LETTER IV – THE USE OF THE SACRED WORD IN MEDITATION.
|
JUNE 19, 1920 |
Ngày 19-6-1920. |
|
[51] The subject that we are to deal with today is of such profundity and of such vital moment that your shrinking from even considering it is exceedingly natural. No matter what we may say upon the matter, we can but touch the fringe of it, and the depths of what will be left unsaid may seem so great, that the data communicated may assume too small proportions. |
Đề tài cần bàn hôm nay thật là sâu xa và quan trọng đến đỗi nếu khiến các bạn e ngại không muốn xem xét thêm nữa thì đó cũng là lẽ tự nhiên. Dù cho có nói bao nhiêu về vấn đề này chúng ta cũng chỉ chạm đến vòng ngoài của nó mà thôi. Những điều không được nói đến thật quá đỗi sâu rộng, đến mức những dữ kiện sau đây chỉ được xem là một phần rất nhỏ. |
|
Fundamental Postulates. |
Những Định đề Cơ bản. |
|
First, I seek to lay down certain basic postulates which, though realised as mental concepts, may yet be too deep for easy comprehension. |
Trước hết, tôi tìm cách xác lập vài định đề cơ bản. Những định đề này, dù đã được biết như những khái niệm tri thức, vẫn còn quá sâu xa, khó có thể thấu đáo dễ dàng. |
|
These postulates are five in number—five out of a number too vast for your apprehension. These postulates themselves are based on certain fundamental facts, and these facts (seven in number) are not as yet all comprehended. H.P.B. touched on three in his statement of the fundamentals of the Secret Doctrine. Four yet remain hid, though the fourth is emerging somewhat through the study of psychology and mental science. The other three fundamentals will emerge during the next three rounds. This round will see the apprehension of the fourth fundamental. |
Có năm định đề loại này – trong rất nhiều định đề mà các bạn chưa có thể hiểu được. Chính những định đề này lại dựa trên những sự kiện cơ bản (tất cả có bảy) mà các sự kiện này vẫn chưa được hiểu biết. H.P.B. đã kể đến ba sự kiện khi bà phát biểu những điều cơ bản trong Giáo lý Bí nhiệm. Bốn sự kiện vẫn còn được giữ kín dù rằng sự kiện thứ tư đang bày tỏ phần nào trong việc nghiên cứu khoa tâm lý học và khoa học tâm thần. Ba sự kiện cơ bản còn lại sẽ được biểu lộ trong ba cuộc tuần hoàn sau. Trong cuộc tuần hoàn này chúng ta sẽ hiểu được điều cơ bản thứ tư. |
|
These postulates are as follows: |
Những định đề đó như sau: |
|
l—That all that exists is based on sound or on the Word. |
1. Tất cả những gì hiện hữu đều dựa vào âm thanh hay dựa vào Thánh ngữ. |
|
2—That differentiation is the result of sound. |
2. Sự phân hóa là do kết quả của âm thanh. |
|
3—That on each plane the Word has a different effect. [52] |
3. Trên mỗi cảnh giới, Thánh ngữ có một hiệu quả khác nhau. [52] |
|
4—That according to the note of the Word, or the vibration of the sound, will the work of building-in or casting-out be accomplished. |
4. Tùy theo âm điệu của Thánh ngữ, hay sự rung động của âm thanh, mà việc kiến tạo hay phân hủy được thực hiện. |
|
5—That the one threefold Word has seven keys, and these seven keys have their own subtones. |
5. Thánh ngữ tam phân có bảy âm khóa, bảy âm khóa này đều có các âm phụ riêng. |
|
In the apprehension of these basic facts lies hid much light on the use of the Word in meditation. |
Thấu hiểu những sự kiện căn bản vừa kể, chúng ta sẽ được soi sáng rất nhiều khi dùng Thánh ngữ trong tham thiền. |
|
In the great original sounding forth of the Sacred Word (the three original Breaths, with their seven sounds,—one Breath for each of the three solar systems) the note was different, and the sounds pitched to a different key. |
Từ khởi thủy, lúc mới xướng lên Thánh ngữ (ba Hơi thở nguyên thủy, với bảy âm thanh của chúng, – mỗi Hơi thở cho một trong ba thái dương hệ) âm điệu đã khác nhau, và các âm thanh cũng đã được ngân lên theo một âm khóa khác rồi. |
|
In system one, the completion of the First Breath, the culmination, was the sounding forth, in note majestic, of the note FA,—the note which forms the basic note of this system, the note of manifested nature. This note is, and to it must be supplemented the second note for this the second system. It is not fully sounded or rounded out, nor to the end of the greater cycle will it be completed. The Logos sounds it now, and should He cease to breathe it forth, the whole system would disappear into complete obscuration. It would mark the end of manifestation. |
Trong thái dương hệ một, sự hoàn thành Hơi thở thứ nhất là sự ngân lên tột độ huy hoàng của nốt FA, – là nốt căn bản của thái dương hệ hiện nay, là âm điệu của thiên nhiên biểu hiện. Nốt đó đã có sẵn, và phải được bổ túc bằng nốt thứ hai của thái dương hệ thứ nhì hiện nay. Tuy nhiên, nốt này vẫn chưa được xướng lên đầy đủ hay viên mãn, và mãi đến cuối đại chu kỳ nó cũng không hoàn tất. Hiện nay Đức Thái Dương Thượng Đế đang xướng nó lên, và nếu Ngài ngừng Hơi thở đó, thì toàn hệ thống thái dương sẽ hoàn toàn tan biến vào tăm tối. Đó là dấu hiệu chấm dứt cuộc biểu hiện. |
|
In system two, the present system, the keynote may not be disclosed. It is one of the secrets of the sixth Initiation, and must not he revealed. |
Trong thái dương hệ hai, là hệ thống hiện tại, âm khóa không thể được tiết lộ. Đó là một trong những bí mật của cuộc Điểm đạo lần thứ sáu, và không được phép tỏ bày. |
|
In system three the final third note will be added to the basic notes of the first and second systems, and then what will you have? You will have the major third of the Logoic Personality in its completeness, a correspondence to the major third of the microcosm,—one note for each plane. We have been told that the solar Logos, on the cosmic planes, works at the problem of cosmic mind; that He functions in His physical solar system, is polarised in His cosmic astral, or emotional body, and is developing [53] cosmic mind. So, on the planes of the solar system, is it as with the microcosm. In the realisation of this correspondence and its wise application lies illumination on the use of the Sacred Word in meditation. |
Trong thái dương hệ ba, nốt thứ ba cuối cùng sẽ được thêm vào những nốt căn bản của các hệ thống một và hai, và lúc đó sẽ có những gì? Sẽ có nốt chánh thứ ba của Phàm ngã Đức Thượng Đế được thành tựu viên mãn, tương ứng với nốt chánh thứ ba của tiểu vũ trụ (Phàm ngã con người), – mỗi nốt cho một cảnh giới. Chúng ta được biết rằng Đức Thái Dương Thượng Đế, trên những cảnh giới vũ trụ, đang giải quyết vấn đề khó khăn của thể trí vũ trụ. Ngài đang hoạt động trong thể xác (là thái dương hệ). Ngài được phân cực trong thể cảm [53] dục vũ trụ, và đang phát triển thể trí vũ trụ của Ngài. Tiểu vũ trụ (con người) trên các cảnh giới của thái dương hệ này cũng vậy. Khi nhận thức được sự tương ứng này và áp dụng một cách khôn ngoan, chúng ta sẽ được soi sáng khi dùng Thánh ngữ trong tham thiền. |
|
System I . . . .corresponds to the physical body. |
Thái dương hệ I . . . . . . . . . . . . . tương ứng với thể xác. |
|
System II. . . .corresponds to the emotional body. |
Thái dương hệ II . . . . . . . . . tương ứng với thể tình cảm. |
|
System III. . . corresponds to the mental body. |
Thái dương hệ III . . . . . . . . . . . . . tương ứng với thể trí. |
|
By the study of the Word or Sound in the formation of these three will help come on the use of that Word in the building of the intuitional vehicle, and the purification of the personality. |
Việc nghiên cứu Thánh ngữ hay Âm thanh trong sự hình thành ba thái dương hệ này sẽ giúp chúng ta sử dụng Thánh ngữ trong việc tạo lập thể trực giác (bồ-đề) và tinh luyện phàm ngã. |
|
Now we will divide what we have to say under four heads, and take up each one of them separately:— |
Giờ đây chúng ta hãy chia vấn đề sắp bàn thành bốn mục, và sẽ nói riêng từng mục: |
|
l—The creative effect of the Sacred Word. |
1. Hiệu quả sáng tạo của Thánh ngữ. |
|
2—The destructive effect of the Sacred Word. |
2. Hiệu quả hủy hoại của Thánh ngữ. |
|
3—Its pronunciation and use:— |
3. Cách phát âm và sử dụng Thánh ngữ: – |
|
a—In individual meditation. |
a. Trong tham thiền cá nhân. |
|
b—In group and congregational work. |
b. Trong công tác tập thể và giáo đoàn. |
|
c—For certain specific ends. |
c. Cho một số mục tiêu đặc biệt. |
|
4—Its effect on the bodies and centres, and its efficacy in effecting egoic alignment. |
4. Hiệu quả của Thánh ngữ đối với các thể và các luân xa, và hiệu năng của nó trong việc tạo chỉnh hợp với Chân nhân. |
|
JUNE 20, 1920 |
Ngày 20-6-1920. |
|
1/2 – The Dual Effect of the Sacred Word; constructive and destructive. |
Hai mặt hiệu quả của Thánh ngữ, Kiến tạo và Hủy hoại. |
|
We can today continue with the subject we were considering yesterday. We divided the theme into four divisions and we will take the first two, the effect,—creative and destructive—of the Word. Just a few broad hints will be possible, to form a basis for the intelligent application of the law. |
Hôm nay chúng ta bàn tiếp vấn đề hôm qua. Chúng ta đã chia chủ đề thành bốn phần và sẽ đề cập đến hai phần đầu, hiệu quả sáng tạo và hủy hoại của Thánh ngữ. Tôi chỉ có thể đưa ra vài điều khái quát để đặt căn bản cho việc áp dụng định luật một cách thông minh. |
|
First, let us repeat the truism that the worlds are the effect of sound. First life, then matter; later the attraction [54] of the matter to the life for purposes of its manifestation and expression, and the orderly arrangement of that matter into the necessary forms. Sound formed the allying factor, the propelling impulse, and the attractive medium. Sound, in an occult and deeply metaphysical sense, stands for that which we term “the relation between”, and is the creating intermediary, the linking third factor in the process of manifestation. It is the akasha. On the higher planes it is the agent of the great Entity Who wields the cosmic law of gravitation in its relation to our solar system, whilst on the lower planes it demonstrates as the astral light, the great agent of reflection, that fixes and perpetuates on its vibratory bosom the past, the present and the future, or that which we call Time. In direct relation to the lower vehicle it manifests as electricity, prana and the magnetic fluid. A simplification of the idea may come to you perhaps in the recognition of sound as the agent of the law of attraction and repulsion. |
Đầu tiên, chúng ta hãy nhắc lại sự thực rằng các cảnh giới đều là hậu quả của âm thanh. Trước hết là sự sống, rồi [54] đến vật chất. Sau đó sự sống thu hút vật chất để biểu hiện và phát biểu, sắp xếp vật chất theo trật tự thành các hình thể cần thiết. Âm thanh vốn là yếu tố liên kết, là sức thôi thúc và là trung gian hấp dẫn. Theo một ý nghĩa sâu xa về mặt huyền môn và siêu hình, âm thanh tượng trưng cho điều chúng ta gọi là “sự liên lạc giữa”, là trung gian sáng tạo, là yếu tố liên kết thứ ba trong tiến trình biểu hiện. Đó là tiên thiên khí. Trên những cõi cao, âm thanh là tác nhân của Thực thể vĩ đại, Ngài vận dụng âm thanh theo luật vạn vật hấp dẫn cho thái dương hệ chúng ta. Trong khi ở những cảnh giới thấp, âm thanh biểu hiện thành ánh sáng cảm dục, là tác nhân phản chiếu vĩ đại, ghi nhận và lưu trữ trong tâm rung động của nó những gì thuộc quá khứ, hiện tại và tương lai, tức là cái mà ta gọi là Thời gian. Trong quan hệ trực tiếp với các hạ thể, nó biểu hiện thành điện lực, nguyên khí của Sự Sống (prana), và lưu chất từ tính. Có thể giản dị hóa ý tưởng này bằng cách thừa nhận rằng âm thanh là tác nhân của lực hấp dẫn và đối kháng. |
|
The seven great Breaths. |
Bảy Hơi thở vĩ đại. |
|
In sounding forth the Sacred Word in its sevenfold completeness for this solar system, the Logos gathered through inspiration the matter needed for manifestation, and started the evolution of that matter at the first great Breath. |
Khi xướng lên Thánh ngữ trong sự hoàn thành thất phân cho thái dương hệ này, Đức Thái Dương Thượng Đế hít vào để thu thập vật chất cần cho cuộc biểu hiện, và cho vật chất đó khởi sự tiến hóa trong Hơi thở vĩ đại thứ nhất. |
|
At the second great Breath came differentiation and the instilling of the second aspect logoic. |
Hơi thở lớn thứ hai tạo sự phân hóa và thấm nhuần trạng thái thứ hai của Thượng Đế vào vật chất. |
|
At the third great Breath the activity aspect was demonstrated, matter was impregnated with that faculty, and fivefold evolution became a possibility. |
Hơi thở lớn thứ ba làm biểu lộ trạng thái hoạt động, truyền khả năng này vào vật chất, và cuộc tiến hóa năm giai đoạn có thể tiến hành. |
|
At the fourth great Breath certain of the Hierarchies responded, and the great Builders more clearly saw the plan. There is a definite connection between the fourth [55] Breath and the fourth Creative Hierarchy, that of the human Spirits. This fourth note of the Logos has a special significance for the human Spirit, and an unique effect in this earth and in this fourth cycle. The relativity of it is such that it is difficult for you in any way to realise that effect. It demonstrates as far as you can grasp it in the harmonic note of the fourth plane and ray. That note permeates the peoples of the world at this time and ever since the fourth root-race. It shows itself in the struggle of humanity to grasp the ideal of harmony and peace, and in the worldwide aspiration in that direction. |
Hơi thở thứ tư được sự đáp ứng của một số Huyền giai (các Đẳng cấp Thiêng liêng) và các Đấng Đại kiến tạo thấy được Thiên cơ rõ hơn. Có sự liên kết rõ rệt giữa Hơi thở thứ [55] tư này với Huyền giai Sáng tạo thứ tư, tức là các Chân thần của nhân loại. Nốt thứ tư này của Thượng Đế có ý nghĩa đặc biệt cho Chân thần con người, có hiệu quả độc nhất trên địa cầu chúng ta và trong chu kỳ thứ tư này. Thật khó cho các bạn nhận thức được hiệu quả tương đối này. Nó chỉ biểu lộ khi các bạn hiểu được nó trong hòa âm của cảnh giới thứ tư (cõi bồ-đề) và cung bốn. Mãi từ khi có căn chủng thứ tư cho đến nay, nốt này vẫn luôn luôn thấm nhuần các dân tộc trên thế giới. Nó tự biểu lộ trong phấn đấu của nhân loại để hiểu được lý tưởng hòa hợp và hòa bình, và trong chí nguyện của toàn thế giới theo chiều hướng đó. |
|
This fourth Breath is especially applicable to human evolution. |
Hơi thở thứ tư này được đặc biệt áp dụng vào cuộc tiến hóa nhân loại. |
|
You have therefore: |
Vì thế chúng ta có: |
|
Subtone one of the threefold Word gave the first vibratory note and started the movement of the spheres—solar or atomic. It embodies Will. |
Âm phụ thứ nhất của Thánh ngữ tam phân phát ra nốt rung động đầu tiên và khởi động các bầu trong thái dương hệ hoặc nguyên tử. Nó thể hiện Ý chí. |
|
Subtone two of the threefold Word instilled the second aspect and called the cosmic ruler of the synthetic ray into manifestation. It marked duality or reflex love. |
Âm phụ thứ hai của Thánh ngữ tam phân truyền đạt trạng thái thứ hai và đã khiến cho vị chủ tể vũ trụ của cung tổng hợp biểu hiện. Nó tiêu biểu cho tính nhị nguyên hay tình thương phản xạ. |
|
Subtone three of the threefold Word made our fivefold evolution possible. It is the basic note of the five lower planes. It marked activity or adaptability. |
Âm phụ thứ ba của Thánh ngữ tam phân khiến cuộc tiến hóa năm giai đoạn của chúng ta có thể thực hiện. Đó là nốt căn bản của năm cõi thấp, đánh dấu trạng thái hoạt động hay thích nghi. |
|
Subtone four of the threefold Word is the sound of the Human Hierarchy, and in its entirety might be called the “cry of Man.” |
Âm phụ thứ tư của Thánh ngữ tam phân là âm thanh của các Đẳng cấp Nhân loại, và toàn bộ âm thanh ấy có thể được gọi là “tiếng kêu la của con Người.” |
|
Each of the sounds directly called into manifestation one ray, with all that enters in on a ray. Each sound demonstrates particularly on one plane, being the dominant note of that plane. |
Mỗi âm thanh trực tiếp khiến cho một cung biểu hiện với tất cả những gì đến cùng với cung đó. Mỗi âm thanh đặc biệt biểu lộ trên một cảnh giới và là thống âm của cảnh giới đó. |
|
The fifth great Breath has an effect peculiar to itself, for in its reverberation it holds the key to all,—it is the Breath of fire. It created a similar vibration to that of the cosmic mental level, and is closely allied with the [56] first Breath. It is the dominant note (in technical musical terminology) of the solar system, just as the third Breath corresponds to the major third. It is the note of the Logos. Each breath attracts to the Logos for purposes of manifestation, some entity on cosmic levels. The reflection of the method can be seen in the microcosm when the Ego sounds the egoic note in the three worlds and prepares to manifest or to come into incarnation. The note attracts around the permanent atoms or nuclei adequate matter for the purpose of manifestation, and that matter is itself informed by some vital entity. Similarly, the cosmic Lords of Fire, the great informing Entities of our solar system, respond when this fifth subtone is sounded forth. Again, the Lords of the Flame within the solar system itself responded when the microcosm sounded the fifth subtone of the monadic note, and involved themselves in human evolution. |
Hơi thở lớn thứ năm tự nó có hiệu quả riêng biệt, vì khi vang dội nó giữ chìa khóa của tất cả, – đó là Hơi thở của lửa. Nó tạo ra sự rung động tương tự như rung động của cõi trí vũ [56] trụ và liên kết chặt chẽ với Hơi thở thứ nhất. Đó là thống âm (nói theo thuật ngữ âm nhạc) của thái dương hệ, cũng như Hơi thở thứ ba tương ứng với nốt chánh thứ ba. Đó là nốt của Thái Dương Thượng Đế. Mỗi hơi thở hấp dẫn về với Ngài một thực thể cấp vũ trụ, để giúp những mục đích biểu hiện. Chúng ta có thể thấy phản ánh của phương pháp này trong tiểu vũ trụ, khi Chân nhân gióng lên âm điệu của nó trong tam giới và chuẩn bị biểu hiện hay giáng trần. Nốt này hấp dẫn chung quanh các nguyên tử trường tồn (hay các hạt nhân) số vật chất đủ cho mục tiêu biểu hiện, nhờ một thực thể làm cho linh hoạt. Tương tự, các Hỏa đức Tinh quân vũ trụ, các Đấng phú linh vĩ đại của thái dương hệ của chúng ta ứng đáp khi âm phụ thứ năm này (của thái dương hệ) được xướng lên. Đến lượt các Hỏa tinh quân của thái dương hệ cũng đáp ứng khi tiểu vũ trụ (con người) xướng lên được âm phụ thứ năm của nốt Chân thần, và các Ngài trợ giúp cuộc tiến hóa của nhân loại. |
|
The sixth great Breath drew to itself the Lords of the mysterious Pentacle, the volatile essences of the emotional plane, the desire faculty clothed in matter, the watery aspect of the logoic life. |
Hơi thở lớn thứ sáu qui tụ những vị Chúa của Ngôi sao năm cánh huyền bí, những tinh chất thăng hoa của cõi cảm dục, khả năng dục vọng khoác lớp áo vật chất, trạng thái lưu chuyển (như nước) của sự sống Thượng Đế. |
|
At the sounding of the seventh subtone crystallisation occurred and absolute conformity to the law of approach. It resulted in the dense aspect of manifestation, the point of deepest experience. You will note its connection, therefore, with the Ray of Ceremonial Law, one of the great building rays,—a ray which adjusts matter, under set forms, to the desired shapes. |
Khi âm phụ thứ bảy được xướng lên thì sự kết tinh xảy ra và có sự tuyệt đối tuân thủ định luật cận tiến. Nó giúp Sự Sống biểu hiện trong trạng thái dày đặc của vật chất, đạt mức kinh nghiệm sâu nhất. Do đó, các bạn sẽ thấy sự liên hệ của nó với Cung Định luật Nghi thức, một trong những cung kiến tạo vĩ đại, – cung này điều chỉnh vật chất theo những thể thức định sẵn, thành các hình thể như ý muốn. |
|
You may ask here: Why have I thus apparently digressed? It seems to you wide of the mark and beside the question? Let me elucidate. The microcosm has but to repeat the work of the macrocosm. The Spirit or monad on his own plane sounds forth the note (his hierarchical note) and descends into incarnation. It is both [57] the note of attraction and of out-breathing. The personality—the reflection of that monad at the densest point in evolution,—is linked to the monad by the attractive force of the Sacred Word sounded by its monad on its note and on its own subtone. |
Đến đây các bạn có thể hỏi: Tại sao tôi có vẻ nói ra ngoài đề như thế? Dường như tôi đi quá xa và lạc ngoài vấn đề? Hãy để tôi nói rõ hơn. Tiểu vũ trụ chẳng qua chỉ phải lặp lại công việc của đại vũ trụ. Tinh thần hay Chân thần ở trên cảnh giới của mình xướng lên nốt (của đẳng cấp Chân thần) và giáng xuống để đầu thai. Đó vừa là nốt của sự hấp dẫn vừa là của hơi [57] thở ra. Phàm nhân (là phản ảnh của Chân thần ấy ở mức tiến hóa trong vật chất dày đặc nhất) được liên kết với Chân thần bằng lực hấp dẫn của Thánh ngữ khi Chân thần xướng lên, trên nốt của phàm nhân và âm phụ của nó. |
|
But the work of outbreathing is already accomplished. It is involution. The work of in-breathing or reabsorption into the source progresses. When the Personality finds for itself (after lives of stress and search) its spiritual note with the right key and subtone, what is the result? It accords with its monadic note, it vibrates to the same measure, it pulsates with the same colour, the line of least resistance is at last found, and the indwelling life is liberated and. returns to its own plane. But this work of discovery is very slow and the man has to pick out the chord with infinite care and pains. First, he finds out the third of the Personality and sounds that forth, the result being an ordered harmonious life in the three worlds. Then he finds the dominant fifth of the Ego, the keynote of the chord, and sounds that in unison with the Personality note. The result is that a vacuum is formed (if I may so express it) and the liberated man with his informing soul,—the threefold spirit, plus mind and experience—the Three completed by the Quaternary and the Fifth, escapes upward to the Monad. It is the law of attraction demonstrating through sound. Like to like and kind to kind, driven thereto by unity of sound, of colour and of rhythm. |
Nhưng công việc của hơi thở ra đã xong rồi. Đó là con đường giáng hạ tiến hóa. Còn công việc của sự hít vào hay tái hấp thu về nguồn cội thì đang diễn tiến. Khi trải qua nhiều kiếp tìm kiếm khó nhọc, phàm ngã tìm được nốt tinh thần của nó với âm khóa và âm phụ đúng đắn, thì điều gì xảy ra? Nó sẽ hòa điệu với nốt của Chân thần, sẽ rung động cùng nhịp, và chớp lên cùng màu sắc. Cuối cùng, con đường ít trở ngại nhất sẽ được tìm thấy, sự sống trong con người được giải thoát và trở về cảnh giới của mình. Nhưng khám phá này rất đỗi chậm chạp và hành giả phải vô cùng đau khổ và thận trọng mới chọn được hòa âm. Đầu tiên, y tìm được nốt chánh thứ ba của phàm ngã và xướng nó lên, kết quả là đời sống điều hòa, trật tự trong ba cõi thấp. Sau đó, y tìm thấy thống âm thứ năm của Chân ngã, là nốt khóa của hòa âm, xướng lên phối hợp với nốt phàm nhân. Có thể nói kết quả là một khoảng chân không. Hành giả đã giải thoát cùng linh hồn phú linh cho y – tức là tinh thần tam phân cùng với trí tuệ và kinh nghiệm – Tam nguyên được bổ túc bằng Tứ hạ thể và Nguyên khí thứ năm, đồng vượt lên đến Chân thần. Đó là luật hấp dẫn biểu lộ qua âm thanh. Đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu, sức hấp dẫn có được nhờ sự hòa hợp âm thanh, màu sắc và nhịp điệu. |
|
This leads to the second factor we are considering, the destructive factor. In emancipation comes the breaking of the chains, in liberation comes the abolition of the old forms, in the domination of matter is seen the liberation of spirit. So, in the sounding of the Sacred Word in its sevenfold sense, comes the escaping from the shattered [58] forms; first in the out-breathing, the attraction of matter, then in the in-breathing, the gradual shattering of the material forms and the leaving of them behind. |
Điều này đưa đến yếu tố thứ hai mà chúng ta sắp xem xét: phương diện hủy diệt của Thánh ngữ. Có giải phóng mới bẻ gãy được xiềng xích. Có giải thoát mới loại bỏ được những hình thức cũ kỹ. Có chế ngự được vật chất mới khai phóng được tinh thần. Vì vậy, việc xướng lên Thánh ngữ trong bảy cấp độ ý nghĩa giúp sự sống thoát ra khỏi các hình thể bị phá [58] vỡ. Trước hết là xướng lên khi thở ra để thu hút vật chất, sau đó là xướng lên khi hít vào để dần dần phá vỡ các hình thể vật chất và thải bỏ chúng. |
|
Meditation and the Word. |
Tham thiền và Thánh ngữ. |
|
I have pictured this for you on the systemic scale. Now let me apply it to meditation and see how it will work. Man, when meditating, aims at two things:— |
Tôi đã mô tả vấn đề này cho các bạn trên qui mô thái dương hệ. Giờ đây, tôi ứng dụng điều đó vào tham thiền và xem xét tác động của nó thế nào. Khi tham thiền, hành giả nhằm hai mục đích: – |
|
a—At the formation of thoughts, at the bringing down to the concrete levels of the mental plane, of abstract ideas and intuitions. This is what might be termed meditation with seed. |
a. Tạo nên các tư tưởng, đem những ý tưởng trừu tượng và trực giác xuống đến các cấp cụ thể của cõi trí. Đây có thể gọi là tham thiền hữu chủng. |
|
b—At the aligning of the ego, and at the creation of that vacuum betwixt the physical brain and the Ego, which results in the divine outpouring, and the consequent shattering of the forms and subsequent liberation. This might be termed meditation without seed. |
b. Chỉnh hợp với Chân ngã và tạo khoảng chân không giữa Chân nhân và bộ óc hồng trần, hậu quả là sự tuôn tràn thần lực thiêng liêng làm tan vỡ các hình thể, đưa đến giải thoát. Đây gọi là tham thiền vô chủng. |
|
At a certain period in evolution the two blend, the seed is dropped and the vacuum is then created, not so much between the higher and the lower vehicles as between them and the intuitional plane or the plane of harmony. |
Ở một giai đoạn nào đó trong cuộc tiến hóa, hai lối thiền kể trên sẽ hợp nhất, hạt giống (điểm trụ cho tư tưởng) bị bỏ rơi và khoảng chân không sẽ được tạo thành, không còn ở giữa các thể cao và các thể thấp, mà ở giữa chúng và cõi bồđề, cảnh giới của sự hòa hợp. |
|
Therefore, in the sounding of the Sacred Word in meditation man should (if rightly sounding it forth) be able to do both the creative work and the destructive work as does the Logos. It will be the reflection in the microcosm of the cosmic process. He will attract to his bodies matter of the finer kind and cast out that which is coarser. He will formulate thoughtforms that attract to themselves finer matter and repudiate that which is of a lower vibration. He should so sound the Word that alignment will [59] be automatically made, and the necessary vacuum created, eventuating in a downflow from above. All these effects can transpire when the Word is correctly intoned, and each meditation should see the man more aligned, should disperse some of the matter of low vibration in one or other of his bodies, should open up the channel to a greater extent, and so provide a more adequate vehicle for the illumination from higher levels. |
Vì thế, khi xướng lên Thánh ngữ trong tham thiền, hành giả (nếu xướng đúng) nên cố gắng làm được cả hai công việc sáng tạo và hủy hoại như Đức Thượng Đế làm. Diễn trình của đại vũ trụ (thái dương hệ) có phản ánh trong tiểu vũ trụ (con người). Hành giả sẽ thu hút vào các thể của y loại vật chất thanh bai hơn và thải bỏ loại vật chất thô kệch. Y sẽ tạo nên những hình tư tưởng để thu nạp vào đó loại chất liệu tinh anh hơn và thải bỏ vật chất có rung động thấp độ. Y nên xướng lên Thánh ngữ như thế nào để [59] tự động có được chỉnh hợp, và vùng chân không cần thiết được tạo nên cho dòng thần lực từ trên tuôn xuống. Tất cả những hiệu quả này có thể xảy ra khi Thánh ngữ được phát âm đúng đắn. Mỗi lần tham thiền hành giả sẽ được chỉnh hợp hơn, sẽ giải tán được đôi phần vật chất rung động thấp độ trong một vài thể, sẽ triển khai đường truyền rộng rãi hơn, do thế mà tạo điều kiện thích hợp cho ánh sáng khai ngộ từ trên chiếu xuống. |
|
But—until correctness is possible—the effect produced by the use of the Word is very little, which is fortunate for the man who uses it. In the studying of the seven great Breaths and their effect on each plane, a man can find out much that should transpire on the different subplanes of each plane, especially in relation to his own development. In the studying of the basic note of the solar system (which was stabilised in System I), much can be found out about the use of the Word on the physical plane. A hint lies here for consideration. In the endeavour to find the note for this solar system, the note of love and wisdom, the student will make the necessary communication between the emotional or desire plane and the intuitional plane, and find out the secret of the emotional plane. In the study of the Word on mental levels and its effect in form building, the key to the erection of Solomon’s Temple will be discovered, and the pupil will develop the faculties of the causal body, and eventually find liberation from the three worlds. |
Nếu chưa có sự phát âm đúng đắn này thì hiệu quả thu được khi dùng Thánh ngữ rất ít ỏi. Đó cũng là cái may cho hành giả. Khi nghiên cứu bảy Hơi thở lớn và hiệu quả của chúng trên mỗi cảnh giới, hành giả có thể tìm thấy nhiều điều cần xảy ra trên các cõi phụ khác nhau của mỗi cảnh giới, nhất là liên quan đến sự phát triển của chính y. Khi nghiên cứu nốt căn bản của thái dương hệ này (vốn đã ổn định trong thái dương hệ I), chúng ta có thể tìm thấy nhiều điều về cách sử dụng Thánh ngữ ở cõi trần. Ở đây có một ngụ ý cần xem xét. Khi cố gắng tìm ra nốt của thái dương hệ này, là nốt của bác ái và minh triết, người môn sinh sẽ tạo con đường thông thương cần thiết giữa cõi tình cảm (dục vọng) và cõi trực giác, và tìm ra được bí mật của cõi tình cảm. Khi nghiên cứu Thánh ngữ ở cấp độ trí tuệ và hiệu quả của nó trong việc kiến tạo hình thể, chúng ta có thể khám phá ra chìa khóa của việc xây dựng Đền Solomon. Người môn sinh sẽ phát triển những khả năng của thể nguyên nhân và cuối cùng thoát ra khỏi tam giới. |
|
The student must remember, nevertheless, that he has first to find his personality note, and then the egoic, before he can touch the monadic chord. When he has done that he has, for himself, sounded his own threefold Word, and is now an intelligent creator animated by love. The goal is reached. [60] |
Tuy nhiên, người môn sinh phải nhớ rằng, lúc đầu y phải tìm ra nốt của phàm ngã, kế đến là tìm cho được nốt của Chân ngã, trước khi y có thể tiếp xúc với hòa âm của Chân thần. Khi đã làm thế, tức là tự xướng lên Thánh ngữ (có ba âm điệu) của chính mình, bấy giờ y là người sáng tạo thông minh với động lực bác ái. Mục tiêu đã đạt. [60] |
|
JUNE 21, 1920 |
Ngày 21-6-1920. |
|
Some Practical Hints. |
Vài nét Khái quát để Thực hành. |
|
I wish to make clear this afternoon that it is not possible for me, nor wise and appropriate to give to you different keys in which the sacred Word can be intoned; I can do no more than indicate general principles. Each human being, each unit of consciousness, is so unlike any other that the individual need can only be supplied when full causal consciousness exists on the part of the teacher, and when the pupil has himself reached a point where he is willing to know, to dare and to be silent. The dangers involved in the misuse of the Word are so great that we dare do no more than indicate basic ideas and fundamental principles, and then leave the aspirant to work out for himself the points necessary for his own development and to carry out the needed experiments until he finds for himself that which he needs. Only that which is the result of self-effort, of hard struggle and of bitter experience is of permanent and lasting value. Only as the disciple—through failure, through success, through hardly won victories, and the bitter hours that succeed defeat—adjusts himself to the inner condition, will he find the use of the Word scientifically and experimentally of value. His lack of will defends him largely from the misuse of the Word, whilst his endeavour to love guides him eventually to its correct intoning. Only that which we know for ourselves becomes inherent faculty. The statements of a teacher, no matter how profoundly wise he may be, are but mental concepts until experimentally part of a man’s life. Hence, I can but point the way. I may give but general hints; the rest must be threshed out by the student of meditation for himself. [61] |
Chiều nay, tôi muốn nêu rõ là tôi không thể, cũng như không khôn ngoan và thích hợp chút nào nếu tôi truyền cho các bạn những âm khóa khác nhau để xướng lên Thánh ngữ. Tôi chỉ có thể nêu những nguyên tắc tổng quát thôi. Mỗi con người, mỗi đơn vị tâm thức đều khác nhau đến đỗi nhu cầu của cá nhân người môn sinh chỉ được đáp ứng khi vị huấn sư đã hoàn toàn khai mở tâm thức Chân ngã nơi mình, và khi người môn sinh đã tự đạt mức muốn biết, dám làm và giữ im lặng. Những nguy hiểm khi dùng sai Thánh ngữ thật to lớn đến đỗi tôi không dám làm gì hơn là chỉ ra những ý tưởng chính yếu và những nguyên tắc cơ bản. Rồi sau đó để cho người chí nguyện tự tìm ra những điều cần thiết cho sự phát triển của y và tự thực hiện những thí nghiệm cần thiết, cho đến khi chính y tìm được những gì y cần. Chỉ có kết quả của sự tự cố gắng, của phấn đấu cam go và kinh nghiệm đắng cay mới có giá trị vĩnh viễn trường tồn. Chỉ khi nào người đệ tử tự điều chỉnh với trạng thái nội tâm – qua sự thất bại, qua sự thành công, qua những chiến thắng nhọc nhằn và những giờ phút cay đắng sau khi thất bại – chừng đó y mới thấy việc sử dụng Thánh ngữ có giá trị khoa học và thực nghiệm. Sự thiếu ý chí trong nhiều trường hợp cũng bảo vệ y khỏi (những nguy hiểm của việc) sử dụng sai Thánh ngữ, trong khi cố gắng ban rải tình thương rốt cuộc hướng dẫn y đến cách phát âm đúng đắn. Chỉ có những gì chính chúng ta thực biết mới trở thành khả năng cố hữu. Những lời dạy bảo của vị huấn sư (dù ngài có minh triết và uyên thâm đến đâu) cũng chỉ là những khái niệm tri thức, nếu chưa được người môn sinh chứng nghiệm để trở nên một thành phần của cuộc sống y. Vì vậy, tôi chỉ có thể vạch con đường. Tôi chỉ có thể đưa ra những gợi ý tổng quát. Phần còn lại người môn sinh phải tự gặt hái qua tham thiền. [61] |
|
Phát âm và Sử dụng Thánh ngữ trong Tham thiền Cá nhân. |
|
|
I shall now be very practical. I speak for the man on the Probationary Path, who has therefore an intellectual grasp of what has to be accomplished. He realises approximately his place in evolution and the work to be done if he would some day pass through the portal of Initiation. In this way what I will say will teach the majority who study these letters……..The man undertakes to meditate and seeks to conform to the necessary rules. Let me give a few preliminary hints:— |
|
|
The aspirant seeks daily a quiet spot where he can be free from interference and interruption. If wise, he will always seek the same spot, for he will there build up a shell around it that will serve as a protection and make the desired higher contact more easy. The matter of that spot, the matter of what you might term the surrounding space, becomes then attuned to a certain vibration (the man’s own highest vibration, reached in consecutive meditations) which makes it easier for him each time to start at his highest and so eliminate a long preliminary keying up. |
Hằng ngày, người chí nguyện nên tìm một chỗ yên tĩnh, nơi y khỏi bị quấy rầy, phiền rộn. Nên luôn luôn dùng cùng một nơi, vì ở đó y sẽ tạo nên một cái vỏ bao quanh, vừa để bảo vệ, vừa khiến cho sự giao tiếp cần có với cấp cao được dễ dàng hơn. Vật chất ở nơi ấy, vật chất của cái mà bạn gọi là môi trường chung quanh, sau đó sẽ trở nên hòa điệu với một mức rung động nhất định (là mức rung động cao nhất của chính hành giả, đạt được trong những buổi thiền liên tiếp) khiến cho mỗi lần nhập thiền y dễ bắt ngay vào điểm cao nhất, khỏi mất công làm lại từ đầu. |
|
The aspirant composes himself to a position in which he can be unconscious of his physical body. No hard and fast rules can be laid down as the physical vehicle itself has here to be considered,—it may be handicapped in some way, stiff or crippled. Ease of posture is to be aimed at, coupled with alertness and attention. Slothfulness and laxness lead a man nowhere. The position most suitable for the average is cross-legged upon the ground, sitting against something that affords support to the spine. In intensest meditation or when the aspirant is very proficient and the centres rapidly awakening (perhaps even the inner fire pulsating at the base of the spine) [62] the back should be erect without support. The head should not be thrown back as tension is to be avoided, but it should be held level, or with the chin slightly dropped. When this is done, that tenseness that is the characteristic of so many will be gone and the lower vehicle will be relaxed. The eyes should be closed and the hands folded in the lap. |
Hành giả nên ở trong vị thế sao cho có thể không còn ý thức về xác thân. Ở đây không thể đặt những qui luật cứng nhắc, vì chính xác thân phải được xem xét, – nó có thể bị vài trở ngại, như tê cứng hay thương tật. Mục tiêu nhắm tới là tư thế thoải mái với sự chú tâm và linh mẫn. Sự uể oải và buông thả không đưa hành giả đến đâu cả. Tư thế thích hợp nhất cho một người bình thường là ngồi xếp bằng tréo chân trên mặt phẳng, lưng dựa vào một vật gì để cho cột sống được thẳng. Trong giai đoạn thiền thâm sâu hay khi hành giả đã thành thạo và các luân xa đang được khai mở mau lẹ (có lẽ ngay cả luồng nội hỏa cũng đang rung động nhịp nhàng ở chót xương [62] sống) thì lưng phải được giữ thẳng đứng mà không dựa vào đâu cả. Đầu đừng ngửa ra sau để tránh căng thẳng, mà phải giữ cân bằng tức là cằm hơi hạ xuống một chút. Khi đã thực hiện các điều này, sự căng thẳng mà nhiều người bị mắc phải sẽ hết, và thể này sẽ được thoải mái. Nên nhắm mắt, hai bàn tay chắp lại trong lòng. |
|
Then let the aspirant note if his breathing is regular, steady and uniform. Should this be so, let him then relax his entire person, holding the mind positive and the physical vehicle supple and responsive. |
Sau đó, hành giả xem hơi thở của mình đã điều hòa, đều đặn và nhịp nhàng hay chưa. Nếu đã được, thì giữ cho toàn thân thoải mái, trí tuệ tích cực và xác thân mềm dịu, dễ ứng đáp. |
|
Then let him visualize his three bodies, and having decided whether his meditation shall be in the head or within the heart (I will later take up this point) let him withdraw his consciousness there and focus himself in one or other of the centres. In so doing let him deliberately realise that he is a Son of God, returning to the Father; that he is God Himself, seeking to find the God-consciousness which is His; that he is a creator, seeking to create; that he is the lower aspect of Deity seeking alignment with the higher. Then let him three times intone the sacred Word, breathing it forth gently the first time and thereby affecting the mental vehicle; more loudly the second time, thereby stabilising the emotional vehicle; and in a still louder tone the final time, acting then upon the physical vehicle. The effect upon each body will be threefold. If correctly chanted with the centre of consciousness steadily held within whichever centre has been chosen, the effect will be as follows: |
Sau đó, hành giả hình dung ba hạ thể. Khi đã quyết định sẽ tham thiền ở luân xa đầu hay luân xa tim (tôi sẽ nói đến điểm này sau), y rút tâm thức ra khỏi ba thể và chú tâm vào một trong hai luân xa vừa kể. Khi thực hành điều này, hành giả hãy thận trọng nhận thức rằng y là một Người Con của Thượng Đế, đang trở về với Đấng Cha lành; rằng y chính là Thượng Đế, đang tìm kiếm tâm thức của Thượng Đế mà cũng là tâm thức của y; rằng y là một vị sáng tạo đang tìm cách sáng tạo; và nhận thức rằng y là trạng thái thấp của Sự Sống Thiêng liêng đang tìm cách chỉnh hợp với trạng thái cao. Sau đó, hành giả xướng lên Thánh ngữ ba lần. Lần đầu xướng lên nhẹ nhàng để ảnh hưởng thể trí. Kế đó xướng lớn hơn để ổn định thể tình cảm. Và lần cuối lớn hơn nữa để tác động vào thể xác. Hiệu quả đối với mỗi thể đều có ba phương diện. Nếu xướng Thánh ngữ đúng cách và trụ vững tâm thức trong luân xa hành giả đã chọn, thì hiệu quả sẽ như sau: |
|
On Mental Levels: |
Ở các cấp Trí tuệ: |
|
a—The contacting of the head centre, causing it to vibrate. The stilling of the lower mind. [63] |
a. Tiếp xúc với luân xa đầu, khiến nó rung động; làm cho thể hạ trí yên lặng. |
|
b—Linking up with the Ego to a more or less degree, but always to some extent through the permanent atom. |
b. Nối kết được ít nhiều với Chân nhân, nhưng luôn luôn đến mức nào đó qua hạt nguyên tử trường tồn. |
|
c—The driving out of coarse particles and the building in of finer. |
c. Loại ra những phần tử thô kệch và thu nạp những chất tinh anh hơn. |
|
On Emotional Levels: |
Ở các cấp Tình cảm: |
|
a—The definite stabilisation of the emotional body through the permanent atom, and the contacting and setting in motion of the heart centre. |
a. Qua hạt nguyên tử trường tồn làm ổn định thể cảm dục, tiếp xúc với luân xa tim và khiến nó hoạt động. [61] |
|
b—The driving out of coarse matter and the rendering of the emotional or desire body more colourless, so that it will be a true reflector of the higher. |
b. Thải ra những chất thô kệch, làm cho thể tình cảm hay cảm dục ngày càng trở nên không màu, nhờ đó mà phản chiếu được các ảnh hưởng cao một cách trung thực hơn. |
|
c—It causes a sudden rush of feeling from the atomic levels of the emotional plane to the intuitional plane, via the atomic channel that exists between the two. It sweeps upward and clarifies the channel. |
c. Gây nên một đợt sóng xúc cảm từ các cấp nguyên tử của cõi tình cảm đến cõi trực giác, qua đường truyền bằng vật chất nguyên tử nối liền hai cõi này. Sóng ấy dâng lên cao và khai thông đường truyền. |
|
On the Physical Planes: |
Ở các cấp Hồng trần: |
|
a—Here the effect is very similar, but the primary effect is on the etheric body; it stimulates the divine flow. |
a. Ở đây, hiệu quả xảy ra cũng tương tự, nhưng hiệu quả đầu tiên là ở thể dĩ thái; nó kích thích sự lưu thông thần lực. |
|
b—It passes beyond the periphery of the body and creates a shell that serves as a protection. It drives away discordant factors in the near environment. |
b. Nó vượt ra ngoài phạm vi của thể này và tạo nên lớp vỏ bảo vệ, và xua tan các yếu tố bất hòa trong môi trường chung quanh. |
|
JUNE 22, 1920 |
Ngày 22-6-1920. |
|
The Logoic Chord and Analogy. |
Hòa âm của Thượng Đế và sự Tương Đồng. |
|
Now, let us proceed with the study of the use of the Sacred Word in its group application and in its employment for certain specific ends. We have very briefly studied the Word as used by the individual who begins to [64] meditate,—the effect of its use being very largely one of purification, stabilisation and centralisation. This is all that is possible until the student has reached a point where he may be allowed to sound the note in one of the subtones egoic. You will have in the egoic note just the same sequence as in the note Logoic. What had you there? You had a sevenfold chord of which the important points at our stage of development are: |
Giờ đây chúng ta hãy nghiên cứu tiếp đến việc dùng Thánh ngữ trong nhóm và áp dụng Thánh ngữ cho những mục tiêu đặc biệt. Chúng ta đã bàn vắn tắc về cách sử dụng Thánh ngữ [64] của người mới học thiền, – hiệu quả của nó phần lớn là sự tinh luyện, ổn định và tập trung. Tất cả những gì có thể làm được cũng chỉ ở mức này thôi, nếu người môn sinh chưa đến trình độ được phép xướng lên một âm phụ của Chân nhân. Chúng ta sẽ thấy nốt của Chân nhân cũng có âm trình giống như nốt của Thượng Đế. Chúng ta có những gì? Chúng ta có một hòa âm bảy nốt gồm những điểm quan trọng trong giai đoạn phát triển của chúng ta là: |
|
1—The basic note. |
1. Nốt căn bản. |
|
2—The major third. |
2. Nốt chánh thứ ba. |
|
3—The dominant or fifth. |
3. Thống âm hay nốt thứ năm. |
|
4—The ultimate seventh. |
4. Nốt chót thứ bảy. |
|
A hint may here be given along the line of analogy. There is a close connection between the fifth or dominant and the fifth principle, Manas or Mind, and, for this solar system (though not for the first or third), there is an interesting response between the fifth plane of mind and the dominant, and between the sixth plane of the emotions and the major third. From some angles in this connection the emotional vehicle forms a third vehicle for consciousness—counting the dense physical and the vehicle for prana or electrical vitality as two units. More I cannot say for the whole shifts and interpenetrates, but I have indicated food for thought. |
Ở đây, có thể theo lối tương đồng để đưa ra một ngụ ý. Có sự liên kết chặt chẽ giữa nốt thứ năm (thống âm) và nguyên khí thứ năm là Manas hay Trí tuệ. Và trong thái dương hệ này (chứ không phải trong hệ I hay hệ III) có sự ứng đáp thú vị giữa cảnh giới thứ năm (cõi trí) với thống âm, và sự đáp ứng của cảnh giới thứ sáu (cõi cảm dục) với nốt chánh thứ ba. Về vấn đề này, xét trên vài phương diện thì thể cảm dục lại là thể thứ ba của tâm thức nếu tính xác thân và thể sinh lực điện (thể của prana hay thể dĩ thái) là hai đơn vị. Tôi không thể nói thêm, vì tất cả đều hoán chuyển và xuyên thấu lẫn nhau, tôi chỉ đưa ra tài liệu để các bạn suy ngẫm. |
|
In the egoic note,—as before said—you have a similar sequence, for it is the reflection on its own plane of the Logoic. You will therefore have the basic note of the physical, the third of the emotional, and the fifth of the causal levels. When a man has mastered the key, and has found his own subtone then he will sound the sacred Word with exactitude and thus reach the desired end; his alignment will be perfect, the bodies will be pure, the channel [65] free from obstruction, and the higher inspiration will be possible. This is the aim of all true meditation and can be reached by the right use of the Word. In the meantime, owing to the absence of a teacher and the defects of the pupil, all that is now possible is to sound the Word as well as may be, knowing that danger does not lurk where there is sincerity of purpose, and that certain results, such as protection, quieting and correction may be achieved. |
Như trước tôi đã nói, trong nốt của Chân ngã các bạn cũng có diễn trình tương tự, vì trên cảnh giới của Chân nhân nó phản hưởng nốt của Thượng Đế. Vì thế, các bạn có nốt căn bản của thể xác, nốt thứ ba của thể cảm dục và nốt thứ năm của thể nguyên nhân. Khi hành giả đã làm chủ được âm khóa và đã tìm được âm phụ của chính mình thì bấy giờ y sẽ xướng lên Thánh ngữ một cách chính xác và đạt được mục tiêu mong muốn. Sự chỉnh hợp này sẽ hoàn hảo, các thể sẽ [65] tinh khiết, đường truyền thông suốt và nguồn linh cảm cao siêu sẽ tuôn xuống. Đó là mục tiêu của mọi cuộc tham thiền đích thực và có thể đạt được bằng việc sử dụng Thánh ngữ một cách đúng đắn. Trong khi chờ đợi, vì chưa có huấn sư và vì những khuyết điểm nơi môn sinh, tất cả những gì có thể làm hiện nay là đọc Thánh ngữ càng đúng càng tốt, và biết rằng với mục đích chân thành, chúng ta có thể tránh được nguy hiểm và có thể đạt được một số kết quả, như là sự bảo vệ, an định và hiệu chỉnh. |
|
Group Use of the Word. |
Sử dụng Thánh ngữ trong Nhóm. |
|
In group formation the effect of the Word is intensified, provided the groups are correctly constituted, or rendered null and void and neutralised should the groups contain undesirable elements. Certain things, therefore, have to be ascertained before the Word may be used with adequacy by a group:— |
Áp dụng trong hình thức tập thể, hiệu quả của Thánh ngữ được tăng cường, nếu nhóm được thành lập đúng đắn. Nếu trong nhóm có những yếu tố bất hảo thì hiệu quả sẽ bị trung hòa, và vô giá trị. Vì thế, muốn sử dụng Thánh ngữ một cách thỏa đáng, thì phải theo những điều kiện sau đây: – |
|
a—It is desirable that people on the same ray or on a complementary ray form a group. |
a. Nhóm phải gồm những người thuộc cùng một cung, hoặc có cung bổ túc với nhau. |
|
b—It is desirable that the Word be intoned on the same key, or in part harmonic. When this is done, the vibratory effect is far reaching and certain reactions will occur. |
b. Thánh ngữ phải được xướng lên trong cùng một âm khóa, hoặc hòa âm một phần. Khi thực hiện được điều này, hiệu quả của sự rung động sẽ sâu rộng và sẽ xảy ra một số phản ứng. |
|
What results, therefore, when the Word is correctly sounded by a group of people rightly intermingled? |
Như thế, khi một nhóm được thành lập đúng cách, xướng lên Thánh ngữ đúng giọng điệu, thì sẽ có kết quả gì? |
|
a—A strong current is set up that reaches the disciple or the Master responsible for the group and which enables him to put the group en rapport with the Brotherhood, permitting the channel to be cleared for the transmission of teaching. |
a. Một dòng thần lực mạnh mẽ được tạo ra, thấu đến vị đệ tử hay vị Chân sư phụ trách nhóm đó, khiến vị này có thể kết hợp nhóm với Đ.Đ.C.G., khai thông đường dẫn để truyền xuống các giáo huấn. |
|
b—A vacuum is created that corresponds somewhat to the vacuum that should exist between the Ego and the Personality, but this time between a group and Those on the inner side. [66] |
b. Tạo được một khoảng chân không phần nào tương ứng với khoảng chân không giữa Chân nhân và Phàm nhân, nhưng ở đây là giữa nhóm và các Đấng ở nội giới. [66] |
|
c—If all conditions are right, it likewise results in a linking with the egoic groups of the involved personalities, a stimulation of the causal bodies involved, and a linking of all three groups—the lower, the higher and the Brotherhood—in a triangle for the transmission of force. |
c. Nếu tất cả các điều kiện đều đúng đắn, thì kết quả gần như là sự liên kết nhóm Phàm nhân với nhóm Chân nhân liên hệ, là sự kích thích các thể nguyên nhân của họ, và liên kết ba nhóm – nhóm Phàm nhân, nhóm Chân nhân và Đ.Đ.C.G. – thành một tam giác để truyền thần lực. |
|
d—It has a definite effect on the physical vehicles of the lower group; it intensifies the vibration of the emotional bodies, driving out countervibration and swinging all into line with the higher rhythm. This results in equilibrium; it stimulates the lower mind, yet at the same time opens the connection with the higher, which higher, entering in, stabilises the lower concrete mind. |
d. Có hiệu quả rõ rệt vào các thể xác của nhóm phàm nhân; tăng cường sự rung động của các thể tình cảm, loại trừ những rung động đối nghịch và hòa tất cả trong cùng nhịp điệu cao hơn. Điều này đưa đến sự quân bình, kích thích hạ trí và đồng thời mở rộng kết hợp với thượng trí để đưa ảnh hưởng vào làm ổn định hạ trí, hay là trí cụ thể. |
|
e—It attracts the attention of certain of the devas or angels whose work lies with the bodies of men, and enables them to do that work with greater exactitude and make contacts that later will be of use. |
e. Hấp dẫn sự chú ý của các vị thiên thần giữ phần việc tạo các thể cho con người, khiến các vị ấy có thể làm phận sự một cách chính xác hơn, tạo được những sự tiếp xúc sẽ có chỗ dùng về sau. |
|
f—It creates a protective shell around the group, which (though only temporary) leads to freedom from disturbance, enables the units of the group to work with greater ease and according to the law, and helps the inner Teachers to find the line of least resistance betwixt Themselves and those who seek Their instruction. |
f. Tạo nên một lớp vỏ bảo vệ quanh nhóm, dù chỉ tạm thời cũng giúp họ khỏi bị quấy nhiễu, khiến mỗi cá nhân trong nhóm đều có thể làm việc dễ dàng hơn, theo đúng định luật, giúp các Huấn sư nội môn tìm được con đường ít trở ngại nhất giữa các Ngài và những người muốn được các Ngài truyền dạy. |
|
g—It aids in the work of evolution. Infinitesimal that aid may be, yet every effort that leads to the free play of the law, that acts in any way on matter for its greater refining, that stimulates vibration and facilitates the contact between the higher and the lower is an instrument in the hand of the Logos for the hastening of His plan. [67] |
g. Trợ lực cho cuộc tiến hóa. Dù sự trợ giúp này có thể vô cùng bé nhỏ, nhưng mọi cố gắng nhằm giúp định luật phô diễn tự do, nhằm tác động vào vật chất bằng cách nào đó để thanh lọc vật chất nhiều hơn, nhằm kích thích sự rung động, tạo sự tiếp xúc dễ dàng giữa trạng thái cao và trạng thái thấp, đều là một lợi khí trong tay Đức Thượng Đế để đẩy nhanh cơ tiến hóa của Ngài. [67] |
|
I have touched here upon certain effects incident upon the chanting of the Word in unison. Later, as the rules of occult meditation are understood and experimentally applied, these effects will be studied. As the race becomes more clairvoyant, they will also be tabulated and checked. The geometrical forms created by the individual, and by the group, in sounding forth the Word will be recorded and noted. The elimination of individuals from different groups and their assignment to other groups more suitable will be effected by judicious consideration of the work done by them. Later, as individuals develop the higher consciousness, wardens of groups must be chosen—not only for their spiritual attainments and their intellectual capacity, but for their ability to see with the inner vision, and hence assist their members and group to rightful plans and to correct development. |
Tôi đã đề cập đến một số hiệu quả khi cả nhóm đồng xướng lên Thánh ngữ. Về sau, khi các bạn hiểu được các qui luật của tham thiền huyền môn và áp dụng thực nghiệm, chúng ta sẽ nghiên cứu các hiệu quả này. Khi nhân loại ngày càng có nhiều người mở nhãn thông (thấu thị), họ sẽ kiểm soát và phân loại các hiệu quả trên. Những dạng hình học do cá nhân và nhóm tạo nên khi xướng lên Thánh ngữ, sẽ được ghi nhận và lưu ý. Việc đưa cá nhân ra khỏi nhóm và cho họ nhập vào nhóm khác thích hợp hơn sẽ tùy sự cứu xét sáng suốt về các công việc mà họ đã làm. Về sau khi các cá nhân mở được tâm thức cao hơn, thì vị trưởng nhóm phải được chọn ra – không chỉ do vị ấy có những thành đạt tinh thần và khả năng trí thức cao mà do vị ấy còn có thể nhìn thấy được bằng nội nhãn, nhờ thế mà giúp đỡ các thành viên và cả nhóm thực hiện được những kế hoạch thích đáng và phát triển đúng đắn. |
|
Groups for Specific Purposes. |
Những Nhóm có Mục tiêu Đặc biệt. |
|
Groups will later be formed for specific purposes, which brings me to my third point, the use of the Word for certain calculated ends. |
Sau này sẽ có những nhóm được thành lập cho các mục tiêu đặc biệt. Đó là điểm thứ ba cần bàn: việc sử dụng Thánh ngữ cho các mục tiêu có tính toán. |
|
Let me enumerate for you some of the aims groups will have in view when they form themselves, and by the use of the sacred Word, coupled to the true occult meditation, achieve certain results. The time for this is not yet, and need arises not for detailed description, yet if things progress as desired, even you may see it somewhat worked out in your lifetime. |
Tôi sẽ kể ra đây vài mục tiêu mà các nhóm sẽ nhắm tới, khi được thành lập để đạt được những kết quả nhất định bằng cách sử dụng Thánh ngữ và hành thiền huyền môn thực sự. Chưa đến lúc làm việc này nên không cần phải đi vào chi tiết, nhưng nếu mọi việc tiến triển như dự tính, thì các bạn cũng có thể thấy đôi điều được thực hiện ngay trong kiếp sống này. |
|
l—Groups for the purpose of working on the emotional body with the object of development, of subjugation, and clarification. |
1. Những nhóm có mục đích giúp thể cảm dục con người để phát triển, thu phục và thanh lọc nó. |
|
2—Groups for the purpose of mental development, of strengthening equilibrium, and the contacting of the higher mind. [68] |
2. Những nhóm có mục đích phát triển trí tuệ, tăng cường sự quân bình và tạo sự tiếp xúc với thượng trí. |
|
3—Groups for the healing of the physical body. |
3. Những nhóm trị bệnh thân xác. [68] |
|
4—Groups whose purpose is to effect alignment, and to clear the channel betwixt the higher and the lower. |
4. Những nhóm có mục đích giúp chỉnh hợp, khai thông đường truyền giữa Chân ngã và phàm ngã. |
|
5—Groups for the treatment of obsessions and mental diseases. |
5. Những nhóm chữa trị các trường hợp ám ảnh và các bệnh tâm thần. |
|
6—Groups whose work it will be to study reaction to the sounding of the Word, to record and tabulate the consequent geometrical forms, to note its effect on individuals in the groups, and to note the extraneous entities it draws by its attractive force. These must be rather advanced groups, capable of clairvoyant investigation. |
6. Những nhóm có phận sự nghiên cứu sự phản ứng do việc đọc Thánh ngữ, ghi nhận và phân loại những dạng hình học được tạo nên, lưu ý hiệu quả của nhóm đối với các cá nhân trong nhóm, và lưu ý sức hấp dẫn của nó đã kêu gọi được những thực thể nào bên ngoài. Đây hẳn phải là những nhóm tiến hóa khá cao, có khả năng nghiên cứu bằng nhãn thông. |
|
7—Groups that definitely work at making contact with the devas, and collaborating with them under the law. During the seventh ray activity, this will be much facilitated. |
7. Những nhóm có công tác rõ rệt là giao tiếp với các thiên thần và hợp tác với giới này theo Thiên luật. Trong thời kỳ hoạt động của cung bảy, công việc này sẽ được dễ dàng hơn nhiều. |
|
8—Groups that are definitely and scientifically working on the laws of the rays, and studying colour and sound, their individual and group effects, and their interrelation. This is necessarily a select group and only those of high spiritual attainment and those nearing Initiation will be permitted to take part. Forget not that these groups on the physical plane are but the inevitable working out into manifestation of the inner groups of aspirants, pupils, disciples and initiates. |
8. Những nhóm làm việc một cách rõ rệt và khoa học là nghiên cứu định luật của các cung, nghiên cứu màu sắc và âm thanh, sự tương quan giữa chúng và hiệu quả của chúng nơi cá nhân và tập thể. Đây nhất thiết là một nhóm chọn lọc và chỉ những người có trình độ tinh thần cao hay gần được Điểm đạo mới được phép gia nhập. Đừng quên rằng những nhóm ở cõi trần này chỉ là sự biểu hiện tất nhiên của những nhóm ở nội giới gồm những người chí nguyện, các môn sinh, các đệ tử và các điểm đạo đồ. |
|
9—Groups that are definitely working under some one Master, and conforming to certain procedure laid down by Him. The members of these groups will therefore be chosen by the Master. |
9. Những nhóm làm việc trực thuộc một vị Chân sư, tuân theo những phương thức nhất định mà Ngài đã vạch. Vì thế, nhân viên của các nhóm này phải do Ngài chọn. |
|
10—Groups working specifically under one of the three great departments and seeking—under expert guidance—to influence politically and religiously [69] the world of men, and to speed the processes of evolution as directed from the department of the Lord of Civilisation. Some of these groups will work under the Church, others under Masonry, and others will work in connection with the Initiate heads of the great organizations. In considering this you need to remember that the whole world becomes ever more mental as time proceeds,—hence the ever-increased scope of this type of work. |
10. Những nhóm hoạt động đặc biệt, thuộc một trong ba ngành lớn (ba cung chánh). Dưới sự hướng dẫn chuyên môn, họ tìm cách ảnh hưởng đến nhân loại về [69] mặt chính trị và tôn giáo, và đẩy nhanh diễn trình tiến hóa như đã được ngành của Đức Văn minh Đại đế điều hành. Một vài nhóm này sẽ hoạt động trong giáo hội, vài nhóm khác thì trong hội Tam điểm, còn những nhóm khác thì làm việc kết hợp với vị thủ lãnh điểm đạo đồ của những tổ chức lớn. Khi xem xét vấn đề này, các bạn nên nhớ rằng theo thời gian toàn thế giới ngày càng mở mang trí tuệ nhiều hơn, – vì thế, phạm vi hoạt động loại này ngày một tăng. |
|
11—Other groups will work entirely in what might be termed preparatory work for the future colony. |
11. Các nhóm khác hoàn toàn lo làm công việc có thể gọi là chuẩn bị cho cộng đồng sinh hoạt tương lai. |
|
12—Problem groups, as they might be called, will be formed to deal with social, economic, political and religious problems as they arise, studying the effects of meditation, colour and sound. |
12. Có những nhóm được gọi là nhóm hóa giải, được thành lập để giải quyết những vấn đề khó khăn phát sinh thuộc tôn giáo, chính trị, kinh tế và xã hội. Họ nghiên cứu những hiệu quả của tham thiền, của màu sắc và âm thanh. |
|
13—Still other groups will deal with child culture, with the individual training of people, with the guidance of persons on the probationary path, and with the development of the higher faculties. |
13. Còn có những nhóm chuyên lo việc dưỡng dục trẻ em, việc rèn luyện của từng cá nhân, việc hướng dẫn những đạo sinh trên đường dự bị, và việc phát triển các khả năng cao. |
|
14—Later, when the great Lord, the Christ, comes with His Masters, there will be a few very esoteric groups, gathered out of all the others, where the members (through graduation and karmic right) will be trained for discipleship and for the first Initiation. There will be seven such groups or centres formed for definite occult training…Only those whose vibratory capacity is adequate will find their way there. |
14. Sau này, khi Đức Chưởng Giáo tức là Đức Christ giáng lâm cùng các vị Chân sư phụ tá Ngài, sẽ có vài nhóm rất nội môn được chọn từ tất cả các nhóm kia, trong đó các thành viên (do căn quả và trình độ cao) sẽ được huấn luyện tư cách đệ tử và được Điểm đạo lần thứ nhất. Sẽ có bảy nhóm như thế hay bảy trung tâm được thành lập cho cuộc Huấn luyện huyền môn đích thực….Chỉ những người nào có khả năng rung động thích hợp mới gia nhập các nhóm này. |
|
I have given you enough to consider for today, and we will leave the consideration of point the fourth till tomorrow. [70] |
Hôm nay xem xét bấy nhiêu đã đủ, còn điểm thứ tư chúng ta hãy để đến ngày mai. |
|
JUNE 23, 1920 |
[70] Ngày 23-6-1920. |
|
You are right in thinking that conditions today are not desirable. The whole world speeds towards a crisis—a crisis reconstructive, even though it seems to the onlooker to be destructive. On all sides, the tearing down of the old forms is progressing, nor is the work as yet fully accomplished. Enough has, nevertheless, been done to permit of the erection of the scaffolding for the new building. In serenity and steady adherence to the next duty will come the simplification of that which must he done. |
Các bạn có lý khi nghĩ rằng những điều kiện hiện nay thật không đáng mong muốn. Trọn cả thế giới đang lâm vào cuộc khủng hoảng – một cuộc khủng hoảng để tái tạo, dù đối với kẻ bàng quan nó có vẻ hủy diệt. Trong mọi phương diện, việc phá tan các hình thức cũ còn đang tiến hành và vẫn chưa hoàn tất. Tuy nhiên, đã có đủ điều kiện để dựng lên cái giàn cho công trình xây dựng mới. Sự an tâm và bền bỉ gắn bó với bổn phận kế tiếp, khiến cho những việc bạn phải làm trở nên đơn giản. |
|
Today we deal with the effect of the Word on the various centres, on each body, and its utility in aligning the bodies with the causal vehicle. This was our fourth point. The first two are closely allied, for the sacred Word (when properly enunciated) acts on the various bodies through the medium of the centres, and their astral and mental counterparts. Some of the effects, such as the elimination of undesirable matter, and the building in of new, the protective effect of the Word and its work of stabilisation and purification, we have somewhat touched upon. We will now focus our attention largely upon the centres and the result upon them of the sounding of the Word. |
Hôm nay, chúng ta bàn về hiệu quả của Thánh ngữ trên các luân xa khác nhau, trong mỗi thể, và sự hữu dụng của nó trong việc làm các hạ thể chỉnh hợp với thể nguyên nhân. Đây là điểm thứ tư của chúng ta. Hai điểm đầu có liên hệ chặt chẽ với nhau, vì Thánh ngữ (khi xướng lên đúng đắn) sẽ tác động lên những thể khác nhau qua trung gian của các luân xa, và các luân xa tương ứng trong thể cảm dục và thể trí. Một số hiệu quả như là loại bỏ vật chất không thích hợp và thu vào những chất mới, hiệu quả bảo vệ, làm ổn định và tinh luyện của Thánh ngữ, chúng ta đã có bàn qua ít nhiều. Bây giờ, chúng ta hãy tập trung chú ý vào các luân xa và hiệu quả ở đó khi xướng lên Thánh ngữ. |
|
Bảy Luân xa và Thánh ngữ. |
|
|
As is our custom, let us divide our thoughts under the following heads. Tabulation has its value; it systematises knowledge, thus tending to the orderly arrangement of the mental body; it facilitates recollection through the assistance of the eye. |
Như thường lệ, chúng ta hãy chia vấn đề thành nhiều mục. Đồ biểu có giá trị hệ thống hóa các hiểu biết. Nhờ thế thể trí được sắp xếp có thứ tự, và khi xem qua các bảng biểu chúng ta có thể nhớ lại dễ dàng. |
|
l—Enumeration and discussion of the centres. |
1. Kể tên và bàn về các luân xa. |
|
2—Growth and development of the centres. |
2. Sự tăng trưởng và phát triển các luân xa. |
|
3—The effect of meditation on the centres. |
3. Hiệu quả của tham thiền vào các luân xa. |
|
4—Their interrelation in the work of alignment. [71] |
4. Mối tương quan giữa các luân xa trong việc chỉnh hợp. [71] |
|
First let me say that certain information that may seem to be the natural sequence and corollary of that which I have to impart will have to be withheld. The dangers involved through the injudicious development of the centres are too great for us to venture yet to give full and detailed instructions. We seek to develop Masters of Compassion, dispensers of the love of the universe. We seek not to develop Masters of Black Arts and specialists in ruthless self-expression at the expense of the uninitiated. Certain facts have been, and can be, imparted. They will lead to the development of the intuition, and inspire the seeker after light to more earnest endeavour. Others must be withheld for they would be weapons of great danger in the hands of the unscrupulous. If then it seems to you that I have but imparted only sufficient to arouse interest, know then that that is my aim. When your interest and the interest of all aspirants is sufficiently aroused naught can then be withheld from you. |
Trước hết, xin nói rằng phải giữ lại một số kiến thức được xem là phần kế tục tự nhiên và hệ quả của những điều tôi phải truyền đạt. Mối nguy hiểm quá lớn do việc phát triển các luân xa không đúng cách, khiến chúng tôi không dám đưa ra giáo huấn có đủ chi tiết. Chúng tôi tìm cách phát triển hàng ngũ những vị Chân sư Từ ái, những người phân phối nguồn bác ái vũ trụ. Chúng tôi không tìm cách gia tăng những vị bàng môn và những người có biệt tài tự phô trương một cách thô bạo, bằng cách gây thiệt hại cho những ai không thuộc nhóm họ. Một số sự kiện đã được truyền đạt và nay có thể được truyền đạt. Chúng giúp hành giả phát triển trực giác, và giúp nguồn hứng khởi cho kẻ tìm ánh sáng càng hăng hái cố gắng hơn. Một số sự kiện khác phải giữ lại vì chúng sẽ trở thành vũ khí nguy hiểm trong tay kẻ bất lương. Vì thế, nếu các bạn thấy rằng dường như tôi chỉ truyền đạt những gì vừa đủ gợi sự quan tâm thôi, thì đó lại chính là mục tiêu của tôi vậy. Khi sự quan tâm của bạn và của mọi người chí nguyện đã đúng mức, thì không có gì cần giữ lại đối với các bạn cả. |
|
Enumeration of the centres. |
1. Kể tên các luân xa. |
|
The physical centres are, as you know:— |
Như các bạn biết, những luân xa trong thể hồng trần là: – |
|
l—The base of the spine. |
1. Luân xa chót xương sống. |
|
2—The solar plexus. |
2. Luân xa nhật tùng. |
|
3—The spleen. |
3. Luân xa lá lách. |
|
4—The heart. |
4. Luân xa tim. |
|
5—The throat. |
5. Luân xa cổ họng. |
|
6—The pineal gland. |
6. Luân xa tuyến tùng. |
|
7—The pituitary body. |
7. Luân xa tuyến yên. |
|
This enumeration is correct, but I seek to give you another division, based on earlier imparted facts, those anent the solar system. These seven centres may be enumerated as five if we eliminate the spleen and count the two head centres as one. The five centres thus specified [72] are applicable to our fivefold evolution in this the second solar system. |
Kể như vậy là đúng rồi, nhưng tôi chỉ các bạn một lối phân chia khác, dựa trên những sự kiện tôi đã nói trước đây, và về thái dương hệ. Bảy luân xa này có thể được kể là năm, nếu không tính đến luân xa lá lách, còn hai luân xa đầu thì xem như một. Năm luân xa được xác định như thế, có thể áp [72] dụng cho cuộc tiến hóa năm giai đoạn của chúng ta trong thái dương hệ thứ hai này. |
|
In the first solar system the three lower centres were developed and with them the occultist has naught to do. They form the basis of the development of the lower quaternary before individualisation, but are now transcended and the divine fire must be focalised in other and higher centres. |
Trong thái dương hệ thứ nhất, ba luân xa thấp đã được mở mang và hiện nay các huyền bí gia không còn dùng chúng nữa. Chúng là căn bản để phát triển tứ hạ thể, trước khi con thú thành người, còn hiện nay thì ta phải vượt lên chúng, và ngọn lửa thiêng phải được tập trung trong các luân xa khác cao hơn. |
|
The Spleen. |
Luân xa Lá lách. |
|
The spleen, the third centre, has a specific purpose. It has its correspondence in the third or activity aspect, and in the third or Activity (Adaptability) Ray, and is the basis of all the fundamental activities of the microcosm, and of the recurring adaptations of the microcosm to its environment, to its need and to the macrocosm. It controls the selective processes of the microcosm; it takes the vibratory force and energy of the macrocosm and transmutes it for the use of the microcosm. We might call it the organ of transmutation, and—as its functions are more completely understood—it will be found that it provides a magnetic link between the conscious, thinking, three-fold man and his lower vehicles, regarding those lower vehicles as the Not-Self, and as themselves animated by informing entities. It is the life force contacting those entities that is the issue and aim. |
Luân xa thứ ba là lá lách, có công dụng đặc biệt, có phần tương ứng trong trạng thái thứ ba hay là phương diện hoạt động, và trong Cung ba hay Cung Hoạt động (Thích nghi). Nó là căn bản của mọi hoạt động chính yếu của tiểu vũ trụ (con người), những sự thích ứng thường xuyên của y với hoàn cảnh, với nhu cầu của chính mình và với đại vũ trụ. Nó kiểm soát những tiến trình chọn lọc trong con người, rút lực rung động và năng lượng của đại vũ trụ và biến đổi cho con người sử dụng. Có thể gọi nó là cơ quan chuyển hóa, và khi những chức năng của nó được hiểu biết đầy đủ hơn ta sẽ thấy rằng nó tạo sự liên kết từ lực giữa con người suy tưởng, hữu thức, có ba trạng thái, và các hạ thể của mình, xem các hạ thể là phi-ngã và thấy chúng được sống động nhờ các thực thể phú linh. Vấn đề và mục đích là làm sao cho sinh lực tiếp xúc với các thực thể này. |
|
In its emotional counterpart, it is the organ of emotional vitality, again in the same sense as providing a link; on the mental plane it serves somewhat the same purpose, only this time through this centre are the thoughtforms vitalised by means of the energising will. I will not, therefore, deal more fully with this centre beyond these general indications. Few people have the faculty of stimulating [73] it through the use of the Word, nor is it desirable that they should. It develops normally if the aspirant himself—as a totality—progresses as desired:—if his physical body receives adequate application of the life forces of the sun, if his emotional body is moved by high desire, and open to the downflow of force from the causal and intuitional levels, and if his mental life is intense, vibrant, and animated by a powerful will. Then the spleen, with its inner counterparts, will progress and be in a healthy condition. |
Phần tương ứng với luân xa này trong thể cảm dục là cơ quan phân phối sinh lực cảm dục, và nó cũng tạo sự liên kết. Phần tương ứng trong thể trí có mục đích cũng gần giống vậy, chỉ có điều ở đây những hình tư tưởng được năng lượng ý chí làm sống động đang đi qua luân xa này. Vì thế, ngoài những chỉ dẫn tổng quát về luân xa này, tôi không muốn bàn thêm nữa. [73] Ít người có khả năng kích thích luân xa này bằng Thánh ngữ, mà điều này cũng đừng nên làm. Nó sẽ phát triển bình thường nếu chính người chí nguyện tiến bộ toàn diện đúng như mong muốn: – nếu thể xác nhận được đầy đủ sinh lực mặt trời, nếu thể tình cảm được vận chuyển bằng những ước vọng cao thượng, mở ra đón nhận mãnh lực từ các cấp của thể nguyên nhân và trực giác tuôn xuống, và nếu y có trí tuệ tập trung, sinh động, với ý chí mạnh mẽ, năng động. Bấy giờ, luân xa lá lách với những phần tương ứng nội tại sẽ phát triển và ở trong tình trạng lành mạnh. |
|
We will therefore thus dispose of it and give no further space to it in these letters. |
Thế là chúng ta thôi bàn về luân xa này, và trong các thư sau không còn nói đến nó nữa. |
|
The fundamental centres. |
Những Luân xa Chủ yếu. |
|
The three fundamental centres of vital importance from the standpoint of the average man, polarised in his emotional body and living the normal life of the man of the world, are: |
Ba luân xa nền tảng, rất quan trọng đối với những người tiến hóa trung bình, đã phân cực trong thể tình cảm và có cuộc sống hình thường ở thế gian, là: |
|
l—The base of the spine. |
1. Luân xa chót xương sống. |
|
2—The solar plexus. |
2. Luân xa nhật tùng. |
|
3—The heart centre. |
3. Luân xa tim. |
|
The three major centres for the man nearing the Probationary Path and for the man who is aiming at a life of altruism, having examined the attractions of the three worlds, are: |
Ba luân xa chính yếu đối với người đến gần Con đường Dự bị, đối với người đang hướng đến cuộc sống vị tha và đã khảo xét những hấp dẫn của tam giới, là: |
|
l—The base of the spine. |
1. Luân xa chót xương sống. |
|
2—The heart. |
2. Luân xa tim. |
|
3—The throat. |
3. Luân xa cổ họng. |
|
His solar plexus is left then to normal functioning, having served its purpose as a centre for the emotional focussing. The activity of the fire becomes more centered in the throat. [74] |
Bấy giờ luân xa nhật tùng của y được để cho hoạt động bình thường, sau khi đã đạt mục đích làm một trung tâm hội tụ tình cảm. Hoạt động của lửa thiêng ngày càng gom vào luân xa cổ họng. [74] |
|
The three major centres for the man on the Path itself in its twofold divisions are:— |
Ba luân xa chính đối với người đang đi trên đường Đạo (gồm hai giai đoạn) là: – |
|
l—The heart. |
1. Luân xa tim. |
|
2—The throat. |
2. Luân xa cổ họng. |
|
3—The head. |
3. Luân xa đầu. |
|
The divine activity has developed the solar plexus centre, is controlling all the centres below the solar plexus, and is passing upward in ordered progression until it is focussed and vivifying the head centres. |
Hoạt động thiêng liêng đã phát triển luân xa nhật tùng, đang kiểm soát tất cả các luân xa dưới nhật tùng, và trong diễn tiến tuần tự vượt lên cho đến mức hội tụ và làm linh hoạt các luân xa ở đầu. |
|
Earlier we divided the life of the man into five main periods, tracing his development in each. We might (if we are careful to generalise widely) apply the same to the five centres. |
Trước đây, chúng ta đã chia cuộc sống con người làm năm giai đoạn chính, mô tả sự phát triển của y trong mỗi giai đoạn. Nếu thận trọng chỉ xét tổng quát, chúng ta có thể áp dụng năm giai đoạn đó vào năm luân xa. |
|
Period I—wherein the base of the spine is the most active in the purely rotary sense and not in a fourth-dimensional. The inner fire is focussed on the vivification of the organs of generation and on the functional physical life of the personality. |
Giai đoạn I – Trong giai đoạn này luân xa chót xương sống linh hoạt nhất, nhưng chỉ thuần là xoay tròn trong không gian ba chiều, chứ không phải bốn chiều. Ngọn lửa bên trong được gom vào việc làm sinh động những cơ quan sinh sản và gom vào cuộc sống chức năng thân xác của phàm nhân. |
|
Period II—wherein the solar plexus is the goal of the attention of the fire and when the emotional counterpart vibrates synchronously. Two centres are thus vibrating, even though the measure be slow; the others are alive; pulsation can be seen, but there is no circular movement. |
Giai đoạn II – Trong giai đoạn này luân xa nhật tùng là mục tiêu hội tụ của lửa và luân xa tương ứng của nó trong thể tình cảm cũng rung động đồng bộ. Cả hai luân xa đều cùng rung động, dù còn ở mức chậm chạp. Các luân xa khác đã sống động, có thể thấy chúng rung động, nhưng không có chuyển động xoay tròn. |
|
Period III—The divine fire now mounts to the heart centre and the three rotate in ordered measured unison. I would point out that the vivification of any one centre. causes an accession of force in all, and I would further point out that in the head are seven centres (three major and four minor) and that these centres directly correspond to one or other centre in the body. They are the synthesis, and, on the stimulation of their corresponding centre, receive themselves a corresponding acquisition of rotary power. [75] |
Giai đoạn III – Bây giờ ngọn lửa thiêng lên đến luân xa tim, và cả ba luân xa đều xoay trong sự hòa hợp, nhịp nhàng và trật tự. Có thể nói là khi thức động một luân xa nào cũng khiến mãnh lực tuôn vào các luân xa khác, và tôi có thể nói thêm rằng trong luân xa đầu có bảy trung tâm (ba chính và bốn phụ) và mỗi trung tâm tương ứng trực tiếp với một luân xa trong cơ thể. Chúng là tổng hợp, và khi ta kích thích luân xa tương ứng của chúng, thì chúng cũng nhận được năng lực xoay tròn tương ứng. [75] |
|
Period IV—marks the definite stimulation of the throat centre. All the creative activity of the three-fold man—physical, emotional and mental—is turned upward in service, and his life begins occultly to sound. He is occultly productive. He manifests forth and his sound goes out before him. This is an occult statement of fact definitely apparent to those who have the inner vision. Coordination between the centres becomes apparent; rotation is intensified, and the centres themselves change in appearance, becoming unfolded, and the rotary movement becomes fourth-dimensional, turning inward upon itself. The centres are then radiating nuclei of light, and the corresponding four lower head centres are equally alive. |
Giai đoạn IV – Đánh dấu sự kích thích rõ rệt luân xa cổ họng. Toàn bộ hoạt động sáng tạo của ba trạng thái phàm nhân – xác thân, tình cảm và trí tuệ – đều hướng thượng trong phụng sự. Về mặt huyền bí cuộc sống y bắt đầu phát ra âm thanh, và trở nên phong phú và hữu ích về mặt huyền môn. Y biểu hiện mạnh mẽ và âm thanh của y phát ra trước y. Đây là lời phát biểu huyền môn thực tế mà người có nội nhãn thông thấy rõ như thế. Các luân xa ngày càng điều hợp với nhau rõ rệt, ngày càng xoay nhanh hơn và hình dạng của chúng cũng thay đổi, nở lớn, chuyển động xoay theo bề đo thứ tư, tức là tự quay vào bên trong của chính nó. Bấy giờ, các luân xa này là những hạt nhân ánh sáng chói rạng và bốn trung tâm phụ tương ứng ở đầu cũng sinh động như vậy. |
|
Period V—marks the application of the fire to the head centres and their complete awakening. |
Giai đoạn V – Đánh dấu mức tiến của lửa thiêng đến các trung tâm ở đầu, và chúng được hoàn toàn thức động. |
|
Before initiation, all the centres will be rotating in fourth dimensional order, but after initiation they become flaming wheels, and—seen clairvoyantly—are of rare beauty, The fire of Kundalini is then awakened and is progressing in the necessary spirals. At the second initiation the emotional centres are similarly awakened, and at the third initiation those on the mental plane are touched. The initiate can then stand in the Presence of the Great King, the One Initiator. |
Trước khi điểm đạo, tất cả các luân xa sẽ xoay tròn trong trật tự không gian bốn chiều, nhưng sau khi điểm đạo chúng trở thành những bánh xe rực lửa, và nếu xem bằng nhãn thông ta sẽ thấy chúng tốt đẹp lạ lùng. Bấy giờ, luồng Hỏa hậu (Kundalini) được đánh thức và tiến lên theo những vòng xoắn cần thiết. Vào cuộc điểm đạo thứ hai, các luân xa của thể cảm dục cũng được thức động tương tự. Trong cuộc điểm đạo thứ ba, các luân xa của thể trí mới được chạm đến. Bấy giờ vị điểm đạo đồ có thể diện kiến Đức Huyền môn Đại đế, Đấng Điểm đạo Duy nhất. |
|
I seek to point out that the student must ever remember that here generalisations only are given. The complexity in the development of the microcosm is as great as in the macrocosm. The awakening of the centres and their particular order is dependent on several factors, such as: |
Người môn sinh cần luôn ghi nhớ rằng ở đây tôi chỉ nói tổng quát thôi. Sự phát triển của tiểu vũ trụ cũng phức tạp như sự phát triển của đại vũ trụ. Sự thức động các luân xa theo thứ tự nào đó là tùy những yếu tố như: |
|
a—The Ray of the Spirit or Monad. |
a. Cung của Tinh thần hay Chân thần. |
|
b—The Ray of the Ego, Higher Self, or Son, or the sub-ray. [76] |
b. Cung của Chân nhân, Chân ngã, Đức Chúa Con, hay là cung phụ của Chân thần. [76] |
|
c—Race and nationality. |
c. Giống dân và quốc tịch. |
|
d—The special type of work to be done. |
d. Loại công việc đặc biệt mà hành giả cần phải làm. |
|
e—The application of the student. |
e. Cố gắng áp dụng của hành giả. |
|
Fundamental centres of average man. |
Các luân xa cơ bản của người bình thường. |
—
|
Fundamental centres of developed man. |
Các luân xa cơ bản của người đã tiến hóa. |
—
—
|
Fundamental centres of man on Path. |
Các luân xa cơ bản của người trên Đường Đạo. |
|
Hence you can see for yourself that it is useless to lay down rules for the development of the centres and to formulate methods whereby the fire can be circulated until such time as trained teachers with expert knowledge and clairvoyant faculty are in charge of the work on the physical plane. It is not desirable for aspirants to focus their thought on any one centre. They run the risk of overstimulation, [77] or of attrition. It is not wished that effort be made to turn the fire towards any particular point; in ignorant manipulation lies insanity and fell disease. If the aspirant but seeks spiritual development, if he but aims at sincerity of purpose and at compassionate altruism, if he, with serene application, concentrates on the subjugation of the emotional body and the enlargement of the mental, and cultivates the habit of abstract thinking, the desired results upon the centres will be produced from necessity and danger will be eliminated. |
Vì thế, các bạn có thể thấy rằng thật là vô ích nếu đặt ra những qui luật để phát triển các luân xa và đưa ra những phương pháp để luân chuyển ngọn lửa, mà chưa đến lúc có những huấn sư lão luyện với kiến thức chuyên môn và khả năng nhãn thông đảm nhận công việc đó ở cõi trần. Người chí nguyện đừng nên có ý muốn tập trung tư tưởng vào bất kỳ một luân xa nào. Vì làm thế tức là tạo nguy cơ, khiến luân xa đó [77] bị kích thích quá độ hay suy yếu đi. Cũng đừng nên cố gắng quay ngọn lửa vào một điểm đặc biệt nào. Sự vận dụng dốt nát sẽ gây nên điên cuồng và bệnh hoạn. Nếu người môn sinh chỉ tìm cách phát triển tinh thần; nếu y chỉ nhằm mục đích thành thực và lòng từ ái vị tha; nếu y an tâm áp dụng, tập trung vào việc chế ngự tình cảm, mở mang thể trí và vun bồi thói quen suy tư trừu tượng, thì những kết quả mong muốn nơi các luân xa sẽ đạt được đúng mức nhu cầu mà không gây nguy hiểm. |
|
When these triangles are paths of threefold fire, emanating from the base of the spine, when the interlacing is complete and the fire progresses along the path from centre to centre in the correct manner, and when this is accomplished in the order required by the man’s primary ray, then the work is completed. The fivefold man has attained perfection for this present greater cycle and the goal is reached. |
Khi các tam giác này trở thành những con đường của ngọn lửa tam phân phát xuất từ luân xa chót xương sống, khi sự tương giao giữa chúng đã hoàn hảo và ngọn lửa tiến lên đúng cách theo con đường từ luân xa này đến luân xa khác và khi điều này được thành tựu theo thứ tự cần có do cung nguyên thủy của môn sinh, thì bấy giờ công việc hoàn tất. Con người năm trạng thái đã đạt được sự hoàn thiện trong đại chu kỳ này và đã đến mục tiêu. |
|
(Note that this order has to be attained in the head centres likewise.) |
(Nên nhớ rằng trật tự này cũng phải đạt được trong các trung tâm ở đầu). |
|
Tomorrow we will continue the study of the centres more specifically and somewhat describe them, pointing to the effect upon the life through the awakening of these wheels. |
Ngày mai, chúng ta sẽ nghiên cứu các luân xa một cách cụ thể hơn và sẽ mô tả chúng một phần nào. Tôi sẽ chỉ rõ hiệu quả trong cuộc sống khi thức động các luân xa đó. |
|
JUNE 25, 1920. |
Ngày 25-6-1920. |
|
The growth and development of the centres. |
2. Sự Phát triển và Khai mở các Luân xa. |
|
We will now enumerate the centres again, this time considering their psychic correspondences and will note the colours and the number of the petals. |
Giờ đây chúng ta kể lại các luân xa và lần này xem xét các luân xa tương ứng ở cấp cao hơn, lưu ý đến màu sắc và số cánh của mỗi luân xa. |
|
1—The base of the spine. Four petals. These petals are in the shape of a cross, and radiate with orange fire. [78] |
1. Luân xa chót xương sống. Có bốn cánh, xếp theo hình chữ thập, tỏa ánh lửa màu vàng cam. [78] |
|
2—The solar plexus. Ten petals. The colour rosy, with an admixture of green. |
2. Luân xa nhật tùng. Có mười cánh, màu hồng pha màu xanh lục. |
|
3— The heart centre. Twelve petals. Colour glowing golden. |
3. Luân xa tim. Có mười hai cánh, màu vàng chói. |
|
4—The throat centre. Sixteen petals. Colour silvery blue, the blue predominating. |
4. Luân xa cổ họng. Có mười sáu cánh, màu xanh óng ánh bạc, nhưng màu xanh là chủ yếu. |
|
5—The head centres. These are in a twofold division;— |
5. Các luân xa ở đầu. Gồm hai phần: – |
|
a—Between the eyebrows. Ninety-six petals. Colour, one-half of the lotus is rose and yellow, and the other half is blue and purple. |
a. Luân xa giữa hai chân mày. Có chín mươi sáu cánh, một nửa hoa sen này màu hồng và vàng, nửa kia màu xanh và đỏ tía. |
|
b—The top of the head. There are twelve major petals of white and gold, and 960 secondary petals are arranged around the central twelve. This makes a total of 1068 petals in the two head centres, or 356 triplicities. All these figures have an occult significance. |
b. Luân xa đỉnh đầu. Có mười hai cánh chính màu trắng và vàng ánh, và 960 cánh phụ xếp chung quanh mười hai cánh trung tâm. Như vậy, cả hai luân xa ở đầu có tất cả 1.068 cánh, hay là 356 bộ ba. Tất cả những con số này đều có ý nghĩa huyền bí. |
|
This description is taken from “The Inner Life.” This description applies to the etheric centres, which are themselves the working out into physical plane manifestation of corresponding vortices on the emotional plane, with emotional vitality playing through. They have their mental counterparts, and in their awakening as aforesaid, and in their growth and development, comes the final vivification, and the resultant liberation. |
Sự miêu tả này được trích từ sách “Đời sống Nội tâm,” áp dụng cho các luân xa thể dĩ thái. Chúng biểu lộ ở cõi trần các xoáy năng lực tình cảm tương ứng, với sinh lực tình cảm tác động xuyên qua. Chúng có các luân xa tương ứng trong thể trí, mà như trước tôi đã nói, khi thức động, phát triển và khai mở chúng, hành giả sẽ đạt mức sinh động chung cuộc và được giải thoát. |
|
The connection between the centres, the causal body and meditation lies hid in the following hint: it is through the rapid whirling and interaction of these centres and their increased force through meditation (the ordered occult meditation) that the shattering of the causal body is effected. When the inner fire is circulating through each centre and when kundalini is spiralling [79] accurately and geometrically from vortex to vortex, the intensification interacts in three directions. |
Mối liên kết giữa các luân xa, thể nguyên nhân và sự tham thiền ẩn trong ngụ ý sau đây: Chính nhờ sức quay nhanh và tương tác giữa các luân xa cùng mãnh lực của chúng (được tăng cường qua tham thiền huyền môn có qui củ) ta thực hiện được việc phá vỡ thể nguyên nhân. Khi nội hỏa luân chuyển [79] qua từng luân xa và khi luồng hỏa hậu theo đường xoắn đi lên chính xác theo dạng hình học, từ vùng xoáy này đến vùng xoáy khác thì sức tăng cường sẽ tương tác theo ba chiều hướng. |
|
a—It focuses the light or the consciousness of the Higher Self into the three lower vehicles, drawing it downward into fuller expression and widening its contact on all the three planes in the three worlds. |
a. Nó hội tụ ánh sáng hay tâm thức của Chân ngã vào ba hạ thể, đưa tâm thức này xuống để biểu lộ đầy đủ hơn và mở rộng tiếp xúc trong cả tam giới. |
|
b—It draws down from the threefold Spirit more and more of the fire of the Spirit, doing for the causal body what the Ego is doing for the three lower vehicles. |
b. Đưa lửa từ Tam nguyên Tinh thần tuôn xuống ngày càng nhiều để giúp thể nguyên nhân, giống như Chân nhân giúp ba hạ thể. |
|
c—It forces the unification of the higher and lower, and it attracts the spiritual life itself. When this is done, when each successive life sees an increase of vitality in the centres, and when kundalini in its seven-fold capacity touches each centre, then even the causal body proves inadequate for the influx of life from above. If I might so express it, the two fires meet, and eventually the egoic body disappears; the fire burns up entirely the Temple of Solomon; the permanent atoms are destroyed, and all is reabsorbed into the Triad. The essence of the Personality, the faculties developed, the knowledge gained, and the remembrance of all that has transpired becomes part of the equipment of the Spirit and eventually finds its way to the Spirit or Monad on its own plane. |
c. Thúc đẩy sự hợp nhất giữa Chân ngã và Phàm ngã và thu hút sự sống của chính Chân thần. Khi việc này được thực hiện, khi mỗi kiếp sống kế tiếp lại thấy có sự tăng cường sinh lực trong các luân xa, và khi luồng hỏa hậu (với năng lực thất phân) chạm đến từng luân xa, thì thậm chí bấy giờ thể nguyên nhân cũng vẫn chưa tỏ ra thích hợp cho nguồn sống từ trên tuôn xuống. Có thể nói là hai ngọn lửa gặp nhau, và rốt cuộc thể nguyên nhân tan biến. Đền Solomon bị lửa thiêu rụi. Những nguyên tử trường tồn đều bị hủy diệt, và tất cả đều được tái hấp thu vào trong Tam nguyên tinh thần. Tinh hoa của Phàm ngã, những khả năng đã được phát triển, những kiến thức đã đạt được và ký ức về tất cả những việc đã xảy ra đều trở nên thành phần trang bị cho Tinh thần và rốt cuộc nhập vào Tinh thần hay Chân thần ở cảnh giới của nó. |
|
Now let me enumerate for you the things as to which it will not be possible as yet to furnish more information; the risks involved would be too great. |
Sau đây là những điều mà tôi chưa có thể đưa ra nhiều chi tiết hơn, vì làm thế là đặt các bạn trước những nguy cơ quá lớn. |
|
l—The method of arousing the Sacred Fire. |
1. Phương pháp khơi dậy luồng Lửa thiêng. |
|
2—The order of its progression. |
2. Thứ tự các bước tiến của nó. |
|
3—The geometrical forms it makes as it mounts. |
3. Khi đi lên nó phải theo những dạng hình học nào. |
|
4—The order of the development of the centres. according to the ray of the Spirit. The complexity is too great. [80] |
4. Thứ tự phát triển các luân xa tùy theo cung của Chân thần. Thật quá nhiều điều phức tạp. |
|
You will therefore observe that the subject really becomes more abstruse, the longer it is studied. It is complicated by ray development, by the man’s own place upon the ladder of evolution, by the uneven awakening of the different centres due to the type of a man’s lives; it is rendered more complex by the threefold nature of the centres themselves,—etheric, emotional and mental—by the fact, that some people have one or other emotional centre completely awakened and demonstrating etherically whilst the mental counterparts may be quiescent; others may have the mental centres awake and the emotional not so vivified and be etherically quiet. Therefore, it will be obvious how great is the need for conscious clairvoyant teachers, who can judiciously work with the pupils, stimulating through scientific knowledge and methods the dormant or sluggish centres, and aligning them so that the current can freely flow back and forth between the external vortices and the inner centre. Later the teacher can train the pupil in the safe awakening of the inner fire, in its scientific culture and transmission, and instruct him in the order required for its convolutions along the path of the triangles until it reaches the head centres. When kundalini has traversed these geometrical lines the man is perfected, the personality has served its purpose, and the goal is reached. Hence the fact that all the centres have petals whose numbers are multiples of four, for four is the number of the lower self, of the quaternary. The total number of petals in the centres, if we eliminate the spleen which has a purpose all its own, and the three lower organs of creation, is one thousand, one hundred and ten, the total number signifying the perfection of the microcosm,—ten the number of perfected personality, one hundred the number of causal perfection, and one thousand the number of spiritual [81] achievement. When every petal vibrates in all the dimensions, then the goal for this manvantara is reached. The lower lotus is full blown, and reflects the greater with precision. |
[80] Cho nên càng nghiên cứu các bạn lại thấy vấn đề càng sâu xa, khó hiểu hơn. Nó phức tạp vì sự phát triển của các cung, do vị trí của môn sinh trên thang tiến hóa, do sự đánh thức các luân xa không đồng đều, vì cuộc sống mỗi kiếp mỗi khác. Vấn đề càng rắc rối hơn vì các luân xa đều có ba trạng thái – dĩ thái, tình cảm và trí tuệ – vì thực tế là một vài người có luân xa nào đó trong thể cảm dục đã hoàn toàn thức động và biểu lộ qua thể dĩ thái, trong khi những luân xa đối ứng trong thể trí có thể còn ngủ yên. Một số người khác có thể có luân xa trong thể trí đã thức động, luân xa của thể tình cảm thì kém sống động hơn, còn luân xa dĩ thái lại yên lặng. Vì thế, các bạn thấy rõ rằng nhu cầu về các huấn sư có nhãn thông hữu thức thật thiết yếu đến mức nào. Các vị ấy có thể giúp đỡ môn sinh một cách đúng đắn, có thể dùng kiến thức và phương pháp khoa học để kích thích những luân xa còn ngủ yên và chậm chạp, chỉnh hợp chúng, sao cho dòng năng lực có thể qua lại tự do giữa những luân xa bên ngoài và bên trong. Về sau, vị huấn sư có thể huấn luyện người môn sinh về cách an toàn để đánh thức luồng nội hỏa, để bồi dưỡng và chuyển di nó một cách khoa học. Ngài cũng dạy y biết cách cho nó cuốn xoáy đi lên theo thứ tự cần thiết trên đường của các tam giác cho đến các luân xa ở đầu. Khi Kundalini đã đi qua các đường hình học này, thì hành giả trở nên hoàn thiện, phàm ngã đã làm tròn phận sự, và mục tiêu đã đạt. Vì vậy, sở dĩ số cánh của tất cả các luân xa đều là những bội số của 4, vì 4 là con số của phàm ngã, của tứ hạ thể. Nếu không kể luân xa lá lách (vì nó có mục đích riêng biệt) và ba cơ quan sinh sản ở dưới, thì tổng số cánh của các luân xa là 1.110, tổng số này có nghĩa là sự hoàn thiện của tiểu vũ trụ, – 10 là con số của Phàm nhân hoàn hảo, 100 là con số của Chân ngã trọn [81] lành và 1.000 là con số của Tinh thần thành đạt. Khi mỗi cánh đều rung động trong tất cả các bề đo, thì đó là lúc đạt được mục đích của đại kiếp này. Tiểu liên hoa đã nở trọn vẹn và phản ánh được đại liên hoa một cách chính xác. |
|
JUNE 26, 1920. |
Ngày 26-6-1920. |
|
Hiệu quả của tham thiền huyền môn đối với các luân xa. |
|
|
We shall study today the effect of occult meditation upon the centres and their consequent vivification, positing a meditation prefaced always by the use of the Sacred Word, uttered according to rule. |
Hôm nay, chúng ta sẽ nghiên cứu hiệu quả của tham thiền huyền môn trên các luân xa và sự thức động các luân xa do hiệu quả đó, để ấn định một lối thiền luôn luôn mở đầu bằng việc sử dụng Thánh ngữ, xướng lên đúng qui tắc. |
|
We speak also of a meditation followed under the guidance of a teacher. The man therefore will meditate correctly or approximately so; thus what we are to consider today is the factor of time, in its relationship to the centres, for the work is slow and necessarily gradual. Here I would pause to emphasize to you the need of ever remembering that in all work that is truly occult expected effects are very slowly achieved. Should a man seem in any one incarnation to make spectacular progress it is due to the fact that he is but demonstrating what has already been earlier acquired (the manifesting forth of innate faculty, acquired in previous incarnations) and is preparing for a fresh period of slow, careful and painstaking endeavor. He recapitulates in the present life the processes surmounted in the past, and thus lays the foundation for renewed effort. This slow and laborious effort, which is the consistent method of all that evolves, is after all but an illusion of time and is due to the fact that consciousness is at present for the majority polarised in the lower vehicles and not in the causal. The states of consciousness succeed each other apparently slowly, and in their slow progression lies the chance for the Ego to assimilate the fruit of these stages. [82] It takes a long time to establish a stable vibration, and it takes as long to shatter it, and to impose another and still higher rhythm. Growth is one long period of building in order to destroy, of constructing in order to disorganise later, of developing certain rhythmic processes in order to later disrupt them, and to force the old rhythm to give place to the new. What the Personality spends many thousands of lives in establishing is not going to be lightly altered when the Ego—working in the lower consciousness—seeks to effect a change. The shifting of polarisation from emotional to mental, and thence to the causal and later to the three-fold Spirit inevitably entails a period of great difficulty, of violent conflict both internally and with the environment, intense suffering and apparent darkness and disruption—all these things characterise the life of the aspirant or the disciple. What causes this and why is this so? The following reasons may make it apparent why the path is so hard to tread and the process of mounting the ladder (as one nears the higher rungs) becomes ever more complicated and difficult. |
Chúng ta cũng nói đến tham thiền dưới sự hướng dẫn của một vị huấn sư. Nhờ đó mà hành giả sẽ tham thiền đúng đắn hoặc gần đúng với lời hướng dẫn. Thế nên hôm nay chúng ta xem xét yếu tố thời gian liên quan đến các luân xa, vì việc thực hành nhất thiết phải chậm rãi và tuần tự. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh rằng bao giờ các bạn cũng cần phải nhớ là trong các công phu thực sự huyền môn thì hiệu quả mong đợi chỉ đạt được một cách rất chậm chạp. Nếu trong một kiếp sống nào đó chừng như hành giả đạt được những bước tiến ngoạn mục thì chẳng qua là y đang phô bày những gì đạt được từ trước (sự biểu lộ những khả năng bẩm sinh đã đạt được từ tiền kiếp) và đang chuẩn bị cho một giai đoạn cố gắng mới một cách chậm chạp, chuyên cần và thận trọng. Trong kiếp này, y ôn lại những tiến trình đã đạt được trong quá khứ, nhờ thế mà đặt nền tảng cho nỗ lực mới. Nỗ lực chậm chạp và khó nhọc này (vốn là phương pháp tiến hóa nhất quán của vạn vật) chung qui chỉ là ảo tưởng về thời gian và do sự thực là hiện nay tâm thức của đa số nhân loại đang phân cực trong các hạ thể, chứ không ở thể nguyên nhân. Những trạng thái tâm thức nối tiếp nhau có vẻ chậm chạp, và nhờ diễn tiến chậm rãi đó mà Chân nhân mới có cơ hội đồng hóa được [82] thành quả của các giai đoạn này. Phải cần thời gian lâu dài mới tạo được một sự rung động bền vững, và cũng cần thời gian lâu như vậy để phá vỡ nó, và áp dụng một nhịp điệu rung động khác cao hơn. Sự tăng trưởng là một thời kỳ lâu dài xây dựng để rồi phá hủy, kiến tạo để rồi sau đó giải tán, phát triển một số tiến trình có tiết điệu để rồi về sau lại tiêu hủy chúng, buộc nhịp điệu cũ phải nhường chỗ cho cái mới. Khi Chân nhân hoạt động trong tâm thức thấp để tìm cách thay đổi những gì mà Phàm nhân đã kiến tạo trong hàng ngàn kiếp, thì khó mà thay đổi ngay được bao nhiêu. Việc chuyển sự phân cực từ thể tình cảm sang thể trí, sau đó đến thể nguyên nhân, để rồi tiến đến Tam nguyên Tinh thần thì quả là một giai đoạn cực kỳ khó khăn, một sự xung đột dữ dội cả ở nội tâm và với ngoại cảnh, sự đau khổ mãnh liệt và bề ngoài có vẻ tối tăm, đổ vỡ – đó là những đặc điểm trong cuộc đời của người chí nguyện hay người đệ tử. Điều gì gây ra trình trạng này và tại sao như vậy? Những lý do sau đây có thể cho thấy rõ tại sao việc dấn bước trên Đường Đạo lại nhọc nhằn đến thế, và tại sao cuộc leo thang tiến hóa (khi hành giả lên gần những nấc cao) lại trở nên ngày càng phức tạp và khó khăn. |
|
1—Each body has to be dealt with and disciplined separately and thus purified. |
1. Mỗi thể phải được áp dụng phương thức và giới luật riêng, để tinh luyện. |
|
2—Each body has to be readjusted and aligned. |
2. Mỗi thể phải được điều chỉnh lại và chỉnh hợp. |
|
3—Each body has to be subjected to repolarisation. |
3. Mỗi thể phải được phân cực lại. |
|
4—Each body is practically reconstructed. |
4. Mỗi thể phải thực sự được tái tạo. |
|
5—Each subplane above the fourth (for on the fourth the life of the aspirant starts) has to be dominated. |
5. Trong mỗi cảnh giới, ba cõi phụ cao phải được chế ngự tuần tự (vì cuộc sống của người chí nguyện bắt đầu từ cõi phụ thứ tư). |
|
6—Each centre has to be gradually, carefully and scientifically awakened, its revolutions have to be intensified, its radiations electrified (if I may borrow that term and apply it to the centres) and its force must demonstrate through the higher dimension. [83] |
6. Mỗi luân xa phải được đánh thức một cách khoa học, thận trọng và tuần tự; nó phải được tăng cường vận tốc quay, bức xạ của nó phải được tích điện (xin tạm mượn từ này để dùng cho các luân xa) và mãnh lực của nó phải biểu lộ trong bề đo cao hơn. [83] |
|
7—Each etheric centre has to be magnetically linked, in full alignment, with the corresponding centres in the emotional and mental bodies, so that the flow of force is unimpeded. |
7. Mỗi luân xa trong thể dĩ thái phải được liên kết bằng từ lực, phải chỉnh hợp hoàn toàn với những luân xa tương ứng trong thể tình cảm và trong thể trí, nhờ đó mà dòng mãnh lực không bị trở ngại. |
|
8—Each centre has then to be awakened afresh by the Sacred Fire till the radiations, the velocity and the colours are keyed to the egoic note. This is part of the work of Initiation. |
8. Bấy giờ mỗi luân xa phải được đánh thức một lần nữa bằng luồng Lửa thiêng, cho đến khi bức xạ, vận tốc và màu sắc của nó phù hợp với âm điệu của Chân nhân. Đây là một phần việc trong cuộc Điểm đạo. |
|
As each change is gradually made, it responds to the same law that governs all cyclic growth in the macrocosm: |
Mỗi sự biến đổi này xảy ra tuần tự, ứng với cùng một định luật quản trị toàn cuộc phát triển theo chu kỳ của đại vũ trụ: |
|
l—First comes the clashing of the old with the new rhythm. |
1. Đầu tiên là sự va chạm của hai nhịp điệu cũ và mới. |
|
2—This is followed by a period of gradual dominance of the new, elimination of the old, and the stabilisation of the new vibration. |
2. Kế đến là giai đoạn cái mới dần dần chế ngự, xóa bỏ cái cũ, và củng cố sự rung động mới. |
|
3—Then finally comes the passing on and out, and again a repetition of the process. |
3. Cuối cùng, là sự chuyển tiếp và tắt dần để tái diễn một tiến trình mới. |
|
It is this work that is done on the bodies and on the centres by the work of meditation and the use of the Sacred Word. This Word aids in the adjustment of the matter, its vitalisation by fire, and enables the aspirant to work in line with the law. This unfoldment of the centres is a gradual process, paralleling the work done on the bodies, the refining of the vehicles and the slow development of causal consciousness. |
Đó là công việc thực hiện trong các thể và ở các luân xa, qua tham thiền và bằng cách sử dụng Thánh ngữ. Thánh ngữ giúp điều chỉnh vật chất trong các thể, làm sinh động vật chất nhờ lửa, và giúp người chí nguyện có thể làm việc theo đúng định luật. Khai mở các luân xa là một tiến trình tuần tự, song hành với việc tinh luyện các thể và phát triển tâm thức thể nguyên nhân một cách chậm rãi. |
|
Concluding remarks. |
Nhận xét tổng kết. |
|
In concluding this division upon the use of the Sacred Word in meditation, I would like to indicate certain things, though more than a hint is not possible. This matter has been difficult for you to comprehend, and I fully realise it. The difficulty lies in the fact that so little [84] can be safely said, that the real use of the Word is one of the secrets of initiation and may not therefore be divulged, and that what little can be indicated is of small value to the student apart from the wise attempt to experiment, which experiment must be carried on under the guidance of one who knows. Still, I will indicate certain things which, wisely pondered upon, may lead to illumination. |
Để kết luận phần sử dụng Thánh ngữ trong tham thiền, tôi muốn nêu lên vài điểm, dù cũng chỉ là nói tổng quát thôi. Tôi hoàn toàn biết rằng vấn đề này làm các bạn khó hiểu. [84] Lý do là vì phải nói thật ít để giữ an toàn cho các bạn. Cách dùng Thánh ngữ thật đúng là một trong những bí mật của điểm đạo, nên không thể tiết lộ. Phần nhỏ được chỉ dạy này cũng không có giá trị bao nhiêu với người môn sinh, nếu y không cố gắng thí nghiệm một cách khôn ngoan, và cuộc thí nghiệm phải có sự hướng dẫn của người đã biết. Dù vậy, tôi cũng sẽ chỉ dẫn một vài điều, nếu khéo suy ngẫm bạn có thể được soi sáng. |
|
When meditating in the heart centre, picture it as a golden lotus closed. When the Sacred Word is enunciated, picture it as a lotus slowly expanding until the inner centre or vortex is seen as a radiating whirlpool of electric light, more blue than golden. Build there the picture of the Master, in etheric, emotional and mental matter. This entails the withdrawing of the consciousness ever more and more inwards. When the picture is fully built then gently sound the Word again, and with an effort of the will withdraw still further inwards and link up with the twelve petalled head centre, the centre of causal consciousness. Do all this very slowly and gradually, maintaining an attitude of perfect peace and calm. There is a direct relationship between the two twelve petalled centres and occult meditation, and the action of the kundalini fire will later reveal its significance. This visualization leads to synthesis, to causal development and expansion, and eventually conducts a man into the presence of the Master. |
Khi tham thiền ở luân xa tim, hãy hình dung nó là một búp sen màu vàng ánh. Khi Thánh ngữ được xướng lên, hãy hình dung hoa sen này từ từ nở ra, cho đến khi thấy được tâm hoa là một vùng xoáy điện quang tỏa sáng, màu xanh nhiều hơn vàng. Hãy tưởng tượng ở đó hình ảnh của Chân sư bằng vật chất của thể dĩ thái, thể tình cảm, và thể trí. Làm thế tức là cần phải càng lúc càng thu tâm thức vào trong. Khi hình ảnh này đã được tạo đầy đủ thì nhẹ nhàng đọc Thánh ngữ lần nữa, và dùng nỗ lực ý chí thu tâm thức vào sâu hơn và liên kết với luân xa 12 cánh ở đầu, luân xa này thuộc tâm thức của thể nguyên nhân. Làm tất cả các điều này thật chậm rãi, từ từ, giữ thái độ hoàn toàn bình thản và an tĩnh. Hai luân xa 12 cánh này có liên hệ trực tiếp với tham thiền huyền môn, và tác động của luồng hỏa hậu về sau sẽ cho biết ý nghĩa đó. Sự hình dung này đưa đến sự tổng hợp, phát triển và mở rộng thể nguyên nhân, và cuối cùng giúp hành giả đến trước Chân sư. |
|
The solar plexus is the seat of the emotions and should not be centred upon in meditation. It is a basis for physical healing and will later be more completely understood. It is the centre of activity—an activity which must later be intuitional. The throat centre works radiantly when the polarisation is shifting from the physical atom to the mental permanent atom as dealt with earlier. [85] The mental permanent atom becomes the centre of pure reason or of abstract thought. Then comes a time in the development of consciousness when the emotional force which governs so many is transcended and superseded by the force of the higher intellect. It often marks a period when a man is swayed purely by reason and his emotions do not control him. This may demonstrate in the personal life on the physical plane as intellectual hardness. Later, the emotional permanent atom gives place to the intuitional, and pure intuition and perfect comprehension through love is the motive power, with the faculty of reason added. Then the solar plexus is distinguished by the preponderance of the green of activity, for the emotional body is actively the agent of the higher, and engenders but little of the rose of human desire. |
Luân xa nhật tùng là cơ sở của tình cảm, không nên tập trung tư tưởng vào đó khi tham thiền. Nó là căn bản để chữa bệnh cho thể xác, và sau này chúng ta sẽ hiểu nó đầy đủ hơn. Nó là một trung tâm hoạt động – về sau, hoạt động này phải thuộc về trực giác. Luân xa cổ họng bắt đầu chói sáng, khi sự phân cực được chuyển từ nguyên tử trường tồn hồng trần đến nguyên tử trường tồn thượng trí, như đã bàn đến trước đây. [85] Nguyên tử trường tồn thượng trí trở thành trung tâm thuần lý trí hay là trung tâm tư tưởng trừu tượng. Rồi trong cuộc phát triển tâm thức, sẽ đến lúc mà mãnh lực tình cảm (đang chi phối biết bao nhiêu người) bị vượt lên và thay thế bằng mãnh lực của thượng trí. Nó thường đánh dấu bằng một giai đoạn mà con người sống thuần lý trí và không còn bị tình cảm chi phối nữa. Điều này có thể biểu lộ bằng sự nghiêm khắc của trí tuệ trong đời sống cá nhân ở cõi trần. Về sau nguyên tử trường tồn thể tình cảm được thay thế bằng nguyên tử trường tồn bồđề. Trực giác thuần khiết và sự thông hiểu toàn vẹn qua tình thương là quyền năng chủ động, có thêm khả năng phán đoán của lý trí. Bấy giờ luân xa nhật tùng được nổi bật nhờ sự linh hoạt rõ rệt của màu lục, vì thể cảm dục là tác nhân tích cực của thể cao hơn, và chỉ tỏa ra một ít màu hồng của dục vọng phàm nhân. |
|
In the whirling of the force through the vortex (which whirling forms the petals of the lotus) it will be observed that certain petals predominantly stand out, and each centre demonstrates one particular type of cross, with the exception of the two head centres which are the synthesis of the lower crosses. The four-armed cross of the third Logos is found at the base of the spine and the cross of the fourth human Hierarchy in the heart. |
Khi mãnh lực xoay tròn xuyên qua vùng xoáy (sự xoay tròn này hình thành các cánh hoa sen) ta sẽ thấy một số cánh nổi bật rõ rệt, và mỗi luân xa phô bày một loại thập tự đặc biệt, chỉ trừ hai luân xa ở đầu, vì đó là những luân xa tổng hợp của các thập tự thấp hơn. Ta có thập tự bốn cánh của Thượng Đế ngôi ba ở luân xa chót xương sống, và thập tự của Huyền giai thứ tư (là nhân loại) ở luân xa tim. |
|
When the Sacred Word is intoned by the average aspirant, it carries force through all the inner centres to the etheric, and causes a definite stimulation of the petals in each centre. If the lotus is only partially unfolded, then only some of the petals receive the stimulation. This stimulation creates a vibration (especially in the centre in which a man meditates—the head or the heart) which causes reflex action in the spine and down to the base. This is not in itself sufficient to arouse the fire; that can only be done in due form, in the right key and subject to certain rules. |
Khi Thánh ngữ được một người chí nguyện trung bình xướng lên, nó mang mãnh lực xuyên qua các luân xa bên trong ra đến các luân xa dĩ thái, và gây nên một sự kích thích rõ rệt các cánh của mỗi luân xa. Nếu hoa sen chỉ được khai mở một phần, thì chỉ có một số cánh được kích thích. Sự kích thích này tạo nên một sự rung động (đặc biệt là trong luân xa mà hành gia đang tham thiền, ở đầu hay ở tim) gây tác động phản xạ trong cột sống, xuống tận luân xa chót xương sống. Chính việc này không đủ sức khơi dậy luồng lửa, mà chỉ khi nào làm đúng thể thức, đúng âm khóa và theo đúng một số qui luật nhất định mới thực hiện được. [86] |
|
[86] When meditation is done in the heart and under occult laws, with the correct intoning of the Word, the force comes through the emotional centres from the intuitional levels. When it is done in the head, the force comes through the mental centres from the abstract manasic levels, and later from the atmic. The one gives spiritual intuition, and the other causal consciousness. |
Khi tham thiền ở luân xa tim, theo đúng những định luật huyền môn và xướng Thánh ngữ chính xác, thì mãnh lực từ các cấp trực giác tuôn xuống xuyên qua các luân xa của thể tình cảm. Khi tham thiền ở luân xa đầu, thì mãnh lực tuôn xuống qua các luân xa của hạ trí từ các cấp độ trừu tượng của thượng trí, về sau thì từ cõi niết-bàn. Một mặt ta được trực giác tinh thần, còn mặt khác ta được tâm thức của Chân ngã. |
|
The advanced man is the man who is linking up the two major centres,—the head and the heart,—into one, synthetic instrument, and whose throat centre vibrates to the same measure. Then you have will and love blended in harmonious service, and the lower physical activity is transmuted into idealism and altruism. When this stage is reached, the man is ready for the awakening of the inner fire. His bodies are refined enough to withstand the pressure and the onrush; they contain nothing dangerous to its progress; the centres are keyed high enough to receive the acquisition of fresh stimulation. When this has been done, the hour of initiation comes when the would-be server of humanity will stand before his Lord, with purified desire, consecrated intellect, and a physical body that is his servant and not his master. |
Ở người tiến hóa cao, hai luân xa chính (đầu và tim) được liên kết thành một khí cụ tổng hợp, và luân xa cổ họng cũng rung động đồng nhịp. Bấy giờ ý chí và bác ái hòa hợp trong phụng sự, và hoạt động của phàm ngã chuyển thành hoạt động cho lý tưởng và vị tha. Khi đạt đến trình độ này, hành giả đã sẵn sàng để đánh thức luồng nội hỏa. Các thể của y đã được tinh luyện, đủ sức chịu đựng áp lực của dòng thần lực tuôn tràn. Chúng không còn những yếu tố nào gây nguy hại do diễn tiến của luồng hỏa. Các luân xa trong chúng được tăng cường rung động cao đến mức đủ sức tiếp nhận sự kích thích mới. Khi điều này được thực hiện thì đã đến lúc người đệ tử được điểm đạo, người phụng sự nhân loại tương lai sẽ đứng trước Đấng Chủ tể, với dục vọng đã được tinh luyện, với trí tuệ hiến dâng, và xác thân là tôi tớ chứ không còn là chủ của y nữa. |
|
Today we will bring this letter to a close. Tomorrow, we will take up the dangers that confront the man who meditates. I shall seek to point out what he must guard against and wherein he must move with caution. |
Hôm nay chấm dứt bức thư này. Đến mai, chúng ta sẽ bàn đến những nguy hiểm đối với người hành thiền. Tôi sẽ chỉ cho y biết phải đề phòng những gì, và những bước nào y phải tiến hành thận trọng. |
|
[87] |
|
LETTER V – DANGERS TO BE AVOIDED IN MEDITATION.z
|
JULY 22, 1920. |
Ngày 22-7-1920. |
|
The Withholding of Information. |
Phải giữ lại một số Giáo huấn. |
|
[88] We have reached a point now where the foundations of knowledge have been laid,—that knowledge which instills into the wise student the desire to submit to the necessary rules, to conform to the prescribed requirements, and to make the comprehended mental concepts practical experiences in daily life. This desire is wise and right, and the object of all that has been imparted, but at this juncture it may be wise to sound a warning note, to point out certain dangerous possibilities, and to put the student on his guard against an enthusiasm that may lead him along paths that will hinder development, and that may build up vibrations that will ultimately have to be offset. This entails delay and a recapitulation in work that (if realised in time) might be obviated. |
Đến đây, sự hiểu biết của chúng ta đã được đặt căn bản. Sự hiểu biết này khiến người môn sinh khôn ngoan có ý muốn tuân thủ những qui luật cần thiết, làm đúng theo những điều kiện được ấn định, và biến những quan niệm tri thức y đã hiểu thành những kinh nghiệm thực tế trong đời sống hằng ngày. Ý muốn này thật là chính đáng và khôn ngoan, và là mục tiêu của tất cả những gì đã được truyền thụ. Nhưng đến đây phải sáng suốt đưa ra lời khuyến cáo, để chỉ rõ một số nguy hiểm có thể xảy ra, để người môn sinh tự đề cao cảnh giác, tránh sự hăng say thái quá, có thể đưa y theo những con đường gây trở ngại cho sự phát triển, hoặc có thể tạo nên những loại rung động mà cuối cùng phải được làm cân bằng. Điều này khiến công việc của y bị chậm trễ, phải làm lại, mà nếu nhận thức được kịp thời thì có thể ngăn ngừa. |
|
Certain statements and instructions cannot be made or given in writing to students for three reasons:— |
Có ba lý do khiến không thể nói ra hay viết ra một số điều giáo huấn cho các môn sinh: – |
|
l—Some instructions are always given orally, as they appeal to the intuition and are not for the pondering and logical reasoning of lower mind; they also contain elements of danger if submitted to the unready. |
1. Một số giáo huấn luôn luôn được khẩu truyền, vì chúng kêu gọi đến trực giác chứ không phải để cho hạ trí suy ngẫm hay lý luận. Những lời dạy đó cũng có những yếu tố nguy hiểm nếu truyền cho kẻ chưa chuẩn bị sẵn sàng. |
|
2—Some instructions pertain to the secrets of the Path, and are mainly applicable to the groups to which the student is attached; they can only be given in joint instruction when out of the physical body. They pertain to the group causal body, to certain ray secrets, and to the invoking of the assistance of the higher devas to bring [89] about desired results. The dangers attached thereto are too great to permit of their being communicated in an exoteric publication. The occult effects of the spoken word and of the written word are diverse and interesting. Until such time as you have among you a wise Teacher in physical person, and until it is possible for Him to gather around Him His students, thus affording them the protection of His aura and its stimulating vibration, and until such time as world conditions permit of a certain period of relaxation from the present strain and suspense, it will not be possible to impart forms, invocations and mantrams of a specific character; it will not be possible to arouse the centres ahead of the necessary evolutionary rate, except in a few individual cases where certain pupils (perhaps unconsciously to themselves) are being subjected to definite processes, which result in a greatly increased rate of vibration. This is only being done to a few in each country, and is directly under the eye of a Master, focusing through H.P.B. |
2. Một số giáo huấn thuộc về những bí mật của Đường Đạo, và chính yếu là áp dụng cho những nhóm mà người môn sinh gia nhập. Các giáo huấn ấy chỉ có thể dạy chung cho các môn sinh khi họ đều ở ngoài thể xác. Đó là những lời dạy về thể nguyên nhân của nhóm, về một số bí mật của các cung, và cách kêu gọi sự trợ giúp của những thiên thần cấp cao để mang [89] lại những kết quả mong muốn. Những mối nguy hiểm kèm theo giáo huấn đó quá lớn nên không thể phổ biến cho công chúng được. Những hiệu quả huyền bí của lời nói và của chữ viết đều khác nhau và rất thú vị. Ngày nào chưa có một Huấn sư minh triết mang xác phàm ở giữa các bạn, ngày nào Ngài chưa có thể qui tụ các môn sinh quanh Ngài để dùng hào quang của Ngài mà bảo vệ và kích thích họ, và ngày nào mà thế giới chưa đủ điều kiện vượt qua được hiện tình lo âu căng thẳng để đến một giai đoạn thái hòa, thì vẫn chưa có thể truyền dạy những phương thức, những cách thỉnh cầu và những câu chân ngôn có tính cách đặc biệt. Bấy giờ vẫn chưa có thể đánh thức các luân xa sớm hơn mức tiến hóa cần thiết, trừ một vài trường hợp cá nhân khi một số môn sinh (có lẽ họ chưa tự biết mình) đang trải qua những tiến trình xác định có tác dụng tăng cường nhịp độ rung động rất cao. Công việc này đang được thực hiện cho chỉ một ít người trong mỗi nước, dưới sự trông nom trực tiếp của một vị Chân sư, tập trung qua H.P.B. |
|
3—Information as to the invoking of devas in meditation cannot yet be safely given to individuals, though a beginning is being made with groups such as in the rituals of the Masons and of the Church. Formulas that put the lesser devas under the control of man will not yet he imparted. Human beings are not yet to be trusted with that power, for the majority are but animated by selfish desire and would misuse it for their own ends. It is deemed by the wise Teachers of the race,—as I think I have before said—that the dangers of too little knowledge are much less than the dangers of too much, and that the race can be more seriously hindered by the misapplication of powers gained by incipient occultists than it can by a lack of knowledge that engenders not karmic results. The powers gained in meditation, the [90] capacities achieved by the adjustment of the bodies through meditation, the faculties developed in each vehicle by definite formulas in meditation, the manipulation of matter that is one of the functions of the occultist (the result of well-adjusted vehicles that respond perfectly to plane conditions) and the attainment of causal consciousness—a consciousness that carries with it the ability to include within itself all the lesser—are of too serious a character to be lightly disposed of, and in the training of man along these lines only those are encouraged by the teacher who can be trusted. Trusted in what sense? Trusted to think in group terms and not in terms of self, trusted to use the knowledge gained anent the bodies and the karma of environing associates solely for their wise assistance and not for selfish purposes, and trusted to use occult powers for the furtherance of evolution and for the development on all planes of the schemes of evolution as planned by the three Great Lords. |
3. Những chỉ dẫn cách thỉnh cầu các thiên thần qua tham thiền, vẫn chưa có thể trao cho cá nhân một cách an toàn dù đã có thí nghiệm mở đầu trong các nhóm, như trong nghi lễ của Hội Tam điểm và Giáo hội. Những phương thức để ý chí con người chế ngự những vị thần hạng thấp vẫn chưa được truyền dạy. Nhân loại vẫn chưa được giao phó cho quyền năng đó, vì đa số đều bị sự ham muốn ích kỷ thúc đẩy nên họ sẽ lạm dụng quyền năng đó vào những mục đích riêng tư. Các Huấn sư minh triết của nhân loại đều cho rằng – như có lẽ trước đây tôi đã nói – hiểu biết quá ít thì ít nguy hiểm hơn là hiểu biết quá nhiều, và nếu những nhà huyền bí học sơ cấp có quyền năng, có thể họ sẽ áp dụng sai lầm và gây chướng ngại nghiêm trọng cho nhân loại hơn là họ thiếu những hiểu biết đó nên không gây nghiệp quả. Những quyền năng đạt được trong tham thiền, những khả năng tạo được [90] do việc chỉnh đốn các hạ thể qua tham thiền, những năng khiếu khai mở được trong mỗi thể bằng những định thức tham thiền, sự điều dụng vật chất (là một trong những chức năng của nhà huyền bí học, là kết quả của những thể đã được chỉnh hợp nên ứng đáp hoàn toàn với các điều kiện của cảnh giới), và việc đạt được tâm thức của thể nguyên nhân – một tâm thức có khả năng bao gồm trong nó tất cả các ý thức cấp thấp hơn – những điều đó đều có tính cách quá nghiêm trọng, không thể xem thường. Còn việc huấn luyện con người theo các đường hướng đó thì chỉ những ai có thể được huấn sư tin cậy, Ngài mới khuyến khích thực hành. Được tin cậy theo nghĩa nào? Ngài tin y sẽ suy tư vì tập thể, chứ không vì riêng mình. Ngài tin rằng y dùng sự hiểu biết về các thể, về nghiệp quả của những người chung quanh có liên hệ với y chỉ nhằm giúp đỡ họ một cách khôn ngoan chứ không cho những mục tiêu ích kỷ. Và Ngài tin rằng y sẽ dùng những quyền năng huyền bí để thúc đẩy cuộc tiến hóa và phát triển trên tất cả mọi cảnh giới, cho các đề án mà ba vị Trưởng ngành đã hoạch định. |
|
Let me illustrate:— |
Tôi xin nói rõ thêm: – |
|
One of the things accomplished in meditation when pursued with regularity and under correct instruction is the transference of the consciousness of the lower self into the higher. This carries with it the capacity to see on causal levels, intuitively to recognize facts in the lives of others, to foresee events and occurrences and to know the relative value of a personality. This can only be permitted when the student can be silent, selfless and stable. Who as yet answers to all these requirements? |
Khi hành thiền điều hòa theo lời chỉ dạy đúng đắn, thì một trong những điều đạt được là tâm thức phàm ngã chuyển nhập vào tâm thức của Chân nhân. Điều này cũng kèm theo khả năng nhìn thấy từ mức độ của thể nguyên nhân, trực nhận được các sự thật trong cuộc sống kẻ khác, thấy trước được các biến cố và những việc sắp đến, và biết được giá trị tương đối của phàm nhân. Chỉ khi nào người môn sinh có thể im lặng, vô kỷ, và bền vững thì điều này mới có được. Ai đáp ứng được tất cả những đòi hỏi đó? |
|
I am endeavoring to give you a general idea of the dangers incident to the too early development of the powers achieved in meditation. I seek to sound a note—not of discouragement—but of insistence upon physical purity, on emotional stability and on mental equilibrium before the student passes on to greater knowledge. Only [91] as the channel opens to the intuition and closes to the animal nature can a man wisely proceed with his work. Only as the heart enlarges its capacity to suffer with all that breathes, to love all that is contacted, and to understand and sympathise with the least desirable of God’s creatures, can the work go forward as desired. Only when the development is equable, only when the intellect runs not too far ahead of the heart, and the mental vibration shuts not out the higher one of the Spirit can the student be trusted to acquire powers that, wrongly used, may result in disaster to his environment as well as to himself. Only as he formulates no thoughts save such as he purposes to make for the helping of the world can he be trusted wisely to manipulate thought matter. Only as he has no desire save to find out the plans of the Master, and then to assist definitely in making those plans facts in manifestation, can he be trusted with the formulas that will bring the devas of lesser degree under his control. The dangers are so great and the perils that beset the unwary student so many that before I proceed further I have sought to urge caution. |
Tôi cố gắng truyền cho các bạn ý niệm tổng quát về những mối nguy hiểm trong việc phát triển quyền năng quá sớm qua tham thiền. Tôi muốn lên tiếng – không phải để làm bạn nản lòng – mà chỉ nhấn mạnh rằng người môn sinh phải có thể xác tinh khiết, thể cảm dục ổn định và thể trí thăng bằng, trước [91] khi được hiểu biết nhiều hơn. Chỉ khi tâm hồn mở ra cho trực giác và khép chặt đối với thú tính, thì y mới có thể tiến hành công việc một cách khôn ngoan. Chỉ khi tâm hồn rộng mở, cảm thông với tất cả chúng sinh, yêu thương tất cả mọi người mình gặp, hiểu biết và thiện cảm với những tạo vật của Thượng Đế, dù đó là vật đáng ghét nhất, bấy giờ công việc mới có thể tiến hành như mong muốn. Chỉ khi sự phát triển được đồng đều, chỉ khi trí tuệ (sự hiểu biết) không vượt quá xa trái tim (tình thương), và rung động của hạ trí mở ra cho thượng trí của Tinh thần, bấy giờ người môn sinh mới được tin cậy để đạt các quyền năng, mà nếu sử dụng sai lầm y sẽ gây tai họa cho chính mình và những người chung quanh. Chỉ khi người môn sinh không còn tạo ra những tư tưởng nào khác ngoài mục đích giúp đỡ thế gian, bấy giờ y mới được vị huấn sư sáng suốt tin cậy và chỉ cách điều dụng chất liệu của tư tưởng. Chỉ khi y không ham muốn điều gì khác hơn việc tìm biết những kế hoạch của Chân sư, rồi nhất định trợ giúp thực hiện các kế hoạch đó, bấy giờ y mới được tin cậy giao cho những phương thức chế ngự các thần linh bậc thấp. Những nguy hiểm thật quá to lớn và những rủi ro đe dọa người môn sinh bất cẩn nhiều đến đỗi, trước khi đi xa hơn, tôi muốn các bạn hãy lưu ý đề phòng. |
|
Let us now specify and enumerate certain dangers that must be guarded against by the man who progresses in meditation. Some of them are due to one cause and some to another, and we shall have to specify with accuracy. |
Bây giờ chúng ta hãy kể ra một số nguy hiểm cần phải đề phòng khi hành thiền. Có nguy hiểm thuộc nguyên nhân này, có mối nguy thuộc nguyên nhân khác, và chúng ta sẽ phải trình bày thật chính xác. |
|
l—Dangers inherent in the Personality of the pupil. They can, as you foresee, be grouped under the three heads:—physical dangers, emotional dangers, and mental dangers. |
1. Những nguy hiểm sẵn có trong Phàm ngã của môn sinh. Có thể phân thành ba nhóm: – Những nguy hiểm cho thể xác, những nguy hiểm cho thể tình cảm và những nguy hiểm cho thể trí. |
|
2—Dangers arising from the karma of the pupil, and from his environment. These also may be enumerated under three divisions: [92] |
2. Những nguy hiểm do nghiệp quả của môn sinh gây ra, và do hoàn cảnh của y. Nhóm này cũng có thể được chia thành ba loại: [92] |
|
a—The karma of his present life, his own individual “ring-pass-not,” as represented by his present life. |
a. Nghiệp quả của kiếp sống hiện tại, “vòng hạn định” của cá nhân y, tượng trưng bằng cuộc sống hiện tại. |
|
b—His national heredity and instincts as, for instance, whether he possesses an occidental or an oriental type of body. |
b. Sự di truyền và bản năng của quốc gia, ví dụ như y có loại thể xác người Tây phương hay Đông phương. |
|
c—His group affiliations, whether exoteric or esoteric. |
c. Những liên hệ của y với nhóm, dù là nhóm nội môn hay ngoại môn. |
|
3—Dangers arising from the subtle forces that you ignorantly call evil; such dangers consist in attack on the pupil by extraneous entities on some one plane. These entities may simply be discarnate human beings; they may be the denizens of the other planes who are nonhuman; later on, when the student is of sufficient importance to attract notice, the attack may come from those who deal purely with matter to the hindrance of spiritual growth,—the black magicians, the dark brothers, and other forces that appear destructive. This appearance is only such when viewed from the angle of time and in our three worlds, and is but incidental to the fact that our Logos Himself is also evolving, and (from the standpoint of the infinitely greater Ones Who assist Him in His development) it is dependent upon His transitory imperfections. The imperfections of nature—as we term them—are the imperfections of the Logos, and will eventually be transcended. |
3. Những nguy hiểm do các mãnh lực tinh vi gây ra, mà vì không hiểu nên các bạn gọi là ma quỷ. Những nguy hiểm này gồm sự tấn công môn sinh do những sinh linh bên ngoài, trên một cảnh giới nào đó. Những sinh linh này có thể chỉ là người đã bỏ xác phàm. Đó cũng có thể là những dân cư của các cảnh giới khác nhân loại. Về sau khi môn sinh đã trở nên khá quan trọng, đủ gây chú ý, thì sự tấn công có thể là do những kẻ chỉ sử dụng thuần vật chất để cản trở công cuộc phát triển tinh thần, – những nhà hắc thuật, những anh em hắc đạo, hoặc những mãnh lực có vẻ hủy hoại khác. Nhìn theo khía cạnh thời gian và trong ba cõi thấp của chúng ta, thì sự việc đó có vẻ như vậy, chứ thực ra là do Đức Thái Dương Thượng Đế Ngài cũng đang tiến hóa, và (theo quan điểm của những Đấng vô cùng cao cả đang giúp Ngài phát triển) đó cũng do những khuyết điểm nhất thời của Ngài. Những khuyết điểm mà chúng ta gọi là của thiên nhiên, vốn là những bất toàn của Thượng Đế, và cuối cùng sẽ được khắc phục. |
|
I have therefore outlined for you this morning the material I shall seek to impart during the coming days. |
Thế là sáng nay tôi đã nói sơ lược về những đề tài mà tôi sẽ truyền đạt trong những ngày tới. |
|
JULY 24, 1920. |
Ngày 24-7-1920. |
|
The dangers that beset the student of meditation are dependent upon many factors, and it will not be possible to do more than briefly indicate certain menacing conditions, to warn against certain disastrous possibilities, and to caution the pupil against results that are to be [93] reached by undue strain, by over-excess of zeal, and by a one-pointedness that may lead to an unbalanced development. One-pointedness is a virtue, but it should be the one-pointedness of purpose and of aim, and not that which develops one sole line of method to the exclusion of all others. |
Những mối nguy hiểm chực chờ người môn sinh hành thiền tùy thuộc vào nhiều yếu tố, và tôi không thể làm gì hơn là vắn tắt chỉ ra một số tình trạng hiểm nguy đe dọa, khuyến cáo để đề phòng một số tai họa có thể xảy ra, và cảnh giác người môn sinh hãy coi chừng những hậu quả có thể mang lại [93] do sự ráng sức không hợp lý, do sự nồng nhiệt thái quá, và do sự chuyên nhất có thể đưa đến phát triển mất quân bình. Nhất tâm thẳng đến mục đích là một đức tốt, nhưng đó nên là sự chuyên chú vào mục tiêu, mục đích, chứ không phải chỉ chuyên chú phát triển theo một đường lối độc nhất mà không áp dụng mọi phương pháp khác. |
|
The dangers of meditation are largely the dangers of our virtues, and therein lies much of the difficulty. They are largely the dangers of a fine mental concept that runs ahead of the capacity of the lower vehicles, especially of the dense physical. Aspiration, concentration and determination are necessary virtues, but if used without discrimination and without a sense of time in evolution they may lead to a shattering of the physical vehicle that will delay all progress for some one particular life. Have I made my point clear? I seek but to bring out the absolute necessity for the occult student to have a virile common sense for one of his basic qualities, coupled with a happy sense of proportion that leads to due caution and an approximation of the necessary method to the immediate need. To the man therefore who undertakes wholeheartedly the process of occult meditation I would say with all conciseness:— |
Những nguy hiểm trong tham thiền phần lớn là mối nguy của các tính tốt, với nhiều nỗi khó khăn trong đó; phần lớn là những nguy hiểm do người môn sinh có quan niệm trí thức tinh tế, vượt quá khả năng của các hạ thể, nhất là xác thân. Chí nguyện, chú tâm và cương quyết là những tính tốt cần thiết, nhưng nếu áp dụng thiếu phân biện, không phù hợp với trình độ tiến hóa thì những tính tốt ấy có thể đưa đến sự hủy hoại xác thân, làm đình hoãn tất cả sự tiến bộ trong một kiếp sống nào đó. Tôi trình bày có rõ không? Tôi chỉ muốn nói rằng người môn sinh huyền bí học tuyệt đối cần phải có lương tri mạnh mẽ là một trong những đức tính căn bản của y. Kèm theo đó là ý thức cân đối tỉ lệ quí hóa để đưa đến sự cảnh giác thích hợp và áp dụng gần đúng phương pháp cần thiết cho nhu cầu trước mắt. Vì thế, người hết lòng hành thiền huyền môn cần ghi nhớ những điều tóm lược sau đây: – |
|
a—Know thyself. |
a. Bạn hãy tự biết mình. |
|
b—Proceed slowly and with caution. |
b. Hãy tiến hành một cách chậm rãi và luôn cảnh giác. |
|
c—Study effects. |
c. Hãy nghiên cứu các hiệu quả. |
|
d—Cultivate the realisation that eternity is long and that that which is slowly built up endures forever. |
d. Vun bồi sự nhận thức rằng cuộc sống vĩnh cửu thì vô cùng lâu dài và điều gì được xây dựng một cách chậm rãi thì còn mãi. |
|
e—Aim at regularity. |
e. Hãy nhắm tới sự đều đặn. |
|
f—Realise always that the true spiritual effects are to be seen in the exoteric life of service. |
f. Luôn luôn nhớ rằng những hiệu quả phát triển tinh thần đích thực phải thấy được trong cuộc sống phụng sự ngoài đời. |
|
g—Remember likewise that psychic phenomena are no indication of a successful following of meditation. The world will see the effects and be a better [94] judge than the student himself. Above all, the Master will know, for the results on causal levels will be apparent to Him long before the man himself is conscious of any progress. |
g. Cũng nên nhớ rằng những hiện tượng thần thông không phải là dấu hiệu cho thấy sự thành công của tham thiền. Thế gian sẽ thấy những hiệu quả của [94] tham thiền và là quan toà sáng suốt hơn chính người môn sinh. Trên hết, Chân sư sẽ biết, vì Ngài thấy rõ những kết quả nơi thể nguyên nhân của môn sinh rất lâu trước khi y ý thức được một sự tiến bộ nào đó. |
|
Let us now take up these points in detail. |
Giờ đây, chúng ta hãy xem xét chi tiết các điểm này. |
|
Những Nguy hiểm cố hữu trong Phàm ngã. |
|
|
Let us, therefore, consider first those dangers most closely connected with the man’s own personal life, and which are dependent upon his three bodies, their separate condition and their interrelation. This subject is so vast that it will not be possible to do more than indicate certain results due to certain conditions; each man presents a different problem, and each body causes a different reaction, and each totality in his threefold nature is affected by its alignment or by its lack of alignment. Let us take each body separately at first and then in their threefold totality. In this way some specific facts may be imparted. |
Trước hết, chúng ta hãy xem xét những mối nguy hiểm gần gũi nhất trong đời sống của mỗi cá nhân. Những nguy hiểm này tùy thuộc ba hạ thể, tùy trình trạng riêng của mỗi thể và sự tương quan giữa chúng. Vấn đề này thật quá rộng lớn, nên chỉ có thể đưa ra một số kết quả do một số điều kiện gây nên. Mỗi người có một vấn đề khó khăn riêng, mỗi thể gây ra một phản ứng khác nhau, và mỗi đơn vị hạ thể này chịu ảnh hưởng của sự chỉnh hợp hay thiếu chỉnh hợp của nó. Trước chúng ta hãy xét riêng từng thể, rồi sau đó mới xét cả ba trong một tổng thể. Bằng cách này, các bạn có thể được truyền thụ một vài sự kiện đặc biệt. |
|
I begin with the mental body as it is for the student of meditation the one that is the centre of his effort and the one that controls the two lower bodies. The true student seeks to draw his consciousness away from his physical body, and away from the emotional body into the realms of thought, or into the lower mind body. Having achieved that much, he seeks then to transcend that lower mind and to become polarised in the causal body, using the antahkarana, as the channel of communication between the higher and the lower, the physical brain being then but the quiescent receiver of that which is transmitted from the Ego or Higher Self and later from the threefold Spirit, the Triad. The work to be done necessitates a working from the periphery inwards, and a consequent centralisation. Having achieved that [95] centralisation and focussed in that stable centre—with the solar plexus and the heart quiet—a point within the head, one of the three major head centres, becomes the centre of consciousness, the ray of a man’s ego deciding which that centre will be. This is the method of the majority. Then that point having been reached, a man will follow the meditation of his ray as indicated to you in general terms earlier in these letters. In each case, the mental body becomes the centre of consciousness and then later—through practice—it becomes the point of departure for the transference of the polarisation into a higher body, first the causal and later into the Triad. |
Tôi bắt đầu nói đến thể trí, vì đối với người môn sinh hành thiền, thì nó là trọng tâm cố gắng của y, và nó kiểm soát hai thể kia. Người môn sinh chân chính tìm cách đưa tâm thức ra khỏi thể xác, thể tình cảm, để đến lĩnh vực tư tưởng hay là nhập vào hạ trí. Khi việc này đã đạt mức khả quan, y mới tìm cách vượt cao hơn hạ trí và trở nên phân cực trong thể nguyên nhân, dùng antahkarana làm vận hà liên lạc giữa thượng trí và hạ trí. Bấy giờ bộ óc chỉ là một máy thu, lặng lẽ nhận những gì từ Chân nhân hay Chân ngã truyền xuống, và sau đó là từ Tinh thần tam phân hay là Tam nguyên. Công việc nhất thiết phải đi từ vòng ngoài vào trong, và tạo sự tập trung. Khi [95] đã tập trung được và đã gom vào tâm điểm ổn định – lúc này luân xa nhật tùng và luân xa tim đều yên lặng – thì một điểm bên trong luân xa đầu, một trong ba luân xa chính ở đầu trở thành trung tâm ý thức, và cung Chân nhân của mỗi người sẽ quyết định trung tâm này. Đây là phương pháp dùng cho phần đông các môn sinh. Khi đạt mức này rồi, hành giả mới theo phương pháp thiền của cung y, như tôi đã nói tổng quát trong các bức thư trước. Trong mỗi trường hợp, thể trí đều trở thành trung tâm ý thức, và về sau nhờ thực hành nó trở thành khởi điểm để chuyển sự phân cực vào một thể cao hơn, trước là thể nguyên nhân, sau là nhập vào Tam nguyên. |
|
The dangers to the mental body are very real and must be guarded against. They are paramountly two, and might be termed the dangers of inhibition and those due to the atrophying of the body. |
Những nguy hiểm đối với thể trí thật là hiển nhiên và cần phải đề phòng. Quan trọng nhất là hai loại, một loại gọi là trí tuệ bị ức chế, còn loại kia là trí tuệ suy nhược. |
|
a—Let us take first the dangers due to inhibition. Some people, by their sheer strength of will, reach a point in meditation where they directly inhibit the processes of the lower mind. If you picture the mental body as an ovoid, surrounding the physical body and extending much beyond it, and if you realise that through that ovoid are constantly circulating thoughtforms of various kinds (the content of the man’s mind and the thoughts of his environing associates) so that the mental egg is coloured by predominant attractions and diversified by many geometrical forms, all in a state of flux or circulation, you may get some idea of what I mean. When a man proceeds to quiet that mental body by inhibiting or suppressing all movement, he will arrest these thoughtforms within the mental ovoid, he will stop circulation and may bring about results of a serious nature. This inhibition has a direct effect upon the physical brain, and is the cause of much of the fatigue complained of after a period [96] of meditation. If persisted in, it may lead to disaster. All beginners do it more or less, and until they learn to guard against it they will stultify their progress and retard development. The results may indeed be more serious. |
a. Trước hết chúng ta hãy xét những nguy hiểm do bị ức chế. Một số người nhờ có ý chí mạnh mẽ nên trong tham thiền có thể đạt đến mức kiềm hãm được ngay những diễn tiến trong hạ trí. Nếu các bạn hình dung thể trí là một hình bầu dục, bao quanh thể xác và phần nhiều ló ra ngoài thể xác, nếu bạn biết rằng những hình tư tưởng đủ loại (là những gì chứa trong thể trí hành giả và tư tưởng của những người chung quanh) đang liên tục luân chuyển trong hình bầu dục đó, vì thế, thể trí hình trứng này được tô điểm bằng những điều hấp dẫn nổi bật va nhiều dạng hình học khác nhau, tất cả đều ở trong tình trạng biến động hay luân chuyển, thì có lẽ các bạn sẽ hiểu được phần nào điều tôi muốn nói. Khi hành giả tìm cách buộc thể trí yên lặng bằng cách ức chế hay đè nén tất cả sự vận hành của tư tưởng, y sẽ làm các hình tư tưởng ngưng lại bên trong hình bầu dục của thể trí, y sẽ làm đình chỉ sự luân chuyển và có thể gây ra những hiệu quả nghiêm trọng. Sự ức chế này có tác dụng trực tiếp đến bộ não của xác thân và đây là nguyên nhân của phần lớn sự mệt mỏi sau khi tham thiền. [96] Nếu cứ tiếp tục dồn ép như thế, nó sẽ gây tai họa cho hành giả. Tất cả những người mới tập thiền ít nhiều gì cũng có làm điều này, nếu họ không học cách đề phòng thì họ sẽ làm vô hiệu bước tiến của mình và làm trì hoãn sự phát triển. Những hậu quả thực ra có thể còn nghiêm trọng hơn nữa. |
|
What are the right methods of thought elimination? How can placidity of mind be achieved without the use of the will in inhibition? The following suggestions may be found useful and helpful:— |
Phương pháp đúng để loại trừ tư tưởng là gì? Làm sao có thể trí thanh tịnh mà không phải dùng ý chí để đè nén? Những lời đề nghị sau đây có thể hữu ích và giúp đỡ các bạn: – |
|
The student having withdrawn his consciousness on to the mental plane at some point within the brain, let him sound forth the Sacred Word gently three times. Let him picture the breath sent forth as a clarifying, expurgating force that in its progress onward sweeps away the thoughtforms circulating within the mental ovoid. Let him then at the close realise that the mental body is free and clear of thoughtforms. |
Sau khi đã thu tâm thức lên cõi trí, tại một điểm nào đó trong não bộ, hành giả nhẹ nhàng xướng Thánh ngữ ba lần. Y hãy hình dung luồng hơi thở phát ra là một sức mạnh thanh lọc, và nếu tiếp tục nó sẽ quét sạch những hình tư tưởng đang luân chuyển ra khỏi hình trứng của thể trí. Sau khi xướng xong, y hãy nhận thức rằng thể trí của mình đã hết sạch các hình tư tưởng. |
|
Let him then raise his vibration as high as may be, and aim next at lifting it clear of the mental body into the causal, and so bring in the direct action of the Ego upon the lower three vehicles. As long as he can keep his consciousness high and as long as he holds a vibration that is that of the Ego on its own plane, the mental body will be held in a state of equilibrium. It will hold no lower vibration analogous to the thoughtforms circulating in its environment. The force of the Ego will circulate throughout the mental ovoid, permitting no extraneous geometrical units to find entrance, and the dangers of inhibition will be offset. Even more will be done,—the mental matter will in process of time become so attuned to the higher vibration that in due course that vibration will become stable and will automatically throw off all that is lower and undesirable. |
Sau đó hành giả nên nâng sự rung động của mình càng cao càng tốt. Kế đến là nâng sự rung động đó vượt khỏi hạ trí lên đến thể nguyên nhân, để đem lại sự tác động trực tiếp của Chân nhân vào ba hạ thể. Nếu giữ được tâm thức ở cấp cao và giữ được mức rung động của Chân nhân (trên cảnh giới của Chân nhân) thì hành giả sẽ giữ được thể trí trong trạng thái quân bình. Nó không còn mang sự rung động thấp kém nào tương tự như rung động của các hình tư tưởng đang luân chuyển trong môi trường chung quanh nó. Mãnh lực của Chân nhân sẽ luân chuyển trong hình trứng của thể trí, khiến cho không đơn vị tư tưởng dạng hình học nào ở ngoài có thể xâm nhập và hành giả sẽ tránh được những nguy hiểm của sự ức chế. Có thể làm nhiều hơn nữa khi, với thời gian cố gắng, chất liệu trong thể trí theo nhịp rung động này trở nên bền vững và sẽ tự động loại bỏ tất cả những gì thấp kém và bất hảo. |
|
b—What do I mean by the dangers of atrophy? [97] Simply this: Some natures become so polarised on the mental plane that they run the risk of breaking connection with the two lower vehicles. These lower bodies exist for purposes of contact, for the apprehension of knowledge on the lower planes and for reasons of experience in order that the content of the causal body may be increased. Therefore it will be apparent to you that if the indwelling consciousness comes no lower than the mental plane and neglects the body of emotions and the dense physical, two things will result. The lower vehicles will be neglected and useless and fail in their purposes, atrophying and dying from the point of view of the Ego, whilst the causal body itself will not be built as desired and so time will be lost. The mental body will be rendered useless likewise, and will become a thing of selfish content, of no use in the world and of littler value. A dreamer whose dreams never materialise, a builder who stores up material which he never employs, a visionary whose visions are of no use to gods or men, is a clog upon the system universal. He is in great danger of atrophying. |
b. Còn những nguy hiểm của sự thoái hóa, suy nhược là [97] gì? Đơn giản là như vầy: Một số người có tính chất quá phân cực trên cõi trí đến đỗi họ đứng trước nguy cơ bị cắt đứt liên lạc với hai thể dưới. Các thể này sở dĩ có là để tiếp xúc, để thu đạt kiến thức ở các cõi thấp và tích lũy kinh nghiệm, thêm dung tích cho thể nguyên nhân. Vì vậy, các bạn sẽ thấy rõ rằng nếu tâm thức nội tại không xuống thấp hơn cõi trí và bỏ bê thể tình cảm và thể xác, thì có hai hậu quả xảy ra. Hai hạ thể này sẽ bị bỏ mặc và vô dụng, không đạt được mục đích. Theo quan điểm của Chân nhân thì chúng đang suy nhược và chết dần, còn thể nguyên nhân thì không được kiến tạo như mong muốn và thế là thời gian bị phí đi. Thể trí cũng trở nên vô dụng, chỉ chứa đựng những sự ích kỷ, không giúp ích được ai và giá trị kém cỏi. Một người mơ mộng mà không bao giờ thực hiện điều mơ ước, một nhà xây dựng chỉ dự trữ vật liệu mà không bao giờ dùng đến, một nhà viễn tưởng mà các viễn ảnh của y không giúp ích gì cho thần thánh hay con người, thì đó là một mối trở ngại trong đại cuộc. Y đang lâm vào nguy cơ rất lớn là bị suy nhược. |
|
Meditation should have the effect of bringing all three bodies more completely under the control of the Ego, and lead to a co-ordination and an alignment, to a rounding-out and a symmetrical development that will make a man of real use to the Great Ones. When a man realises that mayhap he is too much centralised on the mental plane he should definitely aim at making all his mental experiences, aspirations and endeavours matters of fact on the physical plane, bringing the two lower vehicles under control of the mental and making them the instruments of his mental creations and activities. |
Tham thiền nên có hiệu quả là làm cả ba hạ thể ngày càng ở dưới sự kiểm soát hoàn toàn hơn của Chân nhân, đưa đến sự điều hợp và chỉnh hợp, phát triển cân đối và đầy đủ, khiến con người trở nên thật hữu dụng cho các Đấng Cao cả. Khi hành giả nhận thấy có lẽ y chú tâm quá nhiều vào cõi trí, thì y nên nhắm mục đích rõ rệt là làm cho tất cả những kinh nghiệm trí tuệ, những nguyện vọng và cố gắng của y thành sự thực ở cõi trần, đặt hai hạ thể dưới sự chế ngự của thể trí và khiến chúng trở thành những khí cụ cho các hoạt động và sáng tạo trí tuệ. |
|
I have here indicated two of the dangers most frequently met with, and I advise all students of occultism [98] to remember that all the three bodies are of equal importance in carrying out the work to be done, both from the egoic standpoint and from the standpoint of service to the race. Let them aim at a wise co-ordination in expression, that will enable the God within to manifest for the aiding of the world. |
Tôi đã chỉ cho các bạn hai mối nguy trong số những mối nguy hiểm thường gặp nhất, và khuyên tất cả các môn sinh [98] huyền bí học nhớ rằng cả ba hạ thể đều quan trọng như nhau trên cả hai mặt phục vụ Chân nhân và phục vụ Nhân loại. Hãy để cho ba hạ thể phát biểu một cách hòa hợp khôn ngoan, cho vị Thượng Đế nội tâm có thể xuất lộ để giúp đỡ thế gian. |
|
JULY 25, 1920. |
Ngày 25-7-1920. |
|
The emotional body is at this time the most important body in the Personality for several reasons. It is a complete unit, unlike the physical and mental bodies; it is the centre of polarisation for the majority of the human family; it is the most difficult body to control, and is practically the very last body to be completely subjugated. The reason for this is that the vibration of desire has dominated, not only the human kingdom but also the animal and vegetable kingdoms in a lesser sense, so that the evolving inner man has to work against inclinations set up in these kingdoms. Before the spirit can function through forms of the fifth or spiritual kingdom, this desire vibration has to he eliminated, and selfish inclination transmuted into spiritual aspiration. The emotional body forms practically a unit with the physical body, for the average man functions almost entirely at the instigation of the emotional,—his lowest vehicle automatically obeying the behests of a higher. It is also the body that connects most directly, as has been oft-times said, with the intuitional levels, and one path of attainment lies that way. In meditation the emotional body should be controlled from the mental plane, and when the polarisation has been transferred into the mental body through forms of meditation and intensity of purpose and of will, then the emotional becomes quiescent and receptive. [99] |
Hiện nay thể cảm dục là thể quan trọng nhất trong Phàm nhân vì nhiều lý do. Khác với thể xác và thể trí, nó là một đơn vị toàn diện, là trung tâm phân cực của phần đông nhân loại. Nó là thể khó chế ngự nhất và thực tế là thể chỉ đến sau cùng mới được thu phục hoàn toàn. Lý do là sự rung động của dục vọng đã chế ngự không chỉ trường tiến hóa nhân loại mà còn trong các giới động vật và thực vật với mức độ ít hơn. Vì thế con người nội tâm đang tiến hóa phải chống chế được các khuynh hướng do cả ba giới kể trên gây ra. Trước khi tinh thần có thể hoạt động thông qua các hình thể của giới thứ năm (giới tinh thần) thì rung động dục vọng ấy phải được loại trừ và các khuynh hướng ích kỷ phải được chuyển hóa thành nguyện vọng tinh thần. Thực tế thì thể cảm dục hợp với thể xác thành một đơn vị, vì một người bình thường hầu như hoạt động do sự xúi giục của tình cảm, – thể thấp nhất của y tự động vâng theo những mệnh lệnh của thể cao hơn. Như tôi đã thường nói, thể tình cảm cũng là thể liên kết trực tiếp nhất với các cấp độ trực giác, và đó là một con đường để thành đạt. Trong tham thiền, thể tình cảm nên được thể trí kiểm soát, và khi sự phân cực đã được chuyển vào thể trí qua những phương thức hành thiền với chủ đích và ý chí mạnh mẽ, lúc đó thể cảm dục trở thành an tịnh và thụ cảm. [99] |
|
This negative attitude in itself, if carried too far, opens the door to serious dangers, which I will later enlarge upon when we take up the subject of obsessions, divine sometimes, but more oft the reverse. A negative condition is not desired in either of the bodies, and it is just this very negativeness that beginners in meditation so oft achieve, and so run into danger. The aim should be to make the emotional ovoid positive to all that is lower and to its environment and only receptive to the Spirit via the causal. This can only be brought about by the development of the faculty of conscious control—that control which even in the moments of highest vibration and contact is alert to watch and guard the lower vehicles. “Watch and pray,” the Great Lord said when last on earth, and He spoke in occult terms, that have not as yet received due attention or interpretation. |
Chính thái độ tiêu cực này, nếu đi quá mức, cũng mở lối cho những nguy hiểm nghiêm trọng, mà tôi sẽ bàn rộng sau này khi nói đến vấn đề ám ảnh, đôi khi có tính cách thiêng liêng nhưng thường thì ngược lại. Tình trạng tiêu cực không tốt cho bất cứ thể nào cả, và những người mới học thiền thường đạt đến chính sự tiêu cực này, nên họ mới lâm nguy. Mục đích là nên làm cho hình bầu dục của thể tình cảm trở nên tích cực đối với những gì thấp kém và đối với những gì chung quanh nó, và chỉ thụ cảm đối với Tinh thần thông qua thể nguyên nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng cách phát triển khả năng kiểm soát hữu thức – sự kiểm soát mà ngay trong những lúc rung động và tiếp xúc cao nhất, khả năng này vẫn linh mẫn trông nom và bảo vệ các hạ thể. “Hãy trông chừng và cầu nguyện” là lời dạy của Chúa khi Ngài còn tại thế. Ngài nói câu này theo những thuật ngữ huyền môn mà nhân loại vẫn chưa diễn giải và chú tâm đúng mức. |
|
What must therefore be watched? |
Thế thì phải trông chừng những gì? |
|
l—The attitude of the emotional ovoid and its positive-negative control. |
1. Thái độ của thể tình cảm và sự tích cực hay tiêu cực chế ngự thể này. |
|
2—The stability of the emotional matter and its conscious receptivity. |
2. Độ ổn định của vật chất tình cảm và tính thụ cảm hữu thức của nó. |
|
3—Its alignment with the mental and with the causal bodies. If this alignment is imperfect (as it so frequently is) it causes inaccuracy in reception from the higher planes, distortion of the truths sent down via the Ego, and a very dangerous transference of force to undesirable centres. This lack of alignment is the cause of the frequent straying from sexual purity of many apparently spiritually inclined persons. They can touch the intuitional levels somewhat, the Ego can partially transmit power from on high, but as the alignment is imperfect the force from those higher levels is deflected, the wrong centres are over-stimulated, and disaster results. |
3. Sự chỉnh hợp của nó với thể trí và với thể nguyên nhân. Nếu sự chỉnh hợp này bất toàn (quá thường là như vậy) thì sự thụ cảm từ các cảnh giới cao sẽ không chính xác. Những chân lý truyền xuống qua Chân nhân sẽ bị lệch lạc, và gây nên điều rất nguy hiểm là chuyển mãnh lực đến những luân xa không đáng mong muốn. Sự thiếu chỉnh hợp này là nguyên nhân khiến những người có khuynh hướng tinh thần rõ rệt thường không giữ được sự tinh khiết về tình dục. Họ có thể đạt đến một vài cấp độ trực giác. Chân nhân có thể chuyển một phần năng lượng từ cõi cao xuống, nhưng vì sự chỉnh hợp bị bất toàn, nên mãnh lực từ các cấp cao xuống bị lệch lạc, những luân xa không nhắm đến lại bị kích thích quá độ, và gây ra tai họa. |
|
4—Another danger to be guarded against is that of [100] obsession, but in pure thoughts, spiritual aims, and unselfish brotherly conduct, lie the fundamentals of protection. If to these essentials is added common sense in meditation and a wise application of occult rules, with due consideration of ray and karma, these dangers will disappear. |
4. Một mối nguy khác cần phải đề phòng là sự ám ảnh, [100] nhưng tư tưởng thanh khiết, mục đích tinh thần, và đức hạnh vô kỷ thắm tình huynh đệ là những điều cơ bản để bảo vệ an toàn. Nếu ngoài những điều chính yếu này lại có thêm lương tri trong tham thiền và sự áp dụng một cách khôn ngoan các qui luật huyền môn, có sự xem xét đúng đắn về các cung và nghiệp quả, thì những nguy hiểm này sẽ không còn nữa. |
|
JULY 28, 1920. |
Ngày 28-7-1920. |
|
Some thoughts on FIRE. |
Vài ý tưởng về LỬA. |
|
Just prior to beginning the consideration of the matter on hand, I would like to point out to you a certain rather interesting fact. Most of the psychological phenomena of the earth are—as you will realise, if you think clearly,—under the control of the Deva Lord Agni, the great primary Lord of Fire, the Ruler of the mental plane. Cosmic fire forms the background of our evolution; the fire of the mental plane, its inner control and dominance and its purifying asset coupled to its refining effects, is the aim of the evolution of our three-fold life. When the inner fire of the mental plane and the fire latent in the lower vehicles merge with the sacred fire of the Triad the work is completed, and the man stands adept. The at-one-ment has been made and the work of aeons is completed. All this is brought about through the co-operation of the Lord Agni, and the high devas of the mental plane working with the Ruler of that plane, and with the Raja-Lord of the second plane. |
Trước khi xét đến vấn đề đang bàn, tôi muốn nêu lên một sự kiện khá thú vị. Nếu suy nghĩ kỹ, các bạn sẽ nhận thức rằng hầu hết các hiện tượng tâm lý của địa cầu này đều ở dưới quyền kiểm soát của Hỏa đức Tinh quân, vị Đại đế đầu tiên của lửa, vị Chúa tể của cõi trí. Lửa vũ trụ là nền tảng của cuộc tiến hóa của chúng ta. Lửa của cõi trí kiểm soát và ngự trị nội tại và có khả năng tinh luyện cùng những hiệu quả thanh lọc, đó là mục đích tiến hóa của cuộc sống ba trạng thái của chúng ta. Khi nội hỏa của cõi trí và lửa tiềm tàng trong các hạ thể hòa hợp với lửa thiêng của Tam nguyên Tinh thần thì công việc đã hoàn tất và con người trở thành một vị Chân sư. Sự nhất quán đã được thực hiện và công việc nghìn đời đã hoàn thành. Toàn bộ công việc này được thực hiện nhờ sự hợp tác của Hỏa đức Tinh quân và các vị thần cao cấp ở cõi trí, họ làm việc với vị Chúa tể của cõi này, và vị Đại Thiên vương, Chúa tể của cảnh giới thứ hai. |
|
Macrocosmic evolution proceeds in like manner to the microcosmic. The internal fires of the terrestrial globe, deep in the heart of our earth sphere, will merge with the sacred fire of the sun at the end of the greater cycle, and the solar system will then have reached its apotheosis. Little by little as the aeons slip away and the lesser cycles run their course, fire will permeate the ethers and will be daily more recognisable and controlled till eventually [101] cosmic and terrestrial fire will be at-one (the bodies of all material forms adapting themselves to the changing conditions) and the correspondence will be demonstrated. When this is realised the phenomena of the earth—such as, for instance, seismic disturbance—can be studied with greater interest. Later, when more is comprehended, the effects of such disturbances will be understood and likewise their reactions on the sons of men. During the summer months—as that great cycle comes around in different quarters of the earth—the fire devas, the fire elementals and those obscure entities the “agnichaitans” of the internal furnaces, come into greater activity, relapsing as the sun moves further away, into a less active condition. You have here a correspondence between the fiery aspects of the earth economy in their relationship to the sun similar to the watery aspects and their connection with the moon. I give you quite an occult hint here. I would like also to give you here a very brief though occult fragment that…may now he made public. If pondered on, it carries the student to a high plane and stimulates vibration. |
Cuộc tiến hóa của đại vũ trụ cũng tương tự như vậy. Những luồng nội hỏa ở sâu trong tâm địa cầu chúng ta sẽ hòa hợp với lửa thiêng của mặt trời ở cuối đại chu kỳ này, và bấy giờ thái dương hệ sẽ đạt mức thánh hóa. Dần dần, khi những kỳ gian vô lượng và những tiểu chu kỳ trôi qua, lửa sẽ thẩm thấu các cấp dĩ thái và ngày càng được nhận thức và kiểm soát [101] cho đến cuối cùng lửa vũ trụ và lửa của địa cầu sẽ hợp nhất (các thiên thể mang những hình tướng vật chất tự thích nghi với những điều kiện thay đổi) và sự tương ứng sẽ được phô bày. Khi điều này được nhận thức thì những hiện tượng của địa cầu – chẳng hạn như vấn đề xáo trộn do động đất – sẽ được quan tâm nghiên cứu nhiều hơn. Về sau khi vấn đề đã được thấu đáo hơn, người ta sẽ hiểu những hiệu quả của các xáo trộn đó cũng như các phản ứng của chúng vào con người. Trong những tháng mùa hè – khi chu kỳ lớn ấy đến trên các miền khác nhau trên địa cầu – thì các hỏa thần, các hỏa tinh linh và những thực thể tiềm ẩn “các thần kiến tạo hồng trần” của những lò lửa nội tại hoạt động mạnh mẽ, rồi trở lại tình trạng cũ, ít hoạt động hơn khi mặt trời xa dần. Ở đây có sự tương ứng giữa các trạng thái lửa của cơ cấu tổ chức địa cầu trong quan hệ với mặt trời cũng như giữa các trạng thái nước trong liên hệ với mặt trăng. Đây hoàn toàn là một điều ngụ ý huyền môn. Tôi cũng muốn đưa ra một đoạn dù ngắn nhưng có tính huyền môn . . . mà hiện nay có thể phổ biến được. Nếu suy ngẫm sâu xa, nó sẽ đưa người môn sinh đến một cảnh giới cao hơn và kích thích được sự rung động nơi y. |
|
“The secret of the Fire lies hid in the second letter of the sacred Word. The mystery of life is concealed within the heart. When that lower point vibrates, when the Sacred Triangle glows, when the point, the middle centre, and the apex likewise burn, then the two triangles—the greater and the lesser—merge into one flame which burneth up the whole.” |
“Bí mật của Lửa ẩn trong mẫu tự thứ nhì của Thánh ngữ. Bí mật của sự sống ẩn trong luân xa tim. Khi điểm thấp này rung động, khi tam giác Thánh thiện ngời sáng, khi điểm này, luân xa ở giữa và luân xa ở đỉnh cùng bừng cháy, thì cả hai tam giác lớn và nhỏ hòa lẫn thành ngọn lửa duy nhất, nó thiêu rụi tất cả.” |
|
It is our task now to deal briefly with the dangers that attend the practice of meditation as they manifest in the physical body. These dangers—like so much else in the Logoic scheme—assume a three-fold nature, attacking [102] three departments of the physical body. They show themselves: |
Giờ đây chúng ta hãy đề cập vắn tắt đến những nguy hiểm nơi thể xác khi hành thiền. Giống như rất nhiều điều khác trong Thiên cơ, những mối nguy hiểm này cũng có tính [102] tam phân, tấn công vào ba thành phần của thể xác. Chúng biểu lộ trong: – |
|
a—In the brain. |
a. Bộ não. |
|
b—In the nervous system. |
b. Hệ thần kinh. |
|
c—In the sex organs. |
c. Các cơ quan sinh dục. |
|
It is needless to point out now the reason why I dealt first with the dangers of the mental and emotional bodies. It was necessary so to do, for many of the perils besetting the dense vehicle find their commencement on the subtler planes, and are only the outer manifestations of inner evils. |
Không cần phải nói rõ tại sao tôi lại bàn về những nguy hiểm ở thể trí và thể cảm dục trước. Cần phải làm như vậy vì nhiều nguy hiểm đe dọa đến thể xác đều bắt nguồn từ những cảnh giới tinh vi hơn cõi trần và chỉ là những biểu hiện ra ngoài của những điều ác hại bên trong. |
|
Each human being enters into life equipped with a physical and etheric body of certain constituents, those constituents being the product of a previous incarnation; they are virtually the body, reproduced exactly, that the man finally left behind him when death severed him from physical plane existence. The task ahead of everybody is to take that body, realise its defects and requirements, and then deliberately set in and build a new body that may prove more adequate to the need of the inner spirit. This is a task of large dimensions and involves time, stern discipline, self-denial and judgment. |
Mỗi cá nhân khi sinh ra đều có một thể xác và thể dĩ thái với những thành phần nhất định, những thành phần này là sản phẩm của tiền kiếp. Thực ra thì các thể này được tái tạo y hệt như các thể cũ mà mỗi người bỏ lại khi từ trần. Công việc trước mắt mọi người là nhận thể đó, nhận biết những khuyết điểm và nhu cầu của nó, rồi cẩn thận tiếp tục kiến tạo một thể mới tỏ ra thích hợp hơn cho nhu cầu của sự sống tinh thần ở nội tâm. Đây là một công việc có tầm mức rộng lớn và cần thời gian, cần giới luật nghiêm minh, sự từ bỏ và trí phán đoán. |
|
The man who undertakes the practice of occult meditation literally “plays with fire.” I wish you to emphasise this statement for it embodies a truth little realised. “Playing with fire” is an old truth that has lost its significance through flippant repetition, yet it is absolutely and entirely correct, and is not a symbolic teaching but a plain statement of fact. Fire forms the basis of all—the Self is fire, the intellect is a phase of fire, and latent in the microcosmic physical vehicles lies hid a veritable fire that can either be a destructive force, burning the tissue of the body and stimulating centres of an undesirable character, or be a vivifying factor, acting as a [103] stimulating and awakening agent. When directed along certain prepared channels, this fire may act as a purifier and the great connector between the lower and the Higher Self. |
Một người bắt đầu hành thiền huyền môn quả thực là đang “đùa với lửa.” Tôi muốn các bạn chú trọng đến câu này vì nó bao hàm một chân lý ít người nhận thức được. “Đùa với lửa” là một chân lý xưa đã mất ý nghĩa do việc lặp đi lặp lại một cách hời hợt. Tuy nhiên câu này hoàn toàn và tuyệt đối chính xác. Nó không phải là một lời dạy tượng trưng mà có thực nghĩa rõ rệt. Lửa là căn bản của tất cả – Chân ngã là lửa, trí tuệ là một hình thái của lửa, và bên trong thể xác của con người có ẩn một ngọn lửa thực sự, nó có thể hoặc là sức mạnh hủy hoại, đốt cháy các mô trong cơ thể và kích thích sai lạc các luân xa, hoặc là một yếu tố làm sinh động, là tác nhân [103] kích thích và đánh thức. Khi được hướng theo những đường dẫn đã chuẩn bị sẵn, lửa này có thể là sức mạnh tinh luyện và là mối liên kết quan trọng giữa phàm ngã và Chân ngã. |
|
In meditation the student seeks to contact the divine flame that is his Higher Self, and to put himself likewise en rapport with the fire of the mental plane. When meditation is forced, or is pursued too violently, before the alignment between the higher and lower bodies via the emotional is completed, this fire may act on the fire latent at the base of the spine (that fire called kundalini) and may cause it to circulate too early. This will produce disruption and destruction instead of vivification and stimulation of the higher centres. There is a proper geometrical spiralling which this fire should follow, dependent upon the ray of the student and the key of the vibration of his higher centres. This fire should only be permitted to circulate under the direct instruction of the Master and consciously distributed by the student himself, following the specific oral instructions of the teacher. Sometimes the fire may be aroused and spiral with correctness without the student knowing what is occurring on the physical plane; but on the inner planes he knows and has but failed to bring the knowledge through to the physical plane consciousness. |
Khi tham thiền, người môn sinh tìm cách tiếp xúc với ngọn lửa thiêng tức là Chân ngã của y, đồng thời liên kết mật thiết với lửa của cõi trí. Khi sự tham thiền bị thúc bách, hoặc là hành thiền quá mãnh liệt, trước khi sự chỉnh hợp giữa các thể cao và thấp xuyên qua thể cảm dục được hoàn tất thì lửa này có thể tác động vào luồng lửa ẩn tàng ở chót xương sống (gọi là kundalini) và có thể khiến nó vận chuyển quá sớm. Việc này sẽ gây tan vỡ và hủy hoại chứ không phải là kích thích và làm sinh động các luân xa trên. Có một con đường hình xoắn ốc thích hợp mà luồng lửa này phải đi theo, tùy theo cung của môn sinh và nốt khóa rung động trong các luân xa cao của y. Luồng lửa này chỉ nên cho luân chuyển dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Chân sư và do chính người môn sinh hữu ý phân phối theo lời khẩu truyền cụ thể của vị thầy. Đôi khi luồng lửa có thể được đánh thức theo vòng xoắn đi trên một cách đúng đắn mà ở cõi trần (lúc thức) người môn sinh không hề hay biết gì cả. Trên những cõi cao y biết điều đó, nhưng y không đưa được sự hiểu biết này xuống đến tâm thức hồng trần. |
|
Let us take up for a moment the three dangers that principally beset the physical vehicles. I would like to point out that I deal with the trouble in its extreme, and that there are many intermediate stages of risk and trouble that attack the unwary student. |
Bây giờ chúng ta hãy bàn đến ba sự nguy hiểm chính yếu thường đe dọa xác thân. Xin lưu ý rằng tôi bàn đến những mối nguy hiểm này ở mức cùng cực, trong khoảng đó có nhiều mức độ nguy hại khác nhau tấn công người môn sinh bất cẩn. |
|
Dangers to the physical brain. |
Những nguy hiểm cho não bộ hồng trần. |
|
The brain suffers principally in two ways:— |
Bộ não thường chịu hai nguy hiểm chính: – |
|
From congestion, causing a suffusion of the blood [104] vessels and a consequent strain upon the delicate brain tissue. This may result in permanent injury, and may even cause imbecility. It shows in the initial stages as numbness and fatigue, and if the student persists in meditation when these conditions are sensed the result will be serious. At all times a student should guard against continuing his meditation when any fatigue is felt, and should stop at the first indications of trouble. All these dangers can be guarded against by the use of common-sense, and by remembering that the body must ever be trained gradually and be built slowly. In the scheme of the Great Ones, hurry has no place. |
Sự sung huyết, làm cho tràn dịch các huyết quản và hậu [104] quả căng thẳng ở mô não mảnh mai. Điều này có thể làm tổn thương vĩnh viễn, thậm chí có thể gây nên sự đần độn. Trong những giai đoạn đầu, nguy hiểm này có biểu hiện mất cảm giác hay mệt mỏi. Nếu người môn sinh vẫn cứ tiếp tục tham thiền khi thấy tình trạng đó thì hậu quả sẽ thành nghiêm trọng. Luôn luôn khi hành thiền, người môn sinh phải đề phòng khi cảm thấy mệt mỏi, phải ngưng ngay khi bắt đầu thấy có bất cứ dấu hiệu trở ngại nào. Có thể dùng lương tri để đề phòng tất cả những nguy hiểm này, và hãy nhớ rằng bao giờ việc rèn luyện và kiến tạo các thể cũng phải chậm rãi, từ từ. Trong kế hoạch tiến hóa của các Đấng Cao cả, không có điều gì cần phải hấp tấp cả. |
|
From insanity. This evil has often been seen in earnest students who persist in unwise pressure or seek unguardedly to arouse the sacred fire through breathing exercises and similar practices; they pay the price of their rashness through the loss of their reason. The fire does not proceed in due geometrical form, the necessary triangles are not made, and the electrical fluid rushes with ever increasing speed and heat upwards, and literally burns away all or part of the brain tissue, thus bringing about insanity and sometimes death. |
Sự điên khùng. Điều tai hại này thường thấy ở những môn sinh quá nhiệt tâm cứ cố chịu mãi một sức ép không hợp lý, hoặc tìm cách khơi luồng hỏa hậu bằng những phép luyện hơi thở và những cách tập tương tự mà không phòng bị gì cả. Họ phải trả giá cho sự liều lĩnh này do thiếu suy xét của lý trí. Luồng hỏa không đi theo dạng hình học đúng đắn, không tạo được những tam giác cần thiết, dòng điện lưu đi lên với tốc độ và sức nóng ngày càng tăng, và thực sự đốt cháy tất cả hay một phần mô não, vì thế mà gây nên điên khùng và đôi khi tử vong. |
|
When these things are more widely comprehended and openly acknowledged, doctors and brain specialists will study with greater care and accuracy the electrical condition of the spinal column, and correlate its condition with that of the brain. Good results will thus be achieved. |
Khi những điều này được hiểu biết rộng rãi hơn và được công khai thừa nhận, các bác sĩ và các chuyên gia về não sẽ nghiên cứu một cách thận trọng và chính xác hơn về điều kiện điện tích của cột sống, và liên hệ điều kiện đó với điều kiện bộ não để đạt được những kết quả tốt. |
|
Dangers to the nervous system. |
Những nguy hiểm cho hệ thần kinh. |
|
The troubles connected with the nervous system are more frequent than those attacking the brain, such as insanity and disruption of the brain tissue. Almost all who undertake meditation are conscious of an effect in [105] the nervous system; sometimes it takes the form of sleeplessness, of excitability, of a strained energy and restlessness that permit of no relaxation; of an irritability that has been foreign perhaps to the disposition until meditation was pursued; of a nervous reaction—such as a twitching of the limbs, the fingers or the eyes—of depression or a lowering of the vitality, and of many individual modes of showing tension and nervousness, differing according to nature and temperament. This display of nervousness may be either severe or slight, but I seek earnestly to point out it is quite needless, provided the student adheres to the rules of common-sense, that he studies wisely his own temperament, and that he does not blindly proceed with forms and methods but insists on knowing the raison d’etre of instituted action. If occult students disciplined the life more wisely, if they studied the food problem more carefully, if they took the needed hours of sleep with more determination, and if they worked with cautious slowness and not so much from impulse (no matter how high the aspiration) greater results would be seen and the Great Ones would have more efficient helpers in the work of serving the world. |
Những trở ngại liên quan đến hệ thần kinh thường có hơn các mối nguy tấn công bộ não như điên khùng hay phá vỡ mô não. Hầu hết những người hành thiền đều cảm biết có [105] ảnh hưởng đối với hệ thần kinh. Đôi khi đó là tình trạng mất ngủ, dễ bị kích động hoặc năng lượng căng thẳng và bứt rứt không được thư thả. Hoặc họ trở nên dễ bực bội khác với tính khí trước khi tham thiền. Hoặc đó là một lối phản ứng thần kinh – như co giật tay chân, ngón tay hay mắt – hoặc buồn nản hay giảm sút sinh lực. Cũng có những ảnh hưởng khác như thần kinh căng thẳng, bồn chồn, tùy theo tính khí và bản chất của mỗi cá nhân. Những dấu hiệu bệnh thần kinh này có thể nặng hay nhẹ, nhưng tôi muốn nói rõ rằng điều đó không nhất thiết là phải có nếu người môn sinh tuân theo những qui tắc của lương tri, nếu y nghiên cứu tính khí của mình một cách khôn ngoan và không mù quáng theo những thể thức và phương pháp nào nếu không hiểu được lý do tại sao phải làm như thế. Nếu các môn sinh huyền bí tuân theo giới luật trong cuộc sống một cách khôn ngoan hơn, nếu họ nghiên cứu cẩn thận hơn về vấn đề thực phẩm, nếu họ cương quyết hơn để ngủ đủ số giờ cần thiết, nếu họ làm việc một cách chậm rãi thận trọng, chứ không theo những kích động nhất thời (dù ước nguyện của họ có cao đến đâu), thì họ sẽ thấy có những kết quả lớn lao hơn và các Đấng cao cả sẽ có những phụ tá nhiều hiệu năng hơn trong việc phụng sự nhân loại. |
|
It is not my purpose in these letters to take up specifically the diseases of the brain and of the nervous system. I only desire to give general indications and warnings and (for your encouragement) to point out that later when the wise Teachers move among men and openly teach in specific schools, many forms of brain trouble and of nervous complaints will be cured through meditation wisely adjusted to the individual need. Proper meditations will be set to stimulate quiescent centres, to turn the inner fire to proper channels, to distribute the divine heat in equable arrangement, to build in tissue [106] and to heal. The time for this is not yet, though it lies not so far ahead as you might imagine. |
Dụng ý của tôi trong các bức thư này không phải là đặc biệt nói về các bệnh tật của bộ não và hệ thần kinh. Tôi chỉ muốn nêu ra những lời chỉ dẫn và khuyến cáo tổng quát, và (để khích lệ các bạn) bày tỏ rằng sau này khi các Huấn sư minh triết thực sự sống giữa nhân loại và công khai giảng dạy trong các trường chuyên khoa, thì nhiều dạng trở ngại trong não bộ và các bệnh thần kinh sẽ được chữa trị bằng phương pháp hành thiền có điều chỉnh cho hợp với nhu cầu của từng cá nhân. Những lối thiền thích hợp sẽ được ấn định để kích thích các luân xa còn yên lặng, để chuyển luồng nội hỏa vào những đường truyền đúng đắn, để phân phối nhiệt lực thiêng liêng trong trật tự điều hòa, để tạo nên những mô [106] mới và để chữa bệnh. Chưa đến lúc thực hiện điều này, dù rằng ngày ấy không còn xa lắm. |
|
Dangers to the sex organs. |
Những nguy hiểm cho các cơ quan sinh dục. |
|
The danger of the over-stimulation of these organs is well recognised theoretically, and I do not purpose to enlarge on it greatly today. I but seek to point out that this danger is very real. The reason is that in the overstimulation of these centres the inner fire is but following the line of least resistance, owing to the polarisation of the race as a whole. The work, therefore, that the student has to do is twofold:— |
Mối nguy hiểm do kích thích thái quá các cơ quan này các bạn đã biết rất nhiều về mặt lý thuyết và hôm nay tôi không muốn nói nhiều hơn. Tôi chỉ muốn nêu rõ rằng mối nguy này là có thực. Lý do là khi các trung tâm này bị kích thích quá độ luồng nội hỏa chỉ theo lối nào dễ đi nhất, do tình trạng phân cực của toàn thể nhân loại. Vì thế người môn sinh phải làm hai việc: – |
|
a—He has to withdraw his consciousness from those centres; this is no easy task for it means working against the results of age-long development. |
a. Y phải rút ý thức ra khỏi các trung tâm đó. Đây không phải là việc dễ làm, vì làm thế tức là chống lại những kết quả của sự phát triển đã lâu đời. |
|
b—He has to direct the attention of the creative impulse to the mental plane. In so doing, if successful, he will turn the activity of the divine fire to the throat centre and its corresponding head centre, instead of to the lower organs of generation. Therefore, it will be apparent to you why—unless a man is very advanced—it is not wise to spend much time in meditation during the earlier years. There was wisdom in the old Brahmanical rule that a man must give his early years to household endeavour, and only when he had fulfilled his function as a man could he go on to the life of the devotee. This was the rule for the average. With advanced egos, pupils and disciples, it is not so, and each must then work out his own individual problem. |
b. Y phải hướng chú tâm động lực sáng tạo của y vào cõi trí. Khi làm như vậy mà thành công, y sẽ chuyển hướng hoạt động của lửa thiêng lên luân xa cổ họng và đến trung tâm tương ứng của nó ở đỉnh đầu chứ không hướng xuống các cơ quan sinh dục. Thế nên, các bạn thấy rõ rằng trong những năm còn trẻ, hành giả không nên bỏ nhiều thời gian để hành thiền, trừ trường hợp người tiến hóa rất cao. Qui luật xưa của giai cấp Bà-la-môn có dạy một cách minh triết rằng mỗi người phải dùng thời gian còn trẻ để lo việc gia đình và chỉ khi nào đã làm tròn nhân đạo thì y mới có thể bước vào cuộc sống của người chí nguyện. Đây là qui luật dành cho người thường. Còn các Chân nhân tiến hoá, các đạo sinh và các đệ tử thì không phải như vậy, mỗi người phải tự giải quyết lấy vấn đề của chính mình. |
|
JULY 29, 1920. |
Ngày 29-7-1920. |
|
Những nguy hiểm do Nghiệp quả của môn sinh. |
|
|
These as you know may he grouped under three heads, as follows: [107] |
Những nguy hiểm này có thể chia làm ba loại như sau: [107] |
|
l—Those incidental to the karma of his present life. |
1. Những nguy hiểm do nghiệp quả của kiếp sống hiện tại. |
|
2—Those based on his national heredity and his type of body. |
2. Những nguy hiểm do di truyền quốc gia, và bản chất của cơ thể. |
|
3—Those attendant on his group affiliations, whether on the physical plane and so exoteric, or on the subtle planes and so esoteric. |
3. Những nguy hiểm do y gia nhập các nhóm dù đó là nhóm ở cõi trần (ngoại môn) hay ở các cõi cao (nội môn). |
|
Just what do you mean by the “karma of the student?” We use words lightly, and I presume that the thoughtless reply would be that the student’s karma is the inevitable happenings of the present or the future that he cannot evade. This is somewhat right, but is only one aspect of the whole. Let us look at the matter first in a large manner, for oft in the just apprehension of big outlines comes comprehension of the small. |
Các bạn hiểu thế nào là “Nghiệp quả của người môn sinh?” Chúng ta thường dùng ngôn từ một cách hời hợt, nên tôi nghĩ rằng câu trả lời không đắn đo sẽ là: Nghiệp quả của môn sinh là những việc nhất định sẽ xảy đến cho y trong hiện tại hoặc trong tương lai mà y không thể tránh khỏi. Nói vậy cũng đúng phần nào, nhưng đó chỉ là một khía cạnh của toàn vấn đề. Trước tiên, chúng ta hãy nhìn vấn đề một cách rộng rãi hơn, vì thường là nhờ hiểu được những nét đại cương, chúng ta mới thấu được các tiểu tiết. |
|
When our Logos founded the solar system He drew within the circle of manifestation matter sufficient for His project, and material adequate for the object He had in view. He had not all possible objects in view for this one solar system: he had some specific aim that necessitated some specific vibration and required therefore certain differentiated material. This circle that we term the systemic or solar “ring-pass-not” bounds all that transpires within our system, and contains within its bounds our dual manifestation. All within that ring vibrates to a certain key-measure, and conforms to certain rules with the aim in view of the achievement of a particular goal, and the attainment of a certain end, known in its entirety only to the Logos Himself. All within that circle is subject to specific rules and governed by a certain key measure, and might be regarded as being subject to the karma of that sevenfold periodic existence, and actuated by causes dating back prior to the ringing of that circle, thus linking our system to its forerunner and affiliating it with that which will come [108] after. Not an isolated unit are we, but part of a greater whole, governed in our totality by cosmic law and working out (as a whole) certain definite aims. |
Khi Đức Thái Dương Thượng Đế tạo lập thái dương hệ, Ngài thu hút vào trong phạm vi biểu hiện một số vật chất đủ dùng cho kế hoạch của Ngài, và các chất liệu thích hợp cho mục tiêu Ngài nhắm đến. Ngài không đặt tất cả những mục tiêu của Ngài vào chỉ thái dương hệ này: Ngài chỉ đặt một mục đích đặc biệt nào đó, nên nó cần một loại rung động đặc biệt và cần loại vật chất đã phân hóa nhất định. Phạm vi này chúng ta gọi là “vòng giới hạn” thái dương hay của hệ thống, nó đặt giới hạn cho tất cả những gì xảy ra trong thái dương hệ, và cuộc biểu hiện nhị nguyên của chúng ta tiếp diễn trong đó. Tất cả những gì trong vòng này đều rung động theo một nhịp điệu chủ yếu, tuân theo những qui luật nhất định, nhằm hoàn thành một mục tiêu đặc biệt và đạt một cứu cánh nhất định mà chỉ có Ngài mới hoàn toàn biết rõ. Tất cả những gì ở trong vòng giới hạn này đều phục tùng những qui luật riêng, và chịu sự chế ngự của một nhịp điệu chính yếu nào đó, và có thể xem như bị chi phối bởi nghiệp quả của cuộc hiện hữu tuần hoàn thất phân đó, và bị thôi thúc bởi những nguyên nhân lâu đời, trước khi có vòng giới hạn. Vì thế mà thái dương hệ chúng ta được liên kết với hệ thống trước và hệ thống sẽ có sau này. Chúng ta không [108] phải là một đơn vị riêng biệt mà là thành phần của một toàn thể vĩ đại hơn. Tất cả chúng ta đều chịu sự chi phối của định luật vũ trụ và cùng nhau thực hiện những mục tiêu nhất định. |
|
Microcosmic purpose. |
Mục đích của tiểu vũ trụ. |
|
So it is with the Microcosm. The Ego on his own plane and on a tiny scale, repeats the action of the Logos. For certain ends he builds a certain form; he gathers certain material, and aims at a definite consummation that shall be the result of that gathered material vibrating to a certain measure, governed in one specific life by certain rules and aiming at some one particular object,—not all possible objects. |
Tiểu vũ trụ cũng thế. Chân nhân trên cảnh giới của mình cũng hành động như Đức Thượng Đế, nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp. Chân nhân tạo ra một thể nhất định dùng cho những cứu cánh nhất định. Chân nhân nhắm đến một sự hoàn mãn nào đó bằng cách gom góp một số vật liệu rung động theo cùng nhịp điệu, chịu sự chi phối của một số qui luật trong một kiếp sống nhất định, và nhắm đến một mục tiêu cụ thể, – chứ không phải tất cả các mục tiêu khả dĩ có. |
|
Each Personality is to the Ego what the solar system is to the Logos. It is his field of manifestation and the method whereby he attains a demonstrable object. That aim may be the acquirement of virtue by paying the price of vice; it may be the attainment of business acumen by the struggle to provide the necessities of life; it may be the development of sensitiveness by the revealing cruelties of nature; it may be the building in of unselfish devotion by the appeal of needy dependents; or it may be the transmutation of desire by the method of meditation on the path. It is for each soul to find out. What I want to impress upon you is the fact that there is a certain danger incident to this very factor. If, for instance, in the acquirement of the mental capacity to meditate, the student misses the very thing he came into the physical body to acquire, the result is not so much a gain as an unequal development and a temporary loss of time. |
Mỗi phàm nhân đối với Chân nhân cũng như thái dương hệ đối với Đức Thái Dương Thượng Đế. Đó là môi trường biểu lộ của Chân nhân và là phương cách để Chân nhân đạt được một mục tiêu rõ rệt. Mục tiêu này có thể là hoạch đắc đức hạnh bằng cách trả giá cho tật xấu. Đó có thể là đạt được sự thành thạo trong kinh doanh bằng cố gắng cung cấp những nhu yếu của đời sống. Đó có thể là mở mang tính nhạy cảm bằng cách phát hiện những điều độc ác trong bản chất. Đó có thể là phát triển lòng yêu thương vô kỷ bằng cách đáp lại lời kêu cầu của những người phụ thuộc đang thiếu thốn. Hoặc đó có thể là chuyển hóa dục vọng bằng phương pháp tham thiền trên Đường Đạo. Chính mỗi linh hồn phải tự tìm lấy mục tiêu. Nhưng sự kiện thực tế mà tôi muốn các bạn ghi nhớ là chính yếu tố này có mang một mối nguy hiểm nhất định. Ví dụ như trong việc thu đạt khả năng trí tuệ để tham thiền, người môn sinh quên mất chính điều y cần đạt khi mang xác phàm, thành ra kết quả chỉ là sự phát triển không đồng đều và tạm thời bị mất thời gian. |
|
Let us be specific and illustrate:—An Ego has formed his three-fold body of manifestation and set his ring-pass-not with the purpose in view of building into his [109] causal body the faculty of “mental apprehension of the basic facts of life.” The object of that one incarnation is to develop the mental capacity of the student; to teach him concrete facts and science and thus to enlarge the content of his mental body, with a view to future work. He may be over-developed on the heart side, too much of the devotee; he may have spent many lives in dreaming dreams and in seeing visions and in mystic meditation. To be practical, full of common sense, to know the curriculum of the Hall of Learning and to apply practically the knowledge learnt on the physical plane is his great need. Yet, even though his ring-pass-not seems to proscribe and limit his inherent tendencies, and even though the stage is set so that it would seem he must learn the lessons of practical living in the world, he learns not, but follows what is to him the line of least resistance. He dreams his dreams, and stays aloof from world affairs; he does not fulfil the desire of the Ego, but misses opportunity; he suffers much, and in the next life is necessitated a similar staging and a stronger urge, and a closer ring-pass-not until he complies with the will of his Ego. |
Chúng ta hãy minh họa chi tiết hơn: – Một Chân nhân đã hình thành ba thể để biểu hiện và đặt chúng trong vòng giới hạn với mục đích trước mắt là đưa vào thể nguyên nhân [109] khả năng “hiểu biết các sự kiện cơ bản của đời sống bằng trí tuệ.” Mục tiêu của kiếp sống này là phát triển trí năng của môn sinh, là dạy cho y những sự kiện cụ thể và khoa học, mở mang thể trí của y, để dùng cho công việc sau này. Y có thể phát triển quá độ về mặt tình cảm hay sùng tín thái quá. Y có thể bỏ ra nhiều kiếp để mơ ước, để nhìn ngắm các linh ảnh và tham thiền thần bí. Nhu cầu lớn của y là phải thực tiễn, phải có đầy đủ lương tri, phải hiểu chương trình của Phòng Học tập và áp dụng sự hiểu biết đã học được một cách thực tế ở cõi trần. Tuy nhiên, dù cho vòng giới hạn của y có vẻ ngăn cản và hạn chế các khuynh hướng sẵn có nơi y, và dù đã có sắp xếp khiến cho dường như y phải học những bài học của cuộc sống thực tiễn ở thế gian, y cũng không chịu học, mà chỉ đi theo lối nào dễ dàng cho y nhất. Y tưởng đến những mơ ước của mình, và sống xa rời thế sự. Y không làm tròn ý muốn của Chân nhân mà bỏ lỡ cơ hội. Y chịu nhiều đau khổ, và trong kiếp tới y cũng cần ở trong sự sắp xếp tương tự với sức thôi thúc mạnh hơn và một vòng giới hạn chặt chẽ hơn, cho đến khi nào y thực hiện được ý muốn của Chân nhân y. |
|
For such an one, meditation helps not, but mainly hinders. As before I have said, meditation (to be wisely undertaken) is for those who have reached a point in evolution where the rounding out of the causal body is somewhat matured and where the student is in one of the final grades in the Hall of Learning. You need to remember that I refer not here to the mystic meditation but to the scientifically occult meditation. The dangers are, therefore, practically those of wasted time, of an intensification of a vibration out of ill proportion to the key of the other vibrations, and of an unequal rounding out and a lop-sided building that will necessitate reconstructing in other lives. [110] |
Đối với một người như thế, tham thiền không giúp đỡ gì được mà chỉ gây trở ngại. Như trước tôi có nói, tham thiền (được áp dụng một cách khôn ngoan) là dành cho những ai đạt mức tiến hóa mà thể nguyên nhân đã phần nào nở nang già dặn và họ đang bước vào một trong những cấp chót của Phòng Học tập. Xin nhớ rằng ở đây tôi nói đến tham thiền huyền môn một cách khoa học, chứ không phải là tham thiền thần bí. Vì thế, những nguy hiểm đó thực tế là làm hao phí thời gian, là tăng cường một rung động đến mức lỗi nhịp, không còn hài hòa với những rung động khác, là sự nảy nở không cân đối và kiến tạo thể nguyên nhân thiên lệch, khiến phải kiến tạo lại trong các kiếp sau. |
|
JULY 30, 1920. |
|
|
Dangers based on national heredity and type of body. |
Những nguy hiểm do di truyền quốc gia và bản chất của cơ thể. |
|
…As you may well imagine it is not my purpose to enlarge upon the dangers incidental to a defective body, save in general terms to lay down the ruling that where there is definite disease, congenital trouble or mental weakness of any kind, meditation is not the part of discretion, but may serve but to intensify the trouble. I wish specifically to point out for the guidance of future students and as a prophetic statement, that in days to come when the science of meditation is more comprehended, two factors will be wisely weighed and considered before assigning a meditation. These factors are: |
. . . Như các bạn hiểu, tôi không có ý định bàn rộng về những nguy hiểm do một cơ thể bất toàn gây ra. Nói chung, tôi chỉ nêu ra qui luật rằng đối với người nào có bệnh tật rõ rệt, có căn bệnh bẩm sinh hay một loại suy nhược tâm thần nào đó thì không nên khinh suất mà tham thiền, vì tham thiền có thể chỉ làm tăng cơn bệnh mà thôi. Đặc biệt là tôi muốn nêu ra lời hướng dẫn các môn sinh sau này, cũng như tiên đoán rằng trong thời gian tới khi khoa học tham thiền được hiểu biết nhiều hơn thì có hai yếu tố sẽ được cân nhắc và cứu xét một cách khôn ngoan, trước khi ấn định phương pháp hành thiền. Đó là: – |
|
a—The man’s subrace characteristics. |
a. Các đặc tính phân chủng của môn sinh. |
|
b—His type of body, whether it is oriental or occidental. |
b. Y thuộc mẫu người nào, có xác thân Đông phương hay Tây phương. |
|
In this way, certain disasters will be avoided and certain troubles obviated that are now found in a more or less degree in every occult group. |
Bằng cách đó, sẽ tránh được một số tai nạn và phòng ngừa được một số bệnh tật mà hiện nay ít nhiều gì cũng có trong mọi nhóm bí giáo. |
|
It is generally recognised that each race has for its predominant feature some one outstanding quality of the emotional body. This is the general rule. In contrasting the Italian and the Teutonic racial differences, those differences are summed up in our minds in terms of the emotional body. We think of the Italian as fiery, romantic, unstable and brilliant; we think of the Teuton as phlegmatic, matter-of-fact, sentimental and stolidly, logically clever. It will, therefore, be apparent to you that these different temperaments carry with them their own dangers, and that in the unwise pursuit of unsuitable meditations, virtues could be emphasised till they approximated vices, temperamental weaknesses could be intensified till they became menaces, and consequently [111] lack of balance would result instead of that attainment of equilibrium and that fine rounding out of the causal body which is one of the aims in view. When, therefore, the wise Teacher moves among men and Himself apportions meditation, these racial differences will be weighed and their inherent defects will be offset and not intensified. Over-development and disproportionate attainment will be obviated by the equalising effects of occult meditation. |
Nói chung, ai cũng thừa nhận rằng mỗi giống dân đều có một đặc điểm nổi bật, tức là một đặc tính nào đó lộ rõ trong thể tình cảm. Đây là qui luật chung. Khi so sánh những khác biệt giữa các dân tộc Ý và Đức thì trí ta tổng kết các điểm dị biệt này trong phạm vi tình cảm. Nghĩ đến người Ý, ta thấy họ có tính nóng nảy, lãng mạn, bất thường, thông minh. Người Đức thì lại điềm tĩnh, thực tế, đa cảm, khôn ngoan, và ưa lý luận một cách lạnh lùng. Vì thế, các bạn thấy rõ là những tính khí khác nhau có mang những mối nguy hiểm riêng, và nếu dại dột theo đuổi những lối tham thiền không thích hợp, thì những tính tốt có thể được chú trọng đến mức gần như thành tính xấu và các nhược điểm trong tính tình có thể được tăng cường đến mức thành những mối đe doạ. Hậu quả sẽ là sự mất thăng bằng thay [111] vì đạt được một trong những mục tiêu trước mắt là làm cho thể nguyên nhân nở nang tốt đẹp và quân bình. Vì thế, khi vị Huấn sư minh triết sống trong nhân loại và chính Ngài hướng dẫn tham thiền, thì những sự dị biệt về chủng tộc sẽ được cân nhắc và những nhược điểm cố hữu của các giống dân sẽ được bù đắp chứ không tăng cường. Những tác dụng làm cân bằng của tham thiền huyền môn sẽ loại trừ sự phát triển thái quá và thành quả không cân đối. |
|
Meditation as followed now and as followed in Atlantean days differs fundamentally. In the fourth root race an effort was made to facilitate attainment via the atomic subplane, from the emotional plane to the intuitional, to the practical exclusion of the mental. It followed the line of the emotions and had a definite effect on the emotional body. It worked upwards from the emotional instead of, as now, working on mental levels and from those levels making the effort to control the two lower. In the Aryan root-race, the attempt is being made to bridge the gap between the higher and the lower and, by centering the consciousness in the lower mind and later in the causal, to tap the higher until the downflow from that higher will be continuous. With most of the advanced students at present all that is felt is occasional rushes of illumination, but later will be felt a steady irradiation. Both methods carry their own dangers. In Atlantean days, meditation tended to overstimulation of the emotions and although men touched great heights, yet they also touched great depths. Sex magic was unbelievably rampant. The solar plexus was apt to be over vivified, the triangles were not correctly followed, and the lower centres were caught in the reaction of the fire with dire results. |
Trong cơ bản, cách hành thiền hiện nay và trong thời kỳ Atlantis có khác nhau. Trong căn chủng thứ tư có một cố gắng để giúp đạt được dễ dàng từ cõi cảm dục đến cõi trực giác, xuyên qua cõi phụ nguyên tử mà không qua cõi trí. Đó là con đường của tình cảm và có hiệu quả rõ rệt trong thể cảm dục. Cố gắng này bắt đầu từ thể cảm dục đi lên, chứ không như hiện nay chúng ta đang làm việc bằng thể trí và dùng nó để chế ngự hai thể thấp hơn. Trong căn chủng Aryan, đang có cố gắng tạo cầu nối liền Chân nhân và hạ thể và bằng cách tập trung tâm thức vào hạ trí rồi đến thể nguyên nhân để giao tiếp với Chân nhân, cho đến khi dòng thần lực từ Chân nhân tuôn xuống liên tục. Hiện nay, hầu hết các môn sinh tiến hóa đều thỉnh thoảng cảm thấy có những tia sáng khai ngộ chợt lóe lên, nhưng sau này họ sẽ cảm được ánh sáng rạng chiếu liên tục. Cả hai phương pháp đều có những nguy hiểm riêng. Trong thời đại Atlantis, tham thiền có khuynh hướng kích thích tình cảm thái quá, và dù người ta đạt được những đỉnh cao, họ cũng rơi xuống những vực sâu. Ma thuật tình dục đã đến mức hoành hành không thể tưởng. Luân xa nhật tùng thường quá sinh động, các tam giác không được theo đúng, và các luân xa thấp bị phản ứng của lửa đưa đến những kết quả đau thương. |
|
The dangers now are different. The development of [112] mind carries with it the dangers of selfishness, of pride, of blind forgetfulness of the higher that it is the aim of the present method to offset. If the adepts of the dark path attained great powers in Atlantean days they are still more dangerous now. Their control is much more widespread. Hence the emphasis laid on service, and on the steadying of the mind as an essential in the man who seeks to progress and to become a member of the Brotherhood of Light. |
Những nguy hiểm hiện nay lại khác. Sự phát triển thể trí [112] khiến nó bị những mối nguy ích kỷ, kiêu căng, và mù quáng quên mất Chân nhân, là điều mà phương pháp hiện nay đang nhằm lập lại thăng bằng. Nếu trong thời kỳ Atlantis, các cao thủ hắc đạo đã đạt được những quyền năng lớn, thì hiện nay họ còn nguy hiểm hơn nhiều. Phạm vi hoạt động của họ còn lan rộng hơn trước. Vì thế mà có sự chú trọng vào công tác phụng sự, vào việc giữ vững thể trí là điều cần yếu cho người nào muốn tiến bộ và muốn trở nên một thành viên của Quang minh Chánh đạo. |
|
The matter I now seek to give some instruction upon is one of very real importance to all earnest students at this time. The orient is to the evolving race of men what the heart is to the human body; it is the source of light, of life, of heat, and of vitality. The occident is to the race what the brain or mental activity is to the body,—the directing organising factor, the instrument of the lower mind, the accumulator of facts. The difference in the entire, “make-up” (as you term it) of the oriental and of the European or American is so great and so well recognised that it is mayhap needless for me to dwell upon it. |
Vấn đề mà hôm nay tôi muốn truyền đạt đôi phần thật rất quan trọng đối với tất cả các môn đệ có nhiệt tâm. Đối với nhân loại đang tiến hóa thì người phương Đông cũng như trái tim trong cơ thể con người. Đó là nguồn của ánh sáng, của sự sống, nhiệt lực và sinh lực. Người phương Tây đối với nhân loại cũng như bộ não hay hoạt động trí tuệ đối với xác thân, – đó là yếu tố tổ chức chỉ đạo, khí cụ của hạ trí, là kho tích lũy các sự kiện. Sự dị biệt trong toàn cả “bản tính” của người phương Đông và của người Âu hay Mỹ thật quá lớn và ai ai cũng đều biết rõ nên có lẽ tôi khỏi phải nói đến nữa. |
|
The oriental is philosophical, naturally dreamy, trained through centuries to think in abstract terms, fond of obstruse dialectics, temperamentally lethargic, and climatically slow. Ages of metaphysical thinking, of vegetarian living, of climatic inertia and of a rigid adherence to forms and to the strictest rules of living have produced a product the exact opposite of his occidental brother. |
Người Đông phương thiên về triết lý, bản tính mơ mộng, qua nhiều thế kỷ đã được tập suy tư trừu tượng, thích những biện chứng khó hiểu, tính tình yếu đuối và thái độ chậm chạp. Qua nhiều thời đại suy tưởng siêu hình, sống chay lạt, tính trì trệ, thích bảo thủ những hình thức và qui luật sống nghiêm khắc, đã tạo nên mẫu người trái ngược hẳn với người anh em phương Tây. |
|
The occidental is practical, businesslike, dynamic, quick in action, a slave to organization (which is after all but another form of ceremonial), actuated by a very concrete mind, acquisitive, critical, and at his best when affairs move quickly and rapid mental decision is required. He detests abstract thought yet appreciates it when apprehended, and when he can make those thoughts [113] facts on the physical plane. He uses his head more than his heart centre, and his throat centre is apt to be vitalised. The oriental uses his heart centre more than the head and necessarily the corresponding head centres. The centre at the top of the spine at the base of the skull functions more actively than the throat. |
Người phương Tây thích thực tế, làm việc có hệ thống, năng động, hành động mau lẹ, lệ thuộc sự tổ chức (vốn là một hình thức khác của nghi lễ), được thúc đẩy bằng trí tuệ rất cụ thể, thích thu đạt, ưa chỉ trích, làm tận lực khi công việc trôi chảy mau lẹ, và dùng lý trí quyết định nhanh chóng khi cần thiết. Họ không thích những tư tưởng trừu tượng nhưng biết đánh giá khi hiểu được và khi họ có thể làm những tư tưởng [113] đó thành hiện thực ở cõi trần. Họ dùng luân xa đầu nhiều hơn luân xa tim, và luân xa cổ họng của họ thường được sinh động. Người Đông phương thì dùng luân xa tim nhiều hơn luân xa đầu và tất nhiên là dùng trung tâm ở đầu tương ứng với luân xa tim. Luân xa ở đáy xương sọ, đầu cột sống hoạt động mạnh mẽ hơn luân xa cổ họng. |
|
The oriental progresses by the withdrawing of the centre of consciousness to the head through strenuous meditation. That is the centre that he needs to master, he learns by the wise use of mantrams, by retiring into seclusion, by isolation and by the careful following of specific forms for many hours each day for many days. |
Người Đông phương tiến hóa bằng cách thu tâm thức vào luân xa đầu, qua cố gắng tham thiền tích cực. Đó là luân xa y phải chế ngự. Y học hỏi bằng cách dùng các câu thần chú một cách khôn ngoan, bằng cách sống ẩn dật và tham thiền theo những phương thức đặc biệt, mỗi ngày nhiều giờ trong thời gian dài. |
|
The occidental has in view the withdrawal of his consciousness to the heart at first, for already he works so much with the head centres. He works more by the use of collective forms and not individual mantrams; he does not work so much in isolation as his oriental brother, but has to find his centre of consciousness even in the noise and whirl of business life and in the throngs of great cities. He employs collective forms for the attainment of his ends, and the awakening of the heart centre shows itself in service. Hence the emphasis laid in the Occident on the heart meditation and the subsequent life of service. |
Người Tây phương trước hết phải nhằm rút tâm thức vào luân xa tim, vì họ đã dùng luân xa đầu quá nhiều. Họ thường sử dụng các hình thức tập thể thay vì các chú nguyện dùng riêng cho cá nhân. Họ không thường làm việc trong đơn độc như người anh em phương Đông mà phải tập trung tâm thức ngay cả trong sự náo nhiệt và quay cuồng của cuộc sống kinh doanh và trong những đám đông ở các đô thị lớn. Họ dùng những hình thức tập thể để đạt mục tiêu của mình, và việc đánh thức luân xa tim tự biểu lộ trong phụng sự. Vì vậy, người phương Tây phải chú trọng đến tham thiền ở luân xa tim và cuộc sống phụng sự sau đó. |
|
You will see, therefore, that when the real occult work is begun, the method may differ—and will necessarily differ—in the east and in the west, but the goal will be the same. It must be borne in mind, for instance, that a meditation that would aid the development of an oriental, might bring danger and disaster to his western brother. The reverse would also be the case. But always the goal will be the same. Forms may be individual or collective, mantrams may be chanted by units or by groups, different centres may be the object of specialised attention, yet [114] the results will be identical. Danger arises when the occidental bases his endeavour on rules that suffice for the oriental, as has at times been so wisely pointed out. In the wisdom of the Great Ones this danger is being offset. Different methods for different races, diverse forms for those of various nationalities, but the same wise guides on the inner planes, the same great Hall of Wisdom, the same Gate of Initiation, admitting all into the inner sanctuary…. |
Thế nên, các bạn sẽ thấy rằng khi bắt đầu làm công tác thực sự huyền môn thì phương pháp có thể khác nhau – và nhất thiết phải khác nhau – ở phương Đông và phương Tây, nhưng mục đích thì giống nhau. Chẳng hạn như chúng ta phải ghi nhớ rằng một phương pháp thiền có thể giúp cho người phương Đông phát triển, lại có thể gây nguy hiểm và tai hại cho người anh em Tây phương, hoặc nói ngược lại cũng vậy. Nhưng bao giờ mục đích cũng vẫn như nhau. Những hình thức có thể là cá nhân hay tập thể. Những câu thần chú có thể được mỗi người đọc riêng hay đọc chung cả nhóm. Người ta có thể đặc biệt chú ý khai mở những luân xa khác nhau, [114] nhưng những kết quả vẫn đồng nhất. Sự nguy hiểm sẽ xảy ra khi người phương Tây cố gắng tu tập theo những qui luật chỉ hợp với người Đông phương, như tôi đã vạch rõ nhiều lần. Các Đấng cao cả đang dùng sự minh triết của các Ngài để trừ khử mối nguy này. Mỗi giống dân một phương pháp khác nhau, mỗi dân tộc một hình thức dị biệt, nhưng cũng cùng những hướng dẫn minh triết ở nội giới, cũng cùng Phòng Minh triết vĩ đại, cũng cùng một Cửa Điểm đạo thu nhận tất cả vào bên trong thánh điện. . . . |
|
In concluding this subject, I seek to give a hint:—The seventh Ray of Ceremonial Law or Order (the ray now coming into power) provides for the occidental what has long been the privilege of the oriental. Great is the day of opportunity, and in the sweeping onward of this seventh force comes the needed impetus that may—if rightly grasped—drive to the Feet of the Lord of the World the dweller in the occident. |
Để kết thúc vấn đề này, tôi muốn đưa ra một lời ngụ ý: – Cung Bảy (Định luật Nghi thức hay Trật tự) đang gia tăng quyền lực và cho người phương Tây những gì mà từ lâu đã là đặc quyền của người phương Đông. Cơ hội hiện nay rất lớn lao, và trên đà chế ngự của cung này có sức thúc đẩy cần thiết (nếu áp dụng đúng) sẽ đưa người Tây phương đến dưới chân Đức Chúa tể Hoàn cầu. |
|
AUGUST 2, 1920. |
Ngày 2-8-1920. |
|
Dangers attendant on group affiliations. |
Những nguy hiểm do các liên kết tập thể. |
|
Very briefly would I seek this morning to take up the question of the dangers involved in meditation that are incidental to a man’s group affiliations, whether exoteric or esoteric. There is not much that can be said on this particular matter, save broad indications. Each of these various subjects that I have touched upon might warrant the writing of a weighty treatise, and I shall not, therefore, attempt to cover what might be said but only point out certain aspects of the matter that will (if pondered on with care) open up to the earnest seeker after truth many avenues of knowledge. All occult training has this in view,—to give to the pupil some seed thought which (when brooded over in the silence of his own heart) [115] will produce much fruit of real value, and which the pupil can then conscientiously consider his own. What we produce through wrestling and strenuous endeavour remains forever our own, and vanishes not into forgetfulness as do the thoughts that enter through the eye from the printed page, or through the ear from the lips of any teacher no matter how revered. |
Sáng nay, tôi sẽ nói vắn tắt về các nguy hiểm trong tham thiền do các liên kết nhóm của người môn sinh, dù đó là nhóm ngoại môn hay nội môn. Không thể nói nhiều về vấn đề đặc biệt này trừ những lời chỉ dẫn tổng quát. Mỗi vấn đề tôi đã đề cập đến đều có thể viết thành một thiên khảo luận dày. Nên tôi không có ý muốn nói đủ mọi điều mà chỉ vạch ra vài khía cạnh của vấn đề (nếu được suy ngẫm cẩn thận) sẽ mở ra cho người tìm chân lý nhiệt thành nhiều con đường để mở mang hiểu biết. Mọi sự huấn luyện huyền môn đều nhắm làm việc này, – là cho người môn sinh một tư tưởng gốc nào đó (nếu được nghiền ngẫm trong sự yên lặng của tâm hồn) sẽ cho y [115] nhiều thành quả thật có giá trị, mà y có thể thực sự xem là của chính mình. Những gì chúng ta đạt được do phấn đấu và nỗ lực thì mãi mãi vẫn còn là của chúng ta, và không thể nào bị quên lãng như những tư tưởng ta đọc trong sách hay những lời giảng dạy của một vị huấn sư, dù Ngài có được tôn kính đến đâu. |
|
One thing that is oft overlooked by the pupil when he enters upon the path of probation and starts meditation is that the goal ahead for him is not primarily the completing of his own development, but his equipping for service to humanity. His own growth and development are necessarily incidental but are not the goal. His immediate environment and his close associates on the physical plane are his objectives in service, and if in the endeavour to attain certain qualifications and capacities he overlooks the groups to which he is affiliated and neglects to serve wisely and to spend himself loyally on their behalf he runs the danger of crystallisation, falls under the spell of sinful pride, and mayhap even takes the first step toward the left-hand path. Unless inner growth finds expression in group service the man treads a dangerous road. |
Khi người môn sinh bước vào con đường dự bị và khởi sự tham thiền, thì y thường không để ý đến một điều: mục tiêu y cần nhắm đến không phải chủ yếu là hoàn tất sự phát triển của chính y mà là tự trang bị để phụng sự nhân loại. Trong phụng sự tất nhiên y sẽ tăng trưởng và phát triển nhưng đó không phải là mục đích. Hoàn cảnh trực tiếp quanh y và những người cộng sự thân cận ở cõi trần là các đối tượng để phụng sự. Nếu trong khi cố gắng đạt một số khả năng hay đức tính nào đó, y lại bỏ bê các nhóm mà y đang kết hợp, thờ ơ không phụng sự họ một cách khôn ngoan, và không trung thành vì lợi ích của nhóm, là y đang lâm vào mối nguy của sự kết tinh, đang rơi vào sự mê hoặc của lòng kiêu căng tội lỗi, và thậm chí có thể dấn bước đầu tiên vào con đường tà đạo. Nếu sự tăng trưởng nội tâm không biểu lộ trong việc phụng sự tập thể thì người môn sinh đang đi vào con đường nguy hiểm. |
|
Three types of affiliated groups. |
Ba loại nhóm liên kết với môn sinh. |
|
Perhaps I could here give some indications of the groups on the various planes to which a man is assigned. These groups are many and diverse and at different periods of a man’s life may change and differ, as he works out from under the obligating karma that governs the affiliations. Let us remember too that as a man enlarges his capacity to serve he at the same time increases the size and number of the groups he contacts till he reaches a point in some later incarnation when the world [116] itself is his sphere of service and the multitude those whom he assists. He has to serve in a threefold manner before he is permitted to change his line of action and pass on to other work,—planetary. systemic or cosmic. |
Có lẽ ở đây tôi có thể đưa ra một vài chỉ dẫn về các nhóm của người môn sinh trên những cảnh giới khác nhau. Có nhiều nhóm khác nhau như thế và trong những giai đoạn khác nhau của đời người các nhóm ấy có thể thay đổi, khi người môn sinh thanh toán được sự bó buộc của nghiệp quả chi phối các liên kết đó. Chúng ta cũng nên nhớ rằng khi một người mở rộng khả năng phụng sự thì đồng thời y cũng gia tăng kích thước [116] và số nhóm mà y tiếp xúc, cho đến khi trong một kiếp nào đó về sau thế giới là trường phụng sự của y và vô số người được y giúp đỡ. Y phải phụng sự bằng ba cách trước khi được phép đổi đường lối hành động và bước sang một công tác khác, – thuộc hành tinh, thái dương hệ hay vũ trụ. |
|
a—He serves first through activity, through the use of his intelligence, using the high faculties of mind and the product of his genius to aid the sons of men. He builds slowly great powers of intellect and in the building overcomes the snare of pride. He takes, then, that active intelligence of his and lays it at the feet of collective humanity, giving of his best for the helping of the race. |
a. Trước hết, y phụng sự thông qua hoạt động, bằng cách sử dụng trí thông minh, dùng những khả năng cao của trí tuệ và tài năng của mình để giúp đỡ những người con của nhân loại. Y từ từ khai mở những quyền năng lớn của trí tuệ và vượt qua cạm bẫy của lòng kiêu hãnh. Bấy giờ y đem trí thông minh linh hoạt của mình đặt dưới chân toàn thể nhân loại, và đem hết khả năng ra phụng sự loài người. |
|
b—He serves through love, becoming, as time elapses, one of the saviours of men, spending his life and giving of his all through perfect love of his brothers. A life then comes when the utmost sacrifice is made and in love he dies that others may live. |
b. Y phụng sự bằng tình thương và theo thời gian trở nên một trong những vị cứu thế hiến trọn cuộc đời mình cho các huynh đệ với tình thương toàn hảo. Rồi đến một kiếp y sẽ hy sinh trọn vẹn và chết trong tình thương để cho những người khác được sống. |
|
c—He serves then through power. Proved in the furnace to have no thought save the good of all around, he is trusted with the power that follows from active love intelligently applied. He works with the law, and bends all his will to make the power of the law felt in the three-fold realms of death. |
c. Sau đó là phụng sự bằng quyền lực. Trong lò lửa tôi luyện, y đã chứng tỏ là không có tư tưởng nào khác ngoài việc nghĩ đến những gì tốt đẹp cho mọi người chung quanh. Y được tin cậy để giao phó quyền năng, sau khi đã áp dụng tình thương tích cực một cách khôn ngoan. Y làm việc hợp với định luật và dùng tất cả ý chí của mình để bày tỏ quyền năng của định luật trong ba lĩnh vực của cõi tử (là tam giới). |
|
In all these three branches of service you will notice that the faculty of working with groups is one of paramount importance. These groups are diverse, as before I have said, and vary on different planes. Let us briefly enumerate them:— |
Trong cả ba ngành phụng sự này, bạn sẽ nhận thấy rằng khả năng làm việc với các nhóm là tối quan trọng. Như tôi đã nói, những nhóm này rất đa dạng và thay đổi trên những cảnh giới khác nhau. Chúng ta hãy kể ra tóm tắt như sau: – |
|
1—On the physical plane. The following groups will be found:— |
1. Ở cõi trần. Có những nhóm sau đây: – |
|
a—His family group to which he is usually affiliated for two reasons, one to work out karma and repay his debts; the second, to receive a certain type of physical vehicle that the Ego needs for adequate expression. [117] |
a. Gia đình là nhóm y thường quan hệ vì hai lẽ. Một là để giải quyết nghiệp quả và thanh toán các món nợ tiền kiếp. Hai là để nhận một xác thân thuộc loại mà Chân nhân cần để biểu lộ đầy đủ. [117] |
|
b—His associates and friends; the people his environment throws him with, his business associates, his church affiliations, his acquaintances and casual friends, and the people he touches for a brief period and then sees no more. His work with them is twofold again; first to repay an obligation should such a debt have been incurred; and secondly to test out his powers to influence for good those around him, to recognise responsibility and to direct or help. In doing thus, the Guides of the race find out the actions and reactions of a man, his capacity for service, and his response to any surrounding need. |
b. Các cộng sự viên và bạn bè, những người mà hoàn cảnh đưa đẩy y đến với họ, những người cộng sự kinh doanh, các liên hệ với giáo hội, những người quen biết, những người bạn gặp gỡ tình cờ và những người mà y tiếp xúc trong một thời gian ngắn rồi thôi. Y cũng có hai việc cần làm với họ: một là phải thi hành một nghĩa vụ nào đó nếu y đã chuốc lấy món nợ. Hai là để thử thách khả năng y gây ảnh hưởng lành cho những người chung quanh, biết nhận trách nhiệm và biết chỉ đạo, giúp đỡ. Trong thử thách này, các vị Hướng đạo nhân loại thấy được hành động và phản ứng của hành giả, khả năng phụng sự của y và cách y đáp ứng nhu cầu của những người chung quanh. |
|
c—His associated band of servers, the group under some Great One that is definitely united for work of an occult and spiritual nature. It may be either a band of church workers among the orthodox (beginners are tried out here); it may be in social work such as in the labor movements or in the political arena; or it may be in the more definitely pioneer movements of the world, such as the Theosophical Society, the Christian Science movement, the New Thought workers and the Spiritualists. I would add to this, one branch of endeavour that may surprise you,—I mean the movement of the Soviet in Russia and all the aggressive radical bodies that sincerely serve under their leaders (even when misguided and unbalanced) for the betterment of the condition of the masses. |
c. Đoàn phụng sự mà y gia nhập, là nhóm của một Đấng Cao cả, được kết hợp rõ rệt để làm công tác huyền môn, tinh thần. Đó có thể là một đoàn phụng sự trong giáo hội chính thống (những người sơ cơ đều được thử thách trong nhóm này). Đó cũng có thể là đoàn công tác xã hội như trong phong trào lao động hay chính trường, hoặc có thể thuộc những phong trào tiền phong của thế giới như Hội Thần triết, phong trào Khoa học Công giáo, những người thuộc phái Tân Tư tưởng và những nhà Giáng thần học. Tôi có thể thêm một chi nhánh hoạt động nữa khiến bạn ngạc nhiên, – đó là phong trào Xô-viết ở Nga và tất cả những đoàn thể mạnh mẽ, cấp tiến đang thành tâm phụng sự theo các lãnh tụ của họ (dù có khi bị lạc hướng và mất thăng bằng) để nâng cao điều kiện sinh hoạt của đại khối quần chúng. |
|
Thus on the physical plane you have three groups to which a man belongs. He owes a duty to them and he must play his part. Now wherein could danger enter through meditation? Simply in this: that as long as a man’s karma holds him to some particular group the thing that he must aim at is to play his part perfectly, so that he may work out from under karmic obligation [118] and advance toward ultimate liberation; besides this he must carry on his group with him to greater heights and usefulness. Therefore, if through meditation of an unsuitable nature he neglects his proper obligation he delays the purpose of his life, and in another incarnation he will have to play it out. If he builds into that group’s causal body (the composite product of the several lines) aught that has not its place properly there, he aids not but hinders, and again that involves danger. Let me illustrate, for clarity is desired:—A student is affiliated with a group that has an over-preponderance of devotees, and he has come in for the express purpose of balancing that quality with another factor, that of wise discrimination and mental balance. If he permits himself to be overcome by the group thoughtform and becomes himself a devotee, following a devotional meditation and unwisely omitting to balance that group’s causal body, he runs into a danger that hurts not only himself but the group to which he belongs. |
Như thế, các bạn thấy rằng mỗi người đều thuộc vào ba nhóm ở cõi trần. Y có bổn phận đối với họ và phải làm tròn. Vậy có gì nguy hiểm khi tham thiền? Đơn giản là khi nghiệp quả còn ràng buộc người môn sinh với một nhóm nào đó thì y phải lo làm tròn bổn phận của mình. Nhờ thế y có thể trả [118] sạch nghĩa vụ nghiệp quả và tiến lên hướng về sự giải thoát cuối cùng. Ngoài ra, y phải đưa nhóm của mình lên những tầm thức cao thượng hơn và hữu ích hơn. Vì thế, nếu tham thiền không thích hợp, y sẽ bỏ quên nghĩa vụ đích thực của mình, làm chậm trễ mục đích của kiếp sống hiện tại và sẽ phải thực hiện trong một kiếp khác. Nếu y đưa vào thể nguyên nhân của nhóm ấy (là sản phẩm kết hợp của nhiều đường hướng) những gì không thích đáng, thì y không giúp được gì mà chỉ gây trở ngại và đây cũng lại là điều bao gồm nguy hiểm. Tôi xin minh họa để giải rõ hơn: – Một môn sinh ở trong nhóm có nhiều người sùng tín quá mức, y gia nhập với mục đích rõ rệt là làm quân bình đức tính này bằng một yếu tố khác, đó là sự phân biện khôn ngoan và thăng bằng trí tuệ. Nếu y để cho mình bị hình tư tưởng của nhóm chi phối và tự trở thành một người sùng tín luôn hành thiền theo lối sùng tín và thiếu khôn ngoan mà bỏ quên việc làm quân bình thể nguyên nhân của nhóm ấy, thì y lâm vào mối nguy, chẳng những tự hại mình mà còn làm hại luôn cả nhóm hiện hữu. |
|
2—On the emotional plane: Here he belongs to several groups such as:— |
2. Ở cõi tình cảm. Trên cảnh giới này y thuộc vào nhiều nhóm, như là: – |
|
a—His emotional plane family group, which is more thoroughly his own group than the family into which he happens to be born on the physical plane. You will see this demonstrated many times in life when members of an emotional plane family contact each other on the physical plane. Instant recognition ensues. |
a. Nhóm gia đình của y ở cõi tình cảm, nhóm này chính thực là nhóm của y hơn là gia đình mà y đầu thai ở cõi trần. Các bạn sẽ thấy điều này được chứng nghiệm nhiều lần trong cuộc sống, khi những người thuộc một gia đình ở cõi tình cảm gặp lại nhau ở cõi trần. Họ nhận biết nhau ngay. |
|
b—The class within the Hall of Learning to which he is assigned and in which he receives much instruction. |
b. Lớp học trong Phòng Học tập mà y được xếp vào, và nhận được nhiều giáo huấn trong đó. |
|
c—The band of Invisible Helpers with whom he may be working and the band of Servers. |
c. Đoàn Cứu trợ Vô hình mà có thể y đang cộng tác, và Đoàn Phụng sự. |
|
All these groups involve obligation and work and all must be allowed for in studying the wise use of meditation. [119] Meditation should increase a man’s capacity to discharge his karmic debts, giving clear vision, wise judgment and a comprehension of the work of the immediate moment. Anything that militates against this is dangerous. |
Y có những nghĩa vu và công việc phải làm trong các nhóm này và tất cả đều phải được xem xét khi nghiên cứu [119] áp dụng cho y một phương pháp thiền đúng đắn. Tham thiền phải làm tăng khả năng trả nợ nghiệp quả của môn sinh, phải đem lại cho y cái nhìn sáng tỏ, sự xét đoán khôn ngoan và hiểu biết được công việc nào phải thi hành ngay. Bất cứ những gì đi ngược lại điều này đều nguy hiểm. |
|
3—On the mental plane: The groups to be found there may be enumerated as follows: |
3. Ở cõi trí. Những nhóm trên cõi này có thể kể ra như sau: – |
|
a—The groups of pupils of some one Master to Whom he may be attached, and with Whom he may be working. This is usually only the case when the man is rapidly working out his karma and is nearing the entrance to the Path. His meditation, therefore, should be directly under the guidance of his Master, and any formula followed that is not adjusted to a man’s need carries with it elements of danger, for the vibrations set up on the mental plane and the forces engendered there are so much more potent than on the lower levels. |
a. Những nhóm đệ tử Chân sư mà y có liên hệ và đang làm việc với họ. Đây thường chỉ là trường hợp mà người môn sinh đang thanh toán nghiệp quả của mình một cách nhanh chóng và đang đến gần cửa Đạo. Vì thế, y nên được Chân sư của y trực tiếp hướng dẫn cách tham thiền, và bất cứ phương thức nào đem áp dụng mà không phù hợp với nhu cầu của y đều đem đến những yếu tố nguy hiểm, vì những rung động và những mãnh lực phát sinh ở cõi trí thì mạnh mẽ hơn ở các cõi thấp rất nhiều. |
|
b—The egoic group to which he belongs. This is most important for it involves the consideration of the man’s ray in the apportioning of meditation. This matter has already been somewhat touched upon. |
b. Nhóm Chân nhân của y. Nhóm này quan trọng nhất, vì nó liên hệ đến sự cứu xét cung của môn sinh khi ấn định phương pháp thiền. Vấn đề này đã phần nào được đề cập đến. |
|
As you will see, I have not specified certain dangers attacking any particular body. It is not possible to cover the subject thus. In later days, when occult meditation is more comprehended and the matter scientifically studied, students will prepare the necessary data and treatises covering the entire subject as far as then may be. I sound, however, a note of warning, I indicate the way,—the teachers on the inner side seldom do more. We aim at developing thinkers and men of clear vision, capable of logical reasoning. To do this we teach men to develop themselves, to do their own thinking, reason out their own problems, and build their own characters. Such is the Path…. [120] |
Như các bạn thấy, tôi không đặc biệt nói đến những mối nguy hiểm riêng cho một thể nào. Không thể bàn vấn đề theo cách đó. Sau này, khi tham thiền huyền môn được mọi người hiểu biết nhiều hơn và vấn đề này được nghiên cứu một cách khoa học, thì bấy giờ tùy theo khả năng các môn sinh sẽ soạn thảo những dữ liệu cần thiết và những thiên khảo luận về toàn bộ vấn đề. Tuy nhiên, tôi xin có lời khuyến cáo rằng tôi chỉ vạch ra con đường, – các huấn sư nội môn ít khi nào làm hơn điều đó. Chúng tôi nhắm đến việc đào tạo, phát triển những nhà tư tưởng, những người có tầm mắt sáng tỏ, có khả năng suy luận hợp lý. Chúng tôi làm việc đó bằng cách dạy mọi người tự phát triển, tự mình suy nghĩ, tự suy xét để giải quyết các vấn đề khó khăn của mình, và tự trau giồi đức hạnh. Đó là Đường Đạo…. |
|
AUGUST 3, 1920. |
[120] Ngày 03-8-1920. |
|
Những nguy hiểm do các mãnh lực tinh vi gây ra. |
|
|
…We have for our topic this morning the final section of our letter on the dangers incidental to meditation. We have dealt somewhat with individual dangers inherent in the three bodies; we have touched upon the risks that may be run when the karma of the student and his group affiliations are overlooked. Today the subject involves real difficulty. We have to deal with the dangers that may arise from forces and persons, from entities and groups working on the subtler planes. The difficulty arises in three ways:— |
. . . Sáng nay chúng ta bàn đến phần cuối của vấn đề các nguy hiểm có thể phát sinh trong tham thiền. Chúng ta đã bàn đôi điều về những nguy hiểm sẵn có trong ba hạ thể. Chúng ta đã đề cập đến những nguy hại có thể xảy ra khi không để ý đến nghiệp quả của nguời môn sinh và các liên kết của y với nhóm. Vấn đề hôm nay thật khó khăn. Chúng ta phải bàn đến những nguy hiểm do những người, những mãnh lực, những sinh linh và những nhóm đang hoạt động ở các cảnh giới ẩn vi hơn cõi trần gây ra. Sự khó khăn này có ba lý do: – |
|
l—The ignorance of the average student as to the nature of those forces and as to the personnel of the groups on the subtler planes. |
1. Người môn sinh trung bình không hiểu được tính chất của các mãnh lực này và không biết được thành viên của các nhóm ở những cõi ẩn vi. |
|
2—The risk of revealing more than would be wise in an exoteric publication. |
2. Mối nguy khi tiết lộ những điều không cần thiết trong một cuốn sách công truyền. |
|
3—An occult risk that is little comprehended by the uninitiated. It lies in the fact that in the concentration of thought that necessarily arises in discussing these problems, thought-waves are set in motion, currents are contacted and thoughtforms circulated that attract the attention of those under discussion. This may lead at times to undesirable results. Therefore, I shall with brevity touch upon the subject. Upon the inner planes the needed light and protection are afforded. |
3. Mối nguy về mặt huyền môn mà người chưa được điểm đạo ít biết đến. Do sự thực là việc tập trung tư tưởng tất sẽ phát sinh khi bàn thảo các vấn đề này làm các sóng tư tưởng phát động, tiếp xúc với những dòng mãnh lực và hình tư tưởng lưu chuyển gây sự chú ý của các đối tượng đang bị bàn đến. Điều này đôi khi có thể đưa đến những hậu quả không hay. Vì thế, tôi sẽ chỉ bàn vắn tắt thôi. Ở các nội giới, chúng ta sẽ có được sự bảo vệ và ánh sáng hiểu biết cần thiết. |
|
Three groups of entities:— |
Ba nhóm thực thể: – |
|
These groups of entities can be differentiated in a threefold manner:— |
Có thể xếp các nhóm thực thể này thành ba hạng: – |
|
l—Groups of discarnate beings on either the emotional or the mental planes. |
1. Những nhóm vong linh lìa trần, ở trong thể cảm dục hay thể trí. |
|
2—Devas, either singly or in groups. |
2. Các thiên thần, làm việc riêng hay từng nhóm. |
|
3—The dark Brotherhood. [121] |
3. Những huynh đệ Hắc đạo. [121] |
|
Let us take each division and deal with it carefully, first laying the foundation of knowledge by pointing out that the dangers arise from a threefold condition of the bodies of the student which may be the result sometimes of meditation. These conditions are: |
Chúng ta hãy xem xét kỹ từng phần, và trước hết đặt nền tảng cho sự hiểu biết bằng cách nêu ra rằng những nguy hiểm phát sinh do tình trạng ba hạ thể của người môn sinh đôi khi có thể là hiệu quả của tham thiền. Các tình trạng đó là: – |
|
A negative condition that makes the entire three bodies of the personality receptive and quiescent, and open therefore to the attack of the watching denizens of other planes. |
Tình trạng tiêu cực khiến cho cả ba hạ thể Phàm nhân trở nên yên lặng và thụ cảm, và do thế bỏ ngỏ cho những dân cư của các cõi khác đang chờ chực tấn công. |
|
A condition of ignorance or foolhardiness that, in attempting to use certain forms and mantrams without the permission of the Teacher, involves the student with certain groups of devas, bringing him into contact with the devas of the emotional or mental planes and making him therefore (through his ignorance) the butt of their attack and the plaything of their destructive instincts. |
Tình trạng dốt nát hay khờ dại, cố liều lĩnh sử dụng một vài phương thức và những câu chú mà không được phép của vị Huấn sư, khiến người môn sinh liên hệ đến một số nhóm thiên thần, khiến y tiếp xúc với các thần của cõi cảm dục hay cõi trí. Do hành động thiếu hiểu biết này, y làm bia cho họ tấn công và làm món đồ chơi cho bản năng hủy hoại của họ. |
|
A condition which is the reverse of the above, which makes a man positive and a channel, therefore, for force or power. When this is the case, the man proceeds, under occult rule or law and with the aid of his Teacher, to wield the electrical fluid of the inner planes. He becomes then a centre of the attention of those who strive against the Brothers of Light. |
Tình trạng ngược lại với tình trạng trên, khiến cho người môn sinh trở thành tích cực và vì thế mà trở thành đường truyền cho thần lực và quyền năng. Trong trường hợp này, người môn sinh tiến hành vận dụng dòng điện lưu của các cõi ẩn vi theo định luật hay quy luật huyền môn và dưới sự hướng dẫn của Sư phụ y. Y trở thành một trung tâm chú ý của những người chống lại Chánh đạo. |
|
The first two conditions are all the result of meditation unwisely and ignorantly practised, the last state of affairs is frequently the reward of success. In the first two, the remedy lies within the student himself and in the wise correction of the type of meditation and its more careful following; in the third case the remedy must be sought in various ways which I will later indicate. |
Hai tình trạng đầu là hậu quả của việc hành thiền không khôn ngoan và thiếu hiểu biết, còn tình trạng cuối thường là phần thưởng của sự thành công. Trong hai trường hợp đầu việc chữa trị do chính người môn sinh thực hiện bằng cách khôn ngoan sửa đổi loại tham thiền và áp dụng thận trọng hơn. Trong trường hợp thứ ba thì có nhiều cách đối trị sau này tôi sẽ chỉ dẫn. |
|
Dangers of obsession. |
Những nguy hiểm của sự ám ảnh. |
|
Dangers from discarnate entities are frankly those of obsession, either of a temporary nature and lasting for a few moments or more enduring and lasting for a longer [122] period. It may even be permanent and lasting through a lifetime. I have earlier written to you a letter upon this subject which you might here incorporate. We never duplicate effort if it can be avoided. I seek primarily to emphasise the point that this entrance which we call obsession is effected largely through the negative attitude assumed through the unwise following of an unsuitable meditation. In his anxiety to be the recipient of light from above, in his determination to force himself to a place where he can contact the teachers or even the Master, and in his endeavour to eliminate all thought and lower vibrations, the student makes the mistake of rendering his entire lower personality receptive. Instead of making it firmly positive to environing factors and to all lower contacts, and instead of only allowing the “apex of the mind” (if I may use so unusual a term) to be receptive and open to transmission from the causal or the abstract levels and even from the intuitional, the student permits reception from all sides. Only a point within the brain should be receptive, all the rest of the consciousness should be so polarised that outer interference will not be possible. This refers to the emotional and to the mental bodies, though with the majority these days it refers solely to the emotional. At this particular period of the world’s history the emotional plane is so densely populated and the response of the physical to the emotional is now becoming so exquisitely attuned, that the danger of obsession is greater than ever heretofore. But for your cheering—the reverse holds good also, and response to the divine and rapid reaction to the higher inspiration has never been so great. Divine inspiration or that “divine obsession” which is the privilege of all advanced souls, will be understood in the coming years as never before, and will be definitely one of the [123] methods used by the coming Lord and His Great Ones for the helping of the world. |
Các vong linh thoát trần thường gây ra những mối nguy ám ảnh rõ rệt, hoặc là chỉ tạm trong thời gian ngắn, hay kéo [122] dài lâu hơn. Thậm chí nó có thể kéo dài trong suốt một kiếp sống. Trước đây tôi có viết cho các bạn một bức thư nói về vấn đề này và các bạn có thể dùng để tham khảo thêm. Vì thế, không cần lặp lại ở đây. Chính yếu tôi muốn nhấn mạnh điểm căn bản là sự xâm nhập mà chúng ta gọi là ám ảnh này phần lớn là do thái độ tiêu cực của người môn sinh khi y dại dột thực hành một phương pháp thiền không thích hợp. Do háo hức muốn đón nhận ánh sáng từ cõi trên, do ý quyết tự ép mình cho được tiếp xúc với các huấn sư hay ngay cả Chân sư, và trong cố gắng loại trừ tất cả những tư tưởng và những rung động thấp, người môn sinh phạm sai lầm là làm cho toàn thể phàm ngã trở nên thụ cảm. Thay vì làm cho phàm ngã trở nên vững vàng, tích cực đối với những yếu tố chung quanh, với mọi tiếp xúc ở cõi thấp, và thay vì chỉ để cho “đỉnh chóp của thể trí” (xin tạm gọi như thế) thụ cảm và mở ra đối với những gì được truyền xuống từ các cấp độ trừu tượng hoặc của thể nguyên nhân và thậm chí từ cõi trực giác, thì người môn sinh lại để cho thụ cảm từ mọi phía. Chỉ có một điểm bên trong bộ não là nên để cho thụ cảm, tất cả những gì còn lại trong tâm thức đều phải được phân cực đến mức có thể ngăn được mọi xâm nhập từ bên ngoài. Đây là nói về thể tình cảm và thể trí, dù rằng với đa số nhân loại hiện nay điều này chỉ liên quan đến thể tình cảm mà thôi. Trong thời kỳ đặc biệt này của lịch sử thế giới, dân cư ở cõi tình cảm quá đông đảo, và sự ứng đáp của cõi trần với cõi tình cảm hiện đang trở nên rất mực phù hợp, thế nên mối nguy hiểm của sự ám ảnh lại càng to lớn hơn bao giờ hết. Nhưng các bạn cũng nên mừng vì kết quả ngược lại cũng rất tốt, sự ứng đáp của cõi trần đối với cõi thiêng liêng và sự đáp ứng lẹ làng với nguồn cảm hứng cao siêu thật lớn lao hơn trước rất nhiều. Nguồn cảm hứng thiêng liêng hay “nhập thể thiêng liêng” vốn là đặc ân của những linh hồn tiến hóa, trong những năm tới sẽ được nhiều người hiểu rõ, và nhất định sẽ là một trong những phương [123] pháp được Đức Chưởng Giáo và các Đấng Cao cả phụ tá Ngài sử dụng khi lâm phàm để giúp đỡ thế gian. |
|
The thing to be remembered is that in the case of wrong obsession the man is at the mercy of the obsessing entity, and is unconsciously or unwillingly a partner in the transaction. In divine obsession the man consciously and willingly co-operates with the One Who seeks to inspire, or to occupy or employ his lower vehicles. The motive is ever the greater helping of the race. The obsession is then not the result of a negative condition but of a positive collaboration and proceeds under law and for a specific period….As more and more of the race develop continuity of consciousness between the physical and the emotional and later the mental, this act of transference of the vehicles will be more frequent and more understood. |
Điều cần nhớ là trong trường hợp có ám ảnh sai lạc thì con người chịu sự chi phối của thực thể ám ảnh và cộng tác trong diễn tiến này, dù vô tình hay miễn cưỡng. Trong sự nhập thể thiêng liêng hành giả tự nguyện hợp tác hữu thức với Đấng muốn linh cảm, nhập thể hay sử dụng các hạ thể của y. Động lực nội tâm của y bao giờ cũng là muốn giúp đỡ nhân loại nhiều hơn trước. Sự giáng nhập như thế không phải là kết quả của một tình trạng tiêu cực mà là sự cộng tác tích cực, tiến hành đúng định luật, trong một thời khoảng cụ thể…Khi nhân loại ngày càng phát triển sự liên tục tâm thức giữa cõi trần và cõi cảm dục và sau đó là cõi trí, thì việc chuyển nhượng các thể sẽ xảy ra thường xuyên hơn và được hiểu biết nhiều hơn. |
|
OCTOBER 9, 1919. |
Ngày 9-10-1919. |
|
Causes of Obsession. |
Những Nguyên nhân của Ám ảnh. |
|
One of the activities ahead of the occult student is the study and the scientific observation of this matter. We have been told in various occult books that obsession and insanity are very closely allied. Insanity may exist in all three bodies, the least harmful being that of the physical body, whilst the most enduring and the hardest to cure is that of the mental body. Insanity in the mental body is the heavy fate that descends upon those who for many incarnations have followed the path of selfish cruelty, using the intelligence as a means to serve selfish ends and using it willfully, knowing it to be wrong. But insanity of this type is a means whereby the Ego sometimes arrests the progress of a man towards the left-hand path. In this sense it is a disguised blessing. Let us deal first with the causes of obsession, leaving the subject of insanity [124] for another day. These causes are four in number and each responds to a different treatment:— |
Một trong những việc làm trước mắt của người đạo sinh là nghiên cứu và xem xét vấn đề này một cách khoa học. Trong nhiều cuốn sách huyền môn, chúng ta được biết rằng sự ám ảnh và sự điên cuồng có liên quan mật thiết với nhau. Sự điên cuồng có thể có trong cả ba hạ thể, chứng điên cuồng trong thể xác ít tai hại nhất, còn điên cuồng trong thể trí thì kéo dài nhất và khó chữa trị nhất. Điên cuồng trong thể trí là số phận nặng nề giáng xuống những ai đã nhiều kiếp sống trong độc ác ích kỷ, cố ý dùng trí thông minh của y để phục vụ những mục tiêu ích kỷ, dù vẫn biết đó là quấy. Nhưng loại điên cuồng này là một phương tiện mà đôi khi Chân nhân dùng để chặn đứng một người đang tiến về tà đạo. Theo ý nghĩa này thì nó có ẩn một ân huệ. Giờ đây chúng ta hãy bàn trước về những nguyên nhân của sự ám ảnh, còn vấn đề điên [124] cuồng thì hãy để ngày khác. Có bốn nguyên nhân ám ảnh và mỗi nguyên nhân đều có cách chữa trị khác nhau: – |
|
One cause is a definite weakness of the etheric double, in the separating web, which like a piece of relaxed elastic permits entry of an extraneous entity from the emotional plane. The door of entrance which is formed by this web is not closed tight, and entrance can be effected from without. This is a physical plane cause, and is the result of the maladjustment of physical plane matter. It is the result of karma, and is prenatal, existing from the earliest moment. Usually the sufferer is physically weak, intellectually feeble, but possessed of a powerful emotional body which suffers and fights and struggles to prevent entrance. The attacks are intermittent, and more frequently attack women than men. |
Một nguyên nhân là sự suy yếu rõ rệt của thể dĩ thái ở tấm lưới ngăn cách, giống như một chỗ nới dãn và đàn hồi khiến cho một thực thể ngoại lai trên cõi cảm dục có thể xâm nhập được. Cửa vào hình thành bởi lưới này không được đóng chặt, nên ảnh hưởng bên ngoài có thể xâm nhập. Đây là nguyên nhân thuộc thể xác và là kết quả của sự điều chỉnh sai các chất liệu trong thể xác. Đó là do nghiệp quả có trước khi sinh và biểu hiện ngay khi đứa bé chào đời. Thường thì người bệnh có thể xác yếu đuối, trí tuệ suy kém, nhưng lại có thể cảm dục rất mạnh, bị ám ảnh, cố phấn đấu, chiến đấu mãi để ngăn chặn sự xâm nhập. Sự ám ảnh thỉnh thoảng xảy ra và thường tấn công nữ giới hơn là nam giới. |
|
Another cause is due to emotional reasons. A lack of co-ordination exists between the emotional and the physical and when the man functions in the emotional body (as at night) the moment of re-entry is attended with difficulty, and opportunity exists for other beings to enter the physical vehicle, and prevent its occupation by the real Ego. This is the most common form of obsession, and affects those with powerful physical bodies and strong astral vibrations, but with weak mental bodies. It leads, in the ensuing struggle, to the violent scenes of screaming lunatics and to the paroxysms of the epileptic. Men are more subject to this than women, as women are usually more definitely polarised in the emotional body. |
Một nguyên nhân khác nữa là do thể tình cảm, sự thiếu điều hợp giữa thể tình cảm và thể xác. Thế nên ban đêm lúc ngủ khi hành giả hoạt động trong thể tình cảm, y khó trở về với xác thân. Các sinh linh khác thừa dịp này nhập vào thân xác y, và Chân nhân không thể vào trú ngụ. Đây là hình thức ám ảnh thông thường nhất, ảnh hưởng đến những người có thể xác khỏe, các rung động tình cảm mạnh mẽ nhưng thể trí yếu kém. Trong sự chống chỏi của nạn nhân, tình trạng ám ảnh này đưa đến sự la hét trong điên loạn và những cơn động kinh. Nam giới dễ bị ám ảnh lối này hơn nữ giới, vì nữ giới thì được phân cực rõ rệt hơn trong thể cảm dục. |
|
A rarer kind of obsession is the mental. In coming days as the mental body develops, one may expect perhaps to see more of it. Mental obsession involves the displacement taking place on the mental levels—hence its rarity. The physical body and the emotional body remain as a unit, but the Thinker is left in his mental body, [125] whilst the obsessing entity (clothed in mental matter) enters the two lower vehicles. In the case of emotional obsession the Thinker is left with his emotional body and his mental body but with no physical. In this latter case he is left with neither emotional nor physical. The cause lies in the fact of the over-development of the mental, and of the relative weakness of the emotional and physical bodies. The Thinker is too powerful for his other bodies and disdains their use; he is too interested in work on mental levels, and thus gives opportunity to obsessing entities to assume control. This, as I said before, is rare and is the result of lop-sided development. It attacks women and men equally; it principally shows itself in childhood and is difficult to cure. |
Ám ảnh trong thể trí là loại ít khi xảy ra. Trong thời gian tới, khi thể trí ngày càng được phát triển, có lẽ trường hợp này sẽ có nhiều hơn. Ám ảnh thể trí tức là sự xâm chiếm trên cõi trí – vì vậy ít khi xảy ra. Thể xác và thể tình cảm vẫn còn hợp thành một đơn vị, nhưng Người suy tưởng (Linh hồn) [125] bị bỏ lại trong thể trí, trong khi thực thể ám ảnh (dùng lớp áo bằng vật chất cõi trí) nhập vào hai thể kia. Trong trường hợp ám ảnh thể tình cảm thì linh hồn bị bỏ lại trong thể tình cảm và thể trí mà không có thể xác. Còn trong trường hợp sau (ám ảnh thể trí) thì linh hồn không ở trong thể tình cảm cũng như thể xác. Nguyên do là thể trí phát triển quá độ, còn thể tình cảm và thể xác thì tương đối yếu ớt. Đối với hai thể này thì linh hồn quá mạnh nên không thèm sử dụng chúng. Người này chỉ thích làm việc trên cõi trí, vì thế mà tạo cơ hội cho các thực thể ám ảnh khống chế. Như tôi đã nói, điều này ít khi xảy ra và là kết quả của sự phát triển thiên lệch. Nam giới và nữ giới đều có thể bị tấn công. Tình trạng này thường biểu lộ từ bé thơ và rất khó chữa trị. |
|
A still rarer cause of obsession is definitely the work of the dark Brothers. It takes the form of snapping the magnetic link that attaches the Ego to the lower physical body, leaving him in his emotional and mental bodies. This would normally result in the death of the physical body, but in cases such as these the dark Brother, who is to use the physical body, enters it and makes connection with his own cord. These cases are not common. They involve only two classes of people:— |
Một nguyên nhân ám ảnh khác hiếm có hơn nữa và rõ ràng là việc làm của các Anh em hắc đạo. Đó là việc cắt đứt sợi dây từ điện nối liền Chân nhân với thể xác, để người ấy ở trong thể tình cảm và thể trí. Thường điều này làm chết thể xác, trừ trường hợp vị Hắc đạo dùng thể xác ấy, nhập vào nó và nối kết nó với sợi dây từ điện của y. Những trường hợp này không thường thấy và chỉ liên hệ đến hai hạng người: – |
|
Those who are highly evolved and on the Path, but who through some wilful shortcoming fail for some one incarnation and so lay themselves open to the evil force. Sin (as you call it) in the Personality of a disciple leads to a weakness in some one spot, and this is taken advantage of. This type of obsession shows itself in the transformation that is sometimes seen when a great soul suddenly plunges on an apparent downward path, when he changes the whole trend of his existence and besmirches a fair character with mud. It carries with it its own punishment, for on the inner planes the disciple looks [126] on, and in agony of mind sees his lower vehicle dishonouring the fair name of its real owner and causing evil to be said of a loved cause. |
Những người đã tiến hóa cao trên Đường Đạo, nhưng trong một kiếp đã vì một khuyết điểm cố ý nào đó nên thất bại và tự để cho lực lượng hắc ám chi phối. Tội lỗi (như các bạn thường gọi) trong phàm nhân của người đệ tử tạo nên một nhược điểm, và nhược điểm này bị lợi dụng. Loại ám ảnh này biểu lộ trong sự biến đổi mà đôi khi chúng ta thấy một linh hồn cao cả bỗng nhiên lao vào con đường đồi trụy rõ rệt, khi y hoàn toàn chuyển hướng cuộc đời và dùng bùn nhơ bôi bẩn bản tánh đẹp đẽ của mình. Việc làm này tất sẽ mang lại hình phạt, vì ở nội giới người đệ tử theo dõi điều đó, trí y [126] đau khổ khi thấy hạ thể bôi nhọ danh dự vị chủ nhân thực sự của nó và khiến cho một sự nghiệp đáng quý phải mang tiếng xấu. |
|
The little evolved, weakly organised, and so unable to resist. |
Người ít tiến hóa thì có cấu tạo yếu kém nên không thể chống lại được sự ám ảnh này. |
|
The Kinds of Obsessing Entities. |
Các loại thực thể ám ảnh. |
|
These are too numerous to mention in detail but I might enumerate a few. |
Nếu nói chi tiết thì có rất nhiều loại, nhưng tôi chỉ kể ra đây vài loại thôi. |
|
l—Discarnate entities of a low order awaiting incarnation, and who see, in cases one and two, their wanted opportunity. |
1. Những sinh linh hạng thấp đã từ trần, đang chờ đầu thai, có ý muốn và chực chờ cơ hội ám ảnh, ở trường hợp một và hai. |
|
2—Suicides, anxious to undo the deed and to again get into contact with earth. |
2. Những người tự tử, đang băn khoăn muốn chuộc lại hành động sai lầm này và muốn trở lại cõi trần. |
|
3—Earth-bound spirits, good and bad, who from anxiety over loved ones, over their business affairs, or eager to do some wrong or to undo some evil act, rush in and take possession of cases one and two. |
3. Những vong linh quyến luyến cõi trần, dù tốt hay xấu, họ đang khắc khoải âu lo cho những người thân yêu của họ, về công việc làm ăn, hay nóng lòng muốn làm một việc quấy hoặc chuộc lại một hành động độc ác nào đó, họ xâm nhập để chiếm thể xác như trong trường hợp một và hai. |
|
4—Dark Brothers as aforesaid, who avail themselves principally of the third and fourth cases already cited. They require highly developed bodies, having no use for weak or unrefined bodies. In case three the weakness is entirely relative, due to over-accentuation of the mental vehicle. |
4. Các vị Hắc đạo thường lợi dụng các trường hợp ba và bốn như tôi đã nói. Họ cần những thể đã phát triển cao, chứ không dùng những thể yếu ớt hay chưa được tinh luyện. Trong trường hợp ba, sự yếu kém chỉ là tương đối, do quá chú ý đến thể trí. |
|
5—Elementals and subhuman entities of a malicious nature who rush in on the slightest opportunity and where kindred vibration may be felt. |
5. Những loài tinh linh và những sinh linh thấp kém hơn con người, có tính độc ác, chúng rình rập bất cứ cơ hội cỏn con nào và ở nơi nào chúng thấy có sự rung động tương ứng. |
|
6—Some of the lower devas, harmless but mischievous who, from sheer freakishness and fun, enter another body in much the same way that a child loves to dress up. |
6. Vài loại thiên thần bậc thấp, vô hại nhưng ưa phá khuấy, vì tinh nghịch và đùa giỡn mà tìm cách nhập vào một cơ thể khác giống như trẻ con ưa mặc quần áo lạ kiểu để làm trò. |
|
7—Occasional visitors from other planets who enter certain highly evolved bodies for purposes of their own. This is very, very rare…. [127] |
7. Những du khách từ các hành tinh khác, đôi khi đến và nhập vào một số cơ thể tiến hóa cao vì mục đích riêng. Nhưng trường hợp này rất, rất hiếm hoi… |
|
Let me now give you some of the methods that eventually will be the first attempts at cure. |
[127] Giờ đây tôi chỉ cho các bạn một vài phương pháp mà rốt cuộc sẽ là những cố gắng đầu tiên để chữa trị. |
|
In the first type of cases, those due to physical plane weakness, the stress of the cure will be laid first on building up a strong physical body in both its departments, though especially the etheric body. This will be done in future years with the direct aid of the devas of the shadows (the violet devas or devas of the ethers). The strengthening of the etheric web will be aided by means of the violet light, with its corresponding sound, administered in quiet sanitariums. Coincident with this treatment will be the attempt to strengthen the mental body. With the strengthening of the physical body will come longer and longer periods of freedom from attack. Eventually the attacks will cease altogether. |
Trong những trường hợp thuộc loại đầu tiên, đối với người có thể chất yếu kém, thì trước hết sự chữa trị phải chú trọng vào việc kiến tạo thể chất mạnh mẽ, cả thể xác và dĩ thái, nhất là thể dĩ thái. Trong những năm sau này, điều đó sẽ được thực hiện với sự giúp đỡ trực tiếp của các vị thiên thần tạo hình (những thiên thần màu tím hay những thiên thần ở các cấp dĩ thái). Việc tăng cường lưới dĩ thái sẽ được trợ giúp bằng cách dùng ánh sáng tím, với âm thanh tương ứng của nó, áp dụng trong những dưỡng đường yên tĩnh. Cùng với việc chữa trị này là cố gắng tăng cường thể trí. Khi thể xác được tăng cường, những cuộc tấn công sẽ thưa dần để cuối cùng dứt hẳn. |
|
When the cause is lack of co-ordination between the physical and the emotional vehicles the first methods of cure will be definite exorcism by the aid of mantrams and ceremonial (such as religious ritual). Qualified persons will use these mantrams at night when the obsessing entity may be supposed to be absent during the hours of sleep. Those mantrams will call the real owner back, will build a protective wall after his re-entry and will seek to force the obsessing one to stay absent. When the real owner has returned, the work then will be to keep him there. Educative work during the day and protective measures at night for longer or shorter periods will gradually eliminate the evil occupant, or unwanted tenant, and in the course of time the sufferer will continue to procure immunity. More anent this can later be given. |
Khi nguyên nhân là thiếu sự điều hợp giữa thể xác và thể tình cảm thì những phương pháp chữa trị đầu tiên sẽ là cách trừ tà nhờ những câu chú và nghi lễ (như nghi lễ tôn giáo). Những người có đủ khả năng sẽ dùng các câu chú này vào ban đêm, khi người ta cho rằng thực thể ám ảnh vắng mặt lúc bệnh nhân ngủ. Các câu chú này sẽ kêu gọi vị chủ nhân thực sự (của các thể) trở lại, sẽ tạo một bức tường bảo vệ sau khi chủ nhân nhập xác, và bắt buộc kẻ ám ảnh phải ở ngoài. Khi chủ nhân thực sự đã trở về, thì việc sau đó là giữ y lại trong thể xác. Việc giảng huấn ban ngày và biện pháp bảo vệ ban đêm cho bệnh nhân, thực hiện trong thời gian lâu hoặc mau, sẽ từ từ loại ra kẻ chiếm đoạt hay mượn xác bất hảo, và thời gian qua nạn nhân sẽ tiếp tục được thêm an toàn. Vấn đề này về sau tôi sẽ nói thêm. |
|
Where mental obsession is involved the matter is more difficult. Most of the first cures achieved in the future will centre around the first two groups. Mental obsession must await greater knowledge, though experimentation [128] from the very first should be undertaken. The work will have to be done mostly from the mental plane by those who can function there freely and so contact the Thinker in his mental body. The co-operation of the Thinker must then be procured and a definite attack conjointly made on the obsessed physical and emotional bodies. During the night much of the work in the first two cases of cures will be done, but in the latter case the Thinker has to win back his physical and his emotional bodies as well, hence the exceeding difficulty. Death often eventuates in these cases. |
Trong trường hợp ám ảnh thể trí thì vấn đề càng khó hơn. Hầu hết những cuộc chữa trị thành công trong tương lai đều tập trung vào hai nhóm bệnh nhân đầu tiên. Chứng ám ảnh thể trí phải đợi có sự hiểu biết rộng rãi hơn, dù cần phải [128] thí nghiệm ngay từ đầu. Hầu hết công việc sẽ phải làm đều từ cõi trí, bởi những người có thể hoạt động ở đó một cách tự do, để tiếp xúc với linh hồn trong thể trí của y. Phải có sự hợp tác của linh hồn bệnh nhân để phối hợp mở cuộc tấn công vào thể tình cảm và thể xác đã bị ám ảnh. Ban đêm, phương pháp chữa trị của hai trường hợp đầu sẽ được đem dùng phần lớn, nhưng trong trường hợp sau, linh hồn phải chiếm lại cả hai thể xác và tình cảm, vì thế nên hết sức khó khăn. Thường thì kết quả là cái chết. |
|
In the severing of the magnetic cord naught can be done as yet. |
Trong trường hợp cắt đứt sợi dây từ điện thì hiện nay chưa có cách nào trị được. |
|
Dangers from the deva evolution. |
Những nguy hiểm từ trường tiến hóa thiên thần. |
|
This second point is more complex. You will remember how it has been said earlier in these letters that contact with the devas can be brought about through specific forms and mantrams and that in this contact lies peril for the unwary. This danger is curiously real now, owing to the following reasons: |
Điểm thứ nhì này còn phức tạp hơn. Các bạn nhớ chăng trước đây tôi đã nói rằng có thể tạo sự tiếp xúc với các thiên thần bằng những câu chú và những phương thức đặc biệt, và sự tiếp xúc này có thể gây nguy hiểm cho kẻ bất cẩn. Hiện nay, điều này thật nguy hiểm lạ thường, vì các lý do sau đây: |
|
a—The coming in of the violet ray, the seventh or Ceremonial Ray, has rendered this contact more easy of attainment than heretofore. It is therefore the ray on which approximation is possible, and in the use of ceremonial and of set forms, coupled to regulated rhythmic movement, will be found a meeting place for the two allied evolutions. In the use of ritual this will be apparent, and psychics are already bearing witness to the fact that both in the ritual of the Church and in that of Masonry this has been evidenced. More and more will this be the case, and it carries with it certain risks that will inevitably work themselves into common knowledge and thus affect in various ways the unwary sons of men. [129] As you know, a definite effort is being made at this time by the Planetary Hierarchy to communicate to the devas their part in the scheme of things, and the part the human family must likewise play. The work is slow, and certain results are inevitable. It is not my purpose to take up with you in these letters the part that ritual and set mantric forms play in the evolution of devas and of men. I only desire to point out that danger for human beings lies in the unwise use of forms for the calling of the devas, in experimenting with the Sacred Word with the object in view of contacting the Builders who are so largely affected by it, and in endeavouring to pry into the secrets of ritual with its adjuncts of colour and of sound. Later on, when the pupil has passed the portal of initiation, such knowledge will be his, coupled with the necessary information that teaches him to work with the law. In the following of the law, no danger lurks. |
a. Sự nhập cuộc của cung màu tím, tức là Cung Nghi thức hay Cung bảy đã làm cho sự tiếp xúc này được thực hiện dễ dàng hơn từ trước đến nay. Vì thế, đây là cung giúp hai trường tiến hóa liên kết (nhân loại và thiên thần) có thể tiến đến gần và gặp gỡ nhau, bằng cách sử dụng nghi lễ và những phương thức ấn định sẵn, kết hợp với chuyển động chuẩn mực nhịp nhàng. Vấn đề này sẽ rõ rệt khi sử dụng các nghi thức, và những người đồng tử đều xác nhận sự thực là điều này đã được chứng minh trong cả nghi lễ của giáo hội Thiên Chúa và Hội Tam điểm. Sự tiếp xúc này ngày càng nhiều, và có nguy cơ không tránh khỏi bị nhiều người biết, và vì thế mà ảnh hưởng đến những kẻ bất cẩn theo nhiều lối khác nhau. Như [129] các bạn biết, hiện nay Đ.Đ.C.G. của Địa cầu đang có nỗ lực rõ rệt nhằm truyền đạt cho giới thiên thần phần hành của họ trong Thiên cơ, và phần việc mà Nhân loại cũng phải thực hiện. Nỗ lực đó đang được từ từ tiến hành và tất sẽ mang lại một số kết quả nhất định. Trong những bức thư này, tôi không có ý bàn với các bạn về vai trò của nghi lễ và các câu chú đặt sẵn, trong cuộc tiến hóa của thiên thần và nhân loại. Tôi chỉ nêu ra mối nguy cho con người khi họ khờ dại sử dụng những phương thức kêu gọi các thiên thần, khi họ thử dùng Thánh ngữ với mục đích tiếp xúc với các vị thần kiến tạo (vốn chịu ảnh hưởng của Thánh ngữ rất lớn), và khi họ cố tọc mạch muốn biết những bí mật của nghi lễ và các chi tiết phụ thuộc về màu sắc và âm thanh. Về sau, khi người môn sinh đã bước qua cửa điểm đạo, y sẽ biết được điều đó cùng những kiến thức cần thiết để làm việc đúng định luật. Khi theo đúng luật thì không có ẩn chứa mối nguy nào cả. |
|
b—The race is possessed of a strong determination to penetrate within the veil, and to find out what lies on the other side of the unknown. Men and women everywhere are conscious within themselves of budding powers which meditation enhances. They find that by the careful following of certain rules they become more sensitive to the sights and sounds of the inner planes. They catch fleeting glimpses of the unknown; occasionally and at rare intervals, the organ of inner vision temporarily opens and they hear and see on the astral or the mental plane. They see devas at a meeting in which ritual has been employed; they catch a sound or a voice that tells them truths that they recognise as true. The temptation to force the issue, to prolong meditation, to try out certain methods that promise intensification of psychic faculty is too strong. They unwarily force matters and dire disaster results. One hint here I give:—In meditation [130] it is literally possible to play with fire. The devas of the mental levels manipulate the latent fires of the system and thus incidentally the latent fires of the inner man. It is woefully possible to be the plaything of their endeavour and to perish at their hands. A truth I speak here; I give not voice to the interesting chimeras of a fanciful brain. Beware of playing with fire. |
b. Nhân loại đang có quyết tâm cao độ muốn xuyên thấu bức màn bí mật, và muốn tìm ra những gì chưa biết trong cõi vô hình. Ở bất cứ đâu người ta cũng ý thức được những quyền năng đang khai mở trong tâm họ mà tham thiền làm tăng cường. Họ nhận thấy rằng nếu thận trọng theo đúng một số qui luật, họ sẽ trở nên nhạy cảm hơn đối với những hình ảnh và âm thanh của các cảnh giới nội tại. Họ thoáng thấy những điều chưa được biết. Thỉnh thoảng, trong những giây phút hiếm hoi, nhãn quan bên trong tạm thời khai mở, họ nghe thấy được trên cõi tình cảm hay cõi trí. Họ thấy được những thiên thần trong cuộc gặp gỡ có dùng nghi thức. Họ nghe được âm thanh hay tiếng nói cho họ biết những sự thực mà họ nhìn nhận là đúng. Con người đang bị cám dỗ quá mạnh muốn phải có sự tiếp xúc, muốn kéo dài giờ tham thiền, muốn thử một vài phương pháp hứa hẹn tăng cường khả năng thần thông của họ. Họ cưỡng bách làm những điều đó một cách bất cẩn và rước lấy thảm họa. Tôi xin đưa ra đây một vài lời ngụ [130] ý: – Có thể nói theo nghĩa đen rằng tham thiền tức là đùa với lửa. Các thiên thần ở cõi trí vận dụng những luồng lửa tiềm ẩn của thái dương hệ, nên đương nhiên họ vận dụng được các loại lửa ẩn tàng của con người ở nội tâm. Thật là đáng tiếc nếu chúng ta để cho mình trở thành món đồ chơi của họ và bị hủy diệt trong tay họ. Điều tôi nói đây là sự thực, chứ không phải là lời lẽ của một bộ óc ưa tưởng tượng chuyện kỳ lạ, hão huyền. Hãy cẩn thận khi đùa với lửa. |
|
c—This transition period is largely responsible for much of the danger. The right type of body for the holding and the handling of the occult force has not yet been built, and in the interim the bodies now in use but spell disaster to the ambitious student. When a man starts out to follow the path of occult meditation, it takes well-nigh fourteen years to rebuild the subtle bodies, and incidentally the physical. All through that period it is not safe to tamper with the unknown for only the very strong refined physical body, the controlled stable and equalised emotional body and the properly striated mental body can enter into the subtler planes and literally work with Fohat, for that is what the occult does. Therefore is the emphasis laid by all wise Teachers everywhere on the Path of Purification, which must precede the Path of Illumination. They lay the emphasis on the building in of spiritual faculty before psychic faculty can be safely permitted; they demand service to the race every day throughout the scope of life before a man may be permitted to manipulate the forces of nature, to dominate the elementals, to co-operate with the devas, and to learn the forms and ceremonies, the mantrams and the key-words, that will bring those forces within the circle of manifestation. |
c. Giai đoạn chuyển tiếp này có rất nhiều điều nguy hiểm kể trên. Hiện nay chưa kiến tạo được loại cơ thể thích hợp để gìn giữ và vận dụng mãnh lực huyền bí, nên việc sử dụng những thể hiện có trong công việc nói trên chỉ mang lại tai ương cho người môn sinh nhiều tham vọng. Khi một người bắt đầu theo đuổi con đường hành thiền huyền môn, y phải cần khoảng mười bốn năm để tái tạo các thể thanh cũng như thể xác của y. Trong suốt thời gian đó, y không nên chạm đến những điều chưa biết để giữ an toàn. Vì chỉ những người nào có thể xác mạnh mẽ đã được tinh luyện, có thể cảm dục quân bình, ổn định, đã chủ trị, và thể trí có vân thích hợp, mới được vào những cảnh giới cao siêu và thực sự làm việc với Fohat, vì đó là việc làm của đệ tử huyền môn. Thế nên, ở khắp nơi tất cả các Huấn sư minh triết đều nhấn mạnh rằng Con đường Tinh luyện phải đi trước Con đường Khai ngộ. Các Ngài nhấn mạnh rằng phải kiến tạo khả năng tinh thần trước khi được phép mở quan năng thần thông an toàn. Các Ngài đòi hỏi môn sinh phải phụng sự nhân loại hằng ngày, trong suốt cuộc đời, trước khi y được phép vận dụng những sức mạnh của thiên nhiên, được phép chế ngự các tinh linh, hợp tác với các thiên thần và được học các phương thức và nghi lễ, những câu thần chú và các khẩu quyết để làm phát lộ các mãnh lực ấy. |
|
AUGUST 4, 1920. |
Ngày 4-8-1920. |
|
Danger from the Dark Brothers. |
Nguy hiểm do các Huynh đệ Hắc đạo. |
|
I think I gave you earlier practically all that I can as [131] yet impart anent the Brothers of Darkness, as they are sometimes termed. I only want at this point to lay emphasis upon the fact that no danger need be feared by the average student from this source. It is only as discipleship is approached and a man stands out ahead of his fellows as an instrument of the White Brotherhood that he attracts the attention of those who seek to withstand. When through application to meditation, and power and activity in service, a man has developed his vehicles to a point of real achievement, then his vibrations set in motion matters of a specific kind, and he learns to work with that matter, to manipulate the fluids, and to control the builders. In so doing he encroaches on the domain of those who work with the forces of involution and thus he may bring attack upon himself. This attack may be directed against any of his three vehicles and may be of different kinds. Let me briefly point out some of the methods employed against a disciple which are the ones which alone concern the student of these letters: |
Tôi nghĩ rằng trước đây thực sự tôi đã nói tất cả những [131] gì có thể truyền đạt được cho các bạn về các Huynh đệ Hắc đạo, như người ta thường gọi. Ở đây tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng người môn sinh trung bình không phải lo sợ gì về mối nguy này. Chỉ khi nào một người sắp bước vào hàng đệ tử huyền môn và là một khí cụ của Huyền môn Chánh đạo, quá xuất sắc so với các bạn đồng môn, y mới hấp dẫn sự chú ý của những người đối nghịch. Khi áp dụng tham thiền, quyền năng và hoạt động của mình để phụng sự, hành giả đã phát triển các thể của mình đến mức thành tựu thực sự. Bấy giờ những rung động của y làm vận chuyển một loại vật chất đặc biệt, y học cách làm việc bằng loại vật chất đó, cách vận dụng những dòng điện lưu và điều khiển các vị thần kiến tạo. Làm thế tức là y bước vào phạm vi của những người làm việc với các mãnh lực giáng hạ tiến hóa, và vì thế y có thể khiến cho mình bị tấn công. Sự tấn công này có thể hướng đến một hạ thể của y, hoặc cũng có thể theo lối khác. Tôi xin nói vắn tắt vài phương pháp dùng tấn công một người đệ tử, chỉ là những lối có liên hệ đến các môn sinh của những bức thư này: |
|
a—Definite attack on the physical body. All kinds of means are employed to hinder the usefulness of the disciple through disease or the crippling of his physical body. Not all accidents are the result of karma, for the disciple has usually surmounted a good deal of that type of karma and is thus comparatively free from that source of hindrance in active work. |
a. Tấn công ngay vào thể xác. Mọi phương tiện đều được sử dụng để gây bệnh tật, thương tật cho xác thân người đệ tử, khiến y kém hữu dụng. Không phải tất cả các tai nạn đều do nghiệp quả, vì người đệ tử thường đã vượt qua phần lớn nghiệp quả loại này, thế nên y tương đối tự do, ít bị trở ngại trong hoạt động xác thân. |
|
b—Glamour is another method used, or the casting over the disciple of a cloud of emotional or mental matter which suffices to hide the real, and to temporarily obscure that which is true. The study of the cases wherein glamour has been employed is exceedingly revealing and demonstrates how hard it is for even an advanced disciple always to discriminate between the real and the false, the true and the untrue. Glamour may be either on the [132] emotional or mental levels but is usually on the former. One form employed is to cast over the disciple the shadows of the thought of weakness or discouragement or criticism to which he may at intervals give way. Thus cast, they loom in undue proportion and the unwary disciple, not realising that he is but seeing the gigantic outlines of his own momentary and passing thoughts, gives way to discouragement, aye even to despair, and becomes of little use to the Great Ones. Another form is to throw into his mental aura suggestions and ideas purporting to come from his own Master but which are but subtle suggestions that hinder and help not. It takes a wise disciple always to discriminate between the voice of his real Teacher and the false whispers of the masquerading one, and even high initiates have been temporarily misled. |
b. Một cách khác là dùng ảo cảm, tức là phủ lên người đệ tử một đám mây bằng vật chất cõi tình cảm hay cõi trí, đủ để che giấu sự thực và tạm thời làm cho điều chân thực bị mờ ám. Khi nghiên cứu những trường hợp dùng ảo giác tấn công, người ta thấy rất rõ rằng ngay đến người đệ tử tiến hóa cao cũng khó có thể phân biện được giữa cái thực, cái hư, giữa điều chân và lẽ giả. Ảo cảm có thể ở cõi tình cảm hoặc cõi trí nhưng [132] thường ở cõi tình cảm hơn. Một hình thức được sử dụng là phủ lên người đệ tử những bóng mờ của các tư tưởng yếu đuối, chán nản hay chỉ trích, khiến đôi khi y phải lùi bước. Khi ảo cảm đó được tạo ra, nó xuất hiện với vẻ đe dọa quá lố khiến người đệ tử bất cẩn, vì không ngờ rằng điều y đang thấy chẳng qua là sự phóng đại của các tư tưởng thoáng qua nơi y, nên đành chiều theo sự chán nản, thường đến mức tuyệt vọng và trở nên kém hữu ích cho các Đấng Cao cả. Một hình thức khác là ném vào hào quang thể trí y những ý tưởng và những đề nghị dường như đến từ Chân sư y, nhưng đó chỉ là những gợi ý tinh vi nhằm ngăn cản và không giúp ích gì cả. Người đệ tử khôn ngoan phải luôn luôn phân biện tiếng nói của Đức Thầy thật của y và tiếng thì thầm dối trá của kẻ giả mạo, và ngay đến những điểm đạo đồ cao cấp cũng vẫn tạm thời bị lầm lạc. |
|
Many and subtle are the means used to deceive and thereby curtail the effective output of the worker in the field of the world. Wisely therefore have all aspirants been enjoined to study and work at the development of viveka or that discrimination which safeguards from deception. If this quality is laboriously built in and cultivated in all events, big and little, in the daily life, the risks of being led astray will be nullified. |
Có nhiều phương tiện tinh vi được dùng để lừa gạt nhằm làm giảm hiệu năng của người phụng sự ở thế gian. Vì thế mà tất cả những người chí nguyện đều được dạy bảo một cách khôn ngoan rằng phải học hỏi và làm việc để phát triển viveka tức là trí phân biện, để được an toàn, tránh khỏi bị gạt gẫm. Nếu đức tính này được chuyên cần kiến tạo và vun trồng trong mọi việc dù lớn hay nhỏ trong cuộc sống hằng ngày thì có thể tránh được những nguy cơ lầm lạc. |
|
c—A third method frequently employed is to envelop the disciple in a thick cloud of darkness, to surround him with an impenetrable night and fog through which he stumbles and often falls. It may take the form of a black cloud of emotional matter, of some dark emotion that seems to imperil all stable vibration and plunges the bewildered student into a blackness of despair; he feels that all is departing from him; he is a prey to varied and dismal emotions; he deems himself forsaken of all; he considers that all past effort has been futile and that naught remains but to die. At such times he needs much the gift [133] of viveka, and to earnestly weigh up and calmly reason out the matter. He should at these times remind himself that the darkness hides naught from the God within, and that the stable centre of consciousness remains there, untouched by aught that may betide. He should persevere until the end,—the end of what? The end of the enveloping cloud, the point where it merges itself into sunlight; he should pass through its length and out into the daylight, realising that nothing can at any time reach to and hurt the inner consciousness. God is within, no matter what transpires without. We are so apt to look out at environing circumstances, whether physical, astral or mental, and to forget that the inmost centre of the heart hides our points of contact with the Universal Logos. |
c. Phương pháp thứ ba thường được sử dụng là bao bọc chung quanh người đệ tử một đám mây đen dày đặc, dùng bức màn đêm và lớp sương mù không thể xuyên thấu được bao vây y, khiến y phải quờ quạng và thường hay vấp ngã. Đó có thể là một đám mây đen của vật chất cõi cảm dục, của một loại tình cảm đen tối nào đó dường như có thể lung lạc mọi rung động ổn cố và ném người môn sinh bối rối vào bóng đen của tuyệt vọng. Y cảm thấy tất cả đang rời xa y. Y làm mồi cho những tình cảm buồn thảm và hay thay đổi. Y nghĩ rằng đã bị mọi người từ bỏ. Y xem các nỗ lực đã qua là hoài công vô ích và y chẳng còn gì cả, trừ cái chết. Trong những lúc [133] như vậy, y cần rất nhiều phân biện, nghiêm túc cân nhắc sự việc và điềm tĩnh suy ra lẽ phải. Trong những lúc như vậy, y nên tự nhắc nhở rằng bóng tối không che giấu Đấng Thượng Đế nội tâm được điều gì. Trung tâm ý thức vững vàng vẫn còn đó, không hề bị ảnh hưởng dù điều gì xảy ra. Y phải bền lòng cho đến lúc cuối, – lúc cuối của điều gì? Đó là lúc chấm dứt đám mây bao phủ, lúc nó tự tan ra trong ánh mặt trời. Y phải đi qua hết bề dài của đám mây ấy và bước ra ánh sáng ban ngày, với nhận thức rằng bất cứ lúc nào cũng không có gì chạm đến và làm tổn thương tâm thức bên trong. Thượng Đế vẫn ngự trong tâm ta, dù bên ngoài có việc gì xảy ra. Chúng ta quá thường nhìn ra hoàn cảnh bên ngoài, dù là cõi trần hoặc cõi tình cảm hoặc cõi trí, mà quên rằng ở nơi sâu thẳm của tâm hồn chúng ta vốn có điểm tiếp xúc với Đấng Thượng Đế của càn khôn vũ trụ. |
|
d—Finally (for I cannot touch on all the methods used), the means employed may be to cast a mental darkness over the disciple. The darkness may be intellectual, and is consequently still more difficult to penetrate, for in this case the power of the Ego must be called in, whereas in the former frequently the calm reasoning of the lower mind may suffice to dispel the trouble. Here, in this specific case, the disciple will be wise if he not only attempts to call his Ego or Higher Self for the dispelling of the cloud, but calls likewise upon his Teacher, or even upon his Master, for the assistance that they can give. |
d. Sau cùng (vì tôi không thể nêu tất cả những phương pháp dùng để tấn công), phương tiện được dùng có thể là phủ lên thể trí người đệ tử một lớp màn đen tối. Sự tối tăm có thể thuộc tri thức, và tất nhiên là khó xuyên qua hơn, vì trong trường hợp này, phải kêu gọi đến quyền năng của Chân ngã, trong khi ở trường hợp trên, thường chỉ lặng lẽ dùng hạ trí suy xét cũng đủ giải quyết được vấn đề khó khăn. Trong trường hợp đặc biệt này, người đệ tử khôn ngoan sẽ không chỉ cố gắng kêu gọi Chân nhân hay Chân ngã của mình để đánh tan đám mây đen mà cũng kêu gọi đến vị Huấn sư hay ngay cả vị Chân sư của y để được Ngài trợ giúp. |
|
These are but a few of the dangers encircling the aspirant, and I hint at them solely for the purpose of warning and guidance, and not to cause alarm. You can here interpolate the earlier letter with the rules that I there give for the assistance of the disciple. |
Đây chỉ là một số nguy hiểm vây quanh người chí nguyện, và tôi bàn sơ qua chỉ để khuyến cáo và hướng dẫn, chứ không để làm cho các bạn lo sợ. Ở đây, các bạn có thể thêm vào đây những qui luật mà tôi đã nói trong bức thư trước để giúp đỡ người đệ tử. |
|
SEPTEMBER 25, 1919. |
Ngày 25-09-1920. |
|
The Dark Brotherhood. |
Các Huynh đệ Hắc đạo. |
|
Today I seek to speak to you on the powers of the Dark Brotherhood. Certain laws that govern their actions, [134] certain methods employed by them in work need to be realised and certain methods of protection apprehended and utilised. As before I have told you the danger is as yet inappreciable to the majority, but more and more as time elapses shall we find it necessary to teach you, the physical plane workers, how to shield and guard yourselves from attack. |
Hôm nay tôi muốn nói với các bạn về quyền năng của các Huynh đệ Hắc đạo. Chúng ta cần phải biết một số qui luật chi [134] phối các hành động của họ, một số phương pháp họ dùng, và cần phải hiểu và sử dụng một số phương pháp phòng bị. Như trước tôi đã nói với các bạn rằng đa số nhân loại vẫn chưa đánh giá được sự hiểm nguy. Thế nhưng thời gian qua chúng tôi thấy cần phải chỉ dạy cho các bạn, là những cộng sự viên của chúng tôi ở cõi trần, cách nào để tự bảo vệ, đề phòng và tránh sự tấn công. |
|
The Dark Brothers are—remember this always—brothers, erring and misguided yet still sons of the one Father though straying far, very far, into the land of distances. The way back for them will be long, but the mercy of evolution inevitably forces them back along the path of return in cycles far ahead. Anyone who over-exalts the concrete mind and permits it continuously to shut out the higher, is in danger of straying on the left-hand path. Many so stray…but come back, and then in the future avoid like errors in the same way as a child once burnt avoids the fire. It is the man who persists in spite of warning and of pain who eventually becomes a brother of darkness. Mightily fights the Ego at first to prevent the Personality so developing, but the deficiencies of the causal body (for forget not that our vices are but our virtues misused) result in a lop-sided causal body, over-developed in some direction and full of great gulfs and gaps where virtues should be. |
Hãy luôn luôn nhớ rằng các Huynh đệ Hắc đạo là anh em của chúng ta, đang lầm lỗi và lầm lạc, nhưng vốn là con của một Đấng Cha chung, dù họ đang lạc bước nơi xa, đến tận chân trời góc biển. Con đường họ trở lại sẽ rất dài, nhưng tất nhiên bánh xe tiến hóa sẽ buộc họ quay lại trong những chu kỳ rất lâu sau này. Người nào quá tán tụng thể trí cụ thể (hạ trí) và để cho nó tiếp tục đóng kín đối với thượng trí, là đang có nguy cơ lạc vào tà đạo. Nhiều người đi lệch như thế . . . nhưng quay lại được, rồi trong tương lai tránh được những lỗi lầm tương tự, như một đứa trẻ tránh lửa vì đã có lần bị bỏng. Nếu người ấy vẫn ngoan cố, dù đã được khuyến cáo và chịu nhiều đau khổ, thì cuối cùng sẽ trở thành một vị bàng môn. Lúc đầu, Chân nhân chiến đấu rất mạnh mẽ để ngăn không cho phàm nhân phát triển như thế. Nhưng những thiếu sót của thể nguyên nhân (đừng quên rằng những tật xấu chỉ là những đức tốt bị dùng sai cách) khiến thể nguyên nhân trở nên méo mó, quá phát triển theo một chiều hướng nào đó, đầy những chỗ khuyết và khoảng trống, mà đáng lẽ nơi đó là những đức tánh tốt. |
|
The dark brother recognises no unity with his species, only seeing in them people to be exploited for the furtherance of his own ends. This then, on a small scale, is the mark of those who are being used by them wittingly or unwittingly. They respect no person, they regard all men as fair prey, they use everyone to get their own way enforced, and by fair means or foul they seek to break down all opposition and for the personal self acquire that which they desire. [135] |
Người bàng môn không công nhận sự hợp nhất với đồng loại, y chỉ thấy đó là những người cần khai thác để thực hiện các mục đích của y. Dấu hiệu này cũng có ở mức ít hơn nơi những người bị y sử dụng, hoặc hữu ý hay vô tình. Họ không kính trọng ai cả, xem mọi người như là miếng mồi ngon. Họ bắt buộc mọi người phải làm theo đường lối của họ, và dùng những phương tiện đúng đắn hay bẩn thỉu để triệt hạ mọi chống đối và để cá nhân họ đạt được những gì họ muốn. |
|
The dark brother considers not what suffering he may cause; he cares not what agony of mind he brings upon an opponent; he persists in his intention and desists not from the hurt of any man, woman or child, provided that in the process his own ends are furthered. Expect absolutely no mercy from those opposing the Brotherhood of Light. |
[135] Vị hắc đạo không để ý đến nỗi đau khổ mà y có thể gây ra. Y không bận tâm đến sự đau đớn tinh thần mà y mang lại cho kẻ chống đối y. Y cứ thực hiện ý định và không ngừng gây tổn thương cho bất cứ ai, đàn ông, phụ nữ hay trẻ em, miễn là việc làm đó khiến y thêm đến gần mục đích. Tuyệt đối không bao giờ nên trông mong lòng nhân từ của những kẻ chống lại Quang minh Chánh đạo. |
|
On the physical plane and on the emotional plane, the dark brother has more power than the Brother of the Light,—not more power per se but more apparent power, because the White Brothers choose not to exert Their power on those two planes, as do the Dark Brothers. They could exert Their authority but They choose to refrain, working with the powers of evolution and not of involution. The elemental forces to be found on these two planes are manipulated by two factors. |
Ở cõi trần và cõi tình cảm, các vị bàng môn có nhiều quyền lực hơn các Huynh đệ Ánh sáng, – không hơn về quyền năng thực sự, mà chỉ hơn về quyền năng bề ngoài, vì các Huynh đệ Chánh đạo không tìm cách thi thố quyền năng của mình trên hai cảnh giới đó, như phe Hắc đạo làm. Họ có thể vận dụng thẩm quyền của mình nhưng lại tự hạn chế, chỉ làm việc với các quyền năng thăng thượng tiến hóa, chứ không với các quyền năng tiến hóa giáng hạ. Những lực lượng tinh linh ở hai cảnh giới này được vận dụng bởi hai yếu tố. |
|
a—The inherent forces of evolution that direct all on to eventual perfection. The White Adepts co-operate in this. |
a. Những mãnh lực cố hữu của cơ tiến hóa đang hướng dẫn tất cả đi tới hướng về sự hoàn thiện cuối cùng. Các Chân sư Chánh đạo đang hợp tác trong công cuộc này. |
|
b—The Dark Brothers who occasionally employ these elemental forces to wreak their will and vengeance on all opponents. Under their control work sometimes the elementals of the earth plane, the gnomes and the elemental essence as found in evil form, some of the brownies, and the fairy folk of colours brown, grey and sombre-hued. They cannot control the devas of high development, nor the fairies of colours blue, green and yellow, though a few of the red fairies can be made to work under their direction. The water elementals (though not the sprites or sylphs) move on occasion to their assistance, and in the control of these forces of involution they at times damage the furtherance of our work. [136] |
b. Các vị Hắc đạo đôi khi sử dụng các lực lượng tinh linh này để thỏa mãn ý muốn của họ và trả thù những người chống lại họ. Dưới sự điều khiển của họ, đôi khi có những tinh linh của cõi trần phục vụ như những thần giữ của và các loài tinh hoa hình dạng xấu xa, vài loại thần lùn và các tiên nữ màu nâu, màu xám và màu tối. Họ không thể kiểm soát được các thiên thần tiến hóa cao, cũng như các tiên nữ màu xanh, màu xanh lục và vàng, dù một số tiên nữ màu đỏ có thể bị buộc phải làm việc theo chỉ thị của họ. Những tinh linh dưới nước (không phải là thủy thần hay thủy tiên) có khi cũng đến trợ giúp họ. Khi kiểm soát được các lực lượng tiến hóa giáng hạ này họ cũng đôi lần gây tổn thất cho công việc của chúng ta. [136] |
|
Oft too the Dark Brother masquerades as an agent of the light, oft he poses as a messenger of the gods, but for your assurance I would say that he who acts under the guidance of the Ego will have clear vision, and will escape deception. |
Thường thì vị Hắc đạo giả làm một nhân viên Chánh đạo, họ thường đóng vai một sứ giả của thần thánh. Nhưng tôi đoan chắc với các bạn rằng, người nào hành động dưới sự hướng dẫn của Chân nhân mình sẽ có tầm mắt sáng tỏ và tránh được sự lừa gạt. |
|
At this time their power is ofttimes mighty. Why? Because so much exists as yet in the Personalities of all men that respond to their vibration, and so it is easy for them to affect the bodies of men. So few of the races, comparatively speaking, have as yet built in the higher vibration that responds to the key-note of the Brotherhood of Light, who move practically entirely on the two highest levels (or the atomic and sub-atomic subplane) of the mental, emotional and physical planes. When moving on these subplanes the attacks of elementals on lower planes may be felt but effect no harm, hence the necessity of pure living and controlled pure emotions and elevated thought. |
Vào thời gian này, thế lực của họ thường là mạnh mẽ. Tại sao? Bởi vì vẫn còn quá nhiều điểm trong phàm ngã của mọi người đáp ứng với sự rung động của Hắc đạo, vì thế họ dễ dàng ảnh hưởng đến các thể của con người. Tương đối là trong nhân loại vẫn quá ít người đã tạo được những rung động cao có thể đáp ứng với chủ âm của các Huynh đệ Ánh sáng, đang hoạt động thực sự trên cả hai cõi phụ cao nhất (hay là cõi phụ nguyên tử và á nguyên tử) của cõi trí, cõi tình cảm của cõi trần. Khi hoạt động trên hai cõi phụ đó, người đệ tử có thể cảm thấy sự tấn công của các tinh linh ở cõi thấp hơn mà không bị tổn hại gì. Thế nên người đệ tử cần có một cuộc sống trong sạch, những tình cảm thanh khiết có kiểm soát và tư tưởng thanh cao. |
|
You will notice that I said that the power of the Dark Brotherhood is dominant apparently on the physical and emotional planes. Not so is it on the mental, which is the plane on which the Brothers of the Light work. Mighty dark magicians may be located on the lower mental levels, but on the higher, the White Lodge dominates, the three higher subplanes being the levels that They beg the evolving sons of men to seek; it is Their region, to which all must strive and aspire. The Dark Brother impresses his will on human beings (if analogous vibration exists) and on the elemental kingdoms of involution. The Brothers of Light plead as pleaded the Man of Sorrows for an erring humanity to rise upward to the light. The Dark Brother retards progress and shapes all to his own ends; the Brother of Light bends every effort to the hastening [137] of evolution and—foregoing all that might be His as the price of achievement—stays amid the fogs, the strife, the evil and the hatred of the period if, in so doing, He may by all means aid some, and (lifting them up out of the darkness of earth) set their feet upon the Mount, and enable them to surmount the Cross. |
Các bạn sẽ lưu ý lời tôi nói rằng quyền lực Hắc đạo có vẻ đang chế ngự ở cõi trần và cõi tình cảm. Nhưng ở cõi trí thì không mạnh như vậy, vì đó là cõi mà các Huynh đệ Chánh đạo đang hoạt động. Những nhà hắc thuật cao cường có thể hoạt động ở cõi hạ trí, chứ ở cõi thượng trí thì Chánh đạo ngự trị. Ba cấp cao này của cõi trí là nơi Họ cầu mong những người tiến hóa trong nhân loại tìm đến. Đó là lĩnh vực của Chánh đạo mà ai ai cũng đều ngưỡng vọng và cố gắng tiến vào. Các vị Hắc đạo áp đặt ý muốn của họ vào con người (nếu có đồng rung động) và các giới tinh linh giáng hạ tiến hóa. Các Huynh đệ Chánh đạo cầu mong – như Đức Jesus đã cầu mong – cho nhân loại đang lạc lầm có thể vươn lên bước vào ánh sáng. Vị Hắc đạo làm trì hoãn sự tiến bộ và tìm mọi cách để đạt được cứu cánh của họ. Trong khi vị Chánh [137] đạo dồn mọi nỗ lực để đẩy nhanh cuộc tiến hóa, từ bỏ mọi tư hữu để hoàn thành công việc. Ở trong sương mù, trong xung đột, trong xấu xa độc ác và thù ghét của thời đại, nếu nhờ làm thế mà vị này có thể bằng cách nào đó giúp đỡ được một số người (ra khỏi bóng tối của trần gian) để họ đặt chân lên Đỉnh núi và có thể vượt qua Thập tự giá. |
|
And now what methods may be employed to safeguard the worker in the field of the world? What can be done to ensure his safety in the present strife and in the greater strife of the coming centuries? |
Giờ đây những phương pháp nào có thể được sử dụng để bảo toàn người phụng sự nhân loại? Làm thế nào để bảo đảm an toàn cho họ trong cuộc xung đột hiện tại và trong cuộc xung đột còn lớn lao hơn của các thế kỷ sắp đến? |
|
1—A realisation that purity of all the vehicles is the prime essential. If a Dark Brother gains control over any man it but shows that that man has in his life some weak spot. The door whereby entrance is effected must be opened by the man himself; the opening whereby malignant force can be poured in must be caused by the occupant of the vehicles. Therefore the need of scrupulous cleanliness of the physical body, of clean steady emotions permitted in the emotional body, and of purity of thought in the mental body. When this is so, co-ordination will be present in the lower vehicles and the indwelling Thinker himself permits no entrance. |
1. Hãy nhận thức rằng sự thanh khiết của tất cả các thể là điều kiện tiên quyết. Nếu một vị Hắc đạo chế ngự được một người nào thì điều ấy chứng tỏ rằng cuộc sống y có một vài nhược điểm. Cánh cửa xâm nhập phải do người đó tự mở ra, và kẽ hở mà sức mạnh độc hại có thể tràn vào phải do chủ nhân các thể tự tạo. Vì thế cần phải thận trọng gìn giữ xác thân hết sức sạch sẽ, chỉ có những tình cảm thanh khiết, vững vàng trong thể tình cảm, và tư tưởng trong thể trí phải thật thanh cao. Khi làm được như vậy, sẽ có sự điều hợp trong các hạ thể và Người suy tưởng (Chân ngã) ở nội tâm sẽ ngăn được mọi sự xâm nhập. |
|
2—The elimination of all fear. The forces of evolution vibrate more rapidly than those of involution and in this fact lies a recognisable security. Fear causes weakness; weakness causes a disintegration; the weak spot breaks and a gap appears, and through that gap evil force may enter. The factor of entrance is the fear of the man himself, who opens thus the door. |
2. Hãy chấm dứt mọi nỗi sợ hãi. Những mãnh lực thăng thượng tiến hóa rung động mau lẹ hơn các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, đây có thể hiểu là yếu tố an toàn. Sự sợ hãi làm suy yếu; suy yếu làm tan rã; một điểm yếu vỡ ra tạo nên khoảng trống, qua đó mãnh lực ác hại có thể xâm nhập. Yếu tố xâm nhập là sự sợ hãi của chính đương sự, y tự mở ra cánh cửa theo cách đó. |
|
3—A standing firm and unmoved, no matter what occurs. Your feet may be bathed in the mud of earth, but your head may be bathed in the sunshine of the higher regions. Recognition of the filth of earth involves not contamination. [138] |
3. Hãy điềm tĩnh, vững vàng dù điều gì xảy ra cũng vậy. Chân bạn có thể chìm trong bùn lầy của mặt đất, nhưng đầu bạn có thể tắm trong ánh nắng mặt trời ở trên cao. Hãy nhận biết bùn lầy của thế gian nhưng đừng để bị nhiễm bẩn. [138] |
|
4—A Recognition of the use of common-sense and the application of this common-sense to the matter in hand. Sleep much and, in sleeping, learn to render the body positive; keep busy on the emotional plane and achieve the inner calm. Do naught to overtire the body physical, and play whenever possible. In hours of relaxation comes the adjustment that obviates later tension. |
4. Hãy biết cách dùng lương tri và áp dụng lương tri vào vấn đề đang có. Hãy ngủ nhiều và trong khi ngủ tìm cách làm cho cơ thể trở nên tích cực. Hãy cố gắng làm công việc trên cõi tình cảm và giữ gìn sự an tịnh nội tâm. Đừng bắt thân xác làm việc quá mệt mỏi, và chơi đùa bất cứ khi nào có dịp. Những giờ ngơi nghỉ, thư thả giúp điều chỉnh, ngăn ngừa những sự căng thẳng về sau. |
|
[139] |
|
LETTER VI – THE USE OF FORM IN MEDITATION
|
AUGUST 6, 1920. |
Ngày 6-8-1920. |
|
[140] Your very natural desire to have me give you in this sixth letter certain specific forms to achieve certain results cannot be fully acquiesced in. I do not propose to outline for you any forms for careful following. The risks, as before I have pointed out, are too great apart from the supervision of a teacher at hand to watch reactions. These forms may later be given. The work is duly planned out for the coming generation of students, this series of letters having its place within that outline. What I intend to do today is something different. I purpose to do four things which we will separately take up and elucidate. These things, if duly assimilated and acted upon, will lead to further enlightenment. In the occult method of teaching step by step is given, point by point slowly laid before the pupil, and only as each step is taken and each point is grasped, will the next in order become clear. The teacher gives an indication, drops a hint, and touches some high light. The pupil follows the point emphasised, and finds on thus acting that further light pours in, another stage appears and other hints are dropped. In joint action and reaction therefore the occult student is trained by the occultist. |
Ước muốn rất tự nhiên của các bạn là mong được tôi truyền cho một số hình thức tham thiền đặc biệt để đạt những kết quả nhất định, nhưng ước muốn này không thể hoàn toàn chấp nhận được. Tôi không có ý định phác họa cho các bạn bất cứ hình thức tham thiền nào để các bạn chăm chỉ hành theo. Như tôi đã nói trước đây, những nguy cơ thật to lớn nếu không có sự giám sát của một vị huấn sư trực tiếp để trông chừng các phản ứng ở môn sinh. Sau này, các bạn sẽ được truyền cho các phương thức đó. Kế hoạch được thảo ra đúng lúc cho thế hệ môn sinh sắp đến, và loạt thư này cũng nhằm phác họa công việc vừa kể. Hôm nay, tôi định làm theo cách khác. Có bốn điểm mà tôi định là chúng ta sẽ đề cập và soi sáng riêng từng điểm. Nếu thấu hiểu đúng đắn và thực hiện được bốn điểm này, các bạn sẽ được khai ngộ nhiều hơn. Trong phương pháp giáo huấn huyền môn, từng bước, từng điểm được từ từ đưa ra cho người môn đệ, và chỉ khi nào y đạt được một bước hay nắm vững được một điểm thì y mới hiểu rõ được phần kế tiếp. Vị huấn sư cho một lời hướng dẫn hay một lời ngụ ý và đề cập đến một khía cạnh nổi bật nào đó. Người môn đệ thực hành theo điểm đã được nhấn mạnh và thấy rằng khi làm thế thì có thêm ánh sáng chiếu rọi vào, một giai đoạn mới hiện ra, và vị huấn sư sẽ nói thêm những ẩn ý khác. Vì thế, huyền bí gia huấn luyện người đạo sinh trong sự phối hợp hành động và phản ứng. |
|
In studying the topic, “The use of form in meditation,” the four divisions under which I seek to place the intended data are as follows:— |
Khi nghiên cứu đề tài “Sử dụng hình thức trong tham thiền,” các sự kiện cần bàn được xếp trong bốn phần sau đây: – |
|
1—The use of Form in raising the consciousness. |
1. Sử dụng Hình thức tham thiền để nâng cao tâm thức. |
|
2.—The use of Form by the mystic and the occultist. [141] |
2. Sử dụng Hình thức của thần bí gia và huyền bí gia. [141] |
|
3—The use of specific forms for specific ends. |
3. Sử dụng Hình thức đặc biệt cho các mục tiêu cụ thể. |
|
4—The use of Form collectively. |
4. Sử dụng Hình thức tham thiền tập thể. |
|
In the exposition of these subjects you will see that what I am endeavouring to produce is a just apprehension of the value of forms in meditation and not the imparting of any definite method. I seek to show the essential nature of proceeding under law in this the most important means of bringing about union with the divine, and of producing that at-one-ment between the higher and the lower that is the aim of all evolution. I desire to leave in the minds of those who read these words a just apprehension of the relationship between spirit and matter which is the basis of all work of this nature. |
Các bạn sẽ thấy rằng tôi cố gắng trình bày các vấn đề này để cho các bạn hiểu được đúng giá trị của các hình thức tham thiền, chứ không phải truyền thụ một phương pháp thiền đặc biệt nào. Tôi muốn bày tỏ tính cách thiết yếu của việc tiến hành theo đúng định luật là phương tiện quan trọng nhất để hợp nhất với nguồn sống thiêng liêng, và để tạo sự nhất quán giữa cái cao và cái thấp. Đó là mục tiêu của toàn cuộc tiến hóa. Tôi muốn lưu lại trong trí độc giả sự hiểu biết đúng đắn về mối liên quan giữa tinh thần và vật chất, là căn bản của mọi công việc thuộc loại này. |
|
The method employed by the Logos in this the second solar system is definitely the use of form for purposes of manifestation, as a medium of expression and as the vehicle whereby the indwelling life may grow, expand, experience and find itself. This is the case whether the form is an entire solar system, whether it is a human being in his complexity, or whether it is a form built by that human being in his endeavour to realise and know,—a form built for the very purpose of providing a vehicle whereby the consciousness may, by set stages, raise itself step by step to some visualised point. This brings us to our first point: |
Phương pháp mà Đức Thượng Đế dùng trong thái dương hệ thứ nhì này chính là sử dụng hình thể cho những mục đích biểu hiện, làm trung gian để phát biểu và làm phương tiện để giúp sự sống nội tại có thể tăng trưởng, phát triển, kinh nghiệm và thấy được tự tánh. Điều này đúng cho mọi hình tướng, dù đó là hình thể của toàn thái dương hệ hay là hình thể phức tạp của một con người, hoặc đó là một hình thể do y tạo ra khi cố gắng nhận thức và hiểu biết một điều gì, – một hình thể được tạo ra để làm phương tiện giúp tâm thức có thể tự nâng cao từng bước theo những giai đoạn đã định nhằm đạt đến một trình độ dự kiến nào đó. Đây là điểm chúng ta khảo sát đầu tiên: |
|
1. Sử dụng hình thức tham thiền để nâng cao tâm thức. |
|
|
We have under this heading to consider three things: |
Trong mục này chúng ta phải xét ba điều: |
|
a—The Consciousness itself. |
a. Tâm thức. |
|
b—The goal towards which it seeks to rise. |
b. Mục tiêu mà tâm thức cố gắng đạt đến. |
|
c—The steps whereby it succeeds. |
c. Các bước để thành đạt. |
|
Each unit of the human race is a part of the divine consciousness, and is that which is conscious of, or is [142] aware of something without itself,—something which knows itself to be differentiated from the vehicle which encloses it or the forms which environ it. |
Mỗi người trong nhân loại đều là thành phần của tâm thức thiêng liêng, là cái tự ý thức hay trực thức về những gì [142] ở ngoài nó, – tự biết mình khác với vận cụ bao bọc mình, hay khác với những hình thể ở chung quanh mình. |
|
At this particular stage in evolution the average man is simply conscious of differentiation, or of being separated off from all other members of the human family, thus forming in himself a unit among other units. He acknowledges this and acknowledges the right of all other separated units so to consider themselves. He adds to this a recognition that somewhere in the universe there exists a supreme Consciousness, Whom he theoretically calls God, or Nature. Between this purely selfish point of view (I use the term “selfish” in the scientific sense and not as a belittling adjective) and the nebulous theory of God immanent there are to be found numerous stages, at each of which occurs an expansion of consciousness, or an enlargement of the point of view, that leads that self-recognising unit, step by step, from self-recognition to the recognition of superior selves, to the fitting of himself to be likewise recognised as a superior self, and eventually to the occult recognition of his own superior Self. He comes to recognise his Higher Self or Ego as his true Self, and from that stage passes on into that of the group consciousness. Here he realises first his egoic group and then other egoic groups. |
Trong giai đoạn tiến hóa đặc biệt này, người bình thường chỉ ý thức được sự dị biệt, chỉ thấy y phân cách với tất cả những người khác trong gia đình nhân loại, do thế y thấy mình là một đơn vị tâm thức trong số những đơn vị tâm thức khác. Y thừa nhận điều này và thừa nhận những cá nhân khác cũng có quyền tự nghĩ về họ như vậy. Y còn thừa nhận thêm một điểm nữa là ở đâu đó trong vũ trụ này có một Tâm Thức tối cao, Đấng mà y gọi theo lý thuyết là Thượng Đế hay Thiên nhiên. Giữa quan điểm thuần vị kỷ này (tôi dùng từ “vị kỷ” theo nghĩa khoa học chứ không hạ thấp ý nghĩa của nó) và luận thuyết lờ mờ nói về Thượng Đế hằng hữu nội tại, có nhiều giai đoạn khác nhau. Trong mỗi giai đoạn có một sự mở mang tâm thức, hay là nới rộng quan điểm, nó đưa cá nhân tự thức ấy đi từng bước. Từ chỗ nhận ra chính mình đến mức nhận biết những cái ta cao siêu, rồi tự làm cho mình xứng đáng để cũng được thừa nhận là một cái ta cao siêu, và cuối cùng có nhận thức huyền bí về cái Ta cao siêu nơi chính y. Y nhận ra rằng Thượng ngã hay Chân nhân chính thật là Chân ngã của y, và từ đó y bước vào giai đoạn tâm thức tập thể. Trong giai đoạn này lần đầu tiên y nhận biết được nhóm Chân nhân của y rồi đến các nhóm Chân nhân khác. |
|
This stage is succeeded by the recognition of the universal principle of Brotherhood; it involves not just a theoretical recognition, but a merging of the consciousness into that of the human consciousness, in its entirety; this is really that development of consciousness which enables a man to realise not only his egoic group affiliations but his place in the human Hierarchy on its own plane. He knows himself in fact as a part of one of the great Heavenly Men. This expands later into an almost [143] inconceivably vast point of view—that of his place in the Grand Heavenly Man, as represented by the Logos Himself. |
Tiếp theo giai đoạn này là sự thừa nhận nguyên lý đại đồng của Tình Huynh đệ. Đó không chỉ là thừa nhận trên lý thuyết suông mà là sự hòa hợp tâm thức vào tâm thức của toàn thể nhân loại. Đây mới thực là mức phát triển tâm thức giúp hành giả nhận biết được không chỉ các mối liên kết trong nhóm Chân ngã của y mà còn biết được vị trí của y trong Trường tiến hóa nhân loại, trên cảnh giới của chính nhân loại. Y thực sự biết rằng mình là một thành phần của một trong các vị Thiên nhân vĩ đại. Về sau, nhận thức này [143] còn nới rộng đến một quan điểm bao la hầu như không quan niệm nổi – về vị trí của y trong Đấng Đại Thiên nhân mà chính Đức Thái Dương Thượng Đế là đại diện. |
|
This is as far as we need go for our purpose, for this series of letters, aims not at the development of cosmic consciousness. |
Chúng ta chỉ cần bàn đến mức đó vì mục đích của chúng ta trong loạt thư này không nhắm đến sự phát triển tâm thức vũ trụ. |
|
It will therefore be apparent to you that all these stages have to be taken systematically and that each one has to be mastered step by step. It is necessary first to grasp that the place where the expansion takes place, and the realisation has to be felt, has to be finally in the thinking, waking consciousness. The Ego on its own plane may be well aware of the unity of its consciousness with all other consciousnesses, and be realising his group as one with himself, but until the man (in physical plane consciousness) has raised himself to that same plane and is likewise aware of his group consciousness, and likewise regards himself as the higher Self within the egoic group and not as a separated unit, it is of no more use than a recognised theory is of use when not carried out in experience. |
Vì thế các bạn thấy rõ rằng tất cả những giai đoạn này phải được thực hiện một cách có hệ thống và mỗi giai đoạn phải được thấu đáo từng bước. Trước hết, cần phải hiểu rằng sự triển khai và nhận thức cuối cùng phải xảy ra trong tâm thức đang suy tư và bừng tỉnh. Chân nhân ở trên cõi của chính mình có thể biết sự hợp nhất tâm thức của Nó với mọi tâm thức khác, và ý thức rằng Nó với nhóm của Nó là một. Thế nhưng đến khi nào phàm nhân (trong tâm thức hồng trần) đã tự nâng tâm thức của mình lên đến cảnh giới của Chân nhân, cũng biết được tâm thức của nhóm y, cũng tự xem mình là Chân ngã trong nhóm Chân ngã chứ không phải là một đơn vị riêng rẽ, thì bấy giờ sự nhận thức ấy mới khỏi bị vô dụng như mớ lý thuyết được thừa nhận nhưng không được đem ra thực nghiệm. |
|
The man has to experience these stages in his physical consciousness and to know experimentally and not just theoretically that whereof I speak before he is deemed ready to pass on into the succeeding stages. The whole matter resolves itself into the expansion of the mind until it dominates the lower, and into the faculty of abstract conception which results eventually in physical plane manifestation. It means making your highest theories and ideals demonstrable facts and it is that blending of the higher and the lower and the equipping of that lower until it provides a fitting expression for the higher. It is here that the practice of meditation plays its part. The true scientific meditation provides [144] graded forms whereby the consciousness is raised and the mind expanded until it embraces: |
Người môn sinh phải trải qua những giai đoạn này trong tâm thức hồng trần của y và phải hiểu biết bằng cách thực nghiệm – chứ không chỉ qua lý thuyết – những gì tôi nói, trước khi y được xem như đã sẵn sàng bước lên giai đoạn kế tiếp. Trọn cả vấn đề đều qui vào việc mở mang thượng trí cho đến mức nó chế ngự được hạ trí, và phát triển khả năng nhận thức trừu tượng để rốt cuộc có thể biểu hiện ở cõi trần. Điều này có nghĩa là làm sao cho những lý tưởng và những lý thuyết cao siêu nhất của bạn trở thành những sự kiện có thể chứng minh được. Đó chính là sự hòa hợp giữa Chân ngã và phàm ngã, và làm cho phàm ngã được hoàn bị đến mức thích hợp để biểu lộ Chân ngã. Đây chính là vai trò của việc hành thiền. Tham thiền có tính khoa học đích thực cung ứng những [144] phương thức tuần tự để nâng cao tâm thức và giúp thượng trí tăng trưởng cho đến mức nó bao trùm cả: |
|
l—Its family and friends. |
1. Gia đình và bạn bè. |
|
2—Its environing associates. |
2. Các cộng sự viên ở chung quanh. |
|
3—Its affiliated groups. |
3. Những nhóm liên hệ. |
|
4—Its egoic group. |
4. Nhóm Chân nhân của môn sinh. |
|
5—Other egoic groups. |
5. Các nhóm Chân nhân khác. |
|
6—That Man of the Heavens of which the egoic groups form a centre. |
6. Đấng Thiên nhân mà các nhóm Chân nhân hợp thành một luân xa của Ngài. |
|
7—The Grand Heavenly Man. |
7. Đấng Đại Thiên nhân. |
|
To effect this certain forms will be laid down later, that (working along the line of a man’s ray) will teach him in graded steps to do this. You will note that I have dealt with the consciousness itself and the goal it aspires to and have thus dealt with our first two points. This brings me to our last subsidiary heading, the steps whereby attainment eventuates. |
Để đạt được điều này, về sau sẽ đề ra một số phương thức thiền (hành theo đường lối của cung môn sinh), dạy y biết cách nâng cao tâm thức từng bước. Các bạn lưu ý là tôi đã bàn đến chính tâm thức và mục tiêu mà tâm thức thiết tha hướng đến, tức là tôi đã bàn đến hai điểm đầu của mục này. Giờ đây ta bàn đến điểm cuối là những bước đưa đến thành đạt. |
|
Each man who enters upon occult development and who aspires toward the higher, has passed the stage of the average man,—the man who regards himself from the purely isolated standpoint and who works for what is good for himself. The aspirant is aiming at something different; he seeks to merge himself with his higher Self and with all that is entailed when we use that term. The stages beyond that, in all their intricacies, are the secrets of Initiation and with them we have naught to do. |
Ai muốn bước vào con đường phát triển huyền môn và có ước vọng hướng thượng, đều đã trải qua giai đoạn của một người thường, – là người thấy mình hoàn toàn đứng riêng biệt và chỉ làm điều gì có lợi cho mình thôi. Người chí nguyện thì nhằm mục đích khác. Y tìm cách hòa hợp với Chân ngã y và với tất cả những gì liên quan đến từ ngữ này. Những giai đoạn cao hơn rất khó hiểu và đều là những bí mật của Điểm đạo, nên chúng ta khỏi phải bàn. |
|
Aspiration towards the Ego and the bringing in of that higher consciousness with the subsequent development of group consciousness very directly concern all who will read these letters. It is the next step ahead for those upon the Probationary Path. It is not achieved by simply giving thirty minutes a day to certain set forms of meditation. It involves an hour by hour attempt, [145] all day long and every day, to keep the consciousness as near to the high pitch attained in the morning meditation as possible. It presumes a determination to consider oneself at all times as the Ego, and not as a differential Personality. Later, as the Ego comes more and more into control, it will involve also the ability to look upon oneself as part of a group, with no interests and desires, no aims or wishes apart from the good of that group. It necessitates a constant watchfulness every hour of the day to prevent the falling back into the lower vibration. It entails a constant battle with the lower self that drags down; it is a ceaseless fight to preserve the higher vibration. And—which is the point I am aiming to impress upon you—the aim should be the development of the habit of meditation all the day long, and the living in the higher consciousness till that consciousness is so stable that the lower mind, desire and the physical elementals, become so atrophied and starved through lack of nourishment that the threefold lower nature becomes simply the means whereby the Ego contacts the world for purposes of helping the race. |
Ước nguyện đạt đến Chân ngã, mang lại tâm thức cao siêu, và việc kế tiếp là phát triển tâm thức tập thể, chính là những điều trực tiếp liên hệ đến các độc giả của những bức thư này. Đó là bước kế tiếp, dành cho những ai đang đi trên Đường Dự bị. Nó không thể thành tựu bằng cách chỉ hành thiền mỗi ngày ba chục phút, theo những thể thức định sẵn. Đây là cố gắng hết giờ này sang giờ khác, suốt ngày và tất cả [145] mọi ngày, để giữ tâm thức càng cao gần mức đạt được trong tham thiền buổi sáng càng hay. Đây là quyết tâm lúc nào cũng xem mình là Chân nhân, chứ không phải là một Phàm nhân riêng biệt. Về sau, khi Chân nhân ngày càng nắm quyền chế ngự, hành giả sẽ có khả năng xem mình là thành phần của một nhóm. Y không còn những ước muốn hay quyền lợi riêng tư nào, những mục tiêu hay mong ước nào khác hơn là điều tốt đẹp cho cả nhóm. Y cần phải luôn luôn cảnh giác từng giờ, từng phút, trọn ngày, để khỏi rơi trở lại những rung động thấp kém. Đó là sự chiến đấu liên tục với phàm ngã đang lôi kéo xuống, là sự tranh đấu không ngừng để gìn giữ những rung động thanh cao. Và – đây là điểm tôi muốn các bạn ghi nhớ – nên nhắm phát triển thói quen tham thiền suốt ngày và quen sống trong tâm thức Chân ngã. Hãy cố gắng cho đến khi tâm thức thanh cao ấy vững mạnh đến mức làm cho các loài tinh hoa của hạ trí, của dục vọng và của xác thân trở nên tiêu mòn và suy kém vì không được chú ý đến. Bấy giờ phàm tính tam phân chỉ còn là phương tiện để Chân nhân tiếp xúc với cõi trần nhằm mục đích trợ giúp nhân loại. |
|
In so doing he is accomplishing something that is little realised by the average student. He is building a form, a definite thoughtform that eventually provides a vehicle whereby he steps out of the lower consciousness into the higher, a kind of mayavirupa that acts as his intermediate channel. These forms are usually, though not invariably, of two kinds:— |
Khi làm thế, hành giả hoàn thành được những điều mà người môn sinh trung bình không hiểu được bao nhiêu. Y đang tạo một hình thể, một hình tư tưởng rõ rệt, cuối cùng thành một phương tiện để y vượt khỏi phàm tâm và nhập vào tâm thức Chân ngã, một loại hình thể tạm để làm trung gian dẫn truyền (cho y đến với Chân ngã). Những hình thức này thường không đổi và có hai loại: – |
|
The student builds a form daily, with care and love and attention, of his Master, to him the embodiment of the ideal higher consciousness. He lays the outline of this form in meditation and builds in the fabric in his daily life and thought. The form is provided with all the virtues, scintillates with all the colours, and is vivified, [146] first of all, by the love of the man for his Master, and later (when adequate for the purpose) it is vitalised by the Master Himself. At a certain stage in development this form provides the ground for the occult experience of entering into the higher consciousness. The man recognises himself as a part of the Master’s consciousness and through that all embracing consciousness slips into the egoic group soul consciously. This form provides the medium for that experience until such a time as it can be dispensed with, and the man can at will transfer himself into his group, and later consciously dwell there permanently. This method is the one most largely used, and is the path of love and devotion. |
Hằng ngày người môn sinh tạo ra một hình thể của Chân sư y, một cách cẩn trọng, yêu thương và chăm chú, mà đối với y đó là hiện thân của tâm thức cao siêu lý tưởng. Trong tham thiền, y phác họa hình thể này và tô điểm cho rõ nét trong cuộc sống và tư tưởng hằng ngày. Hình thể này thấm nhuần mọi đức tốt, lấp lánh đủ màu sắc và nhất là được làm sống [146] động bằng tình thương của người môn sinh đối với Chân sư. Về sau (khi đã đạt yêu cầu) hình thể này sẽ được chính Chân sư làm cho thêm sống động. Ở một giai đoạn phát triển nhất định, hình thể này được dùng làm cơ sở cho kinh nghiệm huyền môn là nhập vào tâm thức Chân ngã. Người môn sinh tự nhận thức được rằng y là một thành phần của tâm thức Chân sư và qua tâm thức bao trùm tất cả của Ngài y lướt vào linh hồn của nhóm Chân ngã một cách hữu thức. Hình thể này làm trung gian cho kinh nghiệm ấy, cho đến lúc không còn cần đến nữa. Bấy giờ hành giả có thể nhập vào nhóm Chân ngã của y tùy ý muốn, và về sau có thể thường xuyên hữu thức an trụ trong đó. Đây là phương pháp được dùng rất nhiều, là con đường bác ái và sùng tín. |
|
In the second method the student pictures himself as the ideal man. He visualises himself as the exponent of all the virtues, and he attempts in his daily life to make himself what he visualises himself to be. This method is employed by the more mental types, the intellectuals, and those whose ray is not so coloured by love, by devotion or by harmony. It is not so common as the first. The mental thoughtform thus built up serves as the mayavirupa as did the other and the man passes from these forms into the higher consciousness. As you therefore see, in building these forms certain steps will have to be taken and each type will build the form somewhat differently. |
Trong phương pháp thứ hai, người môn sinh tự hình dung mình là một con người lý tưởng. Y hình dung mình có đủ các tính tốt, và trong cuộc sống hàng ngày y cố gắng sống đúng với hình ảnh lý tưởng ấy. Phương pháp này được dùng nhiều hơn cho những người trí thức, những người có trí năng và những người mà cung y không nhuộm nhiều màu sắc bác ái, sùng tín hay điều hòa. Phương pháp này không phổ thông như trường hợp trên. Hình tư tưởng được tạo trong thể trí này cũng là một hình thể tạm như trong phương pháp trên và hành giả từ đó lướt vào tâm thức Chân ngã. Thế nên, các bạn thấy việc tạo các hình thể này phải theo một số bước, và mỗi mẫu người (tùy theo cung) sẽ tạo một hình thể hơi khác nhau. |
|
The first type will start with some beloved individual, and from that individual, will rise through the various other individuals to the Master. |
Mẫu người thứ nhất bắt đầu tạo hình ảnh của một cá nhân mà y thương mến, và từ đó y nâng tâm thức qua những cá nhân khác để đến Chân sư. |
|
The other type will start with meditation on the virtue most desired, add virtue to virtue in the building of the form of the ideal self until all the virtues have been attempted and the Ego is suddenly contacted. [147] |
Mẫu người thứ hai bắt đầu tham thiền về đức tính mà y muốn có nhất, rồi từng đức tính được thêm vào để kiến tạo nên hình thể của cái ngã lý tưởng, cho đến mức có đủ mọi đức tính và y bỗng nhiên tiếp xúc được với Chân nhân của mình. |
|
Tomorrow we will take up this same subject from a different angle and study the difference between the occultist and the mystic. |
[147] Ngày mai, chúng ta cũng sẽ bàn về đề tài này nhưng theo khía cạnh khác và nghiên cứu sự khác nhau giữa huyền bí gia và thần bí gia. |
|
AUGUST 8, 1920. |
Ngày 8-8-1920. |
|
2. Hình thức tham thiền của huyền bí gia và thần bí gia. |
|
|
The subject of this letter today will interest you for we are to take up form as used by the occultist and the mystic. |
Đề tài hôm nay sẽ có nhiều điều thú vị. |
|
It might be of value to us if we first differentiated with care between the two types. I would begin by a statement of fact. The mystic is not necessarily an occultist, but the occultist embraces the mystic. Mysticism is but one step on the path of occultism. In this solar system—the system of love in activity—the path of least resistance for the majority is that of the mystic, or the path of love and devotion. In the next solar system the path of least resistance will be that which we now understand as the occult path. The mystic path will have been trodden. Wherein lies the difference between these two types? The mystic deals with the evolving life; the occultist deals with the form. |
Chắc hẳn điều có giá trị là trước hết chúng ta nên thận trọng phân biệt giữa hai mẫu người này. Thần bí gia không nhất thiết là một huyền bí gia, nhưng huyền bí gia phải vốn là một nhà thần bí. Khoa thần bí chỉ là một bước trên đường huyền bí học. Trong thái dương hệ này – hệ của tình thương linh hoạt – con đường ít trở ngại nhất cho nhiều người là con đường của thần bí gia, hay là con đường bác ái và sùng tín. Trong thái dương hệ sau, con đường ít trở ngại nhất sẽ là con đường mà hiện giờ chúng ta gọi là con đường của huyền bí gia. Lúc đó, mọi người đều đã đi qua con đường thần bí. Hai mẫu người này khác nhau thế nào? |
|
The mystic deals with the God within; the occultist with God in outer manifestation. |
Thần bí gia quan tâm đến sự sống đang tiến hóa. Huyền bí gia chú ý đến hình thể. |
|
The mystic works from the centre to the periphery; the occultist reverses the process. |
Thần bí gia chú trọng đến Thượng Đế ở nội tâm. Huyền bí gia chú trọng đến Thượng Đế biểu hiện ở bên ngoài. |
|
The mystic mounts by aspiration and intensest devotion to the God within or to the Master Whom he recognises; the occultist attains by the recognition of the law in operation and by the wielding of the law which binds matter and conforms it to the needs of the indwelling life. In this manner the occultist arrives at those Intelligences Who work with the law, till he attains the fundamental Intelligence Himself. [148] |
Thần bí gia đi từ trung tâm ra ngoại biên. Huyền bí gia làm ngược lại. Thần bí gia tiến lên cao bằng chí nguyện và sự nhiệt liệt tôn sùng Đấng Thượng Đế trong tâm hay vị Chân sư y thừa nhận. Huyền bí gia thành đạt bằng cách nhận biết sự vận hành của định luật và vận dụng định luật để chi phối vật chất và cung ứng nó cho các nhu cầu của sự sống ẩn bên trong. Theo cách này, huyền bí gia tiến đến các Đấng Thông tuệ là những Đấng vận dụng định luật, cho đến khi y đạt đến Nguồn Thông tuệ nguyên thủy. |
|
The mystic works through the Rays of Love, Harmony and Devotion, or by the path of the second, the fourth and the sixth rays. The occultist works through the Rays of Power, Activity, and Ceremonial Law, or the first, the third and the seventh. Both meet and blend through the development of mind, or through the fifth Ray of Concrete Knowledge (a fragment of cosmic intelligence), and on this fifth ray the mystic is resolved into the occultist and works then with all the rays. |
[148] Thần bí gia hoạt động qua các Cung Bác ái, Điều hòa và Sùng tín, hay là con đường của Cung hai, Cung bốn và Cung sáu. Huyền bí gia hoạt động qua Cung Quyền lực, Cung Hoạt động và Cung Định luật Nghi thức, hay là Cung một, Cung ba và Cung bảy. Cả hai đều gặp gỡ và hòa hợp nhau bằng sự phát triển trí tuệ, hay là qua Cung năm, Cung Kiến thức Cụ thể (là một phần nhỏ của nguồn thông tuệ vũ trụ). Trên cung thứ năm này nhà thần bí trở thành huyền bí gia và sau đó hoạt động với tất cả các cung. |
|
By finding the kingdom of God within himself and by the study of the laws of his own being, the mystic becomes proficient in the laws which govern the universe of which he is a part. The occultist recognises the kingdom of God in nature or the system and regards himself as a small part of that greater whole, and therefore governed by the same laws. |
Bằng cách tìm ra Thiên giới trong tâm mình và bằng cách nghiên cứu những định luật của chính bản thể mình, thần bí gia trở nên thông thạo các định luật quản trị vũ trụ mà y là một thành phần trong đó. Huyền bí gia nhận biết Thiên giới trong thiên nhiên hay thái dương hệ và tự xem mình là một phần nhỏ của tổng thể to lớn đó, và vì thế cũng chịu sự chi phối của những định luật giống nhau. |
|
The mystic works as a general rule under the department of the World Teacher, or the Christ, and the occultist more frequently under that of the Manu, or Ruler, but when both types have passed through the four minor rays in the department of the Lord of Civilisation, then a completion of their development may be seen, and the mystic becomes the occultist and the occultist includes the characteristics of the mystic. To make it more simple for general comprehension:—after initiation the mystic is merged in the occultist for he has become a student of occult law; he has to work with matter, with its manipulation and uses, and he has to master and control all lower forms of manifestation, and learn the rules whereby the building devas work. Before initiation the mystic path might be expressed by the term, Probationary Path. Before the occultist can manipulate wisely the matter of the solar system he must have mastered the laws that govern the microcosm, and even though he is naturally [149] on the occult path yet he will still have to find the God within his own being before he can safely venture on the path of occult law. |
Nói chung, thần bí gia hoạt động trong ngành của Đức Chưởng giáo hay là Đức Di Lạc (Đấng Christ), còn huyền bí gia thì thường hoạt động trong ngành của Đức Bàn cổ hay Đấng Cai trị. Nhưng khi cả hai đã đi qua bốn cung phụ trong ngành của Đức Văn minh Đại Đế thì sự phát triển của họ đến mức hoàn hảo. Bấy giờ thần bí gia trở thành huyền bí gia và huyền bí gia bao gồm những đặc tính của nhà thần bí. Nói một cách đơn giản để dễ hiểu hơn là: – Sau cuộc điểm đạo thì thần bí gia hoà hợp với huyền bí gia và y trở nên người học hỏi định luật huyền môn. Y phải làm việc với vật chất, vận dụng và sử dụng nó. Y phải chủ trị và kiểm soát được tất cả những hình thể thấp của cuộc biểu hiện và học những qui luật làm việc của các thiên thần kiến tạo. Trước khi điểm đạo, con đường của thần bí gia có thể được gọi là Con đường Dự bị. Trước khi huyền bí gia có thể vận dụng được vật chất của thái dương hệ một cách khôn ngoan, y phải thấu đáo các định luật chi phối tiểu vũ trụ. Dù đương nhiên y ở trên con đường huyền [149] bí nhưng y vẫn phải tìm thấy Thượng Đế trong chính bản thể y, trước khi có thể thám hiểm con đường của định luật huyền môn một cách an toàn. |
|
The mystic seeks to work from the emotional to the intuitional, and thence to the Monad, or Spirit. The occultist works from the physical to the mental, and thence to the atma or Spirit. One works along the line of love; the other along the line of will. The mystic fails in the purpose of his being—that of love demonstrated in activity—unless he co-ordinates the whole through the use of intelligent will. Therefore he has to become the occultist. |
Thần bí gia tìm cách tiến từ thể cảm dục lên thể trực giác (bồ-đề), sau đó đến Chân thần hay Tinh thần. Huyền bí gia làm việc từ thể xác đến thể trí sau đó đến atma hay Tinh thần. Người này đi theo con đường bác ái. Người kia đi theo con đường của ý chí. Thần bí gia không đạt được mục đích của cuộc sống y – tức là tình thương biểu lộ trong hành động – nếu y không biết dùng ý chí thông tuệ để điều hợp toàn thể các hoạt động. Vì thế thần bí gia phải trở thành huyền bí gia. |
|
The occultist similarly fails and becomes only a selfish exponent of power working through intelligence, unless he finds a purpose for that will and knowledge by an animating love which will give to him sufficient motive for all that he attempts. |
Huyền bí gia cũng bị thất bại tương tự và chỉ trở thành đại diện ích kỷ của quyền năng tác động thông qua trí thông minh, nếu y không đặt mục đích cho ý chí và tri thức của mình bằng tình thương linh hoạt, là động cơ đầy đủ cho tất cả các cố gắng của y. |
|
I have attempted to make clear to you the distinction between these two groups, as the importance of the matter is great when studying meditation. The form used by the two types is entirely different and when seen clairvoyantly is very interesting. |
Tôi đã cố gắng giúp các bạn phân biệt được hai nhóm này thật rõ, vì vấn đề này rất quan trọng khi nghiên cứu thiền. Hình thức tham thiền sử dụng cho mỗi nhóm đều hoàn toàn khác nhau, và khi dùng nhãn thông nhìn vào, ta sẽ thấy thật là thú vị. |
|
The mystic form. |
Hình thức tham thiền thần bí. |
|
The expression, “the mystic form,” is almost a paradoxical remark, for the mystic—if left to himself—eliminates the form altogether. He concentrates upon the God within, brooding on that inner centre of consciousness; he seeks to link that centre with other centres—such as his Master, or some saint, or even with the supreme Logos Himself—and to mount by the line of life, paying no attention whatsoever to the environing sheaths. He works along the path of fire. “Our God is a consuming fire” [150] is to him a literal statement of fact, and of realised truth. He rises from fire to fire, and from graded realisations of the indwelling Fire till he touches the fire of the universe. The only form that the mystic may be said to use would be a ladder of fire or a cross of fire, by means of which he elevates his consciousness to the desired point. He concentrates on abstractions, on attributes more than on aspects, and on the life side more than the concrete. He aspires, he burns, he harmonises, he loves and he works through devotion. He meditates by attempting to eliminate the concrete mind altogether, and aspires to leap from the plane of the emotions to that of the intuition. |
Khi nói “hình thức thần bí” thì hầu như là một điều nghịch lý, vì nếu nhà thần bí được để làm theo ý mình thì y loại bỏ mọi hình tướng. Y chỉ tập trung vào Thượng Đế hay Chân tánh ở bên trong, và mãi suy ngẫm về tâm điểm ý thức này. Y tìm cách liên kết tâm điểm này với những tâm điểm khác – như là Chân sư của y, hay một vị thánh, hoặc ngay cả chính Đức Thượng Đế – và tiến lên bằng con đường của sự sống, không màng đến bất cứ lớp vỏ bọc nào bên ngoài. Y đi theo con đường của lửa. Đối với y thì câu “Thượng Đế của chúng ta [150] là ngọn lửa đang thiêu hủy” là lời phát biểu thực tế, có tính chân lý nhận thức được. Y tiến lên từ loại lửa này đến loại lửa khác, từ những nhận thức từng bước về Lửa nội tại cho đến mức chạm đến lửa vũ trụ. Có thể nói là nhà thần bí sử dụng chỉ một hình thức là cái thang bằng lửa hay thập tự bằng lửa, nhờ đó mà y nâng tâm thức lên đến mức mong muốn. Y chú tâm đến những điều trừu tượng, vào các thuộc tính (attributes) hơn là các trạng thái (aspects), về phương diện sự sống hơn là phương diện hình thể. Y ước nguyện, y thiêu hủy, y điều hòa, y yêu thương và làm việc trong sự tôn sùng. Y tham thiền bằng cách cố gắng loại trừ toàn bộ trí cụ thể và mong mỏi được vươn lên từ cõi tình cảm đến cõi trực giác. |
|
He has the faults of his type,—dreamy, visionary, impractical, emotional, and lacking that quality of mind that we call discrimination. He is intuitive, prone to martyrdom and self-sacrifice. Before he can achieve and before he can take initiation he has three things to do:— |
Thần bí gia có những nhược điểm: ưa mơ mộng, dễ sinh ảo tưởng, không thực tế, đa cảm và thiếu đức tính của trí tuệ mà chúng ta gọi là phân biện. Y có trực giác, có khuynh hướng tử vì đạo và tự hy sinh. Trước khi có thể thành công và trước khi được điểm đạo, y phải làm ba việc: – |
|
First, by meditation, to bring his whole nature under rule, and to learn to build the forms, and hence to learn their value. |
Một là qua tham thiền, để chế ngự trọn cả bản tính mình, và phải học cách tạo những hình thể, nhờ đó mà hiểu được giá trị của chúng. |
|
Secondly, to develop appreciation of the concrete, and to learn clearly the place within the scheme of things of the various sheaths through which the life he so much loves has to manifest. He has to work at his mental body and bring it to the store house of facts before he can proceed much further. |
Hai là y phải phát triển khả năng đánh giá đúng đắn sự vật cụ thể, và hiểu rõ vai trò của những lớp vỏ bọc khác nhau trong cơ sáng tạo vạn vật, là các hình thể mà sự sống y hết sức yêu quý phải biểu hiện xuyên qua đó. Y phải dùng thể trí để làm việc và biến nó thành kho tích lũy các sự kiện, trước khi y có thể tiến xa hơn. |
|
Thirdly, to learn through the intelligent study of the microcosm, his little spirit-matter system, the dual value of the macrocosm. |
Ba là y phải học hiểu giá trị nhị nguyên của đại vũ trụ, nhờ nghiên cứu tiểu vũ trụ một cách sáng suốt, tức là nghiên cứu hệ thống tinh thần-vật chất nhỏ bé của chính y. |
|
Instead of only knowing the fire that burns he has to understand and work through the fire that builds, that fuses and develops form. He has, through meditation, to learn the threefold use of Fire. This last sentence is of very real importance and I seek to emphasise it. [151] |
Thay vì chỉ biết ngọn lửa thiêu hủy, y phải hiểu và làm việc bằng ngọn lửa kiến tạo, hàn gắn và phát triển hình thể. Qua tham thiền, y phải học công dụng tam phân của Lửa. Câu sau cùng này thật là quan trọng nên các bạn cần lưu ý. |
|
AUGUST 10, 1920. |
[151] Ngày 10-8-1920. |
|
The occult form. |
Hình thức tham thiền huyền môn. |
|
We studied, two days ago, the method whereby the mystic attains union, and outlined very briefly the path whereby he attempts to reach his goal. Today we will outline as briefly the course taken by the occultist, and his type of meditation, contrasting it with that of the mystic, and pointing out later how the two have to merge and their individual elements be fused into one. |
Hai ngày trước chúng ta đã nghiên cứu phương pháp nhà thần bí tiến đến sự hợp nhất, và phác họa vắn tắt con đường mà y cố gắng để đạt mục tiêu. Hôm nay chúng ta cũng phác họa vắn tắt con đường của huyền bí gia, phương pháp thiền của y, so sánh với phương pháp thiền thần bí. Sau đó chúng ta nêu ra cách nào mà cả hai phải hòa hợp và các yếu tố riêng rẽ nơi họ cần được thống nhất. |
|
The line of form is, for the occultist, the line of least resistance, and incidentally I might here interpolate a thought. The fact being admitted, we may therefore look with some certainty at this time for a rapid development of occult knowledge, and for the appearance of some true occultists. By the coming in of the seventh ray, the Ray of Form or Ritual, the finding of the occult path, and the assimilation of occult knowledge is powerfully facilitated. The occultist is at first occupied more with the form through which the Deity manifests than with the Deity Himself, and it is here that the fundamental difference between the two types is at first apparent. The mystic eliminates or endeavours to transcend mind in his process of finding the Self. The occultist, through his intelligent interest in the forms which veil the Self and by the employment of the principle of mind on both its levels, arrives at the same point. He recognises the sheaths that veil. He applies himself to the study of the laws that govern the manifested solar system. He concentrates on the objective, and in his earlier years may at times overlook the value of the subjective. He arrives eventually at the central life by the elimination, through conscious knowledge and control, of sheath after sheath. He meditates upon form until the form is lost sight of, and the creator of the form becomes all in all. [152] |
Đối với huyền bí gia thì con đường của hình thể là con đường ít trở ngại nhất, và sẵn đây tôi xin thêm vào một ý tưởng. Vì sự kiện này đang được thừa nhận, nên chắc rằng hiện nay chúng ta có thể thấy được sự phát triển mau lẹ của kiến thức huyền môn và sự xuất hiện của một số huyền bí gia chân chính. Nhờ sự nhập cuộc của Cung bảy, Cung của Hình thể hay Nghi thức, mà việc tìm thấy con đường huyền môn và hấp thụ các kiến thức huyền môn trở nên rất dễ dàng. Trước hết, huyền bí gia chú tâm vào hình thể mà Thượng Đế biểu lộ xuyên qua đó hơn là chính Thượng Đế, và đây là điểm khác biệt căn bản giữa hai nhóm, rõ nét ngay từ bước đầu. Thần bí gia loại bỏ hay cố vượt lên khỏi trí tuệ trong cuộc tìm kiếm Chân ngã. Huyền bí gia đạt đến cùng mục đích nhờ chú ý một cách sáng suốt vào các hình thể che phủ Chân ngã và nhờ sử dụng nguyên khí trí tuệ ở cả hai cấp độ thượng và hạ trí. Y nhận ra được những lớp vỏ che án. Y chú tâm nghiên cứu những định luật chi phối thái dương hệ biểu hiện. Y chú tâm vào cái khách quan, cụ thể và trong những năm đầu đôi khi y có thể bỏ qua, không màng đến giá trị của cái chủ quan, trừu tượng. Rốt cuộc, y đạt đến sự sống ở nội tâm bằng cách dùng sự hiểu biết và chủ trị một cách ý thức hết lớp vỏ này đến lớp vỏ khác. Y tham thiền về hình thể cho đến mức, hình thể mờ đi, và vị sáng tạo ra hình thể trở thành cái toàn thể trong vạn hữu. [152] |
|
He, like the mystic, has three things to do:— |
Cũng như thần bí gia, huyền bí gia phải làm ba việc: – |
|
1—He has to learn the law and to apply that law to himself. Rigid self-discipline is his method, and necessarily so, for the dangers threatening the occultist are not those of the mystic. Pride, selfishness, and a wielding of the law from curiosity or desire for power have to be burnt out of him before the secrets of the Path can safely be entrusted to his care. |
1. Y phải học định luật và áp dụng định luật đó vào chính mình. Phương pháp của huyền bí gia là giữ giới thật nghiêm nhặt. Cần phải làm thế vì những hiểm nguy đối với huyền bí gia khác với các nguy hiểm của nhà thần bí. Y phải hoàn toàn tẩy sạch lòng kiêu căng, tính ích kỷ và việc sử dụng định luật vì tính hiếu kỳ và lòng ham muốn quyền lực, trước khi y được tin cậy giao cho gìn giữ những bí mật của Đường Đạo. |
|
2—In meditation he has, through the form built, to concentrate upon the indwelling life. He has to seek the inner burning fire that irradiates all forms that shelter the divine life. |
2. Trong khi tham thiền y phải thông qua hình thức đã tạo được mà chú tâm vào sự sống nội tại. Y phải tìm ngọn lửa đang cháy sáng trong tâm, nó soi tỏ tất cả các hình thể làm nơi trú ẩn cho sự sống thiêng liêng. |
|
3—Through the scientific study of the macrocosm, “the kingdom of God without,” he has to reach a point where he locates that kingdom likewise within. |
3. Bằng việc nghiên cứu một cách khoa học về đại vũ trụ, là “Thiên giới ở bên ngoài,” y đạt đến trình độ thấy rằng Thiên giới này cũng có trong tâm y. |
|
Here, therefore, is the merging point of the mystic and the occultist. Here their paths become one. I spoke earlier in this letter of the interest to the clairvoyant in noting the difference in the forms built by the mystic and the occultist in meditation. I might touch on some of the differences for your interest, though until such vision is yours my point may be but words to you. |
Vì thế, đây là điểm hòa hợp của thần bí gia và huyền bí gia. Đến giai đoạn này hai con đường nhập một. Ở đầu bức thư này tôi có nói đến sự thú vị của nhà nhãn thông khi quan sát sự dị biệt của những hình thể do nhà thần bí và nhà huyền bí tạo ra trong tham thiền. Tôi có thể kể ra vài điểm khác nhau để các bạn lưu ý, dù rằng nếu các bạn chưa có mắt thấy được thì đây cũng chỉ là ngôn từ thôi. |
|
Occult and mystic forms clairvoyantly seen. |
Những hình thể do thần bí gia và huyền bí gia tạo ra, thấy qua nhãn thông. |
|
The mystic who is meditating has built before him and around him an outline nebulous, inchoate, and cloudy, and in such a way that he himself forms the centre of the form. Frequently, according to the trend of his mind, the nucleus of the form may be some favourite symbol such as a cross, an altar, or even his pictured idea of one of the Great Ones. This form will be wreathed in the mists of devotion, and will pulsate with floods of colour bespeaking aspiration, love and ardent longing. The colours built in will be of singular purity and clarity [153] and will mount up until they reach a great height. According to the capacity of the man to aspire and to love will be the density and the beauty of the ascending clouds; according to his stability of temperament will be the accuracy of the inner symbol or picture around which the clouds of colour circulate. |
Nhà thần bí khi đang tham thiền tạo ra trước y và chung quanh y một hình ảnh mơ hồ, với những nét phác mờ mịt như mây, thế nào để chính y là trung tâm của hình thể đó. Thường thì theo khuynh hướng của thượng trí y mà tâm điểm của hình thể đó có thể là một biểu tượng được ưa thích như thập tự giá, bàn thờ hay ngay cả hình tư tưởng của y về một Đấng Cao cả. Hình thể này được bao bọc bằng những làn sương của lòng sùng tín, hòa nhịp với những đợt màu sắc dâng tràn, dấu hiệu của chí nguyện, tình thương và lòng mong ước thiết tha. Những màu sắc trong đó thật trong sáng và tinh khiết lạ [153] thường và càng lúc càng vươn lên đến mức rất cao. Mật độ và vẻ đẹp của những đám mây màu sắc đang dâng cao này tùy theo khả năng chí nguyện và lòng bác ái của hành giả. Còn sự chính xác của biểu tượng hoặc hình ảnh ở trung tâm các đám mây màu sắc đang luân chuyển thì tùy theo sự ổn định trong tính tình của y. |
|
The forms built by the man of an occult trend of thought, and who is more dominated by mind, will be of a geometrical type. The outlines will be clear, and will be apt to be rigid. The form will be more painstakingly built and the man, during meditation, will proceed with greater care and accuracy. He will (if I may so express it) take a pride in the manipulation of the material that goes to the building of the form. Matter of the mental plane will be more apparent and—though certain clouds of emotional matter may he added to the whole—matter of the emotional plane will be of secondary importance. The colours employed may be of equal clarity, but they are apportioned with specific intent, and the form stands out clearly and is not lost in the upward surge of emotional colours as the mystic form is apt to be. |
Những hình thể do huyền bí gia tạo ra được trí tuệ chi phối nhiều hơn, nên thuộc loại hình học. Những đường nét sẽ rõ rệt, nhưng thường cứng nhắc. Hình thể này được tạo ra một cách chu đáo tỉ mỉ hơn và trong thời gian tham thiền hành giả tiến hành một cách cẩn thận và chính xác hơn. Có thể nói y thận trọng vận dụng vật liệu để kiến tạo hình thể đó. Vật chất của cõi trí sẽ lộ rõ hơn và vật chất của cõi tình cảm sẽ là phụ thuộc, dù trong đó cũng có vài đám mây làm bằng chất liệu tình cảm. Những màu sắc được dùng có thể trong sáng ngang nhau nhưng được phân phối tùy theo những chủ đích cụ thể của hành giả. Còn hình thể thì nổi rõ chứ không bị chìm trong các màu sắc của tình cảm dâng cao như thường có trong hình thức tham thiền thần bí. |
|
Later, when the man in either case has reached a point of more rounded out development, and is both an occultist and a mystic, the forms built will combine both qualifications, and be things of rare beauty. |
Về sau, khi hành giả thuộc một trong hai nhóm đã đạt được mức phát triển đầy đủ hơn và thành một huyền bí gia kiêm cả nhà thần bí, thì những hình thể tạo được sẽ kết hợp được cả hai phẩm tính, với vẻ đẹp hiếm có. |
|
This will suffice for today, but I would like to outline for you the ideas that must be brought out later. We will deal with the use of forms in achieving specific results, and though it is not my intention to give or outline such forms, I wish to group them for you so that later when the Teacher moves among men He may find ready apprehension among students everywhere. |
Hôm nay như thế cũng đủ, nhưng tôi muốn phác họa cho các bạn những ý tưởng mà sau này phải đem ra bàn. Chúng ta sẽ bàn đến việc sử dụng các hình thể để đạt những kết quả đặc biệt. Dù rằng tôi không có ý định phác thảo hay đưa các hình thức đó ra nhưng tôi muốn phân loại chúng cho các bạn biết để về sau khi vị Huấn sư đến với mọi người Ngài có thể thấy các môn sinh ở khắp nơi đều đã hiểu được vấn đề này. |
|
1—Forms used in work on the three bodies. |
1. Các hình thức thiền ảnh hưởng đến ba hạ thể. |
|
2—Forms on certain rays. [154] |
2. Những hình thức dành cho các cung. [154] |
|
3—Forms used in healing. |
3. Những hình thức dùng để chữa bệnh. |
|
4—Mantrams. |
4. Các câu thần chú. |
|
5—Forms used in one of the three Departments:— |
5. Các hình thức dùng cho một trong ba Ngành: – |
|
a—The Manu’s Department. |
a. Ngành của Đức Bàn cổ. |
|
b—The Department of the World Teacher or the Christ. |
b. Ngành của Đức Chưởng giáo hay Đấng Christ. |
|
c—The Department of the Lord of Civilisation. |
c. Ngành của Đức Văn minh Đại đế. |
|
6—Forms for calling elementals. |
6. Những hình thức để kêu gọi các tinh linh. |
|
7—Forms for contacting the devas. |
7. Những hình thức để tiếp xúc với các thiên thần. |
|
8—Special forms connected with Fire. |
8. Những hình thức đặc biệt liên quan đến Lửa. |
|
AUGUST 11, 1920. |
Ngày 11-8-1920. |
|
…Periods of physical weakness are of value only for the reason that they demonstrate the absolute necessity there is for the worker to build a strong body before he can accomplish much, and the importance of good health before the disciple can go forward on the Path. We cannot permit those we teach to do certain things, nor inform them along certain lines unless their physical vehicles are in good shape, and unless the handicap of ill health and disease is practically negligible, and the karma of accidental trouble almost completely obviated in the personal life. National or group karma occasionally involves a pupil, and upsets somewhat the plans, but this is unavoidable and can seldom be offset. |
. . . Những thời gian xác thân bị suy yếu chỉ có giá trị khi cho thấy rằng hành giả hết sức cần phải kiến tạo một xác thân mạnh khỏe trước khi y có thể thành tựu được nhiều, và sức khỏe tốt là một điều quan trọng trước khi người đệ tử có thể tiến tới trên Đường Đạo. Chúng tôi không thể cho phép các môn sinh làm một số việc, hoặc là chỉ dạy cho họ theo một số đường hướng, trừ khi xác thân họ được khỏe mạnh, và họ thực sự không bị trở ngại bao nhiêu về bệnh tật hay sức khỏe kém, và nghiệp quả bị tai nạn của cá nhân họ hầu như đã được trả sạch. Đôi khi nghiệp quả quốc gia hay của nhóm cũng ảnh hưởng đến người môn sinh và gây khó khăn phần nào cho các kế hoạch, nhưng điều này không thể tránh và ít khi có thể được giải trừ. |
|
Sử dụng những hình thức đặc biệt cho các mục tiêu cụ thể. |
|
|
Until now we have dealt more with the personal aspects of meditation, and have considered the two types that are practically universal and fundamental, having studied briefly, (a) Meditation as followed by the mystic, and (b) Meditation as pursued by the occultist. |
Từ trước đến nay chúng ta đã bàn nhiều về những khía cạnh tham thiền cho cá nhân, và đã xem xét hai loại thiền thật phổ biến và thật cơ bản, tức là nghiên cứu sơ qua về (a) Tham thiền của thần bí gia, và (b) Tham thiền của huyền bí gia. |
|
We have largely generalised and have not in any way attempted to enter into particulars. It is neither desirable [155] at this stage nor proper. At a certain point in meditation, nevertheless, when the pupil has made the desired progress and covered certain specific stages and attained certain objectives (which attainment can be ascertained by a review of the pupil’s causal body) and when a foundation of right living has been laid which neither storms nor attack will be liable easily to upset or destroy, the Teacher may impart to the earnest pupil instructions whereby he can build in mental matter and under definite rules, forms that will lead to specific actions and reactions. These forms will be imparted gradually, and at times the pupil (this especially at first) may not be in the least conscious of the results achieved. He will obey the orders, say the imparted words, or work through the outlined formulas, and the results attained may do their work even though the pupil is unconscious of the fact. Later—especially after initiation, as the subtler faculties come into activity, and the centres are rotating in fourth dimensional order—he may be aware of the effects of his meditation on the emotional and mental planes. |
Chúng ta hầu như chỉ nói tổng quát chứ không cố đi sâu vào chi tiết. Ở giai đoạn này việc bàn chi tiết là không thích [155] hợp và không đáng làm chút nào. Tuy nhiên, đến một trình độ nhất định trong tham thiền, khi người môn sinh đã có được sự tiến bộ cần thiết, đã trải qua một số giai đoạn cụ thể và đã đạt được một số mục tiêu nhất định (sự thành đạt đó được xác nhận bằng cách quan sát thể nguyên nhân của môn sinh), và khi y đã đặt được nền móng của cuộc sống chân chánh mà không cơn bão táp hoặc cuộc tấn công nào có thể dễ dàng gây xáo trộn hay phá hủy được, bấy giờ vị Huấn sư mới có thể truyền dạy cho người môn đệ thành tâm những giáo huấn để y có thể xây dựng bằng vật chất của cõi trí, theo một số qui luật và những thể thức nhất định, đưa đến những tác động và phản ứng cụ thể. Những thể thức này sẽ được lần lượt truyền dạy và đôi khi (nhất là lúc đầu) người môn đệ không hề ý thức được các thành quả đã đạt. Y sẽ tuân theo các mệnh lệnh, đọc những chân ngôn được truyền dạy, hoặc thực hành theo những công thức đã được phác thảo, và các kết quả đạt được có thể tự xảy ra, dù cho người môn đệ không ý thức được điều đó. Về sau – nhất là sau khi được điểm đạo, khi các năng khiếu ẩn vi đã hoạt động, và các luân xa đã xoay trong trật tự của bề đo thứ tư – y có thể trực nhận được các hiệu quả tham thiền của y ở cõi tình cảm và cõi trí. |
|
Results never concern us. Strict obedience to the law, and steady adherence to the rules laid down, with skill in action aimed at are the part of the wise pupil. The effects then are sure, and carry no karma with them. |
Chúng tôi không bao giờ bận tâm đến các kết quả. Triệt để tuân theo định luật, luôn luôn chấp hành các qui tắc đã đặt ra, cố gắng hành động thật khéo léo, đó là phận sự của người môn đệ khôn ngoan. Những kết quả tất sẽ có mà không kèm theo nghiệp quả. |
|
…Let us take up each of the forms in order, but first I would give a warning. I do not intend to outline forms, or to give specific instructions as to how the results indicated may be achieved. That will be done later, but when, it is not possible to say. So much depends upon the work done during the next seven years, or on the group karma, also on the progress made, not only by the human hierarchy, but by the deva or angel evolution as well. The secret of it all lies hid in the seventh Ceremonial Ray, and the hour for the next step onward will [156] be given by the seventh Planetary Logos, working in conjunction with three Great Lords, especially with the Lord of the third department. |
. . . Chúng ta hãy đề cập đến từng hình thức theo thứ tự, nhưng trước hết tôi xin có lời khuyến cáo. Tôi không có ý định phác họa những thể thức, hay đưa ra những huấn thị cụ thể về cách đạt được những kết quả đã định. Điều đó sau này sẽ được thực hiện, nhưng không thể nói được khi nào. Có rất nhiều yếu tố tùy thuộc vào công việc thực hiện trong bảy năm tới, tùy theo nghiệp quả của nhóm và cũng tùy thuộc vào sự tiến bộ đạt được, không những của nhân loại mà còn của trường tiến hóa thiên thần. Tất cả sự bí mật của điều này đều ẩn trong Cung bảy là Cung Nghi thức, và thời điểm cho bước tiến kế [156] tiếp sẽ được ấn định do Đức Hành Tinh Thượng Đế thứ bảy, Ngài làm việc phối hợp với ba vị Trưởng ngành, nhất là với vị Trưởng ngành thứ ba. |
|
Forms used in work on the three bodies. |
Những hình thức thiền dùng cho ba hạ thể. |
|
These forms will be some of the first revealed, and already in the various meditations advocated by the wise Guides of the race you have some of the lesser foundation outlines designed for working on the lower mind. These forms will be based on the special need of any one body, and will seek through the manipulation of matter to build that which is needed to fill the gap, and thus to supply the deficiency. This manipulation will be begun first on the etheric matter of the physical body, by forms of breathing (respiration and inspiration), and by certain rhythmic currents set up on the mental plane and driving from thence to the lower ethers. The etheric body will thus be strengthened, purified, cleansed, and rearranged. Many of the diseases of the dense physical body originate in the etheric, and it will be an object of attention at as early a date as possible. |
Đây là những hình thức sẽ được tiết lộ trước nhất, và trong những lối tham thiền khác nhau đã được các vị Hướng đạo minh triết của nhân loại tán thành, các bạn thấy có ấn định những nét phác họa cơ bản để làm việc với hạ trí. Các phương thức này sẽ dựa vào nhu cầu đặc biệt của một hạ thể, và sẽ tìm cách vận dụng vật chất để tạo ra những gì cần thiết cho việc bổ túc các khuyết điểm và cung ứng những thiếu sót. Việc vận dụng này trước nhất sẽ bắt đầu trên chất dĩ thái của thể hồng trần, bằng những cách tập thở (hô hấp), và bằng các dòng mãnh lực nhịp nhàng phát khởi trên cõi trí và từ đó được lèo lái xuống các tầng dĩ thái thấp hơn. Nhờ thế, thể dĩ thái sẽ được tăng cường, tinh luyện, tẩy sạch và chỉnh đốn lại. Nhiều bệnh tật của xác thân bắt nguồn từ thể dĩ thái, và nên chú ý đến mục tiêu này càng sớm càng hay. |
|
The emotional body likewise will be dealt with through special forms, and when the pupil has strenuously cultivated the quality of discrimination, and made it a working factor in his life, then these forms will be gradually imparted. But until he can distinguish somewhat between the real and the unreal, and until his sense of proportion is wisely adjusted, the emotional plane should be for him a battle ground, and not a field for experimentation. Let me illustrate the type of work that these forms which work on emotional matter will accomplish. The aim of the pupil who treads the Path is to build an emotional body that is composed of matter of the higher subplanes, is clear and sensitive, an accurate transmitter, and which [157] is characterised by a stable vibration, a steady rhythmic motion, and is not prone to violent storms and the agitating effects of uncontrolled emotion. When the idealism is high, when the percentage of matter of the two higher subplanes is approaching somewhat the desired figure, and when the pupil recognises practically all the time that he is not his vehicles, but is indeed the divine Dweller within them, then certain things will be imparted to him, which—when carefully followed out—will do two things: |
Cũng sẽ có những hình thức tham thiền đặc biệt dùng cho thể tình cảm, và khi người môn sinh đã cần mẫn vun bồi đức tính phân biện và lấy đó làm một yếu tố linh hoạt trong đời y thì lúc đó các hình thức thiền này sẽ lần lượt được trao truyền. Nhưng ngày nào y chưa có thể phân biệt được ít nhiều giữa điều chân lẽ giả và chưa điều chỉnh được ý thức tỉ lệ một cách khôn ngoan, thì cõi cảm dục đối với y vẫn là một bãi chiến trường, chứ không phải là trường thực nghiệm. Xin nói rõ hơn về loại công việc mà các hình thức thiền tác dụng vào vật chất tình cảm này phải hoàn thành. Mục tiêu của người môn sinh đang đi trên Đường Đạo là kiến tạo một thể tình cảm có thành phần là vật chất của các cõi phụ cao, trong sáng và nhạy cảm. Dùng thể này làm trạm tiếp chuyển chính xác, [157] với rung động ổn định, chuyển động đều đặn, nhịp nhàng, không dễ dàng bị xáo trộn bởi những cơn bão táp và không bị những xúc cảm thiếu kiểm soát làm cho xao xuyến. Khi mục tiêu lý tưởng này đã đạt được khá cao, khi vật chất của hai cõi phụ cao đã gần đủ số phần trăm cần thiết, và khi người môn sinh lúc nào cũng thực sự nhận ra rằng y không phải là ba hạ thể, mà quả thật là Đấng thiêng liêng ngự trong chúng, thì lúc đó y mới được truyền dạy một số điều mà khi theo đúng y sẽ làm được hai việc: |
|
They will act directly on his emotional body, driving out foreign or lower matter, and stabilising his vibration. |
Tác động ngay vào thể cảm dục, thải ra những chất tạp và thô, và ổn định sự rung động của thể này. |
|
They will build in emotional matter a body or form that he can use for certain work, and can employ as his agent to attain results that will be part of the purificatory and constructive work of the emotional body. This is as much as can be said, but it will serve to show the type of form aimed at. |
Tạo một thể hay hình thể bằng chất liệu tình cảm để y có thể dùng trong những công tác nhất định, và có thể sử dụng làm phương tiện để đạt các kết quả mà sẽ là một phần trong việc tinh luyện và kiến tạo thể tình cảm. Chỉ có thể nói với các bạn bấy nhiêu thôi, nhưng cũng đủ nêu rõ loại hình thức cần nhắm đến. |
|
Ray forms. |
Hình thức tham thiền của các cung. |
|
This is a profoundly interesting and vast subject, and may only be indicated in general terms. Certain forms, built up on the numerical aspect of the various rays, are the special property of those rays and embody their geometrical significance, demonstrating their place in the system. Some of these forms being on the concrete rays or building rays are the line of least resistance for the occultist, while other forms on the abstract or attributive rays are more easily followed by the mystic. |
Đây là một vấn đề rất thú vị và rộng lớn nên chỉ có thể nói tổng quát thôi. Có những hình thức thiền được đặt theo phương diện số học của những cung khác nhau là sở hữu đặc biệt của các cung đó, thể hiện ý nghĩa hình học và cho thấy vị trí của chúng trong thái dương hệ. Một số hình thức này thuộc về các cung cụ thể hay cung kiến tạo thì thích hợp cho các huyền bí gia, trong khi những hình thức thiền khác thuộc các cung trừu tượng hay cung thuộc tính thì nhà thần bí dễ thực hành hơn. |
|
These forms are for three objects:— |
Các hình thức này nhằm ba mục đích: – |
|
a. They put the pupil in direct contact with his own ray, either the egoic or personality ray. |
a. Giúp người môn sinh tiếp xúc ngay với cung của mình, dù đó là cung Chân nhân hay Cung phàm nhân. |
|
b. They link him up with his group on the inner planes, either the group of servers, the group of invisible helpers, or later with his egoic group. [158] |
b. Giúp y liên kết với nhóm của y ở các nội giới, hoặc là nhóm người phụng sự, nhóm người cứu trợ vô hình, hay sau này là nhóm Chân nhân của y. [158] |
|
c. They tend to merge the occult and the mystic paths in the life of the pupil. Should he be on the mystic path he will work at the forms upon the Rays of Aspect, and so develop knowledge of the concrete side of Nature—that side which works under law. You can reverse the case for the man of occult tendency, till the time comes when the paths merge and all forms are alike to the Initiate. You have to remember that at this point of merging a man works ever primarily on his own ray when he has transcended the personality and found the egoic note. Then he manipulates matter of his own ray, and works through his own ray-forms with their six representative sub-ray forms until he is adept, and knows the secret of synthesis. These forms are taught by the Teacher to the pupil. |
c. Giúp môn sinh hòa hợp được hai con đường huyền bí và thần bí trong cuộc sống y. Nếu đang đi trên đường thần bí thì y sẽ thực hành phương thức thiền của các Cung Trạng thái, để phát triển tri thức về phương diện cụ thể của Thiên nhiên tức là phương diện làm việc theo định luật. Ở trường hợp người có khuynh hướng huyền bí thì các bạn có thể nói ngược lại, cho đến khi nào hai con đường nhập một và các hình thức thiền đều như nhau đối với Điểm đạo đồ. Các bạn nên nhớ rằng ở điểm hòa hợp này bao giờ hành giả cũng làm việc chính yếu ở cung y, khi đã vượt lên khỏi Phàm ngã và tìm được nốt của Chân ngã y. Sau đó, y vận dụng vật chất của chính cung y và qua hình thức thiền của cung này y thực hành các hình thức thiền tiêu biểu cho các cung phụ, cho đến khi y thành thạo và biết được bí quyết tổng hợp. Người môn đệ được vị Huấn sư truyền dạy các hình thức thiền này. |
|
You will find that though I have imparted but little on this subject, yet, if you brood over what I have given, it contains much. It may give those who wisely assimilate it the key they seek for their next step on. I may touch on this and somewhat enlarge when we take up the subject of access to the Masters through meditation. |
Các bạn sẽ thấy rằng dù tôi nói về vấn đề này rất ít, nhưng nếu chịu suy ngẫm những điều tôi đã nói các bạn sẽ thấy chúng chứa đựng rất nhiều. Chúng có thể cho những ai thấu đáo ý nghĩa của chúng chiếc chìa khóa để tìm ra bước tiến kế tiếp. Tôi có thể đề cập đến vấn đề này và nói rộng thêm, khi chúng ta bàn vấn đề tiến đến Chân sư nhờ tham thiền. |
|
Forms used in healing. |
Hình thức thiền để chữa bệnh. |
|
We must touch now on these forms, remembering first of all that they will be necessarily arranged in three groups, each with many subsidiary heads. |
Khi bàn đến những hình thức thiền này, trước hết ta hãy xếp chúng thành ba nhóm, mỗi nhóm gồm nhiều đề mục phụ. |
|
a. Forms for use in physical healing. You would be surprised how seldom these forms will be required, and how few in number therefore they are. The reason for this is that very few of the troubles of the dense physical body arise within that body itself. A few arise directly in the etheric body, but at this stage of evolution most of the troubles arise in the emotional body, and the remainder in the mental. We might generalise and say that: [159] |
a. Những hình thức thiền để chữa bệnh cho thể xác. Chắc chắn các bạn ngạc nhiên khi thấy rằng ít khi phải dùng hình thức thiền loại này, và vì thế chúng không có nhiều. Lý do là ít có bệnh tật nào của xác thân lại phát sinh từ chính nó. Một vài bệnh bắt nguồn từ thể dĩ thái, nhưng ở giai đoạn tiến hóa này thì đa số các bệnh tật đều phát sinh từ thể cảm dục, và phần còn lại từ thể trí. Chúng ta có thể nói khái quát như sau: [159] |
|
25% of the ills flesh is heir to, arise in the etheric body. |
25% bệnh tật thể xác phát sinh từ thể dĩ thái. |
|
25% in the mental body. |
25% do thể trí. |
|
50% find their origin in the emotional body. |
50% bắt nguồn từ thể tình cảm. |
|
Therefore, though accidents may occur which lead to unexpected physical disaster and for which forms for healing may be given, yet the wise student will find that the forms that affect the etheric body may be the first point of departure. These forms, built up in meditation, will act directly on the pranic channels that go to the makeup of the etheric—that intricate web which has its counterpart in the circulatory system of the dense physical body. They are the seat of much of the present disease in that body, either directly or through causes set up on the emotional plane and reacting on the etheric. |
Vì thế, dù những tai nạn có thể mang tai họa bất ngờ đến cho thể xác và các hình thức thiền để trị các bệnh tật đó có thể được truyền dạy, nhưng người môn sinh khôn ngoan sẽ thấy rằng trước phải bắt đầu bằng các hình thức thiền ảnh hưởng đến thể dĩ thái. Các hình thức này khi được tạo ra trong tham thiền, sẽ tác dụng ngay vào các kênh sinh lực đi vào cơ cấu của thể dĩ thái – mạng lưới phức tạp này có phần tương ứng của nó trong hệ tuần hoàn của xác thân. Chúng là nguồn gốc của nhiều bệnh tật trong thể xác hiện nay, hoặc là trực tiếp hay do những nguyên nhân từ thể tình cảm phản ứng vào thể dĩ thái. |
|
b. Forms for healing the emotional body. As said above, much of the present sickness is due to causes set up in the emotional body and these causes are mainly three. I would point out that I but outline broadly and give general indications. |
b. Những hình thức thiền để chữa bệnh cho thể tình cảm. Như đã nói trên, nhiều bệnh tật hiện nay là do những nguyên nhân phát khởi trong thể tình cảm. Các nguyên nhân này có ba loại chính, và tôi chỉ đưa ra những lời chỉ dẫn tổng quát thôi. |
|
Violent emotion and unstable vibration. This, if indulged in, has a shattering effect and reacts on the nervous system. If suppressed and inhibited it has an equally dangerous effect, and results in a diseased condition of the liver, in bilious attacks, in the poisons which are generated in the system and find their outlet in certain cases of septic poisoning, in skin diseases, and in some forms of anemia. |
Tình cảm dữ dội và sự rung động không ổn định. Nếu buông thả sẽ gây đổ vỡ và phản ứng vào thần kinh hệ. Nếu bị dồn nén hay ức chế, nó cũng gây hiệu quả nguy hiểm tương tự, gây bệnh gan và mật, chất độc tiết ra trong cơ thể, biểu lộ trong các trường hợp ngộ độc do nhiễm khuẩn, các bệnh ngoài da và vài chứng thiếu máu. |
|
Fear and forebodings, worry and despair. These types of emotion—which are so common—have a general debilitating effect on the system, leading to loss of vitality, to sluggish action of the organs, and to many forms of obscure diseases of the nervous system, of the brain and of the spine. [160] |
Sự sợ hãi và các tiên cảm tai nạn, âu lo và thất vọng. Các loại tình cảm này thường xảy ra, có hiệu quả làm suy nhược cơ thể, đưa đến mất sinh lực, làm trì trệ sự hoạt động của các cơ quan và nhiều hình thức bệnh hoạn tiềm ẩn trong hệ thần kinh, trong não bộ và trong cột sống. [160] |
|
Sex emotions, covering a very large range of feeling, ranging from the suppressed sex emotion which is now beginning to be studied by our psychologists to the unclean criminal emotion that finds its expression in violent orgies and license. |
Xúc cảm tình dục, chiếm phần rất lớn trong tình cảm, từ sự đè nén dục tình (mà các nhà tâm lý học đang bắt đầu nghiên cứu) cho đến các tình cảm tội lỗi, nhơ bợn, biểu lộ trong sự ăn chơi trụy lạc và phóng đãng. |
|
Under all these heads many points may be gathered, but I write not letters on healing, but letters on meditation, so I must not further enlarge. |
Nhiều điểm có thể gom lại để bàn dưới những đề mục này, nhưng các bức thư này không phải viết để chữa bệnh mà là thư về tham thiền nên tôi không thể nói rộng thêm. |
|
In the forms used in these three cases attention will be paid to the cause of the trouble, to the plane on which it originates, and to the effects on the lower bodies or body. In apportioning forms different aims will be in view. Where, for instance, the trouble is based on suppressed emotion, the effect of the form (when rightly followed) will be to transmute the emotion and turn it upward. When, by right use, the emotional body is cleared of the emotional congestion, the life-giving forces of the Ego, and of the pranic life everywhere available, will be set free. They can then circulate with facility, tuning up the entire system and cleansing all organs that were suffering from the inner congestion. |
Trong những hình thức thiền dùng cho ba trường hợp trên, cần phải chú ý đến những nguyên nhân gây bệnh, nó bắt nguồn từ cảnh giới nào, và những hậu quả trên các hạ thể, hay từng thể. Việc phân định các hình thức thiền phải nhắm đến những mục tiêu khác nhau. Ví dụ như khi bệnh do tình cảm bị đè nén, thì hình thức thiền (nếu được theo đúng) phải có hiệu quả chuyển hóa tình cảm đó và giúp nó thăng hoa. Khi sử dụng hình thức thiền đúng đắn, thể cảm dục được tẩy sạch các u uất tình cảm, thì mãnh lực ban phát sự sống của Chân nhân và của sinh lực prana (có ở khắp nơi) sẽ được khai phóng. Các sức mạnh này sẽ lưu thông dễ dàng, điều hòa toàn cơ thể và tẩy sạch các cơ quan bị đau yếu do bế tắc bên trong. |
|
c. Forms for mental healing. These will be, for the majority of you, much more obscure, and in fact mental trouble is far more difficult to cure than either of the other two. This is due to two causes, one being that our polarisation as a race is not yet in the mental body. It is always much more easy to contact a body and to manipulate it when it is the seat of the centre of consciousness. The emotional body likewise, being more fluidic, is more easily impressed. I cannot enlarge upon the troubles of the mental body today save to point out that these causes may arise within the mental body itself as a karmic inheritance, or may originate on the emotional plane and work their way back into the mental body. For instance, [161] a person may be prone to some emotional storm. This—if persisted in—may set up an analogous vibration in the mental body. This vibration in its turn may become practically permanent, and by the interaction of these two bodies serious trouble may be set up. This trouble may go all the way from simply causing a general souring of the Personality, so that the man is recognized as an unhappy, unpleasant individual, to definite brain disease, resulting in lunacy, brain tumours and cancer in the head. |
c. Những hình thức thiền để chữa bệnh thể trí. Đối với phần đông các bạn, thì các hình thức này có vẻ khó hiểu hơn, và thực tế là các bệnh thể trí khó trị hơn bệnh ở hai thể kia rất nhiều. Điều này có hai nguyên nhân, một là sự phân cực của toàn nhân loại chưa ở trong thể trí. Khi một thể là trụ điểm của tâm thức, thì bao giờ việc tiếp xúc và vận dụng nó cũng dễ dàng hơn rất nhiều. Thể cảm dục cũng vậy, vì uyển chuyển hơn nên nó dễ được cảm kích hơn. Hôm nay tôi không thể nói nhiều hơn về các bệnh tật của thể trí trừ việc nêu ra rằng các nguyên nhân này có thể phát sinh trong chính thể trí vì nghiệp quả kiếp trước, hoặc bắt nguồn từ thể cảm dục và phản ứng ngược lại thể trí. Ví dụ như một người có khuynh [161] hướng dễ bị những cơn bão tố trong tình cảm. Nếu điều này cứ tiếp tục xảy ra thì có thể gây nên rung động tương tự trong thể trí. Sự rung động này lại có thể trở thành thường xuyên, và sự tương tác giữa hai thể này có thể sinh ra bệnh nặng. Bệnh chứng này có thể mang nhiều hình thức, từ đơn giản là gây tính gắt gỏng cho cá nhân ấy, khiến y trở nên khó chịu, sống không hạnh phúc, cho đến các bệnh não, gây điên khùng, não có bướu hay ung thư trong đầu. |
|
For all these troubles forms of meditation may be found which—if followed in time—will eventually dissipate them. The fundamental fact to be grasped here is that only when the pupil has an intelligent appreciation of the trouble or troubles affecting him, only when he has the ability to conscientiously follow the imparted formulas, and only when his object is unselfish, will he be trusted with these forms. When his object is to equip himself for service, when he aims only at the acquirement of healthy vehicles for the better carrying out of the plan of the Great Ones, and when he desires not to escape disease for his own personal benefit, only then will the formulas work in connection with the egoic consciousness. The downflow of life from the God within results in sound vehicles, so that it is only as the Personality becomes merged in the Ego, and the polarisation shifts from the lower to the higher that the work becomes possible. That time is nearing now for many, and progress in the new medical school—based on thought—can be looked for. Forms in meditation are but forms in thought matter, so that it will be apparent to you that a general beginning has been made. |
Với các bệnh tật này cũng có những hình thức tham thiền – nếu thực hành kịp thời – cuối cùng sẽ chữa trị được. Ở đây, các bạn cần hiểu rõ sự kiện căn bản là chỉ khi nào người môn sinh đã sáng suốt đánh giá được một cơn bệnh hay các cơn bệnh đã ảnh hưởng đến y, chỉ khi nào y có khả năng thận trọng theo đúng các công thức được truyền thụ, và chỉ khi nào mục tiêu của y là bất vị kỷ, y mới được giao phó cho các hình thức thiền này. Khi mục tiêu của y là tự trang bị để phụng sự, khi y chỉ nhằm có được các thể mạnh khỏe để thực hiện kế hoạch của các Đấng Cao cả một cách tốt đẹp hơn, và khi y không muốn trốn tránh bệnh tật vì lợi ích cá nhân y, thì chỉ chừng đó các công thức này mới tác động kết hợp với tâm thức Chân nhân. Sức sống tuôn xuống từ Thượng Đế nội tâm làm cho các hạ thể mạnh khỏe, vì thế, chỉ khi nào phàm nhân hòa hợp với Chân nhân và sự phân cực chuyển từ thấp lên cao thì công việc này mới thực hiện được. Hiện nay thời điểm này đang đến với nhiều người, và mong rằng có sự tiến bộ trong trường phái y khoa mới – căn cứ trên tư tưởng. Những hình thức trong tham thiền chẳng qua chỉ là những hình thể làm bằng chất liệu tư tưởng, nên các bạn sẽ thấy rằng bước khởi đầu tổng quát đã được thực hiện. |
|
One more hint on this matter I give:—Through the various centres of the body—those seven centres with [162] which the pupil has to do—will come the power to heal the corresponding physical centre. As the centres are vitalised certain physical effects will be demonstrable, and in specific forms that work on and through the centres will come results that may throw light on this obscure matter of healing through the subtle bodies. |
Tôi đưa ra thêm một lời ngụ ý về vấn đề này: – Qua các luân xa khác nhau của cơ thể – tức là bảy luân xa mà người [162] môn sinh phải làm việc – quyền năng sẽ đến để chữa lành trung tâm tương ứng trong thể xác. Khi các luân xa này được làm sinh động thì hiệu quả sẽ biểu lộ ở thể xác. Và việc thực hành những thể thức thiền đặc biệt tác động vào và xuyên qua các luân xa sẽ mang lại những kết quả có thể soi sáng vấn đề khó hiểu là việc trị liệu qua các thể thanh. |
|
AUGUST 20, 1920. |
Ngày 20-8-1920. |
|
Mantric forms. |
Hình thức thiền dùng thần chú. |
|
We must today continue the discussion on the forms that will some day be in common use among the students of occult meditation. We have touched upon three of the forms, and five more remain to be dealt with. |
Hôm nay chúng ta tiếp tục bàn về những hình thức mà một ngày kia sẽ rất thông dụng trong các môn sinh hành thiền huyền môn. Chúng ta đã đề cập đến ba hình thức, và hãy còn năm hình thức nữa phải bàn. |
|
Mantric forms are collections of phrases, words, and sounds which by virtue of rhythmic effect achieve results that would not be possible apart from them. These mantric forms are too numerous to study here; suffice it to indicate somewhat the types of mantrams there will be in use, or are now in use among those privileged to use them. |
Hình thức thần chú là tập hợp các nhóm từ, những từ, và các âm thanh mà nhờ tác dụng nhịp nhàng sẽ đạt được những kết quả không thể thực hiện nếu thiếu chúng. Các hình thức thần chú này có quá nhiều không thể nghiên cứu ở đây. Thế nên chỉ cần đề cập phần nào về các loại thần chú sẽ hay đang được sử dụng trong những người có đặc ân dùng chúng. |
|
There are mantric forms based entirely on the Sacred Word. These, sounded rhythmically and on certain keys, accomplish certain results, such as the invoking of protective angels; they lead to certain effects, either objective or subjective. These forms or mantrams are much more in use among orientals and in the eastern faiths than at present among occidentals. As the power of sound is more completely understood and its effect studied, these mantrams will be adopted in the occident. |
Có những hình thức thần chú hoàn toàn dựa vào Thánh ngữ. Các thể thức này nếu được xướng lên một cách nhịp nhàng theo những âm giai nhất định sẽ thành tựu được những kết quả nhất định như việc kêu gọi các vị thần bảo hộ. Chúng đưa đến những hiệu quả nhất định ở nội tâm hay ngoại cảnh. Những thể thức hay thần chú này hiện nay được người Đông phương hay các tôn giáo Đông phương sử dụng nhiều hơn ở Tây phương. Khi quyền năng của âm thanh được hiểu biết đầy đủ hơn và tác dụng của âm thanh được nghiên cứu kỹ, thì các thần chú này sẽ được người Tây phương chấp nhận. |
|
Some of them are very old and when enunciated in the original Sanskrit have unbelievably powerful effects. So powerful are they that they are not permitted to be [163] known by the ordinary student and are only orally imparted during preparation for initiation. |
Một số câu chú rất cổ và khi được xướng lên bằng tiếng Bắc Phạn nguyên thủy sẽ có những hiệu quả mạnh mẽ không thể tưởng. Chúng mạnh mẽ đến đỗi người môn sinh bình [163] thường không được phép biết, và chỉ được khẩu truyền trong khi chuẩn bị cho cuộc điểm đạo. |
|
There are a few very esoteric mantrams that exist in the original Sensa, and that have remained in the knowledge of the Brotherhood from the early days of the founding of the Hierarchy. They were brought by the Lords of Flame when They came to earth and are only thirty-five in number. They form the key that unlocks the mysteries of each subplane on the five planes of human evolution. The adept receives instruction on their use, and can employ them in the right place and subject to certain conditions. They are the most powerful known on our planet and their effects are far-reaching. As you know, each plane vibration responds to a different key and note, and its matter is manipulated, and its current tapped, by the sounding of certain words in a specific manner, and in a specific tone. When so sounded, the adept enters into the consciousness of that plane and of all contained therein. Mantrams in any tongue are founded on them, even though so far removed and unlike as to be practically useless. |
Có một số câu chú rất huyền bí bằng tiếng Sensa nguyên thủy, mà Huyền giai vẫn còn biết kể từ thời gian đầu thành lập Đ.Đ.C.G…Chúng được các vị Hỏa Tinh quân mang đến địa cầu và chỉ có ba mươi lăm câu. Chúng là chìa khóa để mở những bí nhiệm của mỗi cõi phụ trong năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại. Vị Chân sư được dạy cách dùng chúng, và có thể sử dụng chúng đúng chỗ, theo những điều kiện nhất định. Đây là những câu chú có quyền năng mạnh mẽ nhất được biết trên địa cầu chúng ta, với các hiệu quả rất sâu rộng. Như các bạn biết, sự rung động của mỗi cảnh giới đều tương ứng với một âm khóa và nốt khác nhau. Khi xướng lên một số từ nhất định theo cách đặc biệt, với giọng đặc biệt, người ta có thể vận dụng vật chất và các luồng mãnh lực của cảnh giới này. Khi xướng lên như thế, vị Chân sư nhập vào tâm thức của cảnh giới này và của tất cả các nhân vật bên trong. Những câu chú xướng lên bằng tiếng nước nào cũng đều căn cứ vào các thần chú nói trên, dù từ trước đến giờ đã bị chuyển đổi và sai lạc đến độ trên thực tế đã trở thành vô dụng. |
|
Certain of these original mantrams are chanted in unison by the Brotherhood on great occasions, or when the united power of the Lodge is required to effect desired ends. Great events are inaugurated by the sounding of their key note with appropriate words employed; each root-race has its mantric chord known to those who work with races. |
Một số trong các thần chú nguyên thủy này được Huyền giai đồng xướng lên trong những dịp trọng đại, hay khi cần quyền năng tổng hợp của các Ngài để thực hiện những mục tiêu cần thiết. Mọi biến cố vĩ đại đều được mở đầu bằng việc xướng lên chủ âm của chúng và sử dụng những linh từ thích hợp. Mỗi căn chủng đều có câu chú cùng hòa âm riêng mà chỉ các bậc hữu trách với các giống dân mới biết được. |
|
Again there are, as you know, certain mantrams in Sanskrit that are employed by students in meditation to call the attention of some one Master. These mantrams are communicated to Their disciples, and by their means the Master’s attention is attracted, and His assistance called for. [164] |
Như các bạn biết, cũng có những câu bằng tiếng Bắc Phạn được các môn sinh sử dụng khi tham thiền để kêu gọi sự chú ý của một vị Chân sư. Các câu chú này được Chân sư truyền cho đệ tử, để y kêu gọi đến sự chú ý và trợ giúp của Ngài. [164] |
|
Other and greater formulas are sometimes imparted by which the three Great Lords may be contacted, and Their attention drawn in any specific direction. |
Những công thức khác quan trọng hơn, đôi khi được truyền đạt để có thể tiếp xúc với ba vị Trưởng ngành và thỉnh cầu được sự chú ý của các Ngài theo một chiều hướng nhất định. |
|
A mantram, when rightly sounded forth, creates a vacuum in matter, resembling a funnel. This funnel is formed betwixt the one who sounds it forth and the one who is reached by the sound. There is then formed a direct channel of communication. You will see therefore why it is that these forms are so carefully guarded and the words and keys concealed. Their indiscriminate use would but result in disaster. A certain point in evolution has to be reached, and a similarity of vibration somewhat achieved, before the privilege is afforded the pupil of being custodian of a mantram whereby he may call his Master. |
Một câu chú, khi được xướng lên đúng cách, sẽ tạo ra một khoảng chân không trong vật chất, giống như một cái phễu. Cái phễu này được hình thành giữa người xướng thần chú và người nhận ảnh hưởng của nó, tức là đã tạo được một con đường thông đạt trực tiếp. Vì thế, các bạn thấy lý do tại sao các câu chú này được giữ gìn cẩn mật, những từ và những âm khóa của chúng được giấu kín. Dùng chúng mà thiếu phân biện thì chỉ mang lại tai họa. Người môn sinh trước khi có đặc ân được sử dụng một câu chú để kêu gọi đến Chân sư của y, phải đạt một trình độ tiến hóa nhất định và một sự rung động phần nào tương tự như Ngài. |
|
There are also seven mantrams that are known to the three Great Lords and the Heads of the Hierarchy, whereby They can call the seven Planetary Logoi, or the seven “Spirits before the Throne” as They are called in the Christian Bible. One of these mantrams, which causes contact with the Logos of our planet, is known to the adepts as well. So the scale is mounted, and the Words are sounded forth, until we reach the mantram of our planet, which is based on the key of the Earth, and embodies a phrase which sums up our evolution. Each planet has some such note or phrase whereby its guides may contact their Planetary Logos. The seven Logoi in Their turn have Their available ritual or form whereby They can communicate with the threefold Lord of the Solar System. This is done always four times a year, or when urgent need arises. |
Cũng có bảy câu thần chú mà chỉ có ba vị Trưởng ngành và các vị Huynh trưởng trong Đ.Đ.C.G. biết được. Các Ngài dùng chúng để kêu gọi bảy vị Hành Tinh Thượng Đế hay là bảy Đấng mà Thánh kinh Thiên Chúa giáo gọi là bảy vị “Tinh quân trước Ngai vàng.” Một trong các câu chú này dùng để tiếp xúc với Đấng Hành Tinh Thượng Đế của chúng ta, cũng được các vị Chân sư biết đến. Cứ thế mà lên cao dần, các Linh từ được xướng lên, cho đến khi đạt đến câu thần chú của địa cầu, vốn dựa vào âm khóa của Trái đất, và gồm một câu tóm lược toàn cuộc tiến hóa của chúng ta. Mỗi hành tinh có một nốt hay âm tiết như thế để các vị hướng đạo của hành tinh đó có thể tiếp xúc với Hành Tinh Thượng Đế của họ. Bảy vị Hành Tinh Thượng Đế này lại có những nghi thức hay thể thức để liên lạc với Đức Thái Dương Thượng Đế Ba Ngôi. Luôn luôn các Ngài làm điều này bốn lần mỗi năm, hoặc khi nào có nhu cầu cấp thiết. |
|
Once a year the entire Hierarchy employs a composite mantram that creates a vacuum between the highest and the lowest members of that Hierarchy and on up—via the seven Planetary Logoi—to the Logos Himself. It marks [165] the moment of intensest spiritual effort and vitalisation during the year, and its effects last throughout the intervening months. Its effect is cosmic, and links us up with our cosmic centre. |
Mỗi năm một lần, toàn thể Đ.Đ.C.G. xướng lên một câu chú tổng hợp để tạo một khoảng chân không giữa các nhân viên cao nhất và thấp nhất của Đ.Đ.C.G. và tiếp tục hướng lên – qua bảy vị Hành Tinh Thượng Đế – để đến Đức Thái Dương [165] Thượng Đế. Đó là lúc nỗ lực tinh thần đến mức mãnh liệt nhất và sống động nhất trong năm, mà hiệu quả kéo dài trong suốt các tháng sau đó. Hiệu quả này có tầm mức vũ trụ và liên kết chúng ta với trung tâm vũ trụ của chúng ta. |
|
Ray mantrams. Each ray has its own formulas and sounds which have a vital effect upon the units gathered on those rays. The effect of sounding it by the student of meditation is threefold: |
Thần chú của các cung. Mỗi cung đều có những công thức và âm thanh riêng, có hiệu quả quan trọng đối với những người thuộc cung đó. Người môn sinh khi hành thiền nếu xướng nó lên sẽ tạo ba hiệu quả: |
|
1. It links him and aligns him with his Higher self or Ego. |
1. Giúp y liên kết và chỉnh hợp với Chân nhân hay Chân ngã của mình. |
|
2. It puts him in contact with his Master, and through that Master with one of the great Lords,—dependent upon the ray. |
2. Giúp y tiếp xúc với Chân sư, và qua Ngài mà tiếp xúc với một trong các vị Trưởng ngành, – tùy theo cung. |
|
3. It links him with his egoic group and binds all into one composite whole, vibrating to one note. |
3. Giúp y liên kết với nhóm Chân nhân của y và kết hợp tất cả thành một khối chặt chẽ, cùng rung động theo một âm điệu duy nhất. |
|
These mantrams are one of the secrets of the last three initiations and may not be sounded by the pupil before that time without permission, though he may participate at times in the chanting of the mantram under the Master’s direction. |
Các thần chú này là một trong những bí mật của ba cuộc điểm đạo cuối cùng. Nếu không được phép người môn đệ không được xướng lên trước thời gian đó, dù đôi khi y có thể được dự vào việc xướng các câu thần chú theo sự hướng dẫn của Chân sư. |
|
Mantrams, or formulas of words, sung by the pupil, which have direct effect on one of the three bodies. These mantrams are largely already in use—though in a much distorted degree—in the services of the religious bodies in all lands. Some light on them is being communicated in the ritual of the Church……….The passwords as used in Masonry—though practically valueless now—based on the use of mantrams and some day when there is an Initiate Head to all these organisations (such as Masonry, various esoteric societies, and religious bodies) the old mantrams will be given back in pure form to the peoples. [166] |
Các câu chú hay là những công thức ngôn từ khi được người đệ tử xướng lên sẽ có tác dụng trực tiếp vào một trong ba thể. Các câu chú này phần lớn đã được sử dụng trong các cuộc hành lễ của các đoàn thể tôn giáo trong mọi nước, dù bị lệch lạc nhiều. Một số hiểu biết đang được truyền đạt trong nghi thức của Giáo hội Thiên Chúa. . . . . . . . . . Các mật ngữ dùng trong Hội Tam điểm – dù hiện nay thực tế là không còn giá trị gì cả – đều dựa vào việc sử dụng các câu chú và một ngày kia khi có một vị Điểm đạo đồ lãnh đạo tất cả các tổ chức này (như Hội Tam điểm, các hội bí học và các đoàn thể tôn giáo) thì các câu chú cổ xưa sẽ được truyền dạy trở lại dưới hình thức thuần túy cho các dân tộc. [166] |
|
There are also mantrams for use in healing, and for the development of certain psychic faculties. Some mantrams have a direct effect on the centres of the body, and will later be used under the guidance of the Master for increasing vibration, for causing fourth dimensional movement, and for the complete vivification of the centre. |
Cũng có những câu chú dùng để trị bệnh và để mở các quan năng thần thông. Một số câu chú có tác dụng trực tiếp vào các luân xa của cơ thể, và sau này sẽ được sử dụng dưới sự hướng dẫn của Chân sư để tăng cường rung động, để tạo chuyển động theo bề đo thứ tư và để làm cho luân xa hoàn toàn linh hoạt. |
|
Still other mantrams act upon the hidden fire, but I will deal with them a little later. There are numerous oriental books on the subject, which is so vast a one that I caution the student from investigating much. It would but prove for the worker in the world a waste of time. I have touched upon the matter because no book on meditation would be complete without a reference to what will some day supersede all preliminary meditation. When the race has reached a certain point of development, and when the higher mind holds greater sway, these occult mantrams—rightly imparted and rightly enunciated—will be part of the ordinary curriculum of the student. He will start his meditation by the use of his ray mantram, thereby adjusting his position in the scheme; he will follow this with the mantram that calls his Master, and which puts him en rapport with the Hierarchy. Then he will begin to meditate with his bodies adjusted, and with the vacuum formed that may then be used as a medium of communication. |
Còn có những câu chú khác tác động vào lửa tiềm ẩn trong con người, nhưng tôi sẽ đề cập sơ lược sau này. Có nhiều kinh sách ở Đông phương bàn về vấn đề này, một đề tài thật rộng rãi đến đỗi tôi khuyên các bạn nên thận trọng, đừng nên tìm kiếm quá nhiều vì làm thế chỉ phí thì giờ của người phụng sự thế gian. Tôi đã đề cập đến vấn đề này vì không quyển sách thiền nào đầy đủ nếu không đề cập đến những điều mà một ngày kia sẽ thay thế tất cả các phương pháp thiền sơ cấp. Khi nhân loại đã đạt đến một mức phát triển nào đó, và khi thượng trí có ảnh hưởng lớn lao hơn, thì các câu chú huyền bí này – được truyền dạy đúng đắn và xướng lên đúng đắn – sẽ là một phần trong chương trình học thông thường của người môn sinh. Y sẽ bắt đầu tham thiền bằng việc sử dụng câu thần chú thuộc cung y, vì thế mà điều chỉnh được vị thế của mình trong đại cuộc. Sau đó y sẽ dùng câu chú kêu gọi đến Chân sư y, và tạo sự hòa hợp với Đ.Đ.C.G.. Bấy giờ, y sẽ bắt đầu tham thiền với các thể đã được chỉnh đốn, và với khoảng chân không mà y tạo ra để làm môi trường thông đạt. |
|
AUGUST 13TH, 1920 |
Ngày 13-8-1920. |
|
Forms used in one of the three departments. |
Những hình thức thiền dùng cho một trong ba ngành. |
|
The interest of what I have to communicate today is very great, for we have to take up the matter of the forms used in the Departments of the Manu, the World Teacher and the Mahachohan, the Lord of Civilisation. |
Vấn đề tôi đề cập hôm nay rất là thú vị vì đó là các hình thức thiền trong ngành của Đức Bàn cổ, của Đức Chưởng giáo và của Đức Văn minh Đại đế. |
|
These three Departments represent in the Hierarchy the three aspects of the Logos as manifested in the solar [167] system,—the Aspect of Will or Power, the Aspect of Love and Wisdom (which is the basic aspect for this system), and the Aspect of Activity or Intelligence. You know from your studies the work undertaken by these departments. |
Ba ngành này trong Đ.Đ.C.G. tượng trưng cho ba trạng thái của Thượng Đế biểu lộ trong thái dương hệ, – Trạng [167] thái Ý chí hay Quyền lực, Trạng thái Bác ái và Minh triết (là trạng thái căn bản của thái dương hệ này) và Trạng thái Hoạt động hay Thông tuệ. Các bạn đã nghiên cứu và biết phần việc của ba ngành này rồi. |
|
The Manu manipulates matter and is occupied with the evolution of form, whether it is the dense physical form of animal, mineral, flower, human being or planet, or the form of races, nations, devas or the other evolutions. |
Đức Bàn cổ vận dụng vật chất và lo về sự tiến hóa của các hình thể, dù đó là thể xác của động vật, chất khoáng, hoa cỏ, con người hay hành tinh, hoặc đó là hình thể của các giống dân, các quốc gia, thiên thần hay trường tiến hóa khác. |
|
The Bodhisattva or World Teacher works with the evolving life within the form, with the implanting of religious ideas and with the development of philosophical concepts both in individuals and races. |
Đức Di Lạc Bồ-tát hay là Đức Chưởng giáo Thế gian làm việc với sự sống đang tiến hóa trong hình thể. Ngài gieo rắc những ý tưởng tôn giáo và giúp phát triển các quan niệm triết học cả trong cá nhân và các giống dân. |
|
The Mahachohan, who synthesises the four lower rays, deals with mind or intelligence, and, in collaboration with His Brothers, controls the evolution of mind whereby the Spirit or Self utilises the form or the Not-Self. |
Đức Văn minh Đại đế là Đấng tổng hợp bốn cung phụ. Ngài lo về mặt trí tuệ hay thông tuệ, và hợp tác với hai vị Đạo Huynh của Ngài, dìu dắt sự phát triển trí tuệ để Tinh thần hay Chân ngã có thể sử dụng hình thể hay Phi-ngã. |
|
The synthetic work of the three Great Lords is inconceivably great. Form-Life-Intelligence, Matter-Spirit-Mind, Prakriti-Purusha-Manas, are the three lines of development, and in their synthesis comes completeness. |
Công tác phối hợp của ba vị Trưởng ngành này thật lớn lao không thể tưởng. Hình thể–Sự sống–Thông tuệ, Vật chất–Tinh thần–Trí tuệ, Prakriti (Bản chất)–Purusha (Tinh thần)–Manas (Trí năng), là ba đường lối phát triển, và việc tổng hợp cả ba sẽ đưa đến sự hoàn thiện. |
|
Each of these three lines works through formulas, or through set forms, which by graded steps put the man who employs the form in touch with the particular line of evolution represented by the Head of that line. |
Mỗi đường hướng này đều hoạt động qua các công thức hay những thể thức đã định mà khi tiến hành theo những bước tuần tự hành giả sẽ tiếp xúc được với con đường tiến hóa đặc biệt tiêu biểu bởi vị Huynh trưởng của con đường đó. |
|
…………….What I seek to bring out here are the three clear lines whereby a man may mount to the Logos and find union with the self of the Solar System. He can mount by the line of the Manu, he can attain through the line of the Bodhisattva, or he can reach his goal via the path of the Mahachohan. But specially note, that on this planet the Lord of Love and Power, the first Kumara, is the focal point for all three departments. He [168] is the One Initiator, and whether a man works on the line of power, or on the line of love, or on the line of intelligence, he must finally find his goal on the synthetic Ray of Love and Wisdom. He must be love, and manifest it forth, but it may be love working through power. It may be love in harmony, or love working through knowledge, through ceremonial or devotion, or it may be just pure love and wisdom, blending all the others. Love was the source, love is the goal, and love the method of attainment. |
. . . . . . . . . .Những gì tôi muốn nêu ra ở đây là ba con đường rõ rệt để hành giả có thể tiến lên đến Thượng Đế và hợp nhất với Chân ngã của Thái dương hệ. Y có thể tiến lên theo con đường của Đức Bàn cổ, y có thể thành đạt theo con đường của Đức Bồ-tát, hoặc y có thể đạt được mục đích theo con đường của Đức Văn minh. Nhưng các bạn hãy đặc biệt lưu ý rằng trên hành tinh này vị Chúa của Bác ái và Quyền lực, vị Kumara thứ nhất, là tụ điểm của cả ba ngành. Ngài là Đấng [168] Điểm đạo Duy nhất. Dù hành giả đi theo con đường Quyền lực hay con đường Bác ái, hoặc con đường Thông tuệ, cuối cùng y cũng phải tìm thấy mục tiêu của mình trên Cung tổng hợp Bác ái và Minh triết. Y phải chính là tình thương và phát lộ tình thương này. Nhưng đó có thể là tình thương tác động qua quyền lực. Đó có thể là tình thương trong sự điều hòa, hoặc là tình thương tác động thông qua hiểu biết, qua nghi lễ hay sùng tín. Hoặc đó chỉ là bác ái và minh triết thuần túy, hòa hợp tất cả những đặc tính khác. Bác ái là nguồn cội, là mục tiêu, là phương pháp thành đạt. |
|
AUGUST 14TH, 1920. |
Ngày 14-8-1920. |
|
The three lines of approach. |
Ba con đường tiến lên. |
|
As you will note (in continuation of that which we studied yesterday) there are three direct lines of contact between the higher and the lower, all finding their focal point through the same Initiator, and all, at the same time, quite distinct in their method of approach. If this is borne in mind it will be apparent that each provides for the man (whose egoic note is one of the three, or a department of the third) the line of least resistance and the path whereby he may most easily approach the Ultimate. It is fundamentally a matter dealing with various states of consciousness, and here it is that the Great Ones so powerfully assist the student. Through meditation, adjusted to the desired line, the student can control step by step the various intermediate states that lie between him and his goal. He rises by means of various focal points of force. These focal points may be his Higher Self, they may be his Master, they may be an ideal…….But they are only steps upon the ladder whereby expansions of consciousness are obtained, and the man is enabled to extend the periphery of his consciousness until he gradually embraces all, and merges at last with the Monad, and later [169] with the All-Self, the Logos Himself. |
Tiếp tục bàn vấn đề hôm qua, các bạn sẽ nhận thấy rằng có ba con đường trực tiếp giữa thượng và hạ, tất cả đều tụ hội qua cùng một Đấng Điểm đạo, và đồng thời ba con đường này lại hoàn toàn khác nhau trong phương pháp tiến tới. Nếu các bạn ghi nhớ điểm này thì rõ ràng mỗi con đường đều cung ứng cho hành giả (nốt của Chân nhân y thuộc một trong ba ngành, hoặc một chi nhánh của ngành thứ ba) lối đi ít trở ngại nhất và con đường dễ dàng nhất để về với Đấng Tối cao. Đây cơ bản là vấn đề khai mở những trạng thái tâm thức khác nhau, và chính là phương diện mà các Đấng Cao cả giúp đỡ người môn sinh rất nhiều. Nhờ tham thiền được điều chỉnh đúng theo con đường của mình, người môn sinh có thể từng bước kiểm soát được những trạng thái trung gian khác nhau giữa y và mục tiêu. Nhờ những tiêu điểm thần lực khác nhau mà y tiến lên cao. Các tiêu điểm đó có thể là Chân ngã y, có thể là Chân sư y, hoặc có thể là một lý tưởng…… Nhưng đó chỉ là những nấc thang để đạt sự mở mang tâm thức, giúp người môn sinh có thể nới rộng chu vi tâm thức của y cho đến khi y từ từ bao trùm tất cả, đến mức hòa hợp [169] với Chân thần, và sau đó hòa hợp với Toàn ngã, là chính Đức Thượng Đế. |
|
For the sake of clarity and in order to satisfy the craving of the concrete mind for differentiation these three departments are pictured as distinct and separated the one from the other, though having their points of contact. In reality—apart from the illusion that mind always sets up—the three are one, and the seven are but blended parts of one synthetic whole. They all interface and intermingle. All the three departments are but necessary parts of one organisation over which the Lord of the World rules. They are but the executives offices in which the business of our planet is handled, and each office is dependent upon the other offices, and all work in the closest collaboration. The man who finds himself on one line has to remember that in time and before perfection is achieved he must realise the synthesis of the whole. He must grasp it as a fact past all questioning and not just as a mental concept, and in his meditation there will eventually come a point when this realisation of the essential unity will be his and he will know himself as a fragment of a vaster whole. |
Để nói rõ hơn và để đáp ứng nhu cầu phân biệt của hạ trí các bạn nên ba ngành này được mô tả một cách khác biệt và riêng rẽ nhau, dù cũng có những điểm liên quan với nhau. Trên thực tế – khác với ảo tưởng mà hạ trí luôn luôn tạo ra – cả ba con đường là một, và bảy cung chỉ là những phần tử hợp thành một toàn thể tổng hợp. Tất cả đều đan kết và pha trộn vào nhau. Cả ba ngành này chỉ là những thành phần cần thiết của một tổ chức duy nhất do Đức Chúa tể Hoàn cầu ngự trị. Cả ba chỉ là những cơ quan thừa hành để quản trị mọi công việc của hành tinh này. Mỗi cơ quan đều tùy thuộc vào hai cơ quan kia và cả ba hợp tác chặt chẽ với nhau. Một người thấy mình ở trên con đường nào cũng phải nhớ rằng trước khi đạt mức hoàn thiện, có lúc y phải nhận ra sự tổng hợp của toàn thể. Y phải hiểu đó là một sự thực hiển nhiên, chứ không phải chỉ là một quan niệm tri thức. Trong tham thiền rốt cuộc sẽ đến lúc y nhận thức được sự hợp nhất chính yếu này và sẽ tự biết mình là một phần tử của cái toàn thể rộng lớn hơn. |
|
In these three departments the method of approach to the Head of the Department is meditation, and the means whereby the student puts himself en rapport with the essential Life of that department (it is all a matter of terms) differ. The life within the form manifests—as a result of meditation—in three different ways. The results of meditation as demonstrated in terms of character, if I may so express it, are really the same aspects of manifestation under different terms or conditions. Let me tabulate them for you:— |
Trong ba ngành nói trên, phương pháp để tiến đến vị Trưởng ngành là tham thiền, và những phương tiện để người môn sinh kết hợp với Sự Sống chính yếu của ngành đó (đây chỉ toàn là vấn đề từ ngữ) cũng khác biệt. Nhờ thiền định mà sự sống trong hình thể biểu lộ theo ba cách khác nhau. Có thể nói rằng những kết quả của tham thiền biểu lộ trong tính tình thực ra đều cùng là những trạng thái biểu lộ nhưng trong những phạm vi hay những điều kiện khác nhau. Tôi xin liệt kê như sau: – |
|
Line of the Manu…Force, Strength, Power to rule. [170] |
Con đường của Đức Bàn cổ Thần lực, Sức mạnh, Quyền năng cai trị. [170] |
|
Line of the Bodhisattva…Magnetism, Attraction, Healing. |
Con đường của Đức Di Lạc Bồ-tát Từ lực, Hấp dẫn, Trị liệu. |
|
Line of the Mahachohan…Electricity, Synthesis, Organisation. |
Con đường của Đức Văn minh Đại đế Điện lực, Tổng hợp, Tổ chức. |
|
I seek here to point out that the effect in the life of the student of meditation on one of these three lines will be as enumerated above, though all of course coloured and modified by his personality ray, and by the point attained in evolution. If you study the three words applied to the three lines you will find it very illuminating. (I seek not to enlarge the mental body but to train the intuition.) These words demonstrate the law as working through the three groups, and the working out into active expression in the three worlds of the due following of the desired line. Each line has its specific forms whereby those results are achieved, and the time is coming when the rudiments of these forms (the first fundamental formulas) will be given to students deemed ready and who have done the necessary preliminary work. |
Ở đây tôi muốn nói rằng hiệu quả trong cuộc sống của người môn sinh tham thiền theo một trong ba đường hướng này sẽ là như vừa kể, dù dĩ nhiên là tất cả đều bị cung của phàm nhân hay trình độ tiến hóa của y nhuộm màu hay qui định. Nếu nghiên cứu ba từ ngữ áp dụng cho ba con đường này, các bạn sẽ thấy được soi sáng nhiều hơn. (Tôi không nói để mở rộng thể trí mà để rèn luyện trực giác.) Các từ này bày tỏ sự tác động của định luật thông qua ba nhóm, và biểu lộ tích cực trong tam giới bằng cách theo đúng con đường cần thiết. Mỗi con đường có những hình thức thiền đặc biệt để đạt được những kết quả kể trên. Sẽ đến lúc những điều cương yếu của các hình thức thiền này (những phương thức cơ bản đầu tiên) sẽ được truyền cho những môn sinh nào được xem là đã chuẩn bị sẵn sàng và đã thực hiện công tác sơ khởi cần thiết. |
|
1. The line of the Manu. |
1. Con đường của Đức Bàn Cổ. |
|
We might here somewhat indicate the approximate method, and lay down certain rules which will serve to elucidate when the time comes. |
Ở đây chúng ta có thể đưa ra một phần phương pháp gần đúng, và ấn định một số qui tắc dùng để minh giải khi thời gian đến. |
|
This first line is specially the line of government, of racial, development, of working in and with the matter of all forms on all the planes of human evolution. It is, as I have said before, the line of occultism. It emphasises the hierarchical method, it embodies the divine autocracy, and it is the line whereby our solar Logos imposes His Will on men. It is closely linked to the Lords of Karma, and it is through the Manu’s department that the Law of Cause and Effect is wielded. The four Lords of Karma work closely with the Manu, for They impose the Law, and [171] He manipulates the forms of men, of continents, of races, and of nations so that that law may be duly worked out. |
Con đường thứ nhất này đặc biệt là con đường của chính quyền, sự phát triển các giống dân, chăm lo về phương diện vật chất cho các hình thể trong tất cả những cảnh giới tiến hóa của nhân loại. Như tôi đã nói, đây chính là con đường huyền bí học. Nó chú trọng đến phương pháp của Đ.Đ.C.G., thể hiện sự chuyên chế thiêng liêng, và là con đường để Đức Thái Dương Thượng Đế áp dụng Thiên ý của Ngài cho loài người. Nó liên kết chặt chẽ với các Đấng Nghiệp quả Tinh quân, và Luật Nhân quả tác động qua ngành này. Bốn Đấng Nghiệp quả Tinh quân hoạt động mật thiết với Đức Bàn cổ, vì các Ngài áp dụng định luật, còn Đức Bàn cổ thì vận dụng các [171] hình thể của con người, các lục địa, các giống dân và các quốc gia, sao cho định luật ấy có thể tác động đúng đắn. |
|
The man therefore who attempts through meditation to contact these powers, to rise to union by these means, and to attain the consciousness of the Will aspect, works under set rules, rises from point to point under due forms, and broods ever on the Law and its workings. He seeks to understand, he discriminates and studies; he is occupied with the concrete and its place in the divine plan. He admits the fact of the indwelling life but concentrates primarily on its method and form of manifestation. The basic rules of expression and of government occupy his attention, and by studying the rules and laws, and by seeking to comprehend, he necessarily contacts the Ruler. From stage to stage he rises—from the ruler of the microcosm in the three worlds, to the group egoic and its focal point, a Master; from the ruler of the group he rises to the Manu, the Ruler of the department wherein he has his place, thence to the Ruler of the World, later to the Planetary Logos, and thence to the Solar Logos. |
Vì thế, người nào cố gắng dùng tham thiền để tiếp xúc với các quyền lực này, dùng những phương tiện này để vươn lên đến sự hợp nhất và để đạt được tâm thức của trạng thái Ý chí, đều hoạt động theo những qui luật đã định, tiến lên cao từng bước theo các phương thức đúng đắn, và luôn luôn suy ngẫm về Định luật cùng những tác động của nó. Y tìm hiểu, phân biện và học hỏi. Y chuyên chú vào những gì cụ thể và vị trí của sự vật cụ thể trong Thiên cơ. Y thừa nhận thực tế về sự sống nội tại nhưng vẫn chú tâm chính yếu vào phương pháp và hình thức biểu hiện của sự sống này. Những qui luật căn bản của sự phát biểu và quản trị thu hút sự chú ý của y, và nhờ nghiên cứu các qui luật và định luật và nhờ tìm hiểu mà tất nhiên y sẽ tiếp xúc với Đấng Ngự trị. Y tiến lên cao theo từng giai đoạn – từ vị chúa của tiểu vũ trụ trong tam giới đến nhóm Chân nhân mà tiêu điểm là một vị Chân sư. Từ vị lãnh đạo của nhóm này, y tiến lên đến Đức Bàn cổ, là vị Chủ tể ngành của y, rồi đến Đức Chúa tể Hoàn cầu, về sau đến Đức Hành Tinh Thượng Đế, rồi đến Đức Thái Dương Thượng Đế. |
|
2. The line of the Bodhisattva. |
2. Con đường của Đức Di Lạc Bồ Tát. |
|
This is the line of religion and of philosophy, and of the development of the indwelling life. It deals with consciousness within the form more than with the form itself. It is the line of least resistance for the many. It embodies the wisdom aspect of the Logos, and is the line whereby His love is manifested in a predominant fashion. The solar system being in itself a direct expression of the Logos, and of His love aspect, all in manifestation is based upon it—love in rule, love abounding, love in activity,—but in this second line the above manifestation is supreme, and will eventually absorb all the others. |
Đây là con đường của tôn giáo và triết học, và sự phát triển của sự sống nội tại. Nó liên hệ đến tâm thức ẩn trong hình thể hơn là với chính hình thể đó. Đây là con đường ít trở ngại nhất đối với nhiều người. Nó thể hiện trạng thái minh triết của Thượng Đế, và là con đường mà tình thương của Ngài thể hiện nổi bật nhất. Thái dương hệ chính là sự biểu lộ trực tiếp của Đức Thượng Đế và trạng thái bác ái của Ngài mà toàn cuộc biểu hiện đều dựa vào đó – bác ái đang ngự trị, bác ái dâng tràn, bác ái đang tác động, – nhưng trên con đường thứ hai này bác ái biểu lộ đến mức cao nhất và rốt cuộc sẽ hấp thu tất cả. |
|
The man who meditates on this line seeks ever to enter into the consciousness of all that breathes, and by [172] graded expansions of consciousness to arrive eventually at the All-Consciousness, and to enter into the life of the Supreme Being. Thus he enters into the life of all within the Logoic Consciousness. |
Người tham thiền trên con đường này sẽ luôn luôn tìm cách nhập vào tâm thức của mọi sinh vật, và nhờ sự khai [172] mở tâm thức từng bậc mà cuối cùng đạt đến Toàn linh thức và nhập vào sự sống của Đấng Chí Tôn. Nhờ thế, y nhập vào sự sống của vạn hữu bên trong tâm thức của Thượng Đế. |
|
He broods not so much upon the Law as upon the life that is governed by that Law. Through love he comprehends, and through love he blends himself first with his Ego, then with his Master, next with his group egoic and then with all groups, till finally he enters into the consciousness of the Deity Himself. |
Y không suy ngẫm nhiều về Định luật mà suy ngẫm nhiều về sự sống được Định luật đó quản trị. Nhờ tình thương y hiểu biết và nhờ tình thương mà trước hết y tự hòa hợp với Chân ngã y, sau đó với Chân sư, rồi với nhóm Chân ngã của y, rồi đến tất cả các nhóm khác, cho đến cuối cùng y nhập vào tâm thức của chính Thượng Đế. |
|
3. The line of the Mahachohan. |
3. Con đường của Đức Văn minh Đại đế. |
|
This is the line of mind or intelligence, of knowledge and of science. It is the line of abstract mind, and of archetypal ideas. The man broods not so much upon the Law, not so much upon the Life, as upon the effects of both in manifestation, and upon the reason why. The man on this fivefold line ever asks why, and how, and whence, and seeks to synthesise, to comprehend and to make the archetypes and ideals facts in manifestation. He broods on the ideals as he senses them; he aims at contacting the Universal Mind, at wresting its secrets from it, and giving them expression. It is the line of business organisation, the line also in which the artists, musicians, scientists and the workers of the world have their place. The Spirits of Love and Activity pass much time in each of its five departments before passing on to the lines of love and of power. |
Đây là con đường của trí tuệ hay thông tuệ, của kiến thức và khoa học. Đây là con đường của trí tuệ trừu tượng và của những ý tưởng nguyên thủy. Hành giả trên con đường này không suy ngẫm nhiều về Định luật, về Sự Sống mà suy ngẫm nhiều về ảnh hưởng của cả hai trong cuộc biểu hiện, và các nguyên do. Trên con đường năm chi nhánh này, y luôn luôn hỏi tại sao, bằng cách nào, từ đâu, và tìm cách tổng hợp, tìm hiểu và tạo ra các nguyên mẫu và các sự kiện lý tưởng trong cuộc biểu hiện. Y suy ngẫm về các lý tưởng khi y cảm được chúng. Y nhắm đến việc tiếp xúc với Trí tuệ Vũ trụ, khám phá những bí mật từ đó, và phát biểu chúng. Đây là con đường của tổ chức kinh doanh, cũng là con đường của các họa sĩ, nhạc sĩ, các nhà khoa học và những người phụng sự nhân loại. Các Chân thần Bác ái và Hoạt động phải dành nhiều thời gian cho một trong năm chi nhánh của ngành này, trước khi chuyển qua con đường tình thương và quyền lực. |
|
In meditation the man takes some ideal, some part of the divine plan, some phase of beauty and of art, some scientific or racial problem, and by brooding over it and by the employment of lower mind, finds out all that can be known and sensed. Then, having done all that, he seeks to raise the consciousness still higher till he taps the source of illumination, and gains the light and information [173] required. He mounts likewise by entering into the consciousness of those greater than himself, not so much from the point of view of love (as in the second line) as from admiration and joy in their achievement, and gratitude for what they have given to the world, and devotion to the same idea that impels them to action. |
Trong lúc tham thiền, hành giả lấy một lý tưởng, một phần của Thiên cơ, một phương diện của mỹ lệ và nghệ thuật, một vấn đề của khoa học hay của nhân loại, rồi nhờ suy ngẫm về đó và nhờ sử dụng hạ trí y khám phá ra được tất cả những gì có thể hiểu và cảm nhận được. Khi đã làm xong các điều này, y tìm cách nâng tâm thức mình lên cao hơn nữa, cho đến khi y chạm đến nguồn khai ngộ, có được [173] ánh sáng và sự hiểu biết cần thiết. Y cũng lên cao bằng cách nhập vào tâm thức của các bậc cao cả hơn y, không do tình thương (như ở con đường thứ hai) mà do sự khâm phục và vui mừng trước các thành tựu của họ, do lòng biết ơn những việc mà các vị ấy đã làm cho nhân loại, cũng như tôn sùng chính cái ý tưởng đã thôi thúc họ hành động. |
|
Therefore you will see from even the most superficial study of the above three lines how apparent it is that all the sons of men are rising. Even the ones—so apt to be despised—who are the active workers of the world may, in their place and through their devotion to the ideals of work or science or even of business organisation, be just as far advanced as the more highly considered ones who demonstrate more patently the love aspect of the Divine Self. Forget not that activity is just as divine and just as fundamentally an expression of the All-Father as love in sacrifice, and even more so than what we now know as power, for the power aspect is as yet not comprehended by any of you, nor will it be until a further manifestation. |
Vì thế, dù nghiên cứu về ba con đường này có sơ lược đến đâu các bạn cũng thấy rõ là tất cả nhân loại đều đang tiến lên. Ngay đến những người – dù thường bị khinh miệt – hiện đang tích cực phụng sự thế gian (trong vị thế của họ và qua lòng tôn sùng những lý tưởng phụng sự hay khoa học, hoặc ngay cả tổ chức kinh doanh) vẫn có thể tiến hóa cao như những người được coi trọng hơn, vì đã biểu lộ rõ rệt trạng thái bác ái của Chân ngã thiêng liêng. Đừng quên rằng sự hoạt động cũng thiêng liêng, và trong căn bản cũng là sự biểu hiện của Đấng Cha Chung như tình thương trong hy sinh, còn hơn cả cái mà hiện giờ chúng ta gọi là quyền lực, bởi vì chưa có ai trong các bạn hiểu rõ về phương diện quyền lực, hiện nay và về sau, cho đến khi nó biểu hiện nhiều hơn. |
|
AUGUST 14TH, 1920. |
Ngày 14-8-1920. |
|
Forms used in calling devas and elementals. |
Những hình thức thiền để kêu gọi các vị thiên thần và các tinh linh. |
|
In taking up the two points that you have enumerated six and seven, we shall be able to deal with them as one, for the mantrams and forms used in contacting the devas, angels or builders, and in calling the elementals or subhuman forms of existence, are practically the same, and should in these letters be counted as such. |
Chúng ta có thể gom hai điểm sáu và bảy làm một, vì các câu thần chú và các hình thức thiền để tiếp xúc với các thần, các thiên thần hay các vị thần kiến tạo, và để kêu gọi các tinh linh hay là các hình thức sinh tồn hạ đẳng, trên thực tế đều như nhau và trong những bức thư này nên xem như vậy. |
|
As a preliminary step let us be quite clear wherein lies the distinction between these two groups. |
Trước hết chúng ta hãy phân biệt rõ hai nhóm này. |
|
The elementals are, in their essential essence, subhuman. The fact that they can he contacted on the emotional plane is no guarantee that they are on the evolutionary [174] path. On the contrary, they are on the path of involution, on the downward arc. They are to be found on all planes, and the etheric elemental forms—such as the brownies, gnomes and pixies—are well known. They can be roughly divided into four groups:— |
Các tinh linh chính yếu là giới tiến hóa dưới nhân loại. Việc ta tiếp xúc với chúng trên cõi tình cảm không bảo đảm rằng chúng đang ở trên đường tiến hóa thăng thượng. Trái [174] lại, chúng đang ở trên đường tiến hóa giáng hạ, trên vòng cung đi xuống. Chúng có trên tất cả các cõi, và nhiều người đã biết những hình thể tinh linh ở cõi dĩ thái như là các tiểu thần, các thần giữ của và các tiên đồng. Chúng được tạm chia ra làm bốn nhóm: – |
|
1. The elementals of earth. |
1. Tinh linh của đất. |
|
2. The elementals of water. |
2. Tinh linh của nước. |
|
3. The elementals of air. |
3. Tinh linh của không khí. |
|
4. The elementals of fire. |
4. Tinh linh của lửa. |
|
They are the essence of things, if you could but realise it. They are the elemental things of the solar system in their four grades as we know them in this fourth cycle on the fourth or earth planet. |
Nếu các bạn có thể biết được, thì chúng là tinh hoa của mọi vật. Chúng là những loài tinh hoa của thái dương hệ, có bốn cấp bậc, như chúng ta biết trong chu kỳ thứ tư này, trên hành tinh thứ tư hay là địa cầu. |
|
The devas are on the evolutionary path, on the upward way. They are, as you know, the Builders of the system, working in graded and serried ranks. Devas are to be found of the same rank as the Planetary Logoi, and the Rulers of the five planes of human evolution hold rank equal to that of a Master of the seventh Initiation. Others are equal in development (along their own line) to a Master of the fifth Initiation, and they work consciously and willingly with the Masters of the Occult Hierarchy. They can be found on all the lesser grades down to the little building devas who work practically unconsciously in their groups, building the many forms necessitated by the evolving life. |
Các thiên thần đang trên đường tiến hóa thăng thượng, trên vòng cung đi lên. Như các bạn biết, đó là các vị Thần kiến tạo của thái dương hệ làm việc trong những hàng ngũ có cấp bậc và sát cánh với nhau. Có những thần ngang cấp với các Hành Tinh Thượng Đế, và những vị Chủ tể của năm cảnh giới tiến hóa của nhân loại có cấp bậc ngang một Chân sư được bảy lần điểm đạo. Những vị khác (theo con đường riêng của họ) thì có mức phát triển bằng một Chân sư được năm lần điểm đạo. Họ làm việc một cách tự nguyện và hữu thức với các Chân sư trong Đ.Đ.C.G.. Thiên thần cũng có ở mọi cấp thấp hơn cho đến những vị tiểu thần kiến tạo chỉ làm việc một cách hầu như vô thức với nhóm của họ để xây dựng những hình thể cần cho sự sống đang tiến hóa. |
|
Earlier—prior to my dictating these letters to you—you received one communication along the line of the mantric invocation of the elementals and the devas. The information given was correct, as far as it went, and you may if you wish incorporate it here. |
Trước đây – trước khi tôi đọc các bức thư này cho các bạn – các bạn đã được truyền đạt về cách thỉnh cầu các tinh linh và thiên thần bằng thần chú. Giáo huấn vừa kể đúng ở mức đó, và nếu muốn các bạn có thể kết hợp vào đây. |
|
“Force in evolution and force in involution are two different things. That is a preliminary statement. [175] In the one you have destruction, violence, blind elementary powers at work. In involution it is the elementals who do most of the work, working blindly along as controlled by the Builders. The work is constructive, cohesive, a gradual growing together, harmony out of discord, beauty out of chaos. The lower kingdoms of the devas work, guided by the great Building Devas, and all move upward in ordered beauty from plane to plane, from system to system, universe to universe. Therefore in studying occult lore you need to remember two things:— |
“Mãnh lực tiến hóa thăng thượng và mãnh lực tiến hóa giáng hạ vốn khác nhau. Đó là lời phát biểu sơ khởi. Một [175] đàng là sự hủy diệt, bạo lực, hoạt động mù quáng của quyền lực các loài tinh linh. Trên đường tiến hóa giáng hạ, các tinh linh làm hầu hết mọi việc, chúng làm việc một cách mù quáng nhưng được các Thần kiến tạo kiểm soát, nên công việc cũng có tính cách xây dựng, kết hợp, cùng tăng trưởng tuần tự, tạo sự điều hòa từ bất hòa, tạo sự mỹ lệ từ hỗn loạn. Các giới thấp của thiên thần cũng hoạt động dưới sự hướng dẫn của các vị Đại thiên thần Kiến tạo, và tất cả đều đi lên trong sự mỹ lệ trật tự, từ cõi này đến cõi khác, từ hệ thống này đến hệ thống khác, từ vũ trụ này đến vũ trụ khác. Vì thế, khi nghiên cứu kiến thức huyền môn, các bạn cần nhớ hai điều: – |
|
a. You control elemental forces. |
a. Các bạn phải kiểm soát các sức mạnh tinh linh. |
|
b. You co-operate with the devas. |
b. Các bạn phải hợp tác với các thiên thần. |
|
In one you dominate, in the other case you endeavour to work with. You control through the activity aspect, by the definite doing of certain things, by the preparation of certain ceremonies, for instance, through which certain forces can play. It is a replica on a tiny miniature scale of what the third Logos did in world making. Certain activities had certain results. Later on, revelations can be made as to the rites and ceremonies through which you can get in touch with the various elementals, and control them. The Ceremonial Ray—by coming into incarnation at this time, is making things much easier along this particular line. |
Một đàng thì các bạn phải chế ngự, còn trường hợp kia thì các bạn phải cố gắng hợp tác. Các bạn kiểm soát nhờ phương diện hoạt động, bằng cách thực hiện một số việc nhất định, chẳng hạn như chuẩn bị một số nghi lễ để qua đó một số mãnh lực có thể tác động. Đó là một bản sao bé nhỏ của những gì mà Đức Thượng Đế Ngôi Ba làm khi sáng tạo ra thế giới. Những hoạt động nhất định mang lại những kết quả nhất định. Sau này, sẽ có tiết lộ các nghi thức và nghi lễ, để chúng ta có thể dùng tiếp xúc với nhiều loại tinh linh khác nhau và chế ngự chúng. Cung Nghi lễ giáng lâm trong thời đại hiện nay và đang giúp cho những công việc loại này được thực hiện dễ dàng hơn. |
|
Fire elementals, water sprites, and the lower elementals can all be harnessed by rites. The rites are of three kinds:— |
Các tinh linh của lửa, các thủy tinh và các tinh linh thấp kém hơn đều có thể được chế ngự qua các nghi thức. Nghi thức này gồm ba loại: – |
|
1. Protective rites, which concern your own protection. |
1. Nghi thức bảo vệ, để các bạn tự hộ thân. |
|
2. Rites of appeal, which call and reveal the elementals. [176] |
2. Nghi thức kêu gọi, để kêu gọi các tinh linh và làm chúng xuất hiện. [176] |
|
3. Rites that control and direct them when summoned. |
3. Nghi thức kiểm soát và điều khiển các tinh linh, khi đã triệu tập chúng lại. |
|
In working with the devas you use the wisdom or love aspect, the second aspect of the Logos, the building aspect. Through love and longing you reach them and your first step (as you are on the path of evolution, as they are) is to get in touch with them, for together you must work in the future for the guidance of the elemental forces and the helping of humanity. It is not safe for human beings, poor foolish things, to tamper with the forces of involution until they themselves are linked with the devas through purity of character and nobility of soul. |
Đối với các vị thiên thần thì các bạn sử dụng trạng thái minh triết hay bác ái, trạng thái thứ hai của Thượng Đế, là phương diện kiến tạo. Nhờ tình thương và ước vọng mạnh mẽ mà các bạn có thể đạt đến họ, và bước đầu (vì các bạn cũng đang ở trên con đường tiến hóa thăng thượng như họ) là tiếp xúc với họ. Bởi vì trong tương lai các bạn và họ phải cộng tác để hướng dẫn các mãnh lực tinh linh và để trợ giúp nhân loại. Thật không an toàn chút nào cho nhân loại, những con người khờ dại đáng thương, khi họ tìm cách tiếp xúc với các mãnh lực tiến hóa giáng hạ mà chưa được nối kết với các thiên thần nhờ sự tinh khiết trong đức hạnh và sự cao thượng của tâm hồn. |
|
Through rites and ceremonies you can sense the devas and reach them, but not in the same manner nor for the same reason that you can the elementals. The devas attend ceremonies freely and are not summoned; they come, as you do, to tap the power. When your vibrations are pure enough the ceremonies serve as a common meeting-ground. |
Qua nghi lễ và nghi thức các bạn có thể cảm được các thiên thần và tiếp xúc với họ, nhưng phương cách và lý do tiếp xúc không giống như đối với các tinh linh. Thiên thần thì tham dự các nghi lễ một cách tự do và không phải đến do triệu tập. Cũng như các bạn, họ đến là để thu mãnh lực. Khi rung động của các bạn đúng mức trong sạch, thì các nghi lễ có thể trở thành nơi gặp gỡ chung. |
|
…………I want to say in closing that when you have learned to use the activity aspect in work with the involutionary powers, and the wisdom aspect in co-operating with the devas, you will then unitedly pass on to use the first aspect, that of will or power.” |
. . . . . . . . . . . . Tóm lại, khi các bạn đã học cách sử dụng phương diện hoạt động đối với các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, và dùng trạng thái minh triết để hợp tác với các thiên thần, bấy giờ các bạn hãy chuyển sang kết hợp sử dụng trạng thái thứ nhất, là trạng thái ý chí hay quyền lực.” |
|
Before proceeding further I seek to sound a note of warning as to the danger that lies in the calling and the contacting of these groups of builders, and more especially in the contacting of the elemental forces. Why especially the latter? Because these forces at all times find a response in one of the three lower bodies of men, these bodies (regarded as separated sheaths) being composed of these involutionary lives. Therefore he who unwittingly lays [177] himself open to direct contact with any elemental, runs a risk, and may bitterly rue the day. But, as a man approaches adeptship and has achieved mastery over himself, and can consequently be trusted with the mastery of other forms of life, certain powers will be his. These powers—based as they are on law—will put into his hands the rule over lesser lives, and will teach him that co-operation with the deva hosts which will be so essential towards the latter end of evolution. |
Trước khi bàn thêm, tôi muốn đưa ra lời khuyến cáo về sự nguy hiểm khi kêu gọi và tiếp xúc với nhóm kiến tạo này; đặc biệt là trong sự tiếp xúc với các mãnh lực tinh linh. Tại sao lại đặc biệt là nhóm sau? Bởi các mãnh lực này luôn luôn tìm sự ứng đáp của một trong ba hạ thể của con người. Các thể này (xem như những lớp vỏ riêng rẽ) được cấu tạo bằng những sinh linh đang tiến hóa giáng hạ nói trên. Vì thế, kẻ [177] nào vô ý tự mình tiếp xúc thẳng với bất cứ một tinh linh nào là làm một việc liều lĩnh và có ngày sẽ hối hận đắng cay. Nhưng khi hành giả đang tiến đến quả vị Chân sư, đã làm chủ được chính mình và do đó được tín nhiệm giao cho quyền làm chủ nhiều hình thể khác của sự sống, y sẽ có một số quyền năng. Những quyền năng này, dựa vào định luật, sẽ trao vào tay y quyền ngự trị các sinh linh thấp kém hơn. Y sẽ biết cách hợp tác với các thiên thần, là điều rất thiết yếu trong giai đoạn sau của cuộc tiến hóa. |
|
Mantrams of power. |
Các câu thần chú quyền năng. |
|
The mantrams that hold the secret of power are, as you know and have been told above, of different kinds, and are primarily four: |
Những câu thần chú nắm giữ bí quyết của quyền năng (như các bạn biết và đã nêu trên) vốn có nhiều loại, và chính yếu thì có bốn loại: |
|
a. Of prime importance are the protective mantrams. |
a. Quan trọng nhất là các câu chú hộ thân. |
|
b. The mantrams that call the elementals and lesser devas, and bring them into the magnetic radius of the one who calls. |
b. Loại thần chú kêu gọi các tinh linh và các tiểu thần, và đưa họ vào tầm hấp dẫn của người kêu gọi. |
|
c. The mantrams that impose upon the elementals and lesser devas the will of the one who calls. |
c. Loại thần chú dùng để áp đặt ý chí của người kêu gọi vào các tinh linh và các thần bậc thấp. |
|
d. Mantrams that break the charm, if I may put it so, and place the elementals and devas again outside the magnetic radius of the caller. |
d. Loại thần chú chấm dứt sự hấp dẫn (xin tạm gọi như vậy) và lại đưa các tinh linh và các thần này ra ngoài phạm vi từ lực của người kêu gọi họ. |
|
These four groups of mantrams refer especially to the calling and contacting of the lesser grades and are not much used, except in rare cases by initiates and adepts, who, as a general rule, work through the instrumentality of the great guiding devas and builders. The Dark Brotherhood work with the forces of involution and bend to their will the unwitting lesser forms of life. The true procedure—as followed by the Brotherhood of Light—is to control these involutionary groups and low grade devas [178] through their own superior ranks, the cohorts of the building devas with their Deva Lords. |
Bốn loại thần chú này đặc biệt liên quan đến việc kêu gọi và tiếp xúc với các tinh linh và thần cấp thấp, và không được sử dụng nhiều ngoại trừ những trường hợp sử dụng hiếm hoi của các điểm đạo đồ và các vị Chân sư. Các vị này hoạt động qua trung gian của các thiên thần hướng dẫn và các vị thần kiến tạo cấp cao. Các Huynh đệ Bàng môn làm việc với các mãnh lực tiến hóa giáng hạ, và buộc các sinh thể thấp kém và vô thức ấy phải làm theo ý họ muốn. Qui trình đích thực mà các Huynh đệ Chánh đạo sử dụng là kiểm soát những nhóm tinh linh và các thần bậc thấp này bằng chính các cấp [178] chỉ huy của chúng, là các nhóm thiên thần kiến tạo với vị Thiên thần Chúa tể của họ. |
|
This brings me to another group of mantrams used in connection with the devas themselves. |
Điều này khiến tôi phải đề cập đến một nhóm thần chú khác dùng để kết hợp với chính các thiên thần. |
|
a. Rhythmic mantrams, that put the one who uses them in contact with the deva group he seeks. These mantrams are, of course, forms of Ray Mantrams, for they call the devas on some one ray. These mantrams again will vary if the man himself is on the same ray as the group he calls. You ask why protective mantrams are not used first as in the case of calling elementals. Principally for the following reason. The mantrams calling elementals are more easily found and used than those calling the devas. History is full of instances of where this has been done, and all over the world (even at this time) are people who hold the secret that will put them in touch with elementals of one kind or another. Everyone in Atlantean days knew how to do this, and among savage peoples and by some individuals in civilised countries the art is still known and practised. Secondly, the average man, even if he knows the mantram, will probably fail in calling a deva, for it involves something more than just chanting the words and sounds. This something is one of the secrets of initiation. When a man is an initiate or an adept he needs not the protective rites, for it is a law in the occult world that only those of pure life and unselfish motive can successfully reach the deva evolution, whereas in connection with the elementary lives it works the other way. |
a. Các thần chú có nhịp điệu giúp người sử dụng tiếp xúc được với nhóm thiên thần mà y tìm kiếm. Dĩ nhiên đây là những hình thức Thần chú của các Cung, vì chúng dùng để kêu gọi các thiên thần ở một cung. Các câu chú này lại thay đổi nếu chính người sử dụng lại thuộc cùng một cung với nhóm thiên thần mà y kêu gọi. Các bạn hỏi tại sao không sử dụng các câu chú hộ thân trước, như khi kêu gọi các tinh linh. Chính yếu là vì lý do sau đây. Các câu chú kêu gọi các tinh linh thì dễ tìm thấy và dễ sử dụng hơn các câu chú dùng cho các thiên thần. Quá khứ đã có đầy dẫy các trường hợp người ta làm điều này, và khắp nơi trên thế giới (ngay cả ở thời đại này) vẫn có những người nắm giữ bí quyết giúp họ tiếp xúc được với các tinh linh thuộc loại này hay loại khác. Mọi người trong thời đại Atlantis đều biết cách thực hiện điều này. Hiện nay một số dân tộc dã man và một số người ở các nước văn minh vẫn còn biết và sử dụng nghệ thuật này. Lý do thứ hai là đối với người thường dù có biết được câu chú y vẫn không thể kêu gọi được một vị thiên thần nào, vì nó còn một số bí quyết khác nữa chứ không chỉ là xướng lên các từ và âm thanh mà thôi. Bí quyết đó là một bí mật của điểm đạo. Khi là một điểm đạo đồ hay là một vị Chân sư thì người ta không cần những nghi thức hộ thân, vì theo định luật của huyền môn thì chỉ những ai có cuộc sống thanh khiết với động lực vô tư lợi mới có thể đạt đến trường tiến hóa của các thiên thần một cách thành công. Trong khi liên lạc với các sinh linh thấp kém thì phải làm cách khác. |
|
b. Mantrams that permit of intercourse with the devas once they have been called. Speech, as we know it, is not understood by the devas, but impulses, forces, vibrations can be set up by the use of specific forms that lead to the desired result and obviate the need of speech. [179] These forms open the avenues of mutual comprehension. |
b. Những câu thần chú giúp liên giao với các thiên thần khi đã kêu gọi họ. Như chúng ta đều biết là thiên thần không hiểu được các lời nói, nhưng những xung lực, những mãnh lực, những rung động được tạo ra nhờ sử dụng các thể thức đặc biệt sẽ đưa đến kết quả mong muốn mà khỏi dùng lời. Những [179] thể thức này mở đường cho sự thông hiểu lẫn nhau. |
|
c. Mantrams that influence groups, and others that influence specific devas. I would like to point out here that as a rule devas are handled in groups and not as individuals until you contact devas of a very high order. |
c. Có những thần chú ảnh hưởng đến các nhóm thiên thần và các thần chú khác lại ảnh hưởng đến từng vị. Ở đây, cần lưu ý rằng thường thì các thiên thần được kêu gọi từng nhóm chứ không từng cá thể, trừ khi các bạn có thể tiếp xúc với các vị thần ở cấp bậc rất cao. |
|
d. Mantrams that directly call the attention of one of the deva lords of a subplane, or the mighty Deva Lord of a plane. They are known to very few and are only used by those who have taken high initiation. |
d. Các câu chú kêu gọi trực tiếp sự chú ý của một trong các vị chúa thiên thần của một cõi phụ, hoặc là vị Đại Thiên thần chủ tể của một cảnh giới. Rất ít người biết được các câu chú này, và chúng chỉ được các vị điểm đạo đồ cấp cao sử dụng mà thôi. |
|
AUGUST 17TH, 1920. |
Ngày 17-8-1920. |
|
The comprehension of force. |
Hiểu biết về mãnh lực. |
|
……The tension today is great, and the force pouring in on all the different centres is apt—unless duly regulated—to cause a feeling of fatigue, of tension, of excitement and of restlessness. The secret of regulation which lies in non-resistance is known to very few, and consequently the intensity of emotion, the violent reactions, and present widespread era of crime are the results, very largely, of force misused and misapplied. This can be seen demonstrating in all ranks of life, and only he who knows the secret of being naught but a channel, and who abides still within the secret place, can pass through the present crisis without undue shattering and pain. Stimulation—such as is at present abroad—leads to pain and consequent reaction and must be guarded against with as much care as its opposite, loss of vitality—guarded against, not in the sense of shutting oneself off from stimulating force but of receiving that force, passing it through one’s being, and only absorbing as much of it as one can carry. The residue will then pass out from one as a healing agency on its return to the general reservoir. The true and occult significant of force in nature, of the electrical [180] currents of the universe, and of the latent heat stored in all forms is little understood as yet by your exoteric scientists, or your would-be occult students…….approached the study of occultism from this angle, and therefore, he attained a profound knowledge of law. |
. . . . . . Tình trạng căng thẳng hiện nay rất lớn, và mãnh lực tuôn vào tất cả các luân xa khác nhau, nếu không được điều chỉnh đúng cách, sẽ thường gây ra một cảm giác mệt mỏi, căng thẳng, khích động và bứt rứt không yên. Rất ít người biết được bí quyết của sự điều chỉnh bằng cách không đối kháng. Thế nên, sự tăng cường xúc cảm, các phản ứng thô bạo, và thời đại tội ác lan tràn hiện tại, phần rất lớn là hậu quả của việc sử dụng sai và áp dụng sai các mãnh lực. Điều này có thể xảy ra trong mọi tầng lớp xã hội, và chỉ những ai biết được bí quyết thấy mình không gì khác hơn là một kênh vận chuyển và vẫn điềm tĩnh trong chốn bí mật ở nội tâm, mới có thể vượt qua cuộc khủng hoảng hiện tại mà khỏi bị những đổ vỡ và khổ đau không đáng có. Sự kích thích – đều khắp như hiện nay – đưa đến sự đau khổ với hậu quả là các phản ứng mà chúng ta phải hết sức đề phòng, cũng như phải đề phòng điều trái lại là mất sinh lực. Hãy đề cao cảnh giác chứ không phải là bưng tai bịt mắt lẩn tránh sức kích thích, mà thu nhận mãnh lực này, cho nó đi qua bản thể của mình, và chỉ hấp thu một phần tùy theo khả năng. Phần còn lại sẽ đi qua luôn như một tác nhân chữa bệnh trên đường trở về kho chứa chung. Cái ý nghĩa đích thực và huyền bí của các mãnh lực trong thiên nhiên, của các dòng [180] điện trong vũ trụ và sức nóng ẩn tàng trong mọi hình thể, cho đến ngày nay, các nhà khoa học ở ngoại môn và những đạo sinh tương lai cũng ít biết đến. . . . . . Người đạo sinh tiến hành nghiên cứu huyền bí học từ phương diện này, và vì thế y đạt được sự hiểu biết sâu xa về định luật. |
|
I have touched on this matter as it lies back of all instruction along occult lines. If you can grasp somewhat its meaning, and understand how the law is but the adaptation of the form to some one or other of these great streams of force, you will illuminate your whole life and be carried on those streams of force, those magnetic currents, that vital fluid, those electrical rays (no matter what the terms used) right to the heart of the unknown. |
Tôi đề cập đến vấn đề này vì nó vốn có trong mọi đường hướng giáo huấn huyền môn. Nếu các bạn hiểu được phần nào ý nghĩa của vấn đề và hiểu rằng định luật chỉ là sự thích ứng của hình thể với một trong các dòng mãnh lực vĩ đại thì các bạn sẽ soi sáng trọn cả cuộc sống của mình. Các bạn sẽ lần theo những dòng mãnh lực, các dòng từ lực, lưu chất sinh lực, và các tia điện lực kể trên (hoặc gọi theo từ khác) đến tận trung tâm của những gì chưa được biết. |
|
This same idea of force and of the magnetic currents of the solar system governs all I have imparted on meditation in all its branches—specific, individual and collective, based on form or formless; it is the medium through which the mantrams work, from those that touch the elemental lives up to the great Words chanted in rhythm that call the Lord of a Ray, the Deva of a Plane, or the Lord of a Solar System Himself. The sounding of these Words, the ascent through graded forms to some specific point, and the chanting of mantrams but put the one who is thus working into the line of some one stream of force. It is the finding of the line of least resistance whereby to reach some goal, to communicate with some individual Intelligence, to control some involutionary life, and to contact and co-operate with some group of devas. The above digression may serve somewhat to sum up what I have lately imparted anent forms, mantric or otherwise, as used by the student of occult meditation. |
Chính ý tưởng này về mãnh lực và các dòng từ lực của thái dương hệ chi phối tất cả những điều tôi đã truyền đạt khi nói về tham thiền trong tất cả các ngành – thiền đặc biệt, thiền cá nhân và thiền tập thể, thiền có hình thức hay không có hình thức. Đó là trung gian để các câu thần chú tác động, từ những câu chú chỉ ảnh hưởng đến các tinh linh, cho đến các đại Linh từ xướng lên theo nhịp điệu để kêu gọi các vị Chủ tể của một Cung, vị Đại thiên thần của một cảnh giới, hay ngay cả Đức Thái Dương Thượng Đế. Việc xướng lên các Linh từ này, sự tiến lên qua những hình thức tuần tự để đến một mức độ đặc biệt, và việc đọc lên các câu thần chú, đều chỉ nhằm đặt hành giả vào trong một dòng mãnh lực nào đó. Đây là việc tìm ra lối đi ít trở ngại nhất để đạt đến mục tiêu, để liên lạc với một Đấng Thông tuệ, để chế ngự một sinh linh đang tiến hóa giáng hạ, hay để tiếp xúc và hợp tác với một nhóm thiên thần. Tôi đã nói ngoài đề để tóm tắt phần nào những gì tôi đã truyền đạt về các hình thức, các câu chú hoặc những điều khác mà các môn sinh thiền huyền môn sử dụng. |
|
As may be imagined, the calling of either the devas or the elementals can only be safely undertaken by one who has the power to utilise them wisely when called, [181] hence the mantrams we have enumerated above are only put into the hands of those who are on the side of the constructive forces of the system, or who can constructively control the destructive elements, bending them into line with the disintegrating forces that are themselves part of the great constructive scheme. Should anyone—not thus capable—be able to contact the devas, and, through the use of mantrams gather them to him, he would find that the force they carry would descend on him as a destructive one, and serious consequences might result in one or other of his bodies. |
Chúng ta có thể hiểu rằng việc kêu gọi các thiên thần hoặc tinh linh chỉ có thể được thực hiện an toàn bởi người có khả năng sử dụng họ một cách khôn ngoan. Vì thế, các [181] câu chú kể trên chỉ được đặt vào tay những người đứng về phía các lực lượng xây dựng của thái dương hệ. Đó là những người có thể điều khiển các tinh linh hủy hoại vào công tác xây dựng, uốn nắn chúng cho phù hợp với các mãnh lực đang làm tan rã, mà vốn là một phần của kế hoạch kiến tạo vĩ đại. Nếu người nào không có các khả năng này mà lại tiếp xúc với các thiên thần và nhờ sử dụng các câu chú mà tập hợp họ lại quanh y, thì có thể mãnh lực mà các thần này mang đến sẽ giáng xuống y như một sức mạnh hủy hoại, và có thể gây nên những hậu quả nghiêm trọng trong một thể nào đó của y. |
|
Think this out, therefore, remembering that those dangers would lie along the line of over-stimulation, of sudden shattering, and of disintegration through fire or heat. Should he gather involutionary lives around him the dangers would be different or rather would demonstrate in the opposite effect,—such as loss of vitality due to vampirism, a sucking out of the forces of one or another of his bodies, an abnormal building in of material into some one body (due to the action of such involutionary lives as the physical or desire elementals), and death through water, earth or fire, understood in an occult sense. |
Vì thế, các bạn hãy suy ngẫm kỹ vấn đề này để nhớ rằng các hiểm nguy sẽ là sự kích thích quá độ, sự đổ vỡ thình lình, và sự tan rã do lửa hay sức nóng. Còn nếu y qui tụ các sinh linh tiến hóa giáng hạ đến quanh y, thì sự hiểm nguy sẽ khác đi, hay đúng hơn là có hiệu quả ngược lại. Đó là kiệt lực vì bị ma cà rồng hút máu, bị rút hết mãnh lực ở một trong các thể của y, hoặc thu nạp một chất liệu bất bình thường vào trong một thể nào đó (do tác động của các tinh linh thuộc cõi trần hay cõi cảm dục) và chết vì nước, vì đất hay vì lửa (hiểu theo nghĩa huyền môn). |
|
I have dealt here with the risks run by anyone who calls within his magnetic radius either of these two groups, without possessing the necessary knowledge to protect, to control and to use. Why have I dealt with this subject at all? Because these magic forms exist, and will be used and known when the student is ready, and the work requires it. Some day the lesser forms will be gradually given out to those who have prepared themselves, and who unselfishly work for the helping of the race. As I said earlier, these were known in Atlantean days. They led to dire results at that time, for they were used by those of unclean life, for selfish ends and evil purpose. They called [182] the elemental hosts to perpetuate their vengeance on their enemies; they called the lesser devas, and utilised their powers to further their ambitions; they sought not to co-operate with the law, but to wield that law for physical plane schemes which originated in their desires. The ruling Hierarchy deemed the danger too great, for the evolution of men and devas was threatened, so They withdrew gradually from the human consciousness the knowledge of the formulas and Words until such a time as the reason was developed somewhat, and the spiritual mind showed signs of awakening. In this way the two great evolutions, and the latent third evolution (composed of involutionary lives) were separated and shut off from each other. Temporarily the whole scale of vibration was slowed down for the original purpose had been a parallel development. The secret of this apparent setting back of the plans of the Logos lies hid in the remnants of active cosmic Evil that had found their way into manifestation,—a remnant of the first or activity solar system, and the basis of this, the love system. Evil is but the sediment of unfinished karma and has its root in ignorance. |
Tôi đã bàn về các hiểm nguy cho người nào kêu gọi đến trong vòng từ lực của y, một trong hai nhóm này mà chính y lại không có sự hiểu biết cần thiết để tự bảo vệ, để chế ngự và sử dụng các thiên thần hay tinh linh đó. Tại sao tôi lại đề cập đến vấn đề này? Bởi vì các phương thức huyền thuật này vốn có thật, sẽ được biết và sử dụng nếu người môn sinh đã chuẩn bị sẵn sàng, và khi công việc cần đến. Một ngày kia những hình thức sơ cấp sẽ lần lượt được truyền cho những ai đã tự chuẩn bị chu đáo và làm việc một cách vô tư lợi để phụng sự nhân loại. Như tôi đã nói, chúng đã được nhiều người biết đến ở thời đại Atlantis. Chúng đã đưa đến những hậu quả thảm khốc vào thời đó, vì chúng bị sử dụng bởi những người có cuộc sống không [182] trong sạch, với những mục tiêu ích kỷ và độc ác. Họ kêu gọi các tinh linh để thực hiện việc trả thù các kẻ địch của họ. Họ kêu gọi các thiên thần cấp thấp và dùng quyền năng của các vị ấy để thỏa mãn tham vọng của họ. Họ không tìm cách hợp tác với định luật, mà lại muốn vận dụng định luật đó cho các kế hoạch của họ ở cõi trần vốn bắt nguồn từ những dục vọng của họ. Đ.Đ.C.G. đương thời cho sự hiểm nguy đó thật quá lớn, vì sự tiến hóa của con người và thiên thần đã bị đe dọa. Nên các Ngài từ từ thu lại sự hiểu biết về các công thức và các Linh từ khỏi tâm thức của con người để chờ đến lúc nào đó lý trí đã được khai mở ít nhiều và có những dấu hiệu của trí tuệ tinh thần thức động trong họ. Theo cách này hai trường tiến hóa lớn và cuộc tiến hóa thứ ba còn tiềm ẩn (gồm các sinh linh giáng hạ tiến hoá) đã bị tách rời và ngăn cách hẳn với nhau. Tạm thời toàn thể thang rung động đã bị làm chậm lại, vì mục tiêu nguyên thủy là sự phát triển song hành. Sở dĩ có sự thoái bộ tạm thời này trong các kế hoạch của Đức Thượng Đế là do tàn dư của phe Ác tích cực cấp vũ trụ, chúng đã tìm cách xen vào cuộc biểu hiện. Đây là những gì còn sót lại của thái dương hệ đầu tiên hay thái dương hệ hoạt động, là căn bản của hệ thống này, hệ thống của tình thương. Sự ác chỉ là tồn dư của nghiệp quả chưa chấm dứt và bắt nguồn từ sự vô minh. |
|
This separation on a threefold scale of the evolving and the involving lives has continued up to date. With the coming in of this seventh Ray of Ceremonial Magic, a tentative approximation of the two evolving groups is to be somewhat permitted, though not as yet with the involving group. Remember this statement. The deva and human evolution will, during the next five hundred years, become somewhat more conscious of each other, and be able therefore more freely to co-operate. With this growing consciousness will be found a seeking after methods of communication. When the need of communication for constructive ends is sincerely felt, then, under the judicious guidance of the Masters, will certain of the old mantrams [183] be permitted circulation. Their action, interaction and reaction will be closely studied and watched. It is hoped that the benefit to both groups will be mutual. The human evolution should give strength to the deva, and the deva, joy to the human. Man should communicate to the devas the objective point of view, while they in turn will pour in on him their healing magnetism. They are the custodians of prana, magnetism and vitality, just as man is the custodian of the fifth principle, or manas. I have given several hints here and more is not possible. |
Sự tách rời làm ba phần giữa các sinh linh tiến hóa thăng thượng và các sinh linh tiến hóa giáng hạ vẫn còn tiếp tục cho đến ngày nay. Với sự nhập cuộc của cung bảy, Cung Pháp thuật Nghi thức, hai nhóm tiến hóa đã được phép thử tiến lại gần nhau đôi chút, dù rằng nhóm tiến hóa giáng hạ thì chưa. Bạn hãy nhớ lời phát biểu này. Trong vòng 500 năm tới, trường tiến hóa thiên thần và nhân loại sẽ ý thức được nhau hơn trước đôi phần, và vì thế hai nhóm sẽ có thể hợp tác tự do hơn. Khi ý thức này tăng trưởng, người ta sẽ tìm kiếm các phương pháp truyền thông. Khi mọi người thực sự cảm được nhu cầu truyền thông cho các mục đích xây dựng, thì dưới sự hướng dẫn đúng [183] đắn của các Chân sư một số câu thần chú cổ sẽ được phép lưu hành. Mọi tác động, tương tác và phản ứng của chúng sẽ được theo dõi và nghiên cứu kỹ. Hy vọng rằng cả hai nhóm đều hưởng được lợi ích. Trường tiến hóa nhân loại sẽ thêm sức mạnh cho giới thiên thần và các thiên thần sẽ đem đến nguồn vui cho loài người. Con người sẽ truyền đạt cho thiên thần các ý kiến khách quan, còn các thiên thần sẽ ban rải cho con người từ lực để chữa trị. Các thiên thần gìn giữ prana, từ lực và sinh lực, cũng như con người là kẻ gìn giữ nguyên khí thứ năm, hay trí tuệ. Tôi đã đưa ra nhiều ẩn ý và không thể nói thêm. |
|
Tomorrow we will take up perhaps the most vitally interesting division on forms connected with fire. Today the matter imparted suffices. |
Ngày mai, có lẽ chúng ta sẽ bàn đến phần thú vị và quan trọng nhất là hình thức tham thiền kết hợp với lửa. Hôm nay như thế là đủ. |
|
AUGUST 19TH, 1920. |
Ngày 19-8-1920. |
|
Mantric forms connected with fire. |
Các hình thức thần chú kết hợp với lửa. |
|
Perhaps it would be of value if I touched somewhat upon the part fire plays in evolution and on the various departments connected with fire that may be found within our solar system. I especially emphasise it because in meditation the domain of fire is entered, and because of its prime importance. The departments in which fire plays its part are five. Let us therefore enumerate them. I will deal first with fire in the Macrocosm, and later show its microcosmic correspondence. |
Có lẽ nên bàn đôi điều về vai trò của lửa trong cơ tiến hóa và trên các ngành liên quan đến lửa trong thái dương hệ chúng ta. Tôi đặc biệt nhấn mạnh điều này bởi vì vào thiền là chúng ta đi vào lĩnh vực của lửa, và vì vấn đề này tối quan trọng. Lửa đóng vai trò quan trọng trong năm ngành nêu dưới đây. Tôi sẽ đề cập đến lửa trong Đại vũ trụ trước và sau đó sẽ nêu lên phần tương ứng của nó trong tiểu vũ trụ. |
|
l—The vital fire that animates the objective solar system. For instance, as evidenced in the internal economy of our planet, and the central ball of fire, the sun. |
1. Lửa chính yếu làm sinh động thái dương hệ khách quan. Điều này chứng tỏ trong khả năng điều hòa nội tại của hành tinh chúng ta, và khối cầu lửa ở trung tâm là mặt trời. |
|
2—That mysterious something called by H. P. B. Fohat, of which some of the manifestations are electricity, certain forms of light, and the magnetic fluid wherever encountered. |
2. Điều bí nhiệm mà H.P.B. gọi là Fohat, một số biểu hiện của nó là điện, những dạng nhất định của ánh sáng và lưu chất từ lực đôi khi ta gặp. |
|
3—The fire of the mental plane. [184] |
3. Lửa của cõi trí. [184] |
|
4—The fire elementals who, in their essence, are fire itself. |
4. Các hỏa tinh linh mà tinh hoa của chúng chính là lửa. |
|
5—The vital spark we call the “divine flame,” latent in each human being, which distinguishes our solar Logos from all other Logoi, and which is the sum of all His characteristics. “Our God is a consuming Fire.” |
5. Tia lửa sống động mà chúng ta gọi là “ngọn lửa thiêng” tiềm tàng trong mỗi người. Ngọn lửa này phân biệt Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta với các vị Thượng Đế khác, và đây chính là tổng kết tất cả các đặc tính của Ngài. “Thượng Đế của chúng ta là Lửa đang thiêu hủy.” |
|
All these differentiations of fire are practically differentiations of one and the same thing; they are basically the same though in manifestation they are diverse. They originated fundamentally from cosmic fire found on the cosmic mental levels. In the Microcosm you find this fivefold differentiation again, and it is in the recognition of this correspondence that illumination comes, and the purpose of meditation is achieved. |
Tất cả những phân biệt này về lửa, thực tế là những biến phân của cái duy nhất. Trong căn bản tất cả đều như nhau dù khi biểu hiện lại khác nhau. Trong nền tảng, tất cả đều bắt nguồn từ lửa vũ trụ ở cõi trí vũ trụ. Trong tiểu vũ trụ các bạn cũng thấy năm sự phân hóa này, và khi nhận ra sự tương ứng các bạn sẽ được khai ngộ và đạt mục đích của tham thiền. |
|
1—The vital fires that keep the internal economy of the human being,—the microcosmic system—in full manifestation. At the cessation of that inner burning, death ensues, and the physical objective system passes into obscuration. So it is in the Macrocosm. Just as the sun is the centre for our system, so the heart is the focal point for the microcosmic heat; similarly, as the earth is vitalised by the same heat and is, for our chain, the point of densest matter, and of greatest physical heat, so the lower generative organs are the secondary centre in the majority of cases for the internal fire. The correspondence is accurate, mysterious and interesting. |
1. Những loại lửa sống động giữ cho sự điều hòa nội tại của con người (hệ thống tiểu vũ trụ) biểu hiện đầy đủ. Khi sự cháy bên trong này chấm dứt thì sự chết xảy đến, và hệ thống vật chất hồng trần bên ngoài sẽ tan biến. Đại vũ trụ cũng vậy. Giống như mặt trời là tâm của thái dương hệ chúng ta, trái tim là tiêu điểm cho sức nóng của tiểu vũ trụ. Tương tự, quả đất cũng được làm sinh động bằng chính sức nóng đó và trong dãy địa cầu của chúng ta nó ở mức vật chất trọng trược nhất, với sức nóng của vật chất cao nhất. Cơ quan sinh dục cũng là trung tâm thứ yếu cho lửa nội tại trong đa số các trường hợp. Sự tương ứng này rất chính xác, mầu nhiệm và thú vị. |
|
2—The correspondence in the Microcosm to Fohat is found in the pranic currents that, through the etheric body, keep the dense physical vitalised and magnetised. The resources of the pranic fluid are illimitable and little understood, and in their [185] proper comprehension lies the secret of perfect health. We will touch upon this later. |
2. Tương ứng với Fohat trong tiểu vũ trụ là các dòng sinh lực qua thể dĩ thái để giữ cho xác thân được sống động và có từ lực. Nguồn lưu chất prana này thì vô [185] hạn, ít ai biết, và khi hiểu đúng người ta sẽ biết bí quyết của sức khỏe hoàn hảo. Chúng ta sẽ đề cập đến vấn đề này sau. |
|
3—The correspondence to the fire of the mental plane is easily demonstrable. For the work of the Lords of Flame in implanting the spark of mind has so developed and grown, that now the fire of intellect is to be seen burning in all civilised peoples. All energies are turned to the feeding of that spark and the turning of it to the greatest profit. |
3. Có thể dễ dàng chứng minh sự tương ứng với lửa của cõi trí. Vì công việc của các Hỏa Tinh Quân là ban rải tia lửa trí tuệ, đã được triển khai và tăng tiến cho đến đỗi người ta thấy ngọn lửa tri thức đang cháy sáng trong các dân tộc văn minh. Mọi năng lượng đều tập trung vào việc nuôi dưỡng tia trí tuệ đó, nhằm sử dụng nó cách nào lợi ích nhất. |
|
4—The fire elementals are known in some measure in the microcosm by the thoughtforms conjured up and vitalised by the man whose thought power suffices to do so. These thoughtforms, built by the man who can think strongly, are vitalised by his life or capacity to heat, and last as long as he has the power so to animate them. This is not for long at this time as the real power of thought is little comprehended. In the fifth great cycle, which for this chain will see the culmination of the fifth principle of mind, this correspondence will be more understood. At present the connection is necessarily obscure. |
4. Có thể biết được phần nào các hỏa tinh linh trong tiểu vũ trụ qua các hình tư tưởng mà người đủ khả năng có thể tạo nên và làm cho sống động. Người có sức suy tư mạnh mẽ tạo ra các hình tư tưởng này và làm sinh động bằng sự sống hay khả năng gia nhiệt của y, và chúng vẫn tồn tại chừng nào y còn năng lực làm sinh động chúng. Hiện nay sự tồn tại này không được lâu vì người ta còn hiểu rất ít về năng lực thực sự của tư tưởng. Trong đại chu kỳ thứ năm của dãy hành tinh này, chúng ta sẽ thấy sự phát triển tột đỉnh của nguyên khí thứ năm là trí tuệ. Sự tương ứng này về sau sẽ được hiểu nhiều hơn. Hiện nay mối liên hệ này tất nhiên là còn khó hiểu. |
|
5—The vital spark latent in each human being which marks him out as of the same nature as the Solar Logos. |
5. Tia lửa sống động ẩn tàng trong mỗi người cho thấy y có cùng bản tính với Đức Thái Dương Thượng Đế. |
|
Here you have fire as it may be seen in the greater and the lesser systems. I would here sum up for you the purpose of fire in the microcosm, and what must be aimed at. You have the three fires: |
Như vậy, các bạn thấy rằng trong các hệ thống lớn, nhỏ đều có lửa. Ở đây, tôi chỉ tóm tắt cho các bạn về mục đích của lửa trong tiểu vũ trụ và những gì phải nhắm đến. Chúng ta có ba loại lửa: – |
|
l—The vital divine spark. |
1. Tia lửa thiêng sinh động. |
|
2—The spark of mind. |
2. Tia lửa trí tuệ. |
|
3—Kundalini, the twofold blending of the internal heat and of the pranic current. The home of this [186] force is the centre at the base of the spine and the spleen as a feeder of that heat. |
3. Luồng hỏa hậu (kundalini), sự hòa lẫn nhị nguyên của sức nóng nội tại và dòng sinh lực prana. Nơi ẩn trú [186] của mãnh lực này là luân xa chót xương sống, và luân xa lá lách hằng bồi dưỡng sức nóng đó. |
|
When these three fires—that of the quaternary, of the triad and of the fifth principle—meet and blend in proper geometrical manner, each centre is adequately vitalised, every power is sufficiently expressing itself, all impurity and dross is burnt away, and the goal is reached. The spark has become a flame, and the flame is part of the great egoic blaze which animates all of the objective universe. |
Khi cả ba loại lửa này – một của tứ hạ thể, một của tam nguyên và một của nguyên khí thứ năm – gặp nhau và hòa lẫn với nhau một cách thích hợp về mặt hình học, thì mỗi luân xa sẽ được sinh động đúng mức, mọi quyền năng sẽ tự biểu lộ đầy đủ, các chất không tinh khiết và cặn bã sẽ bị đốt sạch, và hành giả đạt đến mục tiêu. Tia lửa đã trở thành ngọn lửa, và ngọn lửa là thành phần của khối lửa Đại ngã đang làm sống động trọn cả vũ trụ khách quan. |
|
Therefore, we are brought logically to the position that there will be for these three types of mantrams another mantram which will bring about their union and merging. You have in fact:— |
Vì thế, có thể nói một cách hợp lý rằng ba loại thần chú này sẽ được kết hợp và hòa hợp bằng một câu thần chú khác. Thực tế là chúng ta có: – |
|
Mantrams that affect kundalini, and arouse it in the right manner. By the power of the vibration they send it circulating through the centres according to their natural, geometrical progression. A secondary branch of these mantrams deals with the spleen, and the control of the pranic fluids for the purpose of health, for vitalisation, and for affecting the fire at the base of the spine. |
Các câu chú ảnh hưởng đến kundalini và khơi dậy luồng nội hỏa này một cách đúng đắn. Bằng năng lực rung động, các câu chú này làm ngọn lửa luân chuyển qua các luân xa theo diễn tiến tự nhiên và hình học của chúng. Một nhóm thần chú thứ yếu của loại này liên hệ đến luân xa lá lách, và sự kiểm soát các lưu chất sinh lực prana để giữ gìn sức khỏe, để làm sinh động, và ảnh hưởng đến lửa ở luân xa chót xương sống. |
|
Mantrams that work on the matter of the mental plane, on one or other of its two main divisions,—abstract and concrete,—and which work there in a twofold manner, producing an increased capacity to think, wield or manipulate mental matter, and, acting as a stimulant to the causal body, fit it more rapidly as a vehicle of consciousness, and prepare it for the final disintegration which is effected by fire. |
Các thần chú tác động vào vật chất của cõi trí, ở một trong hai lĩnh vực chính (trừu tượng và cụ thể) của cõi này và tác động ở đó theo hai cách. Một là tăng cường khả năng suy tư, vận dụng vật chất của cõi hạ trí. Hai là kích thích thể nguyên nhân, làm cho thể này mau trở thành một vận cụ của tâm thức và chuẩn bị cho nó cuối cùng chịu tan rã do lửa. |
|
Mantrams that evoke the God within, and work specifically on the Ego. From thence they set up a [187] strong vibration within the higher Triad, and so cause a downflow of the monadic force into the causal body. All these mantrams can be used separately, and achieve their own result. |
Các câu chú mang lại sự đáp ứng của Thượng Đế nội [187] tâm và đặc biệt tác động đến Chân nhân. Từ đó tạo sự rung động mạnh mẽ trong Tam nguyên, khiến cho mãnh lực từ Chân thần tuôn xuống thể nguyên nhân. Các câu thần chú này đều có thể được sử dụng riêng rẽ và có kết quả riêng biệt. |
|
There are seven great mantrams, one for each ray, that (when used by the Master or by a member of the Hierarchy) combine all the three effects. They arouse kundalini, they work on the causal vehicle on the mental plane, and they set up a vibration in the Triad and thus effect an at-one-ment of the lower, the higher and the fifth principle. This is a reflection of what occurred at the coming of the Lords of Flame. It leads to complete unification, and marks the man out henceforth as one in whom love demonstrates in action by the aid of illuminated mind. |
Có bảy đại thần chú, mỗi câu dùng cho một cung (khi Chân sư hay một nhân viên của Đ.Đ.C.G. sử dụng) sẽ kết hợp được cả ba hiệu quả kể trên. Chúng khơi dậy luồng hỏa hậu, tác động vào thể nguyên nhân trên cõi trí, và tạo sự rung động trong Tam nguyên để thực hiện sự nhất quán giữa các thể thấp, các thể cao và nguyên khí thứ năm. Điều này phản ánh những gì đã xảy ra khi các Hỏa Tinh quân đến. Nó đưa đến sự thống hợp toàn vẹn, và từ đó về sau con người biểu lộ rõ tình thương trong hành động, với sự trợ giúp của trí tuệ đã khai ngộ. |
|
These are the four most important mantrams as regards individual evolution and development, and are well-known to all those who train pupils for initiation. But by themselves, even if discovered by the unready, they could accomplish little, for their use must be accompanied by the power that comes from the application of the Rod of Initiation. This Rod, through its surmounting diamond, focuses the three fires in the same way that a burning glass reacts to the sun, and causes a conflagration. |
Trên đây là bốn loại thần chú quan trọng nhất cho cuộc tiến hóa và phát triển cá nhân, mà những vị nào huấn luyện các môn sinh sắp điểm đạo đều hiểu rõ. Cho dù kẻ chưa chuẩn bị sẵn sàng có khám phá ra được chính các câu thần chú này thì công hiệu của chúng cũng rất ít. Vì sự sử dụng các câu thần chú này phải kèm theo năng lực do áp dụng Điểm đạo Thần trượng. Nhờ viên kim cương gắn trên đỉnh nên Thần trượng này tập trung được ba loại lửa, tương tự như chiếc kính hội tụ gom được ánh sáng mặt trời, để làm bùng lên một ngọn lửa. |
|
I have here given you a lot of information in very few words. The matter is much condensed. It has a special significance for the man who nears the Path of Initiation. Ponder carefully on this which is imparted, for, by brooding upon it in the silence of the heart, light may come, and the inner fire glow with greater heat. |
Ở đây dù nói ít nhưng tôi đã trao cho các bạn nhiều hiểu biết. Vấn đề này còn rất cô đọng. Nó có ý nghĩa đặc biệt cho người nào đến gần Con đường Điểm đạo. Các bạn hãy suy nghĩ kỹ về các điều đã được trao truyền, vì khi yên lặng suy ngẫm điều đó trong tâm, ánh sáng có thể đến và ngọn lửa nội tại sẽ bùng cháy với sức nóng nhiều hơn. |
|
Other mantrams connected with fire can be further enumerated. There are two groups that are contacted by the use of certain rhythmic sounds. [188] |
Cũng có thể kể ra những loại thần chú khác nữa liên quan đến lửa. Có hai nhóm có thể vận dụng được nhờ sử dụng những âm thanh với nhịp điệu nhất định. [188] |
|
The fire elementals and their various hosts in the bowels of the earth, on the surface of the earth, and in the air above the earth. |
Những hỏa tinh linh và các nhóm của chúng ở trong lòng đất, trên mặt đất, và trong không khí. |
|
The devas of the mental plane, who are essentially the devas of fire. |
Những thiên thần của cõi trí, chính yếu là các hỏa thần. |
|
With the mantrams affecting the elementals of fire there is nought to be said or imparted. They are, in many ways, the most dangerous and the most powerful of the elementals who attend to the earth economy. For one thing, they far outnumber all the other elementals, and are found on every plane from the highest to the lowest. The elementals of water or earth are found only in certain localities or spheres in the solar system, whilst the next most numerous elementals are those of air. |
Không có gì để nói hay chỉ dạy về các câu chú ảnh hưởng đến các hỏa tinh linh. Trong nhiều phương diện, chúng là loại tinh linh nguy hiểm nhất và mạnh mẽ nhất tham dự vào guồng máy của địa cầu. Một mặt là so với các loại tinh linh khác thì chúng đông hơn nhiều và có ở mọi nơi, từ cõi cao nhất đến cõi thấp nhất. Những thủy tinh linh hay thổ tinh linh thì chỉ có ở một số nơi hoặc trên một số hành tinh của thái dương hệ, trong khi loại tinh linh nhiều thứ nhì là tinh linh của không khí. |
|
Mantrams calling them, controlling and dismissing them, were in common use among the Atlanteans. The dangers aroused, and the menace stalking the land through the indiscriminate use of elementals, so disturbed the accurate working of the logoic plans, and so displeased the Guides of the race that the knowledge was withdrawn. The Atlantean root race passed away through disasters by water, by floods, by submergings; when you remember that water is the natural enemy of fire, and that the two groups of elementals have no point of at-one-ment at this stage, you may be able to understand an interesting point about the Atlantean cataclysms. |
Các câu chú để kêu gọi, điều khiển và giải tán các tinh linh này vốn rất thông dụng vào thời Atlantis. Những nguy hiểm đã nổi lên và đe dọa vùng đất này vì các tinh linh bị sử dụng một cách bừa bãi làm xáo trộn các công trình chính xác của Thiên cơ, làm phiền lòng các Đấng Hướng dẫn nhân loại, nên sự hiểu biết về các câu chú này bị thu hồi. Căn chủng Atlantis bị hủy diệt vì các thủy tai, vì bị ngập lụt, vì bị nhận chìm. Nếu các bạn nhớ rằng nước là kẻ thù tự nhiên của lửa, và cả hai nhóm tinh linh này không có điểm nào kết hợp được ở giai đoạn này, thì các bạn mới có thể hiểu một điểm thú vị về các cuộc đại biến thời Atlantis. |
|
Mantrams calling the fire devas are equally well guarded, not only because of the dangers involved but because of the obstructions in time that are caused when these devas are heedlessly called and held by mantric charm from pursuing their necessary vocations. Under these two groups of mantric forms will be found many lesser groups which work specifically with different bands of elementals and devas. [189] |
Những câu chú kêu gọi các hỏa thần cũng được gìn giữ rất kỹ, không chỉ vì các nguy hiểm có thể xảy ra, mà do những trở ngại về thời gian khi các thiên thần này bị kêu gọi một cách vô tình và họ bị mãnh lực của thần chú cầm giữ, nên không làm phận sự cần thiết của họ được. Ngoài hai loại thần chú này, có nhiều loại thứ yếu, chỉ sử dụng đặc biệt với những nhóm tinh linh và thiên thần khác nhau. [189] |
|
We have here enumerated six groups of mantrams connected with fire. There are still a few more which I might briefly enumerate. |
Chúng ta đã kể ra sáu loại thần chú kết hợp với lửa. Cũng có một vài loại nữa mà tôi có thể kể ra vắn tắt như sau: |
|
Purificatory mantrams that awaken a fire that purifies, and burns on one of the three lower planes. This is effected through the activity of elementals, controlled by fire devas, and under the direct guidance of an initiate or disciple for some specific purificatory end. The end may be to cleanse some one of the bodies or to purify a locality, a house or a temple. |
Những loại thần chú thanh lọc, khơi dậy một loại lửa tinh luyện và cháy trên một cõi trong tam giới. Việc này được thực hiện nhờ hoạt động của các tinh linh (được các hỏa thần kiểm soát) và dưới sự hướng dẫn trực tiếp của một điểm đạo đồ hay đệ tử Chân sư, nhằm một mục đích thanh luyện đặc biệt nào đó. Mục đích này có thể là tẩy sạch một trong các thể của con người, thanh lọc một địa điểm, một ngôi nhà hay một đền thờ. |
|
Mantrams that call down fire for the magnetisation of talismans, of stones and of sacred spots. |
Các câu chú để kêu gọi lửa giáng xuống để truyền từ lực vào các bùa phép, vào các loại đá quí hay những thánh địa. |
|
Mantrams that bring about healing through the occult use of flame. |
Các câu chú dùng để chữa bệnh, nhờ công dụng huyền bí của lửa. |
|
The mantrams used:— |
Những câu chú được sử dụng bởi: – |
|
a—By the Manu, in manipulating that which is necessary in the moving of continents, and the submerging of lands. |
a. Đức Bàn cổ, vận dụng những gì cần thiết để chuyển di các lục địa, hay nhận chìm các lãnh thổ. |
|
b—By the Bodhisattva, in stimulating the inner flame in each human being. |
b. Đức Chưởng giáo, để kích thích ngọn lửa tiềm ẩn trong mỗi người. |
|
c—By the Mahachohan, in His work with the intelligence, or the fifth principle. |
c. Đức Văn minh Đại đế, khi Ngài làm việc với trí thông tuệ hay là nguyên khí thứ năm. |
|
All these mantric forms and many others exist……The first step towards the attainment of these mantrams is the acquirement of the faculty of occult meditation, for it is not the sounding of the words alone that bring about the desired end but the mental concentration that visualises the results to be attained. This must be accompanied by the will that causes those results to be dominated by the one who chants the sounds. These mantric forms are dangerous and useless apart from the concentrated mental equilibrium of the man, and his power to control and vitalise. [190] |
Hiện có tất cả các hình thức thần chú này và nhiều loại khác . . . . . . Muốn hoạch đắc các thần chú này thì bước đầu tiên là phải có khả năng thiền huyền môn. Vì không phải chỉ việc xướng lên các từ của thần chú là có thể đạt mục đích, mà phải định trí để hình dung ra các kết quả cần đạt. Điều này cũng phải kèm theo ý chí của người xướng đọc, để y chế ngự những kết quả đó. Các câu chú này sẽ thành nguy hiểm và vô ích, nếu không có sự quân bình trí tuệ tập trung của hành giả, cùng với khả năng điều khiển và làm sinh động của y. [190] |
|
AUGUST 21, 1920. |
Ngày 21-8-1920. |
|
We come now to the last division of our sixth letter. |
Giờ đây chúng ta bàn đến phần cuối của bức thư thứ sáu. |
|
Sử dụng các hình thức thiền tập thể. |
|
|
I propose to take this up under three heads which for purposes of clarity we will call:— |
Để làm sáng tỏ, chúng ta hãy bàn phần này dưới ba đề mục: – |
|
l—The use of sound collectively in a meditation form. |
1. Sử dụng âm thanh trong hình thức thiền tập thể. |
|
2—The use of rhythm collectively in meditation. |
2. Sử dụng nhịp điệu trong hình thức thiền tập thể. |
|
3—Special occasions on which these forms are used. |
3. Những dịp đặc biệt sử dụng các hình thức thiền này. |
|
……We have rather exhaustively considered in this series of letters individual meditation and have taken up the subject from many and varied angles. In all our handling of the matter only enough has been communicated to arouse the interest of the student and to incite him to greater effort, closer study, and deeper investigation. Only that which is understood and grasped as a fact in experience by the inner consciousness avails aught in the hard path of occult development. Theories and mental concepts avail not. They but increase responsibility. Only when these theories are put to the test, and are consequently known to be facts in nature, and only when mental concepts are brought down and demonstrated on the physical plane in practical experience, can the student be in a position to point the way to other searchers, and to hold out a helping hand to those following behind. To say: “I hear” may prove helpful and encouraging; to add to that the words “I believe” may carry added assurance, but to sound forth a trumpet note and say “I know” is the thing needed in this one of the darkest hours of the Kali Yuga. The knowers are as yet few. Yet to know is fully possible and is subject only to the diligence, the sincerity, and the capacity of the pupil on the path to stand firm in suffering. [191] |
. . . . . . Trong loạt thư này chúng ta đã xem xét khá đầy đủ về tham thiền cá nhân, và đã nhìn vấn đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Tựu trung việc bàn luận chỉ đủ để tạo sự quan tâm nơi các bạn, khiến các bạn tinh tấn hơn, nghiên cứu kỹ hơn, và khảo xét sâu hơn. Chỉ những gì được hiểu tường tận bằng kinh nghiệm thực sự của tâm thức nội tại mới giúp ích hành giả được phần nào trên con đường phát triển huyền môn khó khăn này. Chỉ có lý thuyết và khái niệm tri thức thì không ích lợi gì cả. Chúng chỉ làm tăng thêm trách nhiệm. Chỉ khi nào những lý thuyết này được trắc nghiệm và do đó được biết là những sự kiện thực tế, và chỉ khi nào các khái niệm tri thức được đưa xuống và biểu lộ ở cõi trần trong kinh nghiệm thực hành thì người môn sinh mới có thể chỉ đường cho những người khác đang tìm Đạo và đưa tay trợ giúp kẻ đi sau. Khi nói: “Tôi nghe” là đã có ích và đáng khích lệ. Nếu nói thêm rằng “Tôi tin” thì càng bảo đảm hơn nữa. Nhưng nếu nói được một cách mạnh mẽ rằng “Tôi biết” thì đó mới là điều cần thiết trong những giờ phút đen tối nhất của thời kỳ mạt pháp này. Hiện nay con số những người hiểu biết hãy còn rất ít. Tuy nhiên, hiểu biết là điều hoàn toàn có thể được, và chỉ tùy theo sự chuyên cần, thành thực và khả năng của người môn sinh trên Đường Đạo có thể đứng vững vàng trong đau khổ. [191] |
|
Now having some dim idea of the results to be achieved, and the methods to be employed in individual meditation, and having enlarged a little on the use of forms by individuals, we can now take up the consideration of the matter from the collective standpoints. |
Đã có được khái niệm về những kết quả cần phải đạt, cùng những phương pháp cần sử dụng trong tham thiền cá nhân, và đã bàn rộng hơn về cách sử dụng các hình thức thiền cá nhân, giờ đây chúng ta hãy xét đến vấn đề trên bình diện tập thể. |
|
Some of the most important things to note about the collective use of forms are that it has a universal vogue, is very effective, and can also be very dangerous. The collective worshipping of the Deity and the performance of religious rites in unison is so much a part of the public life of all peoples that its raison d’etre, and the results achieved, are apt to be overlooked. Every religion—Christian, Buddhist, Hindu, Mohammedan, down to the distorted fetish worship of the most degraded race—has emphasised the value and efficiency of a united attempt to contact the Divine. Results are inevitably achieved, ranging all the way from the calm and peaceful feeling that rests upon the participant in the Christian mysteries, to the frenzy and gyrations of the wildest dervish or the most benighted Zulu. The difference lies in the ability of the worshipper to assimilate force, and in his capacity to hold and carry it. These points are decided by his place on the ladder of evolution, and by the emotional and mental control of which he may be possessed. |
Một số điều quan trọng nhất cần lưu ý trong việc sử dụng các phương thức thiền tập thể là các phương thức này đang thịnh hành ở khắp nơi, rất hiệu quả và cũng có thể rất nguy hiểm. Sự thờ cúng Thượng Đế một cách tập thể và việc kết hợp cử hành các nghi thức tôn giáo đã quá phổ biến trong sinh hoạt cộng đồng của mọi dân tộc, đến đỗi lý do tồn tại của nó và các kết quả đạt được thường hay bị bỏ qua. Mọi tôn giáo dù là Thiên Chúa giáo, Phật giáo, Ấn giáo, Hồi giáo cho đến sự thờ cúng các thần vật một cách sai lạc của các giống dân thoái hóa nhất đều đã nhấn mạnh đến giá trị và hiệu quả của cố gắng tập thể để tiếp xúc với Thiêng liêng. Thế nào cũng đạt được một số kết quả, từ cảm giác thanh tĩnh và an lạc của người tham dự các nghi lễ bí nhiệm của Thiên Chúa giáo, cho đến sự múa may cuồng nhiệt của tín đồ một số giáo phái đạo Hồi, hay của giống người Zulu dốt nát nhất. Sự khác biệt là do khả năng của người lễ bái trong việc đồng hóa mãnh lực, gìn giữ và vận chuyển mãnh lực đó. Những điều này tùy theo trình độ tiến hóa của y, và do y có thể kiểm soát tình cảm và trí tuệ của mình đến mức nào. |
|
The first postulate to remember in considering the collective use of form in meditation is that those forms, in employing sound and rhythm, should open up a funnel of communication between those taking part in them and the Intelligences or Powers they are seeking to approach. By the means of this funnel which penetrates from the physical to the emotional, or still higher to one or other of the mental levels, the Intelligences or Powers are enabled to pour forth illuminating light or power of some kind or other into those who thus approach Them. The funnel [192] forms a channel whereby the contact can be made. The whole process is purely scientific and is based on vibration, and on a knowledge of dynamics. It is dependent upon the accurate formation, through occult knowledge, of a vacuum. The occult statement that “Nature abhors a vacuum” is entirely true. When through the correct intoning of certain sounds, this vacuum or empty funnel between the higher and the lower is formed, force or power of some manifestation of fohatic energy pours into the funnel under the inevitable working of the law, and, via that funnel, reaches its objective. |
Định đề đầu tiên cần nhớ khi xem xét việc sử dụng hình thức thiền tập thể là, khi sử dụng âm thanh và nhịp điệu, các hình thức này sẽ mở ra con đường thông thương hình phễu giữa những người tham dự và các Đấng Thông tuệ hay các Đấng Quyền lực mà họ muốn tiếp cận. Nhờ con đường thông thương này xuyên thấu từ cõi trần đến cõi tình cảm hay đến một vài cấp cao hơn của cõi trí, các Đấng Thông tuệ hay các Đấng Quyền lực có thể ban xuống ánh sáng khai ngộ hay một loại quyền năng, cho những ai tiến đến các Ngài bằng cách [192] đó. Con đường hình phễu này là phương tiện để tiếp xúc. Trọn cả tiến trình có tính thuần khoa học, dựa trên sự rung động và kiến thức động lực học. Nó tùy thuộc vào việc tạo ra khoảng chân không một cách đúng đắn, nhờ kiến thức huyền môn. Lời phát biểu huyền môn rằng “Thiên nhiên rất ghét sự trống không” là hoàn toàn đúng thực. Khi xướng lên chính xác những âm thanh nhất định, ta sẽ tạo được khoảng chân không hay hình phễu trống rỗng này giữa cái cao và cái thấp, và mãnh lực hay quyền năng là một dạng biểu hiện của năng lượng Fohat sẽ tuôn vào hình phễu này do tác động tất yếu của định luật, và xuyên qua đó để đến mục tiêu. |
|
It is on the misuse of this knowledge that much of what we call black art or evil magic is based. By means of invocation and forms the Dark Brothers (or those who tamper with what you ignorantly term the powers of evil) tap forces connected with dark intelligences in high places. Thus they set in motion happenings on the physical plane that have their origination in the dark mysterious caves of cosmic evil as found within our solar system. Equally so, it is possible to tap the still greater forces of light and good and to make application of them on the side of evolution. |
Những gì chúng ta gọi là hắc thuật hay ma thuật đều phần lớn dựa vào chính sự lạm dụng kiến thức này. Nhờ thỉnh cầu và những hình thức thiền, các Huynh đệ Hắc đạo (hay những người thông đồng với cái mà do thiếu hiểu biết nên người ta gọi là những quyền lực của ma quỉ) tiếp xúc được với sức mạnh của các vị Hắc đạo bản lĩnh cao cường. Vì thế, họ gây ra nhiều sự việc ở cõi trần, bắt nguồn từ các hang động bí mật, tối tăm của phe ác vũ trụ, ẩn trong thái dương hệ của chúng ta. Tương tự, chúng ta cũng có thể tiếp xúc với các mãnh lực còn vĩ đại hơn nữa của ánh sáng giác ngộ và chí thiện, để đẩy nhanh cơ tiến hóa. |
|
The use of sound collectively in meditation forms. |
Sử dụng âm thanh trong các hình thức thiền tập thể. |
|
We will now take up the matter specifically from the standpoint of sound. In the study of the Sacred Word and its use we found that it had a triple effect, destructive, constructive and personal,—if I might so express it—or acting directly in a stimulating sense on the centres of the body. These three effects may be seen in the use of all sound collectively and by a large body of persons. We might enumerate still further for the sake of clarity a fourth effect, that of the creation of a funnel. This fourth effect is but a synthesis of the others in actuality, for adjustments [193] in the matter of the three lower planes have to be made in this creation of a funnel of communication. Those adjustments result first of all in the destruction of obstructing matter, and then in the construction of a funnel for use. This is very definitely effected through the instrumentality of the centres. This latter point is of fundamental interest, and holds hid the secret of the most potent use of sound. That use is its projection in mental matter by means of one or other of the major centres. The effects achieved by a group of persons who have the power to work on mental levels, and to employ simultaneously one of the major centres (either entirely the head centre or one of the other major centres in connection with its corresponding head centre) can be unbelievably powerful. It is well for the race that as yet that power is not theirs. Only when united purity of motive and an unselfish adherence to the good of all can be found, will this power be permitted to return to the common knowledge of men. As yet it is practically impossible to get a sufficient number of people at the same stage of evolution, at the same point on the ladder, employing the same centre and responding to the same ray vibration to meet in unison, and sound together the same note or mantram. They must also be animated by pure love, and work intelligently for the spiritual uplift of all. |
Giờ đây chúng ta hãy đặc biệt xét đến khía cạnh âm thanh của vấn đề này. Khi nghiên cứu về Thánh ngữ và cách sử dụng Thánh ngữ, chúng ta thấy có ba hiệu quả, hủy hoại, kiến tạo và cá nhân, hoặc (xin tạm gọi) là tác động trực tiếp để kích thích các luân xa của cơ thể. Chúng ta có thể thấy được ba hiệu quả này khi sử dụng âm thanh trong một tập thể đông người. Để rõ hơn, chúng ta có thể kể thêm hiệu quả thứ tư là việc tạo một đường thông thương hình phễu. Thực ra hiệu quả thứ tư này là tổng hợp các hiệu quả kia, vì khi tạo ra con đường thông thương hình phễu thì các điều chỉnh [193] vật chất trong tam giới phải được thực hiện. Các điều chỉnh này trước hết giúp tiêu hủy loại vật chất gây trở ngại, rồi sau đó mới kiến tạo con đường thông thương hình phễu. Việc này được thực hiện rất chính xác bằng cách sử dụng các luân xa. Điểm sau cùng này thật cơ bản và đáng quan tâm, vì nó giữ bí quyết về cách sử dụng mạnh mẽ nhất của âm thanh. Cách sử dụng này là làm âm thanh nổi lên trong vật chất cõi trí, nhờ một trong các luân xa chính. Những hiệu quả đạt được do một nhóm người có khả năng hoạt động trên cõi trí, và đồng thời sử dụng được một trong các luân xa chính (hoặc toàn bộ luân xa đầu, hay một trong các luân xa chính khác kết hợp với phần tương ứng trong luân xa đầu) có thể mạnh mẽ không thể tưởng. Thật là điều tốt khi nhân loại chưa có được quyền năng này. Chỉ khi động lực nội tâm thuần khiết được kết hợp với sự bền lòng tìm kiếm hạnh phúc cho mọi người một cách vô kỷ, thì quyền năng này mới được phép phổ biến lại cho thế gian. Hiện nay, thực tế chưa thể có đủ số người có cùng một trình độ, trong cùng một giai đoạn trên thang tiến hóa, có thể sử dụng cùng một luân xa và ứng đáp được với rung động của cùng một cung để họ kết hợp nhau cùng xướng lên một âm điệu hay một câu thần chú. Họ cũng phải được thúc đẩy bởi lòng bác ái thuần khiết và cùng làm việc một cách thông minh để nâng cao tinh thần của tất cả mọi người. |
|
Part of the power of the Hierarchy is based on Their ability to do just this very thing. As evolution progresses, and the matter is more fully comprehended, meditation groups will change from their present status, which is that of bands of earnest aspirants seeking illumination, to bands of workers constructively and intelligently working together for certain ends. You have in the Christian Bible the remnant of a tale which has descended to us from Atlantean days. In those days the use of sound on physical [194] and emotional levels was understood and practised, being utilised for selfish ends in most of the cases. You read that at the sound of trumpets, sounded a certain number of times after a rhythmical circuit of the walls of Jericho those walls collapsed. This was made possible by the occult knowledge of the leaders of the people who—being versed in the science of sound and having studied its destructive and creative effects,—knew just the moment to apply that science and effect the desired end. |
Một phần quyền năng của Đ.Đ.C.G. là do các Ngài có khả năng làm được chính điều này. Khi cuộc tiến hóa ngày càng cao, và vấn đề được hiểu tường tận hơn, thì các nhóm thiền sẽ thay đổi tình trạng của họ hiện nay. Từ một nhóm người chí nguyện đang tha thiết tìm ánh sáng khai ngộ, họ sẽ trở thành nhóm người phụng sự cộng tác một cách xây dựng và thông minh, để đạt những mục tiêu nhất định. Trong Thánh kinh Thiên Chúa giáo, ta thấy có một phần của câu chuyện từ thời Atlantis truyền lại. Vào thời đó, việc sử dụng âm thanh ở [194] cõi trần và cõi tình cảm đều được mọi người hiểu biết và thực hành, phần nhiều dùng cho những mục tiêu ích kỷ. Chúng ta đọc thấy rằng, sau khi dân chúng tuần hành nhịp nhàng quanh thành Jericho, thì tiếng kèn trỗi lên một số lần nhất định làm cho các bức tường thành sụp đổ. Điều này đã được thực hiện do các vị lãnh đạo dân chúng có kiến thức huyền môn. Họ thành thạo khoa học âm thanh, đã nghiên cứu các hiệu quả hủy hoại và kiến tạo của âm thanh, nên biết áp dụng khoa học này đúng lúc để đạt mục tiêu mong muốn. |
|
These sounds can be grouped under three heads:— |
Các âm thanh này có thể được chia thành ba nhóm: – |
|
The united sounding of the Sacred Word. |
Việc đồng loạt xướng lên Thánh ngữ. |
|
This is one of the most usual methods, and the most direct way of forming a funnel for the transmission of power. If it is so effective in the case of the individual, as has been again and again demonstrated, surely its united use will be tremendously effective, and even dangerously potent. It is the loss of the use of this Word that has crippled and hindered the efficiency of all the present exoteric faiths, but this loss has been deliberately brought about owing to the dangers incident to the low point of evolution of the human hierarchy. When the use of this word is restored collectively, and when congregations of men can sound it correctly on the right note and in the right cadence or rhythm, then the downflow of force from above (the quality of that force depending on key and tone) will be such that the vivification of the microcosm will affect the surrounding country and environment. It will cause corresponding stimulation in all the kingdoms of nature, for the human kingdom forms a link between the higher and the lower, and, in conjunction with the deva kingdom, provides a meeting ground for the forces of life. |
Đây là một trong những phương pháp thông thường nhất và là cách trực tiếp nhất để tạo ra con đường hình phễu cho việc chuyển di năng lượng. Như đã được chứng tỏ nhiều lần, phương cách này rất có công hiệu trong trường hợp cá nhân, nên việc xướng lên đồng loạt chắc chắn sẽ có hiệu quả phi thường, và thậm chí còn mãnh liệt đến mức nguy hiểm. Chính vì cách sử dụng Thánh ngữ này đã bị thất truyền mà hiệu năng của tất cả các tôn giáo công truyền hiện nay đã bị sa sút và hạn chế. Thế nhưng người ta cố ý làm thất truyền vì những hiểm nguy xảy ra cho nhân loại ở mức tiến hóa còn thấp kém. Khi việc sử dụng Thánh ngữ được phục hồi cho tập thể, và khi các nhóm dự lễ có thể xướng Thánh ngữ đúng giọng và đúng nhịp thì mãnh lực từ trên tuôn xuống (phẩm tính của mãnh lực này tùy theo âm giai và âm điệu) sẽ đến mức sự sinh động của tiểu vũ trụ (những người dự nhóm) ảnh hưởng đến các vùng và môi trường chung quanh, và tạo sự kích thích tương ứng trong mọi giới của thiên nhiên. Vì giới nhân loại là gạch nối giữa các giới cao và thấp, và khi liên kết với giới thiên thần, nhân loại sẽ tạo môi trường gặp gỡ cho những mãnh lực của sự sống. |
|
These effects upon the different centres will be definitely felt on one or other plane in the three worlds. Let [195] me illustrate, for clarity is desired. I must warn you however to bear in mind that no importance must be attached to the order specified here. The time is not ripe for the opening up of accurate information on this matter. |
Những hiệu quả này trên các luân xa khác nhau cũng sẽ được cảm nhận rõ ở một cõi nào đó trong tam giới. Tôi xin [195] minh họa cho rõ nghĩa. Tuy nhiên, cần lưu ý các bạn rằng không nhất thiết phải theo thứ tự đặc biệt kể ra ở đây. Chưa đến lúc tiết lộ thông tin chính xác về vấn đề này. |
|
We will presume that a congregation of people is desirous of linking up with that channel of force that works through the emotions, and so stimulates to greater aspiration and love. In united silence they will stand until, at a given word from the leader, each unit in the group will deliberately withdraw his consciousness into the heart centre, and then from that heart centre (keeping the consciousness steadily there) he will drive forth the sound of the Sacred Word, pitched in the key to which the majority of the group respond. This key will be ascertained by the clairvoyant group leader reviewing rapidly the auras gathered before him. This sound will create the necessary funnel, and the result will be an immense temporary extension of the peripheries of the emotional bodies of the participants, and an intense vitalisation of their heart centres. By means of this the people will be enabled to reach heights and receive blessings otherwise not separately possible. You can for yourself think out other conditions. The use of the imagination in these matters is of real importance and develops a connection between that faculty and its higher counterpart, the intuition. Students of meditation must learn to imagine more. |
Giả sử một nhóm người đang mong muốn liên kết với một kênh mãnh lực tác động qua các tình cảm để kích thích nguyện vọng tinh thần và tình thương cao cả hơn. Họ cùng đứng yên lặng cho đến khi vị trưởng nhóm ra hiệu, mỗi người trong nhóm sẽ thận trọng thu tâm thức mình vào luân xa tim, và từ luân xa này (giữ vững tâm thức ở đó) y sẽ xướng lên Thánh ngữ theo cao độ âm khóa mà đa số ứng đáp. Âm khóa này sẽ được trưởng nhóm xác định bằng cách dùng nhãn thông xem xét nhanh hào quang của mọi người dự nhóm. Âm thanh này sẽ tạo được con đường hình phễu cần thiết, với kết quả tạm thời mở rất rộng chu vi thể tình cảm của các thành viên, và khơi động mạnh mẽ các luân xa tim của họ. Nhờ đó họ có thể tiến lên cao hơn và nhận được những ân huệ mà họ không thể có nếu thực hành riêng rẽ. Các bạn có thể tự nghĩ ra các điều kiện khác. Dùng khả năng tưởng tượng trong các vấn đề này thật rất quan trọng, tạo được sự kết hợp khả năng này và khả năng tương ứng cao hơn, là trực giác. Môn sinh hành thiền phải học cách tưởng tượng nhiều hơn nữa. |
|
The united sounding of certain mantrams which will be employed for specific purposes. Instances of such purposes are:— |
Việc kết hợp xướng lên một số câu thần chú sẽ nhằm những mục đích đặc biệt như là: – |
|
a. The purification of a city. |
a. Thanh tẩy một thành phố. |
|
b. The magnetisation of grounds that are to be employed as healing centres. [196] |
b. Truyền từ lực cho các vùng đất được dùng làm những trung tâm chữa bệnh. [196] |
|
c. The clarification of the minds of the congregation in order that they may be able to receive the higher illumination. |
c. Khai thông trí tuệ của nhóm, để họ có thể nhận được ánh sáng khai ngộ cao siêu. |
|
d. The healing of people gathered together for that purpose. |
d. Chữa bệnh cho một nhóm bệnh nhân. |
|
e. The controlling of the forces of nature so that physical plane occurrences may be brought about. |
e. Chế ngự những sức mạnh của thiên nhiên để có thể tạo nên các sự kiện ở cõi trần. |
|
f. The initiating of people into the Lesser Mysteries. |
f. Truyền thụ các Bí nhiệm Sơ cấp cho dân chúng. |
|
In this paragraph, as you rightly think, lies material that enlarged would fill a volume. It is part of that white magic that again will be restored to the race and by means of which a glory and a civilisation will be attained that was hinted at in Atlantean days, and is one of the dreams of the visionaries of the race. |
Đúng như các bạn nghĩ, đoạn này có chứa tài liệu đủ để viết ra một quyển sách. Đây là một phần chánh thuật sẽ được phục hồi cho nhân loại, nhờ đó nhân loại sẽ đạt được nguồn vinh quang và một nền văn minh đã được ám chỉ từ thời Atlantis, và cũng là một trong những ước mơ của các nhà viễn tưởng trong nhân loại. |
|
Mantrams or words sounded forth collectively by which the deva, or angel kingdom, will be communicated with. These are a peculiar set of mantrams connected with the Mahachohan’s department and I will take them up more specifically later…… |
Việc xướng tập thể các thần chú hay linh từ để giao tiếp với các thần hay giới thiên thần. Đây là một loại thần chú đặc biệt, liên hệ đến ngành của Đức Văn minh Đại đế, về sau tôi sẽ bàn cụ thể . . . . . . |
|
AUGUST 22, 1920. |
Ngày 22-8-1920. |
|
The use of Rhythm Collectively in Meditation. |
Sử dụng Nhịp điệu Tập thể trong Tham thiền. |
|
Rhythm might be expressed as that cadenced movement which automatically sways those who employ it into line with certain of Nature’s forces. It is that directed action, followed in unison by a body of people, which results in certain alignments and effects upon one or other of the bodies or on all. It has for its objects therefore: |
Nhịp điệu có thể được diễn tả là chuyển động nhịp nhàng, tự động đưa những ai sử dụng nó vào trong phạm vi một số mãnh lực của Thiên nhiên. Chính hành động có hướng dẫn ấy, được một nhóm người đồng loạt thực hiện, sẽ tạo nên sự chỉnh hợp và hiệu quả nhất định trên một thể nào đó hay tất cả các thể. Vì thế nhịp điệu có những mục đích: |
|
a. The swinging of a body, or a concourse of bodies, into the radius of action of a stream of force. |
a. Đưa một thể, hay một nhóm nhiều thể vào trong tầm tác động của một dòng mãnh lực. |
|
b. It causes an adjustment of the matter of one of the various bodies or of all the bodies that go to the make-up of the personnel of a group. [197] |
b. Điều chỉnh vật chất trong một hay tất cả các thể của những thành viên trong nhóm. [197] |
|
c. It blends—under certain geometrical balances and arrangements—the auras of the differentiated units in a group, and causes these auras to form one united group aura, thereby permitting of the rhythmic flow of force in certain specified directions, for certain specified ends. |
c. Hòa hợp hào quang của các cá nhân trong nhóm theo những thế cân bằng và các bố trí hình học nhất định, và khiến cho các hào quang này hình thành một hào quang thống nhất của nhóm, nhờ đó mãnh lực lưu chuyển nhịp nhàng theo những chiều hướng nhất định, cho một số mục tiêu cụ thể. |
|
This has been well understood right down the ages, even though the methods, procedure and results have not been scientifically comprehended or tabulated, except by various occult and esoteric bodies. In the old, so-called pagan rites the value of rhythm was well understood and even David, the psalmist of Israel, danced before the Lord. The swaying of the body to a certain tempo, and the swinging of the framework of the physical vehicle in various directions, subject at times to the musical sound of instruments, has a peculiar and definite effect upon the matter of the two subtler vehicles. By this rhythmic movement: |
Qua các thời đại điều này đã được hiểu rõ, dù các phương pháp, các qui trình và kết quả không được thấu hiểu hay lập đồ biểu một cách khoa học, ngoại trừ trong một số tổ chức huyền bí hay nội môn. Trong các nghi thức gọi là của ngoại giáo ngày xưa giá trị của nhịp điệu đã được hiểu rõ, và ngay cả David người viết thánh ca của Do Thái cũng múa để tôn sùng Thượng Đế. Sự lắc lư cơ thể theo một nhịp điệu nhất định và xoay thể xác theo nhiều chiều hướng, nhịp nhàng với âm thanh của các nhạc khí, có một hiệu quả đặc biệt và rõ rệt vào phần vật chất của hai thể tinh anh hơn. Nhờ chuyển động nhịp nhàng này: |
|
1. The force that is tapped in this manner is directed (according to the rhythm) to some one or other centre in the body. |
1. Mãnh lực được khai thác theo cách này được hướng dẫn (theo nhịp điệu) đến một trong các trung tâm nào đó trong thân thể. |
|
2. The matter of the emotional and mental bodies is entirely re-adjusted and re-blended, resulting in certain effects having probably a physical manifestation. |
2. Chất liệu của các thể cảm dục và thể trí được điều chỉnh và hoà trộn hoàn toàn lại, tạo ra những hiệu quả nhất định, có thể biểu hiện ra vật chất. |
|
3. The alignment of the vehicles is affected, and may be distorted or misplaced, or they may be correctly aligned and put in touch with the causal. |
3. Sự chỉnh hợp của các thể bị ảnh hưởng, và có thể bị sai lệch hoặc đặt sai chỗ; hoặc cũng có thể chúng được chỉnh hợp đúng đắn và nối kết với thể nguyên nhân. |
|
This is one of the main objects of the true rhythmic movement, distortions of which come down to us through the centuries, and have their apotheosis in the low type of modern dance. In the modern dance is found the corruptest manifestation of rhythmic movement, and the main effect of the rhythm is the direction of the force tapped by its means to the emotional vehicle, and to the lowest type of matter in that vehicle. This results on the physical [198] plane in a most undesirable stimulation of the sex organs. In the true use of rhythmic movement the effect is to align the three lower vehicles with the causal vehicle, and this lining up—when coupled with intensest aspiration and ardent desire—results in a downflow of force from above. This causes a vivification of the three major centres and a definite illumination. |
Đây là một trong những mục đích chính của chuyển động nhịp nhàng đích thực mà nhiều thế kỷ qua đã bị lệch lạc và kết quả là lý tưởng cao cả trở thành loại khiêu vũ tân thời hạ cấp hiện nay. Trong vũ điệu tân thời này, sự biểu lộ của chuyển động nhịp nhàng trở thành đồi bại nhất, và hiệu quả chính của nhịp điệu này là hướng mãnh lực tiếp xúc được qua khiêu vũ vào thể cảm dục và loại vật chất thấp nhất của thể [198] này. Điều đó gây nên một sự kích thích hết sức bất hảo vào các cơ quan sinh dục của xác thân. Công dụng đích thực của chuyển động nhịp nhàng có hiệu quả tạo sự chỉnh hợp của ba thể với thể nguyên nhân. Khi có chí nguyện mãnh liệt và ước muốn nồng nhiệt thì sự chỉnh hợp này khiến một dòng thần lực từ trên tuôn xuống. Điều này làm sinh động ba luân xa chính, và mang lại sự khai ngộ rõ rệt. |
|
When an entire concourse of people is thus animated by a single high desire, when their auras blend and form one united channel for the downflow, the effect is tremendously intensified and can be world-wide in its radius. You have an instance of this in the wonderful Wesak festival, kept so universally in India to this day, when the Hierarchy forms itself into a channel for the transmission of power and blessing from the levels on which the Buddha may be found. He acts as a focal point for that power, and—passing it through His Aura—pours it out over mankind by means of the channel provided by the assembled Lords, Masters, graded initiates and disciples. This channel is formed by the use of sound and rhythm simultaneously employed. By the chanting of a certain mantram by means of the slow, measured movements that accompany that chanting, the funnel is formed that reaches upwards to the desired locality. The geometrical figures formed in the matter of the plane higher than the physical (which are the result of the geometrical movement of the concourse gathered in that Himalayan centre) form themselves into wonderful avenues of approach to the centre of blessing for the inhabitants, deva or otherwise, from any particular plane. For those who can clairvoyantly view the scene, the beauty of the geometrical forms is unbelievable, and that beauty is enhanced by the radiant auras of the Great Ones Who are gathered there. [199] |
Khi toàn nhóm được thôi thúc bởi ước nguyện duy nhất cao cả như thế, và khi các hào quang của họ hòa hợp và tạo thành một đường truyền duy nhất cho thần lực phóng hạ thì hiệu quả được tăng cường mãnh liệt và tầm ảnh hưởng có thể bao trùm địa cầu. Một ví dụ cho điều này là lễ Wesak kỳ diệu đã được phổ biến ở Ấn Độ cho đến ngày nay. Bấy giờ Đ.Đ.C.G. tự trở thành một đường truyền năng lượng và ân huệ từ cấp độ của Đức Phật. Ngài đóng vai trò một tụ điểm cho năng lượng, và xuyên qua hào quang của Ngài năng lượng ấy tuôn xuống cho nhân loại theo đường truyền tạo bởi các vị Trưởng ngành, các Chân sư, các cấp điểm đạo đồ và các hàng đệ tử. Đường truyền này được hình thành nhờ sử dụng đồng thời các âm thanh và nhịp điệu. Bằng cách xướng lên một câu thần chú nhất định, bằng các chuyển động chậm rãi và nhịp nhàng kèm theo việc xướng chân ngôn này con đường thông thương hình phễu được hình thành và tiến lên đến tận vị thế mong muốn. Những dạng hình học được tạo nên bằng vật chất các cõi cao (là kết quả sự chuyển động theo hình học của các vị tụ hội tại trung tâm Hy-mã-lạp-sơn này) trở thành những con đường tuyệt diệu để cho dân chúng, các thiên thần hay các sinh linh khác, từ bất cứ cảnh giới nào cũng có thể tiến đến gần trung tâm của ân huệ. Với những người có thể quan sát cuộc lễ bằng nhãn thông thì các dạng hình học này thật xinh đẹp không thể tưởng, và vẻ mỹ lệ càng tăng thêm nhờ hào quang rực rỡ của các Đấng Cao cả đang tụ họp ở đó. [199] |
|
In time to come the value of the combination of music, chanting, and rhythmic movement will be comprehended, and it will be utilised for the achieving of certain results. Groups of people will gather together to study the creative effects, or the purificatory efficacy of ordered sound joined to movement and unity; the constructive effect on the three bodies will be clairvoyantly studied; the eliminative effect on the matter of those bodies will be schematically tabulated and all knowledge gained will be definitely applied to the improvement of those bodies. The quality of the force tapped, and its exhilarating, vivifying and stimulating effects will be closely watched. The centres will be studied in their relation to the streams of force contacted, and their culture and the intensification of the rotary movement will be definitely undertaken. |
Trong thời gian tới, giá trị của sự phối hợp âm nhạc với xướng tụng và chuyển động nhịp nhàng sẽ được thấu hiểu nhiều hơn, và sẽ được sử dụng để đạt những kết quả nhất định. Nhiều nhóm người sẽ cùng nhau nghiên cứu những hiệu quả sáng tạo hay hiệu năng tinh luyện của âm thanh có trình tự, phối hợp với các chuyển động và sự hợp nhất. Hiệu quả kiến tạo ở ba hạ thể sẽ được nghiên cứu bằng nhãn thông. Hiệu quả thải trừ vật chất của các thể sẽ đươc lập đồ biểu một cách khoa học, và những hiểu biết đã đạt sẽ được áp dụng vào việc cải thiện các thể này. Phẩm tính của mãnh lực tiếp xúc được, các hiệu quả tạo phấn khởi, làm sinh động và kích thích của mãnh lực sẽ được quan sát kỹ. Sẽ nghiên cứu các luân xa liên quan đến những dòng mãnh lực mà chúng tiếp xúc. Việc phát triển và tăng cường chuyển động quay của chúng sẽ được thực hiện một cách xác định. |
|
Another angle of the whole matter resolves itself into work in the world, and though dependent on the status and personnel of the group, it is not primarily for group purposes. Groups will apply themselves to the work of contacting certain types of logoic force, of passing it through the group funnel, and of sending it out through the world for certain constructive ends. This work is closely allied to that undertaken by the Nirmanakayas or Distributors of Force, and will be largely under their direction, for—when the right time comes—They will be able to use these groups as focal points for Their activities. Their work now has its focal point primarily on the mental plane and somewhat on the emotional. When the secret of causal alignment is better grasped, and when groups of people in physical incarnation can work in real co-operation (an impossibility at present, for the personality looms as yet too large) then the Nirmanakayas will be able to directly contact the physical plane, and so act with great force upon the evolutions found thereon. [200] |
Một khía cạnh khác của toàn bộ vấn đề này trở thành công tác phụng sự thế gian, và tuy là tùy thuộc vào tình trạng và các thành viên của nhóm nhưng chính yếu nó không được dùng cho những mục đích của nhóm. Các nhóm sẽ chuyên chú vào việc tiếp xúc với những loại thần lực nhất định của Thượng Đế, cho thần lực này xuyên qua vận hà hình phễu của nhóm và gởi thần lực này đi khắp thế gian để thực hiện những mục tiêu xây dựng nhất định. Công tác này liên kết chặt chẽ với công việc của các vị Ứng thân hay các Đấng phân phối thần lực, và phần lớn công việc sẽ do các Ngài chỉ đạo. Khi thời cơ đến các Ngài sẽ có thể sử dụng các nhóm này làm tiêu điểm cho hoạt động của các Ngài. Công việc của các Ngài hiện nay chính yếu là hội tụ trên cõi trí và phần nào trên cõi cảm dục. Khi bí quyết chỉnh hợp với thể nguyên nhân được nắm vững hơn, và khi các nhóm người ở cõi trần có thể hợp tác thực sự (hiện nay thì chưa thể được, vì phàm ngã của con người còn quá lớn) bấy giờ các vị Ứng thân có thể tiếp xúc thẳng với cõi hồng trần, để dùng nguồn thần lực vĩ đại mà tác động vào các giới tiến hóa ở đây. [200] |
|
Healing groups will work as follows. The circle of workers, with the unit to be healed placed in their midst, will definitely apply themselves to the healing of that unit by the use of set mantrams, and by the following of certain movements they will cause the focal point of the downpouring force to be the sick member in their midst. By the stimulating power of that force, by its re-building quality, or by its capacity to destroy and eliminate, what you call miracles will be matters of everyday occurrence. The subject is too vast to be more than hinted at here. But as the race progresses and the secret of making the at-one-ment is more comprehended, when many people tread the Probationary Path, when the percentage of initiates is greater than it is now, and when large numbers of the human race are more directly aligned with the egoic body, you will see the scientific application of the laws of sound and rhythm. |
Các nhóm trị liệu sẽ hoạt động như sau. Vòng tròn các nhân viên (với bệnh nhân ở giữa) sẽ chuyên chú vào việc trị liệu bằng cách sử dụng các câu thần chú đã định sẵn, và khi theo đúng một số chuyển động họ sẽ làm cho mãnh lực tuôn xuống hội tụ vào bệnh nhân ở giữa. Nhờ sức kích thích của mãnh lực đó, nhờ tính tái tạo hay khả năng tiêu hủy và thải trừ của nó mà những gì gọi là phép lạ sẽ xảy ra hằng ngày. Vấn đề thật là rộng lớn nên chỉ có thể nói khái quát ở đây. Nhưng khi nhân loại tiến tới và khi bí mật của sự nhất quán được hiểu rõ hơn, khi nhiều người bước vào Con đường Dự bị, khi con số các điểm đạo đồ gia tăng hơn hiện nay, và khi đa số nhân loại được chỉnh hợp trực tiếp với thể Chân nhân của họ, người ta sẽ thấy việc áp dụng một cách khoa học các định luật của âm thanh và nhịp điệu. |
|
At the same time you will see the misuse of those powers—a misuse that will herald in one of the final struggles between the Lords of Light and the Lords of Darkness. Great will be the cataclysm and terrific the disaster, but ever the Light shines in darkness, and He Who reigns above all, and Who holds all within the circumference of His Aura knows the hour of opportunity, and knows too how to utilise that which can protect. |
Đồng thời các bạn cũng sẽ thấy sự lạm dụng các quyền năng này –sự lạm dụng sẽ báo trước một trong các trận chiến cuối cùng giữa các vị Chúa của Ánh sáng và các vị Chúa của Bóng tối. Biến cố này sẽ lớn lao vô cùng, và tai họa sẽ thật là kinh khủng, nhưng luôn luôn Ánh sáng sẽ chiếu rọi vào bóng tối. Đấng ngự trị trên tất cả, Đấng bao gồm tất cả trong vòng hào quang của Ngài biết rõ thời cơ và cũng biết cách sử dụng những gì có thể bảo vệ. |
|
Special occasions on which these forms will be employed. |
Những dịp đặc biệt để sử dụng các hình thức tham thiền tập thể này. |
|
The great event on the planet in direct relation to the human race is the Wesak festival. There is one still greater moment in the calendar when a funnel is created directly between the earth and the supreme Ruler himself, the Logos of our system. This is accomplished through the power of certain mantrams and the united efforts of the Hierarchy and the Deva Lords of the planes. These Deva Lords are aided by the deva evolution, and the Hierarchy [201] by those of the human race who are steady. They focus through the Lords of the Rays then in manifestation as well as through the Planetary Logos of this planet. The date of this event is not yet for exoteric communication. |
Sự kiện trọng đại trên hành tinh có liên quan trực tiếp đến nhân loại là lễ Wesak (lễ Phật hiện). Có một thời điểm còn lớn lao hơn nữa trong năm, khi một đường truyền trực tiếp được tạo lập để nối liền trái đất và Đấng Chúa tể tối cao, tức là Đức Thái Dương Thượng Đế của chúng ta. Điều này được thực hiện nhờ năng lực của một số câu thần chú và nỗ lực kết hợp của Đ.Đ.C.G. cùng các vị Thiên vương trên các cảnh giới. Các vị Thiên vương này được giới tiến hóa thiên [201] thần trợ lực, còn Đ.Đ.C.G. thì được sự trợ giúp của những người thuần thành trong nhân loại. Bấy giờ, các Ngài hội tụ qua các vị Chúa tể của các Cung đang biểu hiện, cũng như thông qua Đức Hành Tinh Thượng Đế của trái đất chúng ta. Ngày giờ của sự kiện này cũng chưa được công bố. |
|
On all the three main lines of approach—that of the Manu, or Ruler, the Bodhisattva, or World Teacher, and the Mahachohan, or Lord of Civilisation—their own specific groups will be found, subject to certain mantrams and words, and moving under certain rhythmic laws. One hint only can I give here but I think you will find it interesting. The time is coming when those who work under the Manu, manipulating nations, directing their attention to government and politics, sitting in the assemblies of the people, giving out the laws and apportioning justice, will begin all their work with great rhythmic ceremonies. By means of their united rhythm and chanted words, they will seek to put themselves in touch with the consciousness of the Manu and with His great governing department, so bringing more clearly into practice the working out of His plans and the formulation of His intentions. Having aligned their bodies and made the necessary funnel, they will proceed with business after having placed in their midst as a focal point of illumination one or two men who will give their entire attention to finding out the intention of the Manu and His subordinates upon the matter in hand. |
Trên ba con đường cận tiến chính yếu – của Đức Bàn cổ hay Đấng Cai trị, của Đức Di Lạc Bồ-tát hay Đức Chưởng giáo Thế gian và của Đức Đại Đế quân hay Đức Văn minh Đại đế – có những nhóm riêng của các Ngài. Các nhóm này chịu ảnh hưởng của một số câu thần chú và những linh từ nhất định, và hoạt động theo một số định luật tiết điệu. Tôi chỉ có thể đưa ra ở đây một lời gợi ý mà tôi nghĩ là các bạn sẽ thấy thú vị. Sắp đến lúc những ai đang hoạt động trong ngành của Đức Bàn cổ, đang điều hành các quốc gia, đang chú tâm vào chính quyền và chính trị, đang ở trong các quốc hội dân cử, đang ban hành luật lệ và sử dụng công lý, những người này sẽ khởi đầu công việc của họ bằng những đại lễ có tiết điệu. Nhờ nhịp điệu thống nhất và đồng loạt xướng lên các từ, họ sẽ tự tiếp xúc được với tâm thức của Đức Bàn cổ và với ngành quản trị vĩ đại của Ngài, để thực thi các kế hoạch của Ngài rõ rệt hơn và thể hiện các dự định của Ngài. Khi đã chỉnh hợp các thể và đã tạo được đường thông thương cần thiết, họ tiếp tục tiến hành công việc, sau khi đã đặt giữa họ một hoặc hai người đóng vai trò tụ điểm khai sáng, để những người này chuyên tâm tìm hiểu ý định của Đức Bàn cổ và các vị phụ tá của Ngài về vấn đề hiện hành. |
|
So in the department of the Bodhisattva will a similar procedure be followed, for which the construction is already organised. The priest will be the focal point, and, after due ceremony and rhythm on the part of the united congregation, they will be the transmitters of information from on high. But here is a momentous point of interest: The priesthood will not in those days be a separated body of men. All will then be priests and a [202] layman can hold that office when duly chosen at the beginning of the ceremony. The only qualification required will be the capacity to align with the higher, and to co-operate with all the other units in the concourse. |
Ở ngành của Đức Di Lạc Bồ-tát, phương cách tiến hành cũng tương tự như vậy, và đã được tổ chức sẵn. Vị chức sắc sẽ là tiêu điểm, và sau khi cả nhóm kết hợp hành lễ với nhịp điệu đúng đắn thì họ sẽ là trạm chuyển vận những gì nhận được từ các cõi cao. Nhưng ở đây có điểm rất quan trọng cần lưu ý: phần hành của vị chủ lễ bấy giờ sẽ không thuộc một nhóm người riêng biệt nào. Tất cả sẽ là những vị chủ tế, và [202] một người tín đồ thường cũng có thể giữ phần vụ ấy nếu được chọn thích hợp khi buổi lễ bắt đầu. Điều kiện duy nhất cần có là khả năng chỉnh hợp với Chân ngã và hợp tác với tất cả các thành viên khác trong cuộc lễ. |
|
In the department of the Mahachohan, the Lord of Civilisation and Culture and the head of the third line of evolution, you will see again similar action. No university or school will start its sessions without the ceremony of alignment, the teacher this time being the focal line of information from the department controlling the activity of the mind. In this way the stimulation of the mental bodies of the students, and the strengthening of the channel between higher and lower mind will be greatly aided. The intuition will also be developed and contacted. In the above statements I have by no means covered the ground. I have but indicated the broad outlines of what will some day be facts in physical plane demonstration. The thought conveys much matter for consideration and for speculation and is full of helpfulness for the wise student. Aught that enlarges his horizon and increases the range of his vision is to be welcomed, even though his apprehension of these facts may be at fault and his capacity to assimilate leaves much to be desired. |
Trong ngành của Đức Văn minh Đại đế, vị Chúa của Văn minh và Văn hoá, vị cầm đầu con đường tiến hóa thứ ba, chúng ta cũng thấy có những hoạt động tương tự. Không có trường đại học hay học đường nào khai giảng mà không có nghi lễ chỉnh hợp. Lúc đó, giáo viên sẽ là con đường hội tụ kiến thức từ ngành chi phối các hoạt động của trí tuệ này. Sự kích thích thể trí của học sinh và sự tăng cường con đường thông thương giữa hạ trí và thượng trí sẽ được giúp đỡ rất nhiều theo cách này, và học sinh cũng sẽ được phát triển và tiếp xúc với trực giác. Những điều nói trên không thể bao gồm trọn cả vấn đề. Tôi chỉ nêu ra vài nét khái quát về những điều mà một ngày kia sẽ thành sự kiện thực tế ở cõi trần. Tư tưởng này truyền đạt nhiều vấn đề để xem xét, suy ngẫm và rất hữu ích cho người môn sinh nghiên cứu khôn ngoan. Bất cứ điều gì làm cho chân trời của y rộng mở và gia tăng tầm mắt của y đều rất tốt dù y có thể còn hiểu sai những sự kiện này, và còn thiếu khả năng hấp thu kiến thức. |
|
[203] |