Đường Đạo Trong Kỷ Nguyên Mới II – Section I

  • Click vào số trang giữa dấu ngoặc [ ] để đến trực tiếp bình giảng có liên quan, hoặc vào [Đến Bình Giảng]

PHẦN MỘT—NÓI CHUYỆN VỚI CÁC ĐỆ TỬ

Commentary #24  [Đến Bình Giảng]

LỜI TỰA—INTRODUCTION

Mrs. Bailey asked me to write an introduction to the second volume of “Discipleship in the New Age” and I therefore now gladly comply. The introduction written by her in the first volume may be profitably reread in relation to both volumes.

Tôi rất hân hạnh viết lời giới thiệu cho Tập 2 của “Đường đạo trong kỷ nguyên mới” theo đề xuất của Bà Bailey. Tôi mong các bạn sẽ đọc lại lời giới thiệu do bà viết trong tập đầu tiên vì nó có liên quan và rất hữu ích cho cả hai tập. 

The Master Djwhal Khul, known also as “The Tibetan,” took advantage of the opportunity of the availability of A.A.B. as a trained collaborator and initiated an unique and pioneering experiment in new age training for group initiation. 

Chân sư Djwhal Khul, còn được gọi là Chân sư “Tây Tạng” đã khéo léo tận dụng một điểm đạo đồ giỏi như bà A.A.B. để khởi đầu cho thử nghiệm tiên phong độc đáo của mình trong công tác huấn luyện điểm đạo nhóm của kỷ nguyên mới. 

This involved the entry of those qualifying into His Ashram there to stay as they hastened their progress or to pass on to other Ashrams as the case might be.

Điều này liên quan đến việc những người đủ điều kiện gia nhập vào Asram của Ngài,  nơi họ có thể ở lại để đẩy nhanh sự phát triển của họ, hoặc tiếp tục hành trình đến các Đạo viện khác tuỳ  trường hợp. 

For this purpose the Master selected some fifty people, most but not all of whom were known to A.A.B., to whom this unique and transcendent opportunity was offered. Almost everyone accepted but some did not stay very long. It was not easy. As was inevitable and very human, some as time went on reacted well, others not. It is hard to keep a right balance between the soul and the personality when the spiritual stimulant is relentlessly high. The rushing into the personal life of soul force is like sunshine in a garden. Weeds as well as flowers emerge.

Để phục vụ cho mục đích này, Chân sư đã chọn ra khoảng năm mươi đệ tử để trao cơ hội độc nhất này, và ngay cả bà A.A.B. cũng không hoàn toàn biết hết tất cả họ. Hầu hết mọi người đều chấp nhận, nhưng một số trong các đệ tử này đã không thể trụ lại lâu. Bởi nhiệm vụ này là không hề dễ dàng. Một cách tất yếu và cũng rất con người, theo thời gian có người thuận lợi vượt qua thử thách, nhưng cũng có người thì không. Thật khó để giữ cân bằng giữa linh hồn và phàm ngã khi việc kích thích tinh thần không ngừng tăng cao. Việc tuôn đổ năng lượng linh hồn vào cuộc sống cá nhân giống như sự tuôn đổ của ánh nắng mặt trời vào một khu vườn. Cả cỏ dại và hoa đều từ đó mà nẩy nở. 

It was a new age group forcing process, tested in operation by the use of this group of chelas all of whom had voluntarily accepted, and any one of whom was free to leave at any time without blame. The values achieved were much more than any obvious comment can display. Much of the deeper values are more subtle and slow to emerge. Individuals benefited greatly. As a group achievement it was not a success as is made abundantly clear in these pages, but the group is a living entity on the inner planes of possible great future usefulness.

Đây là quá trình thúc đẩy của một nhóm thế hệ mới, được thử nghiệm hoạt động thông qua nhóm đệ tử này, mọi người trong đó đều tự nguyện tham gia và hoàn toàn có thể rời đi bất kì lúc nào mà không bị trách cứ. Những giá trị đạt được đã vượt xa bất kỳ lời nhận xét rõ ràng nào có thể hiển thị. Nhiều giá trị sâu sắc hiện ra một cách tinh tế và chậm rãi hơn. Các cá nhân cũng được hưởng lợi rất nhiều. Dưới góc độ thành tựu nhóm, đó không phải là một thành công như được ghi chép rõ  ràng trong những trang sách này, nhưng nhóm là một thực thể sống động trên các cõi giới bên trong, có thể hữu ích to lớn trong tương lai.

[xii] 

[xii] 

Mrs. Bailey gave unsparingly of her life and strength to do this work which was to her an extra and a heavy burden. It was particularly distasteful to her to take the personal instructions. Indeed sometimes when certain individuals did not like what the Tibetan said to them about themselves they blamed her.

Bà Bailey đã cống hiến hết phần lớn cuộc đời và sức lực của mình cho công việc khó khăn và nhọc nhằn này. Và việc nhận những huấn thị cá nhân này đặc biệt gây khó chịu với bà. Trên thực tế, đôi khi một số cá nhân không thích những gì mà Chân sư Tây Tạng nói về bản thân họ, họ lại đổ lỗi cho bà. 

The training given to this group was not a part of Mrs. Bailey’s system of training in the Arcane School. The Arcane School is not a training school for initiation and the goal is not to help the student to get into an ashram or to contact a Master. The purpose of the Arcane School is, and always has been, to help the student to move forward more quickly on the Path of Discipleship. It does not deal either with the problems incident to the Probationary Path nor of the Path of Initiation. The Master Djwhal Khul has stated that in the new age the field of training for the disciple is in the New Group of World Servers.

Việc huấn luyện cho nhóm này không phải là một phần của hệ thống huấn luyện tại Trường Arcane của bà Bailey. Trường Arcane không phải là một trường huấn luyện điểm đạo và mục tiêu không phải là để giúp môn sinh vào được một Đạo viện hoặc tiếp xúc với Chân sư. Mục đích của Trường Arcane luôn luôn là để giúp môn sinh di chuyển về phía trước nhanh hơn trên Con đường Đệ tử. Nó không giải quyết các vấn đề hoặc là sự cố trên con đường Dự bị cũng như con đường Điểm đạo. Chân sư Djwhal Khul đã tuyên bố rằng trong kỷ nguyên mới lĩnh vực huấn luyện cho các đệ tử thuộc về nhóm Đoàn người mới phụng sự Thế gian. 

The decision to publish the record (or most of it) was an unexpected development to the Tibetan but welcomed by Him. He said that this act attracted the attention of other members of the Hierarchy. The appearance of the first volume has already proved a major addition to the entire esoteric field, especially in terms of what modern discipleship really is, and the practical realistic attitude that a Master has to his chela.

Quyết định ấn hành các ghi chép (hay phần lớn nội dung của nó) là bước tiến bất ngờ đối với Chân sư Tây Tạng nhưng Ngài hoan nghênh. Ngài nói rằng hành động này đã thu hút sự chú ý của các thành viên khác của Thánh đoàn. Tập đầu tiên được phát hành đã chứng minh sự đóng góp quan trọng cho lĩnh vực nội môn, đặc biệt là làm rõ bản chất của các khái niệm về Đệ Tử Đương Đại chân chính và tư duy huấn luyện thực tế của một Chân Sư.

This second volume brings additional teaching both in the general text and in the remaining personal instructions which are amazingly frank and direct. A few personally assigned meditations are included to show the technique of the training in individual cases, but the individual training was always incidental to a planned special group achievement.

Tập thứ hai này bổ sung thêm các huấn thị thể hiện trong văn bản nói chung và trong các huấn thị cá nhân vô cùng thẳng thắn và trực tiếp. Một vài tham thiền cá nhân được giao để minh họa kỹ thuật của công tác huấn luyện các cá nhân, nhưng việc huấn luyện này lại phần nào liên quan đến thành tựu đóng góp của cá nhân cho kế hoạch đặc biệt của nhóm. 

It should be remembered that these meditations are dangerous to use except as prescribed by a Master and used under His watchful eye, just as there are many medicines available to the public which are not safe except as directed by a physician.

Nên nhớ rằng những bài thiền này là nguy hiểm nếu không có chỉ thị từ Chân sư và sự giám sát chặt chẽ của Ngài, điều này giống như có rất nhiều loại thuốc ở bên ngoài không an toàn cho người dùng vì không có chỉ định của bác sĩ. 

An examination of the text will reveal many factors knowable only to a Master which made these meditations safe and the breathing exercises useful while He was watching [xiii] the effects. For example: He knew not only the Ray qualities of all the vehicles but also the degree of response to Ray stimulant of any particular vehicle in relation to total, balanced progress. He knew also the conditioning Rays of the previous incarnation which may appear as a “hangover” not to be developed but to be transcended.

Nghiên cứu kĩ càng nội dung này, sẽ khám phá thêm nhiều yếu tố mà chỉ có cấp Chân Sư mới biết được, những kiến thức hữu ích về tham thiền an toàn và luyện tập hơi thở dưới sự giám sát [xiii] và theo dõi của Ngài. Ví dụ: Ngài biết không chỉ những phẩm tính Cung của tất cả các vận cụ mà còn là mức độ đáp ứng với kích thích Cung của bất kỳ vận cụ đặc biệt xét trên tổng thể và quá trình cân bằng. Ngài cũng biết các Cung điều kiện/di sản của kiếp trước có thể xuất hiện như là một “vết tích/tàn tích” không phải để phát triển mà để vượt lên. 

He knew the astrological characteristics of the soul, a factor as yet unknown to present day astrology but of much importance in advanced stages of discipleship. 

Ngài đã biết những đặc điểm chiêm tinh của linh hồn, yếu tố còn bí ẩn với chiêm tinh học đương đại nhưng lại đóng một vài trò vô cùng quan trọng trong các giai đoạn phát triển cao của người đệ tử. 

He knew the exact condition and degree of unfoldment of all the force centres in the chela which in certain cases He stated in exact percentages. Even with this knowledge given us we could not know which centre to stimulate next nor how much. Moreover Djwhal Khul has said that given a consecrated active life of selfless service to one’s fellow man the centres will unfold naturally and safely without attention to them.

Ngài đã biết tình trạng chính xác và mức độ khai mở của tất cả các luân xa trong người đệ tử, trong một số trường hợp Ngài đã nêu theo tỷ lệ phần trăm cụ thể. Trong khi đó, ngay cả khi được cung cấp kiến ​​thức này chúng ta vẫn không thể biết được cần kích thích luân xa nào và tiếp theo như thể nào. Hơn nữa Chân Sư Djwhal Khul từng dạy rằng, khi ta sống một cuộc đời tận tụy, phụng sự vô kỉ cho đồng loại thì các luân xa sẽ khai mở một cách tự nhiên và an toàn mà ta không cần quan tâm đến chúng. 

The Master also knew the basic and planned purpose of the soul for the present incarnation, the hidden hindering karmic forces working out and the latent spiritual capacities previously achieved which could be wisely called upon.

Ngài cũng biết mục đích cơ bản và kế hoạch của linh hồn cho hiện kiếp, các mãnh lực nghiệp chướng ẩn tàng và những năng lực tâm linh tiềm ẩn đã từng đạt được vốn có thể được khéo léo đánh thức.

Someday we shall have occult schools of meditation giving training for initiation. There are none such today. Those claiming to give such training are false teachers, often sincere but self-deluded. This also has been stated both by the Tibetan and by A.A.B.

Một ngày nào đó chúng ta sẽ có trường huyền môn về tham thiền cho việc huấn luyện điểm đạo. Ngày nay chưa có những trường này. Những người tuyên bố cung cấp huấn luyện, đào tạo trong lĩnh vực này thường là những vị thầy giả, cũng có ý định tốt nhưng dễ bị lầm lối. Cả Chân Sư Tây Tạng và bà A.A.B. đều đã khẳng định điều này

Foster Bailey

Foster Bailey 

March 1955

Tháng 3 năm 1955

Commentary #25  [Đến Bình Giảng]

LỜI GIỚI THIỆU

[3]

[3]

January 1940

Tháng 1 năm 1940

MY BROTHER:

Các HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

May I say that when I am able to start my instruction to this New Seed Group with the words “My Brothers,” you will then know that an adequate measure of group-integration has been achieved and that the real group work can begin. I have earlier stated the wider and more important objectives[1]* which are, as you saw, entirely impersonal. I would commit this particular objective to your intelligent consideration. I would have you begin your new work with this objective and goal in your defined consciousness. I therefore stated the objective clearly, so that your minds may be tuned to mine—as far as that may be practically possible. Let your horizon be wide, my brother, and your humility great. I am here speaking individually to you, for you are as yet (the majority of you) individually polarised and the group polarisation lies ahead.

Khi tôi sẵn sàng bắt đầu hướng dẫn cho Nhóm Hạt giống Mới này bằng cụm từ “Các Huynh Đệ của tôi”, thì các bạn sẽ biết rằng một chúng ta đã đạt được một mức độ tích hợp nhóm phù hợp và công việc nhóm thực sự có thể bắt đầu. Trước đó, tôi đã đề cập đến những mục tiêu rộng lớn và quan trọng hơn, những mục tiêu mà, như các bạn đã thấy, hoàn toàn vô ngã. Tôi trao mục tiêu đặc biệt này để các huynh đệ khéo léo một cách thông minh. Tôi muốn các bạn bắt đầu công việc mới với mục tiêu và mục đích này trong tâm thức xác định của mình. Cũng vì vậy, tôi đã nêu rõ mục tiêu, để tâm trí của bạn có thể đồng điệu nhất có thể với tâm trí của tôi. Các huynh đệ của tôi, hãy mở rộng tầm nhìn và hãy thật khiêm tốn. Ở đây, Tôi đang nói chuyện riêng với mỗi người trong các bạn, bởi đến nay (phần lớn các bạn) vẫn đang phân cực một cách cá nhân và sự phân cực nhóm còn nằm ở phía trước.

I have given much thought to what I have enjoined upon you in your personal instruction. I have attempted to gauge you and your need from the point of the next lesson you need to learn and the next step that you can take which will release you, each and all, for fuller and deeper spiritual service. I have not attempted to consider you from the point of your attainment upon the Path. I have attempted to aid you in the instructions as a group more than as individuals, and I will therefore ask you to read each other’s instructions with great care, for you will find your name and perhaps some suggestions occurring in other papers than your own. It is as a group that you work and as a group you go forward.

Tôi đã suy ngẫm nhiều về những yêu cầu tôi đặt ra trong hướng dẫn cá nhân của các bạn. Tôi đã cố gắng đánh giá các bạn và nhu cầu của các bạn từ góc độ của bài học tiếp theo mà các bạn cần học, và bước tiếp theo mà các bạn có thể thực hiện vốn sẽ giải phóng chính bạn, mỗi người trong các bạn và tất cả, để có thể phụng sự tinh thần một cách trọn vẹn và sâu sắc hơn. Tôi không có ý định xem xét các bạn trên góc độ thành tựu trên Đường Đạo. Thay vào đó, tôi tập trung hướng dẫn các bạn trên phương diện một nhóm nhiều hơn là phương diện cá nhân, và chính vì vậy, tôi sẽ yêu cầu các bạn đọc những hướng dẫn của nhau một cách cẩn thận, vì các bạn sẽ tìm thấy tên của mình và có lẽ một số gợi ý xuất hiện trong các bài khác không phải của riêng các bạn. Chúng ta là một nhóm và chúng ta cùng tiến lên theo nhóm.

[4]

[4]

The sense of criticism and wrong reaction to each other’s knowledge is rapidly disappearing from among you. That is good. The growth of impersonality must be steady and sure. The faults evidenced by each and all of you are on the surface of your lives, but the deep inner integration and the activity of the divine nature in each of you is more definitely vital than before. I do not say that it is as yet in full right outer expression. It can and does produce at times a surface turmoil, but this, if rightly handled, need cause no true disturbance.

Tâm thế chỉ trích và phản ứng không đúng đắn đối với sự hiểu biết của nhau đang nhanh chóng biến mất trong các bạn. Đó là điều tốt. Sự phát triển của vô ngã phải vững và chắc. Những khuyết điểm mà mỗi các bạn, và tất cả các bạn, thể hiện đều nằm trên bề mặt của cuộc sống, nhưng sự tích hợp sâu bên trong và hoạt động của bản chất thiêng liêng trong mỗi các bạn mới là điều tất yếu hơn. Tôi không nói rằng nó đã hoàn toàn biểu hiện ra bên ngoài. Nó có thể và đôi khi tạo ra sự xáo trộn bề mặt, nhưng điều này, nếu được xử lý đúng cách, không cần gây ra xáo trộn thực sự.

Give to each other real love in the times that lie ahead, for it is the fusing and illuminating element in the life of the disciple. Let not your love remain theoretical, but give that true understanding which ignores mistakes, recognises no barriers, refuses all separating thoughts, and surrounds each other with that protecting wall of love that meets all need wherever possible—physical, emotional and mental. It is this which blends the group into one organised whole, which the Masters of the Wisdom can use in the service of the Plan. The pressure at this time is great upon Them and the urgency of humanity’s cry grows stronger in Their ears. I have given you much time and thought, and earnestly I have sought to aid you on the Way. My love and strength are ever yours, but not always my time and attention. My earnest prayer is that the Light may enfold you and the Love of God transmute your lives.

Hãy trao cho nhau tình thương chân thành trong thời gian ở phía trước, vì đó là yếu tố hợp nhất và soi sáng trong cuộc đời của người đệ tử. Đừng để tình thương của các bạn chỉ là lý thuyết, mà hãy trao đi sự thấu hiểu thực sự để bỏ qua sai lầm, không để tâm đến các rào cản, từ chối mọi tư tưởng ngăn cách, và hãy bao bọc nhau bằng bức tường tình thương bảo vệ đáp ứng mọi nhu cầu thể xác, tình cảm và trí tuệ bất cứ khi nào có thể. Chính điều này đã kết hợp nhóm thành một tổng thể có tổ chức, mà các Chân sư Minh triết có thể sử dụng để phụng sự cho Thiên cơ. Áp lực đối với các Ngài ngày một lớn khi mà tiếng kêu khẩn thiết của nhân loại đến tai các Ngài ngày một mạnh mẽ hơn. Tôi đã dành cho các bạn nhiều thời gian và suy nghĩ, và tôi tha thiết tìm cách hỗ trợ các bạn trên Đường đạo. Tình thương và sức mạnh của tôi luôn dành cho các bạn, nhưng không phải lúc nào tôi cũng có thể dành thời gian và sự quan tâm đến các bạn. Lời cầu nguyện chân thành của tôi là Ánh sáng có thể bao phủ các bạn và Tình thương của Thượng đế sẽ thay đổi cuộc đời các bạn.

For many years I have been looking ahead with definite planning and intent to the work which began in the late summer of 1936. I have sought—with the knowledge of some of you—to prepare you all as a group for an active participation in this future work. As I enter upon the task of preparing you for future increased usefulness and for closer cooperation, I must myself perforce take certain risks, and there must be established between us a trust which will be based—not on secrecy and reticences—but on truth and understanding.

Trong nhiều năm, tôi đã nhìn về phía trước với kế hoạch và ý định rõ ràng cho công việc bắt đầu vào cuối mùa hè năm 1936. Tôi đã tìm kiếm — với sự hiểu biết của một số bạn — để chuẩn bị cho tất cả các bạn như một nhóm tham gia tích cực vào công việc tương lai này. Khi tôi bước vào nhiệm vụ giúp các bạn sẵn sàng cho sự phát triển trong tương lai cũng như có thể hợp tác và để hợp tác chặt chẽ hơn, bản thân tôi phải chấp nhận những rủi ro nhất định, và giữa chúng ta phải xây dựng một niềm tin — không dựa trên bí mật và những dè dặt— mà dựa trên sự thật và sự thấu hiểu.

This formation of the New Seed Group is my second attempt to be of hierarchical assistance in inaugurating the New Age methods and technique and to train groups (for it [5] is a group age) which can express the New Age types of work. In my first attempt certain group limitations initiated difficulty and led to the closing of the several individual groups. You will have noted that I assigned the major failure to the inactivity of the heart centre in the majority of the members; this leads necessarily to inadequate integration. I mention this now because I would urge those members who have been selected to work in this new group to bear in mind that they may quite easily carry their earlier tendency into the new group. Only a fresh dedication and a renewed aspiration towards inspiration can prevent the recurrence of a certain static tendency; only a clear vision of the nature of glamour and of its effects in the individual and group life can eliminate the danger of infection from that tendency; only a humble spirit which is not occupied with the faults and failures of others can prevent the injection of an attitude of criticism and judging; and only an attentive watchfulness on the part of a certain few of the members can protect this new vehicle from disaster based on inexperienced self-confidence.

Sự thành lập Nhóm Hạt giống Mới này là nỗ lực thứ hai của tôi thuộc sự hỗ trợ của thánh đoàn trong việc giới thiệu các phương pháp và kỹ thuật trong Kỷ nguyên mới, và để huấn luyện các nhóm (vì đó là [5] một kỷ nguyên [làm việc theo – ND] nhóm) để có thể thể hiện các loại công việc của Kỷ nguyên mới. Trong nỗ lực đầu tiên của tôi, một số hạn chế nhóm nhất định đã gây khó khăn và dẫn đến việc đóng lại một số nhóm cá nhân. Các bạn hẵn đã lưu ý rằng tôi đã chỉ ra lỗi chính của thất bại là việc luân xa tim không hoạt động ở phần lớn các thành viên; điều này tất yếu dẫn đến việc tích hợp không đầy đủ. Tôi đề cập đến vấn đề này ngay bây giờ vì tôi muốn khuyến khích những thành viên được chọn làm việc trong nhóm mới này nhớ rằng họ có thể dễ dàng mang xu hướng trước đó của mình vào nhóm mới. Chỉ có một sự cống hiến mới mẻ và một khát vọng đổi mới hướng tới nguồn cảm hứng mới có thể ngăn chặn sự tái diễn của một khuynh hướng tĩnh tại nhất định; chỉ có một tầm nhìn rõ ràng về bản chất của ảo cảm và những ảnh hưởng của nó trong đời sống của cá nhân và của nhóm mới có thể loại bỏ nguy cơ lây nhiễm từ khuynh hướng đó; Chỉ có một tinh thần khiêm tốn, không bận tâm đến những lỗi lầm và thất bại của người khác mới có thể ngăn chặn việc tiêm nhiễm thái độ chỉ trích và phán xét; và chỉ có sự quan sát tỉ mỉ chu đáo của một số ít thành viên nhất định mới có thể bảo vệ vận cụ mới này khỏi thảm họa dựa trên sự tự tin thiếu kinh nghiệm,.

I have seriously considered what action I should rightly take. Various alternatives presented themselves—all of them concerned with the group work per se; none of them concerned you, as individuals. I could continue with the groups as they existed but, brother of mine, what more could I say, or do or teach them? The constant impartation of teaching and of information, the constant pointing out of failure, and the constant individual training are no part of the technique of the Hierarchy—certainly not as far as the individual aspirant is concerned. Where world values and where group consciousness are involved, the indication of needed change, the cyclic bringing about of the presentation to the soul of the Ageless Wisdom and the training of the world disciples—such is the definite and ordained technique of the Hierarchy. But this is not Their method of work with personalities and with those whose orientation is primarily in the three worlds of human endeavour.

Tôi đã nghiêm túc xem xét hành động đúng đắn mà tôi nên thực hiện. Các lựa chọn thay thế khác nhau được đưa ra tất cả đều liên quan đến công việc nhóm; không lựa chọn nào là liên quan đến các bạn, với tư cách cá nhân. Tôi có thể tiếp tục với các nhóm như chúng đã tồn tại, nhưng các huynh đệ của tôi, tôi có thể nói, làm, hay dạy gì hơn nữa cho họ đây? Việc truyền đạt liên tục giáo lý và thông tin, liên tục chỉ ra thất bại, liên tục huấn luyện cá nhân không phải là một phần trong kỹ thuật của Thánh đoàn — chắc chắn là không, trong chừng mực liên quan đến cá nhân người chí nguyện. Nơi mà các giá trị thế giới và nơi tâm thức nhóm có liên quan, chỉ ra sự thay đổi cần thiết, sự thể hiện theo chu kỳ của Minh triết thiêng liêng cho linh hồn, và việc huấn luyện các đệ tử thế gian — đó là kỹ thuật xác định và được ban hành bởi Thánh đoàn. Nhưng đây không phải là phương pháp làm việc của các Ngài với những phàm ngã và với những con người mà định hướng chủ yếu của họ là trong ba cõi nỗ lực của con người.

Their method and procedure is to try out the personalities of Their intended and indicated disciples and—should [6] these measure up with adequacy—then to proceed with the work of esoteric training. It is the same with groups; these are tested and tried in connection with the group personality, and upon the response depends the future activity of both the group and its Master and Teacher. But it is the group, as you see, which decides procedure.

Phương pháp và thủ tục của các Ngài là thử thách phàm ngã của các đệ tử đã được các Ngài xác định và chỉ định, và — nếu [6] các đệ tử này đáp ứng một cách thỏa đáng — khi đó có thể tiến hành công việc huấn luyện nội môn. Với các nhóm cũng tương tự như vậy; những nhóm được kiểm tra và thử thách liên quan đến phàm ngã của nhóm, và hoạt động trong tương lai của cả nhóm và cả Chân sư và Huấn sư của nhóm đó tùy thuộc vào phản ứgn đó. Nhưng, như các bạn thấy, chính nhóm sẽ quyết định thủ tục.

I have endeavoured to remove out of this group those elements which might perchance have handicapped it, and which the group members—as they are at present constituted and motivated—are not capable of absorbing. Group unity is not dependent upon personal sympathy, personal liking and understanding as it may exist between the group members, but upon capacity to absorb and assimilate, to lift, to change and to transmute those units which seem at first to be uncongenial or even unsuitable—from the limited point of view of the group member. This is often overlooked, but upon the capacity to do this depends much of group success. When a group cannot yet be depended upon to do this necessary absorption, the apparent rejection of certain people is not the fault of those people, but that of the group which is not yet integrated enough or unified enough to assimilate certain types of character and certain tendencies. The recognition of this should be fruitful in the preservation of much needed humility. You are being tendered another opportunity. I would ask you to remember this and to endeavour, in relation to this new experiment, to cultivate from the very start a humble spirit and the priceless gift of silence.

Tôi đã cố gắng loại bỏ ra khỏi nhóm này những yếu tố có thể đã làm phương hại nó, và những thành phần mà các thành viên trong nhóm — như hiện tại đã cấu thành và thúc đẩy — không có khả năng tiếp thu. Sự đoàn kết của nhóm không phụ thuộc vào sự đồng cảm, ý thích và sự hiểu biết cá nhân tồn tại giữa các thành viên trong nhóm, mà dựa trên khả năng tiếp thu và đồng hóa, nâng cao, thay đổi và chuyển hóa những đơn vị thoạt đầu có vẻ không hòa hợp hoặc thậm chí không phù hợp theo quan điểm hạn chế của thành viên nhóm. Điều này thường không được chú ý, nhưng khả năng thực hiện nó phụ thuộc nhiều vào sự thành công của nhóm. Khi chưa thể trông cậy vào nhóm để thực hiện sự hấp thụ cần thiết này, thì việc từ chối của một số người nhất định rõ ràng không phải là lỗi của những người đó, mà là do nhóm chưa đủ tích hợp hoặc chưa đủ thống nhất để đồng hóa một số kiểu phẩm tính và những khuynh hướng nhất định. Nhận thức được điều này sẽ có góp phần trong việc duy trì sự khiêm tốn cần thiết. Các bạn đang được trao cho cơ hội khác. Tôi muốn các bạn ghi nhớ điều này và cố gắng, trong thử nghiệm mới này, để trau dồi ngay từ đầu một tinh thần khiêm tốn và món quà vô giá của sự im lặng.

A group of disciples must be distinguished, as I already told you, by pure reason which will steadily supersede motive, merging eventually into the will aspect of the Monad, its major aspect. It is, technically speaking, Shamballa in direct relation with Humanity. What, therefore, is the group will in any ashram or Master’s group? Is it present in any form vital enough to condition the group relations and to unite all into a band of brothers—moving forward into the light? Is the spiritual will of the individual personalities of such strength that it negates the personality relation and leads to spiritual recognition, spiritual interplay and spiritual relation? It is only in consideration of these fundamental [7] effects of standing as a group in the “head’s clear light” that it is permissible for a disciple to bring into the picture personal sensitivities of thought, and this only because of a group temporary limitation.

Như tôi đã nói với các bạn, một nhóm đệ tử phải được phân biệt bởi lý trí thuần khiết vốn sẽ dần dần thay thế động cơ, cuối cùng hợp nhất vào trạng thái ý chí của Chân thần là trạng thái chính của nó. Về mặt kỹ thuật, Shamballa có quan hệ trực tiếp với Nhân loại. Vậy, ý nghĩa thực sự của ý chí nhóm trong bất kỳ đạo viện nào hoặc trong nhóm của Chân Sư là gì? Nó có hiện diện dưới bất kì hình thức quan trọng nào đủ để điều chỉnh các mối quan hệ nhóm và đoàn kết tất cả thành một nhóm huynh đệ — để tiến vào ánh sáng hay không? Liệu ý chí tinh thần của các phàm ngã cá nhân mạnh mẽ đến độ phủ định mối quan hệ phàm ngã và dẫn đến sự nhận biết tinh thần, sự tương tác tinh thần và mối quan hệ tâm tinh thần không? Chỉ khi xem xét những tác động cơ bản [7] này của việc đứng như là một nhóm trong “ánh sáng trong trẻo của đầu” thì đệ tử mới được phép đưa vào những sự nhạy cảm cá nhân của suy nghĩ, và điều này chỉ vì giới hạn tạm thời của một nhóm.

I have pointed out along what lines there has been failure, not because I seek to put the emphasis upon failure or to enlarge upon it, but because clarity of thought and of vision is necessary if the work is to go forward in a reorganised and more vital manner. If this New Seed Group measures up to requirements, then there may again arise correspondences to the original groups as planned. They will arise as the spiritual result of the esoteric manifestation of the potency of life to be found in the seed group. The work to be done by us in joint cooperation (as regards your training) was organised by me into seven teaching units:

Tôi đã chỉ ra những đường hướng đã xảy ra thất bại, không phải vì tôi muốn nhấn mạnh đến thất bại hay phóng đại nó, mà bởi vì sự rõ ràng trong suy nghĩ và trong tầm nhìn là cần thiết nếu công việc muốn tiến tới theo cách được tổ chức lại và với nhiều sinh lực hơn. Nếu Nhóm Hạt giống Mới này đáp ứng được các yêu cầu, thì sau đó có thể lại phát sinh những tương ứng với các nhóm ban đầu như đã được hoạch định. Chúng sẽ xuất hiện như là kết quả tinh thần của sự biểu lộ bí truyền về tiềm năng của sự sống được tìm thấy trong nhóm hạt giống này. Công việc chúng ta làm trong sự hợp tác chung (liên quan đến việc đào tạo các bạn) được tôi tổ chức thành bảy giáo huấn:

I. Definite planned Meditation.

I. Tham thiền theo kế hoạch rõ ràng.

II. Teaching upon the subject of Initiation.

II. Giảng về chủ đề Điểm đạo.

III. Training in Telepathy.

III. Huấn luyện về Viễn cảm.

IV. Consideration of the Problems of Humanity.

IV. Xem xét các Vấn đề của Nhân loại.

V. Teaching anent the Etheric Body.

V. Giảng về Thể Dĩ thái.

VI. Added to the above, I seek to give each of you a measure of Individual Help and Instruction.

VI. Thêm vào phần trên, tôi tìm cách cung cấp cho mỗi người trong số các bạn một mức độ Trợ giúp và Hướng dẫn Cá nhân.

VII. As time goes on, I will convey information anent the work of the Masters’ Ashrams and their planned Externalisation.

VII. Theo thời gian, tôi sẽ truyền đạt thông tin về công việc của các Đạo viện của các Chân sư và kế hoạch Ngoại hiện của các Ngài.

I am going to ask you to give two relatively brief periods of time each day to definite and defined meditation. One period (the most important) must be given to the general group meditation, and the other to that meditation which I feel will enable you to function as an integrated personality, fused and blended in consciousness with the soul. This will lead the group as a whole to function correctly, because the individual group units are aligned and rightly adjusted.

Tôi sẽ yêu cầu các bạn dành hai thời gian tương đối ngắn mỗi ngày để tham thiền một cách rõ ràng và xác định. Một thời gian (quan trọng nhất) phải được dành cho thiền nhóm nói chung, và thời gian còn lại cho bài tham thiền mà tôi cảm thấy sẽ cho phép các bạn hoạt động như một phàm ngã tích hợp, hợp nhất và hòa quyện trong tâm thức với linh hồn. Điều này sẽ dẫn dắt toàn bộ nhóm hoạt động chính xác, bởi vì các đơn vị nhóm riêng lẻ phải được chỉnh hợp và điều chỉnh một cách đúng đắn.

Why is it necessary for the disciple to intensify his inner link with his teacher? Not because the teacher is his Master, not because the disciple is subjected to the imposition by the [8] Master of any subjective control, not because of any special privilege in the matter, but because if a student’s mind is in true rapport with the teacher, then that student himself can become a source of inspiration to his fellow students; if he is thinking with clarity along the line of his chosen theme (note the word “chosen”), then he too can teach. A Master looks at each member of His group from the angle of their usefulness in the general group service. The contribution of each may differ; one disciple may have achieved much along the lines of clear thought and an impersonal attitude; his usefulness to the group can be that, and the Master will seek to train him still more along these two lines.

Tại sao người đệ tử cần tăng cường liên kết nội tâm với vị huấn sư của mình? Không phải vì vị huấn sư là Chân sư của y, không phải vì người đệ tử chịu sự áp đặt của [8] Chân sư cho bất kỳ sự kiểm soát chủ quan nào, không phải vì bất kỳ đặc ân đặc biệt nào trong vấn đề này, mà bởi vì nếu tâm trí của môn sinh có sự hòa hợp thực sự với vị huấn sư, thì bản thân môn sinh đó có thể trở thành nguồn cảm hứng cho các bạn đồng môn; nếu y đang suy nghĩ rõ ràng theo chủ đề đã chọn (lưu ý từ “đã chọn”), thì y cũng có thể giảng dạy. Chân sư nhìn từng thành viên trong nhóm của Ngài từ góc độ hữu ích của họ trong công việc phụng sự chung của nhóm. Sự đóng góp của mỗi người có thể khác nhau; một đệ tử có thể đã đạt được nhiều thành tựu theo đường lối tư duy rõ ràng và một thái độ vô tư; sự hữu ích của y đối với nhóm có thể là vậy, và Chân sư sẽ tìm cách huấn luyện y nhiều hơn nữa theo hai đường lối này.

What is it therefore which prevents a disciple, as an individual, from having direct approach and direct contact with a Master without being dependent upon a senior disciple as an intermediary? What is it that prevents you from having such direct relation to myself? One or two in this group have direct approach, and another one of you has it but knows it not; several others are well-intentioned and hard-striving disciples but never for a second do they forget themselves; the problem of glamour and preoccupation with spiritual ambition condition some aspirants, a spiritual ambition which is working through a very small personality; some could make rapid progress but are prone to inertia—perhaps they just do not care enough. All desire to move forward, all possess a strong inner spiritual life, but the group antahkarana is usually still incomplete and the aspect of pure reason, which is of the heart, does not control. The evocative power of the Spiritual Triad is not, therefore, adequate to hold the personality steady and the invocative power of the personality is nonexistent—speaking from the angle of the group personalities which make up the personality aspect of the Ashram. This is a factor which can only become potent if certain personality relations are adjusted and inertia is overcome. Then, and only then, can the “group stand.”

Do đó, điều gì ngăn cản một đệ tử, với tư cách là một cá nhân, tiếp cận trực tiếp và tiếp xúc trực tiếp với Chân sư mà không phụ thuộc vào một đệ tử cao cấp làm trung gian? Điều gì ngăn cản các bạn có mối quan hệ trực tiếp như vậy với tôi? Một hoặc hai người trong nhóm này có cách tiếp cận trực tiếp, và một người khác nữa trong số các bạn có cách tiếp cận trực tiếp nhưng không biết về điều đó; một số người khác là những đệ tử có thiện chí và nỗ lực phấn đấu, nhưng chưa có giây phút nào mà họ quên đi bản thân; vấn đề ảo cảm và mối bận tâm với tham vọng tinh thần chi phối một số người chí nguyện, một tham vọng tinh thần đang hoạt động thông qua một phàm ngã nhỏ bé; một số có thể đạt được tiến bộ nhanh chóng nhưng lại dễ rơi vài trì trệ có lẽ họ không đủ quan tâm. Tất cả đều mong muốn tiến về phía trước, tất cả đều sở hữu một đời sống tinh thần nội tại mạnh mẽ, nhưng antahkarana nhóm thường vẫn chưa hoàn thiện, và trạng thái lý trí thuần khiết, vốn của trái tim, chưa kiểm soát. Do đó, sức mạnh đáp ứng của Tam nguyên Tinh thần không đủ để giữ cho phàm ngã ổn định, và sức mạnh thỉnh nguyện của phàm ngã lại không tồn tại nói từ góc độ của các phàm ngã nhóm tạo nên khía cạnh phàm ngã của Đạo viện. Đây là một yếu tố chỉ có thể trở nên mạnh mẽ nếu một số quan hệ phàm ngã được điều chỉnh và khắc phục được sự trì trệ. Khi đó, và chỉ khi đó, “nhóm mới có thể đứng vững.”

I propose to give you personality instructions only once a year, at the time of the Full Moon of May. I shall then indicate to you any needed changes in your individual meditation [9] or in the group meditation. At this time I will give to this new seed group a meditation intended to produce coherent relations and a conscious group interplay. I will give each member also a meditation which will serve to integrate his personality more completely but will also serve, above all else, to fuse it with his soul. I shall enlarge later upon this when giving each of you his personal instructions. As I am to instruct you individually only once a year, I shall handle you with directness, and shall pay small attention to your personal reactions. Those are essentially your own business and not mine.

Tôi dự định đưa cho các bạn những chỉ dẫn về cá nhân mỗi năm một lần, vào thời điểm Trăng Tròn tháng Năm. Khi đó, tôi sẽ chỉ ra cho các bạn bất kỳ thay đổi cần thiết nào trong việc tham thiền cá nhân của các bạn [9] hoặc trong tham thiền nhóm. Vào lúc này, tôi sẽ cung cấp cho nhóm hạt giống mới này một bài tham thiền nhằm tạo ra các mối quan hệ chặt chẽ và tác động qua lại của nhóm về mặt tâm thức. Tôi cũng sẽ cung cấp cho mỗi thành viên một bài tham thiền để giúp tích hợp phàm ngã của y trọn vẹn hơn, nhưng trên hết là để hợp nhất nó với linh hồn của y. Tôi sẽ mở rộng điều này sau này khi đưa ra hướng dẫn cá nhân cho mỗi người trong số các bạn. Vì tôi chỉ hướng dẫn riêng cho các bạn mỗi năm một lần, tôi sẽ đề cập vấn đề của các bạn một cách trực tiếp và sẽ ít để ý đến phản ứng phàm ngã của các bạn. Đó thực chất là việc của riêng các bạn chứ không phải của tôi.

August 1940

Tháng 8 năm 1940

Some of you have really studied my previous instructions; others have given them a definitely cursory and perfunctory reading and have, in the last analysis, given no real thought to what I have said. Hence the need of reminding you of my major points prior to continuing with the next phase of the teaching. I would have you demonstrate your grasp of the subject and also your response to the effort I am making to instruct you. The best paper turned in was by W.D.S. because it was the most esoteric and touched upon the spiritual techniques of approach, insight and vision.

Một số các bạn đã thực sự nghiên cứu các hướng dẫn trước đây của tôi; những người khác đã đọc lướt qua và chiếu lệ, và trong phân tích cuối cùng, họ đã không suy nghĩ thực sự về những gì tôi đã nói. Do đó, cần phải nhắc các bạn về những điểm chính của tôi trước khi tiếp tục với giai đoạn tiếp theo của việc giảng dạy. Tôi sẽ yêu cầu các bạn thể hiện sự hiểu biết của các bạn về chủ đề và cũng như phản ứng của các bạn đối với nỗ lực mà tôi đang thực hiện để hướng dẫn các bạn. Báo cáo tốt nhất được đưa ra là của W.D.S. vì nó bí truyền nhất và đề cập những kỹ thuật tiếp cận, hiểu biết sâu sắc và tầm nhìn tinh thần.

Incidentally, the question arises in your minds as to the method whereby I ascertain the content of your papers. Do I read them? Does A.A.B. read them and convey to me her impressions? Do I psychrometrie them? None of these expresses my method or conveys the true mode of ascertaining. I do not read them; candidly, my brother, they do not warrant my taking the time. Does A.A.B. read them and then convey their significance to me? No, because as they filter through her mind and brain they would take on the powerful colouring of her thought, and from this she has ever carefully protected the group and all work she does as an intermediary between you and me. I do not psychometrise them. Let me endeavour to explain.

Tình cờ, câu hỏi nảy sinh trong trí các bạn về phương pháp mà tôi xác định được nội dung các báo cáo của các bạn. Tôi có đọc chúng không? Hay bà A.A.B. đọc chúng và truyền đạt cho tôi những ấn tượng của bà ấy không? Tôi có “trắc tâm” chúng không? Không có phương pháp nào trong số này thể hiện phương pháp của tôi hoặc truyền đạt phương thức xác định thực sự. Tôi không đọc chúng; thẳng thắn mà nói, các huynh đệ của tôi, chúng không đáng cho tôi dành thời gian cho nó. Liệu bà A.A.B. có đọc chúng và sau đó truyền đạt ý nghĩa của chúng cho tôi không? Không, bởi vì khi chúng lọc qua tâm trí và bộ não của bà ấy, chúng sẽ tiếp nhận màu sắc mạnh mẽ trong tư tưởng của bà ấy, việc mà bà ấy đã luôn cẩn thận tránh để bảo vệ nhóm và tất cả công việc bà ấy làm với tư cách là người trung gian giữa các bạn và tôi. Tôi không trắc tâm chúng. Hãy để tôi cố gắng giải thích.

All detailed, outer forms are expressions of some subjective significance which is the cause of their appearance [10] and which can be discovered by those who can function in the world of meaning. These “foci of significance” carry a note, a vibration and a symbolic aspect which conveys to the trained mind of the esotericist far more than does the outer form of words convey meaning to the trained mind of the exoteric reader. One glance in the direction of the disciple with the thought in mind of ascertaining the value of his contribution in words, serves to bring into my line of vision the symbol which is the product of his written thought. This symbol may be and probably is distorted—a symbol without true balance; it will find its place upon some level of consciousness—astral, mental or spiritual—and its vibratory note will depend upon its “occult location.” Forget not that the world of meaning and the world of outer forms express in essentiality the world in which multiplicity is reduced to simplicity, though this does not connote synthesis.

Tất cả các hình tướng bên ngoài được chi tiết ra đều là những biểu hiện có ý nghĩa chủ quan nào đó, là nguyên nhân cho sự xuất hiện của chúng [10] và có thể được khám phá bởi những người có thể hoạt động trong thế giới của ý nghĩa. Những “tâm điểm của ý nghĩa” này mang một nốt, một rung động và một khía cạnh biểu tượng nó truyền tải đến tâm trí được huấn luyện của nhà huyền môn nhiều hơn là hình thức bên ngoài của những lời truyền đạt ý nghĩa đến tâm trí được huấn luyện của người đọc công truyền. Một cái liếc nhìn về phía người đệ tử với ý nghĩ xác định giá trị của sự đóng góp bằng câu chữ của y giúp mang lại cho tầm nhìn của tôi biểu tượng vốn là sản phẩm của tư tưởng được viết ra của y. Biểu tượng này có thể, và có khả năng bị bóp méo — một biểu tượng không có sự cân bằng thực sự; nó sẽ tìm thấy vị trí của nó ở một mức độ nào đó của tâm thức — cảm xúc, trí tuệ hay tinh thần — và nốt rung động của nó sẽ phụ thuộc vào “vị trí huyền bí” của nó. Đừng quên rằng thế giới ý nghĩa và thế giới của những hình tướng bên ngoài, trong bản chất, thể hiện thế giới trong đó tính đa dạng được giảm xuống thành đơn giản, mặc dù điều này không có nghĩa là tổng hợp.

I wonder if any of you really grasp the extent of the effort which I have to make in order to reach your minds and teach you? When, for instance, I seek to send out these instructions I have to make the following preparation. First, I seek to ascertain the mental state and preparedness of the amanuensis, A.A.B., and whether the press of the other work upon which she is engaged in connection with the Plan of the spiritual Hierarchy permits of her right reception; for if the work is exerting extreme pressure and if she is occupied with urgent problems, it may be needful for me to wait until such time as circumstances give her the needed leeway both of time and strength, and of mental detachment. My own sphere of occult work must also come under consideration. Then, having established a rapport with her, I have three things to do.

Tôi tự hỏi liệu có ai trong số các bạn thực sự hiểu được mức độ nỗ lực mà tôi phải thực hiện để nắm bắt tâm trí của các bạn và huấn luyện các bạn không? Ví dụ, khi tôi tìm cách gửi các hướng dẫn này, tôi phải thực hiện các bước chuẩn bị sau. Đầu tiên, tôi tìm cách xác định trạng thái tâm trí và sự chuẩn bị của người thư ký A.A.B., và liệu áp lực của công việc khác mà bà ấy tham gia liên quan đến Kế hoạch của Thánh đoàn tinh thần có cho phép bà ấy tiếp nhận đúng hay không; vì nếu công việc đang gây áp lực quá lớn và nếu bà ấy bận bịu với những vấn đề cấp bách, thì tôi có thể cần phải đợi cho đến khi hoàn cảnh cho phép bà có sự tự do cần thiết cả về thời gian và sức lực, và sự tách biệt tâm trí nữa. Cũng cần xem xét đến phạm vi công việc huyền bí của riêng tôi. Sau đó, khi đã thiết lập được mối liên hệ với bà ấy, tôi có ba việc phải làm.

First, I must gather the group of disciples as a whole into my aura and so gauge its general condition of receptivity—for that must determine the scope of the intended communication. Do you realise, my brothers, that as you extend your power to grasp the needed lessons and learn to train your minds to think in ever wider and more abstract terms, you draw from me a correspondingly adequate instruction? [11] The limitation to the imparted truth lies on your side and not on mine.

Đầu tiên, tôi phải tập hợp toàn bộ nhóm đệ tử vào trong hào quang của mình và do đó đánh giá tình trạng chung của khả năng tiếp nhận — vì điều đó phải xác định phạm vi giao tiếp dự định. Hỡi các huynh đệ của tôi, các bạn có nhận ra rằng khi mở rộng năng lực của mình để nắm bắt những bài học cần thiết và học cách rèn luyện trí óc của mình để suy nghĩ theo những thuật ngữ rộng hơn và trừu tượng hơn, thì các bạn rút ra từ tôi một chỉ dẫn tương ứng thích hợp không? [11] Hạn chế đối với chân lý được truyền đạt nằm ở phía các bạn chứ không phải ở tôi.

Second, I must isolate in my own consciousness the extent of the instruction, detaching myself from all other concerns and formulating the needed material into a thoughtform which will be comprehensive, clear-cut, sequential in its relation to that which has already been imparted and which will lay the ground for the next instruction in due time.

Thứ hai, tôi phải cô lập trong tâm thức của mình về mức độ của hướng dẫn, tách mình ra khỏi tất cả các mối quan tâm khác và xây dựng tài liệu cần thiết thành một hình tư tưởng toàn diện, rõ ràng, tuần tự trong mối quan hệ của nó với cái đã được truyền đạt và điều này sẽ tạo nền tảng cho hướng dẫn tiếp theo trong thời gian thích hợp.

Then third, I have to enter into that meditative condition, and that extraverted attitude which will enable me to pour out in a steady stream of constructive sentences which will express, to the mind of the amanuensis, the thoughtform as I see it and build it. Putting it otherwise, I become creative with deliberation and endeavour to convey to the vision, to the mind and to the intellectual perception of A.A.B. an ordered presentation of the thoughtform which embodies the lesson I desire the students to learn.

Sau đó, thứ ba, tôi phải đi vào trạng thái tham thiền và thái độ hướng ngoại vốn sẽ cho phép tôi tuôn ra một dòng đều đặn những câu mang tính xây dựng, chúng sẽ diễn đạt hình tư tưởng như tôi nhìn thấy nó và xây dựng nó trong tâm trí của người thư ký. Nói cách khác, tôi trở nên sáng tạo với có chủ đích và nỗ lực để truyền đạt đến tầm nhìn, tâm trí và nhận thức trí tuệ của A.A.B. một trình bày có trật tự của hình tư tưởng thể hiện bài học mà tôi mong muốn môn sinh học được.

All this necessitates an expenditure of force and of time on my part which I feel is well warranted if the students—on their side—will prepare their minds, give the needed time, respond to the few requests I may make, and eventually cooperate with the work of bringing the edited instructions to the attention of aspirants and disciples everywhere and later to a wider public.

Tất cả những điều này đòi hỏi tôi phải bỏ ra sức lực và thời gian mà tôi cảm thấy xứng đáng nếu các môn sinh — về phía họ — sẽ chuẩn bị tâm trí, dành thời gian cần thiết, đáp ứng một vài yêu cầu mà tôi có thể đưa ra, và cuối cùng hợp tác với công việc đưa các hướng dẫn đã được chỉnh sửa đến sự chú ý của những người chí nguyện và đệ tử ở khắp mọi nơi, và sau đó đến với công chúng rộng rãi hơn.

And let me here clarify also the question which is in your minds concerning the basis of the rapport between A.A.B. and myself. Earlier, I explained that a neophyte in an ashram is under the guidance of a more advanced chela and that “the Master is receiving regular reports (based on certain charts) from the senior disciple who has the neophyte in charge. It is in this way that many hierarchical relationships are established.” (Discipleship in the New Age, Vol. I, page 723.) Several lives ago I was thus responsible for A.A.B. and hence the close link between us and the basic understanding and hence, therefore, the work we have been able to do together, even though I am not her Master. I explain this so that you can get some understanding of the interrelation [12] in ashramic work. We both belong to the Ashram of the Master K.H. I should like to add a further point: Reception such as that by A.A.B. is very rare indeed, not only because of the subject matter, but also because of the delicate sequence of ideas and the good choice of words; through this, she has made my books unique. She provides a standard which has no competition.

Và ở đây, hãy để tôi cũng làm sáng tỏ câu hỏi nảy ra trong trí các bạn về cơ sở của mối quan hệ giữa A.A.B. và bản thân tôi. Trước đây, tôi đã giải thích rằng một tân sinh trong một Đạo viện thì chịu sự hướng dẫn của một đệ tử cao cấp hơn, và “Chân sư nhận được các báo cáo thường xuyên (dựa trên một số biểu đồ nhất định) từ vị đệ tử cao cấp phụ trách vị đệ tử mới này. Chính bằng cách này mà nhiều mối quan hệ thứ bậc được thiết lập. “ (Đường đạo trong kỷ nguyên mới, tập I, trang 723.) Vài kiếp sống trước, tôi chịu trách nhiệm về A.A.B. và do vậy có mối liên hệ chặt chẽ giữa chúng tôi và sự hiểu biết cơ bản, và do đó, chúng tôi có thể làm việc cùng nhau, mặc dù tôi không phải là Chân sư của bà ấy. Tôi giải thích điều này để các bạn có thể hiểu được mối quan hệ qua lại [12] trong công việc của đạo viện. Cả hai chúng tôi đều thuộc về Đạo viện của Chân sư K.H. Tôi muốn nói thêm một điểm: Sự tiếp nhận như vậy của A.A.B. thực sự rất hiếm, không chỉ vì nội dung của chủ đề, mà còn vì chuỗi ý tưởng tinh tế và sự lựa chọn các từ ngữ khá tốt; thông qua điều này, bà ấy đã làm cho những cuốn sách của tôi trở nên độc đáo. Bà ấy cung cấp một tiêu chuẩn mà không ai có thể sánh được .

I assured you that I would deal with directness when teaching this group, owing to the urgency of the time and the need for the intelligent work of the trained disciple. Will you bear this in mind, and apply my suggestions to yourself and not to your group brothers? One of the most needed things for all disciples is to apply the teaching I may give to the idea of promoting and increasing their world service, thus rendering practical and effective in the world the teaching received and the stimulation to which they have been subjected.

Tôi đảm bảo với các bạn rằng tôi sẽ nói với sự thẳng thắn khi dạy nhóm này, do thời gian cấp bách và nhu cầu làm việc thông minh của người đệ tử được huấn luyện. Liệu các bạn sẽ ghi nhớ điều này và áp dụng những gợi ý của tôi cho chính các bạn chứ không phải cho những người huynh đệ trong nhóm của các bạn không? Một trong những điều cần thiết nhất đối với tất cả các đệ tử là áp dụng lời dạy mà tôi có thể đưa ra cho ý tưởng về việc thúc đẩy và gia tăng việc phụng sự thế gian của họ, do đó làm cho giáo lý được tiếp nhận và sự kích thích mà họ đã trải qua trở nên thiết thực và hiệu quả trên thế giới.

In your personal instructions I will give you information as to the nature of your prevailing glamour. You may ask, what do I really mean by that phrase? I mean that aspect of thought, that quality of feeling, or that innate predisposition, which stands between you and the light of life and truth. There is in the life of every aspirant some outstanding tendency which acts as a limitation. This should receive due attention, leading to its eventual eradication. Most disciples and aspirants are too general in their handling of themselves and of their respective characters. Less diffused attention to the multiplicity of inherited habits and a more concentrated attention to a main, or at least a major, issue would result in a more rapid progress. What I shall therefore reveal to you as needing correction, adjustment or eradication should occupy your attention and be consciously dealt with during the coming year. Small notice need be paid to less important faults and errors; so oft faults that seem to you of paramount importance are of no moment in the eyes of the Masters. So much of the thought life of a disciple is occupied with a ceaseless interrogation and consideration of himself. What I shall say may be very brief and very scant. I am only seeking to indicate and not to direct; [13] I intend to point out, but not dictate to you, modes of eradication.

Trong hướng dẫn cá nhân của các bạn, tôi sẽ cung cấp cho các bạn thông tin về bản chất của ảo cảm phổ biến ở các bạn. Các bạn có thể hỏi, tôi thực sự muốn nói gì về cụm từ đó? Tôi muốn đề cập đến khía cạnh của tư tưởng, phẩm chất của cảm xúc, hay khuynh hướng bẩm sinh, vốn đứng giữa các bạn và ánh sáng của sự sống và chân lý. Trong cuộc sống của mỗi người chí nguyện có một số khuynh hướng nổi bật đóng vai trò như một giới hạn. Điều này cần nhận được sự quan tâm đúng mức, dẫn đến việc cuối cùng loại bỏ nó. Hầu hết các đệ tử và những người chí nguyện đều quá chung chung trong cách xử lý của họ đối với bản thân và các đặc tính tương ứng của họ. Ít tập trung dàn trải hơn vào vô vàn các thói quen kế thừa, và chú ý tập trung hơn vào một vấn đề chính, hoặc ít nhất là một vấn đề chủ yếu, sẽ dẫn đến một sự tiến bộ nhanh chóng hơn. Do đó, những gì tôi sẽ tiết lộ cho các bạn như cần được sửa chữa, điều chỉnh hoặc loại bỏ nên được các bạn lưu tâm và xử lý một cách hữu thức trong năm tới. Những lỗi lầm và khuyết điểm ít quan trọng hơn thì không cần quá chú ý; những lỗi mà bạn cho là quan trọng hàng đầu đôi khi lại không đáng kể trong mắt các Chân sư. Đời sống tư tưởng của một đệ tử bận rộn quá nhiều với việc truy xét và cân nhắc không ngừng về bản thân. Những gì tôi sẽ nói có thể rất ngắn gọn và rất ít. Tôi chỉ gợi ý và không chỉ đạo; [13] Tôi dự định chỉ ra các phương thức diệt trừ nhưng không ra lệnh cho các bạn.

The times are serious and the world disciples are hard pressed. The Hierarchy and its affiliated groups are seeking active help and cooperation in the work of salvage. All disciples and aspirants are needed, and all can give much if the desire, the loving heart and the consecrated mind are united in service. I ask aid in the task of reconstruction. I ask for your consecrated help. I ask you to discipline yourselves anew, to hold back nothing, either objective or subjective. I ask for your wholehearted cooperation in the work of world salvage.

Thời thế nghiêm trọng và các đệ tử thế gian bị áp lực nặng nề. Thánh đoàn và các nhóm liên kết đang tìm kiếm sự trợ giúp và hợp tác tích cực trong công tác cứu rỗi. Mọi đệ tử và người chí nguyện đều là cần thiết, và tất cả đều có thể cống hiến nhiều nếu ước muốn trái tim yêu thương và khối óc dâng hiến được hợp nhất trong việc phụng sự. Tôi yêu cầu trợ giúp trong công việc xây dựng lại. Tôi yêu cầu sự giúp đỡ tận hiến của các bạn. Tôi yêu cầu các bạn tự kỷ luật bản thân một lần nữa, không giấu diếm bất cứ điều gì, dù khách quan hay chủ quan. Tôi yêu cầu sự hợp tác hết lòng của các bạn trong việc cứu chuộc thế giới.

Commentary #26  [Đến Bình Giảng]

GROUP INSTRUCTION—HƯỚNG DẪN NHÓM

December 1941

Tháng 12 năm 1941

MY BROTHERS:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

I would like to start off this instruction with the simple statement as to the task which all disciples of the Masters throughout the world are engaged in undertaking and which you also should consciously consider. It is the task of confronting the Dweller on the Threshold in your own life and also in the group life, and then—from that vantage point of strength—face that Dweller on behalf of humanity and thus aid humanity to vanquish this ancient evil. To do this presupposes crisis in your life and in the life of humanity. The handling of crises is the hallmark of the disciple, and every crisis met and rightly handled provides (once the difficulty is occultly “under the feet”) the place from which an extended vision can be gained, fresh knowledge can flow in and the transmuting light can shine from the Angel of the Presence and thus produce results.

Tôi muốn bắt đầu bài hướng dẫn này bằng một tuyên bố đơn giản về nhiệm vụ mà tất cả các đệ tử của các Chân sư trên khắp thế giới đang thực hiện và các bạn cũng nên cân nhắc một cách hữu thức. Đó là nhiệm vụ đương đầu với Kẻ chặn ngõ trong đời sống riêng của các bạn và cả trong đời sống của nhóm, và sau đó — từ điểm thuận lợi đó — đối mặt với Kẻ chặn ngõ đó thay mặt cho nhân loại và do đó hỗ trợ nhân loại chiến thắng cái ác cổ xưa này. Để làm được điều này, phải có khủng hoảng trong cuộc sống của các bạn và trong cuộc sống của nhân loại. Xử lý khủng hoảng là dấu hiệu của người đệ tử, và mọi cuộc khủng hoảng được đối mặt và được xử lý đúng cách đều cung cấp (một khi khó khăn được vượt qua một cách huyền bí) nơi mà từ đó có thể đạt được tầm nhìn mở rộng, kiến thức mới có thể tràn vào, và ánh sáng chuyển hóa có thể chiếu rọi từ Thiên thần Hiện diện và do đó tạo ra kết quả.

Each of you has passed through a cycle of real difficulty and strain. This is true of all disciples. The past eighteen months have been months of precipitation, producing a chemicalization, an interior process of upheaval and probably outer behaviour which may have caused concern to the Observer within. This however is but the reaction of the [14] personality to undue pressure and strain, to world conditions and clearer vision. Vision reveals both the light and the dark, a thing which is oft forgotten. Disciples are fortunate if the major results work out in the physical body. The reactions of the physical body are the least important and do the least harm to others. Where they work out in an emotional or mental condition they are then apt to become a problem of fellow disciples, adding to their strain and necessitating an effort upon their part to carry the brother through with the least damage to the group.

Mỗi người trong số các bạn đã trải qua một chu kỳ khó khăn và căng thẳng thực sự. Điều này đúng với tất cả các đệ tử. Mười tám tháng qua là những tháng ‘kết tủa’, tạo ra một phản ứng hóa học, một quá trình biến động bên trong, và có thể là hành vi bên ngoài gây ra lo ngại cho Đấng Quan sát bên trong. Tuy nhiên, đây chỉ là phản ứng của phàm ngã [14] trước áp lực và căng thẳng quá mức, đối với những tình trạng thế giới và tầm nhìn rõ ràng hơn. Tầm nhìn tiết lộ cả ánh sáng và bóng tối, một điều thường bị quên lãng. Các đệ tử thật may mắn nếu các kết quả quan trọng diễn ra trong cơ thể vật lý. Các phản ứng của cơ thể là ít quan trọng nhất và ít gây hại nhất cho người khác. Khi chúng thể hiện trong trạng thái trí tuệ hoặc cảm xúc thì chúng có xu hướng trở thành trở ngại của các đệ tử đồng môn, khiến họ thêm căng thẳng, và cần nỗ lực từ phía họ để đưa người huynh đệ vượt qua mà ít thiệt hại nhất cho nhóm.

In this group work you need to remember that increasingly there will be no individual life. This is as it should be. Increasingly disciples should be aware of each other and tune in with ease on each other; increasingly the bonds of illumined loyalty should control; increasingly you will participate in each other’s attitudes and conditions and thus learn the basic lesson of understanding. Understanding is the secret behind all power to achieve identification with any form of divine expression; understanding is one of the prime factors in producing revelation, and this is one of the paradoxes of occultism. In the world of human thought, understanding follows the prescribed routine, it follows the presented fact. In the life of the spirit, understanding is a necessary predisposing cause of revelation. I would ask you to ponder on this, bracing yourself for revelation, through a deep understanding of the initiator in yourself. Each of you has to initiate your own individual crises; there is no one else who is responsible. Each of you together initiates the activity for which the group is responsible and for which you have been brought together; each of you initiates himself into the Presence, through the medium of the Angel, and into the shadow of the Dweller on the Threshold. Through this process, full consciousness is achieved.

Trong công việc nhóm này, các bạn cần nhớ rằng ngày càng sẽ không có cuộc sống cá nhân. Đó là điều nên như vậy. Các đệ tử ngày càng nên nhận thức về nhau và hòa hợp với nhau một cách dễ dàng; ngày càng sự ràng buộc của lòng trung thành được soi sáng nên chi phối; các bạn ngày sẽ càng tham gia vào những thái độ và các trạng thái của nhau và do đó học được bài học cơ bản của sự thấu hiểu. Sự thấu hiểu là bí mật đằng sau tất cả sức mạnh để đạt được sự đồng nhất với bất kỳ hình thức biểu hiện thánh thiện nào; sự thấu hiểu là một trong những yếu tố chính để tạo ra sự mặc khải, và đây là một trong những nghịch lý của huyền linh học. Trong thế giới tư tưởng của con người, sự thấu hiểu tuân theo quy trình quy định, nó tuân theo sự kiện được trình bày. Trong đời sống tinh thần, sự thấu hiểu là nguyên nhân tiên quyết cần thiết của sự mặc khải. Tôi sẽ yêu cầu các bạn suy ngẫm về điều này, chuẩn bị tinh thần cho sự mặc khải, thông qua sự thấu hiểu sâu sắc về đấng điểm đạo trong chính các bạn. Mỗi người trong số các bạn phải khởi xướng những cuộc khủng hoảng của riêng mình; không có ai khác là người chịu trách nhiệm. Mỗi người trong số các bạn cùng nhau khởi xướng hoạt động mà nhóm chịu trách nhiệm và vì đó các bạn đã được tập hợp lại với nhau; mỗi người trong số các bạn tự khởi xướng bước vào Đấng Hiện Diện, thông qua vận cụ của Thái dương Thiên Thần, và tiến vào trong chiếc bóng của Kẻ chặn ngõ. Thông qua quá trình này, (các bạn – ND) đạt được tâm thức đầy đủ.

The work of this group, and of other groups similarly motivated, is to achieve these undertakings together: Together to face the Dweller and triumph; together to arrive at understanding; together to stand before the Presence because the Angel’s light reveals “that which the eye has never seen;” together to walk the Path of Revelation; together to [15] serve and together to aid the faltering steps of humanity, the world aspirant; together to stand with your backs to the light because you comprehend the ancient aphorism which states:

Công việc này của nhóm và của các nhóm khác được thúc đẩy tương tự là cùng nhau đạt được những cam kết này: Cùng nhau đối mặt và chiến thắng Kẻ chặn ngõ; cùng nhau đi đến sự thấu hiểu; cùng nhau đứng trước Đấng Hiện diện vì ánh sáng của Thiên thần tiết lộ “điều mà mắt thường chưa từng thấy;” cùng nhau đi trên Con đường của sự Mặc khải; cùng nhau [15] phụng sự và cùng nhau hỗ trợ những bước chân loạng choạng của nhân loại, của người chí nguyện thế giới; cùng nhau đứng quay lưng về phía ánh sáng bởi vì các bạn hiểu được câu cách ngôn cổ xưa nói rằng:

“He who faces the light and stands within its radiance is blinded to the issues of the world of men; he passes on the lighted way to the great Centre of Absorption. But he who feels the urge to pass that way, yet loves his brother on the darkened path, revolves upon the pedestal of light and turns the other way.

“Kẻ đối diện với ánh sáng và đứng trong ánh hào quang của nó thì bị mù trước các vấn đề của thế giới con người; y đi trên con đường được soi sáng đến Trung tâm Hấp thụ vĩ đại. Nhưng y cảm thấy sự thôi thúc phải vượt qua con đường đó mà vẫn yêu huynh đệ mình trên con đường tối tăm, nên quay mặt lại trên bệ của ánh sáng và rẽ theo con đường khác.

“He faces towards the dark and then the seven points of light within himself transmit the outward streaming light, and lo! the face of those upon the darkened way receives that light. For them, the way is not so dark. Behind the warriors—twixt the light and dark—blazes the light of Hierarchy.”

“Y quay mặt về phía bóng tối và sau đó bảy điểm sáng bên trong chính y truyền ánh sáng phát ra bên ngoài, và trông kìa! Khuôn mặt của những người trên con đường tối tăm sẽ nhận được ánh sáng đó. Đối với họ, con đường không còn quá tối. Phía sau các chiến binh— xen kẽ giữa ánh sáng và bóng tối — là rực rỡ ánh sáng của Thánh đoàn”.

I have been thinking of you all with tenderness and love. The struggle is so hard and oft you feel alone. There is strength in all of you or I would not have chosen you to serve your fellowmen with me; there is weakness in all of you which can evoke your brothers’ strength and thus you will be strong; there is love in all of you but it needs expression, and for that the group exists; there is light in all of you and with that light you serve. As the Hierarchy stands as a centre of light and strength to humanity, so do your souls stand to you, and—as your Master—I blend my light with yours and thus increase the efficiency of your service; I blend my love with the love which pours forth from the soul towards each of you, and thus I deepen the relation of love between each and all of you. It is not often that I speak to you in this manner, but in the process of freeing you for increased service I have drawn nearer to you and my love surrounds you. Learn, my brothers, the meaning of words, their transmitting potency and their spiritual significance.

Tôi đã nghĩ về tất cả các bạn với sự trìu mến và tình thương. Cuộc đấu tranh thật khó khăn và các bạn cảm thấy đơn độc. Tất cả các bạn đều có sức mạnh nếu không tôi đã không chọn các bạn để cùng với tôi phụng sự đồng loại của mình; ở tất cả các bạn đều có sự yếu đuối có thể gợi lên sức mạnh của huynh đệ mình và nhờ đó mà các bạn sẽ mạnh mẽ; có tình thương trong tất cả các bạn nhưng nó cần được thể hiện, và vì lý do đó mà nhóm tồn tại; có ánh sáng trong tất cả các bạn và với ánh sáng đó các bạn phụng sự. Vì Thánh đoàn là trung tâm ánh sáng và sức mạnh của nhân loại, nên linh hồn với các bạn cũngnhư vậy, và Tôi— với tư cách là Chân sư của các bạn — tôi pha trộn ánh sáng của tôi với ánh sáng của các bạn và do đó tăng hiệu quả phụng sự của các bạn; Tôi pha trộn tình thương của tôi với tình thương tuôn ra từ linh hồn đối với mỗi người trong số các bạn, và do đó tôi làm sâu sắc thêm mối quan hệ của tình thương giữa mỗi người và giữa tất cả các bạn. Tôi không thường xuyên nói chuyện với các bạn theo cách này, nhưng trong quá trình giải phóng các bạn để tăng cường phụng sự, tôi đã đến gần các bạn hơn và tình thương của tôi bao bọc các bạn. Hỡi những huynh đệ của tôi, hãy học ý nghĩa của từ ngữ, khả năng truyền tải và ý nghĩa tinh thần của chúng.

I am going to take the time and spare the needed energy to get in touch with the group during the coming full moons, prior to that of May. I ask you, at no matter what hour the [16] full moon each month may fall, to endeavour to keep half an hour free so that you can attempt to enter into my consciousness. I realise that it may not always be possible for you in your busy Western lives to keep the exact minute free, but you can attempt to find some time, as near to the full moon period as is reasonably possible in your own particular circumstances. This, my brother, is to be a group effort, and not an individual one, and it is as a group that I shall seek to contact you. Therefore it is necessary for you to have this in your mind as you prepare for that moment. You must link up first with all the group members, pouring yourself out in love to each of them, and to all collectively, and associating yourself with them as a part with the whole. Then in united effort attempt the following procedure:

Tôi sẽ dành thời gian và dành năng lượng cần thiết để liên lạc với nhóm trong những ngày trăng tròn sắp tới, trước trăng tròn tháng Năm. Tôi yêu cầu các bạn, bất kể giờ trăng tròn [16] mỗi tháng có thể rơi vào giờ nào, hãy cố gắng giữ nửa giờ rảnh rỗi để các bạn có thể cố gắng nhập vào tâm thức của tôi. Tôi nhận ra rằng không phải lúc nào trong cuộc sống bận rộn của phương Tây các bạn cũng có thể giữ được chính xác một phút rảnh rỗi, nhưng các bạn có thể cố gắng tìm một khoảng thời gian nào đó, càng gần chu kỳ trăng tròn càng tốt trong hoàn cảnh cụ thể của riêng các bạn. Các huynh đệ của tôi, việc này là một nỗ lực của nhóm chứ không phải của một cá nhân, và tôi sẽ tìm cách liên hệ với các bạn như là một nhóm. Vì vậy, các bạn cần phải ghi nhớ điều này trong tâm trí khi chuẩn bị cho khoảnh khắc đó. Trước tiên, các bạn phải liên kết với tất cả các thành viên trong nhóm, tuôn đổ tình thương cho từng người trong nhóm, và đến tất cả tập thể, và liên kết bản thân bạn với họ như một phần của toàn thể. Sau đó, với nỗ lực thống nhất, hãy thử quy trình sau:

1. Having linked up with all your group brothers, and having raised your consciousness as high as you possibly can, endeavour then to hold steady, holding the mind unwaveringly “in the light,” and letting the brain consciousness and its registration drop below the level of consciousness.

1. Sau khi đã kết nối với tất cả những huynh đệ trong nhóm của các bạn, và đã nâng tâm thức của các bạn lên cao nhất có thể, hãy cố gắng giữ vững tâm trí, giữ cho tâm trí không dao động “trong ánh sáng”, và để cho tâm thức não bộ và sự ghi nhận của nó rơi xuống dưới mức độ tâm thức.

2. Then initiate a new effort. Realise that, on my side, I also stand steady, pouring out upon you my love and strength and endeavouring to lift you up into a higher state of consciousness.

2. Sau đó hãy bắt đầu một nỗ lực mới. Nhận ra rằng, về phía mình, tôi cũng đứng vững vàng, dành cho các bạn tình thương và sức mạnh của tôi và cố gắng nâng các bạn lên một trạng thái tâm thức cao hơn.

3. Visualise ahead of you (if I may use so inadequate a word) a disk or sphere of indigo blue, a deep electric blue. In the centre of that disk imagine that I, your Tibetan brother, am standing.  My appearance and personality matter not.

3. Hình dung trước mắt các bạn (nếu tôi có thể dùng một từ không thích hợp như thế) một cái đĩa hoặc quả cầu màu xanh chàm, một màu xanh điện đậm. Ở giữa đĩa đó, hãy tưởng tượng rằng tôi, huynh đệ Tây Tạng của các bạn, đang đứng. Ngoại hình và phàm ngã của tôi không quan trọng.

4. When you have visualised me thus standing waiting, then endeavour to see—stretching between yourself, the group and me—a band of golden light and know this to be the symbol of the Path which we are all treading. See this path gradually shortening, thus bringing us closer together, slowly and steadily, until you enter into the heart of the blue disk.

4. Khi các bạn đã hình dung ra tôi đang đứng đợi như thế, hãy cố gắng nhìn thấy — trải dài giữa các bạn, nhóm và tôi — một dải ánh sáng vàng kim và biết rằng đây là biểu tượng của Con đường mà tất cả chúng ta đang bước đi. Hãy xem con đường này dần dần ngắn lại, từ đó đưa chúng ta đến gần nhau hơn, từ từ và đều đặn, cho đến khi các bạn đi vào trung tâm của chiếc đĩa màu xanh lam.

Whilst doing this, hold the mind positive and attentive, using simultaneously the faculties of imagination and of [17] visualisation. This triple activity will test and tax your powers but will be good training in active esoteric work. Regard this always as a united group effort and remember that in doing it you aid each other, and may facilitate the work to be done at the time of the Wesak moon. I would like to add that the results of this work will not become apparent to you until the full moon of May, and even then you will only (through the synthesis of the two years’ work) begin to comprehend the fusing and blending and awakening that your own souls are bringing about.

Trong khi làm điều này, hãy giữ tâm trí tích cực và chú ý, sử dụng đồng thời khả năng tưởng tượng và hình dung [17]. Hoạt động tam phân này sẽ kiểm tra và đòi hỏi sức mạnh của các bạn nhưng sẽ là huấn luyện tốt trong công việc bí truyền tích cực. Luôn coi đây là nỗ lực của một nhóm thống nhất và hãy nhớ rằng khi làm việc đó, các bạn sẽ hỗ trợ lẫn nhau và có thể tạo điều kiện thuận lợi cho công việc được hoàn thành vào thời điểm trăng tròn Wesak. Tôi muốn nói thêm rằng kết quả của công việc này sẽ không trở nên rõ ràng với các bạn cho đến khi trăng tròn của tháng Năm, và thậm chí khi đó các bạn sẽ chỉ (thông qua tổng hợp công việc của hai năm) bắt đầu hiểu được sự hợp nhất, hòa trộn và thức tỉnh mà linh hồn của chính các bạn đang mang lại.

I would ask you also to make a careful record every full moon—from two days before until two days after the full moon—of all experiences and visions. Then in June turn in your full moon records along with your other work, for the helping and informing of the group members. Turn them in, my brother, even if there is naught to relate but failure to register anything.

Tôi cũng sẽ yêu cầu các bạn ghi chép cẩn thận vào mỗi lần trăng tròn — từ hai ngày trước cho đến hai ngày sau trăng tròn — về tất cả các kinh nghiệm và những tầm nhìn. Sau đó, vào tháng 6, hãy ghi lại các bản nhật kí trăng tròn của các bạn cùng với các công việc khác của các bạn, để giúp đỡ và thông tin cho các thành viên trong nhóm. Hãy nộp chúng, hỡi huynh đệ của tôi, ngay cả khi không có gì liên quan hay không ghi nhận được gì.

I think that there is a certain vagueness in your minds as to the processes which I shall follow in dealing with this group of disciples and in the working out of the experiment hinted at earlier—the experiment of group initiation. I would like, therefore, to make the whole plan clearer and indicate anew the lines along which the training given will go. This might be called the exoteric aspect of the esoteric training, for much must and will transpire upon the inner planes in the inner Ashram about which nothing can be said and which will be individual as well as group expansion. I will outline the outer processes in the order of their present importance, and this in its turn is determined by the group condition—for which you are one and all responsible.

Tôi nghĩ rằng có một sự mơ hồ nào đó trong tâm trí các bạn về những quy trình mà tôi sẽ tuân theo khi tiến hành với nhóm đệ tử này và trong quá trình thực hiện thí nghiệm đã được gợi ý trước đó — thí nghiệm về việc điểm đạo nhóm. Do đó, tôi muốn làm cho toàn bộ kế hoạch rõ ràng hơn và chỉ ra một lần nữa các đường lối huấn luyện sẽ diễn ra. Đây có thể được gọi là khía cạnh ngoại môn của việc huấn luyện bí truyền, vì phần lớn nó phải và sẽ diễn ra trên các cõi bên trong, trong Đạo viện bên trong, điều mà về đó không thể nói được điều gì, và sẽ là sự mở rộng cá nhân cũng như nhóm. Tôi sẽ phác thảo các quy trình bên ngoài theo thứ tự tầm quan trọng hiện tại của chúng, và điều này đến lượt nó được xác định bởi điều kiện nhóm — mà tất cả các bạn, từng người một và tất cả, chịu trách nhiệm.

I. Definite and planned Meditation. The theme, if I might so call it, of the work will be threefold:

I. Tham thiền theo hoạch định và rõ ràng. Chủ đề, nếu tôi có thể gọi như vậy, của công việc sẽ là tam phân:

a. The interior interrelation of the seven centres in the body will be the objective of the meditation, basing the work upon the occult maxim that “energy follows thought.” We have started upon one formula which relates the heart, the higher head centre, and the solar plexus.

a. Mối tương quan bên trong của bảy luân xa trong cơ thể sẽ là mục tiêu của tham thiền, đặt nền tảng công việc trên châm ngôn huyền bí rằng “năng lượng theo sau tư tưởng.” Chúng ta đã bắt đầu dựa trên một công thức liên quan đến luân xa tim, luân xa đầu cao hơn, và luân xa tùng thái dương.

[18]

[18]

b. The subsequent relation of the centres in any one individual to the remainder of the group members, regarding the centres as radiating transmitters of energy to the centres of the other group members. This will result in the forming of seven great centres of energy which will constitute the group centres, fed and enlightened by the energy transmitted by each individual.

b. Mối quan hệ tiếp theo là của các luân xa trong bất kỳ cá nhân nào với phần còn lại của các thành viên trong nhóm, xem các luân xa như bộ truyền năng lượng bức xạ đến các luân xa của các thành viên khác trong nhóm. Điều này sẽ dẫn đến sự hình thành của bảy trung tâm năng lượng lớn sẽ tạo thành các luân xa nhóm, được nuôi dưỡng và khai sáng bởi năng lượng được truyền bởi mỗi cá nhân.

c. The fusion (consciously undertaken) of the individual soul with the group soul and consequently a conscious rapport with the Hierarchy, which is inherently the kingdom of souls.

c. Sự hợp nhất (được thực hiện một cách hữu thức) của linh hồn cá nhân với linh hồn nhóm và do đó là mối quan hệ có ý thức với Thánh đoàn, vốn dĩ là giới của các linh hồn.

The first meditation affects the three centres in the individual disciple and also, and consequently, his astral body. They can—when related, awakened and functioning, and when the two points in the solar plexus are balanced and “enlightened,” a word which I shall frequently use in connection with the centres—evoke response from the love-petals of the egoic lotus. This must happen automatically and need not be regarded as a complicated technicality. Do the required meditation faithfully and correctly and the results will follow spontaneously.

Bài thiền đầu tiên ảnh hưởng đến ba luân xa trong cá nhân người đệ tử, và do đó ảnh hưởng đến thể cảm xúc của y. Chúng— khi được liên hệ, thức tỉnh và hoạt động, và khi hai điểm trong luân xa tùng thái dương đạt được cân bằng và “được khai sáng”, một từ mà tôi thường dùng để liên kết với các luân xa — có thể gợi lên phản ứng từ những cánh hoa bác ái của hoa sen chân ngã. Điều này phải xảy ra tự động và không cần được coi là một kỹ thuật phức tạp. Thực hiện tham thiền được yêu cầu một cách nhiệt thành và chính xác, các kết quả sẽ tự đến.

II. Unfold to you and reveal the techniques of work, preparatory to initiation. I referred to this earlier (in Vol. I, Page 99): “As time goes on, I shall bridge between the old techniques and the newer modes of training by using a part of the ancient technique, now becoming somewhat obsolete, and give you hints as to the nature and methods of educating accepted disciples in the processes of initiation.”

II. Triển khai cho các bạn và tiết lộ các kỹ thuật làm việc, chuẩn bị cho việc điểm đạo. Tôi đã đề cập đến điều này trước đó (trong Tập I, Trang 99): “Theo thời gian, tôi sẽ kết nối giữa các kỹ thuật cũ và các phương thức luyện tập mới hơn bằng cách sử dụng một phần của kỹ thuật cổ xưa, giờ đã trở nên lỗi thời, và cho các bạn gợi ý về bản chất và phương pháp giáo dục các đệ tử được chấp nhận trong quá trình điểm đạo”.

You will note, therefore, that it is my intention to give you such hints. This I shall do from the angle of initiation and in preparation for the second or the third initiation. Bear this in mind. Hitherto I have not taught you from that particular angle, but I have instructed you as accepted disciples in training for preparation—a much earlier stage. These hints I will convey to you in the ancient symbolic formulas which will require much deep reflection on your part and an effort to evoke the intuition and thus arrive at [19] the three meanings which they hold for you, and for disciples like you. There are literally seven meanings, but I would advise you to confine yourself to the comprehension of the first three. There will be one meaning for your personality, indicating certain brain and mind realisations which are essential for the right transmission of force upon the physical plane—one of the first things an initiate has to master. There will be the soul meaning which will indicate relation to the Hierarchy, in the same way that the personality significance will indicate relationship to humanity. Then there will be a still higher meaning which will be exceedingly difficult for you to grasp, but for which you must strive and which will necessitate the consciously acquired use of the antahkarana. You will understand, therefore, why the study of the Science of the Antahkarana forms part of my instruction to this group. No major initiation can be taken until there is some measure of conscious use of the antahkarana.

Vì vậy, các bạn sẽ lưu ý rằng tôi có ý định cung cấp cho các bạn những gợi ý như vậy. Điều này tôi sẽ làm từ góc độ điểm đạo và chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ hai hoặc thứ ba. Hãy ghi nhớ điều này. Cho đến nay, tôi đã không dạy các bạn từ góc độ cụ thể đó, nhưng tôi đã hướng dẫn các bạn với tư cách là những đệ tử được chấp nhận đang được luyện tập để chuẩn bị — một giai đoạn trước đó rất nhiều. Những gợi ý này mà tôi sẽ truyền đạt cho các bạn trong các công thức mang tính biểu tượng cổ xưa, vốn sẽ đòi hỏi các bạn phải suy ngẫm sâu sắc và nỗ lực khơi gợi trực giác, và do đó đi đến [19] ba ý nghĩa mà chúng mang lại cho các bạn và cho những đệ tử như các bạn. Đúng ra có bảy ý nghĩa, nhưng tôi khuyên các bạn nên giới hạn bản thân với sự hiểu biết của ba nghĩa đầu tiên. Sẽ có một ý nghĩa đối với phàm ngã của các bạn, biểu thị những nhận thức nhất định của não bộ và tâm trí, điều cần thiết để truyền mãnh lực đúng đắn trên cõi vật lý — một trong những điều đầu tiên mà một điểm đạo đồ phải nắm vững. Sẽ có ý nghĩa linh hồn biểu thị mối quan hệ với Thánh đoàn, giống như cách mà ý nghĩa phàm ngã sẽ biểu thị mối quan hệ với nhân loại. Sau đó, sẽ có một ý nghĩa vẫn còn cao hơn mà các bạn sẽ cực kỳ khó nắm bắt, nhưng các bạn phải cố gắng và điều này sẽ đòi hỏi việc sử dụng antahkarana một cách hữu thức. Do đó, các bạn sẽ hiểu tại sao việc nghiên cứu Khoa học về Antahkarana là một phần trong hướng dẫn của tôi cho nhóm này. Không có cuộc điểm đạo lớn nào có thể được thực hiện cho đến khi có một mức độ sử dụng antahkarana một cách hữu thức.

The accepted disciple never receives any detailed information or instruction; he is given no list of rules which must govern his daily life and no minute instructions as to what he must do to “take initiation.” He receives—at specific “points in time”—according to his success in expanding his consciousness, certain definite hints. These hints have, in the past, been given without calling attention to the fact that they are hints. The disciple either recognised them for what they were and profited thereby, or else he failed to sense their import and so delayed his moving forward. In this group experiment which I am undertaking, I propose to change this somewhat and I shall let you know which are the hints I give, so that together the group may profit by them, stimulated by each presented idea and thus evoke together the overshadowing soul. This will result, eventually, in an inflow of light from the Spiritual Triad via the group antahkarana, constructed of the “rainbow bridge” of each disciple.

Người đệ tử được chấp nhận không bao giờ nhận được bất kỳ thông tin hoặc hướng dẫn chi tiết nào; y không được đưa cho danh sách các quy tắc phải chi phối cuộc sống hàng ngày của mình và không có hướng dẫn chút nào về những gì y phải làm để “được điểm đạo”. Y nhận được — vào những “thời điểm” cụ thể — tùy theo thành công của y trong việc mở rộng tâm thức của mình—một số gợi ý nhất định. Những gợi ý này, trong quá khứ, đã được đưa ra mà không nhấn mạnh rằng chúng là những gợi ý. Người đệ tử hoặc nhận ra chúng là gì và được hưởng lợi từ đó, hoặc nếu không thì y không cảm nhận được tầm quan trọng của chúng, và vì vậy đã trì hoãn việc tiến lên phía trước. Trong thử nghiệm nhóm mà tôi đang thực hiện này, tôi đề xuất thay đổi một chút, và tôi sẽ cho các bạn biết đâu là gợi ý mà tôi đưa ra, để cả nhóm cùng nhau được lợi ích vì chúng, được kích thích bởi mỗi ý tưởng được trình bày và do đó cùng nhau khơi gợi linh hồn phủ bóng. Điều này cuối cùng sẽ dẫn đến một sự tuôn đổ ánh sáng từ Tam nguyên Tinh Thần thông qua antahkarana nhóm, được xây dựng bằng “cầu vồng” của mỗi đệ tử.

III. Develop in each of you some measure of telepathic rapport—to each other, to me, your Master, and the hierarchical Plan. A Master can give no real teaching (by means of stimulation) to His group until there is established by the disciples—as individuals—a proper relation to each other, [20] free from all criticism (which always severs telepathic interplay) and based on loving understanding in which they—again as individuals—ask nothing for the separated self but only seek to give to each other and to the group.

III. Hãy phát triển trong mỗi người một mức độ về mối quan hệ viễn cảm với nhau, với tôi, với Chân sư của các bạn, và với Kế Hoạch của Thánh đoàn. Một vị Chân sư không thể đưa ra một giáo lý thực sự nào (bằng cách kích thích) cho nhóm của Ngài cho đến khi các đệ tử — với tư cách là các cá nhân — thiết lập một mối quan hệ thích hợp với nhau, [20] không có tất cả những chỉ trích (vốn luôn cắt đứt sự tương tác viễn cảm) và dựa trên về sự thấu hiểu yêu thương, trong đó họ — một lần nữa với tư cách cá nhân— không đòi hỏi gì cho cái tôi tách rời mà chỉ tìm cách trao cho nhau và cho nhóm.

The above concerns and applies to your relation to me, to the Hierarchy (which is “entered” through the process of initiation) and to each other. This relation, which indicates ability to touch the sources of power, love and light, carries with it the implications of service and work for humanity.

Những mối quan tâm và áp dụng ở trên dành cho mối quan hệ của các bạn với tôi, với Thánh đoàn (được “nhập vào” thông qua quá trình điểm đạo) và với nhau. Mối quan hệ này, biểu thị khả năng chạm vào các nguồn sức mạnh, tình thương và ánh sáng, mang theo nó những hàm ý về việc phụng sự và làm việc cho nhân loại.

IV. I shall, therefore, endeavour to interpret humanity to you (and to disciples everywhere) so that its present problems and its immediate opportunity may emerge clearly in your minds, and you will be able consequently to work intelligently and understandingly. The Science of Service needs elucidating and the Path of Man needs understanding. The attitude of the initiate consciousness to human problems is not identical with that of the ordinary human being. I do not desire to deal with problems already considered by us in the various pamphlets and in my books. It is the new world which we shall start to study, the new opportunities and the new complexities, as well as the new and coming simplifications in life and being. They concern primarily the service of the initiate; hitherto we have only considered the service which disciples, aspirants and men of goodwill can render.

IV. Do đó, tôi sẽ cố gắng giải thích về nhân loại cho các bạn (và cho các đệ tử ở khắp mọi nơi) để những vấn đề hiện tại và cơ hội trước mắt của nó có thể xuất hiện rõ ràng trong tâm trí các bạn, và do vậy các bạn sẽ có thể làm việc một cách thông minh và thấu hiểu. Khoa học Phụng sự cần được làm sáng tỏ và Con đường của Nhân loại cần được thấu hiểu. Thái độ của tâm thức vị điểm đạo đồ đối với các vấn đề của nhân loại không giống với thái độ của con người bình thường. Tôi không muốn đề cập đến những vấn đề mà chúng ta đã xem xét trong các tập sách nhỏ khác nhau và trong các sách của tôi. Chính thế giới mới mà chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu, những cơ hội mới và sự phức tạp mới, cũng như những sự đơn giản hóa mới đang đến trong cuộc sống và đang hiện hữu. Chúng liên quan chủ yếu đến việc phụng sự của vị điểm đạo đồ; cho đến nay chúng ta chỉ xem xét việc phụng sự mà các đệ tử, những người chí nguyện và những người có thiện chí có thể thực hiện.

V. I shall give you some clear and definite instructions anent the uses of the etheric body. This vehicle of vitality or energy is the ultimate conditioning factor in the activity of the physical body. It is an initiator, for there is no physical activity as we understand it unless impulsed by some energy emanating from the etheric body. An understanding of some of the processes of initiation will come from an understanding of the body of vitality. The etheric body is the organ whereby personality or soul expression becomes evidenced upon the physical plane. Its potency is that which evokes the physical form. Most of the vehicles have a dual capacity—invocation and evocation. They also have a third function: they ground or focus energy, thus producing a point of tension, of crisis and an interlude, prior to a process of transmission. [21] Ponder on these words. The physical body can be evoked into manifestation and subsequent activity, but it has no power of invocation. Hence it is not a principle (as H.P.B. tells us in The Secret Doctrine) but is basically an automaton. The etheric body invokes and evokes; but it also, in relation to the physical plane, precipitates energy through a process of appropriation. A study of these things will bring to our attention the entire subject of the centres and this we will approach from the angle of invocation and evocation.

V. Tôi sẽ cung cấp cho các bạn một số hướng dẫn rõ ràng và dứt khoát về cách sử dụng thể dĩ thái. Vận cụ sinh lực hay năng lượng này là yếu tố chi phối tối thượng trong hoạt động của cơ thể vật chất. Nó đóng vai trò khởi xướng, vì không có hoạt động thể chất nào, theo cách hiểu của chúng ta, lại không được thúc đẩy bởi một số năng lượng phát ra từ thể dĩ thái. Sự hiểu biết về một số quá trình điểm đạo sẽ đến từ sự hiểu biết về thể của sự sống. Thể dĩ thái là cơ quan mà qua đó phàm ngã hoặc sự thể hiện linh hồn trở thành bằng chứng trên cõi vật lý. Sức mạnh của nó là đáp ứng với hình tướng vật chất. Hầu hết các vận cụ đều có khả năng kép – thỉnh nguyện và đáp ứng. Chúng cũng có một chức năng thứ ba: chúng neo giữ hoặc tập trung năng lượng, do đó tạo ra một điểm căng thẳng, điểm khủng hoảng, và một khoảng lặng, trước quá trình truyền dẫn. [21] Hãy suy ngẫm về những từ này. Thể vật lý có thể được đáp ứng đi vào biểu hiện và hoạt động tiếp theo, nhưng nó không có sức mạnh của việc thỉnh nguyện. Do đó, nó không phải là một nguyên lý (như H.P.B. nói với chúng ta trong Giáo lý bí nhiệm) mà về cơ bản là một thể tự động. Thể dĩ thái cầu khẩn và đáp ứng; nhưng trong mối quan hệ với cõi vật lý, nó cũng kết tụ năng lượng thông qua một quá trình chiếm đoạt. Một nghiên cứu về những điều này sẽ đưa chúng ta quan tâm đến toàn bộ chủ đề của các luân xa và chúng ta sẽ tiếp cận nó từ góc độ của sự kêu gọi và đáp ứng.

The teaching upon the etheric body naturally follows upon any instructions which I may give anent telepathic communication and the manipulation of energy by the initiate-disciple, via the centres, via the group centres and—when of very high development and initiate degree—via the planetary centres. I have not yet given you much on this theme but there is much that will later be said. I shall, however, have to deal with it only briefly and tentatively, as the majority of aspirants and disciples are not yet ready for this particular study.

Một cách tự nhiên, việc giảng dạy về thể dĩ thái theo sau bất kỳ chỉ dẫn nào mà tôi có thể đưa ra về giao tiếp viễn cảm và điều khiển năng lượng của người đệ tử điểm đạo đồ — thông qua các luân xa, thông qua các luân xa nhóm, và khi ở mức độ phát triển và điểm đạo rất cao, thông qua các luân xa hành tinh. Tôi vẫn chưa cung cấp cho các bạn nhiều về chủ đề này nhưng có nhiều điều sẽ được nói sau này. Tuy nhiên, tôi sẽ phải đề cập vấn đề này một cách ngắn gọn và có tính chất thăm dò, vì phần lớn những người chí nguyện và đệ tử chưa sẵn sàng cho cuộc nghiên cứu cụ thể này.

VI. I shall, once a year, give to each of you a measure of individual help, personal instruction and individual meditation. The clue to your next step towards the door of initiation and towards the Presence will also be indicated by me. This I will do at the time of the Full Moon of May (Taurus) each year. This may involve at times an analysis of your group relation, of the effect that your national and racial thoughtforms have upon you, and also the assets and the liabilities of your personality and egoic rays. I shall endeavour to bring to your attention your personal point in evolution. I would remind you at this point that these seven rays are sharply different as to colouring and phenomenal effect and, at the same time, I would remark that—under the Law of Occult Paradox—the seven Lords of Being (the seven Rays) are widely different but remain non-separative.

VI. Mỗi năm một lần, tôi sẽ cung cấp cho mỗi người trong số các bạn một mức độ trợ giúp cá nhân, hướng dẫn cá nhân và tham thiền cá nhân. Tôi cũng sẽ chỉ ra đầu mối cho bước tiếp theo của các bạn hướng tới cánh cửa điểm đạo và hướng tới Đấng Hiện diện. Tôi sẽ làm nó vào thời điểm Trăng tròn của tháng 5 (Kim Ngưu) hàng năm. Đôi khi điều này có thể liên quan đến việc phân tích mối quan hệ nhóm của các bạn, về ảnh hưởng mà các hình tư tưởng quốc gia và dân tộc của các bạn đối với các bạn, cũng như các ưu điểm và những hạn chế gây trở ngại của các cung phàm ngã và chân ngã của các bạn. Tôi sẽ cố gắng làm cho các bạn chú ý đến điểm tiến hóa cá nhân của các bạn. Tôi muốn nhắc các bạn ở điểm này, rằng bảy cung này rất khác nhau về màu sắc và hiệu ứng hiện tượng, đồng thời, tôi sẽ lưu ý rằng — theo Quy luật Nghịch lý Huyền Linh — bảy Vị Chúa tể Hiện Tồn (bảy Cung) là khác biệt lớn nhưng vẫn không tách biệt.

VII. We are also trying the experiment of externalising the Ashram. This is an effort which, if successful, will be the prelude to the manifestations of the Hierarchy upon Earth. This is one of the next intended undertakings, if and when the Forces of Light have driven the forces of evil and of [22] aggression back to their “dark habitation.” As time goes on I will convey information anent the work of the Masters’ Ashrams, their planned externalisation and, eventually, the externalisation of the Hierarchy.

VII. Chúng tôi cũng đang cố gắng thử nghiệm việc Đạo viện ngoại hiện. Đây là một nỗ lực, nếu thành công, sẽ là bước mở đầu cho những biểu hiện của Thánh đoàn trên Trái đất. Đây là một trong những chủ trương được dự định tiếp theo, nếu và khi các Mãnh lực Ánh sáng đã đánh đuổi các mãnh lực của cái ác và của sự xâm lược [22] trở lại “nhà ở tối tăm” của chúng. Khi thời gian trôi qua, tôi sẽ chuyển tải thông tin về công việc của các Đạo viện của các Chân sư, kế hoạch ngoại hiện của các Ngài và cuối cùng là việc ngoại hiện của Thánh đoàn.

Such, brother of mine, is our appointed task. Out of all that might be said or written by me will eventually emerge a Treatise on Discipleship which will be useful in the New Age. You are accustomed to the teaching of the Piscean Age upon this subject and also to the Piscean interpretation. It is part of my work to begin to indicate the methods and processes and the modes of instruction which will distinguish the Aquarian Age. This will only be possible to aspirants with an open mind. For this you must strive.

Hỡi huynh đệ của tôi, đó là nhiệm vụ được chỉ định của chúng ta. Từ tất cả những gì tôi có thể nói hoặc viết, cuối cùng sẽ xuất hiện một Chuyên luận về Tư cách Đệ tử, vốn sẽ hữu ích trong Kỷ nguyên mới. Các bạn đã quen với giáo lý của Thời đại Song Ngư về chủ đề này, cũng như cách giải thích Song Ngư. Chính một phần công việc của tôi là bắt đầu chỉ ra các phương pháp, các quy trình và các phương thức hướng dẫn vốn sẽ đặc trưng cho Thời đại Bảo Bình. Điều này sẽ chỉ có thể thực hiện được đối với những người chí nguyện có tâm trí cởi mở. Vì điều này, các bạn phải phấn đấu.

This programme is an ambitious one, my brothers; it will call forth your utmost capacity and staying power but, if persisted in, it will hasten your development; this will also entail obedience. We are basically occupied, little as you may realise it, in compiling an elementary manual for initiation. Ponder on this. Much antagonism will be evoked and an uprising of scepticism will be naturally aroused; those who see no need or possibility for any changing of hierarchical methods, and who are the fundamentalists of the theosophical movement and the narrow theologians among the esotericists, will make an outcry. They will be annoyed and bewildered, but they can make no further progress this life unless they widen their point of view; they must learn that the past methods and techniques were devoted to bringing the personality into relation with the soul, with character building, integration and alignment processes, as well as with laying the foundation for what could be given out when humanity reached its present stage.

Các huynh đệ của tôi, chương trình này là một chương trình đầy tham vọng; nó sẽ đòi hỏi hết năng lực và sức mạnh duy trì của các bạn, nhưng nếu vẫn tiếp tục, nó sẽ thúc đẩy sự phát triển của các bạn; điều này cũng sẽ đòi hỏi sự vâng lời. Về cơ bản, chúng tôi đang bận rộn, ít nhất như các bạn có thể nhận ra, trong việc biên soạn một sách hướng dẫn sơ cấp về việc điểm đạo. Hãy suy ngẫm về điều này. Chương trình sẽ gợi lên nhiều sự phản đối và nghi ngờ; những người không thấy sự cần thiết hoặc khả năng thay đổi các phương pháp của Thánh đoàn, những người theo chủ nghĩa chính thống của phong trào thông thiên học và những nhà thần học hẹp hòi trong số những người theo Huyền linh học, sẽ lên tiếng phản đối. Họ sẽ khó chịu và hoang mang, nhưng họ không thể tiến bộ hơn nữa trong kiếp sống này, trừ khi họ mở rộng quan điểm của mình; họ phải biết rằng các phương pháp và kỹ thuật trong quá khứ được dành để đưa phàm ngã vào mối quan hệ với linh hồn, với các quá trình lập hạnh, tích hợp và chỉnh hợp, cũng như đặt nền tảng cho những gì có thể được tạo ra khi nhân loại đạt đến giai đoạn hiện tại.

Now the preparatory work has been done and has proved effective; it will be continued for those who need its aid, but the more advanced work can be made exoteric. This planned externalising of the teaching must go on all the time. It is the testimony of the Hierarchy that the points of crisis in the evolutionary process have accomplished their intent and have demonstrated success. These points of crisis are ever [23] succeeded by “points of revelation” and it is with such points of revelation that we are at this time occupied.

Hiện công tác chuẩn bị đã được thực hiện và tỏ ra hiệu quả; nó sẽ được tiếp tục cho những ai cần sự trợ giúp của nó, nhưng công việc tiên tiến hơn có thể trở thành ngoại môn. Việc đưa giáo lý ra bên ngoài theo kế hoạch này phải diễn ra liên tục. Đó là bằng chứng của Thánh đoàn rằng các điểm khủng hoảng trong quá trình tiến hóa đã hoàn thành ý định của chúng, và đã chứng tỏ sự thành công. Những điểm khủng hoảng này luôn [23] được tiếp nối bởi “những điểm của sự mặc khải” và chính với những điểm mặc khải như vậy mà chúng ta đang tập trung vào lúc này.

Commentary #27  [Đến Bình Giảng]

August 1942

Tháng 8 năm 1942

MY BROTHERS:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

I would like first to remind you briefly of three points which I made in my last instruction.

Trước tiên, tôi muốn nhắc các bạn một cách ngắn gọn về ba điểm mà tôi đã thực hiện trong lần hướng dẫn cuối cùng của mình.

1. This is my last effort to bring you each in this incarnation up to the point in your spiritual development which would be entirely possible, if you so desired. Success or failure in conforming to requirements is entirely your personal affair. Each of you can be active or inactive as it seems best to you, but I would remind you that whatever you do affects your group—either constructively or adversely.

1. Đây là nỗ lực cuối cùng của tôi để đưa mỗi người trong các bạn, trong kiếp sống này, đến điểm phát triển tinh thần hoàn toàn có thể đạt được, nếu các bạn muốn. Thành công hay thất bại trong việc tuân thủ các yêu cầu hoàn toàn là chuyện cá nhân của các bạn. Mỗi người trong số các bạn có thể hoạt động tích cực hoặc không tích cực động vì điều đó có vẻ là tốt nhất đối với các bạn, nhưng tôi sẽ nhắc các bạn rằng bất cứ điều gì các bạn làm đều ảnh hưởng đến nhóm của mình — theo hướng xây dựng hoặc ngược lại.

2. There are outer processes at work which are effects of inner happenings in your own souls, in the Ashram and in the Hierarchy itself. My task is to aid you in fusing the inner and the outer events so as to bring about a true expression of the facts as they are in your life, in the Ashram life and in the Hierarchy. Your task is to develop sensitivity in these three classes of spiritual events.

2. Có những quá trình bên ngoài đang diễn ra là tác động của những diễn biến bên trong trong chính linh hồn các bạn, trong Đạo viện và trong chính Thánh đoàn. Nhiệm vụ của tôi là hỗ trợ các bạn kết hợp các sự kiện bên trong và bên ngoài để mang lại sự thể hiện chân thực về các sự kiện như chúng đang tồn tại trong cuộc sống của các bạn, trong cuộc sống Đạo viện và trong Thánh đoàn. Nhiệm vụ của các bạn là phát triển sự nhạy cảm trong ba lớp sự kiện tinh thần này.

3. The group is the factor of importance and, as I said, increasingly the individual life of the disciple lessens and his group awareness and sensitivity increases. Bear this in mind as you master the hard lesson of impersonality—an impersonality shown to you by me, by A.A.B. and (so difficult a thing to learn!) by your own souls. It is an impersonality which you yourselves must develop and apply, once you love enough. Love is the basis of impersonality.

3. Nhóm là yếu tố quan trọng và, như tôi đã nói, đời sống cá nhân của người đệ tử ngày càng giảm đi và nhận thức và sự nhạy cảm với nhóm của y tăng lên. Hãy ghi nhớ điều này khi các bạn nắm vững bài học khó về tính vô ngã — sự vô ngã được thể hiện bởi tôi đối với các bạn, bởi A.A.B., và (đây là một điều rất khó học!) bởi chính linh hồn các bạn. Đó là một sự vô ngã mà bản thân các bạn phải phát triển và áp dụng, một khi các bạn đủ yêu thương. Tình thương là cơ sở của tính vô ngã.

This is, as I have repeatedly told you, an experiment in group initiation. This means that though each of you takes various steps in line with your particular point of development, there is also being developed by the Hierarchy a new technique which—when perfected and understood—will initiate [24] entire group units into the Light and into the “Labour of the Plan.” Such a group must itself be composed of people who have taken initiation. As one of your group members will only take the first initiation next life, it is obvious that the group initiation to which I refer will not be taken in this immediate cycle. The rest of the group have to wait for him.

Như tôi đã nhiều lần nói với các bạn, đây là một thử nghiệm trong việc điểm đạo nhóm. Điều này có nghĩa là mặc dù mỗi người trong số các bạn thực hiện các bước khác nhau phù hợp với điểm tiến hóa cụ thể của mình, nhưng Thánh đoàn cũng đang phát triển một kỹ thuật mới — khi được hoàn thiện và hiểu rõ — sẽ điểm đạo [24] toàn bộ đơn vị nhóm vào Ánh sáng và thành “Nhân lực của Thiên cơ”. Bản thân một nhóm như vậy phải bao gồm những người đã được điểm đạo. Vì một trong những thành viên trong nhóm của các bạn sẽ chỉ thực hiện lần điểm đạo đầu tiên ở kiếp sau, nên hiển nhiên là lần điểm đạo nhóm mà tôi giới thiệu sẽ không được thực hiện ngay trong chu kỳ này. Những người còn lại trong nhóm phải đợi y.

In any case, they are not yet ready and there is much preparatory work to be done, much unfolding of awareness and developing of sensitivity before there can be a going forward together as the situation desired demands. The time equation is one of great difficulty to the average disciple. He is either working constantly under a sense of pressure and of haste or he is “strolling along the path of life,” feeling that evolution is long and why, therefore, the need to make speed? Only a very few work from that point of balance which inhibits the spasmodic rushing activity of the intense devotee or the lazy moving forward of the awakened aspirant. I would ask you to study time in relation to your own souls, having in mind the peculiar opportunities of the present cycle and the outstanding need of humanity. Many are still too preoccupied with what they are attempting to do, with their own development and with their own capacity or non-capacity to help; but at the same time they are inadequately handling the problem of self-effacement and complete dedication to their fellowmen. “What can I do?” is of less importance to them than “What am I learning, and is the Master satisfied with me?” I shall be satisfied with you when you have forgotten both yourself and me in your strenuous service for mankind.

Trong mọi trường hợp, họ vẫn chưa sẵn sàng và còn nhiều công việc chuẩn bị phải làm, cần khai mở nhiều về nhận thức và phát triển sự nhạy cảm trước khi có thể cùng nhau tiến về phía trước như tình huống được yêu cầu đòi hỏi. Phương trình thời gian là một trong những khó khăn lớn đối với các đệ tử trung bình. Y hoặc đang làm việc liên tục dưới cảm giác áp lực và vội vàng, hoặc y đang “dạo bước trên con đường của cuộc sống,” cảm thấy rằng quá trình tiến hóa là dài và tại sao cần phải tăng tốc? Chỉ có một số rất ít hoạt động từ điểm cân bằng vốn ức chế hoạt động dồn dập gấp rút của người sùng đạo mãnh liệt, hoặc sự lười biếng tiến về phía trước của người chí nguyện thức tỉnh. Tôi sẽ yêu cầu các bạn nghiên cứu thời gian liên quan đến linh hồn của chính các bạn, lưu ý đến những cơ hội đặc biệt của chu kỳ hiện tại và nhu cầu vượt trội của nhân loại. Nhiều người vẫn còn quá bận tâm về những gì họ đang cố gắng làm, với sự phát triển của bản thân, và với khả năng hoặc không có khả năng của chính họ để giúp đỡ; nhưng đồng thời họ cũng xử lý không đầy đủ vấn đề về khiêm tốn và cống hiến hết mình cho đồng loại của mình. “Tôi có thể làm gì?” đối với họ ít quan trọng hơn là “Tôi đang học gì, và Chân sư có hài lòng với tôi không?” Tôi sẽ hài lòng với các bạn khi các bạn đã quên mình và quên cả tôi trong việc phụng sự vất vả của các bạn cho nhân loại.

Service, I would remind you, is a scientific process, calling forth all the soul powers into full expression on the physical plane. It is service which causes a divine manifestation or what you call a divine incarnation. If a man is truly serving, he will perforce draw upon all the resources of spiritual strength and light and all the wisdom and directing power of his soul, because the task to be done is always too big for the personality. Some of the world’s greatest servers are men and women who are very close to the spiritual Hierarchy and working under its direction, inspiration and impression, [25] but who know naught of esotericism so-called, do not recognise the Hierarchy and (in their brain consciousness) remain unaware of its Personnel, the Masters of the Wisdom. One of the tragedies today of the esoteric world is the vast amount of facts in the possession of esoteric students, and the piling up of knowledge anent the Hierarchy and its Personnel. In the minds of disciples this knowledge and this aspiration obliterates the need of their fellowmen. This constitutes one of the problems with which the Hierarchy is faced. The problem of balance and of dual orientation is a very real one. As regards the impartation of spiritual knowledge, the Masters Who take pupils are faced with two problems:

Tôi xin nhắc các bạn rằng phụng sự là một quá trình khoa học, nó kêu gọi tất cả các sức mạnh linh hồn biểu hiện đầy đủ trên cõi vật lý. Chính việc phụng sự đưa đến sự hiển lộ thiêng liêng hay cái mà các bạn gọi là hóa thân thiêng liêng. Nếu một người phụng sự đích thực, y sẽ huy động mọi nguồn lực của sức mạnh tinh thần và ánh sáng, cũng như tất cả sự minh triết và sức mạnh định hướng của linh hồn y, bởi vì nhiệm vụ phải hoàn thành luôn là quá lớn đối với phàm ngã. Một số phụng sự viên vĩ đại nhất trên thế giới là những người nam và nữ, rất gần gũi với Thánh đoàn tinh thần và làm việc dưới sự chỉ đạo, truyền cảm hứng và ấn tượng của Thánh đoàn, [25] nhưng không biết gì về cái gọi là bí truyền, không nhận ra Thánh đoàn và (trong ý thức não bộ của họ) vẫn không biết về Nhân sự của Thánh đoàn, các Chân sư Minh Triết. Một trong những bi kịch ngày nay của thế giới nội môn là lượng dữ kiện khổng lồ thuộc sở hữu của các học viên bí truyền, và sự tích lũy chồng chất kiến thức liên quan đến Thánh đoàn và Nhân sự của Thánh đoàn. Trong tâm trí của các đệ tử, kiến thức và nguyện vọng này xóa bỏ nhu cầu của đồng loại. Điều này tạo thành một trong những vấn đề mà Thánh đoàn phải đối mặt. Vấn đề cân bằng và định hướng kép là một vấn đề rất thực tế. Liên quan đến việc truyền đạt kiến thức tinh thần, các Chân sư thu nhận môn sinh phải đối mặt với hai vấn đề:

1. The problem of the unawakened aspirant.

1. Vấn đề của người chí nguyện chưa được thức tỉnh.

2. The problem of the learned disciple.

2. Vấn đề của người đệ tử uyên bác.

Ignorance and knowledge must both give place to understanding and wisdom.

Sự ngu dốt và kiến thức đều phải nhường chỗ cho sự thấu hiểu và minh triết.

I particularly wish to speak about the work that I desire you should do at the time of the full moon during the coming year. This aspect of your work should become increasingly potent and interesting. I regard it as of major importance in the group endeavour, and if I, your teacher and friend (under the pressure of the present world opportunity), can spare the time to aid the group in this particular way, it is surely not too much to ask that I receive reciprocal attention.

Tôi đặc biệt muốn nói về công việc mà tôi mong muốn các bạn nên làm vào thời điểm trăng tròn trong năm tới. Khía cạnh này trong công việc của các bạn sẽ ngày càng trở nên mạnh mẽ và đáng quan tâm. Tôi coi nó có tầm quan trọng lớn trong nỗ lực của cả nhóm, và nếu tôi, người thầy và người bạn của các bạn (dưới áp lực của cơ hội thế giới hiện nay), có thể dành thời gian để hỗ trợ nhóm theo cách cụ thể này, thì chắc chắn việc tôi yêu cầu sự quan tâm đáp lại không có gì là quá nhiều.

Perhaps some of you may get increased light upon the usefulness of the attempt if I tell you the interesting fact that—at the time of the full moon—it is almost as if a door suddenly opened wide, which at other times stands closed. Through that door, ingress is possible; through that door or opening, energies can be contacted which are otherwise shut off; and through that door approaches can be made to the planetary Hierarchy and to reality which are at other times not possible. In this statement, you have the rude outlines of a Science of Approach which has been little known up to the present time, even to advanced disciples, but which it is intended [26] during the New Age to develop. It is a part of the true and emerging technique of the Path.

Có lẽ một số bạn có thể sáng tỏ hơn về sự hữu ích của nỗ lực nếu tôi cho các bạn biết một sự thật thú vị rằng — vào thời điểm trăng tròn — gần như thể một cánh cửa đột nhiên mở rộng mà vào những lúc khác lại đóng lại. Qua cánh cửa đó, có thể xâm nhập; thông qua cánh cửa đó hoặc sự đang mở đó, có thể tiếp xúc với các nguồn năng lượng vốn đang bị chặn; và thông qua cánh cửa đó, các phương pháp tiếp cận có thể được thực hiện đối với Thánh đoàn hành tinh mà thực tế vào những thời điểm khác không thể thực hiện được. Trong tuyên bố này, các bạn có những phác thảo thô sơ về một Khoa học Tiếp cận mà cho đến thời điểm hiện tại vẫn còn ít được biết đến, ngay cả đối với những đệ tử cao cấp, nhưng được dự định [26] để phát triển trong Kỷ nguyên mới. Nó là một phần của kỹ thuật thực sự và đang nổi lên của Đường Đạo.

I would like somewhat to change your work in connection with your full moon contact. Two days before the time of the full moon, I will ask you to begin to cultivate that inner attitude of poised re-collectedness which will lay the right foundation for further work and which will help to shift the focus of the attention from the objective to the subjective work. It is an attitude more than an activity. Ponder on this phrase. It is a state of consciousness which can be carried forward, no matter what may be the outer activity or interests, and it involves no outer silence, or cessation of normal behaviour. It is part of the training which has for its goal the living (by the disciple) of a dual life—a life of active participation in world affairs and a life of intense mental and spiritual preoccupation.

Tôi muốn phần nào thay đổi công việc của các bạn liên quan đến việc tiếp xúc vào trăng tròn của các bạn. Hai ngày trước trăng tròn, tôi sẽ yêu cầu các bạn bắt đầu trau dồi thái độ bên trong của sự tập trung điềm tĩnh, vốn sẽ đặt nền tảng đúng đắn cho công việc tiếp theo và sẽ giúp chuyển trọng tâm của sự chú ý từ công việc bên ngoài sang công việc bên trong. Đó là một thái độ hơn là một hoạt động. Hãy suy ngẫm về cụm từ này. Đó là một trạng thái tâm thức có thể được thực hiện, bất kể hoạt động hay sở thích bên ngoài là gì, và nó không liên quan đến sự yên lặng bên ngoài, hay sự chấm dứt hành vi bình thường. Đó là một phần của việc huấn luyện nhằm mục tiêu của nó là sống (bởi đệ tử) một cuộc sống song đôi — một cuộc sống tham gia tích cực vào các vấn đề thế giới và một cuộc sống tập trung mãnh mẽ về tinh thần và trí tuệ.

Make a most definite effort during these two days to step up your consciousness a little higher at each of the three spiritual points in each day: at the early morning meditation, at the noonday recollection, and at the sunset hour of contact. This means—if you follow instructions correctly—that you subject your subtle bodies to six equal points of spiritual stimulation and that you do it consciously. Then at some hour in the day of the full moon, but prior to the exact hour if that hour is not possible, follow the procedure outlined below:

Trong hai ngày đó [hai ngày trước trăng tròn], hãy cố gắng hết sức để nâng cao tâm thức của các bạn lên một chút tại mỗi một trong ba thời điểm thiêng liêng của ngày: thời điểm thiền sáng sớm, thời điểm hồi tưởng giữa trưa, và thời điểm tiếp xúc lúc mặt trời lặn. Nếu các bạn thực hiện hướng dẫn một cách đúng đắn thì đồng nghĩa rằng các bạn sẽ chủ động đưa các thể tinh tế của mình đến sáu điểm kích thích tâm linh bằng nhau và các bạn thực hiện điều đó một cách có ý thức. Sau đó, tại thời điểm trăng tròn, nhưng nếu giờ đó là không thể thì trước giờ trăng tròn chính xác, hãy làm theo các bước dưới đây:

1. Centre the consciousness in the head.

1. Tập trung tâm thức vào đầu.

2. Imagine yourself as retreating even more consciously within towards that point of contact where personality-soul and the teacher in the world of souls can meet and become as one.

2. Hãy tưởng tượng các bạn đang rút lui một cách có ý thức hơn nữa vào bên trong, hướng tới điểm tiếp xúc nơi linh hồn-phàm ngã và vị thầy trong thế giới của các linh hồn có thể gặp gỡ và hòa thành một.

3. Then hold yourself as poised and steady as possible, preserving that detached poise as fully as may be during the following process which is carried forward silently by the creative activity of the imagination.

3. Sau đó, giữ tâm thế điềm tĩnh và vững vàng nhất có thể, duy trì tâm thế tách rời trong suốt quá trình tiếp sau đó, quá trình hoạt động sáng tạo thầm lặng của trí tưởng tượng.

a. Imagine or visualise yourself as standing before a golden or ivory door. [27]

a. Hãy tưởng tượng hay hình dung mình như đứng trước một cánh cửa vàng kim hoặc cánh cửa ngà. [27]

b. See that door slowly open, revealing a long low room with three windows—one looking east, one looking west and one looking north. Seated before the eastern window on a low carved chair (but looking towards you, and therefore sitting with his back to the window) you may visualise your Tibetan brother, in deep meditation, seeking to contact you and all for whom he is, as a teacher, responsible.

b. Các bạn thấy cửa từ từ mở ra, để lộ một căn phòng thấp dài với ba cửa sổ — một cửa nhìn về phía đông, một cửa nhìn về phía tây và một cửa nhìn về phía bắc. Hình dung người ngồi trước cửa sổ phía đông trên một chiếc ghế thấp có chạm trổ (nhưng đang nhìn về phía bạn, và do vậy đang quay lưng về phía cửa sổ), là Huynh Đệ Tây Tạng của các bạn, trong trạng thái tham thiền sâu, đang tìm cách tiếp xúc với các bạn và tất cả những người mà Ngài ấy chịu trách nhiệm hướng dẫn như một huấn sư.

c. Then picture yourself as advancing slowly up the long room (which is his study and work room) and then standing before him. See also your group brothers standing with you. Then each of you can constitute himself, in imagination, as spokesman for his group and offer the group in service and deep consecration to the service of the Plan.

c. Sau đó, hình dung các bạn đang thong thả tiến lên căn phòng dài (đó là phòng làm việc và nghiên cứu của Ngài) và đang đứng trước mặt Ngài. Các bạn cũng thấy các huynh đệ trong nhóm cũng đang đứng cùng với các bạn. Sau đó, mỗi người các bạn có thể tưởng tượng mình như là người phát ngôn cho nhóm mình và dâng hiến nhóm cho công cuộc phụng sự Thiên Cơ.

d. When you have accomplished this, imagine that you see me rising from my chair. Then as a group we face the East and say together the Great Invocation. Endeavour consciously to follow my lead as we say the words, and listen with care, using the imagination. This will involve intense concentration. Do this until the time of the full moon of May, for it is a preparatory exercise in order to train you all in esoteric participation.

d. Khi các bạn đã hoàn tất việc này, các bạn tưởng tượng thấy tôi đứng dậy khỏi ghế. Rồi như một nhóm, chúng ta cùng hướng về phía Đông, đồng thanh đọc Đại Khấn Nguyện. Hãy cố gắng một cách có ý thức theo sự dẫn dắt của tôi khi chúng ta cùng đọc những lời này, hãy chăm chú lắng nghe và sử dụng sự tưởng tượng của mình. Điều này cần sự tập trung vô cùng cao độ. Thực hành điều này cho đến thời điểm trăng tròn của tháng Năm, vì đây là một bài tập huấn luyện chuẩn bị cho việc tham gia công tác huyền môn của tất cả các bạn.

Make a careful analysis each month of your success or failure to carry out this discipline, and note with exactitude all reactions, results and phenomena. Success will depend upon your ability to achieve a strong mental reorientation and focus, to keep detached from brain activity, and yet at the same time to preserve the waking brain attentiveness. The resultant effects, reactions, and the registering of any realisation must be noted for the two days succeeding the time of the full moon, for the seeping through of information and knowledge is often a slow process, owing to the inadequate alignment of the bodies. The May full moon will inaugurate the first real united effort to synthesise subjectively [28] the present existing groups. This synthesis and corporate effort will become an annual endeavour as time goes on, and will take place regularly each Wesak Festival.

Mỗi tháng, hãy tiến hành phân tích kỹ càng sự thành công hay thất bại trong việc thực hiện kỷ luật này, và nhớ ghi chú lại thật chính xác tất cả những phản ứng, kết quả và hiện tượng. Sự thành công sẽ phụ thuộc phần lớn vào khả năng tái định hướng và tập trung trí tuệ cao độ của các bạn, để có thể vừa duy trì tách biệt khỏi hoạt động của não bộ, nhưng đồng thời vẫn duy trì được sự tỉnh táo của não bộ. Những hiệu ứng, phản ứng, và sự ghi nhận của bất kỳ nhận thức nào đều phải được ghi nhận trong hai ngày sau thời điểm trăng tròn, bởi sự tiếp nhận các thông tin và kiến ​​thức là một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian, do sự chỉnh hợp của các thể chưa đầy đủ. Trăng tròn tháng Năm sẽ là khởi đầu cho nỗ lực hợp nhất thực sự đầu tiên để kết hợp một cách chủ quan các nhóm hiện có. [28] Dần dà, nỗ lực hợp nhất này của tập thể sẽ trở thành một nhiệm vụ thường niên, diễn ra đều đặn trong mỗi Lễ hội Wesak.

Of the original twenty-four members of the new (reorganised) seed group only eighteen now remain working on the physical plane. Two of them have passed into what we in Tibet call “the clear cold light”; they have gone over to the other side of the veil but are still actively cooperating with the group, and receiving the same instructions from me. I can, however, approach them more directly, as the limitations imposed by the physical brain no longer exist. P.D.W., though the latest to pass over, was held by the handicap of the astral body for an exceedingly brief time; he is now focussed and working in connection with my Ashram, upon the mental plane. C.D.P. is now in process of freeing herself from astral limitations, and by the time the sun moves northward she too will be working entirely mentally. They are both of them of real service to me at this time of world need, one owing to her understanding heart and utter selflessness, the other because of his outstanding wisdom.

Trong số hai mươi bốn thành viên ban đầu của nhóm hạt giống mới (được tổ chức lại), chỉ còn mười tám người hiện tại đang làm việc trên cõi vật lý. Hai trong số họ đã được chuyển hóa sang trạng thái mà ở Tây Tạng chúng tôi gọi là “ánh sáng trong lạnh”; dù các đệ tử ấy đã bước qua phía bên kia tấm màn che nhưng vẫn tích cực kết nối với nhóm, và nhận cùng những huấn thị từ tôi. Tuy nhiên, tôi có thể tiếp cận họ trực tiếp hơn, không còn bị hạn chế bởi não bộ vật chất nữa. P.D.W., mặc dù vừa mới qua đời gần đây nhất, nhưng cũng chỉ bị giam  hãm trong thể cảm dục trong thời gian cực ngắn; em ấy hiện đang tập trung làm việc và kết nối với Đạo viện của tôi trên cõi trí. Riêng C.D.P, em ấy đang trong quá trình giải thoát mình khỏi những hạn chế cảm dục, và đến thời điểm mặt trời di chuyển về phía Bắc cũng là lúc em ấy sẽ làm việc hoàn toàn trên cõi trí. Cả hai người đều thực sự hữu ích cho tôi vào thời điểm cần thiết này của thế giới, một người do trái tim thấu hiểu và hoàn toàn vô kỷ, một người vì sự minh triết phi thường của mình.

Three of the original members (C.A.C., S.C.P., and W.O.I.) could not stand the spiritual pressure, and their personalities forced their withdrawal (probably for this incarnation) from the group work. The tests of discipleship are severe, as you well know, and only the pure heart, true love and mental activity can serve to pull the disciple through them; this is always possible, however, where these exist and where there is also a determined orientation towards the light. It is this determined orientation which has enabled W.D.S. to stand steady through his tests. There is a stage of discipleship which is described as that of “light fluctuation.” The Stanzas for Disciples, which I have at times quoted to you, speak of this stage as follows:

Ba trong số các thành viên ban đầu (C.A.C., S.C.P., và W.O.I.) đã không thể chịu được áp lực tinh thần, và các phàm ngã của họ buộc họ phải rút lui (có thể cho kiếp sống này) khỏi công việc nhóm. Hẳn các bạn đã nhận ra rằng thử thách luôn luôn khắc nghiệt dành cho các đệ tử; và chỉ có trái tim thuần khiết, tình thương đích thực và hoạt động trí tuệ mới có thể giúp người đệ tử vượt qua; khi sở hữu những phẩm tính này, nơi mà ý chí luôn hướng về ánh sáng, thì người đệ tử hoàn toàn có khả năng vượt qua thử thách. Cũng chính định hướng rõ ràng này đã giúp W.D.S kiên cường vượt qua các bài thử thách của mình. Có một giai đoạn đệ tử được mô tả như “dao động ánh sáng.” Các Đoạn thơ cho Đệ tử, mà tôi đã có lần trích dẫn cho các bạn, nói về giai đoạn này như sau:

“In and out of the light, as a moth around a candle, flicker the sparks. These sparks are men, awakened to the light, but men who know not that the greater Light puts out their little light and draws the sparks unto itself. They cannot face the light. They fear its utter truth.

“Như một loài bướm đêm xung quanh một ngọn nến, những tia lửa chập chờn sáng và tối. Những tia lửa này là những con người, đã thức tỉnh với ánh sáng, nhưng họ không biết rằng Ánh sáng vĩ đại hơn dập tắt ánh sáng yếu ớt của họ và thu hút các tia lửa vào trong chính nó [Ánh sáng Vĩ Đại]. Họ không thể đối mặt với ánh sáng này. Họ sợ sự thật tuyệt đối của nó.

[29] They come; they go; again do they return, only again to leave.”

[29] Họ đến; họ đi, một lần nữa họ trở về, chỉ để lại rời đi.”

Hold these brothers, who still remain your group brothers though temporarily in pralaya, warmly in your hearts. Hold them in love. Seek not to bring them aid or draw them back again within the circle of your service. They are at the point where their own souls alone and I, their Master, know the right timing of approach.

Hãy giữ các huynh đệ này, những người vẫn còn là những huynh đệ trong nhóm của các bạn, ấm áp trong những trái tim của các bạn mặc dù tạm thời họ đang trong tình trạng pralaya. Hãy giữ họ trong tình thương. Đừng tìm cách hỗ trợ họ hoặc đưa họ trở lại vào phạm vi công việc phụng sự của các bạn. Họ đang ở thời điểm mà chỉ linh hồn của họ và tôi, Chân sư của họ, biết thời điểm thích hợp để tiếp cận.

Finally, my brothers, one parting word as I close this instruction. The world tension increases and will increase; anxiety grows and there is no sign of its immediate lessening; the darkest hour of human life is upon us and it frequently brings to the earnest disciple the experience—terrible yet beautiful—to which has been given the name of the “dark night of the soul.” This dark night takes different forms and different degrees of intensity, according to the ray, the type and the point in evolution of the disciple. From it you cannot escape. But one error emerges if careful thought is given to this dark night as pictured by the mystics down the ages. Their emphasis has, in the past, been laid upon the suffering which the personality experiences and the agony through which the personality goes. But in reality and from the angle of the facts, that is not the true dark night. The real “dark night” is that of the soul as it participates in the pain of humanity as a whole, in the agony of humanity’s separation from God (a separation based upon illusion but not on actuality) and upon the desperation of humanity’s reaching forth towards what appears to be an unresponsive God. Personality pain, agony and desperation are very different things and are not concerned with the totality of pain and suffering to which mankind is subjected.

Cuối cùng là một lời chia tay khi tôi kết thúc hướng dẫn này. Sự căng thẳng trên thế giới sẽ ngày càng tăng lên; sự lo lắng dâng cao và không có dấu hiệu giảm ngay lập tức; thời điểm đen tối nhất của đời sống nhân loại đang bao phủ lên chúng ta, và nó thường mang đến cho các đệ tử nhiệt thành trải nghiệm—khủng khiếp mà đẹp đẽ — vốn được đặt tên là “đêm tối của linh hồn.” Đêm tối này có hình thức và cường độ khác nhau tùy theo cung, kiểu người và mức độ tiến hóa của các đệ tử. Các bạn không thể trốn thoát khỏi nó. Nhưng một nhầm lẫn sẽ xuất hiện nếu suy nghĩ cẩn thận về cách các nhà thần bí qua các thời đại hình dung về đêm tối này. Trong quá khứ, trọng tâm của họ được đặt trên sự đau khổ mà phàm ngã trải nghiệm và sự thống khổ mà phàm ngã trải qua. Nhưng trong thực tế và từ góc độ của các sự kiện, đó không phải là đêm tối thật sự. “Đêm tối” thực sự là đêm tối của linh hồn khi nó tham gia vào nỗi đau của nhân loại như một tổng thể, trong sự thống khổ của con người tách rời khỏi Thượng đế (một tách biệt dựa trên ảo tưởng nhưng không phải trên thực tế) và dựa trên sự tuyệt vọng của con người hướng về một Thượng đế dường như không phản hồi. Nỗi đau của phàm ngã, sự thống khổ và sự tuyệt vọng là những điều rất khác nhau và không liên quan đến toàn bộ những đau đớn và đau khổ mà nhân loại đang phải gánh chịu.

I would therefore ask you to steel your souls to endurance, knowing that the Hierarchy Stands; I would ask you to love blindly and unchangingly in spite of all that may happen, knowing that Love Stands unmoved amid the wreckage of all around and eternally loves; I would ask you to put your hand into that of the Master and move forward with Him and in the strength of your group, irradiated by [30] the life and light of the Hierarchy; I would ask you to be a strong hand in the dark to your fellowmen because you are affiliated with the Hierarchy and the love and strength of the Hierarchy can flow through you, if you so permit.

Vì vậy, tôi sẽ yêu cầu các bạn tôi luyện linh hồn của mình để chịu đựng, biết rằng Thánh đoàn Trụ Vững; Tôi sẽ yêu cầu các bạn yêu thương một cách mù quáng và không thay đổi dù có xảy ra bất cứ điều gì, biết rằng Tình Yêu Đứng vững giữa đống đổ nát của mọi thứ xung quanh và vĩnh viễn yêu thương; Tôi sẽ yêu cầu các bạn đặt bàn tay của mình vào bàn tay của Chân Sư và di chuyển về phía trước với Ngài và trong sức mạnh nhóm của các bạn, được chiếu rọi bởi [30] đời sống và ánh sáng của Thánh đoàn; Tôi sẽ yêu cầu các bạn trở thành chỗ dựa trong bóng tối cho đồng bào của các bạn bởi vì các bạn đang liên kết với Thánh đoàn và tình thương và sức mạnh của Thánh đoàn có thể tuôn chảy qua các bạn, nếu các bạn cho phép.

I would remind you in this time of trial that I, your Master, love and guard you, for your soul and my soul are one soul. Be not unduly disturbed. There is no light or dark to the soul but only existence and love. Rest back on that. There is no separation but only identification with the heart of all love; the more you love the more love can reach out through you to others. The chains of love unite the world of men and the world of forms and they constitute the great chain of Hierarchy. The spiritual effort you are asked to make is that of developing yourself into a vibrant and powerful centre of that fundamental, universal Love.

Tôi sẽ nhắc nhở các bạn trong thời điểm khó khăn thử thách này rằng Tôi, Chân sư của các bạn, luôn yêu thương và bảo vệ các bạn, do linh hồn các bạn và linh hồn tôi là một. Không nên băn khoăn một cách quá đáng. Không có ánh sáng hoặc bóng tối ở linh hồn mà chỉ có sự sống và tình thương. Hãy quay lại đó nghỉ ngơi. Không có sự tách biệt nào mà chỉ có sự đồng hóa với trái tim của tất cả yêu thương; các bạn càng yêu thương nhiều thì càng có nhiều tình thương tuôn chảy thông qua các bạn để tiếp cận với những người khác. Các mắt xích của tình thương đang hiệp nhất thế giới loài người và thế giới của các hình tướng, và chúng tạo thành chuỗi vĩ đại của Thánh đoàn. Nỗ lực tinh thần mà các bạn được yêu cầu thực hiện là phát triển bản thân thành một trung tâm mạnh mẽ và rực rỡ của Tình Thương cơ bản và phổ quát đó.

Commentary #28  [Đến Bình Giảng]

September 1943

Tháng 9 năm 1943

MY BROTHERS:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

The New Seed Group has now been in existence for several years. During this time, I have only been in communication with you annually. Those who are in preparation for initiation must inevitably work alone. I would have you remember this. There are, as you know, three sources of inspiration which indicate to the disciple—struggling on the physical plane—his goal:

Nhóm hạt giống mới hiện nay đã tồn tại trong nhiều năm. Trong thời gian này, tôi đã chỉ được giao tiếp với các bạn hàng năm. Những người đang chuẩn bị cho điểm đạo chắc chắn phải làm việc một mình. Tôi muốn các bạn nhớ điều này. Như các bạn biết, có ba nguồn cảm hứng chỉ dẫn cho người đệ tử —đang chiến đấu trên cõi vật lý — mục tiêu của y:

1. His own soul . . .  through direct contact, as the result of alignment.

1. Linh hồn của y. . . thông qua tiếp xúc trực tiếp, như là kết quả của sự chỉnh hợp.

2. The Master . . .  through impression, as a result of sensitivity.

2. Chân sư. . .   thông qua ấn tượng, như là kết quả của sự nhạy cảm.

3. The Ashram group . . . through service, as a result of interplay.

3. Nhóm Đạo viện. . . thông qua phụng sự, như là một kết quả của sự tương tác.

Later, as the initiate-disciple makes progress and as he builds the antahkarana, the energy of the one Life, emanating from the Monad, brings in the fourth type of inspiration. To these spiritual sources of inspiration must be added lesser ones, such as mental impression, telepathically registered and coming [31] from a multitude of thinkers and minds. These work both as individuals and as members of a group. There is also emotional inspiration to which—in its most easily recognisable appearance—we give the name of aspiration. All these are, esoterically considered, evocative of desire, to be transmuted into will if (and only if) “the energy of the will-to-good is the emanating principle and the actuating result of the inspired impulse; it must constitute the motivating impulse at the centre of the disciple’s being.” Thus spoke one of the Masters not long ago to a disciple who sought to grasp the synthetic effect of inspiration. It is the Will and its immediate evocation which is the major need of this particular group of my disciples. The hierarchical Plan is the objective of that will; the purpose of Sanat Kumara is the revelation which comes to those who demonstrate that will, and it is the strength of the divine Power which makes that will possible. Strength is to Power what desire is to aspiration, or what the personality is to the soul. It is the revelation of quality.

Sau đó, khi người đệ tử-điểm đạo đồ tiến bộ và khi y xây dựng Antahkarana, năng lượng của Sự sống duy nhất, phát ra từ Chân thần, mang lại loại cảm hứng thứ tư. Bên cạnh các nguồn cảm hứng tinh thần trên, cần bổ sung những nguồn thấp hơn, như ấn tượng trí tuệ, ghi nhận viễn cảm và những nguồn đến [31] từ vô số các nhà tư tưởng và các tâm trí. Những người này làm việc với tư cách là các cá nhân cũng như là thành viên của một nhóm. Ngoài ra còn có nguồn cảm hứng mang tính cảm xúc mà chúng ta gọi là khát vọng dưới hình thức dễ nhận biết nhất của nó. Về mặt nội môn, tất cả những nguồn đó đều gợi lên mong muốn, phải được chuyển hoá thành ý chí nếu (và chỉ nếu) “năng lượng của ý chí-hướng-thiện là nguyên lý phát toả và kết quả thúc đẩy của các xung động cảm hứng; nó phải tạo thành xung động thúc đẩy tại trung tâm hiện tồn của đệ tử.” Cách đây không lâu một trong các Chân sư đã nói như vậy với một đệ tử đang tìm cách nắm bắt được hiệu quả tổng hợp của nguồn cảm hứng. Chính Ý chí và sự khơi dậy tức thời nó là nhu cầu chủ yếu của nhóm các đệ tử đặc biệt này của tôi. Kế Hoạch của Thánh đoàn là mục tiêu của ý chí đó; mục đích của Đức Sanat Kumara là sự thiên khải đến với những người thể hiện ý chí đó, và chính sức mạnh của quyền năng Thiêng liêng làm cho ý chí đó thành hiện thực. Sức mạnh đối với Quyền Năng cũng giống như ham muốn đối với khát vọng, hoặc phàm ngã đối với linh hồn. Đó là sự bộc lộ của phẩm tính.

I have started this communication with this note of Will because the use of that will (under instruction) is the objective of your next year’s work; as we proceed with the various phases of our study which I have earlier outlined, my use of this theme will emerge clearly in your consciousness. It has seemed to me necessary to open this instruction with a brief resume of the past teaching. The pressure of life these days is very great; everybody is tired; you will therefore approach this fresh addition to the teaching with renewed zest if the past teaching is clearly apprehended and is clearly illumined in your minds. What is the task which confronts you, both as individuals and as a group? It is a fivefold task:

Tôi đã bắt đầu trao đổi này với lưu ý về Ý chí vì việc sử dụng ý chí đó (theo hướng dẫn) là mục tiêu công việc trong năm tới của các bạn; khi chúng ta tiến hành các giai đoạn nghiên cứu khác nhau mà tôi đã vạch ra trước đây, việc tôi sử dụng chủ đề này sẽ sớm hiện rõ trong tâm thức của các bạn. Đối với tôi, dường như cần phải mở đầu hướng dẫn này bằng một bản tóm tắt ngắn gọn về các giảng dạy trước đây. Áp lực của cuộc sống trong những ngày này là rất lớn; mọi người đều mệt mỏi; vì vậy các bạn sẽ tiếp cận với sự bổ sung mới mẻ này của bài giảng với niềm say mê mới nếu bài giảng trước được nắm bắt rõ ràng và được soi rọi rõ ràng trong tâm trí của các bạn. Nhiệm vụ mà các bạn phải đối mặt, với tư cách cá nhân và như nhóm, là gì? Đó là một nhiệm vụ ngũ phân:

1. To confront and deal adequately with your own personal Dweller on the Threshold.

1. Để đương đầu và giải quyết thỏa đáng với Kẻ chặn ngõ cá nhân của riêng các bạn.

2. To share—as a group—in humanity’s effort to confront the group Dweller on the Threshold; this “Dweller” is constructed of the evil desires of all mankind, of humanity’s mistakes and weaknesses, thoughts, [32] distorted strengths and perverse motives. This confronting is one of the objectives of the present world war.

2. Để chia sẻ — với tư cách là một nhóm — trong nỗ lực của nhân loại để đối đầu với Kẻ chặn ngõ nhóm này; “Kẻ chặn ngõ” được xây dựng từ những ham muốn xấu xa của toàn thể nhân loại, của những sai lầm và các điểm yếu, các tư tưởng, [32] các sức mạnh bị bóp méo và động cơ lầm lạc của nhân loại. Việc đương đầu này là một trong những mục tiêu của cuộc chiến tranh thế giới hiện nay.

3. To arrive at that understanding which is the foundation of wisdom, which is the result of a developed intuition, and which is also an intelligent application of the truths apprehended.

3. Đạt được sự thấu hiểu vốn là nền tảng của minh triết, là kết quả của một trực giác đã phát triển, và cũng là việc áp dụng sáng suốt những sự thật đã được lĩnh hội/nắm bắt.

4. To stand—as a group—before the Angel of the Presence.

4. Để đứng — như một nhóm — trước Thiên thần Hiện diện.

5. To take initiation yourself, as an individual, and also as a coherent unit in the group effort towards initiation.

5. Để tự mình đạt điểm đạo với tư cách như một cá nhân, và cũng như một đơn vị thống nhất trong nỗ lực nhóm tiến tới điểm đạo.

Other goals will emerge as you strive, study and serve; the simplicity, however, of the above statement will convey to you your immediate objectives. These objectives must be thought through together and their import must be grasped as a group. The contribution which each of you can make to the cause of clear thinking, ardent aspiration and determined application may sound easy and quite familiar. The moment, nevertheless, these goals become techniques and are expressed factually, their simplicity seems to vanish and the proposition appears extremely hard.

Khi các bạn cố gắng học tập và phụng sự, các mục tiêu khác sẽ xuất hiện; tuy nhiên, sự đơn giản của tuyên bố trên sẽ truyền đạt cho các bạn những mục tiêu trước mắt của mình. Những mục tiêu này phải được suy ngẫm thấu đáo cùng nhau và việc tiếp nhận chúng phải được thực hiện như một nhóm. Sự đóng góp mà mỗi người trong số các bạn có thể thực hiện cho mục đích suy nghĩ sáng suốt, khát vọng nhiệt thành và quyết tâm thực hiện có vẻ dễ dàng và khá quen thuộc. Tuy nhiên, vào thời điểm những mục tiêu trở thành các kỹ thuật và được thể hiện một cách thực tế, thì tính đơn giản của chúng dường như biến mất và các nhiệm vụ trở nên vô cùng khó khăn.

Since my last communication to you, certain changes have taken place in the personnel of the group. L.U.T. has been dropped (temporarily and for this particular incarnation) out of the group, and therefore out of my Ashram. The constant condition of irritation in which he lived was the result of the ceaseless conflict between his aspiring soul nature and his inert and essentially selfish personality; that is now over and for the rest of this life it can be assumed that he has reached his high water mark and is passing through a period—definitely temporary—of retrogression or of recession. Next life will see him pass triumphantly his present point of attainment, leaving him stabilised upon the Way. He remains, therefore, tenuously linked with the New Seed Group—a linking which is stronger upon the subjective side than upon the outer.

Kể từ lần liên lạc cuối cùng của tôi với các bạn, những thay đổi nhất định đã diễn ra trong nhân sự của nhóm. L.U.T. đã bị loại (tạm thời và trong kiếp sống này) ra khỏi nhóm, và do đó nằm ngoài Đạo viện của tôi. Tình trạng thường xuyên khó chịu mà ông ấy đã sống là kết quả của cuộc xung đột không ngừng giữa bản chất linh hồn chí nguyện và tính cách trì trệ cùng với phàm ngã về cơ bản là ích kỷ của ông ấy; điều đó bây giờ đã kết thúc và trong phần còn lại của cuộc đời này, có thể giả định rằng ông ấy đã đạt đến mốc cao nhất của mình và đang trải qua một giai đoạn — chắc chắn là tạm thời — của sự thụt lùi hoặc suy thoái. Kiếp sống tiếp theo sẽ chứng kiến ông ấy chiến thắng vượt quá mức thành tựu hiện tại, để ông ấy vững vàng trên đường Đạo. Do đó, ông ấy vẫn còn liên kết chặt chẽ với Nhóm Hạt Giống Mới — một mối liên kết mạnh mẽ ở phía bên trong hơn là ở bên ngoài.

Three of your comrades in the earlier groups have rejoined [33] the group; the demand of their souls for reinstatement has been recognised by me and has evoked from me due response. Their linking with the group was not tenuous but was a strongly knit cable. H.S.D. has again taken her place among you, having learnt some measure of inner calm and mental poise. L.T.S-K., I felt, needed the protection of the group against his constantly recurring glamours and his innate glamour-making tendency; I, therefore, reinstated him for his own protection so that in a coming life he can start earlier, and move forward with greater precision. R.V.B., having learnt the lessons which an interlude of complete aloneness can give to the ardent disciple (who craves and rests back upon companionship) is now ready to prove what he essentially has ever been—a strength and a centre of poised peace to his group brothers. He is a definite asset in the group work and has reached a point in his unfoldment where it will not hurt him to know this.

Ba trong số các đồng môn của các bạn trong nhóm trước đó đã trở lại gia nhập [33] nhóm; yêu cầu phục hồi của các linh hồn của họ đã được tôi công nhận và đã khơi dậy từ tôi sự đáp ứng thích đáng. Kết nối của họ với nhóm không phải là sợi dây mong manh mà là một sợi cáp đan nhau mạnh mẽ. H.S.D. đã một lần nữa lấy lại vị trí của mình giữa các bạn, đã học được một số biện pháp an tĩnh nội tâm và thăng bằng trí tuệ. Tôi cảm thấy L.T.S.K. cần sự bảo vệ của nhóm chống lại ảo cảm liên tục tái diễn của ông và xu hướng tạo ra ảo cảm bẩm sinh của ông; Vì vậy, tôi phục hồi ông nhằm bảo vệ chính ông, để trong một kiếp sống sắp tới để ông có thể bắt đầu sớm hơn, và tiến về phía trước với độ chính xác cao hơn. R.V.B., sau khi đã học được những bài học mà khoảng thời gian cô đơn hoàn toàn có thể mang lại cho người đệ tử nhiệt thành (vốn khao khát và dựa vào tình bạn) giờ đã sẵn sàng để chứng minh những gì về cơ bản ông ấy đã từng là—một sức mạnh và một trung tâm hòa bình sẵn sàng cho nhóm huynh đệ của mình. Ông ấy là một tài sản nhất định trong công việc nhóm và đã đạt đến một điểm trong quá trình phát triển của mình khiến ông sẽ không bị tổn hại gì khi biết điều này.

So, my brothers, we face a new cycle of work and one in which C.D.P. and P.D.W.—working on the inner side of life—are definitely sharing. The latter has moved on into the Ashram of his Master, the Master Morya. He is now preoccupied with the work of breaking up—along with other trusted first ray disciples—the crystallisation which is the disastrous condition of France. His past incarnation in the French nation has well fitted him for this task; his heart of love and his very profound development will also enable him greatly to assist, thus offsetting the destructive tendencies of the first ray worker. He has never been destructive in his application of truth.

Vì vậy, hỡi các huynh đệ của tôi, chúng ta phải đối mặt với một chu kỳ mới của công việc và một trong 2 người C.D.P. và P.D.W. — làm việc ở nội giới của cuộc sống — chắc chắn đang chia sẻ. Người thứ hai (P.D.W.) đã chuyển vào Đạo viện thuộc Chân sư của ông ấy, Chân sư Morya. Bây giờ ông ấy đang bận rộn với công việc phá vỡ — cùng các đệ tử cung một tin cậy khác — sự kết tinh vốn là tình trạng tai hại của nước Pháp. Hóa thân trong quá khứ của ông ấy ở Pháp đã giúp ông ấy hoàn thành tốt nhiệm vụ này; trái tim yêu thương của ông ấy và sự phát triển rất sâu sắc của ông ấy cũng sẽ giúp ông ấy rất nhiều trong việc hỗ trợ, nhờ đó hóa giải được những khuynh hướng tiêu cực của nhà hoạt động cung một. Ông ấy chưa bao giờ tàn phá trong việc áp dụng chân lý.

C.D.P. is working continuously with the children of the world (including those who died victims of the horrors of war), preserving inviolate her affiliation with my Ashram but working in a group composed of disciples upon all the rays and whose personalities—in their last incarnation—were upon all the many nationalities; they are doing what they can and must be done to salvage the consciousness of the children and to preserve them from complete disintegration.

C.D.P. đang làm việc liên tục với trẻ em trên thế giới (bao gồm cả những nạn nhân đã chết vì những khủng khiếp của chiến tranh), duy trì sự kết nối không thể xâm phạm của cô ấy với Đạo viện của tôi, nhưng làm việc trong một nhóm gồm các đệ tử trên tất cả các cung và có các phàm ngã — trong hóa thân lần cuối của họ thuộc nhiều dân tộc/mang nhiều quốc tịch; họ đang làm những gì họ có thể và phải làm để cứu vãn tâm thức của những đứa trẻ và để bảo vệ chúng khỏi sự tan rã hoàn toàn.

K.E.S., who died prior to the reorganisation of the New Seed Group, is now subjectively affiliated with the group [34] and must be regarded by you as a fellow worker. His work is very largely with those who pass over to the inner side from the British and American Armed Forces; for this he is eminently well equipped, being English by birth but having spent long years in the United States; he has also worked for many years in the spiritualistic movement.

K.E.S., người đã qua đời trước khi nhóm Hạt Giống Mới được tổ chức lại, hiện giờ đã liên kết bên trong với nhóm [34] và phải được các bạn coi như là một đồng nghiệp. Công việc của ông ấy phần lớn là với những người qua đời thuộc các Lực lượng Vũ trang Anh và Mỹ; ông được trang bị rất tốt cho công việc này, vốn sinh ra là người Anh nhưng đã sống nhiều năm ở Hoa Kỳ; ông ấy cũng đã làm việc nhiều năm trong phong trào giáng linh.

I am giving you information anent your group brothers who are not in physical bodies because I seek to have you realise the unity of all life, the identity of purpose and the close sense of relationship which characterises an Ashram. A Master’s Ashram has people working both on the outer and on the inner planes and in this work, the Master sees no difference, being released from the concepts of time and space. This has relation to the “double life pattern of the disciple” to which I referred when I last communicated with you.

Tôi đang cho các bạn thông tin liên quan những huynh đệ trong nhóm của các bạn, những người không còn ở trong cơ thể vật lý, bởi vì tôi mong muốn các bạn nhận ra sự thống nhất của mọi sự sống, tính đồng nhất về mục đích và ý thức chặt chẽ về mối quan hệ đặc trưng cho một Đạo viện. Đạo viện của một Chân sư có những người làm việc ở cả các cõi giới bên trong và bên ngoài, và trong công việc này, Chân sư không thấy sự khác biệt, vốn được phát sinh từ các khái niệm về thời gian và không gian. Điều này có liên quan đến “mô hình cuộc sống song đôi của người đệ tử” mà tôi đã đề cập đến khi nói chuyện lần sau cùng với các bạn.

At that time, I gave you no explicit instruction or individual meditations. I gave each of you six statements upon which to ponder. Through the close consideration of these statements you can create fresh aspiration and a renewed tendency to creative living. Statements such as these are formulations of truth and are also voiced concepts of spiritual import. They are potent in their transforming effect, if rightly used. I have not been too satisfied with the results of my past requests to you. The pressure of life has been great these days; to that pressure many of you have succumbed. You might have carried through and been more effective had you given careful attention to your thought life.

Tại thời điểm này, tôi đã không cho các bạn hướng dẫn rõ ràng hoặc các bài tham thiền cá nhân. Tôi đã giao cho mỗi người trong số các bạn sáu phát biểu dựa vào đó mà suy ngẫm. Thông qua việc xem xét kỹ lưỡng các phát biểu này, các bạn có thể tạo ra khát vọng tươi mới và một xu hướng đổi mới cho lối sống sáng tạo. Các phát biểu như là các công thức của chân lý và cũng là các khái niệm thể hiện ý nghĩa tinh thần. Chúng có tác dụng chuyển hóa mạnh mẽ nếu được sử dụng một cách đúng đắn. Tôi chưa thật sự hài lòng với các kết quả từ những yêu cầu trước đây của tôi đối với các bạn. Áp lực của cuộc sống trong những ngày này rất lớn; trước áp lực đó nhiều người trong số các bạn đã không chống lại nổi. Các bạn có thể đã vượt qua và trở nên hiệu quả hơn nếu các bạn đã để ý cẩn thận đến đời sống tư tưởng của mình.

One of the problems confronting disciples in times of world stress is that of the preservation of a right sense of proportion. This leads to right paralleling activity—the activity of the inner disciple and the work of the outer man. A perfect balance is the goal and this is not at all easy of achievement. In all times of world agony and catastrophe (such as we are at this time experiencing) a third and paralleling aspect of life appears and complicates the problem with which the disciple is faced and which he already regards as most difficult and challenging. There is (within the man) the inner disciple, oriented consciously towards the Hierarchy [35] and the life of the Kingdom of God; there is the busy outer man, preoccupied with various activities, playing the part of the intelligent citizen and seeking always to shoulder his share of national and group responsibility; there is also a suffering emotional human being, bewildered oft by world agony, reacting painfully to the sorrows and distresses of his fellowmen, horrified by the appalling psychological results of world war, by the psychological impacts and complexities, aghast at the present and overwhelmed by fear of the future. The greater his power to include, the greater his strain and pain; the further on he is upon the Way, the more keen are his reactions and the more he thinks and plans for the future, and the greater also the clarity with which he can view the imminent possibilities. I would not have it otherwise; this threefold position which inevitably you have to take and which you cannot avoid if you are true disciples, gives opportunity for planned integration and also proffers an invitation for you to shoulder an individual share of hierarchical responsibility and comprehension.

Một trong những vấn đề các đệ tử phải đối mặt trong những thời kỳ căng thẳng trên thế giới là việc duy trì một cảm nhận đúng đắn về tỷ lệ. Điều này dẫn đến hoạt động song đôi một cách đúng đắn giữa hoạt động của người đệ tử nội tại và công việc của một con người ngoài thế gian. Mục tiêu là sự cân bằng hoàn hảo và điều này không hề dễ dàng đạt được. Trong mọi thời kỳ của sự thống khổ và thảm họa trên thế giới (như chúng ta đang trải qua vào lúc này) một khía cạnh thứ ba song song của cuộc sống xuất hiện và làm phức tạp vấn đề mà người đệ tử phải đối mặt, và đó là điều mà y đã coi nó như là khó khăn và thách thức lớn nhất. Có một người đệ tử nội tại (bên trong con người này), hướng về phía Thánh đoàn một cách hữu thức [35] và cuộc sống của Thiên Giới; có một con người ngoại môn bận rộn, bận tâm với nhiều hoạt động khác nhau, đóng vai trò của một công dân thông minh và luôn tìm cách gánh vác trách nhiệm của mình đối với quốc gia và nhóm; cũng có một con người đầy cảm xúc đau khổ, hoang mang bởi nỗi đau khổ thế gian, thường phản ứng một cách đau đớn trước những nỗi buồn và khốn khó của đồng loại, kinh hãi bởi những hệ quả về tâm lý khủng khiếp của chiến tranh thế giới, bởi những tác động và sự phức tạp về mặt tâm lý, kinh hoàng trước hiện tại và choáng ngợp bởi nỗi sợ về tương lai. Sức mạnh bao gồm của y càng lớn, y càng căng thẳng và đau đớn; y càng đi xa hơn trên Đường Đạo, y càng có những phản ứng nhạy bén hơn, và càng suy nghĩ và lập kế hoạch cho tương lai, y càng có thể nhìn thấy các khả năng sắp xảy ra một cách rõ ràng hơn. Tôi sẽ không yêu cầu khác đi; vị trí tam phân này mà chắc chắn các bạn phải đảm nhận và các bạn không thể né tránh nếu các bạn là những đệ tử đích thực, tạo cơ hội cho sự tích hợp có kế hoạch và cũng đưa ra một lời mời gọi các bạn gánh vác một phần trách nhiệm và sự hiểu biết cá nhân đối với Thánh đoàn.

The only thing that I would ask is that you accept the implications of this triple situation and that you do not use it as an alibi; this, some of you have definitely done; you have regarded your complex problems as so strenuous and difficult that it makes your work in the group (which is a definite part of my Ashram) entirely out of the question. You have—many of you—not done the work which I requested; only a few—a very few—endeavoured to fulfil requirements. Had you managed to carry them out, you might have found your entire path in life more simple and easy and your service more effective.

Điều duy nhất mà tôi sẽ yêu cầu là các bạn chấp nhận những tác động của tình huống tam phân này, và rằng các bạn không sử dụng nó như một bằng chứng ngoại phạm; điều này, một số các bạn chắc chắn đã làm; các bạn đã coi vấn đề phức tạp của các bạn vất vả và khó khăn đến nỗi nó làm cho công việc của các bạn trong nhóm (vốn là một phần nhất định trong Đạo viện của tôi) hoàn toàn không thể thực hiện được. Các bạnnhiều người trong các bạn chưa thực hiện được các công việc mà tôi yêu cầu; chỉ có một vài một số rất ít cố gắng để đáp ứng các yêu cầu. Giá mà các bạn đã nỗ lực để thực hiện chúng, các bạn có thể đã thấy toàn bộ đường đời của mình đơn giản, dễ dàng hơn và việc phụng sự của các bạn hiệu quả hơn.

Certain things anent the group aura, or rather anent its general characteristics, might prove of interest to you. A Master, when studying a group considers, first of all, the various lines of force which relate the individuals in the group to Him, to the inner Ashram and to each other. He looks for the constancy of the interplay, for the brilliance of the group light, as a whole, and for its emanatory influence, its radiation and its magnetic effect in the world. Changes constantly occur. In the past, the lines of force between the [36] group and myself were strong, and the relationship between the group members was definitely weak. Today, the lines of energy, carried by thought and directed towards me, are steady but not so brilliantly fluctuating; the lines between the group members are strengthened by mental determination, but not by emotional or embryonic love. This indicates, on the whole, improvement, because the tide of devotion, poured out to me was not something which guaranteed to me that the group had staying power. There is a more wholesome attitude. The relation between you as an individual and your co-disciples is one of a relative indifference, but of a mental recognition of your joint group affiliation. The magnetic radiation of the group is the weakest point in the entire presentation which you make to the world. As yet, from the angle of service, you do not count, for the group is doing nothing as a group. That is serious, my brothers. As individuals, many of you are serving in some way or another, but it is a detached and personal service and has no relation to a fused group endeavour.

Một số điều liên quan hào quang nhóm, hay đúng hơn liên quan đến các đặc điểm chung của nó, có thể khiến các bạn quan tâm. Một Chân sư, khi nghiên cứu một nhóm, trước hết, Ngài cân nhắc các tuyến mãnh lực khác nhau vốn liên hệ các cá nhân trong nhóm với Ngài, với Đạo viện nội giới và với nhau. Ngài tìm kiếm sự ổn định của sự tương tác, sự rực rỡ của ánh sáng nhóm, như một toàn thể, và ảnh hưởng lan tỏa của nó, bức xạ của nó và hiệu quả từ tính của nó trên thế giới. Những thay đổi liên tục xảy ra. Trong quá khứ, các tuyến lực giữa [36] nhóm và bản thân tôi thì mạnh mẽ, và mối quan hệ giữa các thành viên trong nhóm rõ ràng là yếu ớt. Ngày nay, các tuyến năng lượng được mang bởi tư tưởng và hướng về phía tôi đang ổn định nhưng không dao động mạnh mẽ; các tuyến giữa các thành viên trong nhóm được củng cố bởi quyết tâm trí tuệ, nhưng không phải bởi tình thương mang tính cảm xúc hoặc mới phôi thai. Nói chung, điều này cho thấy sự tiến bộ, vì làn sóng của lòng sùng tín tuôn đổ vào tôi không phải là một điều đảm bảo với tôi rằng nhóm có sức mạnh bền bỉ. Có một thái độ lành mạnh hơn thế. Mối quan hệ giữa các bạn với tư cách là một cá nhân và các đệ tử đồng môn của mình là một mối quan hệ tương đối thản nhiên, nhưng là một sự công nhận về mặt trí tuệ đối với sự liên kết nhóm chung của các bạn. Các phát xạ từ tính của nhóm là điểm yếu nhất trong toàn bộ biểu lộ của các bạn với thế giới. Cho đến nay, từ góc độ phụng sự, các bạn không được công nhận, vì nhóm không làm gì với tư cách là một nhóm. Điều đó là nghiêm trọng, hỡi các huynh đệ của tôi. Với tư cách cá nhân, nhiều bạn đang phụng sự theo cách này hay cách khác, nhưng nó là phụng sự tách biệt và mang tính cá nhân và không liên quan đến nỗ lực hợp nhất của một nhóm.

You might here ask: What can we as a group accomplish? What is it that we can do? You can, for one thing, begin to work as an Ashram works, using the power of thought, originating pressures, directing thought currents along specified lines out into the world, creating thoughtforms which will make clear-cut contact with other minds and which will bring about definite changes in the consciousness of humanity. This you do not as yet do, nor have you evidenced any desire so to work. I have waited to see if the initiating impulse would come from you without any prompting by me. I have waited in vain.

Các bạn có thể đặt câu hỏi ở đây: Như là một nhóm chúng tôi có thể hoàn thành những gì? Chúng tôi có thể làm gì? Các bạn có thể, trước tiên, bắt đầu làm việc như một Đạo viện làm việc, sử dụng sức mạnh của tư tưởng, tạo ra áp lực, hướng dòng tư tưởng theo các tuyến cụ thể ra thế giới, sáng tạo các hình tư tưởng sẽ giúp tiếp xúc một cách rõ ràng với tâm trí khác và nhờ đó sẽ mang đến những thay đổi nhất định trong tâm thức của nhân loại. Điều này các bạn còn chưa làm, và cũng không chứng minh được rằng các bạn có bất kì mong muốn nào để làm việc như vậy. Tôi đã chờ đợi để xem liệu có động lực khởi đầu nào đến từ các bạn mà không cần bất kỳ thúc giục nào từ tôi không. Tôi đã chờ đợi trong vô vọng.

I told you elsewhere that “an Ashram is an emanating source of hierarchical impression upon the world. Its `impulsive energies’ and its inciting forces are directed towards the expansion of the human consciousness, through the magnetic lives of the group members as they carry on their duties, obligations and responsibilities in the outer world; it is aided also by the steady vibratory activity of the members of the Ashram who are not in physical incarnation and [37] by the united clear thinking and convinced awareness of the entire Ashram.”

Ở một nơi khác, tôi đã nói với các bạn rằng “một Đạo viện là một nguồn phát ra ấn tượng của thánh đoàn trên thế giới. “Năng lượng thúc đẩy” của nó và các mãnh lực kích động của nó chủ yếu hướng tới việc mở rộng tâm thức con người, thông qua cuộc sống từ tính của các thành viên trong nhóm khi họ tiếp tục nhiệm vụ, nghĩa vụ và trách nhiệm của mình ở ngoại giới; nó được hỗ trợ cũng bởi hoạt động rung động ổn định của các thành viên của Đạo việnnhững người không ở trong hóa thân vật lý và [37] bởi suy nghĩ rõ ràng một cách thống nhất và nhận thức một cách thuyết phục của toàn bộ Đạo viện”.

I have thus explained the need because you require clear understanding as we consider our first point, meditation, and begin to plan the work to be done by you during the coming year. Will you accept my words that you need a reorientation and a greatly lessened preoccupation with the Ashram, its Master, its personnel and its life? If you will do this, and thus mentally free yourselves, you can and will go on to a fuller life of service, with your eyes on human need and not upon your co-disciples, their activities, my plans and the purpose at this time of your preparation for initiation.

Vì vậy, tôi đã giải thích sự cần thiết vì các bạn cần có sự thấu hiểu rõ ràng khi chúng ta xem xét điểm đầu tiên của chúng ta, tham thiền, và bắt đầu lên kế hoạch công việc phải thực hiện trong năm tới. Các bạn có chấp nhận lời tôi nói rằng các bạn cần một sự định hướng lại và giảm bớt một mối bận tâm đáng kể đối với Đạo viện, Chân sư của Đạo viện, nhân sự và cuộc sống của Đạo viện không? Nếu các bạn làm được điều này, và do đó giải thoát bản thân mình về mặt tâm trí, các bạn có thể và sẽ tiếp tục một cuộc sống phụng sự trọn vẹn hơn, để mắt đến nhu cầu của nhân loại chứ không phải vào các bạn đồng môn của mình, các hoạt động của họ, các kế hoạch của tôi và mục đích vào lúc này về công tác chuẩn bị điểm đạo của các bạn.

I would like now to try an experiment. Continue with your group work with me at the time of the full moon, exactly as outlined in your group instructions, but to that work I want to add another activity.

Bây giờ tôi muốn thử một thí nghiệm. Tiếp tục với công việc nhóm của các bạn với tôi tại thời điểm trăng tròn, chính xác như được nêu trong hướng dẫn nhóm của các bạn, nhưng mà tôi muốn thêm vào công việc này một hoạt động khác.

Each month I will speak three words, forming one consecutive sentence. Will you see if you can, in the silence of intensity, record these words? To help you in your task, I am giving a list from which I will choose each month a phrase. Send in what you think you registered each month on your full moon report. I will signify to A.A.B. the correctness, or otherwise, of your choice, by letting her know what I said.

Mỗi tháng tôi sẽ nói ba từ, tạo thành một câu liên tiếp. Các bạn sẽ thấy liệu các bạn có thể ghi lại những từ này trong sự im lặng sâu sắc không? Để giúp các bạn trong nhiệm vụ của mình, tôi đưa ra một danh sách mà tôi sẽ chọn mỗi tháng một từ trong đó. Nộp lại những gì các bạn nghĩ rằng các bạn đã ghi nhận mỗi tháng trên báo cáo trăng tròn của các bạn. Tôi sẽ báo cho A.A.B. biết tính chính xác, hoặc nếu không, tuỳ theo lựa chọn của các bạn, bằng cách cho phép bà ấy biết những gì tôi nói.

This is the list from which I will choose:

Đây là danh sách mà tôi sẽ chọn trong đó:

1. Go in peace.

1. Đi trong bình an.

2. Faith, hope and charity.

2. Đức tin, hy vọng và thiện nguyện.

3. God keep you.

3. Thượng đế bảo vệ các bạn.

4. God bless you.

4. Thượng đế ban phước cho các bạn.

5. Enter within thyself.

5. Quay vào bên trong bản thân.

6. Love thy brother.

6. Hãy yêu thương huynh đệ mình.

7. Stand in light.

7. Đứng trong ánh sáng.

8. Om Tat Sat.

8. Om Tat Sat.

9. Where art thou?

9. Bạn ở đâu?

10. Tread the Path.

10. Đặt chân lên Đường Đạo.

11. God guard thee.

11. Thượng đế bảo vệ ngươi.

12. Enter into peace.

12. Nhập vào sự bình an

13. Lift up thine eyes.

13. Nâng tầm mắt ngươi lên.

14. Speak low, brother.

14. Nói nhỏ thôi, người huynh đệ.

15. Give love always.

15. Hãy luôn trao yêu thương.

16. The open gate.

16. Cánh cổng mở.

The work to be done is now outlined and you enter upon a fresh period of study, of effort, and of training. May I, in order to stir you to fresh decisive living, remind you that: [38]

Công việc phải làm bây giờ đã được vạch ra và các bạn bước vào một giai đoạn nghiên cứu, nỗ lực, và huấn luyện mới. Để thúc đẩy các bạn có một cuộc sống quyết đoán mới mẻ, Tôi nhắc nhở các bạn rằng: [38]

1. You are in training for initiation. Therefore, face the future with clearer vision.

1. Các bạn đang trong cuộc huấn luyện cho điểm đạo. Do đó, hãy đối mặt tương lai với tầm nhìn rõ ràng hơn.

2. You are pledged disciples, therefore take up your task and move forward.

2. Các bạn là những đệ tử cam kết, do đó hãy thi hành nhiệm vụ của các bạn và tiến về phía trước.

3. You are members of the New Group of World Servers, and have therefore, no time to be idle.

3. Các bạn là thành viên của Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian, và do đó không có thời gian để được nhàn rỗi.

4. You are not alone, but your group brothers stand with you, and I stand also by your side.

 4. Các bạn không đơn độc, các huynh đệ trong nhóm của các bạn sát cánh bên các bạn, và tôi cũng sát cánh bên các bạn.

5. That there is no task which is insuperable, and no way that is too long for you to tread it. You are a soul with all the powers of the soul and—as you are linked with the Hierarchy—you are facing toward success.

5. Không có nhiệm vụ nào là không thể vượt qua, và không có con đường nào là quá dài để các bạn có thể bước đi. Bạn là một linh hồn với tất cả các quyền năng của linh hồn — khi bạn được kết nối với Thánh đoàn bạn đang hướng tới thành công.

As I earlier said, I at this time shall not deal with certain points connected with the growth of the human family and its stabilisation into a new civilisation. I shall begin to do so as soon as the war is over. When the needs of humanity are changed, and they will then be radically different to the conditions and demands prior to the war, then I will consider them. With the period of reconstruction, in which the New Group of World Servers will be active, we shall later deal in detail, and I will give two series of instructions which can act as a guide for all your reconstruction work. One instruction will be for my disciples, and through them for the New Group of World Servers, of which they are a part; another will be for the men and women of goodwill, and through them for the world of thinking men. However, I might state that the background or groundwork of all that you may be asked to do is the Triangle work. In the subjective work, the New Group of World Servers will be peculiarly active, creating the network of light; in the objective work, the men and women of goodwill will bestir themselves, creating the network of goodwill. The function of the New Group of World Servers is dynamically to “force” the energy of the will-to-good into the world; the average man and woman, responding unconsciously, will express goodwill. Disciples, such as you are, must perforce work in both fields, creating and building both types of network. This you can do now, and you can form thus the nucleus of that great interwoven [39] pattern of light and of goodwill which must underlie or “substand” all exoteric work of renovation, renewal, rehabilitation and reconstruction. I ask you and other disciples, therefore, again to work with renewed interest at the forming of triangles, reaching people who are already active, and seek to aid them in forming new triangles. This is a work of major importance and has the endorsement of the Hierarchy.

Như tôi đã nói trước đó, vào thời điểm này tôi sẽ không đề cập đến một số điểm nhất định liên quan đến sự phát triển của gia đình nhân loại và sự ổn định của nó thành một nền văn minh mới. Tôi sẽ bắt đầu làm như vậy ngay khi chiến tranh kết thúc. Khi nhu cầu của nhân loại thay đổi, và lúc đó chúng sẽ hoàn toàn khác với các điều kiện và nhu cầu trước chiến tranh, khi đó tôi sẽ xem xét chúng. Với giai đoạn tái thiết, khi Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian hoạt động tích cực, sau này chúng ta sẽ đề cập một cách chi tiết, và tôi sẽ đưa ra hai loạt các hướng dẫn có thể đóng vai trò như một sự chỉ dẫn cho tất cả các công việc tái thiết của các bạn. Một hướng dẫn sẽ được dành cho các đệ tử của tôi, và thông qua họ dành cho Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian, mà họ là một phần trong đó; một hướng dẫn khác sẽ được trao cho những người nam và nữ thiện chí, và thông qua họ dành cho thế giới của những chủ thể tư tưởng. Tuy nhiên, tôi có thể nói rằng các cơ sở hoặc nền tảng của tất cả những công việc mà các bạn được yêu cầu làm là công việc thiền Tam giác. Trong công việc bên trong, Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian sẽ đặc biệt bận rộn, kiến tạo nên mạng lưới ánh sáng; trong công việc bên ngoài, những người nam và nữ thiện chí sẽ nỗi lực hết mình tạo ra mạng lưới thiện chí. Chức năng của Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian là động lực để “ép” năng lượng của ý chí-hướng thiện đi vào thế giới; người nam và người nữ trung bình, đáp ứng một cách vô thức, sẽ bày tỏ thiện chí. Các Đệ tử như các bạn buộc phải làm việc trong cả hai lĩnh vực, kiến tạo và xây dựng cả hai loại mạng lưới. Điều này các bạn có thể làm ngay bây giờ, và các bạn có thể hình thành nên hạt nhân của những mô hình đan xen vĩ đại [39] của ánh sáng và thiện chí vốn phải là cơ sở hoặc “chất liệu” cho tất cả công cuộc cách tân, đổi mới, phục hồi và tái thiết ngoại môn. Do đó, một lần nữa tôi yêu cầu các bạn và các đệ tử khác làm việc với sự quan tâm đổi mới đến việc tạo lập các tam giác, tiếp cận những người đã hoạt động tích cực, và tìm cách hỗ trợ họ trong việc hình thành các tam giác mới. Đây là một công việc có tầm quan trọng lớn và có sự ủng hộ của Thánh đoàn.

As regards our sixth subject, my personal instructions to each of you, you will find them as usual after this group instruction and after the teaching which I shall give you on the building of the antahkarana. [ii]* Your personal instructions are fuller this time and I would ask you to accept them as instructions to be followed. Constant reading and consciousness of instructions and teaching which are not carried through into action upon the outer plane, simply present a way of escape from reality. Unless a Master’s instructions meet with an experimental response, they loosen the ashramic tie and eventually the disciple slips into an interlude (sometimes of great length and involving several lives) of drifting, of reading and thinking and not working, of the pleasure of attention without the pain of accomplishment. This has happened in the case of several who have been temporarily suspended from active work in my Ashram. See that it happens not to you.

Liên quan đến chủ đề thứ sáu của chúng ta, những hướng dẫn cá nhân của tôi dành cho mỗi bạn, các bạn sẽ tìm thấy chúng như thường lệ sau hướng dẫn nhóm này và sau giáo lý mà tôi sẽ cung cấp cho các bạn về việc xây dựng cầu Antahkarana. [ii] * Lần này hướng dẫn cá nhân cho các bạn đầy đủ hơn và tôi sẽ yêu cầu các bạn chấp nhận chúng như những hướng dẫn cần tuân theo. Việc đọc và ý thức liên tục về những hướng dẫn và giảng dạy mà không được thực hiện thông qua hành động ở cõi giới bên ngoài, chỉ đơn giản là một cách trốn tránh thực tế. Trừ khi những chỉ dẫn của một Chân sư được đáp ứng bằng một phản ứng thực nghiệm, nếu không chúng sẽ nới lỏng mối ràng buộc của đạo viện và cuối cùng người đệ tử rơi vào một quãng nghỉ (đôi khi rất dài và liên quan đến nhiều kiếp sống) của sự buông thả, đọc và suy nghĩ mà không làm, của niềm thích thú quan tâm mà không có sự khó nhọc để thành tựu. Điều này đã xảy ra trong trường hợp của một vài người đã bị tạm đình chỉ hoạt động trong Đạo viện của tôi. Hãy để nó không xảy ra với các bạn.

May I remind you that your brothers’ instructions may be interesting to you and should be read by you in an endeavour to understand him and work with him, but that they may convey to him a meaning which is not open to you at all and that, therefore, your conclusions may prove entirely erroneous. These personal instructions are, as you may realise, exoteric instructions within the field of esoteric relationships. They can be read and studied by all of you. However, I also deal with you in a purely esoteric and subjective manner, and this is a point upon which few of you, if any, ponder. Do you at any time register such teaching or recognise its source? You need to learn to make careful distinction between: [40]

Tôi có thể nhắc nhở các bạn rằng các hướng dẫn dành cho huynh đệ của các bạn có thể khiến các bạn quan tâm và nên được các bạn đọc với nỗ lực để hiểu y và làm việc với y, nhưng chúng có thể truyền đạt cho y một ý nghĩa vốn không rõ ràng cho các bạn chút nào, và do vậy, kết luận của các bạn có thể được chứng minh là hoàn toàn sai lầm. Những hướng dẫn cá nhân, như các bạn có thể nhận ra, là những hướng dẫn công truyền trong lĩnh vực của các mối quan hệ bí truyền. Tất cả các bạn có thể đọc và nghiên cứu chúng. Tuy nhiên, tôi cũng làm việc với các bạn một cách hoàn toàn bí truyền và nội tại, và đây là một điểm mà vài người trong số các bạn, nếu có thể, hãy suy ngẫm. Có lúc nào các bạn nhận ra lời giáo huấn như vậy hay nhận ra nguồn gốc của giáo huấn không? Các bạn cần phải học cách phân biệt cẩn thận giữa: [40]

1. Teaching which comes to you directly from your own soul, via your mind.

1. Giáo huấn từ chính linh hồn của các bạn đến trực tiếp với các bạn thông qua thể trí của các bạn.

2. Instruction given by me to you in my inner Ashram, at which time you are also subjected to the stimulation of disciples senior to you.

2. Hướng dẫn tôi trao cho các bạn trong Đạo viện nội giới của tôi, lúc đó các bạn cũng phải chịu sự kích thích của các đệ tử cao cấp đến với các bạn.

3. Impression which comes to you from the great aggregate of all Ashrams, the Hierarchy.

3. Ấn tượng đến với các bạn từ sự tổng hợp lớn của tất cả các Đạo viện, Thánh đoàn.

Later I will give you some training on this matter, but you are not yet ready for it.

Sau đó tôi sẽ huấn luyện các bạn về vấn đề này, nhưng các bạn chưa sẵn sàng cho điều đó.

The final point, which concerns the externalising of the Ashrams, will be given to you when the Ashram of which you are a part is more real to you than it is at present.

Các bạn sẽ được cho biết điểm cuối cùng vốn liên quan đến việc hiển lộ của các Đạo viện khi Đạo viện mà các bạn là một phần trong đó trở nên thực hơn đối với các bạn so với hiện tại.

I would have you remember that when the war ends two great conditions will emerge for which you must be prepared and for which you should now begin to prepare others. These are:

Tôi muốn các bạn nhớ rằng khi chiến tranh kết thúc, sẽ xuất hiện hai điều kiện lớn mà các bạn phải được chuẩn bị, và bây giờ các bạn nên bắt đầu chuẩn bị cho những người khác. Đó là:

1. There will be a great settling back by mankind in an effort to find security, to obliterate the effects of war from their troubled minds, to forget that which has happened, to return to the familiar, and to re-establish the old ways of life. Human beings forget easily, and besides this ancient habit, humanity is very tired. Get ready to deal with this, for it must not happen if it can in any way be prevented.

1. Sẽ có một sự ổn định lớn trong nhân loại trong nỗ lực tìm kiếm sự an toàn, để xoá bỏ các ảnh hưởng của chiến tranh khỏi những tâm trí hỗn loạn của họ, để quên đi những gì đã xảy ra, để trở về với sự thân thuộc, và để tái lập những cách sống cũ. Con người quên một cách dễ dàng, và bên cạnh thói quen cổ xưa này, con người rất mệt mỏi. Hãy sẵn sàng đối phó với điều này, bởi vì nó không thể xảy ra nếu nó có thể được ngăn chặn bằng mọi cách.

2. There will also come the cessation of the “great sounds of the material aspects”—the sounds of war, the noise of explosion, and the cry of suffering humanity. This will create a curious false peace, but it will at the same time create a channel of approach for new spiritual forces and energies which—directed by the Hierarchy—will pour into the human family, causing spiritual stimulation, spiritual receptivity, spiritual aspiration and a great readiness for that which is new. You will therefore have two opposing conditions to consider, with which to deal, and you will need much wisdom. You will have to assist in the task of preventing the relapse of a tired humanity into the state of mind of [41] which inertia, a reverting to the old, and a demand for the ancient ways are characteristic. You will also have to aid in the directing of the registered spiritual energies into avenues and channels of usefulness where they can accomplish the greatest good. Ponder on this.

2. Cũng sẽ đến lúc chấm dứt “những âm thanh vĩ đại của các khía cạnh vật chất” âm thanh của chiến tranh, tiếng ồn ào của vụ nổ, và tiếng khóc của nhân loại đau khổ. Điều này sẽ tạo ra một nền hòa bình giả tạo một cách kỳ lạ, nhưng nó sẽ đồng thời tạo ra một kênh tiếp cận để năng lượng và các mãnh lực tinh thần mới vốn được Thánh đoàn định hướng sẽ tuôn đổ vào gia đình nhân loại, tạo sự kích thích tinh thần, khả năng tiếp thu tinh thần, khát vọng thiêng liêng và một sự sẵn sàng tuyệt vời cho những gì mới mẻ. Do đó các bạn sẽ có hai điều kiện trái ngược nhau cần xem xét, cần giải quyết, và các bạn sẽ cần nhiều minh triết. Các bạn sẽ phải hỗ trợ nhiệm vụ ngăn ngừa sự tái diễn của một nhân loại mệt mỏi mà đặc trưng là trạng thái tinh thần [41] trì trệ, một sự quay về cái cũ, và một nhu cầu về những lối sống cổ xưa. Các bạn cũng sẽ phải hỗ trợ việc hướng các nguồn năng lượng tinh thần đã được ghi nhận vào những con đường và các kênh dẫn hữu ích nơi chúng có thể đạt những điều tốt đẹp nhất. Hãy suy ngẫm về vấn đề này.

I have given you much in this instruction. I seek to make my Ashram useful at this time of crisis. We have had a great crisis of materialism and the powers of darkness have very nearly assumed control. But we are seeing the slow domination of the good. Humanity has been the battleground for a major conflict between the two great Lodges—the great White Lodge and the Black Lodge. The former is now gradually gaining control.

Tôi đã cung cấp cho các bạn nhiều điều trong hướng dẫn này. Vào thời điểm này của cuộc khủng hoảng tôi đã tìm cách làm cho Đạo viện của tôi hữu ích. Chúng ta đã có một cuộc khủng hoảng lớn của chủ nghĩa duy vật và các thế lực của bóng tối đã rất gần với việc nắm quyền kiểm soát. Nhưng chúng ta đang chứng kiến ​​sự thống trị chậm chạp của điều thiện. Nhân loại là chiến trường cho một cuộc xung đột lớn giữa hai Phái lớn Bạch Đạo và Hắc Đạo. Phái đầu đang dần dần giành được quyền kiểm soát.

The withdrawal (quite imminent in time, my brothers) of the evil group will leave humanity relieved but bewildered, beaten to the ground, but with enough strength to rise to greater heights than ever before. For this withdrawal I ask you to prepare—with intelligence, wise understanding and deep love.

Việc rút lui (sắp xảy ra rồi, hỡi các huynh đệ của tôi) của nhóm tà ác sẽ khiến nhân loại cảm thấy bớt căng thẳng nhưng hoang mang, bị đánh gục, nhưng có đủ sức mạnh để vươn lên những tầm cao lớn hơn bao giờ hết. Đối với việc rút lui này, tôi yêu cầu các bạn chuẩn bị — với trí thông tuệ, sự thấu hiểu thông minh và tình thương sâu sắc.

The work to be done by the world disciples, the world aspirants, the New Group of World Servers and the men and women of goodwill can be a determining factor in the New Age and can tip the scales between a static and retrogressive activity and a steadily planned moving forward into light. You can play your part in this determination, if you so will.

Công việc được thực hiện bởi các đệ tử thế giới, những người chí nguyện thế giới, Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian và những người nam và nữ thiện chí có thể là một yếu tố quyết định trong Kỷ nguyên Mới và có thể tạo nên sự khác biệt quan trọng giữa một hoạt động tĩnh, thụt lùi, và hoạt động được lên kế hoạch đều đặn tiến lên phía trước hướng về ánh sáng. Các bạn có thể góp phần của mình vào quyết tâm này, nếu các bạn muốn.

That you will do so, and that you will have the opened eye which will see the dawning light and the fading darkness is my earnest wish for you.

Các bạn sẽ làm như vậy, và mong ước tha thiết của tôi dành cho các bạn là các bạn sẽ có đôi mắt mở rộng nhìn thấy ánh sáng bình minh và bóng tối đang mờ dần.

Commentary #29  [Đến Bình Giảng]

November 1944

Tháng 11 năm 1944

TO MY GROUP OF AFFILIATED DISCIPLES:

GỬI NHÓM CÁC ĐỆ TỬ LIÊN KẾT CỦA TÔI:

It is more than a year since you received your last set of instructions from me—a year of momentous happenings upon earth and of significant changes in the hierarchical relation to humanity. There is, as a result of the war, a much closer rapport and spiritual confidence apparent between those pledged disciples who have been faithful to their assignments [42] and Those of Us Who are seeking to use them in the service of world betterment; there is a more definite recognition of emerging spiritual values among aspirants everywhere and a greater readiness to relinquish hindrances to service; the plans of the Christ for humanity’s release are more matured for these had to wait until such time that the trend of human aspiration became more clearly emphatic; the new era, with its latent possibilities, can be seen upon the horizon, stripped of the veils of glamour and wishful thinking which obscured it ten years ago.

Đã hơn một năm kể từ khi các bạn nhận được những chỉ dẫn cuối cùng từ tôi — một năm của những diễn biến quan trọng trên trái đất và những thay đổi đáng kể trong mối quan hệ của Thánh đoàn với nhân loại. Do hậu quả của chiến tranh, có một mối quan hệ thân thiết hơn nhiều và sự tin tưởng thiêng liêng rõ ràng giữa những đệ tử đã lập nguyện, những người đã trung thành với các nhiệm vụ của họ [42] và Những người trong Chúng tôi đang tìm cách sử dụng họ để phụng sự việc cải thiện thế giới; các giá trị tinh thần đang nổi lên giữa những người chí nguyện ở khắp mọi nơi được thừa nhận rõ ràng hơn; sự sẵn sàng từ bỏ các cản trở cho việc phụng sự là lớn hơn; các kế hoạch của Đức Christ để giải phóng nhân loại đã chín muồi hơn vì những điều này đã phải đợi cho đến khi xu hướng khát vọng của con người trở nên rõ ràng hơn; kỷ nguyên mới, với những khả năng tiềm ẩn của nó, có thể được nhìn thấy ở phía chân trời, lột bỏ những bức màn của ảo cảm và mơ tưởng đã che khuất nó mười năm trước.

The significant spiritual effects of the war can now be clearly seen, and I can begin to consider with you (earlier than I had anticipated) some of the problems with which you—as potential servers of the race and pledged disciples—can now deal. I could wish, as far as the immediate present is concerned, that you were all younger and had availed yourselves more definitely of the teaching I have sought to give you these past years. Above everything else, I wish you were more courageous. Does that word surprise you, my brothers? In considering this year as a whole, I question not your devotion or your steadfastness; I have confidence in the depth of your aspiration and your desire for the will-to-good; I know that naught will turn you for any length of time from the pursuit of your goal.

Bây giờ có thể thấy rõ những ảnh hưởng tinh thần đáng kể của cuộc chiến, và tôi có thể bắt đầu xem xét với các bạn (sớm hơn tôi dự đoán) một số vấn đề mà các bạn — với tư cách là những người phụng sự tiềm năng của con người và những đệ tử đã lập nguyện — có thể giải quyết bây giờ. Với hiện tại trước mắt, Tôi ước gì tất cả các bạn đều trẻ hơn và tự mình tiếp thu chắc chắn hơn về giáo lý mà tôi đã tìm cách truyền cho các bạn trong những năm qua. Trên tất cả mọi thứ khác, tôi ước mong các bạn can đảm hơn. Lời nói đó có làm các bạn ngạc nhiên không, hỡi các huynh đệ của tôi? Khi xem xét tổng thể cả năm nay, tôi không đặt vấn đề về sự tận tâm hay sự kiên định của các bạn; Tôi tin tưởng vào chiều sâu khát vọng của các bạn và mong muốn ý chí hướng thiện của các bạn; Tôi biết rằng không điều gì có thể khiến các bạn rời bỏ việc theo đuổi mục tiêu của mình trong bất kỳ một khoảng thời gian nào.

I do, however, question your courage. It takes courage to make spiritual decisions and to abide by them; it takes courage to adjust your lives—daily and in all relations—to the need of the hour and to the service of mankind; it takes courage to demonstrate to those around you that the present world catastrophe is of more importance to you than the petty affairs of your individual lives and your humdrum contacts; it takes courage to discard the alibis which have prevented you from participating to date in the all-out effort which characterises today the activities of the Hierarchy; it takes courage to make sacrifices, to refuse time to nonessential activities and to deal with the physical body as if it were free from all impediments; it takes courage to ignore frailties which may be present, the tiredness incident to a long life, the physical tendencies which handicap and limit your [43] service, the sleeplessness which comes from world pressures or from a badly regulated life programme, and the nervousness and strain which are the common lot today; it takes courage to attack life on behalf of others, and to obliterate your own wishes in the emergency and need.

Tuy nhiên, tôi nghi ngờ sự can đảm của các bạn. Cần có can đảm để đưa ra các quyết định tinh thần và tuân theo chúng; cần có can đảm để điều chỉnh cuộc sống của các bạn — hàng ngày và trong tất cả các mối quan hệ — theo nhu cầu của thời đại và để phụng sự nhân loại; cần có can đảm để chứng minh cho những người xung quanh các bạn thấy rằng đối với các bạn thảm họa thế giới hiện tại quan trọng hơn là những vấn đề vụn vặt của cuộc sống cá nhân và những mối liên hệ nhàm chán của các bạn; cần có can đảm để loại bỏ những thứ đã ngăn cản các bạn tham gia trong nỗ lực toàn thể vốn đặc trưng cho các hoạt động của Thánh đoàn ngày nay; cần có can đảm để hy sinh, từ chối thời gian cho các hoạt động không cần thiết và đối xử với thể xác như thể nó không bị trở ngại gì hết; cần can đảm bỏ qua những yếu đuối có thể có, sự mệt mỏi do một cuộc sống kéo dài, các khuynh hướng thể chất cản trở và hạn chế khả năng [43] phụng sự của các bạn, chứng mất ngủ do áp lực thế giới hoặc từ một chương trình đời sống kém điều độ, cũng như sự lo lắng và căng thẳng vốn rất phổ biến ngày nay; cần có can đảm để chiến đấu với cuộc sống vì những người khác, gạt bỏ mong muốn của chính các bạn trong trường hợp khẩn cấp và cần thiết.

One of the points which disciples need to grasp more clearly is the well-recognised fact (and thus easily overlooked from very familiarity) that the assertion of one’s determination to function as a server and as a disciple brings about a refocusing of all the forces of the personality and the soul (in unison); it is, symbolically speaking, a recurrence of the ancient event of individualisation upon a higher turn of the spiral, this time entered into with full conscious cooperation. This refocussing brings its own difficulties. It leads often to a distressing consciousness of one’s own nature, one’s aims, one’s life theme, one’s aspirations and one’s handicaps, of one’s equipment and experience, plus the various aspects and vehicles through which the soul has perforce to work. All this produces an intensification ofttimes of self-interest and of concentration upon one’s self, always with the best of intentions and aspiration. One’s limitations, physical or otherwise, look unduly large; one’s faults are exaggerated in one’s consciousness, though not so oft in expression; the extent of the service needed and demanded by the soul appears so great that the disciple at times refuses cooperation for fear of failure or from undue consciousness of himself; excuses for non-service or for only partial service are easily found and appropriated; postponement of all-out help today, plus complete dedication to human need, is easily condoned on the basis of health, time, home limitations, fear of one kind or another, age, or a belief that this life is preparatory to full service in the next; alibis are easy to discover, some of them even taking the form of believing that the demands of the Master and the programme of the Ashram with which the disciple is affiliated are unreasonable or—as is the case with two of you in this group—that the Oriental does not understand the demands upon the Occidental disciple.

Một trong những điểm mà các đệ tử cần phải nắm bắt rõ ràng hơn là sự thật đã được công nhận rõ ràng (và do đó dễ bị bỏ qua vì quá quen thuộc) rằng việc khẳng định quyết tâm của một người để hoạt động như một người phụng sự và như một người đệ tử mang đến việc tái tập trung tất cả các mãnh lực của phàm ngã và linh hồn (trong sự hợp nhất); nói một cách tượng trưng, ​​nó là sự tái diễn của sự kiện cổ xưa về sự biệt ngã hóa trên một vòng xoáy cao hơn, lần này được bắt đầu với sự hợp tác hoàn toàn hữu thức. Việc tái tập trung này mang lại những khó khăn riêng. Nó thường dẫn đến ý thức đau khổ về bản chất của chính mình, những mục tiêu của mình, chủ đề cuộc sống của mình, những nguyện vọng và khuyết tật của mình, về khí cụ và kinh nghiệm của mình, cộng với các khía cạnh và vận cụ khác nhau mà qua đó linh hồn cần để làm việc. Đôi khi tất cả những điều này tạo ra sự tăng cường sự vị kỷ và tập trung vào bản thân của một người luôn luôn có ý định và khát vọng tốt nhất. Các hạn chế của một người, về mặt thể chất hay mặt khác, trông có vẻ lớn; các lỗi lầm của y được phóng đại trong tâm thức của y, mặc dù không thường xuyên biểu lộ; mức độ của việc phụng sự mà linh hồn cần và đòi hỏi xuất hiện lớn đến mức người đệ tử đôi khi từ chối hợp tác vì sợ thất bại hoặc do tâm thức quá mức về bản thân y; y dễ dàng tìm ra lý do thích hợp bào chữa cho việc y không phụng sự hoặc chỉ phụng sự một phần; ngày nay, việc trì hoãn sự giúp đỡ toàn diện, cộng với sự cống hiến hoàn toàn cho nhu cầu của nhân loại dễ dàng bị loại bỏ vì lý do sức khỏe, thời gian, các hạn chế về gia đình, nỗi sợ hãi về điều này hay điều khác, tuổi tác, hoặc niềm tin rằng cuộc sống này là sự chuẩn bị để phụng sự trọn vẹn ở kiếp sau; các cớ để cáo lỗi dễ phát hiện ra, một số lý do thậm chí còn mang hình thức tin rằng những yêu cầu của Chân sư và chương trình của Đạo viện mà đệ tử liên kết là không hợp lý hoặc — như trường hợp của hai bạn trong nhóm này — rằng Phương Đông không hiểu những đòi hỏi đối với người đệ tử Phương Tây.

I have for years endeavoured to arouse all of you, and through you the thousands you can as a group reach, to the [44] urgency of the times, but hitherto with only partial or temporary results and as yet (for some of you, though not for all) the work to be done in response to the demands of the Ashram is secondary to your daily life pattern, to the requirements of your business or your home or to what you believe to be the physical limitations, the emotional liabilities and the mental handicaps of your equipment.

Tôi đã nỗ lực trong nhiều năm để thức tỉnh tất cả các bạn, và thông qua các bạn, hàng nghìn người có thể tiếp cận như một nhóm, về [44] mức độ khẩn cấp của thời đại, nhưng cho đến nay vẫn chỉ đạt được các kết quả tạm thời hoặc một phần, và giờ đây (đối với một số bạn, mặc dù không phải cho tất cả) công việc phải làm để đáp ứng các yêu cầu của Đạo viện là thứ yếu so với cuộc sống hàng ngày của các bạn, với các yêu cầu của công việc kinh doanh hoặc ngôi nhà của các bạn hoặc với những gì các bạn tin là những hạn chế về thể chất, những trách nhiệm về tình cảm và các khuyết tật trí tuệ của khí cụ của các bạn.

My brothers, let me repeat: The disciple has to take himself as he is at any given time, with any given equipment, and under any given circumstances; then he proceeds to subordinate himself, his affairs and his time to the need of the hour, particularly during a phase of group, national or world crisis. When he does this within his own consciousness, and is therefore thinking along lines of the true values, he will discover that his own private affairs are taken care of, his capacities are increased and his limitations are forgotten.

Hỡi các huynh đệ của tôi, hãy để tôi nhắc lại: Người đệ tử phải chấp nhận chính bản thân mình ở bất kỳ thời điểm nào, với bất kỳ khí cụ được giao nào, và trong bất kỳ các hoàn cảnh nào; sau đó y tiếp tục hạ tầm quan trọng của bản thân, các công việc và thời gian của y theo nhu cầu từng thời điểm, đặc biệt là trong giai đoạn khủng hoảng nhóm, quốc gia hoặc thế giới. Khi y làm điều này bên trong tâm thức riêng của mình, và do đó hướng suy nghĩ về các giá trị đích thực, y sẽ phát hiện ra rằng những công việc riêng tư của y được giải quyết, năng lực của y được phát triển và những hạn chế của y bị lãng quên.

Until this is your experience, a closer relation to my Ashram will not be possible because the heavy and lethargic quality of your group life would entail undue effort on the part of the other disciples in the Ashram (and particularly in the inner Ashram) in order to offset it. I am putting this to you with frankness as we together face the end of the war, and a period of renewed and different opportunity opens before all world servers. It is for you to decide whether your contribution during the war period measured up to your opportunity; it is for you to decide what part you will play, as individuals and as a group, in the coming cycle — a cycle wherein the new ideas and ideals must be stressed, and for which a fight must be made, wherein the wider plans must be understood, endorsed and preached, the new and clearer vision for human living must be grasped and finally brought into being, and a cycle wherein the effort of all members of the New Group of World Servers (and surely you are that!) must be given to the lifting of humanity’s heavy load.

Cho đến khi đây là trải nghiệm của các bạn, sẽ không thể có mối quan hệ chặt chẽ hơn với Đạo viện của tôi bởi vì tính chất nặng nề và thờ ơ của sự sống nhóm của các bạn sẽ đòi hỏi các đệ tử khác trong Đạo viện (và đặc biệt là ở Đạo viện bên trong) nỗ lực quá mức để bù đắp nó. Tôi thẳng thắn bày tỏ điều này với các bạn khi chúng ta cùng nhau đối mặt với sự kết thúc của chiến tranh, và một thời kỳ của cơ hội khác biệt và đổi mới sẽ mở ra trước mắt tất cả những người phụng sự thế gian. Các bạn có quyền quyết định xem sự đóng góp của các bạn trong thời kỳ chiến tranh có xứng đáng với cơ hội của các bạn hay không; Các bạn có quyền quyết định vai trò của mình, với tư cách các cá nhân và với tư cách là một nhóm, trong chu kỳ sắp tới một chu kỳ trong đó các ý tưởng và các lý tưởng mới phải được nhấn mạnh, và một cuộc chiến phải được thực hiện, trong đó những kế hoạch rộng lớn hơn phải được thấu hiểu, tán thành và rao giảng, tầm nhìn mới và rõ ràng hơn về cuộc sống của nhân loại phải được nắm bắt và cuối cùng thành hiện thực, và một chu kỳ trong đó nỗ lực của tất cả các thành viên của Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian (và chắc chắn các bạn là vậy!) được trao cho việc gỡ bỏ gánh nặng của nhân loại.

No definite assignments were given in the last instruction, as I felt I would like to see whether the rhythm of the past—reporting on the meditation work and on the Full Moon Approach which has been carried on now for many years—was so strongly established that, for the sake of the [45] group, it would be carried on, even if not specifically demanded. Only a few have kept the group meditation; the work of interpreting the Formula, as outlined earlier and not specifically discontinued by me, has received no attention, and the group is the loser thereby. I point out these factors because I would have you realise that this is group work, and that it is the group which is the teacher of the group, under inspiration from me, when you—as individuals—reach me, and under the inspiration of your own souls and of the Spiritual Triad when these contacts are made and utilised.

Trong chỉ dẫn cuối cùng này tôi đã không đưa ra các nhiệm vụ rõ ràng, vì tôi cảm thấy tôi muốn xem liệu nhịp điệu của quá khứ — khi báo cáo về công việc tham thiền và về Phương pháp Tiếp cận Trăng tròn đến bây giờ được thực hiện trong nhiều năm — đã được thiết lập mạnh mẽ chưa, vì lợi ích của [45] nhóm, nó sẽ được tiếp tục, ngay cả khi không được yêu cầu cụ thể. Chỉ một số ít đã giữ việc thiền nhóm; việc giải thích Công thức, như đã nêu trước đó và rõ ràng không bị tôi ngừng lại, đã không nhận được sự chú ý, và do vậy nhóm là kẻ thất bại. Tôi chỉ ra những yếu tố này bởi vì tôi sẽ giúp các bạn nhận ra rằng đây là công việc nhóm và rằng chính nhóm là người thầy của nhóm, dưới sự truyền cảm hứng của tôi, khi các bạn — với tư cách cá nhân — tiếp cận với tôi và dưới sự truyền cảm hứng từ linh hồn của chính các bạn và của Tam nguyên Tinh thần khi những tiếp xúc này được tạo ra và sử dụng.

In my previous instruction I stressed three points to which I would like again to refer in the light of the emerging opportunity. My task is not to change you or to give you orders and commands. I have only one task, and that is to find and test out those who can serve the race under inspiration from the Ashrams of the Masters. I referred at that time to the loneliness which is one of the first things that indicates to a disciple that he is being prepared for initiation. It will be apparent, therefore, that the loneliness to which I refer is not that which is incident to those weaknesses of character which repel one’s fellowmen, to an aloof or disagreeable nature, or to any form of self-interest which is so emphasised that it antagonises other people.

Trong hướng dẫn trước đây của tôi, tôi đã nhấn mạnh ba điểm mà tôi muốn đề cập lại dưới ánh sáng của cơ hội đang xuất hiện. Nhiệm vụ của tôi không phải là thay đổi các bạn hoặc ra mệnh lệnh cho các bạn. Tôi chỉ có một nhiệm vụ, đó là tìm và kiểm tra xem những người nào có thể phụng sự nhân loại dưới sự truyền cảm hứng từ các Đạo viện của các Chân sư. Vào thời điểm đó, tôi đã đề cập đến sự cô đơn vốn là một trong những điều đầu tiên cho một đệ tử biết rằng y đang được chuẩn bị cho sự điểm đạo. Do đó, sự cô đơn mà tôi đề cập đến rõ ràng không phải là sự cô đơn liên quan đến những điểm yếu trong tính cách khiến đồng loại xa lánh, đến bản chất xa cách hoặc khó gần, hoặc bất kỳ hình thức vị kỷ nào được nhấn mạnh đến mức nó gây phản kháng ở những người khác.

There is much loneliness in a disciple’s life which is entirely his own fault and which is subject to cure if he employs the right measure of self-discipline. With these he must deal himself, for they concern the personality, and with your personalities I have no affair. I refer to the loneliness which comes when the accepting disciple becomes the pledged disciple and steps out of a life of physical plane concentration, and of identification with the forms of existence in the three worlds, and finds himself in the midway place, between the world of outer affairs and the inner world of meaning. His first reaction then is that he is alone; he has broken with the past; he is hopeful but not sure of the future; the tangible world to which he is accustomed must, he knows, be superseded by the intangible world of values, involving a new sense of proportion, a new range of values and new responsibilities. This world he believes [46] exists, and he steps forward bravely and theoretically, but it remains for a while wholly intangible; he finds few who think and feel as he does and the mechanism of sure contact only exists within him in embryo. He is breaking loose from the mass consciousness with which he has been merged hitherto, but has not yet found his group, into which he will eventually be consciously absorbed. Therefore, he is lonely and feels deserted and bereft. Some of you feel this loneliness; few of you have, for instance, reached the point where you feel yourselves to be a definite, integral part of the group; only two or three of you realise—briefly and fleetingly at times—the close link with the Ashram; your attitude is largely one of hope, coupled with the idea that it is your physical limitations which prevent your realising all that truly is, in connection with your inner affiliations. But, my brothers, such a sense of loneliness is only another form of self-consciousness, of undue self-interest, and (as you make progress upon the Path) you will find it disappearing. If you therefore feel lonely, you must learn to look upon it as a glamour or illusion and as a limitation which must be overcome. You must begin to act as if it were not. If only more disciples would learn the value of acting “as if.” There is no time for any of you to be lonely these days, for there is no time for you to think about yourselves.

Có nhiều nỗi cô đơn trong cuộc sống của người đệ tử mà hoàn toàn là lỗi của chính y và sẽ có thể chữa khỏi nếu y áp dụng các biện pháp tự kỷ luật đúng đắn. Với những điều này y phải tự mình giải quyết, vì chúng liên quan đến phàm ngã, và với phàm ngã của các bạn, tôi không có việc gì làm. Tôi đề cập đến sự cô đơn xảy đến khi người đệ tử chấp nhận trở thành đệ tử đã lập nguyện và bước ra khỏi cuộc sống tập trung trên cõi vật chất, của sự đồng nhất với các hình tướng tồn tại trong ba cõi giới, và thấy bản thân mình ở giữa, giữa thế giới của những công việc bên ngoài và thế giới ý nghĩa bên trong. Phản ứng đầu tiên của y là y ở một mình; y đã đoạn tuyệt với quá khứ; y hy vọng nhưng không chắc chắn về tương lai; y biết thế giới hữu hình mà y đã quen phải bị thay thế bởi thế giới vô hình của các giá trị, liên quan đến một ý thức mới về tỷ lệ, một loạt giá trị mới và những trách nhiệm mới. Thế giới này mà y tin rằng [46] tồn tại, và y bước về phía trước một cách dũng cảm và đầy lý thuyết, nhưng nó vẫn, trong một thời gian, còn hoàn toàn vô hình; y tìm thấy ít người suy nghĩ và cảm nhận như y và cơ chế tiếp xúc chắc chắn chỉ tồn tại phôi thai bên trong y. Y đang thoát ra khỏi tâm thức quần chúng mà y đã được hoà trộn cho đến nay, nhưng vẫn chưa tìm thấy nhóm của mình, nơi cuối cùng y sẽ được hấp thụ một cách hữu thức. Vì vậy, y cô đơn và cảm thấy hoang vắng và thiếu thốn. Một số các bạn cảm thấy nỗi cô đơn này; chẳng hạn, một vài người trong số các bạn đã đạt đến mức mà các bạn cảm thấy mình là một phần xác định, không thể tách rời của nhóm; chỉ có hai hoặc ba người trong số các bạn nhận ra — đôi khi ngắn ngủi và thoáng qua — mối liên hệ chặt chẽ với Đạo viện; thái độ của các bạn phần lớn là hy vọng, cùng với ý tưởng rằng chính những hạn chế về thể chất của các bạn ngăn cản các bạn nhận ra tất cả những cái thực sự là, chúng liên quan đến các liên kết bên trong của các bạn. Nhưng, các huynh đệ của tôi, cảm giác cô đơn như vậy chỉ là một dạng khác của sự tự thức, của sự vị kỷ quá mức, và (khi các bạn tiến bộ trên đường Đạo), các bạn sẽ thấy nó biến mất. Vì vậy, nếu các bạn cảm thấy cô đơn, các bạn phải học cách nhìn nó như một ảo cảm hay ảo tưởng và như một giới hạn cần phải vượt qua. Các bạn phải bắt đầu hành động như thể nó không phải vậy. Ước gì có nhiều đệ tử hơn sẽ học được giá trị của hành động “như thể.” Không có thời gian để bất kỳ ai trong các bạn cô đơn những ngày này, vì không có thời gian để các bạn nghĩ về bản thân mình.

The second point I made was the need for you to emphasise and develop the Will. Presumably, you have all been working at the task of building the antahkarana, the channel of communication between the brain and the spiritual will, or the Monad, working through the medium of the Spiritual Triad. If you have been successful, it will be beginning to dawn upon you that there is a great distinction between goodwill which the masses can and often do grasp, and the will-to-good which is the goal of the disciple. Goodwill is relatively simple of expression and all of you know much about it and express much of it. For that, no commendation is required, for it is a human attribute lying very near the surface of expression in all men. But the will-to-good is far more difficult to express, for it involves the ability not only to use the spiritual will, but to know somewhat the nature of [47] the “good.” The will-to-good is the basic quality of divine purpose, involving planned activity and a definite goal to be achieved. It necessitates the ability to think in terms of the whole, an appreciation of the next step which humanity must take in the imminent Great Approach (for this must be a reciprocal Approach), an understanding of the lessons of the past and a vision, based—not on love or on soul-sight—but on a conviction as to the immediate purpose of Sanat Kumara, as He works it out through the Christ and the planetary Hierarchy. This conviction is based, as far as the Hierarchy is concerned, on pure reason; it is based, as far as humanity is concerned, through its disciples, on intuitive perception, implemented by love and expressed intelligently. Upon this I would ask you to ponder, and as you ponder, make the needed changes in your personal approach to the problem.

Điểm thứ hai tôi đưa ra là các bạn cần phải nhấn mạnh và phát triển Ý chí. Có lẽ, tất cả các bạn đều đang làm nhiệm vụ xây dựng cầu antahkarana, kênh giao tiếp giữa não bộ và ý chí tinh thần, hay Chân thần, hoạt động thông qua trung gian của Tam nguyên Tinh thần. Nếu các bạn đã thành công, các bạn sẽ bắt đầu nhận ra rằng có sự phân biệt lớn giữa thiện chí mà quần chúng có thể và thường nắm bắt, và ý chí hướng thiện là mục tiêu của người đệ tử. Thiện chí là cách diễn đạt tương đối đơn giản và tất cả các bạn đều biết nhiều về nó và thể hiện nó nhiều. Đối với điều đó, không cần phải khen ngợi, vì đó là một thuộc tính của nhân loại nằm rất gần bề mặt biểu hiện ở mọi con người. Nhưng ý chí hướng thiện thì khó diễn đạt hơn nhiều, vì nó liên quan đến khả năng không chỉ sử dụng ý chí tinh thần, mà còn biết phần nào bản chất của [47] “điều thiện”. Ý chí hướng thiện là phẩm chất cơ bản của thiên ý thiêng liêng, liên quan đến hoạt động có kế hoạch và mục tiêu xác định cần đạt được. Nó đòi hỏi khả năng suy nghĩ về tổng thể, đánh giá cao bước tiếp theo mà nhân loại phải thực hiện trong Sự Tiếp Cận Vĩ Đại sắp xảy ra (vì đây phải là sự Tiếp Cận hỗ tương), sự hiểu biết về các bài học của quá khứ và một tầm nhìn, dựa trên — không phải dựa vào tình thương hay tầm nhìn linh hồn — mà dựa trên niềm tin vào mục đích trước mắt của Sanat Kumara, khi Ngài thực hiện điều đó thông qua Đức Christ và Thánh đoàn hành tinh. Đối với Thánh Đoàn, niềm tin này dựa trên lý trí thuần khiết; đối với nhân loại nó dựa trên sự nhận thức trực giác, được thực hiện bởi tình thương và được thể hiện một cách thông minh thông qua các đệ tử. Về điều này, tôi sẽ yêu cầu các bạn suy ngẫm, và khi các bạn suy ngẫm, hãy thực hiện những thay đổi cần thiết trong cách tiếp cận vấn đề của cá nhân các bạn.

The third point grows out of the above. You are all pledged disciples, and as such your immediate personal problem (in which I may not and therefore cannot help you) is to overcome and destroy the hold which the Dweller on the Threshold may have upon you. We are back, therefore, to our starting point, and a question now arises in your minds: “How can I overcome this Dweller and yet at the same time refuse to concentrate upon myself and my problems? This I am told by you not to do, and yet the Dweller is the sum total of all personality holds and defects, all potencies—emotional, mental and physical—which limit my expression as a soul. What can I therefore do?”

Điểm thứ ba phát triển từ những điều trên. Tất cả các bạn đều là những đệ tử đã lập nguyện, và do đó, vấn đề cá nhân trước mắt của các bạn (trong đó tôi không thể và do đó không có khả năng giúp các bạn) là vượt qua và phá hủy sự nắm giữ mà Kẻ chặn ngõ có thể áp đặt lên các bạn. Do đó, chúng ta quay trở lại điểm xuất phát của mình, và một câu hỏi hiện lên trong đầu các bạn: “Làm thế nào tôi có thể vượt qua Kẻ chặn ngõ này nhưng đồng thời lại từ chối tập trung vào bản thân và các vấn đề của mình? Ngài bảo tôi không được làm điều này, tuy nhiên Kẻ chặn ngõ là tổng thể của tất cả những ảnh hưởng và những khiếm khuyết của phàm ngã, tất cả các quyền lực lớn — tình cảm, trí tuệ và thể chất — chúng giới hạn sự thể hiện của tôi như một linh hồn. Do đó, tôi có thể làm gì? “

My answer would be: You must first of all accept the fact of the Dweller, and then relegate that Dweller to its rightful place as part of the Great Illusion, the great phantasmagoria of existence and as an integral part of the life of the three worlds. You must then proceed upon your planned life service (What definite plan or plans have you, my brother?) and act as if the Dweller existed not, thus freeing yourself from all personality influence in due time and leaving your mind free for the task in hand. I could perhaps word it another way. When your interest in hierarchical work and the programme of the Ashram with which you are [48] connected is adequately strong, it will then dominate all your actions, and all your thoughts (waking or sleeping); you will then find that the grip of the Dweller will be broken, that its life has been destroyed by the force of attrition and its form destroyed in the fires of sacrifice. Such, briefly, is the story; I waste no time with elaborations, for there is much I seek to give you in this instruction.

Câu trả lời của tôi sẽ là: Trước hết, các bạn phải chấp nhận sự thật về Kẻ chặn ngõ, và sau đó đưa Kẻ chặn ngõ đó về đúng vị trí của nó như một phần của Đại ảo tưởng, một ảo ảnh vĩ đại của sự tồn tại và là một phần không thể thiếu trong cuộc sống của ba cõi giới. Sau đó, các bạn phải tiếp tục công việc phụng sự cuộc sống đã được lên kế hoạch của các bạn (Các huynh đệ của tôi, các bạn đã có kế hoạch hoặc các kế hoạch gì?) và hành động như thể Kẻ chặn ngõ không tồn tại, do đó giải phóng bản thân khỏi mọi ảnh hưởng phàm ngã trong thời gian thích hợp và để tâm trí của các bạn tự do cho nhiệm vụ của mình. Tôi có thể nói nó theo cách khác. Khi mối quan tâm của các bạn đến công việc Thánh đoàn và chương trình của Đạo viện mà các bạn đang [48] được kết nối đủ mạnh, nó sẽ chi phối mọi hành động và mọi suy nghĩ của các bạn (lúc thức hay ngủ); sau đó các bạn sẽ thấy rằng sự kìm kẹp của Kẻ chặn ngõ sẽ bị phá vỡ, rằng cuộc sống của nó đã bị hủy diệt bởi mãnh lực của sự tiêu hao sinh lực và hình tướng của nó bị hủy diệt trong những ngọn lửa của sự hy sinh. Câu chuyện ngắn gọn như vậy; Tôi không lãng phí thời gian cho việc đào sâu thêm, vì có rất nhiều điều tôi muốn cung cấp cho các bạn trong hướng dẫn này.

I desire to give you the help you need for the coming year which faces you. Above all, however, I am endeavouring to make clear to future generations certain basic principles and certain aspects of hierarchical truth which must in the New Age govern those who seek to tread the Path of Discipleship and who are willing to be prepared for initiation. Changes in curriculum and in techniques are being made by the Hierarchy; the adaptation of old methods to modern needs and to more highly developed men is under way. I write not for you in reality. You have already had more than you have used. I write for the coming disciples and initiates of the next two generations. It is essential that disciples in all Ashrams consider these days what humanity’s problems are, what they mean and what their solution entails; they must know what the Masters of the Wisdom want done and then they must talk and write, act and live so that others too may understand.

Tôi mong muốn cung cấp cho các bạn sự giúp đỡ cần cho năm tới mà các bạn phải đối mặt. Tuy nhiên, trên tất cả, tôi đang cố gắng làm rõ cho các thế hệ tương lai một số nguyên tắc cơ bản và các khía cạnh nhất định của chân lý của Thánh đoàn mà trong Kỷ nguyên Mới phải chi phối những người tìm cách bước theo Con đường Đệ tử và những người sẵn sàng chuẩn bị cho việc điểm đạo. Thánh đoàn đang thay đổi chương trình giảng dạy và các kỹ thuật; sự thích ứng của các phương pháp cũ với các nhu cầu hiện đại và với những người phát triển cao hơn đang được tiến hành. Trong thực tế tôi viết không phải cho các bạn. Các bạn đã có nhiều hơn những gì các bạn đã sử dụng. Tôi viết cho các đệ tử sắp tới và các điểm đạo đồ của hai thế hệ tiếp theo. Điều thiết yếu là các đệ tử trong tất cả các Đạo viện ngày nay phải xem xét những vấn đề của nhân loại là gì, chúng có ý nghĩa gì và giải pháp của chúng đòi hỏi những gì; họ phải biết những gì mà các Chân sư Minh triết muốn làm và sau đó họ phải nói và viết, hành động và sống để những người khác cũng có thể thấu hiểu.

Humanity has never really lived up to the teaching given to it. Spiritual impression, whether conveyed by the Christ, by Krishna or by Buddha (and passed on to the masses by Their disciples) has not yet been expressed as it was hoped. Men do not live up to what they already know; they fail to make practical their information; they short-circuit the light; they do not discipline themselves; greedy desire and unlawful ambition control and not the inner knowledge. To put it scientifically and from the esoteric angle: Spiritual impression has been interrupted and there has been interference with the divine circulatory flow. It is the task of the disciples of the world to restore this flow and to stop this interference. This is the major problem facing the Ashrams at this time.

Nhân loại chưa bao giờ thực sự sống theo giáo lý dạy họ. Ấn tượng tâm linh, cho dù được truyền đạt bởi Đức Christ, Đức Krishna hay Đức Phật (và được truyền lại cho quần chúng bởi các đệ tử của họ) vẫn chưa được thể hiện như người ta hy vọng. Con người không sống theo những gì họ đã biết; họ không làm cho thông tin của họ thực tế; họ chập mạch ánh sáng; họ không kỷ luật bản thân; ham muốn tham lam và tham vọng bất hợp pháp kiểm soát [họ], và không có kiến ​​thức bên trong. Nói một cách khoa học và từ góc độ bí truyền: Ấn tượng tinh thần đã bị gián đoạn và có sự can thiệp vào dòng tuần hoàn thiêng liêng. Nhiệm vụ của các đệ tử trên thế giới là khôi phục lại dòng chảy này và ngăn chặn sự can thiệp này. Đây là vấn đề lớn mà các Đạo viện phải đối mặt trong thời điểm này.

This year, I will make clear to you what work is asked of the group in relation to the planned group work, the group [49] meditation and the group thinking; the rules then laid down will hold good for all future years, though their fulfilment is necessarily optional, as you are free disciples, working under the new rules, and are adult aspirants.

Năm nay, tôi sẽ nói rõ với các bạn những công việc nhóm được yêu cầu liên quan đến công việc nhóm đã lên kế hoạch, tham thiền nhóm [49] và tư duy nhóm; các quy tắc sau đó được đặt ra sẽ tốt cho tất cả các năm trong tương lai, mặc dù việc thực hiện các quy tắc đó cần là tùy chọn, vì các bạn là những đệ tử tự do, làm việc theo các quy tắc mới và là những người chí nguyện trưởng thành.

Your full moon work remains unchanged and I will again send a phrase chosen out of the set of phrases already given. I will change my technique somewhat and in speaking the phrase each month at our full moon contact, I will do it the day before, on the day of the full moon, and on the following day, and will also lay the emphasis upon the leading word in the phrases. If this leading word is recorded by you, the effort can be regarded as successful.

Công việc trăng tròn của các bạn vẫn không thay đổi và tôi sẽ gửi lại một cụm từ được chọn trong số các cụm từ đã cho. Tôi sẽ thay đổi một chút kỹ thuật của mình và khi nói cụm từ này mỗi tháng vào dịp tiếp xúc lúc trăng tròn của chúng ta, tôi sẽ làm điều đó vào ngày hôm trước, vào ngày trăng tròn và vào ngày hôm sau, và cũng sẽ nhấn mạnh vào từ dẫn đầu trong các cụm từ. Nếu từ dẫn đầu này được các bạn ghi lại, nỗ lực đó có thể coi là thành công.

I suggest that you continue with the work, as hitherto given and undertaken, but I will give you a fuller picture of the full moon activity and purpose with some of the implications which may enable you to work with greater interest and understanding.

Tôi khuyên các bạn nên tiếp tục công việc như đã giao và đã thực hiện cho đến nay, nhưng tôi sẽ cung cấp cho các bạn bức tranh đầy đủ hơn về hoạt động và mục đích của kỳ trăng tròn cùng với một số hàm ý có thể giúp các bạn làm việc với sự quan tâm và hiểu biết nhiều hơn.

The first time, my brothers, that I outlined for you the work I sought to have you do at the time of the full moon, I undertook to work with you along these lines for a preliminary period of three years, each year expanding the work somewhat until the full moon of May of the third year. This period of time is now nearly completed, and today I ask you two questions:

Các huynh đệ của tôi, lần đầu tiên tôi đã phác thảo cho các bạn công việc mà tôi muốn các bạn làm vào lúc trăng tròn, tôi đã tiến hành làm việc với các bạn theo những đường lối này trong thời gian sơ bộ là ba năm, mỗi năm mở rộng phần nào công việc cho đến trăng tròn tháng 5 của năm thứ ba. Khoảng thời gian này hiện đã gần hoàn thành và hôm nay tôi hỏi các bạn hai câu hỏi:

1. What has this work meant to you?

1. Công việc này có ý nghĩa như thế nào đối với bạn?

2. Have you grasped the importance of the work to be done?

2. Bạn đã nắm được tầm quan trọng của công việc phải làm chưa?

There has been a purpose behind all this effort which I have made, and an experiment of importance has been carried forward in preparation for the coming New Age activity.

Có một mục đích đằng sau tất cả những nỗ lực mà tôi đã thực hiện, và một thử nghiệm quan trọng đã được tiến hành để chuẩn bị cho hoạt động của Kỷ nguyên mới đang đến.

In some of the earlier instructions [iii]* I indicated that the coming world religion would be based upon a new Science of Approach and that this would, in time, supersede the present world religious formulas and ceremonials. Hence the importance of the efforts now being made by disciples in these new seed groups. They are in reality occupied with the [50] process of anchoring upon earth a new religious idea or concept, a seed thought or germ of a new activity which (at some later date) will bear fruit and inaugurate a new method of drawing nearer to God.

Trong một số hướng dẫn trước đó [iii] * Tôi đã chỉ ra rằng tôn giáo thế giới sắp tới sẽ dựa trên một Khoa học Tiếp Cận mới, và theo thời gian nó sẽ thay thế các cách thức và nghi lễ tôn giáo thế giới hiện tại. Do đó, các đệ tử trong các nhóm hạt giống mới này hiện giờ đang được thực hiện những nỗ lực có ý nghĩa quan trọng. Trên thực tế, họ đang bận rộn với quá trình [50] neo giữ trên trái đất một ý tưởng hoặc khái niệm tôn giáo mới, một hạt giống hoặc mầm mống của một hoạt động mới (vào một thời điểm nào đó sau này) sẽ đơm hoa kết trái và khai mở một phương pháp mới để đến gần Thượng đế hơn.

It might be of value to all disciples if I here analysed the three years’ work intended to be done during the full moon periods as outlined to you by me. Each year saw an addition to or expansion of the work and an enlargement of the concept. I seek now to make it all clearer to you, thus laying the foundation for the work to be done during the coming years, if you desire to continue with the work. Let us get these instructions into tabular form for the sake of clarity.

Nó có thể có giá trị đối với mọi đệ tử nếu ở đây tôi phân tích công việc dự định thực hiện tại kỳ trăng tròn trong ba năm như tôi đã phác thảo cho các bạn. Mỗi năm chứng kiến ​​một sự bổ sung hoặc phát triển công việc và mở rộng khái niệm. Bây giờ tôi muốn làm rõ ràng mọi việc hơn với các bạn, từ đó đặt nền tảng cho công việc sẽ hoàn thành trong những năm tới, nếu các bạn muốn tiếp tục với công việc này. Chúng ta hãy chuyển các hướng dẫn này thành dạng bảng để rõ ràng hơn.

Commentary #30  [Đến Bình Giảng]

1. The first thing which I emphasised to you was that this was a group endeavour, and that its success depended upon the group fusion, the group love and the group understanding. The success of the desired inner contact was based upon a realised group relation. It was intended to be an endeavour which would be the outgrowth of a love, stabilised in and accentuated by all the group members. Hence my constant reiteration of the need of love between the group members. Towards the establishing of this loving relationship, I have been working for years with all of you. You may perhaps have believed that I did so in order that your group work in relation to your individual endeavour might be successful. That was not the major intent. The forming of units for special service in organising the life forces, processes and forms for the new technique of Approach to God or to the Hierarchy (which is the intermediary between spiritual reality and human life) was and is the major objective. Upon this statement I would ask you to ponder with renewed interest. Your interpretations are so often motivated by an unrealised spiritual selfishness and an undue emphasis upon your specific group importance. The groups are simply the field for hierarchical expression, and we are not yet convinced that the expenditure of force on our part is warranted by the results achieved. The group members have been primarily [51] occupied with the registering of the more phenomenal results and with what they, as individuals, sensed, and have neglected to pay due attention to the inner group relation which is the only thing of major importance. It is the only thing which will release the stored up energy on the subjective side.

1. Điều đầu tiên tôi nhấn mạnh với các bạn rằng đây là một nỗ lực của cả nhóm, và thành công của nó phụ thuộc vào sự hợp nhất của nhóm, tình thương nhóm và sự thấu hiểu của nhóm. Sự thành công của sự tiếp xúc bên trong được mong muốn dựa trên một mối quan hệ nhóm được thực hiện. Nó được dự định là một nỗ lực phát triển tự nhiên từ tình thương được mọi thành viên trong nhóm ổn định và nhấn mạnh. Bởi vậy, tôi thường xuyên nhắc lại sự cần thiết của tình thương giữa các thành viên trong nhóm. Để thiết lập mối quan hệ tình thương này, tôi đã làm việc trong nhiều năm với tất cả các bạn. Có lẽ các bạn đã tin rằng tôi làm như vậy để công việc nhóm của các bạn  liên quan đến nỗ lực cá nhân của các bạn có thể thành công. Đó không phải là mục đích chính. Mục tiêu chính là sự định hình các đơn vị phụng sự đặc biệt trong việc tổ chức các mãnh lực của sự sống, các quy trình và các hình thức cho kỹ thuật mới về Sự tiếp cận với Thượng đế hoặc với Thánh đoàn (trung gian giữa thực tại tinh thần và đời sống con người). Dựa trên tuyên bố này, tôi yêu cầu các bạn suy ngẫm với sự quan tâm đổi mới. Những diễn giải của các bạn thường được thúc đẩy bởi sự ích kỷ tinh thần không được nhận ra và sự nhấn mạnh quá mức vào tầm quan trọng của nhóm cụ thể của các bạn. Các nhóm chỉ đơn giản là lĩnh vực cho sự biểu lộ của Thánh đoàn, và chúng tôi chưa tin được rằng việc tiêu tốn mãnh lực từ phía chúng tôi được đảm bảo bởi các kết quả đạt được. Các thành viên nhóm chủ yếu [51] bận rộn với việc ghi lại các kết quả có tính chất hiện tượng hơn và với những gì họ cảm nhận được với tư cách cá nhân, và đã bỏ qua việc chú ý thích đáng đến mối quan hệ bên trong nhóm vốn là điều duy nhất có tầm quan trọng lớn. Nó là thứ duy nhất sẽ giải phóng năng lượng lưu trữ ở phía bên trong.

2. The second factor of importance is deep recognition of the subjective reality of the spiritual world. I, in myself, as you thought of me, am only the symbol of that world, as are other Masters, focussed—as channels of contact and service—in the Hierarchy. You, as a group, unitedly and together, were asked to approach me and to contact me just as, in the coming New Age, the churches of the future will (at the full moon period) make a definite approach to the Hierarchy in order to

2. Yếu tố quan trọng thứ hai là sự nhìn nhận sâu sắc về thực tại chủ quan của thế giới tinh thần. Tôi, trong chính tôi, như các bạn nghĩ về tôi, chỉ là biểu tượng của thế giới đó, cũng như các Chân sư khác, tập trung vào — như các kênh liên hệ và phụng sự — Thánh đoàn. Các bạn, với tư cách là một nhóm, thống nhất và cùng nhau, đã được yêu cầu tiếp cận và liên hệ với tôi, giống như trong Kỷ nguyên mới sắp tới, các nhà thờ của tương lai (vào kỳ trăng tròn) sẽ thực hiện một cách tiếp cận rõ ràng với Thánh đoàn để:

a. Intensify their spiritual life by the bringing in of spiritual force, with deliberation and consciously.

a. Nâng cao đời sống tinh thần của họ bằng cách mang lại sức mạnh tinh thần, với sự cân nhắc và có ý thức.

b. Achieve spiritual illumination through contact with the powerhouse of light, the Hierarchy.

b. Đạt được sự soi sáng tinh thần thông qua việc tiếp xúc với nguồn ánh sáng, là Thánh đoàn.

c. Store up strength for increased dynamic activity for an ensuing period of service.

c. Lưu giữ sức mạnh để gia tăng hoạt động năng động trong thời gian phụng sự tiếp theo.

d. Bring about a fusion between the objective and subjective life of humanity.

d. Mang lại sự hòa quyện giữa cuộc sống bên ngoài và bên trong của nhân loại.

3. This leads to a Technique of Approach, based upon the realisation of the above objectives, to an effort to see me (as I symbolise for you the spiritual vision), and to the establishing of a pathway of Approach, symbolised in the ritual I gave you as a golden band of light. This you were to visualise as extending between yourselves, as a group, to your Tibetan brother. This pathway of Approach is the Path which it is planned should constitute a more familiar symbol than has hitherto been the case in the religious life of the race.

3. Điều này dẫn đến Kỹ thuật Tiếp cận, dựa trên việc thực hiện các mục tiêu trên, để nỗ lực nhìn thấy tôi (như tôi là biểu tượng cho bạn về tầm nhìn tinh thần), và thiết lập một con đường Tiếp cận, được tượng trưng trong nghi lễ mà Tôi đã trao cho các bạn như một dải ánh sáng vàng kim. Điều này các bạn phải hình dung như sự mở rộng giữa các bạn, với tư cách là một nhóm, với Huynh đệ Tây Tạng của các bạn. Con Đường Tiếp cận này là Con Đường đã được hoạch định sẽ tạo thành một biểu tượng quen thuộc hơn so với trường hợp từ trước đến nay trong đời sống tôn giáo của nhân loại.

4. This pathway of light leads to the heart of a dark blue disk at the very centre of which you were told I could be contacted. Those of you who are in any way adept at meditation work know well that the light in the head—when seen and [52] recognised—passes usually through three stages of intensification:

4. Con đường ánh sáng này dẫn đến tâm của một chiếc đĩa màu xanh lam đậm, ở chính trung tâm của nó các bạn được biết là có thể tiếp xúc với tôi. Những ai trong các bạn thành thạo công việc tham thiền đều biết rõ rằng ánh sáng trong đầu — khi được nhìn thấy và [52] được nhận ra — thường đi qua ba giai đoạn tăng cường:

a. It is, first of all, a diffused light, surrounding the head, discovered later within the head and producing an inner radiance, which is the rudimentary halo.

a. Trước hết, nó là một ánh sáng khuếch tán, bao quanh đầu, sau đó được phát hiện bên trong đầu và tạo ra ánh sáng bên trong, đó là vầng hào quang thô sơ.

b. This diffused light then consolidates and becomes an inner radiant sun.

b. Ánh sáng khuếch tán này sau đó tập trung lại và trở thành một mặt trời rạng rỡ bên trong.

c. Finally, at the centre of that sun, a point of dark blue, or a small indigo disk, appears. This is, in reality, the exit in the head through which the soul passes out of the world of phenomenal existence, and it is the symbol of the path or the door into the kingdom of God. This is the symbolical interpretation of the phenomena.

c. Cuối cùng, ở trung tâm của mặt trời đó, xuất hiện một điểm màu xanh lam đậm, hoặc một cái đĩa nhỏ màu chàm. Trên thực tế, đây là lối ra trong đầu mà qua đó linh hồn thoát ra khỏi thế giới hiện tượng tồn tại, và nó là biểu tượng của con đường hay cánh cửa vào Thiên giới. Đây là cách giải thích mang tính biểu tượng của hiện tượng.

As the group approaches nearer and nearer to reality, the pathway or the band of light shortens (symbolically) and in time, when you are expert in this work and when your spiritual nature is truly intensified, you will enter almost immediately into, or through, the disk of blue and become aware of the higher consciousness, or divinity.

Khi nhóm tiếp cận ngày càng gần hơn với thực tại, con đường hoặc dải ánh sáng rút ngắn lại (một cách tượng trưng) và theo thời gian, khi các bạn thành thạo trong công việc này và khi bản chất tinh thần của các bạn được củng cố thực sự, các bạn sẽ đi vào gần như ngay lập tức, hoặc thông qua chiếc đĩa màu xanh lam đó và nhận thức được tâm thức cao hơn, hay thiên tính.

5. Three things are, at this stage, essential to success:

5. Có ba điều cần thiết để thành công ở giai đoạn này, đó là:

a. The mind must be “held steady in the light,” and for this receptive experience all the previous work in meditation has been essential. Its positive, attentive activity has been an essential factor in producing the desired mind control.

a. Cái trí phải được “giữ ổn định trong ánh sáng”, và đối với kinh nghiệm tiếp thu này, tất cả các công việc trước đó trong tham thiền là cần thiết. Hoạt động tích cực, chăm chú của nó là một yếu tố cần thiết để tạo ra sự kiểm soát cái trí được mong muốn.

b. The creative imagination, involving as it does the power to visualise, has also to be developed and consciously used in obedience to instruction in the early stages. This obedience has to be rendered voluntarily, even though blindly, before the true objectives can be grasped.

b. Sự tưởng tượng sáng tạo, liên quan đến khả năng hình dung, cũng phải được phát triển và sử dụng một cách có ý thức, tuân theo chỉ dẫn trong các giai đoạn đầu. Sự tuân phục này phải được thực hiện một cách tự nguyện, thậm chí mù quáng, trước khi có thể nắm bắt được các mục tiêu thực sự.

c. Results must be expected and an inner sensitivity developed which will eventually obviate surprise and lead to a conscious recognition of achievement. This sensitivity may differ according to ray and [53] type, but the general indications will be in the field of similarity and of group value.

c. Các kết quả phải được kỳ vọng và một sự nhạy cảm bên trong được phát triển mà cuối cùng sẽ không còn sự ngạc nhiên và dẫn đến sự nhận biết một cách hữu thức sự thành tựu. Độ nhạy cảm này có thể khác nhau tùy theo cung và [53] loại cung, nhưng các chỉ dẫn chung sẽ tương tự và có giá trị nhóm.

All this was the objective of the work I outlined. Much remained to be done, and each year I have expanded the concept and laid the foundation for future work to be carried forward with steadfastness over a long period of time. A beginning has been made.

Tất cả những điều này là mục tiêu của công việc mà tôi đã phác thảo. Vẫn còn nhiều việc phải làm, và mỗi năm tôi đã mở rộng khái niệm và đặt nền tảng cho công việc tương lai được tiến hành với sự kiên định trong một thời gian dài. Một sự bắt đầu đã được thực hiện.

II

II

In the second stage of the work outlined by me when you had worked for a year at this full moon activity, I began to widen the teaching and I added to the earlier technique. In the religion of the future, three years will always be given to training the youth of the period (from the ages of fifteen to eighteen) in a preparatory technique of Approach.

Trong giai đoạn thứ hai của công việc mà tôi phác thảo khi các bạn đã làm việc một năm trong hoạt động  trăng tròn này, tôi bắt đầu mở rộng việc giảng dạy và bổ sung vào kỹ thuật trước đó. Trong tôn giáo của tương lai, sẽ có ba năm dành để huấn luyện thanh thiếu niên của thời kỳ đó (từ mười lăm đến mười tám tuổi) với một kỹ thuật chuẩn bị cho việc Tiếp cận.

The stages in the second year’s activity were as follows:

Các giai đoạn trong hoạt động của năm thứ hai như sau:

1. The recognition by the group members of the necessity for a closer group relation within the circle of the group and with me. This is symbolic of the recognition of the world need of love, as exemplified by an attitude of goodwill and understanding, and a closer approach by humanity to the Hierarchy. In the past, the religious emphasis upon the esoteric side of instruction has been the approach of the individual man to the God within, to his own higher self, the soul, the first Master. In the future, the emphasis will be upon the united approach of humanity (as represented by an increasing number of groups of aspirants and disciples) to the Hierarchy. According to the status of the groups and their awareness and condition of illumination, so will be the grade of hierarchical Worker with Whom they will be in touch.

1. Sự công nhận của các thành viên trong nhóm về sự cần thiết của mối quan hệ nhóm chặt chẽ hơn bên trong phạm vi nhóm và với tôi. Điều này tượng trưng cho sự nhận ra nhu cầu tình thương của thế giới, được thể hiện bằng thái độ thiện chí và thấu hiểu, cũng như cách tiếp cận gần gũi hơn của nhân loại đối với Thánh đoàn. Trong quá khứ, tôn giáo nhấn mạnh vào sự hướng dẫn có tính bí truyền đó là cách tiếp cận của con người cá nhân với Thượng đế nội tâm, với chân ngã riêng của y, linh hồn, vị Chân sư đầu tiên. Trong tương lai, trọng tâm sẽ là cách tiếp cận thống nhất của nhân loại (thể hiện qua số lượng ngày càng tăng của các nhóm người chí nguyện và đệ tử) đối với Thánh đoàn. Theo tình trạng của các nhóm và nhận thức và trạng thái soi sáng/chiếu sáng của họ, thì cấp độ của Nhân sự Thánh đoàn mà họ tiếp xúc cũng sẽ như vậy.

2. The recognition that in this work, true occult obedience or the intelligent response to the urge of the group soul and to the “pull” of the Hierarchy, is the next major requirement. This will produce the right carrying out of the required assigned technique and a complete refraining from [54] any interest in phenomenal results or an analysis (at this stage) of any reactions experienced. Individual analysis hinders group recognition and true realisation. This is a point to be considered and remembered.

2. Thừa nhận rằng trong công tác này, việc tuân phục huyền linh thực sự hoặc phản ứng thông minh trước sự thôi thúc của linh hồn nhóm và trước “lực kéo” của Thánh đoàn, là yêu cầu chủ yếu tiếp theo. Điều này sẽ mang lại sự thực hiện đúng kỹ thuật được chỉ định và hoàn toàn kiềm chế khỏi [54] bất kỳ mối quan tâm nào đến các kết quả hiện tượng, hoặc việc phân tích (ở giai đoạn này) về bất kỳ phản ứng nào đã trải qua. Phân tích cá nhân cản trở sự nhận thức của nhóm và sự hiện thực hóa đúng đắn. Đây là một điểm cần được xem xét và ghi nhớ.

3. The next step which I indicated to you was that in which I pointed out that these Full Moon Approaches required one entire week of inner activity, divided as follows:

3. Bước tiếp theo mà tôi đã chỉ ra cho các bạn là những Phương pháp Tiếp Cận Trăng Tròn yêu cầu trọn vẹn một tuần hoạt động bên trong, được chia ra như sau:

a. The three days prior to the full moon were to be dedicated to preparation. This preparation involved confidence, which swept the brain (the focus of the physical plane expression) into the right condition; aspiration, which held the astral body in the right attitude; and dedication, which was the intelligent process, motivated by free will and involving mental concentration, which enabled the confident aspirant to “hold the mind steady in the light.”

a. Dành ba ngày trước ngày trăng tròn để chuẩn bị. Sự chuẩn bị này liên quan đến sự tin tưởng, giúp đưa não bộ (trọng tâm của biểu hiện cõi vật lý) vào trạng thái đúng đắn; khát vọng, giữ cho thể cảm dục ở một thái độ đúng; và sự cống hiến, đó là một quá trình thông minh, được thúc đẩy bởi ý chí tự do và liên quan đến sự tập trung trí tuệ, cho phép người chí nguyện tự tin “giữ thể trí ổn định trong ánh sáng.”

b. Then, there were the twelve hours on the day of the full moon, wherein a consciously achieved contact (dependent upon the success of the previous three days’ work by the group) became a definitely proven possibility. By training you in these early stages in the attempt to contact me, I was laying the ground for two eventualities: your future contact with your Master, prior to initiation, and a contact with the Hierarchy. This was intended to be symbolic of humanity’s future contact.

b. Sau đó, có mười hai giờ vào ngày trăng tròn, trong đó một sự tiếp xúc đạt được một cách hữu thức (phụ thuộc vào sự thành công của công việc ba ngày trước của nhóm) đã trở thành một khả năng được chứng tỏ chắc chắn. Bằng cách huấn luyện các bạn ở những giai đoạn ban đầu này trong nỗ lực liên hệ với tôi, tôi đã đặt nền tảng cho hai trường hợp cuối cùng: mối liên hệ trong tương lai của các bạn với Chân sư của các bạn, trước cuộc điểm đạo và một sự tiếp xúc với Thánh đoàn. Điều này được dự định là biểu tượng cho sự tiếp xúc trong tương lai của nhân loại.

c. The three days succeeding the full moon period then were considered. In these days, it was pointed out, the personality could become conscious of the success of the previous work done and the subsequent contact. That realisation would be facilitated by an inner attitude of registration (by the mind) of that which the soul has sought to impress upon it at the moment of attempted or achieved contact; by the sense of expectancy which the emotional nature would be trained to express and experience; and by the acknowledged attitude of the physical brain as it held [55] to the belief of true success, when the requirements had been duly met.

c. Sau đó ba ngày tiếp theo kỳ trăng tròn được xem xét. Trong những ngày này, nó đã được chỉ ra, phàm ngã có thể trở nên ý thức về sự thành công của công việc trước đó đã làm và sự tiếp xúc sau đó. Sự nhận ra đó sẽ được tạo điều kiện thuận lợi bởi một thái độ ghi nhận bên trong (bởi tâm trí) về điều mà linh hồn đã tìm cách gây ấn tượng với nó tại thời điểm cố gắng hoặc đạt được tiếp xúc; bởi cảm nhận về sự mong đợi mà bản chất cảm dục sẽ được huấn luyện để thể hiện và trải nghiệm; và bởi thái độ thừa nhận của não bộ vật lý khi nó giữ [55] niềm tin về sự thành công thực sự, khi các yêu cầu đã được đáp ứng một cách thích đáng.

It will be apparent to you, if you have followed the above in the right spirit, that from the very start I have been working towards objectives unrealised by you. I am trusting that the importance of this full moon work will become increasingly clear to you and make you more eager to work as requested by me.

Các bạn sẽ thấy rõ nếu các bạn đã làm theo những điều trên với tinh thần đúng đắn, rằng ngay từ đầu tôi đã làm việc để hướng tới những mục tiêu mà các bạn chưa thực hiện được. Tôi tin tưởng rằng tầm quan trọng của công việc kỳ trăng tròn này sẽ ngày càng trở nên rõ ràng với các bạn và khiến các bạn hăng hái hơn để làm việc theo yêu cầu của tôi.

III

III

The third stage, outlined by me during the past year’s work, brought in a far more complicated activity than heretofore. I explained to you, if you will remember, that at the time of the full moon it was as if a door was opened between the Sun and Moon, making certain events of a spiritual nature possible. The band of golden light, extending between the Sun and the Moon, completely “irradiated the lunar surface” (to use the ancient formula) and made possible certain revelations. To students such as you, the symbolism should be apparent and can be seen as inviting a dual interpretation:

Giai đoạn thứ ba đã được tôi phác thảo trong suốt công việc của năm qua, mang lại một hoạt động phức tạp hơn nhiều so với trước đây. Tôi đã giải thích cho các bạn, nếu các bạn còn nhớ, rằng vào thời điểm trăng tròn, nó giống như một cánh cửa được mở ra giữa Mặt trời và Mặt trăng, làm cho một số sự kiện có bản chất tinh thần có thể xảy ra. Dải ánh sáng vàng kim, kéo dài giữa Mặt trời và Mặt trăng, hoàn toàn “soi sáng bề mặt Thái âm” (sử dụng cách thức cổ xưa) và có thể tạo ra những thiên khải nhất định. Đối với các môn sinh như các bạn chẳng hạn, biểu tượng phải rõ ràng và có thể được xem như là một cách giải thích kép:

1. It concerns the relation of the Solar Angel to the lunar forces, of the Sun and the Moon and their work in synthesis.

1. Nó liên quan đến mối quan hệ của Thái dương Thiên thần đối với các mãnh lực thái âm, của Mặt trời và Mặt trăng và công việc tổng hợp của chúng.

2. It concerns the relation of the Hierarchy to humanity and consequently, of the subjective world to the objective worlds, of the realm of causes to the realm of effects. Ponder on this.

2. Nó liên quan đến mối quan hệ của Thánh đoàn với nhân loại và do đó, của thế giới bên trong với thế giới bên ngoài, của lĩnh vực các nguyên nhân với lĩnh vực các hệ quả. Hãy suy ngẫm về điều này.

Individual approach must be merged into group approach, and the approach of groups will some day be superseded by the organised approach of humanity as a whole. This third stage can (like the two previous ones) be divided into the following activities, which require to be mentally grasped by the group:

Phương pháp tiếp cận cá nhân phải được hoà trộn với phương pháp tiếp cận nhóm, và phương pháp tiếp cận nhóm một ngày nào đó sẽ bị thay thế bởi phương pháp tiếp cận có tổ chức của nhân loại như một tổng thể. Giai đoạn thứ ba này (giống như hai giai đoạn trước) có thể được chia thành các hoạt động sau mà chúng đòi hỏi nhóm phải nắm được về mặt tinh thần:

1. That certain realisations become possible. These are two in number: [56]

1. Rằng những nhận thức nhất định trở nên khả thi. Đây là hai trong số đó: [56]

a. Realisation one: That entrance upon the Path of Approach is possible for individuals, for groups, and for humanity as a whole, as a unit.

a. Nhận thức thứ nhất: Lối vào Con đường Tiếp cận đó có thể dành cho các cá nhân, cho các nhóm và cho toàn thể nhân loại, như một đơn vị.

b. Realisation two: That energies, not usually or normally contacted, can be touched, grasped and utilised at the time of these Approaches, provided that they are contacted in group formation. Thus the individual, the group and humanity are enriched and vitalised.

b. Nhận thức thứ hai: Những năng lượng không được tiếp xúc một cách thường xuyên hoặc bình thường, chúng có thể được chạm vào, nắm bắt và sử dụng tại thời điểm của các Tiếp cận này, miễn là chúng được tiếp xúc theo nhóm. Do đó, cá nhân, nhóm và nhân loại được nâng cao chất lượng và được truyền sức sống.

2. That the spiritual Hierarchy can, at these times, be approached, verified and known, thus leading to active conscious cooperation with the Plan which the Hierarchy serves. It must be remembered that, on the side of the Hierarchy, a Technique of Approach to humanity will also be employed, and thus we have an essential dual activity. The first stage of this dual activity took place millions of years ago at the time of Individualisation, and produced the emergence of the fourth kingdom in nature, the human family. The second stage is being rapidly worked out today, and will produce the emergence of Initiation. The intermediate stage is that of Integration. We have therefore the germ of a new scientific religion, called (as I have earlier pointed out) the Science of Approach. It is one in which humanity can now consciously share, for their stage in evolution warrants it. Men can today grasp the objective, share in the united aspiration, and carry out the needed requirements.

2. Tại những thời điểm này, Thánh đoàn tinh thần có thể được tiếp cận, xác minh và biết đến, do đó dẫn đến sự hợp tác hữu thức tích cực với Thiên cơ mà Thánh đoàn phụng sự. Cần phải nhớ rằng, về phía Thánh đoàn, Kỹ thuật Tiếp cận nhân loại cũng sẽ được sử dụng, và do đó chúng ta có một hoạt động kép cần thiết. Giai đoạn đầu tiên của hoạt động kép này diễn ra hàng triệu năm trước vào thời điểm Biệt lập ngã tính, và tạo ra sự xuất hiện của giới thứ tư trong tự nhiên, là gia đình nhân loại. Ngày nay giai đoạn thứ hai đang được thực hiện nhanh chóng, và sẽ tạo ra sự xuất hiện của việc Điểm đạo. Giai đoạn trung gian là giai đoạn Tích hợp. Do đó, chúng ta có mầm mống của một tôn giáo khoa học mới, được gọi là (như tôi đã chỉ ra trước đó) Khoa học Tiếp cận. Đó là điều mà nhân loại hiện nay có thể chia sẻ một cách có ý thức, vì giai đoạn tiến hóa của họ đảm bảo điều đó. Con người ngày nay có thể nắm bắt mục tiêu, chia sẻ nguyện vọng thống nhất và thực hiện các yêu cầu cần thiết.

3. The time to be given, at this stage of the training, to the Full Moon Approach was shortened, but tremendously intensified, and the objective was to produce a far more dynamic activity. A state of tension had to be achieved, which would eventually release dynamic energy from—if possible—levels higher than that of the soul. Hence the need for group integration and work. This period was divided as follows:

3. Ở giai đoạn huấn luyện này, thời gian dành cho Phương pháp Tiếp cận Trăng tròn đã được rút ngắn, nhưng tăng cường mạnh mẽ, và mục tiêu là tạo ra một hoạt động năng động hơn nhiều. Phải đạt được trạng thái chú tâm, cuối cùng sẽ giải phóng năng lượng năng động — nếu có thể — từ các mức cao hơn cấp độ của linh hồn. Do đó cần phải tích hợp và làm việc theo nhóm. Thời kỳ này được chia như sau:

a. There were two days of intensive preparation. This involved the achieving of a right attitude of a dual kind: The group member fused his outer activity and [57] his inner orientation into one blended concentrated spiritual activity. He proceeded with his usual avocations, but at no time—whilst so occupied—was he to lose sight of the inner orientation and specific recollection. All the time he was outwardly busy, he was simultaneously occupied with a constant realisation of a retreat inward, a heightening of his vibration, and a raising of his consciousness.

a. Có hai ngày chuẩn bị ráo riết. Điều này liên quan đến việc đạt được một thái độ kép đúng đắn: Thành viên nhóm hợp nhất hoạt động bên ngoài và [57] định hướng bên trong của mình thành một hoạt động tinh thần được tập trung và hòa nhập. Y tiếp tục với những công việc thông thường của mình, nhưng không lúc nào — trong khi bận rộn như vậy — y lại mất đi định hướng bên trong và hồi ức cụ thể. Tất cả thời gian bận rộn bên ngoài, y đồng thời bận rộn với nhận thức liên tục rút vào bên trong, nâng độ cao rung động và nâng cao tâm thức của y.

b. On the day of the full moon, you were asked to go through a symbolic performance in the realm of the creative imagination, and through the medium of its agent, visualisation. This performance involved the following steps:

b. Vào ngày trăng tròn, các bạn được yêu cầu trải qua một buổi cử hành mang tính biểu tượng trong lĩnh vực của trí tưởng tượng sáng tạo, và thông qua công cụ trung gian của nó, sự hình dung tưởng tượng. Việc cử hành này bao gồm các bước sau:

1. The recognition that in the blue disk, at the end of the golden pathway, was an ivory door which was slowly opening into a room with three windows.

1. Nhận ra rằng trong chiếc đĩa màu xanh, ở cuối con đường vàng kim, là một cánh cửa màu ngà đang từ từ mở vào một căn phòng có ba cửa sổ.

2. The recognition that the group, as a unit, was advancing into that room and there, united in an act of solemn dedication, stands ready for revelation.

2. Nhận ra nhóm với tư cách là một đơn vị, đang tiến vào căn phòng và ở đó, thống nhất trong một hành động dâng hiến trang nghiêm, sẵn sàng cho sự thiên khải.

3. The recognition, by the group, of me, your teacher and Tibetan brother, and the saying by all of us together of the Great Invocation. This produces fusion and releases something from “that which lies above to that which lies below,” speaking in the words of symbolism.

3. Cả nhóm nhận ra tôi, huấn sư và huynh đệ Tây Tạng của các bạn, và tất cả chúng ta cùng nhau xướng lên bài Đại Khấn nguyện. Điều này tạo ra sự hợp nhất và biểu lộ một cái gì đó từ ““cái nằm ở bên trên đến cái nằm ở dưới”, nói theo cách của ngôn ngữ biểu tượng.

It will be obvious to you that in this symbolic ritual there is typified, first of all the Path, the goal, the kingdom of God, distinguished by spiritual mind, spiritual love and spiritual will (the three windows, atma-buddhi-manas, or the three aspects of the soul). Secondly, the focussing of the consciousness in that of the soul, followed by a group dedication; and, finally, that humanity (symbolised by the group) and the Hierarchy (symbolised by me) and the subsequent voicing by me of certain Words of Power were all intended to produce the fusion of the objective and subjective worlds, and the consequent emergence of the fifth kingdom in nature. Thus the skeleton structure of the new religious ceremonial [58] can be dimly seen and inadequately sensed. This stage is followed by:

Các bạn sẽ thấy rõ ràng rằng trong nghi lễ tượng trưng này có sự tiêu biểu, trước hết là Con đường, mục tiêu, Thiên giới, được phân biệt bằng trí tuệ tinh thần, tình thương tinh thần và ý chí tinh thần (ba cửa sổ, atma-buddhi-manas, hoặc ba trạng thái của linh hồn). Thứ hai, sự tập trung của tâm thức vào linh hồn, tiếp theo là sự dâng hiến của nhóm; và cuối cùng, nhân loại (được biểu tượng bởi nhóm) và Thánh đoàn (được biểu tượng bởi tôi) và sau đó tôi lên tiếng về một số Quyền Lực Từ đều là nhằm mục đích tạo ra sự hợp nhất của thế giới bên ngoài và bên trong, và kết quả là sự xuất hiện của giới thứ năm trong tự nhiên. Vì vậy, cấu trúc khung của nghi lễ tôn giáo mới [58] chỉ có thể được nhìn thấy lờ mờ và chưa đủ cảm nhận. Giai đoạn này được theo sau bởi:

4. Two days of intensive recollection by the group in their brain consciousness. This involves:

4. Hai ngày nhóm tập trung hồi tưởng trong ý thức não bộ của họ. Điều này liên quan đến:

a. The development of the power to recall the Words of Power which had been spoken by me, and later, the listening for a Word of Power. This recognition of the Words will be one of the major objectives of the new world religion, and hence our effort (not particularly successful hitherto) to do something symbolically analogous in our group activity.

a. Sự phát triển của sức mạnh để nhớ lại Quyền lực Từ mà tôi đã phát biểu, và sau đó, là việc lắng nghe Quyền lực Từ. Việc ghi nhận Các Linh từ này sẽ là một trong những mục tiêu chính của tôn giáo thế giới mới, và do đó nỗ lực của chúng ta (không đặc biệt thành công cho đến nay) là để làm một điều gì đó tượng trưng tương tự trong hoạt động nhóm của chúng ta.

b. A subsequent definite intensification of the life processes, and a spiritual demonstration upon the physical plane as a result.

b. Sau đó là sự tăng cường rõ rệt của các quá trình sự sống và kết quả là một biểu hiện tinh thần trên cõi trần.

The above elucidation should give you a new and more intelligent grasp of the symbolic significances of the work we are now attempting.

Sự làm sáng tỏ trên sẽ cho các bạn một cách hiểu mới và thông minh hơn về các ý nghĩa biểu tượng của công việc mà chúng ta đang cố gắng hiện nay.

I am going to ask you to go over the whole process in these first three major stages, studying with care my interpretation.

Tôi sẽ yêu cầu các bạn xem lại toàn bộ quá trình trong ba giai đoạn chính đầu tiên này, nghiên cứu kỹ cách diễn giải của tôi.

1. During the months of January and February, please study what I have said, reading and rereading it until it is clear and fixed in your minds.

1. Trong suốt tháng 1 và tháng 2, hãy học những gì tôi đã nói, đọc đi đọc lại cho đến khi nó rõ ràng và cố định trong tâm trí các bạn.

2. During March take the first stage and work faithfully at it.

2. Trong tháng 3, hãy thực hiện giai đoạn đầu tiên và làm việc trung thành với nó.

3. During April take the second stage.

3. Trong tháng 4 thực hiện giai đoạn hai.

4. During May, take the third stage. Then for the remainder of the time, until October, work at this third stage. In October, if you have faithfully fulfilled requirement, I will outline the work next to be done. May I ask for your real interest, service and cooperation?

4. Trong tháng Năm, thực hiện giai đoạn ba. Sau đó, trong khoảng thời gian còn lại, cho đến tháng 10, hãy làm việc ở giai đoạn ba này. Vào tháng 10, nếu các bạn đã hoàn thành yêu cầu một cách trung thực, tôi sẽ phác thảo những công việc tiếp theo để làm. Tôi có thể yêu cầu sự quan tâm, việc phụng sự và sự hợp tác thực sự của các bạn không?

Your personal instructions I have placed at the end to indicate to you its relative importance and so impress upon you the necessity for your individual teaching taking a secondary [59] place; it is of less importance than the group development and the service of humanity. You will all awaken some day to the realisation that the Science of Service is of greater importance than the Science of Meditation, because it is the effort and the strenuous activity of the serving disciple which evokes the soul powers, makes meditation an essential requirement, and is the mode—ahead of all others—which invokes the Spiritual Triad, brings about the intensification of the spiritual life, forces the building of the antahkarana, and leads in a graded series of renunciations to the Great Renunciation, which sets the disciple free for all eternity.

Những chỉ dẫn cá nhân cho các bạn mà tôi đã đặt ở cuối là để chỉ ra cho các bạn tầm quan trọng tương đối của nó, và do đó tạo cho các bạn ấn tượng về sự cần thiết cho huấn thị cá nhân của các bạn chiếm vị trí thứ yếu [59]; nó ít quan trọng hơn sự phát triển nhóm và phụng sự nhân loại. Một ngày nào đó, tất cả các bạn sẽ thức tỉnh để nhận ra rằng Khoa học Phụng sự có tầm quan trọng hơn Khoa học về Tham thiền, bởi vì chính nỗ lực và hoạt động vất vả của người đệ tử phụng sự sẽ khơi dậy những sức mạnh của linh hồn, khiến tham thiền trở thành một yêu cầu thiết yếu, và là phương thức — đi trước tất cả những phương thức khác — nó kêu gọi Tam nguyên Tinh thần, mang lại sự tăng cường của đời sống tinh thần, buộc phải xây dựng cầu antahkarana, và dẫn đến một loạt các cuộc từ bỏ dẫn đến cuộc Đại Từ bỏ, giúp người đệ tử được tự do vĩnh viễn.

I am giving you here certain needed hints and much upon which to ponder. I give you of my time and of my love, of my interest and my understanding. Let us together serve.

Ở đây tôi đang cung cấp cho các bạn một số gợi ý cần thiết và nhiều điều cần suy ngẫm. Tôi trao cho các bạn thời gian của tôi và tình thương của tôi, sự quan tâm của tôi và sự hiểu biết của tôi. Chúng ta hãy cùng nhau phụng sự.

Commentary #31  [Đến Bình Giảng]

January 1946

Tháng 1 năm 1946

TO MY GROUP OF AFFILIATED DISCIPLES:

GỬI NHÓM CÁC ĐỆ TỬ LIÊN KẾT CỦA TÔI:

Since I last communicated with you the outer aspects of the world war, the carnage and the slaughter are over, except in a few sporadic instances. The struggle now being waged is to reach a point of stabilisation in human thinking and understanding from which a true and reliable peace can emerge. On the emotional plane, there is as yet no peace. On the mental plane, a great and deep-seated cleavage is going on and the occult significance of certain words, enunciated by the Christ when in Palestine, is being worked out. He gave them as the keynote for the particular subjective happening which is taking place at this time. He said: “He that is not with Me is against Me.” This refers to the after effects of the conflict between the Forces of Light and the Forces of Evil. Great decisions have to be made all over the world, as to whether humanity moves forward into a New Age of cooperation and of right human relations or whether the materialistic groups will reassert their control and succeed in winning the day. This great cleavage is now in process of settlement.

Kể từ lần cuối cùng tôi trao đổi với các bạn những khía cạnh bên ngoài của thế chiến, cuộc chém giết và tàn sát đã kết thúc, ngoại trừ một vài trường hợp lẻ tẻ. Cuộc đấu tranh hiện đang được tiến hành là để đạt đến điểm ổn định trong tư tưởng và hiểu biết của nhân loại, từ đó có thể xuất hiện một nền hòa bình thực sự và đáng tin cậy. Trên cõi cảm dục, vẫn chưa có bình an. Trên cõi trí, một sự chia rẽ sâu sắc và to lớn đang diễn ra, và ý nghĩa huyền bí của một số từ nhất định được Đức Christ phát biểu khi ở Palestine, đang được thực thi. Ngài đã đưa chúng ra như chủ âmcho diễn biến bên trong cụ thể đang diễn ra tại thời điểm này. Ngài nói: “Ai không theo Ta là chống lại Ta.” Điều này đề cập đến hậu quả của cuộc xung đột giữa các Lực lượng Ánh sáng và các Lực lượng Tà ác. Các quyết định lớn phải được thực hiện trên toàn thế giới, xem liệu rằng nhân loại có tiến tới một Kỷ nguyên mới của sự hợp tác và các mối quan hệ đúng đắn giữa con người với nhau hay liệu các nhóm chủ nghĩa duy vật tái khẳng định quyền kiểm soát của họ và thành công trong cuộc chiến hay không. Sự chia rẽ sâu sắc này hiện đang trong quá trình giải quyết.

On the other hand, a deeply spiritual division is also taking place. In a peculiar sense, and speaking largely symbolically, [60] the first phase of the Great Judgment is asserting itself. The sheep and the goats are forming into two distinct groups. The judgment being given is not the generally assumed one of assigning penalties or rewards; it is not the negation of all effort as the result of decisive moves, nor will it result in the emergence of major dividing lines. Such interpretations are man-made and are not true interpretations of the parable or word picture which Christ gave to His disciples nearly two thousand years ago.​​​​

Mặt khác, một sự chia rẽ sâu sắc về tinh thần cũng đang diễn ra. Theo một nghĩa đặc biệt, và nói một cách tượng trưng, ​​[60] giai đoạn đầu của Cuộc Phán quyết Vĩ đại đang khẳng định chính nó. Những con cừu và những con dê đang tạo thành hai nhóm riêng biệt. Phán quyết được đưa ra không phải là phán quyết thường được giả định về việc ấn định các hình phạt hoặc phần thưởng; nó không phải là sự phủ định mọi nỗ lực do kết quả của những động thái quyết định, cũng không phải là kết quả của việc xuất hiện các đường phân chia chính. Những cách giải thích như vậy là do con người tạo ra và không phải là cách giải thích thực sự về câu chuyện ẩn dụ hay bức tranh bằng ngôn từ mà Đức Christ đã ban cho các đệ tử của Ngài gần hai ngàn năm trước.

The judgment referred to has relation to a mysterious process which is going on in the thinking (if one dare use such a word for such a comprehensive process) of the planetary Logos. He is deciding at this time the mode by which a momentous event or happening within the Hierarchy shall take shape; He is timing the process of its externalisation; He is deciding which Ashrams shall be externalised and Who, within those Ashrams, should and must proceed with the purely inner and subjective work, and Who should be chosen to work—consciously and openly—in the outer world of men, thus duplicating in Their numbers what Christ experienced when He “descended into Hell.” Many things have to be considered; the objectives in view of the Masters concerned, the rays in manifestation, and many astrological relationships.

Phán quyết được đề cập đến có liên quan đến một quá trình bí ẩn đang diễn ra trong suy nghĩ (nếu người ta dám dùng từ như vậy cho một quá trình toàn diện như vậy) của hành tinh Thượng đế. Vào lúc này, Ngài đang quyết định phương thức mà một sự kiện hoặc sự việc quan trọng sẽ hình thành trong Thánh đoàn; Ngài đang xác định thời gian cho quá trình ngoại hiện của nó; Ngài đang quyết định Đạo viện nào sẽ ngoại hiện, và Vị nào, bên trong những Đạo viện đó, nên và phải tiến hành công việc hoàn toàn chủ quan và bên trong, và Vị nào nên được chọn làm việc — một cách có ý thức và công khai — ở thế giới bên ngoài của con người, do đó nhân đôi, qua số lượng của các Vị, những việc mà Đức Christ đã trải qua khi Ngài “xuống Địa ngục.” Nhiều thứ phải được xem xét; các mục tiêu của các Chân sư liên quan, các cung trong sự biểu hiện, và nhiều mối quan hệ chiêm tinh.

In this deciding judgment Sanat Kumara is being aided by certain Members of the Great Council at Shamballa, by the Christ and by the seven Masters Who are responsible for the seven groups of Ashrams. He is also reaching certain conclusions as to the groups of disciples who have hitherto been under training during the final stages of the Path of Discipleship. This decision has to take under advisement the rapidity with which the entrance of men and women into the Ashrams can take place; it is also dependent upon the members of the Ashram moving forward according to their degree, and upon the power of the Ashrams to absorb and assimilate the much larger numbers, without upsetting ashramic stability. He has also to consider the ability of the neophyte under training to take and hold the far greater tension necessarily incident to true ashramic life in the New Age.

Trong phán quyết mang tính quyết định này, Đức Sanat Kumara được sự trợ giúp của một số Thành viên của Đại Hội đồng tại Shamballa, bởi Đức Christ và bởi bảy vị Chân sư chịu trách nhiệm về bảy nhóm Đạo viện. Ngài cũng đang đưa ra những kết luận nhất định về các nhóm đệ tử cho đến nay đang được huấn luyện trong giai đoạn cuối cùng của Con đường Đệ tử. Quyết định này phải cân nhắc đến tốc độ nhanh chóng mà những người nam và nữ gia nhập vào các Đạo viện có thể xảy ra; nó cũng phụ thuộc vào các thành viên của Đạo viện tiến lên theo cấp bậc của họ, và vào sức mạnh của Đạo viện để hấp thụ và đồng hóa số lượng lớn hơn nhiều mà không làm xáo trộn sự ổn định của Đạo viện. Ngài cũng phải xem xét khả năng của tân môn sinh đang được huấn luyện để tiếp nhận và chịu đựng sự căng thẳng lớn hơn nhiều nhất thiết phải xảy ra đối với cuộc sống ở các Đạo viện thực sự trong Kỷ nguyên mới.

[61]

[61]

These points are all being most carefully considered, because a major expansion of the Hierarchy as a whole, and the consequent reaction upon humanity, again as a whole, is not a thing lightly to be undertaken. Expansion—if it is to be safely undertaken—must proceed hand in hand with consolidation. The expansion now contemplated in the highest quarters will greatly alter the potency of the relation of the Hierarchy to Humanity, and therefore of the second divine aspect to the third. Can Humanity take this increased potency correctly and safely? Will the aspirants of the world—if given opportunity to pass off the Probationary Path on to the Path of Discipleship—be stable enough to stand steady under the impact of hitherto undiscerned spiritual energy? Can the Masters, under the pressure of Their enormous task of world reconstruction, find the needed time to increase Their training of Their disciples? For They are still governed by the time equation where Their disciples are concerned. Can the senior members in any Ashram relieve to some extent the pressures upon the Masters as well as upon the incoming and junior, and therefore inexperienced, disciples?

Tất cả những điểm này đều đang được xem xét cẩn thận nhất, bởi vì sự mở rộng quan trọng của Thánh đoàn như một tổng thể, và phản ứng tiếp theo đối với nhân loại, một lần nữa, như một tổng thể, không phải là điều dễ dàng được thực hiện. Việc mở rộng — nếu nó được thực hiện một cách an toàn — phải tiến hành song song với việc hợp nhất. Sự mở rộng hiện đang được cân nhắc ở cấp cao nhất sẽ làm thay đổi đáng kể tiềm năng của mối quan hệ của Thánh đoàn với Nhân loại, và do đó của trạng thái thiêng liêng thứ hai với trạng thái thứ ba. Liệu nhân loại có thể sử dụng tiềm năng gia tăng này một cách chính xác và an toàn không? Liệu những người chí nguyện trên thế giới — nếu được trao cơ hội để vượt qua Con đường Dự bị để đi vào Con đường Đệ tử — có đủ ổn định để đứng vững dưới tác động của năng lượng tinh thần chưa được biết cho đến nay không? Liệu các Chân sư, dưới áp lực của nhiệm vụ to lớn của các Ngài là tái thiết thế giới, có thể tìm thấy thời gian cần thiết để tăng cường huấn luyện các đệ tử của các Ngài không? Vì các Ngài vẫn bị chi phối bởi yếu tố thời gian trong công việc liên quan đến các đệ tử. Liệu các thành viên cao cấp trong bất kỳ Đạo viện nào có thể giảm bớt áp lực ở một mức độ nào đó đối với các Chân sư cũng như các đệ tử mới vào, ít thâm niên và thiếu kinh nghiệm, không?

If, however, the relation between the Hierarchy and Humanity is thus strengthened and there is freer access in both directions, there will clearly emerge the invocational pull or the magnetic potency of these blending centres: the pull will be upon Shamballa, which is the highest centre of all.

Tuy nhiên, nếu mối quan hệ giữa Thánh đoàn và Nhân loại nhờ đó được củng cố, và sự tiếp cận tự do hơn theo cả hai hướng, rõ ràng sẽ xuất hiện sức hút cầu khẩn hoặc sức mạnh từ tính của các trung tâm pha trộn này: lực hút cầu khẩn sẽ đến với Shamballa, trung tâm cao nhất của tất cả.

Is the etheric web of the planet sufficiently stable and balanced so that it can adequately respond to the new and potent forces which could and will pour through it into objective expression? I would remind you that the release of atomic energy has had a far more potent effect in the etheric web than in the dense physical vehicle of the planet. Three times the atomic bomb was used, and that fact is itself significant. It was used twice in Japan, thereby disrupting the etheric web in what you erroneously call the Far East; it was used once in what is also universally called the Far West, and each time a great area of disruption was formed which will have future potent, and at present unsuspected, results.

Mạng lưới dĩ thái của hành tinh có đủ ổn định và cân bằng để có thể đáp ứng thỏa đáng với các mãnh lực mới và mạnh mẽ, vốn có thể và sẽ tuôn đổ qua nó để đi vào biểu hiện khách quan không? Tôi muốn nhắc các bạn rằng việc giải phóng năng lượng nguyên tử đã có tác động mạnh mẽ trong mạng lưới dĩ thái hơn nhiều so với trong vận cụ vật chất đậm đặc của hành tinh. Ba lần bom nguyên tử đã được sử dụng, và thực tế đó tự nó rất quan trọng. Nó đã được sử dụng hai lần ở Nhật Bản, do đó phá vỡ mạng lưới dĩ thái ở nơi mà các bạn gọi nhầm là Viễn Đông; nó đã được sử dụng một lần ở nơi còn được gọi một cách phổ biến là Viễn Tây, và mỗi lần như vậy, một khu vực gián đoạn lớn được hình thành, vốn sẽ có những kết quả tiềm tàng trong tương lai mà hiện tại không ngờ đến.

The formation of the Triangles of Light and of Goodwill [62] —essentially the manipulation of energy into a desired thought pattern—has a definite relation to this area of disruption. It will in due time be found that the Japanese people, with their peculiar knowledge of thought power (used along wrong lines in the war period), will respond more intelligently to this type of work than many of the Western peoples. An effort should therefore be made to reach the Japanese along the lines of the Triangle work.

Sự hình thành các Tam giác Ánh sáng và Thiện chí [62] — về cơ bản là việc vận dụng năng lượng vào một khuôn mẫu tư tưởng mong muốn — có một mối liên hệ xác định với khu vực có tình trạng chia rẽ này. Trong một thời gian nữa người ta thấy được rằng người Nhật, với sự hiểu biết đặc biệt của họ về sức mạnh tư tưởng (được sử dụng sai lầm trong thời kỳ chiến tranh), sẽ đáp ứng với loại công việc này một cách thông minh hơn nhiều người phương Tây. Do đó, cần phải nỗ lực để tiếp cận người Nhật theo các đường lối của công việc Tam giác.

I would like to point out that the distinction between the “sheep and the goats” is mainly hierarchical. The term “goats” is esoterically applied to initiated disciples and to those who have climbed the mountain of initiation. The term “sheep” is applied to those who are following blindly the inner urge of their souls and who are groping their way (in relatively large numbers) toward the Hierarchy. For them still has to come the great revelation that the “kingdom of God is within you.” Such is the word for them at this stage in humanity’s history. Once they have realised that, they are already being absorbed into the Hierarchy. Life will now for them simplify. For the “goats” must come the impelling call from the highest aspect of the Spiritual Triad, “Seek the way of Ascension”—ascension out of even triadal life into that of pure Being and of monadic existence.

Tôi muốn chỉ ra rằng sự phân biệt giữa “cừu và dê” chủ yếu là thứ bậc. Thuật ngữ “dê” được áp dụng một cách bí truyền cho các đệ tử đã được điểm đạo và cho những người đã leo lên ngọn núi điểm đạo. Thuật ngữ “cừu” được áp dụng cho những ai đang theo đuổi một cách mù quáng sự thôi thúc bên trong của linh hồn họ và những người đang dò dẫm trên con đường của họ (với số lượng tương đối lớn) về phía Thánh đoàn. Với họ, họ vẫn phải chờ sự thiên khải lớn rằng “Cõi giới của Thượng đế ở trong bạn.” Đó là lời dành cho họ ở giai đoạn này trong lịch sử nhân loại. Một khi họ nhận ra điều đó, họ được hấp thụ vào Thánh đoàn. Bấy giờ, cuộc sống đối với họ sẽ đơn giản hóa. Đối với “những con dê” phải có tiếng gọi thúc đẩy từ khía cạnh cao nhất của Tam nguyên Tinh thần, “Tìm kiếm con đường Thăng Thiên” — thăng lên thậm chí từ cuộc sống tam nguyên tinh thần vào cuộc sống của Bản thể thuần khiết và của sự tồn tại chân thần.

In this Great Judgment all decision lies in the conclusive thinking of Sanat Kumara. It is His judgment; neither the sheep nor the goats, nor the great mass of men from among whom they have emerged, can affect that decision in the slightest degree. Any moment or climax of decision on the part of the Lord of the World institutes new law and brings into play new energies. Laws are only the unalterable conditions brought about by the activity, the orientation and the emanated decisive thoughts of the One in Whom we live and move and have our being, just as the activities, the orientation and the thinking of a human being carry the cells and the atoms of his body along the line of his wishes. Energies are but the rhythm of His breathing and the results of the systolic and the diastolic action of His heart. From these energies we cannot escape, but—in a mysterious and peculiar [63] manner—the planetary Logos directs them or withholds them to suit the recognised planetary needs of the period.

Trong Phán quyết Vĩ đại này, tất cả quyết định nằm trong suy nghĩ có tính kết luận của Đức Sanat Kumara. Đó là sự phán xét của Ngài; không phải cừu hay dê, cũng không phải quần chúng đông đảo mà từ đó họ đã xuất hiện, có thể ảnh hưởng mảy may đến quyết định đó. Bất kỳ thời điểm hoặc cao trào nào của việc quyết định của Chúa tể Thế giới cũng thiết lập luật mới và đưa vào hoạt động các năng lượng mới. Các Luật chỉ là những điều kiện bất biến được mang lại do hoạt động, định hướng và những suy nghĩ quyết định phát xuất từ ​​Đấng mà trong Ngài chúng ta đang sống, chuyển động, và hiện tồn, cũng giống như những hoạt động, định hướng và tư duy của một con người mang các tế bào và các nguyên tử của cơ thể y theo đường lối mong muốn của y. Năng lượng chỉ là nhịp thở của Ngài và là các kết quả của hoạt động tâm thu và tâm trương của trái tim Ngài. Chúng ta không thể thoát ra khỏi những năng lượng này, nhưng — theo một cách thức bí ẩn và đặc biệt [63] —Hành tinh Thượng đế hướng chúng hoặc giữ chúng lại cho phù hợp với nhu cầu về mặt hành tinh được công nhận trong thời kỳ này.

At this time the “eye of His direction” is turned towards a needy and waiting world, and particularly towards the large number of waiting people who hold within themselves the potencies of discipleship. They are the hope of the world. This outpouring of directed energy means a great stimulation of all sensitive and responsive aspirants; the result is not an easy one for them. Everything in them is raised to the surface of consciousness, and whilst they are faced with a vital and beneficent opportunity, they are also faced with the problem of absorbing more “punishment” (is not that the word I want, my brother?) than they would normally take. Will they break under the impact of self-discovery and the opportunity to eliminate personality? Or will they rise triumphant from the ashes of their dead selves into living power and beauty?

Vào lúc này, “con mắt định hướng của Ngài” hướng về một thế giới thiếu thốn và đang chờ đợi, và đặc biệt là hướng tới số lượng lớn những người đang chờ đợi, những người mang trong mình những tiềm năng trở thành đệ tử. Họ là niềm hy vọng của thế giới. Sự tuôn đổ của năng lượng định hướng này có nghĩa là một sự kích thích lớn đối với tất cả những người chí nguyện nhạy cảm và đáp ứng; kết quả không phải là dễ dàng cho họ. Mọi thứ trong họ được đưa lên bề mặt của tâm thức, và trong khi họ đang đối mặt với một cơ hội quan trọng và có lợi, họ cũng phải đối mặt với vấn đề là phải hấp thụ nhiều “hình phạt” (đó không phải là từ tôi muốn, các huynh đệ của tôi?) hơn là họ thường sẽ nhận. Liệu họ có tan tác dưới tác động của việc tự khám phá bản thân và cơ hội loại bỏ phàm ngã không? Hay họ sẽ vươn lên chiến thắng từ đống tro tàn của bản thân đã chết để trở thành sức sống và sự mỹ lệ?

Though Sanat Kumara is naturally unaware of the individual disciple or aspirant, He is not unaware of their massed effect, quality or status. Contact and relationship are based upon vibratory reaction, and the potency of the united vibration of the disciples and aspirants of the world is today—for the first time in human history—strong enough to reach Shamballa. This is a new and very interesting fact.

Mặc dù Đức Sanat Kumara đương nhiên không biết về từng người đệ tử hoặc người chí nguyện, nhưng Ngài không phải là không biết về ảnh hưởng tập thể, phẩm chất hoặc vị thế của họ. Sự tiếp xúc và mối quan hệ dựa trên phản ứng rung động, và sức mạnh của sự rung động thống nhất của các đệ tử và những người chí nguyện của thế giới ngày nay — lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại — đủ mạnh để chạm tới Shamballa. Đây là một thực tế mới và rất thú vị.

The Hierarchy therefore is:

Do đó, Thánh đoàn đang:

1. In a position of extreme tension.

1. Ở vị trí căng thẳng cực độ.

2. In a condition of quiescent waiting. It awaits:

2. Trong tình trạng chờ đợi yên lặng. Thánh đoàn đang chờ:

a. The decision which is on the verge of emanating from the judgment seat of Sanat Kumara.

a. Quyết định sắp được đưa ra từ vị trí phán quyết của Đức Sanat Kumara.

b. Notification as to the period and mode of the coming externalisation.

b. Thông báo về khoảng thời gian và phương thức của sự ngoại hiện đang tới.

c. The proposed influx into its ranks of disciples and aspirants.

c. Đề xuất dòng chảy vào hàng ngũ đệ tử và những người chí nguyện.

d. The reaction, later to be sensed by Them, of the massed use of the Great Invocation.

d. Phản ứng, sau này được Các Ngài cảm nhận, về việc sử dụng rộng rãi Đại Khấn nguyện.

e. The clear sounding of the invocative, though inchoate, [64] cry of the masses of those who are not yet even upon the Probationary Path.

e. Âm thanh rõ ràng của tiếng kêu cầu khẩn, mặc dù còn phôi thai, [64] của quần chúng, những người thậm chí còn chưa bước vào Con Đường Dự Bị.

3. Passing through a process of reorganisation. This involves the following:

3. Trải qua một quá trình tổ chức lại. Việc này liên quan đến những điều sau:

a. Senior disciples in the major Ashrams are now beginning to form subsidiary Ashrams, as I began to do in the year 1925.

a. Các đệ tử cao cấp trong các Đạo viện chính hiện đang bắt đầu hình thành các Đạo viện phụ, như tôi đã bắt đầu làm vào năm 1925.

b. Owing to the war and the intensive efforts of the world disciples, more people along many and varied lines are being reached.

b. Nhờ vào cuộc chiến và những nỗ lực chuyên sâu của các đệ tử thế giới, ngày càng nhiều người với nhiều đường lối khác nhau đang được tiếp cận.

c. The mode, methods and techniques of training (as I have earlier told you) are being remodelled and rearranged in order to suit the modern mind and needs.

c. Cách thức, phương pháp và kỹ thuật huấn luyện (như tôi đã nói với các bạn trước đó) đang được hiệu chỉnh và sắp xếp lại để phù hợp với tâm trí và những nhu cầu hiện đại.

d. Senior disciples are undergoing a forcing process to enable them more rapidly to take the initiation immediately ahead of them. This necessarily brings added strains and risks, sometimes even to the point of death, but also greater spiritual light and life.

d. Các đệ tử cao cấp đang trải qua một quá trình thúc đẩy để giúp họ nhanh chóng nhận cuộc điểm đạo ngay phía trước họ. Điều này tất yếu mang lại nhiều căng thẳng và rủi ro, đôi khi thậm chí đến cái chết, nhưng cũng mang lại ánh sáng tinh thần và sự sống lớn hơn.

4. At the entrance to the Way of the Higher Evolution, which is now more easily to be found, owing to the rapid construction of the antahkarana by enlightened souls functioning upon the physical plane and working desperately to aid humanity. Their spiritual desperation is what is needed to provide the required “point of tension” from whence the antahkarana can be built. There is a basic distinction between desperation and pessimism. Desperation is related to the time element and to a correct and discriminative perception of the need. Pessimism is related more to an unjust appraisement of the quality of humanity.

4. Ở lối vào Con đường Tiến hóa Cao Siêu, mà hiện nay dễ dàng tìm thấy hơn, nhờ vào việc xây dựng nhanh chóng antahkarana bởi những linh hồn đã giác ngộ hoạt động trên cõi vật lý và làm việc một cách liều lĩnh để trợ giúp nhân loại. Sự liều lĩnh về mặt tinh thần của họ là thứ cần để cung cấp “trụ điểm” cần thiết từ đó cầu antahkarana có thể được kiến tạo. Có một sự khác biệt cơ bản giữa liều lĩnh và bi quan. Sự liều lĩnh liên quan đến yếu tố thời gian, đến nhận thức đúng đắn và phân biện về nhu cầu. Chủ nghĩa bi quan có liên quan nhiều hơn đến sự đánh giá không công bằng về phẩm chất của loài người.

All these things are at this time characteristic of the Hierarchy. I would remind you that when you think of the Hierarchy you think in terms of the Masters (as most people do) or of the higher initiates. This is not correct. Every accepted disciple is within the periphery of the Hierarchy and of its influence, and—as I have frequently pointed out—all have in some past life taken the first initiation. Every disciple has [65] been to Bethlehem and has seen the Star in the East—that star which shines forth in fuller splendour each time another initiation is taken.

Tất cả những điều này là đặc trưng của Thánh đoàn vào thời điểm này. Tôi muốn nhắc các bạn rằng khi các bạn nghĩ về Thánh đoàn, các bạn sẽ nghĩ về những Chân sư (như hầu hết mọi người vẫn làm) hoặc về những điểm đạo đồ cao cấp hơn. Điều này không đúng. Mọi đệ tử chính thức đều nằm trong vùng ngoại vi của Thánh đoàn và ảnh hưởng của nó, và — như tôi đã thường xuyên chỉ ra — tất cả đều đã từng nhận được cuộc điểm đạo đầu tiên trong một kiếp trước nào đó. Mỗi đệ tử [65] đã từng đến Bethlehem và đã nhìn thấy Ngôi sao ở phương Đông — ngôi sao đó tỏa sáng rực rỡ hơn mỗi khi một cuộc điểm đạo khác được thực hiện.

The difference between such disciples as you and the more advanced initiates is that your basic orientation is different to that of the Masters. They are oriented to Shamballa; They are relatively unaffected by affairs and happenings in the three worlds, even though that is the sphere wherein Their work lies; there is nothing within Them to react to these phases of planetary livingness. Disciples and all initiates below the third initiation are oriented to the Hierarchy. Not the Council Chamber at Shamballa or the Way to the Higher Evolution engrosses their attention, but the life of the Ashram with which they are affiliated and the Way of Initiation. This is a useful point to bear in mind. There is much in them which can and will react to qualities and events within the three worlds, and—from the angle of the human consciousness—life for them is very difficult because the dualism of existence is apt to produce violent strain.

Sự khác biệt giữa những đệ tử như các bạn và những điểm đạo đồ cao cấp hơn là định hướng cơ bản của các bạn khác với định hướng của các Chân sư. Các Ngài hướng về Shamballa; các Ngài tương đối không bị ảnh hưởng bởi các sự việc và diễn biến trong ba cõi giới, mặc dù đó là lĩnh vực mà công việc của các Ngài nằm ở đó; không có gì bên trong các Ngài để phản ứng với những giai đoạn này của sự sống hành tinh. Các đệ tử và tất cả các điểm đạo đồ dưới cuộc điểm đạo thứ ba đều hướng về Thánh đoàn. Không phải Phòng Hội đồng ở Shamballa hay Con đường dẫn đến Sự Tiến Hóa Cao Hơn thu hút sự chú ý của họ, mà là cuộc sống của Đạo viện mà họ liên kết và Con đường Điểm đạo. Đây là một điểm hữu ích cần ghi nhớ. Có rất nhiều thứ trong họ có thể và sẽ phản ứng với những phẩm chất và sự kiện trong ba cõi giới, và — từ góc độ tâm thức của con người — cuộc sống đối với họ là rất khó khăn bởi vì tính nhị nguyên của sự tồn tại có khả năng tạo ra sự căng thẳng dữ dội.

The extreme psychical tension affecting the Hierarchy puts an undue strain upon the emotions and the mental mechanism of the disciple because he is, as yet, unable to achieve that “quiescent waiting” which distinguishes the higher initiates. The Will of God is not yet adequately factual in his consciousness; he is preoccupied with the attempt to make his personal will synchronise with the spiritual will of the soul—a very different matter. The reorganisation being planned at this time by the Hierarchy and by the ashramic groups affects the personal lives of disciples and their efforts at accepting training; with the proposed changes and with the results of the outer ashramic work they must fall in line and they must accept the changing curriculum. Forget not that disciples in this particular period have to make adjustments which are not easy. They have been taught in terms of the old tradition, perpetuated and summarised by the Theosophical, Rosicrucian and other occult groups; they have had, since 1900, to accept and work with the newer modes of training and the changing forms of teaching applied by the Masters Who take pupils. This has created temporary [66] difficulties which will not be present when the newer modes and methods are more generally established. The problem, therefore, of the modern disciple is peculiarly hard, and the Masters bear this ever in mind. Also the strain of the world cataclysm has increased these difficulties, and that strain is far more wide-reaching than is generally believed. Do you realise wherein the strain consists, apart from the physical disasters and chaos, with its agony, despair, anxiety, and its demand for a poised and efficient exterior to be presented to the world? Do you appreciate the keen ability of the trained disciple to react to the harrowing conditions of human suffering and to penetrate the controlled response which has to be given?

Sự căng thẳng tâm linh cực độ ảnh hưởng đến Thánh đoàn gây căng thẳng quá mức lên cảm xúc và cơ chế trí tuệ của người đệ tử bởi vì y vẫn chưa thể đạt được “sự chờ đợi tĩnh lặng” vốn phân biệt những điểm đạo đồ cao cấp hơn. Ý chí Thượng đế vẫn chưa đủ thật trong tâm thức của y; y bận tâm với nỗ lực làm cho ý chí cá nhân của mình đồng bộ với ý chí thiêng liêng của linh hồn — một vấn đề hoàn toàn khác. Việc tổ chức lại đang được lên kế hoạch vào thời điểm này bởi Thánh đoàn và bởi các nhóm đạo viện ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân của các đệ tử và nỗ lực của họ trong việc chấp nhận huấn luyện; với những thay đổi được đề xuất và với kết quả của công việc đạo viện bên ngoài, họ phải phù hợp và họ phải chấp nhận chương trình giảng dạy thay đổi. Đừng quên rằng các đệ tử trong thời kỳ đặc biệt này phải thực hiện những điều chỉnh không hề dễ dàng. Họ đã được dạy theo truyền thống cũ, những truyền thốgn được duy trì và đúc kết bởi các nhóm Thông thiên học, Hội Hoa Hồng và các nhóm huyền bí khác; kể từ năm 1900, họ đã phải chấp nhận và làm việc với các phương thức huấn luyện mới hơn và các hình thức giảng dạy thay đổi được áp dụng bởi các Chân sư có thu nhận đệ tử. Điều này đã tạo ra những khó khăn tạm thời [66] vốn sẽ không xuất hiện khi các phương thức và phương pháp mới hơn được thiết lập một cách tổng quát hơn. Do đó, vấn đề của người đệ tử hiện đại là đặc biệt khó khăn, và các Chân sư luôn ghi nhớ điều này. Ngoài ra, sự căng thẳng của biến động lớn thế giới đã làm gia tăng những khó khăn này, và sự căng thẳng đó còn lan rộng hơn nhiều so với người ta thường nghĩ. Ngoài những thảm họa vật chất và sự hỗn loạn, các bạn có nhận ra sự căng thẳng nằm ở đâu, với sự thống khổ, tuyệt vọng, lo lắng và nhu cầu của nó về một vẻ ngoài cân bằng và hiệu quả để biểu lộ với thế giới không? Các bạn có đánh giá cao khả năng nhạy bén của người đệ tử đã được huấn luyện để phản ứng với những điều kiện khó khăn của sự đau khổ của con người, và để thâm nhập vào phản ứng có kiểm soát, cần phải được đưa ra không?

There are also other factors of a more subjective nature to which the disciple is sensitive, and among them are the following:

Ngoài ra còn có những yếu tố khác có tính chất chủ quan hơn mà người đệ tử nhạy cảm, và trong số đó là những yếu tố sau:

1. The astral or emotional vortex which humanity has inevitably set up as a result of registered pain and through which the observing disciple must move.

1. Vòng xoáy cảm dục hoặc cảm xúc mà nhân loại chắc chắn đã thiết lập do kết quả của nỗi đau được ghi nhận, và vị đệ tử quan sát phải di chuyển xuyên qua đó.

2. The glamour induced upon the astral plane as the result of three intermingling and inflowing streams of energy:

2. Ảo cảm gây ra trên cõi cảm dục là kết quả của ba luồng năng lượng đan xen và chảy vào nhau:

a. The energies set in motion by the uprising cry of humanity itself, which inevitably shapes and moulds astral substance.

a. Các năng lượng được đưa vào chuyển động bởi tiếng kêu khóc trỗi dậy của chính con người, mà chắc chắn sẽ tạo hình và uốn nắn chất liệu cảm dục.

b. The new inflowing spiritual energies which the planetary Logos is steadily bringing to bear upon human life and upon all forms of physical existence. These must traverse or cut across the astral realm in reaching the physical plane.

b. Những nguồn năng lượng tinh thần mới tràn vào mà Hành Tinh Thượng đế đang đều đặn mang đến cho cuộc sống con người và trên tất cả các dạng tồn tại vật chất. Những năng lượng này phải đi ngang hoặc cắt ngang cõi cảm dục để đến cõi vật chất.

c. The retreating forces of evil which are endeavouring to make a last desperate stand upon the astral plane.

c. Các tà lực đang rút lui cố gắng tạo dựng một chỗ đứng tuyệt vọng cuối cùng trên cõi cảm dục.

These three types of force (when brought into relation with each other) are producing an unparalleled vortex of energy of which all disciples are necessarily aware, particularly those (and they are a large number) who are preparing for the second initiation. All disciples, working among their fellowmen, [67] are brought into contact with this astral whirlpool. (I would call the attention of D.E.I. to this fact because it accounts for his reaction during the past two years and has led him to relinquish his position in my outer work and to retire into a phase of living which will provide him with no true scope for his pledged experience and his years of training; this present phase is in the nature of a cul-de-sac. Eventually he will have to retrace his steps and admit the reality of the time lost—lost in the moment of humanity’s greatest need. Yet he will retrace his steps. I mention this as it is a typical instance of the effects of this glamour.)

Ba loại lực này (khi có mối quan hệ với nhau) đang tạo ra một luồng xoáy năng lượng vô song mà tất cả các đệ tử nhất thiết phải nhận thức được, đặc biệt là những người (và họ là một số lượng lớn) đang chuẩn bị cho lần điểm đạo thứ hai. Tất cả các đệ tử, làm việc giữa các đồng môn của họ, [67] đều được đưa vào tiếp xúc với vòng xoáy cảm dục này. (Tôi muốn gọi sự chú ý của D.E.I đến thực tế này vì nó giải thích cho phản ứng của ông trong suốt hai năm qua, và đã khiến ông ấy từ bỏ vị trí của mình trong công việc bên ngoài của tôi và rút lui vào một giai đoạn sống vốn sẽ không cung cấp cho ông cơ hội thực sự đối với kinh nghiệm đã cam kết và những năm huấn luyện của ông ấy; giai đoạn hiện tại này mang tính chất của một bước đường cùng. Cuối cùng ông ấy sẽ phải trở lại con đường cũ của mình và thừa nhận thực tế về thời gian đã mất — đã mất trong thời điểm cần thiết nhất của nhân loại. Tuy nhiên, ông ấy sẽ đi lại con đường cũ của mình. Tôi đề cập đến điều này vì nó là một ví dụ điển hình về ảnh hưởng của ảo cảm này).

3. The stimulation to which the lower vehicles of a disciple are unavoidably subjected. This evokes a full expression of all his inherent qualities, both good and bad. Everything in his nature is intensified, and the more mental he may be, the more he is consciously aware of these revelations. If his orientation is towards his life expression in the three worlds, a phase of depression, of self-accusation and frequently of doubt may have to be endured, thus handicapping his general usefulness.

3. Sự kích thích mà các vận cụ thấp hơn của một đệ tử không thể tránh khỏi. Điều này gợi lên sự biểu hiện đầy đủ tất cả những phẩm chất vốn có của y, cả tốt lẫn xấu. Mọi thứ trong bản chất của y được tăng cường, và y càng trí tuệ, y càng nhận thức một cách có ý thức về những điều được tiết lộ này. Nếu định hướng của y là biểu hiện cuộc sống của y trong ba cõi giới, thì y có thể phải chịu đựng một giai đoạn trầm cảm, tự buộc tội và thường xuyên nghi ngờ, do đó làm mất đi tính hữu dụng chung của y.

4. The evocation of a strong sense of the soul within the personality. An emphasis upon the attitude of the soul to the personality life may also be induced and may prove very misleading. It would appear from the (apparently) voiced expression of soul comment, criticism, encouragement and planning that the main interest of the soul is with the dedicated personality. Such is not the case. The soul is very little aware of the personality nature, its disposition and ideas. The soul can be conscious of the limitations within the personality and of the barriers opposed to the inflow of soul energy, but the details are of no interest to the soul. The soul is occupied with recognising hierarchical planning, with registering world need, and with responding (faintly, very faintly at first) to the developing monadic inflow. These attitudes and reactions of the soul (upon its own plane of being) affect profoundly and fundamentally the personality life and produce those basic changes which evoke the vocation of the disciple. The disciple is occupied with vocation and not so much with evocation. (I would call this to the attention of [68] D.H.B. This type of evoked response is in the nature of illusion. He will know to what I am referring.)

4. Việc gợi lên một cảm giác mạnh mẽ về linh hồn bên trong phàm ngã. Cũng có thể phát sinh một sự nhấn mạnh vào thái độ của linh hồn đối với đời sống phàm ngã, và điều này có thể gây hiểu lầm rất nhiều. Có vẻ như từ biểu hiện (bề ngoài) được thốt lên của nhận xét linh hồn, phê bình, khuyến khích, và lập kế hoạch mà sự quan tâm chính yếu của linh hồn là với phàm ngã tận tâm. Điều này không phải vậy. Linh hồn nhận thức rất ít về bản chất phàm ngã, khuynh hướng và ý tưởng của nó. Linh hồn có thể nhận thức được những giới hạn bên trong phàm ngã và những rào cản đối lập với luồng năng lượng linh hồn, nhưng những chi tiết này linh hồn không quan tâm đến. Linh hồn bận rộn với việc nhận biết kế hoạch Thánh đoàn, với việc ghi nhận nhu cầu của thế giới, và với việc đáp ứng (lúc đầu mờ nhạt, rất mờ nhạt) đối với dòng lưu nhập của chân thần đang phát triển. Những thái độ và phản ứng này của linh hồn (trên cõi tồn tại của chính nó) ảnh hưởng sâu xa và căn bản đến đời sống phàm ngã và tạo ra những thay đổi căn bản gợi lên thiên hướng của người đệ tử. Người đệ tử bận rộn với thiên hướng chứ không bận tâm nhiều đến việc gợi lên (thiên hướng – ND). (Tôi muốn kêu gọi D.H.B. chú ý tới điều này. Loại phản ứng gợi lên này có bản chất của ảo tưởng. Ông ấy sẽ biết những gì tôi đang đề cập đến.)

5. The danger of “Imperil,” as the Master Morya has called it. This is somewhat erroneously interpreted as irritation by the neophyte, but it is not in fact irritation in the ordinary connotation of the word. The surface ripples of ordinary irritation and the evanescent angers to which all disciples are prone are relatively of small importance. They pass and, in the sum total of the soul’s attitudes to the personality, evoke no response or registration whatsoever. What is referred to is the reaction of the disciple to world evil. This produces uncertainty as to the future, annoyance at what is being done throughout the planet by non-disciples, criticism of national and international planning and a general atmosphere of unhappiness, plus a sense of superior knowledge. All this is expressed in a negative, unconstructive manner.

5. Sự nguy hiểm của “Imperil” (“Bực dọc”), như Chân sư Morya đã gọi nó. Điều này phần nào bị giải thích sai lạc bởi người tân môn sinh, nhưng trên thực tế nó không phải là sự khó chịu theo nghĩa thông thường của từ này. Những gợn sóng ngoài mặt của sự khó chịu thông thường và những cơn giận dữ nhất thời mà tất cả các đệ tử đều mắc phải đều có tầm quan trọng tương đối nhỏ. Chúng đi qua và, trong thái độ tổng quan của linh hồn đối với phàm ngã, không gợi lên bất kỳ phản ứng hoặc ghi nhận nào. Những gì được đề cập đến là phản ứng của người đệ tử đối với tội ác thế gian. Điều này tạo ra sự không chắc chắn về tương lai, sự khó chịu về những gì đang được thực hiện trên khắp hành tinh bởi những người không phải là đệ tử, những lời chỉ trích về kế hoạch quốc gia và quốc tế và bầu không khí bất hạnh chung, cộng với ý thức về kiến ​​thức vượt trội. Tất cả điều này được thể hiện một cách tiêu cực, không mang tính xây dựng.

To this many disciples are today prone; they need to realise that world affairs are not and cannot be moulded or determined by any hierarchical knowledge in the possession of the disciple. World affairs and conditions have necessarily to be based upon the demand and the point in evolution of the mass of humanity, working through their representatives, chosen or imposed, in every country. This demand can be and is affected, modified and spiritualised by the attitude and the teaching of disciples everywhere who are vocal and of humanitarian instinct. If, however, the will and knowledge of disciples in all nations were to condition world affairs and control entirely the political, economic and social life of the people, it would produce a far more serious cleavage than now exists, for instance between the rich and the poor, or between the classes and the castes. It would produce a pronounced line of demarcation between the Kingdom of God and the kingdom of men. This would run counter to hierarchical intention, which is rapidly healing the existent breach, and thus offset the work which Christ set out to do on Earth. This point is often overlooked by well-intentioned disciples. It is humanity which determines its own destiny. Disciples point the way, indicate the vision, set a needed example and emphasise the ancient landmarks. [69]

Ngày nay, nhiều đệ tử có khuynh hướng này; họ cần phải nhận ra rằng các vấn đề thế giới không và không thể được nhào nặn hay xác định bởi bất kỳ kiến ​​thức về thánh đoàn nào mà người đệ tử sở hữu được. Các vấn đề và điều kiện thế giới nhất thiết phải dựa trên nhu cầu và mức độ tiến hóa của quần chúng nhân loại, làm việc thông qua các đại diện của họ, được lựa chọn hoặc áp đặt, ở mọi quốc gia. Nhu cầu này có thể bị ảnh hưởng, bị sửa đổi và bị tinh thần hoá bởi thái độ và sự dạy dỗ của các đệ tử ở khắp mọi nơi, những người có tiếng nói và bản năng nhân đạo. Tuy nhiên, nếu ý chí và kiến ​​thức của các đệ tử ở tất cả các quốc gia qui định các vấn đề thế giới và kiểm soát hoàn toàn đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của con người, thì điều đó sẽ tạo ra một sự chia rẻ nghiêm trọng hơn nhiều so với hiện tại, chẳng hạn như giữa người giàu và người nghèo, hoặc giữa các giai cấp và tầng lớp. Nó sẽ tạo ra một ranh giới rõ ràng giữa Vương quốc của Thượng đế và vương quốc của loài người. Điều này sẽ đi ngược lại ý định của Thánh đoàn, vốn đang nhanh chóng hàn gắn sự rạn nứt đang tồn tại, và do đó hóa giải công việc mà Đức Christ đã đặt ra để thực hiện trên Trái đất. Điểm này thường bị các đệ tử có thiện ý bỏ qua. Chính nhân loại quyết định vận mệnh của chính mình. Các đệ tử chỉ đường, chỉ ra tầm nhìn, nêu gương cần thiết và nhấn mạnh vào các cột mốc cổ xưa. [69]

A realisation of these few points which I have chosen to enumerate out of many, will indicate to you the difficulties with which disciples are today confronted—each of you among the many who are also struggling to meet human need in a modern world.

Nhận thức được một vài điểm mà tôi đã chọn để liệt kê trong số nhiều điểm này, sẽ chỉ ra cho các bạn những khó khăn mà các đệ tử ngày nay đang phải đương đầu — mỗi người trong các bạn, trong số rất nhiều người cũng đang phải vật lộn để đáp ứng nhu cầu của con người trong một thế giới hiện đại.

As a group of ashramic affiliates, you (together with disciples everywhere) are all reacting to this inflow of energies, and with consequent conflict; with some of you it has produced a definite crisis and one that you have not yet resolved; with one or two of you in this group, it has led to a seething inner turmoil accompanied by an overemphasised introspection. This will be apt (if too protracted) to hinder your exoteric service. It is needless to remark that all of you need to become so sensitive to the quality of my Ashram, and so preoccupied with the opportunity to serve which confronts every disciple these days, that your own personal development, your unique problem (so regarded by you) and your reactions should be forgotten. You need to remember that you are not as interesting to your soul as you may think.

Như một nhóm liên kết với Đạo viện, các bạn (cùng với các đệ tử ở khắp mọi nơi) đều đang phản ứng với dòng năng lượng này, và do đó là xung đột; với một số bạn, nó đã tạo ra một cuộc khủng hoảng rõ ràng và một cuộc khủng hoảng mà các bạn vẫn chưa giải quyết được; với một hoặc hai bạn trong nhóm này, điều đó đã dẫn đến sự xáo trộn nội tâm sôi sục kèm theo sự tự soi quá mức. Điều này sẽ có khuynh hướng (nếu kéo dài quá) cản trở việc phụng sự bên ngoài của các bạn. Không cần phải lưu ý rằng tất cả các bạn cần phải trở nên quá nhạy bén với phẩm chất của Đạo viện của tôi, và quá bận tâm với cơ hội phụng sự mà mọi đệ tử đối mặt ngày nay, đến mức sự phát triển cá nhân của chính các bạn, vấn đề đặc thù của các bạn (được các bạn coi trọng) và phản ứng của các bạn nên được lãng quên. Các bạn cần nhớ rằng linh hồn các bạn không quá chú ý đến các bạn như các bạn vẫn nghĩ.

From the angle of the Master, it is the ability of the soul to control its instrument, the personality, and to work through it, that is of interest; it is for these types of ability that He looks, and not at the reaction of the personality. This is hard, if not humiliating, for the disciple to remember. The more engrossed he is with his personal responsiveness and capacities, the more impenetrable the barriers he is setting up between himself (upon the physical plane) and his soul; as a result of this, barriers are then being set up between the disciple and the life of the Ashram of which he is intended to form a part. Have this in mind and be, therefore, so occupied with the life of the soul that you have no time for personality introspection. The pure life of the soul will galvanise the centres above the diaphragm into activity, and your lives will become simple and uncomplicated expressions of the second aspect of divinity—of which all Ashrams are focal points.

Từ góc độ của Chân sư, điều đáng quan tâm đó là khả năng của linh hồn để điều khiển công cụ phàm ngã của nó và làm việc thông qua nó; đó là những loại năng lực mà Ngài nhìn đến, chứ không phải ở phản ứng của phàm ngã. Điều này thật khó, nếu không muốn nói là xấu hổ, để đệ tử phải ghi nhớ. Y càng hăng say với phản ứng và những năng lực cá nhân của mình, thì những rào cản mà y đang thiết lập giữa bản thân (trên cõi vật lý) và linh hồn của y càng không thể xuyên thủng; hệ quả là, các rào cản sau đó được thiết lập giữa người đệ tử và cuộc sống của Đạo viện mà y dự định sẽ là một phần. Do đó, hãy ghi nhớ điều này và bận rộn với cuộc sống linh hồn đến mức các bạn không còn thời gian để soi rọi phàm ngã. Cuộc sống thuần khiết của linh hồn sẽ kích thích các luân xa phía trên hoành cách mô hoạt động, và cuộc sống của các bạn sẽ trở thành những biểu hiện đơn giản và không phức tạp của trạng thái thiêng liêng thứ hai — mà tất cả các Đạo viện đều là tiêu điểm.

As you know, it is not my intention to give you any more personal instructions; you no longer need them during the rest of this life, because if you carry out those already given [70] there will be nothing to hinder your taking the initiation which is for you the next step forward. Do you realise the import of what I am saying? This initiation which confronts you can be taken either during the remaining years which are left to you; this, in the majority of cases is not probable, though a small minority—a very small minority—may achieve the goal. Or initiation may be taken in the interim period between incarnations, or else immediately upon return to physical plane life. This latter is the most probable for those who are not taking initiations higher than the third; and, at present, for that initiation I am not preparing disciples. It is usually regarded as essential that disciples who are taking the second or third initiations should register them in their brain consciousness. As I have often told you, the initiate consciousness is not the factor which requires to be thus recorded; it is seldom so. Recognition of it comes when the candidate is participating in the “esoteric installation” of a candidate into the ranks of the Great White Lodge. What the disciple undergoing initiation (and I choose the word “undergoing” with deliberation) must and eventually does record are the crises which brought about his fitness to take initiation, as it is erroneously called in theosophical circles. These, correctly handled and surmounted, will result in his being an initiate—a very different interpretation to the current theosophical one. As I often told you, a man is an initiate, prior to any initiation ceremony. The ceremony concerns hierarchical recognition of the disciple and does not concern the candidate’s fitness. I find it needful to reiterate this fact.

Như các bạn đã biết, tôi không có ý định cung cấp cho các bạn thêm bất kỳ hướng dẫn cá nhân nào; các bạn không còn cần đến chúng trong suốt phần đời còn lại của kiếp sống này, bởi vì nếu các bạn thực hiện những điều đã được ban cho rồi [70] thì sẽ không có gì cản trở các bạn thực hiện cuộc điểm đạo, đó là bước tiếp theo cho các bạn. Các bạn có nhận ra tầm quan trọng của những gì tôi đang nói không? Cuộc điểm đạo mà các bạn đối diện có thể được thực hiện trong những năm còn lại của các bạn; điều này, trong đa số trường hợp là không thể xảy ra, mặc dù một thiểu số nhỏ — một thiểu số rất nhỏ — có thể đạt được mục tiêu. Hoặc việc điểm đạo có thể được thực hiện trong khoảng thời gian tạm thời giữa các lần hóa thân, hoặc ngay sau khi trở lại cuộc sống cõi vật chất. Điều thứ hai có thể xảy ra nhất đối với những người đang không nhận được điểm đạo cao hơn cấp độ thứ ba; và, hiện tại, tôi không chuẩn bị cuộc điểm đạo đó cho các đệ tử. Điều cần thiết là các đệ tử đang thực hiện các cuộc điểm đạo thứ hai hoặc thứ ba nên ghi nhận chúng vào tâm thức não bộ của họ. Như tôi đã thường nói với các bạn, tâm thức điểm đạo đồ không phải là yếu tố cần phải được ghi lại như vậy; nó hiếm khi như vậy. Sự công nhận nó đến khi ứng viên đang tham gia vào “sự sắp đặt bí truyền” của một ứng cử viên trong hàng ngũ của Bạch Đoàn Giai. Điều mà người đệ tử đang trải qua cuộc điểm đạo (và tôi chọn từ “đang trải qua” với sự cân nhắc) cần phải và cuối cùng ghi nhớ là những khủng hoảng mang đến cho y sự phù hợp để thực hiện cuộc điểm đạo, như nó được gọi một cách sai lầm trong giới thông thiên học. Những điều này, nếu được xử lý và vượt qua một cách đúng đắn, sẽ dẫn đến việc y trở thành một điểm đạo đồ — một cách giải thích rất khác với cách giải thích của thông thiên học hiện tại. Như tôi thường nói với các bạn, một người là một điểm đạo đồ, trước bất kỳ nghi lễ điểm đạo nào. Buổi lễ liên quan đến sự công nhận thứ bậc của đệ tử và không liên quan đến sự thích hợp của ứng viên. Tôi thấy cần phải nhắc lại sự thật này.

The planetary crises through which the planetary Logos is at this time passing should result in the emergence of many initiates; no true disciple is exempt from the effects of this planetary situation. Inevitably, changes are wrought by the soul in the personal life. When these changes are focussed through the lower centres and the lower bodies, the general result is purification and character building. The aspirant is then still upon the Probationary Path. When the disciple is in the position where he can pass through the first three initiations, then the inflowing energies work through the heart, [71] the throat and the ajna centres; when the highest head centre and the lowest spinal centre are simultaneously involved, the disciple is then able to take the higher major initiations. Much of this has been given you in the earlier teaching you have received, but I repeat these statements, so that with clarity you may proceed.

Các cuộc khủng hoảng hành tinh mà Hành Tinh Thượng đế tại thời điểm này đi qua sẽ dẫn đến sự xuất hiện của nhiều điểm đạo đồ; không có đệ tử chân chính nào được miễn trừ khỏi những ảnh hưởng của tình trạng hành tinh này. Không thể tránh khỏi những thay đổi được tạo ra bởi linh hồn trong cuộc sống cá nhân. Khi những thay đổi này được tập trung thông qua các luân xa thấp và các thể bên dưới, thì kết quả chung là sự thanh lọc và lập hạnh. Người chí nguyện khi đó vẫn ở trên Con đường Dự bị. Khi đệ tử ở vào vị trí mà y có thể vượt qua ba lần điểm đạo đầu tiên, thì các năng lượng tràn vào sẽ hoạt động qua luân xa tim, [71] luân xa cổ họng và luân xa ajna; khi luân xa đỉnh đầu cao nhất và luân xa đáy cột sống thấp nhất đồng thời được bao gồm, thì người đệ tử có thể thực hiện những cuộc điểm đạo chính cao hơn. Phần lớn điều này đã được trao cho các bạn trong huấn thị trước đó mà các bạn đã nhận được, nhưng tôi lặp lại những tuyên bố này, để các bạn có thể tiếp tục một cách rõ ràng.

One of you asked a question concerning divine intervention as a result of prayer, and I would point out that there is a distinction between Divine Intervention and Answered Prayer. One admits of reciprocal energies, the other predicates action from above only. The measure of success in either case is dependent upon humanity as a whole. Classically the body is not equipped to receive the fire, until consciousness is importuned to racial need. This is secondary to Divine Intervention which isolates the few and uses their organism to fuse and free the energies of dispersion. This is sudden death to the physical vehicle if unprepared. Think upon this and know the consequences of emotional fanaticism.

Một trong số các bạn đã hỏi một câu hỏi liên quan đến sự can thiệp thiêng liêng như là kết quả của lời cầu nguyện, và tôi sẽ chỉ ra rằng có sự khác biệt giữa sự Can thiệp Thiêng liêng và sự Cầu nguyện được Hồi đáp. Một bên thừa nhận năng lượng tương hỗ, bên còn lại chỉ xác nhận hành động từ phía trên. Thước đo thành công trong cả hai trường hợp đều phụ thuộc vào nhân loại như là một tổng thể. Về mặt kinh điển, cơ thể không được trang bị để tiếp nhận ngọn lửa cho đến khi tâm thức được thúc bách nhập bởi nhu cầu nhân loại . Điều này là thứ yếu so với Sự can thiệp Thiêng liêng vốn cô lập một số ít và sử dụng cơ thể của họ để hợp nhất và giải phóng các năng lượng phân tán. Đây là cái chết đột ngột đối với vận cụ vật lý nếu không được chuẩn bị. Hãy suy nghĩ về điều này và nhận biết hậu quả của sự cuồng tín cảm xúc.

There are three ways whereby the inception may come:

Có ba cách mà sự can thiệp có thể xảy ra:

1. Disciples aware of their charge, relinquish all personal ambition and are willing to meet the test and be used. For, be not surprised my brother, a disciple can meet the test if he will. Accepted discipleship is in itself a guarantee of a certain amount of preparedness administered through right devotion, pure purpose and rigid discipline.

1. Môn sinh nhận thức được trách nhiệm của mình, từ bỏ mọi tham vọng cá nhân và sẵn sàng đáp ứng các thử thách và được sử dụng. Vì, hỡi huynh đệ của tôi, đừng ngạc nhiên, một đệ tử có thể gặp thử thách nếu y muốn. Bản thân việc trở thành đệ tử được chấp nhận là sự đảm bảo cho một mức độ chuẩn bị nhất định được thực hiện thông qua sự tận tâm đúng đắn, mục đích trong sáng và kỷ luật nghiêm khắc.

2. The focussed intent of the hard pressed peoples of the world clamouring for peace, forms a nucleus of unregenerate energy which can and will be used. It is less potent in effect, but in these days of crisis everything must be used.

2. Mục đích tập trung tâm của các dân tộc bị áp bức nặng nề trên thế giới đang kêu gọi hòa bình, tạo thành một năng lượng hạt nhân chưa được tái tạo vốn có thể và sẽ được sử dụng. Hiệu quả của nó kém hơn, nhưng trong những ngày khủng hoảng này, mọi thứ đều phải được sử dụng.

3. Every kingdom on earth is encumbered with shock—animal, vegetable, mineral, as well as human. This disturbance is a phase of promotion. There are crashed areas of released energy, causing forces to be freed which again can and will be used in the reconstruction. [72]

3. Mọi giới tự nhiên trên trái đất — động vật, thực vật, khoáng sản, cũng như con người đều phải đối mặt với cú sốc. Sự xáo trộn này là một giai đoạn của sự thăng tiến. Có những vùng năng lượng được giải phóng bị sụp đổ, khiến cho các mãnh lực được giải phóng một lần nữa có thể và sẽ được sử dụng trong sự tái thiết. [72]

The responsibility of this group is purpose. It is will fused and blended and dispersed. I charge you to waste no time in idle speculation, but to carry your responsibility as it should be carried, remembering that your only value is group determined. Placement determines effort (I suggest that you analyse this statement). Consequences are hierarchical. There is lowered vitality in the world today due to a fear psychosis.

Trách nhiệm của nhóm này là mục đích. Nó là ý chí được hợp nhất được hoà trộn và được phân tán. Tôi yêu cầu các bạn đừng lãng phí thời gian vào những suy đoán vu vơ, mà hãy thực hiện trách nhiệm của mình như những gì cần phải thực hiện, hãy nhớ rằng giá trị duy nhất của các bạn là do nhóm xác định. Vị trí xác định nỗ lực (tôi khuyên các bạn nên phân tích câu này). Các hậu quả có thứ bậc. Ngày nay, sức sống trên thế giới bị suy giảm do chứng rối loạn tâm thần sợ hãi.

Command your forces, stand in the Light, and the suspended mental link will recharge the magnetic field for which you, as a group, are responsible. The fusion exists in a small degree now, but Purpose is the magnetised line along which the fire may travel.

​​​​Hãy điều khiển mãnh lực của các bạn, đứng trong Ánh sáng, và liên kết trí tuệ lơ lửng sẽ nạp lại từ trường mà các bạn, với tư cách là một nhóm, chịu trách nhiệm. Hiện tại sự hợp nhất tồn tại ở một mức độ nhỏ, nhưng Mục đích là con đường từ tính mà ngọn lửa có thể lan theo.

You have preserved your interest and effort for many years now. Can you continue with this enterprise? It is for you a task of perseverance and of faith. You may not in your various lifetimes see the world results. That I frankly tell you. You can undoubtedly realise and reap the benefit of the group results, for your fusion into one close bond of brotherhood and devotion, into one united band treading the Path together is adequate reward. It will offset the usual loneliness of the disciple’s way and enable him to realise that he travels not alone.

Các bạn đã giữ gìn sự quan tâm và nỗ lực của mình trong nhiều năm nay. Các bạn có thể tiếp tục với sự nghiệp này không? Đối với các bạn thì đó là một thử thách của lòng kiên trì và niềm tin. Các bạn có thể không nhìn thấy những kết quả của thế giới trong nhiều kiếp sống khác nhau. Tôi thẳng thắn nói với các bạn điều đó. Các bạn chắc chắn có thể nhận ra và gặt hái lợi ích từ kết quả của nhóm, vì sự hợp nhất của các bạn thành một mối liên kết chặt chẽ của tình huynh đệ và sự tận tâm, thành một nhóm thống nhất cùng nhau đi trên đường Đạo là phần thưởng xứng đáng. Nó sẽ hóa giải sự cô đơn thường thấy trên con đường của người đệ tử và giúp y nhận ra rằng y không đi đơn độc.

Above and beyond your personal compensation (which some of you know already to be your group relation and its persistence) will be the building of an aspect of the mechanism of contact and of approach which can be known and seen by Us from the other side of life, but which has to be largely taken on faith by you. It might be regarded as the mechanism of inspiration, for—in the last analysis—it is individual and world inspiration which is the goal of all our work. This mechanism is a subjective fact, and is slowly built as disciples aspire and serve and obey. It is an individual mechanism, and a group mechanism, and will eventually form part of the mechanism of humanity, viewing it as a whole and as the fourth kingdom in nature. This kingdom is destined to act as a transmitter of force, of energy and life and of inspiration to the three subhuman kingdoms. It is this mechanism which [73] will constitute the bridge between the fourth and fifth kingdoms. It is the individual and the group antahkarana.

Vượt lên trên lợi ích cá nhân của các bạn (mà một số bạn đã biết đó là mối quan hệ nhóm của các bạn và sự bền bỉ của nó) sẽ là việc xây dựng một khía cạnh của cơ chế tiếp xúc và tiếp cận vốn được Chúng tôi biết và nhìn thấy từ phía bên kia của cuộc sống, nhưng nó phần lớn phải dựa vào niềm tin của các bạn. Nó có thể được coi là cơ chế truyền cảm hứng, vì trong phân tích cuối cùng này chính cảm hứng cá nhân và cảm hứng thế giới là mục tiêu của mọi công việc của chúng ta. Cơ chế này là một thực tại chủ quan, và được xây dựng từ từ khi các đệ tử khao khát, phụng sự và tuân thủ. Nó là một cơ chế cá nhân, và là một cơ chế nhóm, và cuối cùng sẽ tạo thành một phần của cơ chế nhân loại, coi nó như một tổng thể và như giới thứ tư trong tự nhiên. Giới này được định sẵn để hoạt động như một trung gian truyền chuyển mãnh lực, năng lượng và sự sống cũng như nguồn cảm hứng cho ba giới dưới nhân loại. Chính cơ chế này [73] sẽ tạo thành cầu nối giữa giới thứ tư và giới thứ năm. Nó là cầu antahkarana cá nhân và nhóm.

I am going to change your full moon work a little. Proceed as heretofore, but as you stand with me before the “open window”’ and prior to the attempt to hear me speak the words which I may have for you, imagine yourselves as bathed in a vivid butter-coloured living light which is pouring through the open window and enveloping the group. Note, as this happens, which centre responds or registers the vibration and stimulation or any phenomena of any kind, and then record this upon your monthly reports. I am also going to change the words spoken and am choosing phrases which will convey a pictorial connotation to your minds; in this way the power of visualisation will be evoked and aid you in registering what I say. Here are the phrases among which I shall choose one for each full moon contact.

Tôi sẽ thay đổi công việc ngày trăng tròn của các bạn một chút. Hãy tiếp tục như trước đây, nhưng khi các bạn đứng với tôi trước “cửa sổ đang mở” và trước khi cố gắng nghe tôi nói những lời mà tôi có thể dành cho các bạn, hãy tưởng tượng mình như được tắm trong một ánh sáng sống động màu bơ [vàng nhạt] đang tuôn đổ qua cửa sổ đang mở và bao bọc nhóm. Hãy lưu ý rằng khi điều này xảy ra, luân xa nào đáp ứng hoặc ghi nhận sự rung động và sự kích thích hoặc bất kỳ hiện tượng nào thuộc bất kỳ loại nào, thì sau đó hãy ghi nó vào phúc trình hàng tháng của các bạn. Tôi cũng sẽ thay đổi những từ được nói và đang chọn những cụm từ sẽ truyền tải ý nghĩa hình ảnh vào tâm trí các bạn; bằng cách này, sức mạnh của thuật hình dung sẽ được khơi gợi và giúp các bạn ghi lại những gì tôi nói. Dưới đây là những cụm từ mà trong đó tôi sẽ chọn một cho mỗi lần tiếp xúc vào kỳ trăng tròn.

1. The golden lotus of the heart.   7. The triangle of fire.

1. Bông sen vàng của trái tim. 7. Tam giác lửa.

2. The burning ground of fiery red.  8. The golden way to God.

2. Vùng đất cháy đỏ rực lửa. 8. Con đường vàng đến với Thượng đế.

3. The mountain top, bathed in the morning sunrise. 9. The ocean and the rocky shore.

3. Đỉnh núi, tắm mình trong ánh bình minh ban mai. 9. Đại dương và bờ đá.

4. The uplifted hand.    10. The silver torch

4. Bàn tay nâng cao. 10. Ngọn đuốc bạc

5. The equal four-armed cross.   11. The iridescent cube.

5. Hình chữ thập bốn cánh bằng nhau. 11. Khối lập phương ánh kim.

6. The open door.    12. The burning bush.

6. Cánh cửa mở. 12. Bụi cây cháy.

I shall picture these to you and name them in your hearing. Note whether you can both see and hear.

Tôi sẽ hình dung những điều này cho các bạn và gọi tên chúng trong khi các bạn đang nghe. Hãy lưu ý xem các bạn có thể vừa nhìn và vừa nghe hay không.

My blessing rests upon you and together we go forward into the future.

Gửi đến các bạn lời chúc phúc của tôi và chúng ta cùng nhau tiến tới tương lai.

Commentary #32  [Đến Bình Giảng]

June 1946

Tháng 6 năm 1946

MY BROTHERS:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

The papers which I am at this time sending out to you are perhaps the most important which you have ever received. [74] This is so—not from the teaching angle—but from the angle of the Ashram with which you are affiliated.

Những tài liệu mà tôi đang gửi cho các bạn vào thời điểm này có lẽ là quan trọng nhất mà các bạn từng nhận được. [74] Điều này không phải từ góc độ huấn thị mà là từ góc độ của Đạo viện mà các bạn đang được liên kết.

I would like to start by emphasising the fact of your affiliation, because it is a subjective relation with which nothing can permanently interfere. There may come these interludes (where neophytes are concerned) when the relationship seems severed, and others wherein the disciple appears to be making no progress at all and has nothing to contribute to the life of the Ashram. But—in the turning of the wheel of life—lessons are learnt, and usefulness returns.

Tôi muốn bắt đầu bằng cách nhấn mạnh sự thực về sự liên kết của các bạn, bởi vì nó là một mối quan hệ nội tại mà không gì có thể vĩnh viễn can thiệp. Những quãng thời gian chuyển tiếp này có thể sẽ xuất hiện (đối với tân môn sinh) khi mà mối quan hệ dường như bị cắt đứt, và những quãng thời gian khác trong đó người đệ tử dường như không tiến bộ chút nào và không đóng góp được gì cho đời sống của Đạo viện. Nhưng — trong vòng quay của bánh xe cuộc sống — các bài học sẽ được rút ra và sự hữu ích sẽ quay trở lại.

I would like to ask you to read this with care, with detachment, with undimmed aspiration, and with the realisation that this present life is but a minute in the life of the soul. This life is, however, of major importance in the life of some of you; it is of focussing importance in the life of a few; it is of testing importance for some.

Tôi yêu cầu các bạn đọc nó một cách cẩn thận và không bám chấp, với khát vọng không suy giảm, và với nhận thức rằng kiếp sống hiện tại này chỉ là một phút trong đời sống của linh hồn. Tuy nhiên, đối với một số bạn thì kiếp sống này có tầm quan trọng lớn lao; đối với một số ít khác nó có tầm quan trọng tập trung; và đối với một vài bạn khác thì nó có tầm quan trọng thử nghiệm.

I have now definitely decided to disband the New Seed Group. My experiment in reorganising the earlier groups into one large group has not succeeded. I have told you frequently that the Hierarchy itself does not know what decisions humanity will make in world affairs, or if mankind will profit from proffered opportunity. Equally so, the Master of an Ashram does not know what “disciples on the periphery” of an Ashram will do, because their training and testing is only in process. He does know what the accepted disciple, admitted freely into ashramic intimacy, will do in any given circumstance, because he has been tested and tried and the Master knows that there are certain things which he will not do.

Bây giờ tôi đã chắc chắn quyết định giải tán Nhóm Hạt giống Mới. Thử nghiệm của tôi trong việc tổ chức lại các nhóm trước đó thành một nhóm lớn đã không thành công. Tôi đã thường xuyên nói với các bạn rằng bản thân Thánh đoàn không biết nhân loại sẽ đưa ra quyết định gì trong các vấn đề thế giới, hoặc liệu nhân loại có được lợi ích từ cơ hội được tạo ra hay không. Tương tự như vậy, Chân sư của một Đạo viện không biết những “đệ tử ở ngoại vi” của một Đạo viện sẽ làm gì, bởi vì họ vẫn đang trong quá trình huấn luyện và kiểm tra. Ngài biết người đệ tử được chấp nhận, được tự do bước vào nơi riêng tư của đạo viện, sẽ làm gì trong bất kỳ hoàn cảnh nào, bởi vì y đã được kiểm tra và thử thách, và Chân sư biết rằng có những điều y sẽ không làm.

This experiment with the New Seed Group has lasted five years. The earlier experiment with the groups lasted ten years. These experiments were undertaken in the most difficult period of the world’s history and during a particular time of stress and strain. Of this I am not unmindful.

Thử nghiệm này với Nhóm Hạt giống Mới đã kéo dài 5 năm. Thử nghiệm trước đó với các nhóm đã kéo dài mười năm. Những thử nghiệm này được thực hiện trong thời kỳ khó khăn nhất của lịch sử thế giới và trong một thời điểm áp lực và căng thẳng đặc biệt. Tôi không phải là không quan tâm đến điều này.

I am disbanding this group exoterically on four counts:

Tôi đang giải tán nhóm này về phương diện ngoại môn dựa trên bốn lý do:

1. (Deleted by A.A.B.)

1. (Được xóa bởi A.A.B.)

2. In spite of many years of work with me, the group is not yet integrated and has produced no particular spiritual [75] enterprise. I have indicated many spiritual enterprises which called for your full measure of enthusiasm, time, money and interest. Many of you in this group are doing less for the Triangle work, the Goodwill work and the distribution of the Invocation than the average School student, and it is you to whom I should look for aid in what I am attempting to do. Why not aid me where I have asked for aid? Why search for something unique and special and different from that of the rest of the students?

2. Mặc dù đã làm việc với tôi nhiều năm, nhóm vẫn chưa tích hợp và chưa tạo ra được một hoạt động [75] tinh thần đặc biệt nào. Tôi đã chỉ ra nhiều hoạt động tinh thần đòi hỏi sự nhiệt tình, thời gian, tiền bạc và sự quan tâm của các bạn. Công việc Tam giác, công việc Thiện chí và việc phổ biến Đại Khấn nguyện đang được nhiều bạn trong nhóm này thực hiện ít hơn so với môn sinh trung bình của Trường, và chính các bạn là những người mà tôi nên tìm kiếm sự trợ giúp cho những gì tôi đang cố gắng làm. Tại sao không hỗ trợ tôi ở nơi mà tôi đã yêu cầu? Tại sao phải tìm kiếm thứ gì đó độc đáo, đặc biệt và khác biệt so với những môn sinh còn lại?

The spiritual enterprise into which I hoped to see you all throw yourselves was the work I have outlined, the distribution of the Problems of Humanity, the spread of the Invocation, the Triangles and the Goodwill work. I am not interested in some particularly occult work which you will evolve in meditation or in discussion. F.C.D. is entering upon his life work along the lines of my enterprises; it will be a hard one, growing out of the Problems, presented by me to you. Forget not that these Problems were part of your instructions released for the general public. I have no criticism of F.C.D., who has come through deep waters to heights from which he can do most effective work. I am happy to be associated with him and have asked the Master K.H. to leave him a little longer in my group. I have no criticism of J.W.K-P., who has handled a profoundly difficult task for me with beauty, understanding, judgment and courtesy.

Hoạt động tinh thần mà tôi hy vọng được thấy tất cả các bạn dấn thân vào là công việc mà tôi đã vạch ra, việc phổ biến Các Vấn đề của Nhân loại, truyền bá Lời Đại khấn nguyện, công việc các Tam giác và công việc Thiện chí. Tôi không quan tâm đến một số công việc huyền bí đặc biệt nào đó mà các bạn sẽ phát triển trong tham thiền hoặc trong thảo luận. F.C.D. đang bước vào công việc của cuộc đời ông theo các tuyến hoạt động của tôi; đó sẽ là một công việc khó khăn, phát triển từ “Các Vấn Đề” mà tôi trình bày với các bạn. Đừng quên rằng những Vấn Đề này là một phần nằm trong những huấn thị dành cho các bạn được phổ biến cho công chúng. Tôi không có lời chỉ trích nào đối với F.C.D., người đã vượt qua những khó khăn để vươn đến những đỉnh cao mà từ đó ông có thể làm công việc hiệu quả nhất. Tôi rất vui khi được kết hợp với ông ấy và đã yêu cầu Chân sư K.H. cho phép để ông trong nhóm của tôi lâu hơn một chút. Tôi không có lời chỉ trích nào đối với J.W.K-P., người đã giải quyết cho tôi một nhiệm vụ vô cùng khó khăn bằng vẻ đẹp, sự thấu hiểu, óc phán đoán và sự lịch thiệp.

3. My next reason for disbanding the group is the failure in occult obedience of many of you. Voluntarily and willingly you joined the groups for training, discipline and expansion. This involved the following of certain suggestions, meditations and instructions. For years, quite a number of you have done absolutely nothing about your personal instructions. I refer here not only to exoteric exactitude but (above all else) to esoteric understanding. When, my brothers, I assign meditation work and make suggestion over the years, I have a definite purpose in view and a plan worked out [76] which is adapted to the particular student. When the work is not done, I—owing to the freewill of the disciple—am helpless.

3. Lý do tiếp theo mà tôi giải tán nhóm là sự thất bại trong việc tuân thủ theo huyền bí của nhiều bạn. Các bạn đã tham gia các nhóm một cách tự nguyện và sẵn lòng để được huấn luyện, rèn luyện kỷ luật và mở rộng. Điều này liên quan đến việc tuân theo một số gợi ý, tham thiền và hướng dẫn. Trong nhiều năm, khá nhiều bạn đã hoàn toàn không làm gì với những hướng dẫn cho cá nhân của mình. Ở đây tôi không chỉ đề cập đến sự chính xác về mặt ngoại môn mà (trên hết) là sự hiểu biết bí truyền. Hỡi các huynh đệ của tôi, khi tôi giao công việc tham thiền và đưa ra gợi ý trong suốt nhiều năm, tôi có một mục đích nhất định trước mắt và một kế hoạch đã vạch ra [76] vốn được điều chỉnh cho phù hợp với từng môn sinh cụ thể. Khi công việc không được hoàn thành, tôi bất lực bởi sự tự do ý chí của người đệ tử.

4. Another reason upon which I must very briefly touch, and which is a factor in my decision, is A.A.B.’s integrity in the work. Among some of you, if what I write is agreeable to you, expresses your own ideas and is in line with your group thinking, then it is I who write it. When what I dictate runs counter to the ideas of the disciples, or places a finger on a weakness, or makes a statement which runs counter to the lower mind, then it is written by A.A.B. This situation has existed for some time.

4. Một lý do khác mà tôi phải đề cập rất ngắn gọn, và là một yếu tố dẫn đến quyết định của tôi, là sự chính trực của A.A.B. trong công việc. Đối với một số bạn, nếu những gì tôi viết hợp ý các bạn, thể hiện được ý riêng và phù hợp với suy nghĩ của nhóm các bạn, thì chính tôi là người viết ra. Khi những gì tôi đọc (cho A.A.B. viết lại — ND) đi ngược lại với những ý tưởng của các đệ tử, hoặc chỉ vào một điểm yếu hoặc đưa ra một tuyên bố ngược lại với hạ trí, thì nó được cho là viết bởi A.A.B. Tình trạng này đã tồn tại một thời gian.

For these main reasons, and because I seek no further to burden A.A.B. with your personal instructions, I am closing this aspect of my work. A.A.B. has much to do for me in finishing the Instructions as outlined. Her own Master (and mine) also requests that she no longer do this work, and with Him I am in full agreement. A.A.B. has also to conclude the Ashram papers [iv]* and finish the papers on Healing. [v]** Then her task for me will be accomplished.

Vì những lý do chính yếu này, và bởi vì tôi không muốn tạo thêm gánh nặng cho A.A.B. với những hướng dẫn cá nhân cho các bạn, tôi đang kết thúc khía cạnh công việc này của mình. A.A.B. có nhiều việc phải làm cho tôi trong việc hoàn thành các Hướng dẫn như đã nêu. Chân sư của chính bà ấy (và của tôi) cũng yêu cầu bà ấy không làm công việc này nữa, và với Ngài, tôi hoàn toàn tuân theo. A.A.B. cũng phải hoàn thiện các tài liệu của Đạo viện [iv] * và hoàn thành các tài liệu về Chữa lành. [v] ** Vậy thì nhiệm vụ của bà ấy đối với tôi sẽ trọn vẹn.

D.E.I. is no longer in this group, and for this life and probably the next, he will be learning the lessons of adaptability, of impersonality and renunciation. He made one serious and irretrievable move prior to the outbreak of the war, and he did this against the advice of senior disciples and of his own inner monitor.

D.E.I. không còn ở trong nhóm này nữa, và trong kiếp sống này và có lẽ là kiếp sống tiếp theo, ông ấy sẽ học được những bài học về khả năng thích ứng, về tính phi ngã và sự quên mình. Ông ấy đã làm một điều nghiêm trọng và không thể cứu vãn trước khi chiến tranh bùng nổ, và ông đã làm điều này chống lại lời khuyên của các đệ tử cao cấp và vị thầy bên trong của chính mình.

I would here again remind you that the inner link remains unbroken. You are still members—each and all of you—on the periphery of my Ashram. Nothing can alter this. Some of you warrant no criticism from me and are not responsible for what has happened.

Ở đây tôi xin nhắc lại một lần nữa rằng liên kết nội tại vẫn không bị gián đoạn. Các bạn vẫn là những thành viên — mỗi người và tất cả các bạn — ở ngoại vi Đạo viện của tôi. Không gì có thể thay đổi điều này. Đảm bảo rằng một số bạn không có lời chỉ trích nào từ tôi và không chịu trách nhiệm về những gì đã xảy ra.

Let me reiterate: The ashramic link remains unbroken, but the outer relation is ended for this incarnation. You can still reach me individually, if you fulfil the requirements and seek to serve the Plan outlined to you by me.

Hãy để tôi nhắc lại: Mối liên kết với đạo viện vẫn không bị đứt đoạn, nhưng mối quan hệ bên ngoài đã kết thúc đối với kiếp sống này. Các bạn vẫn có thể liên hệ với tôi với tư cách cá nhân, nếu các bạn đáp ứng các yêu cầu và tìm cách phụng sự Thiên cơ do tôi vạch ra cho các bạn.

With this general letter I am sending very full personal [77] instructions—the last you will receive from me this life on the outer plane. I would ask you to read with extreme care what I have to say and suggest, because of the effect it may have on your outer life of service.

Với bức thư chung này, tôi đang gửi những chỉ dẫn [77] cá nhân rất đầy đủ — chỉ dẫn cuối cùng mà các bạn sẽ nhận được từ tôi trong kiếp sống này trên cõi giới bên ngoài. Tôi yêu cầu các bạn đọc hết sức cẩn thận những gì tôi nói và đề xuất, vì nó có thể có ảnh hưởng tới cuộc sống bên ngoài của các bạn.

I use not words lightly. A.A.B. has taken me down with accuracy during these many years, including the past nine years of illness. She has never been too ill to take my dictation and send it out to you and to the world exactly as I gave it. Please read not only your own instructions but those given to the other members of the group, and you will then understand more clearly the reasons for the disbanding of this group. The personal instructions will be full and concise and will give you enough work, coupled with all your previous instructions over the years, to occupy your attention for the remainder of your lives and lead you into a closer association with the Ashram. You have the instructions, covering many years and given to each of you, preserved for you in Discipleship in the New Age (Vol. I). You have much intensified and concentrated individual teaching, much indication of opportunity and of the work which you are individually asked to do, a great deal of help in dealing with personality limitations, and much inspiration. Read now my personal instructions to you in the light of our long personal relations. We have worked together for many years and I know you all well. I have told you that in the light of the Ashram there is naught concealed. These instructions are bridging instructions which will suffice until the day comes when you will step into a closer relation and will have overcome the personality to such an extent that there will be no fear of your making any serious mistakes; you can then be depended upon, as are all true accepted serving disciples.

Tôi không dùng những lời nhẹ nhàng. A.A.B. đã ghi chép lại những lời tôi với sự chính xác trong suốt nhiều năm, bao gồm cả chín năm bị bệnh. Bà ấy chưa bao giờ quá bệnh để không tiếp nhận lời tôi đọc và gửi nó cho các bạn và cho thế giới đúng như những gì tôi đã đưa ra. Hãy vui lòng đọc không chỉ hướng dẫn của riêng các bạn mà cả những hướng dẫn của các thành viên khác trong nhóm, và các bạn sẽ hiểu rõ ràng hơn về lý do tan rã của nhóm này. Các hướng dẫn cá nhân sẽ đầy đủ và ngắn gọn, sẽ cung cấp cho các bạn đủ việc làm, cùng với tất cả các hướng dẫn trước đây của các bạn trong nhiều năm, để giữ sự chú ý của các bạn trong phần còn lại của cuộc đời và dẫn các bạn đến một liên kết chặt chẽ hơn với Đạo viện này. Các bạn có các hướng dẫn trải dài trong nhiều năm và được trao cho mỗi người trong số các bạn, được lưu giữ cho các bạn trong cuốn Đường Đạo trong Kỉ nguyên Mới (Quyển I). Các bạn được huấn thị cá nhân một cách chuyên sâu và tập trung, nhiều chỉ dẫn cho cơ hội và công việc mà cá nhân các bạn được yêu cầu thực hiện, rất nhiều sự giúp đỡ trong việc giải quyết những hạn chế về phàm ngã và nhiều cảm hứng. Bây giờ hãy đọc những hướng dẫn cá nhân của tôi cho các bạn dưới góc độ các mối quan hệ cá nhân lâu dài của chúng ta. Chúng ta đã làm việc cùng nhau trong nhiều năm và tôi biết rõ tất cả các bạn. Tôi đã nói với các bạn rằng dưới ánh sáng của Đạo viện không có gì phải che giấu. Những hướng dẫn này là những hướng dẫn bắc cầu sẽ đủ cho đến ngày các bạn bước vào một mối quan hệ thân thiết hơn và sẽ khắc phục được phàm ngã đến mức các bạn không sợ mắc phải bất kỳ sai lầm nghiêm trọng nào; khi đó các bạn có thể được tin cậy, như tất cả các đệ tử phụng sự được chấp nhận thực sự.

The teaching—along special lines—of the New Age presentation of esoteric truth, necessary in preparation for initiation, will continue; it is essential that the second volume of Discipleship in the New Age should reach the public. This new teaching (or rather this new sequence of teaching) in its timed presentation consists, as you already know, of six themes or subjects:

Giáo lý — theo những đường hướng đặc biệt — sẽ tiếp tục trình bày về chân lý bí truyền trong Kỷ nguyên mới cần thiết để chuẩn bị cho việc điểm đạo; điều quan trọng là tập thứ hai của cuốn Đường Đạo trong Kỷ nguyên mới phải đến được với công chúng. Như các bạn đã biết, cách giảng dạy mới này (hay đúng hơn là trình tự giảng dạy mới này) được trình bày theo thời gian bao gồm sáu chủ đề hoặc môn học:

[78]

[78]

Instruction on Meditation.

Hướng dẫn về Tham Thiền.

Teaching on Initiation.

Giáo lý về Điểm đạo.

Training in Telepathy.

Huấn luyện về Viễn cảm.

Teaching anent the Etheric Body.

Giáo lý liên quan Thể dĩ thái.

The Problems of Humanity.

Những Vấn đề của Nhân loại.

The Externalisation of the Ashrams.

Sự ngoại hiện của các Đạo viện.

You will continue to receive these papers, not as an affiliated member of my Ashram, but only as an intelligent, trained aspirant who is privileged to be used in building up the needed thoughtforms anent the correct aspects of the teaching so that the seed or germ may be truly implanted in the human consciousness and thus truly grow and influence the coming age. Forget this not.

Các bạn sẽ tiếp tục nhận được những tài liệu này, không phải với tư cách là thành viên liên kết với Đạo viện của tôi, mà chỉ với tư cách là một người chí nguyện thông minh, được huấn luyện, người có đặc quyền được sử dụng để xây dựng các hình tư tưởng cần thiết liên quan đến các khía cạnh chính xác của giáo lý để hạt giống hoặc mầm mống có thể thực sự được gieo vào tâm thức con người, và do đó thực sự phát triển và ảnh hưởng đến kỷ nguyên sắp tới. Đừng quên điều này.

March 1947

Tháng 3 năm 1947

MY BROTHERS:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

You will by now have recovered from the shock of the cessation of our outer communication. As you may well realise (or do you?), my inner relation to you remains an entirely private and individual matter, known only to the aspiring disciple and myself. Such it must remain for this immediate life cycle. The strength of your radiance, your potential as a light bearer, and your ability to serve your fellowmen will demonstrate to your co-disciples in my Ashram or on its periphery the fact of that relationship; it will prove that you, the personality, the soul, and the Master of the Ashram, are in contact. The supreme Master, the Christ, said when last on Earth: “By their fruits ye shall know them.” In so saying, He indicated a definite line of guidance for all of us.

Bây giờ các bạn đã hồi phục sau cú sốc về việc chúng ta ngừng giao tiếp bên ngoài. Như các bạn có thể nhận thấy rõ rằng (hay liệu các bạn có nhận ra không?), mối quan hệ bên trong của tôi với các bạn vẫn là một vấn đề hoàn toàn riêng tư và cá nhân, chỉ người đệ tử đầy khát vọng và bản thân tôi được biết. Như vậy nó phải duy trì ngay trong vòng đời này. Sức mạnh hào quang của các bạn, tiềm năng của các bạn với tư cách là một người mang ánh sáng, và khả năng của các bạn để phụng sự đồng loại của mình sẽ chứng minh cho các đồng môn của các bạn trong Đạo viện của tôi hoặc ở ngoại vi của nó về thực tế của mối quan hệ đó; nó sẽ chứng minh rằng các bạn, phàm ngã, linh hồn, và Chân sư của Đạo viện, có liên hệ với nhau. Vị Chân sư tối cao, Đức Christ, đã nói vào lần cuối cùng còn ở trên Trái đất: “Hãy nhìn trái của họ mà biết họ.” Khi nói như vậy, Ngài đã đưa ra một đường lối hướng dẫn cụ thể cho tất cả chúng ta.

A Master has to know and gauge the disciple by the work which he does in the furthering of the Plan, and not by the disciple’s reaction to his aspiration. The attentive world has also to gauge the existent phase of divine expression in the disciple’s daily life. By what else can the onlooker gauge it? The disciple is therefore under constant dual investigation; to this test, he must perforce himself add a third: his own position as the Observer. He is thus exposed to criticism and [79] judgment from three angles, and upon this fact I would ask you carefully to ponder.

Một vị Chân sư phải biết và đánh giá đệ tử bằng công việc mà người đó làm để thúc đẩy Thiên cơ, chứ không phải bằng sự đáp ứng của đệ tử đối với nguyện vọng của mình. Thế giới quan tâm cũng phải đánh giá giai đoạn hiện hữu của biểu hiện thiêng liêng trong cuộc sống hàng ngày của người đệ tử. Người quan sát có thể đánh giá nó bằng cách nào khác? Do đó, người đệ tử luôn bị đánh giá kép; đối với bài kiểm tra này, y phải tự mình thêm cái thứ ba: vị trí của y với tư cách là Người quan sát. Do đó, y phải đối mặt với những lời chỉ trích và phán xét [79] từ ba góc độ, và về thực tế này, tôi muốn các bạn cẩn thận suy ngẫm.

A review at night along these three lines would be of value to all disciples, using the imagination as far as possible as an instrument of spiritual perception; learn to “imagine,” as far as you can, how a Master would view your day’s endeavour, how your watching environment would have reacted to your life and words, and how you yourself regard the day’s accomplishments. I would recommend this to all disciples and all of you in training for my Ashram; and what I have here suggested might well be used also by the Arcane School for the senior students.

Việc hồi tưởng lại vào ban đêm theo ba tuyến này sẽ có giá trị đối với tất cả các môn sinh, sử dụng trí tưởng tượng càng nhiều càng tốt như một công cụ nhận thức tinh thần; học cách “tưởng tượng”, trong chừng mực các bạn có thể, một Chân sư sẽ nhìn nhận nỗ lực trong ngày của các bạn như thế nào, cách môi trường quan sát của các bạn sẽ phản ứng với cuộc sống và lời nói của các bạn, và cách bản thân các bạn đánh giá những thành quả trong ngày. Tôi muốn giới thiệu điều này cho tất cả các đệ tử và tất cả các bạn đang được huấn luyện trong Đạo viện của tôi; và những gì tôi đề xuất ở đây cũng có thể được Trường Arcane sử dụng cho các môn sinh cuối cấp.

March 1948

Tháng 3 năm 1948

MY BROTHERS:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

Another year has gone by and it is again time for me to extend the teaching already given still a little further. You are still functioning as a group with closely interrelated links with the Ashram, with me and with each other. The situation is not, however, the same as it was last year, and there are certain differences and distinctions. These are due to the reorganisation which has gone on within the Hierarchy itself, necessitated by the imminent reappearance of the Christ. This has produced certain basic changes.

Một năm nữa đã trôi qua và một lần nữa đã đến lúc tôi phải kéo dài thời gian giảng dạy thêm một chút nữa. Các bạn vẫn đang hoạt động như một nhóm có các mối liên kết chặt chẽ với Đạo viện, với tôi và với nhau. Tuy nhiên, tình hình không giống như năm ngoái, và có những khác biệt và những nét đặc biệt nhất định. Những điều này là do sự tái tổ chức đã diễn ra trong chính Thánh đoàn, cần thiết bởi việc tái lâm sắp xảy ra của Đức Christ. Điều này đã tạo ra những thay đổi cơ bản nhất định.

As you know, I have for years (with the assistance of A.A.B.) been endeavouring to help and aid many disciples who belong to other Ashrams than the second ray Ashram of K.H. or my own. I have given to them the basic teaching which they would have received from their own Masters and—because my Ashram is a second ray Ashram—they have had an imperative stimulus given to their love nature, and their sense of universality has been developed, in order to fit them for the work of the coming cycle. In the cycle now so near at hand, the Lord of Love will seek to organise the new era along the new or Aquarian lines. In the series of papers on the externalisation of the Ashrams or of the Hierarchy, [vi]* we are in reality considering the goal or supreme expression of [80] the teaching given to many disciples anent that great event—teaching intended to evoke their intelligent cooperation.

Như các bạn đã biết, trong nhiều năm (với sự trợ giúp của A.A.B.), tôi đã nỗ lực giúp đỡ và trợ giúp nhiều đệ tử thuộc các Đạo viện khác ngoài Đạo viện cung hai của Chân sư K.H. hoặc của riêng tôi. Tôi đã truyền cho họ giáo lý cơ bản mà lẽ ra họ đã nhận được từ các Chân sư của chính họ và — bởi vì Đạo viện của tôi là Đạo viện cung hai — họ đã có một kích thích bắt buộc đối với bản chất tình thương của họ, và ý thức phổ quát của họ đã được phát triển, để họ phù hợp với công việc của chu kỳ sắp tới. Trong chu kỳ sắp đến gần, Đấng Chúa của Tình thương sẽ tìm cách tổ chức kỷ nguyên mới theo đường lối mới hoặc đường lối Bảo bình. Trong loạt bài nghiên cứu về Sự Hiển lộ của các Đạo viện hoặc của Thánh đoàn, [vi] * Trên thực tế, chúng ta đang xem xét mục tiêu hoặc cách diễn đạt cao nhất của [80] giáo lý được ban cho nhiều đệ tử trước sự kiện trọng đại đó — giáo lý nhằm mục đích khơi gợi sự hợp tác thông minh của họ.

In your preceding series of instructions I dealt specifically with the Return of the Christ, and that message was sent out on a large scale to the general public. Since then I have written two other papers, entitled: The Work of the Christ and The Teaching of the Christ. These have been added to the original instruction anent Christ’s reappearance, so as to reach a larger public than just this handful of disciples. These instructions are now available to all of you in book form, entitled The Reappearance of the Christ.

Trong loạt hướng dẫn các bạn trước đây, tôi đã đề cập cụ thể đến Sự tái lâm của Đức Christ, và thông điệp đó đã được gửi đến công chúng trên quy mô lớn. Kể từ đó tôi đã viết hai tài liệu khác, có tựa đề: Công việc của Đức Christ và Giáo lý của Đức Christ. Những điều này đã được thêm vào hướng dẫn ban đầu về sự tái lâm của Đức Christ, để tiếp cận công chúng rộng lớn hơn là tiếp cận chỉ một số ít đệ tử này. Những hướng dẫn này hiện có sẵn dưới dạng sách cho tất cả các bạn, có tựa đề Sự Tái lâm của Đức Christ.

The point which I am seeking to make is that this book is primarily your contribution to the effort which the Hierarchy is making to reach and arouse men everywhere to the imminence and the inevitability of Christ’s emergence; it is in the nature of a seal set upon your faithfulness and steadfast faith over the years in which we have worked together. More important still, you have (as a group) provided the pool of thought that could be stirred into activity, and thus make possible the giving out of this terrific proclamation—for that is what it is. Thus you have served and helped at this critical time—critical not only among men and in connection with world affairs but critical also in the Hierarchy itself.

Điểm mà tôi đang tìm cách nêu ra là, trước hết cuốn sách này là sự đóng góp của các bạn vào nỗ lực mà Thánh đoàn đang thực hiện để tiếp cận và khơi dậy những người ở khắp mọi nơi về sự bất tử và sự xuất hiện tất yếu của Đức Christ; nó mang bản chất của một con dấu được đóng trên sự trung thành và niềm tin kiên định của các bạn trong những năm chúng ta đã làm việc cùng nhau. Quan trọng hơn nữa, các bạn (với tư cách là một nhóm) đã cung cấp nguồn tư tưởng có thể được khơi dậy trong hoạt động, và do đó có thể đưa ra lời tuyên bố tuyệt vời này — vì nó chính là như vậy. Vì vậy, các bạn đã phụng sự và giúp đỡ vào thời điểm quan trọng này — quan trọng không chỉ trong nhân loại và liên quan đến các vấn đề thế giới mà còn quan trọng trong chính Thánh đoàn.

In your thinking, reflection and activities carried on henceforth, this major, presented hierarchical intention must constitute the very groundwork of your life pattern. As members of an Ashram, you are part and parcel of the present crisis within the Hierarchy, and you cannot avoid it.

Trong tư tưởng, suy ngẫm và các hoạt động của các bạn từ nay về sau, ý định trọng đại của Thánh đoàn đã được trình bày phải tạo thành nền tảng cho khuôn mẫu cuộc sống của các bạn. Như là các thành viên của Đạo viện, các bạn là một phần của cuộc khủng hoảng hiện tại bên trong Thánh đoàn, và các bạn không thể tránh khỏi nó.

One of the effects of the reorientation is that four or five of you will be working more actively, and eventually more consciously, in the Ashram of your own Master and less actively in mine; you must remember, however, that the link is by no means severed. Another effect is that several disciples from other Ashrams will be working in my group, and one of the Master K.H.’s disciples is now to function as senior disciple in my Ashram, because A.A.B. is no longer available in that capacity as she has been since 1932; she resumed her own activities in the Ashram of the Master K.H. over three [81] years ago. The completion of my books is practically all that she is now doing for me.

Một trong những tác động của việc tái định hướng là bốn hoặc năm người trong số các bạn sẽ làm việc tích cực hơn, và cuối cùng có ý thức hơn, trong Đạo viện của Chân sư của chính mình và ít tích cực hơn ở Đạo viện của tôi; tuy nhiên, các bạn phải nhớ rằng không có nghĩa mối liên hệ này bị cắt đứt. Một hiệu ứng khác là một số đệ tử từ các Đạo viện khác sẽ làm việc trong nhóm của tôi, và một trong những đệ tử của Chân sư K.H. hiện đang hoạt động như một đệ tử cao cấp trong Đạo viện của tôi, bởi vì A.A.B. không còn khả năng như bà đã có từ năm 1932; bà lại tiếp tục các hoạt động của riêng mình trong Đạo viện của Chân sư K.H. từ hơn ba [81] năm trước. Việc hoàn thành các cuốn sách của tôi thực tế là tất cả những gì bà ấy đang làm cho tôi.

This reorientation and this “outward movement” of the Hierarchy requires the assuming of a certain attitude on the part of all of us, and the development of certain mental habits, which I will proceed to discuss with you as part of the usual first theme in all these instructions, that of meditation.

Sự tái định hướng và “sự chuyển hướng ra bên ngoài” này của Thánh đoàn đòi hỏi phải có một thái độ nhất định từ phía của tất cả chúng ta, và sự phát triển của một số thói quen trí tuệ mà tôi sẽ tiến hành thảo luận với các bạn như một phần của chủ đề thông thường đầu tiên trong tất cả các hướng dẫn này, đó là việc tham thiền.

Commentary #33  [Đến Bình Giảng]

January 1949

Tháng 1 năm 1949

MY BROTHERS:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

This new year of 1949 is a peculiarly momentous one from the angle of spiritual values. Last year was one of decision—as public affairs have demonstrated—decisions which were not always sound and which infringed the principle of right human relations. It was a year of decision for the Hierarchy as well as for many world leaders, both secular and spiritual. The disciples of the world were under great and peculiar strain, many of them working off and handling severe personal karma, and some of them descending into the very depths of realisation—depths where world iniquity and world sorrow confronted them and world issues were made very clear to them. It was therefore a year of peculiar testing and trial, and the more advanced the disciple the greater has been his problem, involving as it has done both personal and world problems. The load upon them has been heavy.

Năm mới 1949 này là một năm đặc biệt quan trọng xét từ góc độ giá trị tinh thần. Như các vấn đề công đã chứng minh, năm ngoái là một năm của quyết định, những quyết định vốn không phải lúc nào cũng hợp lý và chúng vi phạm nguyên tắc của những quan hệ con người đúng đắn. Đó là một năm quyết định đối với Thánh đoàn cũng như đối với nhiều nhà lãnh đạo thế giới, cả thế tục lẫn tinh thần. Các đệ tử của thế giới đang phải chịu những căng thẳng lớn lao và đặc biệt, nhiều người trong số họ giải quyết và xử lý nghiệp quả cá nhân nặng nề, và một số người trong số họ rơi vào vực thẳm của nhận thức — những vực thẳm nơi mà tội ác thế gian và nỗi buồn thế giới đối mặt họ, và các vấn đề thế giới hiện ra rất rõ ràng cho họ. Do đó, đó là một năm kiểm tra và thử thách đặc biệt, và người đệ tử càng tiến bộ thì vấn đề của y càng lớn, liên quan đến vấn đề của cả cá nhân và thế giới. Gánh nặng lên vai họ đã rất nặng nề.

To this condition the members of the New Seed Group and those affiliated with them and with my Ashram have been no exception. This new year holds in it great potentialities for expansion and growth and for the progress of all movements, particularly those oriented to the work of the spiritual Hierarchy of our planet. The inflowing force is beneficently potent and the destructive forces which have prevailed during the last few years are not so dynamic. This should be a year of moving forward and of expansion (implemented and directed by the Hierarchy). The spiritual vortex of force which is moving nearer to manifestation will [82] make possible certain moves and will clear away some (though not all) of those forces which have held back the proposed expansion and which have limited the work that disciples all over the world have sought to do. Every disciple has been tested; unsuspected weaknesses have emerged and characteristics which should be straightened out have come to the surface; a few—a very few—have fallen by the way, but a large majority have passed the test.

Với tình trạng này, các thành viên của Nhóm Hạt giống Mới và những người liên kết với họ và với Đạo viện của tôi không là ngoại lệ. Năm mới này chứa đựng những tiềm năng to lớn để mở rộng và tăng trưởng cũng như cho sự tiến bộ của tất cả các phong trào, đặc biệt là những hoạt động hướng đến công việc của Thánh đoàn tinh thần trên hành tinh của chúng ta. Mãnh lực tuôn vào là rất mạnh mẽ một cách tốt lành, và các mãnh lực hủy diệt đã chiếm ưu thế trong vài năm qua không còn quá mạnh mẽ nữa. Đây sẽ là một năm tiến về phía trước và mở rộng (được thực hiện và chỉ đạo bởi Thánh đoàn). Vòng xoáy tinh thần của mãnh lực đang tiến gần hơn với sự biểu lộ sẽ [82] có thể thực hiện được một số chuyển động nhất định và sẽ dọn sạch một số (mặc dù không phải tất cả) các mãnh lực đã kìm hãm sự mở rộng được dự định và hạn chế công việc mà các đệ tử trên toàn thế giới đã tìm cách thực hiện. Mọi đệ tử đều đã được thử thách; những điểm yếu không thể lường trước đã lộ ra và những đặc điểm cần được khắc phục đã lộ diện; một số ít — một số rất ít — đã thất bại, nhưng phần lớn đã vượt qua bài kiểm tra.

Weaknesses of motivation, of purpose, of technique and of personality faults have been exposed and recognised by truly earnest disciples; this has been necessary, for the incoming energies will render excessive the weaknesses (if they are recognised for what they are) and will enhance the contribution to world service of those disciples who can stand the strain and face themselves with truth and sincerity.

Những điểm yếu của động cơ, mục đích, kỹ thuật và của các lỗi lầm thuộc phàm ngã đã được phơi bày, và các đệ tử thực sự nghiêm túc  nhận ra; điều này là cần thiết, vì những năng lượng sắp đến sẽ làm xuất hiện quá nhiều điểm yếu (nếu chúng được nhận ra như những gì chúng vốn là) và sẽ nâng cao sự đóng góp cho việc phụng sự thế giới của những đệ tử có thể chịu đựng được sự căng thẳng và tự mình đối diện với sự thật và sự chân thành.

The call is going out from every Ashram to all workers to close their ranks and to stand together in the closest comradeship of loyalty and understanding; the challenge is for them to subject themselves (and by that I mean their personalities) to a drastically applied self-discipline, to a purifying process, and to effect those reforms within their own natures which will make them more effective instruments in service. I am impressing the minds of those members of my Ashram of whom you have never heard with these same ideas in connection with the work that they may be doing for the Hierarchy.

Lời kêu gọi từ mọi Đạo viện đến mọi thành viên hãy siết chặt hàng ngũ và sát cánh cùng nhau trong tình đồng chí thân thiết nhất của lòng trung thành và sự hiểu biết; thách thức là họ phải tự đặt bản thân (và tôi đang ám chỉ phàm ngã của họ) vào một kỷ luật tự giác được áp dụng một cách quyết liệt, vào một quá trình thanh lọc, và thực hiện những cải cách trong bản chất của họ để biến họ thành những công cụ hữu hiệu hơn trong việc phụng sự. Tôi đang gây ấn tượng trong trí của những thành viên trong Đạo viện của tôi, những người mà các bạn chưa bao giờ nghe đến, với những ý tưởng tương tự này liên quan đến công việc mà họ có thể đang làm cho Thánh đoàn.

It was the knowledge of this coming inflow and opportunity for increased usefulness which prompted A.A.B. to put through the reorganisation of the Arcane School, to close its ranks and to deepen the proposed trend of the teaching and thus to take those steps which will make the work more effective and potent. She has also taken and will in the near future take the needed steps for the effective functioning of the Arcane School after she passes to the inner side of service.

Chính hiểu biết về dòng chảy sắp tới này và cơ hội để gia tăng tính hữu ích đã thúc đẩy A.A.B. thông qua việc tổ chức lại Trường Arcane, siết chặt đội ngũ và đào sâu hơn xu hướng giảng dạy được đề xuất và do đó thực hiện những bước vốn sẽ làm cho công việc hiệu quả và mạnh mẽ hơn. Bà ấy cũng đã và sẽ thực hiện các bước cần thiết trong tương lai gần để Trường Arcane hoạt động hiệu quả sau khi bà chuyển sang phụng sự ở cõi nội giới.

The organising and work of the Arcane School is the spiritual project of A.A.B. and with it I have nothing whatsoever to do, nor shall I ever in the future guide or take any part in the affairs of the Arcane School. That is the task of those whom A.A.B. will choose to carry on. It is a living organism [83] which will grow of its own inherent potentialities and under the spiritual inspiration of the energy coming from the Ashram of the Master K.H. in which A.A.B. is a worker and disciple.

Công tác tổ chức và làm việc của Trường Arcane là dự án tinh thần của A.A.B., và với nó, tôi không có gì phải làm, và tôi sẽ không bao giờ hướng dẫn trong tương lai hoặc tham gia bất kỳ công việc nào của Trường Arcane. Đó là nhiệm vụ của những người mà A.A.B. lựa chọn để kế tục. Nó là một thực thể sống [83] sẽ phát triển những tiềm năng vốn có của chính nó và dưới sự truyền cảm hứng tinh thần của năng lượng đến từ Đạo viện của Chân sư K.H. trong đó A.A.B. là một nhân viên và một đệ tử.

I seek now to make a few comments anent the work for which A.A.B. has been responsible and for which F.B. will be responsible when she passes over.

Bây giờ tôi muốn đưa ra một vài nhận xét về công việc mà A.A.B. đã chịu trách nhiệm và F.B. sẽ chịu trách nhiệm khi bà ấy qua đời.

During the years in which I have been in touch with all of you, much world work has been started, and the influence of the group of workers whom A.A.B. and F.B. have gathered around them has spread all over the world. I refer here to what they stand for internationally and—as a result of the spread of the teaching for which I am responsible—to the change which has been wrought in the general consciousness. That is far greater than you know. The world-wide spiritual ferment which has been consequently set up has been due to two main causes:

Trong những năm tôi tiếp xúc với tất cả các bạn, nhiều công việc trên thế giới đã được bắt đầu, và ảnh hưởng của nhóm nhân sự mà A.A.B. và F.B. đã tập hợp xung quanh họ đã lan rộng khắp thế giới. Ở đây tôi đề cập đến những gì họ đại diện trên phạm vi quốc tế và như là kết quả của sự phổ cập giáo lý mà tôi chịu trách nhiệm đối với sự thay đổi đã được thực hiện trong tâm thức chung. Điều đó lớn lao hơn nhiều so với những gì các bạn biết. Do đó, sự kích thích tâm linh trên toàn thế giới được thiết lập là do hai nguyên nhân chính:

1. The Arcane School as members have adhered to it in every land and have each in turn become distributors of light.

1. Trường Arcane vì các thành viên đã gắn bó với nó ở mọi vùng đất, và đến lượt mỗi người trở thành những người phân phát ánh sáng.

2. The publication and distribution of my books everywhere; they are far more widely read than you have any idea.

2. Việc xuất bản và phân phối các cuốn sách của tôi ở khắp mọi nơi; chúng được đọc rộng rãi hơn nhiều so với những gì mà các bạn có thể tưởng tượng.

Out of the apprehension of truth by many thousands in many lands and the need for it to be put to practical use in these days of dire world need, two other modes of work were initiated: the Triangles and the Goodwill work. There is here no need for me to go into details anent these two spiritual enterprises. You know them well, though only a few of you have been truly interested or thrown yourselves, heart and soul, into assisting.

Xuất phát từ việc hàng ngàn người ở nhiều vùng đất nắm bắt được chân lý và nhu cầu đưa nó vào sử dụng thực tế trong những ngày thế giới khốn khó này, hai phương thức làm việc khác đã được khởi xướng: Công việc các Tam giác và công việc Thiện chí. Ở đây tôi không cần phải đi vào chi tiết về hai công trình tinh thần này. Các bạn biết rõ về chúng, mặc dù chỉ có một số bạn thực sự quan tâm hoặc dành cả trái tim và linh hồn các bạn để hỗ trợ.

The Arcane School is not one of my activities or enterprises, and has never been. In view of the condition of esoteric schools (so called) in the world, when A.A.B. organised the Arcane School she deliberately refused to let me have anything to do with it, and I fully concurred in her decision. The extent of my connection with the School lies in the fact [84] that I outlined for her the degrees of the School, and once or twice—in my instructions used in the Disciples Degree—I appealed to the students for cooperation in some matter. Forget not that these instructions were not School instructions, but were the early form of my books and went out unchanged to the general public. Also, it has only been within the last five years that any correspondence course for the School has been arranged around one or other of my books.

Trường Arcane không phải là một trong những hoạt động hay công việc của tôi, và chưa bao giờ là như vậy. Nhìn thấy tình trạng của các trường (được gọi là) nội môn trên thế giới, khi A.A.B. tổ chức Trường Arcane, bà ấy đã cố tình không cho tôi dính líu gì đến nó, và tôi hoàn toàn đồng tình với quyết định của bà ấy. Mức độ liên kết của tôi với Trường nằm ở thực tế [84] mà tôi đã vạch ra cho bà về các cấp bậc của Trường, và một hoặc hai lần — trong các hướng dẫn của tôi vđược sử dụng cho Cấp độ Đệ tử — tôi đã kêu gọi các môn sinh hợp tác trong một số vấn đề. Đừng quên rằng những hướng dẫn này không phải là hướng dẫn cho Trường, nhưng là hình thức ban đầu cho các cuốn sách của tôi, và nó không thay đổi khi phổ biến đến công chúng. Ngoài ra, chỉ trong vòng năm năm vừa qua, bất kỳ khóa học nào liên quan đến Trường đều được sắp xếp xung quanh quyển sách này hoặc quyển sách khác của tôi.

The policy of the School, its principles, curriculum and techniques, have been entirely those of A.A.B., working in conjunction with F.B. and after consultation with one or two senior students living in or around New York or in Europe.

Chính sách của Trường, các nguyên tắc, chương trình giảng dạy và kỹ thuật của Trường, hoàn toàn là của A.A.B., phối hợp với F.B. và sau khi tham khảo ý kiến ​​của một hoặc hai sinh viên cao cấp sống ở hoặc xung quanh New York hoặc ở Châu Âu.

There has necessarily been questioning among senior students and in this group as to what will happen when A.A.B. passes on. The past record of this group in effective and steady work would not incite A.A.B. to have much confidence in your leadership. You have shown no organised group ability to take a piece of work embodying some one or other of my suggested spiritual enterprises and effectively work together for its furtherance. What have you done as a group to aid the Triangle work or the Goodwill work, or to throw yourselves successfully behind the work of the School? There are many outside the New Seed Group who have done a more consecrated and selfless task than have you, though there are a few exceptions. But, my brothers, out of fifty-one, how few!!

Các môn sinh cuối cấp và trong nhóm này nhất thiết phải đặt câu hỏi về điều gì sẽ xảy ra khi A.A.B. qua đời. Thành tích trong quá khứ của nhóm này về sự hiệu quả và ổn định của công việc sẽ không khiến cho A.A.B. có nhiều niềm tin vào khả năng lãnh đạo của các bạn. Các bạn đã không cho thấy khả năng nhóm có tổ chức để thực hiện một phần công việc thể hiện một số dự án tinh thần do tôi đề xuất và làm việc cùng nhau một cách hiệu quả để phát triển nó. Các bạn đã làm gì với tư cách là một nhóm để hỗ trợ công việc Tam giác hoặc công việc Thiện chí, hoặc để hỗ trợ thành công công việc của Nhà trường? Có nhiều người bên ngoài Nhóm Hạt Giống Mới đã làm một nhiệm vụ tận hiến và vô kỷ hơn các bạn, mặc dù có một vài trường hợp ngoại lệ. Nhưng những huynh đệ của tôi, trong số năm mươi mốt người, thật là ít ỏi!!

When A.A.B. passes on she will leave the Arcane School and, with my full approval, all the other activities in the hands of F.B. She will leave also, in the departments, dedicated men who will continue to assume, as far as in them lies, the direction of the work, in consultation with F.B.

Với sự chấp thuận hoàn toàn của tôi, khi A.A.B. qua đời, bà ấy sẽ bàn giao lại Trường Arcane và tất cả các hoạt động khác cho F.B. Bà ấy cũng sẽ giao lại các phòng ban cho những con người tận tụy, những người sẽ tiếp tục duy trì định hướng công việc theo như những gì đặt vào họ, với sự tham khảo ý kiến ​​của F.B.

There will be no need whatsoever for any reorganisation. Why should there be? A.A.B. has been interested in and has initiated, with F.B., all departments. She has never been a worker in any of them, which may be a new idea to you. When she finishes her job there is no gap in any department. So why reorganisation? The work will go on with the same workers, and new ones will be added as need arises. Young workers must be chosen who may not see things as all of [85] you see them, and in that lies the hope of the work’s persistence, for most of you are too old for the work of reconstruction and too crystallised; you can, however, form a strong foundation and give courage to the young ones. Most of you are too anxious to see the old methods and modes of work perpetuated. I and A.A.B. are more interested in seeing that the need of the youth of the world is met. The principles of the Ageless Wisdom must be preserved, but all outworn forms must go.

Sẽ không cần bất kỳ sự tái tổ chức nào. Tại sao phải có? A.A.B. đã cùng với F.B. quan tâm và xây dựng nên tất cả các phòng ban. Bà ấy chưa từng làm việc ở bất cứ phòng ban nào trong số chúng, đó có thể là một ý mới đối với các bạn. Khi bà ấy hoàn thành công việc của mình, không có bất kỳ khoảng trống trong bất kỳ phòng ban nào. Vậy tại sao phải tổ chức lại? Công việc sẽ tiếp tục với cùng những nhân sự cũ và những người mới sẽ được bổ sung khi có nhu cầu. Những nhân sự trẻ phải được chọn, những người có thể không nhìn thấy mọi thứ như tất cả [85] các bạn thấy, nhưng trong đó có hy vọng về sự làm việc bền bỉ, vì hầu hết các bạn đều quá già cho công việc tái thiết và quá kết tinh; tuy nhiên, các bạn có thể hình thành một nền tảng vững chắc và cung cấp sự can đảm cho những người trẻ tuổi. Hầu hết các bạn đều quá lo lắng muốn thấy các phương pháp và phương thức làm việc cũ được duy trì. Tôi và A.A.B. quan tâm hơn đến việc nhìn thấy nhu cầu của giới trẻ thế giới được đáp ứng. Các nguyên tắc của Minh triết Ngàn đời phải được bảo tồn, nhưng tất cả các hình tướng già cỗi phải ra đi.

The success and growth of the work will depend upon the smooth transition which can be made between the past and the coming new world; it will be dependent upon the determination of the workers to continue with what they are doing, to renew their dedication and above all, their vision; to eliminate all desire for prominence in the work and all ambition, and with a will to meet the need in the new ways, with the expanded truths and with no dogmatism.

Sự thành công và phát triển của công việc sẽ phụ thuộc vào quá trình chuyển đổi suôn sẻ vốn có thể được thực hiện giữa quá khứ và thế giới mới sắp tới; nó sẽ phụ thuộc vào quyết tâm của những người làm việc để tiếp tục những gì họ đang làm, để đổi mới sự cống hiến, và trên hết là tầm nhìn, của họ; để loại bỏ mọi ham muốn nổi bật trong công việc và mọi tham vọng, và với ý chí đáp ứng nhu cầu theo những cách mới, với chân lý được mở rộng và không có chủ nghĩa giáo điều.

I am looking for no new “stenographers” to take the place of A.A.B. and shall dictate to none of you. You have masses of undigested material with which to work, and enough teaching to express and make available to the public for twenty-five years to come. You have enough information from me to enable you to make your individual contact with me if you follow the rules and live the outer life of a disciple.

Tôi không hề tìm kiếm “người viết tốc ký” mới nào để thay thế A.A.B. và sẽ không đọc cho bất cứ ai trong số các bạn viết ra. Các bạn có vô số tài liệu chưa được nghiên cứu thấu đáo  để sử dụng, và đủ giáo lý để diễn đạt và cung cấp cho công chúng trong 25 năm tới. Các bạn có đủ thông tin từ tôi để cho phép các bạn tiếp xúc cá nhân với tôi nếu các bạn tuân theo các quy luật và sống cuộc sống bên ngoài của một đệ tử.

It is the books which bring people into the various phases of the work; you can aid in keeping them in constant circulation, and you can also hold together subjectively so that the relation of the group to the Ashram is still preserved and externalisation later can still be possible. Those are the two major undertakings with which I present you; and these with your intensified individual approach and the work of the Triangles and Goodwill, will provide you with much to do.

Chính những cuốn sách đưa mọi người vào các giai đoạn khác nhau của công việc; các bạn có thể giúp giữ cho chúng lưu thông liên tục, và các bạn cũng có thể cùng nhau duy trì sự gắn kết bên trong để mối quan hệ của nhóm với Đạo viện vẫn được bảo toàn và việc ngoại hiện sau này vẫn có thể thực hiện được. Đó là hai chủ trương chính mà tôi trình bày với các bạn; những việc này cùng với việc tăng cường cách tiếp cận cá nhân của các bạn và công việc các Tam giác và công việc Thiện chí sẽ cung cấp cho các bạn nhiều việc phải làm.

Throw yourselves behind those who have made themselves responsible—under F.B.—for the Triangles and Goodwill work. Make their work possible and avoid interference; they will make mistakes, and these you will be prompt to note; your sole duty is to stand by. Mistakes do not matter if clarity of vision, spiritual persistence and love accompany them. Keep the personnel of the work as far as possible masculine [86] and put no sixth ray people in positions of influence; they know not how to cooperate and are frequently points of dissension and dislike.

Hãy đứng đằng sau những người đã tự đảm đương lấy trách nhiệm — dưới sự chỉ đạo của F.B. — đối với công việc các Tam giác và công việc Thiện chí. Hãy giúp cho công việc của họ được thực hiện và tránh can thiệp; họ sẽ mắc sai lầm, và các bạn sẽ nhanh chóng nhận thấy; nhiệm vụ duy nhất của các bạn là đứng bên cạnh. Sai lầm không thành vấn đề nếu tầm nhìn rõ ràng, sự bền bỉ tinh thần và tình thương đồng hành cùng họ. Giữ nhân sự của công việc càng nam tính càng tốt [86] và không đặt những người thuộc cung sáu vào vị trí có ảnh hưởng; họ không biết cách hợp tác và thường xuyên gây ra bất đồng và ghét bỏ.

You see, my brothers, I am making no startling plans for handling the work in the event of the death of A.A.B. I suggest no changes. I would like to see the work left in the hands of those who are already doing it; I suggest the addition of young people to the group of workers as need arises and place occurs. I suggest that the work be kept fluid, as A.A.B. has always kept it.

Các bạn thấy đấy, các huynh đệ của tôi, tôi không có kế hoạch nào đáng chú ý để xử lý công việc trong trường hợp A.A.B qua đời. Tôi đề nghị không thay đổi gì. Tôi muốn thấy công việc để lại vào tay của những người đã và đang làm nó; tôi đề nghị bổ sung những người trẻ tuổi vào nhóm nhân sự khi nhu cầu phát sinh và vị trí xuất hiện. Tôi đề nghị rằng công việc được duy trì trôi chảy, như A.A.B. đã luôn duy trì.

Above all else, remember that the work of the Triangles, the Goodwill work and the Arcane School is that of an organism and not an organisation, and it will grow through its own inherent life and not through planning. If this is borne in mind, you will see where some of you have been in error, both in criticism and in planning the future of the various aspects of the work. The work will go on in the strength of its own inherent life; it will be damaged by planning, interference and organisation. Let the work alone, giving it assiduous attention and meeting its needs as they arise. The Triangle work and the Goodwill work are in the hands of young people who must be strengthened, trusted and encouraged. The Invocation work, tied in with the Goodwill work, the Triangles and the School, is moving steadily forward and is the responsibility of all three. If rightly handled, its distribution will be automatic, mechanical and momentous.

Trên hết, hãy nhớ rằng công việc của các Tam giác, công việc Thiện chí và Trường học Arcane là của một cơ thể sống chứ không phải của một tổ chức, và nó sẽ phát triển thông qua sự sống vốn có của chính nó chứ không phải thông qua kế hoạch. Nếu các bạn ghi nhớ điều này, các bạn sẽ thấy một số các bạn đã mắc lỗi ở đâu, cả khi bị phê bình và hoạch định tương lai cho các khía cạnh khác nhau của công việc. Công việc sẽ tiếp tục theo sức sống vốn có của chính nó; nó sẽ bị phá hoại bởi kế hoạch, sự can thiệp và tổ chức. Hãy để công việc một mình, dành cho nó sự chú ý và đáp ứng các nhu cầu của nó khi các nhu cầu phát sinh. Công việc Tam giác và công việc Thiện chí nằm trong tay những người trẻ tuổi vốn phải được củng cố, tin tưởng và khuyến khích. Công việc Khấn nguyện, gắn liền với công việc Thiện chí, các Tam giác và Trường Nội môn, đang tiến vững vàng về phía trước và là trách nhiệm của cả ba. Nếu được xử lý đúng cách, việc phân phối của nó sẽ tự động, không suy tính và có ý nghĩa quan trọng.

The various phases of the work will proceed as desired if all talk of executive heads, of assumed responsibility, and of the need for the New Seed Group is ended. The thought of reorganisation must be dropped; it would immediately disrupt the present smoothly working organism. A transition carried forward without any change or difficulty will greatly reassure all groups. Young people should be found and trained—trained in the principles. There should be no doctrinal teaching given. If it is, inevitably the School will die. The new truths are being fast recognised, but it is youth which is recognising them. Those who have for twenty years absorbed a system of thought are apt to be so absorbed by it [87] that it is hard for them to recognise the new and vital incoming truth, and the sad part is that they are often sure they do. The new truths are overshadowing us today; if the Invocation means anything, it is what must be expected.

Các giai đoạn khác nhau của công việc sẽ tiến hành như mong muốn nếu tất cả các cuộc trao đổi của những người đứng đầu điều hành, về trách nhiệm đảm nhận, về sự cần thiết của Nhóm Hạt giống Mới được kết thúc. Tư tưởng tái tổ chức phải được loại bỏ; nó sẽ ngay lập tức phá vỡ cơ thể sống đang hoạt động trơn tru hiện tại. Một quá trình chuyển đổi được tiến hành mà không có bất kỳ thay đổi hoặc khó khăn nào sẽ làm yên lòng tất cả các nhóm. Những người trẻ cần được tìm thấy và được huấn luyện — được huấn luyện về các nguyên tắc. Không nên có sự giảng dạy giáo điều nào. Nếu vậy chắc chắn Trường sẽ chết. Những chân lý mới đang được nhanh chóng nhận ra, nhưng chính tuổi trẻ mới là những người nhận ra chúng. Những người đã hai mươi năm tiếp thu một hệ thống tư tưởng thường có khả năng bị hấp thụ bởi nó [87] đến mức họ khó nhận ra chân lý mới và quan trọng sắp đến, và điều đáng buồn là họ thường chắc chắn rằng họ nhận ra. Những sự thật mới ngày nay đang phủ bóng chúng ta; nếu Đại khấn nguyện có ý nghĩa gì đó, thì đó là những gì phải được mong đợi.

The principles to be emphasised are:

Các nguyên tắc cần được nhấn mạnh là:

1. The Arcane School trains disciples. Its curriculum is therefore eliminative. Its standard cannot be lowered. It is not a school for probationers. It will consequently always remain relatively small.

1. Trường Arcane huấn luyện đệ tử. Do đó chương trình giảng dạy của nó mang tính kén chọn. Tiêu chuẩn của nó không thể bị hạ thấp. Nó không phải là một trường học dành cho những đệ tử dự bị. Do đó, nó sẽ luôn tương đối nhỏ.

2. It is a school for adults wherein occult obedience is developed. This is not obedience to man-made rules or school obediences, but involves soul obedience.

2. Đây là một trường dành cho người trưởng thành, nơi mà sự tuân thủ huyền bí được phát triển. Đây không phải là sự tuân thủ theo các quy tắc do con người tạo ra hoặc sự tuân thủ nhà trường, mà là sự tuân thủ linh hồn.

3. This is a school wherein belief in the Hierarchy is scientifically taught, not as a doctrine but as an existent and provable natural kingdom; the rules of the Ashram and the dual life of the disciple are emphasised.

3. Đây là một trường trong đó niềm tin vào Thánh đoàn được giảng dạy một cách khoa học, không phải như một giáo điều, mà là một giới tự nhiên tồn tại và có thể chứng minh được; các quy tắc của Đạo viện và cuộc sống song đôi của người đệ tử được nhấn mạnh.

4. This is a school wherein the student is taught that “the souls of men are one.”

4. Đây là trường mà môn sinh được dạy rằng “các linh hồn của nhân loại là một.”

5. No claim for place or power is made, and the claim of being an initiate is never heard. The Headquarters Group and the workers in the School are there because of spiritual inclination.

5. Không có lời tuyên bố nào về địa vị hoặc quyền lực được đưa ra, và việc tuyên bố là điểm đạo đồ sẽ không bao giờ được nghe thấy. Nhóm Trụ sở chính và các nhân sự trong Trường ở đó bởi vì khuynh hướng tinh thần.

6. The Arcane School is non-sectarian, non-political and international in its thinking. Service is its keynote. Its members can work in any sect and in any political party, provided they remember that all paths lead to God and that “the One Humanity” governs all their thinking.

6. Trường Arcane có tư duy phi giáo phái, phi chính trị và mang tính quốc tế. Phụng sự là nguyên tắc chủ đạo của nó. Các thành viên của nó có thể hoạt động trong bất kỳ giáo phái nào và trong bất kỳ đảng phái chính trị nào, miễn là họ nhớ rằng mọi con đường đều dẫn đến Thượng đế và “Một Nhân loại duy nhất” chi phối mọi suy nghĩ của họ.

7. The fundamental doctrines of the Ageless Wisdom, recognised all over the world and as expounded in my books, constitute the foundational teaching of the Arcane School. This is so, not because they are my books but because they are part of the continuity of the Ageless Wisdom and constitute the latest emanation of the Ageless Wisdom issued by the Hierarchy. They must not be permitted to become a Bible of a sect, as has been the case with The Secret Doctrine and the [88] Theosophical Society. This incidentally has been a profound disappointment to the Hierarchy. A.A.B. must not be turned into an occult authority. Those connected with the Great White Lodge favour no Bibles or authorities—only the freedom of the human soul. The teaching matters, not the source or the form.

7. Các học thuyết cơ bản của Minh triết thiêng liêng được công nhận trên toàn thế giới và như được giải thích trong các cuốn sách của tôi, tạo thành giáo lý nền tảng của Trường Arcane. Điều này là như vậy, không phải vì chúng là sách của tôi mà bởi vì chúng là một phần của sự liên tục của Minh triết Ngàn đời và tạo thành phiên bản mới nhất của Minh triết Ngàn đời do Thánh đoàn ban hành. Chúng không được phép trở thành Kinh thánh của một giáo phái, như trường hợp của Giáo lý bí nhiệm[88] Hội Thông thiên học. Điều này vô tình gây thất vọng sâu sắc cho Thánh đoàn. A.A.B. không được biến thành một người có thẩm quyền huyền bí. Những người kết nối với Bạch đoàn giai không ủng hộ Kinh thánh hay thẩm quyền nào — chỉ có quyền tự do của linh hồn con người. Việc giảng dạy là quan trọng chứ không phải nguồn (tư liệu – ND) hay hình thức.

Let me reiterate for the sake of clarity: None of you has any responsibility for the Arcane School or for the service activities though you can work helpfully, with humbleness and pure motive in any or all of them, under the direction of A.A.B. or of those into whose hands she has put responsibility…. It is in these relationships that you will develop the humility and pure motives which are the outstanding hallmarks of the disciple.

Hãy để tôi nhắc lại cho rõ ràng: Không ai trong số các bạn có bất kỳ trách nhiệm nào đối với Trường Arcane hoặc các hoạt động phụng sự mặc dù các bạn có thể làm việc một cách hữu ích, với sự khiêm tốn và động cơ trong sáng, trong bất kỳ hoặc mọi công việc, dưới sự chỉ đạo của A.A.B. hoặc của những người mà bà ấy giao trách nhiệm…. Chính trong những mối quan hệ này, các bạn sẽ phát triển tính khiêm tốn và động cơ trong sáng vốn là những điểm nổi bật của người đệ tử.

One thing I would however like you clearly to grasp and that is the pattern which underlies the various aspects of the work now in process of expansion. A brief diagram should make the relationship clear, and these relationships are factual today:

Tuy nhiên, có một điều tôi muốn các bạn nắm bắt rõ ràng và đó là khuôn mẫu làm nền tảng cho các khía cạnh khác nhau của công việc hiện đang trong quá trình mở rộng. Một sơ đồ ngắn gọn sẽ làm cho mối quan hệ rõ ràng và ngày nay những mối quan hệ này là thực tế:

THE SPIRITUAL HIERARCHY OF THE PLANET

THÁNH ĐOÀN TINH THẦN CỦA HÀNH TINH

working through

Làm việc xuyên qua

/

/

THE NEW GROUP OF WORLD SERVERS

ĐOÀN NGƯỜI MỚI PHỤNG SỰ THẾ GIAN

using many agencies, among them

sử dụng nhiều đại diện, trong số đó

/

/

THE ARCANE SCHOOL

TRƯỜNG ARCANE

working through

Làm việc thông qua

/

/

THE SERVICE ACTIVITIES

CÁC HOẠT ĐỘNG PHỤNG SỰ

the Triangles, the Goodwill work, the Invocation work allied with

các Tam giác, công việc Thiện chí, công việc Đại Khấn nguyện, liên kết với

/

/

THE LUCIS PUBLISHING COMPANY

CÔNG TY XUẤT BẢN LUCIS

The energy of the New Group of World Servers could be likened to the antahkarana which connects humanity with the Hierarchy and provides a channel of contact with the Ashrams of the Masters. The Arcane School can be considered [89] as one of the results of the activity of the New Group of World Servers. There are many others scattered all over the world. The same holds true of the Service Activities. No esoteric group is soundly handled and correctly motivated unless the spiritual energies which are available to it and the knowledge and the wisdom unfolded find expression in definite service. The service activities are, therefore, an expression of the livingness of the Arcane School and that relationship must be valued and preserved.

Năng lượng của Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian có thể được ví như antahkarana kết nối nhân loại với Thánh đoàn và cung cấp một kênh liên lạc với Đạo viện của các Chân sư. Trường Arcane [89] có thể được coi là một trong những kết quả hoạt động của Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian. Có rất nhiều người khác nằm rải rác khắp nơi trên thế giới. Điều này cũng đúng với các Hoạt động Phụng sự. Không có nhóm bí truyền nào được quản lý một cách hợp lý và được thúc đẩy một cách đúng đắn trừ khi những năng lượng tinh thần có sẵn cho nó cũng như kiến ​​thức và minh triết đã khai mở được biểu hiện trong việc phụng sự nhất định. Do đó, các hoạt động phụng sự thể hiện sự sống động của Trường Arcane và mối quan hệ đó phải được coi trọng và bảo tồn.

As disciples, your place is in the senior ranks of the New Group of World Servers and your responsibility, as a group, is to aid a phase of the work to be done which is strictly the project of the Hierarchy as a whole. I ask you to throw your efforts into the work of preparation for the reappearance of the Christ, to further in all possible ways the distribution both of the pamphlet so entitled and the book which deals with His reappearance. The world must be flooded with the information and through the hope and expectancy thus engendered may move forward into greater light, better human relations and a newer happiness. The results of your activities along this line should enhance the usefulness of the service activities of the Arcane School and swell the ranks of those who are working on mental levels in the Triangles and for right human relations through the medium of the Goodwill work.

Với tư cách các đệ tử, vị trí của các bạn nằm trong những cấp bậc cao của Đoàn người Mới Phụng sự Thế gian, và trách nhiệm của các bạn, với tư cách một nhóm, là hỗ trợ một giai đoạn công việc phải thực hiện vốn hoàn toàn là dự án của cả Thánh đoàn nói chung. Tôi yêu cầu các bạn nỗ lực vào công việc chuẩn bị cho sự tái lâm của Đức Christ, thúc đẩy việc phân phát cả cuốn sách nhỏ có tựa đề cùng cuốn sách nói về việc tái lâm của Ngài bằng mọi cách. Thế giới phải tràn ngập thông tin, và thông qua hy vọng và kỳ vọng được tạo ra có thể tiến tới ánh sáng lớn hơn, các quan hệ con người tốt hơn và hạnh phúc mới mẻ hơn. Kết quả các hoạt động của các bạn theo đường lối này sẽ nâng cao tính hữu ích của các hoạt động phụng sự của Trường Arcane và mở rộng đội ngũ của những người đang làm việc trên các cấp độ của cõi trí trong các Tam giác và cho các mối quan hệ đúng đắn giữa con người với nhau thông qua trung gian của công việc Thiện chí.

Begin, my brothers, to do your own work, leaving others to shoulder their assigned responsibilities and waste no time in interfering in any phase of work which does not call for your attention. You are in my Ashram. The Arcane School is not a project of my Ashram and is, therefore, no responsibility of yours. It has been the means of giving you a greatly needed esoteric training and will continue to do so if you so desire, but the work of the Christ (to which all Ashrams are pledged) calls for your cooperation; it is this responsibility which I lay upon your shoulders.

Hỡi các huynh đệ của tôi, hãy bắt đầu làm công việc của riêng mình, để người khác gánh vác trách nhiệm được giao của họ và không lãng phí thời gian can thiệp vào bất kỳ giai đoạn nào của công việc vốn không đòi hỏi sự chú ý của các bạn. Các bạn đang ở Đạo viện của tôi. Trường Arcane không phải là một dự án của Đạo viện của tôi và do đó, không phải là trách nhiệm của các bạn. Nó là phương tiện cung cấp cho các bạn một khóa huấn luyện bí truyền rất cần thiết và sẽ tiếp tục như vậy nếu các bạn muốn, nhưng công việc của Đức Christ (mà tất cả các Đạo viện đều cam kết) đòi hỏi sự hợp tác của các bạn; đó là trách nhiệm mà tôi đặt trên vai các bạn.

That the years may see developed in all of you a firmer dedication, a self-sacrificing service and a deepened humility, is the hope and prayer of your friend, collaborator and Master.

Mong sao qua năm tháng có thể thấy ở tất cả các bạn sự cống hiến vững chắc hơn, sự phụng sự hy sinh và lòng khiêm tốn sâu sắc, đó là niềm hy vọng và lời cầu nguyện của người bạn, người cộng tác và Chân sư của các bạn.

[90]

[90]

Commentary #34  [Đến Bình Giảng]

March 1949

Tháng 3 năm 1949

MY BROTHERS:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA TÔI:

I have no group instructions for you now. Nor shall I have again. When the instructions on the designated themes are completed, I will write an instruction upon group work which will close all that I have to say on the subject in the two volumes of the book Discipleship in the New Age. The major intention of this book is to awaken the aspirational public to the opportunity for training which is theirs if they so choose; it should make them think with greater clarity of the Hierarchy and its functions; much good may come of sending forth its teachings and a new era in the field of spiritual instructions may result. My present objective is now to help A.A.B. conclude the important teaching which I have—with her aid—been giving to the group over a long period of years; it will then be available to the general public, after certain specific deletions, about which she knows and which are similar to those in the first volume. You have had more, much more, than you can assimilate; of the original group of students only a few are left; of the more than fifty original members who have been affiliated with my Ashram, only sixteen remain, and of these only eight are truly active; and of these eight, two are causing me some questioning.

Bây giờ, tôi không có những hướng dẫn nhóm nào cho các bạn. Tôi cũng sẽ không có hướng dẫn nữa. Khi các hướng dẫn về các chủ đề được chỉ định hoàn thành, tôi sẽ viết một hướng dẫn về công việc nhóm. Điều này sẽ kết thúc tất cả những gì tôi phải nói về chủ đề này trong hai tập của cuốn sách Đường đạo trong kỷ nguyên mới. Mục đích chính của cuốn sách này là đánh thức công chúng đầy khát vọng về cơ hội được huấn luyện của họ nếu họ lựa chọn; nó sẽ khiến họ suy nghĩ về Thánh đoàn và các chức năng của nó một cách rõ ràng hơn; nhiều điều tốt lành có thể đến từ việc truyền bá những giáo lý của nó và một kỷ nguyên mới trong lĩnh vực hướng dẫn tinh thần có thể sẽ đến. Mục tiêu hiện tại của tôi là giúp A.A.B. kết thúc bài giảng quan trọng mà tôi với sự trợ giúp của bà ấy — đã dành cho nhóm trong một thời gian dài; sau đó nó sẽ được cung cấp cho công chúng sau khi xoá bỏ một số nội dung cụ thể mà bà ấy biết, tương tự như những gì trong tập đầu tiên. Các bạn đã có nhiều hơn, nhiều hơn những gì các bạn có thể lĩnh hội; trong nhóm môn sinh ban đầu chỉ còn lại một số ít; trong số hơn năm mươi thành viên ban đầu đã liên kết với Đạo viện của tôi, chỉ còn lại mười sáu, và trong số này chỉ có tám thành viên thực sự hoạt động; và trong số tám người này, có hai người khiến tôi phải đặt câu hỏi.

You might at this point appropriately ask the following questions: Wherein lies the fault, and was there error in the choices I made? Where does the blame lie for what—on the surface—appears to be such an outstanding failure? It may perhaps interest you to have some of the reasons presented to you:

Thời điểm này, có thể thích hợp cho các bạn hỏi những câu hỏi sau: Lỗi nằm ở đâu, và liệu có sai lầm trong những lựa chọn tôi đã đưa ra không? Nguyên nhân cho sự thất bại bề ngoài có vẻ nghiêm trọng này nằm ở đâu? Có thể các bạn sẽ quan tâm đến một số lý do được trình bày với các bạn:

1. A Master, in choosing the personnel of His Ashram, is Himself governed by certain unavoidable factors:

1. Một Chân sư, trong việc lựa chọn nhân sự cho Đạo viện của Ngài, chính Ngài bị chi phối bởi một số yếu tố không thể tránh khỏi:

a. The fact that the aspiration and the development of a disciple (usually stimulated by some senior disciple) has enabled him in thought and consciousness to reach the periphery of the Ashram; sometimes the spiritual forcing process brings him to that [91] point prematurely. The disciple is, however, there; the next move is (as you say) up to the Master; He must then give the disciple the opportunity to move closer, if the capacity for such a step lies in him.

a. Thực tế là khát vọng và sự phát triển của một đệ tử (thường được kích thích bởi một số đệ tử cao cấp) đã cho phép y trong tư tưởng và trong tâm thức để đến ngoại vi của Đạo viện; đôi khi quá trình cưỡng bức tinh thần đưa y đến điểm đó [91] quá sớm. Tuy nhiên, đệ tử ở đó; bước tiếp theo là (như các bạn nói) tùy thuộc vào Chân sư; Sau đó, Ngài phải cho người đệ tử cơ hội để tiến lại gần hơn, nếu y có khả năng làm như vậy.

b. The fact of karmic relationship. Many of those who have been given the opportunity to work with me have had some relationship with me over past lives and—because of certain activities—have warranted the opportunity to work in a still closer relationship. This they prove by working off karma. Such were H.S.D. and S.S.P., neither of whom has completely failed.

b. Sự thật về mối quan hệ nghiệp quả. Nhiều người trong số những người đã được trao cơ hội làm việc với tôi đã có một số mối quan hệ với tôi trong các tiền kiếp và vì những hoạt động nhất định đã đảm bảo có cơ hội làm việc trong một mối quan hệ còn thân thiết hơn. Họ chứng minh điều này bằng cách thanh toán nghiệp quả. Đó là H.S.D. và S.S.P., cả hai không ai hoàn toàn thất bại.

c. The fact of the need—existent in the world today—for workers. The Masters are perforce driven to use people to carry out certain phases of the exoteric work of service for which they may be fitted but for which they, from other angles, are not ready. Such a one was W.D.B.

c. Thực tế về nhu cầu tồn tại trong thế giới ngày nay đối với nhân lực. Các Chân sư buộc phải sử dụng những người để thực hiện các giai đoạn nhất định của công việc phụng sự ngoại môn mà họ có thể phù hợp, nhưng họ, từ các góc độ khác, chưa sẵn sàng. Một người như vậy là W.D.B.

All these factors necessarily governed my choice, for I too (even though I may be a Master) am controlled by esoteric Law and must proffer opportunity. Among those chosen there has been much failure, but because consecration and devotion to either the Hierarchy or Humanity are still to be found in them, the affiliation with my Ashram still persists, even though in so few cases can permission to move closer be granted; they are not yet ready to reach a “more enlightened ashramic position,” as it is called.

Tất cả những yếu tố này nhất thiết phải chi phối sự lựa chọn của tôi, vì tôi (mặc dù tôi có thể là một Chân sư) cũng bị kiểm soát bởi Định Luật huyền môn và phải mang lại cơ hội. Trong số những người được chọn, đã có nhiều người thất bại, nhưng vì sự dâng hiến và tận tâm cho Thánh đoàn hoặc Nhân loại vẫn còn được tìm thấy trong họ, mối liên kết với Đạo viện của tôi vẫn tồn tại, mặc dù trong rất ít trường hợp có thể được phép tiến lại gần hơn; họ vẫn chưa sẵn sàng để đạt đến một “vị trí giác ngộ hơn trong Đạo viện” như nó được gọi.

2. Affiliation with an Ashram subjects the aspirant to intensified stimulation; in many cases it proved impossible for some chelas to handle it. Spiritual energy pouring into the personality, via the aspirant’s own soul, fostered the emergence of that which was good but also of that which could not be taken closer into the Ashram itself. The undesirable qualities had to be eliminated. (Such were S.C.P. and L.U.T.) This stimulation cannot be avoided and is one of the tests of an accepted disciple’s fitness for “ashramic sharing.” Perfection [92] is not looked for or expected, but certain personality faults of pride, temper and an undisciplined nature must at least be controlled.

2. Việc liên kết với một Đạo viện khiến người chí nguyện được kích thích mạnh mẽ; trong nhiều trường hợp, một số đệ tử không thể xử lý được. Năng lượng tinh thần tràn vào phàm ngã, thông qua linh hồn của chính người chí nguyện, đã thúc đẩy sự xuất hiện của điều tốt nhưng cũng của những điều không thể đưa gần hơn vào chính Đạo viện. Những phẩm chất không mong muốn phải được loại bỏ. (Chẳng hạn như S.C.P. và L.U.T.) Sự kích thích này không thể tránh khỏi và là một trong những bài kiểm tra sự phù hợp của một đệ tử được chấp nhận cho “việc chia sẻ có tính chất Đạo viện”. Sự hoàn hảo [92] không được tìm kiếm hay mong đợi, nhưng ít nhất phải kiểm soát được những lỗi lầm nhất định của phàm ngã như kiêu căng, nóng nảy và vô kỷ luật.

3. A dislike of criticism eliminated others from the group. They could not stand the exposure of their faults, either to themselves or to the group. They knew certain tendencies existed but not how serious they were; when I attempted to help them along these lines, resentment only was evoked. In many cases (as I have elsewhere told you) the position was taken that praise, commendation and interesting personal instructions were written by me, but should any criticism be involved—then A.A.B. was responsible. This was never once the case. In fact, several times I have modified my criticism (or analysis, as I prefer to call it), and once or twice eliminated it altogether at the request of A.A.B., who knows the Western mind better perhaps than I do. (Such members were I.S.G-L. and D.E.I.)

3. Sự không thích bị chỉ trích đã loại bỏ những người khác ra khỏi nhóm. Họ không thể chịu đựng được việc phơi bày lỗi lầm của mình, dù cho bản thân hay cho nhóm. Họ biết một số khuynh hướng tồn tại nhưng không biết chúng nghiêm trọng đến mức nào; khi tôi cố gắng giúp họ theo những đường lối này, chỉ khơi dậy sự oán giận. Trong nhiều trường hợp (như tôi đã nói với các bạn ở những nơi khác), họ cho rằng lời khen ngợi, góp ý và hướng dẫn cá nhân thú vị là do tôi viết ra, nhưng nếu có bất kỳ lời chỉ trích nào thì A.A.B. phải chịu trách nhiệm. Trường hợp này không chỉ xảy ra một lần. Trên thực tế, nhiều lần tôi đã sửa đổi lời phê bình của mình (hoặc sự phân tích, như từ tôi thích gọi hơn), và một hoặc hai lần loại bỏ nó hoàn toàn theo yêu cầu của A.A.B., người hiểu rõ tâm trí người phương Tây hơn tôi. (Những thành viên đó là I.S.G-L. Và D.E.I.)

4. Several of the students did not spiritually appreciate the opportunity with which they were faced. It was in reality a case of non-recognition, of which they were practically unconscious; they remain in this condition, awaiting another incarnation. (L.D.N-C. was a striking instance of this attitude; another was J.A.C. though he would greatly like to be reinstated. This is not possible; however, had the tenure of life by A.A.B. been better, it might have been accomplished. Another of these types was B.S.D.)

4. Một số môn sinh đã không đánh giá cao cơ hội về mặt tinh thần mà họ đối mặt. Trên thực tế, đó là trường hợp không nhận ra, thực tế họ đã không ý thức về nó; họ vẫn ở trong tình trạng này, chờ đợi một kiếp sống khác. (L.D.N.-C. Là một ví dụ nổi bật của thái độ này; một người khác là J.A.C. mặc dù ông ấy rất muốn được phục hồi. Điều này là không thể; tuy nhiên, nếu thời gian sống của A.A.B. tốt hơn, nó có thể đã được hoàn thành. Một người khác của những kiểu này là B.S.D).

5. Certain other students regarded “occult obedience” as an infringement of their freewill, as did D.A.O. Quite a number of you simply suffered from inertia, and though pleased and excited over the material received from me, in the group or personal instructions, were too lazy to avail yourselves to the full of that which was given, and consistently failed to comply with my requests.

5. Một số môn sinh khác coi “sự vâng lời huyền bí” là sự xâm phạm tự do ý chí của họ, như D.A.O. Khá nhiều bạn chỉ đơn giản là bị trì trệ, và mặc dù hài lòng và thích thú với tài liệu nhận được từ tôi, các hướng dẫn nhóm hoặc cá nhân, nhưng lại quá lười biếng để tận dụng hết những gì đã được đưa ra và liên tục không tuân thủ yêu cầu của tôi.

It is valuable to note a most significant point of interest: All those who passed through the gates of death passed to a [93] definitely closer relationship; they had earned this reward and have availed themselves of that which I had taught them. They are, as you know, C.D.P., K.E.S., D.P.R. Two others are today rapidly fitting themselves to follow these three disciples into the Ashram. They are: B.S.W., who was temporarily side-tracked for a few years prior to his death, and G.S.S., whose personality vehicles could not carry the stimulation which reached her via the group.

Cần lưu ý một điểm đáng quan tâm nhất: Tất cả những người đã đi qua cửa tử đều chuyển sang [93] một mối quan hệ chắc chắn gần gũi hơn; họ đã giành được phần thưởng này và đã tận dụng được điều mà tôi đã dạy cho họ. Như bạn đã biết, họ là C.D.P., K.E.S., D.P.R. Hiện nay có hai người khác mà bản thân họ nhanh chóng phù hợp để theo ba đệ tử này vào Đạo viện. Họ là: B.S.W., người tạm thời lạc lối trong vài năm trước khi chết, và G.S.S., người có vận cụ phàm ngã không thể chịu đựng sự kích thích đến với bà ấy thông qua nhóm.

This sensitivity to undue stimulation is a matter easily rectified now; it does not constitute a fault, but only a karmic liability.

Sự nhạy cảm với kích thích quá mức này hiện nay là một vấn đề dễ dàng được khắc phục; nó không cấu thành một lỗi lầm, mà chỉ là một món nợ nghiệp quả.

I have taken the time to say these things so as to make clear to you certain reasons for what may look to you as failure. I am greatly pleased with the work being done by some of the eight members who remain truly active. Two of you have fought through great tests and are today very much better servers. They are D.H.B. and R.S.U. One of you, R.S.W., is in danger of side-tracking her activities but will, I believe, come through the test; it will take her two more years to fight through to clarity of vision. To the other eight remaining of the original group I have no comment to make but that of encouragement. They are holding steady, but have enough teaching whereon to work and can take no more stimulation. The majority of them will not be kept waiting for admission to a definitely more positive penetrating in the Ashram when they pass through the gates of death. H.S.D. for the remainder of her life should work at the attainment of a quiet spirit, and she should also stand by A.A.B. as long as A.A.B. needs her. L.D.O. must attain to a broader point of view in place of her limited approach to humanity’s problems; she must give up her assurance that the palliatives and solutions which she suggests are completely right. F.C.D. is doing well, but he is an old and trained disciple, and about him no anxiety has been needed. The same is true of J.W.K-P.

Tôi đã dành thời gian để nói những điều này để làm rõ cho các bạn những lý do nhất định khiến các bạn có thể coi là thất bại. Tôi rất hài lòng với công việc được thực hiện bởi một số trong tám thành viên vẫn thực sự tích cực. Hai người trong số các bạn đã chiến đấu qua các bài kiểm tra tuyệt vời và ngày nay là những người phụng sự tốt hơn rất nhiều. Họ là D.H.B. và R.S.U. Một trong số các bạn, R.S.W., đang gặp nguy cơ chệch hướng các hoạt động của bạn ấy, nhưng tôi tin rằng bạn ấy sẽ vượt qua bài kiểm tra; bạn ấy sẽ mất thêm hai năm đấu tranh để có được tầm nhìn rõ ràng. Đối với tám người còn lại của nhóm ban đầu, tôi không có lời bình luận nào ngoài lời động viên. Họ đang kiên định, nhưng có đủ huấn thị để làm việc và không thể kích thích thêm nữa. Phần lớn trong số họ sẽ không cần chờ đợi để được chấp thuận thâm nhập vào một nơi sâu sắc tích cực hơn trong Đạo viện khi họ đi qua cửa tử. H.S.D. trong phần còn lại của cuộc đời bà ấy nên làm việc để đạt được một tinh thần yên tĩnh, và bà ấy cũng nên đứng về phía A.A.B. miễn là A.A.B. cần bà ấy. L.D.O. phải đạt được một quan điểm rộng hơn thay vì cách tiếp cận hạn chế của bà ấy đối với các vấn đề của nhân loại; bà ấy phải từ bỏ sự đảm bảo của mình rằng các biện pháp giảm nhẹ và giải pháp mà bà ấy đề xuất là hoàn toàn đúng. F.C.D. đang làm tốt, nhưng ông ấy là một đệ tử già dặn và đã được huấn luyện, và không cần phải lo lắng về ông ấy. Điều này cũng đúng với J.W.K-P.

I have not, as you will note, covered the whole ground. I have, however, indicated enough to show my reasons why there is so poor an exoteric showing of a truly esoteric, inner movement—an inner movement which remains intact even though the outer form does not hold together, owing to the weaknesses of its members and the pressure of daily life upon [94] the outer group. All of you—from the first admitted to the last who joined the group—are still within my aura or within the aura of the greater Ashram of the Master K.H., and will, I am confident, remain so. I would remind you also that there are many members of my Ashram of whom you know nothing and who came into my Ashram without the help of A.A.B. You are not the group of major importance. Forget not these other co-disciples. Some day, when you have established continuity of consciousness, you will know them, for you will consciously meet with them within the ring-pass-not of my Ashram. You will know also and discover the reasons for the experiment with these outer groups which is now being tried by the Hierarchy, if you will read with care the teaching upon the externalisation of the Ashram of Sanat Kumara, the Hierarchy.

Như các bạn có thể thấy, tôi chưa bao quát toàn bộ vấn đề. Tuy nhiên, tôi đã chỉ ra đủ để cho thấy lý do của tôi tại sao có một thể hiện ngoại môn quá kém cho một chuyển động bên trong thực sự bí truyền — một chuyển động bên trong vẫn còn nguyên vẹn mặc dù hình tướng bên ngoài không gắn kết với nhau, do những điểm yếu của các thành viên của nó, và áp lực của cuộc sống hàng ngày lên [94] nhóm bên ngoài. Tất cả các bạn — từ người đầu tiên được kết nạp đến người cuối cùng gia nhập nhóm — vẫn ở trong ánh hào quang của tôi hoặc trong ánh hào quang của Đạo viện lớn hơn của Chân sư K.H., và tôi tin tưởng sẽ vẫn như vậy. Tôi cũng xin nhắc các bạn rằng có rất nhiều thành viên trong Đạo viện của tôi, những người mà các bạn không biết gì và đã vào Đạo viện của tôi mà không có sự giúp đỡ của A.A.B. Các bạn không phải là nhóm có tầm quan trọng lớn. Đừng quên những người đồng môn này. Một ngày nào đó, khi các bạn đã thiết lập được tính liên tục của tâm thức, các bạn sẽ biết họ, vì các bạn sẽ gặp gỡ họ một cách có ý thức trong vòng-giới-hạn của Đạo viện của tôi. Các bạn cũng sẽ biết và khám phá lý do cho cuộc thử nghiệm với các nhóm bên ngoài này mà hiện đang được thử nghiệm bởi Thánh đoàn, nếu các bạn đọc kĩ huấn thị về sự ngoại hiện của Đạo viện của Sanat Kumara, chính là Thánh đoàn.

August-September, 1949

Tháng 8-Tháng 9 năm 1949

BROTHERS, AS OF OLD:

CÁC HUYNH ĐỆ CỦA NGÀY XƯA:

The thought constantly enters my mind as to what I can say in order to make the group work, group relationships, group identification and group initiation a sound, active and factual reality in your minds and in the minds of other aspirants and disciples. I seek with profound earnestness to make this theme or subject true and vital, because it is an essentially new esoteric concept and a germ thought which the many aspirants of the world must grasp. At the same time the aspirant must realise that the ideas are of no real importance to him as an individual—to you, therefore, as an individual and pledged disciple. As long as your state of awareness lays emphasis upon the fact of your individuality, the group idea cannot take form as a group ideal. The sense of separativeness is still present. It is a sense which has been laboriously developed—under evolutionary law—from the moment when your soul decided to experiment, to experience, and to express divinity. Separative effort, separative emotional reactions and separative materialistic endeavour have been (if I may so unfortunately express it) the spiritual essentials which must perforce precede group effort and conscious group relations. [95] The factor entailed, therefore, is a definite “break with the past,” and the entering into a new state of awareness—an awareness which is fundamentally inclusive and not exclusive.

Tư tưởng liên tục đi vào tâm trí tôi về những gì tôi có thể nói để làm cho công tác nhóm, các mối quan hệ nhóm, sự đồng nhất nhóm và điểm đạo nhóm trở thành một thực tế đúng đắn, tích cực và thực tế trong tâm trí các bạn và trong tâm trí của những người chí nguyện và đệ tử khác. Tôi tìm kiếm với mong muốn sâu sắc để làm cho chủ đề hoặc vấn đề này chân thực và quan trọng, bởi vì nó về cơ bản là một khái niệm bí truyền mới và là một tư tưởng hạt giống mà nhiều người chí nguyện trên thế giới phải nắm bắt. Cùng lúc đó người chí nguyện phải nhận ra rằng các ý tưởng không có tầm quan trọng thực sự đối với y với tư cách cá nhân—còn đối với các bạn, thì như một cá nhân và đệ tử thệ nguyện. Chừng nào trạng thái nhận thức của các bạn còn nhấn mạnh đến thực tế cá nhân của bạn, thì ý tưởng nhóm không thể hình thành như một lý tưởng nhóm. Cảm giác tách biệt vẫn còn hiện hữu. Đó là một cảm giác đã được phát triển một cách chăm chỉ— theo luật tiến hóa — từ thời điểm khi linh hồn các bạn đã quyết định thử nghiệm, trải nghiệm và thể hiện thiên tính. Nỗ lực tách biệt, các phản ứng cảm xúc tách biệt và nỗ lực vật chất tách biệt (nếu tôi có thể diễn tả một cách không may mắn như vậy) đã là những yếu tố tinh thần cần thiết phải có trước nỗ lực nhóm và các quan hệ nhóm có ý thức. [95] Do đó, yếu tố đòi hỏi là một sự “đoạn tuyệt với quá khứ”, và bước vào một trạng thái nhận thức mới—một nhận thức cơ bản là bao gồm và không loại trừ.

This is a primary platitude of which you are well aware. In most of you this platitude remains a mental proposition. You hope some day to arrive at this basic sense of inclusiveness which is characteristic of the Hierarchy. At present you do not feel fused, blended and incorporated into the mental, astral and etheric auras of those who form the group of which you know yourself to be a part. I would ask you to study what I have just said with care. Do you like, for instance, to penetrate into the mental atmosphere of a fellow member, or do you care to have him penetrate into yours and thus find out what is the content of your thought? A major test is here involved, and it is one which you will have some day to face. Do you, again, like to share your emotional reactions with a co-disciple? Are you interested in his? If so, why? Some day this responding interest must prove itself effective, and this must necessarily connote self-sacrifice in both directions. Do you want or deem it appropriate to have a fellow-worker come under the influence of your etheric body and, therefore, of the energies which flow through it? And do you want his energies to flow through you?

Đây là một sự thật hiển nhiên cơ bản mà các bạn biết rõ. Trong hầu hết các bạn, sự thật này vẫn còn là một phát biểu tinh thần. Các bạn hy vọng một ngày nào đó các bạn sẽ đạt được cảm giác cơ bản về tính bao gồm này, vốn là đặc trưng của Thánh đoàn. Hiện tại, các bạn không cảm thấy được hợp nhất, hòa trộn và kết hợp với các hào quang thể trí, thể cảm dục và thể dĩ thái của những người tạo thành nhóm mà các bạn biết mình là một phần trong đó. Tôi sẽ yêu cầu các bạn nghiên cứu những gì tôi vừa nói một cách cẩn thận. Chẳng hạn, liệu các bạn có thích thâm nhập vào bầu không khí trí tuệ của một thành viên khác, hay các bạn liệu có muốn y thâm nhập vào tâm trí của các bạn và từ đó tìm ra nội dung tư tưởng của các bạn là gì không? Đây là một bài kiểm tra lớn, và là bài kiểm tra mà các bạn sẽ phải đối mặt trong một ngày nào đó. Một lần nữa, các bạn có muốn chia sẻ phản ứng cảm xúc của mình với một đệ tử đồng môn không? Các bạn có quan tâm đến cảm xúc của người ấy không? Nếu có, thì tại sao? Một ngày nào đó, sự quan tâm đáp lại này phải chứng tỏ bản thân nó có hiệu quả, và điều này nhất thiết phải thể hiện sự tự hy sinh theo cả hai hướng. Các bạn có muốn hoặc thấy thích hợp khi để một đồng nghiệp chịu ảnh hưởng bởi thể dĩ thái của các bạn và do đó, của các nguồn năng lượng chảy qua nó không? Và các bạn có muốn các năng lượng của người ấy chảy qua các bạn không?

These are some of the implications of group work, and for these you must be prepared. The realisation of the inevitability of these necessities will lead you eventually to a careful scrutiny of your thinking, of your emotional reactions and of the energies to which you give entrance all the time because (for the first time in your soul’s history) you feel the need to guard your brother from the results of your personality reactions; consequently, scientific service supersedes your hitherto thoughtless and undisciplined activity. I would here point out that at no time do you ever attempt to guard yourself from the personality reactions of a co-disciple; you welcome them and absorb them and—whilst dealing with them—you aid the cause of liberation in his life as well as in your own.

Những điều này là một số tác động của công việc nhóm, và đối với chúng, các bạn phải chuẩn bị. Việc nhận ra tính tất yếu của những nhu cầu thiết yếu này sẽ dẫn các bạn cuối cùng đến việc xem xét kỹ lưỡng tư tưởng của các bạn, những phản ứng cảm xúc của các bạn và những năng lượng mà các bạn luôn đưa vào bởi vì (lần đầu tiên trong lịch sử linh hồn của các bạn) các bạn cảm thấy cần phải bảo vệ huynh đệ của mình khỏi kết quả của các phản ứng phàm ngã của các bạn; do đó, phụng sự khoa học thay thế cho hoạt động thiếu suy nghĩ và vô kỷ luật của các bạn cho đến nay. Ở đây tôi sẽ chỉ ra rằng các bạn không khi nào cố gắng bảo vệ bản thân khỏi những phản ứng phàm ngã của một đệ tử đồng môn; các bạn chào đón chúng và tiếp thu chúng và — trong khi đáp ứng với chúng — các bạn hỗ trợ nguyên nhân cho sự giải thoát trong cuộc sống của người ấy cũng như trong chính các bạn.

The entire subject of group interplay is far deeper and [96] more significant than you suspect or appreciate; it can be summed up in the words of St. Paul: “No man liveth unto himself.” Feeling, thinking and absorbing the many actuating and incentive energies constitute a vast process of many interrelations and this, most aspirants are apt to forget.

Toàn bộ chủ đề của sự tương tác nhóm sâu sắc hơn nhiều và [96] quan trọng hơn những gì các bạn nghi ngờ hoặc nhận thức; nó có thể được tóm tắt trong lời của Thánh Paul: “Không ai sống cho chính mình.” Cảm nhận, suy nghĩ và hấp thụ nhiều năng lượng kích thích và khuyến khích tạo thành một quá trình rộng lớn bao gồm nhiều mối quan hệ lẫn nhau, và hầu hết những người chí nguyện đều có xu hướng quên mất điều này.

I suggest that during the coming year you go over your individual instructions and then—during the course of the year—answer six questions which I will dictate. The purpose of this task (shall I call it this?) is to clarify your minds as to your problems and opportunity and latent knowledge, gained as the result of years of work under my tuition; the replies will give to your group brothers a sense of relationship with you, a feeling of shared responsibility, a recognition of group assets and group richness (again using a peculiar word) and a realisation of possibility which may greatly strengthen each and all of you. This will close our cycle of instruction. If you avail yourselves of the opportunity for this personal research work, coincident with the post-war period, you may find a sudden spiritual deepening and strengthening of your life, your spiritual contacts and your group relation; you may also find yourselves in closer rapport with the Ashram, its programme and potency, and you may likewise discover yourselves being presented with the opportunity to learn in a new and subjective manner, of which I may not speak, until you have registered it yourselves. You will thus greatly increase your usefulness to humanity, to the Ashram, and to me.

Tôi đề nghị rằng trong năm tới, các bạn xem lại các hướng dẫn cá nhân của mình và sau đó — trong suốt năm — hãy trả lời sáu câu hỏi mà tôi sẽ yêu cầu. Mục đích của nhiệm vụ này (liệu tôi có thể gọi nó là vậy?) là để làm sáng tỏ tâm trí của các bạn về các vấn đề và cơ hội cũng như kiến ​​thức tiềm ẩn của các bạn, vốn có được như là kết quả của nhiều năm làm việc dưới sự hướng dẫn của tôi; những câu trả lời sẽ cho những huynh đệ trong nhóm của các bạn cảm nhận về mối quan hệ với các bạn, cảm giác về trách nhiệm được chia sẻ, một sự thừa nhận các tài nguyên của nhóm và sự giàu có của nhóm (một lần nữa sử dụng một từ đặc biệt) và nhận ra khả năng vốn có thể tăng cường rất nhiều cho mỗi người và cho tất cả các bạn . Điều này sẽ đóng lại chu kỳ hướng dẫn của chúng ta. Nếu các bạn tự mình tận dụng được cơ hội cho công việc nghiên cứu cá nhân này, trùng hợp với thời kỳ hậu chiến, các bạn có thể tìm thấy một sự đào sâu và mạnh mẽ về tinh thần một cách bất ngờ trong cuộc sống của các bạn, những mối liên hệ tinh thần và mối quan hệ nhóm của các bạn; các bạn cũng có thể thấy mình có mối quan hệ chặt chẽ hơn với Đạo viện, chương trình và hiệu lực của nó, và các bạn có thể khám phá ra rằng mình đang có cơ hội học hỏi theo một cách mới và chủ quan, điều mà tôi có thể không nói, cho đến khi các bạn đã tự ghi nhận. Do đó, các bạn sẽ gia tăng rất nhiều sự hữu ích của mình cho nhân loại, cho Đạo viện và cho tôi.

The Science of Impression [vii]* is of major importance to the group. The time for close attention to yourselves and to your individual characters is past; group activity should take its place. By this I mean the activity of this particular group of disciples in relation to my Ashram and in relation to world service.

Khoa học về Ấn tượng [vii] * có tầm quan trọng chính đối với nhóm. Thời gian cho việc chú ý kỹ đến bản thân và các đặc tính cá nhân của các bạn đã qua; hoạt động nhóm nên được diễn ra. Nói như vậy vì tôi muốn nói đến hoạt động của nhóm các đệ tử cụ thể này trong mối liên hệ với Đạo viện của tôi và liên quan đến việc phụng sự thế gian.

I would like you to do some further thinking upon the theme of our seventh point, the externalisation of the Masters’ Ashrams, so that what I hope to say in the next instruction may mean more to you.

Tôi muốn bạn suy nghĩ thêm về chủ đề của điểm thứ bảy của chúng ta, sự ngoại hiện của các Đạo viện của các Chân sư, nhờ vậy những gì tôi hy vọng sẽ nói trong bài hướng dẫn tiếp theo có thể có ý nghĩa hơn đối với các bạn.

Take your group papers and the book Discipleship in the [97] New Age (Vol. I) and run quickly through these two sources of information and then write down:

Hãy lấy những bài viết của nhóm các bạn và cuốn sách Đường đạo trong [97] Kỉ nguyên mới (Tập I) và lướt nhanh qua hai nguồn thông tin này rồi viết ra:

1. Any definitions of an Ashram you may find. There are many.

1. Bất kỳ định nghĩa nào về Đạo viện mà các bạn có thể tìm thấy. Có nhiều định nghĩa.

2. A short, tabulated statement as to the unique work which every Ashram carries on in the outer world through its initiates and disciples and through affiliated disciples, such as the majority of you. Two or three of you are beyond the stage of affiliation.

2. Một tuyên bố ngắn gọn, được lập bảng về công việc duy nhất mà mọi Đạo viện thực hiện ở thế giới bên ngoài thông qua các điểm đạo đồ và các đệ tử của Đạo viện và thông qua các đệ tử liên kết, chẳng hạn như phần lớn các bạn. Hai hoặc ba người trong số các bạn đã vượt qua giai đoạn liên kết.

This assignment need not take you long.

Nhiệm vụ này không cần các bạn mất nhiều thời gian.

My brothers, I am spiritually ambitious for you. I have gathered you into my ashramic group and, therefore, into my aura for vitalising, for training and for protection. My love goes ever out to you and my unifying desire. Will you not aid me in my task? Will you stand with me in the hierarchical endeavour to which I am pledged and which I have undertaken in consort with the other Masters? There is much that you can do by speech, by pen and by example. Will you not do it—with a simple heart and a single eye for the helping of a deeply suffering and overburdened humanity.

Các huynh đệ của tôi, tôi có nhiều tham vọng tinh thần cho các bạn. Tôi đã tập hợp các bạn vào nhóm Đạo viện của tôi và do đó, vào hào quang của tôi để truyền sức sống, để huấn luyện và để bảo vệ. Tình thương của tôi dành cho các bạn và cho mong muốn hợp nhất của tôi. Các bạn sẽ không trợ giúp tôi trong nhiệm vụ của tôi? Liệu các bạn có sát cánh cùng tôi trong nỗ lực của Thánh đoàn mà tôi đã lập nguyện và những gì tôi đã thực hiện cùng với các Chân sư khác không? Có rất nhiều điều các bạn có thể làm bằng lời nói, bằng bút và bằng ví dụ. Các bạn sẽ không làm điều đó—với một trái tim giản dị và một con mắt độc nhất[2] để giúp đỡ nhân loại đang đau khổ và bị quá tải.

The six questions are intended to summarise and make deeply personal and significant in your consciousness the instructions, given during the past few years to this group of affiliated disciples. They can be regarded as being put to the disciple by his own soul and will mark—if correctly and creatively used—the closing of a preliminary cycle and the beginning of a new cycle of spiritual usefulness and of fresh growth and development.

Sáu câu hỏi nhằm mục đích tóm tắt và làm cho những chỉ dẫn trở nên mang tính cá nhân và có ý nghĩa sâu sắc trong tâm thức của các bạn, được đưa ra trong vài năm qua cho nhóm các đệ tử liên kết này. Chúng có thể coi như được trao cho người đệ tử bởi chính linh hồn của y và sẽ đánh dấu—nếu được sử dụng một cách đúng đắn và sáng tạo—sự kết thúc của một chu kỳ sơ bộ và bắt đầu một chu kỳ mới của sự hữu ích về tinh thần cũng như sự tăng trưởng và phát triển mới.

These questions should receive most careful consideration and much serious reflection, prior to answering. The answers should convey the truth, as the disciple sees it today and not in the light of his wishful thinking and of his aspiration; the answers should be written down (so as to focus that truth) with no thought or fear of what other members of the group may think. In an Ashram, my brothers, a man is known as he is; for this clear knowledge, the members of this group (affiliated with my Ashram) should prepare themselves. [98]

Những câu hỏi này cần được xem xét cẩn thận nhất và suy ngẫm nghiêm túc trước khi trả lời. Các câu trả lời phải truyền đạt sự thật, như hiện tại người đệ tử thấy nó chứ không phải dưới ánh sáng của mơ tưởng và khát vọng của y; các câu trả lời nên được viết ra (để tập trung vào sự thật đó) mà không có tư tưởng hoặc sợ hãi về việc các thành viên khác trong nhóm có thể nghĩ những gì. Hỡi các huynh đệ của tôi, trong một Đạo viện một người được biết như y là; các thành viên của nhóm này (được liên kết với Đạo viện của tôi) nên chuẩn bị mình cho điều này. [98]

One suggestion I will make: There are six questions, providing one question, therefore, for consideration each two months during the coming year. Give two months to careful consideration, reflection and interior investigation and then, at the end of the second month, formulate your reply.

Tôi sẽ đưa ra một gợi ý: Có sáu câu hỏi, do đó, trong năm tới cứ hai tháng một lần, một câu hỏi được đưa ra xem xét. Hãy dành hai tháng để cân nhắc kỹ lưỡng, suy ngẫm và nghiên cứu nội tâm và sau đó, vào cuối tháng thứ hai, hãy trình bày rõ ràng câu trả lời của các bạn.

Question 1. From a study of the instructions given by me on your five conditioning rays and from a study of yourself in connection with the information given:

Câu hỏi 1. Từ một nghiên cứu về các chỉ dẫn do tôi đưa ra về năm cung qui định của các bạn, và từ một nghiên cứu về bản thân liên quan đến thông tin đã cho:

a. Which of your five conditioning rays controls you or which is the most dominant?

a. Cung nào trong số năm cung có tác động quan trọng điều khiển các bạn hoặc cung nào là cung ưu thế nhất?

b. Which ray should control you and how can you strengthen that control?

b. Cung nào nên kiểm soát các bạn và làm thế nào các bạn có thể tăng cường sự kiểm soát đó?

The answering of this question will require a truthful consideration of your good and bad qualities, of your assets as well as your limitations.

Việc trả lời câu hỏi này sẽ đòi hỏi sự cân nhắc trung thực về những phẩm chất tốt và xấu của các bạn, về các tài sản cũng như những hạn chế của các bạn.

Question 2. Looking back over the years of instruction, do you feel that you have definitely advanced upon the Path? If so, upon what grounds do you base this belief? Could you have made more progress under the circumstances and if you have not, what was the reason or reasons?

Câu hỏi 2. Nhìn lại những năm tháng được hướng dẫn, các bạn có cảm thấy rằng mình chắc chắn đã tiến bộ trên đường Đạo không? Nếu có, các bạn đặt niềm tin này theo cơ sở nào? Các bạn có thể đạt được nhiều tiến bộ hơn trong hoàn cảnh đó không, và nếu các bạn không đạt được, thì lý do hoặc các lý do là gì?

Question 3. In what do you personally feel that your work in the future should consist in the following three relations:

Câu hỏi 3. Cá nhân các bạn cảm thấy công việc của mình trong tương lai nên bao gồm ba mối quan hệ nào sau đây:

a. With your personality, in its particular circumstances and environment, so as to make your daily life more spiritually effective?

a. Với phàm ngã của các bạn, trong hoàn cảnh và môi trường cụ thể của nó, để làm cho cuộc sống hàng ngày của các bạn hiệu quả hơn về mặt tinh thần?

b. In order to establish a closer contact with your soul, with the same objective of effective spiritual living?

b. Để thiết lập sự tiếp xúc chặt chẽ hơn với linh hồn các bạn, liệu có phải với mục tiêu giống như của sự sống tinh thần thật sự không?

c. In order to bring about soul and personality at-one-ment and clearly demonstrate the fact. What do you regard as the present [99] greatest hindrance to this accomplishment?

c. Nhằm mang lại sự nhất quán cho linh hồn và phàm ngã là một và thể hiện rõ ràng thực tế này. Hiện tại các bạn coi điều gì là trở ngại lớn nhất [99] đối với thành tựu này?

Question 4. Are you satisfied with the relationship you have established with your group brothers?

Câu hỏi 4. Các bạn có hài lòng với mối quan hệ mà các bạn đã thiết lập với các huynh đệ trong nhóm của mình không?

a. Do you know them better and love them more than you earlier did? This means all of them, as a group.

a. Các bạn có biết họ nhiều hơn và yêu họ nhiều hơn trước đó không? Điều này có nghĩa là tất cả họ, như một nhóm.

b. Along what lines do you feel that you have failed them, if you have, and what do you propose to do to rectify the situation?

b. Các bạn cảm thấy mình đã thất bại ở điểm nào, nếu có, và các bạn đề xuất làm gì để khắc phục tình hình này?

c. In what way do you feel that you have been an asset to the group?

c. Theo cách nào các bạn cảm thấy mình là tài sản của nhóm?

These four questions concern largely your ability to live as a soul in your little outer world and have reference primarily to your objective expression. The next two questions concern your subjective relationships.

Bốn câu hỏi này phần lớn liên quan đến khả năng sống như một linh hồn trong thế giới bên ngoài nhỏ bé của các bạn và chủ yếu liên quan đến biểu hiện khách quan của các bạn. Hai câu hỏi tiếp theo liên quan đến các mối quan hệ chủ quan của các bạn.

Question 5. What is your attitude towards your Master, Djwhal Khul, as a result of years of training under His instruction?

Câu hỏi 5. Thái độ của các bạn đối với Chân sư, Djwhal Khul, kết quả của nhiều năm rèn luyện dưới sự chỉ dạy của Ngài, là gì?

a. Can you sense my vibration at any time? How do you know the difference between my vibration, that of your own soul or the group?

a. Các bạn có thể cảm nhận được sự rung động của tôi bất cứ lúc nào không? Làm sao các bạn biết được sự khác biệt giữa rung động của tôi, rung động của linh hồn riêng của các bạn hay (rung động – ND) của nhóm?

b. What effect has the work of the full moon had upon you? Have there been any results of that attempted contact and, if so, what are they?

b. Công việc trăng tròn có ảnh hưởng gì đến các bạn? Đã có bất kỳ kết quả nào của việc tiếp xúc thử đó chưa, và nếu có thì chúng là gì?

c. What should now govern your efforts in relation to your work as my disciple during the coming remainder of your life?

c. Điều gì bây giờ sẽ chi phối những nỗ lực của các bạn liên quan đến công việc của các bạn với tư cách là đệ tử của tôi trong phần còn lại sắp tới của cuộc đời các bạn?

Question 6. What part in my plans and in the task assigned to my Ashram are you prepared to take? This question concerns both your outer and your inner work of a practical nature. [100]

Câu hỏi 6. Các bạn chuẩn bị thực hiện phần nào trong các kế hoạch của tôi và nhiệm vụ được giao cho Đạo viện của tôi? Câu hỏi này liên quan đến cả công việc bên ngoài và công việc bên trong có tính chất thực tế của các bạn. [100]

a. Have you any definite schedule of work outlined in your mind as your contribution to the activity of my Ashram?

a. Các bạn có bất kỳ lịch trình làm việc cụ thể nào được phác thảo trong đầu như là đóng góp của các bạn cho hoạt động của Đạo viện của tôi không?

b. If so, what is it and how do you propose to implement it and make it effective?

b. Nếu vậy, đó là gì và các bạn đề xuất thực hiện nó như thế nào và làm sao cho nó có hiệu quả?

c. What is the main task of the Ashram at this time? Do you know the type of assistance—subjective or objective or both—that you could give?

c. Nhiệm vụ chính của Đạo viện lúc này là gì? Các bạn có biết loại hỗ trợ — chủ quan hay khách quan hoặc cả hai — mà các bạn có thể cung cấp không?

This last question goes deeply into your ability to react to impression from me and from the Ashram. I would have you answer it, to the best of your ability, from that angle.

Câu hỏi cuối cùng này đi sâu vào khả năng đáp ứng của các bạn với ấn tượng từ tôi và từ Đạo viện. Tôi sẽ yêu cầu các bạn trả lời nó từ góc độ đó, trong khả năng tốt nhất của các bạn.

Pass on, my disciples, into a closer relation to the Ashram of which I am the focal point; aim at a closer rapport with your fellow-workers and with me. I am the director of your work. That this relationship may prove the signal achievement of the coming year for each and all of you is my earnest wish.

Hỡi các đệ tử của tôi, hãy chuyển qua một mối liên hệ chặt chẽ hơn với Đạo viện mà tôi là tâm điểm; hướng tới mối quan hệ thân thiết hơn với đồng nghiệp của các bạn và với tôi. Tôi là người điều hành công việc của các bạn. Rằng mối quan hệ này có thể chứng minh thành tựu đáng chú ý trong năm tới của mỗi bạn và tất cả các bạn là mong muốn thiết tha của tôi.

Commentary #35  [Đến Bình Giảng]

November-December 1949

Tháng 11- tháng 12 năm 1949

MY BROTHERS OF LONG ASSOCIATION:

CÁC HUYNH ĐỆ ĐỒNG HÀNH LÂU DÀI CỦA TÔI:

In my last instruction to you I gave you only a very little teaching anent group work, though there were several significant hints if you had the intuition to grasp them. I have, however, given you much over the years; yet, when I look back over those years, I am forced to realise how relatively little you have profited by this teaching upon group work, though many of you have profited much by the personal instructions I gave you. Only sixteen of you are left out of an original fifty aspirants to discipleship; I think you yourselves would be the first to admit that there is little group interplay and no group enterprise animating those few of you who remain steadfast.

Trong hướng dẫn trước đó dành cho các bạn, tôi đã cho các bạn biết chỉ một chút giáo lý về công việc nhóm, thế nhưng có một số gợi ý quan trọng nếu các bạn có trực giác để nắm bắt chúng. Tuy nhiên, tôi đã cho các bạn nhiều trong những năm qua; vâng, khi tôi nhìn lại những năm đó, tôi buộc phải nhận ra rằng các bạn đã thu được tương đối rất ít lợi ích về việc giảng dạy này về công việc nhóm, mặc dù nhiều người trong số các bạn đã thu được nhiều lợi ích nhờ những hướng dẫn cá nhân mà tôi đã đưa cho các bạn. Chỉ có mười sáu người trong số các bạn còn lại trong số năm mươi người chí nguyện ban đầu để trở thành đệ tử; Tôi nghĩ chính các bạn sẽ là người đầu tiên thừa nhận rằng có rất ít tương tác nhóm và không có hợp tác nhóm nào thúc đẩy một số ít trong số các bạn vẫn giữ sự kiên định.

Certain of you (F.C.D., J.W.K-P., R.V.B., P.G.C., R.S.U., and R.S.W.) are actively working in relation to my plans, though those plans are not in reality mine, but simply the required cooperation in hierarchical endeavour. The rest of [101] you are engulfed in the processes of daily living or else too tired to be more active than you already are, and for that condition of the personality I have no criticism.

Một số bạn (F.C.D., J.W.K-P., R.V.B., P.G.C., R.S.U. và R.S.W.) đang tích cực làm việc liên quan đến kế hoạch của tôi, mặc dù những kế hoạch đó trong thực tế không phải là của tôi, mà chỉ đơn giản là sự hợp tác cần thiết trong nỗ lực của Thánh đoàn. Phần còn lại của [101] các bạn bị nhấn chìm trong các quy trình của cuộc sống hàng ngày, hoặc không thì quá mệt mỏi để trở nên năng động hơn so với những gì các bạn từng làm, và đối với tình trạng đó của phàm ngã, tôi không có lời chỉ trích nào.

It is necessary for you to remember that this group effort which I initiated with the assistance of some of the older and more experienced Masters, is by no means completed; it may be (and probably is) an experiment in this particular life for you, but next life may evoke from you a new attitude and a deeper comprehension of what is subjectively going on. It has been your lack of comprehension and of understood opportunity which has distressed me and bewildered A.A.B. Like all disciples, she had at first to work in the dark; she knew nothing in her physical brain consciousness of the Masters or the Hierarchy when she started to serve, but she continued to serve for many years till discovery rewarded her or (should I perhaps say?) recovery of ancient links and knowledge clarified her vision and her position in regard to truth. Slowly she now withdraws into that service which will (within the Ashram) enable K.H. to do more deeply spiritual work in collaboration with the Christ. It was to train her and thus enable her to do this that she undertook, alone and without my help, to found and organise the Arcane School; it gave her much needed training and experience and enabled her to demonstrate the quality of the teaching and that esoteric psychology which is the major task in each Ashram and particularly in the second ray Ashram.

Các bạn cần phải nhớ rằng nỗ lực nhóm này mà tôi khởi xướng với sự hỗ trợ của một số vị Chân sư thâm niên hơn và nhiều kinh nghiệm hơn, không có nghĩa là đã hoàn thành; nó có thể là (và có lẽ là) một thử nghiệm trong kiếp sống cụ thể này đối với các bạn, nhưng kiếp sống tiếp theo có thể gợi lên cho các bạn một thái độ mới và sự hiểu biết sâu sắc hơn về những gì bên trong đang diễn ra. Chính sự thiếu hiểu biết của các bạn và sự thiếu hiểu biết về cơ hội đã khiến tôi đau khổ và khiến A.A.B hoang mang. Giống như tất cả các đệ tử, lúc đầu bà phải làm việc trong bóng tối; bà không biết gì trong ý thức não bộ vật lý của mình về các Chân sư hoặc Thánh đoàn khi bà bắt đầu phụng sự, nhưng bà tiếp tục phụng sự trong nhiều năm cho đến khi sự khám phá đã ban thưởng cho bà hoặc (có lẽ tôi nên nói?) sự phục hồi của các liên kết và kiến ​​thức cổ xưa làm sáng tỏ tầm nhìn của bà và vị trí của bà đối với chân lý. Giờ đây bà từ từ rút lui vào công việc phụng sự vốn sẽ (bên trong Đạo viện) cho phép Chân sư K.H. cộng tác với Đức Christ để thực hiện nhiều công việc thiêng liêng sâu sắc hơn. Chính là để huấn luyện bà và do đó cho phép bà làm điều mà bà đã đảm nhận, một mình và không có sự giúp đỡ của tôi, để thành lập và tổ chức Trường Arcane; nó đã mang lại cho bà rất nhiều sự huấn luyện và kinh nghiệm cần thiết và cho phép bà chứng minh chất lượng giảng dạy và tâm lý học bí truyền vốn là nhiệm vụ chính trong mỗi Đạo viện và đặc biệt là trong Đạo viện cung hai.

I would like to say at this point to all of you who have remained steadfast, even if perforce inactive, that I would ask you as life proceeds and you face eventually and inevitably the discarding of the vehicle, to hold increasingly on to your knowledge of the Hierarchy and thus to pass over to the other side with complete dedication to the hierarchical Plan. This is not simply a suggestion on my part; it is an attempt on my part to call to your attention the concept of a spiritual continuity of knowledge and of a rightly oriented attitude. Thus time will not be lost; you can—if you so choose, each and all of you—attain a true continuity of consciousness and it is one of the factors which will serve to hold this group of disciples together. [102]

Vào thời điểm này, tôi muốn nói với tất cả các bạn, những người vẫn kiên định, ngay cả nếu cần thiết phải ngừng hoạt động, rằng tôi sẽ hỏi các bạn khi cuộc sống tiếp diễn và các bạn cuối cùng và chắc chắn phải đối mặt với việc vứt bỏ vận cụ này, hãy ngày càng nắm vững kiến ​​thức/hiểu biết của mình về Thánh đoàn và do đó để chuyển sang phía bên kia với sự cống hiến hoàn toàn cho Thiên cơ/Kế hoạch của Thánh đoàn. Đây không chỉ là một gợi ý về phía tôi; đó là một nỗ lực về phần tôi để kêu gọi sự chú ý của các bạn về khái niệm của một sự liên tục tinh thần của tri thức và của một thái độ có định hướng đúng đắn. Như vậy thời gian sẽ không bị mất đi; các bạn có thể—nếu các bạn chọn như vậy, mỗi bạn và tất cả các bạn—đạt được một tâm thức liên tục thực sự và đó là một trong những yếu tố sẽ giúp giữ nhóm đệ tử này cùng nhau. [102]

There are some things which I must say to you as this will be my last instruction on the theme of group work. It is not necessary for me to say much more upon the subject. I would start with some questions. Do you ever think with recognition of those who are no longer working with us? For instance, is D.A.O. ever in your minds? Do you ever think of S.C.P., of W.D.B., of J.A.C., or of that expert worker for the Hierarchy, L.D.N-C? I would guarantee that they seldom enter your mind. Yet they are still an integral part of this group which had the task and the responsibility of being one of the first groups (not by any means the only one, however) to attempt to make the first steps towards the externalisation of the Ashrams of the Hierarchy.

Có một số điều tôi phải nói với các bạn vì đây sẽ là hướng dẫn cuối cùng của tôi về chủ đề làm việc nhóm. Tôi không cần thiết phải nói nhiều hơn về chủ đề này. Tôi sẽ bắt đầu với một số câu hỏi. Các bạn có bao giờ nghĩ đến những người không còn làm việc với chúng ta không? Ví dụ, D.A.O. có bao giờ ở trong tâm trí các bạn không? Các bạn có bao giờ nghĩ về S.C.P., W.D.B., J.A.C., hoặc người làm việc chuyên nghiệp cho Thánh đoàn, L.D.N-C? Tôi đảm bảo rằng họ hiếm khi lọt vào tâm trí các bạn. Tuy nhiên, họ vẫn là một phần không thể thiếu của nhóm này, nhóm có nhiệm vụ và trách nhiệm là một trong những nhóm đầu tiên (tuy nhiên, không phải là nhóm duy nhất) cố gắng thực hiện những bước đầu tiên hướng tới việc ngoại hiện các Đạo viện của Thánh đoàn.

One of the major recognitions which is essential to the spiritual aspirant is that the Hierarchy is completely unable—under the law of the freedom of the human soul—to work in the world of men without those representative groups which can “step down” the hierarchical quality of energy so that the average man (with his average vibration and quality) can find in himself a point of response. It was for this specific reason that I engineered this experiment in group work with all of you in order to test out the human capacity in its higher brackets to respond to this much higher quality. It has not worked out as I had hoped, but owing to the fact that all of you are—from our point of view—of the same spiritual generation and that the difference in age was in no case more than twenty-five years at the outside (and believe me, my brother, I forget physical plane ages!) you will all return together to continue with this inevitable experience.

Một trong những nhận thức chủ yếu cần thiết đối với những người chí nguyện tinh thần là Thánh đoàn hoàn toàn không thể — theo định luật tự do của linh hồn con người — làm việc trong thế giới của con người mà không có những nhóm đại diện vốn có thể “hạ thấp” phẩm chất năng lượng của Thánh đoàn để một người trung bình (với rung động và phẩm chất trung bình của y) có thể tìm thấy ở y một điểm đáp ứng. Chính vì lý do cụ thể này mà tôi đã thiết kế thử nghiệm này về làm việc nhóm với tất cả các bạn để kiểm tra khả năng của nhân loại trong các nhóm cao hơn của nó để đáp ứng với chất lượng cao hơn nhiều này. Nó không diễn ra như tôi đã hy vọng, nhưng do thực tế là tất cả các bạn — theo quan điểm của chúng tôi — thuộc cùng một thế hệ tinh thần, và rằng sự khác biệt về tuổi tác không quá hai mươi lăm năm ở bên ngoài (và tin tôi đi, các huynh đệ của tôi, tôi quên mất tuổi của cõi vật lý!), tất cả các bạn sẽ trở lại cùng nhau để tiếp tục với trải nghiệm không thể tránh khỏi này.

In the coming cycle of service, however, you will not have the association that you have had during this life with A.A.B. and F.B., who will then be working in the Ashrams of their own Masters, as will also F.C.D. and R.S.U. Do not infer from the above statement that contact and mutual interplay in world service will not then be present; it will. The union of all the Ashrams under the spiritual Plan is complete and the interlocking relationships will be increasingly present. But neither of these four people will be working in my Ashram and for this I would have you prepare. Remember nevertheless [103] that personal karmas have been established and are based upon many unexpected relationships, and there is much personal karma in this group of over fifty people; this was necessarily so; otherwise little personal relationships would have been possible, which may present a difficult point for you to understand.

Tuy nhiên, trong chu kỳ phụng sự sắp tới, các bạn sẽ không có mối liên hệ mà các bạn đã có trong suốt cuộc đời này với A.A.B. và F.B., những người sau đó sẽ làm việc trong Đạo viện của các Chân sư của chính họ, cũng như F.C.D. và R.S.U. Đừng suy ra từ tuyên bố trên rằng sẽ không có mặt sự liên hệ và tác động lẫn nhau trong việc phụng sự thế gian; nó sẽ có. Sự hợp nhất của tất cả các Đạo viện theo Kế hoạch tinh thần đã hoàn thành và các mối quan hệ gắn bó với nhau sẽ ngày càng hiện hữu. Nhưng không ai trong số bốn người này sẽ làm việc ở Đạo viện của tôi, và vì điều này, tôi sẽ yêu cầu các bạn chuẩn bị. Tuy nhiên, hãy nhớ rằng [103] nghiệp quả cá nhân đã được thiết lập và dựa trên nhiều mối quan hệ bất ngờ, và có nhiều nghiệp quả cá nhân trong nhóm hơn năm mươi người này; điều này nhất thiết phải như vậy; nếu không thế sẽ có thể có các mối quan hệ cá nhân nhỏ, điều này có thể cho thấy một điểm khó hiểu đối với các bạn.

I would like to arrest any tendency to consider one Ashram as superior to another. The forty-nine Ashrams which constitute the Hierarchy in this planetary period are some of them fully active; some are in process of formation, and some are, as yet, in a totally embryonic condition, awaiting the “focussing ability” of some initiate who is today preparing for the fifth initiation. Essentially and potentially all the Ashrams are equal, and their quality is not competitive; all of them differ as to their planned activity—an activity which is all part of a carefully formulated hierarchical activity. This you need most carefully to remember. The devotion of a disciple to some particular Master is of no importance to that Master or to His ashramic group. It is not devotion or predilection or any personality choice which governs the formation of a Master’s group. It is ancient relationships, the ability to demonstrate certain aspects of life to demanding humanity and a definite ray expression of quality which determine the hierarchical placement of aspirants in an Ashram. This will perhaps be a new thought to you and is responsible for the reason why A.A.B. has never emphasised concentration on some one of the known Masters. She has always been aware that each central Ashram has associated with it six other Ashrams which are steadily and constantly being organised to meet planetary need. You will note that I did not say “human need,” for the needs of the planet which the Hierarchy has to meet embrace more than those of the fourth kingdom in nature. I would have you ponder on these points.

Tôi muốn ngăn chặn bất kỳ xu hướng nào coi Đạo viện này là vượt trội hơn Đạo viện khác. Bốn mươi chín Đạo viện tạo thành Thánh đoàn trong thời kỳ hành tinh này và một số trong đó đang hoạt động hoàn toàn; một số đang trong quá trình hình thành, và một số vẫn ở trong tình trạng hoàn toàn phôi thai, đang chờ đợi “khả năng tập trung” của một số điểm đạo đồ, những người ngày nay đang chuẩn bị cho cuộc điểm đạo lần thứ năm. Về cơ bản và tiềm năng tất cả các Đạo viện đều bình đẳng, và không cạnh tranh về chất lượng của nhau; tất cả đều khác nhau về hoạt động đã lên kế hoạch của chúng — một hoạt động mà tất cả đều là một phần của hoạt động Thánh đoàn được xây dựng cẩn thận. Điều này bạn cần nhớ cẩn thận nhất. Sự sùng kính của một đệ tử đối với một Chân sư cụ thể không quan trọng đối với Chân sư đó hay đối với nhóm Đạo viện của Ngài. Không phải sự tận tâm hay sở thích hoặc bất kỳ lựa chọn phàm ngã nào chi phối sự hình thành nhóm của một Chân sư. Đó là những mối quan hệ cổ xưa, khả năng thể hiện những khía cạnh nhất định của sự sống đối với những đòi hỏi của nhân loại và sự thể hiện rõ ràng về phẩm tính cung, là những điều vốn quyết định vị trí thứ bậc của những người chí nguyện trong một Đạo viện. Đây có lẽ sẽ là một tư tưởng mới đối với các bạn và là nguyên nhân tại sao A.A.B. chưa bao giờ nhấn mạnh đến sự tập trung vào một số vị Chân sư đã biết. Bà luôn ý thức rằng mỗi Đạo viện trung tâm có liên kết với nó sáu Đạo viện khác đang được tổ chức đều đặn và liên tục để đáp ứng nhu cầu của hành tinh. Các bạn sẽ để ý rằng tôi không nói “nhu cầu của nhân loại”, vì những nhu cầu của hành tinh mà Thánh đoàn phải đáp ứng bao gồm nhiều hơn những nhu cầu của giới thứ tư trong tự nhiên. Tôi sẽ yêu cầu các bạn suy ngẫm về những điểm này.

It would be of benefit to you also to consider the Masters’ Ashrams as expressions of the highest type of constructively functioning groups. There exists amongst its personnel a complete unity of purpose and an utter dedication (without any reservations, as far as the disciple involved is concerned) to the furthering of the immediate ashramic enterprise. The [104] position of the Master at the centre of the group has no relation to that of a teacher at the centre of a group of learners and devotees, such as we have learned to recognise in this Piscean Age. He is the centre simply because through the quality of His vibration, through karmic ancient relationship and through the invocative demand of disciples, initiates and some aspirants, He has gathered them together in order to further the ends of His ashramic enterprise; He has not gathered them together in order to teach them or to prepare them for initiation as has hitherto been taught. Aspirants and disciples prepare themselves for the processes of initiation by becoming initiated into the mysteries of divinity through discipline, meditation and service. You need to bear in mind that a Master of an Ashram may, for instance, attract to Him other Masters of equal rank as His Own. I have five Masters working with me in my Ashram. It would be of value to you if you considered the factors which hold an Ashram together and which establish its unity. The major ones, and those which you can understand, are as follows:

Sẽ có ích cho các bạn nếu coi Đạo viện của các Chân sư như là biểu hiện của loại nhóm hoạt động mang tính xây dựng cao nhất. Trong các nhân sự của nhóm tồn tại một sự thống nhất hoàn toàn về mục đích và sự cống hiến trọn vẹn (không có bất kỳ sự dè dặt nào đối với người đệ tử liên quan ) để phát triển công việc Đạo viện một cách trực tiếp. [104] Vị trí của Chân sư ở trung tâm của nhóm không có mối liên hệ nào với vị trí của một người thầy ở trung tâm của một nhóm người học và người sùng đạo, chẳng hạn như chúng ta đã học cách nhận ra trong Thời đại Song Ngư này. Ngài là trung tâm đơn giản bởi vì thông qua phẩm chất rung động của Ngài, thông qua mối quan hệ nghiệp quả cổ xưa và qua nhu cầu khẩn cầu của các đệ tử, các điểm đạo đồ và một số người chí nguyện, Ngài đã tập hợp họ lại với nhau để đẩy mạnh các mục tiêu của Đạo viện Ngài; Ngài đã không tập hợp họ lại với nhau để dạy họ hoặc chuẩn bị cho họ điểm đạo như đã được dạy cho đến nay. Những người chí nguyện và đệ tử tự chuẩn bị cho các quá trình điểm đạo bằng cách trở thành người được điểm đạo vào các bí nhiệm thiêng liêng thông qua kỷ luật, tham thiền và phụng sự. Các bạn cần lưu ý rằng chẳng hạn, một Chân sư của một Đạo viện có thể thu hút tới Ngài những Chân sư khác có cấp bậc ngang hàng với Ngài. Tôi có năm Chân sư đang làm việc với tôi ở Đạo viện của tôi. Điều này sẽ có giá trị đối với các bạn nếu các bạn xem xét các yếu tố gắn kết một Đạo viện lại với nhau và tạo nên sự thống nhất của nó. Những điều chính, và là những điều các bạn có thể hiểu, là như sau:

1. The most important capacity of a Master of an Ashram is that He has earned the right to communicate directly with the Council at Shamballa and thus to ascertain at first hand the immediate evolutionary task which the Hierarchy is undertaking. He is not called Master by the initiates in His Ashram; He is regarded as the Custodian of the Plan, and this is based on His ability to “face the greater Light which shines in Shamballa.” It is the Plan which gives the keynote to the activities of any Ashram at any particular time, during any particular cycle.

1. Năng lực quan trọng nhất của Chân sư ở một Đạo viện là Ngài đã có được quyền giao tiếp trực tiếp với Hội đồng tại Shamballa và như vậy xác định trực tiếp nhiệm vụ tiến hóa trước mắt mà Thánh đoàn đang thực hiện. Ngài không được gọi là Chân sư bởi các điểm đạo đồ ở Đạo viện của Ngài; Ngài được coi là Người Giám Sát của Thiên cơ, và điều này dựa trên khả năng của Ngài để “đối mặt với Ánh sáng Vĩ đại hơn tỏa sáng ở Shamballa.” Chính Thiên cơ giao nguyên tắc chủ đạo cho các hoạt động của bất kỳ Đạo viện nào vào bất kỳ thời điểm cụ thể nào, trong bất kỳ chu kỳ cụ thể nào.

2. This unanimity of purpose produces a very close subjective relationship, and each member of the Ashram is occupied with making his fullest possible contribution to the task in hand. Personalities do not enter in. You will remember how some years ago I told you that the personality vehicles are ever left outside the Ashram—speaking symbolically. This means that the subtler bodies of the personality have perforce to follow the same rules as the physical body—they are left outside. Remember also that [105] the Ashrams exist upon the plane of buddhi or of the intuition. The joint undertaking and the united adhering to the desired and arranged cyclic technique binds all members of the Ashram into one synthetic whole; there is therefore no possible controversy or any emphasis upon individual ideas, because no personality vibratory quality can penetrate in the periphery or the aura of an Ashram.

2. Sự nhất trí về mục đích này tạo ra một mối quan hệ chủ quan rất chặt chẽ, và mỗi thành viên của Đạo viện đều nỗ lực đóng góp hết sức có thể của mình cho nhiệm vụ được giao. Không có các phàm ngã đi vào đó. Các bạn nhớ lại cách đây vài năm tôi đã nói một cách tượng trưng với các bạn rằng các vận cụ phàm ngã phải luôn được bỏ lại bên ngoài Đạo viện. Điều này có nghĩa là các thể tinh tế hơn của phàm ngã buộc phải tuân theo các quy tắc tương tự như thể xác — chúng bị bỏ lại bên ngoài. Cũng nên nhớ rằng [105] Đạo viện tồn tại trên cõi bồ đề hoặc cõi trực giác. Cam kết chung và sự thống nhất tuân thủ kỹ thuật theo chu kỳ được mong muốn và được sắp xếp sẽ ràng buộc mọi thành viên của Đạo viện thành một tổng thể tổng hợp; do đó không có khả năng tranh cãi hoặc bất kỳ sự nhấn mạnh nào vào các ý tưởng cá nhân, bởi vì không có phẩm chất rung động phàm ngã nào có thể thâm nhập vào vùng ngoại vi hoặc hào quang của một Đạo viện.

3. The planning and the assignment of tasks connected with the enterprise in hand is carried forward through the medium of an ashramic, reflective meditation, initiated by the Custodian of the Plan. The Master of an Ashram does not say: “Do this” or “Do that.” Together, in unison and in deep reflection the plans unfold, and each disciple and initiate sees occultly where he is needed and where—at any given moment—he must place his cooperative energy. Note my wording here. The members of an Ashram, however, do not sit down for a joint meditation. One of the qualities, developed through ashramic contact, is the ability to live always within the field of intuitive perception—a field which has been created, or a sphere of energy which has been generated, by the united purpose, the combined planning and the concentrated energy of the Hierarchy. An analogy (but only an analogy, however) would be to regard this field of reflecting, reflective and reflected energies as resembling the brain of a human being; this brain reflects the impacts of telepathic activity, the sensory perceptions and the knowledges gained in the three worlds; reflection then sets in in relation to the mental processes which are synchronised with the brain, and then follows the impartation of these reflections to the outside world. The ashramic reflective meditation is an integral part of the constantly developing perception of the disciple-initiate, and it (in its turn) is a part of the whole hierarchical reflective meditation. This latter is based upon inspiration (in the occult sense) from Shamballa. The moment a disciple can share in this constant unremitting meditation or reflection without its interfering with his service and his other lines of thought, he becomes what is called “a disciple who shall no more go out.” [106]

3. Việc lập kế hoạch và phân công các nhiệm vụ liên quan đến dự án đang được thảo luận ở đây được thực hiện thông qua trung gian của việc tham thiền phản chiếu của Đạo viện, được khởi xướng bởi Đấng Giám sát Thiên cơ. Chân sư của một Đạo viện không nói: “Hãy làm điều này” hoặc “Hãy làm điều kia.” Cùng nhau, trong sự đồng tâm nhất trí và suy ngẫm sâu sắc, các kế hoạch được triển khai, và mỗi đệ tử và điểm đạo đồ nhìn thấy một cách huyền bí nơi cần mình, và ở đâu mà — tại bất kỳ thời điểm nào — y phải đặt năng lượng hợp tác của mình ở nơi đó. Lưu ý cách dùng từ của tôi ở đây. Tuy nhiên, các thành viên của Đạo viện không ngồi xuống để cùng nhau tham thiền. Một trong những phẩm chất, được phát triển thông qua tiếp xúc với Đạo viện, là khả năng luôn sống trong lĩnh vực nhận thức trực giác — một lĩnh vực đã được tạo ra, hoặc một phạm vi năng lượng đã được phát ra, bởi mục đích thống nhất, kế hoạch kết hợp và năng lượng tập trung của Thánh đoàn. Một sự tương đồng (tuy nhiên chỉ là một sự tương đồng) là coi trường các năng lượng của việc phản ánh, suy ngẫm, và được phản ánh tương tự như bộ não của con người; bộ não này phản ánh các tác động/ của hoạt động viễn cảm, các nhận thức giác quan và những kiến ​​thức có được trong ba cõi giới; sau đó sự suy ngẫm diễn ra trong mối quan hệ với các quá trình trí tuệ được đồng bộ hóa với não, và sau đó truyền đạt những suy ngẫm này ra thế giới bên ngoài. Sự tham thiền suy ngẫm của Đạo viện là một phần không thể thiếu trong nhận thức phát triển không ngừng của người đệ tử-điểm đạo đồ, và nó (đến lượt nó) là một phần của toàn bộ quá trình tham thiền suy ngẫm của Thánh đoàn. Sự tham thiền suy ngẫm của Thánh đoàn dựa trên cảm hứng (theo nghĩa huyền bí) từ Shamballa. Khoảnh khắc mà một đệ tử có thể tham gia vào tham thiền hoặc suy tư không ngừng nghỉ này mà không ảnh hưởng đến việc phụng sự của y và các dòng tư tưởng khác của y, y trở thành cái được gọi là “một đệ tử không đi ra ngoài nữa.” [106]

4. Another factor productive of group unity and synchronous precision in working is the complete freedom of the Ashram from any spirit of criticism. There is no tendency among its personnel to be critical and no interest whatsoever in the outer, personal lives of the members, should they be amongst those functioning in the three worlds. Criticism, as seen among men, simply is a mode of emphasising the lower self and deflects the attitude to the material aspects of a person’s life. There is necessarily clear vision among the members of an Ashram; they know each other’s capacities and limitations and they know, therefore, where they can complement each other and together create and present a perfect team in world service.

4. Một yếu tố khác tạo ra sự thống nhất của nhóm và sự chính xác đồng bộ trong làm việc là Đạo viện hoàn toàn tự do khỏi bất kỳ tinh thần chỉ trích nào. Các nhân sự của Đạo viện không có xu hướng chỉ trích và không quan tâm gì đến cuộc sống bên ngoài, cá nhân của các thành viên, nếu họ nằm trong số những người hoạt động trong ba cõi giới. Chỉ trích, như được thấy ở con người, chỉ đơn giản là một phương thức nhấn mạnh cái tôi thấp hơn và làm lệch hướng thái độ đến các khía cạnh vật chất của một đời sống con người. Nhất thiết phải có tầm nhìn rõ ràng giữa các thành viên của một Đạo viện; họ biết năng lực và hạn chế của nhau, và do đó họ biết nơi họ có thể bổ sung cho nhau và cùng nhau tạo ra và thể hiện một đội ngũ hoàn hảo phụng sự thế gian.

5. One other factor I will mention among the many possible: The members of an Ashram are all in the process of demonstrating love and pure reason, and they are—at the same time—focussing themselves in the Will aspect of divinity. This statement may mean little to you at present but it is fundamentally the factor which creates the higher antahkarana, uniting the Hierarchy and Shamballa. This makes the planetary purpose of so much importance.

5. Một yếu tố khác mà tôi sẽ đề cập đến trong số rất nhiều yếu tố có thể có: Các thành viên của một Đạo viện đều đang trong quá trình thể hiện tình thương và lý trí thuần khiết, và họ — đồng thời — tập trung vào khía cạnh Ý chí thiêng liêng. Tuyên bố này có thể có ít ý nghĩa đối với các bạn trong hiện tại nhưng về cơ bản nó là yếu tố tạo ra đường antahkarana cao hơn, hợp nhất Thánh đoàn và Shamballa. Điều này làm cho mục đích của hành tinh có tầm quan trọng rất lớn.

These are the major factors which produce group unity; they have, as results, telepathic rapport and intuitive perception; but these are effects and not causes and are the product of the measure of the attained group unity.

Đây là những yếu tố chủ yếu tạo ra sự thống nhất của nhóm; kết quả là họ có mối quan hệ viễn cảm và nhận thức trực giác; nhưng đây là các hiệu quả chứ không phải các nguyên nhân và là sản phẩm của mức độ thống nhất nhóm đã đạt được.

You can see, therefore, the scientific reason I had when I urged you in past years to have a group enterprise, for it is a major unifying factor, and the inner Ashram with which you are affiliated stands to you (at your particular point of development) as Shamballa stands to the Hierarchy—from the angle of dynamic inspiration. Had you done this (which you did not) the group would not have fallen apart—as it has done. Had you eliminated criticism, the essential unity would have been strengthened. One of the reasons I had for the complete frankness and so-called exposure of your individual weakness and limitations to the group as a whole was to train you in the light of pure perception which knows the reason [107] why and sees with clarity the ends in view. Where true perception exists, criticism is automatically eliminated.

Do đó, các bạn có thể thấy lý do khoa học mà trong những năm qua tôi đã thúc giục các bạn để có một dự án nhóm, vì nó là một yếu tố chủ yếu để thống nhất, và Đạo viện bên trong mà các bạn liên kết là đối với các bạn (ở điểm phát triển cụ thể của các bạn) giống như Shamballa đối với Thánh đoàn — từ góc độ của nguồn cảm hứng năng động. Nếu các bạn làm điều này (mà các bạn đã không làm) thì nhóm sẽ không tan rã — như nó đã từng bị tan rã. Nếu các bạn loại bỏ những lời chỉ trích, sự thống nhất thiết yếu sẽ được tăng cường. Một trong những lý do mà tôi hoàn toàn thẳng thắn và làm điều được gọi là phơi bày điểm yếu và hạn chế của cá nhân các bạn với toàn thể nhóm là để huấn luyện các bạn dưới ánh sáng của nhận thức thuần khiết, vốn biết lý do [107] tại sao và nhìn rõ ràng mục tiêu hướng tới. Nơi nào nhận thức chân thực tồn tại, sự chỉ trích sẽ tự động bị loại bỏ.

Modern groups (and groups form a large part of every field of thought and activity) are usually composed of people possessing some basic idea upon which they are all agreed and which they are trying to express through the medium of their clashing personalities and, frequently, in obedience to some leader or person of more powerful mentality than that of the majority, and in order to exploit and use the methods which they regard as essential to success. There is therefore little true unity, and often what there is is based on expediency or good manners.

Các nhóm hiện đại (và các nhóm tạo thành một phần lớn trong mọi lĩnh vực tư tưởng và hoạt động) thường bao gồm những người sở hữu một số ý tưởng cơ bản mà họ đều đồng ý và họ đang cố gắng thể hiện thông qua vận cụ là những phàm ngã đang xung đột của họ, và thường xuyên phục tùng một số nhà lãnh đạo hoặc người có trí lực mạnh mẽ hơn đa số, và để khai thác và sử dụng các phương pháp mà họ coi là cần thiết để thành công. Do đó, có rất ít sự thống nhất thực sự, và những gì thống nhất thường dựa trên thủ đoạn cá nhân hay các cách cư xử thích hợp.

Everywhere, however, the newer type of groups are slowly being gathered together. Have you ever realised (I seek here to make you think and reason) that a group composed entirely of people upon the same ray, and who were also at exactly the same point in evolution, would be relatively futile and useless? Such a group would lack dynamic—the dynamic which comes into expression when many and different ray qualities meet and combine. When you speak of an Ashram being a first or a second ray Ashram—to mention only two out of the seven—it is essential that you bear in mind that though its members may have the same basic soul ray, they are apt to be found on one or other of the six subsidiary sub-rays; there is also a constant shifting of people as they make true progress from a minor ray to a major ray or (for service reasons) on to a different sub-ray of their own ray; this is a point which is very apt to be forgotten. It is wise to realise that an Ashram is composed of disciples and initiates of all degrees. It is this interplay of diverse elements that enriches an Ashram and tends inevitably to successful service in the three worlds.

Tuy nhiên, ở khắp mọi nơi, các kiểu nhóm mới hơn đang dần được tập hợp lại với nhau. Các bạn đã bao giờ nhận ra (tôi tìm cách khiến các bạn suy nghĩ và lập luận ở đây) rằng một nhóm hoàn toàn gồm những người trên cùng một cung, và những người cũng ở cùng một điểm trong quá trình tiến hóa, sẽ khá vô ích và vô dụng? Một nhóm như vậy sẽ thiếu tính năng động — tính năng động xuất hiện khi có nhiều cung và các phẩm tính cung khác nhau gặp nhau và kết hợp. Khi các bạn nói về một Đạo viện là một Đạo viện cung một hoặc cung hai — chỉ đề cập đến hai trong số bảy cung — điều quan trọng là các bạn cần lưu ý rằng mặc dù các thành viên của nó có thể có cùng một cung linh hồn cơ bản, nhưng họ có khả năng được tìm thấy trên một hoặc các cung khác trong sáu cung phụ; cũng có sự chuyển dịch liên tục của mọi người khi họ tiến bộ thực sự từ cung phụ sang cung chính hoặc (vì các lý do phụng sự) sang một cung phụ khác của cung riêng của họ; đây là một điểm rất dễ bị lãng quên. Thật khôn ngoan khi nhận ra rằng một Đạo viện bao gồm các đệ tử và điểm đạo đồ thuộc mọi trình độ. Chính sự giao thoa giữa các yếu tố đa dạng này đã nâng cao chất lượng một Đạo viện và tất yếu có xu hướng phụng sự thành công trong ba cõi giới.

I am anxious to see the group, with which I have been undertaking an occult experiment for the Hierarchy, hold together. When I say this, I refer not only to the few of you who are now active (and perhaps patting yourselves on the back for your steadfastness!), but also to the inactive members, to those likewise who of their own freewill dropped out, those whom perforce I myself had to drop, and those also [108] who are functioning upon the other side of the veil. I have asked A.A.B. to send each of you a complete list of all who were in the earlier groups as well as those who were or are in the reorganised group. The names will be sent to you without comment and without addresses. I would ask you on one day each month—the day of the full moon—to sit down and mention each of these names of your co-disciples in the light, sending out light and love to one and all. This will strengthen the relation of you all to each other and it will also create an energy body—an etheric body—for the entire subjective group and will integrate them closely as time goes on, restoring those who broke away and strengthening those who unfortunately proved themselves to be weak.

Tôi nóng lòng muốn thấy nhóm mà tôi đã thực hiện một thí nghiệm huyền bí cho Thánh đoàn, được giữ lại cùng nhau. Khi tôi nói điều này, tôi không chỉ đề cập đến một vài người trong số các bạn hiện đang hoạt động (và có lẽ tự hào vì sự kiên định của mình!), mà còn đề cập đến các thành viên không hoạt động, những người đã tự nguyện rời nhóm, những người buộc tôi phải đưa ra khỏi nhóm, và cả những người [108] đang hoạt động ở phía bên kia của bức màn che. Tôi đã nhờ A.A.B. gửi cho mỗi bạn một danh sách đầy đủ của tất cả những người đã ở trong các nhóm trước đó cũng như những người đã hoặc đang ở trong nhóm được tổ chức lại này. Các tên sẽ được gửi cho các bạn mà không có bình luận và không có địa chỉ. Tôi sẽ yêu cầu các bạn vào một ngày mỗi tháng — ngày trăng tròn — ngồi xuống và đề cập đến từng tên của những huynh đệ đồng môn của các bạn trong ánh sáng, gửi ánh sáng và tình thương đến mỗi người và tất cả. Điều này sẽ củng cố mối quan hệ của tất cả các bạn với nhau và nó cũng sẽ tạo ra một thể năng lượng — một thể dĩ thái — cho toàn bộ nhóm nội tại và sẽ gắn kết các bạn chặt chẽ với nhau theo thời gian, phục hồi những người đã rời nhóm và củng cố sức mạnh cho những người không may đã chứng minh bản thân họ yếu đuối.

This entire problem of group integrity and personnel-synthesis (if I may coin such a phrase) is at this time presenting a major problem to the Hierarchy. It is based, as you see, on the point in evolution which humanity has reached. There are many millions today—and this may surprise you—who have already achieved a definite measure of permanent personality integration. They are people in the fullest sense of the term although they may yet be lacking any contact with the soul or any desire for such contact. This means that they are relatively dominant men and women in their own setting, environment or milieu; they therefore constitute a problem in this preparatory cyclic era because they refuse—usually quite unconsciously—to form part of any group; they seek ever the position of leader. This is true of spiritual aspirants just as much as it is true of workers and group leaders in any other phase of human thought and procedure.

Toàn bộ vấn đề về tính toàn vẹn của nhóm và tổng hợp nhân sự (nếu tôi có thể đặt một cụm từ như vậy) vào lúc này đang là một vấn đề lớn đối với Thánh đoàn. Như các bạn thấy, nó dựa trên điểm tiến hóa mà nhân loại đã đạt tới. Ngày nay có nhiều triệu người — và điều này có thể làm các bạn ngạc nhiên — những người đã đạt được một mức độ xác định về sự tích hợp phàm ngã ổn định. Họ là con người theo nghĩa đầy đủ nhất của thuật ngữ này mặc dù họ có thể chưa có bất kỳ liên hệ nào với linh hồn hoặc bất kỳ mong muốn tiếp xúc nào như vậy. Điều này có nghĩa là họ là những người nam và nữ tương đối làm chủ trong bối cảnh, môi trường hoặc hoàn cảnh riêng của họ; do đó, họ tạo thành một vấn đề trong kỷ nguyên chuẩn bị có tính chu kỳ này bởi vì họ từ chối — thường khá vô thức — để trở thành một phần của bất kỳ nhóm nào; họ luôn tìm kiếm vị trí lãnh đạo. Điều này đúng với những người chí nguyện tinh thần cũng như đúng với những người lao động và các lãnh đạo nhóm trong bất kỳ giai đoạn nào khác của tư tưởng và chuỗi hành động của con người.

Therefore we ask: How can we create extra-ashramic groups out of aspirants and disciples who primarily value spiritual status, kudos or an elevated position? We cannot. All we can do is to train aspirants in recognised group requirements. We must also point out to them the dangers of mental pride, detail to them their personality limitations and the difficulties of true spiritual leadership, and then plead with them to mind their own business where each other is concerned and ask them to serve the human race; this of course means, incidentally, serving the Hierarchy and thus [109] demonstrate their ability to work within an Ashram. Disciples—in the earlier stages—are apt to be didactic; they like to express in words their profound understanding of occult truth and thereby, in reality, establish their superiority over non-esoteric students, and in so doing (again incidentally) antagonise those they otherwise could help. They like to show their unique familiarity with hierarchical principles but, as they are not yet living those principles, they hinder more than they can help; at the same time, through self-discovery, they learn much thereby. They believe that in expressing their knowledge of petty and unimportant details anent the lives and methods of the Masters, a high point of spiritual understanding and development is thereby indicated. This is not by any means the case. In the last analysis, it indicates a superficial sense of false values, and seventy per cent of their information is wrong and of no importance.

Vì vậy, chúng tôi đặt câu hỏi: Làm thế nào chúng tôi có thể tạo ra các nhóm bên ngoài đạo viện từ những người chí nguyện và đệ tử, những người chủ yếu coi trọng địa vị tinh thần, danh tiếng hoặc một vị trí cao? Chúng tôi không thể. Tất cả những gì chúng tôi có thể làm là huấn luyện những người chí nguyện theo các yêu cầu nhóm được công nhận. Chúng tôi cũng phải chỉ ra cho họ những nguy cơ của sự kiêu ngạo về tinh thần, nêu chi tiết những hạn chế về phàm ngã của họ, và những khó khăn của việc lãnh đạo tinh thần thực sự, và rồi xin họ hãy để tâm đến việc riêng của họ khi lv cùng nhau, và yêu cầu họ phụng sự nhân loại; tất nhiên điều này có nghĩa là, tình cờ, phụng sự Thánh đoàn và do đó [109] chứng tỏ khả năng của họ để làm việc trong một Đạo viện. Các đệ tử — trong các giai đoạn buổi đầu — thường thích giáo huấn; họ thích diễn đạt bằng lời sự hiểu biết sâu sắc của họ về sự thật huyền bí, và do đó trên thực tế thiết lập ưu thế của họ so với các học viên không theo huyền linh học, và làm như vậy (một lần nữa tình cờ) chống lại những người mà họ có thể giúp đỡ. Họ thích thể hiện sự quen thuộc độc đáo của họ với các nguyên tắc Thánh đoàn, nhưng vì họ chưa sống với những nguyên tắc đó, họ cản trở nhiều hơn những gì họ có thể giúp; đồng thời, thông qua việc khám phá bản thân, họ học hỏi được nhiều điều. Họ tin rằng trong việc thể hiện kiến ​​thức của họ về những chi tiết vụn vặt và không quan trọng liên quan đến những cuộc sống và các phương pháp của các Chân sư, bằng cách đó họ cho thấy họ đạt đến một điểm cao của sự thấu hiểu và phát triển tinh thần. Hoàn toàn không phải vậy. Trong phân tích vừa rồi, nó cho thấy ý thức thiển cận về các giá trị sai lệch, và 70% thông tin của họ là sai và không quan trọng.

\n
Scroll to Top