểu mẫu năng lượng được định hướng đúng đắn. |
|
3. They are related to the world of meaning and are the esoteric symbols to be found behind all exoteric [364] forms. They veil that which is in process of being revealed. They are revealing patterns. |
3. Chúng liên quan đến thế giới của ý nghĩa và là các biểu tượng huyền bí được tìm thấy phía sau tất cả các hình tướng bên ngoài. Chúng che giấu những gì đang trong quá trình được tiết lộ. Chúng là các kiểu mẫu đang tiết lộ. |
|
4. They contain or veil the six prerequisites for initiation, and are therefore six in number. They indicate the six relationships or the six intermediate stages of consciousness to be found between initiations. They have unique reference to the pattern of the initiate-consciousness. |
4. Chúng chứa đựng hoặc che giấu sáu điều kiện tiên quyết cho sự điểm đạo, và do đó có số lượng là sáu. Chúng chỉ ra sáu mối quan hệ hoặc sáu giai đoạn trung gian của tâm thức được tìm thấy giữa các lần điểm đạo. Chúng có sự tham chiếu độc đáo đến kiểu mẫu của tâm thức điểm đạo đồ. |
|
5. They are definitely formulas of integration, both universal and individual. They present certain great creative patterns connected with the integration of lesser forms into a greater whole. |
5. Chúng chắc chắn là các công thức của sự tích hợp, cả vũ trụ và cá nhân. Chúng trình bày một số mô hình sáng tạo lớn kết nối việc tích hợp các hình thức nhỏ hơn vào một tổng thể lớn hơn. |
|
6. They are related to the entire process of death. Death—from the angle of the formulas—is the integration of the essential being in all forms with the pattern which produced its exoteric manifestation. They concern the discovery of the pattern. |
6. Chúng liên quan đến toàn bộ quá trình của cái chết. Cái chết—từ góc độ của các công thức—là sự tích hợp của bản chất thiết yếu trong tất cả các hình tướng với kiểu mẫu đã sản sinh ra biểu hiện ngoại môn của nó. Chúng liên quan đến việc khám phá kiểu mẫu. |
|
II. The Formulas from the angle of Discipleship. |
II. Các Công Thức từ góc độ Đệ Tử. |
|
Formula 1 . . . Concerns integration into the Ashram; it concerns the “revelation of group feeling.” It is related to sensitivity and conditions the life of the Ashram. |
1. Công thức 1… Liên quan đến sự tích hợp vào Ashram; nó liên quan đến “sự tiết lộ của cảm giác nhóm.” Nó liên quan đến độ nhạy cảm và điều kiện hóa đời sống của Ashram. |
|
Formula 2 . . . Concerns alignment in the three worlds with the soul. It is related primarily to the higher alignment between the Personality and the Spiritual Triad, via the antahkarana. It conditions the whole spiritual man. |
Công Thức 2… Liên quan đến sự chỉnh hợp trong ba cõi giới với linh hồn. Nó liên quan chủ yếu đến sự chỉnh hợp cao hơn giữa Phàm Ngã và Tam Nguyên Tinh Thần, thông qua antahkarana. Nó điều kiện hóa toàn bộ con người tinh thần. |
|
Formula 3 . . . Concerns the soul and the egoic lotus. It is related to the transfer of soul energy into the antahkarana, producing conscious awareness of time and space in terms of the Eternal Now. Right interpretation of this formula gives insight into the past and into the Law of Cause and Effect; it also gives intelligent appreciation of present opportunity as well as an intuitive perception of [365] the future possibilities which confront the Hierarchy. |
Công Thức 3… Liên quan đến linh hồn và hoa sen Chân Ngã. Nó liên quan đến việc chuyển năng lượng linh hồn vào antahkarana, tạo ra nhận thức có ý thức về thời gian và không gian theo nghĩa của Hiện Tại Vĩnh Cửu. Diễn giải đúng công thức này mang lại cái nhìn sâu sắc về quá khứ và về Định Luật Nhân Quả; nó cũng mang lại sự đánh giá cao về mặt trí tuệ đối với cơ hội hiện tại cũng như nhận thức trực giác về [365] những khả năng trong tương lai mà Thánh Đoàn phải đối mặt. |
|
Formula 4 . . . Concerns dynamic energy and is the basis of the true Laya-Yoga; this yoga deals ever with the point within the circle and its relation to other points which condition the evolutionary process. |
Công Thức 4… Liên quan đến năng lượng động và là cơ sở của Laya-Yoga thực sự; yoga này luôn luôn đề cập đến điểm trong vòng tròn và mối quan hệ của nó với các điểm khác điều kiện hóa quá trình tiến hóa. |
|
Formula 5 . . . Concerns the Will and is related to divine purpose. It conditions the establishing of all correct relationships. |
Công Thức 5… Liên quan đến Ý Chí và liên quan đến mục đích thiêng liêng. Nó điều kiện hóa việc thiết lập tất cả các mối quan hệ đúng đắn. |
|
Formula 6 . . . Concerns the processes of death which have a most definite effect upon already established relationships. It concerns life-transference and has relation to the presentation of opportunity. |
Công Thức 6… Liên quan đến các quá trình của cái chết có ảnh hưởng rõ rệt nhất đến các mối quan hệ đã được thiết lập. Nó liên quan đến sự chuyển hóa sự sống và có liên quan đến việc trình bày cơ hội. |
|
III. The Formulas from the universal creative Aspect. |
III. Các Công Thức từ Khía Cạnh sáng tạo vũ trụ. |
|
Formula 1 . . . The transition from darkness to Light. Creation in the Light. |
1. Công thức 1… Sự chuyển tiếp từ bóng tối sang Ánh Sáng. Sáng tạo trong Ánh Sáng. |
|
Formula 2 . . . Transition from the unreal to the Real. The nature of reality. Creation in time and space as understood in the three worlds. |
2. Công thức 2… Sự chuyển tiếp từ không thực đến Thực. Bản chất của thực tại. Sáng tạo trong thời gian và không gian như được hiểu trong ba cõi. |
|
Formula 3 . . . Transition from death to Immortality. The nature of Life. The creative process and life energy. |
3. Công thức 3… Sự chuyển tiếp từ cái chết đến Bất Tử. Bản chất của Sự Sống. Quá trình sáng tạo và năng lượng sự sống. |
|
Formula 4 . . . Transition from chaos to ordered Beauty. Relation of the world of effects and the world of meaning. Then relation to the world of causes. The nature of karma. Progressive evolutionary creation. |
4. Công thức 4… Sự chuyển tiếp từ hỗn loạn đến vẻ đẹp có trật tự. Mối quan hệ của thế giới của các hiệu ứng và thế giới của ý nghĩa. Sau đó là mối quan hệ với thế giới của nguyên nhân. Bản chất của nghiệp quả. Sự sáng tạo tiến hóa dần dần. |
|
Formula 5 . . . Transition from the individual consciousness to the universal. Evolutionary processes from divine Purpose into plan and then into manifestation. The nature of individual renunciation. The one Life. |
5. Công thức 5… Sự chuyển tiếp từ tâm thức cá nhân sang tâm thức phổ quát. Các quá trình tiến hóa từ Mục đích thiêng liêng vào Thiên Cơ và sau đó vào biểu hiện. Bản chất của sự từ bỏ cá nhân. Sự Sống Duy Nhất. |
|
Formula 6 . . . Transition from cyclic living into life itself. The Purpose of cycles. Control of time-space consciousness. [366] |
6. Công thức 6… Sự chuyển tiếp từ cuộc sống theo chu kỳ vào chính sự sống. Mục Đích của các chu kỳ. Kiểm soát tâm thức thời gian-không gian. [366] |
|
Two major ideas emerge from a careful study of these three tabulations: Pattern and Transition. It is upon these two that I would ask you to reflect constantly. In past years, I have frequently called your attention to the necessity of a vital and active programme, formulated by you and self-initiated by you, and therefore, in these tabulations, you have much that can throw light upon that necessity and upon the lines along which the programme should go; you must remember ever that the programme of a disciple and of an ordinary aspirant are not in any way identical. |
Hai ý tưởng chính nổi lên từ một nghiên cứu cẩn thận về ba bảng liệt kê này: Khuôn Mẫu và Chuyển Tiếp. Tôi muốn yêu cầu các bạn liên tục suy ngẫm về hai điều này. Trong những năm qua, tôi thường xuyên kêu gọi các bạn chú ý đến sự cần thiết của một chương trình quan trọng và tích cực, do các bạn xây dựng và tự khởi xướng, và do đó, trong những bảng liệt kê này, các bạn có nhiều điều có thể soi sáng về sự cần thiết đó và về các đường hướng mà chương trình nên đi; các bạn phải luôn nhớ rằng chương trình của một đệ tử và của một người chí nguyện bình thường không giống nhau theo bất kỳ cách nào. |
|
Programme will—if followed with spiritual exactitude—reveal your soul-intended life pattern and this will be an expression of a life purpose. This summation of a disciple’s life is also the summation of the life of the Lord of the World, Whose self-initiated programme, implemented by evolutionary energy and steadily revealing the “pattern of things to come” is increasingly known as an expression of the divine initial purpose. |
Chương trình—nếu được tuân thủ một cách chính xác về mặt tinh thần— sẽ tiết lộ khuôn mẫu cuộc sống mà linh hồn của các bạn mong muốn và điều này sẽ là biểu hiện của một mục đích sống. Sự tổng hợp cuộc sống của một đệ tử cũng là sự tổng hợp cuộc sống của Đấng Chúa Tể Thế Giới, mà chương trình tự khởi xướng của Ngài, được thực hiện bởi năng lượng tiến hóa và đều đặn tiết lộ “khuôn mẫu của những điều sắp đến” ngày càng được biết đến như một biểu hiện của mục đích ban đầu thiêng liêng. |
|
The section upon formulas is perhaps the most exacting in the series of instructions I am now giving you, for it involves creative thinking, intuitive insight, and the use of the spiritual will; these three activities are relatively new to the aspirant and present as yet great difficulties. These you will have to think out for yourselves, and thus acquire the training which will enable you to see life in the process of producing great formulas of living which, in their turn, will produce the essential creative patterns. |
Phần về các công thức có lẽ là phần đòi hỏi khắt khe nhất trong loạt hướng dẫn mà tôi hiện đang đưa cho bạn, vì nó liên quan đến tư duy sáng tạo, sự thấu hiểu trực giác và việc sử dụng ý chí tinh thần; ba hoạt động này tương đối mới đối với người chí nguyện và hiện tại còn gây nhiều khó khăn. Bạn sẽ phải tự suy nghĩ về những điều này, và qua đó có được sự huấn luyện giúp bạn thấy cuộc sống trong quá trình tạo ra những công thức sống vĩ đại, mà đến lượt nó sẽ tạo ra các khuôn mẫu sáng tạo thiết yếu. |
|
There is nothing more that I need to say on this subject. Later teaching on the matter will be available next century. I have already given you more than you can understand, but not more than you can begin slowly to study and eventually to comprehend by direct programme-forming in your own life, and making it at the same time an essential part of the programme of the Ashram with which you find yourself affiliated. This you will have to do through self-devised formulas, thus producing a life-pattern which will be indicative to the watching Masters as to the point in evolution attained by the disciples. [367] |
Không có gì thêm mà tôi cần nói về chủ đề này. Những giáo lý tiếp theo về vấn đề này sẽ có sẵn vào thế kỷ tới. Tôi đã đưa cho bạn nhiều hơn những gì bạn có thể hiểu, nhưng không nhiều hơn những gì bạn có thể bắt đầu từ từ nghiên cứu và cuối cùng hiểu được thông qua việc hình thành chương trình trực tiếp trong cuộc sống của chính bạn, đồng thời làm cho nó trở thành một phần thiết yếu của chương trình của Ashram mà bạn thấy mình liên kết. Bạn sẽ phải làm điều này thông qua các công thức tự tạo, do đó tạo ra một mô hình cuộc sống sẽ chỉ ra cho các Chân sư quan sát về điểm tiến hóa mà các đệ tử đã đạt được. [367] |
|
POINTS OF REVELATION |
NHỮNG ĐIỂM MẶC KHẢI |
|
It might here be noted by you, as we consider this entire subject of revelation from the angle of the initiate, that (in the initiatory process where the disciple is concerned) revelation is simply one way of expressing the constantly recurring effects of pressure forward and of vision. Throughout the entire evolutionary process there is essentially nothing but a growing revelation. The two terms, Evolution and Revelation, go together. Any distinction lies within the field of revelation or—to word it otherwise—within the various planes of consciousness, and particularly that in which the revelation is taking place. Earlier I said that “the next sequential revelation will be that of creativity, of the world of thoughtforms which humanity as a whole has created and the setting in motion—by humanity and in relation to its own destiny—of the Law of Cause and Effect or Karma. This will take us back into the very night of time and demonstrate the hope of the present era.” |
Ở đây, bạn có thể lưu ý rằng khi chúng ta xem xét toàn bộ chủ đề về sự mặc khải từ góc độ của điểm đạo đồ, rằng (trong quá trình điểm đạo liên quan đến đệ tử) sự mặc khải đơn giản là một cách để biểu hiện các hiệu ứng tái diễn liên tục của áp lực tiến lên và của tầm nhìn. Trong suốt toàn bộ quá trình tiến hóa, về cơ bản không có gì ngoài một sự mặc khải ngày càng tăng. Hai thuật ngữ, Tiến hóa và Mặc khải, đi cùng nhau. Mọi sự phân biệt nằm trong lĩnh vực mặc khải, hoặc nói cách khác, trong các cõi tâm thức khác nhau, và đặc biệt là nơi mà sự mặc khải đang diễn ra. Trước đây, tôi đã nói rằng “sự mặc khải tiếp theo theo trình tự sẽ là sự sáng tạo, thế giới của những hình tư tưởng mà nhân loại nói chung đã tạo ra và việc thiết lập chuyển động—bởi nhân loại và liên quan đến vận mệnh của mình—của Luật Nhân Quả hay Nghiệp Quả. Điều này sẽ đưa chúng ta trở lại đêm tối của thời gian và chứng minh hy vọng của kỷ nguyên hiện tại.” |
|
Revelation is both formless and also within form, and the closer to realisation, the more subtle and devoid of form will be the revelation. This is, of course, a platitude of which you are well aware but it needs renewed recognition. Again, there is necessarily, in revelation, always the concept of Light and that which it reveals. Light on the physical plane produces the organ of vision, the eye through which revelation of physical areas of consciousness becomes possible; the same theme of light runs through the analogous process by means of synchronising instruments upon all planes; nevertheless the physical concept of instrument falls increasingly into the background, and other words take its place as we deal with higher areas of consciousness: Recognising Perception. Interpreting Perception. Spiritual Perception. Decisive Perception. These terms will suffice to convey to the disciple the nature of the recognitions which he renders to the revelation that unfolds before him, once he is an initiate within the Ashram and is changing his apparatus of perception from the tangible one of the three worlds (tangible because [368] within the world of forms) to the higher correspondences which he must use in the future. |
Sự mặc khải vừa không có hình thức vừa nằm trong hình thức, và càng tiến gần đến sự nhận thức, sự mặc khải càng tinh tế và không có hình thức. Đây là một điều hiển nhiên mà bạn đã biết rõ nhưng cần được nhận thức lại. Một lần nữa, trong sự mặc khải, luôn có khái niệm về Ánh sáng và những gì nó tiết lộ. Ánh sáng trên cõi vật lý tạo ra cơ quan của thị giác, con mắt thông qua đó sự mặc khải về các khu vực của tâm thức vật lý trở nên khả thi; cùng chủ đề ánh sáng này diễn ra qua quá trình tương tự bằng các công cụ đồng bộ trên tất cả các cõi; tuy nhiên, khái niệm về công cụ vật lý ngày càng mờ dần vào hậu cảnh, và các từ khác thay thế nó khi chúng ta xử lý các khu vực tâm thức cao hơn: Nhận thức Nhận diện. Nhận thức Diễn giải. Nhận thức Tinh thần. Nhận thức Quyết đoán. Những thuật ngữ này sẽ đủ để truyền đạt cho đệ tử bản chất của những nhận thức mà y thực hiện đối với sự mặc khải mở ra trước mắt y, một khi y là một điểm đạo đồ trong Ashram và đang thay đổi cơ quan nhận thức của mình từ cơ quan hữu hình của ba cõi (hữu hình vì nằm trong thế giới hình tướng) sang những sự tương ứng cao hơn mà y phải sử dụng trong tương lai. |
|
It is at the sixth Initiation of Decision that Perception and Recognition of the revelation reach their heights for the initiate. After this, the subtler correspondences to the tangible senses of taste and smell begin definitely to demonstrate, but with them we shall not deal, for they are effects of revelation so far removed from the possible achievement of the majority of the Masters that they concern us not; they are more properly related to the unfolding consciousness of Those Who function in the Council Chamber of Shamballa. Human evolution or the human evolutionary process is entirely concentrated around the sense of sight, with its consequent effects and results of vision, recognition and perception—all of them constituting what we mean when we speak of revelation. |
Chính tại Lần Điểm Đạo Quyết Định Thứ Sáu mà Nhận Thức và Nhận Biết về mặc khải đạt đến đỉnh cao của chúng đối với điểm đạo đồ. Sau đó, những tương đồng tinh tế hơn với các giác quan hữu hình, vị giác và khứu giác, bắt đầu được thể hiện rõ ràng, nhưng chúng ta sẽ không đề cập đến chúng, vì chúng là kết quả của mặc khải xa đến mức không thể đạt được đối với đa số các Chân Sư đến nỗi chúng ta không quan tâm đến; chúng liên quan chặt chẽ hơn đến sự phát triển của tâm thức của Những Đấng hoạt động trong Phòng Hội đồng của Shamballa. Tiến hóa của con người hoặc quá trình tiến hóa của con người hoàn toàn tập trung vào giác quan thị giác, với các hiệu ứng và kết quả hệ quả của nó là tầm nhìn, nhận thức và sự thấu hiểu—tất cả đều tạo thành những gì chúng ta muốn nói khi chúng ta đề cập đến sự mặc khải. |
|
This revelation can be—as I said—either in form or formless; it can be a pictorial symbol or a subtle demonstration; it can be expressed only in words, or it can take the form of wordless recognition; it can be a goal or a future sensed possibility, but it can also be an incentive and the dynamic impulse of the initiate’s life because it is not distant but is a real aspect of his divine equipment—I know not how else to express these possibilities to you, my brothers. It is with these aspects of revelation that we are here dealing, because they are strictly aspirational developments and are available as a result of ashramic training and of hierarchical initiation. |
Như tôi đã nói, sự mặc khải này có thể là hữu hình hoặc vô hình; nó có thể là một biểu tượng hình ảnh hoặc một sự biểu hiện tinh tế; nó có thể được diễn đạt chỉ bằng lời nói, hoặc có thể dưới dạng sự nhận thức không lời; nó có thể là một mục tiêu hoặc một khả năng tiềm tàng trong tương lai, nhưng cũng có thể là một động lực và xung lực năng động trong cuộc sống của điểm đạo đồ vì nó không xa xôi mà là một khía cạnh thực tế của trang bị thiêng liêng của y—tôi không biết diễn đạt những khả năng này cho các bạn như thế nào khác, các huynh đệ của tôi. Chính với những khía cạnh của sự mặc khải mà chúng ta đang đề cập đến ở đây, bởi vì chúng là những phát triển theo nguyện vọng và có sẵn như là kết quả của việc huấn luyện trong Ashram và của sự điểm đạo trong Thánh đoàn. |
|
I would remind you that in all that I am giving you in this series of instructions I am dealing with hierarchical initiations and not with those advanced stages of unfoldment which are referred to when the subject of the Christ arises or of those times when He is spoken of as the Teacher of the Angels. Let us keep our thinking and its resultant aspiration in the realm of human possibilities. I would have you note the distinction that can be made between the aspiration which precedes thought and which presupposes an emotional orientation to light and revelation, and that which is the consequence of thought and which is the seed of an oriented perception [369] of that which lies permanently within the consciousness of the Hierarchy. |
Tôi muốn nhắc bạn rằng trong tất cả những gì tôi đang truyền đạt cho bạn trong loạt hướng dẫn này, tôi đang đề cập đến các lần điểm đạo của Huyền Giai chứ không phải những giai đoạn phát triển cao cấp được đề cập khi nói về Đức Christ hoặc những thời điểm Ngài được nói đến như là Huấn Sư của các Thiên Thần. Hãy giữ suy nghĩ của chúng ta và những nguyện vọng xuất phát từ đó trong lĩnh vực của những khả năng nhân loại. Tôi muốn bạn lưu ý sự khác biệt có thể được tạo ra giữa nguyện vọng đi trước suy nghĩ và giả định một định hướng cảm xúc đối với ánh sáng và sự mặc khải, và nguyện vọng là hệ quả của suy nghĩ và là hạt giống của một nhận thức có định hướng về những gì nằm vĩnh viễn trong tâm thức của Huyền Giai. |
|
As we consider these revelations, I would like to take them up with you from a somewhat new angle; I would ask you to remember that the concept of Light must always be established by you mentally, alongside that of the revelation itself. I would ask you also to remember that I am dealing with revelations which are no longer true revelations, because they have been formulated by the initiates of today and made visible in words. Revelation is therefore, as far as you are concerned, of two kinds: |
Khi chúng ta xem xét những mặc khải này, tôi muốn đưa ra một góc nhìn mới mẻ hơn; tôi muốn các bạn nhớ rằng khái niệm Ánh Sáng phải luôn được thiết lập trong tâm trí các bạn, cùng với chính mặc khải. Tôi cũng muốn các bạn nhớ rằng tôi đang đề cập đến những mặc khải không còn là những mặc khải thực sự, vì chúng đã được các điểm đạo đồ ngày nay hình thành và được biểu đạt bằng từ ngữ. Do đó, mặc khải, đối với các bạn, bao gồm hai loại: |
|
1. Those that have been recognised and perceived in the past and (consequently) have been “reduced to words”—using the phrase in its occult and limiting significance. |
1. Những mặc khải đã được nhận biết và nhận thức trong quá khứ và (do đó) đã được “rút gọn thành từ ngữ” —sử dụng cụm từ theo nghĩa huyền bí và giới hạn của nó. |
|
2. Those that are as yet unrevealed to any except those who have taken the fourth initiation. The three points of revelation (indicated by me) can usefully be related by you to the first three initiations, though they necessarily have an interpretation appropriate to all the initiations. |
2. Những mặc khải chưa được tiết lộ cho bất kỳ ai ngoại trừ những người đã trải qua lần điểm đạo thứ tư. Ba điểm mặc khải (do tôi chỉ ra) có thể hữu ích liên quan đến ba lần điểm đạo đầu tiên, mặc dù chúng nhất thiết phải có một diễn giải phù hợp cho tất cả các lần điểm đạo. |
|
Four Revelation presented |
Bốn Điểm Mặc Khải Được Liệt Kê |
|
Let me express for you here—in their briefest form—the four points of Revelation already indicated, and then “in the Light” let us consider them as suggested earlier. |
Hãy để tôi trình bày cho các bạn—ở dạng ngắn gọn nhất—bốn điểm Mặc Khải đã được chỉ ra, và sau đó “trong Ánh Sáng” chúng ta hãy xem xét chúng như đã gợi ý trước đây. |
|
1. Energy follows thought and the eye directs the energy. |
1. Năng lượng theo sau suy nghĩ và con mắt hướng dẫn năng lượng. |
|
Involves the physical plane. |
– Liên quan đến cõi vật lý. |
|
Relates to the first initiation. |
– Liên quan đến lần điểm đạo thứ nhất. |
|
Concerns the ajna centre and the so-called third eye. |
– Liên quan đến trung tâm ajna và đến cái được gọi là con mắt thứ ba. |
|
2. The will is an expression of the Law of Sacrifice. |
2. Ý chí là biểu hiện của Định Luật Hy Sinh. |
|
Involves the astral plane. |
– Liên quan đến cõi cảm dục. |
|
Relates to the second initiation. |
– Liên quan đến lần điểm đạo thứ hai. |
|
Concerns the heart centre, the “advancing point of Light.” |
– Liên quan đến trung tâm tim, “điểm Tiến Lên của Ánh Sáng.” |
|
3. The Monad is to the planetary Logos what the third eye is to man. [370] |
3. Chân Thần đối với Thượng Đế Hành Tinh giống như con mắt thứ ba đối với con người. |
|
Involves the mental plane. |
– Liên quan đến cõi trí. |
|
Relates to the third initiation. |
– Liên quan đến lần điểm đạo thứ ba. |
|
Concerns the head centre, the light of Purpose. |
– Liên quan đến trung tâm đầu, ánh sáng của Thiên Ý. |
|
4. Purpose itself is only an energy, released within the confines of the Council Chamber. There it must take shape. |
4. Bản thân Thiên Ý chỉ là một năng lượng, được giải phóng trong phạm vi của Hội Đồng. Tại đó nó phải định hình. |
|
Involves the buddhic or intuitional plane. |
– Liên quan đến cõi bồ đề hoặc trực giác. |
|
Relates to the fourth initiation. |
– Liên quan đến lần điểm đạo thứ tư. |
|
Concerns the throat centre. Light upon the Path. |
– Liên quan đến trung tâm cổ họng. Ánh sáng trên Thánh Đạo. |
|
There follows next the fifth revelation, which is as follows: |
Sau đó là mặc khải thứ năm, như sau: |
|
5. When the light of the seven Rays is blended with that of the seventh Ray, then light supernal can be known. |
5. Khi ánh sáng của bảy Cung được pha trộn với ánh sáng của Cung bảy, thì ánh sáng tối thượng có thể được biết đến. |
|
Involves the atmic plane. |
– Liên quan đến cõi Atma. |
|
Relates to the fifth and sixth initiations. |
– Liên quan đến lần điểm đạo thứ năm và thứ sáu. |
|
Concerns the alta major centre. Extra-planetary light. |
– Liên quan đến trung tâm alta major. Ánh sáng ngoài hành tinh. |
|
You will see therefore, brother of mine, how very abstruse these apparently simple statements anent revelation can be. As I have formulated them above, they indicate the revelation in its primary and initiatory individual recognition; the meaning is, however, far greater than appears, and is in reality related to the unfolding purpose of the planetary Logos, involving the planetary Council. All that I have here given you in connection with the seven centres (if brought into relation with all that I have given you in A Treatise on Cosmic Fire) will afford you some general idea of the various planetary significances. This I have personally no time to do, even if it were desirable, but it will be obvious that what I have indicated along the line of correspondences must be true, for the ancient truism “as above, so below” holds eternally good, and it is the task of the Hierarchy to demonstrate this. The relation of the microcosm to the macrocosm can never be broken, and that relationship is deeply involved in these five points of revelation. [371] |
Do đó, huynh đệ của tôi, bạn sẽ thấy những tuyên bố về sự mặc khải này bề ngoài có vẻ đơn giản có thể trở nên khó hiểu như thế nào. Như tôi đã trình bày ở trên, chúng chỉ ra sự mặc khải trong sự nhận biết cá nhân sơ đẳng và điểm đạo; tuy nhiên, ý nghĩa còn lớn hơn nhiều so với những gì xuất hiện, và trên thực tế có liên quan đến mục đích đang bộc lộ của Hành Tinh Thượng Đế, liên quan đến Hội đồng hành tinh. Tất cả những gì tôi đã cung cấp cho bạn ở đây liên quan đến bảy trung tâm (nếu được kết nối với tất cả những gì tôi đã cung cấp cho bạn trong Luận về Lửa Vũ Trụ) sẽ mang lại cho bạn một số ý tưởng chung về các thâm nghĩa hành tinh khác nhau. Cá nhân tôi không có thời gian để làm điều này, ngay cả khi nó là mong muốn, nhưng rõ ràng là những gì tôi đã chỉ ra theo đường lối tương ứng phải là sự thật, vì câu châm ngôn cổ xưa “trên sao dưới vậy” luôn luôn đúng, và đó là nhiệm vụ của Thánh Đoàn để chứng minh điều này. Mối quan hệ giữa tiểu vũ trụ và đại vũ trụ không bao giờ có thể bị phá vỡ, và mối quan hệ đó có liên quan mật thiết đến năm điểm mặc khải này. |
|
It has been occultly stated that: |
Người ta đã tuyên bố huyền bí rằng: |
|
“The five points of the five-pointed star are pyramids of ascension and, at the summit of each point—hidden within the emanating rays—lies a point of revelation, offsetting the radiation but preserving the deeply seated magnetism. Thus is there symbolised the going forth, the coming back and the point of peace, surrounded by activity.” |
“Năm điểm của ngôi sao năm cánh là các kim tự tháp thăng thiên và, tại đỉnh của mỗi điểm—ẩn trong các tia sáng phát ra—là một điểm mặc khải, hóa giải bức xạ nhưng bảo tồn từ tính mạnh mẽ sâu sắc. Do đó, nó tượng trưng cho sự đi ra, sự trở lại và điểm bình an, được bao quanh bởi hoạt động.” |
|
I will endeavour (as we consider these points of revelation) to express as far as may be this relationship of the smaller to the great, of the part to the whole, and of the five points of spiritual contact upon the physical plane (outlets for the energy generated in the planetary centres) with the sum total of the means of expression. These centres are brought into expression—as far as the points of revelation are concerned—at their respective initiations: |
Tôi sẽ cố gắng (khi chúng ta xem xét những điểm mặc khải này) diễn đạt mối quan hệ này giữa cái nhỏ với cái lớn, giữa thành phần với toàn bộ, và giữa năm điểm của sự tiếp xúc tinh thần trên cõi vật lý (các ngõ ra ra cho năng lượng được tạo ra trong các trung tâm hành tinh) với tổng số các phương tiện biểu hiện. Các trung tâm này được đưa vào biểu hiện—liên quan đến các điểm mặc khải—tại các lần điểm đạo tương ứng của chúng: |
|
1. The ajna centre. |
1. Trung tâm ajna. |
|
2. The heart centre. |
2. Trung tâm tim. |
|
3. The head centre. |
3. Trung tâm đầu. |
|
4. The throat centre. |
4. Trung tâm cổ họng. |
|
5. The alta major centre. |
5. Trung tâm alta major. |
|
I say not that these five exits for planetary energy are the planetary centres, for they are not; I say that they are the points through which the energy of a planetary centre is directed in the service of humanity at this particular time. The centres of the planetary Logos are necessarily directed in their inflow and outflow from Shamballa; they are expressions of the Purpose underlying the creative evolutionary process. The five corresponding exits are those which, in this cycle, disperse the energy—generated by the Hierarchy, under the inspiration of the divine Purpose and directed towards the carrying out of the Plan. |
Tôi không nói rằng năm điểm thoát năng lượng hành tinh này là các trung tâm hành tinh, vì chúng không phải vậy; tôi nói rằng chúng là những điểm mà qua đó năng lượng của một trung tâm hành tinh được hướng dẫn để phục vụ nhân loại trong thời điểm đặc biệt này. Các trung tâm của Hành Tinh Thượng Đế tất nhiên được điều hướng trong việc thu nhận và phát ra từ Shamballa; chúng là biểu hiện của Mục đích nằm dưới quá trình tiến hóa sáng tạo. Năm điểm thoát tương ứng là những điểm mà, trong chu kỳ này, phân tán năng lượng—được tạo ra bởi Huyền Giai, dưới sự cảm hứng của Mục đích thiêng liêng và hướng tới việc thực hiện Thiên Cơ. |
|
It is wise to remember that the Plan is as much of the divine Purpose as can be brought into expression upon the planet—under the Law of Evolution and the tension of this [372] planetary crisis through which we are passing at this time—or at any one time or particular epoch in time and space. Let us now consider these points of revelation so as to gain from them some real understanding: |
Điều khôn ngoan để nhớ rằng Thiên Cơ là phần của Thiên Ý có thể được biểu hiện trên hành tinh—dưới Định Luật Tiến Hóa và sự căng thẳng của cuộc khủng hoảng hành tinh này mà chúng ta đang trải qua vào thời điểm này—hoặc vào bất kỳ thời điểm hoặc kỷ nguyên cụ thể nào trong thời gian và không gian. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét các điểm của sự mặc khải này để thu được từ chúng một sự thấu hiểu thực sự: |
|
The First Point of Revelation: Energy follows thought and the eye directs the energy. |
Điểm Mặc Khải Thứ Nhất: Năng lượng theo sau tư tưởng và con mắt hướng dẫn năng lượng. |
|
We are not dealing here with the simple statement that thought power is an energy and that the process of thinking generates automatically an energy which produces objective forms, induces related action, and is the source therefore of all that appears or manifests. That is a platitude today, and humanity is increasingly aware of the subjective power of thought and of its consequences—objective realisation. We are to concern ourselves with that which lies behind the mental perception of the ordinary man and with the revelation which comes to the initiate disciple as he stands within the ashram and perceives—as a result of the initiatory process—the nature of the divine Plan, as it can be seen working out on various planes of our planetary existence. There are three things which the initiate notes as the new panorama unfolds in flashing light before him: |
Chúng ta không đang bàn về tuyên bố đơn giản rằng sức mạnh tư tưởng là một năng lượng và quá trình suy nghĩ tự động tạo ra một năng lượng sinh ra các hình tướng khách quan, thúc đẩy hành động liên quan, và do đó là nguồn gốc của tất cả những gì xuất hiện hoặc biểu hiện. Đó là một điều hiển nhiên ngày nay, và nhân loại ngày càng nhận thức rõ về sức mạnh chủ quan của tư tưởng và các hệ quả của nó—sự hiện thực hóa khách quan. Chúng ta sẽ quan tâm đến những gì nằm đằng sau sự nhận thức trí tuệ của người thường và sự mặc khải đến với người đệ tử điểm đạo khi đứng trong ashram và nhận thấy—như là kết quả của quá trình điểm đạo—bản chất của Thiên Cơ, như nó có thể được thấy đang thực hiện trên các cõi giới khác nhau của sự tồn tại hành tinh của chúng ta. Có ba điều mà điểm đạo đồ ghi nhận khi bức tranh toàn cảnh mới mở ra trong ánh sáng chớp nhoáng trước mặt y: |
|
1. The point of tension which precedes revelation. There is much to be considered in relation to tension as the forerunner of initiation and its subsequent revelation. |
1. Điểm trụ nhất tâm trước khi mặc khải. Có nhiều điều cần xem xét liên quan đến căng thẳng như là tiền thân của điểm đạo và mặc khải sau đó. |
|
2. The stillness by which the revealing vision is surrounded, if I may so inadequately express the idea. The revelation is given to the initiate as if there was nothing in all the world but himself (a point of tension) and a vortex of force which takes form before his eyes, revealing to him an inevitable but future activity. |
2. Sự tĩnh lặng mà tầm nhìn mặc khải được bao quanh, nếu tôi có thể diễn đạt ý tưởng này một cách không đầy đủ. Sự mặc khải được ban cho điểm đạo đồ như thể không có gì trên toàn thế giới ngoài chính bản thân anh ta (một điểm của sự căng thẳng) và một xoáy lực hiện hình trước mắt anh ta, tiết lộ cho anh ta một hoạt động tất yếu nhưng thuộc về tương lai. |
|
3. The level upon which the revelation (apprehended at the highest possible point of consciousness for the initiate) must eventually be materialised or brought into being. |
3. Cấp độ mà trên đó mặc khải (được nhận thức tại điểm cao nhất có thể của tâm thức đối với điểm đạo đồ) cuối cùng phải được hiện thực hóa hoặc mang vào hiện hữu. |
|
Initiation is always taken on levels of consciousness higher [373] than the mental, and the initiate must not only realise the significance of the revelation but must also know the sphere of activity of which it will be the inspiration. I would have you ponder on the wording of this last sentence. |
Điểm đạo luôn được thực hiện trên các mức độ tâm thức cao hơn [373] so với trí tuệ, và điểm đạo đồ không chỉ phải nhận ra thâm nghĩa của sự mặc khải mà còn phải biết lĩnh vực hoạt động mà nó sẽ là nguồn cảm hứng. Tôi muốn bạn suy ngẫm về cách diễn đạt của câu cuối cùng này. |
|
Each of the five points of revelation indicates to the initiate: procedure, location and objective. Each is therefore susceptible of many and varied interpretations; these are dependent upon the initiatory status of the disciple. With these we cannot deal, because it would entail the writing of another complete treatise and this would also be largely incomprehensible to the uninitiated reader. I can, however, give you some ideas anent the five points of revelation which I have indicated, leaving your intuition to wrestle with their import—or leaving it to your imagination if the intuition is not yet creatively active; it must always be remembered that the imagination is the seed of the intuition, because that which is not existent somewhere within our apparently complex planetary system cannot be imagined. |
Mỗi điểm trong năm điểm của sự mặc khải chỉ ra cho điểm đạo đồ: quy trình, vị trí và mục tiêu. Do đó, mỗi điểm có thể được diễn giải theo nhiều cách khác nhau; những cách này phụ thuộc vào trạng thái điểm đạo của đệ tử. Chúng ta không thể đề cập đến các vấn đề này, vì điều đó sẽ đòi hỏi viết một luận thuyết hoàn chỉnh khác và điều này cũng sẽ phần lớn không thể hiểu được đối với người đọc chưa điểm đạo. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra một số ý tưởng về năm điểm của sự mặc khải mà tôi đã chỉ ra, để trực giác của bạn có thể tự giải quyết ý nghĩa của chúng—hoặc để trí tưởng tượng của bạn nếu trực giác chưa hoạt động sáng tạo; luôn phải nhớ rằng trí tưởng tượng là hạt giống của trực giác, vì những gì không tồn tại ở đâu đó trong hệ thống hành tinh có vẻ phức tạp của chúng ta thì không thể tưởng tượng được. |
|
In connection with the aphorism that energy follows thought, I would have you relate this concept to the Science of Impression, bearing ever in mind that the Masters of the Wisdom work in three ways as They endeavour to implement the divine Plan: |
Liên quan đến châm ngôn rằng năng lượng theo sau tư tưởng, tôi muốn các bạn liên hệ khái niệm này với Khoa Học Ấn Tượng, luôn nhớ rằng các Chân sư Minh triết làm việc theo ba cách khi các Ngài cố gắng thực hiện Thiên Cơ thiêng liêng: |
|
1. They formulate, deliberately and in line with Their fixed intention, those thoughtforms which must be “impressed” upon the substance of the level of consciousness desired. |
1. Các Ngài hình thành, một cách có chủ ý và theo ý định cố định của các Ngài, những hình tư tưởng phải được “ấn tượng” lên chất liệu của cấp độ tâm thức mong muốn. |
|
2. These living forms of thought are then occultly energised and become centres of energy or reservoirs of energy, with the original thoughtform as the creative source at the centre. These thoughtforms and this generated energy are held steady within the aura of the Master or of a group of Masters. |
2. Những hình tư tưởng sống động này sau đó được nạp năng lượng một cách huyền bí và trở thành các trung tâm năng lượng hoặc các hồ chứa năng lượng, với hình tư tưởng ban đầu là nguồn sáng tạo ở trung tâm. Những hình tư tưởng này và năng lượng được tạo ra được giữ vững trong hào quang của Chân sư hoặc của một nhóm Chân sư. |
|
3. The energy is then projected on to a particular plane or into the mind consciousness of those disciples who are en rapport with the Master, or of those groups of disciples or aspirants who are working in close association with some hierarchical group. If I say to you that the initiated disciple uses the ajna centre, I am only stating a partial [374] truth; many of the Masters work through no physical or etheric mechanism whatsoever, but utilise what might be termed “a point of projection” within the ashram; this is a point of sevenfold contact, available at all times for the use of all those initiates who have taken the third initiation. They work consequently from that high place within the Hierarchy and do not need to employ the ajna centre or any other centre within the etheric body. Writing as I am, for disciples and initiates who have not yet taken the third initiation and who are still “confined” within physical vehicles, the information that the “eye directs the energy” is sure and far more easily understood. |
3. Sau đó, năng lượng được phóng lên một cõi cụ thể hoặc vào tâm thức của những đệ tử có mối liên hệ mật thiết với Chân sư, hoặc của những nhóm đệ tử hoặc người chí nguyện đang làm việc gần gũi với một nhóm Thánh đoàn nào đó. Nếu tôi nói với bạn rằng đệ tử được điểm đạo sử dụng trung tâm ajna, tôi chỉ đang tuyên bố một phần sự thật; nhiều Chân sư làm việc mà không cần bất kỳ cơ chế vật lý hay dĩ thái nào, mà sử dụng cái có thể gọi là “một điểm phóng chiếu” trong ashram; đây là một điểm tiếp xúc thất phân, có sẵn mọi lúc cho tất cả những điểm đạo đồ đã trải qua lần điểm đạo thứ ba sử dụng. Do đó, các Ngài làm việc từ nơi cao đó trong Thánh đoàn và không cần phải sử dụng trung tâm ajna hoặc bất kỳ trung tâm nào khác trong thể dĩ thái. Khi viết cho các đệ tử và điểm đạo đồ chưa trải qua lần điểm đạo thứ ba và vẫn còn “bị giới hạn” trong các thể xác, thông tin rằng “mắt hướng dẫn năng lượng” là chắc chắn và dễ hiểu hơn nhiều. |
|
From the angle of our studies, the revelation accorded to the initiate relates to the carrying forward of the divine Plan upon the physical plane and to the implementation of the will of Shamballa, through the medium of disciples and aspirants and of advanced humanity, working—consciously or unconsciously—in our modern world. |
Từ góc độ của những nghiên cứu của chúng ta, sự mặc khải được trao cho điểm đạo đồ liên quan đến việc thực hiện Thiên Cơ trên cõi trần và việc thực thi ý chí của Shamballa, thông qua phương tiện là các đệ tử và người chí nguyện cùng với nhân loại tiến bộ, đang làm việc—có ý thức hoặc vô thức—trong thế giới hiện đại của chúng ta. |
|
Down upon the level of daily living, disciples are today learning three things: the Technique of Impression, the generating of energy, and the use of the ajna centre. Many are responsive to impression, but fail to recognise or use the energy of which the impression is simply the forerunner; others respond to the energy, but fail to register the Plan which it is intended to implement, and the energy then leads to great but fruitless activity. Still others are learning to use the centre between the eyebrows, standing as silent and poised recipients controlling the third eye, the directing agent of the received energy. It must be carefully borne in mind that the energy to be used is not the energy which the disciple himself generates or his own life force, but is something different, something which he has received from the Hierarchy and of which he is simply the agent or channel. He has therefore to learn to distinguish between the various energies he contacts. The initiate has to master the techniques of differentiating between: |
Xuống đến mức sống hàng ngày, các đệ tử ngày nay đang học ba điều: Kỹ thuật Ấn tượng, việc tạo ra năng lượng, và sử dụng trung tâm ajna. Nhiều người nhạy cảm với ấn tượng, nhưng không nhận ra hoặc sử dụng năng lượng mà ấn tượng chỉ là sự tiền phong của nó; những người khác phản ứng với năng lượng, nhưng không nhận thức được Thiên Cơ mà năng lượng đó được sử dụng để thực thi, và năng lượng sau đó dẫn đến hoạt động lớn nhưng vô ích. Một số khác đang học cách sử dụng trung tâm giữa hai chân mày, đứng như những người tiếp nhận yên lặng và vững chãi kiểm soát con mắt thứ ba, cơ quan điều khiển năng lượng nhận được. Cần phải ghi nhớ cẩn thận rằng năng lượng cần sử dụng không phải là năng lượng mà đệ tử tự tạo ra hoặc là sinh lực của riêng mình, mà là một cái gì đó khác, một cái gì đó mà y nhận được từ Thánh đoàn và y chỉ là tác nhân hoặc kênh truyền của nó. Do đó, y phải học cách phân biệt giữa các loại năng lượng khác nhau mà y tiếp xúc. Điểm đạo đồ phải nắm vững các kỹ thuật phân biệt giữa: |
|
1. His own energy or energies, which have been generated [375] as the result of his life experiences down the ages or centuries. |
1. Năng lượng hoặc các năng lượng của chính y, được tạo ra [375] như là kết quả của những trải nghiệm cuộc sống của y qua các thời đại hoặc thế kỷ. |
|
2. His ray energy which, rightly used, conditions his work with and for the Hierarchy. |
2. Năng lượng cung của y, khi được sử dụng đúng, điều kiện hóa công việc của y với và cho Thánh Đoàn. |
|
3. The energy of the ashram of which he may avail himself in the process of carrying out activities—initiated by impression. In the early stages he calls this the energy of his Master, but learns later that it is—in reality—the energy generated by his Master’s group, the ashram. |
3. Năng lượng của ashram mà y có thể sử dụng trong quá trình thực hiện các hoạt động—khởi đầu bởi ấn tượng. Ở giai đoạn đầu, y gọi đây là năng lượng của Chân Sư của y, nhưng sau này y học được rằng đó thực sự là năng lượng được tạo ra bởi nhóm của Chân Sư y, là Ashram. |
|
4. Hierarchical energy or the energy of certain associated ashrams or of the entire group of Ashrams, the Hierarchy itself. The use of this highly qualified and most potent energy can only be employed when the disciple has earned the right to certain privileges and can be trusted to use the potencies correctly. |
4. Năng lượng Thánh Đoàn hoặc năng lượng của một số ashram liên kết nhất định, hoặc của toàn bộ nhóm các Ashram, chính Thánh Đoàn. Việc sử dụng năng lượng có phẩm chất cao và mạnh mẽ nhất này chỉ có thể được sử dụng khi đệ tử đã giành được quyền đối với các đặc quyền nhất định và có thể được tin tưởng để sử dụng các tiềm năng một cách chính xác. |
|
5. The energy of the Head of the Hierarchy, or the Christ force, as it is sometimes called. This force imports into the usually available energies certain conditioning qualities which emanate from Shamballa, and are therefore related to the will aspect. This type of force has not hitherto been available to working disciples but is now available, having been released at the Wesak Festival of this year (1948). Even now it can be used only by highly trusted disciples, and usually by those only whose rays are the first Ray of Power or Will or the second Ray of Love-Wisdom. These will be the rays of one or other of the two major vehicles—that of the soul and that of the personality. There are naturally exceptions to this rule, and these exceptions will be increasingly numerous as time speeds by; but in the present time, first and second ray vehicles provide the line of least resistance. |
5. Năng lượng của Người đứng đầu Thánh Đoàn, hay còn gọi là mãnh lực Christ. Mãnh lực này nhập vào các năng lượng thường có sẵn một số phẩm chất điều hòa nhất định phát ra từ Shamballa, và do đó liên quan đến khía cạnh ý chí. Loại mãnh lực này cho đến nay vẫn chưa có sẵn cho các đệ tử đang hoạt động nhưng hiện đã có sẵn, đã được giải phóng tại Lễ hội Wesak năm nay (1948). Ngay cả bây giờ, nó chỉ có thể được sử dụng bởi những đệ tử được tin tưởng cao, và thường chỉ bởi những người có cung là cung một về Quyền Lực hoặc Ý Chí hoặc cung hai về Bác Ái – Minh Triết. Đây sẽ là các cung của một trong hai thể chính — thể của linh hồn và thể của phàm ngã. Đương nhiên có những ngoại lệ đối với quy luật này, và những ngoại lệ này sẽ ngày càng nhiều khi thời gian trôi qua; nhưng ở thời điểm hiện tại, các thể cung một và cung hai cung cấp con đường ít trở ngại nhất. |
|
The first Point of Revelation has necessarily an unique relation to the physical plane, to the hierarchical workers in physical bodies, and to those who consciously use the ajna centre. The number of those who can work with the energy of thought is now very great, because so many hundreds of thousands have taken the first initiation. This becomes clear when you realise the untold numbers of those who are definitely [376] oriented towards the light, who are spiritually motivated and are consciously trying to tread the Path or—to express the idea in Christian phraseology—to follow the footsteps of Christ. They may know nothing of the occult teaching or of esoteric techniques, but the discipline of their lives and their realised fixed intention and service bring them inevitably, eventually, on to the occult way. They are learning to think; they earnestly seek to know the right way for humanity, and desire to ascertain the will of God; they are therefore building thoughtforms and are developing the power to be impressed. At present, they appear to be putting the cart before the horse, and they need to learn to think after impression; but this the spread of the various meditative processes will eventually correct. Later, the directing potency of the ajna centre (the centre between the eyebrows) will attract their attention and the triple process of impression, thoughtform construction, and energy direction will be mastered by them, and the first point of revelation will no longer be a revelation; they will be committed to an intelligent implementing of the Plan upon the physical plane. |
Điểm Mặc khải thứ nhất nhất thiết có mối quan hệ đặc biệt với cõi trần, với những người làm việc của Thánh Đoàn trong thể xác, và với những người sử dụng một cách có ý thức luân xa ajna. Số lượng những người có thể làm việc với năng lượng của tư tưởng hiện nay là rất lớn, bởi vì có rất nhiều người đã thực hiện lần điểm đạo đầu tiên. Điều này trở nên rõ ràng khi các bạn nhận ra số lượng không thể kể xiết của những người chắc chắn [376] hướng về ánh sáng, những người có động cơ tinh thần và đang cố gắng đi trên Thánh đạo một cách có ý thức hoặc — để diễn đạt ý tưởng theo cụm từ Cơ đốc giáo — đi theo bước chân của Đức Christ. Họ có thể không biết gì về giáo lý huyền bí hoặc về các kỹ thuật bí truyền, nhưng kỷ luật trong cuộc sống của họ và ý định kiên định cũng như sự phụng sự đã được nhận ra của họ chắc chắn sẽ đưa họ đến con đường huyền bí. Họ đang học cách suy nghĩ; họ chân thành tìm kiếm để biết con đường đúng đắn cho nhân loại, và mong muốn xác định ý chí của Thượng đế; do đó, họ đang xây dựng các hình tư tưởng và phát triển khả năng tiếp nhận ấn tượng. Hiện tại, họ dường như đang đặt cổ xe trước con ngựa, và họ cần học cách suy nghĩ sau khi nhận ấn tượng; nhưng điều này sẽ dần được điều chỉnh thông qua việc phổ biến các quá trình tham thiền khác nhau. Sau này, năng lực điều khiển của trung tâm ajna (trung tâm giữa hai chân mày) sẽ thu hút sự chú ý của họ và quá trình tam phân gồm ấn tượng, xây dựng hình tư tưởng và điều hướng năng lượng sẽ được họ nắm vững, và điểm mặc khải đầu tiên sẽ không còn là một sự mặc khải nữa; họ sẽ cam kết thực hiện Thiên Cơ một cách thông minh trên cõi trần. |
|
The Second Point of Revelation: The Will is an expression of the Law of Sacrifice. |
Điểm Mặc Khải Thứ Hai: Ý chí là biểu hiện của Định Luật Hy Sinh. |
|
The second Point of Revelation is of peculiar interest. It concerns the first contact of the initiated disciple with the energy emanating from Shamballa and transmitted to him via the Master of the Ashram with which he is at this time associated. He has not yet reached the stage wherein direct contact is permitted, but still needs the ashramic protection which the Master provides. At the indicated second initiation he receives a quality of stimulation which enables him to “see” the astral plane as it essentially is; with this revelation comes also the recognition of the basic human necessity to “make it holy” or to “render whole” that which provides the most disturbing element in the existence of mankind. [377] |
Điểm Mặc Khải Thứ Hai có một sự thú vị đặc biệt. Nó liên quan đến sự tiếp xúc đầu tiên của đệ tử điểm đạo với năng lượng phát ra từ Shamballa và được truyền đến y qua Chân sư của Ashram mà y hiện đang liên kết. Y chưa đạt đến giai đoạn cho phép tiếp xúc trực tiếp, nhưng vẫn cần sự bảo vệ của ashram mà Chân sư cung cấp. Tại lần điểm đạo thứ hai được chỉ định, y nhận được một tính chất kích thích cho phép y “thấy” cõi cảm dục như nó thực sự là; cùng với sự mặc khải này là sự nhận thức về nhu cầu cơ bản của nhân loại là ‘làm cho nó trở nên thiêng liêng’ hoặc ‘làm cho toàn vẹn’ những gì gây ra yếu tố rối loạn nhất trong sự tồn tại của con người. [377] |
|
I cannot here deal with psychic construction, with astral impulses or glamours, nor can I spend time referring to the usual astral conditions—so well known and so carefully followed by the mass of men. Each human being has eventually to make his own definite decision anent the astral plane and his release from its control, and has then to follow (for several lives) a policy of non-association with its phenomena. But the initiate-disciple receives an unique revelation and an applied conditioning which enable him to recognise it as a man-created whole or world or state of consciousness (whichever term you may care to employ) and therefore as something which must be transformed. Two things consequently emerge in his consciousness: |
Tôi không thể đề cập đến việc xây dựng tâm linh, những xung động cảm dục hay ảo cảm, cũng như không thể dành thời gian nhắc đến các điều kiện cảm dục thông thường—rất quen thuộc và được theo dõi cẩn thận bởi đa số con người. Mỗi con người cuối cùng phải tự đưa ra quyết định rõ ràng về cõi cảm dục và giải phóng bản thân khỏi sự kiểm soát của nó, và sau đó phải theo đuổi (trong vài kiếp sống) một chính sách không liên kết với các hiện tượng của nó. Nhưng đệ tử điểm đạo đồ nhận được một sự mặc khải độc đáo và một điều kiện áp dụng cho phép y nhận ra cõi cảm dục như một toàn thể do con người tạo ra hoặc một thế giới hoặc một trạng thái tâm thức (dù bạn chọn thuật ngữ nào) và do đó là một thứ phải được biến đổi. Do đó, hai điều nổi bật trong tâm thức của y: |
|
1. That the astral plane is not God-created, or divinely “inspired,” but is the product of human desire, evinced at the very dawn of human intelligence; this desire has built thoughtforms which are in tune or allied to every phase of human desire from the lowest type of physical desire up to the spiritual aspiration of the man who is seeking liberation. What can the disciple, therefore, do to make the astral plane “holy” or “set apart” and segregated from the sum total which the Divine Thinker, Sanat Kumara, has created, and with which the desires of mankind—through the medium of the astral world—have, fortunately for the individual man, become entangled? At this point, he knows that he must, inevitably and eventually, contribute something. He realises that he must intelligently work towards the separation of the astral plane from the six planes of divine creation. I would ask you to remember, brother of mine, that the star of creation is the six-pointed star and not a seven-pointed star. |
1. Rằng cõi cảm dục không phải do Thượng Đế tạo ra, hoặc được “truyền cảm hứng” một cách thiêng liêng, mà là sản phẩm của ham muốn của con người, được biểu lộ từ lúc khởi đầu trí tuệ của con người; ham muốn này đã xây dựng các hình tư tưởng phù hợp hoặc liên kết với mọi giai đoạn của ham muốn con người từ loại thấp nhất của ham muốn trần gian đến khát vọng tinh thần của người đang tìm kiếm sự giải thoát. Vậy đệ tử có thể làm gì để làm cho cõi cảm dục “thánh thiện” hoặc “tách biệt” và tách ra khỏi tổng thể mà Đấng Tư Tưởng Thiêng Liêng, Đức Sanat Kumara, đã tạo ra, và với đó ham muốn của nhân loại—thông qua trung gian của thế giới cảm dục—may mắn cho cá nhân con người, đã trở nên rối rắm? Tại thời điểm này, y biết rằng y phải, tất yếu và cuối cùng, đóng góp một điều gì đó. Y nhận ra rằng y phải làm việc một cách thông minh hướng tới sự tách biệt cõi cảm dục khỏi sáu cõi của sáng tạo thiêng liêng. Huynh đệ của tôi, tôi muốn các bạn nhớ rằng ngôi sao của sáng tạo là ngôi sao sáu cánh chứ không phải ngôi sao bảy cánh. |
|
2. As the needed service which must be rendered takes possession of the heart and mind of the initiate, the method is simultaneously revealed to him. This method is the use of an “advancing point of light”; it is, however, a form of light which can only be implemented by the will; this will can only fully complete its task when all three [378] aspects of the will—as exemplified in the three points of the Spiritual Triad—have all been sequentially employed. |
“2. Khi sự phụng sự cần thiết phải được thực hiện chiếm lĩnh trái tim và tâm trí của điểm đạo đồ, phương pháp đồng thời được tiết lộ cho anh ta. Phương pháp này là sử dụng một ‘điểm sáng tiến tới’; tuy nhiên, đây là một dạng ánh sáng chỉ có thể được thực hiện bởi ý chí; ý chí này chỉ có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình khi cả ba [378] khía cạnh của ý chí—như được thể hiện trong ba điểm của Tam nguyên tinh thần—đều được sử dụng tuần tự. |
|
You can see, therefore, how different is the revelation which comes to the initiate than are those which the average aspirant and disciple regard as astounding revelations. Their sense of values is in error. There is a group service quality to the revelation with which we are dealing, and also about these five stages of revelation, which is unknown until the antahkarana has been created, thus linking the Spiritual Triad and the Personality. The energy then to be used is entirely related to the Will aspect of divinity. This does not demonstrate as it does with average advanced humanity, as applied goodwill, but it expresses itself as a dynamic destructive spiritual Will; it adds its quota of destroying energy to the task of destruction with which the Hierarchy is confronted in connection with the astral plane. |
Do đó, bạn có thể thấy sự mặc khải đến với điểm đạo đồ khác biệt như thế nào so với những điều mà người chí nguyện và đệ tử trung bình coi là những mặc khải đáng kinh ngạc. Cảm giác giá trị của họ là sai lầm. Có một phẩm tính phụng sự nhóm trong sự mặc khải mà chúng ta đang xem xét, và cũng có liên quan đến năm giai đoạn của sự mặc khải này, điều mà không được biết đến cho đến khi antahkarana được tạo ra, liên kết Tam nguyên tinh thần và phàm ngã. Năng lượng sau đó sẽ được sử dụng hoàn toàn liên quan đến khía cạnh Ý chí của thiên tính. Điều này không biểu hiện như nó làm đối với nhân loại tiên tiến trung bình, như thiện chí được áp dụng, mà nó tự thể hiện như một Ý chí tinh thần mang tính hủy diệt năng động; nó thêm phần năng lượng hủy diệt của nó vào nhiệm vụ hủy diệt mà Thánh đoàn đang đối mặt trong mối liên hệ với cõi cảm dục. |
|
This Point of Revelation brings with it certain revelations of an unexpected nature and imparts to the initiate certain new and significant results which register as truths to the initiate-consciousness. He discovers that he must learn the divine nature of the destroying aspect of the Will; he learns that it is not related, when demonstrating as this particular aspect, to determination or fixed intention, but is a fluid energy which can be directed toward the plane of desire wherever and whenever contacted; he finds out also that, in order to combat this vast and vibrant astral world, an aspect of light must be employed, and that therefore he is being given his first opportunity to work with Light under the inspiration of the Will—as do all the Members of the Hierarchy; he realises, consequently, that he must employ this aspect of light under the action—definitely directed—of the Will, in order to bring about the disappearance of that world as a sentient conscious entity; he knows that he must primarily destroy the astral phenomena for which he is creatively responsible, and that (having done this) he must demonstrate his complete freedom from the phenomenal contact of the astral plane at the second, the third and the fourth initiations. [379] This he must do through the “advancing light” of lower mental substance, and the activity of the buddhic level of activity; then to this he adds the destroying power of the atmic level of activity. He has to take note, in this process, of a certain level of responsibility. Thus he can finally destroy (with the means of the advancing light of the atmic plane) a certain proportion of astral substance for which he is not individually responsible but which is nevertheless related to the group or to the nation with which he is by birth or inclination affiliated. It is the united and synthetic use of the three triadal expressions of energy which makes the work of the world servers effective. |
Điểm Mặc Khải này mang lại những mặc khải bất ngờ và truyền đạt cho điểm đạo đồ những kết quả mới và thâm nghĩa được ghi nhận như những chân lý trong tâm thức điểm đạo. Y phát hiện ra rằng y phải học về bản chất thiêng liêng của khía cạnh hủy diệt của Ý chí; y học rằng nó không liên quan đến, khi biểu hiện như khía cạnh cụ thể này, sự quyết tâm hoặc ý định cố định, mà là một năng lượng linh hoạt có thể được hướng tới cõi ham muốn ở bất kỳ đâu và bất kỳ khi nào tiếp xúc; y cũng phát hiện ra rằng, để chống lại thế giới cảm dục rộng lớn và sống động này, phải sử dụng một khía cạnh của ánh sáng, và do đó y được trao cơ hội đầu tiên để làm việc với Ánh sáng dưới sự cảm hứng của Ý chí—như tất cả các Thành viên của Thánh đoàn; do đó, y nhận ra rằng y phải sử dụng khía cạnh ánh sáng này dưới sự hành động—được hướng dẫn rõ ràng—của Ý chí, để mang lại sự biến mất của thế giới đó như một thực thể có tri giác và ý thức; y biết rằng trước hết y phải phá hủy các hiện tượng cảm dục mà y chịu trách nhiệm sáng tạo, và rằng (sau khi đã làm điều này) y phải chứng minh sự tự do hoàn toàn của mình khỏi sự tiếp xúc hiện tượng của cõi cảm dục tại lần điểm đạo thứ hai, thứ ba và thứ tư. [379] Y phải làm điều này thông qua ‘ánh sáng tiến tới’ của chất liệu hạ trí, và hoạt động của cấp độ bồ đề của hoạt động; sau đó y thêm vào điều này sức mạnh hủy diệt của cấp độ hoạt động atma. Y phải ghi nhận, trong quá trình này, một mức độ trách nhiệm nhất định. Do đó, y có thể cuối cùng phá hủy (với phương tiện ánh sáng tiến tới của cõi atma) một tỷ lệ nhất định của chất liệu cảm dục mà y không chịu trách nhiệm cá nhân nhưng liên quan đến nhóm hoặc quốc gia mà y thuộc về do sinh ra hoặc do khuynh hướng. Chính sự sử dụng hợp nhất và tổng hợp ba biểu hiện năng lượng của Tam nguyên làm cho công việc của những người phụng sự thế giới trở nên hiệu quả. |
|
You can see from this short résumé which I have given you about the results of the second point of revelation, how widely comprehensive is the entire theme of revelation as it implements, impulses and motivates hierarchical activity. Through those revelations the initiate-disciple becomes aware of the task which he must fulfil and the next immediate step which humanity must take—through one or other of its grouped masses. These revelations concern the use of the Will in implementing the evolutionary aspect of the divine purpose. In all these points of revelation the Spiritual Triad is involved, and every one of the revelations is—in a steady crescendo of illumination—the result of initiation. |
Bạn có thể thấy từ bản tóm tắt ngắn này mà tôi đã đưa ra về kết quả của điểm mặc khải thứ hai, chủ đề toàn bộ của sự mặc khải rộng lớn và toàn diện như thế nào khi nó thực hiện, thúc đẩy và tạo động lực cho hoạt động của Thánh đoàn. Thông qua những sự mặc khải này, đệ tử điểm đạo nhận thức được nhiệm vụ mà y phải hoàn thành và bước tiếp theo mà nhân loại phải thực hiện—thông qua một trong số các nhóm quần chúng của nó. Những sự mặc khải này liên quan đến việc sử dụng Ý chí trong việc thực thi khía cạnh tiến hóa của mục đích thiêng liêng. Trong tất cả những điểm mặc khải này, Tam nguyên Tinh thần đều tham gia, và mỗi một trong những sự mặc khải—trong một sự soi sáng dần dần—là kết quả của điểm đạo. |
|
All the five points of revelation are conveyed or make their impression at each initiation, but differ greatly according to the initiation taken. The use of the Will aspect in “making holy” or in “setting apart,” is active not only at the second initiation, but in all of them and—in a peculiar sense—at the sixth Initiation of Decision; of this initiation the six-pointed star is the symbol. The decision there involved tests the initiate as to how free he is from all desire—a factor which impregnates the entire creative world. Freedom from that control indicates the recognition of the Will as an expression of the Law of Sacrifice. |
Tất cả năm điểm mặc khải đều được truyền đạt hoặc tạo ấn tượng tại mỗi lần điểm đạo, nhưng khác nhau rất nhiều tùy theo lần điểm đạo được thực hiện. Việc sử dụng khía cạnh Ý chí trong việc “làm cho thánh thiện” hoặc “tách biệt”, không chỉ hoạt động ở lần điểm đạo thứ hai mà còn trong tất cả các lần điểm đạo và — theo một nghĩa đặc biệt — tại lần Điểm Đạo thứ sáu về Quyết Định; ngôi sao sáu cánh là biểu tượng của điểm đạo này. Quyết định liên quan ở đó kiểm tra điểm đạo đồ về mức độ tự do của người đó khỏi mọi ham muốn — một yếu tố thấm nhuần toàn bộ thế giới sáng tạo. Sự tự do khỏi sự kiểm soát đó chỉ ra sự công nhận Ý Chí như một biểu hiện của Định luật Hy Sinh. |
|
The Christian interpretation of the Will of God and of the significance of sacrifice is based, in reality, on human revolt and on human refusal to see anything in the spiritual life but an unintelligent acceptance of the inscrutable divine [380] Will; it posits also the need for pain and the suffering of sacrifice in the sense of complete abnegation of all that might be regarded as good and useful, as desirable and joyful. This revolt has coloured the entire presentation of what Christian theologians regard as God’s Will; this presentation involves the unavoidable imposition of the will of a transcendental Deity, and leads inevitably (though totally inconclusively) to the dreadful and symbolic death of the Christ upon the Cross and to the painful and sacrificial life of the spiritual man. There is much teaching given out by the church upon the necessity of the submission of the human will to the divine Will; however, little or no teaching is given of the joyous use of the Will of Christ, immanent in every form, and peculiarly active in the form of humanity, and therefore capable of joyous and understanding use. The idea that sacrifice signifies happiness and a joyful process of making desire “holy” is absent; theologians refuse to recognise that the releasing of the energy confined and imprisoned upon the astral plane, into “enlightened” service upon other planes, is neither comprehended nor in any way understood. |
Cách giải thích của Cơ đốc giáo về Ý chí của Thượng Đế và về ý nghĩa của sự hy sinh thực ra dựa trên sự phản kháng của con người và sự từ chối của con người khi nhìn thấy bất cứ điều gì trong đời sống tinh thần chỉ là sự chấp nhận không thông minh về Ý chí thiêng liêng không thể hiểu được [380]; nó cũng đặt ra sự cần thiết của đau đớn và đau khổ của sự hy sinh theo nghĩa từ bỏ hoàn toàn tất cả những gì có thể được coi là tốt và hữu ích, như mong muốn và vui vẻ. Sự phản kháng này đã tô màu cho toàn bộ sự trình bày về những gì các nhà thần học Cơ đốc giáo coi là Ý chí của Thượng Đế; sự trình bày này liên quan đến sự áp đặt không thể tránh khỏi ý chí của một Thượng đế siêu việt, và chắc chắn dẫn đến (mặc dù hoàn toàn không thuyết phục) cái chết khủng khiếp và mang tính biểu tượng của Đức Christ trên Thập tự giá và cuộc sống đau đớn và hy sinh của con người tinh thần. Giáo hội đưa ra nhiều giáo lý về sự cần thiết phải phục tùng ý chí của con người đối với Ý chí thiêng liêng; tuy nhiên, có rất ít hoặc không có giáo lý nào được đưa ra về việc sử dụng một cách vui vẻ Ý chí của Đức Christ, nội tại trong mọi hình tướng, và hoạt động đặc biệt trong hình tướng của nhân loại, và do đó có khả năng sử dụng một cách vui vẻ và thấu hiểu. Ý tưởng cho rằng sự hy sinh biểu thị hạnh phúc và một quá trình vui vẻ làm cho ham muốn trở nên “thánh thiện” là không có; các nhà thần học từ chối thừa nhận rằng việc giải phóng năng lượng bị giới hạn và giam cầm trên cõi cảm dục, vào sự phụng sự “được khai sáng” trên các cõi khác, không được lĩnh hội cũng không được hiểu theo bất kỳ cách nào. |
|
The concept of substance runs through all that is here given; the atrophying of the substance of the astral plane, the merging of “lightened” substance with that of other planes, the use of the substance of light as a medium of spiritual destruction, and the bringing in of the three types and qualities of the substance of the Spiritual Triad (in order to liberate humanity) is never noted. Nevertheless, these three types of substance (mental, buddhic and atmic) are all symbolised for us upon the Mount of Crucifixion. There are also far deeper meanings to the well-known Gospel symbolism than those which have been recognised or studied. |
Khái niệm về bản thể xuyên suốt tất cả những gì được đưa ra ở đây; sự teo tóp của bản thể cõi cảm dục, sự hợp nhất của bản thể “được soi sáng” với bản thể của các cõi khác, việc sử dụng bản thể của ánh sáng như một phương tiện hủy diệt tinh thần, và việc mang vào ba loại và phẩm chất của bản thể Tam nguyên Tinh thần (để giải phóng nhân loại) không bao giờ được lưu ý. Tuy nhiên, ba loại bản thể này (trí tuệ, bồ đề và chân thần) đều được tượng trưng cho chúng ta trên Núi Thập tự giá. Cũng có những ý nghĩa sâu sắc hơn nhiều đối với biểu tượng Phúc âm nổi tiếng so với những gì đã được công nhận hoặc nghiên cứu. |
|
I have here, however, thrown some light upon this second point of revelation, and much upon which you could well ponder and reflect. |
Tôi đã chiếu sáng một số về điểm mặc khải thứ hai này, và rất nhiều điều mà các bạn có thể suy ngẫm và phản ánh. |
PART IX
|
You will find it of value, brother of mine, to summarise the mass of information which I have given anent Initiation; [381] I refer not only to that which is contained within these particular instructions but to that which is to be found within all the many books which I have written. Isolated statements and interesting details are really of no major importance. It is the entire general picture and the recognition of the place of initiation in the evolutionary scheme which should engage your attention. Earlier in these instructions I pointed out to you that meditation was a planetary technique; in the same way, initiation may be regarded as indicative of successive planetary consummations marking, for instance, the birth of each of the kingdoms in nature; initiation is, par excellence, a series of graded steps or awakenings which enable the human being to become eventually a member, or a point of light, in the Kingdom of God. When an adequate number of members of the fourth kingdom have undergone the process of initiation (technically understood), then the fifth kingdom will come into exoteric manifestation. The method of making this hitherto subjective kingdom a factual entity is rapidly nearing, and the proof of this is—for the first time in history—group initiation. This can now be undertaken, and it is for this that the Hierarchy is working today, where aspirants and disciples are concerned. |
Huynh đệ của tôi, bạn sẽ thấy rằng việc tóm tắt lượng thông tin mà tôi đã cung cấp về Điểm đạo là rất có giá trị; [381] Tôi không chỉ đề cập đến những gì có trong các hướng dẫn cụ thể này mà còn đề cập đến những gì có thể tìm thấy trong tất cả nhiều cuốn sách mà tôi đã viết. Những tuyên bố riêng lẻ và những chi tiết thú vị thực sự không có tầm quan trọng lớn. Toàn bộ bức tranh chung và sự nhận biết về vị trí của điểm đạo trong kế hoạch tiến hóa mới là điều bạn nên chú ý. Trước đó trong các hướng dẫn này, tôi đã chỉ ra cho bạn rằng thiền định là một kỹ thuật hành tinh; theo cách tương tự, điểm đạo có thể được coi là chỉ báo cho những sự thành tựu liên tiếp của hành tinh, đánh dấu, ví dụ, sự ra đời của từng giới trong tự nhiên; điểm đạo, hơn tất cả, là một loạt các bước hoặc sự thức tỉnh có cấp bậc, cho phép con người cuối cùng trở thành một thành viên, hoặc một điểm ánh sáng, trong Vương quốc của Thượng Đế. Khi một số lượng đầy đủ các thành viên của giới thứ tư đã trải qua quá trình điểm đạo (được hiểu về mặt kỹ thuật), thì giới thứ năm sẽ đi vào biểu hiện ngoại môn. Phương pháp biến vương quốc cho đến nay nội tại thành một thực thể thực tế đang đến gần nhanh chóng, và bằng chứng cho điều này — lần đầu tiên trong lịch sử — là điểm đạo nhóm. Bây giờ điều này có thể được thực hiện, và đó là điều mà Thánh Đoàn đang làm việc ngày nay, liên quan với những người chí nguyện và đệ tử. |
|
The problem of group initiation must be, I know, one of difficulty for you to consider. Many questions must naturally arise. Can, for instance, the faults of a disciple keep the group back from initiation? The answer is no. The result of the dominant shortcomings of the members of the group being prepared for initiation only serves to eliminate them from the group temporarily, but it does not thereby hold back the group. The group moves forward through the door when all the necessary eliminations have taken place, and also when the group has developed certain capacities—as a whole and mutually. Let me specify some of these capacities, but without going into detail: |
Vấn đề của việc điểm đạo nhóm hẳn phải là một khó khăn cho bạn khi xem xét. Nhiều câu hỏi tất nhiên sẽ nảy sinh. Chẳng hạn, liệu những lỗi lầm của một đệ tử có thể ngăn cản nhóm đạt điểm đạo không? Câu trả lời là không. Kết quả của những thiếu sót chi phối của các thành viên trong nhóm đang chuẩn bị cho điểm đạo chỉ dẫn đến việc loại bỏ tạm thời họ khỏi nhóm, nhưng không làm trì hoãn nhóm. Nhóm tiến lên thông qua cánh cửa khi tất cả các sự loại bỏ cần thiết đã diễn ra, và cũng khi nhóm đã phát triển những năng lực nhất định—như một tổng thể và đồng thời. Hãy để tôi xác định một số năng lực này, nhưng không đi vào chi tiết:” |
|
1. The capacity to be outward looking and interested in the reactions of life and of events upon humanity. |
1. Khả năng hướng ngoại và quan tâm đến phản ứng của cuộc sống và các sự kiện đối với nhân loại. |
|
2. The steady tendency towards decentralisation, so that the personal self is handled with a just sense of proportion [382] but is not regarded as the dominant factor in the daily life. |
2. Khuynh hướng ổn định hướng tới việc phi tập trung hóa, để cái tôi cá nhân được xử lý với một cảm giác công bằng nhưng không được coi là yếu tố chi phối trong cuộc sống hàng ngày. |
|
3. As a result of this decentralisation the aspirant grows increasingly towards a more complete fusion with the group. He knows himself to be an integral part of the group and with all that such a relationship involves. |
3. Kết quả của việc phi tập trung hóa này, người chí nguyện ngày càng tiến tới sự dung hợp hoàn toàn hơn với nhóm. Y biết mình là một phần không thể thiếu của nhóm và với tất cả những gì một mối quan hệ như vậy đòi hỏi. |
|
4. He is becoming every day more integrated. This integration is a fourfold one: |
4. Y mỗi ngày càng trở nên tích hợp hơn. Sự tích hợp này là một sự tích hợp bốn phần: |
|
a. His personality, in its various aspects, is integrated into one functioning whole. |
a. phàm ngã của y, trong các khía cạnh khác nhau, được hợp nhất thành một tổng thể hoạt động. |
|
b. He is achieving a pronounced relationship with the soul, and for this reason is becoming a soul-infused personality. |
b. Y đạt được mối quan hệ rõ ràng với linh hồn, và vì lý do này đang trở thành một phàm ngã được linh hồn thấm nhuần. |
|
c. As a worker for humanity, he is blending always more closely with the group in training, and is becoming an integral part of it through similarity of aims, spiritual aspiration and trained techniques. |
c. Là một người làm việc cho nhân loại, y luôn kết hợp chặt chẽ hơn với nhóm đang được đào tạo, và trở thành một phần không thể thiếu của nó thông qua sự tương đồng về mục tiêu, khát vọng tinh thần và kỹ thuật được đào tạo. |
|
d. He is slowly being integrated into the very heart of humanity; this puts him in touch with the Heart of the Hierarchy and—through the Hierarchy—energies from the Heart of the Sun can reach him. |
d. Y đang dần được tích hợp vào chính trái tim của nhân loại; điều này đưa y vào tiếp xúc với Trái Tim của Thánh Đoàn và—thông qua Thánh Đoàn—năng lượng từ Trái Tim của Mặt Trời có thể tiếp cận y. |
|
5. He indicates a growing sensitivity to all that is spiritually esoteric (forget not that there is an esotericism which is not spiritual, but which is strictly related to black magic); his inner hearing and his eye of vision are rapidly being brought into an occult focus. |
5. Y biểu hiện một sự nhạy cảm ngày càng tăng đối với tất cả những gì nội môn một cách tinh thần (đừng quên rằng có một nội môn không tinh thần, mà liên quan chặt chẽ đến hắc thuật); thính giác bên trong và con mắt tầm nhìn của y đang nhanh chóng được đưa vào tiêu điểm huyền bí. |
|
These are simply some of the capacities unfolded by the individual aspirant and—if you study them with care—you will realise that they are of fundamental importance. It is the fusion of all these capacities in group work which enables the group to seek initiation and to be welcomed through the slowly opening door by Those Who are to be found upon the other side. |
Đây chỉ đơn giản là một số năng lực được mở ra bởi người chí nguyện cá nhân và—nếu các bạn nghiên cứu chúng cẩn thận—các bạn sẽ nhận ra rằng chúng có tầm quan trọng cơ bản. Chính sự dung hợp của tất cả những năng lực này trong công việc nhóm giúp nhóm tìm kiếm điểm đạo và được chào đón qua cánh cửa mở chậm bởi Những Người được tìm thấy bên kia. |
|
Another question which might well be asked is: Do all the members of the group have to be at the same point upon the Path of Discipleship, or can they be at many differing [383] stages of discipleship or initiation? What you really mean when you ask this question is: Is the group—composed as it is of individuals—taking the same initiation? Are all its members at exactly the same point in evolution? By no means. A group should be (and is) composed of individuals at varying points of development; some may be preparing for the second initiation; others may be in training for the third initiation, and a few may be ready for the fourth or the fifth initiation. The nature of the initiation to be undergone is known only to the disciple and his Master; it is of no interest to the group itself; the diversity of the initiations for which preparation is being made tends to enrich the group content; the more ray types which are found functioning in the group, the more valuable will be its service. It is the bringing together of groups in preparation for initiation which has led to the present basic change in the methods of the Hierarchy. A would-be-initiate does not, at first, work solely under the care of the Master of a particular Ashram. Certain of the Masters (usually Masters like myself who have only lately passed through the fifth initiation) have been chosen to train and instruct aspirants on all the rays until after the third Initiation of Transfiguration. |
Một câu hỏi khác có thể được đặt ra là: Tất cả các thành viên của nhóm có phải đều ở cùng một điểm trên Con Đường Đệ Tử, hay họ có thể ở nhiều giai đoạn khác nhau của địa vị đệ tử hay điểm đạo? Điều bạn thực sự muốn hỏi khi đặt câu hỏi này là: Nhóm—vốn được tạo thành từ các cá nhân—có đang trải qua cùng một lần điểm đạo không? Tất cả các thành viên của nhóm có phải đang ở cùng một điểm trong quá trình tiến hóa không? Chắc chắn là không. Một nhóm nên (và thực tế là) bao gồm các cá nhân ở nhiều điểm phát triển khác nhau; một số có thể đang chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ hai; những người khác có thể đang được huấn luyện cho lần điểm đạo thứ ba, và một vài người có thể sẵn sàng cho lần điểm đạo thứ tư hoặc thứ năm. Bản chất của lần điểm đạo sẽ được trải qua chỉ được biết bởi đệ tử và Chân sư của y; nó không liên quan đến chính nhóm; sự đa dạng của các lần điểm đạo đang được chuẩn bị có xu hướng làm phong phú thêm nội dung của nhóm; càng nhiều loại cung được tìm thấy hoạt động trong nhóm, phụng sự của nhóm sẽ càng có giá trị. Chính việc tập hợp các nhóm để chuẩn bị cho điểm đạo đã dẫn đến sự thay đổi cơ bản hiện tại trong các phương pháp của Thánh đoàn. Một người sắp trở thành điểm đạo đồ lúc đầu không làm việc chỉ dưới sự chăm sóc của Chân sư của một Ashram cụ thể. Một số Chân sư (thường là các Chân sư như tôi, những người mới trải qua lần điểm đạo thứ năm gần đây) đã được chọn để huấn luyện và hướng dẫn các người chí nguyện thuộc tất cả các cung cho đến sau lần Điểm Đạo Biến Hình thứ ba. |
|
Then and only then does the disciple-initiate pass into the Ashram of the Master of his ray— one of the senior Masters in connection with the seven major Ashrams. If he is a disciple in the Ashram of a Master Who is on one of the Rays of Attribute, the task of that Master is to prepare him for transition on to one of the major Rays of Aspect. This shifting and interchange is taking place all the time. When, for instance, the Master R. assumed the task of Mahachohan or Lord of Civilisation, His Ashram was shifted from the seventh Ray of Ceremonial Order to the third Ray of Active Intelligence; the majority of those who have taken the second and the third initiations were transferred with Him under what might be called a “special dispensation”; the rest of the members of His Ashram remained for tuition and training in service under that Master Who took His place as the central point of the seventh ray Ashram. |
Rồi chỉ khi đó, đệ tử-điểm đạo đồ mới bước vào Ashram của Chân Sư của cung của mình—một trong những Chân Sư cao cấp liên quan đến bảy Ashram chính. Nếu đệ tử nằm trong Ashram của một Chân Sư thuộc một trong các Cung Thuộc Tính, nhiệm vụ của Chân Sư đó là chuẩn bị cho đệ tử chuyển sang một trong các Cung Trạng Thái chính. Sự chuyển đổi và hoán đổi này diễn ra liên tục. Ví dụ, khi Chân Sư R. đảm nhận nhiệm vụ của Mahachohan hay Chúa tể Văn minh, Ashram của Ngài được chuyển từ Cung Bảy của Trật Tự Nghi Lễ sang Cung Ba của Trí Tuệ Hoạt Động; phần lớn những người đã trải qua lần điểm đạo thứ hai và thứ ba đã được chuyển cùng Ngài theo những gì có thể gọi là một “sự phân bổ đặc biệt”; những thành viên còn lại của Ashram của Ngài ở lại để được giảng dạy và đào tạo trong việc phụng sự dưới sự hướng dẫn của Chân Sư, người đã thay thế Ngài làm trung tâm của Ashram Cung Bảy. |
|
Still another question could well be asked: What is the [384] attitude of the group during initiation if the individual members are undergoing different initiations? Is the group integrity imperiled? During the period of initiation, their attitude is one of focussed, concentrated and deep meditation in which the inner attitude is given solely to the concept of Hierarchy. The disciple is not, at this time, occupied with the Ashram of which he is a part or with any questionings as to the nature of the Ashram into which he is now entering as an initiate—either as an initiate of the Earth initiations or, in the senior grades, as an initiate of the Sirian regime. He is—during the first four initiations—entirely centred in consciousness upon the larger Whole wherein the Ashram to which he belongs is a part; he is attentive to the Christ, the Head of the Hierarchy, because He is the Initiator of the first two initiations which always seem to the neophyte of major importance. After the third initiation he is attentive to that “veiled Presence of awful Power Who tests his fitness for working in the will of God.” I would ask you to note the peculiar phrasing “working in the will of God,” and to remember that that Will, centred or focussed in Shamballa, is one of the great basic energies; the initiate has to learn to work in and through that Will. If, therefore, each initiate in the group is conscious of the initiation next to be taken, then subconsciously he eliminates all awareness of outer contacts and stands alone, and yet in group formation, before one or other of the two Initiators. The inflow of dynamic energy which comes to him through the application of the Rod of Initiation becomes a group inheritance and serves to galvanise, integrate and fuse the group into renewed activity and a deeper subjective union. |
Một câu hỏi khác có thể được đặt ra: Thái độ của nhóm trong suốt quá trình điểm đạo là gì nếu các thành viên cá nhân đang trải qua các lần điểm đạo khác nhau? Nhóm có bị ảnh hưởng không? Trong giai đoạn điểm đạo, thái độ của họ là tập trung, tập trung sâu sắc và tham thiền trong đó thái độ bên trong chỉ dành riêng cho khái niệm về Thánh Đoàn. Vào thời điểm này, đệ tử không bận tâm đến Ashram mà y là một phần của nó hoặc bất kỳ câu hỏi nào về bản chất của Ashram mà y đang bước vào như một điểm đạo đồ—hoặc là một điểm đạo đồ của các lần điểm đạo Trái đất hoặc, trong các cấp bậc cao hơn, như một điểm đạo đồ của Sirius. Trong suốt bốn lần điểm đạo đầu tiên, y hoàn toàn tập trung tâm thức vào Toàn thể lớn hơn mà ashram của y là một phần thuộc về; y chú tâm đến Đức Christ, Người đứng đầu Thánh Đoàn, bởi vì Ngài là Đấng Điểm Đạo của hai lần điểm đạo đầu tiên, mà đối với người mới nhập môn luôn có vẻ quan trọng bậc nhất. Sau lần điểm đạo thứ ba, y chú tâm đến “Sự Hiện Diện bị che khuất của Quyền năng đáng sợ, Đấng kiểm tra sự phù hợp của người đó để làm việc trong Ý chí của Thượng Đế”. Tôi muốn các bạn lưu ý cụm từ đặc biệt “làm việc trong Ý chí của Thượng Đế” và hãy nhớ rằng Ý Chí đó, tập trung hoặc hội tụ ở Shamballa, là một trong những năng lượng cơ bản vĩ đại; điểm đạo đồ phải học cách làm việc trong và thông qua Ý Chí đó. Do đó, nếu mỗi điểm đạo đồ trong nhóm đều có ý thức về lần điểm đạo tiếp theo cần thực hiện, thì trong tiềm thức, người đó sẽ loại bỏ mọi nhận thức về các tiếp xúc bên ngoài và đứng một mình, nhưng vẫn ở trong đội hình nhóm, trước một trong hai Đấng Điểm Đạo. Dòng chảy năng lượng năng động đến với y thông qua việc áp dụng Thần Trượng Điểm Đạo trở thành một di sản của nhóm và phục vụ để kích thích, tích hợp và dung hợp nhóm vào hoạt động mới và một sự hợp nhất chủ quan sâu sắc hơn. |
|
There is one point which is oft overlooked, but which I gave to you earlier, and that is the mental approach to initiation. So much emphasis has been laid upon the love quality of the Hierarchy, on its being the expression of the second divine aspect, that the hierarchical mentality (if I may use such a phrase) is frequently forgotten; yet it is a law—closely related to initiation—that “the work of the initiate is carried forward within the ring-pass-not of the Universal Mind.” I [385] would have you give these words calm and mature consideration. |
Có một điểm thường bị bỏ qua, nhưng tôi đã nói cho bạn trước đây, đó là phương pháp tiếp cận trí tuệ đối với việc điểm đạo. Người ta đã nhấn mạnh nhiều đến phẩm chất tình thương của Thánh đoàn, về việc nó là biểu hiện của khía cạnh thiêng liêng thứ hai, đến nỗi trí lực của Thánh đoàn (nếu tôi có thể sử dụng cụm từ như vậy) thường bị lãng quên; tuy nhiên nó là một định luật—liên quan mật thiết đến sự điểm đạo—rằng “công việc của điểm đạo đồ được tiến hành bên trong vòng giới hạn của Trí Tuệ Vũ Trụ”. Tôi [385] muốn bạn cân nhắc những lời này một cách bình tĩnh và chín chắn. |
|
The planetary Logos works—as far as His manifestation, the Earth, is concerned—from cosmic mental levels; all that is manifested through His Creative Word is His focussed thought and His fixed mental intention. In order to create a material world, He directs His thought from what can be regarded as the concrete levels of the cosmic mental plane; the whole process is one of precipitation, consolidation and irradiation. |
Hành tinh Thượng đế hoạt động—đối với biểu lộ của Ngài, Trái đất có liên quan—từ các cấp độ trí tuệ vũ trụ; tất cả những gì được biểu lộ qua Lời Sáng tạo của Ngài là tư tưởng tập trung của Ngài và mục tiêu trí tuệ cố định của Ngài. Để tạo ra một thế giới vật chất, Ngài hướng tư tưởng của Ngài từ những gì có thể được coi là những cấp độ cụ thể của cõi trí tuệ vũ trụ; toàn bộ quá trình là một quá trình ngưng tụ, thống nhất và soi sáng. |
|
All the initiatory processes through which the disciple must pass are primarily concerned with the thought of the supreme, incarnating Deity; that thought demonstrates as the will-to-good. The disciple’s progress from one initiation to another imparts a gradual unveiling of the divine Purpose, as it expresses itself through the hierarchical Plan and manifests that quality of love (the will-to-good) which gives to the Purpose and the Plan warmth, its magnetic appeal, and the major attribute of healing. It might be said that the Purpose of the planetary Logos, as it emanates from His high place under the impact of His will-to-good, is redemptive in nature. |
Tất cả các tiến trình điểm đạo mà người đệ tử phải vượt qua chủ yếu liên quan đến tư tưởng về Đấng Thượng đế Hoá thân thiêng liêng; tư tưởng đó thể hiện như một ý chí-hướng thiện. Sự tiến triển của người đệ tử từ cuộc điểm đạo này tới cuộc điểm đạo khác truyền đạt một sự tiết lộ dần dần Mục đích thiêng liêng, khi nó tự thể hiện chính nó thông qua Kế hoạch của Thánh đoàn và biểu lộ phẩm chất của tình thương (ý chí-hướng thiện), thứ mang lại cho Thiên ý và Thiên cơ sự ấm áp, sức hấp dẫn từ tính của nó, và thuộc tính chính yếu của việc chữa lành. Có thể nói rằng Mục đích của Hành tinh Thượng đế, khi nó phát ra từ địa vị cao cả của Ngài dưới tác động của ý chí-hướng thiện của Ngài, có bản chất cứu chuộc. |
|
This theme of redemption (which underlies all the initiatory processes) is hidden in the karmic responsibilities of Sanat Kumara; stage by stage, initiation by initiation, the disciple arrives at an understanding of redemption. First of all, he learns to bring about the redemption of his threefold personality; then the concept enlarges along paralleling lines as he seeks the redemption of his fellowmen; later, he shares the redemptive work connected with all true hierarchical endeavour and becomes an “active part of a redeeming Ashram.” At the later initiations, and after the fifth Initiation of Revelation, he sees with a new clarity some of the karmic liabilities which have led the planetary Logos to create this planet of suffering, sorrow, pain and struggle; he realises then (and with joy) that this little planet is essentially unique in its purpose and its techniques, and that on it and within it (if you could but penetrate below the surface) [386] a great redemptive experiment is going forward; its prime implementing factors and its scientific agents are the “sons of mind who choose to be the sons of men and yet for all eternity remain the Sons of God.” These “sons of mind” were chosen, in that far distant time when the fourth kingdom in nature came into being, to carry forward the science of redemption. There is a true historical and spiritually esoteric significance in the words in The New Testament that the “whole creation groaneth and travaileth together in pain until now, waiting for the manifestation of the Sons of God.” St. Paul is there referring to planetary purpose and to the determined insistence of the Sons of God that eventually—as they brought about the redemption of substance, of matter and form, and thus proved the possibility of that redemption through their own transfigured personalities—their reward should be their eventual manifestation as expressions of divinity. For this purpose and with this goal in view, they instituted the great evolutionary process of initiation, thus producing a continuity of revelation and of enlightenment. In reality, the period of time at which the final initiation is undergone is simply a climaxing, triumphant demonstration of the realisation and purpose of all past experiences; it is fulfilment (by the One Initiator) of the first promise ever made to the “sons of mind” when they originally started their redemptive work, and is “a sudden blazing forth of the individual glory and its merging at initiation with the glory of the whole.” |
Chủ đề cứu chuộc này (làm nền tảng cho tất cả các quá trình điểm đạo) được ẩn chứa trong các trách nhiệm nghiệp quả của Đức Sanat Kumara; từ giai đoạn này đến giai đoạn khác, từ cuộc điểm đạo này đến cuộc điểm đạo khác, người đệ tử đạt đến sự thấu hiểu về sự cứu chuộc. Trước hết, y học cách mang lại sự cứu chuộc phàm ngã tam phân của mình; sau đó, khái niệm mở rộng theo các đường lối song song khi y tìm kiếm sự cứu chuộc cho đồng loại của mình; sau cùng, y chia sẻ công việc cứu chuộc được kết nối với tất cả nỗ lực thực sự của Thánh đoàn, và trở thành một “phần tích cực của Đạo viện chuộc lỗi/cứu rỗi.” Vào những lần điểm đạo sau đó, và sau lần Điểm đạo thứ năm của sự Thiên khải, y nhìn thấy với sự sáng tỏ mới về một số nghiệp quả đã khiến Hành tinh Thượng đế tạo ra hành tinh đau khổ, phiền muộn, đau đớn và đấu tranh này; rồi y nhận ra (và với niềm vui) rằng hành tinh nhỏ này về cơ bản là duy nhất về mục đích và kỹ thuật của nó, và rằng bên trên nó và bên trong nó (nếu bạn có thể thâm nhập vào bên dưới bề mặt) [386] một thí nghiệm cứu chuộc vĩ đại đang diễn ra; các yếu tố thực hiện chính của nó và các tác nhân khoa học của nó là “những người con của trí tuệ, chọn làm con của nhân loại, thế nhưng mãi mãi vẫn là những người Con của Thượng đế”. Những “người con của trí tuệ” này đã được chọn, trong khoảng thời gian xa xưa khi giới thứ tư trong tự nhiên ra đời, để phát triển khoa học về sự cứu chuộc. Có một ý nghĩa lịch sử và tinh thần thực sự bí truyền trong các lời của Kinh Tân Ước rằng “toàn bộ tạo vật rên rỉ và quằn quại trong đau đớn cho đến tận bây giờ, chờ đợi sự biểu lộ của những người Con của Thượng đế”. Ở đó, Thánh Paul đề cập đến mục đích của hành tinh và đến sự kiên quyết của các Con của Thượng Đế rằng cuối cùng— khi họ mang lại sự cứu chuộc cho chất liệu, cho vật chất và hình tướng, và do đó đã chứng minh khả năng cứu chuộc đó thông qua phàm ngã đã biến đổi của chính họ—thì phần thưởng của họ nên là biểu hiện cuối cùng của họ như là biểu hiện của thiên tính. Vì mục đích này và với tầm nhìn về mục tiêu này, họ đã thiết lập tiến trình điểm đạo tiến hóa vĩ đại, do đó tạo ra sự liên tục của sự thiên khải và giác ngộ. Trên thực tế, khoảng thời gian mà cuộc điểm đạo cuối cùng được trải qua chỉ đơn giản là một minh chứng chiến thắng tột đỉnh về việc thực hiện và mục đích của mọi kinh nghiệm trong quá khứ; đó là sự hoàn thành (bởi Đấng điểm đạo Duy nhất) lời hứa đầu tiên từng được thực hiện với “những người con của trí tuệ” khi họ bắt đầu công việc cứu chuộc của mình, và là “sự rực sáng một cách bất ngờ của vinh quang cá nhân và sự hòa nhập của nó vào lúc điểm đạo với vinh quang của toàn thể.” |
|
These ideas may give you a fresh viewpoint anent initiation, and if you can ponder and think correctly, they will aid you in entering somewhat into the Mind of God, thus permitting you to penetrate at least into that “area of promise” upon which all spiritual hope, all expectancy and the dynamic intention behind the evolutionary process depend. The “halls of initiation” (to speak again in symbols) in which the initiate demonstrates his redemptive quality are the true “promised land.” The whole story of the Jewish people is based upon a recognition of this fundamental truth; it is, however, distorted by them into a form of individual and racial possessiveness, owing to the profound materialistic [387] selfishness of the race. They give to the entire, eternal hope (which is the hope of all the sons of mind) a material and racial distortion and a purely material objective—the objective of territory. All this is, in its turn, founded upon the arrogance, the aggressive nature and the lack of true perspective which are basic characteristics of the Jewish people, in spite of many exceptions. |
Những ý tưởng này có thể mang đến cho bạn một quan điểm mới mẻ về điểm đạo, và nếu bạn có thể cân nhắc và suy nghĩ đúng đắn, chúng sẽ giúp bạn phần nào đi vào Trí của Thượng đế, do đó cho phép bạn ít nhất thâm nhập vào “khu vực hứa hẹn” mà mọi hy vọng tinh thần, tất cả triển vọng và ý định năng động đằng sau quá trình tiến hóa đều phụ thuộc. “Những Đại sảnh của sự điểm đạo” (một lần nữa, nói bằng các biểu tượng) trong đó điểm đạo đồ thể hiện phẩm chất cứu chuộc của mình là “miền đất hứa” thực sự. Toàn bộ câu chuyện của người Do Thái dựa trên một sự thừa nhận sự thật cơ bản này; tuy nhiên, nó bị họ bóp méo thành một dạng sở hữu cá nhân và chủng tộc, do sự ích kỷ vật chất sâu sắc [387] của chủng tộc đó. Họ mang đến cho toàn bộ niềm hy vọng vĩnh cửu (đó là hy vọng của tất cả những người con của trí tuệ) một sự méo mó vật chất và chủng tộc và một mục tiêu thuần túy vật chất—mục tiêu của lãnh thổ. Đến lượt nó, tất cả những điều này lại dựa trên sự kiêu ngạo, bản tính hiếu chiến và thiếu quan điểm chân thực vốn là những đặc điểm cơ bản của người Do Thái, mặc dù có nhiều ngoại lệ. |
|
The “area of promise” wherein the divine thought is projected, directed and held true to the originating impulse of the planetary Logos is to be found on cosmic levels and remains there unchangeably. It is that which holds Sanat Kumara, in His Council Chamber at Shamballa, standing steadfastly by all those lives which are undergoing redemption and by all those who are the agents of the redemptive process until “the last weary pilgrim has found his way home.” These agents are the sons of men who will—each and all—demonstrate eventually “within the courts of Heaven” and at the place of initiation, the nature of their high calling; they will prove to all who can grasp the significance of the demonstration that they have only “become again in full expression what they have always been.” Now the removal of the veils of matter permits the inner glory to shine forth and—the redemptive work now being finished—”they can walk with glory in creative undertakings.” I am quoting some words which the Christ used (at an initiation held not so long ago) when addressing a group of new initiates. |
“Khu vực hứa hẹn” trong đó tư tưởng thiêng liêng được phóng chiếu, định hướng và giữ đúng với xung lực khởi nguồn của Hành tinh Thượng đế sẽ được tìm thấy trên các cấp độ vũ trụ và vẫn tồn tại ở đó một cách bất biến. Đó là điều giữ Đức Sanat Kumara, trong Phòng Hội đồng của Ngài tại Shamballa, đứng vững bên cạnh tất cả những sinh mạng đang trải qua sự cứu chuộc, và bên cạnh tất cả những người là tác nhân của quá trình cứu chuộc cho đến khi “người hành hương mệt mỏi cuối cùng đã tìm được đường về nhà.” Những tác nhân này là những người con của nhân loại, những người này—mỗi người và tất cả—cuối cùng sẽ biểu lộ “bên trong các cung điện của Thiên đàng” và tại nơi điểm đạo, bản chất của ơn gọi cao cả của họ; họ sẽ chứng minh cho tất cả những ai có thể nắm bắt được ý nghĩa của sự thể hiện rằng họ chỉ “trở lại thể hiện đầy đủ những gì họ vẫn luôn là”. Giờ đây, việc gỡ bỏ những bức màn che của vật chất cho phép ánh hào quang bên trong tỏa sáng và—công việc cứu chuộc giờ đã hoàn thành—”họ có thể bước đi với vinh quang trong những cam kết sáng tạo”. Tôi đang trích dẫn một số lời mà Đức Christ đã sử dụng (tại một lễ điểm đạo được tổ chức cách đây không lâu) khi nói chuyện với một nhóm điểm đạo đồ mới. |
|
ON HINTS |
NHỮNG GỢI Ý |
|
We will now proceed to a consideration of the hints which I have already given to you. They are seven in number. With two of them I have already dealt. They were: |
Bây giờ chúng ta sẽ tiến hành xem xét các gợi ý mà tôi đã đưa ra cho bạn. Chúng có bảy gợi ý. Tôi đã bàn đến hai trong số chúng: |
|
Hint I. The changes brought about in the Hierarchy have been the result of the work of the disciples of the world. |
Gợi ý I. Những thay đổi mang lại trong Thánh đoàn là kết quả công việc của các đệ tử trên thế giới. |
|
Hint II. Human planning today is one of the first indications of the emergence of the will aspect. |
Gợi ý II. Kế hoạch của nhân loại ngày nay là một trong những dấu hiệu đầu tiên của sự xuất hiện của khía cạnh ý chí. |
|
[388] |
[388] |
|
Five hints remain to be considered, and I list them here, not in the question form as given earlier, but in their original wording. I would ask you to read them several times straight through with concentrated thought and to note how closely they are related to each other, and how they cast a light upon the initiatory process which is unique, synthetic in value and enlightening. As I have told you, they are each of them subject to seven interpretations, but for our purposes we will confine ourselves to the study of them from the angle of accepted discipleship, i.e., of the disciples working in an Ashram and preparing for service and for initiation. |
Năm gợi ý vẫn còn được xem xét, và tôi liệt kê chúng ở đây, không phải ở dạng câu hỏi như đã đưa ra trước đó, mà ở dạng từ ngữ ban đầu của chúng. Tôi yêu cầu bạn đọc chúng nhiều lần với sự tập trung tư tưởng và lưu ý xem chúng có liên quan mật thiết với nhau như thế nào, và cách chúng soi sáng quá trình điểm đạo, vốn duy nhất, tổng hợp về giá trị, và khai sáng như thế nào. Như tôi đã nói với bạn, mỗi điều (ND: các gợi ý) trong số chúng phải tuân theo bảy cách giải thích, nhưng vì mục đích của chúng ta, chúng ta sẽ giới hạn bản thân trong việc nghiên cứu chúng từ góc độ của người đệ tử được chấp nhận, tức là các đệ tử đang làm việc trong một Đạo viện và đang chuẩn bị cho việc phụng sự và điểm đạo. |
|
Hint III. Disciples in all Ashrams have a task of “modifying, qualifying and adapting the divine Plan” simultaneously. Why is this so? Why is the Plan not imposed? |
Gợi ý III. Các đệ tử trong mọi Đạo viện có nhiệm vụ “sửa đổi, bổ sung phẩm tính và thích nghi Thiên cơ thiêng liêng” một cách đồng thời. Tại sao lại như vậy? Tại sao Thiên cơ lại không được áp đặt? |
|
Hint IV. The initiate knows because he works. What does this hint mean to you? |
Gợi ý IV. Vị điểm đạo đồ biết vì y làm việc. Gợi ý này có ý nghĩa gì với bạn? |
|
Hint V. The key to the correct interpretation of a hint lies in its association with the idea of direction in time and space. |
Gợi ý V. Chìa khóa để giải thích đúng một gợi ý nằm ở sự kết hợp của nó với ý tưởng về định hướng trong thời gian và không gian. |
|
Hint VI. The disciple must recognise the hint which is related to his point in consciousness…. My one effort is to indicate the relation between initiation and revelation. |
Gợi ý VI. Người đệ tử phải nhận ra gợi ý có liên quan đến quan điểm của y trong tâm thức… Một nỗ lực của tôi là chỉ ra mối liên hệ giữa sự điểm đạo và sự thiên khải. |
|
Hint VII. One of the marks of readiness for initiation is the ability to see the expanding and inclusive Whole, and to note the law which is transcended when the part becomes the Whole. |
Gợi ý VII. Một trong những dấu hiệu của sự sẵn sàng điểm đạo là khả năng nhìn thấy cái Toàn thể đang mở rộng và bao gồm, và ghi nhận quy luật này được vượt qua khi cái bộ phận trở thành cái Toàn thể. |
|
In connection with the sixth hint, I pointed out that revelation—induced by right orientation and right thinking—is part of the training of the initiate. Many thus in training delay their progress by not recognising the revelation when it arises above the line of their spiritual horizon. |
Liên quan đến gợi ý thứ sáu, tôi đã chỉ ra rằng sự thiên khải—được tạo ra bởi sự định hướng đúng và sự suy nghĩ đúng đắn—là một phần của quá trình huấn luyện điểm đạo đồ. Do đó, nhiều người trong quá trình huấn luyện đã trì hoãn sự tiến bộ của họ bằng việc không nhận ra sự thiên khải khi nó xuất hiện trên đường chân trời tinh thần của họ. |
|
You will note that the hints themselves frequently deal with the nature of a hint, because a hint is in reality and when properly considered, the seed or germ of an intended revelation. The Master knows well what is the next revelation [389] which will be in order for the disciple in training; through hints He sows the seed of revelation, but it remains for the disciple to discover that which the hint is intended to produce, and to nurture the seed until it flowers forth in the beauty of revelation. |
Bạn sẽ lưu ý rằng bản thân các gợi ý thường liên quan đến bản chất của một gợi ý, bởi vì một gợi ý trong thực tế và khi được xem xét đúng cách, nó là hạt giống hoặc mầm mống của sự thiên khải được dự định. Chân sư biết rõ điều thiên khải tiếp theo [389] sẽ dành cho người đệ tử trong việc huấn luyện là gì; thông qua những gợi ý, Ngài gieo hạt giống của sự thiên khải, nhưng người đệ tử vẫn phải khám phá ra điều mà gợi ý được dự định để tạo ra, và nuôi dưỡng hạt giống cho đến khi nó nở hoa trong vẻ đẹp của sự thiên khải. |
|
In seeking to elucidate these hints for you I am not doing work which you should do. I am, in fact, only marshalling for your benefit the ideas, information and concepts which are already to be found in your subconscious mind—placed there through meditation, study and experimental critical living. Having done that, I leave it to you to proceed alone and unaided towards the moment of revelation. You talk of a series of initiations, but the Masters talk in terms of a series of revelations, and Their work with Their disciples is to prepare them for revelation. Bear in mind, brother of mine, that revelation is hard to take and to hold—a point oft overlooked. It is exhausting to the personality of the disciple, but it is of no service unless the personality recognises it; it is excessively stimulating and the initiate passes through three stages where a revelation is concerned: First comes the stage of ecstacy and of supreme recognition; then darkness follows and almost despair when the revelation fades and the disciple finds that he must walk again in the ordinary light of the world; he knows now what is, but it is at this point that his test lies, for he must proceed on that inner knowledge but dispense with the stimulation of revelation. Finally, he becomes so engrossed with his service, with aiding his fellowmen and with leading them towards their next revelation that the excitement and the reaction are forgotten. He then discovers to his surprise that at any time and at will—if it serves his selfless interests—the revelation is forever his. Ponder on this. |
Trong khi tìm cách làm sáng tỏ những gợi ý này cho bạn, tôi không làm công việc mà bạn nên làm. Trên thực tế, tôi chỉ sắp xếp, vì lợi ích của bạn, những ý tưởng, thông tin và khái niệm đã được tìm thấy trong tiềm thức của bạn—chúng được đặt ở đó thông qua tham thiền, nghiên cứu và lối sống thực nghiệm tự phê bình. Sau khi hoàn thành việc đó, tôi giao nó cho bạn để tiến hành một mình, không cần sự trợ giúp, hướng đến thời điểm thiên khải. Bạn nói về một loạt các cuộc điểm đạo, nhưng các Chân sư nói về một loạt các sự thiên khải, và công việc của các Ngài với các đệ tử của các Ngài là chuẩn bị để họ được thiên khải. Huynh đệ của tôi, hãy ghi nhớ rằng sự thiên khải đó là rất khó để tiếp nhận và nắm giữ—một điểm thường bị bỏ qua. Điều đó thật mệt mỏi đối với phàm ngã của người đệ tử, nhưng nó chẳng ích lợi gì trừ khi phàm ngã nhận ra điều đó; nó kích thích quá mức, và điểm đạo đồ trải qua ba giai đoạn liên quan đến một sự thiên khải: Đầu tiên là giai đoạn của sự ngất ngây và của sự nhận biết tối cao; sau đó là bóng tối và gần như tuyệt vọng khi sự thiên khải mờ dần, và người đệ tử thấy rằng y lại phải bước đi trong ánh sáng bình thường của thế giới; bây giờ y biết điều gì đang xảy ra, nhưng thử thách của y nằm ở chính nơi đây, rằng y phải tiếp tục dựa trên kiến thức bên trong đó, nhưng bỏ qua sự kích thích của sự thiên khải. Cuối cùng, y trở nên quá say mê với việc phụng sự của mình, với việc giúp đỡ đồng loại của mình và dẫn dắt họ tới khám phá tiếp theo của họ đến nỗi sự phấn khích và phản ứng bị lãng quên. Sau đó, y ngạc nhiên phát hiện ra rằng bất cứ lúc nào và tùy ý—nếu nó phụng sự lợi ích vị tha của y—thì sự thiên khải mãi mãi là của y. Hãy suy ngẫm về điều này. |
|
Let us now study the remaining hints: |
Bây giờ chúng ta hãy nghiên cứu các gợi ý còn lại: |
|
Hint Three. “Disciples in all the Ashrams have the task of `modifying, qualifying and adapting the divine Plan’ simultaneously. Why is this so? Why is the Plan not imposed?” |
Gợi ý III. “Các đệ tử trong mọi Đạo viện có nhiệm vụ “sửa đổi, bổ sung phẩm tính và thích nghi Thiên cơ thiêng liêng” một cách đồng thời. Tại sao lại như vậy? Tại sao Thiên cơ lại không được áp đặt? |
|
[390] |
[390] |
|
You will note immediately the relation of this hint to the first one given. The concept of responsibility underlies the significance of this hint, and in connection with it I would remind you that—from the angle of the esoteric science—the sense of responsibility is the first and the outstanding characteristic of the soul. In so far, therefore, as a disciple is in contact with the soul and is becoming a soul-infused personality, and is consequently under soul direction, so far will he undertake the task presented to him in this third hint. The “modifying, qualifying and adapting” process is carried on through the medium of an intellectually focussed personality and is aided by the comprehension of which the concrete mind is capable. It is a result of the activity of the soul upon its own level and is related entirely to the hierarchical group intention and to the furthering of the divine Plan. |
Bạn sẽ lưu ý ngay lập tức mối quan hệ của gợi ý này với gợi ý đầu tiên được đưa ra. Ý niệm trách nhiệm là cơ sở cho ý nghĩa của gợi ý này, và liên quan đến nó, tôi muốn nhắc bạn rằng—từ góc độ của khoa học bí truyền—tinh thần trách nhiệm là đặc tính đầu tiên và nổi bật của linh hồn. Do đó, cho đến nay, với tư cách là một đệ tử tiếp xúc với linh hồn và trở thành một phàm ngã được linh hồn thấm nhập, và do đó chịu sự chỉ đạo của linh hồn, cho đến nay y sẽ thực hiện nhiệm vụ được trình bày cho y trong gợi ý thứ ba này. Quá trình “sửa đổi, bổ sung phẩm tính và thích nghi” được thực hiện thông qua vận cụ của một phàm ngã tập trung vào trí tuệ và được hỗ trợ bởi sự hiểu biết mà hạ trí có thể làm được. Nó là một kết quả của hoạt động của linh hồn trên cõi giới riêng của nó và hoàn toàn liên quan đến ý định của nhóm huyền giai và đến việc đẩy mạnh Thiên cơ thiêng liêng. |
|
The apprehension of this Plan by the disciple will necessarily vary according to the disciple’s point in evolution. In the very early stages of discipleship, his capacity to “modify, qualify and adapt” is small indeed, but each expansion of consciousness fits him increasingly to do this. You would find it of interest to study again the stages of discipleship as outlined in Volume I of Discipleship in the New Age. You would note how each stage (when it is a factual experience) enables the disciple to see the Plan from the angle of the Ashram and of the Master with increasing clarity; finally, there comes the time when the disciple arrives at the very heart of things and is so close to the heart of the Master that the hierarchical planning becomes something in which he shares and to which he contributes. |
Sự hiểu biết về Thiên cơ này của đệ tử nhất thiết sẽ thay đổi tùy theo vị trí của đệ tử trong quá trình tiến hóa. Trong giai đoạn đầu của quá trình làm đệ tử, khả năng “sửa đổi, bổ sung phẩm tính và thích nghi” của y quả thực là nhỏ, nhưng mỗi lần mở rộng tâm thức thì lại tăng cho y khả năng để làm được điều này. Bạn sẽ thấy hứng thú khi nghiên cứu lại các giai đoạn của Đường đạo như được nêu trong Tập I của Đường đạo trong Kỷ nguyên mới. Bạn sẽ lưu ý cách mỗi giai đoạn (khi đó là một trải nghiệm thực tế) cho phép người đệ tử nhìn thấy Thiên cơ từ góc độ của Đạo viện và của Chân sư ngày càng rõ ràng; cuối cùng, sẽ đến lúc mà người đệ tử đạt đến chính tâm điểm của sự việc và gần gũi với trái tim của Chân sư đến nỗi Thiên cơ của Thánh đoàn trở thành thứ mà y chia sẻ và đóng góp vào đó. |
|
There are two thoughts which should be here considered. First of all it should be realised that the disciple, under the Law, has to master the technique of spiritual compromise, and secondly that the three words: modify, qualify and adapt, have definite reference to the three worlds wherein the Plan must manifest. There are two kinds of compromise, brother of mine. There is the compromise in which the balance is attained for the sake of expediency, and this is usually on the side of the least desirable, the more material and the easiest. There is also the compromise which swings decision (and [391] decision is always involved in the furthering of the Plan) over towards that which concerns the spiritual values, and which will eventually bring about the greatest good for the greatest number. It is this art of compromise which the disciple has to learn, for little is gained by the imposition of the spiritual values. The compromise to be established by the disciple lies between the recognition of the stage reached by average humanity and the immediate aspects of the Plan which the Masters feel should be presented to, and recognised by, everybody. |
Có hai tư tưởng cần được xem xét ở đây. Trước hết, cần phải nhận ra rằng người đệ tử, theo Định luật, phải nắm vững kỹ thuật thỏa hiệp tinh thần, và thứ hai là ba từ: sửa đổi, bổ sung phẩm tính và thích nghi, có liên quan nhất định đến ba cõi giới, mà ở nơi đó Thiên cơ phải biểu hiện. Huynh đệ của tôi, có hai loại thỏa hiệp. Có sự thỏa hiệp trong đó sự cân bằng đạt được vì lợi ích cá nhân, và điều này thường đứng về phía ít mong muốn nhất, vật chất hơn và dễ dàng nhất. Ngoài ra còn có sự thỏa hiệp làm xoay chuyển quyết định (và [391] quyết định luôn liên quan đến việc đẩy mạnh Thiên cơ) hướng tới điều liên quan đến các giá trị tinh thần, và cuối cùng sẽ mang lại lợi ích lớn nhất cho số lượng lớn nhất. Người đệ tử phải học nghệ thuật thỏa hiệp này, bởi vì việc áp đặt các giá trị tinh thần thì thu đạt được rất ít. Người đệ tử phải thiết lập sự thỏa hiệp nằm giữa sự thừa nhận giai đoạn mà người trung bình đạt tới và những khía cạnh trước mắt của Thiên cơ mà các Chân sư cảm thấy nên được trình bày cho mọi người để được công nhận. |
|
The value to the ashram of a trained and functioning disciple lies in his ability to “see with the Ashram” that activity which is required, and the technique and mode of bringing about still another development within the eternal Plan; to this must be added the disciple’s understanding of the civilisation and the culture of which he is a part and a comprehension of the field in which his endeavour must lie. Being a functioning human being and a part of the great panorama of life, he can interpret to the Ashram what he sees of extended evil, what he notes of humanity’s striving towards the good, and the “revealing voice” of the speechless masses; his suggestions as to the immediate mode of turning the hierarchical ideas into ordinary human ideals are of importance to the Master of his Ashram. His value in this aspect of the hierarchical work is that he is not a Master, that he is necessarily closer in touch with the daily life of ordinary human beings, and that the field of his activities is with personalities, whereas the Masters and the senior initiates work with souls. When a disciple is a truly soul-infused personality, he can give to the Master most valuable assistance. There are, it should be pointed out, three types of hierarchical workers: |
Giá trị của một đệ tử được huấn luyện và hoạt động đối với Đạo viện nằm ở khả năng của y để “thấy cùng với Đạo viện” hoạt động được yêu cầu, cũng như kỹ thuật và phương thức mang lại sự phát triển khác nữa trong Thiên cơ vĩnh cửu; thêm vào điều này là sự hiểu biết của người đệ tử về nền văn minh và văn hóa mà y là một thành phần trong đó, và sự nhận thức về lĩnh vực mà nỗ lực của y phải nằm trong đó. Là một người đang hoạt động và là một phần của bức tranh toàn cảnh lớn của cuộc sống, y có thể giải thích cho Đạo viện những gì y nhìn thấy về cái ác gia tăng, những gì y ghi nhận về sự cố gắng của nhân loại hướng tới điều tốt đẹp, và “âm thanh tiết lộ” của quần chúng không nói nên lời; những đề nghị của y về phương thức trước mắt biến những ý tưởng của Thánh đoàn thành những lý tưởng của con người bình thường là quan trọng đối với Chân sư của Đạo viện của y. Giá trị của y trong khía cạnh này của công việc Thánh đoàn là y không phải là một Chân sư, rằng y nhất thiết phải tiếp xúc gần gũi hơn với cuộc sống hằng ngày của những con người bình thường, và lĩnh vực hoạt động của y là với các phàm ngã, trong khi các Chân sư và các vị điểm đạo đồ bậc cao làm việc với các linh hồn. Khi một đệ tử là một người thực sự có phàm ngã được linh hồn thấm nhập, y có thể mang đến cho Chân sư sự trợ giúp quý giá nhất. Cần chỉ ra rằng có ba loại nguời làm việc cho Thánh đoàn: |
|
1. Souls; i.e., those initiates who have taken the fourth Initiation of Renunciation and in whom the soul body, the causal body, has been destroyed. They are the Custodians of the Plan. |
1. Các linh hồn; tức là, những điểm đạo đồ đã thực hiện cuộc Điểm đạo Từ bỏ lần thứ tư, và trong các Ngài thể linh hồn, thể nguyên nhân, đã bị phá hủy. Các Ngài là những Người giám sát của Thiên cơ. |
|
2. Soul-infused personalities; these are the disciples and the initiates of the first three initiations, through [392] whom the “souls” work in the carrying out of the Plan. |
2. Những phàm ngã được linh hồn thấm nhập; đây là những đệ tử và những điểm đạo đồ của ba cuộc điểm đạo đầu tiên, thông qua [392] họ “các linh hồn” [nhóm 1 ở trên] làm việc trong việc thực hiện Thiên cơ. |
|
3. Intelligent aspirants who are not yet soul-infused personalities but who recognise the necessity of the Plan and who seek the welfare of their fellowmen. |
3. Những người chí nguyện thông minh chưa phải là những phàm ngã được linh hồn thấm nhập nhưng nhận ra sự cần thiết của Thiên cơ và những người tìm kiếm phúc lợi cho đồng loại của mình. |
|
The highest group formulates the Plan; the second group “modifies, qualifies and adapts” the Plan to contemporary human requirements and thus ensures the gradual and steady continuity of the Plan; the third group are the agents who carry this Plan to mankind and seek to make it workable, guided by spiritual compromise—the compromise evidenced by the second group. |
Nhóm cao nhất xây dựng Thiên cơ; nhóm thứ hai “sửa đổi, bổ sung và điều chỉnh” Thiên cơ theo các yêu cầu của con người đương đại, và như thế đảm bảo tính liên tục dần dần và ổn định của Thiên cơ; nhóm thứ ba là những tác nhân mang Thiên cơ này tới nhân loại và tìm cách làm cho nó khả thi, được hướng dẫn bởi sự thỏa hiệp tinh thần—sự thỏa hiệp được chứng minh bởi nhóm thứ hai. |
|
Disciples, as they grasp the Plan and are spiritually informed as to the steps to be taken to modify the Plan upon the mental plane so that its acceptance by humanity is intelligently progressive and is not dynamically imposed with consequent disastrous effects, are the primary agents. They accept the responsibility for the needed compromise, for it is their responsibility and not the responsibility of the Masters. The various aspects of the Plan—as presented to them in the Ashram—are then modified and rearranged so that the Plan becomes a series of sequential steps and is not the violent impact of an unrealised idea. It might be said that the spiritual compromise of the disciple (working with the Plan) transforms the basic idea (through mental modification) into an acceptable ideal. |
Các đệ tử, khi họ nắm bắt được Thiên cơ và được thông báo về mặt tinh thần về các bước cần thực hiện để sửa đổi Thiên cơ trên cõi trí nhằm để nhân loại chấp nhận tuần tự một cách thông minh, không bị áp đặt một cách năng động dẫn tới các hậu quả tai hại, là những tác nhân chính. Họ chấp nhận trách nhiệm về sự thỏa hiệp cần thiết, vì đó là trách nhiệm của họ chứ không phải trách nhiệm của các Chân sư. Các khía cạnh khác nhau của Thiên cơ—như được trình bày với họ trong Đạo viện—sau đó được sửa đổi và sắp xếp lại để Thiên cơ trở thành một chuỗi các bước tuần tự và không phải là tác động bạo lực của một ý tưởng không thực hiện được. Có thể nói rằng sự thỏa hiệp tinh thần của người đệ tử (đang làm việc với Thiên cơ) biến đổi ý tưởng cơ bản (thông qua sự sửa đổi trí tuệ) thành một lý tưởng có thể chấp nhận được. |
|
When the process of modification is completed, the idea—in the form of an ideal—descends to the astral plane, the plane of the emotions. There it becomes tinctured with the quality which the working disciple believes will make the best appeal to the masses of men with whom he may be working, and particularly to the aspiring intelligentsia. |
Khi quá trình sửa đổi hoàn thành, ý tưởng—dưới dạng một lý tưởng—đi xuống cõi trung giới, cõi của cảm xúc. Ở đó, nó trở nên được nhuốm màu với phẩm chất mà người đệ tử đang làm việc tin rằng sẽ tạo ra sức hấp dẫn tốt nhất đối với đám đông quần chúng mà y có thể đang làm việc cùng, và đặc biệt là đối với giới trí thức đầy khát vọng. |
|
Today two qualities are “tincturing” the ideal of the coming civilisation for which all disciples are working: Freedom and spiritual security. This is true even if the man who talks in terms of security omits the word “spiritual.” It is that for which they nevertheless seek. Then later, the ideal, “duly modified and qualified” is presented to the world of [393] men upon the physical plane, is there adapted to the differing fields of thought, to the diverse types of consciousness, and to the nations and groups with which the New Group of World Servers is working. This triangle of workers is enfolded on all sides by the world of souls and of men; its apex reaches to the highest levels of the Hierarchy; its second point is anchored in the New Group of World Servers; its lowest point penetrates into the masses of men. You have, therefore: |
Ngày nay hai phẩm chất đang “nhuốm màu” lý tưởng của nền văn minh sắp tới mà tất cả các đệ tử đang làm việc là: Tự do và an ninh tinh thần. Điều này đúng ngay cả khi con người nói về thuật ngữ an ninh và bỏ đi từ “tinh thần”. Tuy nhiên đó là điều mà họ vẫn tìm kiếm. Rồi sau đó, lý tưởng, “được sửa đổi và bổ sung phẩm tính hợp lý” được trình bày cho thế giới [393] con người trên cõi trần, ở đó nó thích nghi với các lĩnh vực tư tưởng khác nhau, với các loại tâm thức đa dạng, với các quốc gia và các nhóm mà Đoàn Người Mới Phụng sự Thế gian đang làm việc. Tam giác những người hoạt động này được bao bọc khắp mọi phía bởi thế giới của linh hồn và của con người; đỉnh của nó đạt đến các mức cao nhất của Thánh đoàn; điểm thứ hai của nó được neo trong Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian; điểm thấp nhất của nó thâm nhập vào đám đông quần chúng. Do đó, bạn có: |
|
|
|
|
There is a straight line of spiritual descent from the Masters into the ranks of men, and—in the New Group of World Servers—the task of “modifying, qualifying and adapting” is carried forward. Mistakes are often made, because this triple work is dependent upon clear vision and a balanced judgment, but in spite of everything, the work goes on and (in the long last) that which is the divine idea does emerge as an accepted ideal and, in due time, is the means of carrying the entire human family onward along the Path of Evolution. |
Có một đường thẳng tinh thần giáng xuống từ các Chân sư vào hàng ngũ con người, và—trong Đoàn Người Mới Phụng sự Thế gian—nhiệm vụ “sửa đổi, bổ sung phẩm tính và thích nghi” được thực hiện. Sai lầm thường mắc phải, bởi vì ba công việc này phụ thuộc vào tầm nhìn rõ ràng và một sự phán xét công bằng, nhưng dù thế nào, công việc vẫn tiếp diễn và (về lâu dài), ý tưởng thiêng liêng chắc chắn nổi lên như một lý tưởng được chấp nhận và, trong thời gian thích hợp, là những phương tiện đưa toàn bộ gia đình nhân loại đi theo Con đường Tiến hóa. |
|
Hint Four. “The initiate knows, because he works. What does this hint mean to you?” |
Gợi ý IV. ” Vị điểm đạo đồ biết vì y làm việc. Gợi ý này có ý nghĩa gì với bạn?” |
|
The entire story of evolution is covered in these few words. The Christ put it in other words when He said “If any man shall do His will, he shall know”; under the occult law, doing ever precedes knowledge because knowledge is gained through experiment and experience. The disciple or aspirant works always in the dark, particularly in the [394] early stages of his unfoldment, following a deep and hidden instinct towards right activity. By that hard and persistent performance of duty, under the pressure of conscience at first, under the impulse of his awakening soul, and under the influences of the Master, he moves forward from darkness to light; he discovers that obedience to his spiritual instincts leads him inevitably into the realm of knowledge, and that knowledge—when acquired—is transformed eventually into wisdom. He then becomes a Master and walks no longer in the dark. |
Toàn bộ câu chuyện về sự tiến hóa được bao hàm trong vài từ này. Nói cách khác, Đức Christ đã nói rằng: “Nếu ai làm theo ý muốn của Ngài, thì sẽ biết”; theo định luật huyền linh, hành động luôn đi trước kiến thức bởi vì kiến thức thu đạt được thông qua thử nghiệm và trải nghiệm. Người đệ tử hoặc người chí nguyện luôn luôn làm việc trong bóng tối, đặc biệt là trong [394] giai đoạn đầu của quá trình khai mở của y, theo một bản năng sâu sắc và tiềm ẩn hướng tới hoạt động đúng đắn. Bằng cách thực hiện bổn phận khó khăn và bền bỉ đó, lúc đầu, dưới áp lực của lương tâm, dưới sự thúc đẩy của linh hồn thức tỉnh của y, và dưới ảnh hưởng của Chân sư, y tiến từ bóng tối ra ánh sáng; y khám phá ra rằng sự tuân theo bản năng tinh thần của mình chắc chắn dẫn y vào lĩnh vực tri thức, và tri thức đó—khi có được—cuối cùng sẽ được chuyển hóa thành minh triết. Sau đó y trở thành một Chân sư và không còn đi trong bóng tối nữa. |
|
Aspirants usually bitterly resent the many cycles of darkness through which they seem to go; they complain of the difficulty of working in the dark and of seeing no light anywhere; they forget that the ability to work in the dark or in the light is all one inherent capacity. The reason for this is that the soul knows nothing but being, and light and dark are—to the soul—one and the same thing. Above everything else, knowledge comes through conscious experiment, and where there is no experimental activity no experience can be gained. Knowledge is the reward of both these factors—a knowledge which is not theoretical but which is proven, factual, and the intelligent result of hard work; it is also the result of frequent distress (rightly handled) and of spiritual anticipation. |
Những người chí nguyện thường phẫn nộ một cách cay đắng trước nhiều chu kỳ bóng tối mà dường như họ phải trải qua; họ phàn nàn về sự khó khăn khi làm việc trong bóng tối và không nhìn thấy ánh sáng ở bất cứ đâu; họ quên rằng khả năng làm việc trong bóng tối hay trong ánh sáng đều là một năng lực vốn có. Lý do cho điều này là linh hồn không biết gì ngoài sự hiện hữu, và ánh sáng và bóng tối—đối với linh hồn—là một và giống nhau. Trên tất cả mọi thứ, kiến thức có được thông qua thử nghiệm có ý thức, và nơi không có hoạt động thử nghiệm thì không thể đạt được kinh nghiệm. Kiến thức là phần thưởng của cả hai yếu tố này—một kiến thức không phải là lý thuyết nhưng nó đã được chứng minh, thực tế và là kết quả thông minh của sự làm việc chăm chỉ; nó cũng là kết quả của sự đau khổ thường xuyên (được xử lý đúng cách) và của sự mong đợi về mặt tinh thần. |
|
The above is true of the life and work of the individual aspirant as he tackles the problem of his own lower nature and prepares for the stage of becoming a soul-infused personality; it is true also of the working disciple, seeking knowledge and wisdom as he works out the hierarchical Plan as best he can. He must perforce experiment and gain practical experience; he must learn the meaning of both success and failure, and the knowledge which can be gained thereby. Knowledge comes at first through the struggle to move forward into greater and clearer light; then it comes as the aspirant (seeking soul expression) learns to forget himself in the need of others as they demand whatever light and knowledge he may possess; wisdom takes the place of knowledge when, in the transmuting fires of struggle, pain and [395] hard work, the aspirant transforms himself into the working disciple and is gradually absorbed into the ranks of the Hierarchy. |
Những điều trên đúng về cuộc sống và công việc của cá nhân người chí nguyện khi y giải quyết vấn đề về bản chất thấp kém của chính mình và chuẩn bị cho giai đoạn trở thành một phàm ngã được linh hồn thấm nhập; điều đó cũng đúng với người đệ tử đang làm việc, đang tìm kiếm kiến thức và minh triết khi y thực hiện Thiên cơ của Thánh đoàn một cách tốt nhất có thể. Y phải thử nghiệm một cách bắt buộc và thu đạt kinh nghiệm thực tế; y phải học ý nghĩa của cả thành công và thất bại, và kiến thức có thể thu được từ đó. Kiến thức ban đầu có được thông qua cuộc đấu tranh để tiến tới ánh sáng lớn hơn và rõ ràng hơn; sau đó nó đến khi người chí nguyện (đang tìm kiếm sự biểu lộ của linh hồn) học cách quên mình vì nhu cầu của người khác khi họ đòi hỏi bất cứ ánh sáng và kiến thức nào mà y có thể sở hữu; minh triết thay thế kiến thức khi, trong ngọn lửa chuyển hóa của đấu tranh, đau đớn và [395] lao động vất vả, người chí nguyện tự biến đổi mình thành người đệ tử đang làm việc và dần dần được hòa nhập vào hàng ngũ của Thánh Đoàn. |
|
There are other and deeper meanings than the above, but I have here indicated to you the way to fuller knowledge; the latent significance will inevitably reveal itself, as you work through experiment and experience and from experience into a manifesting expression of divinity. |
Có những ý nghĩa khác và sâu sắc hơn những ý nghĩa trên, nhưng ở đây tôi đã chỉ ra cho bạn con đường dẫn đến kiến thức đầy đủ hơn; ý nghĩa tiềm ẩn chắc chắn sẽ tự bộc lộ, khi bạn làm việc thông qua thử nghiệm và trải nghiệm và từ trải nghiệm trở thành một sự biểu lộ hiển nhiên của thiêng liêng. |
|
Hint Five. “The key to the correct interpretation of a hint lies in its association with the idea of direction in time and space.” |
Gợi ý Năm. “Chìa khóa để giải thích đúng một gợi ý nằm ở sự kết hợp của nó với ý tưởng về phương hướng trong thời gian và không gian.” |
|
I wonder, brother of mine, if you can realise that a hint is not a hint as long as it fails to give you direction and the power to move forward. A hint is not a static point of information. Correctly approached, it becomes the dynamic, underlying next step forward upon the Path of Return. It is there that the words “in time and space” come to have significance. One of the first things which a disciple has to learn is correct timing, both as regards his own experimental spiritual life and in relation to the work which he may be doing under hierarchical impression in the world of everyday affairs. It is one of the hardest lessons to learn, particularly during the stage wherein the disciple can be easily swayed by impulsive, emotional enthusiasm; it is a peculiarly hard thing for people upon the sixth Ray of Idealism or Devotion to grasp. |
Tôi tự hỏi, huynh đệ của tôi, liệu bạn có thể nhận ra rằng một gợi ý không phải là một gợi ý nếu nó không mang lại cho bạn phương hướng và sức mạnh để tiến về phía trước. Một gợi ý không phải là một điểm thông tin tĩnh. Khi được tiếp cận một cách chính xác, nó sẽ trở thành bước tiếp theo năng động, cơ bản trên Con Đường Trở Về. Chính ở đây, các từ “trong thời gian và không gian” trở nên có ý nghĩa. Một trong những điều đầu tiên mà một đệ tử phải học là tính toán thời gian chính xác, cả về đời sống tinh thần thực nghiệm của chính mình và liên quan đến công việc mà y có thể đang làm dưới ấn tượng của Thánh đoàn trong thế giới công việc hằng ngày. Đó là một trong những bài học khó học nhất, đặc biệt là trong giai đoạn mà người đệ tử có thể dễ bị lung lay bởi sự nhiệt tình bốc đồng, dễ xúc động; đó là một điều đặc biệt khó đối với những người có Cung sáu của Chủ nghĩa lý tưởng hay lòng mộ đạo Sùng tín. |
|
Disciples, in their novitiate, make more mistakes as regards time than any other; that would naturally be expected, because time is only a word for daily, eventual living. I would have you note the word “eventual” in its connotation with current events. Time is naught but a succession of events, as registered by the physical brain consciousness; these events are apt to have undue and too powerful an effect upon the disciple. Once, however, he can think of events as aspects of time, he not only begins to develop a needed continuity of consciousness, but he develops also a sense of proportion which has a stabilising and sound effect. Students [396] would do well to take the words “direction in time and space” and use them as a seed thought in meditation. The reward would be great. |
Các đệ tử, trong thời kỳ học việc của họ, mắc nhiều lỗi lầm về thời gian hơn bất kỳ điều nào khác; điều đó đương nhiên được mong đợi, bởi vì thời gian chỉ là một từ để chỉ cuộc sống hàng ngày, cuối cùng. Tôi muốn bạn lưu ý từ “cuối cùng” theo ý nghĩa của nó với các sự kiện hiện tại. Thời gian chẳng qua chỉ là một sự nối tiếp của các sự kiện, được ghi nhận bởi tâm thức của não bộ vật lý; những sự kiện này có khả năng gây ảnh hưởng quá mức và quá mạnh mẽ đến đệ tử. Tuy nhiên, một khi y có thể coi các sự kiện như các khía cạnh của thời gian, y không chỉ bắt đầu phát triển tính liên tục cần thiết của tâm thức, mà còn phát triển ý thức về tỷ lệ có một hiệu quả ổn định và hợp lý. Các môn sinh [396] sẽ làm tốt khi lấy các từ “định hướng trong thời gian và không gian” và sử dụng chúng như một hạt giống tư tưởng trong tham thiền. Phần thưởng sẽ rất tuyệt vời. |
|
It is wise to remember that “space is an entity”—as H.P.B. expressed it. When he so defined space, he gave humanity one of the most important hints it has ever received. The realisation of the existence of this entity leads to a practical recognition of the aphorism that “in Him we live and move and have our being.” It explains the necessity for the esoteric teaching anent planetary centres and the planes as states of consciousness. The disciple then begins to study himself in relation to this “all-enveloping Entity,” to ascertain the “direction” from which the various energies (which empower his life and motivate his actions) come, and to familiarise himself gradually in “the location of these power stations and of those radiant centres of light which—founded by the divine Creator—are the sources of life and the origin of light and knowledge.” Thus is it expressed in the ancient archives which, at times, I attempt to translate for you. |
Thật khôn ngoan khi nhớ rằng “không gian là một thực thể”—như HPB đã bày tỏ điều đó. Khi định nghĩa không gian như vậy, bà đã mang đến cho nhân loại một trong những gợi ý quan trọng nhất mà họ (ND: nhân loại) từng nhận được. Việc nhận ra sự tồn tại của thực thể này dẫn đến sự thừa nhận thực tế về câu cách ngôn rằng “trong Ngài, chúng ta sống, chuyển động và hiện tồn”. Nó giải thích sự cần thiết của giáo lý bí truyền liên quan đến các trung tâm hành tinh và các cõi là các trạng thái của tâm thức. Sau đó, người đệ tử bắt đầu nghiên cứu bản thân liên quan đến “Thực thể bao trùm” này, để xác định “phương hướng” mà từ đó các năng lượng khác nhau (tạo sức mạnh cho cuộc sống và thúc đẩy hành động của y) đến, và dần dần làm quen với “vị trí của những trạm năng lượng này và của những trung tâm ánh sáng chói lọi—do Đấng Tạo Hóa thiêng liêng sáng lập—là nguồn gốc của sự sống và nguồn gốc của ánh sáng và tri thức”. Đó là điều được thể hiện trong các kho lưu trữ cổ xưa mà đôi khi, tôi cố gắng dịch cho các bạn. |
|
Direction. Time. Space. With these concepts in mind, occult information begins to assume a new and deeply esoteric importance. They can be studied in two ways by the disciple (and it is for disciples I write): |
Hướng. Thời gian. Không gian. Với những khái niệm này, thông tin huyền linh bắt đầu có một tầm quan trọng mới và mang tính bí truyền sâu sắc. Người đệ tử có thể nghiên cứu theo hai cách (và tôi viết nó dành cho các đệ tử): |
|
1. As indicating the direction in time and space from whence motivating energy and illumining love can make an impact upon the receptive disciple. |
1. Như chỉ ra hướng trong thời gian và không gian mà từ đó năng lượng thúc đẩy và tình thương soi sáng có thể tác động đến người đệ tử tiếp nhận. |
|
2. As indicating (again in time and space) the direction in which the energies, manipulated by the disciple, must go as he learns to cooperate with, and work out, the hierarchical Plan. This is the positive and not the negative aspect of these words. |
2. Như chỉ ra (một lần nữa trong thời gian và không gian) hướng mà các năng lượng được điều khiển bởi người đệ tử phải đi khi y học cách hợp tác và thực hiện Thiên cơ của Thánh đoàn. Đây là khía cạnh tích cực chứ không phải tiêu cực của những từ này. |
|
The disciple moves always in a world of energies; they make an impact upon him from many and varying directions. He has to learn which energies should be rejected and those to which he should be receptive; all these energies are moving in space and are in reality the life-aspect of the space-entity; all are determined by the time factor with which the disciple [397] must familiarise himself. On the other hand, the process is reversed at times. The disciple learns to use energies—located and found by him in space—within a set time and then to direct them accurately (via the ajna centre) into the work and into the group which is under hierarchical influence, through his own immediate efforts. Ponder on this, for in these words lies hid much illumination. |
Người đệ tử luôn luôn di chuyển trong một thế giới của các năng lượng; chúng tác động đến y từ nhiều hướng khác nhau. Y phải học những năng lượng nào nên bị từ chối và những năng lượng nào mà y nên tiếp nhận; tất cả những năng lượng này đang chuyển động trong không gian, và trên thực tế là khía cạnh-sự sống của thực thể-không gian; tất cả đều được xác định bởi yếu tố thời gian mà người đệ tử [397] phải tự làm quen. Mặt khác, quá trình này đôi khi bị đảo ngược. Người đệ tử học cách sử dụng các năng lượng—do y định vị và tìm thấy trong không gian—trong một thời gian nhất định và sau đó hướng chúng một cách chính xác (qua luân xa ajna) vào công việc và vào nhóm chịu ảnh hưởng của Thánh đoàn, thông qua nỗ lực tức thì của chính y. Hãy suy ngẫm về điều này, vì trong những lời này ẩn giấu nhiều sự soi sáng. |
|
The remaining two hints will be covered in my next communication, and then the teaching upon the Hints will be concluded. The teaching upon the Formulas was concluded in the earlier instruction because enough had been given anent these abstruse forms to serve the purposes of instruction during the coming cycle. |
Hai gợi ý còn lại sẽ được đề cập trong lần trao đổi tiếp theo của tôi, và sau đó việc giảng dạy về những Gợi ý sẽ kết thúc. Việc giảng dạy về các Công thức đã được kết thúc trong hướng dẫn trước đó vì các bạn đã được cung cấp đủ các khuôn mẫu trừu tượng này để phục vụ mục đích giảng dạy trong chu kỳ sắp tới. |
|
POINTS OF REVELATION |
CÁC ĐIỂM THIÊN KHẢI |
|
We have already dealt with two of the points of revelation and have therefore considered the two which have reference to the first two initiations; these are taken upon the physical and the astral planes respectively. At the second initiation, the initiate begins for the first time (though in the most elementary form) to employ the will aspect and—in the revelation accorded—he takes a major step toward the third Initiation of the Transfiguration. This connotes the transfiguration of the personality and its liberation from the alluring imprisonment of the three worlds. Now he faces that great transitional initiation and is confronted with the revelation which has been expressed for us in the following words: |
Chúng ta đã đề cập đến hai trong số các điểm của sự thiên khải và do đó đã xem xét hai điểm có liên quan đến hai cuộc điểm đạo đầu tiên; chúng được thực hiện trên các cõi vật lý và cảm dục tương ứng. Ở lần điểm đạo thứ hai, điểm đạo đồ lần đầu tiên (mặc dù ở dạng sơ đẳng nhất) sử dụng khía cạnh ý chí và—trong sự thiên khải được ban cho —y tiến một bước quan trọng hướng đến cuộc Điểm đạo lần ba của Sự Biến hình. Điều này bao hàm sự biến đổi của phàm ngã và sự giải thoát nó khỏi sự giam cầm quyến rũ của ba cõi giới. Bây giờ y phải đối mặt với cuộc điểm đạo chuyển tiếp vĩ đại đó và đối diện với sự thiên khải đã được bày tỏ cho chúng ta bằng những lời sau đây: |
|
The Monad is to the planetary Logos what the third eye is to man. |
Chân thần đối với Hành tinh Thượng đế cũng như con mắt thứ ba đối với con người. |
|
These are mysterious words and can only be understood if brought into relation with the previous revelation, involving the Will and the Law of Sacrifice. It should be remembered that the Law of Sacrifice (in its destroying aspect) is dominant during the second, the third and the fourth Initiations. |
Đây là những từ bí ẩn và chỉ có thể hiểu được trong sự liên hệ với sự thiên khải trước đó, liên quan đến Ý chí và Luật Hy sinh. Cần nhớ rằng Luật Hy sinh (ở khía cạnh hủy diệt của nó) chiếm ưu thế trong các cuộc Điểm đạo thứ hai, thứ ba và thứ tư. |
|
1. At the second Initiation of the Baptism, the control of [398] the astral body is broken; it is sacrificed in order that the intuition, the higher counterpart of the “propelling aspiration” (as it is sometimes called) may assume control. |
1. Vào lần Điểm đạo Rửa tội thứ hai, sự kiểm soát của [398] thể cảm dục bị phá vỡ; nó được hy sinh để trực giác, đối phần cao hơn của “khát vọng thúc đẩy” (như đôi khi nó được gọi là) có thể nắm quyền kiểm soát. |
|
2. At the third Initiation of Transfiguration, the control of the personality in the three worlds is broken in order that the Son of Mind, the soul, may be substituted finally for the concrete and hitherto directing lower mind. Again, through the Law of Sacrifice, the personality is liberated and becomes simply an agent of the soul. |
2. Ở lần Điểm đạo Biến hình thứ ba, sự kiểm soát của phàm ngã trong ba cõi giới bị phá vỡ để Con của Trí tuệ, linh hồn, cuối cùng có thể được thay thế cho hạ trí, vốn vẫn chỉ đạo cho đến nay. Một lần nữa, thông qua Luật Hy sinh, phàm ngã được giải thoát và đơn giản trở thành một tác nhân của linh hồn. |
|
3. At the fourth Initiation of Renunciation, the destroying aspect of the Law of Sacrifice brings about the destruction of the causal body, the soul body, in order that the unified soul-infused personality may function directly under the inspiration of the Spiritual Triad—the triple expression or instrument of the Monad. |
3. Ở lần Điểm đạo thứ tư của Sự Phục sinh, khía cạnh hủy diệt của Luật Hy sinh mang đến sự hủy diệt của thể nguyên nhân, thể linh hồn, để phàm ngã được linh hồn thấm nhập có thể hoạt động trực tiếp dưới sự linh hứng của Tam nguyên Tinh thần—sự biểu lộ tam phân hay khí cụ của Chân thần. |
|
The significance of these “destructive episodes which produce the freeing of the prisoner of the planet” (i.e., the divine, spiritual man) lies in the fact that, after the fourth initiation, the light of purpose is the sole controlling factor in the career of the initiate; he enters then upon a stage wherein he steadily approaches closer to the “centre where the will of God is known.” It is an elementary revelation of the divine Purpose which is given at the third initiation; only the first stage of that mysterious all-embracing Purpose is at that time revealed; the remaining six initiations progressively reveal (to the Master) the all-enfolding Purpose. |
Ý nghĩa của những “giai đoạn hủy diệt tạo ra sự giải thoát cho tù nhân của hành tinh” (tức là con người thiêng liêng, con người tinh thần) nằm ở chỗ, sau lần điểm đạo thứ tư, ánh sáng của thiên ý là yếu tố kiểm soát duy nhất trong sự nghiệp của điểm đạo đồ; rồi y bước vào một giai đoạn trong đó y dần dần tiến gần hơn đến “trung tâm nơi ý chí của Thượng đế được biết đến”. Đó là một sự thiên khải sơ đẳng về Thiên Ý thiêng liêng đã được đưa ra ở lần điểm đạo thứ ba; vào thời điểm đó chỉ có giai đoạn đầu tiên của Thiên ý bao trùm tất cả bí ẩn được tiết lộ; sáu cuộc điểm đạo còn lại dần dần tiết lộ (cho Chân sư) Thiên ý bao trùm tất cả. |
|
Earlier I told you that three words should be considered in relation to the Points of Revelation: Procedure. Location. Objective. All three of them are of use here in considering the nature of the impending revelation. |
Trước đó tôi đã nói với bạn rằng ba từ nên được xem xét liên quan đến các Điểm của Sự Thiên khải: Quy trình. Vị trí. Mục tiêu. Cả ba trong số chúng đều được sử dụng ở đây trong việc xem xét bản chất của sự thiên khải sắp xảy ra. |
|
The recognition of these Points of Revelation falls automatically into two main procedures or planned processes: |
Việc công nhận các Điểm Thiên khải này tự động rơi vào hai quy trình chính hay tiến trình đã được lên kế hoạch: |
|
1. The procedure carried forward under the impulse of the Law of Sacrifice which “destroys all hindrances, breaks down all impediments and removes all individual [399] obstacles, thus releasing the initiate into that vortex of force in which he learns the method of handling the planetary correspondence of that which he has individually overcome.” These words should be carefully studied in relation to the second, the third and the fourth initiations. |
1. Quy trình được tiến hành dưới sự thúc đẩy của Luật Hy sinh để “phá hủy mọi chướng ngại, phá vỡ mọi cản trở và loại bỏ mọi trở ngại riêng lẻ [399], do đó giải phóng điểm đạo đồ vào vòng xoáy mãnh lực mà trong đó y học được phương pháp xử lý tương ứng của hành tinh về điều mà cá nhân y đã vượt qua được. Những từ này nên được nghiên cứu cẩn thận liên quan đến các cuộc điểm đạo thứ hai, thứ ba và thứ tư. |
|
2. The procedure carried forward at the remaining five initiations; in these initiatory processes there is a “spiritual absorption of the initiate into the circle and into the cycle of the Universal Mind”; the initiate is then “caught up and liberated into planetary fields of endeavour wherein the will must be employed as the Monad may direct.” |
2. Quy trình được tiến hành ở năm cuộc điểm đạo còn lại; trong những tiến trình điểm đạo này có sự “hấp thụ tinh thần của điểm đạo đồ vào vòng tròn/phạm vi và vào chu kỳ của Trí Tuệ Vũ Trụ”; điểm đạo đồ sau đó “cuốn vào và được giải phóng vào các lĩnh vực nỗ lực của hành tinh trong đó ý chí phải được sử dụng như Chân thần có thể chỉ đạo”. |
|
You can see from the above how abstruse all this advanced teaching must necessarily remain—veiled and protected in order to protect and guard the initiate. This dual procedure in relation to the crucial moment in each of the initiations is always most scrupulously guarded. The moment “wherein the initiate, standing upon the point within the triangle and not upon the square,” sees (in a flash of time) the great aligning procedure which will carry him from the immediate point of revelation on to the final glory, must and will be forever protected. |
Từ những điều trên bạn có thể thấy rằng tất cả những giáo lý cao cấp này nhất thiết phải được duy trì như thế nào—được che đậy và bảo mật nhằm bảo vệ và canh giữ cho điểm đạo đồ. Quy trình kép này liên quan đến thời điểm quan trọng trong mỗi cuộc điểm đạo luôn được bảo vệ cẩn thận nhất. Khoảnh khắc “trong đó điểm đạo đồ, đứng trên điểm bên trong tam giác chứ không phải trên hình vuông,” nhìn thấy (trong một chớp mắt) quy trình chỉnh hợp tuyệt vời sẽ đưa y từ điểm thiên khải tức thời đến vinh quang cuối cùng, cần phải và sẽ được bảo vệ mãi mãi. |
|
The location of this particular point of revelation is on the mental plane; through the alignment of the concrete, lower mind, the Son of Mind and the abstract mind, a direct channel for vision is created. The medium of revelation at this initiation is the antahkarana, which is rapidly being constructed and can thus prove the connecting link and the esoteric mode of vision. The instrument of reception is the third eye which—for a moment—is temporarily suspended from its task of directing energy upon the physical plane and then becomes a stationary, receptive organ, turned inward toward the higher light. The head centre is therefore involved, and a secondary alignment takes place between the ajna centre, the head centre and the soul body. All this takes place at a high point during the third initiation; for the first time in his personal history the initiate is completely [400] aligned and can function straight through from the head centre to the highest point of the Spiritual Triad. You have, therefore, the reason for the sudden inflow of transfiguring glory. |
Vị trí của điểm thiên khải đặc biệt này là trên cõi trí tuệ; thông qua sự chỉnh hợp của hạ trí cụ thể, Con của Trí tuệ và trí trừu tượng, một kênh trực tiếp cho tầm nhìn được tạo ra. Phương tiện của sự thiên khải trong cuộc điểm đạo này là cầu antahkarana, đang nhanh chóng được xây dựng và do đó có thể chứng minh mối liên hệ kết nối và phương thức bí truyền của tầm nhìn. Công cụ tiếp nhận là con mắt thứ ba—trong một khoảnh khắc—tạm thời bị đình chỉ khỏi nhiệm vụ điều khiển năng lượng trên cõi trần và sau đó trở thành một cơ quan tiếp nhận, tĩnh tại, quay vào trong hướng tới ánh sáng cao hơn. Do đó, luân xa đầu có liên quan, và một sự chỉnh hợp thứ hai diễn ra giữa luân xa ajna, luân xa đầu và thể linh hồn. Tất cả điều này diễn ra ở một điểm cao trong cuộc điểm đạo thứ ba; lần đầu tiên trong lịch sử cá nhân của mình, điểm đạo đồ hoàn toàn [400] được chỉnh hợp và có thể hoạt động thẳng từ luân xa đầu đến điểm cao nhất của Tam nguyên Tinh thần. Do đó, bạn có lý do cho sự tuôn chảy vào đột ngột của sự biến hình vinh quang. |
|
This is the objective of the initiation, and the triangle of procedure, location and objective is created, flashes into being, and then—at the close of the initiatory process—fades out, leaving however a permanent, new, spiritual and instinctual trend towards monadic perception and livingness. |
Đây là mục tiêu của sự điểm đạo, và tam giác quy trình, vị trí và mục tiêu được tạo ra, loé lên trong hiện hữu và sau đó—khi kết thúc quá trình điểm đạo, —mờ dần, tuy nhiên để lại một xu hướng tinh thần và bản năng mới và thường xuyên, hướng tới nhận thức và sự sống Chân thần. |
|
You will note, therefore, how this information—by pointing out the attitude of the third eye during this initiatory process and its new function in relation to the Monad—throws fresh light upon the work of the Monad. This third eye is now receptive to light from the highest source, is arresting in its outward-going activity and functions like a lens for the reflection of light and for the attaining of the highest possible inner vision for the particular point in evolution reached. All this embodies an activity which (except in the case of the highest initiates) remains very mysterious. However, a study of the use of the third eye at the third initiation will bring illumination of the teaching that the Monad is to the planetary Logos what the third eye (in its initiatory function) is to the disciple of the third degree of initiation. |
Do đó, bạn sẽ lưu ý như thế nào mà thông tin này—bằng cách chỉ ra thái độ của con mắt thứ ba trong quá trình điểm đạo này và chức năng mới của nó trong mối quan hệ với Chân thần—soi rọi ánh sáng mới mẻ vào công việc của Chân thần. Con mắt thứ ba này hiện đang tiếp nhận ánh sáng từ nguồn cao nhất, đang dừng lại hoạt động hướng ra bên ngoài của nó và hoạt động như một thấu kính để phản chiếu ánh sáng và đạt được tầm nhìn bên trong cao nhất có thể đối với điểm tiến hóa cụ thể đã đạt được. Tất cả điều này thể hiện một hoạt động mà (ngoại trừ trường hợp của những điểm đạo đồ cao cấp nhất) vẫn còn rất bí ẩn. Tuy nhiên, một nghiên cứu về việc sử dụng con mắt thứ ba trong lần điểm đạo thứ ba sẽ mang lại sự soi sáng cho giáo lý rằng Chân thần đối với Hành tinh Thượng đế cũng như con mắt thứ ba (trong chức năng điểm đạo của nó) đối với đệ tử của cấp độ điểm đạo thứ ba. |
|
The Monad is the source of light, not only to the human family, but it is the receiver of light from the threefold Sun; it is the lens through which the light of the solar Logos can flow to the planetary Logos, preserving and holding steady in that light the vision, the purpose, the will and the creative intention of the planetary Logos. |
Chân thần là nguồn ánh sáng, không chỉ đối với gia đình nhân loại, mà còn là nơi tiếp nhận ánh sáng từ Mặt trời tam phân; nó là thấu kính mà qua đó ánh sáng của Thái dương Thượng đế có thể truyền đến Hành tinh Thượng đế, duy trì và giữ ổn định trong ánh sáng đó tầm nhìn, mục đích, ý chí và ý định sáng tạo của Hành tinh Thượng đế. |
|
More along this line I may not convey to you. I can only give veiled suggestions and formulate for you certain phrases or seed thoughts which (if duly considered and reflected upon) will begin to train your perception and develop the third eye, enabling it to reorient itself and change its function when the right time and the correct emergency come. |
Tôi không thể truyền đạt thêm nữa về điều này cho bạn. Tôi chỉ có thể đưa ra những gợi ý được che giấu và hình thành cho bạn những cụm từ nhất định hoặc những hạt giống tư tưởng (nếu được xem xét và suy ngẫm đúng cách) sẽ bắt đầu rèn luyện nhận thức của bạn và phát triển con mắt thứ ba, cho phép nó tái định hướng và thay đổi chức năng của nó khi thời điểm thích hợp và sự khẩn cấp chính xác đến. |
|
I have told you that these points of revelation are the germ or seed of a certain invocative potency; this is especially true and correct where the teaching anent the third eye is concerned. Initiation is not an abstract, mystical process to [401] which the disciple is subjected upon some one or other of the subtler planes, the knowledge of which must gradually seep through into his consciousness. This may be partially true of the first two initiations (the Sirian initiations of the threshold), but all the remaining initiations involve the whole man and “three periodical vehicles,” producing a steady fusion of these three, an increasing reaction to the Light of the World, and an ability to register in the physical brain (if the initiate is functioning through karma, decision or service in the physical body) that which is undergone; in this registration process the third eye is acutely involved. From the time of the third initiation this third eye is subjected to training and begins to function in the two following ways: |
Tôi đã nói với bạn rằng những điểm thiên khải này là mầm hay hạt giống của một hiệu lực khấn nguyện nhất định; điều này đặc biệt đúng và chính xác nơi mà giáo lý liên quan đến con mắt thứ ba được quan tâm. Điểm đạo không phải là một quá trình thần bí, trừu tượng đối với [401] những gì mà người đệ tử phải chịu sự tác động của một hay một số cõi vi tế hơn, kiến thức về điều đó phải dần dần thấm nhuần vào tâm thức của y. Điều này có thể đúng một phần với hai cuộc điểm đạo đầu tiên (các cuộc điểm đạo Sirius ở ngưỡng), nhưng tất cả cuộc điểm đạo còn lại đều liên quan đến toàn bộ con người và “ba vận cụ theo chu kỳ”, tạo ra một sự kết hợp ổn định của ba vận cụ này, một phản ứng ngày càng tăng đối với Ánh sáng của Thế giới, và một khả năng ghi nhận trong não bộ vật lý (nếu điểm đạo đồ, thông qua nghiệp quả, quyết định hoặc sự phụng sự, hoạt động trong cơ thể vật lý) được trải qua; trong quá trình ghi nhận này, con mắt thứ ba có liên quan sâu sắc. Từ thời điểm của lần điểm đạo thứ ba, con mắt thứ ba này phải chịu sự huấn luyện và bắt đầu hoạt động theo hai cách sau đây: |
|
1. It is (in a measure) a correspondence to the concrete mind, with its capacity to interpret environment and experience. |
1. Nó là (trong một mức độ nào đó) một sự tương ứng với hạ trí, với khả năng diễn giải môi trường và kinh nghiệm của nó. |
|
2. It can also act as a lens or a light-gatherer from the inner and higher worlds. |
2. Nó cũng có thể hoạt động như một thấu kính hoặc một bộ thu ánh sáng từ thế giới bên trong và thế giới cao hơn. |
|
You will note, therefore, the fresh significance that these ideas give to the three stages which accompany the points of revelation: the Stage of Penetration, the Stage of Polarisation, and the Stage of Precipitation. The inferences to be drawn I shall leave you to work out for yourselves after due study of the teaching. |
Do đó, bạn sẽ lưu ý ý nghĩa mới mẻ mà những ý tưởng này mang lại cho ba giai đoạn đi kèm với các điểm thiên khải: Giai đoạn Thâm nhập, Giai đoạn Phân cực và Giai đoạn Ngưng tụ. Các kết luận được rút ra, tôi sẽ để lại cho bạn tự tìm hiểu sau khi nghiên cứu kỹ giáo lý này. |
|
Passing on to the fourth Point of Revelation, we find it covered in the following words: |
Khi chuyển sang Điểm thứ tư của sự Thiên khải, chúng ta thấy nó được bao hàm trong những từ sau: |
|
“Purpose itself is only an energy, released within the Council Chamber at Shamballa. There it must take shape.” |
“Bản thân Thiên ý chỉ là một năng lượng, được giải phóng bên trong Phòng Hội đồng ở Shamballa. Ở đó, nó cần phải thành hình.” |
|
This point of revelation carries the initiate to one of the highest points of contemplation; we are here concerned with his sudden apprehension—at the fourth Initiation of Renunciation—of another phase of the divine, conditioning Will. He has begun to recognise and to interpret—even though in [402] an elementary fashion compared to what he will recognise at the ninth initiation—the destroying aspect of the Will as it expresses itself through the Law of Sacrifice. Now, for the first time (as a result of destruction), he can begin to grasp the essential building aspect of this same Will and to appreciate his future function as a creative Builder. The building here to be carried forward, I would remind you, is not the building which is distinctive of the second divine aspect—that of Love-Wisdom. It is strictly connected with that of the first aspect of Purpose, Power or Will; it deals with the processes which precede the actual creative building, the drawing up of the blueprints (if I may use such a term) “within the confines of Shamballa,” where high spiritual Beings must lay Their plans. This is a different process to the creative building process, and is related to a mysterious undertaking which is carried forward under the “Law of Assembly.” |
Điểm thiên khải này đưa điểm đạo đồ đến một trong những điểm cao nhất của sự chiêm ngưỡng; ở đây chúng ta quan tâm đến sự hiểu biết đột ngột của y—ở lần Điểm đạo thứ tư của sự Từ bỏ—về một giai đoạn khác của Ý chí thiêng liêng kiểm soát. Y đã bắt đầu nhận ra và giải thích—mặc dù theo [402] một cách thức sơ đẳng so với những gì y sẽ nhận ra ở lần điểm đạo thứ chín—là khía cạnh hủy diệt của Ý chí khi nó tự biểu lộ qua Luật Hy sinh. Giờ đây, lần đầu tiên (do hậu quả của sự hủy diệt), y có thể bắt đầu nắm bắt được khía cạnh xây dựng cơ bản của chính Ý chí này và đánh giá cao chức năng trong tương lai của mình với tư cách là một Người xây dựng sáng tạo. Tôi xin nhắc bạn, việc xây dựng được thực hiện ở đây không phải là việc xây dựng của phương diện thiêng liêng thứ hai—Bác ái-Minh triết. Nó được kết nối chặt chẽ với khía cạnh đầu tiên của Thiên ý, Quyền năng hoặc Ý chí; nó đề cập đến các quá trình xảy ra trước khi xây dựng công trình sáng tạo thực sự, việc phác thảo các bản thiết kế (nếu tôi có thể sử dụng một thuật ngữ như vậy) “trong giới hạn của Shamballa,” nơi các Đấng tinh thần cao cả phải lên kế hoạch của các Ngài. Đây là một quá trình khác với quá trình xây dựng sáng tạo và có liên quan đến một cam kết bí ẩn được thực hiện theo “Luật Hội đồng”. |
|
The energy which is employed and with which the initiate at this time makes his first and very temporary contact is that which the planetary Logos employs as He gathers into His ring-pass-not that extra-planetary substance which must progressively be used, as the world of being and of forms makes progress under the Law of Evolution. It must be remembered, for instance, that the planetary forms are now composed of a much higher substance than in primeval days. It must also be remembered that a great process of elimination is forever going on, accompanied by a paralleling process of substitution. That which is rejected and which is occultly thrown out as no longer serving the purpose of the planetary Logos is replaced by that which “will measure up to the purpose of the Father.” It is this concept which has been travestied and distorted by the Christian teaching anent the “vicarious atonement.” This grew out of a basic confusion between the Law of Sacrifice and the Law of Assembly, and took place when any understanding of the nature of the Father remained a supreme mystery; the whole process was then interpreted in terms of the first and highest Aspect of the essential Trinity, of which man knew nothing, instead of in terms of the second Aspect, the building, magnetic [403] aspect of Love. We are—if it could be but realised—in process of re-interpreting and re-arranging what can be called “the doctrinal structure underlying the relation between knowledge and wisdom.” This involves the destruction of old concepts such as the trinity of manifestation, and the assembly of those new and more correct ideas which must inevitably be substituted for the old, as the unfoldment of the first aspect is presented to the initiate upon the Path. This, through certain later activities, will gradually seep downwards into the consciousness of humanity, and the new world religion will be founded upon a deeper spiritual perception of the Father or Life Aspect, in place of the rapidly crystallising vision of the Son or consciousness aspect. |
Năng lượng được sử dụng, và là năng lượng mà điểm đạo đồ tại thời điểm này thực hiện tiếp xúc lần đầu tiên và rất tạm thời, là năng lượng mà Hành tinh Thượng đế sử dụng khi Ngài tập hợp vào vòng giới hạn của Ngài chất liệu ngoại-hành tinh mà phải được sử dụng dần dần, khi thế giới hiện tồn và (thế giới – ND) của các hình tướng tiến bộ theo Luật Tiến hóa. Ví dụ, cần phải nhớ rằng các hình tướng hành tinh hiện nay được cấu tạo bởi một chất liệu cao hơn nhiều so với thời nguyên thủy. Cũng cần phải nhớ rằng một quá trình đào thải lớn sẽ diễn ra mãi mãi, đi kèm với một quá trình thay thế song song. Những gì bị từ chối và bị loại bỏ một cách huyền bí vì không còn phụng sự mục đích của Hành tinh Thượng đế được thay thế bằng cái “sẽ phù hợp với mục đích của Chúa Cha.” Chính khái niệm này đã bị bôi nhọ và bóp méo bởi giáo huấn của đạo Cơ đốc liên quan đến “sự chuộc tội thay thế”. Điều này nảy sinh từ sự nhầm lẫn cơ bản giữa Luật Hy sinh và Luật Hội đồng, và xảy ra khi bất kỳ sự hiểu biết nào về bản chất của Chúa Cha vẫn còn là một bí ẩn tối cao; toàn bộ quá trình sau đó được giải thích theo Phương diện thứ nhất và cao nhất của Ba Ngôi cơ bản, mà con người không biết gì, thay vì theo Phương diện thứ hai, khía cạnh xây dựng, khía cạnh từ tính [403] của Tình thương. Chúng ta—nếu chỉ cần nhận thức ra—đang trong quá trình diễn giải-lại và sắp xếp-lại cái có thể gọi là “cấu trúc học thuyết nền tảng về mối quan hệ giữa kiến thức và minh triết.” Điều này liên quan đến việc phá hủy các khái niệm cũ như ba ngôi biểu hiện, và sự tập hợp những ý tưởng mới và chính xác hơn mà chắc chắn phải được thay thế cho những ý tưởng cũ, khi sự khai mở của khía cạnh thứ nhất được trình bày cho điểm đạo đồ trên Thánh đạo. Điều này, thông qua một số hoạt động sau này, sẽ dần dần thấm sâu vào tâm thức của nhân loại, và tôn giáo thế giới mới sẽ được hình thành dựa trên nhận thức tinh thần sâu sắc hơn về Chúa Cha hoặc Khía cạnh Sự sống, thay cho tầm nhìn kết tinh nhanh chóng về Chúa Con hoặc khía cạnh/trạng thái tâm thức. |
|
You get a clue here to the teaching which I have oft given to you, that the higher processes of spiritual unfoldment must consciously give way to a much higher phase of perception, for which we have, as yet, no word. In relation to consciousness, we speak constantly of initiation; in relation to this new process of simultaneous perception and interpretation, we employ the rather vague word “identification.” |
Ở đây bạn có manh mối về lời dạy mà tôi thường đưa ra, rằng các quá trình khai mở tinh thần cao hơn phải nhường chỗ một cách có ý thức cho một giai đoạn nhận thức cao hơn nhiều, mà chúng ta vẫn chưa có từ nào diễn tả. Liên quan đến tâm thức, chúng ta thường xuyên nói về sự điểm đạo; liên quan đến quá trình nhận thức và giải thích đồng thời mới mẻ này, chúng ta sử dụng từ khá mơ hồ là “đồng nhất hoá.” |
|
The process in which the initiate is now permitted to share during and after the fourth Initiation of Renunciation (which is presented to him in a successive series of points of revelation) is made possible by his submission to the Law of Sacrifice. This, in its turn, brings his consciousness under the influence—in developing stages—of the Law of Assembly. This is a law to which I have not yet made reference in any of my previous instructions. The initiate can now—through appreciated and comprehended revelation—add to his work with the Plan and its building technique, a capacity to work with divine Purpose and with those substances (etheric in nature) and those energies which permeate the cosmic etheric body (the four higher planes of our cosmic physical plane) under a law which is set in motion by the Father, but which makes the building activity of the Son possible, so that it is utterly in line with divine Purpose. |
Quá trình mà giờ đây điểm đạo đồ được phép chia sẻ trong và sau lần Điểm đạo thứ tư của sự Từ bỏ (được trình bày cho y trong một loạt các điểm thiên khải liên tiếp) có thể thực hiện được bằng cách y tuân theo Luật Hi sinh. Điều này, đến lượt nó, lại khiến tâm thức của y chịu ảnh hưởng—trong các giai đoạn phát triển—của Luật Hội đồng. Đây là luật mà tôi chưa từng đề cập đến trong bất kỳ hướng dẫn nào trước đây của mình. Giờ đây, điểm đạo đồ có thể—thông qua sự thiên khải được đánh giá cao và thấu hiểu—thêm vào công việc của mình với Thiên cơ và kỹ thuật xây dựng nó, một khả năng làm việc với Thiên ý thiêng liêng và với những chất liệu đó (có bản chất dĩ thái) và những năng lượng thấm vào thể dĩ thái vũ trụ (bốn cõi cao hơn của cõi hồng trần vũ trụ của chúng ta) theo một luật do Chúa Cha ấn định, nhưng làm cho hoạt động xây dựng của Chúa Con có thể thực hiện được, sao cho nó hoàn toàn phù hợp với Thiên ý thiêng liêng. |
|
Another angle of this process, revealed by the point of revelation attained in the fourth initiation, is that there is then indicated the very highest point of the process of redemption, [404] because the energies released within the Council Chamber of Shamballa are “the living substance which is substitutory in nature and which is made available to the progressing point of light.” That point in the divine consciousness which can be called (for our purposes) the Unit, Man, redeems sequentially the substance of which all forms are made and brings into manifestation the higher counterpart of that substance, released—for man’s use—at Shamballa. This is a deep mystery and I fear it is not possible for me to express these ideas with greater clarity. However, under the Law of Correspondence or Analogy, the initiate can gradually come to a true perception of the significances involved. These points of revelation emanate from the world of significances, and not from the world of meaning; they cast light, if truly interpreted and in due time, upon that world of meaning, thereby redeeming and liberating the forms in the world of appearances. |
Một góc độ khác của quá trình này, được tiết lộ bởi điểm thiên khải đạt được trong lần điểm đạo thứ tư, là sau đó điểm cao nhất của quá trình cứu chuộc được chỉ ra, [404] bởi vì các năng lượng được giải phóng trong Phòng Hội đồng của Shamballa là “chất liệu sự sống có bản chất thay thế và có thể được cung cấp cho điểm ánh sáng đang tiến triển.” Điểm trong tâm thức thiêng liêng đó có thể được gọi là (cho mục đích của chúng ta) là Đơn vị, Con người, tuần tự cứu chuộc chất liệu mà mọi hình tướng được tạo ra, và đưa vào biểu lộ đối phần cao hơn của chất liệu đó, được giải phóng—cho con người sử dụng—tại Shamballa. Đây là một bí ẩn sâu sắc và tôi e rằng tôi không thể diễn đạt những ý tưởng này một cách rõ ràng hơn. Tuy nhiên, theo Luật Tương Ứng hoặc Tương Đồng, điểm đạo đồ có thể dần dần đạt đến nhận thức thực sự về những thâm nghĩa liên quan. Những điểm thiên khải này bắt nguồn từ thế giới của thâm nghĩa, chứ không phải từ thế giới của ý nghĩa; chúng soi sáng, nếu thực sự được giải thích và vào thời điểm thích hợp, lên thế giới ý nghĩa đó, nhờ đó cứu chuộc và giải phóng các hình tướng trong thế giới hiện tượng. |
|
You have therefore, in this suggested point of revelation, the same three sequential methods of apprehension of truth as is to be found in all such revelations. What are these methods? |
Do đó, trong điểm thiên khải được gợi ý này, bạn có ba phương pháp tuần tự giống nhau của sự hiểu biết chân lý như được tìm thấy trong tất cả những điều thiên khải như vậy. Những phương pháp này là gì? |
|
There is, first of all, the recognition of a great procedure which must, under the Law of Assembly, be responsible for the bringing in of extra-planetary energies as the redemption of the worlds of being and of form is carried forward by the second divine aspect. Of this procedure I can tell you naught. The place or the location of the procedure of assembly is made clear. It is in the Council Chamber of Shamballa. I would, however, brother of mine, call your attention to the fact that Shamballa is simply a word conveying the idea of a vast focal point of energies which are assembled and brought together by the planetary Logos in order to create a manifestation adequate to His unfolding intention and planetary service. The objective is equally clear; it is the assembly of that which has in it energies of redemption. Just as the Science of Redemption, under the hierarchical Plan, is the technique employed to redeem the world of appearances, so—on a much higher level—the Law of Assembly [405] produces the Science of Energy which is the redemptive process (in a sense which you cannot possibly understand) influencing the work of those who labour for redemption in the world of meaning. |
Trước hết, có sự nhận biết của một quy trình vĩ đại, theo Luật Hội đồng, phải chịu trách nhiệm cho việc mang lại các năng lượng ngoại hành tinh khi việc cứu chuộc các thế giới hiện hữu và (thế giới – ND) của hình tướng được thực hiện bởi khía cạnh/trạng thái thiêng liêng thứ hai. Về tiến trình này, tôi không thể nói gì với bạn. Địa điểm hoặc vị trí của quy trình của sự tập hợp đã được làm rõ. Đó là trong Phòng Hội đồng của Shamballa. Tuy nhiên, huynh đệ của tôi, tôi kêu gọi sự chú ý của bạn đến thực tế rằng Shamballa chỉ đơn giản là một từ truyền đạt ý tưởng về một tâm điểm rộng lớn của các năng lượng được tập hợp và kết hợp cùng nhau bởi Hành tinh Thượng đế để tạo ra một biểu hiện tương xứng với ý định khai mở và phụng sự hành tinh của Ngài. Mục tiêu cũng rõ ràng như thế; nó là sự tập hợp của những gì có trong chúng những năng lượng của sự cứu chuộc. Cũng giống như Khoa học về Sự Cứu chuộc, theo Thiên cơ của Thánh đoàn, là kỹ thuật được sử dụng để cứu chuộc thế giới hiện tượng, vì vậy—ở một cấp độ cao hơn nhiều—Luật Hội đồng [405] tạo ra Khoa học Năng lượng, là quá trình cứu chuộc (trong một ý nghĩa mà bạn không thể hiểu được) ảnh hưởng đến công việc của những ai lao động để cứu chuộc trong thế giới của ý nghĩa. |
|
Again you see how all this comes under the three stages of Penetration, Polarisation and Precipitation, for it is related to the assembling of the redemptive energies brought into our ring-pass-not through the activity of Beings at Shamballa Who can penetrate into extra-planetary spheres and then focus (within the Council Chamber at Shamballa) the energies thus assembled. They can then precipitate them into the ring-pass-not of the Hierarchy, and consequently hasten the redemptive work and carry the energies from the highest levels of the cosmic physical plane down to the lowest level of outer, dense physical manifestation. |
Một lần nữa, bạn thấy tất cả điều này diễn ra như thế nào trong ba giai đoạn Thâm nhập, Phân cực và Ngưng tụ, vì nó liên quan đến việc tập hợp các năng lượng cứu chuộc được đưa vào vòng giới hạn của chúng ta thông qua hoạt động của Đấng Hiện tồn tại Shamballa, Ngài có thể thâm nhập vào các tinh cầu ngoài-hành tinh, và sau đó tập trung (trong Phòng Hội đồng ở Shamballa) các năng lượng được tập hợp lại như vậy. Sau đó, chúng [các năng lượng] có thể phóng hiện vào vòng giới hạn của Thánh đoàn, và do đó đẩy nhanh công việc cứu chuộc và mang năng lượng từ các cấp độ cao nhất của cõi vật lý vũ trụ xuống cấp độ thấp nhất của biểu hiện vật lý dày đặc bên ngoài. |
|
The agent of this process is the energy of the intuition or the energy of pure reason. This is the mental quality “within the ring-pass-not of the Universal Mind” which is increasingly employed by the higher initiates in the work of assembling energies. This energy is perceptive of the stage of redemption attained in the world of appearances as the Hierarchy applies the redemptive energies; it is also perceptive of the quality and the stage of activity which the new energies to be assembled must possess. |
Tác nhân của quá trình này là năng lượng của trực giác hoặc năng lượng của lý trí thuần túy. Đây là tính chất trí tuệ “nằm trong vòng giới hạn của Trí Tuệ Vũ Trụ”, cái mà ngày càng được các vị điểm đạo cấp cao sử dụng trong công việc tập hợp năng lượng. Năng lượng này là nhận thức được giai đoạn cứu chuộc đạt được trong thế giới hiện tượng khi Thánh đoàn áp dụng năng lượng cứu chuộc; nó cũng nhận thức được tính chất và giai đoạn hoạt động mà các năng lượng mới được tập hợp phải có. |
|
I would call your attention to the fact that this point of revelation is related to the plane of pure reason or to the buddhic plane; this is the lowest of the cosmic etheric levels; it is therefore a plane of “transitional ejection”—a level from which the new and assembled energies are “let loose upon the world of outer forms.” This process has been greatly facilitated since the entire Hierarchy shifted its location (since 1925 A.D.) from the higher mental levels to the buddhic plane, thereby making direct and unimpeded etheric reception possible. This is one of the significances of the words which we read in The New Testament that “the veil of the Temple was rent in twain from the top to the bottom”—a symbolic way of expressing the unveiling of an unimpeded channel. This was made possible by the Christ as the [406] Avatar, working in cooperation with the Master Jesus, and also by the point of evolution reached by the humanity of that time. |
Tôi muốn bạn chú ý đến thực tế là điểm thiên khải này có liên quan đến cõi lý trí thuần túy hay cõi bồ đề; đây là cấp độ [cõi] thấp nhất trong các cấp độ dĩ thái vũ trụ; do đó nó là một cõi của “sự phóng ra chuyển tiếp”— một cấp độ mà từ đó các năng lượng mới và tập hợp được “thả lỏng vào thế giới của các hình tướng bên ngoài.” Quá trình này đã được tạo điều kiện thuận lợi rất nhiều kể từ khi toàn bộ Thánh đoàn chuyển vị trí của nó (kể từ năm 1925 sau Công nguyên) từ các cõi thượng trí sang cõi bồ đề, do đó có thể tiếp nhận dĩ thái trực tiếp và không bị cản trở. Đây là một trong những ý nghĩa của những từ mà chúng ta đọc trong Tân Ước rằng “màn che của Đền thờ bị xé làm đôi từ trên xuống dưới”—một cách biểu tượng để diễn tả việc tiết lộ một kênh không bị cản trở. Điều này đã được thực hiện bởi Đức Christ với tư cách là Đấng Avatar [406], làm việc với sự hợp tác của Chân sư Jesus, và cũng nhờ điểm tiến hóa mà nhân loại đã đạt được vào thời đó. |
|
We will leave the fifth point of revelation at this time and consider it in our next instruction. It is one of tremendous importance, for it concerns the highest aspect of the Will and covers the synthesis of the energies of the five planes of human and superhuman evolution. This synthesis precedes the work done on the two highest planes of divine unfoldment, and comes to its focus and its full expression at the time of the sixth Initiation of Decision. |
Chúng ta sẽ để lại điểm thiên khải thứ năm vào lúc này và xem xét nó trong hướng dẫn tiếp theo của chúng ta. Nó là một trong những điểm vô cùng quan trọng, vì nó liên quan đến phương diện cao nhất của Ý chí và bao gồm sự tổng hợp các năng lượng của năm cõi tiến hóa của nhân loại và siêu nhân loại. Sự tổng hợp này có trước công việc được thực hiện trên hai cõi cao nhất của sự khai mở thiêng liêng, và đi đến trọng tâm và biểu hiện đầy đủ của nó vào thời điểm Điểm đạo Quyết định lần thứ sáu. |




